Gs.
Trần Văn Toàn
Bài đăng ở tập san Định
Hướng
(tiếp theo và hết)
2.2 - Đề cập vấn-đề
tôn-giáo theo phương-pháp dân-tộc-học
Hành-trình tôn-giáo - hay
nói đúng hơn, vô-tôn giáo - của Marx không phải là kết quả do công-trình
nghiên-cứu của ông, nhưng là do ông có ý lựa chọn sách vở nào hợp khuynh-hướng
để đọc trong những năm 1838-1842 .
Như ta đã thấy trên đây, Marx không có ý đọc sách vở của các tín-hữu viết để
trình-bày niềm tin của mình, nhưng ông đọc sách của người ngoại cuộc viết để
phê-bình tôn-giáo của người khác. Đó là lý-do vì sao ông bỏ hẳn đi không đọc các
sách đã viết trong gần mười thế kỷ thời Trung cổ
.
Trên đây ta đã thấy các
nhà tư-tưởng Hi-lạp và Roma thời Thượng-cổ phê-bình và khước từ các thần-linh
của tôn-giáo cổ-truyền như thế nào. Riêng về đạo Thiên-Chúa, thì triết-học thời
Cận-đại, nhất là của Spinoza, đã khảo xét và phê-bình theo như tiêu-chuẩn của
lý-trí, và đã nhấn mạnh vào ý-niệm ‘’tôn-giáo tự-nhiên’’.
Trong phần sau cùng này
ta sẽ thấy Marx căn cứ vào lịch-sử các tôn-giáo theo quan-điểm dân-tộc-học thời
đó, để biện-minh cho lập-trường của ông. Ông muốn minh chứng hai điều : 1)
hành-động tôn-giáo là mê-tín, 2) tôn-giáo mà còn duy-trì được thì là do
quyền-bính của giới tăng-lữ lãnh-đạo các tín-đồ.
2.2.0 - Nội-dung những cặp
vở viết tại Bonn
Có 7 cặp vở viết tại Bonn,
được gọi chung là Những đoạn văn chép về lịch-sử nghệ-thuật và lịch-sử
tôn-giáo . Độc-giả có thể
ngạc-nhiên khi thấy Marx để ý đến nghệ-thuật. Như thế cũng không phải là không
có lý-do.
Thực vậy, dù muốn dù không,
triết-học vào thời Marx vẫn còn mang nặng ảnh-hưởng của Hegel. Ai cũng biết rằng
hệ-thống triết-học biện-chứng của Hegel chia ra làm ba phần : Lý-học
(Logik), Thiên-nhiên (Natur) và Tinh-thần (Geist). Phần về
Tinh-thần thì lại chia ra làm ba phạm-vi : Tinh-thần chủ-quan , Tinh-thần
khách-quan và Tinh-thần tuyệt-đối. Riêng Tinh-thần tuyệt-đối thì có
ba hình thức kế-tiếp nhau là : Nghệ-thuật, Tôn-giáo và Triết-lý.
Đây là ba hình-thức nhờ đó Tinh-thần tuyệt-đối đạt được tự-kỷ ý-thức : hình-thức
trực-giác là nghệ-thuật, hình-thức biểu-tượng là tôn-giáo,
hình-thức ý-niệm là triết-lý . Như thế đã rõ là nghệ-thuật, cũng như
tôn-giáo và triết-lý, đều nằm ở trong phạm-vi thượng-đẳng của Tinh-thần
tuyệt-đối. Vì vậy nếu người ta bàn luận về liên-quan giữa tôn-giáo và triết-lý,
giữa đức tin và lý-trí, thì sao lại không bàn đến liên-quan giữa nghệ-thuật và
tôn-giáo ?
Thế nhưng, những điều Marx
ghi chép trong những sách dọc còn dở-dang đó, không đưa ra được cái gì đáng kể.
Một là vì không phải ai cũng am hiểu về nghệ-thuật. Hai là vì không phải ai cũng
viết được một cuốn Thẩm-mỹ-học (Aesthetik) như Hegel ! Thực ra đối với
Marx đó không phải là vấn-đề.
Vì thế ta có thể bỏ qua,
không nói đến những đoạn văn trích ra từ sách về nghệ-thuật của K. F. von
Rumohr, của J. Grund và của K. A. Boettinger, về luân-lý của J. Barbeyrac. Còn
lại một nửa thì có liên-quan đến những tôn-giáo khác đạo Thiên-Chúa. Đó là những
đoạn văn trích từ sách của C. De Brosses, của C. Meiners và của B. Constant.
Trong ba tác-giả đó thì Marx chép nhiều nhất là từ năm tập sách của Benjamin
Constant.
2.2.1 - Marx đọc sách của De
Brosses
Thiên khảo-luận của De
Brosses thì kỳ thủy đã được thuyết-trình trong ba phiên họp của Hàn-lâm-viện
Đăng-ký và Văn-chương (Académie des Inscriptions et des Belles Lettres). Thấy
không được hưởng-ứng như mình mong ước, De Brosses gửi cho Denis Diderot trong
nhóm Bách-khoa tự-điển đọc. Diderot tán-thành và cho De Brosses biết là
David Hume mới xuất-bản cuốn Lịch-sử tôn-giáo theo quan-điểm tự-nhiên. Vì
ở Pháp lúc đó có kiểm-duyệt sách vở, nên tác-phẩm đã phải xuất-bản ở ngoài nước
Pháp năm 1760, nhưng không đề tên tác-giả, còn tên sách thì đề là : Du culte
des dieux fétiches ou Parallèle de l’ancienne Religion de l’Égypte avec la
religion actuelle de Nigritie (Bàn về phép thờ thần trong quan-niệm vật bái, hay
là So-sánh tôn-giáo cổ-thời của người Ai-cập với tôn-giáo hiện-thời của xứ người
da đen) .
Marx đã đọc sách này trong
bản dịch tiếng Đức của C.B. Pistorius. Bản dịch này có kèm thêm một bài dẫn-nhập
bàn về mê-tín, về pháp-thuật, và việc thờ ngẫu-tượng, v.v.
Khi viết cuốn sách này De
Brosses đã theo tinh-thần phong-trào ‘’Khai-minh’’ (Aufklaerung, Les Lumières),
dùng đến những sự-kiện lịch-sử và địa-dư, đồng thời áp-dụng phương-pháp so-sánh.
Sau khi so-sánh những điều quan-sát theo quan-điểm dân-tộc-học về quan-niệm và
tập-tục tôn-giáo của những bộ-lạc Phi-châu đương-thời, với những điều mà các
sử-gia thời Thượng-cổ đã ghi-chép về Ai-cập và về những dân-tộc khác cùng thời
đó, tác-giả đi tới kết-luận là tục thờ các đồ-vật, tục bái-vật, là thuộc về
giai-đoạn cổ nhất của tôn-giáo nói chung. Đưa ra lập-trường đó, ông có ý chống
lại lập-trường những người chủ-trương rằng tôn-giáo của các dân-tộc cổ nhất đã
bộc phát một cách không có lý-sự gì cả.
Sách chia ra làm ba phần :
1) Tục vật-bái của người da đen và của các dân-tộc man-di khác ; 2) So sánh tục
vật-bái của các dân-tộc thời thượng-cổ và của các dân-tộc ngày nay ; 3) Xét về
nguyên-nhân của tục vật-bái. Cả ba phần đều được Marx trích-dẫn, tất cả là độ 7
trang (MEGA IV / 1, từ trang 320 trở đi). Hai phần đầu thì bàn về nhiều dân-tộc
xưa nay ở các lục-địa có cái thói kỳ cục là thờ đồ vật, thờ cây cối và thờ loài
vật. . Nhưng đối với chúng ta thì phần thứ ba quan trọng hơn, vì có đặt vấn-đề
nguyên-nhân giải-thích tục vật-bái. Thiết tưởng hay hơn cả là ta so sánh những
điều Marx Marx đã đọc được với những điều ông nghĩ là nên chép lại.
2.2.1.1 - Về nguyên-nhân tục
vật-bái theo quan-điểm của De Brosses
Căn-cứ vào phương-pháp so
sánh, De Brosses cho rằng tôn-giáo của người da đen đương thời với ông cũng là
tôn-giáo của các dân-tộc thời Thượng-cổ, vì những lý-do sau đây :
Một là vì cùng có một
trình-độ văn-hóa như nhau.
Tác-giả nhận-định rằng những dân-tộc xa cách nhau về thời-gian và không-gian thì
‘’không có gì giống nhau, chỉ trừ có một điểm là cùng dốt nát và cùng dã-man như
nhau (...). Nếu ta thấy các dân-tộc còn thô-sơ trong thế-giới này, ở mọi nơi mọi
đời, đều cùng có tục vật-bái, mà lấy làm lạ, thì chỉ cần giải-thích hiện-tượng
đó bằng nguyên-nhân đã nói trước đây : con người còn dã-man thì lúc nào cũng vẫn
thế ; tâm thần của họ thì luôn luôn sợ hãi, tâm hồn họ thì đày-dẫy những mơ ước
làm cho ý-tưởng của họ vận-chuyển tự-do vô kỷ-luật, đưa tới những hành-động
vô-ý-nghĩa ‘’ . Vì thế cho nên nếu
các dân-tộc ấy có nhìn cây cối, động-vật hay người ta như là thần thiêng, thì
cũng không có gì là lạ.
Hai là vì có thuyết cho rằng
từ nguyên thủy người ta đã được cho biết là có một Thiên Chúa.
‘’Ngay từ đầu, tác-giả viết, tất cả các dân-tộc đều có những quan-niệm chính-xác
về tôn-giáo, nhưng sau đó thì sai lạc đi vì thờ ngẫu-tượng một cách ngu-ngốc.
Ý-kiến thứ nhất này đi ngược lại quan-niệm cho rằng tư-tưởng của con người ta
tự-nhiên tiến-bộ, đi từ những sự-vật mình cảm giác được cho tới những tri-thức
trừu-tượng, và xa hơn nữa, thì đi từ những vật thụ-tạo lên tới vị Thiên-Chúa tạo
thiên lập địa, chứ không bắt đầu đi từ vị Thiên-Chúa mà mình không trông thấy
xuống tới những tạo-vật mà mình thấy trước mắt’’ (Sđd, tr 101).
Ý-kiến vừa nói trên đây của
De Brosses, cho rằng quan-niệm nhất thần đã có trước quan-niệm đa thần, thi vào
đầu thế-kỷ XX, vẫn còn được chủ-trương trong học-phái dân-tộc-học của Wilhelm
Schmidt tại Wien (Vienne, Áo), với bộ sách Der Ursprung der Gottesidee
(12 cuốn, in từ 1926 đến 1955).
Ba là cách De Brosses
giải-thích chủ-trương đa-thần.
Như ta biết, W. Schmidt
giải-thích rằng : khi loài người ta chỉ biết hái quả mà ăn, thì ý thức rằng các
thứ mình cần để sống thì không phải là do mình làm ra, cho nên tất-nhiên phải do
ai đó cho thì mình mới có. Nhưng sau đó khi điều-kiện sinh-hoạt thay đổi, người
ta chuyển sang sống bằng nghề canh-nông, du-mục hay là ngư-lạp, thì thấy rằng
việc làm của mình, nếu không có những điều-kiện mưa, gió , nắng điều-hòa, thì
không có kết quả, nghĩa là mình cần đến sự giúp đỡ của các thứ thần cai quản mưa
gió nắng, các thần làm cho súc vật sinh nở, v. v., vì thế mà sinh ra thờ nhiều
thần. Còn De Brosses thì cho rằng từ đầu thì các dân-tộc đều cùng có
quan-niệm là có một Thiên-Chúa. Mãi đến sau khi có nạn hồng-thủy thì quan-niệm
đó mới dần-dần bị lu mờ đi, và đa số các dân-tộc dã quên bẵng đi (tr 99-100).
Ông giải-thích thêm :
‘’Tín-ngưỡng của người man-di và của người nhà quê là những quan-niệm thường
tình người ta, cho nên nguyên-lý giải-thích phải là ở trong tâm-tình của
nhân-loại, như thế dễ tìm lắm : những tâm-tình phát sinh ra tín-ngưỡng có thể
tóm lại thành bốn thứ : sợ hãi, cảm phục, biết ơn và lý-luận’’ (tr 104). Chính
vì đã quên những điều Thiên-Chúa cho biết lúc ban đầu và cũng vì bị những
tâm-tình đó thúc đẩy, cho nên, người ta bày đặt ra vô số các thần-linh
địa-phương và các ngẫu-tượng.
Thế rồi người ta lại có
khuynh-hướng nhân-hóa các vật mình gặp, coi chúng như là có tâm tình, có suy
nghĩ như con người ta. Từ đó thì loài vật và những sự-vật có ích lợi đều được
coi là thần-linh cả. ‘’Vì thế triết gia Persée, là học trò của Zênôn, cũng theo
ý-kiến đó mà chủ-trương rằng không những phải coi những sự-vật có ích lợi cho
con người ta là quà của các thần-linh cho ta, mà hơn nữa phải coi chúng như là
có bản-chất thần thiêng’’ (tr 133). Tuy vậy các thần như thế chỉ có giá-trị theo
từng địa-phương (tr 135).
Kết luận là : ‘’Không có cái
gì vô-lý mà đôi khi lại không có trong đầu óc của những nhà hiền-triết (...).
Không có chủ-trương nào thiếu nền tảng mà lại không có một vài người thượng trí
cổ võ’’(tr 117).
Điểm thứ bốn :
De Brosses kết-luận : Vì thế
cần phải có Thiên-Chúa mặc-khải thì người ta mới biết được những chân-lý khó tìm
ra. Nói một cách cụ- thể thì Thiên-Chúa đã mặc-khải trong đạo Giê-su Cứu Thế và
đạo Ma-hồ-mét, là hai đạo đã lấy lại chủ-trương của đạo Do-thái, chống lại chủ
trương đa-thần, và chỉ tôn-thờ một Thiên-Chúa mà thôi (tr 121). Điều đáng chú ý
là tác-giả nhắc đến Hồi-giáo và công-nhận đạo Do-thái là nguồn gốc đạo nhất
thần. Đó là điều ít ai nói ra trong thế-kỷ XVIII. Nhưng đồng thời ông cũng nhắc
lại rằng đạo nhất thần thường hay sinh ra thiếu khoan-dung, và vì thế, muốn cho
mọi người đồng-ý thì nên căn-cứ vào lý-trí mà tìm ra đạo tự-nhiên, mới tránh
được tranh chấp.
2.2.1.2 - Những đoạn văn
được Marx chép lại
Trong đoạn thứ 3, Marx chép
lại chừng 2 trang về tục vật bái. Đại ý là : tôn-giáo phát sinh ra từ lòng sợ
hãi khi đứng trước thiên-nhiên, lòng biết ơn đối với những gì có ích lợi, đồng
thời cũng là do thiếu hiểu biết mà ra.
Riêng về tôn-giáo nhất thần
thì ông chép lại một đoạn, nhưng không chép lại hết, chỉ chép những câu ngụ ý
rằng ảnh-hưởng của tôn-giáo đó không có là bao nhiêu. Đoạn đó như sau (và để cho
đủ ý nghĩa, tôi để trong ngoặc đơn những chỗ mà Marx không chép) : ‘’ (Ta hãy
xem) trong xã-hội người Mores ở Phi-châu ( họ là người gốc A-rập, đạo Ma-hồ-mét
đã dạy cho họ biết có một Thiên-Chúa. Nhưng dù có theo đạo đó, thì) người ta vẫn
theo tục vật bái, và tục đó vẫn có tính-cách thần thiêng như những thày cúng
Ma-ra-bu của họ, các vật linh thiêng được thờ thi họ gọi là grigris.
Tôn-giáo nhất thần mới đưa thêm vào thì chỉ có một hiệu quả là làm cho các vật
đó thành những mãnh lực tùy phụ, như là những bùa hộ mệnh để tránh những gì
không tốt không may. Mỗi cái grigris đều có công-dụng riêng, và người
Mores có thật là nhiều bùa, từ đầu đến chân, mà bùa càng có nhiều thì càng kém
hiệu lực’’ (tr 120 - MEGA IV / 1, tr 328).
Nói tóm lại là : khi đọc
sách của De Brosses, thì Marx không để ý tới chủ-trương rằng từ đầu đã cần phải
có Thiên-Chúa mặc-khải thì trí khôn người ta mới biết được một số chân-lý. Còn
việc giải-thích rằng tục vật bái là một hiện-tượng tôn-giáo phi-lý, thì Marx đã
biết rồi. Cho nên ở đây ông chỉ để ý đến những sự-kiện tôn-giáo có tính-cách
kỳ-quặc mà thôi.
2.2.2 - Marx đọc sách của
Meiners
Cuốn Lịch-sử tổng-quát
các tôn-giáo theo phương-pháp phê-bình (2 tập, Hannover, 1806-1807) của
Christoph Meiners có mục-đích là phân-tích các tôn-giáo theo quan điểm lịch-sử
và so sánh. Nhưng theo như Ủy-ban ấn-hành bộ MEGA mới này, những tài liệu do
Meiners đưa ra thì không có giá-trị là bao nhiêu. Trong tập 1, Marx chỉ
trích-dẫn ra từ trang 233 trở đi. Còn trong tập 2 thì không trích-dẫn gì cả. Nói
chung thì Marx chỉ để ý đến một vài sự-kiện có tính-cách khác thường và ông
thường đem so sánh những lối hành đạo ngoài đạo Thiên-Chúa với các tín điều của
đạo này.
Trong hai trang trích-dẫn
thì Marx dành một trang cho thói tục thờ dương-vật ở Ấn-độ, trong phái Yoghi,
với các đền thờ, các cuộc trẩy hội hành-hương và các nghi-lễ có vẻ kỳ-quặc. Thói
tục này được đem so sánh với thói tục của nông-dân Âu-châu thời Trung-cổ, còn
lẫn-lộn đạo Thiên-Chúa với tôn-giáo cổ-truyền của họ : ví-dụ phụ nữ đi cầu tự
thì hay tôn-sùng mấy vị thánh, như thánh Guerlichon ở Pháp, thánh Gildas ở miền
Normandie, thánh René ở miền Anjou, bằng cách trẩy hội hành hương và bằng một
vài lễ-nghi mà những người đã được chứng-kiến cho rằng không tiện nói ra (MEGA,
IV / 1, tr 336). Không những ở Pháp, mà cả ở Italia, thời Cận-đại, tại Iserna ở
gần thành phố Napoli, người ta cũng tôn-sùng hai ông thánh Cosma và Đamianô theo
một kiểu như thế.
Lại một tục khác : ’’Dân
miền nam châu Á, và ở các đảo ở miển Nam-dương thường thờ những người điên
(Wahnsinnige) dại (Bloedsinnige), coi họ như là những ông thánh sống’’ (cũng
trang sách đã dẫn).
Marx còn chép một đoạn dài
về người con gái đồng-trinh mà sinh con : ’’ Trong các phép hóa-thân của thần
Vishnu, người Ấn-độ cho rằng có 10 phép quan-trọng hơn cả. Một trong các phép đó
là khi thần Vishnu, mang tên gọi là Christna hay là kristna, đã được một người
con gái đồng trinh sinh ra. Người Ấn-độ còn thêm rằng : khi thần Vishnu
xuất-hiện dưới các hình thể khác, thì chỉ lấy có một phần thần tính của mình mà
thôi, như là một tàn lửa của thần-tính phóng ra. Còn trong thân thể của Christna
thì có đầy đủ thần-tính. Vì thế trong lúc thần xuất-hiện ra như thế thì trên
trời không có ai nữa. Người Tây-tạng thì cho rằng thần Chaka (= Thích-ca) của họ
có ít nhất là 1000 cách hóa-thân. Và họ cho rằng cách hóa-thân uy-nghi lạ-lùng
hơn cả là khi một người con gái đồng trinh dòng dõi hoàng-gia do khí-lực từ trên
trời mà thụ thai và từ bên hông sinh ra Chaka mà vẫn còn đồng trinh. Thích-ca,
thì người Xiêm cho rằng có 500 cách hóa-thân, còn người Bắc-kỳ ở Việt Nam thì
cho rằng ngài có tới 80000 cách hóa-thân’’ ( MEGA IV / 1, tr 336-337).
Marx còn chép lại vài đoạn
về nghệ-thuật tôn-giáo và mấy chi-tiết lặt vặt khác. Những đoạn văn chép không
có hệ-thống ấy dù sao cũng gợi cho người ta hai ý-kiến sau đây : một là
những điều người ta tin và làm trong đạo Thiên-Chúa nhiều khi cũng giống như
trong các tôn-giáo khác, vì thế đạo Thiên-Chúa cũng cần phải tương-đối-hoá ;
hai là từ-ngữ ’’tôn-giáo’’ dùng để chỉ nhiều cái khác nhau quá, từ những
hành-động kỳ-quặc nhất đến những tư-tưởng thanh-cao và lý-sự nhất, cho nên người
ta không còn biết tôn-giáo là cái gì nữa.
2.2.3 - Marx đọc sách của
Benjamin Constant
Marx đã đọc tại thành phố
Bonn tất cả 5 tập sách của B. Constant, Bàn về tôn-giáo, xét về nguồn
gốc, về các hình-thức và lịch-sử phát-triển, Paris, 1826-1831, và đã chép
những đoạn văn trích-dẫn ra thành hai cặp vở. Đủ biết tầm quan-trọng của tác
phẩm này của B. Constant mà ít người biết đến. Thực ra Benjamin Constant de
Rebecque (1768-1830) có tiếng là một nhà văn và là một chính-khách trong đảng
Tự-do. Nhưng không mấy ai biết rằng ông đã viết 5 tập sách về lịch-sử tôn-giáo.
Nói cho đúng ra thì tác-giả
để ý đến tôn-giáo vào cuối đời ông và chỉ để ý đến một phần hạn hẹp, lại theo
như Ủy ban ấn-hành bộ MEGA, thì tác-phẩm này có tính-cách văn-chương hơn là
khoa-học, vì khi sử-dụng các sử-liệu, tác-giả thiếu chín-chắn để phân-biệt phải
trái. Ngược lại, trong luận-văn tiến-sĩ đại-học Sorbonne năm 1972, Tôn-giáo
của Benjamin Constant, Patrice Thompson
lại chủ-trương rằng trong suốt đời tác-giả Constant đã để tâm viết tập sách về
tôn-giáo đó. Vì rằng từ buổi thiếu thời tác-giả đã hấp-thụ tinh-thần nhóm
Bách-khoa Tự-điển ; đến tuổi trưởng-thành thì nhờ có bà nữ-sĩ de Stael, ông đã
được tiếp-xúc với các nhà tư-tưởng người Đức, như Herder (1744-1803), Schelling
(1775-1854), và nhất là Schleiermacher (1768-1834), một nhà thần-học, tác-giả
cuốn sách Giảng-thuyết về tôn-giáo (Reden ueber die Religion,
1799). Constant lấy lại của Schleiermacher chủ-trương cho rằng tình-cảm tôn-giáo
là yếu-tố quan-trọng. Rồi trong khi tiếp-xúc với nhóm sùng-tín (piétistes) ở
Lausanne (Thụy-sĩ), ông dần-dần ngả theo khuynh-hướng duy-linh (spiritualisme).
Thêm vào đó thì ông cho rằng tự-do của con người ta được tông-phái cải-cách của
đạo Thiên-Chúa đề cao hơn cả. Vì thế ông chống lại tinh-thần bất khoan-dung của
hàng giáo-sĩ công-giáo.
Chống-đối, nhưng vì lý-do
chiến-lược, ông không phát-biểu ý-kiến một cách rõ-rệt trong tác-phẩm này, mà
chỉ nói chung chung là chống đối các tôn-giáo khác bị giai-cấp tăng-lữ chi-phối.
Trong bài Tựa, ông nói là chỉ nghiên-cứu về các tôn-giáo ở ngoài đạo Thiên-Chúa,
từ tôn-giáo các dân-tộc văn minh thời Thượng-cổ cho đến các dân-tộc bán-khai
ngày nay. Nhưng ông lại viết : ‘’Những điều chúng tôi đưa ra để tố cáo giai cấp
tăng-lữ thời Thượng-cổ và ảnh-hưởng của họ vào văn-minh thời đó, thì có nhiều
điều hoàn-toàn không thể áp-dụng được vào lớp giáo-sĩ của các tôn-giáo ngày
nay’’ (I, tr XI).
Thiết-tưởng không cần đi sâu
vào cuộc tranh-luận này, vì vấn-đề ở đây là xem Marx đã đọc những gì và đã coi
những gì là đáng chép lại.
2.2.3.1 - Về tình-cảm
tôn-giáo
Constant chủ-trương trong
chương 1 của cuốn sách (tập I, tr 1-147) rằng đặc-điểm của con người ta là
tình-cảm tôn-giáo. Con người là một sinh-vật có tôn-giáo. Không thể lấy sự sợ
hãi, sự ngu dốt, lấy uy-tín hay là mánh-khóe nào để giải-thích tôn-giáo ( I, tr
6) : ‘’Người ta có thể lấy gian-lận, lấy uy-tín để lạm-dụng tôn-giáo, nhưng
không thể tạo ra được tôn-giáo như thế’’ (I, tr 7).
Marx đã đọc và hiểu rõ
lập-trường đó. Ông chép :’’Nếu trong tâm-hồn con người ta có một tình-cảm khác
hẳn các sinh-vật khác, tình-cảm ấy vẫn luôn luôn xuất-hiện, dù người ta ở trong
hoàn-cảnh nào cũng vậy, thì phải chăng tình-cảm ấy là một định-luật căn-bản của
bản-tính con người ? Theo như tôi nghĩ thì đó là tình-cảm tôn-giáo’’ (I, tr 2. -
MEGA IV / 1, tr 342). Vì thế tôn-giáo ăn rễ sâu trong lòng người ta. Marx lại
chép :’’ Những điều học hỏi được do kinh-nghiệm có thể đẩy tôn-giáo vào một
phạm-vi khác, nhưng không thể đẩy ra khỏi lòng con người ta được’’ (I, tr 5. -
MEGA, cũng trang đã dẫn).
Nhận-định như thế thì
tất-nhiên phải quan-niệm lại cái chủ-trương cho rằng Thiên-Chúa đã mặc-khải cho
người ta biết chân-lý tôn-giáo. Marx chép :’’ Thiên-Chúa có mặc-khải, nhưng
mặc-khải cho mọi người một cách thường-xuyên, mặc-khải tự trong đáy lòng người
ta’’ (I, tr 13) và ‘’ cái nguyên-nhân (làm cho tôn-giáo nên cần-thiết) thì lại
không phải là ở bên ngoài chúng ta, nhưng nó ở bên trong chúng
ta, nó là thành-phần của bản thân chúng ta (I, tr 18) (MEGA IV / 1, tr 342
và 345).
Nhưng cái tình-cảm tôn-giáo
ấy là thế nào ? Marx chép câu trả lời : ‘’Tình-cảm tôn-giáo là câu trả lời cho
tiếng kêu của tâm hồn, tiếng kêu mà không ai bắt im đi được, nó cũng là câu trả
lời cho cái động-lực thúc đẩy ta đi theo cái ta không biết, theo cái không có
giới hạn (...). Tình-cảm tôn-giáo phát sinh ra khi con người ta cảm thấy
cần phải bắt liên-lạc với những sức mạnh vô-hình’’ ( I, tr 29. - MEGA IV / 1, tr
345).
Những đoạn văn chép đó, muốn
hiểu cho rõ thì cần phải đặt lại trong khuôn-khổ những lời giải-thích sau đây
của Constant :
‘’Trước đây người ta tìm
nguồn gốc của tôn-giáo trong những hoàn-cảnh ở bên ngoài và xa lạ với con người.
Kẻ này thì chủ-trương rằng người ta không thể có tôn-giáo, nếu không được
Thiên-Chúa mặc-khải cho một cách đặc-biệt ở một địa-phương nhất-định ; kẻ khác
thì cho rằng không thể có tôn-giáo, nếu không có tác-động của sự-vật bên ngoài.
Đó là cái lầm thứ nhất sinh ra một loạt những cái sai lầm khác. Vẫn biết là cần
phải có Thiên-Chúa mặc-khải cho biết, nhưng đó là mặc-khải cho mọi người và
mặc-khải thường xuyên, từ trong đáy lòng người ta. Người ta chỉ cần lắng tai
nghe chính mình, nghe thiên-nhiên nói cho mình bằng nghìn vạn lời nói, để tức
khắc hướng ngay về tôn-giáo. Dĩ nhiên là sự-vật bên ngoài có thể ảnh-hưởng đến
niềm tin ; nhưng chúng chỉ thay đổi hình-thức, chứ không tạo ra được cái
tình-cảm căn-bản ở bên trong’’ .
Vì thế ‘’ trong tôn-giáo có
một cái gì bất-diệt. Nó không phải là một cái gì do người có học phát-minh ra,
mà người vô-học coi là xa lạ, cũng không phải là một cái lầm-lẫn của người
vô-học, mà người có học có thể thoát được. Nhưng phải biết phân-biệt cái căn-bản
với các hình-thức, phân-biệt cái tình-cảm tôn-giáo với các định-chế tôn-giáo.
Nói như thế không phải là vì chúng tôi có ý nói xấu các hình-thức hay là các
định-chế. Như sẽ bàn đến trong sách này, cái tình-cảm tôn-giáo không thể không
cần đến những hình-thức hay định-chế như thế. Hơn nữa, mỗi thời đều tự-nhiên có
một hình-thức tốt và có ích ; nhưng hình-thức ấy chỉ sinh ra tai hại, khi có
những cá-nhân hay là những giai-cấp chiếm lấy nó và làm cho nó bất chính, để kéo
dài thời hạn của nó. Thế nhưng cái căn-bản thì vẫn bất biến, vẫn trường cửu như
thế mãi, còn cái hình-thức thì hay thay đổi và không bền lâu’’ (I, tr 20-21).
Như thế có nghĩa là cần
phải phân-biệt trong tôn-giáo cái nội-dung cốt yếu với vô số những hình-thức bao
giờ cũng có tính-cách lịch-sử và tùy-thuộc vào trình-độ phát-triển của các
dân-tộc. Có thế mới giải-thích được ‘’vì sao có nhiều hình-thức tôn-giáo xem ra
phản lại tự-do, trong khi cái tình-cảm tôn-giáo lại nâng đỡ cho tự-do’’ (câu này
là đầu đề đoạn 4 của chương I, tr 56).
Constant giải-thích thêm :
‘’Những cái mâu thuẫn giữa lý-thuyết và thực-hành trong phần lớn các hệ-thống
tôn-giáo, đã làm cho người ta có hai quan-niệm vừa không tốt lại vừa sai lầm.
Thứ nhất : tôn-giáo là vây cánh tự-nhiên của chế-độ áp bức ; thứ hai : bỏ
tình-cảm tôn-giáo đi thì sẽ có lợi cho tự-do. Có phân-biệt cái tình cảm tôn-giáo
với các hình-thức tôn-giáo như chúng ta vừa làm, mới co thể đánh tan được hai
thiên-kiến đó’’ (I, tr 58). Thực ra ‘’khi người ta đánh mất tình cảm tôn-giáo
thì chế-độ áp bức càng dễ hoành hành ‘’ (I, tr 59).
Đó là quan-niệm của
Constant. Riêng về phần Marx thì trong chương I, ông chép một đoạn văn về cái
ích lợi của tôn-giáo : ‘’Không phải vì lẽ một lý-thuyết có ích lợi về mặt
thực-hành thì tự nhiên nó đúng, không phải cứ bảo rằng tôn-giáo có ích lợi thì
người ta sùng đạo hơn, vì người ta không có tin vì mục-đích như thế’’ (I, tr 81.
- MEGA IV / 1, tr 345).
2.2.3.2 -
Chống lại các tôn-giáo do giai-cấp tăng-lữ (giáo-sĩ) chi-phối
Trong tất cả bộ sách viết ra
đây, Constant nhằm mục-đích chống lại các tôn-giáo do giai-cấp tăng-lữ hay
giáo-sĩ chi phối. Tác-giả cho là cần phải có giai-cấp đó, nhưng cũng cho như thế
là nguy-hiểm, vì họ tự cho là mình giữ độc-quyền về chân-lý, đồng thời cũng là
môi-giới cần-thiết giữa thần-linh và người ta, họ muốn giữ lấy uy-quyền và chống
lại những ai muốn canh-tân.
Trong sách Bàn về
tôn-giáo, tập II, chương 4, Marx đã chép lại một đoạn về nền tảng uy-quyền
của giai-cấp tăng-lữ :
‘’Mỗi khi người ta cần phải
có những người làm môi-giới đặc-biệt để liên-lạc với thần-linh, thì tất cả
uy-quyền đều nằm trong tay những người môi-giới đó’’ (I, tr 254). ‘’Thế thì
trong chế độ giáo-sĩ-trị, thế-giới này có mục-đích gì ? Có mục-đích là làm theo
ý định của thần-linh. Các tổ-chức chính-trị là gì ? Là phương-tiện để làm theo ý
định của thần-linh. Còn những người lãnh-đạo xã-hội là ai ? Là những người có
uy-quyền tùy-phụ, người ta vâng phục họ chỉ vì họ vâng phục quyền trên đã cho họ
có quyền. Sau cùng thì hỏi cơ-quan tự-nhiên của uy-quyền chính đáng duy nhất ấy
là gì ? Thưa đó là chế-độ giáo-sĩ hay tăng-lữ ‘’ (I, tr 255. - MEGA IV / 1, tr
353).
Constant đã đưa ra một số
đặc-điểm của những tôn-giáo do tăng-lữ chi phối. Marx đã chú ý vào những
đặc-điểm đó, và ông đã ghi lấy một vài điểm.
Thứ nhất
là hay nói đến những điều bí-ẩn. Marx chép : ‘’Trong các tôn-giáo tự-do,
mỗi khi có gì thay đổi do dư-luận thay đổi mà ra , thì người ta đã thấy ngay
trước khi nó thay đổi thực. Những ý-kiến mới-mẻ được đưa ra ánh sáng tỏ-tường.
Còn các tôn-giáo do tăng-lữ chi-phối thì thay đổi một cách bí mật, trong bóng
tối. Các hình-thức, các lối diễn-tả, các lễ-nghi vẫn giữ như thế, bất biến, cho
đến khi các tôn-giáo đó hoàn-toàn bị tiêu-hủy’’ (Tập III, chương 6, số 1, tr 19.
- MEGA IV / 1, tr 356).
Thứ hai là các tôn-giáo đó
hay đưa ra quan-niệm rằng có người con gái đồng-trinh sinh con
. Đó là điểm Constant nói đến nhiều lần trong sách. Marx chép lại đoạn sau đây :
‘’Trong bộ kinh Purana (Ấn-độ), thần Vishnu an-ủi người ta và hứa sẽ cho một vị
cứu-tinh đến đập tan chế-độ áp bức. Vị cứu-tinh đó, thần nói, sẽ sinh ra trong
một túp lều của người chăn nuôi chiên dê, và (...) sẽ xuống thai trong lòng một
người con gái đồng-trinh’’ ( III, 6, tr 209. - MEGA IV / 1, tr 357). Và còn
nữa : ‘’Mẹ của Tagès là một người con gái đồng-trinh. Người Trung-hoa cho rằng
Phục-hi sinh ra một cách lạ-lùng, vì ông không có cha. Thích-ca trong một kiếp
hóa-thân ở Tây-tạng, cũng như Mexit-li và Viztli-Putzli ở Mê-khi-cô (Mejico /
Mễ-tây-cơ) cũng đều do người con gái đồng-trinh mà sinh ra. Lần mà thần Vishnu
giáng sinh một cách vinh-quang nhất là khi thần chào đời dưới cái tên là
Chrishna, và mẹ thần không có đi lãi với đàn ông’’ (IV, 11, tr 284). ‘’ Vì lẽ
rằng tính-giao là việc mà trên trời dưới đất đều phải khiển-trách cả, cho
nên thần-linh, dù có phải giáng-sinh vào cõi đời này, thì cũng không muốn sinh
ra đời do một tác-động bất-tịnh như thế’’ (MEGA IV / 1, tr 363, và nhiều đoạn
văn như thế ở trang 365).
Thứ ba là một quan-niệm
đặc-biệt về tế-tự :
lấymạng người mà tế, và vị thần được đưa ra tế thì chết rồi lại sống lại.
Constant viết : ‘’Giai-cấp tăng-lữ xưa kia đã muốn cho thần-linh của họ phù hợp
với quan-niệm của người ta, không những là trong việc con gái đồng trinh không
có tính-giao mà sinh con, mà lại cả trong cái tục dùng mạng người mà tế-tự và
trong niềm tin rằng chịu đau chịu khổ thì có một giá-trị bí-nhiệm. Người ta cho
rằng trong việc tế thần thì đồ tế càng quí giá thì hiệu quả càng lớn, loài vật
thì quí hơn cây cối hoa quả, mạng người thì quí hơn loài vật, và sau cùng thì
thần-linh quí hơn là mạng người. Vì thế có nhiều dân-tộc cho rằng thần-linh của
họ đã đưa mạng mình ra mà tế trên bàn thờ của mình’’ (IV , 11, tr 287). Marx
chép lại mấy câu sau đây : ‘’Cái quan-niệm rằng có thần-linh hiến mạng đã đưa
người Mê-khi-cô đến một tập-tục kỳ-quặc. Trong một buổi lễ-hội long-trọng nhất
thì các tăng-lữ đâm vào quả tim của vị thần vừa được tôn-thờ, rồi đưa quả tim đó
xé ra làm nhiều miếng và cho những người đến dự ăn như thức ăn bí-nhiệm để được
trời phù-hộ cho (...). Ngưòi ta gọi lễ hội đó là Téoculao, nghĩa là lễ ăn ông
thần’’ (IV, 11, tr 289, số 3. - MEGA IV / 1, tr 363-364).
Sau cùng thì trong tập V,
chương 13, Marx chép thêm đoạn sau đây : ‘’ Cái niềm tin rằng có thần-linh chết
đi rồi sống lại, nó phổ thông trong tất cả các tôn-giáo do tăng-lữ chi phối,
nhưng nó đi ngược hẳn lại quan niệm của người Hi-lạp, vì thế khi nhân-dân đảo
Kriti (Crète) trỏ cho người ta biết ngôi mộ của vị Thiên-vương là Zeus
(Jupiter), thì người Hi-lạp ở khắp nơi đều cho là nói láo’’ (tr 54. - MEGA IV /
1, tr 366).
2.2.3.3 - Mấy điều nhận xét
Về lập-trường của Benjamin
Constant
Như đã nhắc lại trên đây,
Constant đã nói trước là ông chỉ nghiên-cứu về các tôn-giáo do tăng-lữ chi-phối
ở bên ngoài đạo Thiên Chúa mà thôi. Có thể có người cho là ông dè dặt vì lý-do
chiến-lược : ông là người theo tông-phái canh-tân của đạo Giêsu Cứu Thế, cho nên
không có thiện-cảm là bao nhiêu đối với giáo-sĩ của tông-phái công-giáo, nhưng
ông lại sống trong một nươc mà đại đa số là công-giáo. Tuy vậy, lý-do ông đưa ra
để giải-thích xem ra thành-thực. Ông cho biết là lớp tăng-lữ của các tôn-giáo
thời Thượng-cổ thì khác xa hàng giáo sĩ công-giáo ngày nay. Ông viết : ‘’Vì
chức-phận của họ mà tăng-lữ ngày xưa bó buộc phải gian-dối, thực vậy, họ phải
tiếp-xúc với các thần-linh của họ một cách lạ-lùng, phải làm được những thuật lạ
, phải biết nói lên lời thần dạy thánh phán, cho nên bó buộc phải làm gian dối.
Còn ngày nay thì tín ngưỡng đã thanh-cao đi nhiều, cho nên giáo-sĩ bây giờ không
cần phải làm như thế. Công việc của họ là cầu-nguyện, là an-ủi những người gặp
cảnh đau thương, và đón nhận tâm-tình thống-hối (của những người đã có lỗi) ; đó
là cái may-mắn cho họ, vì họ không bó buộc phải làm những phép lạ, và đó cũng là
bước tiến-bộ của thời đại Khai-minh của chúng ta’’ ( Tập I, tr XII).
Tuy chắc là ông thành-thực,
nhưng những điều ông nói lên lại có tính-cách phổ-biến, và cái khuynh-hướng
lạm-dụng tôn-giáo để giữ lấy uy-quyền lại thì chưa chắc đã hạn hẹp vào giới
tăng-lữ ngày xưa. Ông viết : ‘’Cái mầm mống tôn-giáo đã có sẵn trong tâm hồn
người ta, giai-cấp tăng-lữ đã nhận ra như thế, và họ đã dùng phương-pháp
độc-đoán để hướng-dẫn cho cái mầm ấy phát-triển, và cũng vì thế nếu không có họ
thì chưa chắc tôn-giáo đã phát-triển theo đường lối như thế’’ (Tập I, tr 143)
Khi Marx đọc những trang
sách như thế, thì ông không còn tín-ngưỡng nữa, cho nên ông chỉ phân-biệt
tôn-giáo do tăng-lữ hay giáo-sĩ chi-phối với tôn-giáo không bị chi-phối như thế
chứ không phân-biệt tôn-giáo ngày xưa với ngày nay. Thứ tôn-giáo không bị
tăng-lữ hay giáo-sĩ chi phối này là tôn-giáo tự-nhiên do lý-trí con người ta
khám phá ra, chứ không do Thiên-Chúa nào dạy riêng cho ai biết cả.
Nhận xét về các tôn-giáo
Marx đã chép lại của
Constant rất nhiều chi-tiết về các thứ tôn-giáo bên ngoài đạo Thiên-Chúa. Có thể
tóm lại vào mấy đặc-điểm sau đây :
Một là :
có nhiều dân-tộc coi tôn-giáo như là một việc trao đổi buôn bán với thần-linh,
theo cái kiểu tiền trao thì cháo múc. Marx có ghi lấy những trường hợp khi thấy
thần thánh không thiêng, thờ cúng mà không có kết quả, thì người Trung-hoa đem
thần ra trừng phạt (MEGA IV / 1, 347 và 349) . Ông chép lại câu của Constant : ‘’ Như thế tức là thần-linh chỉ là
hạng đi làm thưê mà thôi’’ (III, 7, tr 330. - MEGA IV / 1, tr 357).
Hai là :
có nhiều khi những người lãnh-đạo tôn-giáo cho rằng mình có quyền cai-quản và
sai khiến thần-linh. Marx chép :’’ Những câu thần-chú (mantra) là những lời cầu
khấn hay là những công-thức đã được ấn-định, có phép bó buộc thần-linh phải tuân
lệnh mà không tài nào thoát ra được. Người Ấn-độ nói rằng trời đất là thuộc
quyền các thần-linh, các thần-linh phải tuân lệnh các câu thần-chú, các câu
thần-chú là ở trong tay tăng-lữ Bà-la-môn, cho nên tăng-lữ Bà-la-môn hơn các
thần-linh ‘’ ( MEGA IV / 1, tr 362) .
Để kết thúc cặp vở chép,
Marx viết lại hai câu tóm tắt cái dự-định của Constant : ‘’Khi giai-cấp tăng-lữ
hay giáo-sĩ liên-minh được với lực-lượng chính-trị, thì họ tìm cách tăng cường
cho giai-cấp của họ, để không còn bị ai khác chống đối nữa ; cho nên chuyên
quyền chính-trị chỉ là hậu-quả của tăng-lữ (giáo-sĩ) chuyên quyền’’ (Tập V,
chương 14, tr 194). ‘’Cho dù Thiên-Chúa có phù-trợ đi nữa, thì ta cũng đừng
lẫn-lộn những biện-pháp bí-nhiệm không ai hiểu được của Thiên-Chúa với những
thủ-đoạn do bàn tay người ta dính vào. Biết bao nhiêu lần các nhà thần-học đã
nói rằng những cái lạm-dụng tôn-giáo thì đều là do người ta chứ không phải là do
tôn-giáo. Muốn tránh những cái lạm-dụng như thế, thì người ta, nghĩa là
chính-quyền và các lực-lượng vật-chất, phải thôi đừng can-thiệp vào tôn-giáo
nữa, phải để tôn-giáo lo việc tôn-giáo, lo việc Thiên-Chúa’’ (V, 14, tr 216. -
MEGA IV / 1, tr 307).
* * * * *
Kết luận
Trong phạm-vi tôn-giáo, Marx
đã tham khảo các nhà tư-tưởng thời Cận-đại theo hai quan điểm triết-học và
dân-tộc-học.
Về quan điểm triết-học thì
Leibniz, Hume và nhất là Spinoza đã đưa đến chủ-trương đề cao lý-trí coi lý-trí
là ánh sáng tự nhiên, có giá-trị hơn hay ít ra là cũng bằng đức tin
. Đề cao lý-trí tức là đề cao
tôn-giáo tự-nhiên, vì tôn-giáo tự-nhiên căn-cứ vào những tri-thức hợp lý, đồng
thời người ta coi nó là nền tảng chung cho tất cả các tôn-giáo khác do
Thiên-Chúa mặc-khải riêng cho người ta biết sau này. Tuy vậy các triết-gia này
đều còn giữ đức tin, và đức tin của họ làm cho họ đề cao lý-trí, vì lẽ rằng
Thiên-Chúa không thể tự mâu thuẫn, mà lý-trí và đức tin lại cùng là do
Thiên-Chúa mà ra. Hơn nữa lý-trí là tiêu chuẩn để người ta phân-biệt đâu là đức
tin do Thiên-Chúa cho biết, đâu là những điều người ta thêm vào sau này.
Quan-điểm dân-tộc-học làm
cho ta bỏ suy-luận trừu tượng trên bình-diện ý-niệm, để đi vào những hiện-tượng
cụ-thể. Vấn-đề là cái ý-niệm ‘’tôn-giáo’’ nó có phạm-vi quá rộng, thành ra có
rất nhiều cái được gọi là tôn-giáo, từ những cái rất thô-tục đến những cái rất
thanh-cao, từ những cái vô-lý-sự nhất đến những cái thật là hợp lý. Như thế thì
giải quyết ra sao ?
Hegel đã chạm tới vấn-đề
này, và hệ-thống tư-tưởng của ông, vừa có tính-cách biện-chứng, vừa có tính-cách
lịch-sử, đã làm cho ông giải-quyết được. Các yếu-tố có vẻ mâu thuẫn nhau đều có
một chỗ đứng trong hệ-thống và ăn khớp với các yếu-tố khác. Nhưng nếu bỏ
hệ-thống đó đi, như Marx đã làm, thì công việc ra sao ? Thưa rằng chỉ còn những
sự-kiện, gồm những quan-niệm, tập-tục, lễ-nghi, hành-động, tản mát vô trật-tự và
vô-dụng như một đống gạch vụn, phải vứt đi hết.
Còn nếu nói như Friedrich
Engels rằng Marx đã đảo lộn ngược hệ-thống biện-chứng của Hegel, thì là chỉ nói
miệng vậy thôi cho nó có vẻ cách mạng, chứ trong một tòa kiến-trúc thì mái tựa
lên xà, xà tựa lên cột, cột cắm xuống nền, nếu đem đảo lộn ngược dưới lên trên
thì làm thế nào tòa nhà đứng vững được. Thực ra một người có căn-bản triết-học
như Marx chưa bao giờ dám làm lại một hệ-thống đảo ngược như thế. Cái mà Engels
gọi là Thiên-nhiên biện-chứng thì chỉ là một kiến-trúc duy-vật không có
biện-chứng, vì đã biện-chứng thì không thể duy-vật hay duy-tâm, mà phải cho
‘’tâm’’ và ‘’vật’’ ăn khớp với nhau.
Marx tìm tài liệu đến đây
thì gặp lúc Feuerbach cho xuất-bản tác-phẩm Bản-chất đạo Thiên-Chúa
(1841), dùng hai nguyên-tắc để giải-thích hiện-tượng tôn-giáo : ‘’vong-thân’’
(Entfremdung/Aliénation) và ‘’phóng ngoại’’ (Projektion/Projection).
Có lẽ Marx thấy là việc tìm tòi của mình cũng không đi đến đâu, cho nên ông
phụ-họa theo lập-trường của Feuerbach và không tiếp-tục tìm hiểu thêm về
tôn-giáo nữa. Phụ-họa, nhưng ông bỏ quan-điểm tâm-lý-học để giải-thích tất cả
theo quan-điểm kinh-tế-học. Thế rồi ông chuyển sang tranh-đấu chính-trị. Marx
không theo dõi những suy-luận của Feuerbach trong mấy chục năm sau nữa. Nhưng
cho dù có theo dõi thì cũng chưa giải quyết xong vấn-đề tôn-giáo
.
Để nói chung về hành-trình
vô-thần của Marx, ta có thể nhận xét hai điều :
1) Marx chỉ đọc những sách của
người ngoại cuộc bàn luận về tôn-giáo, theo quan-điểm triết-học và dân-tộc-học,
chứ không đọc của những người tín-đồ ở trong cuộc. Vì thế ông bỏ cắt quãng ra,
không đọc sách vở của mươi mười lăm thế-kỷ giữa thời Thưuợng-cổ và thời Cận-đại.
Thực ra ông muốn để ý đến hoạt-động chính-trị, chứ không muốn lý thuyết suông.
Dù sao tài liệu nghiên-cứu của ông đã chọn thì vẫn là đơn phương, không đầy-đủ.
2) Quan-điểm triết-học
và dân-tộc-học - ta có thể thêm vào đó thần-học và tâm-lý-học,
là hai môn mà Marx không biết đến - là nói về tôn-giáo, nói về
Thiên-Chúa hay thần-linh như là về những đối-vật hay đồ-vật ở ngôi thứ ba.
Vẫn biết là nhiều khi người theo đạo này đạo khác có thể coi thần-linh của mình
như là những lực-lượng mà mình điều-khiển được, như là những phương-tiện thuộc
về ngôi thứ ba ; nhưng người tín-hữu thì nói với
Thiên-Chúa, coi Thiên-Chúa như là người đối-diện, ở ngôi thứ hai . Hai
quan-điểm thật là khác nhau.
Đủ biết cái hồ-sơ tôn-giáo
xét trên đây còn nhiều điều thiếu sót và bất cập. Phải nghiên-cứu thêm theo
nhiều phương-hướng mới có thể xét đoán cho công-minh.
Lambersart, ngày
25-03-2003
Trần Văn Toàn
|