Linh mục Trần Mạnh Hùng
Nếu đạo đức học liên quan đến tính chất
đúng hoặc sai của hành vi con người, thì ta cần nêu lên câu hỏi cái gì cấu
thành hành vi nhân loại? Trong triết lẫn thần học đã có sự phân biệt truyền
thống giữa (a) actus humanus và (b) actus hominis.
Actus humanus (hành vi nhân linh) là hành vi của con người với tính chất
thật nhất của họ. Hành vi nhân linh được làm với ý thức (hiểu biết) và có chọn
lựa, được thực hiện qua và với những khả năng của con người, với lý trí và với
ý chí tự do, hành vi mà chúng ta có thể mang trách nhiệm về nó.
Actus hominis (hành vi nhân tính) mô tả một khía cạnh về việc cư xử của
con người, nhưng lại không hẳn có hiểu biết hay tự do trong đó, ví dụ: đi trong
giấc ngủ, nghiện ngập, say rượu.
Vậy hành vi của con người ít khi rơi
hẳn vào loại hành vi này hay hành vi kia, bởi một số ít hành vi của ta có ý
thức trọn vẹn hay có ý chí tự do. Ta có thể nói actus humanus và actus hominis
là hai đầu của các nối kết liên tục. Câu hỏi đặt ra cho đạo đức học là ta cần
bao nhiêu ý thức và ý chí tự do để thực hiện nên một hành vi nhân linh? Cái gì
hạn chế kiến thức và tự do, và tới mức độ nào ta phải buộc vượt qua sự thiếu
vắng ý thức và tự do?
Aristote đã đối diện với vấn đề này
hàng mấy trăm năm trước. Ông đã phân biệt (a) hành vi tự nguyện và (b) hành vi
không tự nguyện (x. Nichomachaen Ethics, Book 3). Hành vi không tự
nguyện được làm cách vô tri và (hay) dưới sự cưỡng bức. Vấn đề là liệu sự vô
tri này có thiết yếu loại trừ trách nhiệm cho hành vi của ta? Thế là có một từ
mới, từ trách nhiệm lại chen chân vào, có những từ khác phụ nghĩa thêm: tính
đáp trả, tính chịu trách nhiệm, tính có lỗi trong điều chúng ta gây ra.
Aristote lập luận rằng sự vô tri không luôn luôn biến một hành vi thành ra
không tự nguyện. Tại sao? Có hai loại vô tri: Vô tri khả thắng và Vô tri bất
khả thắng.
1. Vô tri khả
thắng [vincible ignorance] là loại vô tri hay
tình trạng thiếu hiểu biết mà người ta có thể vượt qua được. Nói cách khác
người thiếu hiểu biết, khi ý thức sự khiếm khuyết này, thì sau đó anh ta có
trách nhiệm bổ khuyết vào khoảng trống này. Có sự vô tri về hành vi, về tính
chất của hành vi, về hậu quả của nó, về những khả năng có thể vượt thắng bằng
lý trí. Người đó phải thực hiện những bước đi thận trọng và hợp lý để lấp đầy
khoảng trống, ví dụ, tôi đậu xe lại và khi ra khỏi xe, tôi nhủ thầm không biết
mình có kéo thắng tay chưa? Tôi biết mình đang đậu trên một ngọn đồi, nhưng
không còn nhớ liệu mình đã kéo thắng lên chưa, liệu tôi có hay không có trách
nhiệm nếu xe lăn xuống và giết chết ai đó ? Thật ra tôi đã sơ suất bỏ qua một
hành vi thận trọng và hợp lý. Danh từ luật cho trường hợp này là tội khinh
suất.
2. Vô tri bất khả
thắng [invincible ignorance]: thiếu
vắng hiểu biết do đã không có hay không thể hy vọng đạt đến. Sự vô tri bất khả
thắng có thể làm giảm khinh trách nhiệm luân lý, bởi ý thức là điều tiên quyết
phải có cho một hành vi tự nguyện.
Bây giờ yếu tố cấu thành lớn của hành
vi con người là sự tự do. Nếu do cưỡng chế hoặc bó buộc, liệu ta có hành vi
đúng nghĩa? Aristote đưa ra một ví dụ rất hay về người và những kiện hàng được
đưa lên tàu. Do bão to, chỉ còn con đường sống sót là ném những kiện hàng xuống
nước. Ta có thể biện minh rằng: cơn bão đã buộc tay tôi xô vứt những kiện hàng
ấy xuống và hành vi của tôi là không tự nguyện do bị bó buộc, hay là ta phải
cho rằng dẫu hoàn cảnh buộc tôi làm thế, nhưng sự chọn lựa vẫn là của tôi?
Aristote kết luận là một hành vi xem ra bị bó buộc và do vậy không tự nguyện
đối với tự do, chỉ khi nào nguyên nhân phát sinh ra nó ở bên ngoài, theo ý
nghĩa đó, nó không thể nào có sự đóng góp của người đang bị cưỡng chế (N.E.
3.1).
I. YẾU TỐ QUYẾT ĐỊNH
LUÂN LÝ
Tác Nhân Luân Lý
Thảo luận của chúng ta về trường hợp bà
Bergmeier làm dậy lên vấn đề bản chất của hành vi con người và liệu làm thế nào
để đánh giá hành vi dựa theo luân lý. Ta cần những nguyên tắc, định nghĩa, phân
loại cơ bản khi bàn về kinh nghiệm con người. Trước hết hành vi con người có
nghĩa gì? Ta đã đề cập đến trong đoạn trước. Bây giờ làm sao đánh giá tính luân
lý của hành vi con người.
Trước hết, ý hướng của chủ thể [the
intention of the agent] thực hiện hành vi, thứ hai, chính hành vi đó [the act
itself] và thứ ba là những hoàn cảnh vây quanh [circumstances surrounding the
act].
Ví dụ sau đây sẽ làm rõ nghĩa. Có hai
người cùng làm một hành vi, ví dụ như chơi trống bongo với hai lý do khác nhau.
Người thứ nhất với lý do chơi nhạc để làm vui lòng người khác, người thứ hai
với lý do và ý hướng cốt làm cho một người nào đó rất căng thẳng về thần kinh
rồi dẫn đến việc tự vẫn (tự tử). Hơn nữa, cũng một hành vi có thể do một tác
nhân thể hiện trong hai hoàn cảnh khác nhau, ví dụ chơi trống trong một lễ hội,
chơi trống trong một buổi lễ có Đức Tổng Giám Mục giảng tại nhà thờ chính tòa
Sài Gòn. Vậy ta có chính hành vi (finis operis) chơi trống, với ý hướng (finis
operantis) để làm vui lòng người khác hoặc làm cho người ta ra bệnh hoạn, và
trong hoàn cảnh nào đó (trong nhà thờ chính tòa hoặc tại buổi hòa nhạc).
Ngôn ngữ kỹ thuật hơn để mô tả ba khía
cạnh của hành vi con người đã xuất hiện từ thời thánh Tô-ma:
- mục đích (ý hướng,
nguyên do, lý do),
- đối tượng của hành vi (thường
gọi là hành vi) và
- những hoàn cảnh của hành vi.
Trước hết, hãy xét đến đối tượng của
hành vi (thường gọi là hành vi). Ví dụ, bố thí cho người nghèo. Một hành vi
được chủ thể tự do ưng thuận thực hiện, vậy đối tượng của hành vi là chính hành
vi được chủ thể tự do thuận làm, vào lúc này hãy dừng ở đó mà không cần để ý
đến ý hướng hay mục tiêu nào khác, mà chủ thể tự do có thể có.
Bây giờ, xét chính đến hành vi là bố
thí cho người nghèo, có thể có mục tiêu hoặc ý hướng xa hơn nữa, chẳng hạn tôi
cần thêm tiếng tăm danh giá. Vậy ta đã có một hành vi bên ngoài là bố thí,
nhưng ta lại có mục tiêu khác, hãnh diện được người đời biết đến. Vậy phải
chăng ta đã có hai mục tiêu? Hai mục đích hay hai ý hướng: cho tiền người nghèo
và làm cho người đời biết đến danh giá của tôi. Ta có thể gọi hai mục tiêu là
mục tiêu gần và mục tiêu xa. Còn bây giờ hãy xét đến chính hành vi. Có vài hành
vi tự thân là tốt đẹp, cầu nguyện chẳng hạn. Vài hành vi xấu tự bản chất: bạo
hành với trẻ thơ và một số hành vi ta gọi là trung tính như ngồi, đi, đứng,
v.v... Hành vi xấu tự thân, thần học luân lý Công Giáo gọi là malum in se,
[intrinsically evil] tự bản chất nó đã xấu. Ta có bản liệt kê những hành vi đó
trong Tông huấn Veritatis Splendor số 80.
Giáo Hội Công Giáo không phủ nhận có
những hoàn cảnh và đặc biệt những ý hướng tác động ảnh hưởng trên luân lý,
nhưng muốn dạy rằng những hành vi xấu tự thân luôn luôn là nghiêm trọng, xét
theo chính đối tượng của chúng (xét theo bản chất của chính hành vi), chẳng hạn
bạo hành thân thể và tâm thần, buôn bán nô lệ, phá thai, bắt người vô cớ, buôn
bán phụ nữ và trẻ em. Những hành vi đó không thể nào trở nên tốt qua những ý hướng
tốt nào đó được. Ví dụ tôi bạo hành một đứa trẻ để mong giải thoát cho 6 người
vô tội đang bị giam giữ.
Dẫu hành vi tự nó là tốt đẹp như bố thí
cũng có thể trở nên xấu vì những ý hướng xấu khác; và hành vi trung tính có thể
làm cho ra tốt hoặc xấu, khi lệ thuộc vào những ý hướng, ví du: nói chuyện nhảm
làm một bệnh nhân chia trí không kịp uống thuốc khiến gây cho ngươi này chết.
Tới lúc này ta mới xét về chính hành vi
và ý hướng hay những ý nghĩ, còn về những hoàn cảnh đan dệt quanh hành vi thì
sao? Những hành vi hầu như được Cicéron liệt kê khi mô tả về Aristote: ai? điều
gì? ở đâu? với phương tiện nào? tại sao? thế nào? và khi nào?
Điều gì: chỉ cái mà ta gọi là đối tượng
của hành vi;
Tại sao: chỉ mục tiêu hay ý hướng. Chức
năng và tầm quan trọng của những hoàn cảnh trong việc xác định hành vi luân lý
đúng hoặc sai. Chính hành vi, đối tượng có thể tốt, xấu hoặc không tốt không
xấu, thì chính hoàn cảnh khiến cho hành vi trở nên tốt, xấu, xấu hơn, tốt hơn,
hoặc không tốt không xấu.
Ta thử nêu lên vài ví dụ:
Bước vào (trung tính) một bãi mìn (hoàn
cảnh xấu). Bước đi (trung tính) như đi dạo (hoàn cảnh trung tính).
Giết (xấu) một thường dân vô tội [tự
bản chất hành động là đã xấu] nhưng nếu người ấy hạ sát chính cha hoặc mẹ (hoàn
cảnh) của hắn thì tội ấy lại càng xấu xa, và đáng ghê tởm hơn.
Các nhà kinh viện liên hồi dạy rằng để
đánh giá luân lý tính của hành vi nhân linh, phải dựa vào ba yếu tố:
1. đối tượng,
2. mục đích,
3. hoàn cảnh.
Nguyên tắc là: nếu cả ba yếu tố đều tốt
thì hành vi sẽ tốt đẹp, nhưng nếu một trong những yếu tố kể trên là xấu thì
toàn bộ hành vi sẽ là xấu.[1]
II. NHÂN VỊ
Một trong những điểm nổi bật về việc
triển khai và canh tân môn thần học luân lý, chính là việc nhấn mạnh trên ngôi
vị như là tiêu chuẩn căn bản để xác định cách xử sự luân lý cách thích hợp. Ta
thấy trong Hiến Chế "Vui mừng và hy vọng – Gaudium et spes" số 51,
khi các Thượng phụ nói về hôn nhân: "khi phải dung hòa tình yêu vợ chồng
với việc sinh con có trách nhiệm, luân lý không chỉ xét đến ý hướng tốt lành và
đánh giá các lý do, mà còn phải sử dụng các tiêu chuẩn khách quan rút ra từ bản
tính và hành vi con người. Những nguyên tắc nhằm mục đích duy trì ý nghĩa toàn
vẹn của sự hiến thân cho nhau và sinh sản nhân loại vì tình yêu đích thực.”
Trong bản chú giải chính thức ta thấy:
1) Theo cách diễn tả, một nguyên tắc
chung đã được đề cập ứng dụng không chỉ trong hôn nhân và tính dục, nhưng còn
cho cả toàn bộ lãnh vực hành vi con người nữa.
2) Điều xác định là "hành động con
người phải được xét đoán chỉ trong phạm vi nhân vị toàn vẹn và thích hợp. Điều
này có nghĩa để xét xem một hành vi có xứng hay không xứng với phẩm giá con
người hoặc là tốt đẹp theo luân lý hay không, người ta phải áp dụng tiêu chuẩn
nhân vị con người được xét đến cách thỏa đáng.
Vậy đâu là những nhân tố cấu thành nhân
vị toàn vẹn và thỏa đáng, cần thiết phải tìm cho ra khi xem xét luân lý tính
của hành vi? Sau đây thử phác thảo vài nét quan trọng của nhân vị theo tư tưởng
của Louis Janssens:
1. Nhân vị con người là một chủ thể chứ
không phải là đối tượng hay đồ vật.
2. Nhân vị là chủ thể có thân xác.
3. Thân xác không chỉ là thành phần của
chủ thể mà còn là thành phần của thế giới vật chất.
4. Nhân vị con người thiết yếu hướng về
nhân vị khác.
5. Nhân vị con người không chỉ là liên
vị, liên chủ thể [inter-subjective]
mà còn phải sống trong những tập
thể xã hội.
6. Nhân vị con người được tạo dựng theo
hình ảnh Thiên Chúa và được kêu gọi thờ phượng Ngài.
7. Nhân vị con người là một nhân vật
lịch sử.
8. Nhân vị con người là một huyền
nhiệm.
9. Nhân vị con người tự căn bản là bình
đẳng, nhưng đồng thời có nét riêng biệt của mình.
10. Nhân vị con người luôn luôn tìm
kiếm ý nghĩa cho cuộc sống.
1. Con người không phải là đồ vật, hơn
thế nữa, con người còn có ý thức, hành động theo lương tâm, sống và hành động
với tự do và ý chí của mình. Tính chủ thể của con người có ý nghĩa, khi không
ai bị trở nên vật hóa, bị sử dụng như phương tiện, bị khai thác để người khác
hưởng lợi hay hưởng lạc. Điều này kéo theo nhiều hệ luận cho thần học luân lý,
đặc biệt trong những lãnh vực thí nghiệm khoa học kỹ thuật. Tỷ dụ như y khoa có
được phép dùng con người hay các thai nhi làm mục tiêu cho các cuộc thử nghiệm
của họ.
2. Thực-thể-mang-thân-xác cấu tạo nên
thành phần của cả chủ thể vẹn toàn, từ thể xác đến tâm linh. Thân xác có những
đòi hỏi luân lý chính đáng. Rồi còn cần chăm sóc thân xác sao cho vẹn toàn của
mình và của người khác. Hãy xem đến những hạn chế mà ta đã không đáp ứng được
cho thân xác, đáp ứng những nhu cầu của nó trên bình diện sinh lý, và những nhu
cầu của toàn thể nhân vị. Điều này thiết yếu để ứng dụng vào lãnh vực tình dục,
khoái lạc, chăm sóc sức khoẻ, v.v…
3. Sống trong thế giới: bởi đã trót
mang thân xác, nên ta phải sử dụng sự vật của thế giới để phục vụ những nhu cầu
của ta. Ta không phải duy nhất, đơn độc. Khi xã hội quá đề cao việc sản xuất và
tiêu thụ, nên đã quên mất những dáng vẻ khác của cuộc sống: thẩm mỹ, giải trí,
chiêm nghiệm lý lẽ sâu xa của con người và sự vật. Điều này cần thiết khi đề
cập tới khoa đạo đức môi trường.
4. Trong mối tương quan liên vị
[interpersonal being], chúng ta trở nên chính mình, qua việc liên đới và tiếp xúc
với người khác [we become who we are in and through others]. Không có liên hệ
là không thể phát triển mọi tiềm năng. Ví du: tình bằng hữu đã đóng vai trò
quan trọng xiết bao trong cuộc sống luân lý. Richard de St Victor phát biểu:
"Tình yêu cần chia sẻ với nhau đến độ không còn ích kỷ, không còn ghen
tuông và hãi sợ". Quan hệ đích thực là phải quan tâm đến toàn bộ con người
với lý trí, với ý chí, cảm tính và thân xác. Điều này khá quan trọng cho những
kỹ thuật sinh sản bằng phương pháp nhân tạo. Tỷ dụ như việc thụ tinh ống nghiệm
(In Vitro Fertilization).
5. Chiều kích xã hội của nhân vị cho
thấy con người cần đến cơ cấu và thiết chế xã hội, tổ chức chính trị, sự hợp
tác quốc tế, ta không thể có một nền đạo đức học cá nhân chủ nghĩa được (x.
Hiến Chế Vui Mừng & Hy Vọng, số 30). Cần thiết xem xét, sửa chữa lại thường
xuyên những định chế vốn dĩ thiếu hoàn hảo và bất toàn này để phục vụ công ích
chung.
6. Nhân vị được tạo dựng theo hình ảnh
Thiên Chúa… Điều này ứng dụng nhiều lắm trong thần học luân lý. Thánh Kinh xác
nhận con người thiêng liêng và cao quý vượt trên mọi thành tựu nào khác. Xác
tín rằng nhân vị con người được tạo dựng theo hình ảnh Thiên Chúa là một xác
quyết thần học, cũng cho thấy mối quan hệ của con người với Thiên Chúa. Tuyên
bố con người được tạo dựng theo hình ảnh Thiên Chúa là công bố con người có khả
năng tự hiến thân, phản ánh đúng đời sống của Thiên Chúa Ba Ngôi [Tam Vị].
Thánh Âu-tinh sử dụng thuật ngữ tình yêu ở đây, đòi có 3 nhân tố: người yêu
(amans), người được yêu (quod amatur) và tình yêu nối kết (amor). Chúa Cha,
Chúa Con và nguồn mạch Tình yêu là Chúa Thánh Thần. Điều này soi sáng rất nhiều
cho ý nghĩa của cộng đoàn; luân lý tính năng động là khi biết cho cũng như biết
đón nhận.
7. Đời mỗi người đều có một lịch sử mà
ta có thể mô tả như những cột mốc đan xen của cuộc đời, những chặng đường của
cuộc hành trình, được đánh dấu bằng những khả thể, khủng hoảng, thất bại; và
bổn phận của người trải qua lịch sử đó phải biết nắm bắt các cơ hội, đấu tranh
với những hạn chế và hồn nhiên tiến về chốn thông tuệ. Như từng con người học
tập, phát triển, chững chạc lên, rồi mai một, thì nền văn hóa, tài trí và khôn
ngoan nhân loại cũng thế. Lịch sử cho thấy đã có biết bao lỗi lầm mà ta buộc
phải chấp nhận hay cố quên, bởi ta đã quá vội vàng kết án những tài trí mới, dễ
dàng quên tuốt sự thông tuệ xưa cũ. Luân lý tính của bạo hành, ý nghĩa của hành
vi tính dục trong hôn nhân, ý hướng đệ nhất và đệ nhị v.v… Ý thức lịch sử cho
rằng đời sống luân lý của người tín hữu như là phần trách nhiệm cá nhân của
mình trong những điều kiện lịch sử đổi thay. Vấn đề cần nhấn mạnh đến chủ thể
trong hoàn cảnh lịch sử và xã hội của nó, vì thế phương pháp luận của thần học
luân lý hướng về quy nạp hơn là loại suy khi phải đối đầu với những vấn đề mới,
cụ thể, đối chiếu với những nét đặc thù của thời đại và trào lưu lịch sử.
8. Nhân vị con người là một huyền
nhiệm: Cảm nghiệm về huyền nhiệm không được phép hiểu cách tiêu cực theo ý
nghĩa 'cái-gì-không-thể-hiểu-được' hoặc tạm thời để đó, với ý định là một ngày
kia nó sẽ được giải thích. Cảm nghiệm đó phải tích cực, một thách đố với thực
tế phong phú lẫn phức hợp không sao mà dò cho thấu. Việc đánh giá con người như
là huyền nhiệm rất quan trọng, đã từng là đề tài chủ yếu trong Thánh Kinh và
truyền thống Kitô giáo ngay tự thuở ban đầu. Thánh Ephraim viết: "Vậy ai
có thể tiếp cận con người và hiểu rõ nó?" Thánh Maximum hiển tu lại viết:
"Tạo vật có lý trí thông thường không biết tới cội nguồn của mình. Nó biết
rằng mình chẳng thể biết chính mình". Riêng Thánh Âu-Tinh thì phát biểu
như sau: "Mặc dầu những chiều sâu kín của một con người chỉ có thể thấu
hiểu bởi chính linh hồn đó, chứ không phải của ai khác, dẫu vậy vẫn có cái gì
đó nơi mình mà chính linh hồn cũng chẳng biết" (St Augustin, Confession –
Sách Tự thú).
9. Tính bình đẳng tự bản chất cho thấy
tại sao các đòi hỏi luân lý có tính phổ quát, và vì vậy, những bổn phận luân lý
được áp dụng đồng đều cho hết mọi người.
10. Nhân vị con người đi tìm ý nghĩa
đời mình qua ý thức chung, ý thức hệ, khoa học, nghệ thuật và tôn giáo.
(Trích sách: Linh mục Phêrô Trần Mạnh Hùng, Thần học luân lý một cái nhìn mới, NXB Tôn Giáo, Chương 3: Nhân vị và hành vi nhân linh).
[1] Thomas Aquinas, Summa
Theologica I-II, 18, 4.