Lm GIUSE NGUYỄN CÔNG ĐOAN -
Dòng Tên
Lm Giuse Nguyễn Công Đoan gặp ĐGH Phanxicô trong dịp kỷ niệm 50 năm sống trong dòng Tên năm 2016 (ảnh của báo CG&DT)
Kỷ niệm 40 năm Thư Chung 1980,
những nghiên cứu về “thần học bối cảnh” phía sau bức thư đã được tiến sĩ
Peter Hải bên Úc trình bày rất tường tận. Các nghiên cứu khác thì nhiều người
có khả năng hơn để tham gia.
Tòa soạn báo Công giáo và Dân
tộc nhờ tôi viết vài cảm nghĩ “tản mạn” về Thư Chung 1980. Ở nơi quê hương của
Chúa, vào cái tuổi mà bạn bè cũ đã về hưu, tôi vẫn chưa đạt mức “bảy nghiệp”,
nên vẫn bận rộn. Viết gì sâu xa thì không dám, nhưng viết tản mạn thì một ông lão đã chạm mức trần cao của
Thánh vịnh: “Tính tuổi thọ trong ngoài bảy chục, mạnh giỏi chăng là được tám
mươi” chịu lắm, chỉ sợ người thời nay không có thời giờ đọc chuyện thời xưa
thôi!
ĂN CƠM MỚI NÓI CHUYỆN CŨ
Tôi nói ăn cơm mới, vì đã được
biết và đã ăn vài bữa cơm của Đức TGM Leopoldo Girelli, hiện là Sứ Thần Tòa
Thánh bên cạnh Nhà nước Israel, kiêm Khâm sứ Tòa Thánh tại Giêrusalem và
Palestin, do tính phức tạp của vùng đất này. Trước khi nhận nhiệm sở tại đây,
ngài là “Đại diện không thường trú” của Tòa Thánh Vatican tại Việt Nam từ năm
2011-2017.
Hai năm trước, có một đoàn
hành hương từ Sapa tới Giêrusalem, xin thăm ngài. Tôi được gọi giúp dịch thư từ
bằng tiếng Việt giữa hai bên, rồi trong buổi gặp gỡ thân mật diễn ra ngay tại
nhà chúng tôi – vì lúc ấy Tòa Khâm sứ đang sửa chữa, không đủ chỗ tiếp tám chục
người. Đáp lời chào mừng của đoàn, ngài mở đầu: “Khi tôi rời Việt Nam, tôi chỉ
xỏ đôi giày mang theo, còn trái tim tôi để lại ở đó”. Ngài nói rất chân thành
và chứng tỏ ngay sau đó: đoàn chỉ xin thăm, đến khi thăm rồi thì xin ngài chủ sự
thánh lễ.
Ngài hỏi tôi: “Sáng nay tôi
dâng lễ rồi thì sao?”. Tôi trình với ngài: “Đây là ngoại lệ, không có lần thứ
hai cho người hành hương và cho ngài đâu!”. Ngài vui vẻ đi mặc áo lễ. Tôi đồng
tế bên cạnh. Cảnh “mẹ gà con vịt”. Ngài mở đầu bằng tiếng Việt: “Nhân danh
Cha…, Bình an của Chúa ở cùng anh chị em…”. Sau đó thì tôi đọc tiếp bằng tiếng
Việt. Ngài giảng bằng tiếng Ý, tôi dịch. Đến kinh Tiền Tụng và Kinh Nguyện
Thánh Thể cũng vậy… Trái tim ngài vẫn còn ở Việt Nam.
Ăn cơm mới nhớ chuyện cũ, tôi
nhớ chứ không có gì để nói, vì lúc đó tôi đi ra miền Trung gõ cửa từng Đức Giám
mục để xin ý kiến về tương lai của Giáo Hoàng Học viện Thánh Piô X, Đà Lạt do
Dòng Tên phụ trách, khi về thì nghe kể lại.
Nghe tâm tình của Đức Khâm sứ ở
đây, tôi bỗng cúi mặt bùi ngùi, nhớ lại Vị Khâm sứ cuối cùng tại Việt Nam, Đức
cha Henri Lemaitre, rời đi năm 1975, ôm theo một trái tim đầy khắc khoải và chiếc
áo dòng bị kéo đứt nút làm kỷ niệm.
Bốn mươi lăm năm qua đi giữa Đức
Khâm sứ cuối cùng và vị Đại diện không thường trú đầu tiên, đánh dấu hai giai
đoạn lịch sử thật trái ngược. Giữa những biến chuyển toàn cầu, đường lối Tin Mừng
của Hội đồng Giám mục Việt Nam được phát biểu trong Thư Chung năm 1980 và được
toàn thể Hội Thánh kiên trì thực thi, đã chuyển nối giữa hai câu chuyện trong
tương quan giữa Hội Thánh và chính quyền, giữa Tòa Thánh Vatican với Nhà nước Cộng
hòa XHCN Việt Nam.
TỪ THƯ CHUNG 1951 ĐẾN THƯ CHUNG 1980
Chuyện
tản mạn về Thư Chung
1980 đưa tôi ngược về năm
1951, lúc tôi lên mười. Tôi còn là cậu giúp lễ ở một xứ đạo xa xôi, chuẩn bị
vào Tiểu Chủng viện năm 1952, chưa biết gì ngoài chuyện sợ bom đạn, vì chiến
tranh đang lên tới đỉnh cao.
Năm 1954, tôi theo chủng viện
di cư vào Nam rồi tiếp tục học hành. Ngày 29.4.1975, giữa tuổi “băm…”, tôi mới
bắt đầu làm việc. Sau năm 1954, do hoàn cảnh, các giám mục ở miền Bắc gần như
hoàn toàn cắt đứt với bên ngoài, nên vẫn sống với Thư Chung 1951.
TỪ ĐỨC THÁNH CHA PIÔ XI ĐẾN THÁNH GIÁO HOÀNG GIOAN XXIII VÀ
THÁNH GIÁO HOÀNG PHAOLÔ VI
Tư tưởng của loài người tiến
triển không ngừng. Thời đại của những khám phá khoa học về mọi lãnh vực từ thế
kỷ XVI thúc đẩy sự phát triển tư tưởng ngày càng nhanh. Trong khi đó thì Hội
Thánh trước thời công đồng Vatican II, có thể nói là tự
bằng lòng với một khung giáo lý vững vàng, bất di bất dịch, một nền thần
học chủ yếu là giải thích các tín điều, một nền triết học chủ yếu kế thừa của
Hy lạp. Triết học này được coi là “nữ tì phục vụ thần học”. Những người giảng dạy
thần học, triết học chủ yếu là người phương Tây, một số
người tự coi là trung tâm của thế giới, coi các dân khác là man-di mọi rợ.
Sau thánh Tô-ma A-qui-nô thì thần học và triết học được giảng dạy trong Hội
Thánh trở cái thành khung tư tưởng, dường như không
có chỗ cho sáng tạo nữa. Kinh Thánh là Lời Chúa, nguồn ánh sáng và sức sống của
tìn hữu và cả Hội Thánh, đôi khi cũng bị giáng cấp
làm một “nữ tì phục vụ thần học”. Cuộc cải cách của Luther và nhiều người khác,
làm cho Sách Thánh trở thành một kho báu phải bảo vệ nhờ hàng rào của tiếng
La-tinh, thứ ngôn ngữ đã ra khỏi đời sống hàng ngày của người Âu châu.
Nhắc lại những yếu tố này để
hiểu sự thay đổi tư tưởng, thái độ của Hội Thánh là kỳ
công của Chúa Thánh Thần như thế nào, để giải phóng Lời Chúa và mở mạch
nước ban sự sống của Thiên Chúa cho loài người. Chuyện này đã xảy ra ngay từ thời
ban đầu, như sách Công Vụ Tông Đồ kể cho chúng ta. Chúa Thánh Thần vẫn là Đấng
dẫn dắt Hội Thánh từ bên trong, con người thì luôn có
khuynh hướng gây cản trở bằng cách nhốt Thánh Thần lại, hoặc bỏ Thánh Thần
để theo “thần lạ”. Nhìn lại những thách đố từ bên trong này để thấy rõ hơn Công
Đồng Va-ti-ca-nô II quả là một cuộc hiển linh mới của Chúa Thánh Thần, để đưa Hội
Thánh vào thiên niên kỷ mới.
Cuối thế kỷ XIX và đầu thế kỷ
XX, Hội Thánh bắt đầu chuyển mình với Đức Lê-ô XIII, rồi Thánh Giáo Hoàng Pi-ô
X. Nhưng thái độ lập hàng rào tự vệ trỗi dậy mạnh mẽ với các trào lưu duy lý và
thực nghiệm ứng dụng vào suy tư thần học và giải thích Sách Thánh. Đức Pi-ô XI
sống ở thời kỳ mà chủ nghĩa cộng sản không còn là một học thuyết nhưng đã thành
chế độ chính trị ở Liên xô, và các Đảng Cộng Sản bừng bừng khí thế tại các nước
Tây Âu. Thông điệp chống cộng năm 1936 nằm trong bối cảnh lịch sử đó và Thư Chung
1951 cũng trong bối cảnh đó, trầm trọng thêm vì cuộc chiến tranh vốn có tính
dành độc lập chủ quyền do Đảng Cộng Sản Việt nam (tên gọi thay đổi từng thời kỳ)
lãnh đạo mà người công giáo cũng tham gia.
THÁNH GIÁO HOÀNG GIOAN XXIII, VỊ “GIÁO HOÀNG CHUYỂN TIẾP”
Sau thời lãnh đạo đầy gian
truân nhưng sáng chói của vị Giáo Hoàng thông minh tài giỏi Pi-ô XII, các Hồng
Y họp nhau và thấy cần một vị Giáo Hoàng chuyển tiếp, trong khi chờ để tìm được
một vị có thể sáng chói, giải pháp một “Ông Già Chuyển Tiếp” được chọn và Hồng
Y Roncalli ở tuổi “sắp chạm trần nhà” được bầu lên. Thiên Chúa vẫn giàu óc khôi
hài hơn con người, như chúng ta vẫn thấy trong lịch sử mà Sách Thánh kể lại.
Thiên Chúa hay dùng những người mà người ta coi thường để làm những việc to lớn. Các ngươi muốn chuyển tiếp hả, Ta sẽ chuyển
tiếp theo cách của Ta chứ không phải theo cách của các ngươi.
Đức Gioan XXIII kể lại rằng
Ngài chưa bao giờ nghĩ tới triệu tập một Công Đồng chung, nhưng cứ nghe một tiếng
nói bên trong thôi thúc và Ngài quyết định theo tiếng nói bên trong ấy, mọi người
chung quanh kinh hồn bạt vía khi nghe ngài công bố, vì nghĩ tới công việc chuẩn
bị và thời hạn Ngài đã đưa ra. (Năm ấy tôi lên tuổi hai mươi, bắt đầu học tại
Giáo Hoàng Học Viện Thánh Pi-ô X, Đalat).
Lần này quả là Hội Thánh toàn
cầu, mọi màu da tiếng nói, hai ngàn giám mục từ
141 nước có mặt. Các Hội Thánh Ki-tô giáo không hợp nhất với Rô-ma cũng được mời
tham dự trong tư cách quan sát viên.
Các công đồng, từ
Giê-ru-sa-lem đến Va-ti-ca-nô I, đều lo đối phó vời những vấn đề nhất định. Công
Đồng Va-ti-ca-nô II đã dứt khoát chọn hướng đi mới: trở về nguồn để canh tân. Đối
nội thì trình bày giáo lý cách tích cực và đối ngoại thì cởi mở, đối thoại, hợp
tác. Hai hiến chế về Hội thánh mở ra cái nhìn mới về bản chất và sứ mạng của Hội
Thánh, truyền sức sống và năng động mới cho Hội Thánh toàn cầu. Các sắc lệnh và
tuyên ngôn khác đặt Hội Thánh của Chúa ở giữa lòng thế giới như một công đoàn
huynh đệ khiêm tốn, để phục vụ và mở rộng tình huynh đệ mà Chúa Giê-su đem tới
cho cả loài người.
THÁNH GIÁO HOÀNG PHAOLÔ VI, Vị GIÁO HOÀNG CHẮP CÁNH BAY TỚI CHÂN
TRỜI GÓC BIỂN
Khóa họp thứ nhất kết thúc, trong
khi chuẩn bị khóa II thì “Giáo Hoàng chuyển tiếp” đã hoàn thành sứ mạng đưa Hội
Thánh rời bệ phóng để bay tới chân trời mới bằng năng lượng của Thánh Thần.
Chúa cho ngài được nghỉ ngơi. Đức Phaolô VI tuyên bố tiếp tục Công Đồng như đã
dự trù và đã bắt đầu. Công Đồng hoàn tất việc thảo luận các vấn đề theo kế hoạch
và bế mạc.
Từ khi thánh Phêrô di chuyển tới
Antiôkhia rồi tới Rôma và bị đóng đinh ở đó, như Chúa Giêsu đã báo trước cho
ông biết ông phải chết cách nào (x. Ga 21,19), Đức Phaolô VI là người kế vị
thánh Phêrô đầu tiên hành hương trở về Thánh Địa. Và trên núi Ôliu là nơi Chúa
Giêsu đã cầu nguyện trong đêm cuối cùng, rồi sau khi Phục Sinh đã lên trời trước
mặt các môn đệ, Đức Phaolô VI đã ôm hôn Thượng phụ Giáo chủ Chính Thống giáo Hy
Lạp Athenagoras, như một cử chỉ hòa giải sau khi hai bên (Latinh và Hy Lạp) đã
“tuyệt thông” với nhau từ năm 1054. Đức Phaolô VI cũng là vị giáo hoàng đầu
tiên bay tới trụ sở Liên Hiệp Quốc tại New York để phát biểu trước Đại Hội Đồng,
và là vị giáo hoàng đầu tiên bay tới chân trời phía Đông để gặp gỡ Hội Thánh
vùng châu Á Thái Bình Dương. Về phương diện ngoại giao, ngài cũng mở về phía
các nước Đông Âu.
TỪ GIÁM MỤC GIÁM QUẢN TÔNG TÒA ĐẾN GIÁM MỤC CHÁNH TÒA TẠI VIỆT
NAM
Tin Mừng đã đến Việt Nam lần đầu
từ năm 1533, nhưng chỉ như một tia sáng lóe lên, không để lại dấu vết gì. Năm
1615, các cha Dòng Tên mới bắt đầu gầy dựng được các cộng đoàn tín hữu đông đúc
lâu bền. Nhưng phải chờ nửa thế kỷ sau mới có Giám mục Giám quản Tông tòa, Đức
cha Pierre Lambert de la Motte tới. Hội Thánh lớn lên giữa những cơn bách hại kế
tiếp nhau. Phải ba trăm năm sau mới có người Việt Nam đầu tiên làm Giám mục
Giám quản Tông tòa. Rồi năm 1960, Đức Gioan XXIII đã thiết lập Hàng Giáo Phẩm,
đưa Hội Thánh tại Việt Nam từ chế độ “Giám mục Giám quản Tông tòa” sang chế độ
“Giám mục Chánh tòa”, nghĩa là nhìn nhận Hội Thánh tại Việt Nam đã trưởng thành
ngang tầm với các Hội Thánh kỳ cựu.
BỐI CẢNH GẦN CỦA THƯ CHUNG 1980
Bởi vì được nhờ viết “tản mạn”
nên lão tám chục đã tản sang bối cảnh xa, từ năm lên mười của đời mình, khi Thư
Chung 1951 ra đời. Bây giờ lại tản về bối cảnh gần, từ khi đất nước tạm chia
đôi năm 1954. Hai bên bờ sông Bến Hải là hai thể chế chính trị, hai nếp sống
khác nhau. Hội Thánh hai bên cũng không thể đi chung một nhịp. Các giám mục ở
phía Nam đã tham dự Công Đồng, từ bước chuẩn bị đến ngày bế mạc, và áp dụng
ngay. Hội Thánh ở miền Bắc thì cắt đứt với bên ngoài, sang thập niên 70 mới bắt
đầu có chút liên lạc. Tôi nhớ không lầm
thì năm 1974, các linh mục, tu sĩ người Việt đang học ở Rô-ma chúng tôi đã được
tiếp đón Đức Hồng Y Trịnh văn Căn, Tổng Giám Mục Phó Hà-nội tại đó.
TÌM LẠI NHỊP BƯỚC CHUNG GIỮA HỘI THÁNH Ở HAI MIỀN
Cuối năm 1976, toàn cõi Việt Nam
trở thành một Nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam, sự giao thông từ Bắc vào
Nam, từ Nam ra Bắc ngày càng dễ dàng, thì Hội Thánh ở miền Bắc cũng nhận được đầy
đủ các văn kiện của Công Đồng với bản dịch tiếng Việt, và hai bên bắt đầu tìm lại
nhịp bước chung. Miền Bắc cần thời gian để chuyển từ thông điệp chống cộng 1936
và Thư Chung 1951 sang đường lối của Công đồng Vatican II.
Trước ngày 30.4.1975, ĐTC
Phaolô VI, đã ủy quyền cho các Giám mục Việt Nam, nếu không liên lạc được với
Tòa Thánh thì có thể phong chức giám mục, rồi khi nào có thể thì báo lại. Nhưng
Việt Nam là Việt Nam. Năm 1977, Đức TGM Phaolô Nguyễn Văn Bình vẫn có thể đi
Rôma dự cuộc họp Thượng Hội đồng Giám mục về việc giảng dạy giáo lý, và đã gây
tiếng vang lớn với bài phát biểu nêu vấn đề: Làm thế nào dạy giáo lý cho thế hệ
trẻ lớn lên trong nền giáo dục của một nước theo chủ nghĩa Mác-xít ? Hội đồng
Giám mục miền Nam Việt Nam đã họp được hai lần năm 1976 và 1978, tìm cách ứng dụng
đường lối cởi mở, đối thoại, hợp tác và phục vụ của Công Đồng và của Hai vị
Giáo Hoàng Gioan XXIII và Phaolô VI.
Năm 1980 đã đi vào lịch sử Hội
Thánh tại Việt Nam như cột mốc của một khúc quanh quan trọng.
Lần đầu tiên Hội đồng Giám mục
toàn quốc Việt Nam họp. Cuộc họp diễn ra tại Thủ đô Hà Nội suốt một tuần lễ, và
bế mạc ngày 1 tháng 5. Lúc đó cả nước có 40 vị giám mục thì 33 vị đã về họp. Dư
luận chờ xem các giám mục sẽ nói gì, vạch ra đường hướng nào cho Hội Thánh bước
đi trong một nước Xã Hội Chủ Nghĩa.
Các giám mục phía Nam đã hai lần
họp bàn về hướng đi của Hội Thánh dưới chế độ mới, nên thấy rõ ràng Công đồng
Vatican II đã đưa Hội Thánh sang trang, mở đầu một trang sử mới mà không cần nhắc
chuyện cũ của thời đã qua.
Trước khi họp nhau lần đầu,
các giám mục hai miền đã có nhiều dịp trao đổi với nhau, hiểu biết nhau, hiệp
nhất với nhau trong tinh thần của Công Đồng, nên khi họp nhau lại thì dễ dàng
đưa ra đường lối chung. Chẳng ai có thể vặn đồng hồ lịch sử lại. Mỗi thế hệ phải
viết trang sử của mình nhờ đào sâu và sống thực với căn tính của mình. Lịch sử
dân tộc và đất nước đã sang trang, Hội Thánh phải cùng đi trong trang sử mới.
Hội Thánh tại Việt Nam lúc ấy,
giám mục, giáo sĩ giáo dân toàn là Con Rồng Cháu Tiên. Vậy thì cần xác định rõ
căn tính của Hội Thánh và cách thức đồng hành với dân tộc.
Phúc Âm làm cho Kitô hữu là
Kitô hữu và Hội Thánh là Hội Thánh của Chúa Kitô. Hội Thánh kết hợp mọi tín hữu
của Chúa Kitô trên toàn thế giới, có chung một Thiên Chúa là Cha, một Đức Giêsu
Kitô là Chúa, một Thánh Thần liên kết mọi người bằng một đức tin, một phép Rửa,
để nên một Thân Thể của Đức Kitô. Một Hội Thánh duy nhất dưới quyền Đấng kế vị
thánh Phêrô và các giám mục, tương tự như các thế hệ ban đầu với thánh Phêrô và
các tông đồ: “Hội Thánh Duy Nhất, Thánh Thiện, Công Giáo và Tông Truyền” như
chúng ta vẫn tuyên xưng.
Trong Hội Thánh duy nhất này,
mỗi người vẫn giữ nguyên màu da tiếng nói, văn hóa của mình; vẫn sống giữa lòng
dân tộc, chung vận mệnh với dân tộc của mình, cùng bảo vệ và thăng tiến giống
nòi, xây dựng và bảo vệ quê hương, tổ quốc của mình; yêu đồng bào, yêu quê
hương, yêu đất nước của mình, nhưng không kỳ thị loại trừ các dân tộc khác, vì
tất cả mọi người và mọi dân tộc đều là con cái Thiên Chúa và được Đức Kitô cứu
chuộc.
Bức thư đã đề ra những giáo huấn
rõ ràng dứt khoát, nói lên bản chất và sứ mạng của Hội Thánh, trách nhiệm của mọi
người tín hữu của Chúa Kitô, đối với Hội Thánh cũng như đối với đồng bào, dân tộc,
quê hương, đất nước. Cả một trăm đứa con của Mẹ Âu Cơ phải được tôn trọng như
nhau, được đón nhận Phúc Âm và sống theo bản sắc của mình, trong một Hội Thánh
trên giải đất hình chữ “ S “ven bờ Thái Bình Dương này.
SỐNG PHÚC ÂM GIỮA LÒNG DÂN TỘC VÌ HẠNH PHÚC CỦA ĐỒNG BÀO
Cũng như Chúa Kitô là Con
Thiên Chúa đã vì loài người chúng ta mà xuống thế làm người, thì Hội Thánh của
Chúa Kitô cũng vì loài người. Không phải loài người chung chung, trên mây hay
trong mơ, mà cụ thể:
Chúng ta phải đồng hành với
dân tộc mình, cùng chia sẻ một cộng đồng sinh mạng với dân tộc mình, vì quê
hương này là nơi chúng ta được Thiên Chúa mời gọi để sống làm con của Người, đất
nước này là lòng mẹ cưu mang chúng ta trong quá trình thực hiện ơn gọi làm con
Thiên Chúa, dân tộc này là cộng đồng mà Chúa trao cho chúng ta để phục vụ với
tính cách vừa là công dân vừa là thành phần Dân Chúa (s.9).
Hai ngàn năm trước ở
Giêrusalem, Thánh Thần đã nổi gió mạnh (Cv 2,2) đưa các môn đệ lên đường loan
báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo. Ở ngưỡng cửa của thời đại toàn cầu hóa, gió
mạnh này lại nổi lên trong Công Đồng Vatican II để đưa Hội Thánh đi vào kỷ
nguyên mới. Năm 1980 tại thủ đô Hà Nội, gió mạnh của Chúa Thánh Thần lại cuốn
các giám mục và toàn thể Hội Thánh tại Việt Nam vào hướng đi mới giữa lòng dân
tộc.
Sự chân thành của Hội Thánh tại
Việt Nam được kiểm chứng bằng hành động. Những biến chuyển trên thế giới và sự
kiên trì của Hội Thánh tại Việt Nam trong đường lối của Chúa Thánh Thần đã đưa
lại kết quả như chúng ta đang sống hôm nay.
THAY LỜI KẾT
Từ mười hai năm nay, được sống
và phục vụ Hội Thánh tại Thành Thánh Giêrusalem, nơi Chúa đã chết, sống lại,
sai các môn đệ đi tới tận cùng thế giới rồi lên trời, tôi có dịp gặp gỡ những
người từ bốn phương trời, mười phương đất đến hành hương, nghiên cứu, học hỏi.
Biết nguồn gốc của tôi, họ thường hỏi hai câu: Việt Nam còn là nước cộng sản
không? Tình trạng Hội Thánh ở Việt Nam thế nào? Trả lời câu thứ nhất: Nước tôi
vẫn là nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam do Đảng Cộng Sản Việt Nam lãnh đạo.
Trả lời câu thứ hai: Tôi chỉ về phía tòa Khâm sứ: Đức Tổng Giám mục Leopoldo
Girelli, trước khi nhận nhiệm vụ Khâm sứ Tòa Thánh tại Giêrusalem và Palestin,
đã là người đầu tiên làm Đại diện không thường trú của Tòa Thánh tại Việt Nam.
Chúng tôi hy vọng trong tương lai gần sẽ có Sứ thần Tòa Thánh đấy! Chúng tôi mới
có thêm một giáo phận và đang chờ có thêm vài giáo phận nữa.
Ai cũng trố mắt ngạc nhiên
“chưa thấy thế bao giờ”. Tôi giải thích: “Ở đâu có mà thấy ? Chỉ có ở Việt Nam
tôi mới có thôi!”.
Vâng, Việt Nam vẫn là Việt
Nam, có những nét rất riêng!
Chúng tôi là Con Rồng Cháu
Tiên, biến hóa khôn lường, không rập khuôn của ai hết.
Nhưng chúng tôi tin rằng được như thế là vì Chúa Giêsu vinh quang ở với
chúng tôi, và Chúa Thánh Thần dẫn dắt chúng tôi như lời Chúa Giêsu đã hứa; mà chúng tôi cũng để Chúa Thánh Thần dẫn dắt,
như cha ông chúng tôi vẫn sống từ khi đón nhận Tin Mừng, suốt bốn trăm năm qua.
Ngợi khen Chúa Giêsu Kitô muôn
đời. Amen. Ha-lê-lui-a!