Phải Chú Trọng Ðến Việc
Huấn Luyện Tu Ðức |
Thánh Công Ðồng Chung
Vaticanô II
Sắc Lệnh
Về Ðào Tạo Linh Mục
Optatam Totius
Prepared for Internet by
Vietnamese Missionaries in Asia
IV. Phải Chú Trọng
Ðến Việc Huấn Luyện Tu Ðức 35*
8. Một đời
sống thiêng liêng sâu sắc. Việc huấn luyện tu đức phải liên kết
chặt chẽ với việc trau dồi học vấn và huấn luyện mục vụ, nhất là phải được thực
hiện nhờ sự trợ giúp của cha Linh Hướng 13,
36* sao cho các chủng sinh tập biết luôn
sống kết hợp mật thiết với Chúa Cha, nhờ Chúa Giêsu Kitô Con Người và trong Chúa
Thánh Thần. Do phép Truyền Chức Thánh họ phải là hiện thân của Chúa Kitô Linh
Mục, lại nữa bởi cùng chia sẻ một cuộc sống của Người, nên họ phải quen sống kết
hợp với Người như bạn hữu 14. Họ phải sống
Mầu Nhiệm Phục Sinh của Người thế nào để biết khai sáng Mầu nhiệm ấy cho đoàn
chiên sẽ được giao phó. Phải dạy họ biết tìm gặp Chúa Kitô trong việc trung
thành suy gẫm Lời Chúa, trong việc thông hiệp tích cực các Mầu Nhiệm chí thánh
của Giáo Hội, nhất là Bí Tích Thánh Thể và kinh nguyện thần vụ
15. Cũng phải dạy cho họ biết tìm gặp Chúa Kitô
trong Ðức Giám Mục, Ðấng sai họ đi và trong những người mà họ được sai đến, nhất
là trong các kẻ nghèo khó, hèn mọn, đau yếu, tội lỗi và cả những kẻ vô tín
ngưỡng. Họ phải lấy lòng tin cậy như con thảo mà tôn kính và yêu mến Ðức Trinh
Nữ Maria Rất Thánh, Ðấng mà Chúa Kitô khi hấp hối trên Thánh Giá đã trối ban làm
mẹ người môn đệ.
Phải hết sức cố gắng cổ võ việc đạo đức
37* đã được tập quán đáng kính của Giáo Hội
khuyên làm, nhưng phải lưu tâm đừng để việc huấn luyện tu đức chỉ hệ tại những
việc đạo đức ấy hay chỉ là một nỗ lực tạo ra thứ đạo đức tình cảm. Các chủng
sinh phải học sống theo Phúc Âm, đứng vững trong đức Tin, Cậy, Mến
38*, để trong việc trau dồi các nhân đức ấy, họ
đem lại cho mình một tinh thần cầu nguyện 16,
họ củng cố bảo vệ ơn thiên triệu của mình, họ kiên cường các nhân đức khác và
lớn lên trong nhiệt tâm chinh phục mọi người về cho Chúa Kitô.
9. Ý thức về
Giáo Hội và đức vâng lời. Các chủng sinh phải thấm nhuần Mầu
Nhiệm Giáo Hội đã được Thánh Công Ðồng này đặc biệt khai sáng, để có thể làm
chứng sự hiệp nhất đang thu hút mọi người về với Chúa Kitô
17 bằng cách thảo hiếu và khiêm tốn hiệp nhất với
vị Ðại Diện Chúa Kitô, và một khi đã lãnh nhận chức Linh Mục, họ luôn liên kết
với Giám Mục của mình như những cộng tác viên tín cẩn và tiếp tay cộng tác với
các anh em Linh Mục khác 39*. Phải dạy cho
họ biết mở rộng tâm hồn tham gia cuộc sống của toàn thể Giáo Hội
40* như lời Thánh Augustinô: "Kẻ nào càng yêu mến
Giáo Hội Chúa Kitô càng có Chúa Thánh Thần" 18.
Chủng sinh phải thấu hiểu thật rõ ràng là cuộc đời họ không phải để thống trị
hay được danh giá, nhưng để hết mình phụng sự Thiên Chúa và chu toàn bổn phận
mục vụ 41*. Phải đặc biệt lo lắng tập sống
đức vâng lời linh mục 42*, đời sống khó
nghèo 43* và tinh thần xả kỷ
19 sao cho họ quen mau mắn từ bỏ ngay cả những gì
được phép nhưng không thích đáng và trở nên giống Chúa Kitô chịu đóng đinh.
Phải cho các chủng sinh biết về gánh nặng
họ phải đảm đương và không giấu diếm họ một khó khăn nào của đời Linh Mục. Tuy
nhiên, đừng vì đó mà làm cho họ hầu như chỉ nhìn thấy khía cạnh nguy hiểm trong
gánh nặng mai ngày, trái lại, tốt hơn phải vì đó huấn luyện cho họ biết dùng
chính hoạt động mục vụ của họ để kiện cường đời sống tu đức cho thật vững mạnh.
10. Ðời trinh
khiết. Các chủng sinh theo truyền thống đáng kính mà sống bặc độc
thân linh mục đúng với qui luật thánh thiện bền bỉ của lễ chế mình, phải được
cẩn thận hướng dẫn sống bậc sống ấy 44*. Một
khi khước từ đời hôn nhân vì Nước Trời (x. Mt 19,20), họ kết hợp với Chúa bằng
một tình yêu không san sẻ 20 phù hợp mật
thiết với Giao Ước mới, họ làm chứng cho sự sống lại đời sau (x. Lc 20,36)
21 và thâu lượm được một trợ lực thích hợp nhất để
luôn mãi thi hành đức ái hoàn hảo, nhờ đó, họ có thể trở nên mọi sự cho mọi
người trong chức vụ Linh Mục 22. Họ cần thâm
tín rằng: bậc sống ấy đáng hân hoan đón nhận không phải chỉ như một mệnh lệnh do
Giáo Luật, nhưng như là một ân huệ quý giá của Thiên Chúa mà họ phải khiêm tốn
cầu xin, và phải mau mắn đáp ứng với tự do và quảng đại, nhờ ơn Chúa Thánh Thần
thúc đẩy và giúp đỡ.
Các chủng sinh phải hiểu biết đúng mức về
những bổn phận và phẩm giá của hôn nhân công giáo, biểu tượng tình yêu giữa Chúa
Kitô và Giáo Hội (x. Eph 5,22-33). Ðàng khác, họ cũng phải thâu hiểu nét ưu việt
của đức trinh khiết dâng hiến cho Chúa Kitô 23,
để vì thế tận hiến trọn hồn xác cho Chúa bằng một quyết định đã được cân nhắc
chín chắn 45* và đại lượng.
Phải cho họ biết những hiểm nguy đang đe
dọa đức khiết tịnh của họ, nhất là trong xã hội hiện thời
24; với những trợ lực thích ứng của Thiên Chúa và
loài người, họ phải biết dung nạp sự từ khước đời sống hôn nhân, sao cho cuộc
đời và công việc của họ không những không bị thiệt thòi gì do bậc độc thân gây
ra, nhưng hơn thế nữa, họ làm chủ được hồn xác, phát triển được sự trưởng thành
trọn vẹn hơn 46*, và đạt được hạnh phúc Phúc
Âm cách toàn hảo hơn.
11. Ðức tự chủ.
Các tiêu chuẩn giáo dục Kitô giáo phải được nghiêm chỉnh tuân hành và bổ túc các
thích đáng nhờ việc sử dụng các phát minh mới mẻ của khoa tâm lý và khoa sư phạm
lành mạnh. Vì thế, một nền giáo dục khéo tổ chức cũng phải nhằm huấn luyện cho
các chủng sinh đạt được mức trưởng thành nhân bản cần thiết
47*, nhất là mức trưởng thành đã được kiểm nghiệm
trong một đức tính cương nghị, trong khả năng quyết định chín chắn, và một óc
phê phán xác đáng về con người và về các biến cố. Các chủng sinh phải tập cho
quen điều hòa thích hợp cá tính mình, họ phải được huấn luyện cho có tinh thần
quả cảm, và nói chung, phải biết quý chuộng những đức tính mà người đời thường
quý chuộng và không thể thiếu nơi các thừa tác viên của Chúa Kitô
25, thí dụ như lòng thành thực, chuyên lo giữ đức
công bình, đức tín trung, cư xử lịch thiệp, khiêm tốn và bác ái trong ngôn từ
48*.
Không những phải coi kỷ luật trong đời
sống Chủng Viện như một trợ lực vững chãi của đời sống cộng đoàn và bác ái, mà
hơn nữa, còn như một thành phần thiết yếu trong tất cả công cuộc huấn luyện để
đạt được tinh thần tự chủ, phát triển được sự trưởng thành vững chắc về nhân
cách, rèn luyện được những tư cách khác giúp ích rất nhiều cho hoạt động của
Giáo Hội được quy củ và kết quả. Nhưng, phải áp dụng kỷ luật ấy sao cho các
chủng sinh tự thâm tâm sẵn sàng chấp nhận quyền hành của Bề Trên và thâm tín, vì
lương tâm (x. Rm 13,5) và vì những lý do siêu nhiên. Phải áp dụng những tiêu
chuẩn kỷ luật ấy tùy theo từng lứa tuổi, để trong khi tập sống tự lập dần dần,
các chủng sinh biết sử dụng tự do một cách khôn ngoan, hành động một cách tự
phát, nhiệt thành 26 và quen hợp tác được với
anh em đồng nghiệp cũng như với giáo dân.
Một khi được thấm nhuần lòng ham mộ đạo
đức, sự thinh lặng và mối bận tâm giúp đỡ lẫn nhau, tất cả cuộc sống trong chủng
viện phải được tổ chức thế nào để các chủng sinh như bắt đầu tập sự đời linh mục
mai ngày 49*.
12. Thực tập
mục vụ. Ðể cho việc huấn luyện tu đức có căn bản vững chắc hơn và
để các chủng sinh quyết chí theo đuổi ơn thiên triệu với sự chấp nhận đã cân
nhắc chín chắn, các Giám Mục có bổn phận ấn định một thời gian thích hợp cho
việc huấn luyện tu đức sâu rộng hơn 50*. Các
ngài phải xét coi, nếu thuận tiện, thì gián đoạn việc học trong một thời gian
hoặc tổ chức kỳ thực tập mục vụ thích ứng để trắc nghiệm các ứng sinh Linh Mục
cách đầy đủ hơn. Các Giám Mục cũng phải tùy theo hoàn cảnh từng miền để quy định
nâng cao mức tuổi 51* chịu chức Thánh do
luật chung hiện thời ấn định, cũng như quyết định có nên cho các chủng sinh, sau
khi mãn ban Thần Học, thi hành chức vụ Phó tế trong một thời gian thích hợp,
trước khi được thụ phong Linh Mục 52*.
_________
Chú thích
35*
Chương này đề cập tới yếu tố quan trọng nhất trong việc đào tạo linh mục. Ðây là
kết quả của một việc làm lâu dài với nhiều thảo luận và biên soạn.
13 Xem
Piô XII, Tông hiến Menti Nostrae, 23-9-1950: AAS 42 (1950), trg 675. - Thánh Bộ
Chủng Viện và Ðại Học, La Formazione spirituale del candidato al sacerdozio,
Cita del Vaticano, 1965.
36* Ai
cũng biết sự quan trọng của việc hướng dẫn thiêng liêng để nhận thức và trưởng
thành trong ơn thiên triệu, và Sắc Lệnh cũng đã đề cập cách minh nhiên ngay từ
đầu chương nói về việc đào tạo thiêng liêng. Nhưng một vấn nạn có thể đặt ra:
Công Ðồng muốn chỉ có một vị linh hướng trong chủng viện, hay có thể được tự do
chọn lựa trong tất cả các linh mục ở chủng viện theo sở thích mỗi người? LTCB số
27 viết: Giữa các vị hữu trách của chủng viện, người ta đề cử một hay nhiều vị
linh hướng. Số 45 lập lại rằng việc đào tạo thiêng liêng là do ở các ngài. Số 23
khi nói về những nhóm nhỏ, có thêm rằng phải giữ được sự đào tạo kiến thức khoa
học. Khi bàn về bí tích Giải Tội và tinh thần sám hối, số 55 nói: mỗi người phải
có một vị linh hướng riêng để cởi mở tâm hồn với ngài, với lòng tin tưởng và
khiêm tốn, để được hướng dẫn chắc chắn trên con đường của Chúa. Chủng sinh sẽ tự
do chọn vị linh hướng và vị giải tội cho mình trong số các linh mục mà Giám Mục
đã chỉ định như là những vị có thẩm quyền về trách vụ này. Vậy còn vài mập mờ:
một đàng thì đồng nhất trong việc hướng dẫn, đàng khác thì tự do lựa chọn.
14 Xem
Thánh Piô X, Huấn dụ hàng Giáo sĩ Hacrent animo, 4-8-1908: S Pii X Acta, IV, trg
242-244. - Piô XII Tông huấn Menti Nostrae, 23-9-1950: AAS 42 (1950), trg
659-661. - Gioan XXIII, Tđ Sacerdotii Nostri Primodia, 1-8-1959: AAS 51 (1959),
trg 550 tt.
15 Xem
Piô XII, Tđ Mediator Dei, 20-11-1947: AAS 39 (1947), trg 547 tt và 572 tt. -
Gioan XXIII, Tông huấn Sacrae Laudis, 6-1-1962: AAS 54 (1962), trg 69. - CÐ vat.
II, De sacra Liturgia, s61 16 và 17: AAS 56 (1964), trg 104 tt. - Thánh Bộ Nghi
Lễ Instructio ad executionem Constitutionis de sacra liturgia recte ordinandam,
26-9-1964, số 14-17: AAS 56 (1964), trg 880 tt.
37*
Sau khi đề ra chiều hướng giáo thuyết, Công Ðồng trở lại những yếu tố thực tế
phát xuất từ đó. Ðức Piô XII trong "Menti nostrae" lập lại những điều Giáo luật
qui định (kh 1367): nguyện gẫm, lần hạt, cầu nguyện, viếng Thánh Thể xét mình
xưng tội thường xuyên, việc linh hướng, tĩnh tâm.
38* Ta
có thể đối chiếu cả chương này với những bản văn tương tự ở GH 28: PV. 5-7,
16-17, 47, 61, 90: LM 13, 18; MV. 43, 5,6: tinh thần các bản văn rõ ràng dựa
theo Thánh Kinh, tập trung vào Chúa Kitô và tuân phục Giáo Quyền.
16 Xem
Gioan XXIII, Tđ Sacerdotii Nostri Primordia: AAS 51 (1959), trg 556 tt.
17 Xem
CÐ Vat II, Hiến chế tín lý về Giáo Hội Lumen Gentium, số 28: AAS 57 (1965), trg
35 tt.
39*
Xem LTCB số 46-47.
40*
Ðây là chủ đề thông thường của Vat II, sự cởi mở với toàn thể Giáo Hội này phải
được ghi khắc trong lòng các linh mục tương lai: như Chúa Kitô, lòng họ phải
biết chấp nhận mọi người, mọi ngôn ngữ, chủng tộc và mọi quốc gia.
18
Thánh Augustinô, In Joanem tract 32: PL 35, 1946.
41*
Câu này nói về tinh thần phục vụ (đã được nhắc nhở trong các đoạn văn của Mc
10,45; Gio 13,12-17; 1Cor 9,10, và trong bản tóm kết chức vụ chủ chăn của Linh
Mục, số 4 của Sắc Lệnh này) nhằm chống lại tính khoa trương và đề cao giáo sĩ.
Ðó chính là ý lực đã được Công Ðồng lập đi lập lại mỗi khi đề cập về Giáo Hội
(xem GH 3, 2) về giám Mục (GH 27) hay về Linh Mục (LM 15).
42*
Chủ đề này sẽ trở lại trong số 11. Không phải sự vâng lời giản dị của tín hữu,
nhưng của linh mục. Sự vâng lời của linh mục đã được long trọng tuyên hứa trong
bí tích Truyền Chức, không phải chỉ để cho việc hoạt động tông đồ hữu hiệu,
nhưng là để sát nhập với Chúa Kitô đã vâng lời cho đến chết để cứu chuộc thế
gian, LTCB số 49 đã đề cập tới vấn đề này.
43*
Việc đòi hỏi linh mục phải phục vụ lại được LTCB, số 50 nhắc lại: "Ước gì họ tập
luyện, không chỉ bằng lời nói nhưng bằng việc làm, tinh thần nghèo khó đang được
Giáo Hội khẩn thiết kêu gọi và rất cần thiết để chu toàn thánh vụ tông đồ. Ước
gì họ biết dựa vào sụ quan phòng của Thiên Chúa Cha và theo gương Thánh Phaolô
giữ cho tâm hồn bình thản trong lúc dư dật cũng như khi bị khốn cùng (Ph 4,12)".
19 Xem
Piô XII, Tông huấn Menti Nostrae: AAS 42 (1950), trg 662 tt, 685, 690. - Gioan
XXIII, Tđ Sacerdotii Nostri Primordia: AAS 51 (1959), trg 551-553-556. - Phaolô
VI, tđ Ecclesiam Suam, 6-8-1964: AAS 56 (1964), trg 634 tt. - CÐ Vat II, Hiến
chế tín lý về Giáo Hội Lumen Gentium, nhất là số 8: AAS 57 (1965), trg 12.
44*
Cần đọc để bổ túc số này: GH 42; LM 16 và DT 5,12. Cũng không thề bỏ qua Thông
điệp "Sacerdotalis Caelibatus" của Ðức Phaolô VI, ngày 24-6-1967. LTCB số 48 lập
lại những phương thế bảo đảm: nhận biết đời sống độc thân là một đặc ân Chúa ban
và chấp nhận. Nhờ đời sống tràn đầy lời nguyện và kết hợp vơí Chúa Kitô và nhờ
tình yêu huynh đệ chân thành, họ sẽ tạo được những điều kiện cho phép họ có thể
bảo đảm đời sống đó trong niềm hoan lạc tâm hồn và quyết tâm trung thành với lễ
dâng đã một lần tự hiến.
20 Xem
Piô XII, Tđ Sacra Virinitas, 25-3-1954: AAS 46 (1954), trg 165 tt.
21 Xem
T. Cyprianô, De habitu virginum, 22: PL 4, 475. - T. Ambrosiô, De Virginibus I.
8,52: PL 16, 202 tt.
22 Xem
Piô XII, Tông huấn Menti Nostrae: AAS 42 (1950), trg 663.
23 Xem
Piô XII, Tđ Sacra virginitas, n.v.t. trg 170-174.
45*
Vậy họ phải "biết sử dụng sự tự do tâm lý trong cũng như ngoài, đạt được mức độ
trưởng thành tình cảm cần thiết để có thể chứng minh và sống đời độc thân như
một sự triển nở của nhân cách" (LTCB số 48).
24 Xem
Piô XII, Tông huấn Menti Nostrae, n.v.t. trg 664 và 690 tt.
46*
Theo bản văn này, sự trưởng thành "trọn vẹn hơn" dường như hệ tại "một tình yêu
chân thành, nhân loại, bằng hữu, cá nhân, và có thể hy sinh theo gương Chúa
Kitô, đối với tất cả mọi người và từng người. Trái lại phải tránh những liên lạc
"quá lố và kéo dài đối với mọi người khác phái". Sau cùng cần phải dựa trên sự
hộ giúp của Chúa và thực tập việc hãm mình, bảo vệ giác quan.
47* Sự
trưởng thành cần thiết hướng tới một nhân cách hoàn toàn.
25 Xem
Phaolô VI, Tông thư Summi Dei verbum, 4-11-1963: AAS 55 (1963), trg 991.
48*
Ðối với những đức tính tự nhiên nhằm chuẩn bị vị tông đồ tương lai. LTCB còn
thêm: luyện tập cách ý thức và cần mẫn một đức công bình, một đức tin thiện hảo
và giữa những đổi thay biết thận trọng hòa hợp với đức ái, tinh thần phục vụ
huynh đệ, nhiệt thành sống động, khả năng cộng tác với người khác... Ðể mang
Phúc Âm cho hết mọi người, họ phải tạo được khả năng giao tiếp với hết mọi người
trong mọi hoàn cảnh (x. LTCB số 51).
26 Xem
Piô XII, Tông huấn Menti Nostrae, n.v.t. trg 686.
49* Từ
những đòi hỏi thiêng liêng của những hoạt động trong đời sống linh mục. LTCB số
54 phác họa một mẫu sống cá nhân mà các linh mục tương lai phải sống ngay khi
còn ở Chủng Viện. Ðây những nét chính: sống thân mật và cần mẫn với Chúa, tôn
kính Lời Chúa, thích tiếp xúc với Chúa Kitô hiện diện trong bí tích Thánh Thể và
tìm thấy nơi đó nguồn vui; sốt sắng yêu mến Giáo Hội và Ðấng Ðồng Công Cứu Thế;
nhiệt thành tìm hiểu các Giáo Phụ và các Thánh; tập quen thành thực tự vấn lương
tâm và nhận thức các lý do thúc đẩy.
50*
Công Ðồng đổi mới ở chỗ này khi đề ra bốn phương cách khác nhau giúp cho sự
trưởng thành thiêng liêng và ơn kêu gọi: thời kỳ chuẩn bị gắt gao, thực tập mục
vụ, hạng tuổi cao hơn để lãnh chức và thực thi chức vụ phó tế. Theo lược đồ C
(số 17), thời kỳ chuẩn bị gắt gao nhằm huấn luyện thiêng liêng có thể thực hiện
hoặc trước khi vào thần học, hoặc ngay trước khi lãnh chức. Nơi nào triết học và
thần học cùng dạy chung tại một chủng viện, tốt nhất là nên ấn định thời kỳ này
vào lúc bắt đầu học triết. LTCB (số 42a) đề nghị như vậy và nhận định rằng nó có
thể trùng hợp với những bài học dẫn vào mầu nhiệm Chúa Kitô và mầu nhiệm Cứu
Chuộc, như số 14 của Sắc Lệnh ấn định: một thời gian dành riêng cho việc cầu
nguyện cá nhân, tăng gấp việc đào sâu thần học và Thánh Kinh về những nền tảng
đời sống thiêng liêng, cũng như việc học tập và dấn thân ý thức hơn, chọn lựa ơn
kêu gọi cách hữu lý hơn.
51*
Cho tới nay để lãnh các chức Thánh, Giáo luật đòi hỏi phải có số tuổi 21, 22 và
24 chẵn (kh 975). Các tâm lý gia đồng ý nhận định rằng trong thế giới ngày nay,
sự trưởng thành tâm lý rõ ràng chậm hơn sự trưởng thành thể lý và lý trí; hầu
như khắp nơi người ta thấy cần phải hoãn các chức lại vào lứa tuổi lớn hơn. Các
Giám Mục hữu trách các chủng viện sẽ theo các điều kiện địa phương mà xác định
số tuổi tối thiểu. Người ta còn thấy rằng chính các thanh thiếu niên cũng cảm
thấy chưa đủ chín mùi để dấn thân hoàn toàn và thường xin hoãn việc chịu chức.
52*
Việc thi hành chức vụ phó tế không bắt buộc nhưng chỉ là yêu cầu (M 84/5 và 4).
Theo thuyết trình viên của ủy ban việc thi hành có bốn lợi điểm sau đây: chuyển
tiếp thích hợp tới chức vụ linh mục dưới sự hướng dẫn của một linh mục được chọn
lựa kỹ lưỡng; ơn gọi được chín mùi và tăng triển; khi trở về chủng viện biết lợi
dụng các môn học cách thích đáng hơn và biết bổ túc việc huấn luyện mục vụ; khả
năng của ứng viên được nhận biết rõ ràng hơn.
|
VỀ MỤC LỤC |
|
ĐÁ TẢNG ĐỨC TIN (HIỆP SỐNG
TIN MỪNG LỄ THÁNH PHÊ-RÔ VÀ PHAO-LÔ)
|
CHÚA NHẬT
XIII THƯỜNG NIÊN A
LỄ THÁNH
PHÊ-RÔ VÀ PHAO-LÔ
Cv 12,1-11
; 2 Tm 4,6-8.17-18 ; Mt 16,13-19
I. HỌC LỜI CHÚA
1. TIN MỪNG:
(13) Khi Đức
Giêsu đến vùng kế cận thành Xê-da-rê Phi-líp-phê, Người
hỏi các môn đệ rằng: “Người ta nói Con Người là ai?”
(14) Các ông thưa: “Kẻ thì nói là ông Gio-an Tẩy Giả, kẻ
thì bảo là ông Ê-li-a, có người lại cho là ông
Giê-rê-mi-a hay một trong các vị ngôn sứ”. (15) Đức Giêsu
lại hỏi: “Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai ?” (16) Ông
Si-mon Phê-rô thưa: “Thầy là Đấng Ki-tô, Con Thiên Chúa
hằng sống”. (17) Đức Giêsu nói với ông: “Này anh Si-mon
con ông Giô-na, Anh thật là người có phúc, vì không phải
phàm nhân mặc khải cho anh điều đó, nhưng là Cha của
Thầy, Đấng ngự trên trời. (18) Còn Thầy, Thầy bảo cho
anh biết: Anh là Phê-rô, nghĩa là Tảng Đá. Trên Tảng Đá
này, Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy. Và quyền lực tử
thần sẽ không thắng nổi. (19) Thầy sẽ trao cho anh chìa
khóa Nước Trời. Dưới đất, anh cầm buộc điều gì, trên
trời cũng sẽ cầm buộc như vậy. Dưới đất, anh tháo cởi
điều gì, trên trời cũng sẽ tháo cởi như vậy”.
2. Ý CHÍNH:
HỘI THÁNH ĐƯỢC XÂY TRÊN ĐÁ TẢNG ĐỨC
TIN CỦA THÁNH PHÊ-RÔ.
Sau khi
Si-mon đại diện cho Nhóm Mười Hai khẳng định Đức Giêsu là
Đấng Ki-tô, Con Thiên Chúa hằng sống, ông đã được Người
khen là có phúc, được đổi tên thành Phê-rô và được hứa
xây Hội Thánh trên nền tảng đức tin mà ông vừa tuyên
xưng, tiên báo Hội Thánh ấy sẽ trường tồn, bất chấp ma
quỷ chống phá. Sau cùng Người cũng trao cho ông chìa
khóa Nước Trời với quyền cầm buộc và tháo cởi.
3. HỎI ĐÁP VÀ CHÚ THÍCH:
HỎI 1: Khi
thay mặt anh em tuyên xưng Đức Giêsu là “Con Thiên Chúa
hằng sống”, phải chăng ông Si-mon có ý nói về bản tính
Thiên Chúa của Người ?
ĐÁP:
Có lẽ khi
tuyên xưng Đức Giêsu là “Con Thiên Chúa hằng sống”, Phê-rô
vẫn chưa hiểu rõ ý nghĩa của tước hiệu ông nói. Ông
chỉ muốn giải thích ý nghĩa của tước hiệu Đấng Ki-tô,
theo lời ngôn sứ Na-than tuyên sấm về người con sẽ nối
nghiệp vua Đa-vít như sau: “Khi ngày đời của ngươi đã mãn
và ngươi đã nằm xuống với cha ông, Ta sẽ cho dòng dõi
ngươi đứng lên, kế vị ngươi một người do chính ngươi sinh
ra, và Ta sẽ làm cho vương quyền nó được vững bền.
Chính nó sẽ xây một nhà để tôn kính Danh Ta, và Ta sẽ
làm cho ngai vàng của nó vững bền mãi mãi. Đối với
nó, Ta sẽ là Cha. Đối với Ta, nó sẽ là con” (2 Sm
7,12-14). Lời ấy đã không ứng nghiệm nơi vua Sa-lô-mon. Từ
đó, dân Do thái hằng trông mong Đấng Thiên Sai thuộc dòng
dõi vua Đa-vít sẽ đến. Về sau, trong cuộc khải hoàn vào
thành Giê-ru-sa-lem, Đức Giêsu cũng được dân chúng ca tụng
bằng tước hiệu "Con Vua Đa-vít" này (x. Mt 21,9). Khi tuyên
xưng Đức Giêsu với tước hiệu "Con Thiên Chúa hằng sống",
Phê-rô chưa hiểu ý nghĩa lời ông nói. Sau đó, Đức Giêsu
đã cho biết ý nghĩa của tước hiệu này chỉ về bản tính
Thiên Chúa của Người, khi khen ông có phúc vì đã được
Chúa Cha thương mặc khải sự thật ấy (x Mt 16,17).
HỎI 2: Tại
sao Đức Giêsu đổi tên Si-mon thành Phê-rô ? Việc đổi tên
chính xác xảy ra vào lúc nào: Khi vừa gặp mặt (x Ga
1,42), khi thành lập Nhóm Mười Hai (x Mc 3,16; Lc 6,14) hay
sau khi Phê-rô tuyên xưng đức tin (x Mt 16,18) ?
ĐÁP:
Có thể Đức
Giêsu đã đặt tên Phê-rô cho Si-mon khi vừa gặp mặt (x. Ga
1,42), hay khi thành lập Nhóm Mười Hai (x. Mc 3,16; Lc
6,14). Tuy nhiên có lẽ việc đổi tên xảy ra sau lời tuyên
xưng đức tin của Si-mon là hợp lý nhất (x. Mt 16,18), vì
sau khi đổi tên, Đức Giêsu đã nhấn mạnh vai trò quan
trọng của ông trong Hội Thánh: Đức tin của Phê-rô vào
Đức Giêsu chính là tảng đá vững chắc mà trên đó Chúa
xây dựng Hội Thánh. Ngoài ra Đức Giêsu còn trao tối
thượng quyền để cầm buộc và tháo cởi (x. Mt 16,18-19).
Ngưới cũng cho Phê-rô đứng đầu Nhóm Mười Hai (x Mt 10,2),
và hứa sẽ cầu nguyện để ông kiên vững đức tin, hầu
củng cố đức tin cho các anh em (x. Lc 22,32). Cuối cùng,
Chúa còn trao quyền chăn dắt đoàn chiên Hội Thánh cho ông
(x.Ga 21,15-17).
HỎI 3: Một
số người cho rằng: Si-mon Phê-rô là một người đầy khuyết
điểm và đã từng phạm tội chối Thầy ba lần, thì làm
sao xứng đáng lãnh đạo Hội Thánh và thi hành quyền cầm
buộc và tháo cởi được?
ĐÁP:
Từ ngày
được Đức Giêsu gọi đi theo làm môn đệ, Si-mon đã phạm
nhiều sai lầm. Chẳng hạn: Ông bị Thầy quở trách vì đã
suy nghĩ theo kiểu khôn ngoan của loài người (x. Mt 16,23);
Bị trách là kẻ hèn tin khi đang đi trên mặt nước (x. Mt
14,31); Bị Thầy đe không cho dự phần với Thầy, vì đã từ
chối khi được Thầy rửa chân (x. Ga 13,8-10); Nhất la quá
tự tin vào sức riêng nên đã hèn nhát chối Thầy ba lần,
dù đã được Thầy cảnh báo trước (x. Mc 14,30.66-72).
Nhưng Si-mon
Phê-rô cũng có những ưu điểm xứng đáng được Đức Giêsu
tín nhiệm trao quyền lãnh đạo Hội Thánh. Chẳng hạn:
tại thành Xê-da-rê Phi-líp-phê, ông đã tuyên xưng đức tin:
“Thầy là Đấng Ki-tô, Con Thiên Chúa hằng sống”, nên đã
được đổi tên thành Phê-rô, và được trao quyền tối thượng
cầm buộc và tháo cởi (x. Mt 16,18-19). Có lần ông được
Đức Giêsu hứa sẽ cầu nguyện cho để luôn kiên vững đức
tin, và trao sứ mệnh củng cố đức tin cho anh em (x. Lc
22,32). Phê-rô cũng rất nhiệt tình, thường đại diện anh
em trả lời những vấn nạn của Thầy (x. Lc 5,3-10), đại
diện Nhóm 12 tuyên xưng đức tin vào lời Chúa dạy về
Bánh Thánh Thể, đang khi nhiều môn đệ khác chán nản rút
lui (x. Ga 6,68). Nhờ kiên vững đức tin, nên ông đã được
Đức Giêsu đặt đứng đầu Nhóm Mười Hai (x. Mt 10,2), được
đi trên mặt nước (x Mt 14,28-32), trở thành một trong ba
môn đệ thân tín nhất được chứng kiến cuộc hiển dung của
Người (x. Mt 17,1), chứng kiến phép lạ bé gái đã chết
được sống lại (x. Mt 5,37), và nhất là chứng kiến giây
phút Thầy hấp hối trong vườn Cây Dầu (x. Mt 26,37).
Tuy có lần
sa ngã phạm tội, nhưng Phê-rô đã lập tức sám hối (x. Mt
26,69-75). Nhờ yêu Chúa nhiều hơn anh em, nên ông đã được
Người tha thứ và còn trao nhiệm vụ lãnh đạo đoàn chiên
(x. Ga 21,15-17). Chính lòng yêu mến Đức Giêsu đã thúc
bách Phê-rô chạy thi với Gio-an ra mồ và đã sớm tin Thầy
sống lại (x. Ga 20,1-9). Phê-rô cũng được Chúa Phục Sinh
hiện ra (x. Lc 24,34), được cùng anh em lãnh nhận ơn Thánh
Thần và đi rao giảng Tin Mừng khắp nơi (x. Cv 2,14-36),
chữa lành nhiều bệnh nhân (x. Cv 9,33-35.40-41), chủ tọa
công nghị Giê-ru-sa-lem năm 49 (x. Cv 15,5-29). Cuối cùng ông
đã can đảm trở lại thành Rô-ma để sẵn sàng bị bắt và
chịu khổ hình thập giá dưới thời hoàng đế Nê-rô (năm
64-67). Cái chết của Phê-rô chứng tỏ lòng mến Chúa, và
nêu gương đức tin vững chắc như đá tảng, để các tín hữu
chúng ta noi theo.
II. HỌC SỐNG LỜI CHÚA:
1. LỜI CHÚA:
“Còn Thầy, Thầy bảo cho anh biết: Anh là Phê-rô, nghĩa
là Tảng Đá, trên tảng đá này, Thầy sẽ xây Hội Thánh
của Thầy, và quyền lực tử thần sẽ không thắng nổi.
Thầy sẽ trao cho anh chìa khóa Nước Trời. Dưới đất, anh
cầm buộc điều gì, trên trời cũng sẽ cầm buộc như vậy.
Dưới đất, anh tháo cởi điều gì, trên trời cũng sẽ tháo
cởi như vậy” (Mt 16,18-19).
2. CÂU CHUYỆN:
PHẢI LÀM GÌ ĐỂ NÊN GIỐNG CHÚA GIÊSU ?
Ngày xưa,
một vị vua nước Hy Lạp tổ chức một cuộc thi làm tượng
ảnh nghệ thuật: các nghệ nhân sẽ tạc tượng hoặc làm
tranh tượng chân dung của nhà vua. Vua hứa sẽ ban thưởng
lớn cho những tác phẩm nào giống ngài nhất. Nghe thông
báo, các nghệ nhân từ khắp các nước đã ùn ùn đến Hy
Lạp để xin ứng thí. Nghệ nhân Ấn-độ thì mang theo dụng
cụ để chạm trổ đồ kim hoàn vàng bạc và các loại ngọc
trai quý giá. Nghệ nhân Ai Cập thì mang theo đồ nghề đục
đẽo đá quý và một khối đá cẩm thạch rất đẹp. Ai cũng
quyết tâm giành giải thưởng. Riêng nghệ nhân nước chủ
nhà Hy Lạp chỉ đến ứng thí với bộ đồ gọt dũa đánh
bóng đơn giản.
Mỗi đoàn
dự thi được ban tổ chức bố trí ăn ở và làm việc tại
một phòng trong khu vực hoàng cung. Tới ngày thi, nhà vua
ra lệnh mỗi đoàn phải hoàn thành tác phẩm trong thời
hạn một tuần lễ. Thế là các nghệ nhân vội vàng bắt tay
vào việc. Họ đục đẽo, chà sát, đánh bóng để khắc họa
chân dung của nhà vua Hy Lạp cho giống như người thật. Khi
một tuần trôi qua, nhà vua truyền đem các tác phẩm đến
trưng bày tại đại sảnh trong hoàng cung để nhà vua và
bá quan trong triều đến chấm điểm. Khi thấy những tác
phẩm dự thi họa lại chân dung của mình do các nghệ nhân
Ấn Độ, Ai Cập và nhiều nước khác sáng tác. Nhà vua
hết sức hài lòng. Theo ngài thì mỗi bức tượng, tranh
tượng phù điêu đều có những đường nét tinh vi sắc sảo,
nhìn giống hệt khuôn mặt của ngài. Các tác phẩm ấy
được tạc vẽ từ đất nung, từ đá cẩm thạch hay các loại
vàng bạc quý kim khác. Cuối cùng khi đến chỗ trưng bày
tác phẩm của các nghệ nhân Hy Lạp thì ngài lấy làm
ngạc nhiên vì không thấy bất cứ bức tượng hay tranh
tượng nào, mà chỉ thấy một phiến đá cẩm thạch trắng,
được các nghệ nhân đánh bóng. Nhà vua liền hỏi xem tác
phẩm đâu, thì một người đưa ngài đến đứng trước phiến
đá và chỉ vào chân dung của ngài hiện ra trong đó. Nhìn
thấy hình ảnh trung thực của mình, nhà vua đã hiểu ra
và hết sức cảm động. Ngài nhận xét các bức tranh hay
tượng khác, dù có giống ngài nhưng chúng không sống
động và rõ ràng như hình ảnh được phản chiếu từ chính
con người thật của ngài. Nhà vua đã chấm cho tác phẩm
của đoàn nghệ thuật Hy Lạp hạng nhất. Còn các tác
phẩm khác cũng được xếp hạng và đều có phần thưởng
tương xứng với giá trị của chúng. Sau đó, tất cả các
tác phẩm đều được trưng bày tại viện bảo tàng quốc gia
cho dân chúng tự do chiêm ngưỡng.
3. SUY NIỆM:
Muốn trở
nên tông đồ của Chúa Giesu, các tín hữu trước hết phải
sống tình yêu thương noi gương Chúa Giêsu. Tiếp đến hàng
ngày phải thanh luyện bản thân, đục đẽo đi những gồ
ghề, chà xát các chỗ bị thô nhám, nghĩa là bỏ đi sự
gian ác khó tính, tẩy sạch các vết nhơ tội lỗi. Phải
làm cho linh hồn mình ngày càng trong sạch và thánh
thiện giống như chiếc gương soi. Chính nhờ siêng năng nghe
Lời Chúa và rước lễ hàng ngày, nhờ biết xét mình mỗi
tối trước khi đi ngủ, nhờ cố gắng noi gương Chúa Giêsu
với cái nhìn bao dung nhân từ, ăn nói điềm đạm, thái độ
vui vẻ chân thành, giao tiếp thân tình, ứng xử hiền hòa,
khiêm tốn phục vụ tha nhân… mà chúng ta hy vọng sẽ dần
dần trở thành tấm gương phản chiếu hình ảnh từ bi nhân
hậu của Người. Để khi có dịp tiếp xúc với chúng ta,
người lương sẽ cảm mến và tin theo Chúa Giêsu, vì họ đã
gặp được Người nơi mỗi chúng ta. Đó chính là phương
cách làm việc tông đồ hữu hiệu nhất trong thế giới hôm
nay.
4. THẢO LUẬN:
Đối với bạn, Đức Giêsu là ai: Là một
vị ngôn sứ, nên ta có thể xin Người cầu bầu cùng Chúa
cho ta; hay là một thần tượng để ta thán phục; hay chính
là Đấng Thiên Sai Con Thiên Chúa, để ta tin và sẵn sàng
bỏ mọi sự mà đi theo làm môn đệ Người, sẵn sàng vác
thập giá là những đau khổ phải chịu để kết hiệp với
Người cứu rỗi tha nhân?
5. CẦU NGUYỆN:
- LẠY CHÚA
GIÊSU. Chúng con cũng muốn được góp phần xây dựng Hội
Thánh. Nhưng để làm được như vậy, chúng con phải có đức
tin mạnh mẽ như thánh Phê-rô. Xin Chúa cho chúng con trở
thành những viên đá đức tin sống động vững chắc, làm
thành nền móng xây nên tòa nhà Hội Thánh. Xin Chúa hãy
giúp chúng con tránh những lời nói khó ưa, những hành
động vụ lợi ích kỷ, để sống hòa hợp với tha nhân. Xin
giúp chúng con loại bỏ những đam mê bất chính và các
thói hư tật xấu, loại bỏ tính háo danh, thói ưa châm
chọc chỉ trích kẻ khác, những tư tưởng tự mãn và hẹp
hòi… Nhờ đó, chúng con có thể trở thành chứng nhân của
Chúa. Ngôi nhà Hội Thánh sau hai ngàn năm vẫn còn đang
xây dựng dang dở. Xin Chúa giúp mỗi người tín hữu chúng
con tích cực góp phần xây dựng để ngôi nhà Hội Thánh
sớm được hoàn thành. Xin cho chùng con luôn sống yêu
thương hòa thuận để gia đình và Giáo Xứ chúng con trở
thành một cộng đoàn yêu thương hiệp nhất và bình an.
Nhờ đó nhiều người sẽ nhận biết tin thờ Chúa và sau
này cùng được chia sẻ niềm vui ơn cứu độ với chúng con.
X) HIỆP
CÙNG MẸ MA-RI-A.-
Đ) XIN CHÚA
NHẬM LỜI CHÚNG CON.
LM ĐAN
VINH |
VỀ MỤC LỤC |
|
CHÚA KITÔ HIỆN DIỆN TRONG TRẦN THẾ DƯỚI NHỮNG HÌNH THỨC NÀO ?
|
Hỏi: xin cha
giải thích rõ những hình thức hiện diện khác nhau, của Chúa
Giêsu-Kitô trong trần thế và cách hiện diện nào là quan trọng
nhất.
Trả lời:
Chúa Giê su-Kitô vừa là Thiên Chúa thật đồng bản tính với Chúa
Cha và Chúa Thánh Thần. Chúa cũng là Con Người thật, sinh bởi
Đức Trinh Nữ Maria nhờ quyền năng của Chúa Thánh Thần. Là Con
Người, nên Chúa vừà có nhân tính ( Humanity) vừa có Thiên Tính (
Divinity). Nhưng hai bản tính này kết hợp chặt chẽ với nhau đến
mức không thể tách rời ra được. Nghĩa là không khi nào Chúa
Giêsu ngưng là Con Người để chỉ là Thiên Chúa , và ngược lại,
cũng không khi nào Ngài chỉ là Thiên Chúa và ngưng là Con Người.
Là Con Người, Chúa
đã mang xác phàm để chia sẻ thân phận con người với nhân loại
trong mọi phạm trù, trừ tội lỗi..Người đã chịu khổ hình thập
giá, chết, sống lại và lên trời, ngự bên hữu Chúa Cha và sẽ trở
lại trong vinh quang để phán xét kẻ sống và kẻ chết như chúng ta
tuyên xưng trong Kinh Tin Kính các ngày Chúa Nhật và Lễ Trọng .
Trước khi về trời, Chúa Giêsu đã nói với các Tông Đồ như sau:
“….Và
đây Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế.” (Mt 28:20).
Thánh Công Đồng
Vaticanô II, trong Hiến Chế về Phụng Vụ Thánh (Sacrosanctum
Concilium (SC ) cũng dạy và quảng diễn rõ ràng thêm về sự hiện
diện của Chúa Kitô trong trần thế như sau: “ Chúa Kitô hằng
hiện diện trong Giáo Hội nhất là trong các hoạt động phụng vụ.
Người hiện diện trong Hy Tế không những trong con người thừa tác
viên, vì “như xưa Người đã tự dâng mình trên thập giá thì nay
chính Người cũng dâng mình nhờ thừa tác vụ của linh mục”, mà
nhất là hiện diện thực sự dưới hai hình Thánh Thể. Người hiện
diện trong các bí tích nhờ quyền năng của Người; vì thế ai rửa
tội chính là Chúa Kitô rửa. Người hiện diện trong lời của Người,
vì chính Người nói khi người ta đọc Kinh Thánh trong Giáo Hội.
Sau hết, Người hiện diện khi Giáo Hội cầu khẩn và hát Thánh Vinh.”
(SC, số 7).
Nói rõ hơn, Chúa
Kitô hiện diện cụ thể trong những hoàn cảnh sau đây:
1. Khi
Giáo Hội cử hành các bí tích, đặc biệt là bí tích Thánh Thể:
Chúa hiện diện trong các thừa tác viên có chức thánh và được
phép cử hành Thánh Lễ Tạ Ơn ( Eucharist) là Giám muc, và Linh
mục . Ngoài ra, khi thừa tác viên con người như Phó tế, Linh Mục
và Giám mục cử hành bí tích nào thì chính Chúa Kitô hiện diện
và cử hành bí tích ấy qua tay các thừa tác viên. Nghĩa là chính
Chúa Kitô rửa tội, thêm sức, tha tội và nhất là cử hành Thánh lễ
Tạ Ơn (Eucharist), cũng như chính Người xức dầu bệnh nhân, chứng
và chúc hôn phối qua các thừa tác viên loài người. Các thừa tác
viên này chỉ cử hành các bí tích nhân danh Chúa Kitô là Đầu mà
thôi (in persona Capitis)
2. Khi
Giáo Hội cử hành phụng vụ Lời Chúa và cầu nguyện thì Chúa Kitô
hiện diện trong lời được công bố, trong người công bố và
trong cộng đoàn đang tụ họp để lắng nghe và cầu nguyện, vì
“ở đâu
có hai, ba người họp lại nhân danh Thầy thì có Thầy ở đấy, giữa
họ.”(Mt 8:20)
3. Đặc
biệt và quan trong nhất là sự hiện diện của Chúa trong bí tích
Thánh Thể: Phải nhấn mạnh riêng ở đây, vì chỉ trong bí tích
Thánh Thể được cử hành trong khuôn khổ Thánh lể Tạ Ơn (The
Eucharist) mà Chúa Kitô hiện diện thực sự (vere = real) và trọn
vẹn là Thiên Chúa và là Con Người thật trong hình bánh và hình
rượu, sau khi Giám mục hay Linh mục đọc lời truyền phép
(consecration words) tức là nhắc lại lời Chúa Kitô đã nói khi
Người bẻ bánh và trao chén cho các Tông Đồ trong Bữa Tiệc ly sau
hết, trước khi Người thọ nạn thập giá.(x. 1 Cor 11:23-25). Sự
hiện diện này đặc biệt hơn mọi hiện diện khác của Chúa Kitô
trong trần gian như Giáo Hội xác tín. (CĐ Triđentinô ngày
11-10-1551). Vì thế, ta chỉ phải cung kính thờ lậy Chúa Kitô
trong bí tích Thánh Thể mà thôi, trong khi không phải bầy tỏ cử
chỉ thờ kính này trong các hoàn cảnh hiện diện khác của Chúa
Kitô. Nói rõ hơn, khi giám mục, linh mục hay phó tế cử hành bí
tích rửa tội, Chúa Kitô hiện diện và rửa tội qua tay các thừa
tác viên này. Nhưng không ai phải bái lậy, tôn thờ sự hiện diện
của Chúa nơi các vị này, như thờ lậy Chúa thực sự hiện diện
trong hình bánh và rượu nho mỗi khi ta tham dự thánh lễ Misa.
Xin nhớ kỹ điều này.
4. Cũng
vậy, các ảnh tượng của Chúa Kitô trong nhiều hoàn cảnh như một
hai nhi nằm trong máng cỏ, như Chúa bị đóng đinh trên thập giá
v.v chỉ là các á bí tích để giúp nâng tâm hồn chúng ta lên với
Chúa đang ngự trên Trời, bên hữu Chúa Cha chứ không thực sự hiện
diện nơi các ảnh tượng đó như Người hiện diện thực sự nơi bí
tích Thánh Thể.
5. Lại
nữa, qua dụ ngôn về Ngày Phán Xét chung trong Tin Mừng Thánh
Matthêu, chúng ta thấy Chúa Kitô đã tự đồng hóa mình với những
người nghèo đói , vô gia cư, thất nghiệp, đau ốm và bị tù đầy
nơi các ngục thất để thách đố chúng ta nhận ra Người nơi các
anh chị em không may mắn đó để thực thi bác ái với họ bằng
hành động cụ thể là giúp đỡ, chia sẻ với họ những gì mình may
mắn có .(Mt 25:31-45). Nói khác đi, chính Chúa Kitô đang hiện
diện cách bí nhiệm ngày nay nơi những anh chị em đáng thương
này.Nhưng sự hiện diện của Chúa ở đây không giống sự hiện diện
thực sự của Người nơi bí tích Thánh Thể. Cho nên, chúng ta không
thờ lậy Chúa nơi những người nghèo đói, bệnh tật mà chỉ nhìn
nhận có Chúa Kitô nơi họ để không làm ngơ hay vô cảm trước sự
đau khổ , bệnh tật và nghèo đói của những anh chị em kém may
mắn đó mà thôi; vì nếu làm ngơ hay vô cảm đối với họ là dửng
dưng với chính Chúa Kitô theo tinh thần dụ ngôn ngày phán xét
chung nói trên.
6. Sau hết, ngoài các hình
thức khác nhau nói trên về sự hiện diện của Chúa Kitô trong trần
thế, còn một cách hiện diện rất thân tình nữa là sự hiện diện
của Chúa Kitô trong tâm hồn mỗi người tín hữu chúng ta, khi
chúng ta sống trong ơn nghĩa Chúa là yêu mến Chúa như Người đã
nói với các môn đệ xưa :
" Ai yêu mến Thầy
thì sẽ giữ lời Thầy
Cha của Thầy sẽ
yêu mến người ấy
Cha của Thầy và Thầy sẽ đến và ở
lại với người ấy."( Ga 14: 23)
Như thế có nghĩa là
nếu ta thực tâm yêu mến Chúa Kitô và cương quyết xa tránh mọi
tội lỗi , nhất là tội trọng, thì Chúa sẽ đến ngự trị trong
linh hồn ta. Và ở đâu có Chúa Con thì ở đó có Chúa Cha và Chúa
Thánh Thần trong Mầu Nhiệm Ba Ngôi Một Thiên Chúa duy nhất, đồng
bản thể ( consubstantial) và uy quyền như nhau. Như vậy, thật
hạnh phúc biết bao cho ta khi có Chúa cư ngụ trong tâm hồn và
đồng hành với ta trong cuộc sống mỗi ngày.Chúng ta phải rất chân
quý sự hiện diện này của Chúa Kitô trong tâm hồn mỗi người chúng
ta để có thể tâm sự thân mật với Chúa khi vui khi buồn, khi
thành công, lúc thất bại gặp gian nan, khó khăn trong cuộc sống
trên trân gian này.
Tóm lại, trên đây
là tất cả những hình thức hiện diện khác nhau của Chúa
Giêsu-Kitô trong mỗi người tín hữu và trong trần gian này, sau
khi Người về trời cách nay trên 2000 .Chúng ta tôn kính và thờ
lậy Chúa Kitô cách riêng trong bí tích Thánh Thể, cũng như tin
có Chúa ngự trong tâm hồn mỗi người chúng ta khi ta sạch tội ,
nhất là tội trọng vì tội này tức khắc cắt đứt mọi thân tình
giữa ta với Chúa là Đấng trọn tốt trọn lành. Cho nên Người sẽ
không thể "chung sống" hay cho ta được hiệp thông trọn vẹn với
Người trong tình yêu khi ta cả lòng phạm những tội gớm ghê như
giết người, giết thai nhi, căm thù muốn hại ai, hay đam mê thú
dâm dục ngoài mục đích của hôn nhân chân chính, cho phép con
người được hưởng thú vui phái tính ( sexuality) với mục đích
biểu lộ tình yêu và cộng tác với Chúa trong mục đích truyền
sinh.
Chúng ta tôn thờ
Chúa trong Phép Thánh Thể vì đây là sự hiện diện quan trọng nhất
của Chúa Kitô trong trần thế, và nâng tâm hồn lên với Chúa qua
những phương tiện hữu hình là các ảnh tượng của Chúa được
trưng bày ở các nơi thờ phượng, cũng như nơi những anh chị em
đang đau khổ, bệnh tật và nghèo đói mà Chúa Kitô đang dồng hóa
với họ để thách đố chúng ta nhìn thấy Chúa nơi những anh chị em
kém may mắn này để tỏ lòng bác ái, cảm thương và giúp đỡ họ
cách thiết thực, như Chúa mong đợi nơi mỗi người tín hữu chúng
ta.
Vậy chúng ta có
thực sự tin Chúa Kitô đang hiện diện nơi những anh chị em đau
khổ đó , và nhất là có muốn cho Chúa luôn cư ngụ trong tâm hồn
mỗi người chúng ta như Người mong muốn hay không ?
Ước mong mỗi người
tự trả lời cho câu hỏi này.
LM Phanxicô Xaviê Ngô Tôn Huấn.
|
VỀ MỤC LỤC |
|
Cổ võ
ơn gọi linh mục là một thách đố thường
xuyên cho Giáo Hội |
WHĐ (26.06.2012)
/ VIS – Sáng 25 tháng Sáu, một
cuộc họp báo đã được tổ chức tại Văn phòng báo chí Tòa
Thánh để trình bày tài liệu “Hướng
dẫn Mục vụ Cổ võ
Ơn gọi Linh mục”.
Chủ trì cuộc họp báo là Đức hồng
y Zenon Grocholewski - Bộ trưởng
Bộ Giáo dục Công giáo, Đức
Tổng giám mục
Jean-Louis Brugues OP - Thư ký, và
Đức ông Angelo Vincenzo Zani - Phụ tá
thư ký.
Đức hồng y Grocholewski
cho biết Hội nghị khoáng đại năm 2005 của Bộ
đã đưa ra đề nghị soạn tài liệu này và
việc khởi thảo đã bắt đầu vào
năm 2008 dựa trên
những trả lời và góp ý của
các Hội đồng Giám
mục. Văn bản cuối cùng đã được Đức Thánh
Cha phê chuẩn vào ngày 25 tháng Ba
2012, kỷ niệm 20 năm ban hành
Tông huấn
Pastores Dabo vobis.
Tài liệu này chia thành ba phần: phần
thứ nhất xem xét tình hình hiện tại của
ơn gọi linh mục trong thế giới ngày nay và các hình thức chăm
sóc mục vụ ơn gọi. Phần thứ
hai phân tích căn tính
của chức linh mục thừa tác và
phần thứ ba đưa ra
một số gợi ý về việc chăm
sóc mục vụ ơn gọi. ĐHY cho biết, chìa
khóa để hiểu văn bản này là ý tưởng
“cổ võ ơn gọi linh mục là một thách
đố thường xuyên cho Giáo Hội”.
Phần một của tài liệu xác định ba yếu tố cản trở
việc chăm sóc mục vụ ơn gọi, rõ rệt nhất là nơi các
giáo hội
thuộc truyền thống Kitô giáo lâu đời
phương Tây: tỷ lệ sinh giảm sút
và cuộc khủng hoảng trong gia đình, não
trạng tục hóa lan tràn,
và các linh mục phải sống và thi
hành sứ vụ trong các
hoàn cảnh khó khăn.
ĐHY Grocholewski nói: “Quan tâm đến
những khó khăn này, tài
liệu đề ra các điều kiện cần thiết để đảm
bảo rằng ơn gọi sẽ gặp được mảnh
đất màu mỡ trong Giáo Hội, và người trẻ
sẵn sàng mở lòng ra với
ơn gọi linh mục”. Những điều kiện
ấy bao gồm “việc vun xới
một mảnh đất hiệu quả cho đời sống Kitô
hữu trong cộng đoàn giáo hội; chức năng
không thể thay thế được của cầu nguyện;
... tầm quan trọng của việc chăm sóc mục
vụ mang tính hội nhập; ... một nỗ
lực mới trong việc rao
giảng Tin Mừng và truyền giáo... vai trò
trung tâm của gia đình, ... một chứng từ về đời
sống
đầy ý nghĩa
và tươi vui của
linh mục; ... hiệu quả của công việc tình nguyện mang
tính giáo dục, ... và tầm quan trọng của
nhà trường và các đại học”.
Đức Tổng giám mục
Brugues giới thiệu phần hai
của tài liệu gồm một số yếu tố cụ thể
“cần được nhấn mạnh, vì những yếu tố này
đang bị đe dọa hoặc làm cho lu mờ
và bị gạt sang một bên
vì những khó khăn
nghiêm trọng
trong đời sống Giáo Hội và nền
văn hóa đương đại. Nguy cơ này
gây ra những lệch lạc nguy hiểm cho
giá trị của ơn gọi sứ vụ linh mục”.
Những yếu tố này là “xu
hướng dần dần biến đổi chức linh mục
thành một nghề”.
Xu hướng này có thể dẫn tới “nguy
cơ của chủ nghĩa hoạt động quá mức,
một thứ chủ nghĩa cá nhân ngày
càng đậm nét vốn thường giam hãm các linh mục
vào nỗi cô đơn
hằn học và
gây thất vọng, và tới sự
lẫn lộn các vai trò trong Giáo Hội;
sự lẫn lộn này
xảy ra
khi chúng ta đánh mất cảm thức về
việc phân biệt giữa vai trò và trách nhiệm, và
mọi người không cùng hợp tác trong một sứ
vụ duy nhất được ủy thác
cho dân Chúa”.
Phần hai cũng nhấn mạnh thực tế là sứ vụ linh
mục phải được hiểu “trong khuôn khổ của
một cuộc đối thoại tình yêu giữa Thiên Chúa và con
người. Cuộc đối thoại này,
dù vẫn có trong
mọi ơn gọi Kitô hữu, nhưng lại
có những đặc tính của một
lời mời gọi xây dựng mối tương
quan điển hình, bền vững
và mang tính đòi hỏi với chính
Chúa Giêsu, gương mẫu độc
nhất của chức linh mục trong Tân Ước ...
Mối tương quan mới
và cụ thể này với Chúa Giêsu làm cho
người được gọi đi vào trong tương quan
bình đẳng mới và cụ thể với cộng đoàn
Kitô hữu”.
Cuối cùng, phần ba của tài liệu tập trung vào
một số khía cạnh của việc đào tạo thừa
tác vụ linh mục. Đó là “một kinh nghiệm
sâu sắc của cuộc sống cộng đoàn để tránh
các hình thức mới của chủ nghĩa giáo sĩ
trị; … hội
nhập trọn vẹn và sự trưởng thành
về tình cảm; ... tham
dự tích cực vào đời sống Giáo Hội, cụ
thể là Giáo Hội địa phương của
mình với lòng yêu mến; .. quảng đại
mở lòng với các
chiều kích hoàn vũ của sứ vụ;
... vai trò quyết định của những người đồng
hành với ơn gọi và ... giới thiệu các
mẫu gương linh mục”.
Kết thúc cuộc họp báo, Đức ông
Angelo Vincenzo Zani nói tài liệu “nhắc
lại một thực tế là
một mảnh đất phì nhiêu cho ơn gọi
chính là một cộng đồng Kitô hữu lắng nghe lời
Chúa, cầu nguyện trong
phụng vụ và sống bác ái. Tài
liệu kêu gọi toàn thể Giáo Hội tin tưởng
nỗ lực gấp đôi để giáo dục mọi người
đón nhận tiếng Chúa gọi dấn thân
trong sứ vụ linh mục, mà chúng ta luôn
tin rằng Chúa Quan phòng gửi đến để đáp
ứng nhu cầu của Giáo Hội và của việc Phúc
âm hóa thế giới”.
(VIS,
25-06-2012)
|
VỀ MỤC LỤC |
|
NHỮNG PHƯƠNG CÁCH THÍCH HỢP ĐỂ
ĐIỀU KHIỂN CON CÁI
(THIÊN CHỨC LÀM CHA MẸ bài
3) - |
Thật là cần thiết để thiết lập vài
nguyên tắc cho việc ảnh hưởng con trẻ. Bố mẹ cần sự cố vấn vì
mẫu mực sống của họ không bảo đảm sự phát triển đứa trẻ. Ở đây
không bàn thảo chi tiết về những phương cách giáo dục gia đình.
Một ít nguyên tắc trong chương Cùng Chung Sống cống hiến một
loạt phương pháp thích hợp. Nguyên tắc đầu tiên là hiểu biết và
kính trọng phẩm giá con người. Trong việc ứng phó với con trẻ,
người lớn phải kính trọng phẩm giá của đứa trẻ cũng như phẩm giá
của chính mình. Quên phẩm giá riêng của một người có nghĩa là
ban cho. Quên phẩm giá của đứa trẻ có nghĩa là đàn áp. Cả hai
đều tiêu hủy sự cộng tác. Cả hai thiết lập những bạo chúa và nô
lệ. Nguyên tắc thứ hai là không chống mà cũng không nhường. Vì
mục đích của giáo dục gia đình, người ta phải thêm những xác
tín: thuyết phục trẻ và khuyến khích trẻ. Và đây là ba nguyên
tắc: không giao chiến, tuân giữ trật tự, và khích lệ. Không thể
có cái nầy mà không có hai cái kia. Nếu giao chiến, chúng ta
không bao giờ có thể làm cho đứa trẻ chấp nhận trật tự và sẽ làm
đứa trẻ thất vọng. Không nhấn mạnh đứa trẻ phải giữ trật tự sẽ
đưa đến chiến tranh. Một đứa trẻ không sống phù hợp với luật lệ,
bắt buộc bố mẹ phải phạt nó.
Đối với nhiều cha mẹ, không thể
tin rằng con cái có thể được nuôi dưỡng lớn lên mà không dùng
sức mạnh. Quan niệm không đánh là làm hư trẻ là một quan niệm
không tin vào bản tính con người, là bản tính được xem là thuần
thục nhưng không bao giờ được thực hiện với tính cách xã hội mà
không có cưỡng chế. Những bố mẹ như thế cần được thuyết phục
rằng khi họ phải dùng đến phương cách đánh đập trẻ là lúc chính
họ là những người thua cuộc. Đứa trẻ có nhiều điều lợi trong
hành động của nó: nó biết cách điều khiển bố mẹ tốt hơn bố mẹ
biết cách điều khiển nó, và với sự tận dụng hết thời gian để
quan sát môi trường, nó biết rõ từng điểm dễ bị làm tổn thương
của bố mẹ. Nó giàu tưởng tượng và sáng chế hàng trăm cách giao
chiến trong khi người lớn chỉ quanh quẩn ba hoặc bốn cách không
hiệu quả mấy. Con trẻ biết chính xác cách thực hành phương cách
của nó, và bố mẹ dẫu có giao chiến cũng chỉ nhường nhịn.
Rõ ràng là giao chiến thì vô ích.
Mọi phương cách như nhục mạ, la hét, quở trách, và phát đít chỉ
thành công trong một lúc nếu chúng có hiệu quả. Đứa trẻ đánh trả
lại ở cơ hội đầu tiên, và sẵn sàng đáp trả với mỗi chiến thắng
của bố mẹ. Dĩ nhiên, sự bất phục tùng là một kết quả đương
nhiên. Nhưng ở đâu có sự liên hệ thân mật với sự hiểu biết thiết
thực giữa bố mẹ và con cái thì việc giải quyết những điều đó quá
là dễ dàng. Mỗi đứa trẻ đều nhạy cảm đối với sự tử tế cũng như
sự cứng rắn của bố mẹ. Những đứa trẻ không đáp lại là những đứa
đã được dạy qua kinh nghiệm rằng chỉ có sức mạnh là quan trọng.
Quỳnh Liên đang chơi với bạn bè ở
sân trước thì bà mẹ gọi: “Liên ơi! Đến đây!” Cô bé vẫn tiếp tục
chơi, không tỏ dấu gì đã nghe thấy. Bà mẹ gọi nữa, gọi nữa. Cô
bé vẫn không đáp trả. Một đứa bạn đi ngang qua, nghe tiếng gọi
nhiều lần, mới đến gần và hỏi nó có nghe tiếng mẹ gọi không? Cô
bé đáp “Có” nhưng rồi lại tiếp tục chơi. Cô bạn hơi giận dữ nói:
“Vậy tại sao mầy không về nhà?” Quỳnh Liên trả lời: “Ơ, tao còn
có giờ. Mẹ tao chưa la.”
Nhiều bố mẹ không nhận thấy sự
quan trọng của trật tự. Họ yêu trẻ cách chân thành. Họ muốn cứu
đứa trẻ khỏi thất vọng và thương đau. Vì muốn đời sống con cái
mình được hạnh phúc nên họ loại bỏ qui luật của trật tự. Ước
muốn của đứa trẻ là lệnh truyền của họ. Họ hy vọng rằng từ đây
về sau con cái mình sẽ học hiểu biết hơn và nhạy cảm hơn. Họ sai
lầm biết bao! Một khi đứa trẻ nhận biết rằng ước muốn của nó là
toàn năng, nó sẽ coi bất cứ sự từ chối nào từ bố mẹ hoặc thầy cô
như một sự bất công, như một sự tước khỏi nó những đặc ân được
nó xem như là quyền tự nhiên của nó và sẽ cắt nghĩa như là dấu
hiệu của sự từ khước và nhục mạ. Bảo vệ quá đáng cũng như ban
cho không bao giờ khắc phục được đứa trẻ, không bao giờ làm cho
nó biết cộng tác và dũng cảm. Họ tước đoạt nó khỏi việc vui
hưởng giữ gìn trật tự, khỏi việc cảm nghiệm sức mạnh riêng của
nó trong việc tự vươn lên, và cảm nghiệm sự hữu ích của chính
mình đối với người khác. Thay vì ngăn ngừa những cảm nghiệm
không vừa ý, sự ban cho bỏ rơi đứa trẻ ngày càng thêm đau khổ và
tồi tệ hơn. Thay vì giúp nó, điều đó càng làm nguy hiểm hơn, và
rồi sự đụng độ và chiến tranh trở thành điều không thể tránh
khỏi.
Sự ban cho thường đặt căn bản trên
ý tưởng sai lầm về tự do. Cho con trẻ tự do và tự biểu lộ là cần
thiết, nhưng tự do mà không có trật tự thì không thể. Trái lại
không có trật tự nào lâu bền mà không có tự do. Trong một vài
văn hóa, ý tưởng về trật tự được đề cao thái quá đến nỗi con trẻ
bị tước đoạt mất sự tự diễn tả. Luật lệ nghiêm khắc và sự tuân
phục ngay tức khắc là mục đích chính của việc giáo dục của họ.
Kết quả thì giống với kết quả được sản xuất bỡi sự đàn áp và
nhục mạ. Sự cứng nhắc, sức mạnh, và thành công có thể được hoàn
thành trong cách đó, nhưng là sự liên hệ của con người đau khổ.
Trái lại, tương quan nhân bản thì gặp nhiều nguy hiểm bỡi sự
thường xuyên hiểu lầm về sự tự do. Tự do thì không phải là làm
cái gì mình muốn vì tự do như thế có nghĩa là áp đặt lên người
khác cũng chính những đặc quyền mà chúng ta từ chối cho họ. Nếu
mỗi người hành động như họ thích, coi thường những ước muốn của
đồng bạn, bấy giờ không ai có thể hưởng được tự do mà chỉ hưởng
những kết quả của tình trạng vô trật tự. Tự do và đặc quyền dành
cho một người thì không thể được gọi là tự do. Đó là một sự độc
tài và bạo chúa. Dưới chiêu bài ban cho tự do, bố mẹ làm cho con
cái thành những bạo chúa bất hạnh, những người không thể nào phù
hợp với người khác và cảm thấy bị khước từ bỡi mọi người.
Nhiều con trẻ lớn lên với một quan
niệm sai lầm về trật tự. Đối với chúng, trật tự là cái chúng
không muốn thực hiện. Chúng phải học nhận biết rằng trật tự thì
có lợi cho chúng. Không có gì khó để dạy cho chúng điều nầy. Khi
một đứa trẻ từ chối phục tùng tập tục là cái điều khiển đời sống
gia đình, chúng ta có thể giúp nó hiểu rõ ràng hơn trật tự có
nghĩa là gì? Có nhiều cách để gây ấn tượng cho đứa trẻ với ý
nghĩa thật sự của trật tự. Chẳng hạn, nó có thể đồng ý rằng thật
là tốt đẹp nếu mỗi phần tử của gia đình thực hiện. Rất sớm, đứa
trẻ sẽ khám phá ra rằng nó sẽ chiếm được rất ít và sẽ mất rất
nhiều nếu cha mẹ cũng chỉ làm những điều họ thích nhất ở bất cứ
lúc nào được phép. Không có bữa ăn được chuẩn bị, không có
giường chiếu được thu xếp, không có áo quần sạch sẽ. Rõ ràng
trật tự phục vụ không chỉ ích lợi của bất cứ một người nào nhưng
là của tất cả chung nhau. Sự tự do chỉ là sự tự do hành động
cách độc lập bao lâu một người không dẫm lên sự tự do của một
người nào khác.
Và bây giờ qui luật thứ ba và quan
trọng nhất là đứa trẻ cần sự khích lệ ngay tức khắc. Nó cần sự
khích lệ như cây cần nước. Trái lại, phương cách nuôi dưỡng con
cái của chúng ta thì đầy sự thiếu khích lệ. Ban cho và đàn áp
tạo nên vô số những kinh nghiệm thiếu khích lệ. Bố mẹ xem ra quá
nhúc nhát. Họ thấy nguy hiểm ở mọi nơi. Họ thấy mình giống như
con họ, họ không tin vào chính mình, họ khó tin rằng đứa trẻ có
thể lo cho chính nó. Thay vì nhận thấy khả năng của một đứa trẻ,
họ so sánh hình vóc và thể lực với chính họ và kết luận rằng nó
phải kém hơn họ biết bao nhiêu lần. Thật ra đứa trẻ nói chung có
khả năng thể lý và tinh thần nhiều hơn bố mẹ tin nó có. Sự nghi
ngờ cái khả thể của đứa trẻ được mang từ thế hệ nầy sang thế hệ
khác, là một trong những lý do tại sao người lớn bỏ nhiều trong
số những khả năng của họ không làm phát triển, không bao giờ
đạt tới kết quả như khả năng của họ có thể.
Bất cứ tiến trình giáo dục nào
cũng có thể được đánh giá theo mực độ của sự khuyến khích. Cái
gì làm tăng tinh thần can đảm của đứa trẻ đều có ích. Bất cứ cái
gì làm xuống tinh thần đều có hại. Không có trẻ nào là thật sự
xấu. Mọi đứa trẻ đều thích nên tốt, ước ao được thành công, yêu
chuộng sự tử tế. Nếu mất hy vọng, mất sự tự tin, bấy giờ nó sẽ
hành động sai lầm. Kỷ thuật của khuyến khích thì chưa được nhận
thức đầy đủ. Rất ít người có chương trình khuyến khích và ngay
cả những người nầy cũng không biết làm cách nào. Một vài người
cố gắng ngọt ngào. Trẻ con ghét điều đó biết bao vì sự ca ngợi
không chân thành không thể khích lệ ai. Sự ca tụng không đáng
được thì hoặc là vô nghĩa hoặc là dối trá. Ngay cả sự ngưỡng
phục được diễn tả cách chân thành có thể làm đứa bé mất can đảm,
mặc dầu nó thích, nếu nó cảm thấy rằng nó không thể thõa đáp sự
quí mến cao cả đó.
Hai yếu tố nầy xem ra là thiết yếu
cho sự khích lệ: chân thành và nhận thấy nhu cầu cá nhân của đứa
trẻ. Mỗi đứa trẻ đều có khả năng đáng được ca tụng và mỗi đứa
đều có những vết thương đau đáng được xoa dịu. Tuy nhiên, nếu
không có niềm tin vào đứa trẻ, không ai có thể đặt vào trong nó
một ý kiến tốt đẹp về chính nó. Tự tin, nhận biết sức mạnh của
những khả năng riêng mình là can đảm. Bất cứ ai có thể cung cấp
điều đó có thể làm tăng hiệu quả và làm dễ dàng hơn những sự
thích nghi xã hội cần thiết với bất cứ ai mà nó gặp, đặc biệt
với đứa trẻ đang khát mong loại giúp đỡ nầy.
Sự khích lệ chỉ có trong bầu không
khí thân thiện, không thể có nơi sự giận dữ chế ngự. Khi chồng
và vợ bất đồng, khi bố mẹ và con cái chống đối nhau, mỗi bên cố
gắng làm mất tinh thần đối thủ của mình trong lúc đó. Phương
pháp thì rất nhiều và rất tinh vi mà qua đó bố mẹ bóp chết những
khả năng khác biệt và tự nhiên của con trẻ, làm thất đảm những
cố gắng của nó, và ngăn cản sự phát triển cảm giác tin tưởng vào
giá trị và sức sáng tạo của nó.
Mỗi lỗi lầm và sai trái của đứa
trẻ phản chiếu sự thiếu khích lệ mà nó phải hứng chịu trong gia
đình. Nếu không, có lẽ nó đã tìm ra một câu trả lời tốt hơn cho
vấn đề của nó. Một đứa trẻ được lớn lên trong bầu khí đầy yêu
thương và cảm thông thì sốt sắng muốn chia xẻ. Được nuôi dưỡng
trong sự thân thiện và ích lợi thật, đứa trẻ phát triển cách
hạnh phúc và mau mắn đáp trả những đòi hỏi của xã hội. Nhưng có
biết bao bố mẹ và thầy cô, chính họ là nguồn sản xuất bầu khí
cạnh tranh và đụng độ, họ không cung cấp một sự hướng dẫn thích
hợp cho đứa trẻ. Họ quên mất cảm giác đáng sợ của bất an, của
chia lìa và không được yêu mà chính họ đã từng cảm nghiệm. Họ ít
chịu học hỏi từ tâm lý trẻ. Không chịu khám phá những khả thể
của đứa trẻ, họ chống điều nó làm và ngăn cản nó. Họ đã làm hại
một cá tính. Họ không hiểu tại sao đứa trẻ cảm thấy mình bị lạc
lõng. Họ hoàn toàn không ý thức về cái tại sao đứa trẻ hành xử
một cách bướng bỉnh như vậy?
Lm
Lê Văn Quảng Psy.D.
|
VỀ MỤC LỤC |
|
NGỤ NGÔN THỜI BẤN LOẠN (KỲ 31)
|
Ngụ ngôn 95
Cọp vằn và sư tử
ngồi ghế quan toà xử tội voi rừng. Các loài thú đều có mặt và
đều nghĩ rằng voi bị kết án nặng nề vì đã dẫm chết loài kiến cả
ngàn con. Cọp vằn và sư tử nổi tiếng công minh, vì hai lần
xử tội trước rất rõ ràng. Một lần có hai con kiến dám cắn sưng
tai voi, đã bị xử chung thân trong hang tối. Lần khác một chú
thỏ gặm đuôi chồn, cũng bị đánh gãy răng. Lần này với cách xử
tội ấy, con voi này phải tử hình hoặc chung thân nơi hoang đảo.
Sau giờ nghị án,
cọp vằn và sư tử anh minh đồng thanh tuyên án: “Con voi già này
đã huỷ hoại hàng ngàn mạng sống, đã coi thường đồng hương trong
rừng, đã gây tang thương cho dòng họ nhà kiến, cho nên để giữ kỷ
cương nơi rừng xanh, toà tuyên án voi phải được tự do để ngày
ngày đền tội, mỗi ngày cho một con kiến cắn một cái nơi lông
đuôi, thời hạn một tuần. Bãi toà”.
Ngụ ngôn 96
Xã hội bấn loạn vì
mấy cô thỏ chân dài bị phát hiện có quan hệ bất chính với các
đại gia nhà cọp, sư tử và voi già. Thế là cả rừng xanh chạy đi
tìm thỏ, mắng nhiếc, la hét và chì chiết.
“Cương thường xuống
dốc. Đạo đức có nguy cơ. Lề thói bị coi thường. Tất cả là do mấy
con thỏ cái không biết sống cho đúng lương tri”. Lá rừng cũng
không đủ viết hết tội loài thỏ ranh kia.
Lúc đó, mấy con
cọp, sư tử và voi già nhẩn nha ngồi nhai tiếp thịt thà của bao
con nai tơ và thỏ rừng bên bàn rượu cạnh bờ suối. Thơ ngâm bay
vút tận bìa rừng.
Ngụ ngôn 97
Mùa thi là mùa rừng
xanh vui nhất. Lá bay vèo vèo. Cây xanh uốn trong gió. Thú rừng
chạy loạn xạ. Kiến thức được ghi trên lá trên cây, thí sinh mỗi
khi thi xong thì thêm kiến thức vì được đọc những điều mới lạ
ngay khi làm bài thi, những điều mà trước đó họ chưa hề nghe
đến. Thậm chí có thí sinh thấy trong phao có dấu vô cực, tưởng
là số 8 bị viết nằm ngang, bèn dựng đứng hết cho đúng số 8!
Thi xong, mọi người
vui mừng với con số thật đẹp: thi đậu 99%. Vậy là vẫn có 1% thi
rớt, tại sao vậy? Sư tử cười giải thích: vì 1% ấy bị giám thị
làm mất phách không ráp vào được !!!
Gioan Lê Quang Vinh
|
VỀ MỤC LỤC |
|
SEN TRONG
BÙN
|
Em sinh ra
trong một gia đình nghèo. Tuổi thơ em nhễ nhụa nước mắt. Em, một
bé gái gầy gò, chưa lớn bao nhiêu thì đã chịu cảnh cha ra đi.
Sốc! Rồi chẳng bao lâu mẹ cũng theo cha. Sững sờ đến mất cảm
giác! Ngay cả đứa em trong bụng mẹ em cũng không được thấy mặt.
Tủi thân! Một hành trình cuộc đời trong khắc nghiệt, cô đơn, ám
ảnh bởi những điều quá mức chịu đựng của một trẻ thơ. Xúc cảm em
bị tổn thương. Tâm lý em mong manh đầy sợ hãi. Em mồ côi, mồ côi
theo đúng nghĩa của mồ côi. Và, em đã
lớn lên
từ hoàn cảnh ấy. Một mình, em đã vào đời, từ rất sớm. Những
tháng năm sau đó, bao nhiêu biến cố kinh khủng khác đã xảy ra…
Kể không hết được! Ta chợt dừng lại mà thắc mắc: Một người từ
nhỏ đến lớn phải trải nghiệm những điều đau thương, kinh khủng
như thế, sẽ trở thành người như thế nào? Lớn lên giữa xô xát
khắc nghiệt của dòng đời như vậy, nhân cách người ấy sẽ ra sao?
Và ta cũng chợt đau lòng nhận ra đây đó đầy những trường hợp
“gần mực thì đen”. Một em bé sinh trưởng trong môi trường của
những tiếng chửi bới thì ngôn từ của em cũng tục tĩu phàm phu.
Nếu chung quanh em có những bất hòa đổ vỡ thì em cũng sẽ dễ bạo
lực du côn. Nếu đời em phải lớn lên một mình chống chọi với sóng
gió thì em có thể sẽ bất cần đời, ứng xử thô thiển, nhẫn tâm để
tự vệ, để sống còn. Ta bỗng chợt giật mình tự hỏi lòng: Nếu tôi
là em bé trong câu chuyện có thật ở trên, tôi sẽ trở thành người
như thế nào nhỉ?
YYYYYYY
Tít tít
tíii…..t
Tít tít
tíii…..t
Tiếng còi cứ
vang lên, tiếng ngắn tiếng dài, như thể đang nói thay tâm trạng
của những người ngồi trên những chiếc xe máy. Hàng trăm chiếc
xe, xe nào cũng có còi, còi nào cũng tít tít tít như muốn choảng
nhau, trừ một chiếc xe. Chiếc xe ấy không tít tít tít như ‘hàng
xóm’ đang inh ỏi bên cạnh, không phải vì nó không tít được mà
bởi vì chủ của nó không bắt nó tít. Phong cách chen lấn, bóp
còi, không phải là một thứ cần thiết để trở nên văn minh lịch sự
nhưng vì một số lý do nào đó người ta đã cho nó phép nó len lỏi
vào mình, trở thành thói quen bóp nghẹt lối sống thanh thản, nhẹ
nhàng. Một buổi chiều mùa hè, siêu thị vẫn đông người mua sắm
như mọi khi. Ai cũng muốn giành phần gửi xe trước nên bóp còi,
chen, lấn, húc, cố ‘chiếm’ thật nhanh bất kì centimet không gian
nào hở ra. Chủ của chiếc xe duy nhất không tít tít là Mỹ An. Mỹ
An thông minh nên ước mơ của em cũng giản dị bởi vì càng đơn
giản thì càng dễ hạnh phúc. Điều Mỹ An ước lúc này là thấy mọi
người tắt máy xe cho khỏi hao xăng, quay qua chào nhau í ới cho
vui thay vì tít tít tít mà tội nghiệp mấy bé xe. Làm như vậy
biết đâu thời gian trôi qua mau hơn và việc gửi xe diễn ra trật
tự hơn.
Cuộc sống lắm
lo toan làm cho Mỹ An có nhiều căng thẳng. Một cách giảm căng
thẳng đơn giản là nhai kẹo xinh-gum (chewing gum), vừa tập thể
dục cho hàm vừa thư giãn đầu óc. Bóc một lát xinh-gum vừa mua
của một bé trai bán vé số, Mỹ An thong thả cho vào miệng rồi từ
từ thưởng thức cái vị the the, nhẹ nhẹ của vị bạc hà. Mỹ An vo
tròn mảnh giấy bọc xinh-gum lại, bỏ vào túi để mang về nhà bỏ
vào thùng rác. Góc phố chỗ Mỹ An đang đứng lúc đó tràn lan rác,
thêm một cọng rác nhỏ tí ti như miếng giấy xinh-gum thì cũng
chẳng làm bẩn nó thêm, có bớt một cọng rác bé tẹo tèo teo như
thế thì cũng chẳng làm nó sạch hơn chút nào. Người ta hay nghĩ
như vậy. Mỹ An thì nghĩ khác nên mang rác về nhà mình để bỏ
thùng cho nó sang. Ngày mai có chiếc xe chở rác to đùng đến tận
nhà lấy rác cơ mà!
Chiều nay Mỹ An
ghé vào quán phở bình dân trong hẻm. Tiệm này chắc nấu ngon nên
thấy khách hàng tấp nập. Hôm nay công việc nhiều quá. Ái chà,
đói!!! Người bồi bàn trẻ, có lẽ là một sinh viên làm việc bán
thời gian, ra lấy thực đơn của Mỹ An. Làm một tô xe lửa cho
hoành tráng! Hôm nay phải tự thưởng cho mình một ly sinh tố dâu!
Người bồi bàn tự nhiên cảm thấy thật thoải mái với người khách
vui vẻ, hòa nhã này. Có những người khách khác nét mặt nghiêm
nghiêm, đôi khi cau có, đưa ra nhiều yêu sách, thậm chí còn nghĩ
mình bỏ tiền ra thì có quyền lớn tiếng nạt nộ, có lẽ họ tưởng họ
là “thượng đế” thật. Mỹ An thì ngược lại vì em hiểu sự khó khăn
của cuộc sống. Biết đâu người bồi bàn đang cố gắng tươi cười
ngoài mặt vì công việc đang ôm sầu héo một bồ bên trong.
“Dạ, cho em gửi
nước trước.” Người bồi bàn bưng ly trà đá đặt xuống bàn, nhưng
lỡ tay làm đổ nước lên chiếc váy đầm trắng kem của Mỹ An.
“Ấy chết, em
xin lỗi!”
“Không sao đâu
bạn. Chuyện thường thôi mà. Chắc hôm nay làm nhiều nên mệt hả?”
“Dạ. Nhưng xin
chị thông cảm cho em!”
“Ồ, đừng lo gì
ha. Nhớ giữ sức khỏe cho tốt nhé!” Một nụ cười nhân ái.
Phở ra đến nơi.
Ui, cái mùi thơm của nó đúng là hớp hồn người ta.
“Cảm ơn bạn.
Phở thơm quá!” Mỉm cười. Mỹ An làm dấu, nhắm mắt khẽ tạ ơn Trời
Cao đã thương ban lương thực hôm nay. Rồi một, hai, ba, tác
chiến !
Đang ăn một
cách say sưa, bỗng Mỹ An cảm thấy cái gì đó cưng cứng, ướt ướt
rơi trúng chân. Nhìn xuống gầm bàn. Hóa ra là cục xương của
người đang ngồi ăn đối diện giục xuống. Lúc đó, Mỹ An mới giật
mình nhìn thấy nền quán phở này đầy khăn giấy, xương, rau, tăm,
vỏ chanh,…do khách hàng xả xuống từ bàn ăn. Ủa, có mấy chiếc giỏ
đựng rác dưới mỗi bàn mà sao ít người bỏ vào đó vậy nhỉ? Lạ! Quá
lạ! Lỡ nhìn thấy nền quán ngổn ngang nhớp nhúa, Mỹ An mất luôn
khẩu vị. Mỹ An thầm ước giá mà bà con cô bác nhìn kĩ một chút để
bỏ xương bỏ giấy bỏ rau thừa vào những thùng ngay trước mặt kia
thì sẽ vệ sinh biết mấy mà môi trường quán sẽ lịch sự, đẹp mắt
biết bao. Ước gì! Buồn năm giây! Rồi Mỹ An gom phần rác của mình
lặng lẽ bỏ vào thùng. Mỉm cười sâu, vui vì mình vẫn là mình.
Bước ra khỏi
quán phở, điện thoại báo có tin nhắn. Lại thêm một tin nhắn của
một người lâu nay không thân thiện với Mỹ An. Cả tháng nay,
thỉnh thoảng họ lại nhắn một tin nhắn móc mỉa, nói bóng nói gió,
ghen tương tị hiềm, khiêu khích thách thức, lên lớp dạy đời. Mỹ
An cũng thử giãi bày cách này cách khác mong sự hòa nhã, vui vẻ,
tôn trọng lẫn nhau. Nhưng xem ra sự cố chấp phiến diện khiến cho
người này không nhìn ra vấn đề đã được giải thích. Thế là họ cứ
tiếp tục tỏ thái độ công kích bằng nhiều cách. Đúng là người ta
rất dễ rơi vào hiểu lầm và bị nhốt trong vòng luẩn quẩn của xét
đoán khi họ tự cho mình là đã biết tỏng người khác. Cuối cùng,
Mỹ An đành chọn một cách của bình an. Nếu cần nhắn tin lại để
giữ phép lịch sự thì em chỉ nhẹ nhàng nhắn những lời cầu chúc an
lành và hạnh phúc.
Nhắn xong những
lời hòa bình, thầm thĩ dâng một lời cầu nguyện mong ước cho
người kia được bình an trong tâm hồn, Mỹ An lái xe tới một trung
tâm từ thiện. Em luôn thích cho đi, thích lấy sự giúp đỡ người
khác làm niềm vui. Sáng nay công việc làm ăn gặp được may mắn
hơn dự tính một số tiền kha khá. Mỹ An quyết định biếu số tiền
ấy cho những người thiếu thốn hơn mình. Có những việc làm bình
thường mà niềm vui to lớn lắm. Đúng là Chúa chẳng bao giờ chịu
thua lòng quảng đại của con người. Em thấy rõ điều ấy. Chẳng
hạn, khi em trân trọng tặng cụ già bán vé số một tờ vé số, Chúa
cho em lại một niềm hy vọng rằng biết đâu cụ trúng được chút gì
đó để giúp gia đình cụ; hay khi em mời bạn đi uống nước, Chúa
cho lại em niềm hạnh phúc thấy bạn mình vui vẻ, nhẹ lòng sau khi
tâm sự…. Mỗi đêm về, trước khi đi ngủ, Mỹ An có thói quen nhìn
lại một ngày vừa qua để đếm và tạ ơn về những gì mình đã lãnh
nhận, những cơ hội mình có để giúp đỡ anh chị em, những bài học
kinh nghiệm quý giá….
Sau khi đã trao
số tiền cho trung tâm từ thiện và nhờ họ gửi đến những người
nghèo khổ, Mỹ An ghé vào một tiệm bánh sinh nhật để mua bánh
phô-ma (cheese cake). Em muốn mời người bạn thân cùng thưởng
thức loại bánh mình thích nhất nhân dịp sinh nhật mình. Loại
bánh này khá mắc tiền nên người bạn cũng chưa bao giờ nghĩ đến
việc thưởng thức nó. Tiệm bánh chiều nay khá sầm uất nên người
ta xếp hàng dài lắm. Mỹ An xếp hàng gần nửa tiếng mà vẫn chưa
đến phiên mình. Bỗng lúc ấy có một chị xồn xồn ở ngoài chen
ngang vào hàng người ta đã xếp nãy giờ. Một số người tỏ vẻ không
hài lòng, xầm xì phản đối về sự bất lịch sự và bất công của chị
ta. Chị ta đang quê mặt không biết nên phản ứng thế nào thì nghe
tiếng ai gọi phía trước: “Chị ơi, chắc chị đang có việc gấp
hả? Chị lên đứng chỗ của em, em xếp hàng thay cho chị vì em cũng
không vội vàng gì. Chị lên đây đi.” Mỹ An tới khoác tay chị
ta kéo nhẹ đến cho mình rồi vui vẻ xuống cuối hàng đứng. Chị kia
chẳng biết làm gì hơn là ‘ngoan ngoan’ làm theo cách của Mỹ An.
Cuộc sống đã tốt hơn cho tất cả.
Trời đổ mưa.
Tháng sáu trời hay mưa lắm. Mưa xuống thì bùn lên. Phố phường
vẫn tấp nập xe cộ ồn ào. Giữa dòng người xuôi ngược trong mưa
bùn, có một đóa hoa sen trắng. Em bé ngày xưa ấy đã
lớn lên,
vượt qua tất cả mọi nghịch cảnh: Mỹ An.
Trong đầm gì
đẹp bằng sen
Lá xanh bông
trắng lại chen nhị vàng
Nhị vàng bông
trắng lá xanh
Gần bùn mà
chẳng hôi tanh mùi bùn.
Mỹ An đang tiến
về ngôi thánh đường ấm cúng bao kỉ niệm. Em muốn đến đó để lắng
đọng cầu nguyện, tạ ơn Ngài trước khi cắt bánh sinh nhật vì
chính Ngài đã tạo nên, giúp giữ gìn và thăng hoa phẩm chất tinh
tuyền của sen nơi em.
Giuse Tuấn
Việt, O.Carm.
[20A+V0612]
Blog cá nhân:
http://only3minutes.wordpress.com/tieng-viet/sen-trong-bun/
|
VỀ MỤC LỤC |
|
Karl Marx phê-bình tôn-giáo
|
Gs. Trần Văn Toàn
Bài đăng ở
tập san Định Hướng
Cách đặt vần-đề của Marx
Sau khi đã
đọc lại các sách vở mà Marx tham khảo trong thời-gian soạn
luận-văn tiến-sĩ, để theo dõi nguồn-gốc và hành-trình tri-thức
đã đưa ông đến lập-trường vô-thần, ta thấy cũng chưa có kết quả
là bao nhiêu. Về mặt tiêu-cực thì : một là Marx đã loại trừ được
các tôn-giáo đa-thần mà các triết-gia thời thượng-cổ đã phê-bình
đủ kiểu ; hai là đối với đạo Thiên-Chúa, thì ông thấy về mặt lý
thuyết khó dung-hòa được với lý-trí, mà về mặt thực hành lại có
lý-do nghi-kỵ quyền-lực của giáo-sĩ. Về mặt tích-cực thì Marx có
đưa ra trong phần ghi-chú của luận-văn tiến-sĩ một chứng-lý để
minh-chứng là không có Thiên-Chúa, nhưng lại tự nhốt mình vào
trong cái lồng duy-tâm, vì ông cho rằng chỉ có cái tự-kỷ ý-thức
mà thôi. Nói thế khác, mỗi khi ta tư-tưởng về bất cứ cái gì, kể
cả về Thiên-Chúa, thì ta có thể nghi ngờ về tất cả các đối-vật
đó, nhưng ta vẫn chắc-chắn được là có ta, có cái ý-thức của ta.
Nghĩa là Marx chưa đi xa hơn giai-đoạn thứ nhất của tư-tưởng
Descartes. Sau này không bao giờ Marx nhắc lại cái luận-điệu
duy-tâm ấy nữa.
Phải chờ đến khi đọc được sách của
Feuerbach, thì Marx mới nhận ra một luận-điệu mới, dùng hai
quan-niệm « vong-thân » (Entfremdung) và « phóng ngoại »
(Projektion), để giải-thích vì sao người ta tin có Thiên-Chúa.
Đại khái như sau : ta ý-thức được rằng ta có sức lực, có trí
khôn, có trí hiểu, có tình yêu, nhưng tất cả đều có giới-hạn, vì
thế ta « phóng ngoại » tất cả những cái ta có đó ra bên ngoài
ta, đưa chúng lên tầm vóc vô-biên, rồiø đặt chúng vào trong một
vị Thiên-Chúa siêu-việt, vô-biên. Như thế là ta đánh mất bản
thân, ta « vong-thân ». Sau đó thì mới tự nhủ rằng mình là
không, không có cái gì hết, rồi cầu xin Thiên-Chúa ban cho mình
những cái mình thiếu. Feuerbach cho rằng đường lối như thế là
quanh-co phiền-phức, cho nên ông chủ-trương rằng : thay vì bỏ
mất của mình đi, rồi xin Thiên Chúa cho lại, thì bây giờ ta cần
phải phục-hồi những cái đã mất đó cho con người. Nhưng không
phải là trả lại cho con người cá-nhân nhỏ bé, ti-tiệän, có
giới-hạn, mà là trả về cho con người vĩ-đại, nghĩa là trả về cho
nhân-loại.
Nói thế khác, Thiên-Chúa chẳng qua chỉ là nhân-loại mà thôi. Có
thờ thì thờ nhân-loại mới là phải.
Sách của
Feuerbach là khởi-điểm và là bàn đạp cho tác-phẩm rất quan-trọng
và có tính cách triết-học nhất của Marx : đó là Bản thảo về
kinh-tế và triết-lý (Oekonomisch-philosophische Manuskripte)
viết tại Paris năm 1844, viết ra chỉ để xác-định cho rõ
lập-trường, cho nên không cho xuất-bản. Sau đây ta sẽ có dịp bàn
rộng hơn về tác-phẩm đó. Tác-phẩm đó quan-trọng là vì ở đây Marx
vừa hoàn-toàn hấp-thụ được bài học của Feuerbach, vừa vượt đi xa
hơn Feuerbach, và xác-định ra được lập-trường riêng. Có được như
thế, là nhờ có Engels giúp cho ông khám-phá ra tầm quan-trọng
của kinh-tế trong đời sống xã-hội.
Sau đây ta
sẽ lần lượt xem lập-trường của Marx về tôn-giáo : a) trong
thời-kỳ làm báo (1842-1843), b) trong thời-kỳ viết Bản thảo
về Kinh-tế vàTriết-lý (1844-1845), và c) trong nhữõng năm
cuối cùng.
1- Thời-kỳ
làm báo (1842-1844)
Đậu tiến-sĩ
xong, Marx có ý-định tìm chỗ dậy học ở Bonn, là thành phố ông
quen biết từ khi bắt đầu học cấp đại-học. Nhưng công việc dàn
xếp không xong, vì người bạn là Bruno Bauer đang lo-liệu đưa
ông vào đó thì lại bắt đầu bị nghi-kỵ. Vì thế khi được mời làm
báo, ông nhận lời ngay. Thời-kỳ làm báo này có hai giai-đoạn.
Giai-đoạn thứ nhất là những tháng
làm chủ bút cho tờ Nhật báo miền sông Ranh ở Koeln
(Cơ-lân). Đặc-điểm của giai-đoạn này là tranh-đấu chính-trị.
Marx hăng-hái đòi chính-phủ nước Phổ (Preussen/Prusse),
phải thi-hành chế-độ dân-chủ. Oâng viết ra nhiều bài nhân danh
tự-do của con người để chỉ-trích chế-độ kiểm-duyệt báo-chí.
Trong số báo 135, viết ngày 15/05/1842, ông tố-giác chính-sách
giả-hình đạo-đức như sau : « Chính-phủ chỉ nghe có tiếng nói của
mình mà thôi ; biết rõ như thế nhưng lại cứ tự dối mình là mình
nghe tiếng nói của nhân-dân và đòi nhân-dân cũng phải tự dối
mình như thế ».
Làm việc đã khó-khăn, lại bị nhiều áp-lực, cho nên Marx viết
thông cáo từ chức như sau : « Người ký tên sau đây xin tuyên-bố
là : vì chế-độ kiểm-duyệt hiện-thời cho nên xin rút lui ra khỏi
ban biên-tập Nhật báo miền sông Ranh kể từ ngày hôm nay.
Dr Marx. » (18/03/1843).
Sau khi thôi việc, ông trở về quê,
lập gia-đình và đưa vợ sang Paris, cộng-tác với các chính khách
lưu-vong và vận-động nơi các công-nhân người Đức.
Thời-kỳ ở Paris, tuy không lâu, nhưng rất quan trọng, vì một là
ông được tiếp-xúc với phong-trào xã-hội chủ-nghĩa ở Pháp, mà
Joseph Proudhon (1809-1865) là lý-thuyết-gia, hai là ông được
bạn bè giới-thiệu cho Friedrich Engels đến gặp, và từ đó thành
ra hai người bạn không rời nhau nữa. Về sau Marx thường nói là
học-thuyết cộâng-sản của ông là do ba trào-lưu kết lại : một là
triết-học của người Đức (Hegel và Feuerbach), hai là xã-hội
chủ-nghĩa của người Pháp, ba là kinh-tế-học của người Anh. Vì
thế ông đinh-ninh là chế-độ cộng-sản rồi đây sẽ được thực-hiện
trong ba nước đó trước tiên.
Giai-đoạn
thứ hai là những tháng ở Paris. Marx cùng mấy người bạn cho in
ra năm 1844 tập Niên-san Đức Pháp (Deutsch-Franzoesische
Jahrbuecher, Annales franco-allemandes), nhằm gửi về cho
độc-giả ở Đức, nhưng rất khó đưa đi qua biên-giới, cho nên chỉ
ra được một tập thì phải đình-bản. Trong niên-san đó có hai
trang rất thời-danh của Marx về tôn-giáo, mà thiên-hạ thường
trưng-dẫn, nằm trong bài Phê-bình triết-lý của Hegel về
Pháp-luật. Phần dẫn-nhập. Hai trang ấy không thuộc về thể
văn nghị-luận, nói có sách mách có chứng, nhưng thuộc về thể văn
« hịch tướng-sĩ » hay ít ra cũng là thể văn tuyên-cáo
lập-trường. Tuy vậy cũng nên trình-bầy ra đây để vạch cho rõ đâu
là ảnh-hưởng của Feuerbach, đâu là phần đóng góp mới của Marx.
Trong giai-đoạn này Marx không nói
suông về chính-trị, về tự-do, về dân-chủ. Oâng bắt đầu sử-dụng
ý-niệm « vong-thân » của Feuerbach, nhưng lại nới rộng nó ra
toàn-diện con người. Vong-thân không phải chỉ là một quan-niệm
lý-thuyết sai lạc về bản-thân, nhưng là thực-tại cụ-thể của con
người đã đánh mất bản-thân về mọi mặt : tôn-giáo, ý-thức,
chính-trị, xã-hội và kinh-tế. Đối với Marx, tôn-giáo chỉ là
hiện-tượng tùy-phụ, không có ảnh-hưởng nhiều vào đời sống xã-hội,
cho nên phê-bình tôn-giáo chỉ là giai-đoạn đầu trong
chương-trình hoạt-động : phê-bình trên trời xong thì đến
giai-đoạn chính, là phê-bình dưới đất, nghĩa là phê-bình
thực-trạng xã-hội và chính-trị đang áp-bức con người, và như ông
nói, vấn-đề không phải là lấy phê-bình làm khí-giớøi, nhưng là
lấy khí-giới mà phê-bình. Nên chú-ý là nếu đồng-chí Engels của
ông nghĩ rằng có thể vớt-vát được trong đạo Thiên-Chúa những
yếu-tố báo trước xã-hội đại-đồng, thì trái lại, Marx cho rằng
trong tôn-giáo không có gì vớt-vát được cả. Về điểm này Marx
không thay đổi ý-kiến nữa.
Mấy câu tuyên-bố mà thiên-hạ thi
nhau trưng-dẫn là như sau : « Khi con người đi tìm một vị
siêu-nhân ở trên vùng trời tưởng-tượng, thì chỉ thấy cái
phản-ảnh của chính mình mà thôi (…). Phê-bình chống tôn-giáo tựa
vào nền-tảng sau đây : Con người làm nên tôn-giáo, chứ
không phải tôn-giáo làm nên con người. Thực vậy, tôn-giáo là
tự-kỷ ý-thức và là tự-kỷ cảm-giác của con người chưa đạt-thân
hay là vừa mới vong-thân. Nhưng con người không phải là
cái gì trừu-tượng, đứng ở ngoài thế-giới. Con người, đó là
thế-giới của con người, là quốc-gia, là xã-hội. Cái quốc-gia
đó, cái xã-hội đó tác tạo nên tôn-giáo, tức là cái tự-kỷ
ý-thức lộn ngược, vì đó là cái thế-giới lộn ngược.
(…) Cái khốn-nạn về mặt tôn-giáo vừa là cách biểu-lộ cái
khốn-nạn có thực, vừa là lời phản-kháng chống lại cái
khốn-nạn có thực đó. Tôn-giáo là tiếng than-thở của
tạo-vật đang bị chèn ép, là tâm-thần của một cái thế-giới
vô-tâm, nó cũng là cái tinh-thần của tình-trạng vô-tinh-thần. Nó
là thuốc phiện của dân chúng. Tôn-giáo đem lại cho
dân chúng cái hạnh-phúc ảo-tưởng, cho nên tiêu-diệt
tôn-giáo tức là đòi hỏi cho dân chúng được cái hạnh-phúc
thiết-thực. (…) Phê-bình trên trời rồi thì nay phải chuyển
sang phê-bình dưới đất, phê-bình tôn-giáo chuyển sang
phê-bình pháp-luật, phê-bình thần-học chuyển sang
phê-bình chính-trị »
.
Ngần ấy thôi
cũng đủ thấy là Marx lấy lại ý-niệm « vong-thân » của Feuerbach,
nhưng ông không hạn hẹp nó vào phạm-vi ý-thức tôn-giáo, mà còn
nới rộng ra tất cả đời sống chính-trị, xã-hội của con người. Vì
thế tôn-giáo không còn phải là mục-tiêu chính-yếu của
chương-trình giải-phóng con người nữa.
Trong mấy chục năm vừa qua có một
số triết-gia cộng-sản ở Pháp, như Roger Garaudy và Michèle
Bertrand,
muốn đối-thoại với người công-giáo, đã chủ trương rằng Marx
không phải là không có ít chút quan-niệm tích-cực về tôn-giáo,
vì nếu tôn-giáo là cách biểu-lộ cái khốn-nạn có thực, thì nó
cũng là lời phản-kháng, hơn nữa tôn-giáo không còn phải là
mục-tiêu chính-yếu của cuộc đấu-tranh.
Tôi trộm nghĩ : đối với Marx,
phản-kháng suông thì có đi đến đâu, vì ông cho rằng phải lấy
khí-giới mà phê-bình kia mà ! Đàng khác, nếu tôn-giáo không còn
phải là mục-tiêu chính-yếu, thì không phải là vì nó không đáng
kể, nhưng là vì Marx cho rằng vấn-đề đã thanh-toán xong rồi !
Thực vậy, ngay trong câu đầu bài vừa trưng-dẫn, Marx đã tuyên
bố : « Ở bên Đức, vấn-đề phê-bình tôn-giáo đã thanh-toán xong về
phần cốt-yếu, và rồiø có phê-bình cái gì đi nữa thì cũng phải
phê-bình tôn-giáo trước đã »
. Sau cùng,
coi tôn-giáo như là thuốc phiện, như là chất ma-túy, để làm cho
người ta không còn cảm thấy đau-đớn khổ-sở, và được sung-sướng
giả-tạo, được hạnh-phúc trong ảo-tưởng, thì có gì là cao-quí đâu
? Ngày nay có một số người công-nhận rằng tôn-giáo là một
nhu-cầu của con người – phải hiểu đây là con người còn ấu-trĩ –
như vậy kể là đã có thiện-cảm hơn đôi chút, nhưng vẫn còn coi
người theo tôn-giáo là không ra gì, vàø coi tôn-giáo,
Thiên-Chúa, hay là Phật , tiên, thánh, thần, chẳng qua chỉ là
phương-tiện cho con người lập-thân mà thôi. Như đã nói trên đây,
Engels có thiện-cảm với tôn-giáo hơn là Marx.
Những câu
tuyên-bố đó về tôn-giáo chưa nói lên được hết ý của Marx, vì
trong khi viết báo để lôi cuốn độc-giả, thì phải dùng một lối
văn hấp-dẫn, vài tư-tưởng đơn-sơ và những khẩu-hiệu đanh thép.
Thế thôi. Những quan-niệm đầy-đủ hơn, Marx đã viết ra trong
Bản thảo về Kinh-tế và Triết-lý (1844) và trong chương nhất
của Ý-thức-hệ bên Đức (1845-1846).
______
Chú thích
Thiên khảo-luận này căn-cứ vào hai bài đã viết trước đây
bằng Pháp-văn đểå quảng-diễn rộng ra. Hai bài đó là : « La
critique de la religion par Karl Marx », trong Revue
philosophique de Louvain, bộ 68 (1970), tr 55-78, và
« Note sur le concept de Gattungswesen dans la pensée
de Karl Marx », cũng trong Revue philosophique de
Louvain, bộ 69 (1971), tr 525-536. Ngoài ra cũng dùng
đến mấy ý-kiến trong bài « Notes sur la place de la Praxis
dans la pensée de Marx », trong Actes du XIV Congrès
International de Philosophie (Wien/Vienne, 2-9 tháng 9,
năm 1968), Wien, NXB Herder, 1968, tr 134-138. Và nhất là
những trang 93-108, trong cuốn sách Tìm hiểu Triếât-học
của Karl Marx, Saigon, NXB Nam Sơn, 1965.
Feuerbach không bàn luận về nhân-loại như thế nào, nhưng
Marx sẽ trình bầy tỉ-mỉ dưới ý-niệm Gattungswesen (con
người nhân-loại).
Thời đo nước Phổ nằm ở nửa nước Đức về phía bắc, từ
biên-giới Hòa-lan đến biên giới nước Nga.
MEGA bộ cũ, Frankfurt/Main, 1927, I / 1 / 1, tr 215.
Cũng sđd, báo số 77, tr 393.
Trong thư đề ngày 11/08/1844, gửi từ Paris cho Feuerbach,
Marx viết :”Trong mùa hè năm nay, các công-nhân người Đức ở
đây, vài trăm người thuộc thành-phần cộng-sản, cứ mỗi tuần
hai lần, được những cán-bộ bí mật giảng cho nghe về cuốn
sách Bản-chất đạo Thiên-Chúa của ngài, và họ tiếp
nhận tư-tưởng một cách thật đáng chú-ý” (MEGA III / 1, tr
65).
Marx viết trước đó :”Không phải vì các tôn-giáo cũ sa-sút mà
các quốc-gia trước đây sụp đổ, nhưng các tôn-giáo cũ sụp đổ
là vì các quốc-gia trước đây sa sút” (MEGA bộ cũ, I / 1 /1,
tr 237)
Trong sách Le statut de la religion chez Marx et Engels,
Paris, Ed. Sociales, 1979.
|
VỀ MỤC LỤC |
|
NGƯỜI TÍN HỮU GIÁO DÂN TRƯỞNG THÀNH
|
(Huấn dụ Christi
Fideles Laici: Người tín hữu giáo dân của Chúa Ki Tô)
NGUYỄN HỌC TẬP
Trên bốn mươi năm Công
Đồng Vatican II đã kết thúc ( 1963-2003), khi chúng tôi viết bài
nầy và mười lăm năm sau huấn dụ cho Thượng Hội Đồng Giám Mục
của Đức Thánh Cha Gioan Phaolồ II Christi Fideles Laici (
1988), người giáo dân Công Giáo nói chung và giáo dân Việt
Nam đã lớn lên được bao nhiêu?
Dĩ nhiên nhìn lại dòng
lịch sữ, thời kỳ " thơ ấu " của người giáo dân, thời kỳ
trong đó người giáo dân được coi là " thiếu thời " và
phải được hàng giáo phẩm luôn luôn nắm lấy tay dẫn dắt trong hết
mọi chuyện, tôn giáo cũng như trần thế.
Thời đó đã qua đi.
Nói như vậy, chưa hẵn là
chúng ta có thể quả quyết là hiện nay người giáo dân chúng ta,
dĩ nhiên trong đó có cả người đang viết, đã hoàn toàn trưởng
thành.
Có lẽ chúng ta nên nói
là chúng ta đang còn ở trong giai đoạn " giữa chừng " hay đang
lớn lên, thì đúng hơn, chúng ta đang còn đang ở trong
giai đoạn khủng hoảng của giai đoạn chuyển hoá để tiến đến tuổi
trưởng thành.
Nói như vậy, nhìn lại
quảng đường đã qua để ý thức với những biến chuyển của các biến
cố lịch sử, văn hóa và mục vụ đã thúc đẩy làm cho người giáo dân
vươn mình thức dậy khỏi trạng thái ngái ngủ, thiếu thời.
Nhưng thức dậy, nhìn
xung quanh và bước đi như người lớn, chưa hẵn là chúng ta "đã
lớn", đã trưởng thành, khi phải chạm trán với những vấn đề
cần phải tháo gở, để bước đi đến tuổi trưởng thành.
Đó là hai phần của đề
tài đang viết để chúng ta ý thức,có cách hành xử thỏa đáng
trong những bước vươn lên đến tuổi trưởng thành.
1 - Những hoàn cảnh lịch
sử và văn hóa đổi mới.
Huấn từ của Đức Thánh
Cha Gioan Phao Lồ II Christi Fidelis Laici khởi đầu
bằng xác tín rằng chúng ta đang có:
- " trong thời
điểm huy hoàng và bi đát hiện tại của lịch sử, trước thềm ngàn
năm thứ ba, thời điểm của những hoàn cảnh mới về lịch sử, xã
hội, kinh tế, chính trị cũng như văn hóa, đòi buộc người tín hữu
giáo dân phải có những hành động với nghị lực đặc biệt thích
ứng" ( Christi Fideles Laici, 3).
a) Tiến trình biến
chuyển thế tục hóa.
Hoàn cảnh trước tiên cần
phải lưu tâm, đó là tiến trình thế tục hóa (processo
di secolarizzazione).
Đó là tiến trình thay
đổi sâu đậm tâm thức, văn hóa và tập quán phát sinh trong thế
giới tân tiến hiện tại, như là phản ứng chống lại cách hành xử
không chính đáng của thời Trung Cổ, sáp nhập, pha trộn
thần quyền và thế quyền, niềm tin và văn hóa, ngai vàng và bàn
thờ.
Tiến trình thế tục hóa
hiện tại là một tiến trình lưỡng diện.
a - Nếu hiểu đúng
nghĩa thế tục hóa là thái độ hành xử nhằm xác định
lại vai trò tự lập của các thực tại trần thế và đặc tính
thế tục ( laicità) của các thực tại trên
thế gian, được Chúa dựng nên, thì đó là một tiến trình tốt đẹp.
Bởi vì như vậy chúng ta
có thể
- thanh lọc thoả đáng
được nội dung của đức tin,
- gia tăng thêm trách
nhiệm lịch sử của người tín hữu
- và kích thích những
sáng tạo của họ để đáp ứng lại một cách thích hợp những đòi hỏi
của cuộc sống,
- mở rộng con đường
đối thoại với bất cứ ai thành tâm thiện chí.
b - Trái lại,
thế tục hóa là tiến trình băng hoại tương đương với "
vô thần hóa" hay " vô tôn giáo hóa" (
secolarismo), thì đó là tiến trình đê tiện hóa con
người, bởi vì trình bày con người với hình ảnh sai lạc, cho
rằng
* con người có thể
tự mình có cuộc sống hoàn hảo, tự mãn (autosufficiente)
,
* lịch sử là một
chuổi những biến cố tự nhiên và tự tại ( imminente),
* con người có thể tự
giải thoát chính mình bằng ý thức hệ, tư bản chủ nghĩa cũng như
xã hội chủ nghĩa.
Tiến trình thế tục
hóa, trong ý nghĩa đang bàn, là cách hành xử loại trừ
Thiên Chúa ra khỏi đời sống con người, ra khỏi xã hội,
xem tôn giáo và tự do tôn giáo như chỉ là những vấn đề tư
riêng:
- " Con người bỏ
quên Thiên Chúa, coi Thiên Chúa vô nghĩa của cuộc sống mình, từ
bỏ Thiên Chúa và tôn thờ nhiều " thần tượng " khác" ( Christi
Fideles Laici, 4).
Tính cách lưỡng diện
vừa kể của tiến trình thế tục hóa đã tạo ra nhiều hậu quả tương
phản:
- một đàng đã và đang
tạo ra khủng hoảng niềm tin tôn giáo mà ai trong chúng ta cũng
thấy được,
- đàng khác tạo ra
cho con người nhu cầu mới về tôn giáo:
- " thế giới hiện
tại, dưới nhiều hình thức rộng lớn và sống động, minh chứng một
cái nhìn thiêng liêng và đời sống siêu nhiên, một sự thức tỉnh
đi tìm tôn giáo, một sự trở về với ý nghĩa thiên thánh và lời
cầu nguyện, nhu cầu có được tự do để khẩn cầu lên Thiên Chúa" (
id.).
Tiến trình thế tục hóa,
như vừa nói, là một sự kích thích cho người tín hữu giáo dân,
giúp họ hiểu được " đặc tính trần thế ",
ơn gọi và sứ mạng của họ.
b) Chuyển đổi văn
hóa và giá trị.
Một trong những ảnh
hưởng của tiến trình thế tục hóa là nền văn hóa đồng
nhất cổ truyền trong quá khứ đã và sẽ nhường bước cho những
quan niệm đa dạng về cuộc sống và lịch sử, nhiều khi đi ngược
lại cả quan niệm nhân bản con người trong Phúc Âm.
Những quan niệm mới đa
dạng vừa kể về con người đã và đang có ảnh hưởng " nguyên
nhân-hậu quả " đến các phương thức tổ chức cuộc chung sống
văn minh của con người hiện đại.
Chuyển đổi văn hóa và
giá trị đang tiến hành có " giá trị con dao hai lưởi " :
- một đàng những giá
trị của nền luân lý trong quá khứ đang có nguy cơ sẽ bị mai
một ( ví dụ: giá trị về gia đình, tình yêu, liên hệ tính
dục...),
- đàng khác, một số
giá trị trong quá khứ không mấy ai chú ý, đang được khai quật
và yêu chuộng ( Ví dụ: con người dấn thân để bảo vệ lẽ phải,
ý thức mới mẻ đối với liên đới và hoà bình, bảo vệ môi sinh).
Do đó một đàng có cái
nguy là với tâm trạng đánh mất đi những giá trị cổ truyền,
- chúng ta có thể bị
đưa vào tình trạng " tương đối luân lý " ( relativismo
moralista) ,
- nhưng đàng khác ,
nếu được hướng dẫn đúng đắn, đây là một " cơ hội để trưởng
thành": cơ hội để chúng ta khám phá ra những giá trị mới (
đức tính khoan dung, tôn trọng phẩm chất của cuộc sống, cần kiệm
và tiêu dùng tài nguyên theo lẽ phải), cũng như định giá và khôi
phục lại những giá trị cổ truyền đang bị lu mờ và mất đi.
Cuộc thách thức hiện tại
vừa kể chắc chắn làm cho người giáo dân ý thức được sứ mạng của
họ trong xã hội và trong Giáo Hội.
Người giáo dân hôm nay
- không phải chỉ được
Chúa kêu gọi để tuyên xưng một cách minh bạch các nguyên tắc và
giá trị của quan niệm Ki Tô giáo về con người và làm chứng
những chân lý đó trong cuộc sống cá nhân của họ, trong cuộc sống
gia đình và xã hội,
- mà còn được kêu gọi
để góp phần vào việc làm cho đức tin được " hội nhập văn hóa"
( inculturazione), kêu gọi thực hiện một cuộc Phúc Âm hoá
mới.
c) Tiến trình toàn
cầu hóa.
Tiến trình toàn cầu
hóa đang diễn ra là yếu tố mới thứ ba hiện diện trong cuộc
sống để trở nên trưởng thành của người tín hữu giáo dân.
Tiến trình toàn cầu
hóa cần phải được định hướng về phương diện văn hóa cũng như
luân lý, nếu chúng ta muốn có được một xã hội được tổ chức hợp
với nhân phẩm con người.
Do đó người tín hữu giáo
dân được mời gọi như là những người xây dựng một thế giới mới,
cùng cộng tác với những người thiện chí khác, với tư cách là
người công dân cũng như trong sứ mạng của người tín hữu.
Tiến trình toàn cầu
hóa đầu tiên là tiến trình truyền thông xã hội và thông tin.
Nhờ những phát triển kỹ thuật và khoa học tân tiến, hiện nay con
người có thể phổ biến kiến thức, tin tức và văn hóa khắp hoàn
cầu trong một thời gian ngắn ngủi.
Đây là một tiến trình
thay đổi cấu trúc và cũng có giá trị lưỡng diện:
- có thể phục vụ con
người để giúp cho các dân tộc hiểu biết nhau hơn, phục vụ đắc
lực hơn cho hòa bình, phát triển, phục vụ con người;
- nhưng nếu trong
tiến trình thiếu luân lý, kỹ thuật tân tiên có thể là dụng cụ để
thực hiện chế độ thực dân văn hóa, còn tệ hơn cả
thực dân kinh tế và đưa đến những bất bình đẳng mới.
Truyền thông xã hội hiện
nay đã trở thành một loại văn hoá mới, một cách thức mới để hiểu
biết vũ trụ, đời sống và con người.
Điều đó cắt nghĩa tại
sao truyền thông xã hội càng phát triển, chúng ta càng cần có sự
tham dự một cách tích cực và có trách nhiệm.
Nhu cầu " tham dự có
trách nhiệm" đó là
- " một dấu chỉ
thời đại đích thực của xã hội chúng ta, nhứt là đối với nữ
giới và thế hệ trẻ, để hướng dẫn đời sống, không những đời sống
gia đình và học đường, mà còn cả đời sống trong lãnh vực văn
hóa, kinh tế, xã hội và chính trị " ( Christi Fidelis Laici, 5).
Tuy nhiên để có thể cống
hiến cho văn hóa một tinh thần và luân lý đối với thế giới
truyền thông tân tiến hiện nay, người tín hữu giáo dân cần phải
được đào tạo đầy đủ về mặt thiêng liêng cũng như chuyên
môn.
Một cái nhìn tương tự
cũng có giá trị đối với tiến tình toàn cầu hóa kinh tế và tài
chánh, hiện đang đưa đến việc cần phải đề thảo ra một khuôn
mẫu phát triển chung cho cả thế giới.
Thời gian của những vấn
đề do cách mạng kỹ nghệ và tương phản giữa vốn liếng và việc làm
đã qua đi.
Vấn đề hiện nay là vấn
đề
- một khuôn mẫu phát
triển quân bình giữa miền Bắc và miền Nam của địa cầu,
- giải quyết những
vấn đề phát triển chênh lệch và nghèo đói do việc áp dụng kỹ
thuật tân tiến, điện tử, điện toán, robots.
Song song với vấn đề
phát triển Bắc- Nam vừa nói là vấn đề liên quan đến việc thiết
lập một trật tự mới về pháp luật và quân sự.
Đây là vấn đề khẩn thiết
hiện nay. Việc thiết lập ra được một cơ quan quyền lực thực hữu
siêu quốc gia, có sức mạnh thực sự bảo vệ hữu hiệu các quyền căn
bản của con người, của các dân tộc, của các chủng tộc thiểu số,
để tránh các cuộc tàn sát diệt chủng và chiến tranh, như những
gì đã xảy ra một cách tang thương ở cuối thế kỷ XX vừa qua.
Tất cả những tiến trình
toàn cầu hóa vừa kể đang chuyển đổi cơ cấu đời sống nhân loại,
đặt người tín hữu giáo dân phải suy nghĩ trước lương tâm mình về
sứ mạng của họ trên thế giới. Một vấn đề thối thúc mà có lẽ
trước đây chưa được đặt ra.
Thế kỷ của năm 2000 là
thế kỷ của thế giới trở thành liên kết duy nhứt, phổ quát và
toàn cầu.
Việc chuyển đổi nào cũng
hàm chứa những ý nghĩa lưỡng diện. Do đó các việc chuyển đổi cần
phải được hướng dẫn và định hướng.
Trong việc hướng dẫn và
định hướng vừa kể, vai trò của người tín hữu giáo dân không thể
được giao phó cho người nào khác, nhứt là đối với những lãnh vực
trần thế, trực tiếp liên quan đến hoàn cảnh sống của mình, của
gia đình, của xã hội, của quốc gia và của cả anh em nhân loại.
Ý thức được vai trò đó
hôm nay là điều làm cho họ bước ra khỏi trạng thái ấu trỉ.
2 - Những quan niệm mới
về Thần Học và Giáo Hội Học.
a) Yếu tố thần học
và Giáo Hội học.
Song song với những
nguyên do lịch sử và văn hóa, chúng ta cũng có những yếu tố thần
học và Giáo Hội học góp phần một cách quyết định cho việc chuyển
hoá người giáo dân công giáo đến trưởng thành.
- Chúng ta duyệt xét
qua những ý niệm sâu xa về tín lý và mục vụ được Công Đồng
Vatican II đề cập và được Vị Chủ Chăn của Giáo Hội suy nghĩ tiếp
theo.
- Chúng ta đề cập
đến những ý niệm tín lý và mục vụ ảnh hưởng lớn lao đến việc
định giá lại ơn gọi và sứ mạng của người tín hữu giáo dân.
- Đặc tính thông hiệp
của Giáo Hội.
Những suy tư sâu xa về
Giáo Hội Học đã khiến cho Công Đồng Vatican II chuyển đổi trọng
tâm của tầm nhìn Giáo Hội từ một " tổ chức hoàn hảo" đến
Giáo Hội là một thực thể
- " Giáo Hội là
mầu nhiệm hiệp thông giữa con người và Thiên Chúa và giữa người
với người " (Lumen Gentium , 4).
Giáo Hội là " Dân
Chúa " hay là
- " Bí Tích và
Dụng Cụ của mối liên kết thân tình con người với Thiên Chúa và
nơi đại kết của tất cả nhân loại với nhau" (Lumen Gentium, 1.).
Công Đồng Vatican II
khẳng định
- " trong đoàn
dân của Đấng Cứu Thế, mọi thành phần đều có địa vị như nhau và
mọi người đều có ơn gọi trở nên trọn hảo như nhau; không có bất
cứ một sự dị biệt nào do chủng tộc, quốc gia, phái giống, hoàn
cảnh xã hội gây ra. Và, một vài người do ý muốn của Chúa Ki Tô
được phong cho thành tiến sĩ và người phân phát các mầu nhiệm,
một vài người thành chủ chăn đối với những người khác, nhưng
tất cả mọi tín hữu đều thực sự đồng đẳng như nhau về địa vị và
về hành động chung để cùng xây dựng Thân Thể Chúa Ki Tô" (Lumen
Gentium , 32).
Thời kỳ giáo phẩm chế đã
kết thúc.
Hàng Giáo Phẩm được đặt
vào trong lòng cộng Đồng "Dân Chúa" để phục vụ.
Giáo dân không còn là
thành phần trẻ dại ( minorenni), hay chỉ là thành
phần phụ giúp cho hàng giáo phẩm.
- "Người tín hữu
giáo dân chu toàn phần vụ của mình trong lòng Giáo Hội và giữa
trần thế sứ mạng của tất cả cộng đồng Ki Tô Giáo" ( Lumen
Gentium , 31 ).
Trả lời cho câu hỏi, "
Người tín hữu giáo dân là ai? ", Đức Gioan Phaolồ
II xác nhận:
- " Công Đồng
Vatican II, vượt qua những lối giải thích phần nhiều theo khuynh
hướng tiêu cực trước đây, đã mở ra một cái nhìn mới, xác nhận
rằng người giáo dân hoàn toàn là thành phần của Giáo Hội , hoàn
toàn tham dự vào mầu nhiệm của Giáo Hội và xác nhận tính cách cá
biệt ơn gọi của họ" ( Christi Fideles Laici, 9).
b) Chiều hướng
lịch sử của ơn cứu rổi Ki Tô giáo.
Một quan niệm thần học
khác được Công Đồng Vatican II định đặt lại giá trị làm cho
người tín hữu giáo dân hiểu biết thêm về ơn gọi và sứ mạng của
họ, đó là chiều hường lịch sử của ơn cứu rổi.
Chúa Giêsu, Con Thiên
Chúa nhập thể, đi vào lịch sử của nhân loại, đảm nhận lấy lịch
sử và quy tóm về mình:
- " Ngôi Lời Thiên
Chúa, nhờ Người mà mọi vật được tạo thành, chính Người đã trở
thành nhục thể và đã đến ở thế gian giữa con người. Là con
người hoàn hảo, Người đã hội nhập vào lịch sử của thế gian, đảm
nhận và quy tóm lịch sử đó về nơi mình" ( Gaudium et Spes, 38).
Điều đó có nghĩa là chân
lý Ki Tô giáo không phải là chân lý phi thời gian.
Cuộc Nhập Thể của Ngôi
Lời được thực hiện trong lịch sử con người, trải qua tất cả các
thời đại của nhân loại, trải qua mọi nền văn hóa và mọi cuộc
sống văn minh.
Như vậy không ai có thể
nói được có hai dòng lịch sử song song, một của thế giới và một
của Giáo Hội. Chỉ có một dòng lịch sử duy nhứt, bởi vì công cuộc
cứu rỗi Ki Tô giáo có chiều hướng nội tại của lịch sử và cho
hết mọi người.
Và do chính đặc tính
trần thế của mình,
- " chính sứ mạng
của người tín hữu giáo dân khiến họ tìm kiếm nước Thiên Chúa
bằng cách hoạt động trong các lãnh vực trần thế và thiết định
trật tự của chúng theo ý muốn của Thiên Chúa" ( Lumen
Gentium, 31).
Do đó bổn phận của người
tín hữu giáo dân là
- bổn phận đối thoại
với tất cả mọi người và mọi văn hóa về những vấn đề trọng đại
của thời đại,
- soi sáng các vấn đề
đó bằng ánh sáng Phúc Âm để canh tân hoá xã hội, mà " Giáo
Hội chia xẻ lịch sử, những vui mừng, hy vọng, phiền nảo và lo
âu" ( Gaudium et Spes, 1+ 3).
Bổn phận đó, người tín
hữu giáo dân không nhận lãnh từ hàng giáo phẩm, mà chính
Chúa Giêsu đã trực tiếp giao phó cho họ trong phép Rửa và phép
Thêm Sức:
- " Thật vậy, các
tín hữu giáo dân được tháp ghép vào Thân Thể mầu nhiệm của Chúa
Ki Tô qua phép rửa, được tăng trưởng thêm nghị lực nhờ Chúa
Thánh Linh trong phép Thêm Sức, họ được chính Chúa Giêsu ủy thác
cho trách vụ tông đồ" ( Apostolicam Actuositatem, 3).
Việc xác định lại giá
trị chiều hướng lịch sử của ơn cứu rổi, dĩ nhiên đem lại cho
người tín hữu giáo dân một địa vị trưởng thành mới, bởi vì chính
ơn gọi của họ đặt họ ngay vào tâm điểm của các vấn đề thế tục.
Đặc tính tự lập các
lãnh vực thế tục.
Một quan niệm khác không
kém phần quan trọng của Công Đồng Vatican II, đó là sự nhìn nhận
đặc tính tự lập của các lãnh vực trần thế
.
Văn hoá, chính trị, nghệ
thật, khoa học có mục đích, luật lệ và phương tiện riêng để thực
hiện tự lập.
Đức tin cũng như mục
đích tối hậu siêu nhiên không không can dự và cũng không thể
giúp đỡ gì được.
Đó là điều do ý muốn của
Đấng Tạo Hoá và cũng chính đó là cội nguồn của đặc tính trần
thế của chúng.
Dĩ nhiên bất cứ mục đích
tự nhiên nào cũng là những mục đích " trung gian", và đặc
tính tự lập của các lãnh vực trần thế là đặc tính tự lập tương
đối, bởi vì mọi vật được Chúa dựng nên là được dựng nên cho mục
đích tối hậu siêu nhiên.
Và cũng vì vậy mà
các chương trình, nổ lực và hoạt động để thăng tiến con người
không nên lầm lẫn với sự cứu rỗi siêu nhiên: hai thực
thể khác nhau, mặc dầu không tách biệt nhau vì hỗ tương bổ túc
nhau.
Kế đến ý thức đặc tính
tự lập của các lãnh vực thế tục, Công Đồng Vatican II kích
thích khiến cho người tín hữu giáo dân trưởng thành hơn và cố
gắng hơn để " tổng hợp trong tâm thức và trong hành động
giữa đức tin và việc dấn thân trần thế" , mặc dầu vẫn
giữ biệt lập hai lãnh vực tôn giáo và thế tục.
Và từ một niềm tin,
- chúng ta có thể có
những ước muốn và khuyến khích do nhiều khuôn mẫu tổ chức xã hội
khác nhau,
- người tín hữu giáo
dân có thể có những lối suy tư tự lập cần thiết và tự do hành
động có trách nhiệm trong việc chọn lựa những những vấn đề trần
thế:
- chính họ phải ý
thức và xác tín những gì, bao giờ và cách nào phải làm, thay vì
trông đợi ở các vị Chủ Chăn những giải pháp, cho vấn đề được
đặt ra, ngay cả vấn đề hệ trọng cũng vậy:
- " Thẩm quyền
chuyên biệt của giáo dân, mặc dầu không chỉ độc quyền của họ, là
lãnh vực chuyên môn và những hoạt động trần thế. Họ ( người giáo
dân) nên trông đợi ở các linh mục ánh sáng và sức mạnh thiêng
liêng. Nhưng họ đừng nghĩ rằng các vị chủ chăn của họ có thẩm
quyền để có thể đưa ra cho họ một giải pháp thực tế và cấp tốc
đối với mọi vấn đề, ngay cả đối với vấn đề quan trọng mà họ đang
gặp phải, hay đó là sứ mạng của các ngài. Đúng hơn, được soi
sáng bởi đức khôn ngoan Ki - tô giáo, chú ý một cách trung thực
đến lời giảng dạy của Giáo Hội, chính họ nên đứng ra nhận lãnh
trách nhiệm của mình" ( Gaudium et Spes, 43).
Nếu hàng giáo phẩm được
Thiên Chúa ủy thác cho phận vụ " munus docendi, santificandi
et curandi " ( dạy dỗ, thánh hoá và chăn dắt bảo vệ) trong
lãnh vực tôn giáo, " trông đợi ở các linh mục ánh sáng và sức
mạnh thiêng liêng",
thì không có lý do gì
người tín hữu giáo dân phải ngồi chờ sự chỉ dẫn và động tác của
hàng giáo phẩm trước những vấn đề bất công xã hội, những vi phạm
đến các quyền căn bản của con người như vụ Toà Khâm Sứ, Tam
Toà, Thái Hà, Đồng Chiêm..., kể cả những vụ gây uất ức, bất mãn
liên quan đến Đức TGM Ngô Quang Kiệt hay việc Toà Thánh đồng
thuận giao tiếp với CSVN, qua việc bổ nhiệm người đại diện
không thường trực ( non- residente ) ở Việt Nam cũng vậy.
Đó là cách suy nghĩ và
hành xử của hàng giáo phẩm về những vấn đề trần thế.
Những biến cố vừa kể với
các cách hành xử của hàng giáo phẩm không thuộc về lãnh vực đức
tin và luân lý, không nằm trong thẩm quyền " dạy dỗ, thánh
hoá và dẫn dắt bảo vệ " mà người tín hữu giáo dân " nên
trông đợi ở các linh mục ánh sáng và sức mạnh thiêng liêng
".
Không phải là lãnh vực
của tín lý và luân lý, nên không có gì bảo đảm các cách hành xử
của hàng giáo phẩm là " bất khả ngộ " ( infallibile ).
Lãnh vực bất công xã
hội, vi phạm các quyền bất khả xâm phạm của con người là lãnh
vực trần thế, người tín hữu giáo dân, " chính họ nên đứng ra
nhận lãnh trách nhiệm của mình ", để tạo cho mình và đồng
bào mình một cuộc sống xứng đáng với nhân phẩm con người, con
Thiên Chúa ( phần được thêm vào ) .
Hàng Giáo Phẩm cần phải
thấy được rằng giáo dân
- không chỉ là những
người thừa hành thụ động, sai đâu làm đó, bảo sao nghe vậy, cả
đối với những lãnh vực trần thế.
- mà là những cộng sự
viên tích cực, có trách nhiệm, ngay cả trong việc soạn thảo
những giáo huấn của Giáo Hội.
Dĩ nhiên người giáo
dân trong vai trò như vậy, không thể là những người giáo dân ấu
trỉ.
c) Ân sủng thúc
đẩy.
Và sau cùng, sự trưởng
thành của người tín hữu giáo dân là do sức mạnh của ân sủng thúc
đẩy, ân sủng được Chúa ban xuống cho trong cộng đồng Giáo Hội.
Trong đời sống Giáo Hội,
ân sủng có thể nhận thấy và đôi khi cũng có thể đối nghịch với
tổ chức cơ chế .
Một đàng, năng lực của
ân sủng làm cho Giáo Hội được canh tân và trẻ trung hóa, mở tung
cửa cho Giáo Hội trước những thực trạng mới.
Đàng khác, chính cơ chế
của Giáo Hội có nhiệm vụ kiểm chứng tính cách xác thực của ân
sủng, canh chừng những lệch lạc có thể xảy ra, bảo đảm tích cách
chính thống trung thực của giáo lý, thế nào cho ân sủng đưọc
Chúa ban để phục vụ tính cách hợp nhất và triển nở toàn diện
thân thể Giáo Hội.
Dù sao đi nữa, không thể
có sự đối ngược giữa ân sủng đích thực và cơ chế của Giáo Hội,
mà là tổng hợp điều hòa.
Bởi lẽ cả hai là yếu tố
cấu trúc của Giáo Hội, được xây dựng trên nền tảng của các thánh
Tông Đồ và các Tiên tri:
- " Vậy anh em
không còn phải là người xa lạ hay người tạm trú, nhưng là người
đồng hương với các người thuộc dân thánh, và là người của nhà
Thiên Chúa, bởi đã được xây dựng trên nền móng là các Thánh Tông
Đồ và Ngôn Sứ, còn đá góc tường là chính Chúa Giêsu Ki Tô" ( Eph
2, 19-21).
Điều đó có nghĩa là Giáo
Hội được xây dựng trên cơ chế của các Thánh Tông Đồ và trên ân
sủng của các Ngôn Sứ.
Nói cách khác,
- " Giáo Hội luôn
luôn vừa là cơ chế ( institution) vừa là ân sủng ; vừa có đặc
tính tập tục, vừa mới mẽ; vẫn liên tục với quá khứ, nhưng rộng
mở hướng về tương lai; liên kết với Chúa Ki Tô lịch sử qua việc
liên tục nối kết tông truyền và tập tục, nhưng luôn luôn dưới ân
sủng sáng tạo của Chúa Thánh Linh ( Gioan Phalồ II, Messaggio ai
partecipanti al Congresso mondiale dei Movimenti (
27-29.05.1998), in Osservatore Romano, 28.05.1998, p.6).
Sự trưởng thành của
người tín hữu giáo dân trong những thời gian gần đây được gia
tăng do ân sủng Chúa Thánh Thần tuôn xuống dồi dào trong lòng
Giáo Hội, như Công Đồng Vaticano II xác nhận:
- " Chính Chúa
Thánh Linh ban phát cho mỗi người quà tặng của Ngài như Ngài
thích, phân phát giữa các tín hữu ở mọi thứ bậc cả những ân sủng
đặc biệt , cần thiết để canh tân và để phát triển Giáo Hội hơn.
Chúng ta hãy lãnh nhận các ân sủng đó với lòng biết ơn và sự an
ủi bình thản tâm hồn" ( Lumen Gentium, 12).
3 - Tương quan giữa giáo
dân và chủ chăn trong Giáo Hội.
a) Những phận
vụ mới của người giáo dân.
Qua những gì đã duyệt
qua, về phương diện lý thuyết, những phận vụ mới của người giáo
dân được xác định khá rõ ràng. Tuy nhiên trong thực hành, một
đôi khi sự liên hệ giữa giáo dân và các vị chủ chăn còn một vài
vấn đề và va chạm.
Bản Giáo Luật năm
1917
diển tả người giáo dân
dưới hình thức tiêu cực:
- " Người giáo dân
không phải là giáo sĩ, không mặc áo dòng, không được phép cử
hành Thánh lễ, là người phải tùy thuộc vào giáo sĩ để có thể
được huởng những ơn thiêng liêng ( Codex Jus Canonici 1917, can.
682).
Giáo Luật hiện tại
của năm 1983
tường trình cho chúng ta
người giáo dân dưới hình thức tích cực hơn, là
- " chủ nhân và
người có trách nhiệm trước tiên đối với sứ mạng của Giáo Hội.
Như vậy giáo sĩ cũng như giáo dân , mặc dầu có phận sự khác
nhau, đều có chung một sứ mạng truyền bá Phúc Âm".
Hai bộ Giáo Luật nói lên
hai thái độ khác biệt rộng lớn.
Ngay ở thời gian Công
Đồng Vatican II còn đang nhóm họp ( 1962), Công Đồng đã xác
quyết rằng
- " các chủ chăn
không phải là những người được Chúa Giêsu lập nên để nhận lãnh
một mình tất cả trọng trách của sứ mạng cứu rổi của Giáo Hội
đối với thế gian, mà bổn phận cao cả của các vị là chăn dắt các
tín hữu giáo dân và nhận biết phận vụ và ân sủng của họ, để tất
cả có thể đồng thuận hợp tác nhau, mỗi người theo khả năng của
mình, vào công việc chung" ( Lumen Gentium, 30).
Và bộ giáo luật hiện tại
còn đi xa hơn khi xác định rằng
- " trong Giáo
Hội, những giáo dân có khả năng thích hợp có thể được giao cho
những phận vụ và chức năng mà họ có thể thi hành" ( can. 228),
cả với tính cách vĩnh viễn như chức đọc sách, chức giúp lễ,
chức sáu vĩnh viễn.
Giáo luật mới còn thêm
- " trong trường
hợp cần thiết, khi thiếu các thứa tác viên có chức thánh, người
giáo dân có thể đảm nhận phận sự rao giảng lời Chúa, chủ toạ các
buổi cầu kinh phụng vụ, chủ sự phép Rửa Tội và phân phát Mình
Thánh cho rước lễ. Tuy nhiên nhiệm vụ của một cha xứ, theo Giáo
Luật ( can. 230), thường vẫn phải được giao cho một linh
mục.
Và rồi do một vài hiểu
lầm và lạm dụng, Tòa Thánh đã ra một Huấn Dụ để xác định năm
1997 ( Istruzione su alcune questioni circa la collaborazione
dei laici al ministero dei sacerdoti).
Huấn Dụ định rõ lãnh vực
của thiên chức linh mục chung của giáo dân (
sacerdozio comune) , khác với chức linh mục được truyền
chức ( ordinato) của các linh mục.
Nhờ quyền năng của Phép
Rửa và Phép Thêm Sức, giáo dân hay linh mục đều là thành phần
dân Chúa duy nhất: chỉ có một dân duy nhứt được Thiên Chúa chọn
lựa:
- " Một Thân Thể
duy nhứt, một Thánh Thần duy nhứt, một Thiên Chúa duy nhứt, một
đức tin duy nhứt , một phép Rửa duy nhứt" ( Eph 4,5).
Sự khác biệt là sự khác
biệt do cách thức tham dự vào một thiên chức linh mục duy nhứt
và bất khả phân chia của Chúa Giêsu. Nhưng chức linh mục
chung và chức linh mục thừa tác viên ( sacerdozio
ministeriale) hỗ trợ lẫn nhau:
- " Thiên chức
linh mục chung của giáo dân và thiên chức linh mục thừa tác
hay của hàng giáo phẩm ( sacerdozio ministeriale o gerarchico) ,
mặc dầu khác biệt nhau về bản chất chớ không những chỉ về thứ
bậc, được Chúa ban cho thiên chức nầy hổ trợ thiên chức kia,
bởi vì cả hai, mỗi chức tùy theo cách thức của mình, đều tham dự
vào chức linh mục duy nhứt của Chúa Ki Tô" ( Lumen Gentium,
10).
Do đó người giáo dân
ngay cả lúc hành xử những chức vụ mục vụ được giao cho họ để
thay thế linh mục,họ vẫn là giáo dân chớ không trở
thành " chủ chăn" ( Huấn Dụ 1997,
Istruzione su alcune collaborazioni
, cit., 14.11.1997).
Những đoàn thể giáo
dân mới.
Ngoài ra đoàn thể
Công Giáo Tiến Hành ( Azione Cattolica) và nhiều tổ chức có
truyền thống khác, sau Công Đồng Vatican II, có rất nhiều tổ
chức giáo dân được thành lập trong cuộc sống Giáo Hội.
Nhiều tổ chức và phong
trào, từ mục đích " để có một đời sống đạo đức hoàn hảo hơn,
đến việc thăng tiến phượng tự công cộng hay thăng tiến giáo lý
Ki Tô giáo, cổ động những hoạt động tông đồ như rao giảng Phúc
Âm, tổ chức tỉnh tâm và bác ái", " các hiệp hội với nhiều
hình thức khác nhau để đem tinh thần Ki Tô giáo năng động hóa
các lãnh vực trần thế" ( can. 215; 298, 1; 299,3 ).
Các tổ chức, hiệp hội và
phong trào như vừa kể đã đưa đến nhiều kết quẳ đáng kể:
- tìm gặp lại niềm
tin sống động nơi Chúa Giêsu,
- tìm lại được kích
thích và hạnh phúc trong những giây phút cầu nguyện,
- nỗi vui mừng và
hăng hái của cuộc sống và làm chứng đức tin,
- lòng quảng đại Ki
Tô giáo đối với những ai khó nghèo,
- tăng trưởng thêm số
lượng ơn gọi linh mục và tu sĩ.
Nhưng trên bình diện mục
vụ và cơ chế, các tổ chức,
- " hiệp hội và
phong trào vừa kể cũng có thể gây ngộ nhận, tình trạng căng
thẳng giữa tổ chức nầy đối với tổ chức khác, giữa tổ chức với
giáo quyền" ( Diển từ ĐTC Gioan Phaolồ II trước các Phong Trào
trong Giáo Hội, cf. Osservatore Romano, 1-2.6.1998, p.6).
Để tránh những vấn đề
vừa kể, Huấn Dụ Christi Fideles Laici xác định một vài
tiêu chuẩn rõ rệt để nhận biết và phán đoán các tổ chức, hiệp
hội giáo dân ( Christi Fideles Laici, 30).
Nhưng có lẽ vấn đề
- không phải là "
công nhận và phê chuẩn theo giáo luật "
- cho bằng ý thức
và kinh nghiệm của việc thông hiệp thiêng liêng của tất cả thành
phần dân Chúa trong cộng đồng Giáo Hội.
Nói cách khác, ý thức
những bước tiến của các thành phần cộng đồng dân Chúa đến trưởng
thành qua việc hoạt động và chung sống trong hợp nhất của nhiều
thành phần khác nhau và với nhiều hoạt động khác nhau (
Unitas in diversitate).
Đó là ý nghĩa của Huấn
Từ ĐTC Gioan Phaolồ II cho Đại Hội các Phong Trào trong Giáo Hội
ở Roma, tại Công Trường Thánh Phêro 27-29.5.1998:
- " Các Phong Trào
là thành phần của chính bản thể Giáo Hội. Nơi các Phong Trào,
hợp nhứt không bao giờ có ý nghĩa là phẳng lặng đồng nhất, loại
trừ khác biệt; cũng như đa dạng không bao giờ đồng nghĩa với phe
nhóm hoặc phân tán" ( Gioan Phaolồ II, Messaggio ai partecipanti
al IV Congresso mondiale dei Movimenti ecclesiali (
27-29.5.1998), in Osservatore Romano, 28.5.1998, p.6).
Và ĐTC cũng còn nhắn
nhủ:
- " Chúng ta đừng
quên rằng mỗi ân sủng được Chúa ban cho là ban cho để cho lợi
ích chung, lợi ích của cả Giáo Hội , kinh nghiệm cũng như hoạt
động của các Phong Trào cần phải được hội nhập vào môi trường
Giáo Hội địa phương và các họ đạo, luôn luôn thông hiệp với các
Vị Chủ Chăn và quan tâm đến các lời hướng dẫn của các Ngài" (
Gioan Phaolồ II, Discorso in Piazza S. Pietro ( 30.5.1998), in
Osservatore Romano, 1-2.6.1998, p.6)
b) Liên quan giữa
đức tin và lịch sử.
Có lẽ một trong những
vấn đề phức tạp nhứt hiện nay sau 40 năm Công Đồng kết thúc và
18 năm sau Huấn Từ Christi Fideles Laici là vấn đề liên
hệ
- giữa đức tin và
cuộc sống, giữa đức tin và văn hóa,
- giữa đức tin và
lịch sử trong bối cảnh xã hội trần thế hoá của các Quốc Gia
tự do và xã hội bị vô thần hóa, con người bị tha hóa và đê tiện
hóa của các Quốc Gia Công Sản như Việt Nam.
Vấn đề phức tạp không
phải trên phương diện nguyên tắc cho bằng áp dụng thực hành
trong bối cảnh lịch sử đang chuyển hoá.
( a ) Người giáo dân
của ngàn năm thứ ba.
Về phưong diện nguyên
tắc, chúng ta đã có những định hướng khá rõ ràng để có thể quy
định " căn tính" ( identité) của người tín hữu giáo dân
trưởng thành của ngàn năm lẻ ba.
Các Ki Tô hữu của ngàn
năm thứ ba là một nhóm người thiểu số, nhưng đó cũng có thể là
một trạng thái tinh lọc qúy báu , chuẩn bị cho một mùa ân sủng
mới
Có kinh nghiệm là một
nhúm bột men, một hạt cải và một đoàn chiên nhỏ không phải là
bại trận, mà là điều kiện để làm cho thế giới dậy men và lớn lên
trong ân sủng Ki Tô giáo.
Các tín hữu Chúa Ki Tô
của ngàn năm thứ ba là những người xem việc phục vụ người
nghèo và những ai bị loại ra bên lề xã hội là những ưu tiên
không thể từ chối được.
Chương trình hành động
bác ái ưu tiên của họ
- không những chỉ
nhằm trợ giúp những ai đang sống trong cấp thiết,
- mà là đồng thuận,
hợp tác với những người thiện chí một " một thỏa ước xã hội
mới ", một định chế mới, được thiết lập trên những giá trị
luân lý chung, để
* vượt thắng ích
kỹ,
* kỳ thị chủng tộc,
* tiêu thụ chủ
nghĩa,
* hành xử vô luân
lý, đê tiện hoá con người và những tệ nạn xã hội khác xúc phạm
đến Thiên Chúa.
Người tín hữu giáo dân
của ngàn năm thứ ba không thể không suy nghĩ đến những đồ án mới
cao cả hơn, tốt đẹp hơn cho cuộc sống Quốc Gia và xã hội mà họ
nghĩ phải cùng xây dựng với người khác.
Người giáo dân không thể
chỉ thỏa mãn giới hạn tranh đấu cho vấn đề nầy hay vấn đề khác,
để bênh vực một giá trị nầy hay giá trị khác.
Người giáo dân luôn luôn
phải hiện diện trong đời sống văn hóa, xã hội, chính trị, với
lòng ngay chính và khả năng chuyên môn vận dụng các phương tiện
có được để truyền bá một nền văn hóa đặt trên giá trị và hội
tựu đồng thuận của những nguời thành tâm.
Và cũng chính gì đó mà
người giáo dân của ngàn năm thứ ba
- " không thể nào
không dấn thân vào môi trường chính trị . Những ý kiến cho rằng
làm chính trị là mưu đồ để thành đạt, là tôn thờ quyền lực như
thần tượng, là ích kỹ và thối nát, hoặc cho rằng môi trường
chính trị là chắc chắn môi trường nguy hiểm cho luân lý, không
thể nào đưa ra những lý do chính đáng để biện minh cho thái độ
ngờ vực hoặc trốn tránh trách nhiệm của người Ki Tô hữu đối với
công việc chung" ( Christi Fideles Laici, 42).
- " ngoài đức bác
ái tôn giáo ra, không có bác ái nào cao cả hơn đức bác ái chính
trị, vì chính trị liên quan mật thiết với đời sống con người" (
Pio XI, Discorso FUCI 1927, Osservatore Romano 15.8.1927, p.3).
- " việc dấn thân
vào chính trị là phương thế cần thiết, mặc dầu không phải là
phương thế duy nhứt, để người công giáo thực thi đức bác ái phục
vụ người khác" ( Phaolồ VI, Octogesima Adveniens, 46).
( b ) Người tín hữu
giáo dân hiện diện trong chính trị.
Trong một xã hội dân chủ
đa nguyên, dĩ nhiên là người giáo dân có quyền suy nghĩ và hành
xử quyền tự do chính trị theo lương tâm và theo chính hướng mà
mình xác tín.
Tuy nhiên trong cách
hành xử theo nguyên tắc đa nguyên, người tín hữu phải hành
động trong chính trị phù hợp với lương tâm và những giá trị
của đức tin, được soi sáng bằng huấn dụ xã hội của Giáo Hội.
Hành động phù hợp với
lương tâm và đức tin như vừa kể có thể góp phần soạn thảo và
chấp thuận các chương trình chính trị phù hợp với những lý
tưởng Ki Tô giáo.
Kế đến người tín hữu
giáo dân cũng có trách nhiệm phán đoán những chương trình chính
trị do người khác, ý thức hệ và chế độ do người khác lãnh đạo đề
thảo ra, bởi vì không phải bất cứ ý thức hệ nào và chương
trình chính trị nào cũng phù hợp với đức tin Ki Tô giáo.
Và từ đó thái độ phải có của người giáo dân trưởng thành là
- " không thể gia
nhập dễ dàng vào các tổ chức chính trị và xã hội nào đi ngược
lại hay không quan tâm đủ đến các nguyên tắc huấn dụ xã hội của
Giáo Hội đối với nhân phẩm con người và đối với việc tôn trọng
đời sống con người, tôn trọng gia đình, tự do giáo dục, liên
đới, thăng tiến công lý và hoà bình" ( Gioan Phaolồ II, Discorso
al Convegno Ecclesiale di Palermo ( 23.11.1995), in " Il Regno",
n.21, 01.12.1995, p.671).
|
VỀ MỤC LỤC |
|
Ba trụ
cột của Kitô giáo |
Nguyên tác: Taking Flight - Bay Lên Đi
Tác giả: Anthony de Mello, S.J.
Chuyển ngữ: Lm. Minh Anh (Gp. Huế)
Chỉ dẫn:
Tốt nhất, các câu chuyện sẽ được đọc theo thứ tự như đã sắp xếp.
Mỗi lần đọc không quá một hoặc hai mẩu chuyện nếu bạn ước ao có
được một cái gì đó hơn là chỉ giải trí.
Lưu ý:
Các chuyện kể trong tập sách này đến từ nhiều đất nước, nhiều
nền văn hoá và tôn giáo khác nhau; chúng thuộc về những di sản
thiêng liêng, những câu chuyện hài hước được ưa chuộng của dòng
đời nhân loại.
Những gì tác giả làm là xâu kết chúng lại với nhau theo một ý
hướng đặc thù. Công việc của tác giả là công việc của người thợ
dệt và thợ nhuộm, tác giả chẳng có công trạng gì về những tấm
vải và những sợi chỉ.
LTS. Chỉ dẫn và lưu ý trên
đây là của tác giả. Tuy nhiên, vì Đặc San GSVN chỉ phát hành 2
tuần một lần nên mỗi số báo BBT xin giới thiệu trung bình từ 5
đến 7 mẫu chuyện. Bạn đọc có thể lưu lại để nghiền ngẫm suy tư.
Chủ đề: Ý Thức
35. Ba trụ cột của Kitô giáo
Một cuộc bách hại đạo thánh dữ dội bùng nổ trên toàn đất nước và
ba trụ cột của Kitô giáo - Thánh Kinh, Thờ Phượng và Bác Ái,
diện kiến Thiên Chúa để bộc bạch nỗi lo lắng của họ rằng, nếu
tôn giáo bị nghiền nát, cả ba không còn lý do gì nữa để tồn
tại.
Chúa liền bảo, “Đừng lo, Ta dự định phái xuống trần gian một
Đấng lớn hơn các ngươi”.
“Tên Đấng ấy là gì?”.
Chúa nói, “Biết mình”. “Đấng ấy sẽ làm những việc lớn lao hơn
bất cứ vị nào trong các ngươi đã làm”.
ڰ
36. Tự phụ và hiểu biết
Ba nhà hiền triết cùng thực hiện một cuộc hành trình, vì dẫu
được coi là khôn ngoan trong xứ sở, họ vẫn đủ khiêm tốn để hy
vọng chuyến đi sẽ mở mang sự hiểu biết của mình.
Vừa bước vào một đất nước láng giềng, họ thấy tự đàng xa một
ngôi nhà chọc trời; chắc phải là một vật gì dữ tợn lắm, họ tự
hỏi. Hiển nhiên là cứ đến và xem. Nhưng không, làm như vậy có vẻ
nguy hiểm quá. Có thể đó là một cái gì sẽ nổ tung nếu có ai đến
gần? Sẽ khôn ngoan hơn khi cùng nhau quyết định đó là cái gì
trước khi đến xem nó. Nhiều lý thuyết khác nhau được đặt ra, cân
nhắc, và theo kinh nghiệm đã có, họ loại bỏ các lý thuyết ấy.
Sau cùng, vẫn dựa trên nền tảng kinh nghiệm phong phú bao đời
của mình, họ xác định, dù gì đi nữa, vật ấy cũng chỉ có thể được
đem đặt ở đó bởi những người khổng lồ.
Điều này dẫn họ đến kết luận: sẽ an toàn hơn cho cả ba người, họ
nên rời khỏi xứ này. Vậy là họ lui gót về quê, thêm một chút gì
đó vào kho kinh nghiệm của mình.
Tự phụ làm lệch lạc óc nhận xét
Nhận xét đưa ra điều mình nghĩ
Điều mình nghĩ sản sinh kinh nghiệm
Kinh nghiệm phát sinh thái độ
và rồi, thái độ lại củng cố óc tự phụ.
ڰ
37. Cố chấp
Hai người thợ săn thuê một chiếc máy bay để tới một khu rừng.
Hai tuần sau, viên phi công trở lại đón họ. Nhìn những con thú
họ bắn được, viên phi công nói, “Máy bay này chỉ chở được một
con bò rừng. Các anh phải bỏ lại một con”.
Những người thợ săn phản đối, “Nhưng năm ngoái, viên phi công để
chúng tôi chở đến hai con cũng trong chiếc máy bay kích cỡ
này”.
Có phần nghi ngại, nhưng cuối cùng viên phi công nói, “Nếu năm
ngoái các anh chở được như vậy, thì tôi nghĩ chúng ta cũng có
thể chở lại thôi”.
Thế là máy bay cất cánh với ba người và hai con bò rừng. Nhưng
nó không thể đạt độ cao và đâm sầm xuống một ngọn đồi kế cận. Ba
người bò ra và nhìn quanh. Một người hỏi người kia, “Theo anh,
chúng ta đang ở đâu?”. Người kia quan sát chung quanh rồi nói,
“Tôi nghĩ, chừng hai dặm về phía trái chỗ máy bay rớt năm
ngoái”.
ڰ
38. Cậu tôi?
Một đôi vợ chồng trở về nhà sau đám tang của người cậu tên
Geoges, người đã sống với họ hai mươi năm với bao phiền toái ông
gây nên đến nỗi suýt làm hỏng cuộc hôn nhân của họ.
“Này em, có điều này anh phải nói với em”. Anh chồng nói. “Nếu
không vì tình yêu dành cho em, anh hẳn không chịu đựng được cậu
Geoges của em dù chỉ một ngày”.
“Cậu Geoges của em?”. Cô vợ kinh hoàng kêu lên, “Em nghĩ
ông ấy là cậu của anh chứ!”.
ڰ
38. Lời đồn
Mùa hè năm 1946, tin đồn về một nạn đói được truyền đi khắp tỉnh
một vùng Nam Mỹ. Sự thật thì năm ấy vẫn được mùa, thời tiết
thuận lợi cho một mùa bội thu. Nhưng cả tin vào lời đồn đại đó,
hai mươi ngàn nông dân bỏ ruộng đồng để lên thành phố. Vì quyết
định của họ, mùa màng thất thu, hàng ngàn người chết đói, và tin
đồn về nạn đói là đúng.
ڰ
39. Tranh luận với Giáo Hoàng
Nhiều năm về trước, vào thời Trung Cổ, các vị cố vấn thúc ép Đức
Giáo hoàng đuổi hết người Do Thái ra khỏi Roma. Họ nói, thật khó
coi khi những người này cứ sống nhởn nhơ ngay giữa trung tâm của
đạo Công giáo. Một sắc chỉ trục xuất được phác thảo và ban hành
khiến người Do Thái rất đổi kinh hoàng. Họ biết, dù đi đâu, họ
cũng sẽ bị đối xử tệ hơn ở Roma. Vậy là họ đến cầu cứu Đức Giáo
hoàng, xin ngài xét lại sắc chỉ. Là một người không thiên vị,
Đức Giáo hoàng đưa ra một đề nghị thẳng thắn: những người Do
Thái hãy chọn cho mình một người ra tranh luận với ngài mà không
dùng lời nói. Nếu người của họ thắng, họ được ở lại.
Cộng đồng Do Thái họp nhau để xem xét đề nghị. Từ chối đề nghị
là chấp nhận ra đi, đồng ý tranh luận là đón lấy thất bại, vì ai
có thể thắng trong cuộc tranh luận mà Đức Giáo hoàng vừa là
người tranh luận vừa là người phán quyết? Dẫu thế, không còn con
đường nào khác ngoài việc đồng ý. Chỉ có một điều là không thể
tìm được người tình nguyện sẽ ra tranh luận với Đức Giáo hoàng.
Gánh nặng vận mệnh của cả một cộng đồng Do Thái là điều không
một người nào có thể gánh lấy.
Khi người gác cổng hội đường nghe biết những gì đang xảy ra, anh
đến gặp vị Trưởng kinh sư và tình nguyện đại diện cho cộng đồng
trong cuộc tranh luận này. Nghe vậy, các kinh sư khác lên tiếng,
“Anh gác cổng? Không thể được!”.
Vị kinh sư trưởng nói, “Vì không ai trong chúng ta tình nguyện,
nên hoặc là anh gác cổng hoặc là không tranh luận”. Vì không tìm
được ai khác nên anh gác cổng được chỉ định đi tranh luận với
Đức Giáo hoàng.
Ngày trọng đại đến, Đức Giáo hoàng an vị trên ngai toà tại công
trường thánh Phêrô, chung quanh có các hồng y, đối diện là đông
đảo các giám mục, linh mục và giáo dân. Chẳng mấy chốc, phái
đoàn ít ỏi của người Do Thái đến với những chiếc áo choàng đen,
những vị râu dài và anh gác cổng ở giữa.
Đức Giáo hoàng quay về phía anh gác cổng và cuộc tranh luận bắt
đầu. Đức Giáo hoàng trịnh trọng đưa một ngón tay lên và vạch
ngang trời. Lập tức anh gác cổng chìa ngón tay xuống đất một
cách rõ nét. Xem ra Đức Giáo hoàng có vẻ lùi lại. Rồi thậm chí
còn trịnh trọng hơn, ngài lại đưa một ngón tay lên chỉ thẳng mặt
anh gác cổng và giữ như thế. Lập tức, anh gác cổng liền đưa ba
ngón tay lên chỉ thẳng Đức Giáo hoàng và cũng giữ như vậy. Xem
ra ngài kinh ngạc vì cử chỉ đó. Rồi Đức Giáo hoàng thọc tay vào
túi, lấy ra một trái táo; anh gác cổng lại cũng đút tay vào túi
mình lấy ra một lát bánh không men. Đúng lúc này, Đức Giáo hoàng
lớn tiếng tuyên bố, “Người đại diện cộng đồng Do Thái thắng
cuộc. Sắc chỉ trục xuất được huỷ!”.
Lập tức, các chức sắc Do Thái vây quanh người gác cổng và dẫn
anh ta đi. Các hồng y cũng tập họp quanh Đức Giáo hoàng trong
nỗi ngạc nhiên. Họ hỏi, “Tâu Đức Thánh Cha, chuyện gì vậy?”.
Ngài bảo, “Chúng ta không thể tiếp tục cuộc đấu tài đấu trí
chóng vánh này được”.
Quệt mồ hôi trán, ngài nói: “Y là một thần học gia tài giỏi, một
bậc thầy tranh luận. Ta bắt đầu bằng cách vạch ngón tay lên trời
để nói rằng toàn thể vũ trụ đều thuộc về Thiên Chúa. Anh ta lại
chỉ một ngón tay xuống đất để nhắc ta rằng, còn có một nơi được
gọi là hỏa ngục, nơi ma quỉ làm bá chủ. Ta lại đưa một ngón tay
lên để nói rằng Thiên Chúa, Đấng độc nhất. Các ngươi tưởng tượng
ta kinh ngạc làm sao khi đối thủ đưa ba ngón tay lên để nói
rằng, Thiên Chúa duy nhất cùng tỏ mình ra trong Ba Ngôi, qua đó,
anh chân nhận giáo lý của chúng ta về mầu nhiệm Ba Ngôi! Biết
rằng không thể nào thắng được nhà thần học tài ba đó, ta chuyển
cuộc tranh luận sang một lãnh vực khác. Ta lấy ra một quả táo để
nói rằng, một vài tư tưởng mới cho rằng trái đất thì tròn. Tức
khắc, ông ấy lấy ra một lát bánh không men nhằm nhắc Ta, theo
Kinh Thánh, trái đất lại phẳng. Vậy là chẳng còn gì nữa ngoài
việc thừa nhận chiến thắng thuộc về ông ấy?”.
Lúc này cộng đồng Do Thái kéo nhau về hội đường của mình, họ
hoang mang hỏi anh gác cổng, “Chuyện gì vậy?”.
“Toàn chuyện tầm phào!”, anh phẩn nộ trả lời, “Này coi, trước
hết Đức Giáo hoàng vung tay như muốn nói tất cả những người Do
Thái phải ra khỏi Roma. Thế là tôi chỉ ngay xuống đất để ngài
hiểu rõ rằng chúng ta chẳng đi đâu cả. Rồi ngài chỉ ngón tay đầy
đe doạ vào tôi như để nói, “Đừng hỗn xược!”. Thế là tôi đưa luôn
cả ba ngón tay để nói với ngài rằng, chính ngài ba lần tráo trở
với chúng ta khi độc đoán buộc chúng ta rời khỏi Roma. Chuyện
tiếp theo, là tôi thấy ngài lấy phần ăn trưa của mình ra và tôi
cũng lấy phần ăn của tôi ra”.
(còn tiếp nhiều kỳ)
|
VỀ MỤC LỤC |
|
MỘT SỐ ĐẶC
ĐIỂM CỦA LINH ĐẠO LINH MỤC GIÁO
PHẬN |
Mời thăm Blog của
Lm. Trần Minh Huy
http://chivilongchuathuongtoi.blogspot.com/
BẢN THẢO
ỨNG SINH LINH MỤC HỌC &
SỐNG LINH ĐẠO LINH MỤC GIÁO PHẬN
GIÁO TRÌNH TU ĐỨC LỚP THẦN II & III
ĐẠI CHỦNG VIỆN THÁNH GIUSE HÀ NỘI
2011-2012
CHƯƠNG MỘT:
ỨNG SINH LINH MỤC HỌC & SỐNG LINH ĐẠO
LINH MỤC GIÁO PHẬN (tiếp theo)
C. MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM CỦA
LINH ĐẠO LINH MỤC GIÁO
PHẬN
C.1.
Việc nhập tịch trong một Giáo hội địa phương
Văn kiện “Hướng dẫn mục vụ
dành cho linh mục giáo phận” của Bộ Truyền Giáo ban hành năm 1989 nói
rằng “đời sống trong Thánh Thần làm cho linh mục trở nên dấu chỉ hiện thân và
đặc trưng của Chúa Kitô trong việc phục vụ Giáo hội địa phương và phổ quát, hiệp
thông với đặc sủng của Giám mục.”
Còn Sắc lệnh Chức vụ và đời sống linh mục tóm tắt “do chức
thánh và sứ mệnh lãnh nhận nơi Giám mục, linh mục được đặc cử để phụng sự Chúa
Kitô là Thầy, là Linh mục và là Vua; tham dự vào chức vụ của Người là ngày ngày
kiến tạo Giáo hội ở trần gian thành Dân Chúa, Thân thể Chúa Kitô và đền thờ Chúa
Thánh Thần,”
nghĩa là “linh mục được một bí tích riêng in dấu đặc biệt khi được
Chúa Thánh Thần xức dầu, nên giống Chúa Kitô Linh mục, đến đỗi có quyền thay mặt
Chúa Kitô là Đầu mà hành động.”
Có người hỏi: “Các Dòng thường
do một đấng sáng lập theo một đặc sủng và linh đạo cụ thể, còn các linh mục giáo
phận do ai lập và linh đạo thế nào?” Với tất cả lòng xác tín, các linh mục
giáo phận có thể trả lời rằng “chúng tôi được chính Chúa Giêsu Kitô lập và
chúng tôi cũng có linh đạo riêng của mình.” Và nét đặc trưng đầu tiên của
linh đạo linh mục giáo phận
là việc nhập tịch vào một Giáo Hội địa phương, hiệp thông với Giám mục kế vị các
tông đồ, tạo nên một gia đình linh mục trong Giáo phận (linh mục đoàn), phục vụ
lâu dài Giáo hội địa phương này, trong khi vẫn sẵn sàng phục vụ Giáo Hội phổ
quát.
Như thế, linh đạo linh mục giáo
phận (cũng gọi là linh mục triều) bao gồm “một sự gắn bó yêu thương hết lòng
theo Chúa Kitô, Đấng được Chúa Cha sai đến và được Chúa Thánh Thần thánh hiến,
hiệp nhất thân mật và quảng đại vâng phục Đức Giáo Hoàng và Giám mục Bản quyền,
thân mật huynh đệ với Linh mục đoàn địa phương, phục vụ các tín hữu của Giáo hội
địa phương và sẵn lòng trợ giúp các Giáo hội khác đang thiếu thốn, và Phúc âm
hoá lương dân.”
Ơn gọi, sự thánh hiến và sứ mạng của linh mục giáo phận là “tham dự
vào thực thể của Chúa Kitô, được Thánh Thần thánh hiến, được Chúa Cha sai đi,
và hằng tiếp tục trong Giáo hội,
có Đức Maria luôn gần gũi nâng đỡ.
Nói cách khác, linh mục giáo phận
nhập tịch vào một giáo phận, thuộc về giáo phận, trực tiếp ở dưới quyền và vâng
lời Giám Mục giáo phận, hiệp nhất với linh mục đoàn, thi hành chức vụ linh mục
và đảm nhận những công tác do Giám Mục Bản quyền chỉ định, thường ở trong các
giáo xứ thuộc giáo phận của mình. Đa số linh mục trên thế giới là linh mục giáo
phận, sống giữa dân chúng trong thế gian và phục vụ giáo dân trong các giáo xứ.
Linh mục giáo phận không khấn giữ
ba lời khuyên Phúc Âm như các linh mục Dòng hay tu sĩ, nhưng sống chúng một cách
khác bằng việc hứa vâng lời Giám mục Bản quyền và sống độc thân khiết tịnh, được
làm chủ và sử dụng của cải theo ý mình, trong nếp sống giản dị để việc phục vụ
mọi tầng lớp dân chúng được hiệu quả, trong tinh thần thuộc trọn vẹn về Chúa
Kitô và trọn vẹn thuộc về Giáo Hội mà mình được kêu gọi hiến dâng phục vụ, với
một tình yêu không chia sẻ, như hôn phu trung thành chung thủy với hôn thê của
mình.
Linh mục giáo phận luôn tỉnh thức
tìm khám phá và sống căn tính của mình mỗi ngày một cao độ hơn, nhằm ngày càng
trở nên đồng hình đồng dạng với Chúa Kitô mục tử nhân lành. “Sự nhập tịch”
của một linh mục giáo phận vào một Giáo hội địa phương xác định căn tính của
ngài. Ngài mang trong tim một cảm thức “thuộc về” Giáo phận của mình,
thuộc về Linh mục đoàn giáo phận, giáo dân của giáo phận, những điều kiện của
giáo phận, lịch sử của giáo phận, những nét đặc trưng và linh đạo của giáo phận.
Các ứng sinh được Ban Ơn Gọi của giáo phận tuyển chọn, đào tạo và được Giám mục
Bản quyền gọi chịu chức là đương nhiên thuộc về giáo phận, không cần một thủ tục
pháp lý nào khác, như một linh mục ở nơi khác đến xin nhập tịch vào giáo phận. “Cảm
thức thuộc về giáo phận” này là nét độc đáo của linh mục giáo phận và phân
biệt ngài với linh mục Dòng. Dĩ nhiên, các linh mục Dòng cũng “đóng góp những
đặc sủng và những thừa tác vụ đặc biệt”
làm phong phú cho giáo phận và thậm chí giúp đỡ giáo phận “mở rộng mạnh hơn
đến Giáo hội trên toàn thế giới, bởi sự hiện diện của họ.”
Tuy nhiên cảm thức thuộc về và nguồn cội của các linh mục Dòng không phải ở
trong một Giáo hội địa phương, nhưng ở trong một Hội Dòng vượt quá những biên
giới của Giáo phận.
Nhưng đối với linh mục giáo phận,
việc nhập tịch trong một Giáo hội địa phương “không bị giới hạn trong một
ràng buộc hoàn toàn pháp lý, mà còn liên hệ đến một loạt thái độ cũng như những
quyết định mục vụ và thiêng liêng giúp phát triển những đặc điểm đặc trưng của
ơn gọi linh mục.”
Linh mục giáo phận “khám phá trong sự thuộc về và sự hiến dâng cho Giáo hội
địa phương này một kho tàng ý nghĩa, tiêu chuẩn cho sự biện phân và hành động
tạo hình cho cả đời sống mục vụ và thiêng liêng của ngài”
đến mức độ thậm chí hy sinh mạng sống mình để xây dựng Giáo hội tại Giáo phận
của mình.
Sự nhập tịch không giới hạn một
linh mục giáo phận trong tính địa phương của một giáo phận riêng lẻ, bởi chính
nhờ sự kiện được nhập tịch vào một Giáo hội địa phương, linh mục mở ra với Giáo
Hội Phổ quát: “Tư cách thành viên và sự hiến dâng cho một Giáo hội địa phương
không giới hạn hoạt động và cuộc sống của linh mục trong Giáo hội đó: Không thể
có một sự hạn chế loại này, do chính bản chất của cả Giáo hội địa phương và của
thừa tác vụ linh mục trong Giáo Hội phổ quát.”
Công Đồng Vat. II phát biểu rõ ràng rằng mỗi thừa tác vụ linh mục tham dự vào
tính phổ quát của sứ mạng được Chúa Kitô uỷ thác cho các Tông đồ.
Do đó, đời sống thiêng liêng của linh mục giáo phận “được ghi dấu sâu xa bởi
nhiệt tình và động lực truyền giáo”
không bị hạn chế trong một Giáo phận riêng, nhưng bao trùm toàn thể Giáo Hội và
toàn thể thế giới. Trong cùng xu hướng này, linh mục giáo phận có bổn phận “đào
tạo cộng đoàn được trao phó cho mình trở nên một cộng đoàn truyền giáo thực sự,”
hiệp nhất trong sự hiệp thông với tất cả các cộng đoàn khác trong Giáo phận, với
tất cả các Giáo hội địa phương khác trên khắp thế giới và với Giáo hội Phổ quát
dưới quyền lãnh đạo của Đức Thánh Cha.
Một yếu tố không thể loại trừ trong
linh đạo của linh mục giáo phận là sự hiệp thông với Giám Mục Bản Quyền được
diễn tả qua sự vâng lời Ngài. Linh mục giáo phận luôn nhớ rằng “mối quan hệ
của ngài trong linh mục đoàn với Giám Mục, sự chia sẻ mối quan tâm về Giáo hội
của Giám Mục, và lòng tận tuỵ săn sóc dân Chúa của Giám mục trong những điều
kiện lịch sử và bối cảnh đặc trưng của một Giáo hội địa phương là những yếu tố
phải được quan tâm khi phác hoạ hình dạng thích hợp của linh mục giáo phận và
đời sống thiêng liêng của ngài.”
Sự vâng lời mà linh mục giáo phận hứa với
Giám Mục Bản Quyền trong lễ Phong chức có tính tông truyền: công nhận, yêu mến
và phục vụ Giáo Hội trong cấu trúc phẩm trật của Giáo hội.
Thừa tác vụ linh mục thực sự bắt nguồn từ sự hiệp thông của linh mục với Giáo
hội địa phương mà ngài thuộc về và với Giáo hội phổ quát, cùng hướng đến việc
nâng đỡ, củng cố và xây dựng sự hiệp thông này. Sự quy phục liên hệ với sự vâng
lời tuyệt nhiên không phải là một “sự hạ nhục,” nhưng phát sinh từ “tự
do có trách nhiệm” và sự công nhận ‘ân sủng biện phân” được chính
Chúa ban cho các Tông đồ và những Đấng kế vị để trung thành bảo vệ mầu nhiệm của
Giáo hội và phục vụ cấu trúc của cộng đoàn Kitô suốt con đường chung đi đến ơn
cứu độ.
Sự vâng lời của linh mục giáo phận
đối với Giám Mục và ĐGH không chỉ như với những cá nhân, nhưng để duy trì Giáo
hội trong sự hiệp nhất, hầu Giáo hội có thể là dấu chỉ và là người mang Vương
quốc của Thiên Chúa. Nhờ sự vâng lời và cộng tác hài hòa với những kế hoạch và
chính sách của Giám Mục Giáo phận, linh mục giáo phận duy trì sự hiệp nhất của
cộng đoàn được trao phó cho ngài chăm sóc, sự hiệp nhất của linh mục đoàn và sự
hiệp nhất của toàn thể Giáo hội địa phương. Nhờ sự hiệp nhất này, sự hiệp thông
của Giáo hội phổ quát được kiến tạo.
Sự vâng lời này đòi hỏi “một
tinh thần khổ chế,”
một ước muốn vượt lên trên cái tôi của mình, một sự sẵn sàng không tìm kiếm ý
riêng của mình, nhưng luôn luôn tìm kiếm ý muốn của Thiên Chúa được diễn tả
trong những chỉ thị của Giám Mục và của Giáo hội, gạt bỏ tất cả mọi hình thức
ghen tương, đố kỵ, cạnh tranh và phe nhóm, luôn giữ cảm thức thuộc về trong sự
liên đới với một linh mục đoàn duy nhất.
Sự vâng lời cũng có một “đặc tính mục vụ”
khi nó hướng đến việc phục vụ giáo dân, khiến linh mục bị hao mòn bởi những nhu
cầu và đòi hỏi của đàn chiên.
Chúng ta có thể tóm tắt tất cả những gì được
nói ở trên trong một câu là linh đạo của linh mục giáo phận đặt nền tảng trọn
vẹn trên sự đồng hình đồng dạng có tính bí tích của linh mục với Chúa Kitô trong
ba thừa tác vụ Tư tế, Tiên tri và Vương đế, phù hợp với ba chức năng thánh hoá,
giảng dạy và lãnh đạo. Trong Giáo hội địa phương nơi ngài được nhập tịch,
linh mục giáo phận luôn nỗ lực xây dựng sự hiệp thông của Giáo hội vì ích lợi
cho sứ mạng của Giáo hội trong thế giới. Linh mục giáo phận phải chiêm ngắm
nhiều hơn để đi vào trong mầu nhiệm này mỗi ngày, ngõ hầu đời sống và sứ vụ của
ngài thực sự trở thành nguồn ân sủng và cứu độ cho Giáo phận ngài thuộc về.
C.2.
Linh mục giáo
phận sống mối hiệp thông phẩm trật
Toàn thể Giáo Hội thông phần vào
chức tư tế cộng đồng của Chúa Giêsu trong Chúa Thánh Thần. Hiệp thông với Chúa
Kitô như là đầu của thân thể, chức tư tế thừa tác được trao ban cho các tông đồ
trước tiên, tiếp đến được hiện hữu nơi các người kế vị là các Giám mục, rồi qua
việc đặt tay truyền chức, các Giám mục thông truyền cho linh mục một phần chức
linh mục trọn vẹn của mình.
Sắc lệnh Chức Vụ và Đời Sống Linh Mục viết: “Chúa Kitô đã sai các tông
đồ như chính Người được Chúa Cha sai đi, và qua các tông đồ, Người đã làm cho
các đấng kế vị là các Giám mục cũng được tham dự việc thánh hiến và sứ vụ của
chính Người. Tác vụ này của Giám mục cũng được trao cho linh mục ở cấp độ tùy
thuộc, để một khi đã gia nhập hàng linh mục, họ là những cộng sự viên của hàng
Giám mục, chu toàn một cách tốt đẹp sứ vụ tông đồ do Chúa Kitô trao phó.”
Như thế, nhờ việc thánh hiến, linh mục được
trao ban quyền bính thiêng liêng, thông phần vào quyền bính mà Chúa Kitô điều
khiển Giáo Hội nhờ Chúa Thánh Thần, nghĩa là linh mục được thông hiệp cách riêng
biệt và đặc thù với Thiên Chúa Ba Ngôi. Quả thế, bản chất và sứ vụ linh mục
không thể được xác định nếu không có những tương quan bắt nguồn từ Chúa Ba Ngôi,
được kéo dài trong sự hiệp thông của Hội Thánh và của toàn thể nhân loại.
Đời sống và sứ vụ của linh mục là tiếp nối đời sống và sứ vụ của Chúa Kitô. Căn
tính linh mục liên quan thiết yếu với tình thương cứu độ của Chúa Cha, với sự
tuyển chọn và kêu gọi đích danh của Chúa Kitô, và với ân huệ thông ban sự sống
của Chúa Thánh Thần, nhờ đó linh mục giáo phận tìm được sức mạnh hướng dẫn cộng
đoàn đã được trao phó cho mình, và gìn giữ cộng đoàn ấy trong sự hiệp nhất như
Chúa muốn.
Do bí tích truyền chức và thừa tác vụ lãnh
nhận, linh mục giáo phận liên kết và hiệp thông phẩm trật với Giám mục đoàn phục
vụ toàn thể Giáo Hội, nên chức linh mục cũng có tính cách phổ quát, và dù nhập
tịch ở một Giáo Hội địa phương, linh mục giáo phận phải có con tim và não trạng
thừa sai, luôn rộng mở cho mọi nhu cầu của Giáo Hội và thế giới.
Linh mục giáo phận phải luôn sống trong sự hiệp thông phẩm trật này: “Không
có thừa tác vụ linh mục ở ngoài sự hiệp thông với Đức Giáo Hoàng và Giám mục
đoàn, đặc biệt với Giám mục giáo phận, trong lòng tôn kính như con thảo và sự
tuân phục đã hứa khi thụ phong.”
Sự hiệp thông được diễn tả và củng cố qua cử hành Thánh Thể, nhất là thánh lễ
đồng tế do Giám mục chủ sự với linh mục đoàn, cũng như qua sự hiệp nhất phẩm
trật trong việc thi hành thừa tác vụ mục vụ:
Linh mục giáo phận không làm gì mà
không có Giám mục, cũng như Giám mục không làm gì ngoài thánh ý Chúa.
Trong huấn từ dịp Ad limina 2002,
Đức Gioan Phaolô II đã khuyên các Giám Mục Việt Nam hãy luôn gần gũi hơn với các
linh mục, quan tâm tới đời sống hàng ngày của họ, để nâng đỡ họ và đồng hành
cùng họ, nhất là khi họ gặp thử thách vì thi hành sứ vụ; cung cấp cho họ một sự
đào tạo thiêng liêng thích nghi với những thách đố trong việc truyền giáo mà họ
phải đối diện.
Các Giám mục nên đi bước trước trong cuộc đối thoại thân hữu và thường xuyên với
các linh mục trẻ, để họ có thể cởi mở và chân thành bàn cãi cách riêng tư, với
sự hướng dẫn từ phụ của Giám Mục, về công việc, thành công và thất bại, kế hoạch
và vấn đề, và về đời sống thiêng liêng của họ nữa.
THĐGMTG 1971 nhắc nhở các linh mục rằng thái độ của các linh mục giáo phận đối
với Giám Mục phải là hợp tác, vâng lời, tình bạn, và nhìn thấy nơi Giám mục một
người cha thực sự và vâng phục ngài với tất cả kính trọng. Sự vâng lời càng đến
từ con tim (không phải bởi quyền lực hay lý lẽ), thì mối tương quan giữa Giám
mục và linh mục giáo phận càng trở nên gần gũi và rồi mọi sự đều tốt đẹp.
Tuy nhiên, ngày nay trong việc điều
hành Giáo Hội, Giáo phận và giáo xứ, người ta nhấn mạnh nhiều về nguyên lý bổ
trợ (subsidiary principle).
Chớ gì chúng ta cũng quan tâm đưa vào thực hành nguyên lý này, chắc chắn sẽ có
nhiều hiệu quả tốt đẹp và lớn lao hơn nữa so với những thành quả chúng ta hiện
có. Nhiều người trong chúng ta có tính bao biện và cầu toàn, lấy lý do trình độ
nữ tu và giáo dân thấp không làm được việc như ý mình mong muốn, rồi ôm đồm làm
mọi thứ, không cho ai nhúng tay vào sợ hỏng việc, hoặc tín nhiệm ai thì giao cho
người đó mọi việc, và khi không thích nữa thì tìm cách loại bỏ. Linh mục giáo
phận nên theo nguyên tắc của người lãnh đạo tốt đào tạo cho có nhiều người làm
việc, ban đầu chưa được sau sẽ được, qua tiến trình bốn bước: dạy cho người
ta làm – giúp người ta làm – để cho người ta làm – rồi mình rút lui vì đã hoàn
thành sứ mạng.
Về nguyên lý bổ trợ, chúng ta có
một điển hình tuyệt vời trong Kinh Thánh: Ông Môsê ngồi xử kiện cho dân và dân
phải đứng chờ bên ông từ sáng đến chiều. Nhạc phụ của ông thấy tất cả những gì
ông đã làm cho dân thì nói: “Anh đang làm gì cho dân vậy? Tại sao chỉ có một
mình anh ngồi xử, trong khi cả dân đứng chầu chực anh từ sáng đến chiều?”
Ông thưa với nhạc phụ: “Ấy là vì dân đến với con để thỉnh ý Thiên Chúa. Khi
họ có việc gì, họ đến với con; con phân xử cho đôi bên và cho biết những thánh
chỉ và lề luật của Thiên Chúa.”
Nhạc phụ ông Môsê nói với ông: “Anh
làm như thế không tốt đâu! Chắc chắn anh sẽ kiệt sức, và cả dân đang ở đây với
anh cũng vậy; vì công việc quá nặng đối với anh, anh không thể làm nổi một mình.
Bây giờ anh hãy nghe lời tôi khuyên: Cầu chúc Thiên Chúa ở với anh! Còn anh, anh
hãy đứng ra thay mặt dân trước nhan Thiên Chúa: chính anh sẽ trình các việc lên
Thiên Chúa, sẽ dạy cho họ các thánh chỉ, các lề luật, và cho họ biết đường lối
phải đi và cách phải xử sự. Rồi anh hãy xem trong toàn dân những ai là người có
tài, biết kính sợ Thiên Chúa, đáng tin cậy, không ham của bất chính, thì đặt họ
làm người chỉ huy điều khiển một ngàn hay một trăm, năm mươi hay mười người. Họ
sẽ thường trực xử kiện cho dân; việc nào lớn thì họ trình lên anh, còn việc nào
nhỏ thì chính họ xử lấy: hãy làm như vậy để nhẹ gánh cho anh. Họ phải gánh việc
đỡ anh. Nếu anh làm điều đó, thì Thiên Chúa sẽ chỉ bảo cho anh, anh sẽ có thể
đứng vững, và hơn nữa cả đám dân này có thể về nhà bình an.” Ông Môsê nghe
lời nhạc phụ và đã làm tất cả những điều ông ấy nói. Ông chọn trong toàn dân
Israel những người có tài và đặt họ làm đầu dân, điều khiển một ngàn hay một
trăm, năm mươi hay mười người. Họ thường trực xử kiện cho dân: việc khó thì họ
trình lên ông, mọi việc nhỏ thì chính họ xử lấy.
Mối hiệp thông của linh mục đoàn
được thiết lập bởi đức ái tông đồ, thừa tác vụ và tình huynh đệ bí tích, diễn tả
bằng việc đặt tay của linh mục đoàn trong nghi lễ truyền chức và việc nhập
tịch/nhập vụ vào một Giáo hội địa phương.
Sắc lệnh Chức vụ và Đời sống linh mục đã mô tả mối hiệp thông đó bằng
những lời lẽ thắm tình rằng “Các linh mục nhiều tuổi hãy đón nhận những linh
mục trẻ như những người em thực sự, giúp đỡ họ trong những công tác và gánh nặng
đầu tiên của sứ vụ linh mục; gắng hiểu tâm trạng của họ và theo dõi các dự tính
của họ với thiện chí. Còn các linh mục trẻ phải biết kính trọng tuổi tác và kinh
nghiệm của các vị lớn tuổi; bàn hỏi với các ngài và sẵn lòng cộng tác với các
ngài trong việc chăm sóc các linh hồn.”
Linh mục giáo phận còn sống hiệp thông với
giáo dân, tu sĩ, những người sống đời thánh hiến, nỗ lực khơi dậy và phát triển
sự đồng trách nhiệm trong cùng một sứ mạng cứu độ duy nhất của Giáo Hội.
Sắc lệnh Chức Vụ và Đời Sống Linh Mục nhắc nhớ rằng mọi tín hữu đều phải
cùng nhau làm việc cho Nước Chúa, trong đó linh mục nhìn nhận và thăng tiến phẩm
giá cùng sứ vụ của giáo dân, sẵn sàng lắng nghe giáo dân, coi trọng những ước
vọng của giáo dân, nhìn nhận kinh nghiệm và chuyên môn của giáo dân trong các
lãnh vực khác nhau của hoạt động nhân loại, tin tưởng vào phận vụ của giáo dân
trong việc phục vụ Giáo Hội và Xã Hội, để giáo dân có đủ tự do và lãnh vực hoạt
động, cũng như cơ hội thích hợp để gánh vác công việc theo sáng kiến của mình.
Linh mục luôn cố gắng dẫn dắt giáo dân đi đến hiệp nhất, sự thật và công ích,
hòa giải những khác biệt về tâm thức và trình độ, để không ai cảm thấy mình xa
lạ ở trong cộng đồng Giáo Hội. Ngoài ra còn cố gắng tiếp tay với Chúa Thánh Thần
để khơi dậy ơn gọi linh mục tiếp nối thừa tác vụ của mình.
Giáo Hội là một cộng đoàn gồm những
con người hiệp thông với Chúa Ba Ngôi và hiệp thông với nhau. Sự hiệp thông này
mang hai chiều kích: hiệp thông hướng nội và hiệp thông hướng ngoại. Hiệp thông
hướng nội bao hàm sự hiệp nhất và bổ sung cho nhau ngay trong lòng Giáo Hội với
ĐTC, với các Giám mục, các linh mục, những người sống đời thánh hiến và giáo dân
để trở thành “Giáo Hội tham gia”, nghĩa là mọi người đều đảm nhận ơn gọi
và vai trò riêng của mình trong lòng Giáo Hội. Hiệp thông hướng ngoại là sự hiệp
thông của Giáo Hội với thế giới, với mọi người thuộc mọi tôn giáo và văn hóa
khác nhau nhằm rao giảng Tin Mừng.
Các linh mục giáo phận luôn nỗ lực xây dựng
một ý thức hiệp thông nhạy bén sâu sắc và một kinh nghiệm cá nhân sống động về
việc xây dựng cộng đoàn, hiệp thông với Giám mục, với linh mục đoàn, với các tu
sĩ, với các cộng sự viên, với giáo dân trong giáo xứ, hầu sống và làm việc trong
hòa điệu và yêu thương, sẵn sàng đảm nhận những trách nhiệm và vai trò khác nhau
trong cộng đồng Dân Thiên Chúa.
_______
Chú thích
|
VỀ MỤC LỤC |
THAY TIM
|
Ngày 24 tháng 3 năm 2012 vừa qua, tin tức
về việc ghép thay tim của cựu Phó Tổng Thống Hoa Kỳ Dick
Chenney, 71 tuổi, đã được loan báo rộng rãi trên truyền thông
đại chúng. Ông đã trải qua năm lần bi heart attack, nhiều lần
đặt stent, by pass và đã đợi 20 tháng để nhận được một trái tim
từ một ân nhân vô danh. Thông thường bệnh nhân khác chỉ đợi từ
6-12 tháng. Tình trạng sức khỏe của ông sau khi thay tim đựoc
coi như là ổn định và vị bác sĩ thực hiện ghép tim cho hay là
Phó Tổng Thống có thể sống ít nhất là trên 10 năm nữa.
Hàng năm tại Hoa Kỳ có gần 2500 người nhận
được trái tim nhân đạo trong khi đó còn trên 16,000 người dưới
55 tuổi và khoảng 40,000 người trên 65 tuổi có thể có sức khỏe
tốt nếu được thay tim.
Với ghép tim, xác xuất thoát khỏi tử vong
suy tim là 83% trong năm đầu; 78,9% trong 2 năm kế tiếp; năm thứ
ba là 75,4% và năm thứ tư là 71,7%.
Trái tim đầu tiên được thay ở người là vào
ngày 3 tháng 12 năm 1967 tại Nam Phi do bác sĩ Christiaan N.
Barnard thực hiện. Mặc dù bệnh nhân chỉ sống thêm được 18 ngày,
nhưng bác sĩ Barnard đã mở đường cho việc thay tim trị bệnh ở
người, vì cho tới thời điểm đó chỉ mới có thử nghiệm thay tim ở
súc vật. Ngoài ra ông cũng là người đầu tiên lấy tim từ người
hiến tặng mà não bộ mới bị tê liệt brain death trong khi các bộ
phận khác còn ít nhiều hoạt động.
Người sống lâu nhất sau thay tim là ông
Tony Huesman ở Ohio, thay tim vào tháng 8 năm 1978, ra đi cũng
vào tháng 8 năm 2009, kéo dài tuổi thọ được 31 năm. Lập gia đình
năm 1997, Ông chết sau một cơn viêm phổi do virus, khiến cho
trái tim mới trở nên suy yếu. Bà vợ nói rằng, chồng bà nhận có
một trái tim nhưng ông đã mở rộng trái tim gấp 10 lần qua những
công việc thiện nguyện của ông.
Điều kiện để được thay tim
Để được thay tim, bệnh nhân phải ở trong
giai đoạn cuối của bệnh suy tim với nhiều cơ nguy tử vong trong
vòng một năm với giảm trầm trọng khả năng bơm máu của tâm thất
trái; điều trị nội khoa và giải phẫu không cải thiện đựoc bệnh
tình.
Có ít nhất 2 lý do chính đưa tới suy tim:
a- Hủy hoại không trở lại bình thường được
của tế bào tim gây ra do bệnh của động mạch vành nuôi dưỡng tim
bị tắc nghẽn và bệnh nhân đã nhiều lần bị heart attack; và
b- Bệnh của tế bào tim
cardiomyopathy
mà nguyên nhân có thể là do nhiễm virus, vi khuẩn hoặc do di
truyền.
Cả hai bệnh đều làm giảm khả năng bơm máu
của tim. Để bù đắp tim dày lớn dần dần và trở nên suy yếu. Bệnh
nhân cảm thấy khó thở, mau mệt dù là làm công việc hết sức nhẹ
hoặc khi không làm việc gì; phù nề chân và bụng.
Điều trị nội khoa dùng các loại dược phẩm
và các phương thức hỗ trợ tim.
Ngoại khoa có thể là by-pass động mạch
vành, thông tim đặt stent hoặc balloon, gọt bớt tim quá to,
pacemaker…
Đôi khi thay tim cũng được thực hiện cho
bệnh nhân tim do hậu quả của thấp khớp rheumatic fever, cao
huyết áp, bất thường ở các van tim, bệnh tim bẩm sinh hoặc các
hoàn cảnh hiếm hoi như u bướu tim
Trước khi
được thay tim, một toán chuyên viên y tế đủ mọi chuyên môn như
tâm lý, nội ngoại khoa, xã hội, vật lý trị liệu, nha sĩ, toán
bác sĩ cắt-ghép tim …sẽ thay phiên gặp bệnh nhân để tìm hiểu về
tình trạng sức khỏe từ thể chất tới tinh thần, các thói quen và
nếp sống, có khả năng tuân theo các hướng dẫn trước cũng như sau
giải phẫu.
Thường thường
sau giải phẫu, bệnh nhận phải liên tục dùng nhiều dược phẩm khác
nhau trong đó có các loại thuốc ngăn cản hiện tượng cơ thể chống
lại trái tim mới được “đăng ký hộ khẩu” do yêu cầu.
Những ai không được thay tim
Một số bệnh nhân không thích hợp để thay
tim, nhất là nếu họ lại bị các bệnh khác vể sự tuần hoàn không
liên quan gì tới trái tim. Những hoàn cành sau đây có thể gây ra
biến chứng cho việc thay tim:
Tăng huyết áp phổi cố định với tâm thất
phải lớn;
Đang bị các bệnh mãn tính trầm trọng;
Tổn thương trầm trọng các bộ phận sinh tử
như thận, gan, phổi, ruột hoặc hệ thần kinh trung ương;
Ung thư mới hoặc không kiểm soát được;
Cao huyết áp không được ổn định;
Không đủ cương quyết ngưng lạm dụng rượu,
thuốc cấm;
Rối loạn tâm thần, không ý thức tuân theo
hướng dẫn, điều trị;
Từ 70 tuổi trở lên, tùy theo từng trung tâm
tim mạch;
Quá mập phì;
Đang bị bệnh tiểu đường loại II phụ thuộc
vào insulin kèm theo rối loạn các cơ quan khác
Sửa soạn ghép tim
Có 5 giai đoạn để thực hiện ghép tim
Một toán các nhà chuyên môn y tế sẽ làm
những điều sau đây:
- Tìm hiểu coi bệnh nhân có đủ sức khỏe để
nhận trái tim mới
- Tìm hiểu coi xem bệnh tim có đủ suy nhược
đền nỗi phải cần một trái tim khác
- Sửa soạn trước để giải phẫu. Sửa soạn này
kéo dài khá lâu và cũng bảo đảm rằng một trái tim sẽ được tìm
ra;
- Thực hiện cuộc giải phẫu thay tim;
- Giúp bệnh nhân sống khỏe mạnh với trái
tim mới sau giải phẫu
Việc thay tim coi bộ cũng khá giản dị.
Khi có một trái tim thích hợp với mình thì
một điều dưỡng viên sẽ triệu mình tới bệnh viện. Toán bác sĩ
giải phẫu sẽ xem xét trái tim hiến tặng coi xem tình trạng ra
sao, có tốt không, trong khi đó bệnh nhận được đưa vào phòng mổ
để sửa soạn. Bệnh nhân được cho uống/chích các thuốc để cơ thể
không chống bỏ tim mới. Nếu tim cho thích hợp thì phẫu thuật bắt
đầu.
Mấy xương sườn đựoc cắt, lồng ngực được mở
ra, tim cũ lấy đi, tim mới đã đựoc cắt xén gọn ghẽ sao cho vừa
khít với tim bệnh sẽ đựoc khâu vào. Diễn tiến kéo dài từ 7-12
giờ, bệnh nhân được đưa về phòng hồi sinh để theo dõi.
Thời gian nằm bệnh viện sau giải phẫu tùy
theo tuổi tác, tình trạng sức khỏe của mình, tùy theo trái tim
mới hoạt động ra sao và cũng tùy theo khả năng học hỏi cách thức
sau giải phẫu. Trung bình từ 7-16 ngày.
Sau giải phẫu, bệnh nhân cần trở lại bệnh
viện để được theo dõi trong vài tháng, riêng tháng đầu thì cần
tái khám mỗi tuần sau khi xuất viện. Lý do là giải phẫu có thể
có những biến chứng không lường trước được. Do đó bệnh nhân nên
thu xếp chỗ ở gần với trung tâm thay ghép tim. Hiện nay có
khoảng 160 trung tâm thay tim rải rác trên nước Mỹ.
Quyết định thay tim cần được cân nhắc kỹ
càng vì:
- Đây là một đại giải phẫu với nhiều rủi ro
và biến chứng mà các nhà chuyên môn sẽ giải thích cặn kẽ rỏ
ràng cho bệnh nhân.
- Sau giải phẫu, bệnh nhân phải hiểu rõ và
tuyệt đố áp dụng các hướng dẫn về tự chăm sóc, về chế độ dinh
dưỡng, dùng dược phẩm, tập luyện cơ thể, thay đổi lối sống trong
suốt cuộc đời còn lại. Trong vài tháng sau giải phẫu cần giữ hẹn
tái khám để được theo dõi tình trạng trái im mới hoạt động ra
sao, có bị ảnh hưởng bới hiện tượng chối bỏ mà các nhà chuyên
môn có thể khám phá ra.
Nhắc lại là
dược phẩm chính là loại có tác dụng ngăn ngừa cơ thể bệnh nhân
phản ứng từ chối trái tim mới được ghép. Dược phẩm này có nhiều
tác dụng phụ đôi khi rất khó chịu như giảm khả năng chống bệnh
nhiễm, tăng huyết áp, cao áp xuất mắt, cao cholesterol hoặc
loãng xương vì thất thoát calci, nhưng lại tối cần thiết. Đó là
các thuốc Cyclosporin,
Prograf, Prednisone, Immuran or Cellcept.
Cyclosporin do
mấy loại nấm sản xuất được tìm ra váo năm 1982. Trước khi tìm ra
thuốc này, các cuộc ghép đều không mấy thành công vì cơ thể một
mực từ chối, hủy hoại bộ phận được ghép.
Sự từ chối này là một khả năng đặc biệt của
cơ thể để chống lại bất cứ vật lạ nào xâm nhập cơ thể như các
tác nhân gây bệnh vi khuẩn, virus, tế bào lạ. Khả năng này do hệ
miễn nhiễm của cơ thể chịu trách nhiệm. Không có khả năng này
thì tính mạng con người sẽ mong manh như trứng để đầu đẳng. Điều
đáng tiếc là khả năng này không phân biệt được vật mới xâm nhập
là thù ( vi khuẩn…) hay bạn (trái tim nhân đạo), cho nên cứ
thấy lạ là nó chống cự hủy hoại. Thuốc chống từ chối có mục đích
ngăn sự reject này.
Kết
luận
Sự
tiến bộ của y khoa học thực là quá sức tưởng tượng.
Từ nguyên thủy loài người, khi thương yêu
nhau thì người ta trao tặng trái tim, trái tim tinh thần chứa
đựng tình cảm thương yêu.
Ngày nay, vì lòng nhân đạo bác ái, người ta
tặng cho nhau một trái tim thật, trái tim còn nóng hổi với nhịp
đập mang nặng tình người. Thật là một nghĩa cử cao quý, như ý
kiến của bác sĩ Barnard “ Thực là hữu ích hơn khi chuyển ghép
một trái tim thay vì chôn sâu nó dưới lòng đất làm mồi cho sâu
bọ”.
Nói về bệnh nhân thay tim đầu tiên của
mình, ông còn có nhận xét “Với
một người sắp chết, quyết định trở thành người đầu tiên được
thay tim ở trên thế giới không phải là quyết định khó khăn vì
người đó biết mình ở đường cùng. Nếu có một con sư tử rượt
đuổi
ta tới bờ một dòng sông lúc
nhúc
những cá sấu, ta
vẫn
lao mình xuống sông với hy vọng bơi sang
bờ
bên kia.
Nhưng ta sẽ không chấp nhận hoàn cảnh đó nếu không có con sư
tử”.
Và xin kết luận bài viết với câu chuyện vui
do danh hài TV Jay Leno kể “Một cư dân Do Thái được chuyển ghép
trái tim của một người Palestinian. Anh ta bình phục hoàn toàn,
chỉ có một điều là anh ta luôn luôn tự ném đá vào mình”.
Bác sĩ Nguyễn Ý Đức
Texas-Hoa Kỳ
www.bsnguyenyduc.com
|
VỀ MỤC LỤC |
|
- Mọi liên lạc: Ghi danh, thay đổi địa chỉ, đóng góp ý kiến,
bài vở..., xin gởi về địa chỉ
giaosivietnam@gmail.com
- Những nội dung sẽ được đề cao và chú ý bao gồm:
Trao đổi, chia sẻ những kinh nghiệm thực tế trong việc mục
vụ của Giáo sĩ; Những tài liệu của Giáo hội hoặc của các
Tác giả nhằm mục đích Thăng tiến đời sống Giáo sĩ; Cổ võ ơn
gọi Linh mục; Người Giáo dân tham gia công việc “Trợ lực
Giáo sĩ” bằng đời sống cầu nguyện và cộng tác trong mọi lãnh
vực; Mỗi Giáo dân phải là những “Linh mục” không có chức
Thánh; Đối thoại trong tinh thần Bác ái giữa Giáo dân và
Giáo sĩ… (Truyền giáo hay xây pháo đài?)
- Quy vị cũng có thể tham khảo những số báo đã phát hành tại
www.conggiaovietnam.net
Rất mong được sự cộng tác, hưởng ứng của tất cả Quí vị
Xin chân thành cám ơn tất cả anh chị em đã
sẵn lòng cộng tác với chúng tôi bằng nhiều cách thế khác
nhau.
TM. Đặc San Giáo Sĩ Việt Nam
Lm. Luca
Phạm Quốc Sử
USA
|
|
*************
|
|