Trang Chủ Hòa Bình là kết quả của Công Lý và Tình Liên Đới (Is 32,17; Gc 3,18; Srs 39) - Peace As The Fruit Of Justice and Solidarity Quà tặng Tin Mừng
Gs. Nguyễn Văn Thành
Bài Viết Của
Gs. Nguyễn Văn Thành
Khi nào Quê Hương là một cơ cấu bệnh hoạn?
Nguy cơ Tự Bế (nơi trẻ em từ 0 đến 7 tuổi)
Khi nào Quê Hương là một cơ cấu bệnh hoạn ?
CON ĐƯỜNG BAO DUNG (trong Văn Hóa và Huyền Sử Việt Nam)
ĐỊNH LÝ CỦA DOUGLAS M. ARONE VỀ HỘI CHÚNG TỰ BẾ

 

Trong Chương Tám của Cuốn sách “Trẻ em Tự bế” (Hè 2005), tôi đã khảo sát vai trò quan trọng của Não bộ Hệ Viền, trong đời sống của con người,  với ba cấu trúc chính yếu là Đồi Thị, Hạnh Nhân và Hải Mã.

-  Hải Mã (Hippocampus) là cấu trức có chức năng tàng trử mọi tin tức đã được thu nhận trong quá khứ, bây giờ trở thành những hoài niệm.

-  Đồi Thị (Thalamus) là cấu trúc đầu tiên của Hệ Viền (Limbic), có chức năng tiếp thu và phân phối mọi tin tức hiện tại, do các vùng ngoại vi của cơ thể gửi về, để Tân Võ Não (Neocortex)  phân tích, cứu xét nhằm đề nghị những cách đáp ứng thích hợp và có ý thức.

-  Trong số những tin tức do ngoại vi gửi về, những tin tức có tính khẩn trương được Đồi Thị gửi thẳng đến HẠNH NHÂN (Amygdala) thuộc cùng một Hệ Viền. Phần vụ của cấu trúc nầy là tham cứu kho hoài niệm thuộc Cấu trúc Hải Mã, ở sát bên cạnh, và tức thì phát ra những mệnh lệnh cấp tốc, để các bộ phận có liên hệ, phải chấp hành, không trì hoản.

-  Đồng thời với mệnh lệnh cấp tốc được phát đi, Hạnh nhân phong tỏa mọi con đường đưa tin còn lại, bằng cách ra lệnh nhả ra trong đường máu những hóa chất như Adrenaline, nhằm nâng cao mức độ canh thức, đề phòng và phấn đấu.

-  Khi làm những công việc khẩn trương nầy, Hạnh Nhân không cần phải tham khảo ý kiến của Tân Võ Não. Cấu trúc nầy là trung tâm của Tư duy, có phần vụ đề xuất những chương trình quan trọng, dài hạn thuộc đời sống có ý thức.

-  Một cách cụ thể và rõ ràng hơn, Hạnh Nhân thuộc Não bộ Hệ viền, có phần vụ chính yếu là điều hợp và quản lý đời sống xúc động. Chính vì lý do nầy, khi xúc động trở thành vấn đề khẩn trương, mọi con đường của Tư duy phải bị phong tỏa, tê liệt và vô hiệu hóa. Nói khác đi, bao lâu những xúc động như lo sợ, buồn phiền, tức giận đang tràn ngập nội tâm, chúng ta có mắt nhưng không còn thấy. Có tai nhưng không còn nghe. Tư duy có mặt, nhưng bị khống chế  và vô hiệu hóa hoàn toàn.

Vừa rồi đây, trong tuần lễ đầu tiên của năm 2006, với tác phẩm “The Theorem”, (Nhà Xuất Bản O Books, tại Winchester UK), tác giả người Anh, Douglas M. ARONE cũng đã nhấn mạnh tầm quan trọng và chức năng của Não bộ Hệ Viền, nhất là của cấu trúc Hạnh Nhân, trong toàn thể đời sống tiềm thức hay là vô thức của con người.

Thực ra, tác giả đã đưa ra một “Nguyên Lý”, với những chứng minh khoa học và khách quan, nhằm giải thích một cách rất rõ ràng nguồn gốc của mọi loại hành vi rối loạn nơi con người. Trong khuôn khổ của chương sách này, tôi chỉ chọn lựa khảo sát quan điểm khoa học của Douglas M. ARONE về Hội chứng Tự Bế mà thôi. Sau đây là 4 trọng điểm sẽ được lần lượt trình bày:

-   1) Hai chu kỳ sinh hoạt và phát triển của bào thai trong tử cung của bà mẹ,

-   2) Nét khác biệt chủ yếu giữa một thai nhi thông thường và một thai nhi có “mầm móng” nguy cơ tự bế, vào cuối tam cá nguyệt đầu tiên, sau khi tinh trùng của người cha và noãn bào của người mẹ đã kết hợp với nhau.

-   3) Những dấu hiệu báo động đầu tiên của một hài nhi có mầm mống tự bế, từ 0 đến 6 tuổi.

-   4) Những chuyển biến có thể xảy ra, trước khi Hội Chứng Tự Bế trở thành cố định.

 ***** 

Phần thứ Nhất: Hai chu kỳ phát triển của thai nhi

Từ ngày hai tác giả Leo KANNER và Hans ASPERGER, vào những năm 1943-1944, đã phát hiện Hội chúng Tự Bế, hai vấn nạn thường được nêu lên trong các tác phẩm và công trình nghiên cứu:

-   Vấn nạn thứ nhất: Hội chứng Tự Bế xuất hiện vào giai đọan phát triển nào, trong đời sống của một trẻ em?

-   Vấn nạn thứ hai: Nguyên nhân nào đã phát sinh Hội chứng Tự Bế? Nguyên nhân ấy thuộc Bẩm sinh hay là xuất phát từ Môi Trường sinh thái như gia đình và xã hội?

Trong vòng hơn một nửa thế kỷ, bao nhiêu chủ thuyết đã đề xuất nhiều lối giải thích, nhiều cách thuyên giải mâu thuẫn và đối kháng lẫn nhau. Tất cả mọi quan điểm ấy đều còn là giả thuyết chưa bao giờ được chứng minh, một cách khoa học, với những sự kiện cụ thể và khách quan, mà mỗi người có thể kiểm nghiệm một cách dễ dàng, trong cuộc sống hằng ngày.

Douglas M. ARONE, trái lại, sau hơn 10 năm nghiên cứu, đã xuất bản công trình của mình, chung quanh cuối năm 2005 và đầu năm 2006. Tác giả đặt tên cho tác phẩm vừa ra đời, là “ĐỊNH LÝ”, có khả năng trả lời một cách rốt ráo và đầy đủ nguyên nhân nào phát sinh và giải thích hành vi của con nguời. Nói khác đi, Định Lý hay là “The Theorem” trong tiếng Anh, theo cách định nghĩa của Tự Điển Learner’s Dictionary - Collins COBUILD là “a statement in mathematics or logic that can be proved to be true by reasoning”. Hẳn thực tác giả đã chứng minh (proving) luận đề, với rất nhiều dữ kiện cụ thể và khách quan. Cách lý luận (reasoning) của tác phẩm “Định Lý”có giá trị thuyết phục rất cao, so với tất cả mọi công trình đã có mặt, từ trước cho tới nay.

Tác phẩm của Douglas M. ARONE bắt đầu từ những sự kiện quan trọng  sau đây:

Trong tử cung của bà mẹ, thai nhi  –  hay là đứa con trong bào thai  -  mỗi ngày phải đưa thoi qua lại giữa hai chu kỳ sinh hoạt và phát triển khác nhau:

·   Chu kỳ thứ nhất được gọi là “Chu kỳ phát triển đầy lo sợ và kinh hoàng”,

·   Chu kỳ thứ hai mang tên là “Chu kỳ phát triển  đầy hưng phấn, thoải mái và thú vị”.

Chu kỳ thứ nhất khởi sự vào ban đêm, lúc bà mẹ vào giường, nằm xuống và đón chờ giấc ngủ. Thai sinh, trong chu kỳ nầy, có mức độ thức tỉnh và hoạt động cao. Trên bình diện xúc động trái lại, thai sinh cảm thấy lo âu, khắc khoải, khó chịu, bực bội và bất ổn.

Chu kỳ thứ hai, khởi sự vào lúc ban ngày, khi người mẹ thức dậy, bắt tay vào công việc, vận động và di chuyển từ nơi nầy qua nơi khác. Thai sinh trong chu kỳ nầy có những cảm nghiệm an toàn, thư giản, thoải mái và sung sướng. Trên bình diện sinh hoạt, trái lại, trong suốt chu kỳ phát triển thứ hai nầy, thai sinh có một tư thế hoàn toàn bất động, nghỉ ngơi và dần dần chìm đắm vào giấc ngủ bình lặng. 

*****

Với những phương tiện tân kỳ ngày nay như máy đo điện não đồ, tia sáng laser, chụp hình những tầng lớp khác nhau của Hệ thần kinh trung ương, đo lường những tiếng vọng chạy qua các tầng lớp tế bào khác nhau… tác giả Douglas M. ARONE, cũng như những ai có các phương tiện và chuyên môn tương tự, có thể ghi nhận và quan sát những sự kiện hoàn toàn khách quan có liên hệ đến Não Bộ của thai nhi, khi còn ở trong tử cung của bà mẹ.

Tuy nhiên sự kiện không phải là ý nghĩa. Cho nên dù muốn dù không, khi trình bày quan điểm và lối nhìn của mình, tác giả ARONE cũng giống như tất cả mọi nhà nghiên cứu có tầm cỡ quốc tế, đều phải đi qua con đường THUYÊN GIẢI. 

Thuyên giải là rút tỉa và đề xuất Ý nghĩa, sau khi quan sát và ghi nhận Sự kiện một cách khách quan, từ một khía cạnh, một gốc độ được chọn lựa. Thêm vào đó, khi trình bày những nhận định và lối nhìn của mình, ai ai cũng phải sử dụng tư duy có ý thức và ngôn ngữ chính qui, với những cơ chế hạn hẹp nhưng cần thiết và tất yếu, như:  tổng quát hóa, chọn lọc và chủ quan hóa.

Không trang bị mình với tất cả những nhận xét và hiểu biết quan trọng ấy, chúng ta sẽ thiếu khả năng lắng nghe và theo dõi lý luận khoa học của ARONE. Tác giả không thể không chọn lọc. Lúc khác, tác giả cần phải làm công việc tổng quát hóa, để rút tỉa những qui luật. Biết lắng nghe, đánh giá và kiểm chứng những gì mà tác giả chia sẻ và đóng góp, chúng ta mới có khả năng sở hữu hóa – nghĩa là chọn làm của mình -  “Định Lý” của tác giả. 

*****

Trở lại với hai chu kỳ sinh hoạt và phát triển của thai nhi, trong lòng của bà mẹ, chúng ta cần thấy rõ: đó là một qui luật của thiên nhiên nhằm đáp ứng những nhu cầu khác nhau của cuộc sống.

-  Nhu cầu thứ nhất:  Để hai cuộc sống của hai mẹ con có thể phát triển và tăng trưởng, trong cùng một cơ thể duy nhất, hai mẹ con phải bổ túc cho nhau và phối hợp với nhau, trong những sinh hoạt hằng ngày của mình. Khi mẹ hoạt động, thai sinh đi vào chu kỳ nghỉ và ngủ. Trái lại, khi bà mẹ nằm ngủ và giảm hạ mức độ hoạt động, thai sinh lại đi vào chu kỳ gia tăng hoạt động và phát triển, trong nhiều lãnh vực khác nhau như giác quan, hô hấp, thần kinh và tâm lý…

-  Nhu cầu thứ hai: Thai nhi phát triển trong mọi địa hạt, để chuẩn bị ngày đi ra khỏi tử cung của mẹ, với những cử động và phản xạ cần thiết của mình. Ngoài ra, cuộc sống trong tử cung của bà mẹ có phần vụ chuẩn bị cho cuộc sống sau này của đứa bé, trong vùng ánh sáng và không khí. Không  phát triển hệ thần kinh, không tập luyện bằng cách này hay cách khác những giác quan như thính, xúc và khứu giác…làm sao đứa bé sẵn sàng tiếp tục con đường phát triển của mình?

-  Nhu cầu thứ ba: Khi sống và phát triển trong chu kỳ thứ nhất, thai nhi có những cảm nghiệm về khổ đau và lo sợ. Trái lại, khi chuyển qua chu kỳ thứ hai, lập tức thai sinh biết thụ hưởng những giờ phút vui suớng, hạnh phúc, an bình và thoải mái. Nhờ những cảm nghiệm và kinh nghiệm quí hóa nầy, thai nhi thiết lập những quan hệ gắn bó với bà mẹ của mình. Ngoài ra, Hệ thần kinh trung ương của thai nhi, trong vòng chín tháng, cơ hồ một chiếc máy vi tính, sẽ dần dần ghi lại và lưu giữ trong các tế bào của mình, hai loại kinh nghiệm hoàn toàn khác biệt và đối kháng lẫn nhau ấy. Nhờ vào những tầng lớp tế bào thần kinh có khả năng lưu giữ những tin tức như vậy, cả mẹ lẫn con được chuẩn bị để đối phó với bao nhiêu trắc trở trong lòng cuộc đời.

-  Trong khuôn khổn của cuốn sách này, tôi muốn nhấn mạnh một điều sau đây: Nếu cha mẹ, người giáo viên, cũng như những người có trách nhiệm trong lòng xã hội, Quê Hương và nhân loại có khả năng mở mắt nhận ra, giống như tác giả ARONE, khi nào và vì sao trẻ em đau khổ, khi nào và nhờ vào đâu trẻ em hạnh phúc, họ đã bắt đầu có đáp số cho vấn nạn Hành Vi Rối Loạn, hay là cho Hội Chứng Tự Bế. Từ đó, họ sẽ trang bị mình hay là học tập, để TĂNG CƯỜNG những gì cần tăng cường, HÓA GIẢI những gì cần chuyển biến, LOẠI THẢI bằng phương thức nào, những gì cần loại thải. Phải chăng họ là MẢNH ĐẤT, là môi trường đang đón nhận những hạt giống, những Gên, những vấn đề bẩm sinh? Nếu không có môi trường trông nom, tưới tẩm, nuôi dưỡng, làm sao Gên có thể mọc lên? Nếu môi trường biết củng cố và tăng cường, hạt giống tươi tốt sẽ lớn lên đâm chồi nảy lộc, kết sinh hoa trái. Nếu môi trường biết chuyển hóa, thể theo văn hào người Brésil (Ba Tây) Paulo CUELHO, đồng chì sắt thép trong địa hạt bẩm sinh cũng sẽ có khả năng trở thành Vàng nguyên chất, nhờ sức tác động hữu hiệu của môi trường.

-   Cũng theo cách nhận định của ARONE, trong suốt thời gian cưu mang con, nếu có những nguy cơ về sinh mạng cho cả hai mẹ con, Thiên Nhiên luôn luôn đặt người mẹ lên hàng ưu tiên số một. Ngoài ra, người mẹ còn được Thiên Nhiên nâng đỡ, trong vai trò làm mẹ của mình. Ví dụ, với cơ chế “Phong tỏa trí nhớ ngắn hạn”, Thiên Nhiên thay thế người mẹ, tạo điều kiện thuận lợi cho thai nhi, ngay từ những giờ phút đầu tiên, chỉ biết “sống trong giờ phút hiện tại ở đây và bây giờ”. Chẳng hạn, khi sống trong chu kỳ hưng phấn, thai nhi tràn ngập hạnh phúc và bình an. Cuộc sống của thai nhi trong lòng mẹ, lúc bấy giờ, là Niết bàn, là Thiên đàng, là Cõi bồng lai. Cũng giống như vậy, khi sống trong chu kỳ lo sợ, thai nhi đang băn khoăn về số kiếp của mẹ mình. Hẵn thực, mẹ đang im lìm, bất động trong giấc ngủ, sau một ngày bận rộn công việc.  Thế nhưng trong cách thuyên giải, thai nhi đang tin tưởng rằng mẹ lâm nguy và đang trải qua những giờ phút hấp hối. Cũng nhờ cách thuyên giải lệch lạc ấy, thai nhi đặt trọng tâm vào mẹ, hướng đến mẹ, tìm cách khám phá hiện tình của mẹ. Phải chăng Thiên nhiên đang sử dụng hai chu kỳ sinh hoạt và phát triển khác nhau như vậy, để thiết lập trong các tế bào thuộc não bộ hệ viền của đứa con, những quan hệ xúc động gắn bó giữa hai mẹ con?

-  Thai nhi không những chỉ lo sợ cho mẹ, về mẹ. Thai nhi còn vận dụng những giác quan của mình để đánh thức mẹ,  thu lượm tin tức về mẹ… nghe tim của mẹ đập nhịp thế nào…Bao nhiêu cách làm ấy của thai nhi chỉ là những phản ứng vô thức và tự động, chứ không phải là những hoạt động có ý thức. Sở dĩ như vậy, bởi vì cơ quan có phần vụ ghi nhớ ngắn hạn thuộc Não bộ Hệ Viền, bị phong tỏa hoàn toàn, không thể hoạt động.

-   Theo cách giải thích của tác giả ARONE, giữa Cơ quan Trí Nhớ ngắn hạn, thuộc Não Bộ Hệ Viền của thai nhi và Hệ Miễn Nhiễm của người mẹ,  có những quan hệ tác động qua lại. Chính vì tình huống và điều kiện mang thai,  Hệ Miễn Nhiễm  của người mẹ bị tê liệt, không hoạt động. Và do đó, cơ quan Trí Nhớ ngắn hạn của thai nhi cũng bị phong tỏa và trở nên vô hiệu hóa hoàn toàn. Trái lại, như sau nầy chúng ta sẽ thấy, vì lý do sức khỏe nếu tính mạng của bà mẹ bị đe dọa trầm trọng, bằng cách nầy hay cách khác, Hệ Miễn Nhiễm của bà cần phải được tái lập. Lúc bấy giờ, cơ quan Trí Nhớ ngắn hạn của thai nhi tức thì được giải tỏa. Thai nhi sẽ có khả năng ghi nhớ tất cả những gì xảy ra cả trong hai chu kỳ Lo Sợ và Sảng Khoái. Đó là lý do cơ bản giải thích sự khác biệt nguyên thủy giữa một thai nhi thông thường, thông lệ vả một thai nhi bắt đầu có mầm mống và nguy cơ tự bế, vào cuối tam cá nguyệt đầu tiên của cuộc sống trong bào thai của mẹ.  

*****

Phần thứ Hai: Nét khác biệt đầu tiên giữa thai nhi thông thường và thai nhi có nguy cơ tự bế

Nét khác biệt đầu tiên và cơ bản, giữa thai nhi thông thường và thai nhi có mầm mống và nguy cơ tự bế, xuất phát từ sự có mặt hay vắng mặt của một cơ quan thuộc Hệ Viền, nằm ở chính giữa đầu não của mỗi người. Cơ quan nầy có chức năng phong tỏa Trí Nhớ ngắn hạn. Và khi bị phong tỏa như vậy, Trí nhớ ngắn hạn không thể ghi nhận những gì đang xãy ra. Thai nhi lúc bấy giờ chỉ sống hoàn toàn và trọn vẹn trong giờ phút hiện tại. Sở dĩ Trí Nhớ của thai nhi bị phong tỏa, vô hiệu hóa hay là không hoạt động, là vì Hệ Miễn Nhiễm của người mẹ, từ khi mang thai, bị cấm cản, không thể hoạt động.

Trong vài trường hợp khẩn trương, vì lý do sức khỏe của người mẹ bị đe dọa trầm trọng,  bằng cách này hay cách khác, Hệ Miễn Nhiễm phải được tái lập, để cứu sống cả hai mẹ con. Lúc bấy giờ, Trí Nhớ ngắn hạn của thai nhi không còn bị ngăn cản, và trở lại hoạt động bình thường. Nguy cơ tự bế bắt đầu xuất hiện và phát triển, với sự cố quan trọng nầy đang xảy ra trong Não Bộ Hệ Viền của thai nhi, ước chừng vào cuối tam cá nguyệt đầu tiên.

Phát xuất từ sự cố nguyên thủy nầy, nhiều sự cố đặc biệt khác sẽ từ từ xảy ra cho thai nhi có mầm mống tự bế:

-  Trước hết, thai nhi, lúc bấy giờ, có khả năng ghi nhớ tất cả những gì xảy ra, trong chu kỳ Lo Sợ cũng như trong chu Kỳ Sảng Khoái và Thư Giản.

-  Cùng với khả năng ghi nhớ, thai nhi có khả năng học tập, tiên đoán và tiên liệu, khám phá và rút tỉa những sự cố có tính qui luật, nghĩa là lặp đi lặp lại một cách đều đặn, từ ngày này qua ngày khác.

-  Nhờ vào khả năng học tập và ghi nhớ như vậy, thai nhi có nguy cơ tự bế, không thuyên giải một cách lệch lạc, nhất là không bao giờ tin tưởng rằng mẹ sắp hấp hối, mẹ sắp biến mất khỏi cuộc đời.

-  Cũng vì biết rõ mọi đường đi nẻo về của mẹ như vậy, thai nhi  không có gì để lo sợ về mẹ và về số phận của mình. Nói một cách đơn sơ và rõ ràng hơn, thai nhi không cột chặt vận mệnh của mình vào vấn đề sống còn của mẹ. Mẹ chỉ là một biến số trong một phương trình, mà mình có thể tìm ra đáp số. Cho nên giữa mẹ và con, không có những ràng buộc, những quan hệ gắn bó mật thiết, trên bình diện xúc động.

-  Với một thai nhi thông thường, mỗi lần mẹ vào giường, nằm xuống, chờ giấc ngủ… là có vấn đề thuyên giải hay là tưởng lầm rằng mẹ có thể sắp chết. Cho nên thai nhi vận dụng mọi giác quan của mình, họa may sẽ có những tin tức về mẹ, chẳng hạn như đưa tai nghe ngóng những dịp tim của mẹ. Hay là đưa tay đập mạnh, đưa chân chọi vào thành bụng của mẹ. Họa may, một vài tiếng động trở mình của mẹ sẽ mang đến một tia hy vọng. Một cách gián tiếp, nhờ vào bao nhiêu cố gắng tìm kiếm về mẹ như vậy, thai nhi càng ngày càng phát huy những khả năng hoạt động của các giác quan, nhất là thính và xúc giác. Hệ thần kinh trung ương, còn được gọi là Não Bộ, với ba tầng khác nhau là Thân Não, Hệ Viền và Tân Võ Não, cũng càng ngày càng phát huy những hoạt động của mình. Các tế bào càng ngày nhân ra thêm nhiều và bắt đầu tiến trình bao bọc các đường giây liên lạc, bằng chất my-ê-lin có tính chất dẫn điện một cách rất nhanh chóng.

-  Đối với thai nhi có mầm mống tự bế, ngược lại, tiếng động, âm thanh, nhịp tim, tiếng nói… không mang ý nghĩa là những tin vui, những nguồn hy vọng. Cho nên, như chúng ta sẽ thấy sau này, ngôn ngữ không phải là một nhu cầu quan trọng hay là tất yếu. Ngôn ngữ không phải là nhịp cầu, có khả năng  nối kết hai mẹ con lại, đồng cảm với nhau.

-  Tất cả những nhận định vừa rồi cho phép chúng ta kết luận một cách rõ ràng: Khi một thai nhi không kết dệt những quan hệ ràng buộc, gắn bó và đồng cảm với mẹ, cũng như không lưu tâm nghe ngóng, tìm kiếm những tiếng động của mẹ và có liên hệ đến mẹ…làm sao hài nhi sau này, khi sinh ra, có thể phát huy những quan hệ tiếp xúc và trao đổi với những người khác có mặt trong môi trường sinh thái? Làm sao đi vào lãnh vực ngôn ngữ, để có thể chia sẽ và đồng hành với bao nhiêu ưu tư và hy vọng của người khác, trong lòng Quê Hương và Nhân Loại.

-  Trong khuôn khổ của một bài chia sẻ, tôi không thể nói thêm nhiều hơn nữa về cách thức giải quyết của thai nhi, khi  phải đối diện với sự cố ngưng thở và ngột thở, do cuộc sống chật chội trong bào thai. Bằng cách nào thai nhi giải quyết vấn đề khan hiếm  và giảm hạ của những hóa chất có hiệu năng nâng cao sinh lực, như Adrenaline, Dopamine, trong chu kỳ Lo sợ, khi người mẹ im lìm, bất động trong giấc ngủ? Sau cùng, làm sao một thai nhi có nguy cơ tự bế, phát huy một cách đặc biệt khứu giác của mình, bằng cách dựa vào những mùi nồng, mùi thối của các phế liệu trong tử cung, để phát hiện và đề phòng vấn đề ngưng thở của mình? Độc giả nào muốn có thêm những tin tức đầy đủ và chi tiết hơn, tôi đề nghị họ hãy tiếp cận với chính tác phẩm của tác giả Douglas M. ARONE.  

Phần thứ Ba: Những dấu hiệu đầu tiên về Hội Chứng Tự Bế

Hài nhi có mầm móng tự bế, sau khi thoát ra khỏi cung lòng của người mẹ, đã từ từ trình bày những dấu hiệu đáng lo ngại sau đây.

-  Thứ nhất, hài nhi không đưa mắt nhìn thẳng vào đôi mắt của mẹ,

-  Thứ hai, khi được mẹ bồng, hài nhi có tư thế co quắp, cong lưng lại thành vòng cung, thay vì vui thích, thoải mái, sung sướng và hớn hở,

-  Thứ ba, khi có những đồ vật hay trò chơi quay tròn một cách liên tục, hài nhi có thái độ sững sờ, như bị thôi miên và chìm dần vào giấc ngủ. Phải chăng những cử động ấy gợi lại chu kỳ sảng khoái, với dư thừa liều lượng của hóa chất Dopamine hay Adrenaline, được các cơ quan tiết ra trong đường máu?

Tuy nhiên, với đôi mắt của người không có kinh nghiệm chuyên môn về trẻ em có nguy cơ tự bế, những dấu hiệu trên đây thường không được quan sát và ghi nhận, một cách dễ dàng, trong năm đầu tiên.

Ngược lại, vào cuối năm thứ hai trở lên, những triệu chứng càng ngày càng xuất hiện một cách rõ ràng hơn. Ở đây, tôi không lặp lại những gì được trình bày trong cuốn sách “Trẻ Em Tự Bế” (Hè 2005), và được nhắc lại một cách súc tích, trong lời mở đường của cuốn sách “Nguy Cơ Tự Bế”(Xuân 2006). Thay vào đó, tôi chỉ nhấn mạnh một vài triệu chứng có liên hệ mật thiết với hai chu kỳ phát triển trong bào thai, và bao nhiêu cảm nghiệm đã được khắc sâu vào từng tế bào thần kinh thuộc Não Bộ Hệ Viền, suốt thời gian sống trong tử cung của bà mẹ.

1)   Triệu chứng thứ nhất có liên hệ đến quan hệ xã hội.

Từ những ngày đầu tiên, thai nhi có mầm mống tự bế, có khả năng ghi nhớ và ghi nhận mọi hoạt động của bà mẹ, khi đứng, khi ngồi, khi nằm, khi ngủ nghĩ… Điều tạo nên cho thai nhi nỗi bận tâm lớn lao nhất là sự cố ngưng thở và ngột thở, chứ không phải là bà mẹ.

Nhưng rốt cùng thai nhi cũng khám phá được một vài thông số quan trọng. Thứ nhất, sự cố tạo khổ đau nầy chỉ xảy ra trong chu kỳ Lo Sợ và Kinh Hoàng. Thứ hai, sự cố nầy đạt cao điểm vào lúc ban đêm. Thứ ba, sự cố nầy được báo trước bằng những loại mùi nồng cay và khó chịu của các phế liệu thuộc đường tiêu hóa. Thứ bốn, sự cố nầy xảy ra khi liều lượng của hóa chất tạo ra hưng phấn, như Adrenaline, bị giảm hạ. Thứ năm, sự cố nầy thay đổi, trong chiều hướng thuận lợi, mỗi lần bà mẹ bị đánh thức, đứng dậy và di chuyển từ chỗ nầy qua chỗ khác.

Xuyên qua bao nhiêu nhận xét ấy, bà mẹ chỉ là một biến số trong một phương trình mà thai nhi cần giải quyết. Ngoài ra, hoàn toàn khác với thai nhi “thông thường, thuộc số đông”, thai nhi có mầm mống tự bế không có những xúc động lo âu và khắc khoải về sức khoẻ và vận mệnh của bà mẹ.

Sau khi ra khỏi tử cung của bà mẹ, hài nhi cũng chỉ lặp lại một thói tục đã được thai nhi học đi học lại, trong suốt thời gian chín tháng mười ngày.

2) Triệu chúng thứ hai là những điệu bộ và cử động đu đưa qua lại, từ trước ra sau, từ bên phía nầy qua phía bên kia, hay là cúi xuống ngửng lên, một cách liên tục và đều đặn.

Phải chăng khi làm những cử điệu ấy, hài nhi đang tạo lại cho mình những cảm nghiệm thanh nhàn, vui sướng, đã xảy ra  trong suốt chu kỳ hưng phấn và sảng khoái.

3) Triệu chứng thứ ba là cắn mạnh vào lưng bàn tay và gây ra những thương tích.

Trong những lúc bị ngột ngạt và ngưng thở, thai nhi đã có thói quen dùng hai bàn tay làm những cử động múa máy, vẫy qua vẫy lại, hay là cho vào miệng bú mút… Càng bú và mút mạnh, thai nhi càng có thêm liều lượng Adrenaline. Lúc bấy giờ, thai nhi chưa có răng. Những cử động ấy không làm thiệt hại bao nhiêu, ngoài những cái lợi thực tiển, có khả năng làm giảm hạ những xúc động căng thẳng. Trái lại, khi hài nhi đã có một vài cái răng, những cử chỉ và bộ điệu bú mút với vận tốc nhanh và mạnh có thể tạo nên những vết thương lở lói và bị nhiễn trùng.

4) Triệu chứng thứ bốn là bám chặt vào những thói quen, những nghi thức, những chương trình. Hệ quả là trẻ em có nguy cơ tự bế, dễ bùng nổ, tức giận, khóc la om sòm… khi có những thay đổi nhỏ nhặt xảy ra trong cuộc sống thường ngày.

Để hiểu rõ nguồn gốc của triệu chúng nầy, chúng ta hãy đi theo trẻ em, trở lui với cuộc sống trong bào thai, vào những ngày đầu tiên, khi cơ quan trí nhớ ngắn hạn không còn bị phong tỏa và vô hiệu hóa. Sở dĩ như vậy, vì Hệ Miễn Nhiễm của bà mẹ cần phải được tái lập, với bất cứ giá nào, do yêu cầu của tình trạng sức khoẻ của cả hai mẹ con.

Sau khi trí nhớ trở lại tình trạng bình thường, thai nhi có mầm mống tự bế có thể nhớ tất cả những gì xảy ra, trong cuộc sống hằng ngày của hai mẹ con. Thai nhi có thể tiên liệu, tiên phòng tất cả. Không có gì có thể xảy ra, ngoài thứ tự và chương trình mà thai nhi có thể dự liệu. Chính khả năng ấy tạo ra cho thai nhi một cảm nghiệm “an toàn tuyệt đối, bất khả xâm phạm”. Trẻ em có nguy cơ tự bế, khi thoát ra khỏi lòng mẹ, vẫn mang theo những nhu cầu an toàn, ấy được ghi khắc vào sâu trong các tế bào của Não Bộ Hệ Viền.

5) Triệu chứng thứ năm có những liên hệ mật thiết với Khứu và Thính giác. Thứ nhất trẻ em có nguy cơ tự bế, thường có xu thế “NGỬI, HÍT”, để tìm lại những dấu vết quen thuộc của mình hay là để kiểm chứng tính chất bất biến và thương hằng thường trụ của người và vật dụng được yêu chuộng. Phải chăng đó là vết tích trong cách làm của thai nhi : dựa vào mùi nồng cay và khó chịu , để tiên liệu sự cố ngột thở và ngưng thở, cũng như tìm cách đối phó.

Ngoài ra, trẻ em tự bế cũng thường có thói quen bịt tai lại, khi nghe những âm thanh thuộc tấn số trầm và thấp, vì đây là những tần số không được ghi nhận trong não bộ đặc trách về thính giác của thai nhi trong tử cung. Vì mới lạ, những tần số nầy bị trẻ em từ chối và loại thải, bằng cách bịt tai lại. 

    *****

Phần thứ Tư : Phương thức Chuyển Hóa

Nhằm kết thúc Chương thứ Sáu nầy, tôi cố gắng nối dài lối nhìn của tác giả Douglas M. ARONE, bằng cách sơ phác một vài phương hướng chuyển hóa, nhằm giúp trẻ em có nguy cơ tự bế vượt qua những khó khăn của mình, trước khi đi vào giai đoạn 7 tuổi.

Suốt thời gian 9 tháng của thai nhi, trong tử cung của bà mẹ, nguy cơ tự bế đã được ghi nhận và khắc sâu vào các tế bào thần kinh, thuộc não bộ hệ viền, như những chương trình, trong máy vi tính.

Trong lứa tuổi từ 0 dến 7 năm, khi mọi tế bào thuộc hệ thần kinh trung ương còn ở trong tình trạng uyển chuyển, dễ uốn nắn, một số lớn tế bào bị loại thải, vì không còn thích ứng với cuộc sống và nhu cầu hiện tại, do môi trường đòi hỏi. Một số khác, vì thực tế của môi trường, cần đổi mới hay là điều chỉnh lại những chương trình của mình. Một số sau cùng được củng cố và tăng cường, để thực hiện chức năng của mình, một cách hữu hiệu hơn.

Một cách đặc biệt, những tế bào thần kinh có chương trình tự bế đã được ghi khắc, trong thời gian ở trong tử cung, bây giờ cũng phải được tái điều hướng và điều hợp, trong 3 chiều hướng vừa được trình bày. Nếu biết can thiệp một cách hữu hiệu, đúng lúc và đúng với nhu cầu cơ bản của trẻ em, môi trường có thể sáng tạo điều kiện thuận lợi, nhằm giúp trẻ em vượt qua hay là chuyển hóa những nguy cơ tự bế của mình.

Chúng ta có 3 cách chuyển hóa khác nhau:

Thứ nhất, chúng ta KHÔNG củng cố và tăng cường những chương trình lo sợ và bất ổn, thuộc chu kỳ phát triển thứ nhất của thai nhi. Tự khắc, một số tế bào sẽ dần dần bị loại thải. Chúng ta không cũng cố, bằng cách loại trừ trong quan hệ giữa chúng ta và trẻ em những lời nói và thái độ tố cáo, kết án, trừng phạt, đánh đập, bôi nhọ, đàn áp...Ngược lại, chúng ta sáng tạo những quan hệ mang đến an toàn và vui sướng cho trẻ em.

Thứ hai, chúng ta cũng cố và tăng cường tối đa những yếu tố tích cực và năng động, có mặt trong chu kỳ hứng khởi và vui sướng của thai nhi. Nói cách khác, chúng ta có mặt với trẻ em, tạo an toàn cho trẻ em, biết khen thưởng trẻ em, phản ảnh, gọi ra ngoài những xúc động tiêu cực, vừa hiện hình trong nội tâm của trẻ em. Ngoài ra, với những sinh hoạt Tâm Vận Động bình thường, chúng ta cho phép trẻ em thực thi những động tác nhảy vọt, quay tròn, leo lên, tuột xuống. Những trò chơi như chiếc đu, chiếc võng, con ngựa gỗ để cưỡi và nhún lui nhún tới… cần được trang bị đầy đủ, bằng số lượng, cho mỗi lớp học. Những điệu vũ, điệu múa cũng cần được phát huy và tập luyện cho từng nhóm nhỏ. Nói tóm lại, chúng ta thỏa mãn những nhu cầu vận động của trẻ em. Cho phép trẻ em trở lui với chu kỳ hưng phấn và sảng khoái của thai nhi.

Sau cùng, chúng ta chuyển hóa những gì là tự động và máy móc, trong mỗi hành vi của trẻ em, bằng cách trở thành « một đối tượng vui thích » cho trẻ em, có mặt với trẻ em, phản ảnh trẻ em, lặp lại cách phát âm của trẻ em.

Nói tóm lại, chúng ta sáng tạo một đời sống vui tươi và hạnh phúc, cho trẻ em, vì trẻ em và với trẻ em.

 Lời nói của Simone Weil đáng được chúng ta chọn làm của mình : « Không phải con đường chúng ta đi đầy tràn khó khăn. Nhưng chính khó khăn phải trở thành con đường đi của chúng ta ». Nói cách khác, chúng ta biến khó khăn thành một tiếng gọi thân thương gọi mời chúng ta vươn lên, mở rộng chân trời cho chính mình và cho trẻ em đang có nguy cơ tự bế.

 

Lausanne, Tháng Hai, năm 2006

Gs. Nguyễn Văn Thành

Sách Tham Khảo :

1)   Douglas M. ARONE – The Theorem, a complete answer to human behavior  -  O Books 2005, Winchester UK, 496 tr.

2)   NGUYỄN văn Thành  -  Trẻ Em Tự Bế : Phương thức giáo dục và dạy dỗ  - Tu Sách Tình Người, Sàigon Hè 2005.

3)   NGUYỄN văn Thành  -  Nguy Cơ Tự Bế, nơi trẻ em từ 0-7 tuổi  -  Tủ Sách Tình Người, Sàigon Xuân 2006.

Tác giả: Gs. Nguyễn Văn Thành

Nguyện xin THIÊN CHÚA chúc phúc và trả công bội hậu cho hết thảy những ai đang nỗ lực "chắp cánh" cho Quê hương và GHVN bay lên!