Luca
Chương:
01 02
03 04
05 06
07 08
09 10
11 12
13 14
15 16
17 18
19 20
21 22
23 24
Chương
3
II. ĐỨC GIÊ-SU CHUẨN BỊ THI HÀNH SỨ
MỆNH
Ông Gio-an Tẩy Giả rao giảng (Mt 3:1-12; Mc
1:2-6; Ga 1:19 -28 )
1 Năm thứ mười lăm dưới triều
hoàng đế Ti-bê-ri-ô, thời Phong-xi-ô Phi-la-tô làm tổng trấn miền
Giu-đê, Hê-rô-đê làm tiểu vương miền Ga-li-lê, người em là Phi-líp-phê
làm tiểu vương miền I-tu-rê và Tra-khô-nít, Ly-xa-ni-a làm tiểu vương
miền A-bi-lên,2 Kha-nan và Cai-pha làm thượng tế, có lời
Thiên Chúa phán cùng con ông Da-ca-ri-a là ông Gio-an trong hoang
địa.3 Ông liền đi khắp vùng ven sông Gio-đan, rao giảng, kêu
gọi người ta chịu phép rửa tỏ lòng sám hối để được ơn tha
tội,4 như có lời chép trong sách ngôn sứ I-sai-a rằng: Có
tiếng người hô trong hoang địa: hãy dọn sẵn con đường cho Đức Chúa, sửa
lối cho thẳng để Người đi.5 Mọi thung lũng, phải lấp cho đầy,
mọi núi đồi, phải bạt cho thấp, khúc quanh co, phải uốn cho ngay, đường
lồi lõm, phải san cho phẳng.6 Rồi hết mọi người phàm sẽ thấy
ơn cứu độ của Thiên Chúa.
7 Đám đông lũ lượt kéo đến
xin ông Gio-an làm phép rửa; ông nói với họ: "Nòi rắn độc kia, ai đã chỉ
cho các anh cách trốn cơn thịnh nộ của Thiên Chúa sắp giáng xuống
vậy?8 Các anh hãy sinh những hoa quả xứng với lòng sám hối.
Và đừng vội nghĩ bụng rằng: Chúng ta đã có tổ phụ Áp-ra-ham; vì, tôi nói
cho các anh hay, Thiên Chúa có thể làm cho những hòn đá này trở nên con
cháu ông Áp-ra-ham.9 Cái rìu đã đặt sát gốc cây: bất cứ cây
nào không sinh quả tốt đều bị chặt đi và quăng vào
lửa."
10 Đám đông hỏi ông rằng: "Chúng tôi phải làm gì
đây? "11 Ông trả lời: "Ai có hai áo, thì chia cho người không
có; ai có gì ăn, thì cũng làm như vậy."12 Cũng có những người
thu thuế đến chịu phép rửa. Họ hỏi ông: "Thưa thầy, chúng tôi phải làm
gì? "13 Ông bảo họ: "Đừng đòi hỏi gì quá mức đã ấn định cho
các anh."14 Binh lính cũng hỏi ông: "Còn anh em chúng tôi thì
phải làm gì? " Ông bảo họ: "Chớ hà hiếp ai, cũng đừng tống tiền người
ta, hãy an phận với số lương của mình."
15 Hồi đó, dân
đang trông ngóng, và trong thâm tâm, ai nấy đều tự hỏi: biết đâu ông
Gio-an lại chẳng là Đấng Mê-si-a!16 Ông Gio-an trả lời mọi
người rằng: "Tôi, tôi làm phép rửa cho anh em trong nước, nhưng có Đấng
mạnh thế hơn tôi đang đến, tôi không đáng cởi quai dép cho Người. Người
sẽ làm phép rửa cho anh em trong Thánh Thần và lửa.17 Tay
Người cầm nia rê sạch lúa trong sân: thóc mẩy thì thu vào kho lẫm, còn
thóc lép thì bỏ vào lửa không hề tắt mà đốt đi."18 Ngoài ra,
ông còn khuyên dân nhiều điều khác nữa, mà loan báo Tin Mừng cho
họ.
Ông Gio-an Tẩy Giả bị bỏ tù
19 Còn tiểu vương Hê-rô-đê thì bị
ông Gio-an khiển trách vì đã lấy bà Hê-rô-đi-a là vợ của người anh, và
vì tất cả các tội ác tiểu vương đã phạm.20 Ngoài ra, tiểu
vương còn phạm thêm tội này là bỏ tù ông Gio-an.
Đức Giê-su chịu phép rửa (Mt 3:13 -17; Mc
1:9-11 )
21 Khi toàn dân đã chịu phép rửa,
Đức Giê-su cũng chịu phép rửa, và đang khi Người cầu nguyện, thì trời mở
ra,22 và Thánh Thần ngự xuống trên Người dưới hình dáng chim
bồ câu. Lại có tiếng từ trời phán rằng: Con là Con của Cha; ngày hôm
nay, Cha đã sinh ra Con.
Gia phả Đức Giê-su Ki-tô (Mt 1:1-17
)
23 Khi Đức Giê-su khởi sự rao
giảng, Người trạc ba mươi tuổi. Thiên hạ vẫn coi Người là con ông
Giu-se. Giu-se là con Ê-li,24 Ê-li con Mát-tát, Mát-tát con
Lê-vi, Lê-vi con Man-ki, Man-ki con Gian-nai, Gian-nai con
Giô-xếp.25 Giô-xếp con Mát-tít-gia, Mát-tít-gia con A-mốt,
A-mốt con Na-khum, Na-khum con Khét-li, Khét-li con
Nác-gai.26 Nác-gai con Ma-khát, Ma-khát con Mát-tít-gia,
Mát-tít-gia con Sim-y, Sim-y con Giô-xếch, Giô-xếch con
Giô-đa.27 Giô-đa con Giô-kha-nan, Giô-kha-nan con Rê-sa,
Rê-sa con Dơ-rúp-ba-ven, Dơ-rúp-ba-ven con
San-ti-ên.
28 Nê-ri con Man-ki, Man-ki con Át-đi,
Át-đi con Cô-xam, Cô-xam con En-mơ-đam, En-mơ-đam con E.29 E
con Giê-su, Giê-su con Ê-li-e-de, Ê-li-e-de con Giô-rim, Giô-rim con
Mát-tát, Mát-tát con Lê-vi.30 Lê-vi con Si-mê-ôn, Si-mê-ôn
con Giu-đa, Giu-đa con Giô-xếp, Giô-xếp con Giô-nam, Giô-nam con
En-gia-kim,31 En-gia-kim con Ma-li-a, Ma-li-a con Mi-na,
Mi-na con Mát-tát-ta, Mát-tát-ta con Na-than, Na-than con
Đa-vít.
32 Đa-vít con Gie-sê. Gie-sê con Ô-vết, Ô-vết
con Bô-át, Bô-át con Xan-môn, Xan-môn con Nác-sôn.33 Nác-sôn
con Am-mi-na-đáp, Am-mi-na-đáp con Át-min, Át-min con Ác-ni, Ác-ni con
Khét-rôn, Khét-rôn con Pe-rét, Pe-rét con Giu-đa.34 Giu-đa
con Gia-cóp, Gia-cóp con I-xa-ác, I-xa-ác con
Áp-ra-ham.
35 Na-kho con Xơ-rúc, Xơ-rúc con Rơ-u, Rơ-u
con Pe-léc, Pe-léc con Ê-ve. Ê-ve con Se-lác.36 Se-lác con
Kê-nan, Kê-nan con Ác-pắc-sát, Ác-pắc-sát con Sêm, Sêm con Nô-ê, Nô-ê
con La-méc.37 La-méc con Mơ-thu-se-lác. Mơ-thu-se-lác con
Kha-nốc, Kha-nốc con Gie-rét, Gie-rét con Ma-ha-lan-ên, Ma-ha-lan-ên con
Kên-nan.38 Kên-nan con E-nốt, E-nốt con Sết, Sết con A-đam và
A-đam là con Thiên Chúa.