Đặc San Giáo Sĩ Việt Nam

 

 

 

ĐỰƠC CHỌN GIỮA LOÀI NGƯỜI
VÀ CHO LOÀI NGƯỜI  (x. Dt, 5.1)

 

GIÁO SĨ:

Xuất phát từ giáo dân, hiện diện vì giáo dân và cậy dựa vào giáo dân

 

ĐỂ CÙNG LÀM VINH DANH THIÊN CHÚA

 

www.conggiaovietnam.net                          giaosivietnam@gmail.com

Đặc San Điện Tử    Giáo Sĩ Việt Nam    Số 183, Chúa Nhật 04.11.2012


MỤC LỤC 

Huấn Luyện Làm Tông Ðồ                                                                                            Vatican 2

YÊU CHÚA VÀ ƯU ÁI TỬ TẾ VỚI THA NHÂN                                Bác sĩ Nguyễn Tiến Cảnh, MD

ĐIỂM ĐẾN CỦA HÀNH TRÌNH NỐI BƯỚC CÁC TIỀN NHÂN VÀ CHỨNG NHÂN ĐỨC TIN  
Hồng Y Gioan B. Phạm Minh Mẫn 

Mầu nhiệm được vén mở qua dụ ngôn            Chuyển ngữ: Thérèse Trần Thiết + Fr. Marie Bảo Tịnh O.Cist

NĂM ĐỨCTIN: THỰC TRẠNG TỘI LỖI CẦN LƯU Ý VÀ TRÁNH ĐỂ SỐNG ĐỨC TIN VỮNG VÀNG.                                                                                                      Lm. PX. Ngô Tôn Huấn

“SỎI ĐÁ CŨNG CẦN CÓ NHAU”                                                             Lm. VĨNH SANG, DCCT

TÔI TẬP SỐNG GIÁO HUẤN                                                                                            Hạt Cải

CHO NHỮNG NGƯỜI NẰM XUỐNG                                                     Lm Giuse Trần Đình Long

Tri thức và khai sáng                                                                        Lm. Minh Anh chuyển ngữ

CÁC KHỦNG HOẢNG CÓ THỂ XẢY RA TRONG ĐỜI SỐNG VÀ SỨ VỤ LINH MỤC GIÁO PHẬN  Lm. Micae-Phaolô Trần Minh Huy, pss.

ĐO HUYẾT ÁP ĐÚNG CÁCH                                                                        Bác sĩ Nguyễn Ý Đức

Thập đại Bịnh (1. Bệnh quá khứ cục bộ)                                   Hồng Y. PX. Nguyễn Văn Thuận


Huấn Luyện Làm Tông Ðồ

 

Thánh Công Ðồng Chung Vaticanô II 

Sắc Lệnh Về Tông Ðồ Giáo Dân

Apostolicam Actuositatem 

Prepared for Internet by Vietnamese Missionaries in Asia

Chương VI: Huấn Luyện Làm Tông Ðồ

 

28. Cần huấn luyện để làm việc Tông đồ. Việc tông đồ chỉ đạt tới kết quả mỹ mãn nhờ việc huấn luyện đầy đủ và chuyên biệt. Sở dĩ đòi hỏi phải được huấn luyện chu đáo như thế không những vì người giáo dân phải tiến bộ liên tục về đời sống thiêng liêng và về giáo lý, mà họ còn phải thích nghi trong khi hoạt động với những hoàn cảnh khác biệt tùy theo thực tại, nhân sự cũng như tùy theo nhiệm vụ. Việc huấn luyện này phải dựa trên những nền tảng đã được Thánh Công Ðồng đề xướng và công bố trong nhiều văn kiện khác 1. Ngoài việc huấn luyện chung cho mọi tín hữu, còn phải có thêm lớp huấn luyện chuyên biệt cho một vài đoàn thể tông đồ có nhiều đoàn viên và hoàn cảnh khác nhau.

 

29. Những nguyên tắc của việc huấn luyện. Vì giáo dân cũng được tham dự vào sứ mệnh của Giáo Hội theo thể thức riêng của họ, nên việc huấn luyện cho họ làm tông đồ phải căn cứ trên tính chất riêng biệt của người giáo dân là sống giữa lòng đời, và phải đặc biệt thích nghi với đời sống thiêng liêng của họ.

Việc huấn luyện để làm tông đồ cũng bao hàm việc huấn luyện toàn diện con người cho phù hợp với nhân cách và hoàn cảnh của mỗi người. Thực vậy, giáo dân nhờ việc hiểu biết thấu đáo về thế giới hiện đại, họ phải là một phần tử thích nghi với xã hội và với nền văn hóa riêng của họ.

Nhưng tiên vàn, người giáo dân phải học sao cho biết chu toàn sứ mệnh của Chúa Kitô và của Giáo Hội bằng sống đức tin vào mầu nhiệm Thiên Chúa sáng tạo và cứu chuộc dưới sự hướng dẫn của Thánh Thần, vì Thánh Thần là Ðấng làm cho Dân Chúa được sống, Ðấng thôi thúc mọi người yêu mến Thiên Chúa Cha cũng như mến yêu thế giới và nhân loại trong Ngài. Việc huấn luyện như thế phải được coi là căn bản và là điều kiện cho mọi hoạt động tông đồ có hiệu quả.

Ngoài việc huấn luyện về đời sống thiêng liêng, còn phải huấn luyện vững chắc về giáo lý, ngay cả về thần học, luân lý, triết học tùy theo tuổi tác, hoàn cảnh và khả năng. Cũng không thể coi thường việc giáo dục văn hóa tổng quát cũng như đào tạo về kỹ thuật và thực hành.

Ðể việc giao tế với người khác được tốt đẹp, cần phải phát huy những giá trị nhân bản thực, nhất là cách sống chung thân thiện, cộng tác và đối thoại với mọi người.

Bởi vì việc huấn luyện tông đồ không phải chỉ hệ tại việc huấn luyện về lý thuyết, nhưng phải dấn thân trọng tập cho người giáo dân, ngay từ bước đầu dưới ánh sáng đức tin, đồng thời trong khi hành động, biết tự luyện và nên hoàn thiện cùng với người khác. Ðược như vậy họ sẽ phục vụ Giáo Hội một cách tích cực 2. Việc huấn luyện này cần phải được hoàn hảo luôn mãi vì con người ngày một trưởng thành và vì những vấn đề luôn luôn biến đổi. Chính vì thế việc huấn luyện đòi hỏi một kiến thức mỗi ngày một sâu rộng, cũng như một hành động luôn luôn thích nghi. Ðể thỏa mãn những đòi hỏi muôn mặt trong việc huấn luyện, phải luôn lưu tâm tới tính cách duy nhất và toàn vẹn của con người để duy trì và gia tăng sự hòa hợp và thế quân bình nơi họ.

Như thế, người giáo dân mới dấn thân vào chính thực tại của trật tự trần thế một cách tích cực và sâu xa cũng như đảm đương vai trò của mình trong việc điều hành trật tự trần thế một cách hữu hiệu. Ðồng thời, như một phần tử sống động và là chứng nhân của Giáo Hội, họ làm cho Giáo Hội hiện diện và hoạt động ngay giữa lòng trần thế 3.

 

30. Người chịu trách nhiệm huấn luyện. Việc huấn luyện làm tông đồ phải bắt đầu ngay từ lúc mới giáo dục các trẻ em. Nhưng đặc biệt phải tập cho các thanh thiếu niên biết làm tông đồ và thấm nhuần tinh thần này. Việc huấn luyện này còn phải được tiếp tục trong suốt đời chúng tùy theo đòi hỏi của những trách nhiệm mới mà chúng lãnh nhận. Vậy những ai có trách nhiệm trong việc giáo dục Kitô giáo hẳn nhiên là phải coi trọng bổn phận huấn luyện tông đồ này.

Trong gia đình, bậc cha mẹ phải lo dạy cho con cái ngay từ khi còn thơ ấu nhận biết tình thương yêu thương của Thiên Chúa đối với hết mọi người, và dần dần, nhất là bằng gương sáng, phải dạy cho chúng biết lo lắng đến những nhu cầu vật chất cũng như tinh thần của người lân cận. Như vậy toàn thể gia đình và đời sống chung của gia đình phải nên như trường huấn luyện đầu tiên cho việc tông đồ.

Hơn nữa, trẻ em cần phải được giáo dục sao để vượt khỏi phạm vi gia đình, cho chúng biết nghĩ tới các cộng đoàn khác như Giáo Hội và xã hội. Chúng phải được tham dự vào đời sống cộng đoàn giáo xứ nơi chúng đang sống thế nào để cho chúng ý thức được mình là một thành phần sống động và hoạt động của toàn thể Dân Thiên Chúa. Các linh mục phải luôn nhớ đến việc huấn luyện tông đồ này trong khi giảng dạy giáo lý, trong các bài giảng, trong việc coi sóc linh hồn cũng như trong tất cả mọi hoạt động mục vụ khác.

Các trường học, các trường cao đẳng, các học viện công giáo nhằm mục đích giáo dục cũng có bổn phận phải giáo dục cho giới trẻ tinh thần công giáo và hoạt động tông đồ. Nếu thiếu việc huấn luyện này, hoặc vì thanh thiếu niên không học ở trường đó, hoặc vì một lý do nào khác, bậc cha mẹ và các vị chủ chăn cũng như các hội đoàn lại càng có bổn phận phải quan tâm đến vấn đề huấn luyện này. Do chức nghiệp và phận sự, các thầy dạy và các nhà giáo dục thực hành việc tông đồ giáo dân dưới một hình thức cao cả, do đó họ phải hấp thụ nền giáo lý cần thiết và phải thông thạo cao cả, do đó họ phải hấp thụ nền giáo lý cần thiết và phải thông thạo về khoa sư phạm để có thể giáo dục cách hữu hiệu.

Cả những tập thể hay các hội đoàn giáo dân, hoặc nhằm mục đích tông đồ hay nhằm những mục đích siêu nhiên nào khác, cũng phải tùy theo mục tiêu và phương thế riêng của mình mà chuyên cần hỗ trợ cho việc huấn luyện tông đồ này 4. Chính những tổ chức này thường là đường lối thông thường thích hợp cho việc huấn luyện làm tông đồ. Quả thật chính trong những tổ chức ấy người ta thấy có việc huấn luyện về giáo lý, về đời sống thiêng liêng và cả về thực hành. Cùng với những bạn hữu hay với các đồng chí hợp thành tiểu tổ, các đoàn viên của những tổ chức này kiểm điểm về những phương pháp, kết quả của hoạt động tông đồ của mình và cùng nhau đem đời sống hằng ngày của mình đối chiếu với Phúc Âm.

Việc huấn luyện này phải được tổ chức thế nào để bao gồm tất cả hoạt động tông đồ của người giáo dân. Vì không những họ hoạt động tông đồ giữa những tiểu tổ của các đoàn thể, mà còn phải hoạt động suốt đời trong mọi hoàn cảnh nhất là trong đời sống nghề nghiệp và trong đời sống xã hội. Hơn nữa, mỗi người giáo dân phải tích cực chuẩn bị để làm tông đồ. Việc chuẩn bị này càng cấp bách ở tuổi trưởng thành. Thực vậy càng lớn lên, trí khôn càng mở mang, vì thế mỗi người có thể khám phá thêm những tài năng Thiên Chúa phú bẩm cho, cũng như có thể sử dụng hữu hiệu hơn những đoàn sủng mà Chúa Thánh Thần ban cho để mưu ích cho các anh em mình.

 

31. Thích ứng việc huấn luyện với từng hình thức hoạt động tông đồ. Những hình thức hoạt động tông đồ khác nhau cũng đòi hỏi một sự huấn luyện đặc biệt tương ứng:

a) Ðối với việc tông đồ nhằm rao truyền Phúc Âm và thánh hóa mọi người, người giáo dân phải được huấn luyện đặc biệt để có thể đối thoại với người khác, với những người có đức tin hay với những người không tin, để bày tỏ sứ điệp Chúa Kitô cho mọi người 5.

Vì ở thời đại chúng ta, duy vật chủ nghĩa dưới mọi hình thức đang lan tràn khắp nơi, ngay cả giữa những người công giáo, nên người giáo dân không những phải chuyên cần học hỏi giáo lý công giáo, đặc biệt là những vấn đề đang được đem ra tranh luận, mà họ còn phải làm chứng bằng một đời sống Phúc Âm để chống lại với bất cứ hình thức duy vật chủ nghĩa nào.

b) Về việc cải tạo trật tự trần thế theo tinh thần Kitô giáo, người giáo dân phải được học hỏi về ý nghĩa đích thực và về những giá trị của những của cải trần gian, hoặc căn cứ ở chính những của cải ấy, hoặc căn cứ vào liên lạc giữa chúng với mọi mục đích của con người. Họ cũng phải được tập luyện để sử dụng đúng những của cải trần thế và biết tổ chức các cơ cấu, mà vẫn luôn luôn để ý đến công ích theo những nguyên tắc của học thuyết luân lý và xã hội của Giáo Hội, nhất là giáo dân phải lãnh hội những nguyên tắc và những áp dụng của học thuyết xã hội này để có khả năng không những góp phần vào việc phát triển học thuyết đó mà còn áp dụng đúng đắn học thuyết đó vào từng trường hợp cá biệt 6.

c) Vì những công cuộc bác ái và từ thiện là một bằng chứng hùng hồn về đời sống Kitô giáo, nên việc huấn luyện tông đồ cũng cần phải khuyến khích thực hiện những công cuộc đó, để các đồ đệ của Chúa Kitô, ngay từ thiếu thời, đã biết chia sẻ nỗi đau khổ của người anh em mình và rộng lòng giúp đỡ những anh em thiếu thốn 7.

 

32. Phương thế huấn luyện. Người tông đồ giáo dân hiện nay có nhiều phương thế, chẳng hạn: những khóa học tập, những kỳ đại hội, những cuộc tĩnh tâm, linh thao, những buổi họp mặt thường xuyên, những buổi thuyết trình cũng như sách báo và những sách giải thích: tất cả đều là những phương thế giúp họ trau giồi thêm kiến thức về Thánh Kinh cũng như về giáo lý công giáo, giúp họ nuôi dưỡng đời sống thiêng liêng cũng như giúp họ hiểu biết những hoàn cảnh sống của thế giới để khám phá và sử dụng những phương pháp thích ứng nhất 8.

Những phương thế huấn luyện này được sử dụng tùy theo các hình thức hoạt động tông đồ khác nhau cũng như tùy môi trường hoạt động.

Có nhiều trung tâm và nhiều viện cao đẳng cũng được thiết lập nhằm mục đích huấn luyện này đã đem lại nhiều kết quả mỹ mãn.

Thánh Công Ðồng hoan hỷ vì thấy những sáng kiến như thế đang thịnh hành nhiều nơi và mong muốn thấy người ta thiết lập những cơ sở như thế ở những nơi đang cần thiết.

Hơn nữa Thánh Công Ðồng cũng cổ võ sự thiết lập những trung tâm thu thập tài liệu và nghiên cứu cho hết mọi hoạt động tông đồ, không những về khoa thần học mà cả về các khoa học khác như nhân chủng học, tâm lý học, xã hội học, phương pháp học, để phát triển tài năng của giáo dân nam cũng như nữ, giới trẻ cũng như giới trưởng thành.

 

Lời Kêu Gọi

 

33. Vậy Thánh Công Ðồng nhân danh Chúa hết sức kêu mời tất cả các giáo dân, hưởng ứng sự thúc đẩy của Chúa Thánh Thần, hãy mau mắn, đại độ và sẵn sàng đáp lại tiếng gọi của Chúa Kitô, Ðấng giờ đây đang tha thiết mời gọi họ. Ước gì giới trẻ hiểu rằng lời mời gọi này được đặc biệt gởi tới họ và ước gì họ vui mừng và quảng đại đón nhận. Quả thật chính Chúa một lần nữa nhờ Thánh Công Ðồng này, mời gọi tất cả các giáo dân hãy kết hợp với Người ngày một mật thiết hơn và nhận thức được những gì của Người cũng là của chính mình (x. Ph 2,5), họ hãy tham gia vào sứ mạng cứu rỗi của chính Người và một lần nữa Người sai họ đi tới các thành và những nơi Người sẽ đến (x. Lc 10,1). Như thế giáo dân hãy chứng tỏ mình là cộng tác viên của Chúa, cộng tác vào cùng một công cuộc tông đồ của Giáo Hội bằng nhiều hình thức và phương tiện khác nhau. Những cộng tác viên phải luôn luôn thích nghi với những đòi hỏi mới của thời đại và không ngừng ra sức phục vụ Chúa bởi biết rằng khó nhọc của mình không phải là uổng phí trong Người (x. 1Cor 15,58).

 

Tất cả và từng điều đã được ban bố trong Sắc Lệnh này đều được các Nghị Phụ Thánh Công Ðồng chấp thuận. Và dùng quyền Tông Ðồ Chúa Kitô trao ban, hiệp cùng các Nghị Phụ khả kính, trong Chúa Thánh Thần, Chúng Tôi phê chuẩn, chế định và quyết nghị, và những gì đã được Thánh Công Ðồng quyết nghị, Chúng Tôi truyền công bố cho Danh Chúa cả sáng.

 

Roma, tại Ðền Thánh Phêrô, ngày 18 tháng 11 năm 1965.

Tôi, Phaolô Giám Mục Giáo Hội Công Giáo.

Tiếp theo là chữ ký của các Nghị Phụ.

 


Chú Thích:

1 Xem CÐ Vat. II, Hiến chế tín lý về Giáo Hội, ch II, IV, V: AAS 57 (1965), trg 12-21; 37-49. - x. thêm Sắc Lệnh về hiệp Nhất, số 4, 6, 7, 12: AAS 57 (1965), trg 94-96, 97, 99, 100. - x. thêm trên, số 4.

2 Xem Piô XII, Huấn từ ad IV Conferentiam internationalem "Boy-Scout", 6-6-1952: AAS 44 (1952), trg 579-580. - Gioan XXIII, Tđ. Mater et Magistra, 15-5-1961: AAS 53 (1961), trg 456.

3 Xem CÐ Vat. II, Hiến chế tín lý về Giáo Hội, số 33: AAS 57 (1965), trg 39.

4 Xem Gioan XXIII, Tđ. Mater et Magistra, 15-5-1961: AAS 53 (1961), trg 455.

5 Xem Piô XII, Tđ. Serium laetitae, 1-11-1939: AAS 31 (1939), trg 635-644. - Xem n.t., Ad "laureati" Act. cath. It, 24-5-1953: AAS 45 (1953), trg 413-414.

6 Xem Piô XII, Huấn từ ad Congressum universalem Foederationis mundialis juventutis femineae Catholicae, 18-4-1952: AAS 44 (1952), trg 414-419. Xem n.t. Huấn từ ad Associationem Christianam Operatiorum Italiae (X.C.I.I), 1-5-1955: AAS 47 (1955), trg 403-404.

7 Xem Piô XII, ad Delegatos Conventus Sodalitatum Caritatis, 27-4-1952: AAS 44 (1952), trg 470-471.

8 Xem Gioan XXIII, Tđ. Mater et Magistra, 15-5-1961: AAS 53 (1961), trg 454.

 

 
VỀ MỤC LỤC
YÊU CHÚA VÀ ƯU ÁI TỬ TẾ VỚI THA NHÂN

 

Chúa Nhật XXXI Thường Niên B

(Deuteronomy 6: 2-6.  Hebrews 7:23-28.  Mark 12: 28-34)

Bác sĩ Nguyễn Tiến Cảnh, MD

 

Điều Răn Đứng Đầu và Quan Trọng Nhất

Có một vị trong các kinh sư đã nghe Đức Giêsu và một nhóm người tranh luận với nhau. Thấy Chúa Giêsu đối đáp quá hay, ông bèn đến gần và hỏi: “Thưa Thầy, trong các điều răn thì điều nào là điều đứng đầu?” Chúa Giêsu bèn trả lời: “Đây là điều răn đứng đầu: Hãy nghe đây, hỡi dân Israel, Chúa là Thiên Chúa chúng ta là Thiên Chúa duy nhất. Ngươi phải yêu mến Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn và hết sức lực ngươi. Điều răn thứ hai là: ‘ Ngươi phải yêu người hàng xóm láng giềng như chính mình!’ Chẳng có điều răn nào khác quan trọng hơn những điều răn đó.Vị kinh sư nói với Đức Giêsu: “Thưa Thầy, hay lắm. Thầy nói rất đúng. ‘Thiên Chúa là đấng duy nhất, và ngoài Người ra không có đấng nào khác’. Yêu mến Thiên Chúa hết lòng, hết trí khôn, hết sức lực, và yêu người láng giềng hàng xóm như chính mình, là điều quí hóa hơn mọi của lễ toàn thiêu và hy lễ.” Chúa Giêsu thấy ông ấy trả lời khôn ngoan như vậy thì bảo: “Ông không còn xa Vương  quốc Thiên Chúa đâu.” Sau đó không còn ai chất vấn Chúa nữa (Mc12:28-34).

 

                                              **************

Bài đọc 1 hôm nay trong sách Thứ Luật (Tl 6:2-6) và đoạn Phúc Âm thánh Maccô (Mc 12:28-34) đã nói lên căn tính của kinh Shema, tuyên xưng lòng tin của dân Do Thái đối với Đức Giavê: “Hỡi Israel, hãy nghe đây, Thiên Chúa là Chúa chúng ta là Thiên Chúa duy nhất” (Tl 6:4).  Khi chúng ta tuyên xưng đức tin của chúng ta trong kinh TIN KÍNH thì dân Do Thái tuyên xưng niềm tin của họ qua kinh SHEMA trong hội đường của họ sau khi đền thờ bị phá hủy và dân bị phân tán. Kinh Shema tóm gọn và tổng hợp cả một giáo thuyết: “Hỡi dân Israel, hãy nghe đây, Thiên Chúa là Chúa chúng ta, là Thiên Chúa duy nhất. Ngươi sẽ yêu mến Thiên Chúa là Chúa của ngươi hết lòng, hết hồn và hết sức ngươi.”

Trọng tâm của kinh tuyên xưng của người Do Thái / Hebrews là sự thật như sau: Chỉ có Một Thiên Chúa, là đấng tạo dựng nên trời đất, vậy Ngài là Thiên Chúa của tất cả mọi loài mọi vật. Tất cả những chúa/thần khác đều không phải là Thiên Chúa. Vũ trụ mà chúng ta đang sống có nguồn gốc từ Thiên Chúa và do Ngài tạo dựng nên. Sự liên tục tạo dựng này thấy thể hiện ở tất cả mọi nơi. Tuy nhiên, chỉ có ở nơi đây là tuyệt đối rõ ràng nhất, là không phải một chúa trong nhiều chúa, mà là chỉ có Một Thiên Chúa thật là cội nguồn của mọi sự mọi loài hiện hữu. Toàn thể thế giới hiện hữu là do quyền năng của Lời Sáng Tạo của Ngài.

 

CHỨC TƯ TẾ / LINH MỤC CỦA CHÚA GIÊSU KITÔ.

Trong bài đọc 2 hôm nay, thư gửi tín hữu Do Thái (Dt 7:23-28), chúng ta thấy có đề cập đến những tư tế / linh mục trong Giao Ước cũ. Các tư tế là con người nên phải chết, do đó họ không thể ở tại chức mãi mãi được.  Nhưng Chúa Giêsu là đấng tồn tại muôn đời, do đó chức tư tế/linh mục của Ngài cũng sẽ tồn tại mãi mãi. Đức Giêsu là thầy cả thượng tế mới, nên Ngài bảo đảm tính vĩnh cửu của Giao Ước mới. Vì vậy Ngài có thể cứu rỗi bất cứ ai nhờ Ngài mà đến với Thiên Chúa, bởi vì Ngài sống muôn đời để can thiệp cho họ. Chúa Giêsu không phải là tư tế / linh mục theo truyền thống Do Thái.  Ngài không thuộc về giòng Aaron mà thuộc  giòng Judah. Vì vậy đường thiên chức tư tế/linh mục của Ngài, theo luật định, không thể xẩy ra được. Con người và hoạt động của Đức Giêsu thành Nazareth, do đó không đi theo giòng của các tư tế cũ, mà là theo giòng của truyền thống các ngôn sứ của Israel xưa.

Đức Biển Đức XVI đã nêu rõ trong bài thuyết giảng của ngài ngày lễ Mình và Máu thánh chúa Kitô tại Rome hôm 3-6-2010 như sau: “Chính Chúa Giêsu đã tự  tách khỏi quan niệm tế tự của tôn giáo cũ. Ngài phê phán, đả kích cung cách tiếp cận với Thiên Chúa bằng luật lệ loài người phối hợp với nghi lễ tinh tuyền hơn là tuân giữ giới răn của Chúa. Nghĩa là Yêu Chúa và yêu tha nhân phải ‘quan trọng hơn tất cả của lễ toàn thiêu và những của lễ hy sinh/hy lễ…’  Ngay cả cái chết của Chúa Giêsu  mà người Kitô hữu chúng ta gọi là ‘của lễ hy sinh’, cũng hoàn toàn không giống như những của lễ hy sinh theo tục lệ cổ xưa. Nó hoàn toàn đối nghịch lại. Đây là việc thi hành bản án tử hình Chúa Giêsu môt cách ô nhục nhất của loài người, là đóng đanh trên thập giá ở bên ngoài thành Jerusalem.” Thiên chức tư tế / linh mục của chúa Kitô liên quan mật thiết đến sự đau khổ. Không có nguyên tắc căn bản và tầm nhìn này thì bất cứ  cố công nào của chúng ta để kiến tạo một Giáo Hội Chúa Giêsu Kitô đều trở nên vô ích và vô nghĩa.

 

BÀI GIẢNG  QUAN TRỌNG CỦA CHÚA GIÊSU

Chúa Giêsu đã trở thành mốc nguy hiểm cho các kinh sư/luật sĩ Do Thái lúc bấy giờ, và họ thường để lộ tính thù nghịch chống lại Ngài. Tuy nhiên câu chuyện Phúc Âm theo thánh Mac cô hôm nay (Mc 12:28-34) thì lại cho chúng ta thấy vẻ hòa hoãn thân thiện hơn, không có gì là đối chọi nhau trong cuộc đối thoại giữa chúa Giêsu và vị luật sĩ.

Để nắm bắt được đầy đủ ý nghĩa của đoạn Phúc Âm này, chúng ta cần hiểu rõ bổn phận của những nhà luật sĩ trong đạo Do Thái.  Luật sĩ không phải là thành viên của bất cứ giáo phái Do Thái nào hoặc của bất cứ một đảng phái chính trị nào như người Pharisiêu/Biệt phái, người phái Sadducee, phái Essene hay Zealot mặc dù nhiều vị trong số những luật sĩ cũng thuộc thành phần Pharisiêu là người tuân giữ luật rất khắt khe.  Luật sĩ là những học giả, những nhà thông thái của Do Thái giáo.  Học thức của họ là sự hiểu biết uyên bác về luật pháp, coi như bao gồm tất cả mọi sự khôn ngoan và chỉ có cái học duy nhất của họ mà thôi….Các luật sĩ lại nắm giữ những địa vị lãnh đạo, và  rất được trọng vọng trong cộng đồng Do Thái.

Theo đoạn Tin Mừng hôm nay, vị luật sĩ đã tỏ ra rất thán phục chúa Giêsu về những câu trả lời của Chúa (Mc 12: 24-27) khi ông ta hỏi một câu hỏi về ‘một người phụ nữ  lấy 7 anh em làm chồng thì khi chết sống lại, bà ta sẽ là vợ ai?’(Mc 12: 19-23). Lúc bấy giờ nhà luật sĩ đến gần Chúa và tỏ ý muốn học hỏi thêm.

Nhưng câu hỏi chính và là nòng cốt của bài Tin Mừng hôm nay là “Giới răn nào là giới răn đứng đầu” đã là cơ hội cho Chúa Giêsu đưa ra một bài giảng rất quan trọng. Các thầy dạy luật Torah (những luật sĩ và tôn sư rabbi) thì luôn luôn tranh cãi về sự tương đối giữa các giới răn trong Cựu Ước. Để trả lời, Chúa Giêsu đã dẫn chứng sách thứ luật (Bài đọc 1 hôm nay, Tl 6:4-5), và đưa ra lời mở đầu của kinh Shema mà dân Do Thái vẫn đọc hàng ngày. Họ hỏi chúa Giêsu về một điều răn, nhưng Chúa đã trả lời họ hai điều. Điều thứ hai là: Các anh sẽ yêu tha nhân như yêu chính mình vậy (Lv 19:18), nó không ở trong số 613 giới răn. Điều đặc biệt là lúc đó vị luật sĩ lại tỏ ra đồng ý với Chúa Giêsu, không diễn giải dài dòng, không chống đối, không nói bóng gió, chê bai, riễu cợt Chúa Giêsu.

Nói yêu hết Lòng, hết Hồn, hết Trí  Khôn, hết Sức Mạnh (c.30), không có nghĩa là yêu bằng các yếu tố cấu tạo nên con người, nhưng có ý nhấn mạnh là  ta phải yêu Chúa với toàn thể thân xác ta, với mọi sự ta có và cả con người của ta.  Bản văn của sách thứ luật chỉ nêu lên những từ Lòng, Hồn và Sức Mạnh, trong khi Tin Mừng thánh Mac cô (Mc 12:33) và thánh Mathiêu (Mt22:37) thì nêu từ Lòng,  Hồn, Trí , Sức mạnh.  Có lẽ Chúa Giêsu đã đồng hóa, coi từ Trí (hiểu biết) giống như từ Sức mạnh.

Bài Tin Mừng hôm nay gợi cho chúng ta nhớ lại câu chuyện chàng thanh niên giàu có và nước thiên đàng. Sự hiểu biết chính xác của vị luật sĩ và lòng khiêm nhường cởi mở của ông muốn học hỏi nơi Chúa Giêsu quả là hy hữu và độc nhất (Mc 10:13-16). So sánh hai câu chuyện này, ta thấy có một khác biệt: Trong chuyện người thanh niên giàu, Chúa nhìn anh ta…và thêm một điều nữa “..Hãy về bán hết của cải và đem cho người nghèo…” (Mc10:21) trong khi đó, Chúa không nói thêm gì cả  trong câu chuyện người luật sĩ, bởi vì ông ta đã hiểu nên không có gì cản trở ông ta vào được nước Trời.

Lời dạy của ông Maisen  trong kinh Shema (Tl 6:5. Lv 19:21) và lời quả quyết của Chúa Giêsu trong Tin Mừng thánh Mac Cô (Mc 12:19-31) bao gồm tất cả mọi giới răn  được tóm gọn trong điều răn: Tình Yêu Chúa và lòng Ưu Ái Tử Tế với Tha Nhân.  Mỗi khi người Do Thái đọc kinh “Shema Israel” và người Công Giáo /Kito giáo nhớ lại điều răn 1 và 2, thì chúng ta, nhờ hồng ân Thiên Chúa, lại xích lại gần nhau nhiều hơn. Bất cứ khi nào chúng ta làm Dấu Thánh Giá, thì chúng ta vẽ dấu Shema lên thân thể chúng ta như khi chúng ta chạm vào Đầu (Hồn), Tim và Vai (sức mạnh) chúng ta để xin Chúa giúp đỡ. 

 

ĐỌC SÁCH THÁNH: Lắng Nghe Lời Chúa

Những bài đọc Chúa Nhật hôm nay mời gọi chúng ta lắng nghe Lời Chúa một cách đặc biệt. Việc lắng nghe này đòi hỏi một sự yên lặng  để Chúa Thánh Thần có thể khám phá ra được ước muốn  hiểu biết Lời Chúa của chúng ta để Ngài kết hợp tâm trí chúng ta với Ngài trong thinh lặng (Roma 8: 26-27). Nhờ ánh sáng này chiếu soi, người viết xin được mạo muội chia sẻ ít điều về cách Đọc Sách Thánh (Lectio Divina) kiểu cổ điển.

Lời Chúa (Verbum Domini) là một tông huấn của Thượng Hội Đồng về Lời Chúa trong Cuộc Sống và Xứ Mệnh của Giáo Hội, có chủ đích hướng dẫn chúng ta cách Đọc Sách Thánh. Đây chính là phương cách giúp chúng ta tiếp cận, hiểu biết, cầu nguyện và yêu mến Lời Chúa.

Lời Chúa cho biết: “Thượng Hội Đồng thường nhấn mạnh về sự cần thiết phải tiếp cận với bản văn thánh để thường xuyên cầu nguyện.  Đây là yếu tố căn bản của đời sống thiêng liêng của mọi tìn hữu trong những công tác mục vụ khác nhau. Nó cũng chỉ cho chúng ta biết phải đọc những sách đặc biệt nào. Lời Chúa giúp ta xây dựng nền móng thực sự  cho đời sống tâm linh của người Kitô hữu” (#86).

Trong Lời Chúa/Verbum Domini, Đức Benedict XVI đã trình bày chi tiết cách Đọc Sách Thánh (Lectio Divina) (#87) như sau:

“Cha muốn nhắc lại ở đây những bước căn bản của phương pháp đọc Sách Thánh. Khi mở một bản văn ra, nó sẽ cho ta thấy cái nội dung chính của vần đề  chúng ta muốn đọc và muốn hiểu: Bản Kinh Thánh này tự nó nói lên điều gì? Không có nó thì thật nguy hiểm vì  bản văn sẽ trở thành cái cớ khiến ta không thoát ra được khỏi cái ý nghĩ cố hữu riêng của chúng ta đang có sẵn trong đầu.

“Sau đó là Suy Niệm (Meditatio), chúng ta sẽ tự đặt vấn đề: Ý nghĩa bản Kinh Thánh này là gì ? Ở đây, mỗi người, tuy là cá nhân nhưng cũng là một  thành phần của cộng đồng, nên buộc phải tự mình vượt ra khỏi chính mình và cố gắng tiến tới để học hỏi thêm.

“Tiếp theo là phần Cầu Nguyện (Oratio) và đặt vấn đế:  Để đáp lại Lời Chúa, chúng ta sẽ nói gì với Chúa?  Cầu nguyện, tức là thỉnh cầu, hòa giải, cảm tạ và ca ngợi, là phương thức cơ bản, nhờ đó Lời Chúa có thể cải đổi đời chúng ta.

“Sau cùng, Đọc Sách Thánh (Lectio Divina)kết luận với chiêm nghiệm (contemplatio), trong khi đó chúng ta tiếp thu cách nhìn và nhận xét thực tế của Chúa như là tặng phẩm Ngài ban cho, và chúng ta tự hỏi cuộc đối thoại nào, thao thức nào trong tâm trí và cuộc sống của chúng ta là Lời Chúa thúc dục chúng ta? Trong thư gửi tín hữu Roma, thánh Phaolo đã nói với chúng ta như sau: ‘Anh em đừng rập khuôn theo thế gian, nhưng hãy cải đổi bằng cách canh tân tâm trí anh em theo như ước muốn của Thiên Chúa, nó tốt đẹp, có thể chấp nhận được và hoàn hảo’ (12:2).

Mục đích của chiêm nghiệm là tạo cho mình một tầm nhìn / viễn kiến đúng, khôn ngoan,  biết phân biệt phải trái của một thực tế, như là Chúa nhìn thấy, để rồi thiết lập một ‘khối óc biết suy nghĩ như Chúa Kito’ (1Corinthians 2:16). Lời Chúa ở đây phải lấy làm tiêu chuẩn mẫu mực để phân định sự việc: ‘Nó sống động và tích cực, sắc bén hơn bất cứ thanh kiếm 2 lưỡi nào, có thể đâm thâu đường ngăn cách giữa hồn và trí, giữa xương và tủy, và có thể phân biệt được tư tưởng và ý chí của lòng mình’(Dt 4:12).  Chúng ta cũng phải nhớ chắc rằng tiến trình của việc đọc sách thánh (Lectio Divina) không thể kết thúc được khi chúng ta chưa có hành động (actio). Hành động là cử chỉ/khả năng  thúc đẩy người tín hữu biến cuộc sống của mình thành tặng vật bác ái cho tha nhân”.

Nhờ có sự liên hợp chặt chẽ với nhau của các giai đoạn Đọc Sách Thánh và lòng kính trọng khiêm cung đối với Toàn Thể Bản Kinh Thánh, Đọc Sách Thánh (Lectio Divina) là cách học tập vâng lời Chúa hoàn toàn và vô điều kiện, đấng đang nói với loài người là phải chú ý lắng nghe Lời Chúa.

 

Fleming  Island,  Florida

Nov. 1, 2012

NTC

 

VỀ MỤC LỤC
ĐIỂM ĐẾN CỦA HÀNH TRÌNH NỐI BƯỚC CÁC TIỀN NHÂN VÀ CHỨNG NHÂN ĐỨC TIN

 

Kính gửi linh mục, tu sĩ, giáo dân trong gia đình giáo phận

Anh chị em rất thân mến,

Mở.  Nhằm mở đường cho gia đình giáo phận đi vào Năm Đức Tin, theo chỉ dẫn của Giáo Hội Công Giáo, Lời Chú Chăn tháng 9.2012 gợi ý cho mọi người nhìn lại hành trình đức tin với việc tuyên xưng đức tin, cử hành cùng giáo dục đức tin, sống đức tin và chia sẻ hồng ân đức tin, để nhận ra những sai sót và tìm cách điều chỉnh, bổ sung.  Lời Chủ Chăn tháng 10.2012 gợi ý mọi người trở về cội nguồn đức tin là Đức Giêsu Kitô, để gặp gỡ Ngài, lắng nghe Lời Ngài, đưa vào thực hành trong đời sống và bổn phận thường ngày. Gọi là Phúc âm hóa đời sống.  Lời Chủ Chăn tháng 11.2012 nầy, tìm hiểu điểm đến của hành trình nối bước các tiền nhân và chứng nhân đức tin, nhằm tìm ra bí quyết giúp cho đời sống đức tin trở nên ngày càng vẹn toàn, và tỏa sáng trong môi trường xã hội hôm nay.

1.  Hồng ân đức tin trong dòng lịch sử.  Thiên Chúa là Cha trên trời đã yêu thương gieo hạt mầm đức tin cùng các ân ban của Người (ơn gọi kitô hữu, ơn gọi linh mục, ơn gọi tu sĩ...), trên đất nước Việt Nam từ gần 5 thế kỷ nay.  Nhờ mồ hôi nước mắt cùng máu đào các nhà truyền giáo, các tiền nhân cùng chứng nhân đức tin, thửa đất đó đã được khai hoang và trở nên màu mỡ.  Nhờ nỗ lực của các thế hệ tín hữu đã dày công vun tưới, chăm sóc, bảo vệ, với tấm lòng thảo hiếu đối với Cha trên trời và đời sống chuyên cần cầu nguyện, với tình bác ái huynh đệ, và lòng quảng đại hy sinh, cống hiến, chia sẻ với nhau, những hạt mầm hồng ân của Chúa được phát triển và trổ bông kết trái.  Thế hệ hôm nay thừa hưởng hoa trái ơn thánh, với tâm tình cảm mến tạ ơn Thiên Chúa, với tấm lòng biết ơn đối với các tiền nhân. Tâm tình và tấm lòng đó dẫn đến quyết tâm dõi theo gương các tiền nhân và chứng nhân đức tin "lấy tình yêu đáp trả tình yêu". 

Mở rộng lòng đạo, để lấy tình yêu đáp trả tình yêu, đó là điểm đến thứ nhất.

 

2.  Hồng ân đức tin trong đời sống hôm nay.  Thế nhưng, cũng từ đó đến nay, đời sống con người trong xã hội đất nước, cũng như trong các gia đình và cộng đoàn tín hữu, không ngừng đổi thay.  Bao nhiêu biến cố lịch sử để lại những dấu ấn cùng những vấn đề nghiêm trọng trong đời sống con người và xã hội, làm cho đời sống đức tin nơi những tín hữu, lúc nầy lúc khác, bị xói mòn hoặc bị đóng băng, trở nên bất cập, hụt hẫng.  Vì thế, khi mở Năm Đức Tin, Đức Thánh Cha Bênêđitô XVI mời gọi người công giáo trên khắp thế giới hãy trở vể với Đức Giêsu Kitô, vì Ngài vừa là cội nguồn đức tin, vừa là đường đưa đức tin đến mức tròn đầy. 

Mở rộng lòng tin cậy mến để gặp gỡ Chúa Kitô đang hiện diện ở giữa chúng ta, đồng hành với mỗi người trong hành trình đức tin, như đã đồng hành với hai môn đệ làng Ẹmau, đó là điểm đến thứ hai.

    

3.  Những con đường trở về với Đức Giêsu Kitô Con Người Mới.  Giáo Hội đề ra nhiều con đường giúp mỗi người trở về với Chúa Giêsu.  Học hỏi giáo huấn cùng giáo lý của Giáo Hội, hành hương về những nơi thánh, cầu nguyện, cử hành Mầu Nhiệm Đức Tin, lắng nghe Lời Chúa dạy, noi gương Mẹ các kẻ tin cùng các chứng nhân đức tin, Phúc Âm hóa cùng canh tân đổi mới đời sống.  Những con đường đó gợi ý cho mỗi người nhìn lại hành trình đức tin.

Ngay bước đầu là lời tuyên xưng đức tin.  Khi lãnh bí tích Thánh tẩy, bí tích Thêm Sức, mỗi người đã tuyên xưng đức tin trước cộng đoàn dân Chúa.  Lời tuyên xưng đức tin bày tỏ quyết tâm sống theo Lời Chúa dạy là "hãy cởi bỏ người cũ và mặc lấy người mới" (x.Eph 4,22).  Cởi bỏ con người cũ là con người sống lệ thuộc vào lòng tham sân si, dễ chiều theo sự lôi cuốn của ma quỷ, xác thịt, thế gian.  Mặc lấy con người mới là con người mang lấy tâm tư của Chúa Giêsu, bước theo Chúa, và sống theo Lời Ngài dạy.

Trong mọi hoàn cảnh của cuộc đời, cả lúc gian truân thử thách, hay lúc gặp mất mát, luôn kiên nhẫn sống theo Lời Chúa dạy, Phúc Âm hóa đời sống cùng bổn phận thường ngày, đó là điểm đến thứ ba.

    

4.  Vai trò của Chúa Thánh Thần và sự cộng tác của con người.  Con Thiên Chúa làm người, con người làm con Thiên Chúa, đều nhờ ơn Chúa Thánh Thần với sự cộng tác của con người.  Con người vận dụng ý thức và ý chí công tác với ơn Chúa Thánh Thần là điều kiện cần thiết để Thiên Chúa hoàn thành kế hoạch yêu thương cứu độ của Ngài.  Vai trò của Chúa Thánh Thần trong đời sống người tín hữu là soi dẫn lòng tin, đánh động lòng mến, thúc đẩy lòng trông cậy, đổi mới lòng trí, mở rộng tầm nhìn con người thường bị đóng khung trong nếp sống văn hóa của xã hội, của thời đại. 

Chú tâm tích cực cộng tác với ơn Chúa Thánh Thần để Ngài soi dẫn ta sống hồng ân đức tin ngày càng trọn vẹn, đó là điểm đến thứ bốn.

    

5.  Lời Chúa và Thần Khí của Chúa.  Lời Chúa và Chúa Thánh Thần là hai bàn tay Thiên Chúa dùng uốn nắn người cũ trở nên người mới.  Vậy cốt lõi và chiều sâu của đời sống đức tin là sống tín thác trong vòng tay yêu thương chăm sóc và dẫn dắt của Thiên Chúa, là luôn tuân hành ý Cha trên trời muốn mọi người cùng nhau  tiến bước trong đường lối cứu độ của Chúa Giêsu theo sự soi dẫn của Chúa Thánh Thần. 

Giáo Hội của Chúa Giêsu luôn trung thành theo đường lối đó, khiêm tốn hòa nhập và đồng cảm với đời sống nhân loại, nhưng không đồng hóa với thế gian, là quảng đại dấn thân phục vụ cho Tin Mừng Sự Sống và Tình Thương cùng sự sống con người, và chung sức với mọi người thiện tâm xây đắp nền văn hóa sự sống và văn minh tình thương cho xã hội hôm nay, nhằm cùng nhau tiến bước đến nguồn sống dồi dào của Chúa Kitô Phục Sinh. 

Theo sự dẫn dắt của Chúa Thánh Thần, cùng nhau bước đi trong đường lối của Đấng Cứu Độ để chia sẻ hồng ân Chúa ban cho đồng bào và đồng loại, đó là điểm đến thứ năm. 

    

Thay lời kết.  Chuyên cần cầu nguyện, chú tâm lắng nghe tiếng Chúa nói qua các biến cố trong cuộc sống, và trung thành cộng tác với Chúa Thánh Thần trong mọi hoàn cảnh vui buồn.  Đó là bí quyết để đi tới những điểm đến.

 

Gioan B. Phạm Minh Mẫn 

Hồng Y Tổng Giám mục

  

BÍ QUYẾT SỐNG TRÒN ĐẦY HỒNG ÂN ĐỨC TIN

 

1. Lưu tâm nối bước Mẹ các kẻ tin và các chứng nhân đức tin,

Lấy tình yêu đáp trả tình yêu.

2. Chuyên cần gặp gỡ Chúa đang đồng hành với tôi,

Lắng nghe Lời Ngài và ghi nhớ trong lòng.

3. Đưa ánh sáng chân lý và tình yêu của Lời Chúa

Vào trong suy nghĩ và hành động thường ngày.

4. Thường xuyên theo sự soi dẫn của Chúa Thánh Thần,

Đổi mới lòng trí và mở rộng tầm nhìn.

5. Bước đi trong đường lối yêu thương của Chúa,

Chia sẻ hồng ân Chúa ban cho mọi người.

VỀ MỤC LỤC
Mầu nhiệm được vén mở qua dụ ngôn

 

Lời Mời gọi của HĐGMVN:

Giáo Hội tại Việt Nam phải “phát động chương trình mỗi gia đình một cuốn Kinh Thánh được đặt nơi xứng hợp, cổ võ đọc và cầu nguyện với Lời Chúa”, khuyến khích học thuộc lòng những đoạn Kinh Thánh cốt yếu. Mọi thành phần Dân Chúa, giáo dân, chủng sinh, tu sĩ và các mục tử, cần tập thói quen đọc và suy niệm Lời Chúa hằng ngày, đặc biệt theo phương thức Lectio divina. (Thư Chung của HĐGMVN, ngày 1.5.2011, số 11)

Xin giới thiệu cho nhiều người thân tham gia Gia Đình Lectio Divina Lecdiv@gmail.com  để có thể hiệp thông với nhau trong đời sống cầu nguyện và cùng giúp nhau thực hành "điều cần thiết nhất trong mọi điều cần thiết". Đan viện Xitô Thánh Mẫu Tâm Mỹ Ca, Nha Trang, sẽ cầu nguyện lâu dài cho tất cả những ai trung thành thực hành và cố võ việc thực hành Lectio divina.

Mọi thắc mắc về Lectio divina, xin gởi email cho cha Bảo Tịnh, O.Cist  fr.baotinh@yahoo.fr   

*****

 

Tác Phẩm: MỘT VỊ THIÊN CHÚA NGỎ LỜI!

Thiên Chúa tỏ mình cho con người thế nào?

Chuyển ngữ:

Thérèse Trần Thiết

Fr. Marie Bảo Tịnh O.Cist

 

Nguyên tác: 

Michel HUBAUT

UN DIEU QUI PARLE!

Comment Dieu se révèle-t-il à l’homme?  

Chương 7

ĐỨC KITÔ-LỜI, LÀ NGƯỜI GIEO VÀ LÀ HẠT GIỐNG

(tiếp theo)

Mầu nhiệm được vén mở qua dụ ngôn

“Khi còn một mình Ðức Giê-su, những người thân cận cùng với Nhóm Mười Hai mới hỏi Người về các dụ ngôn” (Mc 4, 10).

Sau dụ ngôn đầu tiên này, dường như Thầy và các môn đệ muốn giữ một khoảng cách nào đó đối với đám đông (4, 26). Ta thấy quang cảnh được thay đổi cách đột ngột. Có gì xảy ra ở đó? “Ở nơi thanh vắng”. Mác-cô không nói rõ hơn, vì ông không mấy bận tâm đến nơi chốn. Ở đây, ông chỉ muốn cắt nghĩa tại sao lại dùng dụ ngôn, cũng như tại sao Lời Thầy Giê-su và cả Hội Thánh của Thầy lại gặp thất bại. Giảng huấn của Thầy hình như được chia làm hai phần: một phần dành cho đám đông còn phần kia dành cho nhóm môn đệ của Thầy (x. Mc 4, 10-25 và 33-34)

Chính Thầy Giê-su, và theo Mác-cô, cả cộng đoàn ki-tô hữu non nớt của ông, đều nhận thấy rằng các dụ ngôn thường vẫn còn khó hiểu đối với đại đa số thính giả. Họ như chỉ được nghe kể một câu chuyện hay, lý thú, mà không nắm bắt được ý nghĩa tâm linh sâu xa của nó. Thật ra, sứ điệp của dụ ngôn chỉ được hé mở từ từ, và cần được chú ý lắng nghe cách đặc biệt mới có thể khai mở được những ám hiệu để đi xuống chiều sâu của vấn đề.

Ở đây, thánh Mác-cô diễn tả như kiểu một “bài học cơ bản” mà Thầy Giê-su muốn giảng dậy cho nhóm Mười Hai và những “người chung quanh Thầy”, những người tìm riêng Thầy để hỏi về ý nghĩa dụ ngôn. Điều rõ ràng là họ đã không hiểu gì hơn đám đông! Nhưng nhóm người này của cộng đoàn được phân biệt với những người “ở ngoài kia”, chính vì họ dám hỏi Thầy về “dụ ngôn”, để có thể đào sâu hơn ý nghĩa của nó.

Mác-cô đã dùng từ “dụ ngôn” ở số nhiều, tuy Thầy mới chỉ kể một dụ ngôn này lần đầu! Điều này chứng tỏ cuộc đối thoại có tính cách chung chung, ám chỉ nhiều dụ ngôn khác nữa trong giáo huấn của Thầy. Niềm tin là một đón nhận từ từ một mầu nhiệm luôn vượt quá mọi tầm mức quan niệm của loài người. Niềm tin luôn là một thi công không ngừng.

“Người nói với các ông: "Phần anh em, mầu nhiệm Nước Thiên Chúa đã được ban cho anh em; còn với những người kia là những kẻ ở ngoài, thì cái gì cũng phải dùng dụ ngôn” (Mc 4, 11).

Thầy Giê-su như muốn phân định rõ giữa các môn đệ của Thầy: “Phần anh em” là những người nghe và đón nhận, còn với những “người kia”, họ ở ngoài Mầu Nhiệm, nên chỉ nghe được bằng ẩn dụ. Đối với Mác-cô, mầu nhiệm Nước Thiên Chúa (được dùng ở số ít) ám chỉ chính con người của Thầy. Giê-su là hiện thân của Thiên Chúa vô hình đến cứu chuộc con người; Giê-su là chính sự vén mở của mầu nhiệm Thiên Chúa. Ngay lúc Giê-su xuất hiện, lập tức Vương Triều của Thiên Chúa đã được cưu mang, nhưng chỉ sau biến cố Vượt Qua, Phục Sinh Khải Hoàn, lúc Đức Giê-su Ki-tô thực sự “Đăng Quang” trên Ngai Đấng Cứu Thế, mới là lúc Triều Đại của Thiên Chúa được khai trương đích thật.

Đối với Mác-cô, việc phân định giữa các môn đệ và “những người ở ngoài” không mang ý nghĩa kỳ thị, chia rẽ giữa hai thành phần “được chọn” và “không được chọn”. Vì thật ra, chính chất lượng của việc nghe và đón nhận mầu nhiệm Giê-su, mầu nhiệm của Lời Thầy, chính niềm Tin đã cho phép chúng ta đi từ nhóm này sang nhóm khác, “vào trong” hay “ra ngoài”; thuộc “đám đông” nghe mà không hiểu, hay vào số “các môn đệ”, là những người lắng nghe và đón nhận Ơn của Lời Thầy. Vì nơi Giê-su, mầu nhiệm được “trao ban” cho mọi người.

Mác-cô đối chiếu tâm trí, trí hiểu của con tim sẵn sàng cởi mở, với trí tuệ, trí thông minh chai cứng, khép kín trong những chủ thuyết triết lý, thuần lý, và cả thuần tôn giáo. Như những đoán xét của các nhà luật sĩ tố cáo Thầy Giê-su là đồng đảng với Sa-tan, và thái độ của những người “bà con” của Thầy đang đứng “ở ngoài” (x. Mc 3, 22.31-34). Một bên vì tự phụ, tự mãn trong mớ kiến thức chai cứng của họ, một bên vì sợ mà không thể đón nhận sự canh tân mới mẻ của Lời Giê-su.

Thái độ không đón nhận Giê-su và Sứ Điệp của Thầy còn là một vấn đề cho cộng đoàn ki-tô hữu mới được khai sinh. Nên thánh Mác-cô cũng muốn giải thích ở đây, bằng cách trích một câu trong sách ngôn sứ I-sai-a (x. Is 6, 9-10), nói rằng: mặc dù xem như có thất bại, có sự cứng lòng – các ngôn sứ đã nếm thử - nhưng tất cả đều mang một ý nghĩa trong lịch sử cứu độ, trong chương trình của Thiên Chúa.

 “Để họ có trố mắt nhìn[1]cũng chẳng thấy, có lắng tai nghe cũng không hiểu, kẻo họ trở lại và được ơn tha thứ” (Mc 4, 12).

Đoạn này trích từ trình thuật về ơn gọi của ngôn sứ I-sai-a, đã không được giới hữu trách thấu hiểu, họ bịt tai trước những lời kêu gọi của ngôn sứ. Tuy nhiên sự cứng lòng này đã không làm ông nản chí, cũng không ngăn cản ông tiếp tục sứ vụ do Thiên Chúa trao phó. Rất có thể là Thầy Giê-su đã ứng dụng trích đoạn này cho mình, để minh hoạ những khó khăn của chính Thầy khi không được dân chúng “nghe lời”.

Ta phải thấy rõ rằng Thiên Chúa đã mạo hiểm vô cùng khi để Lời của Người nhập thể, vì con người không những có thể từ chối không nghe Lời, mà còn đùa giỡn hay làm cho Lời sai lạc đi! Trong lịch sử Hội Thánh, đã chẳng có nhiều lần giáo huấn của Thầy Giê-su bị khinh rẻ, hoặc đã có một sự chênh lệch vô cùng lớn lao giữa những điều Thầy muốn mạc khải, và những gì con người nắm bắt được đó sao? Chúng ta sẽ chẳng bao giờ có thể tinh luyện việc “lắng nghe Lời Thầy” của mình cho cân xứng được!

Là một nhà mô phạm mẫu mực, luôn tôn trọng tự do con người, Thầy Giê-su không bao giờ cưỡng ép, mà chỉ khơi gợi niềm tin vào Lời. Thầy chỉ từ từ vén mở bức màn nhiệm mầu, để con người dần dần có đủ ánh sáng mà tìm hiểu hơn nữa, rồi bước theo Thầy, chứ không cưỡng bách, tước bỏ quyền tự do của chúng ta. Chính vì thế mà ta có thể nói rằng nghi nan hầu như đã là một thành phần cơ bản của mầu nhiệm đức tin rồi.

Thầy Giê-su đã không nhất thiết xếp con người vào giữa “những kẻ ở ngoài” và “nhóm môn đệ ở trong”. Thầy mong ước cho ơn cứu độ đến với mọi người. Thật ra, ranh giới nằm trong lòng mỗi người chúng ta. Mắt thường của ta không dễ nhận ra sự lớn mạnh của mầu nhiệm Nước Chúa, của Tình Yêu; chỉ những ai biết để cho Lời Thầy tác động làm thửa đất lòng mình nên trù phú, và được soi sáng bởi Thần Khí, mới trải nghiệm được thực tại này trong cuộc sống hàng ngày của mình.

 “Người còn nói với các ông: "Anh em không hiểu dụ ngôn này, thì làm sao hiểu được tất cả các dụ ngôn?” (Mc 4, 13).

Mác-cô mô tả ở đây dấu chỉ đầu tiên của sự kém hiểu biết nơi các môn đệ. Một đề tài mà ông đã nói đến 10 lần trong Tin Mừng của ông. Để nhấn mạnh rằng ngay các môn đệ cũng không nắm bắt được cách mau lẹ mầu nhiệm mà Thầy Giê-su muốn vén mở cho các ông, họ đã không dễ dàng đi từ “bên ngoài” vào “bên trong” các dụ ngôn! Mối bận tâm của Mác-cô là bầy tỏ cho cộng đoàn các tín hữu cũng như độc giả biết rằng chìa khóa để diễn giải các dụ ngôn chính là Đức Tin. Tin là đón nhận mầu nhiệm Giê-su, Người là “Dụ Ngôn sống động”, là chìa khóa của Vương Triều Thiên Chúa. Dụ ngôn người gieo giống này đã chẳng tóm lược trọn vẹn hình ảnh về sứ vụ của Thầy Giê-su, đã từng gặp những tấm lòng tin tưởng, cởi mở tiếp nhận, cũng như khép kín, từ chối không đón nhận sứ điệp của Thầy đó sao?

 

Diễn giải dụ ngôn Người gieo giống

  Mác-cô cũng như các thánh khác, khi viết Tin Mừng, đều phải cố gắng hiện thực hóa dụ ngôn này, để trả lời cho tình trạng hoang mang nơi các cộng đoàn mới mẻ của họ. Thầy Giê-su đã đặt trọng tâm của dụ ngôn vào việc gieo giống, vào một mùa gặt bội thu của sứ vụ, mặc dù những thất bại gặp phải nơi thửa đất lòng người.

Trong cách diễn giải của Mác-cô, ông đã đặt dấu nhấn trên thái độ của những “người đã được gieo cấy Lời”[2], trên sự chuẩn bị nội tâm của người nghe, trên chất lượng của việc đón nhận. Chúng ta đi từ câu chuyện gieo giống đến câu chuyện “thửa-đất-lòng-người”, tượng trưng cho từng thái độ đối với Lời.

Lối diễn giải mới này chỉ đơn thuần là vấn đề nhấn mạnh một khía cạnh, chứ không liên quan gì đến việc trung thành với mạc khải của Thầy, được Thần Khí bảo đảm và linh hứng cho các tác giả Tin Mừng. Lời Chúa là một kho tàng bất tận, mỗi thế hệ luôn có thể kín múc những ánh sáng mới, đáp ứng cho những vấn nạn của mình. Trong phần giải thích dụ ngôn, được biến thành ẩn dụ, một thể văn dễ dàng mang lại ý nghĩa cho từng phần của trình thuật, Mác-cô mô tả cho chúng ta bốn loại “đất-thính-giả” tiêu biểu.

 “Người gieo giống đây là người gieo lời. Những kẻ ở bên vệ đường, nơi lời đã gieo xuống, là những kẻ vừa nghe thì Xatan liền đến cất lời đã gieo nơi họ” (Mc 4, 14-15).

Xa-tan có thể làm cản trở việc nghe Lời (đối phương, kẻ thù của người gieo giống đến gieo cỏ lùng, trong Mt 13, 25). Các cộng đoàn Giáo Hội sơ khai đã có những kinh nghiệm đau buồn về việc loan báo Lời Tin Mừng, thường bị những sức mạnh của đối phương đe doạ, mà người ta dễ dàng nhận diện Xa-tan, kẻ cố tình cất Lời ra khỏi lòng người.

 “Còn những kẻ được gieo trên sỏi đá là những kẻ khi nghe lời thì liền vui vẻ đón nhận, nhưng họ không đâm rễ mà là những kẻ nông nổi nhất thời; sau đó, khi gặp gian nan hay bị ngược đãi vì lời, họ vấp ngã ngay” (Mc 4, 16-17).

  Lý do thứ hai của việc không đón nhận Lời là sự hời hợt của con người. Lời gieo vào cần được đón nhận trong thâm sâu lòng người, để được bén rễ trong đó hầu tránh khỏi mọi nguy hiểm, thử thách tất yếu phải xảy đến trong mọi cuộc sống của con người. Đối với Mác-cô, những nơi “sỏi đá”, có ý ám chỉ sự cứng lòng của người nghe, cũng như những cuộc “bách hại”, những vụ tai tiếng làm lung lạc lòng người.

 “Những kẻ khác là những kẻ được gieo vào bụi gai: đó là những kẻ đã nghe lời, nhưng những nỗi lo lắng sự đời, bả vinh hoa phú quý cùng những đam mê khác xâm chiếm lòng họ, bóp nghẹt lời khiến lời không sinh hoa kết quả gì” (Mc 4, 18-19).

Lý do thứ ba của việc không đón nhận Lời, của sự kiện Lời không nẩy sinh hoa trái, là vì bị chết nghẹt bởi “trăm công, nghìn việc”, bởi những lo lắng thái quá về của cải vật chất đời này, bởi những quyến rũ giàu sang. Đây chính là loại đối thủ lừa đảo nguy hiểm nhất, chúng ẩn hiện ở ngay trong cộng đoàn các tín hữu. (x. Gc 2, 1-4; 5, 1-6).

 “Còn những người khác nữa là những người được gieo vào đất tốt: đó là những người nghe lời và đón nhận, rồi sinh hoa kết quả, kẻ thì ba mươi, kẻ thì sáu mươi, kẻ thì một trăm” (Mc 4, 20).

Sau cùng là đất tốt, tượng trưng cho tất cả “những ai lắng nghe” Lời, cho Lời sinh hoa kết quả. Người lắng nghe bằng con tim, được Thần Khí Chúa tác động để có được một trí thông minh của đức tin. Lời sẵn có sinh lực riêng của mình, đó là suối nguồn của sự cảm thông mới mẻ, của sự thẩm định và cam kết dấn thân. Chỉ cần ta đừng gây trở ngại. Thành quả mỹ mãn của cuộc sống con người tuỳ thuộc vào mức độ đón nhận Lời trong đời mình.


 

[1]   1. (dịch lại theo bản dịch tiếng Pháp Maredsous: “Cho dù họ có trố mắt nhìn cũng chẳng thấy”. “để”: dịch là “để” không lưu ý đến kiểu nói của ngôn từ hípri, vì đây không mang ý nghĩa nhắm tới mục đích, nhưng là một hệ quả. Chúa Giê-su đến để mạc khải về Nước Thiên Chúa, đã không thể cố ý làm cho lòng trí con người ra tối tăm.

[2]   2. Hạn từ “Lời” đã được dùng 8 lần trong phần này và dùng làm kết luận (x. Mc 4, 14 và 20)

 

VỀ MỤC LỤC
NĂM ĐỨCTIN: THỰC TRẠNG TỘI LỖI CẦN LƯU Ý VÀ TRÁNH ĐỂ SỐNG ĐỨC TIN VỮNG VÀNG.
  

Năm Đức Tin đã khai mạc ngày 11 tháng 10 vừa qua tại Rôma nhắm mục đích kêu gọi mọi tín hữu trong Giáo hội nhìn lại đời sống đức tin của mình để canh tân và đào sâu thêm nữa hầu  thêm yêu mến Chúa Kitô, Đấng đã đến trần gian làm Con Người,  đã mặc khải Chúa Cha và Chúa Thánh Thần cho chúng ta và nhất là đã hy sinh chịu chết trên thập giá để  đền tội cho nhân loại và cho chúng ta hy vọng được cứu rỗi  để hưởng hạnh phúc vinh cửu với Chúa trên  Nước Trời  mai sau.

Nhưng muốn sống đức tin cách hữu hiệu và chân thật ,  không ai có thể  coi nhẹ một trở ngại lớn lao, đó là tội lỗi, một nguy cơ không những đe dọa cách nặng nề  đức tin có Chúa mà còn có thể   làm mất hy vọng được cứu rỗi nữa.

Thật vậy,  tội là một thực tế ( reality) không ai có thể chối cãi hay phủ nhận được trong đời sống cá nhân, gia đình , xã hội và trong cộng đồng thế giới;  nhất là trong thời buổi hiện nay,  khi các nhóm Hồi Giáo quá khích chủ trương bạo động , “thánh chiến=jihad”  để đánh phá  và giết hại những ai họ cho là thù nghịch của họ..Đây là một tội  lớn mang mầu sắc tôn giáo vì người ta đã nhân danh tôn giáo để tiêu diệt người khác. Và chắc chắn điều này không phù hợp với mục đích của bất cứ vị sáng lập tôn giáo nào, vì không tôn giáo nào có thể chấp nhận hay khuyến khích tín đồ của mình giết hại người khác để độc tôn tín ngưỡng của mình.

Mặt khác, các chủ nghĩa vô thần, chủ nghĩa tương đối ( relativism) và chủ nghĩa tôn thờ khoái lạc ( hedonism) và tiền bạc vật chất cũng góp phần không nhỏ gây ra tội lỗi cho con người ở khắp mọi nơi.

Nhưng trước hết, cần biết vì đâu  tội lỗi có mặt trong trần gian như một thách đố lớn lao cho những ai có niềm tin Thiên Chúa là Đấng đầy lòng yêu thương, nhưng rất công bình và thánh thiện.

Thánh Kinh đã cho ta biết nguồn gốc của tội như sau :

Vì một người duy nhất ( Adam) mà tội lỗi đã xâm nhập trần gian, và tội gây nên sự chết; như thế sự chết đã lan tràn tới hết mọi người bởi vì mọi người đã phạm tội.” ( Rm 5 : 12)

Tội xâm nhập trần gian và lan tràn đến hết mọi người với nhiều hình thức và mức độ khác nhau.Tội là điều trực tiếp  xúc phạm đến Thiên Chúa là Đấng trọn tốt trọn lành,công minh, chính trực  nên Người không thể dung tha cho bất cứ loại tội nào mà con người có thể phạm vì cố ý hay vì yếu đuối.Tùy theo mức lỗi phạm mà tội mang lại hậu quả nặng hay nhẹ cho người có tội.

Trước tiên,  Thiên Chúa  đã nói rõ cho Adam và Eva biết về hậu quả của tội  như sau, nếu họ ăn trái cấm: 

“ Ngày nào ngươi ăn,  chắc chắn người sẽ phải chết.” ( St 2: 17)

Cái chết mà Thiên Chúa nói trên đây là cái chết về mặt linh hồn, chứ không phải chết ngay về thể xác.Cho nên con Rắn đã nói với bà Eva như sau : “chẳng chết chóc gì đâu.” ( Sđd  3: 4).

Rắn Satan nói thể để phỉnh gạt Eva vì biết là Thiên Chúa không phạt nhãn tiền bằng cái chết về thể lý cho ai từ xưa đến nay. Bằng cớ là có biết bao kẻ gian ác, độc tài tàn bạo,  vô tâm vô đạo đã giết hại không biết bao nhiêu người  chỉ vì  muốn củng cố địa vị cá nhân hay bảo vệ  các thể chế độc tài, độc đảng , độc tôn  gây đau khổ và chết chóc cho biết bao triệu người dân lành từ Đông sang Tây chẳng may rơi vào ách thống trị độc ác  của chúng..Nhưng chúng vẫn sống phây phây, làm giầu và hưởng thụ ,cha truyền con nối với chế độ tàn bạo  không biết đến bao giờ mới xụp đổ.

Mặt khác, những kẻ có tâm địa độc dữ , với lòng tham vô đáy, và say mê những vui thú vô luân vô  đạo cũng vẫn sống nhởn nhơ trong giầu sang nhờ gian manh, bất công và lường gạt, trong khi người lành lương thiện lại nghèo khó và đau khổ, vì xã hội bất công, dung dưỡng cho kẻ có nhiều tiền bạc và lắm mưu kế gian xảo lèo lái.

Như thế  không phải vì Thiên Chúa bất lực, hay không nhìn thấy những tội ác của họ.Thiên Chúa biết nhưng vẫn làm ngơ cho chúng sống để hy vọng chúng hoán cải để được tha thứ, vì  Người gớm ghét tội lỗi nhưng lại yêu thương kẻ có tội biết sám hối, xin tha.. Ngược lại , nếu chúng cứ ngoan cố tiếp tục con đường gian ác thì Thiên Chúa sẽ đối xử với chúng như chủ ruộng kia đã  làm ngơ cho cỏ lùng mọc xen lẵn với cây lúa tốt.. Và đợi  đến mùa gặt, chủ sẽ bảo thợ gặt : “ hãy gom cỏ lùng lại, bó thành bó mà đốt đi, còn lúa thì hãy thu vào kho lẫm cho ta.” ( Mt 13:20)

Dụ ngôn trên cũng áp dụng thích đáng cho người tín hữu Chúa Kitô đang sống đức tin trên trần gian này, giữa bao kẻ  gian ác đang phạm biết bao tội  nghich cùng Thiên Chúa và gây đau khổ cho  bao  người khác.Kẻ gian ác cứ sống trong tội ác của chúng như có lùng mọc xen với cây lúa. Và chắc chắn đến mùa gặt, tức ngày Phán Xét, chúng sẽ bị quăng vào nơi “tối tăm , khóc lóc và nghiến răng”.(Lc 13: 28)

Thật vậy, do hậu quả của tội nguyên tổ, bản chất thiện hảo ban đầu của con người đã bị thương tổn nặng nề đến nỗi dù đã được tái sinh qua Phép Rửa, và trở thành tạo vật mới, con người vẫn không lấy lại được bản chất thiện hảo ban đầu ( Original Innnocence) đã mất đi sau khi nguyên Tổ loài người đã phạm tội. Vì thế, con người ngày nay  vẫn hoàn toàn  yếu đuối và dễ nghiêng chiều về sự xấu, sự tội bao lâu còn sống trên trần gian và trong thân xác có ngày phải chết này.

Mặt khác, ma quỷ ví như “ sư tử gầm thét rảo quanh tìm mồi cắc xé” ( 1Pr 5 : 8) luôn rình rập quanh  ta để cám dỗ , lôi kéo ta vào đường tội lỗi dẫn đến hư mất đời đời. Cho nên “ anh  em phải đứng vững trong đức tin mà chống cự, vì biết rằng toàn thể anh  em trên trần gian đều trải qua cùng một loại thống khổ  như thế” ( Sđ d 5: 9) đúng theo lời  khuyên dạy của Thánh Phêrô cách nay đã  trên 2000 năm nhưng vẫn còn nguyên giá trị thực hành trong hoàn cảnh sống của con người ngày nay..

Ngoài ma quỷ là kẻ thù chính ra,  thế gian hay môi trường sống của mỗi người chúng ta là kẻ thù thứ  hai  cộng tác  đắc lực với ma quỷ  để  xúi dục  ta phạm tội vì gương xấu đầy rẫy ở khắp nơi. Nào phim ảnh sách báo  dâm ô,đồi trụy,  bạo động,  nào sòng bạc lớn nhỏ và nơi ăn chơi sa đọa công khai quảng cáo trên truyền thông để lôi cuốn con người  thuộc mọi lớp tuổi tìm đến để thỏa mãn dục vọng và lòng ham mê tiền của, bắt chấp  mọi hậu quả tai hại cho linh hồn, nếu ta tin con người có hồn và xác, có sự thưởng phạt sau khi chết.

Thánh Phaolô đã nói đến các giống tội do xác thịt yếu đuối gây ra và hậu quả của tội  như sau:

Những việc do tính xác thịt gây ra thì ai cũng rõ, đó là : dâm bôn, ô uế, phóng đãng, thờ quấy, phù phép, hận thù, bất hòa, ghen tương, nóng giận, tranh chấp , chia rẽ, bè phái, ganh tỵ, say sưa, chè chén và những điều khác giống như vậy. Tôi bảo trước cho mà biết, như tôi đã thường bảo : 

Những kẻ làm những điều đó sẽ không được thừa hưởng Nước Thiên Chúa.” ( Gl  5 :19-21).

Như thế, người ta phạm tội vì bản chất yếu đuối, vì ma quỷ tinh quái  cám dỗ và vì gương xấu của người khác.

Chúa Giêsu đã nghiêm khắc cảnh cáo về các dịp tội và gương xấu như sau :

“ Không thể không có những cớ làm cho người ta vấp ngã. Nhưng khốn cho kẻ làm cớ cho  người ta vấp ngã. Thà buộc cối đá lớn vào cổ nó và xô xuống biển, còn lợi  cho nó hơn là để  nó làm cớ cho một trong những kẻ bé mọn này phải vấp ngã.” ( Lc 17: 1-2)

Như vậy, muốn tránh tội, ta phải ý thức đây đủ về  những nguy cơ  đưa đến phạm tội để từ đó quyết tâm xa tránh với ơn Chúa nâng đỡ để đứng vững , vì “ không có Thầy anh  em sẽ chẳng làm gì được.” ( Ga  15: 5).Nghĩa là nếu không có ơn Chúa giúp sức thì ta không thể  đứng vững trước mọi cám dỗ  nặng nề của ma quỷ, gương xấu đầy rẫy của thế gian và những khuynh hướng xấu còn tồn tại trong ta.

 Cứ nhìn quanh ta thì đủ biết  tội lỗi đang thống trị con người và thế giới như thế nào.

Tại sao người ta đang  làm những sự dữ như giết người, cướp của, ăn gian nói dối, cờ bạc, dâm ô phóng đãng, hiềm thù ,nghen ghét, bỏ vạ cáo gian, thay chồng đổi vợ, chiến tranh, khủng bố ?

Câu trả lời đúng nhất là vì người ta không có niềm tin nào, hay có mà không có can đảm sống niềm tin ấy cách sống động và cụ thể để đẩy lui bống tối của sự dữ, sự tội đang lan tràn ở khắp nơi.

Trước thực trạng trên đây, là người có đức tin vào Thiên Chúa là Cha cực tốt cực lành, mọi tín hữu chúng ta đều được mong đợi  sống đức tin của mình cách cụ thể là phải xa tránh mọi sự xấu, sự tội , vì chỉ có tội lỗi mới làm ngăn cách con người với Thiên Chúa là tình thương nhưng gớm ghét mọi thứ tội lỗi.Nói khác đi, sống đức tin Kitô Giáo đòi hỏi chúng ta phải ý thức sâu xa về nguy cơ của tội lỗi đến từ ma quỷ, từ thế gian  và từ  bản chất yêu đuối của chính  mình.

Trong thời đại văn minh vật chất và điện toán hiện nay, rất nhiều người đã mất hết ý thức về tội. Chủ nghĩa tương đối( relativism) đã  góp phần không nhỏ vào việc lừa dối rất nhiều  người  tin  là không có giá trị nào tuyết đối về luân lý, đạo đức cả.. Vì thế người ta đã mặc sức làm những sự dữ , thí dụ,  làm luật để bảo vệ cho súc vật như chó, mèo, chim,  rùa ngoài biển. Nhưng lại hợp thức hóa việc phá thai khiến hàng năm ở Mỹ có trên một triệu thai nhi bị giết ngay trong lòng mẹ mà luật pháp quốc gia chính thức cho phép khiến không ai gặp khó khăn nào với luật pháp khi trực tiếp hay gián tiếp ra tay giết hại một hài nhi tức một nhân mạng.! Ngoài ra, người ta cũng đang tìm cách định nghĩa lại hôn nhân, vốn là một định chế bắt nguồn từ Thiên Chúa khi Người tạo dựng con người có nam có nữ và truyền cho họ sứ mệnh “ Hãy sinh sôi nẩy nở cho thật nhiều, cho đầy mặt đất và thông trị mặt đất.”   “ ( St 1 :28)

Vậy mà bây giờ người ta đang hợp thức hóa những cặp hôn nhân đồng tính ( same sex marriage).,để công khai nhìn nhận việc sống chung của những cặp nam nữ bệnh hoạn tâm sinh lý này.Chúng ta cảm thông hoàn cảnh của họ nhưng không thể tán thành việc cho họ kết hôn để đạp đổ truyền thồng hôn nhân giữa một người nam và một người nữ như Thiên Chúa đã thiết lập từ đầu.

Mặt khác trên bình diện quốc tế, cộng đồng thế giới  vẫn làm ngơ cho các chế độ tàn ác của Assad ở  Syria, của Bắc Hàn, của Cuba… và nhiều nơi khác nữa đã  giết hại hàng triệu  người dân vô tội,  vì dám chống lại chế độ cai trị tàn ác của kẻ cầm quyền... Đây là một tội ác chống lại con người của các kẻ độc tài độc đảng mà các nước có  thể  lực lớn trên thế giới  phải chịu trách nhiệm  vì đã không dám hành động thích đáng để bảo vệ cho quyền sống của  con người .

Trước thực  trạng tội lỗi của cá nhân , xã hội và cộng đồng quốc tế, người tín hữu Chúa Kitô thuộc mọi thành phần trong Giáo Hội  hơn bao giờ hết phải sống niềm tin của mình cách cụ thể và thuyết phục để làm nhân chứng cho Chúa Kitô, Đấng đã đến trần gian để “hy sinh mạng sống mình làm giá chuộc cho muôn người.”(Mt 20: 28)

Nói rõ hơn, nếu người tín hữu mà cũng ăn gian nói dối, cũng lường gạt, bóc lột người  khác để trục lợi, cũng lui tới những sòng bạc lớn nhỏ, cũng đi du hí ở những nơi tội lỗi, cũng nhẩy nhót cuồng loạn mất nết, cũng cấu kết hay làm tay sai cho những thế lực, hay chế độ phi nhân  bóc lột đàn áp người dân vô tội,  thì chắc chắn đã chà đạp lên hay chối bỏ niềm tin của mình và cùng lớn tiếng  hô to với những kẻ vô thần , vô luân vô đạo  là KHÔNG CÓ THIÊN CHÚA, KHÔNG CÓ SỰ SÔNG ĐỜI SAU để mặc sức ngụp lặn  ở hiện tại  trong  vũng bùn nhơ của tội lỗi vì  đam mê của cải, chuộng hư danh và tôn thờ  mọi thú vui vô luân vô đạo, là bộ mặt rõ nét  nhất của “văn hóa sự chết” đang lộng hành ở khắp nơi trên thế giới ngày nay.

Quan trọng hơn nữa, nếu người tín hữu  không quyết tâm từ bỏ mọi giống tội và nương nhờ ơn Chúa phù giúp  để  đứng vững trong đức tin  thì không ai  có thể  đạt được mức hoàn hảo để được cứu rỗi. Sở dĩ  thế  là vì con người còn có tự do để chọn lựa giữa sự tốt và sự xấu, giữa ánh sáng và bóng đêm bao lâu còn sống trên trần gian này. Và Thiên Chúa luôn  tôn trọng sự tự do đó của con người.Nghĩa là nếu con người chọn con đường gian tà vì mê đắm sắc dục, để lui tới những nơi ăn chơi sa đọa, thay chồng đổi vợ, hoặc vì đam  mê  tiền của  để trộm cướp, bóc lột người khác thì Thiên Chúa sẽ không ngăn cản và con người sẽ phải hoàn toàn chiu trách nhiệm về chọn lựa của mình. Đó là lý do thưởng phạt của Thiên Chúa dành cho những kẻ chối bỏ Người bằng tư tưởng và hành động, hay yêu mến và quyết tâm thi hành ý muốn của Người để được vào Nước Trời   như Chúa Giêsu đã nói rõ với các môn đệ xưa như sau:

“ Không phải bất cứ ai thưa với Thầy : Lậy Chúa ! lậy Chúa ! là được vào Nước Trời cả đâu, Nhưng chỉ ai thi hành ý muốn của Cha Thầy,  Đấng ngự trên trời mới được vào mà thôi.” ( Mt 7 : 21)

Thi hành ý muốn của Cha trên trời có nghĩa là phải cương quyết từ bỏ mọi tội lỗi, mọi sự dữ  và “ hãy chiến đấu để qua cửa hẹp mà vào, vì  Tôi nói cho anh  em biết : có nhiều người sẽ tìm cách vào mà không thể được.”  ( Lc 13: 24)

Cửa hẹp mà Chúa Giêsu nói trên đây, chính là cửa công chính để tránh  đi vào con đường của  kẻ gian ác, giết người , cướp của,  bóc lột, dâm đãng  và bất công với người  khác. Cửa hẹp cũng là  cửa  bác ái để  mở lòng  cảm thương anh chị em nghèo khó, bệnh tật, cô thân cô thế,.Sau nữa, cửa hẹp cũng là cửa  trong sạch để không đi vào con đường dẫn  đến những nơi xú uế vì cờ bạc vui chơi  dâm ô  khốn nạn. Người tín hữu Chúa Kitô  mà đi vào những con đường nói trên thì chắc chắn sẽ không gặp được Chúa là  cội nguồn của mọi giầu sang ,phú quý và hoan lạc.;  mà ngược lại , chắc chắn sẽ rơi xuống hố diệt vong vì phải vĩnh viễn xa lìa Thiên Chúa là cùng đích của niềm tin và hy vọng của người có đức tin  chân chính.

Tóm lại , Năm Đức Tin mời goi và nhắc nhở mọi tín hữu  sống đức tin cách chân thật và sống động  để minh chứng mình thực sự  tin  Chúa Kitô, Đấng đã cứu chuộc nhân loại qua khổ hình thập giá để cho chúng ta  hy vọng được gặp Thiên Chúa là Cha  và được sống hạnh phúc đời đời với Người trên Thiên Quốc, sau khi chấm dứt hành trình con người trên trần thế này.

Nói khác đi, chúng ta phải thể hiện đức tin của mình cách cụ thể  trước mặt  người đời để làm nhân chứng cho Chúa Kitô  với  mục đích mời gọi thêm nhiều người nữa nhận biết và tin Chúa để cùng được  cứu độ, vì Thiên Chúa , “ Đấng cứu độ chúng ta, Đấng muốn cho mọi người được cứu độ và nhận biết chân lý. ( 1Tm 2:4)

Nhưng- cần nhấn mạnh thêm một lần nữa-  muốn sống đức tin cách hữu hiệu, vững vàng  đẹp lòng Chúa và có sức thuyết phục người khác thì ta phải ý thức đầy đủ nguy cơ của tội lỗi  để quyết tâm xa tránh không làm những gì phương hại hay mâu thuẫn với đức tin có Chúa là Đấng thánh thiện, nhân từ, công bình, yêu thương và tha thứ. ( tha thứ cho kẻ có tội biết ăn năn xin tha chứ không được  lợi dụng  tha thứ  để cứ tiếp tục phạm tội nữa !)

Tóm lại, sống đức tin không những để biết  thờ lậy, ngợi khen,yêu mến và cảm tạ Chúa ngày một hơn, mà quan trọng không kém là đoạn tuyệt với tội lỗi, vì “ ai phạm tội là người của ma quỷ” như Thánh Gioan Tông Đồ đã dạy. ( 1 Ga  3: 8).

Lm Phanxicô Xaviê Ngô Tôn Huấn

VỀ MỤC LỤC
“SỎI ĐÁ CŨNG CẦN CÓ NHAU”

 

Trong khuôn viên Tu Viện của chúng tôi, có một dãy nhà nho nhỏ xem ra khiêm tốn so với những dãy nhà khác, nhưng những người cư trú trong dãy nhà đó lại không nhỏ, không nhỏ nghĩa là lớn, lớn về đủ các chiều kích và hiểu theo đủ mọi nghĩa. Họ đã… “từ những đau khổ lớn lao mà đến”.

Thật vậy, tuổi đời họ rất lớn. Vị niên trưởng đang loay hoay trên giường bệnh năm nay đã 92 tuồi đời ( cụ không bao giờ chịu là 92, phải là 93 tuổi mụ, nhưng cụ lại tỏ ra rất thích khi ai nói cụ 29 tuổi ! ), lúc nào cụ cũng cười vui với bất kỳ ai đến thăm, rất ngoan ngoãn để cho những người có trách nhiệm săn sóc, đau đớn nhưng không bao giờ kêu ca, khi tỉnh dậy dù mệt lắm vẫn có thể đùa một chút với mọi người.

Sự nghiệp họ rất lẫy lừng, họ là những người đã ngang dọc một thời cho sứ mạng loan báo Tin Mừng, tung hoành trên cao nguyên rừng thẳm, len lỏi vào tận những bản làng xa xôi, bây giờ đành thúc thủ với căn bệnh bất trị, nhưng… vẫn cười. Hơn 40 năm Linh Mục rồi bây giờ vẫn còn phải đang tập dâng lễ, đọc được bản văn Phụng Vụ là một cố gắng rất lớn, khi mệt quá thì tìm cách ăn gian không đọc to lên.

Công lao của họ rất lớn, họ đã từng vào sinh ra tử cho con thuyền của Hội Dòng, đương đầu với phong ba bão táp, can đảm quyết đoán cho hướng đi táo bạo, giải vây thế bí do hoàn cảnh đất nước, mở ra con đường hy vọng nhưng hiệu quả thiết thực, phóng tầm nhìn xa cho tương lai của Hội Dòng, của Hội Thánh. Bây giờ cụ lừ đừ chậm chạp, khác với dáng bước hiên ngang ngày xưa, giờ chỉ còn là những bước khoan thai chận rãi, ăn từng chèn cơm được cân đo đong đếm nghiêm nhặt, từng giấc ngủ được tính toán kỹ lưỡng.

Sức khỏe họ rất tốt, trong quá khứ họ đã từng khai phá cả trăm ha rừng, quản trị một đồn điền trên 100ha càphê, ngồi trên máy cày xới tung từng vuông đất, bắn hạ những con cọp rừng nặng gần trăm ký, lo đời sống cho hàng trăm công nhân của Nhà Dòng. Bây giờ thầy ngồi xe lăn, mắt mơ màng nghĩ về quá khứ, một thời trai trẻ gió sương, bây giờ ngồi bất động, cho gì ăn nấy, không đòi hỏi, không quan tâm đến bất cứ việc gì. Thương người giúp việc lo cho mình, thầy lại trào nước mắt, lắp bắp nói lời xin lỗi không ra hơi.

Khả năng quán xuyến của họ rất tốt, họ đã từng lo cho hàng trăm Đệ Tử sinh sống, họ đã từng cấm lái những chiếc xe bus to lớn ngược xuôi, họ đã từng xông xáo mọi ngõ ngách để vun quén cửa nhà, họ đã từng lặn lội để canh giữ tài sản chung. Bây giờ thầy ngồi đó, ho rũ từng cơn, thể xác héo hon nhưng trên môi không dứt nụ cười, đau ốm nhưng không giảm khả năng làm người khác vui, ngồi một chỗ nhưng đầu đầy ắp những chuyện tếu, sẵn sàng kể cho bất kỳ ai đến thăm đến khi ra về thế nào cũng phải cười vui thú vị…

Vâng, chấm dứt một hành trình, chấm dứt thuở dọc ngang, họ vượt qua nỗi khổ đau “lực bất tòng tâm”, họ phải chật vật làm quen với gia tốc ở cuối triền dốc, họ phải tập nhìn ánh mặt trời hoàng hôn trong một thời gian rất ngắn, “vùn vụt tựa bóng câu”.

Cũng trong dãy nhà nho nhỏ ấy lại có những người rất nhỏ, những người rất nhỏ bên cạnh những người rất lớn, thân xác họ nhỏ, tuổi đời họ nhỏ nhưng tâm hồn và trí tuệ, đặc biệt trái tim họ rất lớn. Xin tri ân người, những người tôi gọi là ân nhân của tôi, những người ngày đêm âm thầm canh thức, săn sóc, an ủi vỗ về, nâng đỡ các cha anh tôi, những người đã thức thâu đên suốt sáng khi cha anh tôi trở bệnh, những người đã lặn lội ra vào nhà thương lo lắng cho cha anh tôi như chính người thân ruột thịt của họ, những người đã trào những dòng nước mắt nghẹn ngào khi cha anh tôi ra đi, họ đã tiếc thương như tiếc thương chính người thân yêu ruột thịt của họ. Tôi mắc nợ họ, món nợ tình thương mến như một lời nào đó trong Thánh Kinh, và tôi không biết bao giờ và làm sao trả cho hết món nợ này…

Ngày lễ các Thánh Nam Nữ của Thiên Chúa gần đến, rồi ngay sau đó là ngày lễ các Đẳng Linh Hồn. Hai mặt của một con người thuộc về Thiên Chúa, cha anh tôi đã đi qua những “đau khổ lớn lao mà đến”, cha anh tôi còn phải vượt qua chính thân phận con người để đến vinh quang, trên hành trình vượt qua đó, có những “cô tiên” được gởi đến để đồng hành, những “cô tiên” được gởi xuống trần để thông chia nỗi khổ đau và đỡ nâng nhịp bước. Các chị em đã giúp chúng tôi sống tình huynh đệ, thay chúng tôi thực hiện tình huynh đệ, dạy chúng tôi hiểu tình huynh đệ và quan trọng là giúp chúng tôi sống ngày lễ 2 tháng 11 và sống trọn tháng 11 thật thấm thía, trước khi cử hành ngày 2 tháng 11 theo nghi lễ.

Một lời cám ơn cho cả đời tri ân, cám ơn những “cô tiên” đơn sơ giản dị, mộc mạc chân thành, khiêm tốn hiền hòa, âm thầm nhưng thương yêu mãnh liệt, chúng tôi chỉ biết cám ơn bằng những lời kinh tiếng nguyện mỗi ngày đời chúng tôi. Với tất cả tình thương mến…

Lm. VĨNH SANG, DCCT, Chúa Nhật 28.10.2012 (Ephata 533)

VỀ MỤC LỤC
TÔI TẬP SỐNG GIÁO HUẤN
 

Hạt Cải

Bạn bè thường gọi đùa tôi bằng cái tên rất “yêu” là “cô giáo làng”. Bởi tôi không dạy trong trường mà mở lớp dạy học tại nhà. Học trò của tôi đa phần là con nhà nghèo khó, bố mẹ các em là công nhân, thợ hồ hay buôn gánh bán bưng…Cũng có em sống côi cút với ông bà vì bố mẹ qua đời hay đã ly tan. Mười mấy năm trong nghề, tôi nghiệm ra một điều: Học trò càng nghèo thì càng chân tình, dễ thương. Suốt ngày chúng cứ ríu rít: “Mom ơi”, “mẹ à”…, nghe cũng “mát ruột” lắm!

Từ ngày theo học lớp giáo huấn xã hội Công giáo, tôi tập tành áp dụng bốn nguyên tắc cơ bản của giáo huấn: tôn trọng nhân phẩm (còn gọi là nguyên tắc nhân vị), công ích, bổ trợ và liên đới. Đứng trước một sự kiện hay một biến cố nào đó trong cuộc sống, tôi tập xem, xét, làm dựa trên bốn nguyên tắc này. Thấy cũng hay hay.

Là giáo viên, hẳn không mấy ai lại “ghiền” các cô cậu quậy phá, nghịch ngợm, lại còn biếng học ham chơi. Trong một bài chia sẻ có liên quan đến phẩm giá con người, một vị linh mục đã chia sẻ một kinh nghiệm rất đáng quý: “các em học sinh quậy phá thường có chung một đặc điểm về gia đình: hoặc bố mẹ ly dị, lục đục, cãi vả đánh đập nhau; hoặc gia đình các em làm những ngành nghề mà xóm giềng không mấy tôn trọng, ủng hộ.” Tìm hiểu kỹ, tôi thấy đúng thật. Từ ngày ấy, tôi đổi ra quan tâm, ân cần với các học trò cá biệt này hơn, thấy các em đáng thương hơn. Tôi dạy cho các em biết mình có một nhân phẩm không có gì đánh đổi được. Và vì nhân phẩm cao trọng ấy, các em cần phải sống xứng đáng hơn. Cũng không dễ dàng trôi chảy đâu! Có lúc tôi phải “mua chuộc” các em bằng những bữa cơm gia đình, hay nồi chè, trái cóc…, để thể hiện rằng tôi yêu các em nhiều lắm, rằng dẫu nhiều người có mắng nhiếc các em là hư đốn, “mất dạy”, tôi vẫn trân trọng phẩm giá các em. Có lúc tôi cũng khản cổ, điên tiết vì chúng cứ cười đùa tơn tơn giữa giờ học…Nhưng có một sự cải thiện đáng kể:  Các em thương tôi thật, rất sợ nước mắt của tôi. Nhờ “chiêu đòn” này, tôi đã “hạ gục” được nhiều “đối thủ”.

Không chỉ có học trò nhỏ, thi thoảng Chúa cũng gởi đến tôi  những “học trò” rất đặc biệt.

Số là sáng nay, khi đang say sưa giảng bài cho các em lớp 8, thì mẹ đỡ đầu của tôi dắt đến một chị độ 50 tuổi. Chị ngại ngùng khép nép đứng xa xa. Linh tính mách bảo người chị em này đang cần đến sự giúp đỡ của tôi. Cúi chào chị, tôi cười thân thiện. Mẹ tôi nhanh nhẩu đến gần áp tai tôi: “Chị ấy  không biết chữ, tìm đến nhiều nơi rồi mà không ai chịu dạy. Có người mách chị ấy rằng đến nhà thờ chắc chắn sẽ có người giúp (chị ấy là người ngoài Công Giáo). U dạy giáo lý thì được , chứ dạy chữ thì chịu. Con xem có giúp được chị ấy không? Học phí bao nhiêu thì bảo với chị ấy. ”

Cái “căn tính xác thịt” khiến tôi làm bài toán rất nhanh trong đầu: một lớp của tôi trên mươi lăm em, mà không thể xếp chị chung vào lớp nào, dạy riêng cũng tốn một ca làm việc, biết thu học phí làm sao? Cũng căng đây! Năm nay học trò lại đông nữa. Tôi lưỡng lự, khó xử và toan chối từ…

Nhìn về phía chị, tôi bắt gặp ánh mắt căng thẳng chờ đợi. Ánh mắt ấy hơi thất vọng khi dò thấy thái độ do dự của tôi. Lòng tôi chùng xuống… Chút trắc ẩn lẫn khuất nơi nào đó trong lương tâm chợt tràn về làm tôi xao xuyến. Tôi nghe tiếng khao khát trong lòng chị. Tôi đọc được sự mặc cảm nặng nề đang bủa vây quanh chị. Và rồi bất chợt, một cảm giác áy náy như có tội xâm chiếm tôi…Gần hai mươi năm trên bục giảng, có lẽ tôi đã lướt quá nhanh, quá hồ hởi, không biết tôi đã bỏ qua bao nhiêu tâm tình nặng trĩu, dấu kín trong mặc cảm âm thầm như chị đây?! Chị ấy có quyền sống vui vẻ, tự tin trong xã hội. Và tôi, một người may mắn hơn chị (về phương diện học vấn), phải liên đới nâng đỡ chị. “Đó là trách nhiệm chứ không phải là sự làm phước thi ân” (tôi được học như vậy trong nguyên tắc liên đới mà! )…

Thế là sau một lúc “tự đả thông tư tưởng”, tôi  nhận lời một cách vui vẻ và hẹn chị tối đến. Trong thâm tâm, tôi quyết định không nhận học phí của chị nữa. Chị cười bẽn lẽn, nhưng không dấu được nỗi vui mừng…

Quê  ở Nam Định, chị vào Sài Gòn làm nghề may mười mấy năm nay. Ở tuổi 50, chị vẫn còn nét trẻ, đầm đậm duyên và cười rất hiền. Tôi ngỡ ngàng khi biết chị vẫn chưa lập gia đình. Thời xuân trẻ, cũng có nhiều đám dạm ngõ nhưng chị đã né tránh vì sợ “người ấy” phát hiện ra mình không biết chữ! Cứ thế, tuổi xuân trôi qua cùng biết bao cơ hội trong đời . Vốn siêng năng chăm chỉ, chị cũng nhiều lần được cấp trên tín nhiêm giao việc, nhưng khốn nỗi không thể ghi chép sổ sách được nên chị đành tìm cách từ chối khéo.

Từ khi phải nếm cái đắng cay bởi “cái chữ”, nhiều lần chị đã lặng lẽ tìm thầy dạy học, nhưng chị đều bị chối từ. Chị vào Sài Gòn cũng vì ước muốn mãnh liệt phải học cho biết đọc biết viết: “Khi nào đọc được, viết được, chị sẽ về lại quê sống với mẹ già, đọc kinh đọc sách cho cụ nghe, chứ ở quê chị, người ta xét nét, dòm ngó lắm, không dám học đâu…”- chị tâm sự với tôi.

Đêm ấy – sau buổi học đầu tiên của chị - tôi trằn trọc không ngủ được. Ước mơ của chị tưởng chừng như quá bình thường nhỏ nhoi - biết đọc biết viết  thôi – nhưng suốt 50 năm cuộc đời chị không vươn tới nổi. Nó như gánh nặng đè bẹp những ước mơ, như hố sâu ngăn cách chị với tình yêu và hạnh phúc. Nó giam hãm chị trong rụt rè, mặc cảm và khuất tối. Cuộc đời trôi qua hối hả, mấy ai  dừng lại lắng nghe những tiếng thở than âm thầm này?!!!

Tôi chợt nghĩ đến một lớp học yêu thương dành cho những người có hoàn cảnh như chị. Và tôi lại trộm ước giá như từ trước đến nay có thật nhiều những lớp học như thế, thì biết đâu cuộc đời của những người như chị đã tốt hơn?

Mãi miên man, tôi thiếp đi lúc nào không biết. Sáng hôm sau, tôi phì cười vì nhớ rằng hình như trong mơ tôi vẫn đi đi lại lại lẩm nhẩm: “Vì ‘thiện ích chung’, phải cố gắng tìm được sự ‘bổ trợ’ từ nhiều phía để mở lớp, thể hiện tình ‘liên đới’ yêu thương giữa công đồng, trả lại cho những anh chị em ấy những ‘quyền con người’ mà hoàn cảnh đã lấy mất”...

 

VỀ MỤC LỤC
CHO NHỮNG NGƯỜI NẰM XUỐNG
 

Lm Giuse Trần Đình Long, Dòng Thánh Thể 

Trong đời sống mỗi người chúng ta, không ai có thể chu toàn lòng kính mến đối với những bậc ông bà cha mẹ, hoặc vuông tròn sự yêu thương hòa đồng giữa anh chị em ruột thịt trong nhà, và bà con thân thuộc lối xóm được. Cho dù nếu có, thì trong tháng các linh hồn này, Hội Thánh cũng nhắc nhở chúng ta làm mới lại những yêu thương ấy đối với những người đã khuất, để từ đó làm mới lại mối dây liên lạc yêu thương, tương kính với những người đang sống. Những người mà chúng ta gặp gỡ hàng ngày.

Nếu đạo hiếu của người sống đối với người chết chỉ là đi viếng nghĩa trang, chỉ là tu sửa lại những nấm mồ cao thấp, chỉ là tổ chức đám ma đông người đi đưa, nhiều cha đồng tế, những đám giỗ linh đình náo nhiệt thì thực sự những cái đó, nó mong manh hời hợt biết bao ! Vì sau những buổi lễ lạc linh đình đó, hoặc ngay cả lúc những nghi thức ấy đang diễn ra, thì những xác người chết vô tri cứng lạnh nằm trong áo quan, hay tăm tối trong những nấm mồ sâu dưới lòng đất, những người ấy có nhận được gì không ? Còn linh hồn của những vị ấy, nếu vui thỏa được bằng những nghi thức nghèo nàn trần tục kia, thì thử hỏi cõi thiên đàng cao sang, hoặc chốn thẳm sâu địa ngục, còn có nghĩa gì đối với chúng ta, những kẻ tin vào Chúa Kitô hôm nay ?

Khi người chết nằm xuống rồi, thì linh hồn người ấy đi vào một cõi khác, một cõi vô cùng bí nhiệm, một cõi mà không một ai ở trần gian này biết được nó ở đâu ? Không biết nó sinh hoạt thế nào ? Việc đi viếng nghĩa trang, việc sửa sang phần mộ là việc tốt. Không phải tốt cho người đã chết, mà là tốt cho người đang sống là chúng ta. Để từ cái nghĩa trang mà chúng ta thấy đó, từ cái nấm mồ mà chúng ta đang sửa sang tô quét đó, từ những hũ đựng hài cốt mà chúng ta ngắm nhìn đó, chúng ta thấy được cái kiếp sống vắn vỏi của con người. Và để cho chúng ta, những người đang nhởn nhơ vui sống, thấy rằng cái đích điểm mà tất cả mọi người ở trần gian này sẽ phải đến gặp nhau là chỗ này đây : ba tấc đất sâu, và một nấm mộ cô đơn lạnh lẽo. Để trong tháng các linh hồn này, mỗi con người dù là Đức Giáo Hoàng hay vua chúa, linh mục hay giáo dân, dù giàu sang của chìm của nổi hay nghèo nàn mạt rệp, dù danh vọng chức tước đạo đời đầy mình hay chỉ là tên vô danh tiểu tốt,… tất cả cùng có dịp hồi tâm lại. Những nấm mồ, những hũ đựng hài cốt nhắc nhở ta đừng bám víu, bám chặt lấy những cái bồng bềnh trôi nổi nay còn mai mất của thế gian, như tiền của, danh vọng, chức quyền. Mỗi người hãy coi sự sống vĩnh cửu vô cùng vô tận mới là cùng đích của cuộc đời. Cuộc sống mà dù muốn hay không, mọi người đều phải đi vào cõi đó, “một cõi đi về”! Cuộc sống thật ấy chỉ bắt đầu từ cõi đó, với hai bàn tay trắng và một thân xác trần truồng ai cũng như ai. Thánh Phaolô quả quyết: “Quả vậy, chúng ta đã không mang gì vào trần gian, thì cũng chẳng mang gì ra được. Vậy nếu có cơm ăn, áo mặc, ta hãy lấy thế làm đủ. Còn những kẻ muốn làm giầu, thì sa chước cám dỗ, sa vào cạm bẫy và nhiều ước muốn ngu xuẩn độc hại; đó là những thứ làm cho con người đắm chìm trong cảnh huỷ diệt tiêu vong. Thật thế, cội rễ sinh ra mọi điều ác là lòng ham muốn tiền bạc, vì buông theo lòng ham muốn đó, nhiều người đã lạc xa đức tin và chuốc lấy bao nỗi đớn đau xâu xé.” (1Tm 6,7-10)

Sống và chết là hai ngả vô cùng cách biệt. Người sống không thể liên lạc với người chết bằng bát cơm quả trứng, hay bằng nén nhang khói tỏa nghi ngút, hoặc ngay cả bằng những bài kinh nỉ non thảm thiết dài lê thê, mà người đọc cứ lập đi lập lại trong những giờ kinh giỗ buồn chán.

Chúng ta những người đang sống chỉ liên lạc được với những người hôm nay đang ở cõi đời đời, nơi một con người thôi. Con người ấy đang nắm trong tay tất cả thời gian, không gian, tất cả vận mạng kẻ sống cũng như người chết. Con người đó là Đức Giêsu Kitô Chúa chúng ta, Đấng Phục Sinh. Chỉ nơi Đức Giêsu Kitô, Đấng cầm chìa khóa sự chết, mọi người mới hiểu được ý nghĩa của cuộc sống tạm bợ mau qua hôm nay, và bí nhiệm của cuộc sống vĩnh cửu ngày mai. Chỉ nơi thập giá cứu chuộc của Chúa chúng ta, nơi trái tim yêu thương của Thiên Chúa mở ra, mọi người có mặt ở trần gian, từ Ađam cho đến người cuối cùng trên trái đất này, mới thấy được rằng : sự chết từng là cái án khủng khiếp cho hết mọi người, thì hôm nay lại là nguồn an ủi vô biên cho những kẻ tin vào Đức Giêsu Kitô, vì xác tín rằng : nấm mồ không phải là chung cuộc cho tất cả những ai tin vào Ngài.

Vì Đức Giêsu Kitô đã phục sinh. Ngài đã đặt sự chết dưới bệ chân của Ngài, thì những ai đang sống trong sự sống của Đức Giêsu hôm nay là những kẻ sẽ không phải chết bao giờ nữa. “Ai ăn thịt Ta và uống máu Ta thì có sự sống đời đời, và Ta sẽ cho kẻ ấy sống lại trong ngày sau hết.” Chính Đức Giêsu Kitô đã bảo đảm với những kẻ yêu mến Ngài như vậy.

Chỉ những gì liên kết trong một thân mình thì mới thông hiệp được với nhau. Bàn tay phải muốn cảm thông nỗi đau của bàn tay trái thì hai bàn tay đó cần phải dính liền vào trong một thân thể. Cũng vậy, người tín hữu còn sống muốn hiệp thông với người tín hữu đã chết, thì cả hai đều phải là chi thể của một thân mình – thân mình Đức Giêsu Kitô. Khi Ngài thương xót những người đang sống ở trần gian bị lao đao dằn vặt bởi tội lỗi và muôn ngàn thứ đau khổ, thì cùng một lúc lòng thương xót ấy lan ra khắp thân mình Ngài, thấm vào kẻ sống thì cũng thấm vào người chết đang là chi thể của Ngài. Lúc ấy hai người ở hai thế giới cách biệt muôn ngàn trùng mới hiệp thông được với nhau, mới biết thương nhau, và khi thương nhau thì ngày đêm mới tha thiết nhớ cầu nguyện cho những người đã nằm xuống.

Những người dù là có đạo, mà trong cuộc sống hôm nay, sống ngoài Đức Giêsu như kẻ vô đạo, thì đừng hòng nói là thương xót các linh hồn nơi luyện tội, vì nơi bản thân họ không có lòng trắc ẩn với những người đau khổ đang sống quanh họ, thì làm sao mà họ có được khả năng hiệp thông với kẻ đã chết, hiện đang ở cõi thiêng liêng vô hình?

Bởi thế trong ngày lễ cầu cho các linh hồn, Hội Thánh đòi buộc những ai muốn lãnh ơn đại xá, phải xưng tội rước lễ và cầu nguyện theo ý Đức Giáo Hoàng, nghĩa là người đó phải ở trong Đức Giêsu Kitô và ở trong Hội Thánh của Ngài. Có đủ điều kiện ấy, thì người đó đã trở thành chi thể trong thân mình mầu nhiệm của Đức Giêsu Kitô và lời cầu nguyện của họ cho những người đã khuất mới có giá trị.

Chúng ta là những Kitô hữu, và hơn nữa chúng ta còn là những người bạn thân thiết của trái tim Đức Giêsu Kitô, nên chúng ta không được nghĩ rằng : tôi cứ lo kiếm sao cho có nhiều tiền rồi ngày giỗ ngày tết, tôi rải tiền ra xin lễ cho nhiều để ông bà cha mẹ anh em tôi mau được lên thiên đàng. Ngoài ra tôi muốn sống sao thì sống, tôi không quan tâm gì đến ai. Nếu nghĩ và làm như vậy là xúc phạm đến lòng thương xót của Chúa, bởi vì coi rẻ tình thương của Đức Giêsu Kitô. Nếu như ta không có khả năng xin lễ, hay có ai bỏ quên ông bà cha mẹ, thì chính Chúa sẽ bù đắp tất cả bằng tình thương vô biên của Ngài, Đấng phục sinh.

Trong tháng các linh hồn, mỗi người hãy tha thiết nài xin Đức Giêsu làm cho tâm hồn chúng ta được say mê yêu mến trái tim Ngài. Xin Ngài làm cho trái tim chúng ta trở nên mềm dịu để mở ra đón nhận tình yêu lạ lùng ấy. Lúc ấy con người chúng ta sẽ đổi mới không phải hời hợt bên ngoài như thay một màu áo, đổi một đôi giày, mà thay đổi từ sâu thẳm bên trong tâm hồn bằng sức mạnh của Thánh Thần. Lúc ấy một sinh khí mới của lòng mến sẽ bùng lên, chúng ta sẽ luôn sống hiệp thông được với những người đã khuất và liên kết trong tình huynh đệ với những người đang sống, bởi vì chúng ta đầy Thần khí Đức Giêsu Kitô.

Lạy Đức Giêsu Kitô, xin Chúa cho chúng con nhận biết mình là những tạo vật có cuộc sống mong manh nay còn mai mất để chúng con biết luôn luôn cậy nhờ vào sức mạnh của tình yêu nơi trái tim Chúa trong đời sống hàng ngày của chúng con. Xin cho chúng con được hiệp thông với những người đã qua đi bằng cách biết yêu thương những người đang sống với chúng con trong đời sống hôm nay, và chính nhờ tình yêu Chúa trong chúng con mà biết yêu mến những người đã ra đi trước. Chúng con yêu mến các linh hồn ấy bằng lời cầu nguyện, bằng Thánh lễ và bằng mọi việc yêu thưong bác ái hằng ngày trong sự kết hợp với Chúa Giêsu Kitô chứ không phải trong bản chất yếu đuối của chúng con. Amen

 

VỀ MỤC LỤC
Tri thức và khai sáng

Nguyên tác: Taking Flight - Bay Lên Đi

Tác giả: Anthony de Mello, S.J.

Chuyển ngữ: Lm. Minh Anh (Gp. Huế)

Chỉ dẫn: 

Tốt nhất, các câu chuyện sẽ được đọc theo thứ tự như đã sắp xếp. Mỗi lần đọc không quá một hoặc hai mẩu chuyện nếu bạn ước ao có được một cái gì đó hơn là chỉ giải trí.

Lưu ý: 

Các chuyện kể trong tập sách này đến từ nhiều đất nước, nhiều nền văn hoá và tôn giáo khác nhau; chúng thuộc về những di sản thiêng liêng, những câu chuyện hài hước được ưa chuộng của dòng đời nhân loại. 

Những gì tác giả làm là xâu kết chúng lại với nhau theo một ý hướng đặc thù. Công việc của tác giả là công việc của người thợ dệt và thợ nhuộm, tác giả chẳng có công trạng gì về những tấm vải và những sợi chỉ.  

LTS. Chỉ dẫn và lưu ý trên đây là của tác giả. Tuy nhiên, vì Đặc San GSVN chỉ phát hành 2 tuần một lần nên mỗi số báo BBT xin giới thiệu trung bình từ 5 đến 7 mẫu chuyện. Bạn đọc có thể lưu lại để nghiền ngẫm suy tư.

 

Chủ đề : TÔN GIÁO (tiếp theo)

 

81. Tri thức và khai sáng

Môn đệ: Sự khác biệt giữa tri thức và khai sáng là gì?

Thầy: Khi có tri thức, anh dùng ngọn đuốc để chỉ đường. Khi được khai sáng, anh trở thành ngọn đuốc. 

ڰ 

82. Nhận ra giáo sĩ 

Một người nhảy dù lao ra khỏi máy bay vào một ngày trở gió bị một cơn bão lớn thổi ra khỏi lộ trình một trăm dặm. Dù của anh mắc kẹt trên một cành cây ở một nơi xa xôi hẻo lánh, vì thế anh bị treo đó hàng giờ, kêu cứu. 

Cuối cùng ai đó đi ngang qua. “Anh trèo lên cái cây đó bằng cách nào?” người ấy hỏi. 

Người nhảy dù trả lời. Rồi hỏi, “Tôi đang ở đâu?”.

“Trên cây”, người ấy đáp.

“Ồ, chắc ông là một giáo sĩ!”.

Người lạ mặt hốt hoảng. “Vâng. Sao anh biết?”.

“Bởi vì những gì ông nói thì dĩ nhiên đúng và vô dụng nữa”. 

ڰ 

83. Bản “Violin”

Một nhóm đang thưởng thức âm nhạc tại một nhà hàng Trung Hoa. Đột nhiên, nghệ sĩ độc tấu chơi một giai điệu khá quen thuộc; mọi người nhận ra giai điệu ấy nhưng không ai có thể nhớ tên của nó. Vì thế họ vẫy gọi người hầu bảnh bao và yêu cầu anh ta tìm xem nhạc sĩ đang chơi bài gì. Anh hầu đi núng nính trên sàn nhà, rồi trở lại với vẻ mặt chiến thắng và khẽ công bố, “Violin!” 

Sự đóng góp của học giả cho linh đạo! 

ڰ

84. Xúp gà 

Vỡ kịch đang diễn ra ở một sân khấu làng quê khi màn đột nhiên hạ xuống và người quản lý bước ra trước khán giả. 

“Thưa quý ông và quý bà”, ông nói, “tôi lấy làm đau buồn thông báo cho quý vị biết, nam diễn viên chính, một con người vĩ đại, đáng được chúng ta yêu mến vừa bị một cơn đau tim nguy tử trong phòng diễn viên. Vì thế, chúng tôi buộc phải ngưng vỡ kịch”. 

Nghe thông báo này, một phụ nữ trung niên đồ sộ ở hàng trước đứng dậy và la lớn đầy kích động, “Nhanh lên! Hãy cho anh ta dùng xúp gà!”. 

“Thưa bà”, người quản lý nói, “cơn đau tim rất nguy kịch. Anh ta sắp chết!”.

“Thế thì cho anh ta ăn xúp gà ngay lập tức!”.

Người quản lý bồn chồn. “Thưa bà”, anh ta biện hộ, “xúp gà thì có lợi gì cho một người sắp chết?”. 

“Thế thì nó có hại gì?”, bà la lên.

Xúp gà cho người chết là những gì tôn giáo dành cho người vô ý thức, than ôi, họ rất đông. 

ڰ 

85. Tự phụ 

Một vị thầy ngạc nhiên nghe tiếng la hét và cãi cọ trên sân nhà mình. Người ta cho thầy hay, một trong những đồ đệ của mình đang ở giữa sân. Ông sai một người đến và hỏi nguyên nhân. 

“Có một đoàn học giả đến thăm thầy. Con bảo họ đừng phí thời giờ với một người đầu đầy sách vở và tư tưởng, nhưng không có một chỗ cho sự khôn ngoan. Đây là những người mà theo sự kiêu ngạo của mình, tạo ra những học thuyết và sự chia rẽ giữa thiên hạ khắp nơi”. 

Thầy cười. “Quả thực, quả thực”, ông lẩm bẩm.

“Nhưng hãy cho tôi hay, không phải sự kiêu căng của cậu khi tuyên bố mình khác biệt với các học giả là nguyên nhân của cuộc xung đột và chia rẽ hiện tại sao?”. 

ڰ

VỀ MỤC LỤC
CÁC KHỦNG HOẢNG CÓ THỂ XẢY RA TRONG ĐỜI SỐNG VÀ SỨ VỤ LINH MỤC GIÁO PHẬN

 

BẢN THẢO

ỨNG SINH LINH MỤC HỌC & SỐNG LINH ĐẠO LINH MỤC GIÁO PHẬN

GIÁO TRÌNH TU ĐỨC LỚP THẦN II & III

ĐẠI CHỦNG VIỆN THÁNH GIUSE HÀ NỘI 

2011-2012

 

CHƯƠNG HAI

ỨNG SINH LINH MỤC GIÁO PHẬN

HỌC VƯỢT LÊN KHỦNG HOẢNG VÀ TÁI ĐỊNH HƯỚNG ĐỜI SỐNG VÀ SỨ VỤ ƠN GỌI LINH MỤC (tiếp theo)

 

C. CÁC KHỦNG HOẢNG CÓ THỂ XẢY RA TRONG ĐỜI SỐNG VÀ SỨ VỤ LINH MỤC GIÁO PHẬN

 

“Chẳng lẽ Thiên Chúa lại không minh xét cho những kẻ Người đã tuyển chọn, ngày đêm hằng kêu cứu với Người sao? Lẽ nào Người bắt họ chờ đợi mãi? Thầy nói cho anh em biết, Người sẽ mau chóng minh xét cho họ. Nhưng khi Con Người ngự đến, liệu Người còn tìm thấy lòng tin trên mặt đất nữa chăng?”[329] 

C.1. Các cơn khủng hoảng có thể

Chúng ta có thể nói rằng khủng hoảng là một hiện tượng đặc trưng cho nhân loại qua dòng những thập kỷ này. Ngày nay người ta nói đến khủng hoảng năng lượng (dầu mõ, khí đốt), khủng hoảng chính trị (thay đổi quyền lực đột ngột và cực đoan), khủng hoảng sinh thái (giảm thiểu tầng ozone và quả địa cầu nóng lên), khủng hoảng kinh tế (nạn lạm phát và thất nghiệp), khủng hoảng đạo đức (áp đặt một nền đạo đức là kết quả những cuộc thăm dò đại đa số), khủng hoảng đức tin (những gì che đậy đàng sau sinh hoạt tôn giáo), khủng hoảng lãnh đạo (thiếu năng lực, phẩm chất, nhất là thiếu sự đồng nhất trong lời nói việc làm và cuộc sống), khủng hoảng ơn gọi (thiếu ơn gọi giáo sĩ và sự không ổn định của giới trẻ), khủng hoảng đời tu (sự tàn lụi của các Dòng lớn và những cộng đoàn đặc sủng cá biệt, và sự phát sinh những phong trào tông đồ mới), khủng hoảng căn tính linh mục (gương xấu lạm dụng ở nhiều nơi)…

 

Tuy nhiên, chúng ta cũng phải nhìn nhận rằng các khủng hoảng cũng là một dữ kiện sinh tồn. Có khủng hoảng tất nhiên đòi hỏi phải có những tiêu chuẩn giải quyết: chúng ta phải mở ra với thế giới đang đổi thay, nhưng phải tránh cơn cám dỗ khuôn đúc theo thế giới này, đồng thời phải chuyển tải cái nhân Phúc Âm đến cho một thế giới đang thực sự cần nó. Cái nhân Phúc Âm này không phải là một giáo thuyết mà là một con người: Chúa Giêsu Kitô, linh mục thượng phẩm và là Thầy duy nhất của chúng ta. Đặt trọng tâm nơi Chúa Giêsu, “vẫn là một hôm qua, hôm nay và mãi mãi[330] là cách thế duy nhất để vượt lên khủng hoảng, tái định hướng đời sống và sứ vụ ơn gọi của mình hầu trở nên môn đệ đích thực.

 

Có thể nói ý niệm “mọi sự đều có lúc, mọi việc đều có thời” của sách Giảng Viên cũng nói lên chiều kích tích cực của các cơn khủng hoảng trong cuộc đời con người:

 

“Một thời để chào đời, một thời để lìa thế ;
một thời để trồng cây, một thời để nhổ cây ;
một thời để giết chết, một thời để chữa lành ;
một thời để phá đổ, một thời để xây dựng ;
một thời để khóc lóc, một thời để vui cười ;
một thời để than van, một thời để múa nhảy ;
một thời để quăng đá, một thời để lượm đá ;
một thời để ôm hôn, một thời để tránh hôn ;
một thời để kiếm tìm, một thời để đánh mất ;
một thời để giữ lại, một thời để vất đi ;
một thời để xé rách, một thời để vá khâu ;
một thời để làm thinh, một thời để lên tiếng ;
một thời để yêu thương, một thời để thù ghét ;
một thời để gây chiến, một thời để làm hoà.”
[331]

 

Chúng ta nói qua một số khủng hoảng liên quan gần gũi với đời sống ơn gọi và sứ vụ của chúng ta:

 

 

C.1a. Khủng hoảng tự nhiên về thể lý và sinh lý  

Thông thường cứ 7 năm một lần, tất cả mọi tế bào trong cơ thể đều được thay thế để tăng trưởng. Vấn đề sinh lý cũng thế qua từng giai đoạn của tuổi đời, các tuyến nội tiết và các loại hooc-môn cũng phát sinh và bị kích thích trong lãnh vực tình cảm tính dục thông thường tự nhiên: Ai dạy cho khỉ biết leo cây? mà người đời hay ví von “trong lòng không có biển mà vẫn có sóng.”  Ngày nay trẻ trưởng thành sinh học sớm hơn và có những lúc không nhận ra những cơn sóng nguy hiểm, mà cứ coi thường đứng xem… (Đường êm quá ta đi mà quên ngó, đến khi hay gai nhọn đã vào thấu xương!) đến khi nhận ra nguy hiểm thật sự, thì sợ chạy trốn cũng không còn kịp nữa !!! Sóng sẽ vùi dập… Vì thế Chúa Giêsu căn dặn “Hãy tỉnh thức và cầu nguyện luôn để khỏi sa chước cám dỗ, tinh thần thì nhẹ nhàng chóng vánh, nhưng xác thịt lại nặng nề yếu đuối…”

C.1b. Khủng hoảng đức tin

Thế giới hôm nay đang chối bỏ Thiên Chúa nhưng lại đang cần đến Thiên Chúa nhất. Cái thế lưỡng nan đó gây nên khủng hoảng đức tin. Nhiều khi có sự chênh lệch đáng buồn giữa giáo thuyết và đời sống thực hành tôn giáo, ảnh hưởng những tư tưởng thần học cấp tiến, hoặc những trào lưu tư tưởng dân chủ tự do thế tục và những đợt sống mới đã gây nên những cuộc khủng hoảng đức tin, nhất là nơi giới trẻ. Tình trạng đau khổ và bất công trong xã hội, và cả Giáo Hội nữa, cũng mang lại những cái thuận lợi và cái nguy hiểm cho đức tin.

 

Một điều may mắn là những thử thách đau khổ có thể kéo con người đến gần Thiên Chúa, vì không còn có thể tin tưởng cậy trông ai ngoài Chúa:

 

Âu là Thánh Ý Chúa Trời
Giúp con lột bỏ một đời bơ vơ
Còn ai ngoài Chúa mà mơ
Cuối đường Chúa đứng đợi chờ đỡ nâng
Chúa ôi! Thôi thật “xin vâng”
Cạn tàu ráo máng xin dâng cho Ngài.

 

Nhưng mối nguy hiểm là những thử thách đau khổ cũng có thể đẩy con người xa Ngài, vì không lý giải được những đau khổ bất công bản thân cũng như những người vô tội phải gánh chịu, những nghịch lý và ngôn hành bất nhất trong Giáo Hội và do người của Giáo Hội, điều mà Chúa Giêsu đã ân cần cảnh báo các môn đệ: “Vậy, những gì họ nói thì anh em hãy làm, hãy giữ; nhưng đừng theo hành động của họ vì họ nói mà không làm.[332] 

 

Trong trạng huống này, chúng ta hãy nhớ lại câu chuyện của ông Gióp và lời ông Gióp: “Chúng ta đã đón nhận điều lành từ bàn tay Thiên Chúa, còn điều dữ lại không biết đón nhận cũng từ bàn tay Ngài sao? Vậy, “ngày gặp vận may đừng quên ngày bất hạnh, và ngày gặp bất hạnh đừng quên đi vận may” và ông không để môi miệng thốt ra lời tội lỗi (G 2,10). Thánh Grêgôriô Cả Giáo Hoàng khuyến cáo “ai nhận ơn lành mà không canh phòng thử thách mà cứ tự mãn tự kiêu sẽ có ngày té nhào, còn ai bị thử thách nghiền nát mà lấy những ơn lành đã lãnh nhận làm nguồn an ủi thì gánh nặng thử thách sẽ nhẹ hơn, không đến đỗi thất vọng ê chề và tâm hồn mất bình an.[333]

 

Chúa Giêsu đã nói với Phêrô: “Ma quỉ đòi sàng các con như sàng gạo, và Thầy đã cầu nguyện cho con khỏi vấp ngã; nhưng khi chỗi dậy, con hãy củng cố đức tin của anh em con.” Mỗi người chúng ta có bổn phận củng cố đức tin cho nhau, và nhất là cho những người yếu hơn chúng ta mà chúng ta hiện có trách nhiệm hay sẽ được giao phó cho chúng ta sau này. ĐTC Phaolô VI nói rằng người thời nay nghe theo các chứng nhân hơn là thầy dạy, và nếu họ nghe theo các thầy dạy thì bởi vì các thầy dạy đó là những chứng nhân. 

Bức thư ngắn sau đây của ông G. Banner gửi cho một giáo sĩ đáng cho chúng ta suy nghĩ: “Thưa cha, tôi muốn thấy một bài giảng, hơn là nghe một bài giảng mỗi ngày. Tôi muốn cha cùng đi với tôi, chứ không chỉ đường cho tôi mà thôi. Con mắt là một học trò giỏi và thông minh hơn lỗ tai. Lời khuyên thâm thúy vẫn khó hiểu, nhưng gương mẫu ăn ở bao giờ cũng rõ ràng. Tốt hơn hết là cha thực hành điều cha tin đi, vì ai cũng thấy việc lành cha thực hiện. Nếu tôi thấy cha làm, tôi có thể tập làm theo rất nhanh chóng. Những bài của cha có lẽ rất khôn ngoan, xác đáng và hấp dẫn, nhưng tôi muốn học tập đương lúc xem cha thực hành. Vì tôi có thể hiểu sai lời giảng của cha, nhưng tôi không bao giờ hiểu sai cách làm việc và cách cư xử của cha. Kính chào cha, G. Banner.”[334]

Quả thật lời nói lung lay gương bày lôi kéo. Những lời này cũng cảnh tỉnh chúng ta, nhất là những ai có trách nhiệm và thẩm quyền trên kẻ khác.

 

C.1c. Khủng hoảng trong các tương quan

 

C.1c.1) Khủng hoảng quyền bính

 

Khủng hoảng đức tin kèm theo khủng hoảng quyền bính: “Hãy nghe lời họ nói, nhưng đừng bắt chước việc họ làm”; “Họ chất gánh nặng lên vai kẻ khác còn họ không giơ ngón tay lay thử”; “Họ giết chết các con mà tưởng là làm vinh danh Chúa”… Người Việt Nam bị trị thách thức: “Làm quan hãy xét cho dân, không tin ngài xuống ngài mần ngài coi”. Tình trạng này dẫn đến tình trạng vâng mà không phục, bằng mặt mà không bằng lòng.  

Giáo Hội được Chúa Kitô thiết lập trên nền tảng các tông đồ, được tuyên xưng là công giáo, thánh thiện và tông truyền. Mọi quyền bính đều phát xuất từ Thiên Chúa nên sứ vụ giảng dạy, thánh hóa và điều khiển Dân Chúa của Giáo Hội dựa trên thần quyền: “Phêrô, Thầy sẽ trao cho anh chìa khoá Nước Trời: dưới đất, anh cầm buộc điều gì, trên trời cũng sẽ cầm buộc như vậy; dưới đất, anh tháo cởi điều gì, trên trời cũng sẽ tháo cởi như vậy” (Mt 16,19). Quyền này cũng được chuyển cho các tông đồ khác, và định chế do quyết định này cũng mở rộng đến mọi Giám mục trong Hội Thánh.[335] Quyền bính Giáo Hội có tính cách tập trung từ trên xuống dưới và sự vâng phục cũng có tính cách tuyệt đối. Tuy nhiên, nền tư pháp và kỷ luật của Giáo Hội không chỉ có tính biện pháp chế tài, mà còn nhằm biến đổi, sửa chữa và đào tạo nên tốt, tin tưởng vào lòng nhân hậu của Chúa rằng mỗi vị thánh đều có một quá khứ và mỗi tội nhân đều có một tương lai, như ĐGH Alexander nói: “Bản chất con người là lầm lỗi và bản chất Thiên Chúa là tha thứ.”

 Từ cái thần quyền và tuyệt đối từ trên xuống dưới đó đã tạo nên sự “vâng lời tối mặt” suốt bao nhiều thế kỷ. Cuộc canh tân của Công Đồng Vaticanô II mở ra con đường vâng phục đối thoại và trưởng thành, nghĩa là khi truyền xuống mệnh lệnh, Bề trên cho phép và lắng nghe bề dưới đối thoại, trình bày mọi lý do, quan điểm và lập trường, kể cả có khi ngược lại ý Bề trên, Bề trên cũng nhẫn nại giải thích, thuyết phục, và cùng bề dưới cầu nguyện để tìm ý Chúa… Nhưng lời nói cuối cùng vẫn luôn luôn là của Bề trên. Và dù quyết định cuối cùng đó có nghịch lại ước vọng của bề dưới, thì bề dưới cũng sẽ vâng phục với tinh thần đức tin và siêu nhiên, vì cảm thấy thỏa mãn được nhu cầu được nói, được trình bày, được giải thích, được biện hộ, được lắng nghe…

Thế nhưng tâm thức con người thời đại vẫn không ngừng tiến hóa và phát triển theo hướng tự do thế tục và chủ nghĩa cá nhân, nên chúng ta thấy trong thế giới, trong Giáo Hội hoàn vũ cũng như tại Việt Nam thời gian qua có những hiểu lầm và thái quá, thể hiện nơi các phát biểu và tranh cãi thiếu kính trọng trên các phương tiện truyền thông, gây tổn thương và xúc phạm đau lòng làm suy giảm uy tín và chứng tá Tin Mừng của Giáo Hội, do cái nhìn và quan điểm chính trị [thoả hiệp, đối thoại bằng mọi giá, đối thoại chứ không đối đầu, hợp tác quốc doanh…]. Dĩ nhiên bên nào cũng có cái lý chủ quan của mình, muốn xây dựng và bảo vệ Giáo Hội theo cách nhìn cách nghĩ phiến diện và một chiều của mình, mà không thấy được những thiếu sót khách quan có thể gây nguy hại rất lớn. Chính ĐTC Biển Đức XVI, trong thư gửi Giáo Hội Ái Nhĩ Lan, đã than phiền về “một sự bận tâm không đúng chỗ cho thanh danh của Giáo Hội và một ưu tư mang tính lạm dụng nhằm bảo vệ tiếng tăm của Giáo Hội khỏi những vụ tai tiếng, để tránh những gương xấu,” thậm chí vì vậy mà có những điều nói không đúng sự thật và bất công, khiến có những bức xúc mạo phạm, nhất là trên các trang mạng internet, dễ bị kế hoạch của Thần Dữ lợi dụng, mà không ai chịu cố gắng trả lời nghiêm túc câu hỏi của Chúa Cứu Thế: “Tinh thần nào đang xúi đẩy các con?” 

Chính TGM Diarmuid Martin, giáo phận Dublin, Ái Nhĩ Lan, đã thẳng thắn và mạnh bạo nói rằng cuộc khủng hoảng sâu xa nhất của Giáo Hội là sự đánh mất đức tin: nhiều lãnh đạo Giáo Hội đã sai sót sâu xa trong các bổn phận mục tử của mình; hơn thế nữa, còn tỏ ra kiêu căng và sính quyền bính, cách hành động nghịch lại sứ điệp Tin Mừng làm tín hữu xa lánh. Những sai sót và lạm dụng đó làm Giáo Hội mất đi uy tín xã hội và sự đáng tin cậy của mình… Khả năng giải quyết vấn đề là trở lại với câu hỏi nền tảng “Chúa Giêsu là Ai?” Nhiều người ở nhiều lứa tuổi không còn biết thực sự Chúa Giêsu là ai. Chúng ta không tạo nên căn tính của Chúa Giêsu, nhưng chúng ta lại làm tổn hại tính toàn vẹn của mầu nhiệm Giêsu. Chỉ có việc tái khám phá lời mời gọi theo Ngài của Chúa Giêsu cho chúng ta tìm được chỗ đứng của mình, bằng cách trở lại với các chân lý không thay đổi của đức tin..”[336]

Cha Lombardi, phát ngôn viên của Tòa Thánh đã cho biết Đức Thánh Cha đã nhiều lần nói rằng những nguy hiểm và các cám dỗ nghiêm trọng nhất đối với Hội Thánh ở ngay trong lòng Hội Thánh. Trong những thời kỳ khó khăn, như những thời kỳ chúng ta đang trải qua, thì những căng thẳng từ bên ngoài đưa vào tạo điều kiện cho những căng thẳng bên trong nổi lên, góp phần vào việc gieo rắc thêm hỗn loạn và bất ổn… Trong giai đoạn xung khắc và ngờ vực nầy, thế giới đang chờ đợi nơi các Kitô hữu một chứng từ về sự hoà thuận nẩy sinh từ cuộc gặp gỡ của họ với Chúa Kitô phục sinh, là căn nguyên sự tương trợ của họ, để xã hội nầy cũng tìm thấy được con đường đúng đắn cho tương lai.[337] Để đạt được điều đó, ĐTC Biển Đức XVI dạy “Mọi tín hữu đều được mời gọi… củng cố các mối liên hệ hiệp thông giữa họ và thực hiện một sự hoán cải cá nhân và cộng đoàn liên lỉ… vì bổn phận truyền giáo không phải là cách mạng hóa thế giới, nhưng là biến đổi thế giới, múc lấy sức mạnh của Chúa Giêsu Kitô, Đấng triệu mời chúng ta đến bàn tiệc Lời Chúa và Thánh Thể[338] 

Khi nói ở Nhà thờ Chính tòa Hà Nội, cũng như khi trả lời hãng thông tấn “Các Giáo Hội Á châu”, Đức Cha Phó Chủ tịch HĐGMVN, Giuse Nguyễn Chí Linh, nói rằng ngày nay các Giám Mục đã có thể nghe được tiếng nói của dân Chúa. Nhờ truyền thông thời đại mới và internet, cũng như trình độ văn hóa của giáo dân cao hơn, họ có thể theo dõi thời sự, biết nhiều tin tức về Giáo hội, họ có thể bày tỏ ý kiến một cách dễ dàng hơn, tiếng nói của giáo dân và các lời tuyên bố của họ có thể được nghe thấy, và các nhà lãnh đạo của bất cứ tổ chức nào, xã hội cũng như Giáo hội, phải lắng nghe và lắng nghe một cách chăm chú hơn.[339] Điều đó đúng, nhưng phải nói trong sự kính trọng, đúng sự thật, đúng người, đúng việc và đúng nơi, thì mới có tính cách xây dựng tích cực, chứ ngược lại là tai hại và có thể đắc tội.

 

Nhưng để việc đó được thực hiện tốt, thì cả hai phía lãnh đạo Giáo Hội cũng như giáo dân đều phải có một quyết tâm chung là trung thành với Chúa và nên thánh, như ĐTC Biển Đức XVI, trong sứ điệp ngày 4/8/2010 do ĐHY Bertone chuyển đến Đại hội Hiệp sĩ Colombo tại Washington DC, đã nói rằng “đối diện với những tấn công bất công và vô căn cứ nhằm vào Giáo Hội và các lãnh đạo Giáo Hội thì câu trả lời hiệu quả nhất là lòng trung thành lớn lao hơn với Chúa Kitô và Lời Chúa, cùng với quyết tâm hơn để theo đuổi sự thánh thiện và gia tăng dấn thấn cho đức ái trong sự thật về phía tất cả các tín hữu.[340 

Ai cũng thấy rằng tình trạng này cần phải được thay đổi, thay đổi về phía trên cũng như về phía dưới. Nếu mà trên và dưới có thể xích lại gần nhau, nghe nhau, hiểu nhau, vượt lên được những khác biệt và khó khăn cá nhân để cùng tìm một mẫu số chung là vì Chúa, vì Giáo Hội và vì các linh hồn thì không việc gì mà không giải quyết thỏa đáng được cả. Nhưng nhiều khi việc đối thoại không dễ và thật khó mà thấy được rằng phải bắt đầu thay đổi từ chính bản thân mình, về phía các lãnh đạo cũng như về phía giáo dân và những người cấp dưới. Và phải thay đổi trước khi bị bó buộc phải thay đổi, sợ e quá muộn đi chăng, vì nếu không thay đổi được lập trường của một người thì người ta sẽ tìm cách thay đổi (thay thế) con người đó, ít ra là làm vô hiệu hóa ảnh hưởng của con người đó.[341] Tuy nhiên, lời Chúa trong thứ thứ hai của thánh Gioan Tông đồ thánh sử là một cái phanh cần thiết cho chúng ta: “Phàm ai đi quá xa và không ở lại trong giáo huấn của Chúa Kitô, thì người ấy không có Chúa Cha và Chúa Con.[342]

Lời tuyên bố của các Giám mục Nam Phi cho chúng ta thêm một chỉ dẫn: “Khi giải thích những dấu chỉ thời đại và phân tích Thánh ý Chúa dưới sự hướng dẫn của Chúa Thánh Linh, thì những bất đồng có thể nẩy sinh ngay cả giữa các giám mục. Điều nầy đòi hỏi lòng bao dung và sự nhạy bén… Chúng tôi tin tưởng rằng các vị lãnh đạo Giáo Hội, dù là Giáo Triều Rôma hoặc các giám mục địa phương của một quốc gia, là những người liêm chính luôn cố gắng trung thành với Phúc Âm, mặc cho tính yếu đuối mỏng dòn con người và trong một số trường hợp ngoại lệ, còn có cả những sai sót con người lớn lao… thì chắc chắn thỉnh thoảng những căng thẳng có thể xảy ra. Trong trường hợp như vậy, chủ yếu phải tiếp tục bàn bạc một cách khiêm nhường… Chúng tôi mời gọi tất cả các tín hữu Công giáo cũng dũng cảm như thế trong việc ủng hộ giáo huấn tín lý, xã hội và luân lý của Giáo Hội. Làm như vậy là một phần cốt yếu của sứ mạng rao giảng Phúc Âm của Giáo Hội để làm thay đổi xã hội.”[343]

Chúng ta phải thực sự trở về nguồn Phúc Âm của Chúa Giêsu để có một cái nhìn đúng đắn về quyền bính của Chúa Giêsu, Đấng đã phán “Trong anh em, người làm lớn hơn cả, phải làm người phục vụ anh em.”[344] Và cùng nhau sửa chữa lại tệ hại thần thánh hoá hàng lãnh đạo, vì do sự thần thánh hóa đó mà nảy sinh lối sống và tương quan lệch lạc, bất cập hoặc thái quá. Ngày nay có nhiều sự kiện khiến cả hai phía bớt dần cái nhìn thần thánh hóa ấy: Giáo Hội Mỹ đã phải chi ra hơn 2  tỷ đôla bồi thường thiệt hại do một số giám mục, linh mục trong các vụ án lạm dụng tình dục. ĐHY Bernard Law đã mất chức TGM Boston vì bao che những vụ lạm dụng của các linh mục dưới quyền. Giáo Phận San Diego là giáo phận thứ 5 của Mỹ phải khai phá sản để tránh những vụ kiện liên quan đến lạm dụng tình dục của các giáo sỹ. Giáo Phận Orange có đông tín hữu Việt Nam cũng phải chi 100 triệu để bồi thường, nhưng rồi ngày 6 tháng 9 năm 2007, tòa án lại đòi GM Tod Brown và GM Hồi Hưu Norman McFarland ra trả lời tiếp về những cáo buộc liên quan. Ngoài ra, hình ảnh của những linh mục, giám mục làm tay sai cho Cộng Sản Ba Lan trước đây cũng đã bị bạch hóa cho thấy quan niệm thần thánh hóa ấy là một quan niệm và lối sống đạo không trưởng thành.[345] 

Mới đây, Bộ Tu Sĩ ban hành Huấn thị “Phục Vụ Quyền Bính và Vâng Phục[346] coi đức vâng lời là một hành trình cùng tìm kiếm Chúa và ý Chúa, nghe Lời Chúa và trở nên ý thức đối với ý định tình yêu của Chúa. Văn kiện khuyên vâng lời cách thanh thản và vì đức tin, đồng thời cũng cống hiến và liên kết các chỉ dẫn cho việc thực thi quyền bính như mời người ta lắng nghe, ủng hộ đối thoại, chia sẻ, đồng trách nhiệm, đối xử đầy lòng thương xót… Huấn thị này nói với Bề trên hơn là với bề dưới, khi đề cập đến phẩm chất và các điều kiện để Bề trên có thể thi hành tốt nhiệm vụ, như có khả năng tinh thần và khả năng hiểu biết tương ứng với thời đại, đời sống nội tâm sâu xa dưới sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần, nghĩa là mỗi người tham gia vào công cuộc lãnh đạo, dù ở cấp độ nào, đều phải nỗ lực canh tân, điều chỉnh bản thân mình cho phù hợp với các tiêu chí lãnh đạo, khiến bề dưới có thể vâng lời cách dễ dàng hơn. Mỗi người trong chúng ta cũng không quên liên tưởng đến chính mình trong đó. 

Tôi có một kinh nghiệm bản thân khi vừa làm Giám học trường Trung học Tam Giang vừa làm chủ nhiệm lớp 8B: lúc giải quyết việc đột xuất cho một giáo viên ở hành lang, lớp tôi rất ồn ào. Xong việc vừa quay vào, một cây cà-rem được ném lên bảng đen. Tôi nghiêm nét mặt hỏi và trò Sáu cho biết do trò Trang ném. Mất bình tĩnh vì tức giận, tôi gọi trò Trang lên giữa lớp tát ba cái thật mạnh va đầu vào bảng đen. Học trò ai cũng sợ, lớp học im lặng, riêng trò Trang đang suy tính tìm cách trả thù. Tôi thấy trong giờ giải lao, Trang đi tìm một cái gì đó trong sân cỏ. Trước khi tan học, tôi linh cảm một điều chẳng lành nên mời Trang về phòng tôi: Trang giữ trong tay một mũi sắt nhọn. Tôi kéo ghế mời Trang ngồi suy nghĩ. Sau 15 phút tôi hỏi Trang “có tức thầy không? – tức; có thù Sáu không? – thù.” Hai lần 15 phút trôi qua, vẫn các câu hỏi và trả lời ấy. 

Tôi bắt đầu lo và cầu nguyện, rồi đến bên cạnh, đặt tay lên vai Trang, tôi nói: “Trang ơi, thầy xin lỗi, con tha thứ cho thầy nhé!” Quá bất ngờ, Trang xúc động khóc rồi nói “không, con có lỗi.” – “Vâng, con có lỗi, nhưng lỗi thầy lớn hơn, vì thầy đã trị lỗi con trong khi thầy quá nóng giận. Con tha lỗi cho thầy nghe.” Để Trang qua hết cơn xúc động, tôi hỏi: “Trang còn tức thầy không? –Dạ hết; con còn thù Sáu không? – Dạ hết.” Tôi cám ơn Trang và tiễn trò ra về. Hôm sau đi học, ai cũng ngán cái đầu gọt tóc trọc lóc của Trang. Nhưng thật ra đó là quyết tâm đổi đời của Trang. Từ đó, Trang học hành tử tế, thân ái với mọi người, lại là cầu nối cho tôi sinh hoạt với Gia Đình Phật Tử Hương Từ. 

Bẵng đi một thời gian dài, chúng tôi tình cờ gặp lại trên một đoạn đường sắp có giao tranh. Trang chỉ huy một đoàn quân, một tay lăm lăm cò súng, tay kia ra hiệu cho tôi dừng xe lại. Tôi quạt lá gan vì sợ… Hóa ra là Trang. Trang thân thiện chào tôi và nói vắn tắt: “Thầy, con luôn nhớ thầy, nhờ thầy mà con có ngày hôm nay. Xin thầy đi nhanh đi, nguy hiểm lắm, chúng con sắp đánh nhau…” Tôi luôn tự hỏi “nếu tôi không nhận ra lỗi của mình và xin lỗi Trang thì cái gì đã xảy ra?” Và tôi xác tín rằng “lời xin lỗi của kẻ trên có tác dụng rất mạnh… nhưng liệu có mấy bề trên dám xin lỗi bề dưới?!” Tôi cũng nhận thấy rằng đừng làm ai phải xấu hổ trước tập thể, dù là để trừng phạt hay sửa lỗi bề dưới, vì “xấu quá thì hóa giận, mà giận quá thì hóa thù”, huống gì là làm mất thể diện và thanh danh của Bề trên. Tuy nhiên, chúng ta đừng đòi hỏi người khác, nhất là Bề trên, một lời xin lỗi rõ ràng; song hãy bằng lòng với một thái độ thân thiện hoặc một bù đắp nào đó của họ, coi như đó là cách xin lỗi và lời xin lỗi của họ vậy.

 

C.1c.2) Khủng hoảng tình cảm

Sách Diễm Ca nói rằng: “Tình yêu mãnh liệt như tử thần, cơn đam mê dữ dội như âm phủ. Lửa tình là ngọn lửa bùng cháy, một ngọn lửa thần thiêng. Nước lũ không dập tắt nổi tình yêu, sóng cồn chẳng tài nào vùi lấp.”[347] Những hấp dẫn, khao khát tự nhiên của tình yêu con người dễ bộc lộ mãnh liệt hơn nữa như một thứ bù trừ khi gặp đau khổ, buồn phiền, oan ức, chán nản, tuyệt vọng, vì mọi thân xác đều có tính dục và mọi tương quan đều có tính cách phái tính.

 

Có một dữ kiện tâm sinh lý cần phải được quan tâm đến ngày nay là sự hấp dẫn tính dục. Có sức hấp dẫn tính dục hay bị hấp dẫn tính dục đều là nguy hiểm đối với một con người, dù là người bình thường hay là người ngay chính và cả người tu hành, coi chừng kẻo bị tấn công. Chúng ta có thể bị người khác hấp dẫn tính dục như bà Bersabê vợ ông Uria đối với Vua Đavid, và chúng ta cũng có thể trở thành hấp dẫn tính dục đối với người khác như Giuse Ai cập đối với bà vợ nhà quan, dù người đó ở đời hay đi tu, còn độc thân hay đã có gia đình. Bao nhiêu người đã liều mình sa ngã khi gặp phải hoàn cảnh ấy mà không chạy đến với nguồn trợ lực thiêng liêng nơi sự hiện diện của Chúa (x. Câu chuyện “một nơi nào thật kín không ai nhìn thấy” của thầy Dòng nọ).

 

Thánh Kinh hằng nhắc nhở “Hỡi ai nghĩ mình đang đứng vững, hãy coi chùng kẻo ngã.[348] Anh hùng cũng không tránh khỏi cảnh “ngã đau” vì nhi nữ thường tình. Cây bách cây tùng nhiều khi còn bị đốn ngã, huống là là cây lau cây sậy! Trường hợp Salomon là một điển hình: “Vua Salômôn nắm quyền trị nước trong thời bình, Thiên Chúa đã cho ông được bốn bề yên ổn để ông dựng một ngôi nhà dâng kính Thánh Danh, và chuẩn bị xây một đền thánh bền vững muôn đời. Ngài khôn ngoan biết bao ngay từ thời niên thiếu, ngài thông minh dường nào tựa dòng sông đầy ngập! Sự hiểu biết của ngài bao trùm mặt đất, dụ ngôn và ẩn ngữ của ngài lan truyền khắp mọi nơi. Danh tiếng ngài vang đến tận các đảo xa vời, vì hiếu hoà, ngài được người người mến chuộng. Các bài ca, châm ngôn và dụ ngôn cũng như các lời giải thích của ngài khiến mọi xứ phải trầm trồ khen ngợi. Nhân danh Đức Chúa là Thiên Chúa, Đấng được gọi là Thiên Chúa của Israel, ngài đã gom vàng như đống sắt, đã chất bạc như đống chì. Thế mà ngài đã trao thân cho bọn đàn bà con gái, biến thân xác ngài thành nô lệ. Ngài đã bôi nhọ vinh quang, làm ô danh dòng dõi khiến cơn thịnh nộ giáng xuống trên con cháu và họ phải khổ đau vì sự điên dại của ngài.”[349]

 

Trong lãnh vực này không ai được phép cho rằng mình mạnh cả. Thánh Phaolo đã tâm sự: “Có ai trong anh em yếu đuối mà tôi không cảm thấy yếu đuối; có ai trong anh em sa ngã mà tôi không cảm thấy như thiêu như đốt?” Và chính Chúa Kitô đã biết rõ thân phận con người mỏng dòn chúng ta mà căn dặn: “Các con hãy tỉnh thức và cầu nguyện luôn để khỏi sa chước cám dỗ, vì tinh thần thì nhẹ nhàng chóng vánh nhưng xác thịt thì nặng nề yếu đuối.” ĐHY Carlo Maria Martini nói: “Mọi kitô hữu, mọi Giám mục, mọi linh mục phải xác tín rằng không ai chắc chắn bền đỗ được; mối nguy lớn nhất là tưởng rằng mình đã đạt đến một mức ổn định đến nỗi không cần thận trọng nữa.”[350] Người Việt Nam khuyên “bảy mươi chưa què chớ khoe mình lành” kẻo “cười người hôm trước hôm sau người cười.”

 

Và khi nhỡ yếu đuối mà sa ngã, hãy khiêm tốn cầu xin ơn mau mắn chỗi dậy, sám hối lật sang trang đời mới, đứng về phía Chúa và Giáo Hội.[351] Ngày chuẩn bị ra trường, cha giáo mục vụ nhắc nhở anh em chúng tôi rằng là linh mục giáo phận ở giữa đời, trăm mắt sẽ cùng nhìn và trăm tay sẽ cùng chỉ về phía chúng tôi; chúng tôi phải sống dường như mọi cử chỉ đều được quay phim, mọi lời nói đều được ghi âm. Ngày nay sự kiểm soát càng gia tăng hơn nữa, cái gì cũng phải đăng ký (hộ khẩu, số điện thoại, kê khai tài sản, v.v…), không những “sức mạnh thế gian” ghi nhận tất cả mọi sơ hở, mà còn gài bẫy cho chúng ta có thể mắc phải những yếu đuối để mặc cả, đặt điều kiện ép buộc chúng ta không được làm hay phải làm những điều có lợi cho họ, bất chấp những thiệt hại của Giáo Hội, của các linh hồn và của cả chính chúng ta. Nếu gặp phải trường hợp không may đó, hãy khiêm tốn chân thành trình bày với Bề trên Giáo Hội, chia sẻ với anh em linh mục, và nếu cần thú thật và xin lỗi giáo dân, mọi người sẽ tha thứ, nâng đỡ và yêu thương đùm bọc, nâng đỡ chúng ta đứng lên, sửa chữa làm lại từ đầu, tội thì tha, lỗi thì sửa.

 

Thánh Phaolô khuyến cáo: “Trước kia, có vài người trong anh em đã là như thế. Nhưng anh em đã được tẩy rửa, được thánh hoá, được nên công chính nhờ danh Chúa Giêsu Kitô và nhờ Thần Khí của Thiên Chúa chúng ta!”[352]Anh em biết chúng ta đang sống trong thời nào. Đã đến lúc anh em phải thức dậy, vì hiện nay ngày Thiên Chúa cứu độ chúng ta đã gần hơn trước kia, khi chúng ta mới tin đạo. Đêm sắp tàn, ngày gần đến. Vậy chúng ta hãy loại bỏ những việc làm đen tối, và cầm lấy vũ khí của sự sáng để chiến đấu. Chúng ta hãy ăn ở cho đứng đắn như người đang sống giữa ban ngày: không chè chén say sưa, không chơi bời dâm đãng, cũng không cãi cọ ghen tương. Nhưng anh em hãy mặc lấy Chúa Giêsu Kitô, và đừng chiều theo tính xác thịt mà thoả mãn các dục vọng”[353]

 

Một câu chuyện thật xảy ra tại Ba Lan: Mật vụ ép buộc một linh mục kia phải đọc một bản thông cáo ngăn cản cuộc biểu tình của giáo dân. Linh mục đó không chịu, mật vụ liền đưa ra bức ảnh chụp một người phụ nữ bế đứa con, bằng chứng sa ngã của linh mục mà nó đã nắm được. Vị linh mục tái mặt và mật vụ đe dọa sẽ đưa ra công khai nếu không làm theo ý của nó. Sau khi cầu nguyện, linh mục đó nói với giáo dân vào cuối thánh lễ: “Tôi đã sai lầm yếu đuối sa ngã trong quá khứ. Nay mật vụ dựa vào đó để đặt điều kiện ép buộc tôi hợp tác ngăn cản cuộc xuống đường ngày mai. Tôi kêu gọi anh chị em hãy tham gia đông đủ. Hôm nay là thánh lễ cuối cùng của tôi ở đây, xin anh chị em tha thứ lỗi lầm của tôi và cầu nguyện cho tôi.” Sau phút im lặng ngỡ ngàng, cả nhà thờ nhôn nhao xin linh mục ở lại với họ và cương quyết nói “ngày mai tất cả chúng ta cùng xuống đường.” Cương quyết thành thật và khiêm tốn, can đảm nhận lỗi và sám hối sẽ vô hiệu hóa các điều kiện của kẻ nghịch, bù lại sẽ được tâm hồn bằng an và ơn tha thứ cho sự mỏng dòn yếu đuối con người của mình. Càng muốn che đậy càng bị kẹt vì phải chấp nhận hết điều kiện nọ đến điều kiện kia, luôn sống trong bất an và sợ hãi.

 

Biết như vậy, chúng ta hãy luôn chạy đến với Chúa, nỗ lực sống trong sáng và triệt để những đòi hỏi của chức linh mục, thông cảm nâng đỡ anh em và khiêm tốn cầu xin, vì nếu Chúa không thương che chở thì có khi mình đã sa ngã nặng nề hơn, nhớ lời ĐTC Biển Đức XVI dịp lễ hai thánh Tông đồ Phêrô và Phaolô tại Rôma: “mối nguy lớn nhất của Giáo Hội không phải là bách hại bên ngoài, mà chính là những ‘thái độ tiêu cực’ có thể gây ô uế và ‘đầu độc cộng đồng Kitô giáo” từ bên trong… những thử thách và bách hại bên ngoài này không phải là mối nguy lớn lao nhất cho Giáo Hội, nhưng Giáo Hội chịu thiệt hại lớn lao nhất từ những gì gây ô uế đức tin và đời sống Kitô giáo của các thành viên và các cộng đoàn của Giáo Hội, xói mòn sự toàn vẹn của Nhiệm Thể, làm Giáo Hội suy yếu khả năng nói tiên tri và làm chứng nhân, làm hoen ố vẻ đẹp của khuôn mặt Giáo Hội.” Và ngài tin tưởng quả quyết: “Thiên Chúa gần gũi với những tôi tớ trung tín và giải thoát họ khỏi mọi sự dữ và giải thoát Giáo Hội khỏi những quyền lực tiêu cực, chống đối[354]

 

Con trót dại bao lần sa ngã,

Ôi Giêsu lượng cả đoái nhìn.

Con nguyền can đảm đứng lên

Lệ sa rửa sạch tội khiên làu làu.

Xin ánh sáng rọi vào tâm trí,

Tỉnh cơn mê, con sẽ dâng Ngài

Bổng trầm điệu hát vui say

Muôn ngàn khấn nguyện giải bày khúc nôi.

            Thánh Thi Kinh Sáng Chúa Nhật Tuần I

C.1c.3) Khủng hoảng tình huynh đệ

Vì ảnh hưởng, vì tình cảm, vì quyền bính và quyền lợi, vì những sự việc tiêu cực phức tạp trong cuộc sống, nhiều người đã đi đến kết luận chua chát này: “Người đối với người là lang sói, nữ tu đối với nữ tu là lang sói hơn, linh mục đối với linh mục là lang sói nhất,” mà Thánh vịnh diễn tả: “Giả như tên địch thù phỉ báng, thì tôi cũng cam lòng, hay kẻ ghét ghen lên mày lên mặt, tôi có thể lánh đi. Nhưng đây lại là bạn, người đồng vai đồng vế, chỗ thân tình tâm phúc với tôi, đã cùng tôi chia ngọt sẻ bùi, trong đền Thiên Chúa, giữa hội vui cùng sánh bước.”[355] ... Tên phản phúc ra tay hại người thân nghĩa, lại lỗi ước quên thề; miệng nói năng ngọt xớt, lòng chỉ muốn chiến tranh, lời trơn tru hơn mỡ, mà bén nhọn như gươm.[356] ... “Kẻ đến thăm, miệng nói lời giả dối, nhưng chủ ý thâu tin độc địa, vừa ra khỏi nhà, đã vội rêu rao. Cả người bạn thân con hằng tin cậy, đã cùng con chia cơm sẻ bánh, mà nay cũng giơ gót đạp con!”[357]  

Sách Huấn Ca cho những lời chỉ dạy về tình bạn như sau: “Ăn nói dịu dàng thì tăng thêm bạn hữu, phát biểu dễ thương thì tăng thêm lời thân ái. Ước chi có nhiều người sống hoà nhã với con; nhưng cố vấn cho con, thì trong muôn ngàn chỉ nên chọn một. Nếu con muốn làm bạn với ai thì hãy thử người ấy trước, nhưng đừng vội tin tưởng ngay. Vì có kẻ chỉ là bạn nhất thời, ngày con gặp nạn, nó chẳng còn là bạn nữa. Có người là bạn lại trở nên thù, và tiết lộ chuyện cãi nhau, khiến con phải xấu hổ. Có người là bạn khi đồng hành với con, nhưng ngày con gặp nạn, nó chẳng còn là bạn nữa. Khi con gặp may, thì nó chẳng khác nào chính con: gia nhân con, nó tự do sai bảo. Nhưng lúc con sa cơ, nó liền chống lại và lánh mặt con luôn. Với quân thù, con hãy tránh xa, còn với bè bạn, con phải coi chừng. Người bạn trung thành là một nơi nương tựa vững chắc, ai gặp được người bạn như thế, là gặp được kho tàng. Không gì đổi lấy được một người bạn trung thành, và giá trị của người bạn ấy, không cân nào lường được. Người bạn trung thành là phương thuốc xoa dịu cuộc đời, những ai kính sợ Đức Chúa sẽ gặp được người như vậy. Người kính sợ Đức Chúa thì điều khiển được tình bạn của mình vì bản thân mình thế nào, thì cận thân mình cũng thế.[358] 

Và cũng chớ gì không có ai là Doerg:[359]

Cha ơi! Cay đắng đã nhiều,                                                          

Bao phen con cũng muốn liều mà thôi!                                                 

Nhưng rồi tấc dạ bồi hồi,                                                                      

Chạnh nhớ Chúa chết trên đồi Canvê,                                               

Vì thương Chúa phải ê chề,                                                                                   

Bị người kết án không hề hở môi.                                                                

Đời con cũng lắm khúc môi,                                                                      

Bầm gan tím ruột vì người bất công,                                                  

Đôi khi muốn nói hả lòng,                                                                           

Sao con không động mà người động con?

 

Tình bạn đích thực là một cái gì tuyệt diệu trong đời, nhất là tình huynh đệ bí tích linh mục, nhưng nếu gặp phải kẻ “lừa thầy phản bạn, đội trên đạp dưới” thì không sao diễn tả hết được nỗi đau! Nhưng “lẽ nào Thiên Chúa lại không minh xét cho những kẻ Người đã tuyển chọn, ngày đêm hằng kêu cứu với Người sao? Lẽ nào Người bắt họ chờ đợi mãi? Thầy nói cho anh em biết, Người sẽ mau chóng minh xét cho họ. Nhưng khi Con Người ngự đến, liệu Người còn thấy lòng tin trên mặt đất nữa chăng?”[360]

 

Nhưng nếu khi gặp phải điều không mong đợi đó, chúng ta cũng hãy cố gắng sống cao thượng, như lời thánh Phaolô căn dặn là “lấy điều thiện mà chiến thắng điều ác, chứ đừng để bị điều ác đánh bại mình”; hãy vượt lên những nỗi đau buồn ấy chứ không để chúng đè bẹp và nghiền tán mình. Đừng để mình bị trở nên thấp kém nuôi lòng hận thù tìm cách trả đũa, như thánh Phêrô dạy: “Đừng lấy ác báo ác, đừng lấy lời nguyền rủa đáp lại lời nguyền rủa, nhưng trái lại, hãy chúc phúc, vì anh chị em được Thiên Chúa kêu gọi chính là để thừa hưởng lời chúc phúc.[361]

 

Một trong bốn cột trụ chống đỡ đời tu, đặc biệt trong việc sống ba lời khuyên Phúc Âm, chính là tình huynh đệ, nhất là tình huynh đệ bí tích đối với anh em linh mục. Bốn cột trụ ấy là Chúa Giêsu, Phúc Âm, Tình huynh đệ và việc kiên trì chu toàn Sứ vụ. Kinh nghiệm đã cho chúng ta biết rằng khi người ta phải buồn phiền, cô đơn, thất vọng là lúc người ta dễ bị sa ngã vào tình cảm phái tính nhất. Vậy thì đừng để mình phải sống trong buồn phiền đau khổ, và cũng đừng gây nên đau khổ buồn phiền cho anh em khiến họ có thể phải sa ngã, chúng ta có phần trách nhiệm trong sự sa ngã của anh em. Một khi anh em linh mục thực sự yêu thương nâng đỡ nhau thì không một thứ tình cảm nào có thể chen vào làm hại được họ, vì “yêu thương là sống theo các điều răn của Thiên Chúa.”[362] Chúng ta hãy nhớ lại, suy nghĩ và nếm cảm về tình huynh đệ ấy vốn là:

·        một sự đoàn kết bên nhau để cùng tiến bước,

·        một cuộc đối thoại thường xuyên trong cuộc sống đa nguyên đa diện,

·        một cuộc gặp gỡ cởi mở hơn cho cuộc hành trình đầy gian khó và nguy hiểm,

·        một sự có mặt khích lệ hay một nâng đỡ hỗ trợ tinh thần,

·        một lời vui, một tiếng cười thanh thỏa cùng chia sẻ tình thương dâng lên vời vợi,

·        một cái nhìn cảm thông khi vướng trở ngại, hay khi bị thất bại chua cay,

·        một “tôi khác” để mỗi người có dịp phản tỉnh nhìn lại bộ mặt của mình, có khi đã hoen ố bụi đời,

·        một bạn đồng hành để con đường thập giá bớt nỗi đơn côi,

·        một Simong vác đỡ hay một Vêrônica lau mặt,

·        một cái gì khỏa lấp chỗ trống vắng tình thương sau tình yêu Thầy Chí Thánh,

·        một hiện diện và hiện thân của Thiên Chúa cao xa vô hình.  

Thấu hiểu điều đó, mỗi người chúng ta cố gắng sống trở nên người bạn thật tốt của nhau và của mọi người; đồng thời phải quyết tâm phá tan lời kết luận chua chát “linh mục với linh mục là lang sói nhất” ở trên kia, bằng niềm tin phó thác và lòng khiêm nhường đích thực. Đọc hạnh tích thánh Gioan Maria Vianey, chúng ta biết lực học ngài rất kém, nên khi thấy người ta đua nhau tới nghe ngài dạy giáo lý buổi trưa, các anh em linh mục trong vùng lo sợ giáo dân bị lạc đạo, bèn cùng nhau làm đơn vận động Giám mục Bản quyền không cho ngài dạy giáo lý hoặc đổi đi nơi khác. Có người đưa lá đơn ghi bao nhiêu yếu điểm của ngài với nhiều chữ ký tới cho ngài. Đọc xong, ngài lấy bút viết ở cuối “Anh em chưa nói hết khuyết điểm của con” và ký tên. Họ tưởng chắc chắn sẽ đuổi được Vianey, nhưng khi đọc xong tờ đơn với lời ghi chú và chữ ký của cha Vianey, Đức Giám Mục điềm tĩnh nói với các linh mục kia rằng “Cha Vianey là người khiêm nhường thực sự, Chúa sẽ làm việc của Ngài trong Vianey và qua Vianey, các cha về đi và cố gắng làm việc cho tốt, tôi vẫn giữa ngài lại ở Ars.” Tự hạ mình xuống là khiêm nhường, nhưng khi bị hạ nhục mà sẵn lòng đón nhận là khiêm nhường đích thực. Xin cho chúng ta biết dùng sự khiêm nhường đích thực để vượt lên khủng hoảng. 

Nếu trong mọi hoàn cảnh cuộc sống mà các linh mục giữ được mối tương quan và đối thoại của một “tình huynh đệ bí tích”[363] giữa các linh mục già và linh mục trẻ có thể đưa tới hiểu biết lẫn nhau và cùng nhau giải quyết các vấn đề và khó khăn trong sứ vụ linh mục của họ.[364] Sắc lệnh Chức vụ và đời sống linh mục khuyên các linh mục nhiều tuổi hãy đón nhận những linh mục trẻ như những người em thực sự và giúp đỡ họ trong những công tác và gánh nặng đầu tiên của sứ vụ linh mục; gắng hiểu tâm trạng của họ và theo dõi các dự tính của họ với thiện chí. Và các linh mục trẻ phải biết kính trọng tuổi tác và kinh nghiệm của các vị lớn tuổi; bàn hỏi với các ngài và sẵn lòng cộng tác với các ngài trong việc chăm sóc các linh hồn.[365]  

Tình huynh đệ bí tích này còn “hơn cả tình yêu của phụ nữ” (hãy xem tình bạn của David và Gionathan trong 2 Sm 1) và tình huynh đệ ấy trở thành bảo đảm cho đời độc thân của mọi linh mục trong tất cả cuộc sống và sứ vụ của họ. “Ngọt ngào tốt đẹp biết bao, anh em được sống vui vầy bên nhau.[366] Thượng Hội Đồng Giám Mục Thế Giới năm 1971 ước mong rằng các hiệp hội linh mục phải được cổ vũ và phát triển để cung ứng cho họ sự trợ giúp huynh đệ.[367]

 

_________

 

chú thích 

[329] Lc 18,7-8.

[330] Dt 13,8.

[331] Gv 3, 2-8.

[332] Mt 23,3.

[333] Trích bài đọc 2 Kinh Sách thứ hai tuần VIII TN.

[334] Trích từ bài viết của phó tế GB. Maria Nguyễn Định.

[335] Trích bài giảng của thánh Lêo Cả Giáo Hoàng, bài đọc 2 Kinh Sách lễ Lập Tông Tòa Thánh Phêrô.

[336] TGM Diarmuid Martin, Dublin, Ireland, ngày 30/11/2010, CNA. http://www.catholicnewsagency.com/news/dublin-archbishop-says-churchs-deepest-crisis-is-loss-of-faith

[337] Zenit ngày 6/7/2010.

[338] http://www.zenit.org/article-25847?l=french ngày 24/ 10/2010.

[339] x. Zenit 6/7/2010, Eglises d'Asie.

[340] Washington D.C., Aug 3, 2010 / 03:06 pm (CNA/EWTN News).

[341] Tôi liên tưởng đến hoàn cảnh và trường hợp Đức Cố Tổng Giám Mục Huế, TGM Philiphê Nguyễn Kim Điền.

[342] 2 Ga 1,9.

[343] CWNews 16.08.2010.

[344] Mt 23,11.

[345] Trích bài viết THẦN THÁNH HÓA GIỚI TU HÀNH của  Tiến Sĩ Trần Mỹ Duyệt.

[346] Huấn thị Phục vụ Quyền bính và Vân Phục của Bộ Tu Sĩ ban hành tại Rôma ngày 28/5/2008.

[347] Dc 8, 6b-7ª.

[348] 1 Cor 10,12.

[349] Hc 47,13-20.

[350] ĐHY Carlo Maria Martini, Thánh Phaolô đối diện với chính mình, trích trong Alleluiah số 109.

[351] Rm 13,11-14: “Anh em biết chúng ta đang sống trong thời nào. Đã đến lúc anh em phải thức dậy, vì hiện nay ngày Thiên Chúa cứu độ chúng ta đã gần hơn trước kia, khi chúng ta mới tin đạo. Đêm sắp tàn, ngày gần đến. Vậy chúng ta hãy loại bỏ những việc làm đen tối, và cầm lấy vũ khí của sự sáng để chiến đấu. Chúng ta hãy ăn ở cho đứng đắn như người đang sống giữa ban ngày: không chè chén say sưa, không chơi bời dâm đãng, cũng không cãi cọ ghen tương. Nhưng anh em hãy mặc lấy Chúa Giê-su Ki-tô, và đừng chiều theo tính xác thịt mà thoả mãn các dục vọng.”

[352] 1 Cr 6,11.

[353] Rm 13,11-14.

[354] CNA News ngày 29/6/2010.

[355] Tv 55,13-15.

[356] Tv 55,21-22.

[357] Tv 41,7,10.

[358] Hc 6, 5-17.

[359] x. 1 Sm 21,8; 22,9-19.

[360] Lc 18,7-8.

[361] 1 Pr 3,9.

[362] 2 Ga 1, 6.

[363] Vatican II, Presbyterorum Ordinis …, ibid., no. 8

[364] CBCP, The Philippine Program of Priestly Formation 1972 … ibid, p.99; Micae-Phaolô Trần Minh Huy, Đào tạo và tự đào tạo thiêng liêng của các linh mục tương lai trong bối cảnh Việt Nam ngày nay, tr.271-273.

[365] Vatican II, Presbyterorum Ordinis, no. 8

[366] Tv 132, 1.

[367] Synod of Bishops 1971, The Ministerial Priesthood, part two, II.2 : Relations of priests with each other; Presbyterorum Ordinis, no. 8

 

VỀ MỤC LỤC
ĐO HUYẾT ÁP ĐÚNG CÁCH

 

Huyết áp là áp xuất của  máu vào thành động mạch. Huyết áp trung bình là dưới 120/80 mmHg. Trên số này sau ba lần đo là bị Cao huyết áp.

Cao Huyết áp vẫn được coi là Tên Sát Nhân Thầm Lặng-Silent Killer-, vì có khả năng giết người mà không báo trước.

Người bị cao huyết áp cần được điều trị lâu dài. Bệnh nhân cần tham dự và hợp tác với bác sĩ trong việc điều trị này. Một trong những hình thức hợp tác rất quan trọng là sự tự đo huyết áp.

Sau đây là mục đích của tự đo huyết áp :

- Biết huyết áp của mình cao thấp là bao nhiêu, để thay đổi nếp sống, giữ gìn ăn uống và  coi xem thuốc hạ huyết áp có công hiệu hay không;

- Cho bác sĩ hay kết quả đo huyết áp để bác sĩ điều chỉnh dược phẩm, duy trì huyết áp ở mức độ chấp nhận được;

- Để phòng tránh các hậu quả trầm trọng khi huyết áp đột nhiên lên cao, như tai biến não, heart attack, suy thận, khiếm thị do tổn thương võng mạc…

Do đó, bệnh nhân bị cao huyết áp cần phải thường xuyên đo huyết áp ở nhà một cách đều đặn. Việc này tưởng như giản dị, nhưng cũng có nhiều điều cần lưu ý, để kết quả được chính xác.

Xin nhắc lại là huyết áp thay đổi tùy theo sự hoạt động của cơ thể và tùy theo thời gian trong ngày.

Huyết áp thấp nhất vào ban đêm trong khi ta ngủ, cho tới khi ta thức dạy vào buổi sáng. Ngay sau khi ta đứng dạy rời khỏi giường và bắt đầu sinh hoạt thì huyết áp bắt đầu nhích lên tới cao độ vào buổi trưa. Tới nửa chiều thì huyết áp xuống dần cho tới tối.

Nếu vào buổi sáng mà huyết áp lên cao và tiếp tục cao suốt ngày thì có thể là ta bị cao huyết áp. Nên đo và ghi số kết quả trong vài ngày và cho bác sĩ hay để xác định bệnh.

Một số thắc mắc thường được nêu ra là khi nào đo huyết áp? Đo bao nhiêu lần trong ngày? Tại sao khi đi bác sĩ thì huyết áp cao hơn là khi đo ở nhà? Tại sao kết quả đo không giống nhau sau khi đo hai ba lần? Máy đo huyết áp nào tốt?...

Xin lần lượt tìm hiểu.

 

1- Bao giờ thì đo và đo mấy lần trong ngày?

Tùy theo tình trạng bệnh nặng hay nhẹ, bác sĩ gia đình sẽ cho ta hay là phải đo bao nhiêu lần trong ngày.

Thường thường có thể đo vào buổi sáng trước khi uống thuốc hạ huyết áp hoặc ăn điểm tâm.

Không dưới 1 giờ sau khi vận động cơ thể, hút thuốc lá hoặc uống cà phê.

Nên nhớ là cần ngồi nghỉ thoải mái khoảng 10 phút để cơ thể thích nghi với nhiệt độ trong phòng.

Không đặt máy đo ở cánh tay bị thương hoặc đang được truyền dịch tĩnh mạch.

Phụ nữ đã cắt bỏ một bên nhũ hoa bị bệnh, nên đo ở cánh tay phía  bên kia;

Không đo huyết áp ngay sau khi vận động cơ thể hoặc đang trong tình trạng căng thẳng tinh thần

Ta có thể đo hai lần một ngày trong hai tuần rồi một lần mỗi ngày trước khi uống thuốc. Khi máu đã tương đối bình thường thì chỉ cần đo vài lần trong tuần.

 

2- Làm gì trước khi đo?

- Đi tiểu dốc hết bầu tâm sự trước khi đo;

- Ngồi nghỉ khoảng dăm ba phút, không nói chuyện trước khi đo;

- Ngồi thoải mái trên một cái ghế có dựa lưng và dựa tay, hai chân thoải mái để xuống sàn nhà, không bắt chéo cẳng chân;

- Vén tay áo, đặt cánh tay lên mặt bàn, ngang tầm trái tim, bàn tay ngửa;

- Nhẹ nhàng quấn vòng bít (băng huyết áp) xung quanh phần trên của cánh tay trần. Quấn vừa chặt để ta vẫn luồn được ngón tay vào giữa vòng và da;

- Nhớ đặt phần dưới của vòng khoảng ½ cm trên nếp gấp của khủyu tay;

 

3- Có mấy loại máy đo huyết áp 

Có hai loại hiện đang rất phổ biến:

a- Loại máy bơm bằng tay, có kim đồng hồ chỉ số huyết áp trong khi ta nghe nhịp tim bằng ống nghe. Loại này dễ mang theo khi di chuyển, có sẵn ống nghe nhịp tim, giá tiền vừa phải từ 20-30 mỹ kim. Nhưng máy có vài điểm bất tiện là dễ hư, không chính xác, không thuận tiện cho người lãng tai vì phải nghe nhịp tim bằng ống nghe. Mà lão niên thì cũng hay nghễnh ngãng, kém nghe.

b- Máy digital hiện nay phổ thông hơn, dễ đọc vì con số hiện trên màn ảnh,  dễ sử dụng, tiện lợi cho người bị kém thính giác vì không phải nghe nhịp tim. Một vài loại máy có thể in kết quả, nhờ đó ta không phải ghi vào sổ tay. Máy có thể bơm căng bằng tay hay tự động, xả hơi thì tự động.

Bất tiện của máy trước hết là đắt tiền hơn, từ 40 tới 100 mỹ kim; độ chính xác của máy thay đổi khi cơ thể cử động hay khi nhịp tim không đều; máy cũng cần cục pin để điều hành.

Ít nhất mỗi năm một lần, mang máy đo huyết áp tới nhờ bác sĩ hoặc y tá kiểm soát coi xem máy còn hoạt động tốt hay không.

 

 Máy đo với ống nghe:

- Mang ống nghe nhịp tim vào hai tai;

- Đặt đĩa nghe nhịp tim của ống nghe  vào phía trong của nếp gấp khuỷu tay;

- Lẹ làng bơm vòng băng cho tới khi vượt quá huyết áp tâm thu (S) thường lệ khoảng 30-40 điểm. Bơm quá chậm có thể làm số đo sai lệch.

- Từ từ nhả van khoảng 2-3 mmHg/ 1giây để không khí thoát ra. Nhả quá nhanh ta sẽ không đọc được kết quả.

- Trong khi không khí bắt đầu thoát ra thì tai để ý nghe nhịp tim xuất hiện. Khi nghe thấy tiếng đập đầu tiên thì đó là huyết áp tâm thu.

- Tiếp tục từ từ thả không khí, khi không còn nghe tiếng tim đập thì lúc đó là huyết áp tâm trương.

- Ghi kết quả, huyết áp tâm thu trước rồi đến huyết áp tâm trương. Chẳng hạn 120/80 mmHg.

- Nếu muốn đo lại, nên đợi chừng vài ba phút rồi lại bơm hơi.

Thường thường nên đo ba lần, cách nhau 5 phút.

Nên đo ở cả hai cánh tay, bên nào có số đo cao thì lấy số đó làm kết quả chính thức.

 

Máy digital

Máy có loại đo ở cổ tay hoặc cánh tay, đôi khi cũng đo được ở cổ chân.

- Đặt vòng bít vào cánh tay. Ấn nút điện khởi động máy.

- Bơm tự động sẽ bắt đầu đưa hơi vào vòng bít rồi từ từ nhả hơi.

- Đọc kết quả huyết áp trên màn hình và ghi kết quả.

- Muốn đo lại, đợi vài ba phút.           

Nên dè dặt với kết quả từ các máy đo công cộng ở siêu thị, không được chính xác vì máy không được điều chỉnh và cũng vì vòng băng có thể không vừa với cánh tay của mình.

 

Những yếu tố nào ảnh hưởng tới huyết áp?

Huyết áp có thể tạm thời thay đổi trong những hoàn cảnh sau đây:         

- Khi ta ở trong tâm trạng lo âu căng thẳng thì huyết áp tăng lên đáng kể và sẽ trở lại bình thường sau khi ta thoải mái thư giãn. Vì thế khi đi khám bệnh huyết áp thường hơi cao hơn khi đo ở nhà vì nhiều người lúc đó cũng hơi emotion. Và cũng vì thế, nên nghỉ vài phút trước khi đo.

- Nghiên cứu cho hay trong khi đo mà ta nói chuyện với người khác hoặc với nhân viên y tế, huyết áp cũng lên cao. Vì thế nên giữ im lặng trong khi đo.

- Nhiệt độ xung quanh như phòng quá lạnh, mạch máu co lại cũng khiến cho huyết áp tạm thời nhích cao.

 - Băng huyết áp quá nhỏ so với cánh tay có thể tăng huyết áp tới cả chục mmHg mà băng quá lớn lại cho số đo thấp hơn thường lệ.

- Khi đo, nên để cánh tay trực tiếp với băng huyết áp, vì nếu mặc áo, huyết áp có thể cao hơn thường lệ. Nhớ cất bỏ trang sức vướng víu cánh tay, cổ tay

 - Đo huyết áp khi không ngồi nghỉ mấy phút có thể khiến cho huyết áp tâm thu tạm cao tới 10-20mmHg.

- Vị thế ngồi khi đo cũng quan trọng. Khi đo, nên ngồi hết sức thoải mái trên ghế, dựa lưng vào thành ghế, để cánh tay trên chỗ dựa tay ngang tầm trái tim, hai bàn chân chạm mặt đất, chân để thẳng không bắt chéo. Chéo chân có thể làm huyết tăng vài ba độ; cánh tay thấp hơn tim tăng huyết áp tới 2 độ mà thấp hơn cũng giảm vài ba độ.

- Hút thuốc lá trước khi đo huyết áp sẽ cao hơn, vì chất nicotine trong thuốc là làm mạch máu co lại và sức ép của máu lên động mạch tăng. Vậy thì đừng hút thuốc lá trước khi đo.

- Rượu và cà phê cũng làm tăng huyết áp, vậy ta nên tránh trước khi đo huyết áp.

- Ăn quá no huyết áp cũng hơi nhích cao, ví thể chỉ đo trước bữa ăn hoặc sau đó vài giờ;

- Và nhớ trút hết bầu tâm sự trước khi đo, vì bàng quang đầy nước tiểu cũng khiến cho huyết áp tâm thu tăng tới 10-15mmHg.

- Nhưng đừng đo huyết áp sau khi đại tiện, huyết áp sẽ cao vì đại tiện cũng là một activity.

- Một vài loại dược phẩm như thuốc chống cảm dị ứng, thuốc steroid, chữa viêm khớp, hen suyễn cũng khiến huyết áp lên cao.

Tóm lại, tự đo huyết áp cũng không lấy gì là khó, quý thân hữu nhỉ. Chì cần để ý tới các điều kể trên là có kết quả chính xác rồi.

Tuy nhiên, cũng xin đừng quên hẹn tái khám với bác sĩ theo đúng ngày hẹn để được theo dõi bởi nhà chuyên môn và cũng để tìm hiểu coi có biến chứng hay không.

Chúc quý thân hữu bình an, với huyết áp ở mức độ bình thường.

Bác sĩ Nguyễn Ý Đức

www.bsnguyenyduc.com

 
VỀ MỤC LỤC
Thập đại Bịnh (1. Bệnh quá khứ cục bộ)

 

(Ghi lại bài nói chuyện của Đức Tổng Giám mục Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận với giới trẻ Việt Nam tại Strasbourg, Pháp, chiều ngày 12.9.1998)

 

Giới thiệu 

Muốn thành công trước hết phải chữa trị tận gốc mười (10) chứng bịnh làm băng hoại xã hội ngày nay.

Cuộc sống cộng đồng và Giáo hội, không những ở Việt Nam mà ngay cả ở hải ngoại, hiện đang có những bất ổn. Không hoặc chưa phát huy được nét tích cực của mình. Do đâu ?

Có rất nhiều căn nguyên. Những căn nguyên này là những chứng bịnh vừa nguy hiểm vừa truyền nhiễm đang hoành hành trong xã hội, và có cơ nguy làm cho cuộc sống xã hội băng rã. Tôi qui chúng lại thành mười bệnh lớn: Thập đại bịnh.

 

1. Bệnh quá khứ cục bộ

Bệnh này thể hiện qua tâm trạng chỉ nhớ và khen cái quá khứ của mình mà thôi và đóng khung lại trong đó. Ngày tôi bị đưa đi tù ra Bắc, thỉnh thoảng gặp giáo dân và ai cũng hớn hở tâm sự: "Thưa cha, chúng con thấy sung sướng nhất là thời còn Đức khâm sứ . Chúng con đi rước kiệu đầy đường phố, quanh cả bờ hồ Hoàn Kiếm, và thấy Đức khâm sứ quỳ trên chiếc xe, tay cầm Mình Thánh Chúa, mặt ngài sáng láng đỏ hồng như mặt trời. Không biết bao giờ chúng con mới trở lại được như thời kỳ có Đức khâm sứ!". Ta không quên quá khứ, vì đó là bài học kinh nghiệm, nhưng ta không dừng lại đó, ta nhìn tương lai để xây dựng còn đẹp hơn xưa.

Bà con chỉ sống trong quá khứ, mong trở về quá khứ. Mà thời gian thì bao giờ quay trở lại !

Tôi đi nhiều nơi, gặp nhiều anh chị em tới một tuổi nào đó. Chén thù chén tạc bên nhau than thở: "Biết bao giờ bọn mình trở lại được thời Cộng hoà. Mọi thứ rẻ mạt. Lương tháng mấy nghìn. Một tạ gạo giá chỉ mấy trăm bạc. Sướng thiệt !".

Ta đang ở năm 1998, làm sao mà lùi lại 1960 được !

Do vậy mà chúng ta đâm ra thiển cận. Thay vì nhìn tới thì lại nhìn lui. Giống như người lái xe, không nhìn đằng trước mà cứ chăm chăm vào kính chiếu hậu để ngắm xe sau. Vậy làm sao mà tiến được.

Mà dù thế nào thì mình vẫn phải sống. Quá khứ không bao giờ trở lại. Và thời gian thì cứ tiến mãi.

Nhìn lại gương Chúa Giêsu. Từ trời cao xuống thế, Ngài cứ nhắm tới, một mạch đi tới và cứ nói: "Thầy sẽ lên thành Giêrusalem chịu nạn". Ngài dư biết cuộc tử nạn sẽ rất đau đớn, nhưng vẫn đi tới, chấp nhận. Bởi qua cái đau khổ đó con người được cứu độ.

Cũng vậy, nếu chúng ta muốn cho Đất nước và Giáo hội mình tiến, thì phải nhìn về tương lai. Không quên quá khứ, vì đó là bài học cho tương lai. Nhưng đừng có viễn mơ lui lại quá khứ.

Mỗi người, mỗi thời đại đều có cái hay, cái đẹp. Phải làm sao biết khai triển cái hay cái đẹp đó cho hiện tại đang sống, chứ đứng đó mà than thở tiếc nuối thì ích gì ! Nhìn quá khứ để tạ ơn Chúa, để sám hối. Nhìn hiện tại để hăng say phục vụ với trách nhiệm - Nhìn tương lai với hy vọng.

HY. PX. Nguyễn Văn Thuận

VỀ MỤC LỤC

- Mọi liên lạc: Ghi danh, thay đổi địa chỉ, đóng góp ý kiến, bài vở..., xin gởi về địa chỉ

giaosivietnam@gmail.com

- Những nội dung sẽ được đề cao và chú ý bao gồm:

Trao đổi, chia sẻ những kinh nghiệm thực tế trong việc mục vụ của Giáo sĩ;  Những tài liệu của Giáo hội hoặc của các Tác giả nhằm mục đích Thăng tiến đời sống Giáo sĩ; Cổ võ ơn gọi Linh mục; Người Giáo dân tham gia công việc “Trợ lực Giáo sĩ” bằng đời sống cầu nguyện và cộng tác trong mọi lãnh vực; Mỗi  Giáo dân phải là những “Linh mục” không có chức Thánh; Đối thoại trong tinh thần Bác ái giữa Giáo dân và Giáo sĩ… (Truyền giáo hay xây pháo đài?)

- Quy vị cũng có thể tham khảo những số báo đã phát hành tại

www.conggiaovietnam.net

Rất mong được sự cộng tác, hưởng ứng của tất cả Quí vị

Xin chân thành cám ơn tất cả anh chị em đã sẵn lòng cộng tác với chúng tôi bằng nhiều cách thế khác nhau.

TM. Đặc San Giáo Sĩ Việt Nam

Lm. Luca Phạm Quốc Sử  USA

 

 

Duoc chon giua loai nguoi va cho loai nguoi; GIAO SI: Xuat phat tu giao dan, hien dien vi giao dan va cay dua vao giao dan, de cung lam VINH DANH THIEN CHUA

*************