HIẾN CHẾ TÍN LÝ VỀ MẠC KHẢI THIÊN CHÚA |
KHOÁ VIII
ngày 18 tháng 11 năm 1965
HIẾN CHẾ TÍN LÝ VỀ MẠC KHẢI THIÊN CHÚA 1*
(Bản dịch của Ủy Ban
Giáo Lý Đức Tin, HĐGMVN)
1. Lời
mở đầu
Khi thành
kính lắng nghe và dạn dĩ công bố Lời Thiên Chúa 2*, Thánh
Công đồng làm theo lời thánh Gioan: “Chúng tôi loan báo cho
anh em sự sống đời đời: sự
sống ấy vẫn hướng về Chúa Cha và nay đã
được tỏ bày cho chúng tôi. Điều chúng tôi
đã thấy và
đã nghe, chúng tôi loan báo cho cả anh em nữa, để chính anh
em cũng được
hiệp thông với chúng tôi, mà chúng tôi
thì hiệp thông với Chúa Cha và với Đức Giêsu
Kitô, Con
của Người” (1 Ga 1,2-3). Bởi thế, noi gương Công đồng
Triđentinô và Vatican
I, Công đồng này muốn trình bày giáo lý
chân thật về mạc khải của Thiên Chúa và về lưu truyền mạc
khải ấy, để nhờ việc rao giảng ơn cứu độ, toàn thể thế giới
nhờ nghe mà
tin, nhờ tin mà trông cậy, nhờ trông
cậy mà yêu mến 1. 3*
---------------
1*– Lược đồ
thứ nhất mang tựa đề “Lược đồ Hiến chế Tín lý về các nguồn
Mạc khải”. Trong lần soạn thảo thứ hai, lược đồ mang tên
“Lược đồ Hiến chế Tín lý về Mạc khải
của Thiên Chúa”. Nhưng vì bản văn nói
về Mạc khải rất ít nên có người đề nghị tựa đề
“Về
Thiên Chúa Đấng tự mạc khải”, hoặc “Về Thánh Kinh”. Trong
lần soạn thảo thứ ba, tĩnh từ “tín lý” bị loại bỏ, nhưng lại
xuất hiện trong bản văn cuối cùng.
2*– Nguyên văn viết tất cả hai chữ bằng
chữ hoa, nên ta không biết nó chỉ Ngôi Lời của
Thiên
Chúa hay Lời của Chúa, tức là Phúc Âm
3*– Ở đây
Công đồng trình bày: mục đích của mạc khải là cứu độ con
người chứ không
phải để thoả mãn óc tìm tòi của trí
khôn chúng ta. Quyền giáo huấn không phải là chủ
của
Lời Chúa nhưng là tôi tớ “lắng nghe” và vâng theo (số 10);
do đó, quyền giáo huấn
phải làm chứng những gì đã được trao
phó. Việc trích dẫn 1 Ga 1,2 -3 trình bày nội dung
mạc
khải (đời sống vĩnh cửu) như sự hiệp thông giữa con
người và Ba Ngôi Thiên
Chúa; nội dung đó được gửi đến cho mọi
người nhờ các chứng tá. Những điều trên
đương nhiên
đòi hỏi một hoạt động truyền giáo: việc “công bố ơn cứu độ”
(x. Cv 13,26; Ep 1,13).
CHƯƠNG
I: VỀ CHÍNH VIỆC MẠC KHẢI 4*
2. Bản
chất và đối tượng của Mạc khải
Do lòng nhân
lành và khôn ngoan, Thiên Chúa đã muốn mạc khải chính mình
và
tỏ cho biết mầu nhiệm của ý muốn Ng ài
(x. Ep 1,9); nhờ mầu nhiệm đó, loài người có
thể đến cùng Chúa Cha, nhờ Chúa Kitô,
Ngôi Lời nhập thể, trong Chúa Thánh Thần, và được thông phần
vào bản tính Thiên Chúa (x. Ep 2,18; 2 Pr 1,4). Vậy qua việc
mạc khải này, Thiên Chúa vô hình (x. Cl 1,15; 1 Tm 1,17), do
tình thương chan hòa của Ngài, đã ngỏ lời với loài người như
với bạn hữu (x. Xh 33,11; Ga 15,14-15) và liên lạc với họ
(x. Br 3,38) để mời gọi họ và chấp nhận cho họ đi vào cuộc
sống của chính Ngài. Nhiệm cục mạc khải này được thực hiện
bằng các việc làm và lời nói có liên hệ mật thiết với
nhau,
theo nghĩa là các việc Thiên Chúa thực hiện trong lịch sử
cứu độ biểu lộ và củng
cố cả giáo huấn lẫn những thực tại được
diễn tả bởi các lời; còn các lời thì công bố các việc làm và
làm sáng tỏ mầu nhiệm được chứa đựng trong đó 5*. Nhưng nhờ
mạc khải này, sự thật thâm sâu về Thiên Chúa cũng như về
công cuộc cứu độ con người nên
chiếu sáng
cho chúng ta trong Chúa Kitô, Đấng vừa là Trung gian vừa là
sự viên mãn của toàn thể mạc khải 2. 6*
-------------
4*– Chương này xuất hiện ở trong lược
đồ thứ ba. Trong các lược đồ trước, lời mở đầu
chỉ
bàn sơ qua về vài khía cạnh như “sự cần thiết và đối tượng
của Mạc khải” (số 1), “Mạc khải tiệm tiến” (số 2) v.v...
Nhưng nhiều Nghị Phụ đòi bàn về chính việc Mạc khải,
vì Mạc khải chứa đựng không những các
chân lý về Thiên Chúa mà cả sự kiện Thiên Chúa tự mạc khải.
Trong chương này, Công đồng đã muốn trình bày Mạc khải dưới
cái
nhìn của con người để thích ứng hơn với
những đòi hỏi của con người thời nay. Phải xem xét trọn giáo
thuyết này dưới ánh sáng của lịch sử cứu độ. Thiên Chúa phó
mình
cho con người ngay từ khi tạo dựng vũ
trụ. Bố cục của chương này như sau: số 2: Sự kiện Chúa phó
mình và từ đó tự mạc khải; số 3 và 4: Các giai đoạn Mạc khải
và sự hoàn
thành trong Chúa Kitô; số 5: Thái độ ở
con người để tiếp nhận mạc khải; số 6: Các chân lý Mạc khải.
5*– Nền thần học Công giáo đã thường
coi Mạc khải như một lời nói; còn các hoạt động
của
Thiên Chúa bị liệt vào hàng rất phụ thuộc. Công đồng lại
muốn trình bày là Thiên Chúa tự mạc khải trước tiên bằng
“hành động” (gesta) (không bằng việc làm [facta] vì
việc làm có vẻ một tác động vật
chất hơn). Ở đây, chữ “hoạt động” còn có nghĩa là
những
biến cố do một người gây nên; trong trường hợp này, người ấy
chính là Thiên
Chúa. Thiên Chúa tự mạc khải bằng cách
hoạt động phù trợ dân Ngài, thăm viếng bạn
hữu
(Abraham, Môsê) và bằng các phép lạ (ví dụ Chúa Kitô) v.v...
Trước đó, số 2 này mang tựa đề:
“Sự cần thiết của Mạc khải”, sau đổi thành “Bản tính và
đối tượng”. Chúng ta thấy Mạc khải phát xuất không do “sự
khôn ngoan và
lòng nhân lành của Thiên Chúa” như
Vatican I đã nói (Dz 1785/3004) nhưng do “Thiên Chúa nhân
lành và khôn ngoan”. Đối tượng là chính Thiên Chúa và Nhiệm
cuộc cứu rỗi
của Ngài. Ở đây Công đồng dùng tiếng
“bí tích” để nói lên dấu chỉ và phương tiện, lời
nói
và hành động (x. GH I). Mạc khải là ơn hoàn toàn nhưng-không
của tình yêu Thiên
Chúa, tỏ bày cho các “bạn hữu” như
trong một cuộc đối thoại, nghĩa là không những nói
mà
còn sống chung nữa.
6*– Câu này không thấy trong những lần
soạn thảo trước, sau được thêm vào do đề
nghị của
nhiều Nghị Phụ. Vấn đề quan trọng là phải xem Chúa Kitô là
trung gian duy nhất của Mạc khải vì Người là Lời mà Chúa Cha
nói với chúng ta, và là sự viên mãn vì trong Người, Chúa Cha
nói với chúng ta tất cả mọi sự. Vì vậy Mạc khải có Kitô tính.
3.
Chuẩn bị Mạc khải Phúc Âm 7*
Thiên Chúa, Đấng tạo dựng và bảo tồn
mọi sự nhờ Ngôi Lời (x. Ga 1,3), không ngừng làm chứng cho
loài người về chính mình nơi các thọ tạo (x. Rm 1,19-20) 8*;
hơn
nữa, vì muốn mở ra con đường cứu độ cao
vời, ngay từ khởi thủy, Ng ài đã tỏ mình ra
cho nguyên tổ biết. Sau khi tổ tông sa
ngã, bằng việc hứa ban ơn cứu chuộc, Ngài đã nâng họ dậy
hướng tới niềm hy vọng cứu độ (x. St 3,15). Ngài đã không
ngừng săn sóc
nhân loại, để ban sự sống đời đời cho
tất cả những ai tìm kiếm ơn cứu độ bằng cách
kiên tâm làm việc lành (x. Rm 2,6-7)
9*. Khi đến thời gian đã định, Ngài đã gọi Abraham để làm
cho ông thành một dân lớn (x. St 12,2-3), một dân tộc mà sau
thời các Tổ phụ, Ngài đã dùng Môsê và các ngôn sứ mà dạy dỗ,
để họ nhận biết Ngài là Thiên Chúa duy nhất, hằng sống và
chân thật, là Cha quan phòng, là Thẩm phán chí công,
và để họ trông đợi Đấng Cứu Thế Ngài đã hứa ban. Như thế,
qua các thời đại, Ngài đã dọn
đường 10*
cho Phúc Âm.
------------------
7*– Đề mục
tổng quát của đoạn này là sự trông chờ Mạc khải của Chúa
Kitô. Mạc khải này thể hiện từng giai đoạn, ta có thể gọi là
Mạc khải qua vũ trụ, Mạc khải sơ khai và Mạc khải trong lịch
sử.
8*– Bản văn xác nhận sự kiện “Mạc khải
qua vũ trụ” hay qua “thọ tạo” theo Thư gửi tín hữu Rôma
1,19-20. Nhưng bản văn phúc trình không muốn giải quyết vấn
nạn là trong
thực tế Thiên Chúa có ban ơn để người
ta có thể nhận biết Chúa qua thọ tạo hay không (Relatio đính
kèm lược đồ III, 1964, tr. 11, 3 A). Thiên Chúa mạc
khải khi tạo dựng;
nhưng nên chú ý là bản văn nói “Chúa
tạo dựng” chứ không nói “Chúa đã tạo dựng” để
chỉ rõ là
tất cả các thọ tạo luôn luôn tùy thuộc vào Đấng Tạo Hoá,
dầu cả trong giả thuyết tiến hoá. Mọi người đều có thể
thấy nơi thọ tạo bằng chứng sự hiện hữu của Thiên Chúa.
Chính đây là nền móng cho thần học của các tôn giáo ngo ài
Kitô giáo.
9*– “Mạc khải sơ khai” được trình bày
trong tầm mức siêu nhiên. Bản văn loại bỏ vấn đề độc tổ
thuyết hay đa tổ thuyết, mà chỉ muốn nói là Thiên Chúa đã tỏ
mình cho con người (không nói bằng cách nào), cũng như
chỉ muốn nói là Thiên Chúa đã luôn luôn cứu
thoát
con người, và tình trạng này vẫn có giá trị ngay cả bây giờ
(xem GH 16).
10*– “Mạc khải trong lịch sử” bắt đầu
với Abraham. Công đồng đã muốn nêu lên mối liên lạc giữa
việc tuyển chọn và Mạc khải. Thiên Chúa được gọi là “Cha”,
nhưng các chữ “của mọi người” lại bị loại bỏ vì trong Cựu
Ước phổ quát tính chưa rõ ràng lắm.
Cựu Ước được
coi như là sự “chuẩn bị” cho Phúc Âm để nói lên ý tưởng Mạc
khải trong Cựu Ước còn bất toàn và có liên quan đến Mạc khải
của Chúa Kitô.
4. Chúa
Kitô hoàn tất mạc khải 11*
Sau khi phán dạy nhiều lần nhiều cách
qua các ngôn sứ, “vào thời sau hết này, Thiên Chúa đã phán
dạy chúng ta qua Thánh Tử” (x. Dt 1,1-2) 12*. Thật vậy, Ngài
đã sai Con Ngài là Ngôi Lời vĩnh cửu, Đấng soi sáng mọi
người, đến sống giữa loài người và nói cho họ nghe những
điều kín nhiệm nơi Thiên Chúa (x. Ga 1,1-18). Bởi vậy, Đức
Giêsu Kitô, Ngôi Lời thành xác phàm,
“con người đã được sai đến với những con
người” 3, “đã nói lời của Thiên Chúa” (Ga
3,34) và hoàn thành công trình cứu độ Chúa Cha đã giao phó
cho Người thực hiện (x. Ga 5,36; 17,4). Vì thế, chính Người,
Đấng mà ai thấy là thấy Chúa Cha (x. Ga 14,9), bằng toàn thể
sự hiện diện và tỏ mình ra bằng lời nói và việc làm, bằng
các dấu chỉ và phép lạ, nhất là bằng cái chết và sự sống lại
vinh quang từ trong kẻ chết, sau cùng bằng việc cử Thánh
Thần chân lý đến, Người đã bổ túc và hoàn tất mạc khải và
xác nhận mạc khải bằng một chứng cứ thần linh là Thiên Chúa
ở với chúng ta để giải thoát chúng ta khỏi bóng tối tội lỗi
và sự chết, rồi cho chúng
ta sống lại
để được sống đời đời.
Vậy nhiệm cục Kitô giáo sẽ không bao
giờ mai một, vì là giao ước mới và vĩnh viễn. Chúng ta không
phải chờ đợi một mạc khải công khai mới nào khác nữa trước
ngày Đức Giêsu Kitô Chúa chúng ta tỏ mình ra trong vinh
quang (x. 1 Tm 6,14; Tt 2,13).
13*
------------------------
11* – Số này đáp ứng số 2: Mạc khải
được thể hiện bằng hành động và ngôn từ. Chúa
Kitô vừa là
biến cố vừa là Lời của Thiên Chúa. Có hai đoạn: đoạn thứ
nhất cắt nghĩa tại
sao Chúa Kitô đem lại cho chúng ta Mạc
khải viên mãn; đoạn hai nói Mạc khải này là tối
hậu
và sẽ không còn mạc khải nào khác nữa.
12*– Công
đồng đánh dấu sự liên tục và tương phản giữa Mạc khải của
Chúa Kitô với
những gì xảy ra trước. Một đối với
nhiều, như toàn thể đối với phân tán. Nhập Thể là cuộc Mạc
khải vĩ đại của Thiên Chúa. Vì vậy trước tiên phải xác định
chân lý Nhập Thể, bản tính nhân loại thật sự của Chúa Kitô,
trong đó ta “thấy” Chúa (x. Ga 14,9) là lịch sử
thật
của Người, “lời nói và việc làm”. Các phép lạ không phải chỉ
là sự “xác nhận” Mạc khải, nhưng là chính Mạc khải: vì chính
Chúa Kitô tỏ mình qua phép lạ.
13*– Theo ý tưởng của Thư gửi tín hữu
Do-thái, Mạc khải cũng như chức linh mục của Chúa Kitô phải
là độc nhất và vĩnh cửu. Một vài nghị phụ muốn nói là “vì
Mạc khải chấm
dứt với các tông đồ”, nhưng Uỷ Ban bác
bỏ ý kiến trên “vì đó là một lời giải thích đang được bàn
cãi”. Lý do sâu xa: vì Chúa Kitô là sự viên mãn và như vậy
hoàn tất Mạc khải, nên không còn gì vượt trên sự viên mãn
nữa. Nhưng cuộc Mạc khải còn chờ sự vinh quang của ngày
Quang Lâm. Còn vấn đề tiến triển: không phải tiến triển
trong Mạc khải,
nhưng tiến triển chính trong việc chúng
ta hiểu và thực hành Phúc Âm; đó là công việc
của
Chúa Thánh Thần, Đấng không nói sự gì mới lạ nhưng làm chứng
về Chúa Kitô (x. Ga 16,14).
5. Phải
đón nhận Mạc khải bằng đức tin
Phải bày tỏ “sự vâng phục bằng đức tin”
(Rm 16,26; x. Rm 1,5; 2 Cr 10,5 -6) đối
với Thiên
Chúa, Đấng mạc khải. Nhờ sự vâng phục đó, con người tự do ký
thác mình
trọn vẹn cho Thiên Chúa bằng cách “dâng
lên Thiên Chúa, Đấng mạc khải, sự quy phục trọn vẹn của lý
trí và ý chí” 4, và bằng cách tự ý ưng thuận mạc khải Ngài
đã ban. Để có được đức tin này, cần có ân sủng Thiên Chúa
đến trước giúp đỡ và sự trợ giúp bên trong của Chúa Thánh
Thần: Ngài đánh động và quy hướng con tim về cùng
Thiên Chúa, Ngài mở mắt lý trí và cho “mọi người cảm thấy
dịu ngọt khi ưng thuận và tin vào chân lý” 5. Và để người ta
hiểu biết mạc khải sâu xa thêm mãi, cũng chính Chúa Thánh
Thần không ngừng ban các ân huệ mà kiện
toàn đức tin. 14*
----------------
14* – Trong số này, Công đồng trình bày
lời đáp của con người đối với Thiên Chúa mạc khải: đó là đức
tin, nhưng đức tin được hiểu dưới phương diện nhân bản, như
một cuộc
“đối thoại cứu độ” (Ecclesiam Suam,
ngày 6-8-1964, số 72-79). Công đồng cũng nhận
định những khía cạnh của hành vi đức
tin: tự do, thuộc lý trí, thuộc ý chí, không thể có nếu
không có ơn Chúa… Kiểu nói “vâng phục bằng đức tin” không
được trình bày như một đòi buộc luân lý suông nhưng như
là một đòi hỏi chính yếu của mối liên hệ mà Thiên Chúa
mạc khải nối kết với con người. Trong hành vi đức tin, con
người dấn thân
toàn diện chứ không phải chỉ bằng lý
trí. Ở đây bàn đến “đức tin đã hình thành” bao gồm cả đức
cậy và đức mến, như ta có thể phỏng đoán theo những câu
trích Thánh
Kinh. Nhưng Uỷ Ban cắt nghĩa thêm: “Đức
tin chưa hình thành” cũng là đức tin và cũng
cần ơn Chúa
Thánh Thần. Đức tin luôn luôn lớn mạnh dưới tác động cũng
của chính Chúa Thánh Thần.
6. Mạc
khải và sự hiểu biết tự nhiên về Thiên Chúa
Bằng cách
mạc khải 15*, Thiên Chúa đã muốn biểu lộ và thông ban chính
mình
Ngài cùng những ý định muôn đời của
Ngài liên quan đến việc cứu độ nhân loại, “nghĩa là cho
người ta được tham dự vào các của cải của Thiên Chúa hoàn
toàn vượt quá trí
hiểu loài người” 6. 16*
Thánh Công đồng tuyên xưng rằng “con
người có thể nhận biết Thiên Chúa,
nguyên lý và
cứu cánh mọi sự cách chắc chắn , nhờ ánh sáng tự nhiên của
lý trí suy
luận từ các thọ tạo” (x. Rm 1,20).
Nhưng Công đồng cũng dạy rằng phải nhờ Thiên Chúa mạc
khải, mới có “điều này là, tất cả những gì thuộc về Thiên
Chúa, tự chúng vốn không vượt quá khả năng lý trí, trong
hoàn cảnh hiện tại của nhân loại, con người có thể
biết
được cách dễ dàng, chắc chắn và không lẫn lộn sai lầm” 7.
17*
-------------------------
15* – Trong số
này, Công đồng bàn về các chân lý được mạc khải, trước hết là
các
chân lý siêu nhiên, rồi đến các chân lý tự
nhiên. Công đồng nói theo Vatican I. Nhưng
thứ tự ở Vatican
I là: a) tri thức tự nhiên về những chân lý tự nhiên, b) tri
thức những
chân lý tự nhiên nhờ Mạc khải, c) tri thức
chân lý siêu nhiên nhờ Mạc khải. Đang khi đó thứ tự ở đây lại là
c-a-b: nghĩa là theo một viển tượng Kinh Thánh và quy về Thiên
Chúa
hơn.
16* – Đoạn này
nói lên đối tượng riêng biệt của Mạc khải, nghĩa là đối tượng mà
chúng ta cần được mạc khải: chính
Thiên Chúa và những ý định cứu độ của Ngài (x. Relatio, tr. 9,
5). Mạc khải này không phải chỉ là một sự thông đạt kiến thức
nhưng cũng có mục đích cứu độ con
người nghĩa là thông phần vào đời sống Thiên Chúa.
17*– Phần thứ
hai của số 6 lặp lại giáo thuyết của Công đồng Vatican I về việc
nhận biết Thiên Chúa bằng lý trí, nhưng Công đồng dùng những từ
ngữ rất mạnh để chống lại thuyết vô
thần. Nhưng chữ “tuyên xưng” và “dạy” ở phần này nói lên một tín
điều. Con người thật sự có thể nhận biết Thiên Chúa nhưng họ
không thể không sai lầm nếu
Thiên Chúa không giúp đỡ. Lịch sử minh
chứng rằng con người luôn luôn tìm kiếm
Thiên Chúa nhưng không bao giờ thoát khỏi
lầm lẫn; và trong thực tế, ảnh hưởng của
tội lỗi hình như đã làm cho thế giới thường
trở thành một chướng ngại vật. Tuy nhiên, trong “nhiệm cuộc” cứu
độ chúng ta đang sống, một tri thức hoàn toàn tự nhiên chỉ là
một tư tưởng trừu tượng, vì ơn Chúa hiện diện khắp mọi nơi.
(còn tiếp nhiều kỳ)
|
VỀ MỤC LỤC |
|
SỐNG ĐẦY
-
Live fully
|
Giữa lúc dòng đời anh trôi qua như một dòng
nước lững lờ, một hôm có người bạn tên Vy cho anh xem một trang
mạng thú vị. Trang mạng ấy có một chiếc đồng hồ điện tử được lập
trình để đếm thời gian còn lại của đời người. Chỉ cần điền một
vài thông tin cá nhân vào, nó sẽ ước tính người ấy còn bao nhiêu
ngày tháng để sống.
Chỉ là một trò chơi vô thưởng vô phạt? Có
thể!
Nhưng, trò chơi ấy đã thay đổi thái độ sống
của anh khi anh nhìn chiếc đồng hồ đếm thời gian đời anh đang
giảm xuống. Một giây hai giây ba giây….mười giây….năm mươi giây,…
thoáng một cái đã hết một phút hai phút ba phút, rồi một giờ hai
giờ ba giờ…..Mới đó mà anh đã mất hơn mười ngàn giây trong quỹ
thời gian sống trên đời của anh. Có những người trên đời này chỉ
mong sống thêm vài phút để nói một lời cảm ơn, để ngỏ một lời
xin lỗi, để trao một nụ cười cuối cùng mà không được. Anh giật
mình, hốt hoảng. Vậy là anh đã sống được nhiều thời gian lắm rồi
và thời gian đang trôi qua vùn vụt, vùn vụt. Càng lớn tuổi thì
ngày tháng càng tăng tốc. Mình phải sống khác đi thôi, anh tự
nhủ. Từ ngày ấy, anh quyết định sống thật đầy thời gian của mình.
Sống đầy có cái lợi là làm cho người ta đẹp lên và bình an hơn.
Ngày của anh hôm nay thật khác xưa.
Buổi sáng thức dậy, anh cảm ơn Trời Cao đã
gìn giữ anh qua một đêm an lành và đang ban tặng thêm một ngày
mới để anh tiếp tục yêu và được yêu.
Anh đánh răng, những chiếc răng thưa thớt
dần và thỉnh thoảng vẫn tấy đau. Anh chép chép miệng thưởng thức
vị mát của kem đánh răng, cầu nguyện cho những người không còn
gì để đánh.
Mặc chiếc áo thung màu vàng, anh thầm cảm
ơn người cô bạn học ngày xưa hôm bữa gặp được đợt bán quấn áo rẻ
đã mua tặng để anh đi làm. Anh cầu mong cô ấy có một ngày an vui.
Anh làm nghề thợ hồ, một trong những nghề
vất vả nhất. Ngày xưa anh hay so sánh mình với kẻ khác để rồi tự
ti mặc cảm, chán nản. Hôm nay, mỗi lần khuôn vác từng viên gạch,
xách từng xô cát trộn xi-măng, anh cảm ơn Trời Cao vì anh đang
có công ăn việc làm. Công việc khuôn vác không còn là gánh nặng
mà là cơ hội tập thể dục cho khỏe thân thể! Vừa khỏe vừa có tiền!
Ngày xưa anh chỉ thấy những gạch đá gồ ghề nặng nhọc. Bây giờ
anh tự hào khoe với bạn bè rằng anh đang góp tay xây dựng những
mái ấm. Anh cầu nguyện cho những ai thất nghiệp, muốn làm mà
chẳng có việc làm.
Một ngày cuối thu, có người bạn mời anh đi
ra thủ đô dự đám cưới của người thân. Người bạn đài thọ vé máy
bay cho anh. Lần đầu tiên đi máy bay, cảm giác hay hay lạ lạ.
Lúc lơ lửng qua những đám mây muôn hình muôn vẻ biến hóa, anh
dâng lời tạ ơn Trời Cao đã thương ban cho anh một cơ hội bay lên.
Anh nhớ đến những ai không có phương tiện đi lại, chẳng hạn cô
Sáu trong làng suốt ngày phải đi bộ và hầu như chưa bao giờ đặt
chân đến chốn phố thị phồn hoa tráng lệ.
Thế rồi kinh tế lâm vào giai đoạn khủng
hoảng, anh bị thất nghiệp. Gia đình phải thắt lưng buộc bụng. Vì
mưu sinh anh đi xin việc ở các nơi. Nhiều ngày tháng trôi qua mà
vẫn chưa tìm được. Nhưng anh không bực dọc nản chí vì anh tự nhủ
đây là một cơ hội để anh nghỉ ngơi, chăm sóc những lãnh vực khác
của cuộc sống mà lúc có việc anh không đủ thời gian để ngó ngàng.
Mỗi lần trời trở lạnh, chứng phong thấp lại
hành hạ anh. Các khớp xương cứ thi nhau mà mỏi mà đau. Thay vì
than thân trách phận như ngày xưa, bây giờ anh không những bình
tâm đón nhận giới hạn con người mình mà còn cảm tạ Trời Cao cho
anh biết đau để anh được lớn lên hơn trong sự nhạy cảm đối với
nỗi đau của tha nhân.
Nơi anh làm việc, người ta chưa có ý thức
lắm về việc giữ gìn vệ sinh công cộng. Nhiều lần khi đi vệ sinh
thấy có người bỏ giấy ra ngoài giỏ đựng rác, anh cúi xuống lượm
cho vào giỏ, cảm thấy mình đã chiến thắng được sự bực dọc cũng
như thái độ dửng dưng mặc kệ coi như không thấy gì.
Lần nọ anh đi xe máy, có người lái xe cẩu
thả quẹt vào xe anh. Người đó không biết lỗi còn lớn tiếng chửi
thề. Nếu chuyện ấy xảy ra trước đây thì có lẽ anh đã không tha
cho hắn. Nhưng hôm nay anh chỉ nhìn nhẹ, không để những lời nói
gió thoảng mây bay làm bận tâm, tiếp tục con đường của mình. Anh
cầu nguyện cho hắn bình tĩnh lại kẻo sẽ gây tai nạn mà khổ.
Thỉnh thoảng trên đường đi làm về, anh gặp
những người hành khất vãng lai. Nếu có chút gì thì anh tặng họ,
vừa tặng vừa cảm ơn vì trong thâm tâm anh họ đang làm phước cho
anh có một cơ hội để trở nên vị tha hơn. Nếu không có vật chất,
anh trao một nụ cười thân thiện và xin lỗi. Rồi anh thầm cầu
nguyện cho họ đủ no ấm.
Vào ngày cuối tuần, anh dành thời gian chăm
sóc đời sống tâm linh của mình. Hôm nào đi nhà thờ thấy ghế
trống nhiều anh cầu nguyện cho những người không thể đi Lễ, hi
vọng họ thuận buồm xuôi gió trong mọi sự. Anh cũng nhớ cầu
nguyện cho những người không muốn đi Lễ sẽ tìm lại được ý nghĩa
tốt lành của Thánh Lễ. Những ai thiếu sốt sắng, anh mong họ được
bình tâm tin tưởng vào tình yêu không bao giờ thay đổi của Chúa.
Anh cảm tạ Chúa vì có Người luôn bên anh để giữ gìn hơi ấm tâm
hồn anh. Anh trân trọng những giây phút được ngồi thinh lặng cầu
nguyện vì nhờ đó anh sống được những giá trị tốt đẹp để tinh
thần an vui, chẳng hạn như tha thứ, bao dung, nhẫn nại, cảm
thông, hi sinh, lạc quan, dũng cảm,…
Sau Thánh Lễ, anh có thói quen ghé vào công
viên ngồi đọc sách. Anh thầm cảm ơn tác giả đã viết sách. Ngắm
người qua lại trên đường, anh cầu mong cho họ luôn tìm thấy bình
an hạnh phúc trong cuộc sống.
…
Nhìn từ nên ngoài vào bằng cặp mắt bình
thường sẽ thấy cuộc sống của anh cũng như mọi người. Nhìn từ
trong ra qua đôi mắt của anh, đất trời ngập chìm trong ân sủng,
tất cả mọi trường hợp là những cơ hội để sống tròn đầy.
Giuse Việt, O.Carm.
Live fully
A friend of his – Vy – sent him a web page
in which there was a clock counting down the time of one’s life.
He just needed to fill out some information and it would count
down the time he had left to live.
A game? Maybe!
But, that game has changed his living
attitude when he saw in that clock a simple thing: his time was
being reduced. One second two seconds three seconds…ten
seconds…fifty seconds…one minute five minutes ten minutes…one
hour two hours…were quickly gone. More than ten thousand seconds
disappeared like…no time. Many people in this world wanted to
live for only a few minutes just to say a last ‘thank you’, a
last ‘sorry’ or to give a last smile, but they didn’t have that
treasure. He was startled, even panic.
Obviously he had lived a lot of time of his
life and his time left was passing very quickly. The truth is
clear: The older one gets, the faster time flies. “I have to
live differently now!” he said to himself. From then on, he
decided to live fully his time. Living fully one’s time has the
following benefit: one becomes more peaceful and beautiful.
The way he lives each day now is radically
changed.
Waking up, he thanks God for having granted
him a good night and for offering him a new day so he can
continue to love and to be loved.
He brushes his teeth that get weaker each
day and give him sore and pain at times. He enjoys the
refreshing flavor of the tooth paste, praying for those who no
longer have anything to brush.
Putting on the yellow T-shirt, he
prayerfully thanks his classmate for her generosity of this gift
that she bought when the clothes were on sale. He hopes she will
have a good day.
Construction work is his job, one of the
most tiring jobs. Some time ago, he would compare him with
others and then suffer low self-esteem. Today, each time he
carries bricks or masonry mortar, he thanks God for having a job
to do. His heavy work is no longer a burden but becomes an
opportunity for him to do some physical exercise. Health and
money go together! Before, he only saw ugly bricks and stones.
Today, he is proud to say to his friends that he is helping
build homes. He keeps in prayer those who are jobless, wanting
to do something but finding no work.
Recently, one of his friends offered him a
plane ticket to go to the capital for a wedding. The first time
he flew, interesting feelings he had! While passing through the
clouds with millions of shapes and forms, he thanked God for
giving him a great opportunity to be up high. He remembered
those who did not have good means of transportation; for
instant, Mrs Sau in his town only traveled by foot and never
reached to the big city.
Then came the economy crisis. He was laid
off. His family has to save every penny. He goes to different
places to look for a job. Many months have passed but he still
remains jobless. But he does not get upset or discouraged since
he tells himself that this would be a good chance to rest and
take care of the aspects of life that he could not have time to
pay attention to when he was with work.
When it is cold, his arthritis makes him
suffer quite a bit. His joins hurt badly. Instead of complaining
and rebelling as before, now he not only accepts willingly his
human fragile limitations but also thanks God for this
experience that helps him grow in his sensitivity to the
suffering brothers and sisters.
The people in this big building have not
been very conscious of keeping the common place clean. When
using the restroom, often enough he sees papers dropped outside
the trash bin, he bends down to pick them up and puts them into
the bin, feeling glad that he has overcome the temptation of
being indifferent.
Yesterday, while he was on the motorbike,
some careless driver almost hit his vehicle. That person did not
apologize but raised his voice in cursing. If this had happened
before his ‘attitude conversion’, he would have hit that person
on the face. But he has decided to be different. So he only
looked at the person calmly without letting those words of
vanity invade his spirit, and continued his way. He prayed for
that person to keep calm so as not to cause any accident.
On the way home, sometimes he runs into
beggars. If he has something to offer them, he would do so in
thanking them because for him they are giving him an opportunity
to enlarge his heart. If he does not have anything material to
share, he gives them a friendly smile and says ‘sorry’. Then he
prays for their well-being.
On weekends, he spends time on taking care
of his spiritual life. When seeing empty seats in the church, he
prays for those who cannot come to Mass that things go well for
them. He also prays for those who do not want to go to church
that they may find the joyful meanings of the Eucharistic
celebration. For those who lack enthusiasm, he prays that they
always trust in the unchanging and unconditional love of God. He
thanks God for being beside him always to keep warmth for his
heart. He treasures the silent moments he sits still in prayer.
Thanks to them, he can live good values such as compassion,
patience, sympathy, forgiveness, tolerance, generosity,
sacrifice, optimism, courage, prudence… and so gains peace and
joy.
After Mass, he has a habit to sit for a
while in the park nearby to read. He quietly thanks the author
of the book for the insights. Watching passers-by, he prays that
they always find peace and happiness in life.…
Looking from outside in with normal eyes,
his life appears normal like everyone else’s. Contemplating from
inside out through his eyes, heaven and earth are filled with
grace and every situation is an opportunity to live life to the
full.
Joseph Viet, O.Carm.
Blog cá nhân:
http://only3minutes.wordpress.com/ |
VỀ MỤC LỤC |
|
Giáo Hội, nữ tỳ của Lời Chúa |
Lời Mời gọi của HĐGMVN:
Giáo Hội tại Việt Nam phải “phát động chương
trình mỗi gia đình một cuốn Kinh Thánh được đặt nơi xứng hợp, cổ
võ đọc và cầu nguyện với Lời Chúa”, khuyến khích học thuộc lòng
những đoạn Kinh Thánh cốt yếu. Mọi thành phần Dân Chúa, giáo
dân, chủng sinh, tu sĩ và các mục tử, cần tập thói quen đọc và
suy niệm Lời Chúa hằng ngày, đặc biệt theo phương thức
Lectio divina. (Thư Chung của HĐGMVN, ngày
1.5.2011, số 11)
Xin giới thiệu cho nhiều người thân tham gia Gia Đình
Lectio Divina
Lecdiv@gmail.comđể
có thể hiệp thông với nhau trong đời sống cầu nguyện và cùng
giúp nhau thực hành "điều cần thiết nhất trong mọi điều cần
thiết".
Đan
viện Xitô Thánh Mẫu Tâm Mỹ Ca, Nha Trang, sẽ cầu nguyện lâu dài
cho tất cả những ai trung thành thực hành và cố võ việc thực
hành Lectio divina.
Mọi thắc mắc về Lectio divina, xin gởi email cho cha Bảo
Tịnh, O.Cist
fr.baotinh@yahoo.fr
*****
Tác Phẩm: MỘT VỊ THIÊN CHÚA NGỎ LỜI!
Thiên Chúa tỏ mình cho con người thế nào?
Chuyển ngữ:
Thérèse Trần Thiết
Fr. Marie Bảo Tịnh O.Cist
Nguyên tác:
Michel HUBAUT
UN DIEU QUI PARLE!
Comment Dieu se révèle-t-il à l’homme?
Chương 9
LINH HỨNG TRONG TÂN ƯỚC
(tiếp theo)
Giáo Hội, nữ tỳ của Lời Chúa
Trong sách Công Vụ và các Thư của thánh Phao-lô, “Lời Chúa”
thường để chỉ những lời “giảng huấn của các tông đồ”, vì đó là
sứ vụ đặc thù của người Tông Đồ. Chủ đề chính yếu của việc giảng
huấn này bao giờ cũng là công trình của Thiên Chúa được thành
toàn nơi Đức Giê-su Ki-tô, chịu chết và được sống lại, và nhờ
Người mà chúng ta được tha tội, được cứu rỗi. Đối với Phao-lô, ý
nghĩa của Kinh Thánh, “mầu nhiệm còn giấu ẩn”, kế hoạch của
Thiên Chúa đều được vén mở nơi Đức Giê-su Ki-tô.
Các Tông Đồ và những người kế vị các ngài đều có một ý thức sâu
sắc về sứ vụ tông đồ của họ là truyền đạt Lời Chúa cách trung
thành; là “phụng sự” Lời: “Còn chúng tôi, chúng tôi sẽ chuyên
lo cầu nguyện và phục vụ Lời Thiên Chúa”
(Cv 6,
4).
“Giờ đây, lạy Chúa, xin để ý đến những lời ngăm đe của họ,
và cho các tôi tớ Ngài đây được nói lời Ngài với tất cả sự mạnh
dạn. Xin giơ tay chữa lành, và thực hiện những dấu lạ điềm
thiêng, nhân danh tôi tớ thánh của Ngài là Ðức Giê-su". Họ cầu
nguyện xong, thì nơi họ họp nhau rung chuyển; ai nấy đều được
tràn đầy Thánh Thần và bắt đầu mạnh dạn nói lời Thiên Chúa”
(Cv 4, 29-31).
Trong các văn bản của Tân Ước, “Lời Chúa” lại chủ yếu nhắm tới
sứ điệp của ơn cứu độ do Đức Ki-tô mạc khải, Tin Mừng không phải
là một hệ thống triết học, nhưng là một con đường phải
theo. Lời Chúa phải được loan truyền trong khắp thế giới.:
“Vậy anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm
phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần,
dạy bảo họ tuân giữ những điều Thầy đã truyền cho anh em. và đây,
Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế”
(Mt 28,
19-20).
“Vậy những người phải tản mác này đi khắp nơi loan báo lời
Chúa” (Cv 8, 4);
“Sau khi đã long trọng làm chứng và nói lời
Chúa, hai Tông Ðồ trở về Giê-ru-sa-lem và loan Tin Mừng cho
nhiều làng miền Sa-ma-ri” (Cv
8, 25).
“Ðến Xa-la-min, hai ông Phao-lô và Ba-na-ba loan báo lời
Thiên Chúa trong các hội đường người Do-thái. Có ông Gio-an giúp
hai ông”
(Cv 13, 5).
“Quả thế, từ nơi anh em, lời Chúa đã vang ra, không những ở
Ma-kê-đô-ni-a và A-khai-a, mà đâu đâu người ta cũng nghe biết
lòng tin anh em đặt vào Thiên Chúa, khiến chúng tôi không cần
phải nói gì thêm nữa”
(1 Tx 1, 8).
Một Lời của Thiên Chúa để truyền đạt cách trọn vẹn, chứ không
xuyên tạc: “Thật thế, chúng tôi không phải như nhiều người,
những kẻ xuyên tạc Lời Chúa, mà với tư cách là những người trung
thực, được Thiên Chúa sai đi, chúng tôi lên tiếng trước mặt
Người, trong Ðức Ki-tô”
(2 Cr 2, 17).
“Bởi thế, vì Thiên Chúa đoái thương giao cho chúng tôi công
việc phục vụ, nên chúng tôi không sờn lòng nản chí. Trái lại,
chúng tôi khước từ những cách hành động ám muội, đáng xấu hổ, và
không dùng mưu mô mà xử trí, cũng chẳng xuyên tạc lời Thiên Chúa”
(2 Cr 4, 1-2).
Trong Công Vụ Tông Đồ, ta thấy rõ sự tăng trưởng của Giáo Hội
liên quan với sự phát triển của Lời được loan truyền và đón nhận,
đúng như câu này muốn diễn tả: “Lời Thiên Chúa vẫn lớn lên và
tăng thêm rất nhiều" (x. Cv 6, 7).
Vì trong Lời của Thiên Chúa đã sẵn có sức mạnh. Đó là một “Lời
của sự sống”, một lực sống trong con tim loài người, một Lời cứu
độ: “Thưa anh em, là con cái thuộc dòng giống Áp-ra-ham, và
thưa anh em đang hiện diện nơi đây, là những người kính sợ Thiên
Chúa, lời cứu độ này được gửi tới chúng ta”
(Cv 13, 26).
Đó là một Lời chắc chắn, đáng tin cậy: “Ðây là lời đáng tin
cậy và đáng mọi người đón nhận: đó là Ðức Ki-tô Giê-su đã đến
thế gian, để cứu những người tội lỗi, mà kẻ đầu tiên là tôi”
(1 Tm 1,
15; x. 2 Tm 2, 11; Tt 3, 8).
Đó là một Lời sống động và đầy hiệu năng: “Lời Thiên Chúa là
lời sống động, hữu hiệu và sắc bén hơn cả gươm hai lưỡi: xuyên
thấu chỗ phân cách tâm với linh, cốt với tủy; lời đó phê phán
tâm tình cũng như tư tưởng của lòng người. Vì không có loài thọ
tạo nào mà không hiện rõ trước mặt Thiên Chúa, nhưng tất cả đều
trần trụi và phơi bày trước mắt Ðấng có quyền đòi chúng ta trả
lẽ”
(Hr 4, 12-13).
Đó là Lời tái sinh, tái tạo cho những ai tin và được thánh tẩy:
“Vì anh em đã được tái sinh, không phải do hạt giống mục nát,
mà do hạt giống bất diệt, nhờ Lời Thiên Chúa hằng sống và tồn
tại mãi mãi, vì mọi phàm nhân đều như cỏ và tất cả vinh quang
của họ cũng đều như hoa cỏ; cỏ thì khô héo, hoa thì tàn rụng;
Lời Chúa vẫn tồn tại đến muôn đời. Ðó chính là Lời đã được loan
báo cho anh em như một Tin Mừng”
(1 Pr 1, 23-25).
Lời không thể bị “xiềng xích”, ngay cả khi người được sai đi
loan báo Lời bị giam cầm: “Anh hãy nhớ đến Ðức Giê-su Ki-tô,
Ðấng đã sống lại từ cõi chết, Ðấng đã xuất thân từ dòng dõi
Ða-vít, như tôi vẫn nói trong Tin Mừng tôi loan báo. Vì Tin Mừng
ấy, tôi chịu khổ, tôi còn phải mang cả xiềng xích như một
tên gian phi. Nhưng lời Thiên
Chúa đâu bị xiềng xích”
(2 Tm 2,
8-9).
Lời do các Tông Đồ loan truyền đúng là Lời của Chúa Giê-su nói
và tác động trong họ: “Nói xong, Chúa Giê-su được rước lên
trời và ngự bên hữu Thiên Chúa. Còn các Tông Ðồ thì ra đi rao
giảng khắp nơi, có Chúa cùng hoạt động với các ông, và dùng
những dấu lạ kèm theo mà xác nhận lời các ông rao giảng”
(Mc 16,
19-20).
Con người và Lời Chúa trong Giáo Hội
Tông Truyền
Các tác giả Tân Ước đã không ngần ngại đặt Lời do Giáo Hội công
bố ngang hàng với Lời của Chúa Giê-su, cả hai đều cần có sự
chuẩn bị nội tâm để nghe và đón nhận. Như khi nói về Phao-lô và
Ba-na-ba rao giảng Lời, ở An-ti-ô-kia, trong chuyến tông du đầu
tiên của Phao-lô:
“Ngày sa-bát sau, gần như cả thành tụ họp nghe lời Thiên
Chúa. Thấy những đám đông như vậy, người Do-thái sinh lòng ghen
tức, họ dùng lời lăng nhục mà chống đối những lời ông Phao-lô
nói. Bấy giờ ông Phao-lô và ông Ba-na-ba mạnh dạn lên tiếng:
"Anh em phải là những người đầu tiên được nghe công bố lời
Thiên Chúa, nhưng vì anh em khước từ lời ấy, và tự coi mình
không xứng đáng hưởng sự sống đời đời, thì đây chúng tôi quay về
phía dân ngoại. Vì Chúa truyền cho chúng tôi thế này: Ta sẽ đặt
ngươi làm ánh sáng muôn dân, để ngươi đem ơn cứu độ đến tận cùng
cõi đất. Nghe thế, dân ngoại vui mừng tôn vinh lời Chúa, và tất
cả những người đã được Thiên Chúa định cho hưởng sự sống đời đời,
đều tin theo”
(Cv 13, 44-48).
Lời phải được đón nhận, không như lời của con người, nhưng là
Lời của Thiên Chúa: “Bởi thế, về phần chúng tôi, chúng tôi
không ngừng tạ ơn Thiên Chúa, vì khi chúng tôi nói cho anh em
nghe lời Thiên Chúa, anh em đã đón nhận, không phải như lời
người phàm, nhưng như lời Thiên Chúa, đúng theo bản tính của lời
ấy. Lời đó tác động nơi anh em là những tín hữu”
(1 Tx
2,13). Một lời làm nền tảng cho niềm hy vọng của
các tín hữu: “Lòng tin và lòng mến đó phát xuất từ niềm trông
cậy dành cho anh em trên trời, niềm trông cậy
mà anh em đã được nghe qua
lời sự thật là Tin Mừng”
(Cl 1, 5).
Lời đó bao giờ chủ yếu cũng là Tin Mừng của Đức Giê-su Ki-tô:
“Trong Ðức Ki-tô, cả anh em nữa anh em đã được nghe lời sự thật
là Tin Mừng cứu độ anh em; trong Ðức Ki-tô, một khi đã tin, anh
em được đóng ấn Thánh Thần, Ðấng đã được hứa ban”
(Ep 1,
13).
Một Lời phải được lắng nghe và đem ra thực hành: “Anh em hãy
đem Lời ấy ra thực hành, chứ đừng nghe suông mà lừa dối chính
mình. Thật vậy, ai lắng nghe Lời Chúa mà không thực hành, thì
giống người soi gương thấy khuôn mặt tự nhiên của mình. Người ấy
soi gương rồi đi, và quên ngay không nhớ mặt mình thế nào. Ai
thiết tha và trung thành tuân giữ luật trọn hảo, luật mang lại
tự do, ai thi hành luật Chúa, chứ không nghe qua rồi bỏ, thì sẽ
được hạnh phúc trong mọi việc mình làm”
(Gc 1,
22-25).
Lời này của Đức Giê-su Ki-tô, được Giáo Hội công bố, luôn ở lại
trong lòng các tín hữu để họ nghiền ngẫm và chia sẻ lẫn cho nhau:
“Ước chi lời Ðức Ki-tô ngự giữa anh em thật dồi dào phong phú.
Anh em hãy dạy dỗ khuyên bảo nhau với tất cả sự khôn ngoan. Ðể
tỏ lòng biết ơn, anh em hãy đem cả tâm hồn mà hát dâng Thiên
Chúa những bài thánh vịnh, thánh thi và thánh ca, do Thần Khí
linh hứng”
(Cl 3, 16).
Nhờ Lời này mà các tín hữu được nâng đỡ trong mọi thử thách và
chiến thắng trước mọi sức mạnh của sự dữ: “Hỡi anh em là
những người con thơ bé, tôi đã viết cho anh em: anh em biết Chúa
Cha. Hỡi các người cha, tôi đã viết cho các ông: các ông biết
Ðấng vẫn có từ lúc khởi đầu. Hỡi các bạn trẻ, tôi đã viết cho
anh em: anh em là những người mạnh mẽ; lời Thiên
Chúa ở lại trong anh em và
anh em đã thắng ác thần”
(1 Ga 2,
14).
Chính vì trung thành với Lời của Đức Ki-tô Giê-su mà Gio-an bị
đầy ra đảo Pát-mô, và ở đó ông đã viết ra cuốn “Khải Huyền” để
nâng đỡ đức tin của các tín hữu bị bách hại: “Tôi là Gio-an,
một người anh em của anh em, tôi cùng chia sẻ nỗi gian truân,
cùng hưởng vương quốc và cùng kiên trì chịu đựng với anh em
trong Ðức Giê-su. Lúc ấy, tôi đang ở đảo gọi là Pát-mô, vì đã
rao giảng Lời Thiên Chúa và lời chứng của Ðức Giê-su”
(Kh 1,
9; x. 12, 11 và 20, 4).
|
VỀ MỤC LỤC |
|
GIA ĐÌNH VÀ TƯƠNG
LAI NHÂN LOẠI |
Lễ Thánh Gia
Nguyễn Tiến
Cảnh, MD
Sau những huy
hoàng chói lọi của Lễ Giáng Sinh, chúng ta lại cùng Giáo Hội ăn
mừng Lễ Thánh Gia. Lễ Thánh Gia mời gọi người tín hữu suy niệm
về mầu nhiệm đời sống, đặc biệt là ân sủng gia đình, một tặng
phẩm mà Thiên Chúa đã ban cho nhân loại.
Bài phúc âm
hôm nay (Lc 2: 41-52) kể lại câu chuyện chúa Giêsu lúc còn niên
thiếu. Đây là mẩu chuyện duy nhất và đặc thù của Tân Ước. Tuy
nhiên thánh Luca cũng làm cho độc giả hồi hộp lo sợ mà ngạc
nhiên về những lời Đức Giêsu nói ở giai đoạn sơ khởi của cuộc
đời chúa Giêsu. Chuyện kể rằng “cha mẹ Người hàng năm vẫn đi
về Jerusalem vào ngày Lễ Vượt Qua” (Lc 2:41) theo truyền
thống đạo đức, tinh thần luật của Israel.
Lúc ấy chúa
Giêsu đã lên 12 tuổi, theo phong tuc thì Người cũng theo cha mẹ
đi Jerusalem (2:42). “Khi trở về thì cậu bé Giêsu ở lại
Jerusalem mà cha mẹ không biết”(2:43).Mệt mỏi tìm kiếm suốt
3 ngày trời không thấy, cuối cùng thì “ kiếm ra được Chúa ở
trong đền thờ, đang ngồi giữa những thầy dạy, lắng nghe họ và
đặt những câu hỏi với họ” (2:46).
Những lời lạ
lùng của chúa Giêsu nói với cha mẹ lúc kiếm được Người xem ra đã
làm khựng lại nỗi vui mừng của mẹ Maria và ông Giuse. “Bố mẹ
đi tìm con làm chi vậy? Bố mẹ không biết rằng con phải ở nhà của
Cha con hay sao?” (2:49). Câu này cũng có thể diễn nghĩa thế
này: “Con còn có nhiều việc phải làm của Cha con .” Cả
hai cách diễn nghĩa, chúng ta đều hiểu rằng Chúa Giêsu ám chỉ
Thiên Chúa là Cha Người. Tình Cha Con Thiên Chúa và sự vâng lời
ý nguyện của người Cha trên trời phải ưu tiên hơn những ràng
buộc của gia đình nơi trần thế.
Bỏ qua biến
cố này, toàn thể thời kỳ thơ ấu và thiếu niên của chúa Giêsu
theo như Tin Mừng, đều qua đi trong âm thầm êm ả. Đó là thời kỳ“ẩn
dật”, được thánh Luca tóm tắt bằng hai mẩu văn như sau:
“Đức Giêsu đi xuống với bố mẹ và trở về Nazareth, và vâng phục
các ngài (Lc 2:51); và Người lớn lên từ từ cùng với sự
khôn ngoan và ân phúc trước mặt Thiên Chúa và
người đời”(Lc 2:52). Trong thời gian này, câu chuyện thời
thơ ấu lúc kết thúc cũng như lúc khởi đầu, đều nằm trong khung
cảnh đền thờ Jerusalem.
Qua Tin Mừng,
chúng ta biết được là Chúa Giêsu đã sống trong chính gia đình
của Ngưòi, trong nhà ông Giuse là cha và bà Maria, những người
có bổn phận giúp đỡ và che chở Người, huấn luyện từ từ cho Người
theo nghề thợ mộc. Dân chúng trong thành Nazareth thì vẫn coi
Người là “con ông thợ mộc”(Mt 13:55).
Khi Chúa
Giêsu bắt đầu giảng dạy, dân chúng theo Người đã rất ngạc nhiên:“Ông
này há không phải là con ông thợ mộc và bà Maria hay sao?”(Mc
6:3). Ngoài mẹ Người ra thì thiên hạ nói những người sống
trong thành Nazaretth là anh chị em bà con Người. Thánh sử Mac
cô đã nói: Có những người bà con tìm cách ngăn cản Đức Giêsu
hoạt động giảng thuyết (Mc 3:21) vì hiển nhiên họ không thấy nơi
Người có gì khả dĩ có thể chứng minh bước khởi đầu cuộc đời hoạt
động mới của Người. Họ nghĩ rằng Đức Giêsu cũng giống như bất cứ
một người Do Thái nào khác và do đó phải sống bình thường thôi.
TRƯỜNG HỌC
NAZARETH
Những lời Đức
Thánh Cha Phaolo VI đã tuyên bố ở Nazareth ngày 5-1-1964 về ý
nghĩa mầu nhiệm Nazareth và Thánh Gia rất đáng cho chúng ta suy
niệm. Những giá trị tuyệt vời của gia đình Nazareth như sự yên
lặng, cuộc sống và việc làm trong gia đình là những yếu tố đặc
biệt chúng ta phải để ý và noi theo. Ngài nói:
“ Nazareth là
một trường học, ở đó chúng ta có thể khám phá ra được vẻ tươi
đẹp của cuộc sống của Chúa và hiểu được Tin Mừng của Người. Ở
đây, chúng ta có thể quan sát và suy niệm về cách thức Con Thiên
Chúa xuống thế làm người nó sâu xa và ý nghĩa biết mấy, cho dù
vẫn đầy dẫy những ẩn ý ở bên trong.
“ Và từ từ
chúng ta có thể học hỏi để bắt chước Người. Ở đây chúng ta có
thể học cách thể hiện xem Chúa Kito thực sự là ai. Và ở đây,
chúng ta có thể cảm nghiệm và để ý đến những điều kiện và hoàn
cảnh xung quanh đã ảnh hưởng đến cuộc sống của Người ở trần thế
này như: không gian, thời gian, văn hóa, ngôn ngữ, tôn giáo, ..Tóm
lại, tất cả những gì mà chúa Giêsu đã dùng để cho cả thế giới
biết đến Người. (….)
“ Trước tiên,
chúng ta học hỏi về sự yên tĩnh của gia đình Nazareth. Chúng ta
phải ở trong một khung cảnh nhiều người đang cãi lộn nhau rất ồn
ào náo nhiệt thì mới cảm nghiệm được sự yên tĩnh nó êm đềm lắng
đọng như thế nào! Sự yên tĩnh của Nazareth sẽ chỉ cho chúng ta
cách thức chiêm nghiệm trong thinh lặng và an bình, suy tư trong
tình trạng thần trí lắng đọng, và mở rộng tâm hồn lắng nghe
tiếng nói khôn ngoan của Chúa và lời khuyên của những thầy dạy
đích thực. Nazareth có thể dạy cho chúng ta biết giá trị của sự
học hỏi và sửa soạn, của chiêm nghiệm, của đời sống tinh thần có
tổ chức, của sự yên lặng cầu nguyện mà chỉ có Thiên Chúa biết mà
thôi.
“Thứ hai,
chúng ta học hỏi về đời sống gia đình. Nazareth là mẫu mực phải
có của mọi gia đình. Nazareth thể hiện cho chúng ta rõ ràng tính
thánh đức và vững bền của gia đình, đồng thời nêu gương sáng về
những nhiệm vụ căn bản của gia đình trong xã hội như là một cộng
đồng tình yêu và chia sẻ, nó tuyệt mỹ ở chỗ có những vấn đề đặt
ra và được giải quyết thỏa đáng. Tóm lại nó là một cấu trúc toàn
hảo để nuôi dưỡng con trẻ- và như vậy, nó là bất khả thay thế.
“Sau cùng, ở
Nazareth, nơi nhà con ông thợ mộc, chúng ta có thể học hỏi đuợc
nhiều điều ở công việc làm và những kỷ luật cần có của nó. Cha
muốn đặc biệt nói đến những chân giá trị của những việc làm đó –có
đòi hỏi thì cũng có phần thưởng- để trân trọng nó một cách thích
đáng. Cha muốn nhắc nhở mọi người là chuyện đi làm nó cũng có
cái giá trị phẩm giá của riêng nó. Ngoài ra, không đi làm không
có nghĩa là đuờng cùng rồi. Tuy nhiên vì cái giá trị và tính tự
do của việc làm, đi làm không phải chỉ vì vị trí của việc làm
trong hệ thống kinh tế, như người ta nói, mà đúng ra còn vì cái
mục đích phục vụ của công việc làm.”
NHỮNG THÁCH ĐỐ
CỦA NGÀY NAY
Ngày nay,
chúng ta ai cũng thấy là thiếu môi trường giáo dục, không phải
chỉ ở ngoài Giáo Hội mà cả ngay trong Giáo Hội. Gia đình Kito
giáo không còn khả năng tự mình truyền đạt niềm tin của mình cho
những thế hệ kế tiếp, và ngay cả chính xứ đạo cũng vậy, mặc dù
nó vẫn còn là một cấu trúc cần thiết cho sứ mệnh truyền giáo của
Giáo Hội ở bất cứ một địa hạt nào
Là một cộng
đồng Kito giáo nói riêng, xã hội nói chung, chúng tôi cần phải
hoạt động tích cực hơn nữa để khuyến khích mọi người giữ cho
tình liên đới giữa người nam và người nữ thật bền chặt làm căn
bản cho tất cả mọi nền văn minh, cũng như yểm trợ tối đa cho
quyền lợi và nhu cầu của con trẻ. Chúng tôi cũng cần suy xét cẩn
thận về những hậu quả xã hội liên hệ đến định nghĩa cũa hôn nhân,
của vợ chồng; xem xét cẩn thận tất cả những điều mà người ta
thêm vào một khi xã hội không còn cho chúng tôi một vị thế đặc
quyền và giá trị làm nền tảng cho cuộc nối kết lâu dài giữa hai
người nam và nữ trong hôn nhân.
Là cột trụ
của xã hội, gia đình chính là môi trường thuận lợi nhất để đón
chào con trẻ. Đồng thời tự do lương tâm và tự do tôn giáo cần
phải được bảo đảm, cũng như phải kính trọng nhân phẩm của tất cả
mọi người bất kể khuynh hướng sắc dục của họ thế nào.
Chúng tôi đã
có nhhiều dịp tham dự những cuộc hội thảo về hôn nhân ở xứ đạo
và giáo phận chúng tôi, xin được chia sẻ với quí vị. Hai thách
đố đặc biệt thường được nêu ra trong những cuộc tranh luận khá
sôi nổi về hôn nhân và đời sống gia đình trong thời đại của
chúng ta. Hôm nay Lễ Thánh Gia, một vấn đề khá khẩn cấp đối với
chúng ta, nhất là những giáo dân, phải làm sao duy trì giá trị
của những định chế quan trọng và bí tích hôn nhân. Hãy yểm trợ
những chương trình chuẩn bị hôn nhân trong các cộng đồng xứ đạo
của mình. Cũng cần đề ý, trong các xứ đạo và giáo phận thường có
những chương trình ơn gọi đặc biệt cho thanh niên và giới trẻ
nên cũng nên cổ động và tham gia. Những xứ đạo và giáo phận và
những phong trào giáo dân không có những kế hoạch mục vụ có tính
sáng tạo và chương trình ơn gọi hôn nhân cho giới trẻ vẫn đầy
dẫy những nghi hoặc rất đáng sợ về luân lý, những hiểu lầm,
trống rỗng và thiếu thông tin chính xác và đầy đủ.
Chúng ta cũng
đừng quên rằng trong xã hội cũng có những ràng buộc khác giữa
tình yêu và tính liên đới, giữa sự cam kết và tương quan trách
nhiệm. Những điều đó có thể tốt, và có thể được pháp luật công
nhận. Trong hôn nhân cũng có những tương tự như vậy. Nhưng không
thể thay đổi định nghĩa hôn nhân theo luật pháp qui định mà có
thể thay đổi được thực tế đã có trước mắt từ ngàn xưa là chỉ có
sự cam kết phối hơp giữa hai người nam và nữ mới có giá trị hôn
nhân. Không phải chỉ cần có những ràng buộc về tương quang giữa
hai người lớn với nhau thôi, mà còn phải dựa vào khả năng sản
xuất tự nhiên để sinh con đẻ cái.
Trong dịp lễ
Thánh Gia này, chúng tôi hãy cam kết tạo dựng mái ấm gia đình
nhân loại, tôn vinh hôn nhân, làm cho nó trở nên vững mạnh, chúc
phúc và dưỡng dục con cái, biến mái ấm gia đình chúng tôi, xứ
đạo chúng tôi trở nên thánh đức, hân hoan đón chào những cuộc
hôn nhân giữa người nam và người nữ giữa mọi quốc gia, mọi sắc
dân, ngôn ngữ, khuynh hướng phong tục cũng như cách sống.
NỀN MÓNG CỦA XÃ
HỘI
Chân phước
Giáo Hoàng Gioan Phaolo II vẫn thường nói: “Tương lai nhân loại
tùy thuộc vào gia đình”. Bài đọc ngày lễ hôm nay nhắc nhở chúng
ta là gia đình có một liên đới sống động với xã hội.
Nền móng xã
hội chính là gia đình. Nền móng gia đình chính là hôn nhân. Ơn
gọi lập gia đình / hôn nhân đã được ghi khắc trong chính bản
tính của người Nam và người Nữ. Như là cột trụ của xã hội, gia
đình là môi trường thích hợp nhất để đón chào con trẻ.
Chúng ta cần
những thanh niên trẻ, vui vẻ, mạnh dạn xác tín, hy vọng với tất
cả niềm tin sắt đá khi nói: “I Do / Tôi Đồng Ý”. Họ là Tương Lai
và Hy Vọng của chúng ta. Không có những cặp vợ chồng kết hôn với
nhau, chúng ta không thể xây đắp được tương lai cho xã hội và
Giáo Hội. Không có những cặp vợ chồng kết hôn với nhau và cam
kết thề hứa trung thành, thương yêu nhau, chúng ta không thể có
những gia đình thánh đức như ngày nay được.
Fleming
Island, Florida
Dec. 28, 2012
NTC |
VỀ MỤC LỤC |
|
NĂM ĐỨC TIN : NGUY CƠ CỦA TIỀN BẠC
CHO ĐỜI SỐNG ĐỨC TIN
|
Sống đức tin
Công Giáo cách sâu sắc và tưởng thành không những đòi hỏi phải
có can đảm để tuyên xưng đức tin ấy bằng hành động cụ thể bên
ngoài qua việc chu toàn những bổn phận thiêng liêng của người
tín hữu sống trong Giáo Hội, như siêng năng việc thờ phượng Chúa,
học hỏi lời Chúa, năng lãnh nhận các bí tích ban ơn cứu độ như
Thánh Thể và hòa giải, và làm nhân chứng cho Chúa Kitô trước mặt
người đời -mà hơn nữa- còn phải ý thức sâu xa về những nguy cơ
đe dọa đức tin đó nữa.
Đe dọa không
phải chỉ đến từ phía các chế độ chính trị thù ghét mọi niềm tin
của con người, mà đặc biệt nguy hiểm không kém sự bách hại niềm
tin đó là những nguy cơ như tội lỗi, các chủ nghĩa vô thần
(atheism) tục hóa (vulgarism) tương đối (relativism) tôn thờ vật
chất và khoái lạc ( materialism and hedonism) và làm nô lệ
cho tiền của là trọng tâm của bài viết này.
Thật vậy, tiền
của là một trở ngại lớn lao cho con người muốn sống công bình,
lương thiện, bác ái, và là nguyên nhân chính gây ra những sự dữ,
sự gian ác bất công, bóc lột người như ta thấy đầy rẫy ở khắp
nơi trên thế giới ngày nay. Do đó, không thể sống đức tin cách
đich thực mà không quyết tâm xa tránh nguy cơ này, vì nó là cạm
bẫy xô đẩy người tín hữu vào con đường làm nô lệ cho tiền của
đến chỗ chối bỏ hay sống mâu thuẫn với niềm tin có Thiên Chúa là
Đấng cực tốt cực lành, công minh, chính trực giữa bao người vô
tín ngưỡng ở thời đại tục hóa ( vulgarism) vô luân vô đạo này.
Ngoài tội lỗi,
là nguy cơ thường xuyên do ma quỷ, ví như “ sư tử gầm thét,
rảo quanh tìm mồi cắn xé” mà Thánh Phêrô đã cảnh giác,( 1 Pr
5: 6) còn có gương xấu dịp tội đẫy rẫy trong trần gian cộng với
bản chất yếu đuối của con người, là hậu quả của tội nguyên tổ
còn để lại trong mỗi người chúng ta cho chúng ta phải chiến đấu
để sống niềm tin có Chúa, có hạnh phúc vinh cửu và cũng có hỏa
ngục là nơi dành cho những kẻ hoàn toàn chối bỏ Thiên Chúa để
tôn thờ tiền của và mọi thú vui của “văn hóa sự chết” đang lộng
hành trong trần gian ngày nay.
Trên bình diện
quốc tế, chính lòng ham mê tiền của và mọi của cải vật chất như
dầu hỏa, khí đốt, quặng mỏ, hải sản… đã và đang là nguyên nhân
gây ra chiến tranh, giết hại hàng triệu người dân vô tội , vì
những kẻ tham mê của cải trần gian cách bất lương đã tìm mọi
cách để chiếm hữu, dù phải gây ra chiến tranh - khéo che đậy,
nguy tạo với những chiêu bài giả dối, phỉnh gạt công luận như
giải phóng, bảo vệ tự do, dân chủ và quyền sống của con người.
Nhưng thực chất chỉ là muốn vơ vét của cải của người khác để làm
giầu cho quốc gia hay tập đoàn đế quốc của mình mà thôi.
Lại nữa, cũng
chính vì lòng ham mê tiền của và quyền lực chính trị nên có biết
bao kẻ độc tài, độc đảng đã cố bám lấy địa vị cai trị sắt máu để
vơ vét tiền của, núp bóng dưới chiêu bài giải phóng cho giai cấp
vô sản bị bóc lột, nhưng thực tế chính họ lại trở thành những
đại gia, đại tư bản xanh đỏ đang bóc lột dân nghèo, ăn cắp của
công để làm giầu cho cá nhân và tập thể cai trị, gửi tiền ra
nước ngoài để kinh doanh và phòng thân, trong khi nhắm mắt, bịt
tai trước sự nghèo đói cùng cực của người dân, nạn nhân của mọi
bất công xã hội, hậu quả hiển nhiên của chế độ cai trị phi nhân
vô đạo như mọi người đã nhìn rõ mà chưa biết phải làm gì để thay
đổi.
Về mặt luân lý,
đạo đức, có biết bao kẻ đã vì ham mê tiền của mà dã tâm làm
những việc vô cùng xấu xa, tội lỗi như mở sòng bạc casino, nhà
điếm, buôn bán phụ nữ, nhất là trẻ em, cho kỹ nghệ mãi dâm để
kiếm tiền cách vô luân và đầy tội ác. Còn gì ghê tởm và gian ác
hơn khi bắt cóc hay mua bán trẻ em cho bọn người đã trở thành
thú vật đi tìm thú ấu dâm rất khốn nạn này ( child prostitution)
vì đã gây đau khổ, thương tật cho biết bao trẻ em bị bán cho bọn
thú vật này hành hạ thân xác. Đây chính là bộ mặt, là hình ảnh
rõ nét nhất của hỏa ngục trên trần gian này hiện nay.
Chưa hết, cũng
vì tham tiền mà có những kẻ đã bán rẻ lương tâm để làm tay sai
cho ngoại bang, giết hại đồng bào ruột thịt của mình, phản bội
chính nghĩa của dân tộc khi ra tay sát hại cách giã man người
khác để giúp cho quan thầy ngoại bang thi hành mục đích thống
trị theo sách lược thâm độc của chúng..Cụ thể, đó là những kẻ đã
nhận tiền thuê mướn của CIA Mỹ để giết hại rất dã man anh em
Tổng Thống Ngô Đình Diệm và một số nạn nhân khác năm 1963 dưới
danh nghĩa “cách mạng”.Nhưng thực chất đó chỉ vì lòng tham mê
tiền bạc đã đưa họ mù quáng vào con đường gian ác, phản bội, tàn
nhẫn không hơn không kém.Những kẻ gian ác, phản bội này chắc
chắn sẽ không thể ăn ngon, ngủ yên, và vui sống được vì tội ác
đang nung đốt lương tâm, dù đã bị băng hoại của chúng.Nếu ta tin
có một Thiên Chúa yêu thương nhưng rất công minh, thì những kẻ
gian ác đó sẽ phải chịu phán xét đích đáng về những việc làm độc
ác, dã man của chúng.
Như thế, tiền
bạc , mặc dù cần thiết cho con người sống ở trần gian này, nhưng
lại là một nguy cơ to lớn cho con người muốn sống lương thiện
nói chung và cách riêng cho người tín hữu muốn sống đức tin thực
sự vào Chúa Kitô, Đấng đã “chúc
phúc cho những ai có tinh thần nghèo khó, vì Nước Trời là của họ.”
( Mt 5: 3)
Thật vậy, Tin
Mừng của Chúa Kitô đã cho ta biết bao lời khuyên phải tránh cạm
bẫy của tiền bạc để được cứu rỗi và vui hưởng hạnh phúc giầu
sang, phú quý với Chúa trên Nước Trời.
Trước hết, là
câu chuyện người thanh niên giầu có trong Phúc Âm Thánh Mac cô.
Anh ta đến hỏi Chúa Giêsu xem anh phải làm gì “để được sự
sống đời đời làm gia nghiệp”.Anh ta tự khoe đã tuân giữ mọi
giới răn của Chúa cách hoàn hảo từ bé.Nhưng có một điều anh còn
thiếu và không thể làm được đó là về bán hết tài sản, lấy tiền
cho người nghèo, rồi đi theo Chúa như Chúa đòi hỏi anh ta.
Nhưng trước đòi
hỏi này, anh đã buồn rầu bỏ đi, không thể thực hành được vì anh
có quá nhiều của cải !( Mc 10 : 17-22)
Như vậy, rõ rệt
cho thấy là lòng ham mê tiền của trần thế đã là trở ngại lớn lao
nhất cho anh thanh niên kia vào Nước Trời. Vì thế, Chúa Giêsu đã
kết luận với các môn đệ như sau :
“
Con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ
hơn cho người giầu vào Nước Thiên Chúa.” ( Mc
10:17-23; Lc 18: 18-24)
Con lạc đà to
lớn như vậy làm sao chui qua được lỗ kím quá nhỏ như thế ? Thật
là điều không tưởng, nhưng lại giúp nói lên điều không tưởng lớn
lao hơn nữa đó là người giầu có khó có thể vào được Nước Trời.
Khó vào được vì có những người giầu đã làm nô lệ cho tiền của
đến mức không thể hy sinh được của cải phù vân ở đời này cho
hạnh phúc Nước Trời mai sau như trường hợp chàng thanh niên giầu
có trên đây.
Chính vì muốn
cho các môn dệ xưa và mọi người tín hữu chúng ta ngày nay phải ý
thức sâu xa về nguy hại của tiền bạc, của cải vật chất trong khi
sống đức tin ở đời này mà Chúa Giêsu “
Người vốn giầu sang phú quý, nhưng
đã tự ý trở nên nghèo khó vì anh em để lấy cái nghèo của mình mà
làm cho anh em trở nên giầu có.” ( 2 Cr 8: 9),
Chúa đã nên
gương nghèo khó cùng cực khi chọn sinh ra trong hang bò, lừa
giữa mùa đông lạnh lẽo, khiến phải nhờ hơi ấm của chiên, bò, lừa
ngựa, sưởi cho đỡ lạnh trong đêm giáng trần.Lón lên, đi rao
giảng Tin Mừng cứu độ, Chúa đã sống lang thang như kẻ vô gia cư,
đúng với ý nghĩa câu trả lời của Chúa cho một kinh sư kia ngỏ ý
muốn đi theo Người:
“
Con chồn có hang, chim trời có tổ,
nhưng Con Người không có chỗ tựa đầu.”
(Mt 8:20)
Như vậy, Chúa
đã thực sự sống khó nghèo từ khi sinh ra cho đến ngày chết trần
trụi trên thập giá. Suốt đời sống nghèo khó đến nỗi khi chết
chết cũng không có chỗ để chôn, khiến môn đệ phải mượn ngôi mộ
trống của ông Giô-xép cho Chúa nằm tạm 3 ngày chờ sống lại.( Mt
27: 57-60; Ga 19: 41-42)
Như thế ai có
thể ngờ vực được gương khó nghèo của Chúa Kitô ???
Người sống và
chết khó nghèo để dạy cho tất cả chúng ta, những người muốn đi
theo Chúa vào Nước Trời , một điều rất quan trọng là không được
tôn thờ hay yêu mến tiền của đến mức làm nô lệ cho nó mà quên
mất hay coi nhẹ việc tối quan trọng hơn là phải yêu mến Chúa
trên hết mọi sự, phải tìm kiếm sự sang giầu của Nước Trời trên
mọi phú quý sang giầu ở đời này. Trên trần gian này, không gia
nhân nào có thể làm tôi hai chủ được, cho nên
“ anh em không thể vừa làm tôi
Thiên Chúa vừa làm tôi tiền của được.” ( Lc 16: 13)
như Chúa Giêsu đã nói với các môn
đệ xưa.
Vì nếu làm tôi
tiền của thì sẽ dễ trở thành bất lương, độc dữ, gian ác và lãnh
cảm trước sự nghèo đói của người khác. mà Chúa Kitô đang hiện
diện nơi họ để thách đố chúng ta biết cảm thông và chia sẻ cơm
áo với những anh chị em kém may mắn đó.
Nói thế không
có nghĩa là cứ phải nghèo đói, rách rưới và ốm đau bệnh tật mới
được vào Nước Trời. Ngược lại, lo cho mình và cho người thân của
mình được có của ăn, áo mặc, có tiền mua thuốc chữa bệnh , có
phương tiện di chuyển cần thiết thì lại là điều tốt đẹp phải làm
và không có gì nguy hại cho mục đích sống đức tin có Chúa. Chỉ
khi nào ham mê tiền của đến mức làm nô lệ cho nó khiến có thể mù
quáng làm những việc bất lương, bất công và vô luân để có tiền
thì mới là điều đáng chê trách và phải xa tránh mà thôi.
Chính vì giá
trị chính đáng của những nhu cầu cần thiết cho con người như của
ăn nuôi sác, được khỏe mạnh để làm việc và sống vui ở trần gian
này, mà xưa Chúa Giêsu đã làm phép lạ hóa bánh và cá ra nhiều để
nuôi hàng ngàn người đi theo Chúa nghe Người giảng dạy và không
có của ăn trong ngày. ( Mc 6 : 35-44) . Chúa cũng chữa lành biết
bao người bệnh tật, câm điếc, đui mù què, phong cùi và bị quỷ ám
để minh chứng Người là Thiên Chúa giầu lòng xót thương và cảm
thông nỗi đau khổ của con người và dạy chúng ta phải biết yêu
thương, chia sẻ với người khác nghèo khó vật chất hơn mình.
Chúa không lên
án những người giầu có chỉ vì họ có nhiều tiền của mà vì họ mê
tiền của hơn yêu mến Chúa và hạnh phúc Nước trời. Có tiền của mà
biết dùng vào việc bác ái đích thực để chía sẻ với người khác
kém may mắn hơn mình những gì mình có thì đó lại là việc tốt đẹp
phải làm. Nghĩa là nếu người giầu có biết dùng tiền của để xoa
dịu nỗi thống khổ của người nghèo đói, bệnh tật không có tiền
chữa trị, hay giúp cho các cô nhi viện, trẻ em khuyết tật , và
các nhà truyền giáo có phương tiện vật chất để đi mở mang Nước
Chúa thì đã “ mua sắm những túi
tiền không bao giờ cũ rách , một kho tàng chẳng thể hao hụt ở
trên trời , nơi trộm cắp không bén bảng , mối mọt cũng không đục
phá..” ( Lc 12 : 33).
Đó là sự khôn
ngoan biết dùng tiền của chóng qua ở đời này để mua sự sang giầu,
phú quí vĩnh viễn trên Nước Trời, như Chúa Giêsu đã dạy các môn
đệ xưa và cho tất cả chúng ta ngày nay.
Đó cũng là thái
độ khinh chê, không làm nô lệ cho tiền của mà chúng ta đọc thấy
trong Thánh Vịnh 62 :
“ Tiền tài
dẫu sinh sôi nảy nở
Lòng chẳng
nên gắn bó làm chi.”(
Tv 62 : 11)
Chính vì hiểu
rõ giá trị của sự sang giầu trên Nước Trời và niềm vui sướng
được biết Chúa Kitô hơn mọi lợi lãi vinh quang ở đời này mà
Thánh Phaolô đã thốt lên những lời sau đây:
“ Những gì
xưa kia tôi coi là có lợi, thì nay , vì Đức Kitô, tôi cho là
thiệt thòi. Hơn nữa tôi coi tất cả mọi sự là thiệt thòi, so với
mối lợi tuyệt vời là được biết Đức Ki Tô-Giêsu, Chúa của tôi. Vì
Người, tôi đành mất hết , và tôi coi tất cả như rác để được Đức
KiTô.” ( Pl 3: 7-8)
Lời Thánh
Phaolô trên đây quả là khuôn vàng thước ngọc cho mọi người tín
hữu chúng ta suy nghĩ và noi theo, vì được biết Chúa Kitô nhờ
đức tin quả thực là mối lợi lớn lao mà không có bất cứ cái gì,
của gì trên trần gian này như tiền bạc, kim cương đá quí hay
danh vọng có thể sánh được .
Do đó, nếu nhờ
Đức Tin, ta nhận biết Thiên Chúa là chính sự sang giầu và hạnh
phúc tuyệt vời nhất thì nhiên hậu, lời mời gọi sẽ là phải yêu
mến Chúa và Vương Quốc của Người trên hết mọi sự , nhất là trên
tiền bạc và của cải ở trần gian này để không làm nô lệ cho tiền
của, hay say mê đi tìm tiền của hơn tha thiết tìm Chúa và hạnh
phúc được chiêm ngắm Thánh Nhan Người trên cõi vinh hằng mai sau.
Lời mời gọi này
không những chỉ dành cho các tín hữu sống ơn gọi gia đình hay
độc thân giữa đời mà còn dành riêng cho các giáo sĩ và tu sĩ là
những người được mong đợi sống “cái nghèo của Chúa
Kitô” để làm nhân chứng cho Chúa và nêu gương sáng cho người
khác. Do đó, người tông đồ của Chúa không nên để lòng dính bén
vào tiền của để thi nhau ra nước ngoài xin tiền hết đợi này đến
đợt khác..Lại nữa, cũng không nên thích tiền để chỉ nhận dâng lễ
với bổng lễ cao, đi đồng tế cho đông để nhận phong bì và coi
trọng người giầu có, khinh thường người nghèo, chê hay không
nhận dâng lễ cho người không có tiền xin lễ hậu hĩ như các người
giầu có ! Đó là thực trạng vẫn còn diễn ra ở nhiều nơi và gây
tai tiếng không ít cho ơn gọi và tinh thần phục vụ của người
tông đồ ngày nay.
Là Tông đồ lớn
nhỏ của Chúa mà sống như vậy, thì có phù hợp với tinh thần
“khó nghèo” mà Chúa Giêsu đã sống và dạy các môn đệ neo theo
hay không?
Lại nữa, giảng
sự khó nghèo của Chúa cho người khác mà chính mình lại ham thích
tiền của, chậy theo tiền của, thì lời giảng dạy của mình có
thuyết phục được ai tin và thực hành không ?
Sự thật thì dễ
mất lòng nhưng vẵn cần thiết phải nói ra.
“ Ai có tai nghe thì nghe.”
Đó là lời Chúa. Giêsu đã nói với các môn đệ xưa. ( Mt 13: 43; Mc
4: 23; Lc 8: 8)
Tóm lại, là
người may mắn có đức tin, chúng ta phải quyết tâm sống đức tin
cách sâu đậm không những bằng đời sống thiêng liêng mật thiết
với Chúa mà còn phải lưu tâm đến những nguy cơ đe dọa đức tin
như tội lỗi, gương xấu và cám dỗ của tiền bạc của cải vật chất,
là những trở ngại rất lớn cho chúng ta sống đạo đức, lương thiện,
công bằng và bác ái như đức tin đòi hỏi.
Đó chính là
điều chúng ta cần suy nghĩ và thực hành trong năm Đức Tin
này.Amen.
Lm. Phanxicô
xaviê Ngô Tôn Huấn
|
VỀ MỤC LỤC |
|
“Ở ĐÂY BUỔI CHIỀU, QUANH NĂM MÙA
DÔNG…”
|
Giáng Sinh năm nay
tôi chọn trải nghiệm ở cao nguyên Pleiku với anh em tôi và với
đồng bào
người dân tộc J’rai.
Tuy nhiên khi bàn bạc, anh em lại mời tôi đến vùng cuối của cao
nguyên trên quốc lộ 51 từ Chư Sê ( Pleiku ) về Tuy Hòa, một vùng
trũng của Ceoreo ( Cheo Reo ) Phú Bổn quanh năm nóng bỏng da
người, nghe nói một năm chỉ có khoảng 12 cơn mưa. Vì biết mình
sẽ viếng thăm vùng nóng này nên tôi không mang theo áo lạnh, kết
quả bất ngờ trời trở lạnh, tôi co ro ngồi sau chiếc xe hai bánh
của người thanh niên dân tộc, vượt qua những con đèo ngoằn ngoèo
trong sương đêm, trong từng cơn gió thốc thổi của núi đồi, cái
lạnh lẽo của cao nguyên theo tôi về tận phố thị cho đến hôm nay.
Cùng với cái lạnh là
cái đói, thú thật h
ôm nay mới dám nói
mình “bị bỏ đói”. Trong trí tưởng tượng tôi sẽ được đưa đến một
buôn làng nào đó, sau lễ đêm sẽ là liên hoan, dù biết rằng người
dân tộc rất nghèo nhưng chắc cũng đươc một cái gì đó để ăn mừng
Chúa Giáng Sinh, được “soan” ( kiểu vũ riêng của người J’rai )
bên ánh lửa bập bùng cùng tiếng cồng chiêng, thật lãng mạn.
Nhưng thực tế khác hẳn. Sau cơm trưa chúng tôi ăn với những
người giúp việc, toàn cơm và rau rừng ở Krongpa, từ đó không có
gì nữa cho đến trưa hôm sau.
Vào lúc 16g00 chiều tôi lên xe và cứ như vậy tôi dâng Thánh Lễ
Giáng Sinh tại ba điểm khác nhau cho đến nửa đêm, mỗi điểm cách
nhau từ 15 – 20km (Trung Tâm này có 7 Giáo Điểm ). Đường đi vô
cùng khó khăn, bụi mù, quanh co, gập ghềnh và hiểm trở. Khi trời
còn sáng, tôi nhận ra nỗi nghèo khổ cùng cực của người dân, bản
làng sơ xác. Họ nói với tôi họ đói lắm, không có gì để làm,
không có gì để ăn !
Anh em tôi cũng chạy
dâng Thánh Lễ khắp nơi, bếp lạnh tanh khi nửa đêm tôi trở về.
Không hề có tiệc Giáng Sinh ê hề thịt rượu, không hề có tiếng
nhạc du dương réo rắt, không hề có những ánh đèn nhấp nháy kiêu
sa. Đêm đó, tôi đã dâng lễ trong những ánh đèn tù mù, tôi chuẩn
bị sẵn bản văn tiếng J’rai để dâng lễ, nhưng bản văn ấy đã được
soạn và in ra trong môi trường tràn đầy ánh sáng, tôi đã phải
đọc một cách khốn khổ trong ánh đèn tù mù giữa buôn làng
“Bethlehem”. Tôi hiểu và cảm thông phần nào nỗi vất vả của anh
em tôi.
Điều kỳ diệu tôi được
chứng kiến là Tin Mừng đang triển nở trên vùng đất nghèo khó này,
Linh Mục phụ trách ( Ama Mạnh DCCT ) khoát tay về một vùng đồi
núi trùng điệp và nói: “Còn biết bao nhiêu người chưa biết Chúa
ở những cánh rừng phía này, bên hữu ngạn sông Pa”.
Trung Tâm Krongpa
được hình thành như một câu chuyện trong mơ, năm 1987 một người
dân tộc có tên là Ama Niem nghe radio, ông thắc mắc về Đức Kitô
là ai và ông quyết định lên đường đi tìm Đấng Kitô. Ông chia gia
đình đi làm hai hướng Đông và Tây, chính ông theo hướng Đông.
Sau một thời gian ông gặp được cha Nguyễn Văn Phán, một nhà
truyền giáo DCCT ở Ceoreo cách đó hơn 35 cây số, khi ấy cha Phán
đang bị nhà cầm quyền địa phương giới hạn không cho đi đâu cả.
Ông Ama Niem được dạy Đạo, tĩnh tâm 10 ngày với cha Phán ở
Ceoreo rồi trở về làng mình với một cuốn Tân Ước trên tay. Từ đó,
Tin Mừng phát triển cho đến hôm nay, Trung Tâm Krongpa được tách
khỏi Trung Tâm Ceoreo, có 7 Giáo Điểm và số Kitô hữu trên 3.000
người.
Ama Niem đem Tin Mừng
về làng, nhưng Ama Thuoc mới là người làm Tin Mừng lan tỏa nhanh
chóng. Xuất thân là cán bộ xã, Ama Thuoc nhận ra nhiều điều sai
trái và lung lay niềm tin vào xã hội, khi cầm trên tay cuốn Tân
Ước bằng tiếng J‘rai, Ama Thuoc bảo: “Chỉ có người yêu mến mình
nhiều lắm mới bỏ công ra để dịch cuốn sách này sang tiếng của
mình, người trân trọng tiếng của mình là người đáng tin”, từ đó
Ama Thuoc chăm chú học Đạo. Ông là người có uy tín trong làng
nên đã cảm hóa rất nhanh nhiều người theo Đạo.
Ama Hua lại đóng một dấu ấn thứ hai trong lich sử truyền giáo
trên rẻo cao nguyên này. Được biết Chúa, Ama Hua lên đường đi
thăm bà con, chỉ bằng con đường đi thăm bà con họ hàng, ông đã
đem Tin Mừng đi gieo vãi khắp nơi làm sinh sôi nảy nở thêm nhiều
Hạt Giống Đức Tin ở các bản làng khác.
Chúng ta học được gì
trong công cuộc truyền giáo này ?
-
Các phương tiện
truyền thông đã vượt không gian, vượt mọi ngăn cách, đem Tin
Mừng vào tận những vùng sâu vùng xa.
-
Gìn giữ và phát triển
văn hóa dân tộc bản địa giúp truyền tải Tin Mừng hiệu quả,
-
Và vai trò tích cực
quan trọng của các Thừa Sai Giáo Dân, toàn là Dự Tòng và Tân
Tòng !
Đến một chốc lát với
cộng đồng Giáo Dân dân tộc, sống và chứng kiến nỗi nghèo khổ của
anh em, nghe những câu chuyện cụ thể hấp dẫn về việc loan báo
Tin Mừng. Tôi nhớ một đoạn thư của Thánh Phanxicô Xaviê gởi cho
Thánh Inhatiô Loyola:
“Tại các miền
ấy, có nhiều người không được làm Kitô hữu chỉ vì không có ai
làm cho họ trở thành Kitô hữu. Nhiều lần tôi đã có ý định đi tới
các đại học ở Châu Âu, trước hết là đại học Paris, mà kêu gào
khắp nơi như một kẻ mất trí và thúc đẩy những người chỉ nghiên
cứu học thuyết hơn là thực hành bác ái rằng: Tiếc thay, chỉ vì
lỗi các ông mà biết bao linh hồn thay vì lên thiên đàng lại phải
xuống hỏa ngục.
Ước chi họ
miệt mài với văn chương chữ nghĩa thế nào thì họ cũng miệt mài
với công việc tông đồ này như vậy, để có thể trả lẽ với Thiên
Chúa về học thuyết của họ cũng như các nén bạc đã được trao phó
cho họ”…
Lm. VĨNH SANG,
DCCT, 28.12.2012 - Ephata 542
( Tựa đề lấy theo lời bài hát “Còn chút gì để nhớ”, nhạc Phạm
Duy, thơ Vũ Hữu Định ) |
VỀ MỤC LỤC |
|
TÁI KHÁM PHÁ CÔNG ĐỒNG VATICAN II
- “NHỮNG NGƯỜI KHÁCH LẠ” TRONG CHÍNH NGÔI NHÀ CỦA MÌNH
|
Một bài viết đã
khá lâu, nhưng vẫn thích hợp để đọc lại trong dịp kỷ niệm 50
năm khai mạc Công Đồng Vatican II. Có thể nói Vatican II
thực sự là một biến cố đặc biệt đem lại luồng gió mới của
Chúa Thánh Thần, canh tân Giáo Hội về mọi phương diện. Trong
khuôn khổ những suy tư và nghiên cứu cá nhân, xin được chia
sẻ đôi chút những khám phá của mình về Vatican II, đặc biệt
về vai trò của nữ giới trong Công Đồng.
TÁI
KHÁM PHÁ CÔNG ĐỒNG VATICAN II - “NHỮNG NGƯỜI KHÁCH LẠ”
TRONG CHÍNH NGÔI NHÀ CỦA MÌNH
ĐÔI NÉT VỀ
BỐI CẢNH CỦA VATICAN II
Ngày
8/12/2005, toàn thể Giáo Hội vui mừng kỷ niện đúng 40
năm ngày kết thúc Công Đồng Vatican II, một biến cố có
tầm ảnh hưởng vô cùng quan trọng trên đời sống của Giáo
Hội trong thế giới hôm nay. Thế nhưng mỗi lần nhắc đến
Vatican II nhiều người lại nghĩ bụng: “Biết rồi, khổ quá,
nói mãi”… Hỏi các bạn trẻ, họ dường như không biết gì
đến đời sống của Giáo Hội trong giai đoạn trước Công
Đồng. Họ không thể tưởng tượng được cảnh linh mục làm lễ
quay lưng lại với giáo dân và đọc toàn tiếng Latinh…
Muốn biết Công Đồng đem lại những thay đổi gì cho Giáo
Hội tại mỗi địa phương, ngay cả thế hệ ở tuổi trên “tứ
tuần” khi được hỏi đến, phần lớn cũng chỉ cười trừ,
không có ý kiến. Hoặc có những vị chỉ nhìn thấy những
ảnh hưởng mang vẻ “tiêu cực” của thời hậu Công Đồng; như
có những người xuất tu, những thay đổi làm nên bao khác
biệt giữa các Giáo Hội địa phương, nhiều “Đấng Bậc”
trong Giáo Hội không còn được “kính trọng” như ngày
trước… mà có lẽ đó chỉ là những nhận xét bên ngoài. Thực
ra có những điều tuy thuộc về quá khứ nhưng lại liên
quan mật thiết đến hiện tại. Khi khám phá lại, chúng ta
phải sửng sốt ngỡ ngàng nhận ra rằng chính Chúa Thánh
Thần đang hoạt động trong thế giới hôm nay qua biết bao
trung gian có khi không ai ngờ tới. Tiếp nối những thế
hệ đi trước bằng một cái nhìn cởi mở hơn, những “ngôn sứ
thời đại” này góp phần làm nên chứng tá sống động cho sự
hiện diện yêu thương của Thiên Chúa, Đấng đang không
ngừng dẫn dắt giòng lịch sử nhân loại qua biết bao thăng
trầm…
Thử
tìm hiểu đôi chút về bối cảnh lịch sử của thế giới trong
những năm trước Công Đồng, chúng ta nhận thấy Đức Giáo
Hoàng xuất chúng Piô XII đã dẫn dắt Giáo Hội trong suốt
19 năm qua một giai đoạn cực kỳ phức tạp. Thế chiến thứ
hai bùng nổ ảnh hưởng đến mọi quốc gia trên toàn thế
giới, các nước thuộc địa đồng loạt đứng lên giành độc
lập, các cơ cấu tổ chức xã hội thay đổi liên tục… Trong
lúc những thành công của cuộc cách mạng khoa học kỹ
thuật đem lại nhiều điều tốt đẹp cho cuộc sống, thì cũng
chính những tiến bộ mới mẻ đó khiến con người như đặt
trọn niềm hy vọng của mình nơi thế giới vật chất này.
Niềm tin tôn giáo bị đe dọa trầm trọng cùng với những
“xuống cấp” về luân lý, đạo đức và các vấn đề xã hội.
Thế giới hơn bao giờ hết, đầy dẫy nguy cơ do chính những
khám phá mới mẻ của con người. Hiểm hoạ huỷ diệt hàng
loạt của bom nguyên tử cùng với những thay đổi không
ngừng của môi trường văn hoá, chính trị, tôn giáo làm
nảy sinh bao vấn đề chưa từng có, gây chia rẽ trầm trọng
ngay trong lòng Giáo Hội cũng như giữa các quốc gia.
Thêm vào đó, những cuộc nội chiến liên lỉ vẫn đe dọa vận
mệnh của nhiều dân tộc. Bối cảnh trên đưa ra nhiều thách
đố lớn lao, cần đến những suy tư chung ở cấp toàn cầu để
tìm ra đáp ứng phù hợp… Giữa những thách đố triền miên
đó, Vatican II chính là câu trả lời cụ thể cho bao vấn
nạn của thời đại!
Cho
đến nay sau 40 năm kết thúc, 16 văn kiện đúc kết những
kết quả suy tư của khoảng hơn 2500 Hồng Y - Giám Mục
trên toàn thế giới qua 4 khoá họp của Công Đồng kéo dài
trong hơn 3 năm từ 1962 – 1965 đã được áp dụng rộng rãi.
Các tài liệu của Công Đồng ngày hôm nay vẫn được quy
chiếu trong mọi chiều kích của đời sống Giáo Hội ở mọi
cấp độ. Vatican II thực sự là một biến cố đặc biệt đem
lại luồng gió mới của Chúa Thánh Thần, canh tân Giáo Hội
về mọi phương diện. Trong khuôn khổ những suy tư và
nghiên cứu cá nhân, xin được chia sẻ đôi chút những khám
phá của mình về Vatican II, đặc biệt về vai trò của nữ
giới trong Công Đồng. Qua một số chứng từ cụ thể, cách
này hay cách khác đã giúp tôi có được những cảm thức mới,
những hứng khởi sâu xa trong đời sống Kitô hữu của mình,
để thêm lòng yêu mến Giáo Hội và xác tín vào tương lai
dù cuộc sống hôm nay không thiếu những thách đố của thời
hậu hiện đại, với các vấn đề của Toàn cầu hóa…
NHỮNG
NGƯỜI KHÁCH LẠ, HỌ LÀ AI?
Tiêu
đề “Những người Khách lạ trong chính Ngôi nhà của mình”
xem ra có vẻ bất hợp lý, vì có khi nào những người chủ
lại không được phép tự do ra vào mọi căn phòng trong
chính ngôi nhà của họ? Họ không phải là “nô lệ” bị buộc
nhắm mắt vâng theo mọi mệnh lệnh chủ (thời nô lệ may
thay đã qua từ lâu rồi!), họ cũng không phải là kẻ làm
công, khi đến nhà chủ chỉ được quanh quẩn ở góc vườn, xó
bếp, ra sức làm việc để mong nhận được bữa ăn và đồng
lương, rồi trở về lo cho gia đình mình. Trái lại, chính
họ phải là người quan tâm chăm sóc, giữ gìn ngôi nhà
mình cho sạch đẹp, khang trang, và tìm cách sửa chữa
những chỗ hư hỏng của ngôi nhà khi nó xuống cấp …
Trong
ngôi nhà Giáo Hội thì sao? Trải qua suốt giòng lịch sử
với 20 Công Đồng Đại Kết, từ Công Đồng Nicêa I (325) đến
Công Đồng Vatican I (1869-1870), nữ giới không hề được
phép góp tiếng nói hoặc đưa ra bất kỳ ý kiến nào, chứ
đừng nói đến chuyện hiện diện. Thử nghĩ đến con số 55%
tổng số tín hữu của Giáo Hội là Nữ giới, mà tỷ lệ thực
hành việc sống đạo xem ra vượt trội hơn nam giới, trong
khi những gì liên quan đến vận mạng Giáo Hội cũng như
đến sự hiện diện và đóng góp của nữ giới trong đời sống
Giáo Hội, hầu hết đều do nam giới quyết định và chỉ đạo,
thì thật khó có thể chấp nhận cho dù đó là sự thật. Mãi
cho đến Công Đồng Vatican II, lần đầu tiên trong lịch sử,
phụ nữ được phép hiện diện trong Công Đồng! Nói cách
chính xác hơn, trong hai khoá họp đầu của Công Đồng vào
năm 1963-1964, phụ nữ vẫn không hề được đếm xỉa, chỉ đến
khóa họp thức ba mới được mời đến trong tư cách… dự
thính! Trong chính ngôi nhà của mình, mãi đến lúc này nữ
giới mới được mời vào lần đầu tiên chỉ để… quan sát xem
các “Đấng Bậc” quyết định những gì... Đừng vội mơ những
đóng góp lớn lao hơn! Nhưng chắc hẳn có những giai đoạn
trong lịch sử vai trò của nữ giới đã không được nhìn
nhận, thì đó là điều có thể thay đổi, và phải được thay
đổi!
Trước
Công Đồng Vatican II, phụ nữ chỉ có thể làm công việc
lau dọn nhà thờ sau giờ thánh lễ, còn trong lúc linh mục
đang dâng lễ họ không được phép đặt chân đến gian cung
thánh và bàn thờ, nơi có linh mục của Chúa hiện diện.
Làm như thế là mắc trọng tội! Những nữ tu hoặc phụ nữ lo
phòng thánh thường mất rất nhiều thời gian mỗi ngày để
cắm hoa, soạn nến, giặt áo lễ… nhưng có những nơi hàng
giáo sĩ buộc họ phải mang găng tay trắng khi lau chùi
chén thánh hoặc đụng chạm đến các đồ thánh khác. Các nữ
tu được phép vào các trường Công giáo để dạy học, nhưng
phần nhiều họ không được học hành chu đáo về văn hóa
cũng không có bằng cấp chính quy về chuyên môn. Chính bộ
tu phục là giấy thông hành hợp pháp cho họ trong nhiều
hoạt động giáo dục, y tế và xã hội, mà lắm khi thu nhập
hoặc danh tiếng lại thuộc về giáo xứ hoặc giáo phận. Còn
họ chỉ được phép “tình nguyện phục vụ”, hoặc chỉ được
nhận mức lương rất thấp gởi thẳng về nhà dòng, vì giáo
xứ và giáo phận đã lo cho dòng của họ.
Trong
nhiều giáo xứ và chủng viện, nữ tu hiện diện trong các
công việc nội trợ, nấu ăn hoặc dọn phòng cho quý Cha quý
Thầy… Tình hình trong gia đình và ngoài xã hội cũng
không sáng sủa hơn bao nhiêu. Nhiều nơi còn giữ nghi
thức thanh tẩy cho các bà mẹ sau khi sanh con vì cho
rằng họ đã trở thành “ô uế”! Nữ giới không được phép
theo học các chương trình thần học như nam giới, không
được lên tiếng trong các cuộc tranh luận của nam giới,
cũng không được đứng ngang hàng với họ, nhất là đối với
các “Đấng Bậc” trong Giáo Hội. Mãi về sau này mới có một
con số ít ỏi phụ nữ dám “chen chân” trong các lãnh vực
chính trị, kinh tế và các cấp lãnh đạo khác nhau trong
cộng đồng xã hội, và họ gặp không ít khó khăn với những
định kiến sẵn có của mọi người…
Một
câu chuyện có thật xảy ra ở Đức, các Đức Giám Mục Đức đã
tổ chức một cuộc họp cấp toàn quốc trước Công Đồng để
thu thập ý kiến, có đại biểu của mọi giới trong các Giáo
phận tham dự. Một Giám Mục đặt câu hỏi trước khi kết
thúc: “Còn vấn đề gì nữa?”, thì một phụ nữ trẻ ngồi phía
sau đứng dậy hỏi: “Con muốn biết liệu nữ giới có thể
được mời đến tham dự Công Đồng không?”. Mọi người đều
trố mắt ngạc nhiên, cho rằng đó là một câu hỏi ngớ ngẩn.
Điều hiển nhiên ai cũng biết là phụ nữ không bao giờ có
thể tham dự Công Đồng. Nhiều nhà báo còn bình phẩm rằng
“Chúng tôi đều rất phẫn nộ vì đã có một câu hỏi như thế
trong buổi họp, thật đáng xấu hổ khi một phụ nữ dám đứng
lên đặt một câu hỏi ngốc nghếch như vậy!”... Thế nhưng
vị Giám Mục điều hành buổi họp rất dễ thương, Ngài hơi
bối rối một chút vì không biết trả lời thế nào, nhưng
cuối cùng Ngài nhẹ nhàng nói: “Lúc này với Công Đồng
Vatican II thì không, nhưng có lẽ đến Công Đồng Vatican
III thì có thể được…”. Mọi người đều vui vẻ đón nhận ý
kiến của Ngài và không bình luận gì nữa. Vấn đề người
phụ nữ trẻ đó đặt ra đã góp phần khơi dậy những suy nghĩ
mới…
SỰ HIỆN
DIỆN CỦA NỮ GIỚI TRONG CÔNG ĐỒNG!
Trong
bối cảnh đầy bảo thủ thời đó, sự có mặt của nữ giới tại
Công Đồng được xem là một cuộc đổi mới rất cởi mở và
ngoạn mục của Vatican II, hơn hẳn tất cả các Công Đồng
khác trong lịch sử Giáo Hội. So với danh sách chính thức
hơn 2.900 Nghị phụ và 29 giáo dân nam giới, thì con số
23 phụ nữ được mời gồm cả nữ tu và giáo dân chỉ là một
con số thật ít ỏi, chưa bằng 1% nam giới. Họ cũng không
được tham gia từ đầu, trong các khóa họp chính thức của
Công Đồng, mà chỉ được mời dự khóa họp thứ ba của Công
Đồng vào năm 1965. Họ được đặt ngồi ở vị trí của các
quan sát viên dự thính và không được phép có tiếng nói
chính thức trong thời gian họp. Tuy nhiên họ đã đóng góp
một vai trò thật tích cực cả trong và sau Công Đồng,
giúp đem thế giới đến cho Công Đồng và sau đó chuyển đạt
Công Đồng lại cho thế giới theo quan điểm nữ giới của họ.
Khi
Đức Giáo Hoàng Phaolô VI lên kế vị và được trao lại bản
kế hoạch hành động từ kỳ họp trước, thật khó có ai tưởng
tượng nổi Ngài đã nghĩ gì khi chấp nhận cho phụ nữ đến
gần “bàn thờ”. Vào kỳ họp thứ hai của Công Đồng, một số
dự thính viên giáo dân đã đưa vợ đi theo, nhưng “các bà”
không được phép vào, ngay cả khu vực dành cho những
người dự thính. Tại sao nay Đức Giáo Hoàng lại nghĩ đến
chuyện phá vỡ truyền thống khi mời phụ nữ đến tham dự
Công Đồng? Trước tiên đó chính là điều đã được Đức Giáo
Hoàng Gioan XXIII khởi xướng trong nội dung Thông điệp "Pacem
in Terris" (Hoà bình trên Trái đất). Ngài nhìn nhận rằng
sự thay đổi trong vai trò xã hội và văn hóa của người
phụ nữ là một “dấu chỉ thời đại”, mà Giáo Hội không thể
có cái nhìn bàng quang. Trực tiếp hơn, chính Hồng Y
Suenens là người đã đề cập chuyện này với Đức Giáo Hoàng
trong cuộc nói chuyện riêng và xin Ngài mời các quan sát
viên nữ giới.
Tuy
nhiên, dù chính Đức Giáo Hoàng yêu cầu đưa nữ giới vào,
nhưng khi danh sách dự thính viên cho kỳ họp thứ ba được
đệ trình, thì có ai đó đã kiểm tra và bỏ tên các phụ nữ
đi. Đức Phaolô VI tỏ ra ngạc nhiên về điều này. Ngài lại
phải lên tiếng lần nữa, và cuối cùng phụ nữ cũng được
hiện diện tại Công Đồng. Thế nhưng vai trò của họ vẫn
chỉ là dự thính! Về sau nhờ Đức Giám Mục người Đức
Emilio Guano, và Thư ký của Ngài, cha Bernard Hring Dòng
Chúa Cứu Thế, mà phụ nữ đã có được cả quyền bàn thảo và
bỏ phiếu trong các cuộc họp biểu quyết cho Hiến Chế Mục
Vụ về Giáo Hội trong Thế Giới Ngày Nay “Gaudium et Spec”
(Vui Mừng và Hy Vọng).
Có lẽ
đây phải kể trước tiên là sáng kiến của cha Hring, người
được xem là nhà thần học chuyên về Luân Lý vào hàng lớn
nhất của thế kỷ 20. Ngài thừa nhận rằng: “đôi khi tôi
phải là người quấy rối và gây vấn đề”; vì qua kinh
nghiệm bản thân, Ngài xác tín rằng, chính tinh thần
trách nhiệm và sự biện biệt đúng đắn là nền tảng cho sự
vâng phục trong Giáo Hội, còn kiểu “vâng lời tối mặt”
chỉ là sự ngu xuẩn. Ngài đã hai lần đối mặt với cái chết,
một lần trong thời chiến tranh và một lần với bệnh ung
thư, thế nên ngài không dễ gì bị đe dọa bởi những ai xem
quan điểm của ngài là “dại dột” với quyền bính. Ngài đã
hành động để bênh vực nữ giới, và Ngài thấy rằng điều đó
là đúng đắn, hiển nhiên và việc đáng phải làm. Với đầu
óc thông minh lỗi lạc và lòng nhiệt thành yêu mến Giáo
Hội, cha Hring đã thuyết phục được các vị có trách nhiệm.
Ngài
quan sát và thấy rằng ý kiến của Hồng Y Suenens làm dấy
lên một làn sóng phản đối trong số các Giám Mục bảo thủ.
Tiếp đến cũng có những nỗ lực để các nữ tu có thể tham
gia vào Ủy ban bàn về Đời Sống Thánh Hiến, nhưng đã bị
từ chối. Sau phần bàn thảo của Ủy ban này, Đức Giám Mục
Guano được chỉ định làm trưởng nhóm soạn thảo cho bản
nháp của Hiến Chế “Gaudium et Spes” và cha Hring lãnh
vai trò thư ký điều phối. Khi danh sách của Ủy ban Soạn
thảo đã được đệ trình, cha nói với Giám Mục Guano rằng
bước quan trọng này xem ra chẳng có gì thay đổi, vì hơn
một nửa của thế giới Công Giáo không có đại biểu lên
tiếng… Đức Giám Mục Guano hỏi lại “Điều cha nói có ý gì?”,
cha trả lời ngay: “Đó là thế giới của phụ nữ, và có lẽ
họ cần hiện diện trong Ủy ban về đời sống thánh hiến, vì
khoảng 80% tu sĩ của toàn thế giới là phụ nữ”. Giám Mục
Guano rất thực tế, Ngài hỏi xem những ai là người có thể
mời tham dự, không ngờ cha Hring đã có cả một danh sách
soạn sẵn… Công việc được tiến hành xuôi xắn, nhiều vị
bảo thủ thấy họ đến tham dự nhưng đành nhắm mắt làm ngơ
vì lúc này không ai dám lên tiếng bảo họ ra ngoài nữa.
NHỮNG
TIẾNG NÓI ĐẦY GIÁ TRỊ
Một
chuyện đùa kể rằng khi các Hồng Y và Giám Mục nhận được
thư kiến nghị của các Tổ chức Phụ nữ Công Giáo lên tiếng
về một số vấn đề trong Giáo Hội, các Ngài hết sức bất
bình. Một cuộc họp đặc biệt được tổ chức để giải quyết
vấn đề này. Nhiều ý kiến lên tiếng: “Hiển nhiên rồi,
chúng ta không thể làm theo những gì họ yêu cầu, vì
trong truyền thống không có chuyện này”, “Chúa Giêsu và
các tông đồ là Nam giới, ngay từ đầu Giáo Hội đã được
điều hành bởi người nam”, “Chúng ta không được để cho
phụ nữ chen chân vào quyết định của Giáo Hội vì họ thật
lắm chuyện”… Nhưng để suy nghĩ xem phải trả lời họ thế
nào, chúng ta hãy cùng cầu nguyện! Và các Ngài đã đọc
kinh… Kính Mừng!
Thế
nhưng không phải là chuyện đùa khi nữ luật sư Gertrud
Heinzelmann người Thuỵ sĩ chính thức gởi thư thỉnh cầu
và phản đối vào ngày 23/05/1962, bà đại diện cho phụ nữ
lên án những bài viết có quan điểm bài nữ giới và yêu
cầu cho phép nữ giới tham gia vào Ủy Ban soạn thảo Công
Đồng. Trong suốt thời gian Công Đồng diễn ra, bà không
được tham gia nhưng luôn có mặt quanh quẩn theo dõi tin
tức và tìm cách góp ý.
Bà
Betsie Hollants là cựu chủ biên của một tờ báo ở Bỉ cũng
cố tìm chỗ ở ngay Vatican trong suốt một số khoá họp, để
mời các Giám Mục đến dùng bữa và trao đổi. Betsie quen
biết nhiều Giám Mục do thời gian điều hành chương trình
chuẩn bị cho các linh mục tu sĩ thừa sai Mỹ và Canada đi
truyền giáo ở Mỹ Châu Latinh. Các Giám Mục Mỹ Châu
Latinh thường xuyên đến căn hộ rộng rãi của Betsie, vì
các Ngài gặp khó khăn khi phải xin phép để họp riêng tại
Roma. Cả các vị đến từ Mỹ và Canada cũng có nhiều dịp
dùng bữa tại đó. Bà còn viết thư cho nhiều Bề trên Dòng
nữ ở các nơi, và mời gọi họ hãy gởi đến Roma những nữ tu
sáng giá nhất, có càng nhiều bằng cấp càng tốt (để họ
không bị coi thường), có thể cho họ phụ giúp hoặc làm
thư ký cho các Giám Mục, hoặc làm gì cũng được, nhờ vậy
họ có thể nắm bắt những điều thật tuyệt vời đang xảy ra.
Nhiều linh mục trẻ cũng làm vậy… Như thế ngoài những ai
chính thức được mời, cũng có nhiều khuôn mặt phụ nữ
“sáng giá” hiện diện và đóng góp phần ảnh hưởng đầy giá
trị của mình. Một điều quan trọng phải khách quan nhìn
nhận, là họ đều yêu mến Giáo Hội, muốn thực sự tham dự
vào đời sống của Giáo Hội, và quan tâm đến những gì xảy
ra trong Giáo Hội.
Nội
dung của Hiến Chế Mục Vụ về Giáo Hội trong Thế Giới Ngày
Nay “Gaudium et Spec” được nhìn cách hoàn toàn khác
trước đối với nữ giới, vì khi đó họ không hiện diện
trong tư cách dự thính nữa. Trong một bầu khí rất thoáng,
cởi mở và tôn trọng, nữ giới được tham gia cách bình
đẳng như nam giới khi làm việc nhóm, và họ dám mạnh dạn
nói thẳng những suy nghĩ của mình. Những ý kiến của họ
được lắng nghe và bàn thảo để đưa vào nội dung văn kiện.
Do đó, cùng với giáo dân nam, các phụ nữ này được Đức
Giáo Hoàng Phaolô VI gọi là những “chuyên gia về cuộc
sống”. Các Nghị phụ tham dự Công Đồng đã đồng ý đưa một
số đề nghị của hàng giáo dân vào bản văn cuối. Với những
suy nghĩ có trách nhiệm và dám can đảm nói ra các tình
huống cụ thể mà chính Giáo Hội chưa có giải pháp thỏa
đáng, những can thiệp cần thiết của chính “người trong
cuộc” đã giúp làm sáng tỏ vấn đề. Một cách cụ thể hơn,
khi được tham dự vào Ủy ban soạn thảo và các tiểu ban
làm việc trong các cuộc họp tại Ariccia, nữ giới đã có
những đóng góp xuất sắc trong việc chuẩn bị bản văn với
những hiểu biết về thế giới theo cách nhìn của họ.
Khi
họp nhóm bàn về nhân phẩm của phụ nữ và gia đình, một số
Nghị phụ đã nói quá lời để đề cao phụ nữ. Bà Bellosillo
xin phát biểu và thẳng thắn đề nghị các vị không được
dùng những lối nói bóng bẩy khi đề cập đến nữ giới,
chẳng hạn như nói họ là các bông hoa, những tia nắng…
Điều đó không làm họ hãnh diện, ngược lại có vẻ xem
thường, làm như thể họ không phải là con người ngang
hàng với mình… Nhiều Nghị phụ rất ngạc nhiên trứơc phản
ứng này, nhưng nhờ đó các nguyên tắc nền tảng được thiết
lập. Các Vị ghi nhớ điều đó cả khi làm việc trên bản văn
cuối của Hiến Chế Mục Vụ. Bà Bellosillo đã làm việc với
cả hai tiểu ban soạn thảo (về nhân phẩm & sự bình đẳng,
về hôn nhân & gia đình), và đóng góp nhiều ý kiến trong
phần này. Là Chủ tịch của WUCWO (World Union of Catholic
Women's Organizations), bà có nhiều thông tin về các vấn
đề dân chủ, tự do, kiểm soát sinh sản, trách nhiệm trong
gia đình… để đưa vào định hướng.
Rosemary Goldie là một phụ nữ Úc, xuất chúng trong các
hoạt động tông đồ giáo dân, làm việc trong tiểu ban soạn
thảo cùng với nhà thần học Yves Congar OP và Giám Mục
Karol Wojtyla. Bà cũng hơi e dè cho biết: “Tôi là thành
viên có quyền bỏ phiếu trong lúc Giám Mục Wojtyla lại
không có quyền dù Ngài phát biểu rất nhiều. Vì Ngài là
nhân vật được mời thêm vào để giúp tiểu ban có những
thông tin về Đông Au.” Về sau một số trong họ được mời
tiếp đến Roma để hoàn thành nốt công việc đã thực hiện
tại Ariccia. Từ đó phụ nữ luôn có mặt cho đến ngày kết
thúc Công Đồng. Vài ngày sau khi Goldie được chính thức
là dự thính viên của Công Đồng, bà được nhóm các Giám
Mục nói tiếng Pháp mời đến nói chuyện trong cuộc họp
riêng của các Ngài. Bà trình bày quan điểm của mình, nêu
ra những điểm tích cực trong lược đồ của Hiến Chế Mục Vụ
về Giáo Hội trong Thế Giới Ngày Nay, sau đó đề cập đến
những hình thức khác nhau của hoạt động tông đồ giáo dân.
Sau cùng bà đưa ra một số phê phán chỉ trích mà nhiều
người đã nêu lên, có thể tóm lại trong lời kết luận của
một Giám Mục Canada: “Lược đồ này đã được cưu mang trong
tội nguyên tổ của Chủ thuyết Giáo quyền”, và mời gọi các
vị suy nghĩ thêm về vấn đề… Mãi đến năm 1978 khi Đức
Giáo Hoàng Gioan Phaolô I lên ngôi, bà mới có dịp đọc
một lá thư đăng trong một Nhật báo Công Giáo, ở cuối có
ký tên của vị Giáo Hoàng tương lai cùng với Giám Mục
Vittorio Veneto và các Nghị phụ khác. Thư gởi cho vị
Tuyên Uý Hiệp Hội Hoạt động của Phụ nữ Công Giáo Ý, có
đoạn nói rằng “Các dự thính viên nữ giới tại Công Đồng
cũng đóng vai trò tương tự như các nữ ngôn sứ trong Kinh
thánh, trong số đó có bà Rosemary Goldie là một diễn giả
đã nói chuyện với một nhóm Giám Mục về vấn đề liên quan
đến lược đồ về giáo dân và mong muốn rằng Giáo Hội có
thể bớt đi tính phụ hệ, phẩm trật và tính pháp lý…” Qua
đó, chúng ta có thể thấy rằng quan điểm, cách nhìn nhận
và đánh giá vấn đề của con người có thể thay đổi theo
bối cảnh cụ thể để đáp ứng những nhu cầu của Giáo Hội
cũng như thế giới trong những thời điểm lịch sử nhất
định.
GIẢI THÍCH
VỀ CHỨC NĂNG LÀM MẸ CHO CÁC GIÁM MỤC
Có
những vấn đề rất nhạy cảm và khó xử, như khi Công Đồng
bàn về Phẩm giá của hôn nhân và gia đình. Một quan sát
viên là bà Bellosillo, Chủ tịch Liên đoàn các Tổ chức
Phụ nữ thế giới WUCWO (World Union of Catholic Women's
Organisations), ghi nhận rằng trước tiên các Nghị phụ né
tránh thảo luận khi đề cập đến các vấn đề gia đình, đặc
biệt những gì liên quan đến giới tính và kế hoạch hoá
gia đình. Dần dần với các ý kiến và phản ứng của nữ giới,
các vấn đề được đưa ra bàn cãi cách công khai và chính
thức, từ đó chúng không còn là những vấn đề “không thể
đụng tới” như trước, nhưng cần được suy tư nghiên cứu kỹ
lưỡng. Đức Giáo Hoàng Phaolô VI cũng phải nhìn nhận rằng
các vấn đề về kiểm soát sinh sản và đời sống vợ chồng
cần được suy xét vào chiều sâu.
Luz-Marie cùng với chồng là José Icazas từ Mexico đến
Roma vào tháng 9/1965 với tư cách cặp vợ chồng duy nhất
được mời tham dự Công Đồng. Từ 9 tháng trước, khi biết
tin được mời, họ đã soạn thảo bản câu hỏi, gởi đến 36
quốc gia và thu thập được hơn 40.000 bản trả lời. Họ
tổng kết lại thành 17 nội dung quan trọng. Đó là nguồn
tài liệu cụ thể để Công Đồng có thể nêu ra các nhu cầu
mục vụ của toàn Giáo Hội, đặc biệt cho các gia đình. Họ
cũng rất lo lắng vì cảm thấy mình không có tiếng nói
giữa hàng ngàn Hồng Y Giám Mục. Có 18 tiêu chuẩn đưa ra
cho các quan sát viên, họ thấy mình thiếu tất cả, chẳng
hạn như phải hiểu biết về thần học, nắm bắt lịch sử Giáo
Hội, biết tiếng Latinh, biết tiểu sử các Nghị Phụ tham
dự Công Đồng… Bù lại, họ cố gắng làm chứng tá bằng đời
sống cầu nguyện, lòng hiếu khách, cố gắng học hỏi nghiên
cứu thêm!
Theo
lời khuyên của Betsie Hollants, họ thuê một ngôi nhà khá
rộng, đưa 2 con từ Mexico đến ở để thực sự là một gia
đình, và luôn mở rộng cửa tiếp đón mọi người. Các Nghị
phụ ở Roma suốt 4 năm không có chỗ nào thoải mái để nghỉ
ngơi khi căng thẳng, nên căn nhà của họ lúc nào cũng
đông khách. Trong khoảng 3 tháng có đến hơn 1000 Nghị
phụ đến thăm ngôi nhà của họ. Bầu khí gia đình thân
thiện tạo tin tưởng và giúp sự trao đổi chân tình giữa
các vị trở nên dễ dàng. Nhờ đó họ cũng mở rộng được hiểu
biết và tầm nhìn về tất cả những gì đang xảy ra. Khi làm
việc đến lược đồ số 13 phần “Giáo Hội trong thế giới hôm
nay”, họ được mời chia sẻ về các vấn đề gia đình trong
cuộc họp của tiểu ban soạn thảo về đời sống gia đình,
sau đó được mời dự cuộc họp khoáng đại của liên tiểu
ban.
Trong
cuộc họp đông đảo này, khi vị Giám Mục Thư ký đọc đến
phần kết luận của bản báo cáo, Luz-Marie bật cười và giơ
tay xin phát biểu với sự khích lệ của chồng. Hồng Y
Ottaviani làm ngơ không nhìn, nhưng vị thư ký của Ngài
nhìn thấy và nói với Hồng Y. May quá, Ngài đồng ý.
Luz-Marie tỏ ra bất đồng khi các vị cho rằng các hành vi
của đời sống vợ chồng là xấu xa, tội lỗi và do ham muốn
nhục dục. Bà khẳng định rằng khi bà cưu mang và sanh
con, đó là hành động của tình yêu. Rồi bà nói với tất cả
lòng kính trọng là bà tin rằng khi mẹ của các Hồng Y
Giám Mục đang có mặt ở đây mang thai và sinh các ngài ra
cũng là do tình yêu. Khi lời bà nói bằng tiếng Tây Ban
Nha được chuyển ngữ, mặt các Hồng Y và Giám Mục đỏ lên,
sau đó họ cùng cười và chăm chú nghe tiếp… Cuối cùng các
Ngài đều nhìn nhận rằng mình đã không nghĩ như thế, và
đồng ý với nhau mục tiêu của hôn nhân Công giáo là tình
yêu. Hai vợ chồng vui mừng và thông cảm với các vị, vì
các Ngài đã rời xa mái ấm gia đình hơn 40 năm rồi! (Các
Ngài đều đi tu sớm và đã trên 50 cả).
SỰ HIỆN
DIỆN CỦA CÁC NỮ TU
Đức
Giáo Hoàng Phaolô VI loan báo ý định mời những khuôn mặt
tiêu biểu của nữ giới đến dự thính trong Công Đồng như
sau: “Chúng tôi tin rằng đã đến lúc các nữ tu phải được
nhận nhiều vinh dự hơn và những gì họ làm sẽ hiệu quả
hơn nữa”. Đó thực sự là tin giật gân cho nhiều người vì
quan điểm lúc đó cho rằng các nữ tu, ngay cả thuộc Dòng
hoạt động, vẫn mang dấu ấn của tinh thần khổ chế và rời
bỏ thế gian. Đời tu là điều gì đó ẩn sau các bức tường
hoặc làm những gì âm thầm chứ không phải đi đến những
nơi đầy vinh dự! Sự hiện diện của họ nơi Công Đồng được
chờ đợi chỉ là để nhìn, để nghe chứ không phải để lên
tiếng, cho dù họ có là những phụ nữ lỗi lạc, đầy khả
năng, đang điều hành phần lớn những hoạt động Y Tế, Giáo
Dục và các Hiệp Hội Xã hội tốt nhất của thế giới. Chính
Hồng Y Antoniuti, Tổng trưởng Thánh Bộ về Đời sống Thánh
Hiến và tu sĩ, đã từ chối không cho phép các nữ tu được
tham dự vào những cuộc thảo luận của tiểu ban bàn về đời
tu. Các yêu cầu của họ được lập lại nhưng cứ bị gạt đi.
Điều đáng tiếc là mãi đến 30 năm sau, trong Thượng Hội
Đồng Giám Mục về Đời Sống Thánh Hiến năm 1994, các nữ tu
cũng vẫn không được phép là thành viên có quyền bỏ phiếu
trong Thượng Hội Đồng, vì đó là đặc quyền của các Giám
Mục và Linh mục mà thôi. (Lần này có đến 20 Bề trên Cả
của các Dòng nữ trong số khoảng 200 thành viên, nghĩa là
chừng 10%).
Khoảng 1 tháng sau khi đến dự Công Đồng với tư cách Quan
sát viên, bài nói chuyện của Nữ tu Suzanne Guillemin (Bề
trên Cả Dòng Nữ tử Bác Ái) với các Giám Mục Pháp tại
Roma ngày 26/10 năm 1964, đã đưa ra những khó khăn mà
các nữ tu hoạt động phải đương đầu. Vấn đề sống còn của
các cộng đoàn tu sĩ hôm nay là họ vừa phải trung tín với
đời tu, tham gia tích cực vào sinh hoạt trong đời sống
Giáo Hội, vừa phải thích nghi với thế giới hiện đại, đầy
những tiến triển về khoa học kỹ thuật với nhiều vấn nạn
mới. Đời sống hoạt động của người tu sĩ mang nhiều yếu
tố xem ra chống lại chiều kích chiêm niệm của đời tu. Đó
là một căng thẳng thực sự cho nhiều nữ tu trong Dòng. Rõ
ràng là đời tu hôm nay không thể tìm an toàn giả hiệu
trong những tập tục cũ như ăn chay đánh tội, vâng lời
tối mặt, giữ luật theo nghĩa đen… Để có khả năng đương
đầu với thách đố của thời đại, cần phải có những nỗ lực
mới mẻ và cụ thể, đặc biệt liên quan đến vấn đề đào tạo
và giáo dục, kỷ luật và đời sống cộng đoàn, tinh thần
truyền giáo… Đó không chỉ là những nỗ lực ở bình diện
cộng đoàn hoặc Hội Dòng mà phải mở ra ở bình diện quốc
tế, hợp tác Liên Dòng, tập trung và tận dụng những nguồn
lực, cắt giảm bớt chi phí, làm phong phú bằng các kinh
nghiệm sống. Cần dẹp bỏ các rào cản cũ kỹ, mở ra những
chân trời mới nhờ truyền thông, nhắm đến sự hoàn thành
nhân vị và nỗ lực truyền giáo. Những trăn trở của Sr.
Guillemin được diễn tả qua những lời mạnh mẽ chân thành
có âm hưởng đáng kể nơi các Giám Mục Pháp tham dự Công
Đồng.
Nữ tu
Jerome Maria Chimy Bề trên Cả Dòng SSMI (Sisters
Servants of Mary Immaculate) nói về khả năng sống uyển
chuyển và sự nhạy bén cởi mở cần có đối với những nữ tu
sống trong những tình huống đặc biệt. Đó là kinh nghiệm
bản thân khi Chị Chimy đến thăm các cộng đoàn trong các
nước Xã hội Chủ Nghĩa Đông Âu, nơi các chị em có đời
sống chứng tá thật đẹp dù họ không mặc tu phục. Chỉ cần
lòng tốt, sự hiểu biết và tự do giúp đem lại kết quả tốt
đẹp. Nữ tu Mary Luke Tobin Bề trên Dòng Chị em Lorretto
được xem là người “ngồi không yên”, dám đi lén vào Đền
thờ thánh Phêrô đưa tấm hình mẫu về kiểu tu phục mới cho
Hồng Y Antoniuti xem để xin chuẩn y. Nữ tu Tobin kể lại
rằng mỗi lần nghĩ đến tên của Hồng Y Antoniuti, Tổng
trưởng Thánh Bộ về Đời sống Thánh Hiến và tu sĩ, thì Bà
liền thấy ngay cảnh Ngài đang chỉ thị từng chút cho mình:
“Làm thế này, thế này… Tôi không muốn có bất cứ điều gì
đi ngược với Giáo Hội.” Khi Tobin đưa tấm hình cho Ngài
xem, Ngài lấy bút vẽ lên hình: tay áo phải dài xuống,
lúp phải che hết tóc, váy phải dài chấm đất…
Cho
đến những phần làm việc cuối của Sắc Lệnh Đức Ái Hoàn
Hảo về Canh Tân Thích Nghi Đời Sống Dòng Tu (Perfectae
Caritatis), 10 nữ tu “dự thính viên” không được nhìn bản
văn trước khi ban hành chứ đừng nói đến việc tham gia
chấp bút và đúc kết. Các nữ tu đã “gõ cửa” nhiều lần
nhưng Hồng Y Antoniuti nhất định không mở. Và khi cửa
chính không mở họ phải tìm cách đi cửa sau hoặc lối vòng,
họ đã tìm cách ảnh hưởng gián tiếp qua Đức Giáo Hoàng và
các Giám Mục trong các Ủy ban soạn thảo. Nữ tu
Constantina Baldinucci Dòng Thánh Tâm là Đại diện cho
các Dòng Tu của nước Ý, đã nhờ Đức Ông Magee xin phép
Đức Giáo Hoàng cho họ được viết các vấn đề của họ ra và
trình lên Công Đồng, và Đức Giáo Hoàng đồng ý. Từ đó chị
Baldinucci thu thập viết lại những kiến nghị cũng như
các vấn đề và những mong đợi của các đại biểu nữ tu từ
nhiều quốc gia. Bản văn này được gởi đến cho Đức Giáo
Hoàng và đã được đọc trước Công Đồng. Sau này nhiều Giám
Mục đã nói rằng nhờ đó họ ý thức hơn nhiều về các vấn đề
và những mối quan tâm của các nữ tu.
Còn
nhiều chuyện khác có thể kể đến về nhiều đóng góp của nữ
giới, không chỉ trong các Khóa họp mà cả những ảnh hưởng
rộng lớn về sau trên nhiều bình diện. Tuy nhiên không
phải tất cả những cố gắng và đóng góp của nữ giới đều
được nhìn nhận từ phía những Nghị Phụ tham dự Công Đồng
lẫn mọi thành phần trong Giáo Hội. Chính những người nữ
được mời cũng gặp nhiều khó khăn thách đố trong cách đối
xử phân biệt, những tránh né dị nghị và nhiều phiền toái
mà họ cần phải cố gắng để vượt qua. Nữ giới vẫn được
tiếng là giỏi chịu đựng mà! Thế nhưng sự hiện diện của
Nữ giới trong Công Đồng Vatican II đã mở ra một trang
lịch sử mới.
Cảm
tạ Chúa đã ban cho Giáo Hội Công Đồng Vatican II, như
một món quà quý giá trong lịch sử cận đại. Công Đồng mở
ra một trang sử mới mà cả những người nam và nữ đều có
quyền đóng góp trong nhiều lãnh vực khác nhau của đời
sống Giáo Hội. Chính Đức Giáo Hoàng Bênêđictô XVI là
người đã tham dự Công Đồng, cũng lên tiếng với toàn Giáo
Hội: “Điều làm cho Giáo Hội bị tổn thương trong những
thập niên hậu Vatican II không phải vì Công Đồng đả xảy
ra, nhưng là vì sự từ chối không chấp nhận Công Đồng”.
Ngài cũng tuyên bố rằng những văn kiện của Công Đồng
Vatican II chính là “la bàn” định hướng cho triều đại
Giáo Hoàng của Ngài. Vatican II thực sự đã tiếp một
luồng sinh khí mới vào đời sống Giáo Hội, mở ra những
hướng đi mới đầy sáng tạo trong các lãnh vực phụng vụ,
đại kết, truyền giáo, đời sống niềm tin, cũng như các
hoạt động xã hội, giáo dục, y tế, truyền thông… trên
toàn thế giới. Ước mong rằng mọi thành phần trong Giáo
Hội có những cố gắng mới để tái khám phá lại Công Đồng
với những giá trị vẫn hợp thời, và đào sâu, mở rộng
những áp dụng sáng tạo cho bối cảnh đặc thù của Giáo Hội
tại địa phương của mình.
|
VỀ MỤC LỤC |
|
THAM LAM - QUẢNG ĐẠI (BÀI 2)
|
Tiền bạc - mồi đe doạ truyền kiếp
Aristotle cho rằng,
tiền bạc chỉ là phương tiện hữu ích, nó chỉ có giá trị khi ta
dùng nó để giúp ta đạt được những điều khác.
Thời xưa, các ẩn sỉ
ra chợ bán hàng và dùng tiền để mua bánh mì. Nếu tiền còn dư, họ
sẽ cho người nghèo hết, vì họ sợ rằng, mang tiền về sẽ làm cho
họ hằng ngày bận tâm tới việc cất giữ chúng; và nguy hiểm hơn
chính là họ dần dần đặt sự an toàn của mình vào số tiền trong
kho đó thay vì là Chúa.
“Đam mê tiền của là
cội rể của mọi sự dữ” (I Tim 6:10). Giàu có không phải là tội,
nhưng để tiền của làm chủ đích mọi suy nghĩ và hành động của
mình là điều dễ dẫn ta tới tội. Mối nguy hiểm chính là khi ta có
nhiều tiền bạc, ta dễ bị đánh lừa và nhận thức sai lầm rằng:
Tiền bạc có thể ban cho ta có mọi thứ ta muốn mà không cần Chúa.
Nhưng thực ra, tài khoản trong nhà băng, dù nhiều đến bao nhiêu
cũng không thể mua được bình an, công bằng, và tự tại. Như thế,
tham lam cũng được cho là gốc của các loại tội vì nó rất gần với
kêu ngạo – muốn làm chủ đời mình mà không cần Thiên Chúa. Mình
muốn dùng những phương tiện vật chất để đảm bảo lấy trách nhiệm
cuộc sống của mình và gạt Chúa ra khỏi đời mình - không lệ thuộc
vào Đấng Tạo Hóa nữa, đó là một khuôn mặt mới của tội kêu ngạo.
Nhưng thực ra, theo
Beothius, “Chúng ta càng sở hữu tiền của bao nhiêu, thì chúng ta
cũng mất nhiều thời gian, sức lực, và tiền của bấy nhiêu để bảo
vệ chúng.”
Như thế, sự giàu sang không làm cho ta nên giàu có, mà làm cho
ta thêm héo khô, lo lắng, và bất an. Một ẩn sĩ đã tâm sự rằng,
“Một tu sĩ với nhiều tiền của sẽ như một con thuyền nặng nề dễ
dàng bị chìm trong cơn bão tố.”
* * *
Chàng thanh niên
trong Tin Mừng đã chạy đến Chúa Giêsu để hỏi xem làm thế nào để
được hưởng sự sống đời đời (x. Mt 19:17). Ngoài vấn đề giữ lề
luật ra, Đức Giêsu đánh thẳng vào tâm điểm của ơn gọi làm môn đệ
khi Ngài mời gọi anh ta bán tất cả của cải mình có, bố thí cho
người nghèo, và theo Ngài (x. Mt 19:22). Cốt lõi của vấn đề
chính là từ bỏ chính mình, đặt cuộc đời mình trong tay Chúa, và
liều thân theo Chúa với phận nghèo.
Tin Mừng thuật lại
người thanh niên đã giữ nhiều lề luật trong Mười Điều Răn, (chớ
giết người, chớ ngoại tình, chở trộm cắp, chớ làm chứng dối,
thảo kính cha mẹ, yêu người thân cận; ở đây, anh ta không nói
đến lề luật “chớ tham tham”). Rõ ràng, “Khi đối diện với luật
hoàn hảo của Thiên Chúa, anh ta buộc phải đối diện với điều luật
‘chớ tham lam’ (Ex 20:17).”
Tham lam, tôn sùng của cải là cản trở lớn nhất để người thanh
niên theo Chúa. Anh ta không muốn từ bỏ của cải mình để theo
Chúa, là vì của cải đã trở thành điểm tựa cho đời anh; của cải
trở thành “chúa” của đời anh. Buồn thay, chân lý đã có được
trong tầm tay, tự do và bình an đã được ban tặng, nhưng chỉ vì
quá bận tâm đến của cải trần thế, người thanh niên đã khước từ
những giá trị vĩnh cửu mà chọn những giá trị tạm bợ chóng qua.
Đọc tiếp Mt 19: 23-30, Phêrô cũng đặt một câu hỏi tương tự như
thế, “Thưa Thầy, chúng con đã bỏ mọi sự mà theo Thầy, vậy chúng
con sẽ được gì?” Câu trả lời là các con “Sẽ được gấp trăm ở đời
này và đời sau.” Ai theo Chúa với tất cả niềm tín thác đều xác
tín và cảm nghiệm lời Chúa đúng tuyệt đối.
* * *
Trong thư I Timothê
6:6-10, thánh Phaolô đã khuyên nhủ rằng, “Còn những kẻ muốn làm
giàu, thì sa vào cám dỗ với cạm bẫy, và lắm đam mê ngông cuồng
tai hại, mà trầm luân diệt vong, hư khốn. Vì tham tiền là cội rễ
mọi sự dữ. Cầu thỏa lòng tham, thì có kẻ đã lạc xa đức tin và bị
bao nỗi đớn đau xâu xé.”
Với tiền bạc sẵn có
trong tay, tính tham lam sẽ có cơ hội trỗi dậy. Vì tham lam
không những là mong muốn chiếm đoạt điều mình không có, nhưng
còn muốn sở hữu và chiếm đoạt những thứ mà mình hoàn toàn không
cần đến.
Thói quen
“shopping” dường như trở thành một thói quen của nhiều người,
đặc biệt tại Hoa Kỳ. Thói quen đi shopping hằng tuần ở những nơi
“on sales” thực ra đó là những lần mua những hàng hóa ngoài nhu
cầu cần thiết. Shopping nhiều lần như thế sẽ trở thành thói quen
xấu. Vì thực ra của cải vật chất phải là phương tiện để phục vụ
con người, chứ chúng không thể trở nên trung tâm đời sống chúng
ta và làm cho chúng ta quá bận tâm tới việc sở hữu chúng. Quá
bận tâm sỡ hữu một sự vật nào đó biểu lộ cho thấy tâm hồn ta
đang ở trong tình trạng bất an, đang muốn tìm một điều gì để
khỏa lấp nỗi bất an, trống vắng ấy. Và như thế, suy nghĩ về điều
gì, muốn sỡ hữu điều gì, muốn trao tặng điều gì đều là những
biểu hiện khác nhau của một quả tim ẩn chứa sự khao khát muốn
lấp đầy và kiếm tìm để được no thỏa.
Rất nhiều gia đình
đã tan vỡ cũng chỉ vì liên quan đến tiền bạc, mua sắm vật chất.
Anh A làm lụng vất
vả hằng ngày; chị B lo chăm sóc con cái và đưa chúng đi học.
Rảnh rỗi đôi chút, chị đọc báo thấy “on sales” ở siêu thị này,
siêu thị nọ liền lên kế hoạch, trước là chỉ để xem cho biết vì
rẻ, dần dần chị mua một hai món hàng thật sự rẻ - và đúng nó rất
rẻ theo giá cả thị trường. Từ từ chị B có thói quen đi shopping
và mua những món hàng chỉ vì thấy chúng rẻ và lý luận, “Nếu
không mua thì uổng.”
Anh A tỏ ra khó
chịu, cứ mỗi tuần đi làm về thấy nhiều món hàng mới lạ trong nhà
mà vợ cho rằng mua chúng vì rẻ. Nào lá cái máy xay sinh tố, nào
là cái thớt cắt thịt, nào là cái máy xay đậu, v.v,… “Chúng ta đã
sắm đầy đủ rồi mà,” anh A lên tiếng. “Rẻ mà anh, on sales không
mua thì uổng.” Cứ như thế, anh A dần nghĩ rằng vợ mình không
biết quí công sức và đồng lương mình kiếm được; chị B lại cho
rằng chồng mình tỏ ra keo kiệt không thương mình như xưa nữa,
chỉ có mấy đồng bạc mà cũng đắn đo, cằn nhằn.
Mối bất hòa dần dần
xuất hiện khi để cho tiền và vật chất chiếm chỗ trung tâm trong
lối suy nghĩ của hai người; chủ đề của nhưng lần gặp gỡ chỉ là
xoay quanh những món hàng và tiền bạc. Và để bảo vệ mình và lập
trường của mình, anh A tìm những biện minh, lý lẽ để chứng mình
rằng việc mình nói là đúng. Đồng thời, chị B cũng tìm mọi lý lẽ
biện hộ để bảo vệ cái tôi của mình. Những cuộc nói chuyện của họ
dần dần đi ra xa những chủ đề về con cái, gia đình, bà con, bạn
hữu, nhưng thay bằng là tiền, là hàng hóa vật chất. Mối rạn nứt
bắn đầu khi chị B nghĩ rằng anh A không thương mình nữa; còn anh
A thì cho rằng chị B không còn biết lo cho gia đình, cho mình và
cho con. Cải vã, lời qua tiếng lại, bằng mặt mà không bằng
lòng,… từ từ hiện diện giữa hai người,… hạnh phúc bay xa tầm hai
người.
Đối với bất cứ ai,
tiền bạc vật chất có thể sẽ là một đầy tớ tốt trung tín, nhưng
chúng cũng có thể là ông chủ rất tồi. Anh A không hiểu được chị
B đi mua sắm chẳng qua là biểu hiện một sự thiếu hụt nào đó
trong con tim, trong gia đình, chứ từ ban đầu chị B đâu có ý
tiêu xài phung phí. Chị B đâu có hiểu rằng việc anh A “tính toán”
đôi chút đó là một sự biểu hiện sự lo lắng cho tương lai của
mình, vợ và con của mình – Nơi anh A có một chút lo âu cho gia
tương lai gia đình. Nếu những cuộc trò chuyện của họ nhằm vào
hai điểm này, thì chắc chắn bầu khí hạnh phúc trong gia đình sẽ
phát triển tốt đẹp hơn, nhưng vì trung tâm của nhưng lần trò
chuyện là tiền và vật chất, nên không lạ gì chuyện bất hòa là có
thật. Như thế đó, bản chất của vấn đề là tình cảm, tình yêu chứ
đâu phải vật chất tiền bạc. Nhưng nếu không hiểu nội vụ đằng sau
của sự kiện, mà lại quá chú trọng đến tiền bạc trên bề mặt,
người ta sẽ bị dẫn đến thảm cảnh chia lìa, đau xót ngay trong
gia đình và tâm hồn mình mà chính đương sự không hay biết.
Các tác giả Tin
Mừng kết luận rằng, Giuđa nộp Thầy là vì lòng tham tiền bạc.
Chúa Giêsu đã dạy chúng ta rằng, “Chớ lo lắng về ngày mai…” (Mt
6:25). Quả thật, khi quá chú tâm đến của đời sống dương thế, con
người sẽ đành mất hướng đi vào Nước Trời. Khi quá tích trử và
gom góp cho đời sống con người, chúng ta sẽ lãng quên khả năng
tích trử công đức cho đời sống vĩnh cửu. Đó chính là mối nguy
hiểm lớn nhất của lòng tham.
* * *
Nhìn vào chính con
người của mình chúng ta thừa nhận rằng, dường như chúng ta dễ
đánh giá người khác theo tiêu chuẩn “having” (có) mà không là
“being” (là), đó là dấu hiệu của sự đảo lộn trật tự trong tâm
thức của con người chúng ta. Chúng ta thích làm bạn với những
người có tiền của, nể vị những người chức quyền và học vị cao,
trong khi chúng ta ít để ý hay quan tâm đến những người bình
thường khác trong cộng đoàn và xã hội. Nhưng theo đức tin chúng
ta tuyên xưng, mọi người đều là con cái Thiên Chúa và họ là anh
em với nhau. Chạy theo tiêu chuẩn trần thế, ta không những coi
thường phẩm giá của người khác, mà còn đánh mất căn tính Kitô
của mình. Theo chân phước John Paul II, con người chạy theo cái
gọi là “tiêu chuẩn cuộc sống” được hiểu là hữu dụng, có chức
năng và phong phú về mặt kinh tế.
Với tiêu chuẩn này, con người chỉ có giá trị khi họ còn sức lao
động, làm ra của cải vật chất, nếu không, họ không còn có giá
trị nữa. Xét theo “tiêu chuẩn” này, các em bé và những người già
yếu trở nên những “người thừa” của xã hội. Vì họ không “hữu dựng
và có chức năng về mặt kinh tế.” Đến đây ta nhận định rằng, đây
là sự sai lạc nghiêm trọng trong lối suy nghĩ đề cao tiền của
vật chất trong đời sống và mối quan hệ. Nếu quan niệm tiền bạc
lên trên giá trị con người và để cho tiền bạc điều khiển cuộc
sống của mình, một ngày nào đó, không sớm thì muộn, đương sự ấy
sẽ không tìm thấy “giá trị” của mình nữa; vì có lúc đời mình
cũng trắng tay như một em bé mới chào đời. Chẳng lẽ khi con
người trắng tay thì mình không còn giá trị?!
Tóm lại, thánh
Augustino đã trải qua kinh nghiệm rong ruỗi những giá trị vật
chất tạm bợ, cuối cùng cũng nhận định rằng: “Chúng ta sẽ không
bào giờ có thể thỏa mãn nối khao khát về hoàn mỹ sâu thẳm trong
con người của mình bằng những giá trị tạm bợ bất toàn.”
Br.
Huynhquảng
(còn
tiếp)
Warren W. Wiersbe, Wiersbe's Expository Outlines on
the New Testament, 71-72 (Wheaton, Ill.: Victor
Books, 1997).
|
VỀ MỤC LỤC |
|
Luật giết chết hay cứu sống
|
Nguyên tác: Taking Flight - Bay Lên Đi
Tác giả:
Anthony de Mello, S.J.
Chuyển ngữ: Lm. Minh Anh (Gp. Huế)
Chỉ dẫn:
Tốt nhất,
các câu chuyện sẽ được đọc theo thứ tự như đã sắp xếp. Mỗi
lần đọc không quá một hoặc hai mẩu chuyện nếu bạn ước ao có
được một cái gì đó hơn là chỉ giải trí.
Lưu ý:
Các chuyện
kể trong tập sách này đến từ nhiều đất nước, nhiều nền văn
hoá và tôn giáo khác nhau; chúng thuộc về những di sản
thiêng liêng, những câu chuyện hài hước được ưa chuộng của
dòng đời nhân loại.
Những gì tác
giả làm là xâu kết chúng lại với nhau theo một ý hướng đặc
thù. Công việc của tác giả là công việc của người thợ dệt và
thợ nhuộm, tác giả chẳng có công trạng gì về những tấm vải
và những sợi chỉ.
LTS.Chỉ
dẫn và lưu ý trên đây là của tác giả. Tuy nhiên, vì Đặc San
GSVN chỉ phát hành 2 tuần một lần nên mỗi số báo BBT xin
giới thiệu trung bình từ 5 đến 7 mẫu chuyện. Bạn đọc có thể
lưu lại để nghiền ngẫm suy tư.
Chủ đề : TÔN GIÁO
(tiếp theo)
106. Luật giết chết hay cứu sống
Trong một sa mạc khô cằn, cây cối thưa thớt và trái trăng hiếm
hoi. Người ta nói rằng Thiên Chúa muốn bảo đảm có đủ cho mọi
người, vì thế Ngài hiện ra với một tiên tri và phán, “Đây là
giới răn của Ta gửi đến toàn dân và các thế hệ tương lai: không
ai được phép ăn hơn một quả mỗi ngày. Hãy ghi lại điều này trong
Sách Thánh. Ai vượt quá luật này sẽ bị xem là phạm tội chống lại
Thiên Chúa và nhân loại”.
Luật được giữ cách trung thành hàng thế kỷ cho đến khi các nhà
khoa học tìm được cách biến sa mạc thành đồng xanh. Vùng quê trở
nên trù phú lúa thóc và vật nuôi. Các cây trĩu nặng trái vì hái
không xuể. Nhưng luật cấm hái vẫn tiếp tục được củng cố bởi
chính quyền dân sự và tôn giáo.
Ai để trái cây rơi rụng và thối rữa trong vườn sẽ bị kết án là
phạm thượng và là kẻ thù của tôn giáo. Ai đặt vấn đề về sự khôn
ngoan trong Thánh Ngôn của Thiên Chúa lại bị cho là không được
hướng dẫn bởi tinh thần đáng tự hào của niềm tin và sự phục tùng
mà chỉ qua đó Chân lý mới có thể được đón nhận.
Ở các nhà thờ, người ta thường nghe những bài giảng về cái chết
bất hạnh của những người không giữ luật; nhưng lại chẳng hề nghe
nói tới vô số những kẻ đã chết bất hạnh mặc dầu họ đã chẳng phạm
luật; cũng chẳng thấy nhắc tới số lớn những người đã trở nên
giàu có cả khi đã phạm luật.
Không cách nào để có thể thay đổi giới luật đó được, vì nhà tiên
tri, người tự cho mình nhận luật đó từ Thiên Chúa, đã chết từ
lâu. Lẽ ra ông phải giàu can đảm và lương tri để thay đổi điều
cấm kỵ đó, bởi hoàn cảnh đã thay đổi; hơn nữa, ông nhận luật này
từ Thiên Chúa không phải để tôn thờ, nhưng để mưu cầu phúc lợi
cho nhân dân.
Vì thế, một số người công khai chế giễu luật, Thiên Chúa và tôn
giáo. Số khác bí mật phạm luật và luôn có cảm giác sai trái. Số
lớn khác bám chắc vào luật và đi đến chỗ nghĩ mình là thánh
thiện chỉ vì họ đã bám vào một tập tục vô nghĩa và lỗi thời mà
họ quá sợ hãi đến nỗi không thể vứt bỏ.
ڰ
107. Không sợ
Luật được tuân giữ giữa những người thực sự sùng đạo. Nhưng
người ta không sợ luật…
“Anh làm gì để sống?”, bà kia hỏi một chàng trai tại buổi tiệc
rượu. “Tôi là lính nhảy dù”.
“Làm lính nhảy dù thì thật kinh khủng”, bà ấy nói.
“Ồ, có những khoảnh khắc đáng sợ”.
“Hãy kể cho tôi nghe về khoảnh khắc khủng khiếp nhất của anh”.
“Ồ”, lính nhảy dù đáp, “Tôi nghĩ đó là lúc tôi đáp xuống trên
một bãi cỏ, nơi có một tấm bảng ghi ‘Đừng dẫm lên cỏ’”.
ڰ
108. Luật ấn định như vậy!
… cũng không tôn trọng…
Một sĩ quan hỏi nhóm tân binh tại sao người ta lại làm báng súng
bằng gỗ cây hồ đào.
“Bởi vì nó nặng hơn những loại gỗ khác”, một tân binh trả lời.
“Sai”, trung sĩ đáp.
“Vì nó dẽo hơn”.
“Cũng sai”.
“Bởi vì nó bóng hơn các gỗ khác”.
“Thế thì chắc chắn là còn nhiều điều mà các bạn phải học đấy.
Cây hồ đào được dùng làm báng súng chỉ vì một lý do duy nhất, đó
là đã có luật ấn định như vậy!”.
ڰ
109. Luật đường sắt
… cũng không được tuyệt đối hóa…
Một nhân viên đường sắt tường thuật một vụ giết người trên xe
lửa theo những lời lẽ sau: “Kẻ sát nhân đi vào khoang tàu từ sân
ga, đâm nạn nhân năm nhát chí tử rồi nhảy xuống - điều này trái
với những quy định của luật đường sắt”.
Một nhà quý tộc bị chỉ trích vì thiêu rụi nhà thờ chính toà.
Ông ta bảo mình thực sự ân hận, nhưng người ta đã báo nhầm cho
ông như sự việc cho thấy - Đức Tổng Giám mục ở bên trong!
ڰ
110. Trực hai máy
Trong một khu phố nhỏ, một người đàn ông quay số 016 để tìm
thông tin danh bạ. Giọng một phụ nữ ở đầu giây kia vang lên:
“Tôi xin lỗi, ông hãy quay số 015 để tìm”.
Với ông ta, dường như khi quay số 015, ông cũng nghe một giọng
đó ở đầu giây bên kia. Vì thế ông bảo “Bà không phải là người
phụ nữ tôi vừa trò chuyện cách đây ít lâu sao?”.
“Chính tôi”, người phụ nữ đáp. “Hôm nay tôi trực hai máy”.
ڰ |
VỀ MỤC LỤC |
|
CHÚA GIÊSU là nguyên lý của đời sống và sứ vụ ơn gọi |
Lm. Micae-Phaolo Trần Minh Huy, pss.
BẢN THẢO
ỨNG SINH LINH MỤC HỌC & SỐNG LINH ĐẠO LINH MỤC GIÁO
PHẬN
GIÁO TRÌNH TU ĐỨC LỚP THẦN II & III
ĐẠI CHỦNG VIỆN THÁNH GIUSE HÀ NỘI
2011-2012
CHƯƠNG HAI
ỨNG SINH LINH MỤC GIÁO PHẬN
HỌC VƯỢT LÊN KHỦNG HOẢNG VÀ TÁI ĐỊNH HƯỚNG ĐỜI
SỐNG VÀ SỨ VỤ ƠN GỌI LINH MỤC
F. LINH MỤC GIÁO PHẬN TÁI ĐỊNH
HƯỚNG ĐỜI SỐNG VÀ SỨ VỤ BẰNG VIỆC TÌM CHÚA HƠN LÀ CÔNG VIỆC CỦA CHÚA.
(tiep theo)
F.4.
CHÚA GIÊSU là nguyên lý của đời sống và sứ vụ ơn gọi
Việc đạt tới nhận thức rằng một
mình Thiên Chúa là đủ phải vừa là điểm xuất phát vừa là đích tới. Chúng ta
thường không đạt được kinh nghiệm nền tảng Chúa là Tất Cả ngay từ bước
đầu tiên của ơn gọi, nhưng trong suốt hành trình được đào tạo và tự đào tạo,
cũng như trong cuộc sống và sứ vụ tông đồ, nó phải được tôi luyện, rõ nét nhất
vào dịp các khủng hoảng hay những thách đố lớn. Tuy nhiên, chúng ta cũng phải
nhìn nhận rằng các khủng hoảng cũng là một dữ kiện sinh tồn. Có khủng hoảng tất
nhiên đòi hỏi phải có những tiêu chuẩn giải quyết: chúng ta phải mở ra với thế
giới đang đổi thay, nhưng phải tránh cơn cám dỗ khuôn đúc theo thế giới này,
đồng thời phải chuyển tải cái nhân Phúc Âm đến cho một thế giới đang thực sự cần
nó, để nó biến đổi thế giới. Cái nhân Phúc Âm này không phải là một giáo thuyết
mà là một con người: Đức Giêsu Kitô.
Ở bình diện cộng đoàn lẫn ở bình
diện cá nhân, chúng ta phải đi gấp tới việc thanh tẩy các động lực của mình. Cần
phải nhớ rằng trước Công đồng Vaticanô II người ta đã nhấn mạnh các viễn ảnh đạo
đức và luân lý: bó buộc tìm kiếm sự hoàn thiện, lòng quảng đại tông đồ, yêu sách
đời sống cộng đoàn. Tâm thức đó được chuyển tải trong các sách tu đức, những
khảo luận về lòng đạo đức và các thủ bản tĩnh tâm. Ý niệm đó phải bị vượt quá
bởi một ý niệm khác có tính chất Kinh Thánh hơn và đăt trọng tâm nơi Chúa Giêsu.
Đặt trọng tâm nơi Chúa Giêsu, “Đấng vẫn là một hôm qua, hôm nay và mãi mãi”
là cốt lõi. Đặt trọng tâm nơi Thầy Chí Thánh là cách thế duy nhất để trở nên
người môn đệ truyền giáo hầu muôn dân có sự sống trong Ngài.
Sự qui chiếu về Chúa Giêsu phải là
tuyệt đối:
“Đôi lúc Chúa gửi đến cho tôi
những khoảnh khắc bình an, trong những khoảnh khắc ấy, tôi yêu và cảm nhận tôi
được yêu. Chính trong những khoảnh khắc ấy, tôi đã sáng tác một bản tuyên xưng
đức tin, trong đó mọi sự thật rõ ràng và thánh thiêng. Bản tuyên xưng này rất
giản dị như thế này: Tôi tin rằng không có gì đẹp hơn, không có gì sâu xa hơn,
không có gì thiện cảm hơn, không có gì hữu lý hơn, không có gì mạnh mẽ hơn, và
không có gì hoàn hảo hơn Chúa Kitô. Và tôi tự nhủ với một tình yêu ganh tỵ rằng
chẳng có gì hiện hữu và chẳng có gì có thể tồn tại, ngay cả khi một ai đó chứng
minh cho tôi rằng Chúa Kitô ở ngoài chân lý và chân lý không ở trong Ngài thì
tôi cũng sẽ chọn ở lại với Chúa Kitô thay vì ở lại với cái chân lý được giả
thiết đó” (Dostoievski).
Trong cùng ý hướng ấy, thánh
Patrice viết: “Chúa Kitô ở với tôi, Chúa Kitô ở trong tôi, Chúa Kitô ở đàng
sau lưng tôi, Chúa Kitô ở đàng trước mặt tôi, Chúa Kitô ở bên cạnh tôi, Chúa
Kitô đến nắm lấy tôi, Chúa Kitô đến an ủi tôi, Chúa Kitô đến bổ sức cho tôi,
Chúa Kitô ở bên dưới chân tôi, Chúa Kitô ở bên trên đầu tôi, Chúa Kitô ở trong
sự bình tâm, Chúa Kitô ở trong hiểm nguy, Chúa Kitô ở trong trái tim của những
người yêu mến tôi. Chúa Kitô ở nơi môi miệng của bạn hữu cũng như của người xa
lạ.”
Và thánh Vinh sơn đệ Phaolô viết: “Bạn
hãy nhớ rằng chúng ta sống trong Chúa Kitô nhờ cái chết của Chúa Kitô, và chúng
ta phải chết trong Chúa Kitô để được sự sống của Chúa Kitô, đời sống chúng ta
phải được giấu ẩn trong Chúa Kitô và tràn đầy Chúa Kitô, và để chết như Chúa
Kitô thì phải sống như Chúa Kitô.”
Trong khi thánh Gioan Tiền Hô ước
muốn “Ngài phải lớn lên, còn tôi phải bé đi” thì thánh Phaolô xác tín: “Những
gì xưa kia tôi cho là có lợi thì nay vì Đức Kitô tôi cho là thiệt thòi. Hơn nữa,
tôi coi tất cả moi sự là thiệt thòi so với mối lợi tuyệt vời là được biết Đức
Kitô Giêsu, Chúa của tôi” (Pl 3,7-8a) vì từ nay “Tôi sống, nhưng
không còn là tôi sống nữa, mà là Chúa Kitô sống trong tôi.”
F.5
NGẮM
NHÌN CHÚA GIÊSU SỐNG LẠI
Cùng với Đức Mẹ, chúng ta hãy xin
ơn cảm nhận sâu xa niềm vui mãnh liệt của Chúa Sống Lại. Đây cũng là một khía
cạnh quan trọng của việc vượt lên khủng hoảng để tái định hướng đời sống và sứ
vụ ơn gọi của chúng ta.
F.5.1. Nhận định về ý nghĩa
Phục Sinh:
Việc cảm nhận được niềm vui của Chúa Phục
Sinh giúp chúng ta có đủ nghị lực để sống trọn kế hoạch của Chúa trong mọi cảnh
huống vui buồn, thành công cũng như thất bại, sung sướng cũng như khổ đau, tức
là để tôi luyện quyết tâm sống theo thánh ý Chúa,
phấn khởi, lòng đầy hy vọng, ngẩng cao đầu, đưa mắt nhìn về cuộc sống đời đời,
cậy trông kiên vững rằng “Một khi cùng chịu đau khổ với Chúa Kitô, chúng ta
sẽ cùng được hưởng vinh quang với Ngài.”
Đường Thánh giá là đường đi, không phải là
nơi đến: nếu cứ bám chặt vào cõi đời tạm bợ này tưởng như sẽ ăn đời ở kiếp trong
trần gian này, thì sẽ tưởng khổ đau đời này là bất tận, và làm thế là tự hại
mình, tự chuốc khổ cho chính mình. Niềm vui Chúa sống lại là niềm vui ơn cứu độ
do Chúa ban,
qua can trường chiến đấu và sẽ mang lại sức mạnh và nghị lực tông đồ. Lý do để
vui mừng là siêu nhiên vì Chúa đã sống lại và đã chiến thắng thế gian (Ga
16,33). Ngài không để chúng ta mồ côi (x. Ga 14,18) mà sẽ ở với chúng ta mọi
ngày cho đến tận thế (x. Mt 28,20, và cả Ga 14,18.20): “Lòng anh em đừng xao
xuyến! Hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy” (Ga 14,1).
Sự biến đổi nhờ Chúa
Kitô Phục Sinh mang lại: Các môn đồ lòng đầy hoan hỷ (Lc 24,52; Ga 20,20); hân
hoan bởi được coi là xứng đáng chịu khổ nhục vì danh Đức Giêsu (Cv 5,40-42);
cùng đau khổ cùng hưởng vinh quang, đau khổ đời này không sánh được với hạnh
phúc, vinh quang đời sau (Rm 8,14-30); trong Chúa Kitô, khó nhọc không vô ích (1
Cr 15,54-58); cố chạy để đoạt giải và hy vọng sống lại (Pl 3,7-16). Người tông
đồ tìm thấy niềm vui (Pl 4,4-5); làm được tất cả trong Đấng ban sức mạnh cho (Pl
4,13) và phúc thay ai cùng chịu đau khổ với Đức Kitô (1 Pr 4,12-19).
Thiên Chúa làm việc không ngừng qua hoạt
động mạnh mẽ vô hình của Thần Khí, bất chấp cảnh sự ác đang hoành hành trong thế
gian,
và ngay cả trong Giáo Hội nữa.
Nhờ ơn cứu độ đưa đến sự sống đời đời, ta có được khả năng vô song với không
biết bao phương tiện dồi dào [Lời Chúa, các bí tích, cầu nguyện, kinh nghiệm
khôn ngoan của Hội Thánh và các thánh, cũng như các chức năng và tác vụ trong
Giáo Hội, v.v.] để hợp tác và tiếp nối công trình cứu độ phổ quát của Chúa Kitô.
Chúa Kitô Phục Sinh cho ta nhận thấy ơn cứu độ đã được ban sung mãn cho hết mọi
người, tuôn trào dồi dào xuống trên toàn thể nhân loại, trên toàn bộ vũ trụ...
Mãnh lực phục sinh biến đổi hẳn ý nghĩa của đau khổ, bệnh tật và sự chết. Trong
Chúa Kitô Phục Sinh, khổ đau và chết chóc trở thành khí giới đánh bại tội lỗi
(Rm 8,2) mang lại công đức cứu độ cho chính mình và cho người khác.
Mừng Mầu nhiệm Phục Sinh là sống niềm vui có
được mãnh lực cứu độ ấy hoạt động hằng giây hằng phút trong chính con người và
cuộc sống của mình, của nhân loại... qua việc kết hợp với Chúa Kitô (Gl 2,20)
như nhành nho kết vào thân nho, như bóng đèn nối với dòng điện… Dù có bệnh tật,
tuổi tác già nua thế nào đi nữa, mọi người đều hữu ích cho Giáo hội và nhân
loại, đều có ảnh hưởng tông đồ ở khắp nơi: trong Chúa Kitô, không một ai là vô
dụng cả! (x. 1Cr 13).
Như vậy, tự bản chất, người tông đồ thực thụ
sống trọn niềm vui thiêng liêng, vì có Chúa ngự trong lòng, có một niềm hy vọng
lớn lao, có sứ mạng sống và loan báo Tin Mừng.
Niềm vui nỗi buồn của người tông đồ đích thực được xác định là vui vì có ơn
thánh sủng, ưu phiền vì mất ơn thánh sủng (2 Cr 7, 9-11). Và phương thế để tạo
lại niềm vui là thống hối trở về qua bí tích hòa giải (niềm vui căn bản và bình
an thực sự trong tâm hồn),
để được nên trọn hảo như Cha trên trời là Đấng trọn hảo: « Trồng cây cũng
muốn cây xanh, nào ai lại muốn để cành xơ rơ », Chúa muốn chúng ta sống trọn
thánh ý và kế hoạch của Chúa, nên Ngài gửi đến cho chúng ta những phương tiện
khó để khổ luyện nên thánh,
vì những khổ đau thử thách trong Chúa Kitô Phục Sinh trở thành khí giới đánh bại
tội lỗi, mang lại công đức cứu độ (lửa thử vàng, gian nan thử đức: 1Cr 9, 24-27;
Dt 12,1-4; Gc 1,2-4; 2 Cr 4,17-18; Rm 8,18).
F.5.2. Hình dung và sống biến
cố Phục Sinh
F.5.2a
Với Đức Mẹ
Dù thử thách đau khổ với Con (bị bán nộp, bị
chối bỏ, trốn chạy…), Mẹ vẫn một niềm tin yêu trông cậy kiên vững, từ chiều thứ
sáu cho đến tối thứ bảy: Mẹ hồi tưởng lại cả cuộc đời đầy khổ đau của Con suốt
con đường thánh giá kéo dài 33 năm! Từ tối ngày sabbath đến sáng sớm ngày thứ
nhất trong tuần: Mẹ hướng về tương lai với niềm xác tín sâu xa Chúa sẽ sống lại,
nhưng chắc chắn không phải như con bà góa Naim hay như Ladarô... Rồi hình ảnh
Chúa Giêsu trong đầu Đức Mẹ bỗng rõ dần: Mẹ ơi, Con đây! Niềm vui bừng
lên trong đôi mắt nhìn nhau, Mẹ Con chuyện trò thân mật, Chúa Giêsu đưa cho Mẹ
xem các dấu thánh vinh quang... rồi cám ơn Mẹ đã hợp tác đắc lực trong công cuộc
cứu độ, đặc biệt kể từ lúc Truyền tin, và từng bước cho đến dưới chân thánh giá;
Mẹ cám ơn Chúa Cha, Con và Chúa Thánh Linh đã cứu độ Mẹ, đã cho Mẹ được vinh dự
hợp tác với Con vào trong một công trình cứu độ hết sức lớn lao như thế... Hân
hoan, lòng tràn ngập tâm tình tạ ơn. Chúa Giêsu trình bày cho Mẹ những gì sẽ
diễn ra trong thời gian sắp tới: hiện ra an ủi, củng cố các tông đồ trong 40
ngày; sau đó về trời và phái Thánh Thần đến; nhờ Mẹ chuẩn bị cho các tông đồ đón
nhận Thánh Thần... Mẹ ở lại một thời gian với Giáo hội sơ khai, rồi sau đó sẽ
được đưa lên trời cả hồn cả xác... Mẹ vâng theo tất cả những gì Thiên Chúa muốn,
và dù rất hạnh phúc có Con bên cạnh, Mẹ muốn hy sinh, chia sẻ cho người khác,
nên nhắc Con đi gặp các môn đồ đang cần được an ủi, củng cố.
F.5.2b
Với bà Maria Magđala và các phụ nữ
Lòng mến nồng cháy thúc đẩy quyết
tâm, kiên trì đi tìm, nên đã được gọi đích danh, vì tình yêu thật không thể là
chung chung (Mc 16,1-11; Mt 28,1-10; Lc 24,1-10; Ga 20,1-10. 14-15)... Chính
tình yêu mới bắc được nhịp cầu vào trong tâm tư sâu thẳm của đôi bên, giúp hiểu
được nhau, nhận ra nhau thực sự... Chúa tâm sự “Thầy lên cùng Cha” để dọn chỗ
cho môn đệ và mối tương quan phải được ‘tinh thần hóa,’ gọt bỏ những gì còn
‘tình cảm’ thể lý (đừng động đến Thầy). Chúa sai Maria Magdala đi báo tin cho
những chứng nhân chính thức là các tông đồ và hẹn gặp họ tại Galilêa. Gặp Chúa
là phải trở nên ‘tông đồ’ tức được sai đi nói về Chúa và mang Chúa đến cho người
khác.
F.5.2c
Với Phêrô
Có lẽ Phêrô là tông đồ đầu tiên
được gặp thấy Chúa sau khi Ngài sống lại (x. Lc 24,34). Phêrô chạy ngay ra mồ,
nhưng còn bán tín bán nghi (Lc 24,12; Ga 20,3-10), bỗng Chúa Giêsu hiện đến gọi
tên Phêrô, ông quay lại, bốn mắt nhìn thẳng vào nhau.
Trong ánh nhìn ưu ái, thân thương của Chúa Giêsu, Phêrô không chút mặc cảm, dù
đó là lần đầu tiên gặp lại Thầy sau khi chối Thầy ba lần, và lòng Phêrô tràn
ngập niềm vui, tất cả nay đang sống dậy mãnh liệt mở rộng lòng, Phêrô đón nhận
nghị lực, sức sống, suốt đời Phêrô giữ kỹ sâu trong con tim, kỷ niệm về ánh nhìn
của Thầy trong cuộc hiện ra lần đầu với mình sau khi sống lại, nhất là những lúc
gặp khó khăn...
F.5.2d
Với hai môn đệ đi Emmau
Có hai điều ta không nên bắt chước: buồn bã,
mất hết hy vọng, bỏ cộng đoàn anh em mà đi tìm an ủi chỗ khác (Lc 24,13-35),
người khác, ‘trốn’ vào công việc khác không thuộc bổn phận của mình; sao lại bỏ
đi mà không chờ đợi, bàn hỏi. Và hai điều nên bắt chước: hai người cùng đi, chia
sẻ, nâng đỡ nhau, vẫn nghĩ về Chúa Giêsu, vẫn trao đổi về Kinh Thánh, vẫn cầu
nguyện dù khô khan. Chúa Giêsu ‘đi theo’ hai ông, không ép buộc chấp nhận, kiên
nhẫn, nhẹ nhàng và tế nhị chuẩn bị tâm lý, tinh thần, lắng nghe và cặn kẽ giải
thích, dạy cho hiểu ý nghĩa của thánh giá, của đau khổ, truyền thông ánh sáng,
sức cảm hóa và nhiệt tâm, truyền ‘công lực’ rồi tôn trọng tự do, đợi chờ đương
sự hợp tác. Khi có Chúa cùng đi, lòng họ bừng cháy, họ nài ép ‘Xin mời ông ở
lại...’ Qua một cử chỉ bẻ bánh quen thuộc, họ đã nhận ra Chúa, tin tưởng, hy
vọng, niềm vui, nhiệt huyết đã sống dậy, họ đi trở về ngay trong đêm loan báo
tin vui. Với Thánh Lễ, Chúa Giêsu luôn cùng đi bên cạnh chúng ta trong cuộc sống
và công việc hằng ngày: hiện diện thân mật, ưu ái, đỡ nâng, ủi an...
F.5.2e Với các tông đồ
Chúa Giêsu Phục Sinh đã hiện ra với
các tông đồ lần thứ nhất không có Tôma, nhưng lần thứ hai có Tôma (Lc 24,36-49;
Ga 20, 19-29). Bất chấp những yếu đuối và lầm lỗi (chối, trốn chạy, ngờ vực) của
các ông, Ngài vẫn yêu thương họ với một tình thương bao la, kiên nhẫn, tế nhị tế
nhị và trung thành. Ngài tìm đến với họ trong tình thân thương (“Có gì ăn
không?”), trước sau như một, trao ban bình an, niềm vui, sứ mạng, Thần Khí,
quyền năng tha thứ. Chúa vẫn hiện diện giữa Giáo Hội mọi thời trong cùng một
cung cách. Thầy trò thân mật trao đổi với nhau nhiều điều: Chúa giải thích, cắt
nghĩa về sứ mạng đi đến tận cùng trái đất, về sự phải bị xử tệ, bị bắt bớ, giết
hại, cũng như về niềm vui và vững tin vì “Thầy đã thắng thế gian!” “Thầy không
bỏ các con mồ côi, Thầy sẽ ở với các con mọi ngày cho đến tận thế!” “Thầy sẽ ban
Đấng An Ủi đến giải thích cho các con biết và hiểu chân lý toàn vẹn.” “Hãy ở lại
trong Thầy. Hãy yêu thương nhau! Bình an cho các con!” v.v…
Ông tổ của những người hoài nghi,
duy thực chứng là Tôma Điđimô không thấy thì không tin. “Phúc cho ai không thấy
mà tin!” Chúa Giêsu không ruồng bỏ một ai, một thứ tính tình nào, dù khó khăn,
đòi hỏi bao nhiêu, Ngài vẫn chiều, thích nghi, một lúc nào đó, bằng một cách nào
đó, không bao giờ thất vọng đối với bất cứ một ai, Ngài quyền năng và nhân
hậu..., nhưng tất cả đó cũng là niềm vui, niềm vinh dự, niềm hứng khởi, niềm lạc
quan của chúng ta bây giờ là kẻ có lòng tin!
F.5.2f Với bảy tông đồ bên
bờ hồ Galilê
Chúa hẹn họ về Galilê, trở lại với
cuộc sống thực tế, với kế sinh nhai, giữa những bổn phận thiêng liêng và trần
thế, phải đạp đất cho chắc để lấy đà mà lên trời, làm việc với sáng kiến, có
trật tự, trong tinh thần đoàn kết, đồng tâm nhất trí, nắm tay nhau; có thất bại
mỏi mệt vẫn không quản ngại, tiếp tục kiên trì (Ga 21, 1-23)... Chúa luôn đi bên
cạnh, khi ẩn khi hiện, nhìn qua lòng tin yêu giữa cuộc sống, giữ tư thế lắng
nghe (thinh lặng, cầu nguyện...) Ngài lên tiếng, chỉ giáo, dù đôi lúc xem ra táo
bạo, khác với ‘khôn ngoan’ thế tục (đánh lưới lúc trời đã sáng!). Nhưng sự thành
công cách lạ giúp họ dễ nhận ra Chúa (“Thầy đó!”), thêm tin yêu, thân mật, xác
tín, hăng say, hào hứng giữa những bổn phận hằng ngày (tìm và gặp Chúa trong mọi
sự). Chúa tế nhị lưu ý đến cả nhu cầu vật chất, thể lý. Ngài vẫn khiêm tốn ‘phục
vụ” (nướng sẵn cá và bánh) để nuôi dưỡng bổ sức cho họ. Dù họ có bội phản, trốn
tránh, Ngài vẫn tiếp tục kiên trì kêu mời về lại với tình yêu thương, là sức
mạnh vô song đem lại nghị lực hầu vượt thắng tất cả trên hành trình đường đời dù
có chông gai đến mấy, hầu kiên trì phục vụ tha nhân theo cương vị của mình.
Giáo Hội và mỗi người chúng ta sống
giữa lòng trần thế, giữa dòng lịch sử vẫn luôn có Chúa Giêsu, tuy vô hình, hằng
hiện diện bên cạnh để âm thầm đỡ nâng. Sáng kiến và chỉ đạo từ Phêrô, các tông
đồ tán thành và cùng hoạt động theo tinh thần đoàn kết, cộng đoàn... [trong Giáo
hội, Đức Giáo Hoàng đứng đầu, chỉ đạo, đề xướng sáng kiến và làm việc theo
phương thức và tinh thần tập thể tông đồ đoàn, giám mục đoàn]. Các ông đánh cá
suốt đêm mà không bắt được gì: gặp thử thách nhưng đoàn kết, hợp tác, kiên trì
dưới sự chỉ đạo của Phêrô [sứ mạng và sinh hoạt của Giáo hội cũng tiến hành
trong cách thức tương tự]. Chúa Giêsu hiện đến đứng trên bờ, bên cạnh cộng đoàn
chịu thử thách, nhưng biết lắng nghe để nhận ra và làm theo lời chỉ bảo của Chúa
[đó là hình ảnh sinh động của cuộc sống nhiệm thể Chúa Kitô]. Nhờ vâng lời, các
ông đã thành công với Chúa: mẻ cá lớn [với sức mạnh của Chúa, Giáo hội đón nhận
hết mọi người không phân biệt, phổ quát: lưới không rách.
Dấu chỉ giúp nhận ra Chúa: Gioan
càng thân thiết thì càng nhanh nhận ra Chúa. Phêrô nhảy ào xuống biển đi đến với
Thầy (kẻ trên người dưới trong Giáo Hội phải dùng đoàn sủng của mình mà giúp
nhau nhận ra Chúa, ý Chúa và mau mắn đến với Người). Chúa Giêsu thấy trước nhu
cầu, nên ân cần chăm sóc, lo cả đến phần xác (dọn bữa), tế nhị lưu tâm đến công
sức của các môn đồ (“hãy đem ít cá mới bắt được tới đây”). Chúa nuôi sống Giáo
hội bằng chính Thánh Thể của Ngài trong tình thương hiệp nhất. Giáo Hội mãi mãi
quây quần với nhau trong bầu khí đó.
Cuộc đối thoại giữa Chúa Giêsu và
Phêrô chính thức củng cố quyền bính của Phêrô trước mặt ‘nhóm tông đồ’ qua cuộc
phỏng vấn với ba câu hỏi quy trọn vào lòng mến, tương ứng với sứ vụ ba chiều
kích (ngôn sứ, tư tế, chỉ đạo). Có mến Chúa đủ mới có sức để phục vụ hữu hiệu và
kiên trì, nhất là trong những trạng huống khó khăn. Ba lần hỏi, ba lần trả lời:
rõ ràng và chắc chắn từ hai phía, mãi mãi là như thế, bởi câu hỏi và câu trả lời
kia sẽ kéo dài suốt cuộc đời tông đồ! Và Chúa Giêsu không trả lời thẳng về
Gioan, mà bảo Phêrô: “Phần con, con hãy theo Thầy!” trong tin yêu và hy vọng.
F.5.3. Chúa Giêsu lên trời – Chúa Thánh Thần Hiện Xuống (Mt 28,16-20; Lc
24,50-52; Cv 1,6-11)
F.5.3a Chúa Giêsu lên trời
Lên trời
không muốn nói một nơi chốn cụ thể, nhưng là một tình trạng cho thấy là giai
đoạn ‘hiện ra’ đã chấm dứt, Chúa Giêsu sẽ không hiện ra như trong bốn mươi ngày
vừa qua nữa, nhưng Ngài vẫn “ở lại” với con người trong Thánh Thể cho đến giây
phút cuối cùng của thời gian: một bằng chứng khác của việc “yêu đến cùng!”
Ngự bên hữu Chúa Cha,
nghĩa là Chúa Giêsu đưa nhân tính, đưa con người chúng ta vào tận trong thâm
cung của Thiên Chúa Ba Ngôi muôn đời! Và Ngài sẽ lại đến cốt ý nhắc nhở
các tông đồ khỏi ngong ngóng chờ mong gặp lại Thầy tại Giêrusalem, Galilê hay
đâu đó trong xứ Palestin, hầu để tâm chuẩn bị và mở rộng lòng đón Chúa Thánh
Thần hiện xuống qua một biến cố chấn động làm cho thức tỉnh; đồng thời mới đi
vào nội tâm để gặp Chúa Giêsu vì lẽ Ngài ở trong nơi sâu thẳm đó.
F.5.3b Chúa Thánh Thần Hiện Xuống
Nếu các tông đồ cứ bận tâm ‘chia trí,’ trông
chờ gặp cho được Thầy để đặt câu hỏi nhờ Thầy giải quyết các vấn đề thì sẽ không
gặp được Thần Khí đang hiện diện bên trong; chẳng thế nên Giêsu đã nói “Thầy
ra đi thì có lợi cho anh em;”
lúc đó không còn biết hỏi ai, các tông đồ sẽ để tâm cầu nguyện, suy nghĩ, nhận
định, và qua đó các vị sẽ gặp được ánh sáng của Thánh Thần, như thấy rõ trong
ngày Hiện xuống, trong ‘công đồng’ Giêrusalem.
Có được nội tâm hóa thì đời sống thiêng liêng của chúng ta mới trưởng
thành [như thở hít vào].
Vậy cuộc tử nạn, các biến cố sống
lại, lên trời và hiện xuống là những giai đoạn kết chặt với nhau trong cùng một
mầu nhiệm phục sinh; từ đây, không còn và không cần nhìn về một nơi chốn
(Palestin...) để tìm sức mạnh trợ giúp, bởi bất cứ ở đâu các tông đồ cũng gặp
được Thần Trí của Chúa Kitô, Thầy mình, vì Ngài vẫn còn ở lại trong Lời Chúa,
trong bí tích, nhất là trong bí tích Thánh Thể... Và như thế, các tông đồ mới
lòng đầy tin tưởng, mạnh dạn dứt khoát ra đi cho đến tận cùng trái đất để truyền
rao Tin Mừng, như Thầy dấu yêu và quyền năng đã truyền bảo [như hơi thở ra].
Đó cũng là bài học cho mỗi một kitô
hữu: có được nội tâm hóa (hơi thở vào) thì đời sống thiêng liêng cá nhân mới
trưởng thành, mới có sức mà tung ra (hơi thở ra) để làm tông đồ, làm chứng cho
Tin Mừng ở mọi nơi, trong mọi hoàn cảnh, không ngại ngùng, sợ sệt, xác tín là
luôn có Thần Trí Thầy mình ở bên cạnh, lòng hướng về Trời, nơi quê thật, cố hoạt
động và sống làm sao để “tên được ghi trên Trời” (Lc 10,20). Chúng ta hãy nhìn
lại tổng quát, hồi tưởng lại trong ánh sáng phục sinh toàn bộ lịch sử cứu độ
trên bản thân mình với tất cả ân huệ tự nhiên và siêu nhiên mà Thiên Chúa chủ ý
ban cho chúng ta thừa hưởng trong Chúa Kitô:
những ân huệ chung: trái đất, mặt trời, trăng, sao, không gian vũ trụ, khí thở,
thức ăn thức uống, áo mặc, nhà ở, gia đình, xã hội, Lời Chúa, bí tích, Giáo hội,
các thánh thông công, v.v...; những ân huệ ban riêng, những biến cố xảy đến
trong đời sống cá nhân mà mỗi người tự biết; không chỉ những ân huệ tạo dựng,
“Chúa còn ban chính mình Ngài cho ta! Thật là tình thương vô biên! Ta nhìn kỹ,
cân nhắc, thưởng thức tình yêu thương nhận được rồi suy xét về điều ta phải hiến
dâng lên Ngài sao cho tương xứng với tình yêu ‘hết lòng hết sức’ của ta đối với
Ngài.
Không những ban quà, Chúa còn đến
bên ta để tận tay trao quà, bởi chính Ngài “ở trong các tạo vật” và ta là đền
thờ Ngài ngự, hiện diện ưu ái, thân mật... Ta suy nghĩ về bản chất tương quan,
tương tác của tình yêu...
Không phải là quà ‘cũ’ sẵn có, mà là quà ‘mới’, sinh động, hằng hoạt động, tiếp
tục ra sức ‘làm việc’: từng bước Ngài chuyền sức hiện hữu, sự sống sinh vật, sự
sống động vật, sự sống trí khôn/tâm linh, và cả đời sống siêu nhiên nữa.
Ta phải không ngừng canh tân mỗi ngày các món quà Chúa ban để giữ cho chúng được
tồn tại, luôn luôn mới, luôn luôn sinh động, mãi mãi tốt đẹp hơn phù hợp với nhu
cầu của mỗi người chúng ta.
Chúa luôn quan phòng, hiện diện đầy năng động, yêu thương bằng hành động. Ta
phải suy nghĩ để tìm cách đáp trả lại tình thương của Chúa.
Dù nhiều thứ, và vô số loại quà,
nhưng tất cả đều đến từ một Chúa duy nhất là Cha, như “tia sáng bừng phát từ mặt
trời”, như “giòng nước khơi mạch từ nguồn suối” và phản ánh chính Ngài. Mọi sự
phát xuất từ Chúa: thông minh đến từ thông minh vô hạn, sức mạnh đến từ sức mạnh
vô biên, vẻ xinh đẹp đến từ nguồn mỹ hảo vô tận, đi lên đến nguồn gốc sinh động
của tất cả, là chính Chúa. Hãy nâng tâm hồn lên, đi vào trong tình thân mật với
Chúa. Hãy tìm và gặp Ngài trong mọi sự, trong chiêm niệm và trong hành động. Tóm
lại, chúng ta ngắm nhìn Chúa Giêsu Kitô Phục Sinh để được chia sẻ niềm hân hoan,
vui mừng với Chúa sống lại, được thông dự vào sức mạnh phục sinh của Ngài trong
niềm hứng khởi, sống niềm hy vọng sẽ được chung phần vinh quang mai ngày với
Ngài, hầu đi đến chỗ nhận ra tầm hữu ích của đau khổ trong kế hoạch cứu độ. Niềm
hân hoan, sức mạnh và niềm hy vọng ấy sẽ làm cho ta nên kiên cường trong quyết
tâm thực thi trọn vẹn thánh ý Chúa.
_________
Chú thích
|
VỀ MỤC LỤC |
|
DÙNG CẦN SA Ở THANH THIẾU NIÊN
|
Trong cuộc bầu cử
chức vụ Tổng Thống Hoa kỳ cũng như Thượng Hạ Viện liên bang ngày
6 tháng 11, 2012 vừa qua, có thêm hai tiểu bang Connecticut và
Massachusetts đã hợp thức việc dùng cần sa trong mục đích y học.
Như vậy là hiện nay có 18 tiểu bang Hoa Kỳ và Washington D.C.
cho phép dùng cần sa để trị bệnh. Trước sự việc này, nhiều bậc
phụ huynh cảm thấy e ngại vì con em mình sẽ có thêm cơ hội để
hút cần sa.
Tại nhiều quốc gia,
trẻ em bắt đầu thử với cần sa ngay từ khi còn ở lớp 8, lớp 10.
Trẻ em ghiền dễ đưa tới những hành động vô ý thức, những tổn
thương cơ thể do tai nạn hoặc dính líu vào hành động tình dục
không muốn và không an toàn. Chúng cũng hay mang vũ khí nhỏ và
hay đánh lộn hơn là trẻ không dùng cần sa.
Sớm khám phá để hỗ
trợ, cứu giúp là điều cần thiết ngõ hầu tránh được những hậu quả
không tốt cả về thể xác, tâm thần và xã hội cho con trẻ
a-
Những dấu hiệu dùng
cần sa ở tuổi trẻ
Trẻ em dùng cần sa
đều rất dễ dàng nói dối để phủ nhận có vấn đề khi cha mẹ căn vặn.
Nhiều khi nói chỉ hút chứ không hít vào. Cho nên các bậc cha mẹ
đều cần đề cao cảnh giác, để ý những dấu báo hiệu dùng thuốc ở
con mình.
Dấu hiệu sớm nhất
thường là thay đổi thái độ và hành động của chúng.
Học hành đang chăm
chỉ tiến bộ, trở thành chểnh mảng, có điểm xấu, hay trốn học
hoặc đi học trễ, bị đuổi; tính tình thay đổi, kém tập trung, mau
quên.
Tác phong bất
thường có thể là tự cô lập, thu mình không giao tiếp với ai,
buồn rầu, cáu gắt với anh chị em trong nhà, bỏ những giải trí
thường ưa thích, đôi khi ăn cắp vặt để có tiền mua thuốc.
Các em ăn ngủ thất
thường, hay than phiền chóng mặt, mệt mỏi, bước đi không vững,
mắt đỏ hoe. Nhiều em trở nên hoang tưởng, hoảng hốt một cách vô
cớ. Trên quần áo, trong phòng ngủ có mùi cần sa.
b-
Những nguy cơ đưa
đến tuổi trẻ dùng cần sa
Hầu hết người dùng
cần sa đều nói là để có cảm giác thoải mái và yêu đời. Với trẻ
em thì có rất nhiều lý do khiến các em hút rồi ghiền cần sa.
- Nhiều em thấy
người khác hút, tò mò thử coi xem sao, sau nhiều lần thấy thích
rồi thành thói quen và ghiền.
- Có em thì bị bạn
bè ép dụ hoặc tình nguyện dùng khi muốn được chấp nhận vào băng
nhóm.
- Nhiều khi các em
dùng vì sống trong gia đình có người ghiền rượu, thuốc ma túy.
- Các em dùng để
giải tỏa buồn bực, khó khăn xảy ra trong gia đình như bố mẹ bất
hòa, vắng mặt thường xuyên, tính tình bất nhất lúc khó khăn lúc
buông thả.
- Các em gặp trở
ngại trong việc học, không được hướng dẫn cho tương lai, trốn
học.
- Có nghiên cứu cho
thấy gene di truyền cũng có vai trò trong việc dùng cần sa và
các thuốc khác.
c-
Tác dụng của cần sa
Cần sa có tác dụng
khác nhau trên cơ thể tùy theo cách dùng, có dùng chung với rượu
hay các thuốc khác, nhất là có chứa nhiều hay ít hoạt chất
cannabinol.
Có cháu sau khi
dùng trở nên như mất cảm giác, tê dại. Nhưng đa số lại thấy tinh
thần lên cao do đó có chuyện lạm dụng. Cháu cười nói huyên
thuyên nhưng không gẫy gọn, mạch lạc. Chúng như bị thu hút bởi
những cảm giác, âm thanh, mùi vị thông thường và thấy những sự
việc vụn vặt trở nên hấp dẫn, khêu gợi. Với các cháu, khái niệm
về không gian không còn, chúng như bị phân đôi và thời gian như
lắng đọng, chậm lại.
Các cháu cảm thấy
khát nước và đói. Tim tăng nhịp đập, miệng khô, đi đứng nghiêng
ngả mất thăng bằng, cử động chậm chạp, cặp mắt đỏ ngầu, con
ngươi mở to. Huyết áp lên cao, nhất là khi dùng cần sa chung với
các thuốc kích thích khác hay với rượu.
Sau đó khoảng vài
ba giờ thì triệu chứng phai lạt dần và người phi thuốc cảm thấy
rã rượi rồi đi vào giấc ngủ triền miên.
d-
Diễn biến sự lạm
dụng
Cũng như đối với
các hóa chất có thể lạm dụng khác, người dùng cần sa sẽ trải qua
mấy giai đoạn:
- Nghe nói cần sa
làm tinh thần phấn khởi, yêu đời, nên muốn thử cho biết.
- Sau vài lần thử
thấy hay hay, hấp dẫn bèn thử nữa.
- Ám ảnh với cảm
giác thích thú kích động bèn dùng thường xuyên hơn và dùng mọi
thủ đoạn để có thuốc.
- Giai đoạn cuối là
dùng bất cứ thuốc nào khác thay thế để thỏa mãn cảm giác mong
muốn.
Đó là điểm nguy hại
vì khởi đầu từ cần sa các cháu có thể đi tới nghiện các loại
thuốc khác độc hại hơn như là hồng phiến, bạch phiến, rượu mạnh,
các hóa chất kích thích tâm thần khác.
e-
Để ngăn ngừa con em
dùng cần sa
Thực ra không có
phương cách toàn hảo nào để ngăn ngừa việc con người mắc vào các
tật ghiền, nghiện ngập. Hơn nữa thuốc gây nghiền lại hiện diện
khắp nơi, tương đối mua dễ dàng lại luôn luôn quyến rũ người
không có nghị lực, không có quan niệm sống lành mạnh.
Cho tới nay, chưa
có dược phẩm nào để chữa người nghiền cần sa, ngoại trừ cố vấn,
đối thoại, giải thích.
- Sự hỗ trợ của gia
đình, bạn bè đóng vai trò rất quan trọng.
- Điều cần là cha
mẹ phải sống gần gũi với con cái, hỗ trợ, theo dõi sinh hoạt
hàng ngày của con mình.
- Bắt đầu nói
chuyện với con cái về ảnh hưởng không tốt đối với sức khỏe của
cần sa và các loại thuốc gây nghiền ngay khi còn bé.
- Cho con cái hay
là chúng có thể thảo luận các vấn đề khó khăn với mình bất cứ
lúc nào và trong tinh thần cởi mở, hiểu biết.
- Luôn luôn đề cao
cảnh giác: khi nghi là con cái dùng cần sa thì phải hành động
ngay để cứu chữa.
- Đừng ngần ngại do
dự khi thấy cần sự giúp đỡ các nhà chuyên môn về ghiền hút.
- Có nhiều chương
trình phục hồi dành riêng cho giới trẻ nghiện ngập. Nơi đây các
em sống hoàn toàn nhịn thuốc đồng thời học hỏi cách thức đối phó
với các vấn đề khó khăn về cảm xúc, hành vi, thể xác gây ra do
cần sa.
- Quan trọng hơn cả
là chính các em phải ý thức được vấn đề và muốn thay đổi.
Kết
luận.
Vấn đề dùng cần sa
trong trị bệnh đang còn được tranh luận. Phe ủng hộ cũng nhiều
mà phe chống đối cũng không phải là ít. Nhưng việc dùng cần sa
để trở thành ghiền của các em thiếu niên đang là một vấn nạn cho
nhiều gia đình và xã hội. Việc con cái dùng cần sa hoặc các chất
gây ghiền khác là mối quan tâm lớn của các bậc làm cha mẹ.
Tại nhiều quốc gia,
trẻ em bắt đầu thử với cần sa ngay từ khi còn ở lớp 8, lớp 10.
Trẻ em ghiền dễ đưa tới những hành động vô ý thức, những tổn
thương cơ thể do tai nạn hoặc dính líu vào hành động tình dục
không muốn và không an toàn. Chúng cũng hay mang vũ khí nhỏ và
hay đánh lộn hơn là trẻ không dùng cần sa.
Khám phá ra sớm để
hỗ trợ, cứu giúp là điều cần thiết ngõ hầu tránh được những hậu
quả không tốt cả về thể chất lẫn tâm thần và xã hội cho con trẻ.
Bác sĩ Nguyễn Ý-Đức
www.bsnguyenyduc.com
|
VỀ MỤC LỤC |
Bệnh chuẩn
mực trần tục |
(Ghi lại bài nói chuyện của Đức Tổng Giám mục Phanxicô
Xaviê Nguyễn Văn Thuận với giới trẻ Việt Nam
tại Strasbourg, Pháp, chiều ngày 12.9.1998)
Giới thiệu
Muốn thành công trước hết phải chữa trị tận gốc mười (10)
chứng bịnh làm băng hoại xã hội ngày nay.
Cuộc sống cộng đồng và Giáo hội, không những ở Việt Nam mà ngay
cả ở hải ngoại, hiện đang có những bất ổn. Không hoặc chưa phát
huy được nét tích cực của mình. Do đâu ?
Có rất nhiều căn nguyên. Những căn nguyên này là những chứng
bịnh vừa nguy hiểm vừa truyền nhiễm đang hoành hành trong xã
hội, và có cơ nguy làm cho cuộc sống xã hội băng rã. Tôi qui
chúng lại thành mười bệnh lớn:
Thập đại bịnh.
6. Bệnh
chuẩn mực trần tục
Lấy tinh
thần, não trạng trần tục làm chuẩn mực cho cuộc sống mình. Làm
việc Chúa, nhưng không theo tinh thần Phúc Âm mà lại dùng tiêu
chuẩn hoàn toàn trần tục để chuẩn định. Người công giáo kiểu đó
thường hay trở thành công giáo tùy thời: Thịnh thì công giáo,
suy thì chối. Công giáo vụ lợi: Có mùi vật chất thì tới, không
thì miễn. Công giáo danh dự: Chỉ siêng năng xuất hiện khi có lễ
lạc được mời lên ghế danh dự, không thì biệt tăm chẳng bao giờ
thấy.
Nhiều khi
chẳng phải là bản chất, chẳng tội lỗi gì, nhưng là vì mình đua
đòi. Chính đua đòi này làm cho cuộc đời khổ sở. Sang đây thấy
người ta có xe đẹp, nhà rộng; mình đua đòi muốn hơn người nên
phải nô lệ cho công việc, cả nhà làm việc quá mức.
Và chuẩn mực
trần thế thường được căn cứ theo báo chí, truyền thanh truyền
hình. Báo bảo cái gì hay là hay, cái gì số đông theo là
tốt...mặc dù những cái đó không hợp với lương tâm.
Năm ngoái
tôi ghé Na Uy tới thăm một bà giáo sư giữ một ghế thứ trưởng
trong nội các. Na Uy đa số theo Tin lành và Giáo hội này, như
tại các nước Tin lành khác, phải tùy thuộc thế quyền. Bà phàn
nàn: nguy quá cha ơi, Giáo hội chúng tôi đang sa lầy trong vòng
kềm toả dư luận. Chính phủ ra lệnh cho Giáo hội; Quốc hội ra
lệnh (bằng đạo luật) cho chính phủ; mà đạo luật thì lại hình
thành do áp lực dư luận truyền thông; vừa rồi chính phủ mới cách
chức hai mục sư vì họ chống lại việc phá thai!
Một số cơ
quan truyền thông chửi bới Đức Giáo hoàng, kết ngài vào tội
thiếu thực tế, thiếu tiến bộ. Nhưng khi Đức Giáo hoàng đến với
giới trẻ thì hàng triệu anh chị em trẻ lại tuôn đến với ngài.
Tất cả chỉ vì ngài là người dám nói lên sự thật, bất chấp dư
luận. Tuổi trẻ hôm nay đang bị chao đảo trong một thế giới khủng
hoảng niềm tin và giá trị. Nên chi họ cần người tín cẩn dám nói
thẳng cho họ đâu là điều đúng, đâu là sai. Cái khó và nguy hiểm
của ngày hôm nay là người ta phạm tội, nhưng lại bắt cả nhà nước
và Giáo hội coi đó là nhân đức. Chẳng hạn như chuyện đồng tính
luyến ái. Dư luận đang bắt mọi giới phải xem đó là chuyện hợp
luân thường đạo lý. Giáo hội thương cảm, nhưng Giáo hội cần nói
sự thật. Đức Thánh cha nói: "không cần ai bỏ phiếu cho sự
thật" vì sự thật vẫn là sự thật.
Đức Hồng Y Phanxicô Xaviê
Nguyễn văn Thuận
|
VỀ MỤC LỤC |
|
- Mọi liên lạc: Ghi danh, thay đổi địa chỉ, đóng góp ý kiến,
bài vở..., xin gởi về địa chỉ
giaosivietnam@gmail.com
- Những nội dung sẽ được đề cao và chú ý bao gồm:
Trao đổi, chia sẻ những kinh nghiệm thực tế trong việc mục
vụ của Giáo sĩ; Những tài liệu của Giáo hội hoặc của các
Tác giả nhằm mục đích Thăng tiến đời sống Giáo sĩ; Cổ võ ơn
gọi Linh mục; Người Giáo dân tham gia công việc “Trợ lực
Giáo sĩ” bằng đời sống cầu nguyện và cộng tác trong mọi lãnh
vực; Mỗi Giáo dân phải là những “Linh mục” không có chức
Thánh; Đối thoại trong tinh thần Bác ái giữa Giáo dân và
Giáo sĩ… (Truyền giáo hay xây pháo đài?)
- Quy vị cũng có thể tham khảo những số báo đã phát hành tại
www.conggiaovietnam.net
Rất mong được sự cộng tác, hưởng ứng của tất cả Quí vị
Xin chân thành cám ơn tất cả anh chị em đã
sẵn lòng cộng tác với chúng tôi bằng nhiều cách thế khác
nhau.
TM. Đặc San Giáo Sĩ Việt Nam
Lm. Luca
Phạm Quốc Sử
USA
|
|
*************
|
|