NHƯ TIẾNG CHIM CA
The Song of the Bird của Lm. Anthony de Mello,
S.J.
liên lạc: Đỗ Tân Hưng
đt 604-299-6766; email
tanhungdo@yahoo.ca
THẦN TƯỢNG MANG HÌNH DẠNG CON NGƯỜI
Một truyện cổ tích Ấn Độ.
Ngày kia một thương gia bị đắm tàu và
trôi giạt vào bờ biển Tích Lan nơi mà Vibhishana là
Vua các Quái Vật. Khi thấy người đó, Vibhishana rất
đổi vui mừng liền nói:"A! Đây đúng là hình ảnh thần
Rama của tôi! Đúng là một hình dạng con người giống
thế này!" Thế là ông truyền lệnh lấy áo quần sặc sỡ
mặc cho thương gia và đeo vào người nầy những món
trang sức tuyệt đẹp rồi ông thờ lạy.
Ramakrishna, nhà thần bí Ấn Độ đã thú
nhận điều nầy: "Lần đầu tiên tôi nghe câu chuyện đó,
tôi cảm thấy một nỗi vui mừng khôn tả. Nếu Thượng Đế
có thể được tôn sùng qua một ảnh tượng bằng đất sét,
tại sao Ngài không được tôn sùng qua một con người!"
TÌM KIẾM KHÔNG ĐÚNG CHỖ
Một người lối xóm thấy thầy Nasruddin
quì gối và chống tay, đang tìm kiếm vật gì.
"Thưa thầy, thầy đang kiếm gì đó?"
"Kiếm chìa khóa của tôi."
Cả hai người cùng quì gối để kiếm.
Sau một hồi lâu, người lối xóm hỏi:
"Thầy đã mất chìa khóa ở đâu?"
"Ở trong nhà tôi."
"Chúa ôi! Vậy tại sao thầy lại tìm
kiếm ở đây?"
"Bởi vì ở đây sáng sủa hơn."
Bạn hãy tìm kiếm Chúa nơi mà bạn đã
đánh mất Ngài.
CÂU HỎI
Tu sĩ nói: "Tất cả những núi sông,
quả địa cầu và các tinh tú - mọi thứ đó đều từ đâu
mà đến?”
Minh sư đáp: "Câu hỏi của anh đến từ
đâu?"
Hãy nhìn vào bên trong!
NHỮNG NGƯỜI LÀM NHÃN HIỆU
Cuộc sống chẳng khác gì một chai rượu
nồng.
Ai ai cũng đọc cái nhãn hiệu trên
chai rượu.
Thảng hoặc mới có người nếm thử rượu.
Ngày kia Đức Phật đưa lên một cành
hoa và yêu cầu mỗi một đệ tử nói đôi điều về cành
hoa đó.
Người thì đọc một bài diễn văn. Người
khác làm một bài thơ. Người khác nữa sáng tác một dụ
ngôn. Ai nấy cố gắng tỏ ra mình sâu sắc và thông
thái hơn người khác.
Đúng là những người làm nhãn hiệu!
Riêng Ma-ha-ca-diếp mỉm cười và không
thốt ra lời nào. Chỉ riêng ông ta đã thấy rõ thế nào
là hoa.
Phải chi tôi biết thưởng thức khi
ngắm nhìn một con chim,
một cành hoa,
một tàng cây
một khuôn mặt con người!
Nhưng tiếc thay, tôi không có thời
giờ.
Tôi quá bận rộn học cách đọc các nhãn
hiệu.
CÔNG THỨC
Một nhà thần bí từ rừng sâu trở về.
Người ta hỏi ông: "Xin nói cho chúng
tôi biết Thượng Đế như thế nào?"
Nhưng làm thế nào để vị đó có thể nói
cho họ điều mà ngài đã chứng nghiệm tự trong sâu
thẳm nội tâm?
Thượng Đế có thể gói ghém trong vài
từ ngữ được sao?
Cuối cùng, nhà chiêm niệm đã cho họ
một công thức - vụng về và khiếm khuyết - với hy
vọng rằng vài người trong bọn họ có thể được thôi
thúc để tự họ chứng nghiệm điều đó.
Họ đã vội chớp lấy công thức. Họ đã
biến công thức thành một văn bản linh thánh. Họ đã
áp đặt công thức đó trên người khác như là một tín
lý thần thiêng. Họ đã khó nhọc ra đi phổ biến tài
liệu đó ở nước ngoài. Thậm chí có người đã hy sinh
cả mạng sống mình cho lý tưởng đó.
Nhà thần bí rất đổi đau buồn. Phải
chi ông ta đừng nói với họ điều gì thì hơn.
NHÀ THÁM HIỂM
Nhà thám hiểm trở về, dân chúng nóng
lòng muốn biết miền Amazon. Nhưng làm thế nào để ông
ta có thể diễn đạt những cảm xúc dạt dào trong tim
khi ông nhìn ngắm những hoa thơm cỏ lạ và khi nghe
tiếng thì thầm của núi thẳm rừng sâu ở trong đêm
trường; khi đối diện với hiểm nguy của thú dữ hay
khi phải chèo xuồng qua những thác ghềnh hiểm trở?
Ông đành bảo họ: "Quí vị hãy tự tới
đó mà khám phá đi." Để hướng dẫn họ, ông đã vẻ ra cả
một bản đồ con sông Amazon.
Họ đã nhào vô chụp lấy bản đồ. Họ
đóng khung lại và treo ở tòa Đô Chính. Họ đã chụp
hình nhiều bản cho họ. Và tất cả những ai thủ đắc
một bản thì tự xem như mình là chuyên viên về giòng
sông Amazon, cho dù họ chẳng rõ mỗi chỗ uốn khúc
ngoằn ngoèo của con sông, nơi nào sông rộng bao
nhiêu, sâu bao nhiêu, nơi nào nước chảy xiết, nơi
nào nước tuôn như thác đổ?
Người ta thuật lại rằng Đức Phật đã
thẳng thắn khước từ không để lôi cuốn vào việc luận
bàn về Thượng Đế.
Chắc chắn ngài biết rất rõ những nguy
cơ khi vẻ những bản đồ cho những nhà thám hiểm
xa-lông.
THÁNH TÔMA AQUINÔ NGƯNG VIẾT LÁCH
Truyện kể rằng Thánh Tôma Aquinô, một
trong những thần học gia lỗi lạc của thế giới, đột
nhiên ngưng viết lách. Khi thầy thư ký của ngài than
phiền về việc tác phẩm của ngài còn đang bỏ dở,
thánh Tôma đáp lại: "Thầy Réginald ạ, cách đây mấy
tháng, cha đã cảm nghiệm Đấng Tuyệt Đối, do đó, tất
cả những gì cha đã viết về Thiên Chúa từ trước,
giờ đây đối với cha, xem ra hoàn toàn vô nghĩa.
Làm khác hơn thế nào được, khi học
giả trở thành nhàthị kiến?
Khi nhà thần bí xuống núi, một người
vô thần đến gần và đã hỏi một câu châm biếm như sau:
"Ngài mang xuống cho chúng tôi cái gì từ ngôi vườn
hoan lạc mà ngài đã nấn ná?"
Nhà thần bí trả lời: "Tôi đã có ý
nhét đầy những hoa thơm vào túi áo khoác của tôi để
biếu bạn bè khi trở về. Nhưng khi ở trên đó, tôi đã
bị ngây ngất bởi mùi thơm của ngôi vườn đó cho đến
đổi đã để lại áo khoác của tôi luôn."
Các Thiền Sư diễn tả điều đó ngắn gọn
như sau: "Người biết thì không nói. Người nói thì
không biết."
MỘT TU SĨ KHỔ HẠNH BI CÚ TÁT ĐAU
ĐIẾNG
Một vị tu sĩ khổ hạnh ngồi tham thiền
nhập định bên bờ sông. Một người đi ngang qua thấy
cái ót trắng nõn, cầm lòng không đậu, liền tát
một cái nẩy lửa. Ông ta cảm thấy thích thú biết bao
khi nghe tiếng "bốp" của bàn tay mình vọng lên từ
cái ót vị tu sĩ khổ hạnh. Người nầy cảm thấy đau
điếng nên lập tức đứng dậy để tát trả lại.
Người kia vội nói: "Xin khoan đã. Ông
có thể tát lại tôi, nếu ông muốn. Nhưng trước hết,
xin ông hãy trả lời câu hỏi nầy đã: tiếng bốp phát
ra từ bàn tay tôi hay từ cái ót của ông?"
Vị tu sĩ khổ hạnh đáp: "Ông hãy tự
trả lời lấy đi. Nỗi đau đớn mà tôi đang chịu không
cho phép tôi lý thuyết dông dài. Phần ông, ông có
thể tự làm điều đó, vì ông không cảm thấy đau điếng
như tôi."
MINH TRIẾT TRONG MÔT NỐT NHẠC
Không ai biết ông Kakua đã ra thế
nào, sau khi ông rút lui khỏi triều đình. Và đây là
câu chuyện liên quan đến đời ông.
Kakua là người Nhật Bản đầu tiên học
Thiền ở Trung Hoa. Ông chỉ du hành chút ít thôi vì
ông say mê thiền định.
Khi người ta gặp ông đi ra ngoài và
xin giảng dạy, ông chỉ nói một hai tiếng và rút lui
về bên kia khu rừng để khỏi bị quấy rầy.
Khi ông về lại Nhật Bản, Hoàng Đế
nghe tiếng liền chỉ thị ông dạy thiền cho cả triều
đình. Kakua đối diện nhà vua trong thinh lặng và bất
động. Kế đó, ông lấy ống sáo trong vạc áo ra, thổi
một nốt ngắn ngủi, kính cẩn cúi chào nhà vua và biến
mất.
Đức Khổng Tử nói: "Không giáo hóa một
người đã chín mùi, là bỏ phí con người. Giáo hóa một
người chưa chín mùi, là phí đi lời nói."
THẦY NÓI GÌ?
Minh Sư ghi khắc sự minh triết của
mình trong tâm khảm đệ tử, chứ không phải trên những
trang giấy trắng. Đệ tử có thể cưu mang sự minh
triết đó trong thâm tâm mình ba bốn chục năm, cho
tới khi gặp được một người sẵn sàng đón nhận.
Ngày kia, Thiền Sư Mu-nan sai người
đi kiếm đệ tử là Shoju và bảo rằng: "Giờ đây thầy đã
già, Shoju con hởi, con sẽ lãnh lấy trọng trách
truyền đạt giáo huấn của thầy. Đây là quyển sách đã
truyền tay từ Thiền Sư nầy sang Thiền Sư khác được
bảy đời rồi. Chính thầy cũng có bổ túc đôi điều mà
con sẽ thấy hữu ích. Nè, con hãy giữ lấy quyển sách
nầy với con như chứng tích rằng con là người kế vị
thầy."
Shoju nói: "Xin thầy nên giữ quyển
sách đó cho thầy. Con đã học Thiền với thầy mà không
thông qua chữ viết và con rất sung sướng duy trì
Thiền như thế đấy."
Mu-nan bình tĩnh trả lời: "Thầy biết,
thầy biết. Cho dẫu như thế, quyển sách nầy đã được
sử dụng qua bảy thế hệ và cũng sẽ hữu ích cho con.
Nè, con hãy giữ lấy cho con."
Tình cờ lúc đó hai người đang ngồi
nói chuyện gần lò sưởi. Khi quyển sách vừa tới tay
Shoju, ông liền ném ngay vào lửa. Ông ta không cảm
thấy một chút thích thú gì đối với những văn bản.
Mu-nan là người mà chưa ai thấy nổi
giận trước kia, đã la lớn: "Con điên rồi! Con làm gì
vậy?"
Đến lượt Shoju cũng la lớn: "Chính
thầy mới là khùng là điên! Thầy nói gì vậy?"
CON QUỈ VÀ BẠN NÓ
Ngày kia con quỉ đi dạo chơi với một
người bạn.
Họ thấy trước mặt một người đang dừng
lại, cúi xuống nhặt một vật gì ở trên mặt đường.
Người bạn hỏi: "Người đó đã tìm được
vật gì thế?"
Con quỉ đáp: "Một mảnh vụn Chân Lý."
Người bạn hỏi thêm: "Điều đó không
phiền hà nhà ngươi sao?"
Con quỉ đáp lại: "Không đâu! Tôi sẽ
cho phép người ấy dùng mảnh chân lý kia để tạo thành
một tín ngưỡng."
Mọi tín ngưỡng tôn giáo đều là những
tấm biển nhỏ để chỉ đường đưa đến Chân Lý. Khi người
ta cố bám víu vào tấm biển chỉ đường thì họ đã
cản trở mình trên đường tiến tới Chân Lý, bởi vì họ
có cảm tưởng sai lầm là mình đã nắm được Chân Lý.
NASRUDDIN ĐÃ CHẾT
Ngày kia Nasruddin đang trầm ngâm với
những suy tư triết học, liền nói một mình: "Sống và
Chết, ai có thể nói cho biết đó là gì?”
Bà vợ của ông đang bận việc bếp núc,
nghe thế vội nhìn lên và nói: "Đàn ông các người đều
giống nhau hết - không thực tế chút nào. Ai ai cũng
đều biết khi chân tay giá lạnh và cứng ngắc thì
người đó chết."
Nasruddin rất cảm kích bởi sự
minh triết sâu sắc của bà vợ. Một ngày mùa đông, khi
đang ở ngoài trời tuyết, ông cảm thấy chân tay tê
cứng vì lạnh. Ông tự nghĩ: "Tôi chết rồi, không nghi
ngờ gì nữa." Rồi một ý tưởng khác vụt tới: "Nếu tôi
chết rồi, làm gì mà tôi đi dạo thế này? Tôi phải nằm
xuống mới phải, như bất cứ xác chết thông thường
nào." Và ông đã hoàn toàn làm đúng như vậy.
Một giờ sau, một đám người đi qua
thấy ông nằm bên lề đường, họ bắt đầu bàn ra tán vào
xem thử người này còn sống hay đã chết. Nasruddin
cảm thấy phát khùng muốn la lên: "Đồ điên, không
thấy tay chân tôi lạnh cứng hết sao?" Nhưng ông biết
đừng nên nói thế, vì những xác chết không nói năng
được.
Cuối cùng họ kết luận là ông ta đã
chết và họ vác ông lên vai để mang ra nghĩa địa chôn
cất. Khi đi chưa được một dặm thì họ đến một ngã ba.
Cãi vã lại bắt đầu nổi lên giữa họ để xem đường nào
đưa tới nghĩa địa chôn cất. Nasruddin ráng hết sức
chịu đựng đến khi không thể chịu được nữa, ông ngồi
dậy nói: "Xin lỗi quí vị, con đường đưa tới nghĩa
địa, chính là con đường bên trái quí vị. Tôi biết
xác chết thì không nói, nhưng tôi chỉ vi phạm lần
nầy thôi và tôi cam đoan với quí vị là điều nầy sẽ
không tái diễn nữa."
Khi Thực Tế chạm phải một tín ngưỡng
cố chấp, thông thường Thực Tế sẽ thua cuộc.
NHỮNG HÀI CỐT ĐỂ THỬ THÁCH ĐỨC TIN
Một nhà thông thái Kitô giáo khẳng
định rằng Thánh Kinh phải đúng từng li từng tí. Ngày
kia một khoa học gia đến gần bên ông và nói: "Theo
Thánh Kinh, trái đất đã được tạo dựng cách đây
khoảng năm ngàn năm. Thế mà người ta đã khai quật
những hài cốt chứng tỏ sự sống xuất hiện trên quả
địa cầu chúng ta cả triệu năm rồi."
Nhà thông thái đối đáp bốp chát: "Khi
dựng nên trái đất cách đây năm ngàn năm, Thiên Chúa
đã cố ý chôn giấu những hài cốt đó để thử thách đức
tin chúng ta và xem chúng ta có đặt niềm tin vào Lời
của Chúa hơn là vào chứng cớ hiển nhiên của khoa học
không."
Lại một chứng cớ khác cho thấy tín
ngưỡng cố chấp chỉ bóp méo thực tế mà thôi.
TẠI SAO NGƯỜI LÀNH LẠI CHẾT
Vị thuyết giáo trong làng đến viếng
nhà một giáo hữu già nua. Ông vừa nhấm nháp cà phê
vừa trả lời mấy câu hỏi của bà cụ.
Bà cụ hỏi: "Tại sao Chúa hay gởi tới
những ôn dịch như thế?"
Nhà thuyết giáo trả lời: " Ồ! Đôi khi
người ta trở nên hung dữ đến đổi cần phải tiêu diệt
đi và chính vì thế mà Chúa nhân từ đã cho phép xảy
ra ôn dịch."
Cụ già cải lại: "Nhưng vậy thì tại
sao biết bao người lành cũng bị tiêu diệt cùng với
người dữ?"
Nhà thuyết giáo giải thích: "Những
người lành được triệu tập để làm chứng nhân. Chúa
muốn có một bản án công bằng cho mỗi một linh hồn."
Không có gì mà một người tín hữu có
niềm tin không khoan nhượng không cắt nghĩa cho bằng
được.
MINH SƯ KHÔNG BIẾT
Một người Truy Tầm Chân Lý tiến lại
gần Đệ Tử và kính cẩn hỏi: "Ý nghĩa nhân sinh là
gì?"
Đệ Tử tra cứu những Tác Phẩm của Minh
Sư và trả lời một cách quả quyết: "Nhân sinh không
gì khác hơn là việc biểu lộ ra ngoài sự tràn trề của
Thượng Đế."
Khi người đó gặp Minh Sư và cũng đặt
một câu hỏi như thế thì Minh Sư trả lời: "Tôi không
biết."
Người Truy Tầm Chân Lý nói: "Tôi
không biết.” Đó là sự lương thiện.
Minh Sư nói: "Tôi không biết". Đó là
lương tri của nhà thần bí, theo đó ngài biết mọi
chuyện nhờ vào sự không biết.
Đệ Tử nói: "Tôi biết.” Đó là sự vô
minh trá hình dưới sự hiểu biết vay mượn.
HÃY XEM XÉT ÁNH MẮT NGƯỜI ẤY
Viên Chỉ Huy đám quân chiếm đóng nói
với ông Lý Trưởng miền núi rằng: "Chúng tôi biết ông
đang giấu một tên phản tặc. Trừ khi ông giao nộp nó
cho chúng tôi, chúng tôi sẽ khủng bố dân làng của
ông bằng mọi phương tiện sẵn có trong phạm vi quyền
hạn của chúng tôi."
Thực ra, dân làng đã che giấu một
người hiển nhiên vô tội. Nhưng ông Lý Trưởng làm
được gì bây giờ đây khi mà sự an sinh của dân làng
đang bị đe dọa? Những ngày thảo luận ở Hội Đồng Xã
không đưa đến kết quả nào. Do đó ông Lý Trưởng đã
đem nội vụ ra thảo luận với cha xứ. Cha Xứ và ông Lý
Trưởng đã thức trọn đêm để tra cứu Thánh Kinh và
cuối cùng đã tìm ra một đoạn nói rằng: "Thà một
người chết mà cứu sống cả quốc gia."
Thế là ông Lý Trưởng giao nộp người
vô tội đó mà những tiếng kêu la vang dội khắp làng
vì bị tra tấn cho đến chết.
Hai mươi năm sau, một vị tiên tri đến
làng đó, đã đi tới ngay ông Lý Trưởng mà nói: "Làm
sao các ngươi xử sự như thế được? Người đó được Chúa
sai đến để trở thành vị cứu tinh cho quốc gia. Các
ngươi đã giao nộp người đó để bị tra tấn và bị giết
chết.”
Ong Lý Trưởng phân trần: "Nhưng tôi
đã sai lầm ở chỗ nào? Cha xứ và tôi đã xem xét Thánh
Kinh và đã theo đó mà hành động."
Vị tiên tri nói: "Các ngươi đã sai
lầm ở chỗ đó. Các ngươi đã xem xét Thánh Kinh. Lẽ
ra, các ngươi nên xem xét ánh mắt người đó mới
phải."
HẠT LÚA TỪ CỔ MỘ AI CẬP
Người ta tìm thấy một nắm lúa có từ
năm ngàn năm nay ở trong cổ mộ vua chúa Ai Cập. Có
người đã ươm trồng những hạt lúa đó và trước sự ngạc
nhiên của mọi người, chúng đã lấy lại sức sống.
Ngôn từ của một người giác-ngộ chẳng
khác gì những hạt giống chứa đựng sức sống và tràn
đầy sinh lực. Chúng có thể tồn tại dưới hình thức
những hạt giống trong nhiều thế kỷ, cho tới ngày
được ươm trồng trong một thửa đất màu mỡ của một con
tim sẵn sàng đón nhận.
Tôi cứ ngỡ rằng những lời lẽ trong
Thánh Kinh đều khô khan, không có sức sống. Nhưng
chính con tim của tôi cằn cỗi, không còn sinh khí,
do đó làm thế nào để vật gì có thể bén rễ ở đó được?
HÃY SỬA ĐỔI KINH SÁCH
Có người thưa với Đức Phật: "Bạch Đức
Thế Tôn, những điều ngài dạy dỗ không tìm thấy trong
Kinh Sách."
Đức Phật đáp: "Vậy thì ông hãy thêm
vào đi."
Sau một hồi lúng túng, người đó lại
thưa: "Bạch Đức Thế Tôn, cho phép con gợi ý là có
đôi điều ngài giảng dạy quả thực đi ngược lại với
Kinh Sách."
Đức Phật trả lời: "Vậy thì Kinh Sách
cần được sửa đổi."
Lần kia, tại Liên Hiệp Quốc, có đề
nghị nên duyệt xét lại tất cả mọi Kinh Sách thuộc
mọi tôn giáo trên thế giới: những gì trong Kinh Sách
cổ võ sự bất khoan dung hay sự tàn bao phải được bải
bỏ; những gì làm phương hại đến nhân phẩm phải bị
xóa bỏ.
Khi người ta khám phá ra tác giả của
đề nghị nói trên chính là Chúa Kitô, các ký giả vội
đổ xô về nơi ngài cư trú. Ngài cắt nghĩa một cách
đơn giản như sau: "Kinh Sách, cũng như ngày Sabbat,
là để phục vụ con người, chứ không phải con người để
phục vụ Kinh Sách."
VỢ NGƯỜI MÙ
Một người gả cô con gái xấu xí cho
một người mù, vì ngoài ra không ai ưng cô ta hết.
Khi một vị bác sĩ chịu chữa trị người
mù cho sáng mắt thì cha cô gái không chấp thuận, vì
sợ người đàn ông đó sẽ ly dị con gái mình.
Sa'di bình luận câu chuyện đó như
sau: "Người chồng của một bà vợ xấu xí nên mù mắt
mãi mãi thì tốt hơn hết."
Và một người bảo thủ u mê.
NHỮNG NHÀ CHUYÊN NGHIỆP
Đời sống tâm linh của tôi bị các nhà
chuyên nghiệp tiếp quản. Muốn học cách cầu nguyện,
tôi phải nhờ đến một vị Giám Đốc Linh Hướng; muốn
tìm xem Thánh Ý Chúa, tôi thỉnh ý một vị Chuyên Môn
để giúp tôi nhận thức rõ ràng; muốn hiểu biết Thánh
Kinh, tội thỉnh ý một Học Giả Kinh Thánh; muốn biết
mình co phạm tội hay không, tôi cần tới một
Thần Học Gia về Luân Lý; và muốn được tha tội, tôi
quì gối gối trước Linh Mục.
Có một ông tù trưởng ở trên các hòn
đảo vùng Nam Hải thiết tiệc khoản đãi một vị thượng
khách đến từ Tây Phương.
Tới lúc đọc diễn văn ca ngợi vị
thượng khách, ông tù trưởng ngồi bệt giữa sàn nhà
trong khi một diễn giả chuyên nghiệp được thuê mướn
đặc biệt cho dịp đó, đã thao thao bất tuyệt.
Khi bài diễn văn tán tụng vừa dứt, vị
thượng khách đứng lên định ngỏ đôi lời. Ông tù
trưởng đã ân cần giữ lại và nói: "Xin đừng, xin
đừng, tôi đã mướn một diễn giả cho ngài rồi. Ở trên
đảo chúng tôi, việc ngỏ lời trước công chúng không
thể để cho những người tài tử được."
Tôi tự hỏi, trong tương quan giữa
mình với Chúa, Ngài có ưa chuộng việc chúng ta trở
nên những người tài tử hơn không?
CÁC CHUYÊN GIA
Một câu chuyện của xu-phi:
Một người chết, đột nhiên sống lại và
bắt đầu đập thình thình vào nắp quan tài.
Họ mở quan tài ra, người đó ngồi dậy
và hỏi những người tụ tập chung quanh: "Các bạn đang
làm gì thế? Tôi không chết mà!"
Mọi người im lặng, không tin những
lời anh ta nói. Cuối cùng, một người đi đưa đám ma
thốt lên: "Bạn ơi, các bác sĩ va các linh mục đã
chứng nhận bạn chết. Vậy thì bạn đã chết rồi.
Và anh ta đã được chôn cất theo đúng
thủ tuc.
TÔ CHÁO CỦA CHÁO VỊT
Ngày kia một người bà con đến thăm
Nasruddin, mang cho ông một con vịt. Nasruddin đem
con vịt nấu cháo ăn.
Rồi thì một đoàn khách khứa bắt đầu
kêu ới ới, ai ai cũng tự xưng là bạn bè của người
bạn của "người đã mang con vịt tới". Dĩ nhiên ai nấy
đều muốn được ăn uống và trú ngụ, nhờ con vịt đáng
thương đó.
Vị mu-la đã can trường chịu đựng cho
tới ngày mà một người khách lạ xuất hiện và tự xưng:
“Tôi là một người bạn của người bạn của người bà con
đã mang con vịt đến biếu." Và rồi cũng như những
người khác, ông ta ngồi xuống và chờ đợi được ăn.
Nasruddin mang tới một tô nước sôi
đặt trước mặt người đó. Người khách lạ hỏi: "Cái gì
đây?"
Vị mu-la đáp: "Đó là tô cháo của cháo
vịt mà bạn ông đã mang đến."
Đôi khi người ta nghe nói có nhiều
người đã trở nên đệ tử của đệ tử của một người từng
có kinh nghiệm về Chúa
Có thể nào bạn chuyển một nụ hôn qua
một người trung gian được không?
CON QUÁI VẬT Ở DƯỚI SÔNG
Cha sở đang đọc kinh, bị chia trí bởi
đám trẻ con. Để xua đuổi chúng, cha nói: "Các con
hãy mau chạy ra sông và sẽ thấy một con quái vật
phun lửa ra lỗ mũi."
Chẳng mấy chốc cả làng đều nghe nói
tới con quái vật đó xuất hiện và đã đổ xô ra sông.
Cha xứ cũng chạy theo đám đông. Khi cha thở hổn hển
chạy ráo riết bốn dặm dài, cha tự nhủ: "Đúng là mình
đã bịa ra chuyện đó. Nhung biết đâu chừng!”
Cách hay nhất để tin tưởng vào những
thần linh mà mình đã tạo ra là thuyết phục được kẻ
khác tin rằng những thần linh ấy hiện hữu.
MŨI TÊN TẨM ĐỘC
Ngày kia một vị tì kheo thưa với Đức
Phật như sau: "Bạch Đức Thế Tôn, hồn người công
chính có tồn tại sau khi chết không?"
Như thường lệ, Đức Phật không trả
lời.
Nhưng vị tì kheo đó cứ khăng khăng
một mực. Ngày nào ông ta cũng chỉ hỏi mỗi một câu đó
và ngày nào cũng vậy, Đức Thế Tôn chỉ đáp trả bằng
sự im lặng cho tới khi không thể chịu đựng
được nữa, vị tì kheo đã hăm dọa rời bỏ tu viện nếu
câu hỏi có tính cách sinh tử đó không được trả lời
thỏa đáng bởi vì ích lợi gì mà sống một cuôc đời
buông bỏ nếu linh hồn người công chính tiêu tan với
thể xác?
Bấy giờ, động lòng trắc ẩn, Đức Phật
mở miệng phán dạy: "Nhà ngươi chẳng khác gì một
người đang chờ chết vì bị trúng một mũi tên
tẩm độc. Bà con vội vàng mời lương y lại nhưng hắn
ta từ chối không cho rút mũi tên ra bao lâu người ta
chưa trả lời ba câu hỏi sinh tử sau đây: Trước hết
người bắn hắn ta là da trắng hay da đen? Thứ đến,
người đó cao lớn hay thấp lùn? Sau cùng, hắn ta
thuộc hạng Bà la môn hay loại cùng đinh?"
Vị tì kheo đã quyết định tiếp tục ở
lại.
EM BÉ NÍN KHÓC
Hắn tuyên bố rằng hắn đã trở nên một
người vô thần, vì mục tiêu hoàn toàn thiết thực.
Thực tình mà nói, hắn không thể tin vào những điều
mà tôn giáo của hắn đã dạy dỗ. Sự hiện hữu của
Thượng Đế tạo ra nhiều vấn nạn hơn là giải quyết;
cuộc sống sau khi chết chỉ là một chút khát vọng của
tư duy mà thôi; Thánh Kinh và Thánh Truyền gây ra
nhiều điều tai hại cũng như hữu ích. Tất cả những
thứ đó đều do con người sáng chế nhằm xoa dịu nỗi cô
đơn và tuyệt vọng của nhân sinh.
Tốt hơn hết là để hắn yên. Hắn đang
trải qua một giai đoạn trưởng thành và khám phá.
Ngày kia một đệ tử hỏi Minh Sư: "Đức
Phật là gì?"
Ngài trả lời: "Đức Phật là thần
linh.”
Ngày khác, cũng câu hỏi đó được đặt
ra, Minh Sư trả lời: "Không có thần linh. Không có
Đức Phật."
Đệ tử đâm ra bối rối: "Nhưng hôm nọ
thầy đã nói: Đức Phật là thần linh."
Minh Sư đáp lại: "Đấy là để cho em bé
nín khóc. Khi em bé hết khóc, thầy nói: "Không có
thần linh. Không có Đức Phật."
Em bé ở trong hắn ta đã nín khóc và
sẵn sàng đón nhận chân lý. Vậy tốt hơn hết là để em
bé đó yên.
. . . . .
. .
Nhưng khi hắn ta bắt đầu rao giảng
thuyết vô thần mới được khám phá cho những người
chưa chuẩn bị đủ, hắn ta nên kiềm chế lại: "Có một
thời mà con người đã thờ mặt trời: đó là thời kỳ
tiền khoa học. Rồi đến thời kỳ khoa học khi người ta
nhận thấy rằng mặt trời không phải là một thần linh;
đó cũng không phải là một sinh vật. Cuối cùng đến
thời kỳ thần bí mà Thánh Phanxicô ở thành Assise đã
có thể gọi mặt trời là Anh và đã ngỏ lời với mặt
trời một cách cung kính thương yêu.”
"Đức tin của bạn trước đây là đức tin
của một trẻ nít sợ sệt. Giờ đây bạn đã trở thành một
con người không còn kinh sợ nữa, bạn không cần đến
đức tin đó nữa. Hy vọng bạn sẽ tiến đến giai đoạn
thần bí và một ngày nào đó bạn tìm lại được đức tin
của bạn."
. . . . .
. . .
Đức tin là cuộc truy tầm chân lý một
cách can đảm.
Do đó niềm tin của mình không bị đánh
mất khi người ta đặt thành nghi vấn.
QUẢ TRỨNG
Nasruddin sinh sống bằng nghề bán
trứng. Ngày kia có người đến tiệm ông và nói: "Ông
hãy đoán cái gì ở trong tay tôi đây!"
Nasruddin trả lời: "Hãy cho tôi một
dấu chỉ."
“Tôi sẽ cho bạn nhiều dấu chỉ: cái đó
có hình dạng của một quả trứng, kích thước của một
quả trứng. Cái đó giống một quả trứng, ăn như trứng
và thơm mùi trứng. Ở bên trong thì màu vàng và màu
trắng. Trước khi luộc thì lỏng bỏng, nhưng khi luộc
chín thì trở nên cứng. Ngoài ra, cái đó do con gà
mái đẻ ra..."
Nasruddin đáp: "A! Tôi biết rồi! Là
một loại bánh ngọt nào đó!”
Chuyên viên không nhận thấy sự thật
hiển nhiên
Vị Thượng Tế không nhận thấy Đấng Cứu
Thế!
KÊU GÀO ĐỂ GIỮ VỮNG SỰ AN TOÀN - VÀ
NIỀM XÁC TÍN
Một vị tiên tri đến cải giáo dân
chúng ở trong thành phố. Ban đầu người ta còn nghe
ông giảng, nhưng chẳng máy chốc họ dang ra xa cho
đến khi không còn một ai nghe vị tiên tri thuyết
giảng nữa.
Ngày kia, một khách qua đường nói với
vị tiên tri đó: "Tại sao ngài cứ tiếp tục rao giảng
như thế?"
Vị tiên tri trả lời: "Ban đầu tôi hy
vọng biến đổi người ta. Nếu nay tôi còn cố kêu gào
là để ngăn cản họ biến đổi tôi."
BÁN NƯỚC SÔNG
Bài thuyết giảng của Minh Sư chỉ thu
gọn lại trong một câu đầy bí ẩn.
Ngài nói với một giọng cười gượng
gạo: "Tất cả những gì thầy đang làm là ngồi bên bờ
sông để bán nước sông."
Tôi đã quá bận rộn mua nước sông cho
đến nỗi không để ý thấy giòng sông.
ẢNH VẢY
Một bà mẹ không thể làm cho đứa con
trai về nhà trước khi mặt trời lặn. Vì vậy bà nói
với nó là đường về nhà thường có ma xuất hiện sau
khi trời tối.
Cùng lúc đứa bé lớn lên, nó đã sợ ma
cho đến độ không chịu làm việc lặt vặt bên ngoài khi
trời tối. Thế là bà mẹ cho nó một ảnh vảy để đeo và
dạy rằng ảnh đó sẽ bảo vệ nó.
Tôn giáo xấu củng cố đức tin bằng ảnh
vảy.
Tôn giáo tốt làm cho người ta thấy
rằng không có ma quỉ.
NASRUDDIN Ở TRUNG QUỐC
Mu-la Nasruddin sang Trung Hoa. Ở đó
ông thâu nhận một nhóm đệ tử để tu luyện họ
trở nên giác ngộ. Khi giác ngộ rồi, họ không theo
học nữa!
Gu-ru của bạn không đáng được tin
cậy, khi bạn ngồi bên chân ngài suốt đời.
CON MÈO CỦA VỊ GU-RU
Cứ mỗi lần vị gu-ru ngồi hành lễ cùng
với đệ tử, con mèo trong thiền viện thường đến làm
cho mọi người chia trí nên ngài bảo họ cột con mèo
lại khi thiền viện đang cầu kinh.
Sau khi vị gu-ru qua đời, người ta
vẫn tiếp tục cột con mèo trong giờ lễ bái. Và khi
con mèo đó chết, người ta mang một con mèo khác vào
thiền viện để chắc chắn rằng những chỉ thị của vị
gu-ru trong giờ cầu kinh được tuân thủ không
chút sai chậy.
Nhiều thế kỷ đã qua và nhiều luận
thuyết cao siêu đã được các đệ tử thông thái của vị
gu-ru viết ra, đề cập đến ý nghĩa phụng vụ của việc
cột trói con mèo trong giờ hành lễ.
LỄ PHỤC
Tháng mười năm 1917: Cách Mạng Nga Sô
bùng nổ. Lịch sử đang chuyển sang một giai đoạn mới.
Người ta kể lại rằng Giáo Hội Chính
Thống Nga Sô đang họp Công Đồng đúng vào tháng đó.
Một cuộc bàn cải hăng say về màu sắc của một loại lễ
phục. Người muốn màu trắng. Người khác muốn
màu đỏ thẩm.
Đối đầu với một cuộc cách mạng thật
vô cùng phiền phức hơn là tổ chức một buổi Phụng Vụ.
Tôi thà đọc kinh hơn là liên lụy vào những chuyện
cãi vã của lối xóm.
BỒ CÔNG ANH
Một người kia rất tự hào về vườn cỏ
của mình, lại gặp phải một đám bồ công anh. Ông đã
tìm đủ mọi cách để tiêu diệt. Đám hoa đó vẫn quấy
rầy ông.
Cuối cùng ông đành viết thư cho Bộ
Nông Nghiệp. Ong kể ra mọi phương pháp đã thử qua và
cuối thư, ông đặt câu hỏi: "Tôi phải làm gì bây giờ
đây?”
Theo đúng thời hạn, ông nhận được thư
trả lời như sau: "Chúng tôi xin gợi ý với ông
là hãy tập yêu thương những bông hoa đó."
Tôi tự hào về vườn cỏ của tôi nhưng
tôi cũng bị quấy rầy bởi đám bồ công anh mà tôi đang
giao đấu bằng mọi phương tiện sẵn có. Vì vậy học
cách yêu thương đám hoa đó không phải là một việc
dễ. Khởi đầu tôi trò chuyện với chúng mỗi ngày. Thật
chân tình. Thật thân thiện. Chúng giữ một sự im lặng
nặng nề. Chúng chịu đựng những hậu quả do trận chiến
mà tôi gây ra – và nghi hoặc những động cơ thúc đẩy
của tôi.
Nhưng đã đến ngày mà chúng mỉm cười.
Chúng trở nên thư giản. Và chúng tôi bắt đầu trở nên
bạn thân.
Dĩ nhiên, mảnh vườn tôi phải tả tơi.
Nhưng giờ đây mảnh vườn đó hấp dẫn làm sao!
. . . . .
. .
Có người bị đôi mắt mờ dần. Ông ta đã
chống trả bằng mọi phương thế sẵn có ở trong tầm
tay. Khi thuốc thang vô hiệu, ông đã chống trả bằng
mọi cảm xúc. Phải can đảm lắm mới nói được: "Tôi
khuyên bạn nên tập yêu thương chứng mù lòa của bạn."
Ban đầu ông ta tỏ ra phẩn uất. Và
cuối cùng khi ông phải đối thoại với chứng mù lòa
của mình thì lời lẽ của ông trở nên hằn học
đắng cay. Tuy nhiên, ông cứ tiếp tục nói cho tới khi
sự đắng cay trở thành ẩn nhẩn, bao dung, chấp nhận
và rồi một ngày kia, ông rất ngạc nhiên thấy nó trở
nên thân thiện… và cảm mến. Rồi đến một ngày khi ông
có thể ôm choàng lấy chứng mù lòa của mình và nói:
"Tôi yêu bạn". Đó chính là ngày mà tôi thấy ổng nở
nụ cười trở lại.
Dĩ nhiên thị giác của ông đã bị hư
hỏng suốt đời. Nhưng gương mặt của ông hấp dẫn làm
sao!
BẠN ĐỪNG THAY ĐỔI
Tôi bị căng thẳng thần kinh trong
nhiều năm. Tôi lo lắng, xuống tinh thần và trở nên
ích kỷ. Mọi người đều lặp đi lặp lại rằng tôi phải
thay đổi.
Và tôi đã oán hận họ, nhưng rồi cũng
đồng ý với họ và mong muốn mình phải thay đổi nhưng
đành chịu thôi, cho dù cố gắng cách mấy.
Điều đau đớn nhất là, cũng như bao
nhiêu người khác, những bạn bè thân thiết nhất cứ
thúc giục tôi thay đổi. Do đó, tôi cảm thấy cùng
đường, không lối thoát.
Ngày kia, anh ấy bảo tôi: "Bạn đừng
thay đổi làm chi. Tôi vẫn yêu thương bạn như bạn
hiện có."
Những lời nói đó vang vọng vào tai
tôi như một điệu nhạc êm đềm: "Bạn đừng thay đổi.
Đừng thay đổi. Đừng thay đổi...Tôi vẫn yêu thương
bạn như bạn hiện có."
Tôi cảm thấy thanh thản. Tôi đã
lấy lại sức sống. Và rồi lạ lùng thay, tôi đã thay
đổi!
Bây giờ đây tôi rõ biết tôi không thể
thực sự thay đổi được cho tới khi tôi gặp được người
nào đó thương yêu tôi cho dù tôi có thay đổi hay
không.
Chúa thương yêu con cách thế đó phải
không Chúa?
BẠN TÔI
Malik, con của Dinar, vô cùng bực dọc
vì thái độ trác táng của một chàng thanh niên sống
cạnh nhà ông. Trong một thời gia lâu dài, ông không
làm gì hết, hy vọng có người nào đó sẽ can thiệp.
Nhưng khi hạnh kiểm của chàng thanh niên đó trở nên
quá quắc lắm, Malik đã tới gặp hắn ta và yêu cầu hắn
thay đổi thái độ.
Chàng thanh niên đó điềm tĩnh cho
biết hắn ta được Đức Vua che chở, do đó không ai
ngăn cấm hắn ta sống theo ý thích của mình.
Malik bảo nhỏ hắn: "Đích thân tôi sẽ
tấu trình Đức Vua."
Chàng trai trẻ trả lời: "Chỉ mất thời
giờ thôi vì Đức Vua chẳng bao giờ thay đổi ý kiến
của ngài."
Malik nói: "Vậy thì tôi sẽ đi tố cáo
anh với Đức Allah."
Chàng thanh niên đáp: "Đức Allah quá
nhân từ nên Ngài không kết án tôi."
Malik ra về, đành bó tay. Nhưng khi
tiếng xấu của chàng thanh niên đó đã lan tràn cho
đến đổi mọi người đều phản đối hắn ta, Malik cảm
thấy mình có bổn phận phải đến quở trách hắn. Khi
đang trên đường đi đến nhà người thanh niên, ông ta
nghe một Tiếng Nói nho nhỏ vào tai: "Đừng đụng tới
bạn ta. Nó được ta che chở."
Malik cảm thấy vô cùng bối rối và khi
đứng trước mặt chàng thanh niên, ông chẳng biết nói
năng làm sao.
Chàng thanh niên cất tiếng bảo: "Bây
giờ anh đến để làm gì đây?"
Malik trả lời: "Tôi đến để quở trách
anh, nhưng khi đi dọc đường để tới đây, một Tiếng
Nói đã chỉ thị cho tôi để anh yên, đừng đụng tới,
bởi vì anh được Ngài che chở."
Tên trác táng sửng sốt hỏi: " Ngài đã
nói tôi là bạn của Ngài ư?" Nhưng lúc đó Malik đã
rời khỏi nhà hắn ta. Nhiều năm sau, Malik gặp lại
người đó ở thành thánh Mecca. Hắn ta đã bị đánh động
bởi Tiếng Nói đó cho đến đổi đã bỏ hết mọi của cải
và trở nên một người hành khất lang thang. Hắn nói
với Malik: "Tôi đến đây để tìm kiếm Bạn tôi", rồi
hắn ngã lăn ra chết.
Thiên Chúa, bạn của người tội lỗi?
Một sự quả quyết xác thực nhưng cũng nguy hiểm. Ngày
kia, tôi đã cố áp dụng câu nói đó vào con người của
tôi và tự nhủ: "Thiên Chúa quá nhân từ độ lượng nên
Ngài không thể trách cứ tôi." Và phút chốc, lần đầu
tiên trong đời, tôi đã hiểu được Tin Mừng.
NGƯỜI TÂN TÒNG Ả RẬP
Vị Minh Sư Ả Rập Jalal-ud-din Rumi
thích kể câu chuyện sau đây:
Ngày kia, Tiên Tri Mahomet chủ tọa
một buổi cầu kinh ban sáng tại đền thờ Hồi giáo. Ở
giữa đám đông cầu nguyện cùng với vị Tiên Tri, có
một người Ả Rập tân tòng.
Ngài Mahomet bắt đầu đọc kinh Coran,
có câu trong đó vua Pharaon quả quyết: "Ta là Thiên
Chúa đích thật của ngươi." Khi nghe những lời đó,
người tân tòng chân thật nổi giận đùng đùng, la lớn:
"Đồ chó đẻ khoác lác!"
Nhà Tiên Tri không nói năng gì, nhưng
khi buổi cầu kinh chấm dứt, những người khác bắt đầu
mắng nhiếc người Ả Rập: "Mầy không cảm thấy xấu hổ
sao? Chắc chắn lời cầu nguyện của mầy làm phật lòng
Chúa, bởi vì không những mầy phá tan sự thinh lặng
thánh thiện mà còn dùng những lời nói thô lỗ trước
mặt vị Tiên Tri của Chúa."
Người Ả Rập đáng thương kia chỉ biết
run sợ cho tới khi thiên thần Gabriel hiện ra với
Đấng Tiên Tri và nói: "Chúa gởi đến cho ngươi những
lời chào hỏi và mong ước ngươi ngăn chặn các người
nầy mắng mỏ người Ả Rập chất phác đó. Thật ra, những
lời chưởi thề thành thật của hắn đã thấu tới tim Ta
hơn là những lời cầu khẩn thánh thiện của những kẻ
khác."
CHÚNG CON BA ĐỨA, CÒN CHÚA BA NGÔI
Khi con tàu dừng lại một ngày tại một
hòn đảo xa xôi, vị giám mục quyết định tận dụng tối
đa ngày hôm đó. Ngài tản bộ dọc theo bờ biển và đi
ngang qua ba ngư phủ đang vá lưới. Bằng tiếng Anh
“bồi”, họ cho vị giám mục biết là nhiều thế kỷ trước
đây, họ đã được các vị thừa sai Phúc Âm hóa. Họ hãnh
diện chỉ vào nhau và nói : "Chúng con là Kitô hữu!"
Vị giám mục rất xúc động. Không biết
họ có biết lời kinh Chúa dạy không? Họ chưa bao giờ
nghe ai nói đến. Vị giám mục sửng sốt.
"Vậy thì các con đã đọc kinh gì khi
cầu nguyện?"
"Chúng con ngước mắt lên Trời. Chúng
con cầu nguyện như sau: "Chúng con ba đứa, còn Chúa
Ba Ngôi, xin thương xót chúng con.”
Vị giám mục kinh hãi khi nghe câu
kinh có tính cách sơ khai và lạc giáo rõ rệt.
Vì vậy, suốt ngày hôm đó, ngài bỏ
công dạy cho họ kinh Lạy Cha. Các ngư phủ là những
người kém học thức, nhưng họ đã cố hết sức để học.
Ngày hôm sau, trước khi lên tàu, vị giám mục cảm
thấy hài lòng khi nghe họ đọc cả kinh, không sai sót
một chữ.
Vài tháng sau, chiếc tàu của vị giám
mục lại chạy qua vùng đảo đó và khi ngài đang
đi lui đi tới trên boong tàu để đọc kinh chiều, vị
giám mục sung sướng nhớ lại ở trên hòn đảo đàng kia,
ba ngư phủ hiện nay có thể đọc kinh đúng, nhờ những
cố gắng khó nhọc của mình.
Bổng chốc, ngài nhận ra một chấm sáng
ở hướng đông. Chấm sáng càng lúc càng tiến lại gần
con tàu và vị giám mục kinh ngạc nhìn thấy ba hình
người bước đi trên mặt nước về hướng con tàu. Thuyền
trưởng dừng tàu lại và ai nấy đứng dựa vào thành tàu
để chiêm ngắm cảnh tượng đó.
Dĩ nhiên đó là những ngư phủ của vị
giám mục. Họ la lớn: "Thưa Đức Cha, chúng con nghe
nói tàu Đức Cha qua đây nên chúng con mau mau tới
gặp Đức Cha."
Vị giám mục sửng sốt hỏi: "Các con
muốn gì?"
Họ nói: "Thưa Đức Cha, chúng con rất
lấy làm tiếc. Chúng con đã quên kinh hay đó. Chúng
con đọc như sau: Lạy Cha chúng con ở trên Trời, danh
Cha cả sáng, nước Cha trị đến... Phần tiếp theo,
chúng con quên mất. Xin Đức Cha đọc hết kinh cho
chúng con lần nữa."
Vị giám mục cảm thấy xấu hổ, trả lời
họ: “Thôi các con hãy trở về và mỗi khi cầu nguyện,
các con nên đọc: "Chúng con ba đứa, còn Chúa Ba
Ngôi, xin thương xót chúng con!”
LỜI CẦU XIN CÓ THỂ NGUY HIỂM
Đây là một trong những câu chuyện mà
xu-phi Sa'di ở Shiraz ưa thích nhất.
Một ông bạn tôi rất sung sướng khi
biết vợ mang bầu. Ông hết lòng mong muốn có được một
đứa con trai. Và ông đã khấn nguyện điều đó với Chúa
ở trong lòng.
Vợ ông đã cho ra đời một đứa bé trai.
Bạn tôi vui sướng mời cả làng tới ăn mừng.
Nhiều năm sau, khi đi hành hương
Mecca trở về, tôi đi ngang qua làng của bạn tôi và
người ta cho tôi biết là bạn tôi đã ở tù.
Tôi hỏi: "Điều gì đã xảy ra?”
"Con trai của ông say rượu, đã giết
chết một người và bỏ trốn. Do đó, người ta đã ném
người cha vào ngục.”
Cầu xin Chúa một cách dai dẳng những
gì mình muốn là một điều đáng khen - và cũng nguy
hiểm đấy.
NARADA
Nhà hiền triết Ấn Độ là Narada đi
hành hương đền Thần Vishnu. Một đêm kia, ông được
đón tiếp trong một chòi tranh của một cặp vợ chồng
son sẻ. Trước khi ông tiếp tục lên đường, người
chồng nói: "Ngài đang đi thờ phượng Thần Vishnu.
Ngài hãy xin Thần cho tôi một mụn con."
Narada đã cầu xin với Thần Vishnu như
sau: " Xin Ngài thương xót người chồng đó và ban cho
ông ta một đứa con."
Thần trả lời, với một giọng chắc
nịch: "Định mệnh đã an bài cho người đó không có con
được."
Thế nên Narada hành lễ rồi trở về
nhà.
Năm năm sau, ông ta đi hành hương trở
lại, và cũng được đôi vợ chồng đó đón tiếp cho
trú ngụ lần nữa. Lần nầy, có hai đứa trẻ nhỏ đang
chơi đùa ở trước chòi tranh.
Narada hỏi: "Con ai vậy?"
Người chồng trả lời: "Con tôi đấy."
Narada không hiểu ất giáp gì cả.
Người chồng nói tiếp: "Sau khi ngài rời khỏi chúng
tôi, cách đây năm năm, một vị thánh hành khất đã đến
ngôi làng chúng tôi. Chúng tôi đã cho trọ một đêm và
ngày hôm sau, trước khi ra đi, ông đã chúc phúc cho
vợ tôi và tôi...và đó là kết quả của sự chúc phúc
của vị ấy."
Khi Narada đến đền thờ ngày hôm sau,
ông đã la lớn ngay từ ngoài cổng: "Phải chăng Ngài
đã không bảo tôi là định mệnh đã an bài cho người đó
không có con sao? Nay hắn ta có hai mụn con!"
Khi Thần nghe câu nói đó đã cười lớn
tiếng và nói: "Điều đó chắc chắn phải là việc làm
của một vị thánh. Các thánh có năng lực cải đổi số
mệnh."
Hẳn người ta còn nhớ tại một tiệc
cưới kia, Mẹ Chúa Giêsu đã được Ngài làm một phép lạ
trước khi định mệnh cho phép.
ĐINH MỆNH TRONG ĐỒNG TIỀN SẤP HAY
NGỬA
Đại tướng Nhật Bản là Nabunaga quyết
định tấn công, cho dù ông chỉ có "một chọi mười" đối
với địch quân. Ông chắc chắn sẽ thắng, nhưng binh sĩ
của ông rất lo sợ.
Trên đường đi đến chiến trường, họ đã
dừng lại ở một đền thờ Thần Giáo. Sau khi đã cầu
nguyện trong đền thờ, Nabunaga đi ra và nói: "Bây
giờ, tôi tung một đồng tiền lên: nếu "ngửa", chúng
ta thắng; nếu "sấp", chúng ta thua. Giờ đây, định
mệnh sẽ được tỏ bày.”
Ông tung đồng tiền lên: "ngửa". Các
binh sĩ nức lòng chiến đấu nên họ đã quét sạch địch
quân.
Ngày hôm sau, một sĩ quan phụ tá nói
với Nabunaga: "Không ai có thể cải đổi Số Mệnh
được.”
Nabunaga trả lời "đúng thế”, rồi đưa
cho xem đồng tiền mà cả hai mặt đều "ngửa".
Ai tạo ra Định Mệnh?
LẠY TRỜI MƯA XUỐNG
Khi người bị loạn thần kinh xin người
khác giúp đỡ, ít khi họ muốn được chữa lành, bởi vì
chữa lành bệnh là một việc đau đớn. Thật ra, điều họ
mong muốn là làm cho chứng bệnh thần kinh của họ
được dễ chịu mà thôi. Thường khi họ chỉ khao khát
một phép lạ – một thứ trị liệu không đau đớn.
Một ông già kia rất thích ngậm ống
điếu sau bữa cơm chiều. Một tối nọ, vợ ông ngửi thấy
mùi khét vội la lên: "Trời ơi! Nầy ông! Ông đã làm
cháy bộ râu ông rồi."
Ông già giận dữ la lại: "Tôi biết mà.
Vậy bà không thấy tôi đang cầu xin trời mưa xuống
hay sao?"
CON CHỒN TÀN TẬT
Một chuyện ngụ ngôn của nhà thần bí Ả
Rập Sa'di.
Một người đi dạo trong rừng, thấy một
con chồn cụt mất bốn chân và tự hỏi làm sao nó có
thể sống được. Rồi thì ông ta thấy xuất hiện một con
cọp, miệng đang ngậm mồi. Con cọp đã ăn no nê và để
lại chút thịt dư thừa cho con chồn.
Ngày hôm sau, Chúa cũng gởi con cọp
đến nuôi sống con chồn như thế. Người đó bắt đầu
kinh ngạc đối với lòng nhân từ bao la của Chúa và tự
nghĩ: "Tôi cũng vậy, tôi nên nằm trong một góc xó mà
phó thác hoàn toàn cho Chúa để Ngài lo liệu mọi thứ
cần thiết cho tôi."
Ông đã làm như thế trong vòng một
tháng và ông đã rơi vào tình trạng dở sống dở chết
khi ông nghe một Tiếng Nói: "Hỡi con, con đang đi
trên con đường lầm lạc, con hãy mở mắt ra để nhìn
xem Sự Thật! Con hãy noi gương con cọp và đừng bắt
chước con chồn."
Tôi thấy ở ngoài đường một em bé trần
truồng, đói khát và rét run. Tôi phẫn uất và thưa
với Chúa: "Tại sao Chúa đã để cho sự việc đó xảy ra?
Tại sao Chúa không làm gì hết?"
Chúa đã không trả lời. Đêm đó bất ngờ
Chúa nói: "Dĩ nhiên Cha có làm. Cha đã tạo dựng nên
con đấy.”
THƯỢNG ĐẾ LÀ LƯƠNG THỰC
Ngày kia Thượng Đế quyết định thăm
viếng trái đất. Do đó Ngài đã sai một thiên thần đi
dò thám trước khi đích thân Ngài xuống thăm viếng.
Thiên thần trở lên và làm tờ trình
như sau: "Phần đông loài người thiếu ăn và nhiều
người không có việc làm."
Thượng Đế phán: "Vậy chính Ta đích
thân làm của ăn cho những ai đói khát và trở nên
việc làm cho những ai thất nghiệp."
NĂM TU SĨ
Vị La-ma ở phương Nam thỉnh cầu vị
Đại La-ma ở phương Bắc phái một tu sĩ khôn ngoan và
thánh thiện để huấn luyện tập sinh. Trước sự ngạc
nhiên của mọi người, vị Đại La-ma đã phái đi năm tu
sĩ thay vì một. Đối với những người muốn biết tại
sao, ngài đã nói một cách khó hiểu: "Nếu chỉ có một
tu sĩ đến được với vị La-ma ở phương Nam thì là may
mắn lắm rồi."
Năm tu sĩ lên đường được vài ngày,
một sứ giả chạy theo và nói: "Vị sư trụ trì làng xã
chúng tôi vừa viên tịch. Chúng tôi cần người thay
thế."
Làng đó ở vào một nơi cảnh trí ngoạn
mục và bổng lộc vị sư trụ trì lại hậu. Một trong các
tu sĩ cảm thấy ưu tư đối với vấn đề mục vụ cho dân
làng nên nói: "Tôi sẽ không phải là một Phật tử, nếu
tôi không phục vụ những người nầy."
Vì vậy, thầy đã tách ra khỏi đoàn.
Vài ngày sau, họ tạm trú trong lâu
đài của một vì vua có lòng hâm mộ một trong các tu
sĩ nên ngài đã phán: "Khanh hãy ở lại đây với trẩm
và làm phò mã. Khi trẩm băng hà, khanh sẽ nối ngôi."
Tu sĩ đó đã bị hấp dẫn bởi vẻ hào nhoáng của ngai
vàng nên nói: "Có cách nào tốt hơn để ảnh hưởng dân
nước nầy cho bằng lên ngôi hoàng đế? Tôi sẽ không
phải là một Phật tử, nếu tôi không nhân cơ hội nầy
để hoằng dương đạo pháp."
Thầy cũng tách ra khỏi đoàn.
Một đêm kia, ở trong một vùng đồi
núi, họ tới một chòi tranh lẻ loi mà chỉ có mỗi một
cô gái trẻ đẹp tiếp đón họ và cảm ơn Trời Phật đã
cho họ có mặt. Cha mẹ của cô vừa bị bọn cướp ở trên
xuống giết chết, còn lại một mình cô sống trong phập
phồng lo sợ.
Ngày hôm sau, khi đến giờ chia tay,
một tu sĩ tuyên bố: "Tôi sẽ ở lại nơi đây. Tôi sẽ
không phải là một Phật tử, nếu tôi không có lòng
trắc ẩn đối với cô gái nầy."
Hai vị tu sĩ còn lại cuối cùng đã tới
một làng Phật giáo và cảm thấy đau lòng khi khám phá
ra rằng dân làng đã hoàn toàn bỏ đạo dưới ảnh hưởng
của một thần học gia Ấn Độ. Một tu sĩ nói: "Tôi mang
nợ đối với những người nầy và đối với chính Đức Phật
Tổ nên tôi phải đem họ trở về với đạo pháp."
Cuối cùng tu sĩ thứ năm đã tới được
với vị La-ma ở phương Nam.
Nhiều lần, tôi đã tách riêng ra vì
những lý do chính đáng nhất trên đời: nào là để cải
tổ phụng vụ, để thay đổi cơ cấu của Giáo Hội, để cập
nhật hóa việc nghiên cứu Thánh Kinh và để thích nghi
hóa khoa thần học. Sinh hoạt đạo giáo là cách thoát
ly khỏi Chúa được tôi ưa thích nhất.
XIN VIỆC
Người xin việc thứ nhất bước vào.
"Bạn có biết đây chỉ là một cuộc trắc
nghiệm đơn giản mà bạn phải trải qua trước khi người
ta giao cho bạn công việc mà bạn đã nộp đơn xin?"
"Vâng."
"Được rồi. Vậy hai với hai là mấy?"
"Là bốn."
Người xin việc thứ hai bước vào.
"Bạn đã sẵn sàng để trắc nghiệm
chưa?"
"Vâng."
"Được rồi. Vậy hai với hai là mấy?"
"Ông chủ nói bao nhiêu thì nó bấy
nhiêu."
Người thứ hai được nhận đi làm.
Cái gì đứng đầu, tính cách chính
thống hay là chân lý?
DIOGENES
Nhà hiền triết Diogenes ăn tối với
bánh mì và đậu lăng. Nhà hiền triết Aristippus trông
thấy. Ông nầy sống một cuộc đời phong lưu khá giả vì
biết nịnh bợ nhà vua.
Aristippus ngỏ lời: " Huynh hãy học
cách khúm núm nhà vua và huynh sẽ không cam tâm ăn
đậu lăng đâu."
Diogenes đáp: " Huynh hãy học cách
sống bằng đậu lăng và huynh sẽ không phải luồn cúi
nhà vua."
HÃY ĐỨNG LÊN ĐỂ NGƯỜI TA NHẬN DIỆN
Khi Krushchev đọc bài diễn văn nẩy
lửa để tố cáo Stalin thì có người ở trong Phòng Hội
đã nói: "Thưa đồng chí Krushchev, đồng chí ở đâu khi
người ta giết hại những người vô tội đó?"
Krushchev dừng lại, đưa mắt nhìn
quanh Hội Trường và nói: "Người đã nói câu đó xin
vui lòng đứng lên?"
Một sự căng thẳng tột độ đè nặng lên
trên Phòng Hội. Không ai nhúc nhích động đậy.
Krushchev tuyên bố: "Tốt. Dù cho quí
vị là ai, quí vị đã được trả lời rồi. Lúc đó tôi ở
vào vị thế y như quí vị lúc nầy đây."
TIỆM BÁN CHÂN LÝ
Tôi hoa mắt lên khi thấy tên cửa
tiệm: TIỆM BÁN CHÂN LÝ.
Cô bán hàng rất lễ phép: Tôi muốn mua
loại chân lý nào đây: chân lý toàn diện hay
chân lý phiến diện? Chân lý toàn diện, dĩ nhiên rồi.
Đối với tôi, nhất định không có lừa bịp, không có
chông chế, không có giải thích quanh co. Tôi muốn
chân lý của tôi phải thuần khiết và minh bạch. Cô
bán hàng vẫy tay ra hiệu chỉ cho tôi phía đằng kia
tiệm sách.
Cậu bán hàng ở đó lấy ngón tay chỉ
cái nhãn hiệu có ghi giá cả. Cậu ta nói: "Thưa ông,
giá rất đắt." Tôi hỏi: "Giá bao nhiêu?", vì tôi
cương quyết mua cho bằng được cái chân lý toàn diện,
cho dù phải trả bằng bất cứ giá nào. Cậu trả lời:
"Thưa ông, giá của sự an toàn của ông đấy.”
Tôi ra khỏi tiệm với con tim nặng
trĩu. Tôi đang cần sự an toàn cho những niềm xác tín
bất khoan nhượng của tôi.
CON ĐƯỜNG HẸP
Ngày kia Chúa báo trước cho loài
người biết là sẽ có một trận động đất dữ dội chôn
vùi hết nước trên mặt địa cầu. Thứ nước khác thay
thế vào sẽ biến con người thành điên dại.
Chỉ có một vị ngôn sứ tin vào lời
Chúa. Ông đã chứa rất nhiều nước trong hang núi của
ông để có đủ nước dự trữ cho đến mãn đời.
Một trận động đất thật sự đã xảy ra,
tất cả nước đều biến mất và một thứ nước mới đã tràn
ngập ao, hồ, sông, rạch. Vài tháng sau đó, vị ngôn
sứ xuống núi. Mọi người thật sự trở nên khùng điên
và họ đã tấn công vị ngôn sứ vì họ cho ông là đồ
điên khùng.
Do đó vị ngôn sứ đã lui về hang động,
sung sướng vì đã để dành nhiều nước. Tuy nhiên, ông
không thể chịu đựng mãi sự cô đơn của mình nên lại
xuống núi lần nữa. Ông lại bị người ta xua đuổi vì
ông không giống họ chút nào.
Thế là vị ngôn sứ thua cuộc. Ong đổ
hết nước mà ông đã dự trữ, uống thứ nước mới với dân
chúng và trở nên một người điên khùng như họ.
Đường đưa tới Chân Lý thì chật hẹp.
Bạn là người lữ hành đơn độc
KẺ LƯỜNG GẠT
Một thứ Tôn Giáo Mới nào đây. Căn
phòng đầy nghẹt những người và đông nhất là những bà
già. Một diễn giả chỉ quấn một chiếc khăn trên đầu
và mang một cái khố. Ông nói với giọng nghẹn ngào,
về năng lực của Tinh Thần trên Thể Chất.
Mọi người nghe một cách say mê thích
thú. Sau đó, diễn giả trở về chỗ ngồi ngay trước mặt
tôi. Người ngồi bên cạnh ông quay sang thì
thầm hỏi lớn: "Ông có thật tin tưởng những điều ông
vừa nói không? Có thật thể xác không cảm xúc gì hết
và mọi chuyện đều ở trong trí óc không?”
Tay lường gạt trả lời với một giọng
tự tin đạo đức như sau: "Dĩ nhiên, tôi tin tưởng như
thế!"
Người ngồi bên cạnh nói: "Được rồi,
ông thay đổi chỗ cho tôi, không sao chứ? Tôi đang
ngồi chỗ có ngọn gió lò.”
Tại sao tôi phải cố gắng thực hành
điều tôi giảng dạy? Nếu tôi cố rao giảng điều tôi
thực hành thì tôi sẽ bớt trở thành một kẻ lường gạt
hơn.
KHẾ ƯỚC TRONG MỘNG
Đã chín giờ sáng mà Nasruddin còn
ngáy. Mặt trời lên cao, chim chóc líu lo trên cành
và bữa ăn sáng đã nguội lạnh. Do đó bà vợ đánh thức
ông dậy.
Ong trở mình thức dậy, giận dữ la lối
om sòm: “Tại sao bà đánh thức tôi vào giờ nầy?”
Bà vợ nói: "Mặt trời đã lên cao, chim
chóc đang hót líu lo trên cành và bữa ăn sáng đã
nguội lạnh."
Ong đáp: "An với uống cái gì? Tôi
sắp sửa ký kết khế ước trị giá một trăm quan tiền
vàng!"
Rồi ông ta chợp mắt, cố lấy lại cho
kỳ được giấc mơ đã tan biến với một trăm quan tiền
vàng.
Bây giờ đây Nasruddin đang gian lận
trong khế ước này và người đối tác của ông là một
hôn quân bạo chúa.
Nếu khi lấy lại giấc mơ, ông từ bỏ sự
gian lận thì ông trở nên một vị thánh
Nếu ông tranh đấu để giải phóng những
người bị tên hôn quân áp bức thì ông sẽ trở thành
một nhà tranh đấu cho tự do.
Nếu trong giấc mơ, bất chợt ông nhận
ra rằng ông đang mơ thì ông sẽ trở nên một người
Tỉnh Thức, một người Thức Giác.
Bạn là hạng thánh nhân nào đây hay
loại người tranh đấu cho tự do nào đây nếu bạn còn
ngái ngủ?
THẾ À! THẾ À!
Một cô gái làng quê có con nhưng
không có chồng và sau khi bị đánh đòn nhiều
trận nên thân đã khai ra người cha đứa bé là vị
Thiền Sư ở ngoại vi ngôi làng.
Dân làng lũ lượt kéo tới am thất của
Thiền Sư la lối om sòm khi vị đó đang tham thiền
nhập định. Họ tố cáo ngài là đạo đức giả và bảo ngài
phải giữ lấy đứa bé. Vị Thiền Sư chỉ trả lời gọn
lỏn: "Thế à! Thế à!"
Ngài đã ẵm đứa bé lên và điều đình
với một người đàn bà ở cạnh nhà để lo nuôi nấng đứa
bé mà mọi sở phí do ngài gánh chịu.
Dĩ nhiên ngài bị tai tiếng rất nhiều
và các đệ tử của ngài đều bỏ đi hết.
Một năm sau khi câu chuyện đó xảy ra,
cô gái không còn có thể chịu đựng được nữa nên đã
thú thật là mình nói dối. Cha em bé chính là
đứa con trai cạnh nhà.
Dân làng đã kính cẩn cúi mình trước
vị Thiền Sư để xin tha thứ và xin mang đứa bé
ra về. Vị thiền sư trao trả đứa bé và chỉ nói vỏn
vẹn: "Thế à! Thế à!"
Một người đã Thức Giác!
BẦY CON CHẾT TRONG MỘNG
Hai vợ chồng ngư phủ có một mụn con
sau nhiều năm kết hôn. Đứa bé đó là niềm hảnh diện
và hoan lạc của bố mẹ. Nhưng rồi một ngày kia, nó
lâm trọng bệnh và dù họ đã tốn kém một số tiền rất
lớn để chạy chữa thuốc thang, đứa bé rồi cũng chết.
Người mẹ vô cùng đau đớn. Còn người
cha thì không nhỏ một giọt nước mắt.
Khi người vợ trách cứ chồng là không
tỏ ra một chút đau buồn gì hết, người đánh cá nói:
"Để tôi nói cho mình nghe tại sao tôi không khóc.
Đêm qua tôi nằm mơ thấy tôi là một vì vua và là cha
của tám người con khỏe mạnh. Rồi thình lình tôi tỉnh
giấc. Giờ đây, tôi đâm ra vô cùng bối rối: tôi phải
khóc thương tám đứa con kia hay đứa con nầy?"
CHIM PHƯỢNG HOÀNG MÀU VÀNG ÓNG
ÁNH
Một người tìm được một quả trứng chim
phượng hoàng và để ấp trong ổ gà mái. Chú
phượng hoàng con đã nở ra với bầy gà con và đã lớn
lên như lũ gà vậy. Nó cục tác; bươi đất để kiếm
trùng giun; vỗ cánh đen đét và tập bay vài bước trên
mặt đất.
Nhiều năm tháng trôi qua. Ngày kia
chim phượng hoàng trở nên già nua, trông thấy một
con chim oai phong lẫm liệt bay lượn cao vút trên
nền trời xanh, ở trên đầu nó. Chim đó lượn qua lượn
lại một cách duyên dáng và oai phong, ngược dòng các
cơn gió dũng mảnh mà chỉ khẽ rung đôi cánh màu vàng
rực rỡ.
Rất đổi say mê, chim phượng hoàng
hỏi: "Con chim gì thế?"
Con gà bên cạnh trả lời: "Đó là con
chim phượng hoàng, chúa tể của các loài chim. Giống
chim đó thuộc về trời cao bể rộng. Còn chúng ta đây
thuộc về đất đai – chúng ta là giống gà mà.”
Bởi thế chim phượng hoàng đã sống và
chết như một con gà vì cứ tưởng mình là gà.
CHÚ VỊT CON
Vị xu-phi thánh thiện Shams-e Tabrizi
thuật lại câu chuyện sau đây liên hệ đến đời ông:
Từ tấm bé, người ta đã coi tôi như
một con người không thích ứng với cuộc sống. Xem ra
không ai hiểu tôi hết. Ngày kia chính ba tôi đã nói
với tôi: "Con không đến nỗi quá khùng để người ta
đưa con vào nhà thương điên, cũng không đến nỗi quá
lu mờ để người ta đưa con vào tu viện. Ba biết phải
làm gì cho con đây."
Tôi đã trả lời: "Một cái trứng vịt đã
được người ta cho con gà mái ấp. Khi trứng nở, chú
vịt con đã chui ra đi dạo chơi với gà mái và, khi
tới bờ ao, chú vịt lội thẳng xuống nước. Tội nghiệp
gà mái đứng cục tác trên bờ có vẻ lo lắng lắm. Thưa
ba, hôm nay đây, con đang trầm mình trong Đại Dương
và đã tìm thấy nơi đó là tổ ấm của con. Vậy thì con
đáng trách chăng, nếu về phần ba, ba chọn lựa đứng
trên bờ?"
BÚP BÊ BẰNG MUỐI
Một con búp bê bằng muối đã vượt xa
ngàn dặm và dừng chân nơi bờ biển.
Búp bê mê mẩn khi thấy khối nước bao
la chuyển động, hoàn toàn khác với những gì đã thấy
từ trước đến giờ.
Búp bê bằng muối hỏi biển: "Bạn là ai
vậy?"
Biển cười đáp: "Em hãy vào trong nước
của tôi rồi em sẽ thấy."
Và rồi con búp bê đã lội xuống biển.
Càng xuống sâu bao nhiêu nó càng tan rã bấy nhiêu
cho tới khi chỉ còn lại một nhúm nhỏ. Trước khi hạt
muối cuối cùng tan rã, búp bê la lên, hết sức kinh
ngạc: "Giờ đây, tôi mới biết tôi là ai!"
TÔI LÀ AI?
Một mẩu chuyện của Attar ở Neishapur.
Gã si tình gõ cửa nhà người Yêu.
Từ bên trong người Yêu hỏi vọng ra:
"Ai gõ cửa đó?"
Gả si tình đáp: "Anh đây."
"Vậy thì anh hãy đi đi: căn nhà nầy
không đủ chỗ cho anh và em."
Gã si tình lui về và trong
nhiều năm đã nhẩm di nhẩm lại những lời nói của
người Yêu.
Cuối cùng, gả trở lại gõ cửa lần nữa.
"Ai gõ cửa đó?"
"Em đây."
Tức thì cửa mở ra.
GÃ SI TÌNH BÉP XÉP
Một gã si tình đeo đẳng trong nhiều
tháng trời, để rồi thất bại vì bị khước từ đau đớn.
Cuối cùng, người yêu đã nhượng bộ và nói: "Anh hãy
đến chỗ đó, vào ngày giờ đó."
Vì vậy cuối gã si tình được ngồi bên
cạnh người yêu. Chàng lấy ra một chồng thư tình đã
viết cho nàng trong nhiều tháng qua. Đó là
những lá thư nồng cháy, nói lên nổi đau đớn ê chề và
sự ao ước nồng nàn. Chàng bắt đầu đọc lớn tiếng.
Nhiều phút trôi qua và chàng cứ đọc, đọc mãi.
Cuối cùng, cô gái la lớn: "Anh đần
độn đến mực nào? Các thư tình đó nói về nổi lòng
mong ước của anh. Được lắm, nầy đây, cuối cùng em
đang ngồi với anh mà anh cứ mải miết đọc những bức
thư nhảm nhí đó."
Chúa nói: "Nầy Cha đang ở bên cạnh
con mà con cứ suy tưởng về Cha ở trong đầu óc con,
nói về Cha với miệng lưỡi con và truy tầm Cha trong
sách vở của con. Chừng nào con mới lặng thinh để
thấy được Cha?"
ĐÁNH RƠI “CÁI TÔI”
Đệ tử nói: "Con đến để phục dịch
thầy."
Minh Sư trả lời: "Nếu con đánh rơi
“cái tôi”, sự phục dịch đương nhiên xảy tới."
Bạn có thể trao tặng của cải của bạn
để nuôi sống người nghèo và nộp thân xác của bạn để
chịu thiêu chịu đốt nhưng không chút mảy may tình
thương đi kèm.
Bạn hãy giữ lấy của cải của bạn và
hãy đánh rơi "cái tôi". Đừng tự thiêu: hãy thiêu cái
"phàm ngã". Tình thương sẽ đương nhiên xảy tới.
HÃY ĐÁNH RƠI CÁI KHÔNG GÌ CẢ
Đệ tử nói: "Con đến với thầy mà không
có gì trong tay hết."
Minh Sư trả lời: "Con hãy đánh rơi
ngay lập tức!"
Đệ tử: "Nhưng làm sao con có thể đánh
rơi được? Không có gì cả."
Minh Sư: "Vậy con hãy mang nó theo
với con!"
”Cái không gì cả” của bạn có thể là
vật sở hữu quí báu nhất của bạn.
THIỀN SƯ VÀ KITÔ HỮU
Một Kitô hữu đến thăm một vị Thiền Sư
và nói: "Xin thầy cho phép tôi đọc thầy nghe Bài
Giảng Trên Núi."
Thiền Sư đáp: "Tôi rất thích nghe.”
Người Kitô hữu đọc một câu rồi ngước
mắt lên nhìn. Thiền Sư mỉm cười nói: "Đấng đã phán
những lời đó chắc chắn phải là một vị Giác Ngộ."
Người Kitô hữu cảm thấy khoái trá.
Ông tiếp tục đọc. Thiền Sư ngừng lại rồi nói: “Những
lời nói đó phải phát xuất từ Đấng Cứu Thế của nhân
loại."
Người Kitô hữu cảm thấy thích thú.
Ông tiếp tục đọc cho đến hết. Lúc bấy giờ Thiền Sư
tuyên bố: "Người đã rao giảng như thế phải là Thiên
Chúa."
Nổi vui mầng của người Kitô hữu thật
vô bờ bến. Ông ra về, cương quyết sẽ trở lại một
ngày khác để thuyết phục Thiền Sư trở thành Kitô hữu.
Trên đường về nhà, ông gặp Chúa Giêsu
đứng bên vệ đường. Ong đã thưa với Chúa một cách
khoái trá: "Lạy Chúa, con đã làm cho người đó xưng
ra Chúa là Thiên Chúa!"
Chúa Giêsu mỉm cười và nói: "Con đã
làm gì hay đâu, ngoại trừ việc con thổi phồng cái
tôi Kitô hữu của con mà thôi?"
MA QUỈ ĐƯỢC AN ỦI
Một truyện cổ tích Kitô giáo:
Khi Con Thiên Chúa chịu đóng đinh
trên cây thánh giá và trút linh hồn, Ngài đã xuống
thẳng hỏa ngục cứu thoát mọi tội nhân đang đau đớn
rên siết ở đó.
Và Quỉ Sứ đã than khóc rên rỉ khi
nghĩ rằng sẽ không còn có tội nhân nào ở hỏa ngục
nữa.
Bấy giờ Chúa phán với nó: "Đừng khóc
nữa vì ta sẽ đẩy xuống hỏa ngục những con người tự
cho mình là chính trực khi lên án tội nhân. Và hỏa
ngục sẽ đầy dẫy trở lại cho tới khi ta lại đến."
THÀ NGỦ CÒN HƠN THÓA MẠ
Sadi ở Shiraz kể câu chuyện sau đây
liên quan đến chính ông.
Hồi đó tôi là một đứa bé đạo đức,
nhiệt thành trong mọi việc lễ bái và kinh kệ. Một
buổi tối kia, tôi canh thức với cha tôi, Thánh Kinh
Coran ở trên đầu gối.
Hết thảy mọi người khác ở trong phòng
đã bắt đầu thiu thiu ngủ và chẳng mấy chốc họ đều
ngủ say. Bấy giờ tôi nói với cha tôi: "Không ai
trong những người ngủ say đó đã mở mắt ra hay ngẩng
đầu lên để đọc kinh cả. Người ta có thể nghỉ rằng họ
đều ngủm hết.”
Cha tôi đáp lại: "Con yêu quí của ba,
thà ba thấy con ngủ như họ còn hơn là nghe con thóa
mạ họ."
NHÀ SƯ VÀ PHỤ NỮ
Ngày kia trên đường trở về tu viện,
hai nhà sư Phật Giáo gặp gỡ một phụ nữ tuyệt đẹp
đứng bên bờ sông. Cũng như họ, người phụ nữ đó muốn
qua sông, nhưng mực nước dâng cao. Do đó một trong
hai nhà sư đã cõng chị đó lên vai để qua sông.
Nhà sư kia cảm thấy đó là một sự xúc
phạm ghê gớm. Trong suốt hai tiếng đồng hồ, ông quở
trách bạn đã phạm Giới Luật: Phải chăng nhà sư đó đã
quên mình là một tu sĩ? Làm sao đã dám đụng tới một
người đàn bà? Tệ hại hơn nữa, lại cõng chị ta sang
bờ sông bên kia? Và người đời sẽ đàm tiếu ra sao?
Phải chăng nhà sư ấy đã làm ô danh Đạo Pháp? Vân vân
và vân vân...
Nhà sư phạm lỗi đã chấp nhận một cách
can trường. Khi bài diễn thuyết chấm dứt, thầy chỉ
thốt lên mấy tiếng: "Huynh ạ, tôi đã để chị ấy ở bên
bờ sông. Còn huynh đang cõng chị đó sao?"
Nhà huyền bí Ả Rập là Abu Hassan
Bushanja đã nói: "Hành động phạm tội thì không nguy
hại cho bằng sự ước muốn và tư tưởng về tội. Thể xác
lăn xả vào sự khoái lạc trong chốc lát là một việc,
còn tâm trí cứ nhẩm đi nhẩm lại về sự khoái lạc mà
không bao giờ dứt, lại là một việc hoàn toàn khác
hẵn.”
Mỗi lần tôi nhẩm đi nhẩm lại tội lỗi
người khác, tôi có lý do để nghi ngờ rằng việc nhẩm
đi nhẩm lại đó đem lại cho tôi nhiều khoái lạc hơn
là khoái lạc mà hành động tội lỗi đã đem lại cho kẻ
lỗi phạm.
BỊ ĐỨNG TIM VÌ NƯỚC TRỚI
Chú Tom rất yếu tim vì vậy khi gia
đình hay tin là chú thừa hưởng gia tài một tỷ mỹ
kim, họ lo sợ không dám cho chú hay vì e rằng chú bị
đứng tim. Do đó, họ tìm tới cha sở để nhờ giúp đỡ,
vì chắc chắn cha sẽ cho họ biết cần phải làm gì.
Cha Murphy nói: "Anh Tom ạ, anh hãy
nói cho cha biết, nếu Chúa nhân từ gởi tới cho anh
một tỷ mỹ kim thì anh dự tính làm gì đây?"
"Thưa cha, con sẽ tặng cha một nửa để
dâng cúng nhà thờ."
Cha Murphy bị đứng tim!
Khi kỹ nghệ gia bị đứng tim vì lo
thăng tiến hệ thống doanh nghiệp của mình thì người
đời sẽ dễ dàng làm cho ông ta nhìn thấy sự tham lam
ích kỷ của mình. Khi cha xứ bị đứng tim vì phải
thăng tiến Nước Trời thì khó lòng làm cho cha thấy
rằng đấy cũng là sự ích kỷ trá hình dưới một hình
thức được kính trọng hơn: Có thật vì Nước Trời mà
người ta thăng tiến hay vì chính bản thân họ? Nước
Trời không cần phải thăng tiến. Sự ưu tư của bạn đã
lừa dối bạn, phải không?
BIẾT CHÚA KITÔ
Cuộc đối thoại giữa một tân tòng và
một người bạn không tin tưởng.
“Vậy là bạn đã theo đạo Chúa Kitô?”
“Đúng thế.”
“Như vậy bạn phải biết
nhiều về Ngài. Bạn hãy nói cho tôi biết: Chúa đã
sinh ra ở trong nước nào?”
“Tôi không biết.”
“Chúa đã chết lúc bao
nhiêu tuổi?”
“Tôi không hay.”
“Chúa đã giảng bao nhiêu
bài?”
“Tôi không rõ.”
“Thì ra sự hiểu biết của
bạn quá ít ỏi đối với một người tự nhận mình theo
đạo Chúa Kitô!”
“Đúng thế. Tôi hổ thẹn vì biết
Chúa quá ít. Tuy nhiên, tôi biết nhiều ở điểm nầy:
Cách đây ba năm, tôi luôn say sưa chè chén. Nợ nần
lút đầu lút cổ. Gia đình vỡ lở tan hoang. Vợ con tôi
kinh hãi khi tôi về nhà mỗi ngày. Giờ đây, tôi đã
giả từ ba xi đế: chúng tôi không còn lâm cảnh nợ nần
túng thiếu; gia đạo đầm ấm yên vui. Tất cả những
điều đó, chính Chúa Kitô đã làm cho tôi. Đấy là điều
tôi biết nhiều về Ngài!”
Biết thực sự có nghĩa là được
biến đổi bởi điều mình biết.
CÁI NHÌN CỦA CHÚA GIÊSU
Trong Phúc Âm Thánh Luca, người ta
đọc được như sau:
Nhưng Phêrô bảo: "Này anh, tôi không
biết anh nói gì". Ngay lúc đó, khi ông đang còn nói
thì gà gáy sáng và Chúa quay lại nhìn thẳng
Phêrô...và Phêrô đã ra ngoài khóc lóc thảm thiết.
Tương quan giữa tôi với Chúa khá tốt
đẹp. Tôi đã hầu chuyện với Ngài, cảm tạ Ngài, khấn
xin Ngài phù hộ che chở.
Nhưng thường khi, tôi có cảm giác khó
chịu là Ngài muốn tôi nhìn thẳng vào Ngài...Và tôi
không dám. Tôi muốn hầu chuyện nhưng nhìn chỗ khác,
khi tôi cảm thấy Ngài đang nhìn thẳng tôi.
Tôi lo sợ sẽ thấy trong ánh mắt Ngài
một sự cáo buộc về một tội lỗi chưa được ăn năn.
Hoặc một yêu sách: Ngài đòi hỏi tôi một điều gì.
Rồi một ngày kia, tôi đã lấy hết can
đảm để nhìn! Không một lời cáo buộc. Không một yêu
sách. Ánh mắt Ngài chỉ nói vỏn vẹn: "Cha yêu con!"
Và cũng như Phêrô, tôi đã ra ngoài và
đã khóc lóc.
QUẢ TRỨNG VÀNG
Bài đọc trích từ Sách Thánh.
Đây là điều Chúa nói: một trại chủ có
một con ngỗng mỗi ngày đẻ một trứng vàng. Vợ ông
không đủ kiên nhẫn nhặt một quả trứng mỗi ngày. Vì
thế bà đã giết chết con ngỗng vì hy vọng rằng sẽ thu
nhặt mọi quả trứng một lượt.
Đó là lời Chúa.
Một người Vô Thần nghe đoạn sách đó
thì đã giễu cợt: Một con ngỗng đẻ trứng vàng! Sách
Thánh của bạn thật phi lý!"
Khi một chuyên viên đạo giáo đọc đoạn
sách đó thì phản ứng như sau: "Chúa đã cho biết có
con ngỗng đó, vì thế điều đó phải đúng, cho dù xem
ra phi lý đến đâu. Giờ đây bạn sẽ hỏi - và bạn có
quyền hỏi - tại sao một cái trứng, vẫn luôn luôn là
trứng hoàn toàn, mà một trật cũng có thể bằng vàng
được. Nhiều trường phái tư duy đạo giáo khác nhau
giải thích khác nhau. Nhưng điều đòi hỏi ở đây là
một thái độ đức tin đứng trước một mầu nhiệm vượt
quá sự hiểu biết của con người."
Cũng có một vị thuyết giáo, cảm hứng
bởi đoạn sách nầy, đã rảo bước khắp làng mạc thị
thành, hết sức cổ võ mọi người chấp nhận sự kiện là
Chúa đã từng tạo ra những quả trứng vàng, vào một
thời điểm đặc biệt nào đó ở trong lịch sử loài
người.
Tốt hơn hết là nên dạy dỗ người đời
về những tai hại của tính hà tiện hơn là cổ võ niềm
tin vào những quả trứng vàng?
TIN MỪNG
Chúa Giêsu bắt đầu giảng dạy bằng
những dụ ngôn. Ngài phán: Nước Trời giống như hai
anh em kia được Chúa kêu gọi, buông bỏ mọi sự để
phục vụ tha nhân.
Người anh đã đáp lại tiếng gọi, dẫu
phải đau đón chia tay gia đình và vị hôn thê để đi
tới một nơi xa lạ, dâng mình phục vụ người nghèo.
Vài năm sau đó, anh bị tù tội vì công việc phục vụ,
bị tra tấn và bị giết chết.
Và Chúa đã nói với anh: "Tốt lắm, hỡi
tôi tớ trung tín của Cha! Con đã phục vụ Cha cả ngàn
lần. Giờ đây Cha ban cho con hạnh phúc cả tỷ lần.
Con hãy vào chung vui với Chúa của con”
Người em không màng đáp lại tiếng
Chúa. Hắn đã cưới người con gái hắn yêu và đã buôn
bán làm ăn phát đạt. Hắn cư xử tử tế với vợ con và
thỉnh thoảng bố thí cho người nghèo khó.
Và khi đến lượt nó chết, Chúa phán:
"Tốt lắm, hỡi tôi tớ trung tín của Cha! Con đã phục
vụ Cha hai mươi lần. Giờ đây Cha ban cho con hạnh
phúc cả tỷ lần. Con hãy vào chung vui với Chúa của
con.”
Khi biết em mình cũng được lãnh
thưởng như mình, người anh rất đổi ngạc nhiên. Và
anh ta sung sướng nói: "Lạy Chúa, dù con biết điều
đó khi Chúa gọi con thì con cũng làm y như thế vì
tình yêu Chúa.”
JONEYED VA NGƯỜI THỢ HỚT TÓC
Một người thánh thiện tên là Joneyed,
ăn mặc giống như người hành khất, đi vào cửa
tiệm hớt tóc ở Mecca. Người thợ hớt tóc đang cạo râu
cho một người quí phái liền bỏ khách hàng giàu có
của mình để cạo râu cho người hành khất trước đã. Và
người thợ hớt tóc không những không đòi tiền gì hết
lại còn bố thí một ít tiền và tiễn người hành khất
lên đường.
Joneyed xúc động cho đến nỗi đã quyết
định sẽ trao tặng người thợ hớt tóc tất cả những của
bố thí nhận được hôm đó. Xảy đến một khách
hành hương giàu có tặng Joneyed một túi tiền vàng.
Rất đỗi vui mừng, ông trở lại nơi tiệm người thợ hớt
tóc để tặng túi tiền.
Khi người thợ hớt tóc hiểu rõ tại sao
mình được tặng túi tiền vàng, đã giận dữ la lên:
"Ngài là hạng người thánh thiện nào vậy mà đã đến
ban thưởng cho tôi vì một hành vi yêu thương?"
. . . . .
. .
Một chuyện tưởng tượng
Đệ tử lớn tiếng với Chúa: "Chúa là
hạng Chúa nào vậy mà đã thách thức ban thưởng cho sự
sùng mến của con?”
Chúa cười đáp: "Cha là Tình Yêu. Vậy
làm thể nào mà Cha có thể trao ban phần thưởng?”
Khi bạn tìm kiếm phần thưởng thì tặng
phẩn trở nên vật hối lộ
NGƯỜI CON TRƯỞNG
Ngày kia Chúa di dạo chơi trên thiên
đàng và thấy mọi người ở đó hết, Chúa không hài lòng
chút nào. Chúa phải tỏ ra công bằng, sao Chúa không
thực thi những lời hăm dọa của Ngài. Vì vậy, Chúa
triệu tập mọi người trước ngai của Chúa và truyền
Thiên Sứ đọc lên Mười Điều Răn."
Thiên Sứ đọc Điều Răn Thứ Nhất.
Chúa phán: "Tất cả những ai đã phạm Điều Răn nầy
phải xuống hỏa ngục ngay bây giờ!" Và mệnh lệnh của
Chúa được thi hành ngay.
Mệnh lệnh như thế cũng được thi hành
đối với những Điều Răn khác. Khi Thiên Sứ đọc tới
Điều Răn Thứ Bảy, không còn ai sót lại ở trên thiên
đàng, chỉ trừ một ẩn sĩ – thiển cận và tự mãn.
Chúa ngước mắt lên và ngẫm nghĩ:
"Phải chăng chỉ còn một người duy nhất sót lại ở
trên thiên đàng sao? Coi bộ thiên đàng trống trải
quá nhỉ.” Do đó Chúa la lớn: “Mọi người hãy trở lên
đi!”
Khi vị ẩn sĩ nghe Chúa nói là mọi
người đều được tha thứ, ông đã nổi giận la lớn:
"Thật là bất công! Sao Chúa không nói trước cho
con?"
TÔN GIÁO CỦA BÀ GIÀ
Một bà già rất đạo đức, bất mãn với
mọi tôn giáo hiện có, nên đã lập ra một tôn giáo cho
chính bà.
Một phóng viên thành thật muốn biết
quan điểm của bà nên hỏi: "Bà có thật sự tin, như
người ta đã nói về bà, là không ai được lên Thiên
Đàng hết, ngoại trừ bà và chị bồi phòng của bà?"
Bà ta suy nghĩ cẩn thận câu hỏi rồi
đáp: "Ồ! Phần chị Maria thì tôi không chắc."
TÌNH YÊU THÌ HAY QUÊN
Người chồng hỏi: "Tại sao em cứ nhắc
đi nhắc lại mãi những lỗi lầm quá khứ của anh? Anh
cứ tưởng em đã tha thứ và quên đi rồi."
Người vợ trả lời: "Thật ra, em đã tha
thứ và quên hết rồi. Nhưng em muốn chắc chắn là anh
đừng bao giờ quên việc em đã tha thứ và quên đi."
. . . . .
. .
Tội nhân: "Lạy Chúa, xin đừng nhớ đến
tội lỗi con!”
Chúa: "Tội lỗi nào? Cha đã quên từ
lâu rồi. Con phải moi móc trí nhớ của Cha.”
Tình Yêu không ghi sổ những lỗi lầm.
(1 Cor 13)
HOA SEN
Vị gu-ru muốn môn đệ mình phải trang
phục đặc biệt để biểu lộ sự tận hiến cho mọi người
thấy. Ông gọi đấy là làm chứng.
Tôi thấy một đóa hoa sen ở trong đầm
và đã ngỏ lời: "Bạn ơi, bạn đẹp làm sao! Thiên Chúa,
Đấng tạo dựng nên bạn, hẳn phải đẹp lắm!"
Đóa hoa mắc cỡ. Hoa càng không ý thức
về sắc đẹp của mình thì càng đẹp hơn.
Ở một cái đầm khác tôi thấy một đóa
hoa sen khác đang phô bày những tai hoa để tôi chú ý
và xem chừng muốn nói: "Hãy chiêm ngắm vẻ đẹp của
tôi và tôn vinh Đấng tạo dựng nên tôi."
Tôi đã dang xa ra, rất đổi ngao ngán.
Khi tôi cố gắng phô bày, ấy là tôi
tìm cách làm hoa mắt người khác – và trở thành hạng
người Pharisiêu có ý ngay lành!
CON RÙA
Hoàng Đế Trung Hoa phái sứ giả đến
với một nhà ẩn sĩ sống trong rừng sâu núi thẳm
ở mạn bắc. Họ đến mời ông về nhậm chức Tể Tướng của
Triều Đình.
Sứ giả đến nơi, sau nhiều ngày băng
rừng lội suối. Am thất của vị ẩn sĩ trống trơn!
Nhưng gần đó, ở giữa giòng sông, ngồi trên tảng đá
là một người mình trần đang câu cá. Đó có phải là
người mà Hoàng Đế trọng vọng như thế sao? Khi dò hỏi
dân làng thì quả đúng như thế. Vì vậy họ trở lại nơi
bờ sông và hết sức kính cẩn cố làm cho ngư ông chú
ý.
Nhà ẩn sĩ lội vô bờ và đứng trước mặt
các sứ giả, với đôi chân không và tay chống nạnh.
“Các ngài muốn điều gì?”
“Thưa ngài đáng kính, Hoàng Đế Trung
Hoa nghe nói về sự khôn ngoan và đức độ của ngài nên
đã sai chúng tôi mang lễ vật tới. Hoàng Thượng triệu
ngài nhậm chức Tể Tướng của Triều Đình.”
“Nhậm chức Tể Tướng của Triều Đình?”
“Da đúng thế, thưa ngài đáng kính.”
“Tôi à?”
“Dạ thưa ngài đáng kính, đúng thế.”
Nhà ẩn sĩ nói: “Hoàng Thượng có còn
sáng suốt hay không?” Rồi ông cười nức nở, không kềm
chế được, khiến các sứ giả chưng hửng.
Khi trấn tĩnh lại được, nhà ẩn sĩ
nói: "Quí vị hãy nói cho tôi biết: có đúng là ở trên
bàn thờ chính của nguyện đường Hoàng Thượng có một
con rùa dát vàng mà mu rùa khảm kim cương lóng lánh
không?"
"Vâng thưa ngài, có."
“Và có đúng là mỗi ngày một lần Hoàng
Thượng và hoàng tộc tề tựu để tỏ lòng tôn kính con
rùa trang sức bằng kim cương đó không?”
"Thưa ngài, đúng thế."
“Bây giờ quí vị hãy xem con rùa kia
đang ngoe nguẩy cái đuôi ở trong bùn. Quí vị có nghĩ
rằng con vật bé tí kia muốn đổi chỗ cho con rùa ở
trong cung điện không?"
"Thưa ngài không."
"Vậy thì quí vị hãy về tâu với Hoàng
Thượng rằng tôi đây cũng vậy: không ai ở trên một
cái bệ cao mà có thể sống được!"
BAYAZID LỖI LUẬT
Bayazid là một người Hồi Giáo thánh
thiện đôi khi đã cố ý hành động ngược lại những hình
thức bên ngoài và những lễ nghi Hồi giáo.
Ngày kia, trên đường từ Mecca trở về,
ông dừng lại ở thành phố Rey của nước Iran. Dân
thành rất tôn kính ông, đã tuôn ra để đón tiếp, và
gây ra một cảnh náo nhiệt ở trong thành phố. Bayazid
thật tình rất chán nản trò dua nịnh đó, chờ đợi cho
tới khi đến phố chợ. Ở đó, ông đã mua một ổ
bánh mì và bắt đầu nhai ngấu nghiến trước mắt đám đệ
tử. Hôm đó là một trong những ngày ăn chay của tháng
Ramazan, nhưng Bayazid nghĩ rằng hành trình nhọc mệt
của mình biện minh cho việc lỗi luật tôn giáo.
Nhưng đệ tử của ông không hiểu như
thế. Họ cảm thấy chướng tai gai mắt vì thái độ của
ông nên đã bỏ rơi ông ngay mà trở về nhà. Bayazid đã
lưu ý một đệ tử một cách ranh mãnh như sau: "Con
thấy đó, khi thầy vừa làm một điều gì đi ngược lại
sự mong đợi của họ thì lòng tôn kính của họ đã tan
biến như thế nào?”
Cái giá mà người ta trả cho sự tôn
kính là sự thích ứng đối với luật lệ.
NHỮNG CON NGƯỜI RẰN RI
Một vị thuyết giáo đặt câu hỏi nầy
cho một lớp học trẻ em: "Nếu những người tốt thì màu
trắng và những người xấu thì màu đen, các em sẽ chọn
màu nào?"
Em bé Mary Jane trả lời: "Thưa cha,
con sẽ chọn màu rằn ri!"
Vị Thuyết Giáo kia cũng thế. Các Đạo
Sĩ, các Giáo Hoàng và các vị Thánh cũng đều rằn ri
hết.
Một người đi kiếm một nhà thờ tốt
lành để dự lễ và cuối cùng đã đi vào một ngôi thánh
đường mà cộng đồng và linh mục đang đọc Sách Kinh.
Họ đọc như sau: "Chúng con đã bỏ dở những công việc
mà đáng lẽ chúng con phải làm và chúng con đã làm
những việc mà lẽ ra chúng con không nên làm."
Người đó ngồi xuống ghế và thở ra nhẹ
nhõm: "Đội ơn Chúa, cuối cùng mình cũng tìm được
cộng đồng của mình."
Cố gắng che đậy những vết rằn ri của
mình đôi khi thành công, nhưng luôn luôn thiếu lương
thiện.
ÂM NHẠC ĐỐI VỚI NGƯỜI ĐIẾC
Hồi đó tôi bị điếc. Tôi có thể thấy
người ta đứng lên và xoay tròn một cách kỳ dị. Họ
gọi đó là khiêu vũ. Tôi thấy điều đó xem ra phi lý –
cho tới một ngày kia tôi nghe được âm nhạc !
Tôi không bao giờ hiểu dược tại sao
các thánh - và những tình nhân – đã xủ sự như thế.
Vì vậy tôi chờ đợi cho tới khi con tim của tôi sống
dậy.
SỰ GIÀU CÓ
Người chồng: "Anh sẽ làm việc gấp bội
và một ngày kia, chúng ta trở nên giàu có."
Người vợ: "Cưng ơi, chúng ta đã giàu
có rồi, bởi vì chúng ta luôn luôn có nhau. Có thể
một ngày kia, chúng ta sẽ có tiền bạc."
NGƯ PHỦ HẢ DẠ
Một doanh nhân kinh ngạc khi thấy một
ngư phủ nằm sóng soải bên cạnh chiếc tàu đánh cá,
phì phà ống píp.
Doanh nhân hỏi: "Tại sao ông không ra
khơi đánh cá?"
"Bởi vì tôi đã đánh đủ cá cho ngày
hôm nay rồi."
"Tại sao ông không đánh thêm nữa đi?"
"Đánh thêm để làm gì?"
"Ông được nhiều tiền hơn. Rồi thì ông
có thể trang bị một động cơ cho chiếc tàu của ông để
có thể đi ra xa hơn ngoài khơi và đánh được nhiều cá
hơn. Nhờ đó ông có thể kiếm thêm tiền mua nhiều lưới
ni lông. Vì vậy ông sẽ có nhiều cá và nhiều tiền.
Chẳng mấy chốc ông có thể dư tiền để mua hai chiếc
tàu ...và có thể cả một đoàn tàu đánh cá cũng nên.
Rồi ra ông sẽ trở thành một người giàu có như tôi
đây."
"Khi đó tôi sẽ làm gì nào?"
"Ông có thể thực sự vui hưởng cuộc
đời”
"Vậy ông tưởng bây giờ tôi đang làm
gì đây?"
Bạn nên có điều gì hơn: khả năng sống
hạnh phúc hay lăn xả kiếm thật nhiều tiền.
BẢY CHUM VÀN
Một người thợ hớt tóc trong triều đi
qua dưới một gốc cây có ma, bỗng nghe một
tiếng nói: "Nhà ngươi có muốn bảy chum vàng không?"
Ông ta nhìn quanh và không thấy ai cả. Nhưng lòng
tham lam nổi lên nên ông đã nôn nóng la lớn: "Vâng,
tôi muốn! Nhất định rồi!" Tiếng đó nói: "Được rồi,
hãy trở về nhà ngay lập tức. Nhà ngươi sẽ thấy các
chum vàng ở đó."
Người thợ hớt tóc vội vã cắm đầu cắm
cổ chạy thẳng một mạch về nhà. Quả thật, có bảy chum
vàng ở đó - chum nào chum nấy đầy ắp là vàng, chỉ
trừ một chum đầy vàng một nửa mà thôi. Lúc đó người
thợ hớt tóc không muốn thấy một chum vàng chỉ đầy
một nửa. Ông nôn nóng muốn có vàng đổ cho đầy chum
đó, nếu không, ông không cảm thấy sung sướng hạnh
phúc.
Ông liền lấy những đồ trang sức bằng
vàng trong nhà mà đúc thành những đồng tiền vàng để
đổ vào chum còn lưng một nửa. Nhưng rồi chum đó vẫn
còn lưng một nửa như trước. Dễ giận chưa! Ông chắc
bóp từng đồng, bủn xỉn keo kiệt và ông cùng cả gia
đình nhịn ăn nhịn mặc. Nhưng đều vô ích hết.
Cho dù số lượng vàng đổ vào bao nhiêu, chum vẫn chỉ
đầy một nửa.
Ngày kia, ông được nhà vua tăng lương
gấp đôi. Và ông lại tiếp tục làm đủ mọi cách để cho
vàng đầy chum. Kể cả việc ông đi ăn xin. Cái chum đã
nuốt bất cứ đồng tiền vàng nào đổ vào nhưng rồi cũng
chỉ đầy một nửa.
Bấy giờ nhà vua nhận thấy dáng dấp
thiểu não ốm o của người thợ hớt tóc nên hỏi: "Có
chuyện không ổn hả? Trước đây khi lương tiền còn ít
oi nhà ngươi hạnh phúc biết bao. Bây giờ nhà ngươi
đã được tăng lương gấp đôi nhưng lại xem ra thiểu
não tiều tụy thế này. Có phải nhà ngươi giữ bảy chum
vàng trong nhà không?"
Người thợ hớt tóc rất đổi ngạc nhiên
thưa: "Tâu bệ hạ, ai đã tấu trình bệ hạ điều đó?"
Nhà vua cười khanh khách: "Những
triệu chứng thấy ở nhà ngươi rõ ràng là của những
người mà con ma đã tặng bảy chum vàng. Trước đây nó
đã tặng cho trẩm. Khi trẩm hỏi vàng đó có thể tiêu
xài được không hay chỉ tích lũy thành đống mà thôi
thì con ma đã biến mất dạng mà không một lời nói
năng. Vàng đó không tiêu xài được. Nó chỉ mang lại
cho sở hữu chủ một sự thúc bách tích lũy mà thôi.
Vậy nhà ngươi hãy mau mau lập tức trả lai bảy chum
vàng cho con ma đó rồi nhà ngươi sẽ tìm lại được
hạnh phúc.
DỤ NGÔN VỀ CUỌC SỐNG THỜI ĐẠI
Một bầy súc vật tổ chức đại hội và
bắt đầu than phiền về những gì loài người đã lấy mất
của chúng.
Con bò cái nói: "Họ lấy sữa của tôi."
Con gà mái nói: "Họ lấy trứng của
tôi."
Con heo nói: "Họ lấy thịt của tôi để
làm mỡ lá."
Con cá voi nói: "Họ săn tôi để lấy
dầu."
Sau cùng, con ốc sên ngỏ lời: "Tôi có
một thứ mà chắc chắn họ muốn lấy lắm, nếu có thể
được. Cái mà họ muốn hơn bất cứ điều gì hết. Đó là
tôi có thời giờ.
Bạn có tất cả thời giờ ở trên đời nầy
nếu bạn muốn để dành cho bạn. Vậy điều gì đang
ngăn trở bạn để có thời giờ?
HOFETZ CHAIM
Thế kỷ trước đây, một du khách Hoa Kỳ
đến thăm viếng ông Hofetz Chaim, một ra-bi Do Thái
nổi tiếng người Ba Lan.
Du khách rất đổi ngạc nhiên vì thấy
nhà của giáo sĩ chỉ vỏn vẹn một căn phòng dầy ắp
những sách. Đồ đạc chỉ có mỗi một cái bàn và một
chiếc ghế.
Du khách hỏi: "Thưa thầy, đồ đạc của
thầy để đâu?"
Hofetz hỏi lại: "Đồ dạc của ông để
đâu?"
"Đồ đạc của tôi ư? Tôi đi qua đây
thôi. Tôi chỉ là một người khách đến thăm"
"Tôi cũng thế."
CON QUẠ VÀ BẦU TRỜI
Một câu chuyện trích từ Bhagawat
Purana
Ngày kia một con quạ bay trên bầu
trời, miệng ngậm một miếng thịt. Hai chục con quạ
khác ráo riết đuổi theo và bắt dầu tấn công một cách
kịch liệt.
Cuối cùng con quạ đành thả rơi miếng
thịt. Những con quạ đuổi theo đã bỏ rơi nó và vừa
kêu vừa bay theo sau miếng thịt rơi.
Con quạ nọ tự nhủ: "Ta đã đánh mất
miếng thịt nhưng giành được bầu trời thanh bình.”
Một thiền sư đã nói:
"Khi nhà tôi bị đốt cháy,
Tôi nhìn thẳng lên mặt trăng mỗi đêm
Mà không bị gì che khuất."
AI ĂN CẮP ĐƯỢC MẶT TRĂNG?
Thiền Sư Ryokan sống một cuộc đời rất
đạm bạc dưới chân núi. Một đêm kia, khi Thiền Sư đi
xa, một tên trộm đã lẻn vào chòi tranh mới khám phá
ra rằng chả có gì để ăn cắp hết.
Ryokan trở về và bắt gặp tên trộm
liền nói: "Bạn đã mất công khó nhọc đến đây để thăm
viếng tôi. Chả lẽ bạn ra về với đôi bàn tay không
sao. Bạn hãy lấy áo quần và chăn đắp mà tôi tặng bạn
đây."
Rất đổi bối rối, tên trộm đã vội nhặt
mớ quần áo và lẻn trốn đi.
Ryokan ngồi nơi cửa chòi, mình trần
thân trụi, ngắm trăng và nói: "Tội nghiệp cho hắn,
phải chi mình có thể tặng cho hắn ánh trăng đẹp
tuyệt trần nầy."
VIÊN KIM CƯƠNG
Khi khất sĩ đi đến ngoại vi một ngôi
làng và dựa vào một gốc cây để ngủ qua đêm, một
người dân làng chạy đến và nói: "Viên đá! Viên đá!
Hãy đưa cho tôi viên đá quí!"
Khất sĩ hỏi: "Viên đá nào?"
"Tối qua, Thần Shiva đã nói với tôi
trong giấc mộng là nếu tôi đi đến ngoại vi ngôi làng
lúc chiều tối, một khất sĩ sẽ cho tôi một viên đá
quí để làm cho tôi trở nên giàu có suốt đời."
Vị khất sĩ lục lạo trong túi xách,
lấy ra một viên đá và nói: "Có lẽ Thần muốn ám chỉ
viên đá nầy. Tôi đã nhặt được trong khu rừng ngày
hôm qua. Nầy đây là của ông nếu ông muốn giữ lấy
nó."
Người dân làng nhìn viên đá rất đổi
ngạc nhiên. Đó là viên kim cương lớn nhất thế giới -
to bằng đầu người.
Suốt đêm ông ta trằn trọc trên
giường. Sáng sớm hôm sau, ông đã đến đánh thức vị
khất sĩ dậy và nói: "Hãy cho tôi kho tàng quí báu đã
khiến ngài có thể cho đi viên kim cương nầy một cách
dễ dàng như thế."
CẦU XIN CHO TÂM TRÍ ĐƯỢC MÃN NGUYỆN
Thần Vishnu nói với tín đồ ngoan đạo:
"Ta đã chán ngấy bởi những lời cầu xin dai dẳng của
con. Ta sẽ ban cho con ba điều ước nguyện. Con nhớ
chọn lựa chắc chắn kỹ càng, bởi vì khi đã ban cho
rồi, ta sẽ không cho con điều gì nữa hết.” Rất đổi
hân hoan, người sùng đạo đã xin không chút do dự:
"Đây là điều thỉnh cầu thứ nhất của con. Xin cho vợ
con chết đi để con có thể tái hôn với một người đàn
bà khác khá hơn."
Nhưng khi bà con bè bạn tụ họp dự lễ
tống táng và bắt đầu kể lể những nhân đức của bà vợ,
người sùng đạo mới nhận ra rằng mình đã hành động
hấp tấp. Do đó, ông đã xin Thần cho bà ta sống lại.
Ong chỉ còn lại mỗi một lời cầu xin
mà thôi. Ong nhất quyết sẽ không nhầm lẫn lần nầy vì
sẽ không có cơ hội sửa chữa được nữa. Ông đã tham
khảo ý kiến một cách rộng rãi. Có người khuyên ông
nên xin được trường sinh bất tử. Nhưng những người
khác bảo rằng sống lâu có ích lợi gì nếu không có
sức khỏe tốt? Và sức khỏe tốt để làm gì nếu không có
tiền bạc? Và có tiền bạc để làm gì nếu không có ai
làm bạn với mình?
Nhiều năm tháng trôi qua mà người đó
không quyết định được phải chọn lựa làm sao: sống
lâu, sức khỏe, giàu sang, quyền lực hay ái tình.
Cuối cùng người đó đã cầu khẩn Thần như sau: " Xin
Ngài dạy cho con biết phải xin gì đây."
Thần cười khi thấy người đó bối rối
nên nói: "Con hãy xin cho được mãn nguyên, dù cuộc
đời có xảy ra như thế nào."
TRIỂN LÃM THẾ GIỚI VỀ CÁC TÔN GIÁO
Bạn tôi và tôi đi xem cuộc Triển Lãm
Thế Giới về các Tôn Giáo. Không phải là một hội chợ
thương mại. Nhưng sự cạnh tranh thật gay gắt, sự
quảng cáo thật rầm rộ.
Những tờ quảng cáo ở Gian Hàng Do
Thái cho thấy Thiên Chúa Đầy Lòng Nhân Ai và dân Do
Thái là dân Chúa Chọn. Chỉ có dân Do Thái. Không dân
nào khác được Chọn như dân Do Thái.
Ở gian hàng Hồi Giáo, chúng tôi được
biết Thiên Chúa Đầy Lòng Khoan Dung và Mahomet là
Ngôn Sứ độc nhất của Ngài. Sự Cứu Rỗi do việc lắng
nghe vị Ngôn Sứ của Chúa.
Sứ điệp ở gian hàng Kitô Giáo: Thiên
Chúa là Tình Yêu và không có sự cứu rỗi ở ngoài Giáo
Hội. Vậy hãy gia nhập Giáo Hội nếu không sẽ có nguy
cơ lãnh án phạt đời đời.
Khi ra khỏi đó, tôi hỏi bạn tôi nghĩ
thế nào về Thiên Chúa. Hắn trả lời: "Ngài mù quáng,
cuồng tín và độc ác."
Khi trở về nhà, tôi thưa với Chúa:
"Tại sao Chúa có thể
chịu đựng được cảnh tượng như thế?
Chúa không thấy người ta đã làm ô danh Chúa nhiều
thế kỷ rồi hay sao?"
Chúa nói: "Đâu phải Cha đứng ra tổ
chức cuộcTriển lãm. Nội việc đi xem thôi Cha cũng
cảm thấy xấu hổ rồi."
KỲ THỊ
Tôi trở lại nơi Triển Lãm Tôn Giáo
ngay lập tức. Lần nầy, tôi nghe vị Giáo Trưởng của
Đạo Balakri giảng. Ông nói Tiên Tri Balakri là Đấng
Cứu Thế, đã sinh trưởng tại Đất Thánh Mesambia, vào
thế kỷ thứ năm.
Tôi có một cuộc trao đổi khác với
Chúa vào tối hôm đó: "Lạy Chúa, Chúa quả là một
người Đại Kỳ Thị, phải không Chúa? Tại sao thế kỷ
thứ năm mới là thế kỷ của giác ngộ và tại sao xứ
Mesambia mới là đất thánh? Cái gì không ổn đối với
thế kỷ của con? Và đối với xứ sở của con?"
Chúa đã đáp lại như sau: "Mỗi ngày lễ
là thánh bởi vì cho thấy mọi ngày trong năm đều là
thánh. Và mỗi đền thánh là thánh bởi vì cho thấy mọi
nơi trên trái đất đều được thánh hóa. Do đó, Đấng
Cứu Thế được gọi là Con Thiên Chúa để cho thấy mọi
người đều thuộc về Thiên Chúa."
CHÚA GIÊSU XEM BÓNG ĐÁ
Chúa Giêsu Kitô bảo rằng Ngài chưa
bao giờ đi xem bóng đá. Do đó, chúng tôi đưa Ngài đi
xem một trận. Đó là trận đấu dữ dội giữa đội Búa Giã
của Tin Lành và đội Thập Tự của Công Giáo.
Đội Thập Tự ghi bàn trước: Chúa Giêsu
vỗ tay rân lên và thảy chiếc nón lên không trung. Kế
đó, đội Búa Giã ghi một bàn. Và Chúa Giêsu vỗ tay
rân lên cùng thảy chiếc nón lên không trung.
Điều đó làm cho người ngồi phía sau
Ngài chưng hửng. Ông ta vỗ vai Chúa Giêsu và hỏi:
"Nầy cậu, cậu theo phe nào?"
Chúa Giêsu trả lời, coi bộ hứng khởi
vì trận đấu: "Tôi hả? Tôi không theo phe nào hết.
Tôi chỉ thích xem bóng đá thôi."
Người hỏi đó quay sang người bên cạnh
cười một cách chế nhạo: "Chà! Một tay vô thần!"
Sau trận đấu, chúng tôi hỏi Chúa
Giêsu có phải Ngài có thói quen không đứng về phe
phái nào hết không. Chúa trả lời: " Thầy đứng về
phía Con Người hơn là Tôn Giáo, đứng về Con
Người hơn là ngày Sabbat."
HẬN THÙ TÔN GIÁO
Một du khách hỏi hướng dẫn viên: "Ông
nên hãnh diện về thành phố của ông. Tôi cảm kích
nhất là số các nhà thờ của thành phố nầy. Chắc chắn
dân chúng ở đây phải yêu mến Chúa lắm."
Hướng dẫn viên trả lời một cách mỉa
mai: "Họ có thể yêu mến Thiên Chúa, nhưng điều chắc
chắn là họ ghét nhau kinh khủng."
Giống như một cô bé gái khi được hỏi:
"Ai là kẻ ngoại giáo?” Em đã trả lời: "Ngoại giáo là
những người không bao giờ đánh nhau vì tôn giáo
hết."
CẦU NGUYỆN TẤN CÔNG VÀ CẦU NGUYỆN
PHÒNG THỦ
Đội bóng đá Công Giáo lên đường đi dự
một trận đấu quan trọng. Một phóng viên chen lên xe
lửa và xin gặp huấn luyện viên của đội.
Phóng viên nói: "Tôi tin chắc là ông
có đem theo vị tuyên úy để cầu nguyện cho đội banh
được thắng. Chắc ông không từ chối giới thiệu cho
tôi?"
Huấn luyện viên nói: "Không đâu. Ông
muốn gặp vị nào: vị tuyên úy tấn công hay vị tuyên
úy phòng thủ?"
Ý THỨC HỆ
Dưới đây là bản tường trình của một
nhật báo về sự tra tấn trong các trại tập trung hiện
nay.
Nạn nhân bị cột vào một ghế sắt rồi
người ta cho những dòng điện chạy vào với một
cường độ gia tăng cho tới khi nạn nhân phải thú
nhận.
Nhân viên tra tấn khép nửa bàn tay
lại theo hình cái cốc và liên tục đánh vào tai nạn
nhân cho tới khi màng nhĩ nứt ra.
Nha sĩ cột tù nhân vào một chiếc ghế
và đục răng cho tới tủy. Và cứ cho mũi dùi xoắn như
thế cho tới khi nạn nhân chịu hợp tác.
Con người tự bản chất không phải hung
dữ. Họ chỉ trở nên hung dữ khi bị bất hạnh - hay khi
rơi vào một ý thức hệ nào đó.
Ý thức hệ nầy chống ý thức hệ khác;
tôn giáo nầy chống tôn giáo khác. Và con người bị
kìm kẹp giữa hai thế lực đó.
Những người đã đóng đinh Chúa Giêsu
có thể là những người chồng rất lịch sự và những
người cha rất yêu thương con cái nhưng đã trở nên
tàn ác hung bạo nhằm mục đích duy trì một tôn giáo
hay một ý thức hệ.
Giả như mọi người có đạo luôn luôn
theo tiếng nói của con tim thay vì theo lý luận của
tôn giáo họ thì đã không xảy ra cảnh tượng những
người lạc giáo bị thiêu sống trên những giàn hỏa
thiêu, những thiếu phụ phải lê bước tới những giàn
hỏa thiêu để dự tang lễ và những người vô tội đã bị
giết trong những cuộc chiến tranh nhân danh Thượng
Đế.
Lòng thương cảm không cần một ý thức
hệ nào cả.
THAY ĐỔI THẾ GIỚI BẰNG CÁCH THAY ĐỔI
CHÍNH MÌNH
Xu-phi Bayazid thuật lại điều liên
quan đến đời ông như sau."Khi còn trẻ, tôi có tinh
thần cách mạng và mọi lời cầu nguyện của tôi đối với
Chúa như sau: "Lạy Chúa, xin cho con nghị lực để
thay đổi thế giới."
"Khi tôi đứng tuổi và nhận thấy gần
quá nửa đời người đã trôi qua đi mà tôi không thay
đổi được một người nào hết nên tôi đã thay đổi
lời cầu nguyện như sau: "Lạy Chúa, xin ban cho con
ơn thay đổi tất cả mọi người mà con sát cánh hằng
ngày. Nếu chỉ được điều đó đối với gia đình và bè
bạn thì con cũng sẽ mãn nguyện lắm rồi."
"Giờ đây tôi đã già nua và những ngày
còn lại chỉ đếm được trên đầu ngón tay, tôi chỉ còn
cầu xin như sau: "Lạy Chúa, xin ban cho con ơn thay
đổi chính mình con." Giả như tôi biết cầu nguyện như
thế ngay từ đầu thì tôi đã không uổng phí cuộc đời
của tôi."
NHỮNG TÊN PHIẾN LOẠN BỊ KHUẤT PHỤC
Ông ấy là một người khó tánh. Ông đã
nghĩ khác và hành động khác chúng ta hết thảy. Ông
đặt lại hết mọi vấn đề. Phải chăng ông là một người
nổi loạn, một ngôn sứ, một người bị bệnh nhân cách
hay một vị anh hùng? Ai có thể cho biết sự khác
biệt? Vả lại, có ích gì?
Do đó, chúng tôi đã xã hội hóa ông
ta. Chúng tôi đã chỉ dẫn cho ông biết nhạy cảm đối
với dư luận và tình cảm người khác. Chúng tôi đã đưa
ông vào hàng ngũ. Kể từ đó ông là một người có thái
độ đối xử dễ chịu. Một người đã được điều chỉnh đúng
mức. Chúng tôi đã làm cho ông ta trở nên nhu mì, dễ
bảo.
Chúng tôi khen ngợi ông đã biết chinh
phục chính bản thân mình. Ông ta cũng cảm thấy sung
sướng. Ông không thấy rằng chính chúng tôi đã chinh
phục ông.
Có một Người To Lớn bước vào trong
một căn phòng đầy người và hét lớn: "Có ai ở đây
tên là Murphy không?" Một Người Nhỏ Thó đứng lên và
nói: "Chính tôi là Murphy đây."
Người To Lớn đó suýt nữa đã giết chết
hắn ta. Ông đã đánh gảy năm xương bả sườn, bẻ gãy
chiếc mũi, làm bầm tím đôi mắt, ném hắn ta một đống
xuống sàn nhà. Rồi nện gót ra đi.
Khi ông ta đi rồi, chúng tôi rất đổi
ngạc nhiên thấy Người Nhỏ Thó đó cười thầm và nói
nhỏ nhẹ: “Tôi đã đánh lừa hắn ta. Tôi không phải là
Murphy. Ha! Ha!"
Một xã hội đã thuần phục được những
người phản kháng thì đã bảo đảm được sự an bình. Tuy
nhiên xã hội đó đã đánh mất tương lai.
CON CỪU ĐI LẠC
Dụ ngôn dành cho những nhà giáo dục
tôn giáo.
Một con cừu thấy một lỗ hổng ở nơi
hàng rào nên đã lách mình đi qua. Nó đã phiêu lưu
khá xa và mất đường về.
Bấy giờ nó nhận thấy một con chó sói
đang đuổi bắt. Nó cong lưng mà chạy nhưng con chó
sói vẫn rượt theo cho tới khi người chăn cừu cứu nó
và âu yếm đem nó về chuồng.
Mặc dù nhiều người khuyên bảo, người
chăn cừu không chịu đóng một miếng ván vào lỗ hổng ở
nơi hàng rào.
QUẢ TÁO KHÔNG TÌ VẾT
Thầy Nasruddin vừa chấm dứt bài diễn
văn thì một người trong cử tọa đã hỏi một cách đùa
cợt châm biếm như sau: "Thay vì đưa ra những luận
thuyết tu đức dông dài, tại sao thầy không chỉ cho
chúng tôi điều gì cụ thể đi?"
Tội nghiệp, thầy Nasruddin cảm thấy
hoàn toàn bối rối nên hỏi lại người đó: "Bạn muốn
tôi chỉ cho bạn xem loại sự vật cụ thể nào?"
Rất sung sướng vì đã châm chích vị
mu-la và đã gây ấn tượng đối với quần chúng, tay
châm biếm đã trả lời: "Chẳng hạn, thầy chỉ cho chúng
tôi xem một quả táo trên Thiên Đàng."
Tức thì thầy Nasruddin lấy một quả
táo và trao cho người đó. Người châm biếm kia liền
nói: "Quả táo nầy bị thối một bên. Quả táo đến từ
trời hẳn sẽ không chút tì vết."
Vị mu-la đáp lại: "Dĩ nhiên, quả táo
đến từ trời thì không chút tì vết. Nhưng vì tình
trạng khả năng hiện có của bạn, đó chính là quả táo
gần với quả táo ở trên trời mà bạn có thể nhận được
đấy."
Người ta có thể chờ mong được thấy
một quả táo hoàn hảo với cặp mắt bất toàn sao?
Hoặc giả khám phá lòng nhân hậu nơi
kẻ khác, khi chính lòng mình chứa đầy ích kỷ sao?
CÔ THIẾU NỮ NÔ LỆ
Một vì Vua Hồi Giáo say mê một
thiếu nữ nô lệ và đã đem cô từ khu nô lệ vào sống ở
trong kinh đô. Nhà vua có ý định lấy cô làm một
người thiếp sủng ái nhất nhưng, lạ lùng thay, thiếu
nữ đó lâm trọng bệnh ngay hôm vào sống ở trong triều
đình.
Càng ngày bệnh tình càng trầm trọng
hơn. Người ta đã cho cô uống hết mọi thứ thuốc nhưng
đều vô hiệu. Giờ đây cô gái đáng thương đó đang nằm
dở sống dở chết.
Quá thất vọng, nhà Vua hứa cho nửa
nước bất cứ người nào chữa lành được bệnh cô ta.
Nhưng không ai dám chữa khi mà các danh sư trong
nước đành bó tay.
Cuối cùng một y sĩ A Rập đến xin được
phép gặp cô gái một mình. Sau khi nói chuyện với cô
ta suốt một tiếng đồng hồ, y sĩ đã trình diện trước
sân rồng, nơi nhà Vua đang đợi để nghe kết quả một
cách lo lắng ưu tư.
Y sĩ thưa: "Tâu bệ hạ, hạ thần có một
môn thuốc chắc chắn chữa khỏi cô gái đó. Và hạ thần
cam đoan hiệu nghiệm một trăm phần trăm. nếu không
kết quả, hạ thần sẵn sàng chịu chém bay đầu. Nhưng
môn thuốc mà hạ thần cống hiến xem ra rất đau đớn -
không phải cho cô gái mà cho chính bệ hạ."
Nhà Vua lớn tiếng: "Hãy nói môn thuốc
đó để cho cô gái uống cho dù phải trả bằng bất cứ
giá nào."
Y sĩ nhìn nhà Vua với lòng thương xót
và nói: "Cô thiếu nữ đó say mê một tên hầu cận của
bệ hạ. Xin bệ hạ hãy cho phép người đó cưới cô ta
tức thị cô ta sẽ khỏi bệnh ngay."
Tội nghiệp nhà Vua! Nhà Vua đã quá
say mê thiếu nữ nên không thể để cô ta ra đi. Nhà
Vua đã quá yêu thương cô ta nên đành để cô ta chết.
NHÀ HIỀN TRIẾT KHỔNG PHU TỬ
Trang Tử ngày kia nói với Khổng Tử:
"Ngài là hạng hiền triết như thế nào mà có thể quả
quyết rằng Nhan Hồi nhân hơn ngài? Tuân Tử trí hơn
ngài? Tử Lộ dũng hơn ngài? Và Tử Cống nghiêm hơn
ngài?"
Vì nóng lòng muốn Đức Khổng Tử trả
lời, Trang Tử xê dịch về đầu kia manh chiếu và suýt
nữa thì ngồi ra ngoài. Ông nói: "Nếu đúng như ngài
nói, vậy tại sao cả bốn người đó lại là đệ tử của
ngài?"
Khổng Tử trả lời: "Ông cứ ngồi yên ở
vị trí đó đi và tôi sẽ nói cho ông biết: Nhan Hồi
biết nhân nhưng không biết bất nhân. Tuân Tử biết
trí nhưng không biết bất trí. Tử Lộ biết dũng nhưng
không biết bất dũng. Tử Cống biết nghiêm nhưng không
biết bất nghiêm. Đấy là lý do vì sao cả bốn người đó
đều vui vẻ học hỏi với tôi”.
Ông Jalal-ud-din Runi, người Hồi
Giáo, đã nói: "Bàn tay luôn luôn mở hay luôn luôn
nắm là một bàn tay tàn tật. Con chim không thể xòe
cánh ra và khép cánh lại thì chả bao giờ biết bay
được hết."
ÔI, TỘI SINH PHÚC!
Thần bí gia Do Thái là Baal Shem có
một cách cầu nguyện với Chúa hơi kỳ lạ: "Lạy Chúa,
xin Chúa hãy nhớ là Chúa cần đến con cũng như con
cần đến Chúa vậy. Nếu Chúa không hiện hữu thì con
cầu nguyện với ai? Nếu con không hiện hữu thì lấy ai
cầu nguyện với Chúa?"
Tôi cảm thấy vô cùng vui sướng khi
nghĩ rằng nếu tôi không phạm tội thì Chúa sẽ không
có cơ hội để thứ tha.
QUẢ DỪA
Từ trên cây cao một con khỉ ném xuống
một quả dừa trúng đầu một xu-phi.
Ông đã nhặt quả dừa lên, lấy nước dừa
uống, lấy cơm dừa ăn và lấy gáo dừa làm chén.
Cám ơn bạn đã chỉ trích tôi.
TIẾNG HÁT CA SĨ CHIẾM HẾT CĂN PHÒNG
Người ta nghe lén mẫu đối thoại sau
đây ở bên ngoài một phòng hòa nhạc.
"Ca sĩ nào thế! Tiếng hát chiếm hết
căn phòng!"
"Đúng thế. Nhiều người trong chúng
tôi phải ra ngoài để nhường chỗ cho tiếng hát đó!"
. . . . .
. .
Người ta cũng nghe lén mẩu đối thoại
dưới đây trong một buổi linh hướng:
“Làm thế nào để tôi có thể yêu mến
Chúa như Kinh Thánh dạy? Làm thế nào để tôi dâng
hiến trọn quả tim mình cho Chúa?
“Trước hết, bạn cần phải đổ ra khỏi
tim mình hết mọi vật thọ tạo”.
Một lời khuyên sai lầm. Đừng ngại đổ
tràn vào tim bạn mọi người và mọi vật mà bạn yêu
mến, vì Tình Yêu Thiên Chúa không chiếm chỗ trong
con tim bạn nhiều hơn tiếng hát của ca sĩ chiếm chỗ
trong phòng hát đâu.
. . . . .
. .
Tình yêu không giống như một ổ bánh
mì. Nếu tôi tặng bạn một khoanh bánh mì thì tôi còn
ít hơn để tặng người khác. Tình yêu giống như bánh
thánh: tôi lãnh nhận Chúa Kitô trọn vẹn – và bạn
cũng thế; và người thứ ba; và người thứ tư.
Bạn có thể yêu mến mẹ mình hết lòng;
và cũng yêu mến vợ con mình hết lòng. Điều kỳ diệu
trong tình yêu là không ai bị thua thiệt vì tình yêu
cải tiến phẩm chất mỗi lần con tim được trao tặng
cho một người khác.
Nếu một người bạn yêu một mình bạn và
không yêu ai khác hết, bạn nên khôn ngoan hơn mà
thối thúc người bạn đó hãy trao ban con tim mình cho
những người khác nữa đi bởi vi, nếu không, thi người
đó trao tặng cho bạn một con tim mỏng giòn (và thèm
khát).
CẢM TẠ VÀ XIN VÂNG
Yêu mến Thiên Chúa thế nào? Chắc chắn
không như yêu mến người phàm, mắt thấy tai nghe và
đụng chạm được, bởi vì Thiên Chúa không phải là một
con người theo đúng nghĩa đen. Ngài là một Đấng
không ai có thể biết được, một Đấng hoàn toàn khác
hẳn, vượt lên trên mọi từ ngữ như ông ấy và bà ấy,
người ấy và vật ấy.
Khi chúng ta nói cử tọa chiếm hết căn
phòng và tiếng hát ca sĩ chiếm hết căn phòng, chúng
ta dùng cũng một từ ngữ – chiếm hết –để chỉ hai thực
tại khác nhau. Khi chúng ta nói mình yêu mến Thiên
Chúa và yêu mến bạn bè, chúng ta cũng dùng một từ
ngữ – yêu mến - để chỉ hai thực tại hoàn toàn khác
biệt. Thật ra, tiếng hát của ca sĩ không chiếm hết
căn phòng; và chúng ta cũng không thể thực sự yêu
mến Thiên Chúa theo nghĩa thông thường của từ ngữ
đó.
Yêu mến Thiên Chúa hết lòng có nghĩa
là nói hết lòng Xin Vâng đối với sự sống; chấp nhận
không chút dè dặt tất cả những gì Thiên Chúa đặt để
trong đời sống chúng ta. Phải có thái độ như Chúa
Giêsu, khi Ngài nói: "Xin đừng làm theo ý con, nhưng
theo Thánh Ý Cha”.
Người ta tìm thấy công thức tuyệt
diệu thế nào là Yêu mến Thiên Chúa hết lòng trong
những lời nói sau đây của Dag Hammarsjold, cựu tổng
thư ký Liên Hiệp Quốc:
Đối với mọi điều đang xảy ra, xin Cảm
Tạ.
Đối với mọi điều sẽ xảy ra, xin Vâng.
Đó mới chính là những điều mà người
ta chỉ có thể hiến dâng lên một mình Thiên Chúa. Và
như vậy, Thiên Chúa sẽ không có đối thủ. Hiểu rằng
yêu mến Thiên Chúa nghĩa là như thế đấy, tức
là cảm nhận trực tiếp rằng điều đó không cản trở
chút nào việc ta hết lòng yêu mến bè bạn, một cách
say mê đắm đuối.
Tiếng hát ca sĩ chiếm hữu căn phòng
đầy ắp khán giả, điều đó không ai phủ nhận. Đám đông
khán giả không phải là đối thủ của tiếng hát ca sĩ.
Đối thủ duy nhất là một tiếng khác át đi tiếng hát
của ca sĩ. Thiên Chúa chiếm hữu trọn vẹn cõi lòng
của bạn, điều đó không ai phủ nhận. Số người mà lòng
bạn chứa chấp không có đối thủ. Đối thủ duy nhất là
khi có người hay vật làm cho thái độ của bạn trở nên
yếu kém khi đáp lại tiếng Xin Vâng và Cảm Tạ.
XIMONG PHÊRÔ
Cuộc đối thoại rút ra từ Phúc Âm.
Chúa Giêsu bảo họ: "Còn các con, các
con nói thầy là ai?"
Ximong Phêrô thưa: "Thầy là Con Thiên
Chúa Hằng Sống."
Chúa Giêsu trả lời ông: "Hởi Ximong,
con Giôna, con thật có phúc. Không phải xác thịt hay
máu huyết đã mặc khải điều đó cho con mà là Cha Thầy
ở trên trời."
Cuộc đối thoại thời nay:
Chúa Giêsu: "Còn con, con nói
Thầy là ai?"
Kitô hữu: " Chúa là Con Thiên Chúa
Hằng Sống."
Chúa Giêsu: "Đúng thế. Nhưng bất hạnh
thay, con học được điều đó từ một người phàm. Con
chưa được Cha Ta ở trên trời mặc khải cho con điều
đó."
Kitô hữu: "Lạy Chúa, thật thế. Con đã
bị đánh lừa. Ai đó đã cung cấp cho con mọi câu giải
đáp, trước khi Chúa Cha ở trên trời lên tiếng. Con
khâm phục sự khôn ngoan của Chúa, vì Chúa đã không
mớm lời nào cho Ximong, mà Chúa để cho Chúa Cha
truyền phán trước."
NGƯỜI PHỤ NỮ XỨ SAMARIA
Người phụ nữ để cái vò xuống, trở lại
trong thành và nói với dân chúng: "Hãy đến xem một
người đã nói cho tôi tất cả những gì tôi đã làm.
Chẳng phải người đó là đấng Cứu Thế sao?"
Kitô hữu:
"Ôi! Ước gì con có một người thầy
giống như người phụ nữ đó! Chị không đưa ra câu trả
lời nào cả. Chị chỉ đặt một câu hỏi. Hẳn chị cũng bị
cám dỗ muốn đưa ra một câu trả lời, vì chính chị đã
được nghe câu trả lời trực tiếp khi Chúa nói với
chị: "Đấng Cứu Thế chính là tôi đây, người đang nói
với chị."
Có nhiều người khác đã trở nên môn đệ
Chúa nhờ những điều họ nghe thốt ra từ miệng chị. Họ
đã nói với chị: "Chúng tôi tin không phải vì điều
chị đã nói: chính chúng tôi đã nghe thấy và chúng
tôi biết đó thật là Đấng Cứu Độ trần gian."
Kitô hữu:
"Lạy Chúa, Con từng tự mãn được biết
Chúa qua một trung gian: qua Thánh Kinh và các
Thánh; qua các đức giáo hoàng và các vị thuyết
giảng. Ước gì con có thể nói với tất cả họ: "Tôi tin
không phải vì những gì quí vị đã nói: chính đích
thân tôi đây đã nghe được tiếng Ngài."
THÁNH IGNATIUS LOYOLA
Thánh Ignatius Loyola, nhà thần
bí ở thế kỷ mười sáu, đã cho biết khi trở lại, ngài
không có ai khác để tham khảo ý kiến và chính Chúa
đã dẫn dắt ngài như một giáo viên dạy dỗ em bé. Có
lần ngài đã xác tín rằng, cho dù Thánh Kinh bị hủy
diệt hết, ngài vẫn bám víu vào những gì Kinh Thánh
mạc khải vì Chúa đã đích thân dạy dỗ ngài.
Kitô hữu:
Lạy Chúa, con không được may mắn như
Thánh Ignatius. Con có quá nhiều người để tìm đến
xin ý kiến. Họ đã làm con chán ngán vì những giáo
huấn dằng dai của họ, cho đến độ đã ngăn cản không
cho con nghe tiếng Chúa, giữa muôn tiếng kêu la inh
ỏi.
Con không bao giờ nghĩ rằng con có
thể đón nhận hiểu biết trực tiếp từ Chúa, vì chưng
họ đã nói: "Tất cả chúng ta là những bậc thầy của
các người: ai nghe chúng ta là nghe Ngài."
Nhưng thật sai lầm nếu con trách cứ
họ hay ân hận rằng họ đã hiện diện trong cuộc sống
của con. Chính con mới là kẻ đáng trách. Con đã
thiếu dứt khoát để buộc họ im; con đã không đủ can
đảm để tự mình đi tìm, cũng như không đủ kiên trì
chờ đợi cho tới khi Chúa lên tiếng; và con không xác
tín rằng, một ngày nào đó, ở một nơi nào đó, chắc
chắn Chúa sẽ phá tan sự im lặng để ngỏ lời với con."
|