Việc Tôn Kính Ðức
Nữ Trinh Trong Giáo Hội |
Hiến Chế Tín Lý
Về Giáo Hội
Lumen Gentium
Bản dịch Việt
Ngữ của Giáo Hoàng Học Viện Piô X
Prepared for
Internet by Vietnamese Missionaries in Asia
Chương VIII
Ðức Nữ
Trinh Maria Mẹ Thiên Chúa
Trong Mầu
Nhiệm Chúa Kitô
Và Giáo Hội
(tiếp theo)
IV. Việc Tôn Kính Ðức Nữ Trinh Trong
Giáo Hội
87*
66. Bản tính và nền tảng của việc tôn
kính Ðức Mẹ. Nhờ hồng ân Thiên Chúa, Ðức Maria
được tôn vinh, sau Chúa Con, vượt trên hết các thiên thần và
loài người, vì Ngài là Mẹ rất thánh của Thiên Chúa và đã tham dự
vào các mầu nhiệm của Chúa Kitô; do đó Ngài đáng được Giáo Hội
tôn vinh và đặc biệt sùng kính. Thực vậy, từ những thời rất xa
xưa, Ðức Nữ Trinh đã được tôn kính dưới tước hiệu "Mẹ Thiên
Chúa", và các tín hữu đã khẩn cầu cùng ẩn náu dưới sự che chở
của Ngài trong mọi cơn gian nan khốn khó
21. Nhất là từ công đồng Ephêsô, Dân Thiên Chúa đã gia
tăng lòng tôn kính Ðức Maria cách lạ lùng: họ sùng kính mến yêu,
cầu khẩn và noi gương đúng như lời Ngài đã tiên báo: "Muôn đời
sẽ khen tôi có phúc, vì Ðấng toàn năng đã làm cho tôi những việc
trọng đại" (Lc 1,48-49). Sự tôn kính ấy, như vẫn luôn có trong
Giáo Hội, tuy hoàn toàn đặc biệt, nhưng tự bản chất vẫn khác
biệt với sự thờ phượng dâng lên Ngôi Lời nhập thể và lên Chúa
Cha và Chúa Thánh Thần; việc tôn kính Ðức Maria khuyến khích
thêm việc thờ phượng Thiên Chúa Ba Ngôi. Giáo Hội đã chấp nhận
nhiều hình thức tôn sùng Mẹ Thiên Chúa, trong giới hạn của giáo
lý lành mạnh và chính thống, tùy theo hoàn cảnh, thời gian và
nơi chốn, hợp với tính khí cùng tinh thần của tín hữu; những
hình thức ấy, qua việc tôn vinh Mẹ, cũng làm cho tín hữu nhận
biết đúng đắn, yêu mến, làm vinh danh, và tuân giữ giới răn Chúa
Con, vì Người mà muôn vật được tạo thành (x. Col 1,15-16) và nơi
Người, Chúa Cha hằng hữu "muốn có đầy đủ mọi sự" (Col 1,19).
88*
67. Chiều hướng mục vụ.
Thánh Công Ðồng cố ý dạy giáo lý công giáo ấy, đồng thời Giáo
Hội cũng khuyến khích hết mọi con cái hãy nhiệt tâm phát huy
lòng sùng kính Ðức Nữ Trinh, nhất là trong phụng vụ, hãy coi
trọng những việc thực hành và việc đạo đức nhằm suy tôn ngài và
đã được quyền Giáo Huấn Giáo Hội cổ võ qua các thế kỷ, cũng như
hãy kính cẩn tuân giữ những quyết định của các thời đại trước
liên quan đến việc tôn kính ảnh tượng Chúa Kitô, Ðức Nữ Trinh và
các Thánh
22. Công Ðồng cũng hết lòng khuyến khích các nhà thần
học và những người rao giảng lời Chúa, khi xét đến phẩm chức phi
thường của Mẹ Thiên Chúa, hãy cẩn thận tránh mọi tư tưởng phóng
đại sai lầm cũng như mọi tư tưởng hẹp hòi quá đáng
23. Nhờ học hỏi Thánh Kinh, các Thánh Giáo Phụ, các
tiến sĩ và học hỏi các phụng vụ trong Giáo Hội, dưới sự hướng
dẫn của quyền Giáo Huấn, họ hãy làm sáng tỏ đúng mức những chức
vụ và đặc ân của Ðức Trinh Nữ; những chức vụ và đặc ân này luôn
qui hướng về Chúa Kitô, nguồn mạch toàn thể chân lý, thánh thiện
và đạo đức. Họ phải cẩn thận tránh xa mọi lời nói hay việc làm
có thể làm cho các anh em ly khai hay bất cứ ai khác hiểu sai
giáo lý đích thực của Giáo Hội. Phần các tín hữu, hãy nhớ rằng,
lòng tôn sùng chân chính không hệ tại tình cảm chóng qua và vô
bổ, cũng không hệ tại một sự dễ tin phù phiếm, nhưng phát sinh
từ một đức tin chân thật. Ðức tin dẫn chúng ta đến chỗ nhìn nhận
địa vị cao cả của Mẹ Thiên Chúa, và thúc đẩy chúng ta lấy tình
con thảo yêu mến và noi gương các nhân đức của Mẹ chúng ta.
89*
V. Ðức Maria, Dấu Chỉ Lòng Cậy Trông
Vững Vàng
Và Niềm An Ủi Cho Dân Chúa Ðang Lữ Hành
90*
68. Ðức Maria, dấu chỉ của Dân Thiên
Chúa. Ngày nay Mẹ Chúa Giêsu đã được vinh hiển
hồn xác trên trời, là hình ảnh và khởi thủy của Giáo Hội sẽ hoàn
thành đời sau; cũng thế, dưới đất này, cho tới ngày Chúa đến (x.
2P 3,10), Ngài chiếu sáng như dấu chỉ lòng cậy trông vững vàng
và niềm an ủi cho dân Chúa đang lữ hành.
91*
69. Ðức Maria chuyển cầu cho sự hiệp
nhất các Kitô hữu. Thánh Công Ðồng rất vui mừng
và được an ủi khi thấy ngay giữa các anh em ly khai không thiếu
những người dâng lên Mẹ Chúa Cứu Thế vinh dự Ngài đáng được,
nhất là các anh em Ðông Phương, những người nhiệt thành và hết
lòng sùng kính Mẹ Thiên Chúa trọn đời đồng trinh
24. Tất cả mọi Kitô hữu hãy thiết tha khẩn nguyện Mẹ
Thiên Chúa cũng là Mẹ loài người, để như Ngài đã trợ giúp Giáo
Hội sơ khai bằng lời cầu nguyện của mình, thì ngày nay được tôn
vinh vượt trên các Thần Thánh trên trời, Ngài cũng cầu bầu cùng
Con Ngài trong sự hiệp thông toàn thể các Thánh cho tới khi mọi
gia đình dân tộc hoặc đã mang danh hiệu Kitô hữu, hoặc chưa biết
Ðấng Cứu Chuộc mình, đều hân hoan đoàn tụ trong an bình và hòa
thuận, hợp thành một dân Thiên Chúa duy nhất, hầu vinh danh Ba
Ngôi Thiên Chúa rất thánh và không phân chia.
92*.
Tất cả và từng
điều đã được ban bố trong Hiến Chế tín lý này đều được các Nghị
Phụ Thánh Công Ðồng chấp thuận. Và, dùng quyền Tông Ðồ Chúa Kitô
trao ban, hiệp cùng các Nghị Phụ khả kính, trong Chúa Thánh
Thần, Chúng Tôi phê chuẩn, chế định và quyết nghị, và những gì
đã được Thánh Công Ðồng quyết nghị, Chúng Tôi truyền công bố cho
Danh Chúa cả sáng.
Roma, tại Ðền
Thánh Phêrô, ngày 21 tháng 11 năm 1964.
Tôi, Phaolô
Giám Mục Giáo Hội Công Giáo.
Tiếp theo là
chữ ký của các Nghị Phụ.
Chú Thích:
87* Các số 66-67: Phần III -
Việc tôn kính Ðức Trinh Nữ trong Giáo Hội.
Phần này trực
tiếp nói đến sự áp dụng giáo lý vào công việc giảng thuyết và
tôn kính. Mối bận tâm mục vụ của Công Ðồng được biểu lộ rõ rệt.
Công Ðồng muốn rằng, trong Giáo Hội, việc tôn kính và sùng mộ
Ðức Maria phải chừng mực và chính đáng; không trễ nải vì những
ngờ vực vô ích hay sợ sệt; không quá khai thác những tình cảm,
tưởng tượng hoặc những điều thần học còn mơ hồ.
21 Xem Sách Nhật Tụng Roma,
xướng khúc "Sub tuum..." ở kinh chiều I của Tiểu tụng Ðức Mẹ.
88* Số 66: Bản tính và nền
tảng việc tôn kính Ðức Trinh Nữ.
Nền tảng việc
tôn kính Ðức Maria là do việc Mẹ Thiên Chúa được gắn liền với
mầu nhiệm cứu rỗi của Chúa Kitô. Vì Ðức Maria được dự phần vào
mầu nhiệm này hơn bất cứ ai khác, nên Giáo Hội đặc biệt tôn kính
Mẹ. Việc tôn kính - bản chất của việc sùng mộ - được gọi là đặc
biệt (so sánh với việc tôn kính các Thánh), nhưng xét theo yếu
tính thì hoàn toàn khác biệt với việc tôn thờ chỉ dành riêng cho
một mình Thiên Chúa. Tiêu chuẩn của việc tôn kính là phải phù
hợp với giáo lý chính thống. Việc tôn kính chỉ có bảo đảm khi
trung thành với ơn linh ứng riêng và phải hoàn toàn hướng về Con
duy nhất mà trong Người, Chúa Cha tác thành mọi sự. Việc sùng mộ
sẽ trở nên ảo tưởng nếu không đưa đến việc tuân giữ các giới răn
Chúa. Giả thiết như thế rồi, cũng còn phải lưu ý đến những hình
thức tôn kính khác nhau nhưng vẫn hợp pháp, do hoàn cảnh thời
gian và nơi chốn tạo ra, hay do những tâm tình khác nhau của mỗi
dân tộc. Vậy phải thận trọng nhưng đừng có đầu óc thiển cận.
Việc tôn kính với cùng một hình thức như nhau sẽ trở nên nghèo
nàn; phải để quyền cho công giáo tính.
22 CÐ Nicea II, năm 787:
Mansi 13, 378-379 ; Dz 302 (600-601). CÐ Trentô, khóa 25: Mansi
33, 171-172.
23 Xem Piô XII, sứ điệp
truyền thanh, 24-10-1954: AAS 46 (1954), trg 679. Tđ. Ad caeli
Reginam, 11-10-1954: AAS (1954), trg 637.
89* Số 67: Tinh thần giảng
thuyết và tôn kính Ðức Trinh Nữ.
Sau cùng, Công
Ðồng ban bố một vài qui tắc mục vụ cho việc giảng thuyết và tôn
kính Ðức Maria. Công Ðồng giới thiệu đặc biệt việc tôn kính có
tính cách phụng vụ, nhưng cũng không quên những hình thức, những
việc thực hành đạo đức không đi ngược với những nguyên tắc đã đề
ra. Việc tôn kính theo phụng vụ được chú trọng hơn là vì có sự
chỉ dẫn trực tiếp của Giáo Hội. Những hình thức tôn sùng cũng
như Công Ðồng cổ võ, dù không bàn đến chi tiết. Những tiêu chuẩn
để giảng thuyết rất đơn giản: đừng tán tụng thái quá, không hẹp
hòi thiển cận, hoàn toàn tuân theo chỉ thị của Giáo Hội, biết
dựa vào Thánh Kinh và Thánh Truyền. Như vậy Công Ðồng muốn ngay
cả việc giảng thuyết về Ðức Mẹ cũng phải qui về Chúa Kitô. Kết
luận của số này là vài lời khuyên tổng quát về việc sùng mộ đích
thực nhằm gửi tới Dân Chúa (không chỉ bằng tình cảm nhất thời,
không phải niềm tin viễn vông, nhưng là sự thực hành sâu xa của
một đức tin chính thực, lấy tình yêu hàm chứa lòng biết ơn mà
tuyên xưng sự cao cả của Mẹ Thiên Chúa, và đức tin đó còn làm
cho chúng ta biết quảng đại noi theo sự hiệp nhất giữa Mẹ với
Thiên Chúa).
90* Các số 68-69: Kết luận.
Hai vấn đề được
đặt ra ở Ðức Maria như dấu hiệu cậy trông và như dấu hiệu hiệp
nhất.
91* Số 68: Ðức Maria như dấu
hiệu cậy trông.
Số này bàn đến
một ý tưởng quan trọng: ý nghĩa địa vị được tôn vinh của Mẹ Chúa
Giêsu đối với toàn thể Giáo Hội. Ðức Maria là hình ảnh cánh
chung của Giáo Hội. Mẹ là dấu hiệu cậy trông. Mẹ cũng đã phải
chịu thử thách nên do kinh nghiệm riêng mà biết được gánh nặng
của chúng ta. Tình thương Mẹ dành cho chúng ta sẽ khuyến khích
chúng ta cố gắng không ngừng.
24 Xem Piô XI, Tđ. Ecclesiam
Dei, 12-11-1923: AAS 15 (1923), trg 581. Piô XII, Tđ. Fulgen
corona, 8-9-1953: AAS 45 (1953), trg 590-591.
92* Số 69: Ðức Maria và sự
hiệp nhất các Kitô hữu.
Ðây là một điểm
tế nhị. Nhiều người nghĩ dường như Ðức Maria là một trở ngại
trên con đường hiệp nhất các Kitô hữu. Công Ðồng đã đề cập vấn
đề theo khía cạnh tích cực: Công Ðồng nhận định một sự kiện
không ai chối cãi: trong số những anh em ly khai, cũng có người
kêu cầu đến Trinh Nữ hèn mọn thành Nazareth. Như vậy vẫn còn hy
vọng. Công Ðồng muốn mọi Kitô hữu cầu xin Ðức Maria cho việc
hiệp nhất, vì Mẹ bầu cử cho mọi người tuyên xưng Con Mẹ là Ðấng
Cứu Thế, và cho cả những ai chưa biết Mẹ. Mẹ vẫn luôn giữ vai
trò làm mẹ. Như thế sẽ có ánh sáng làm rạng ngời vinh quang Ba
Ngôi Thiên Chúa.
Hiến Chế tín lý
về Giáo Hội khởi đầu và kết thúc bằng mầu nhiệm Một Chúa Ba
Ngôi. Từ Thiên Chúa, do tình yêu mà có mọi sự, và trong tình yêu
mọi sự qui về Ngài. Hiến Chế này là một lời tuyên xưng đức tin
không lay chuyển và sẽ không chịu sự hao mòn của thời gian.
|
VỀ MỤC LỤC |
|
NHỮNG BÓNG MA TƯỞNG TƯỢNG
|
VRNs
(18.04.2012) – Trước khi dâng mình cho Chúa, thánh
An-phong-sô là một luật sư lỗi lạc. Người rất nổi danh vì tài
hùng biện và vì lý luận đanh thép sắc bén. Nhờ tài ba, Người đã
thành công trong rất nhiều vụ án hiểm hóc. Nhưng một hôm, Chúa
đã để cho Người phải thất bại. Trong một vụ án mà Người thấy là
đơn giản, dễ dàng, Người đã bị thua một cách thảm hại. Trước
thất bại cay đắng đó, Người thấy như cả bầu trời sụp đổ. Danh
tiếng phút chốc tan như mây bay. Uy tín bị cuốn đi trong làn gió
thoảng. Cả một màn đen tối u ám phủ xuống cuộc đời. Chẳng còn
biết tìm an ủi ở nơi nào khác, Người quay về bên Chúa, chìm đắm
trong lời kinh cầu nguyện. Nhờ ơn Chúa, Người tìm được niềm bình
an. Hơn thế nữa, Người nghe được tiếng Chúa mời gọi đi vào con
đường Chúa muốn. Từ đó, Người hiến thân trọn vẹn để phục vụ
Chúa, Người đã trở thành linh mục, giám mục và lập ra Dòng Chúa
Cứu Thế. Sau này, khi nhìn lại, Người hiểu rằng chính Chúa đã
hiện diện trong những thất bại để đưa Người về con đường theo ý
Chúa. Chính Chúa đã dùng những đau khổ để huấn luyện Người trong
đức khiêm nhường phó thác. Chính bàn tay Chúa đã hạ Người xuống
trong danh vọng trần thế để nâng Người lên trong vinh quang
Thiên đàng.
Trong sách Tin Mừng
ta thấy thuật lại nhiều trường hợp tương tự. Khi thuyền của các
môn đệ đang vất vả vượt qua sóng gió, Ðức Giê-su đi trên mặt
biển đến với các ông. Các ông tưởng là ma nên càng sợ hãi hơn.
Nhưng đó chính là Ðức Giê-su. Người làm cho biển êm sóng lặng và
thuyền các ông tới bến bình an.
Có lần Ðức Giê-su
cùng ở trên thuyền với các ông, nhưng Người ngủ say đến nỗi sóng
gió dữ dội mà vẫn không hay biết gì. Các ông hoảng hốt đánh thức
Người dậy. Và Người đã đe sóng gió khiến chúng phải im lặng.
Hôm nay cũng thế.
Người đến bất ngờ khiến các môn đệ sợ hãi. Họ đang bị cái chết
đau thương của Người ám ảnh. Nên khi Người đến họ tưởng là ma
hiện hình. Ðức Giê-su phải trấn an họ. Cho họ xem những vết
thương ở tay chân. Cùng ăn uống với họ và giải nghĩa Thánh Kinh
cho họ. Nhờ thế, họ được bình an, được vui tươi và tin tưởng.
Trong đời sống
chúng ta cũng thế. Rất nhiều lần trong đời ta tưởng Chúa là bóng
ma đến đe doạ đời sống ta. Có những biến cố lịch sử làm đảo lộn
đời ta, tưởng chừng như đưa cuộc đời ta vào ngõ cụt. Nhưng không
ngờ chính Chúa dùng biến cố lịch sử dẫn đưa ta vào một con đường
mới theo thánh ý Chúa. Có những khi ta gặp thất bại ê chề tưởng
chừng như không còn gượng dậy nổi. Nhưng không ngờ chính Chúa đã
dùng thất bại để cảnh tỉnh ta, giúp tâm hồn ta vươn lên trong
một đời sống mới cao cả tươi đẹp hơn. Có những khi ta gặp phải
những nỗi đau buồn tê tái tưởng như chết đi được. Ta cứ tưởng
Chúa đã bỏ rơi ta. Nhưng không ngờ chính Chúa hiện diện trong
những đau buồn đó để giúp ta sống trưởng thành, sâu xa, phong
phú hơn.
Khi đức tin các
Tông đồ còn yếu kém, họ tưởng Chúa là ma. Khi đức tin đã được
củng cố, các ngài mới thấy Ðức Giê-su là có thực. Ðức tin của
các Tông đồ đã được củng cố nhờ được gặp gỡ tiếp xúc thân mật
với Ðức Giê-su và được nghe Người giải nghĩa Thánh Kinh.
Ðức tin của ta còn
rất non yếu. Ta hãy biết bắt chước các Tông đồ củng cố đức tin
bằng cách năng gặp gỡ Ðức Giê-su. Hãy đến gặp Người trong Thánh
Lễ. Hãy đến gặp Người trong giờ kinh tối trong gia đình. Nhất là
hãy đến gặp Người trong những giờ cầu nguyện riêng tư, một mình
đối diện tâm sự thân mật với Chúa.
Hãy củng cố đức tin
bằng cách học hỏi Thánh Kinh. Ðọc Thánh Kinh hằng ngày để hiểu
biết Chúa hơn. Suy niệm Thánh Kinh để tìm ra thánh ý Chúa. Và
nhất là hãy biết thực hành Lời Chúa dạy trong đời sống hằng
ngày.
Khi đã gặp gỡ Chúa
và đã thấu hiểu Lời Chúa, ta sẽ chẳng còn bị những bóng ma ám
ảnh. Ta sẽ nhìn thấy Chúa trong tất cả các biến cố vui buồn của
đời sống. Cuộc sống ta sẽ tràn đầy niềm vui và niềm bình an.
Lạy Ðức Giê-su
phục sinh, con tin Chúa đang ở bên con. Con xin phó thác cuộc
đời con trong tay Chúa.
TGM. Jos Ngô Quang Kiệt (www.chuacuuthe.com)
|
VỀ MỤC LỤC |
|
EMMAUS, CON ĐƯỜNG HY VỌNG
|
Bác sĩ Nguyễn Tiến Cảnh, MD
Nói đến lễ Phục Sinh Chúa sống
lại là phải nghĩ đến con đường Emmaus. Chúng ta thường nghe
nói con đường Emmaus, nhưng ít khi suy nghĩ tường tận xem
con đường đó ở đâu và có nghĩa lý gì..Dựa vào tông thư
Trong Hy Vọng, Chúng Ta Được Cứu Rỗi / Spe
Salvi facti summus của Đức Thánh Cha Biển Đức XVI, chúng
ta thử tìm hiểu ý nghĩa câu chuyện hai môn đệ của Chúa Kitô
trên đường Emmaus. (Luca 24: 13-35).
Chuyện kể rằng, sau ngày
Sabbath, tức ba ngày sau khi Chúa Giêsu chịu chết trên thập
giá và chịu táng trong mồ, hai môn đệ quá buồn phiền chán
nản bèn rời Jerusalem đi về một làng nhỏ gần đó tên là
Emmaus.
CHÚA GIÊSU HIỆN RA VỚI HAI MÔN ĐỆ
Trên đường đi, Chúa sống lại
đã hiện ra, cùng đi và trò chuyện với hai ông về đủ mọi vấn
đề, về cả kinh thánh và việc Chúa Giêsu chịu chết....nhưng
hai ông đã không nhận biết ra được Chúa. Tin Mừng thánh Luca
thuật lại rằng, Chúa thấy hai môn đệ buồn nản, chẳng còn
lòng dạ nào nữa, than van rằng Chúa Giêsu, thày mình đã chịu
cực hình, rồi chết và trở về trời trong vinh quang của
Người. Khi tới nơi, Chúa vào nhà cùng với hai môn đệ, ngồi
xuống bàn dùng cơm tối với họ. Trước khi ăn Chúa làm phép
bánh và bẻ bánh với họ….Lúc đó nhờ cung cách bẻ bánh, các
ông mới nhận ra được Chúa chính là người lữ khách đồng hành
đã nói chuyện với các ông trên đường Emmaus. Nhưng lúc đó
Chúa lại biến hình khỏi tầm nhìn của các ông. Các ông quá
ngỡ ngàng kinh ngạc về sự hiện diện của Chúa. Cử chỉ bẻ
bánh, một dấu hiệu Chúa hiện diện.
Ngay lập tức sau đó, hai ông liền trở về lại Jerusalem và kể
tất cả những gì đã xẩy ra, mắt thấy tai nghe cho các môn đệ
và bạn bè…
ĐỊA DANH LÀNG EMMAUS
Địa danh làng Emmaus thì không
được xác định rõ ràng nằm ở đâu. Mặc dù có nhiều giả thuyết
khác nhau, nhưng chắc chắn nó cho chúng ta một suy tư chiêm
nghiệm rất phong phú đầy ý nghĩa. Emmaus có thể là bất cứ
chỗ nào. Con đường dẫn đến Emmaus là một đoạn đường tượng
trưng cho cuộc hành trình đời sống của mỗi
người chúng ta nói chung, của mỗi người tín hữu Kitô giáo
nói riêng ở dương thế này. Xuyên suốt đoạn đường hành trình
này, Chúa Kitô phục sinh luôn luôn là người bạn đường đồng
hành với chúng ta. Người đốt lửa tâm hồn chúng ta. Người
nung ấm đức TIN, đức CẬY / HY VỌNG của chúng ta và BẺ BÁNH
HẰNG SỐNG cùng chúng ta mỗi ngày.
EMMAUS, CON ĐƯỜNG HY VỌNG
Trong câu chuyện đàm thoại
giữa hai tông đồ và người lữ hành xa lạ, thánh Luca đã kể
rằng một trong hai môn đệ đã nói: “Lúc đó
chúng tôi đă hy vọng….” (Luca 24: 21). Như
vậy có nghĩa là lúc đó chúng tôi ĐÃ TIN, chúng
tôi ĐÃ THEO, chúng tôi ĐÃ HY VỌNG….nhưng bây giờ, hiện nay
thì những hành động, cử chỉ, ý nghĩ đó tất cả đã qua đi rồi,
không còn nữa. Ngay cả Đức Giêsu thành Nazaret là một ngôn
sứ đầy quyền năng trong hành động cũng như lời nói đối với
tất cả mọi người cũng đã thất bại và chúng tôi thất vọng.
Thảm trạng này của các môn đệ
trên đường Emmaus phản ảnh tình trạng của nhiều người trong
chúng ta hiện nay. Đôi khi chúng ta đã đánh mất đức tin của
chúng ta. Chúng ta không còn tin tưởng vào Chúa, có cảm
tưởng Chúa bỏ rơi chúng ta vì phải trải qua những kinh
nghiệm chua chát tiêu cực trong cuộc sống, vì những thất bại
trong mưu toan dự tính của chúng ta.
Tình trạng buồn nản và thất
vọng của hai môn đệ này cũng giống như chúng ta và các môn
đệ thời nay khi họ tự mình xa rời Jerusalem, nơi Chúa bị
chết treo trên thập giá và sống lại khi mà họ không còn tin
tưởng vào quyền năng và sự hiện diện sống động của Chúa bên
cạnh họ. Vấn đề ma quỉ, đau khồ, cực hình, vấn đề đàn áp,
bất công và lạm dụng, vấn đề sợ hãi người này người kia,
những kẻ nội thù, những người anh em trong nội bộ của mình,
những kẻ ngoại thù, những người từ ngoài đến, từ những vùng
xa xôi xâm nhập nội bộ mình, đe dọa khủng bố mình làm mình
phải sợ hãi kinh hoảng.
Nhưng con đường dẫn đến Emmaus
này chính là con đường HY VỌNG có thể giúp chúng ta lấy lại
niềm tin, thanh tẩy tâm hồn, tin tưởng vào Chúa một cách
hăng say mạnh mẽ và trưởng thành hơn nhờ có Chúa luôn luôn
đồng hành với chúng ta. Cũng như hai môn đệ trên đường
Emmaus, đang thất vọng vì Thầy mình chết, vấp ngã vì thập
giá (câu 18, 21) nhưng vì được gặp Chúa đồng hành hướng dẫn
nên đã từ tình trạng mất niềm tin vào Chúa (câu 18 , 21),
các ông tìm lại được niềm tin nhờ thông hiểu lời kinh thánh
(câu 25-27 và 32). Chúng ta tin tưởng, hy vọng rằng Chúa sẽ
giải thoát chúng ta khỏi ác quỉ, tội lỗi, đau khổ, cực hình,
sợ hãi và bất công..
CẦU NGUYỆN VÀ THAM DỰ THÁNH LỄ LÀ TÁI DIỄN CUỘC
HỘI NGỘ VỚI CHÚA TRÊN ĐƯỜNG EMMAUS
Ngày nay, mỗi khi chúng ta cầu
nguyện, chuyện vãn với Chúa, lắng nghe lời Chúa là lúc chúng
ta đang đi trên đường Emmaus. Mỗi khi chúng ta tham dự thánh
lễ là Chúa bẻ bánh và ban cho chúng ta bánh thánh tức chính
máu và thịt Chúa đã tu sửa con mắt Đức Tin chúng ta để chúng
ta nhìn mọi sự và mọi người bằng con mắt của Chúa, dưới ánh
sáng Tình Yêu của Chúa.
Với hành động đó, qua sự tiếp
cận với Chúa Kitô phục sinh, chúng ta ngày nay có thể có
được một đức tin thực sự và sâu đậm hơn, có thể nói, được
vun trồng bởi lửa phục sinh. Đức tin này rất vững mạnh,
được nuôi dưỡng không phải bởi tâm tư ý nghĩ của con người
mà chính bởi Lời Chúa và sự Hiện Diện của Chúa trong bí tích
Thánh Thể.
Đoạn Phúc Âm kỳ diệu này đã
tóm gọn toàn bộ cấu trúc của thánh lễ Misa: Phần đầu thánh
lễ là phần nghe lời Chúa qua các đoạn sách thánh; phần hai
là phần nghi thức Thánh Thể và hiệp lễ / rước mình thánh
Chúa với sự hiện diện của chính Chúa Ktô trong bí tích Thịt
và Máu thánh Chúa.
Được nuôi dưỡng tại bàn tiệc
thánh lễ có hai phần như vậy, Giáo Hội luôn luôn được xây
dựng bồi đắp và tân trang cải tiến từng ngày một trong đức
TIN, đức CẬY / HY VỌNG và đức MẾN. Qua sự cầu bầu của Đức
Trinh Nữ Maria cực thánh, chúng ta mỗi người Kito hữu, mỗi
cộng đoàn, cộng đồng hãy cầu xin Chúa giúp chúng ta làm hồi
sinh, tái diễn quang cảnh hai môn đệ đi trên đường Emmaus
hầu làm sống lại ân sủng đã được gặp Chúa Kitô phục sinh.
ĐÔI LỜI KẾT
Chúa đã sống lại, đồng hành
với các môn đệ của người, đốt cháy tâm hồn họ bằng lời Chúa
đối thoại, biểu hiện ra với họ qua cung cách bẻ bánh.
Trong Chúa Giêsu, chúng ta cảm
thấy lòng mình can đảm hơn khả dĩ làm cho chính chúng ta và
cả những người xung quanh ta mạnh mẽ lên nhờ gương sáng của
Chúa Giêsu Kito, môt tặng phẩm cho cả nhân loại
Hãy đi và làm chứng tá ân sủng
về lòng thương xót của Chúa, nguồn HY VỌNG cho mỗi người
chúng ta và cho cả thế giới. Hãy đặt Chúa Kitô vào trung tâm
điểm đời sống của chúng ta. Hãy để cho lầu đài thân xác và
tâm hồn chúng ta luôn luôn có Chúa hiện diện bên trong.
Chúa Giêsu Kitô đã phục sinh.
Hy Vọng Sự Sống Đời Đời.
Fleming Island, Florida
April 9, 2012
NTC
|
VỀ MỤC LỤC |
|
“SAO BÀ KHÓC ?” |
Những trang Tin Mừng
Phục Sinh mang lại cho chúng ta cảm giác “bội thực”, bội thực vì
ý nghĩa quá xúc tích, quá tuyệt vời, quá thẳm sâu, nhiều chi
tiết liên tục xuất hiện khiến nhiều khi chúng ta không đủ sức
chiêm nghiệm nổi một cách sâu sắc. Những lễ hội, những sinh hoạt
tưng bừng tổ chức góp phần làm chúng ta vội vã, thiếu thời gian
dừng lại để trải nghiệm từng chi tiết trong toàn văn Tin Mừng.
Tôi đã cảm nhận như thế trong cuộc đời làm người Kitô hữu của
tôi, vì vậy, kèm theo niềm vui ngày Phục Sinh, tôi luôn có nỗi
trăn trở của riêng mình.
Hôm nay tôi đọc lại
bài Tin Mừng Phục Sinh trong Tuần Bát Nhật, câu nói của vị thiên
thần trong Tin Mừng làm tôi phải dừng chân “Sao bà khóc ?” ( Ga
20, 11 – 18 ).
Là giới nam, chúng
tôi rất ngại nước mắt của người nữ, trong quá trình làm Mục Vụ,
nỗi dằn vặt lòng tôi nhiều nhất là những giọt nước mắt của phụ
nữ, Chúa sinh ra như vậy ! Hôm nay tôi dừng lại nơi cửa mộ, gặp
một người nữ đang khổ đau, nước mắt của bà nghe chua xót, nước
mắt của nỗi buồn vô hạn, nước mắt của tuyệt vọng, nước mắt của
cả nỗi uốt ức trong lòng, về những bất công, những tàn bạo,
những sỉ nhục mà người ta đã dành cho người bà thương mến.
Nước mắt của tình
thương bất lực trước sự dữ, của sự thấp cổ bé miệng trước quyền
lực thế trần, của sự thấp kém bị khinh khi nhục mạ, của nỗi cô
đơn trước bè lũ cường quyền, của kẻ bị tước đoạt thô bạo bởi sự
hung ác.
Thiên Chúa đã cúi xuống trên nỗi khổ đau của con người, Thiên
Chúa ngỏ lời: “Sao bà khóc ?” Thiên Chúa muốn gặp gỡ bà, lắng
nghe một lời bà nói, bày tỏ mối quan tâm đến bà, từ đó dẫn bà
đến niềm vui, đến những bất ngờ của Tin Mừng Cứu Độ.
Dọc dài trên đất nước ngày hôm nay, có những giọt nước mắt không
? Những giọt nước mắt đó có làm cho con tim của chúng ta phải
rung dộng không ? Hay chúng ta vô cảm, ai khóc kệ ai, ai buồn kệ
ai, ai nức nở. mặc, ai tuyệt vọng, mặc, ai đớn đau, cũng mặc,
không phải chuyện của mình, Thiên Thần còn đang phải bận rộn
trăm công nghìn việc khác, “Ông làm vườn” còn phải chu toàn công
việc làm vườn, chuyện một người đàn bà ngồi khóc tỉ tê là chuyện
thường, không đáng quan tâm, chuyện khóc lóc là chuyện của thế
gian, không nằm trong sứ vụ !
Tiếng nức nở ai oán
theo chúng ta gần hai ngàn năm nay, một chấm một phết không qua
đi cho dù thế gian có qua đi, người đàn bà vẫn ngồi đấy khóc,
vẫn chờ một “Thiên Thần” đến hỏi thăm, vẫn chờ một “Ông làm
vườn” đến hỏi thăm, đến gặp gỡ, đến cảm thông, đến chỉ dẫn bà
tìm một niềm vui khác, niềm vui giải quyết tận căn thân phận con
người.
Đêm qua tôi nằm mơ
thấy mình đang đứng gần cửa mộ, tiếng khóc ai oán nức nở nghe
đắng cay, chung quanh tối đen quá, mặt trời chưa ló rạng, sợ hãi
vẫn còn quanh quẩn nơi đây, một màu tang tóc thê lương ! “Thiên
Thần” chưa hiện ra, “Ông làm vườn” chưa đến ! Ai sẽ là “Thiên
Thần”, ai sẽ là “Ông làm vườn” ?
Lm. VĨNH SANG,
DCCT, 14.4.2012 (Ephata 505) |
VỀ MỤC LỤC |
|
LỄ ĐỨC CHÚA THÁNH THẦN HIỆN XUỐNG
|
Trần Văn Trí
Năm nay 2012,
các Giáo Hội Kitô – Tin Lành, Công Giáo, Anh Giáo, theo niên
lịch Grêgôriô, mừng Lễ Đức Chúa Thánh Thần Hiện Xuống vào Chúa
Nhật 27 tháng 5; còn Giáo Hội Kitô Đông Phương – Chính Thống
Giáo, Công Giáo Đông Phương, theo niên lịch Julian âm lịch, mừng
lễ vào 3 tháng 6. Nhưng, các Kitô-hữu đều hân hoan long trọng
mừng lễ trong tinh thần Hiệp Nhất. Vì Chúa Thánh Thần có liên hệ
chặt chẽ với ngươi Kitô-hữu, nên nhân dịp Lễ Hiện Xuống, dù với
khả năng khiêm tốn và có giới hạn, chúng tôi ước mong được chia
sẻ cùng quý giáo hữu đôi điều tìm hiểu về Chúa Thánh Thần, theo
giáo huấn của Giáo Hội cũng như Phụng Vụ và Thánh Kinh, hướng
đến Chúa Thánh Thần hay Thánh Linh, đặc biệt về hồng ân và hoạt
động của Ngài canh tân thời đại chúng ta.
Mở đầu, trước
Lễ Đức Chúa Thánh Thần Hiện Xuống, xin có đôi lời về Lễ Chúa
Giêsu Lên Trời, vào ngày 17 tháng 5 trong Giáo Hội Kitô Tây
Phương và 24 tháng 5 trong Giáo Hội Kitô Đông Phương.
Lễ Chúa Giêsu Lên Trời
(17-5-2012)
Theo Phụng
Vụ, ngày lễ còn gọi là Lễ Thăng Thiên, hay lễ Chúa Giêsu ngự về
Trời, bốn mươi ngày sau khi sống lại vinh hiển. Vì thế, Lễ Thăng
Thiên vào ngày Thứ Năm, 40 ngày sau Lễ Phục Sinh và thường được
dời qua Chúa Nhật kế tiếp. Ví dụ: Năm nay Lễ Chúa Giêsu Thăng
Thiên, Thứ Năm 17-5, được mừng chính thức vào Chúa Nhật
20-5-2012. Lễ có nguồn gốc tông truyền, như tuyên xưng trong
Kinh Tin Kính: “Tôi tin Chúa Giêsu lên trời ngự bên hữu Đức Chúa
Cha
phép tắc vô cùng.”
Theo Thánh
Kinh, Chúa Giêsu lên trời theo quyền năng của Ngài, như lời
Thánh sử Máccô và Luca:
“Chúa
Giêsu được rước lên trời và ngự bên hữu Thiên Chúa” (Mc 16: 19)
“Đang khi
chúc lành thì Người rời khỏi các ông và được rước lên trời” (Lc
24: 51)
Về Chúa Giêsu
lên trời, sách Công vụ Tông đồ nói đến: “Người được rước lên
trời” (1: 2 và 1: 6-12).
Tuy không có
tài liệu nói rõ nơi Ngài lên trời, nhưng có thể đó là núi O-li-
vê-tê hay núi Ô-liu, suy diễn từ sách Công vụ Tông đồ ghi lại
các môn đệ sau khi chứng kiến Chúa Giêsu lên trời trở về nhà:
“Bấy giờ các
ông từ núi O-liu trở về Giêrusalem. Núi nầy ở gần Giêrusalem,
cách đoạn đường được phép đi trong ngày sa-bát. Vào tới trong
thành, các ông lên lầu trên, là nơi họ trú ngụ” (Cv 1: 12,
13)
Lễ Đức Chúa Thánh Thần Hiện Xuống (27-5-2012)
Theo Thánh
Kinh, Lễ mừng từ thế kỷ thứ tư, vào Chúa Nhật thứ 7, hay ngày
thứ 50 sau Phục Sinh. Năm mươi ngày sau Lễ Phục Sinh,
Giáo Hội mừng Lễ Hiện Xuống, hay Lễ Ngũ Tuần với nghĩa Ngũ là
Năm và Tuần là 10 Ngày, từ tiếng Hy-lạp “pentêkostê” hay
Pentecost (Anh) hoặc Pentecôte (Pháp), có nghĩa ngày thứ năm
mươi sau Phục Sinh. Lễ Ngũ Tuần tương tự Lễ Các Tuần của Do Thái
Giáo, trong Sách Xuất Hành (Xh 34:22) hay Sách Đệ Nhị Luật (Dnl
16:10), với Tuần có nghĩa thời gian 10 Ngày.
Thánh
Truyền cho biết từ thế kỷ thứ nhất thời Giáo Hội tiên khởi,
Thánh Clê-
men-tê thành Rôma đã nói về
Thánh Thần là tiếng của Đức Kitô nói với chúng ta qua Kinh
Thánh. Trong thế kỷ thứ 2 thứ 3, các Thánh Tử đạo đã vinh danh
Thánh Thần, như Thánh Polycarp (tử đạo năm 155), khi chịu cực
hình đã tuyên xưng đức tin vào “Ba Ngôi Thiên Chúa - Chúa Cha,
Chúa Con, Chúa Thánh Thần.”
Sách Công Vụ
Tông Đồ tường thuật Chúa Thánh Thần hiện xuống như biến cố
Kitô-Giáo trọng đại:
“Khi đến
ngày lễ Ngũ Tuần, mọi người đang tề tựu ở một nơi, bỗng từ trời
phát ra một tiếng động, như tiếng gió mạnh ùa vào đầy cả căn
nhà, nơi họ đang tụ họp. Rồi họ thấy xuất hiện những hình lưỡi
giống như hình lưỡi lửa tản ra đậu xuống từng người một. Và ai
nấy đều được tràn đầy ơn Thánh Thần, họ bắt đầu nói các thứ
tiếng khác, tùy theo khả năng Thánh Thần ban cho”
(CV 2: 1-4)
Trong Bữa
Tiệc Ly, Chúa Giêsu đã hứa vói các môn đệ”: “Khi Thầy đi (ngự về
trời), thì Đấng Bảo Trợ sẽ đến với anh em.. Thần Khí sự
thật sẽ dẫn anh em đến sự thật toàn vẹn” (Ga
16: 7; 13).
Thánh Thần
ban cho các tông đồ hồng ân “thông biết những gì Chúa Giêsu
đã truyền dạy” và ơn “nói các thứ tiếng khác” thường bị
lầm lẩn với “ơn nói tiếng lạ” mà ngày nay một thiểu số người
trong Phong Trào Thánh Linh, vì không học hỏi thấu đáo về Chúa
Thánh Thần nên đã dùng những “tiếng xịp xịp” trong miệng mà họ
không hiểu ý nghĩa gì, hoặc không thề giải thích cho kẻ khác, mà
chỉ gọi là tiếng lạ. Trong khi những nhân chứng tại chỗ trước
kia giải thích về tiếng lạ: “Lúc đó, tại Giêrusalem, có những
người Do Thái sùng đạo, từ các dân
thiên hạ trổ về. Nghe tiếng ấy, có nhiều người kéo đến. Họ kinh
ngạc vì ai nấy đều nghe các ông nói tiếng bản xứ của mình. Họ
sửng sốt, thán phục và nói:
“Những
người đang nói đó không phải là người Ga-li-lê cả ư? Thế sao mỗi
người chúng ta lại nghe họ nói tiếng mẹ đẻ của chúng ta? Chúng
ta đây, có người là dân Pác-thi-
a, Mê-đi-a, Ê- lam, Mẻ-sô-pô-ta-mi-a, Giu-đê,
Ca-pa-đo-si-a, Pôn-tô và A-si-a, người Li-by-a, Rô-ma, Do-
Thái.. Vậy ma chúng ta đều nghe họ dùng
tiếng nói của chúng ta màø loan báo những kỳ công của Thiên
Chúa” (Cv 2: 5-12)
Tín điều về
Thánh Thần đã được quảng diễn sâu rộng qua Công Đồng
Constantinople (năm 381) lên án lạc giáo Maceđoniô và tuyên bố
thiên tính của Chúa Thánh Thần. Về Phụng Vụ Thánh, Lễ Hiện
Xuống đã có trong lễ nghi Kitô-giáo vào thế kỷ thứ nhất, gọi
là Chúa Nhật Trắng vì, ngày đó, những người dự tòng chưa được
rửa tội vào Lễ Thánh Thủy hay Đêm Vọng Phục Sinh trước, đều mặc
y phục trắng và chịu Phép Rửa Tội vào Lễ Vọng Hiện Xuống. Ở
Roma, Lễ Hiện Xuống gọi là Chúa Nhật đỏ -Pascha rossa- vì lễ
phục màu đỏ tượng trưng “lửa yêu mến” của Thánh Thần, hoặc
màu đỏ của “những lưỡi như thể lửa xuất hiện và rải rác
đậu trên từng môn đệ” khi Chúa Thánh Thần ngự đến (Cv 2: 3).
Giáo Lý truyền dạy Thánh Thần là Thiên Chúa hằng hữu từ muôn
thuở, hiện diện trong mọi thời đại, đổ xuống trong lòng mọi kẻ
chính tâm muôn hồng ân của Đấng ban sự sống và đổi mới mọi sự.
Thánh Thần,
Ngôi Ba Thiên Chúa, được mạc khải như Thần Khí, với ít ví dụ
Thánh Kinh như sau:
“Khởi thủy,
Thiên Chúa dựng nên trời và đất.. và thần khí là là trên mặt
nước” (Kn 1: 2).
Ông Gióp
tuyên xưng tác động của Thánh Thần làm cho tâm hồn được hứng
khởi:
“Chính hơi
thở của Thiên Chúa đã làm ra tôi và thần khí Chúa cho tôi sự
sống” (Yb 33:4).
Theo Sách
Xuất Hành, Chúa phán cùng Mô-sê: “Ta ban cho con cái dòng họ
Yuđa Thần Khí Thiên Chúa, về khôn ngoan, minh mẫn, tinh thông
bách nghệ, để sáng tác mọi thứ xảo kỷ” (Xh 31: 3, 4).
Việc xức dầu,
biểu hiệu trao ban Thánh Thần thánh hóa: “Ngươi sẽ lấy dầu tấn
phong, sẽ xức dầu Nhà Tạm và tất cả đồ đoàn trong đó. Ngươi sẽ
tác thánh và sẽ xức dầu cho chúng để chúng làm tư tế cho Ta.
Người xức dầu tác thánh chức tư tế vĩnh viễn suốt các thế hệ của
chúng” (Xh 40: 9,15).
Trong Thánh
Vịnh, dầu còn biểu hiệu sự hân hoan từ Thần Khí: “Thiên Chúa của
ngài đã xức dầu hoan lạc cho ngài : (Tv 45: 9). Saolô, sau khi
trở lại đạo Chúa, là tông đồ nhiệt thành minh chứng cho các giáo
đoàn về Thánh Thần thánh hóa các Kitô-hữu, cụ thể qua thư của
Tông đồ Phaolô gởi các tín hữu tại Cô-rin-tô (1Co 6-11), Ro-ma
(Ro 15-16), Thê-xa-lô-ni-ca (2Tx 2-13).
Thánh Thần hiện xuống, khởi đầu Sinh Nhật của Giáo Hội
Khi các Tông
đồ và nhiều anh em, trong nhà hội ở Giêrusalem, cùng đồng tâm
chờ đợi lời hứa của Đức Kitô ban Đấng Phù Hộ, giúp đỡ, thì một
cơn gió mạnh lùa vào và có những lưỡi lửa ngự xuống trên đầu mỗi
người. Họ được “ơn nói các thứ tiếng, tùy theo khả năng Thánh
Thần ban cho khiến những người nghe “phải kinh ngạc vì ai nấy
đều nghe các ông, dù là người Ga-li-lê, nói tiếng bản xứ của
mình, hay “mỗi người chúng ta lại nghe họ nói tiếng mẹ đẻ của
chúng ta” (CV 2: 6-8).
Việc đọc sách
Công vụ Tông đồ và Phúc Âm Thánh Gioan giúp giáo hữu hiểu thêm
về hồng ân và tác động lạ lùng của Thánh Linh.. Đặc biệt qua
nhân vật Phêrô, xuất thân làm nghề chài lưới, đã nên tông đồ
nhiệt thành, can đảm, sẵn sàng hy sinh mạng sống để rao giảng
Tin Mừng của Đức Kitô phục sinh. Chính Chúa Giêsu mạc khải cho
các môn đệ về “Thánh Thần là Đấng Bảo Trợ, là Thần Khí sự thật”.
“Thầy xin
Chúa Cha và Người sẽ ban cho anh em một Đấng Bảo Trợ khác đến ở
với anh em luôn mãi. Đó là Thần Khí sự thật, Đấng mà thế gian
không thể đón nhận vì thế gian không thấy và cũng chẳng biết
Người. Còn anh em biết Người vì Người luôn ở giữa anh em và
trong anh em” (Ga
14: 16-17).
Khi Thần
Khí sự thật đến, Người sẽ dẫn anh em tới sự thật toàn vẹn” (Ga
16: 18).
Giáo huấn của Giáo Hội về Chúa Thánh Thần
Về Chúa Thánh
Thần, Giáo Lý hướng dẫn: “Hai hiệu quả chính của phép Rửa Tội là
rửa sạch các tội lỗi và ban ơn thánh, sinh ra trong sự sống mới,
được trở nên đền thờ Chúa Thánh Thần” (GLý 1279). Trong khi
“Phép Thêm Sức hoàn tất ân sủng của Phép Rửa Tội, ban Chúa Thánh
Thần, cho chúng ta bén rễ sâu vào hồng ân làm con Thiên Chúa,
sáp nhập mật thiết hơn vào Thân Thể Chúa Kitô, liên lạc chặt chẽ
với Hội Thánh, ban sức mạnh như người lính chiến của Đức Kitô,
để làm chứng đức tin bằng lời nói và việc làm, và in một dấu ấn
thiêng liêng vào linh hồn người Kitô-hữu” (GLý 1316-17).
Ngoài ra, hãy
nhớ đến các biểu tượng về Thánh Thần, về Bảy Ơn Chúa Thánh Thần
và 12 Nhân Đức.
Biểu tượng về Thánh Thần (Giáo Lý 694-701)
Biểu tượng về
Thánh Thần: Nước, lửa, sự xức dầu, ánh sáng, dấu ấn, bàn tay,
ngón tay và chim bồ câu.
Nước là
dấu hiệu của sự sinh ra mới, như Thánh Phaolô nói về người
Kitô-hữu “được rửa trong một
Thần Khí duy nhất; được uống một Thần Khí duy nhất” (1 Cr
12, 13)
Sự xức dầu
làm cho người Kitô-hữu trở nên một Kitô mới như Đức Kitô là
Christus - “Đấng được xức
dầu bởi Thánh Thần.”
Lửa tượng
trưng năng lực biến đổi của các hành vi Thánh Thần, tựa hồ tiên
tri Eâlia “đứng lên như một
ngọn lửa và lời nói ông bốc cháy như bó đuốc” (Hc 48,1)
Áng mây và
ánh sáng mạc khải Thiên Chúa hằng sống và cứu độ, vinh quang
siêu việt, như “Thánh
Thần xuống trong áng mây che phủ Chúa Giêsu” (Lc 1, 35) .
Dấu ấn như
“Thiên Chúa đã đóng ấn trên Đức Kitô và trên chúng ta” (Ga 6,
27).
Bàn tay,
như Chúa Giêsu đặt tay trên bệnh nhân để chữa lành (Lc 21,27);
hoặc Người giơ tay chúc
lành cho trẻ em (Mc 6, 5). Các tông đồ nhân danh Đức Giêsu, đặt
tay ban Thánh Thần cho giáo hữu.
Ngón tay,
như trong kinh hát Veni Creator, kêu cầu Chúa Thánh Thần như
“ngón tay của bàn tay mặt
của Chúa Cha” – digitus paternae dexterae.
Chim bồ
câu, trong Cựu Ước là hình ảnh trong cuối trận hồng thủy: chim
bồ câu trở về “mỏ ngậm một
cành ô-liu” (St 8, 8-12), và trong Tân Ước, khi Chúa Giêsu chịu
phép Rửa xong và bước lên khỏi nước, “Chúa Thánh Thần, dưới hình
chim bồ câu, đậu xuống trên Ngài” (Mt 3, 16).
Bảy Ơn Chúa Thánh Thần và 12 Nhân Đức
Ơn khôn
ngoan, ơn hiểu biết, ơn thông minh, ơn lo liệu, ơn sức mạnh, ơn
đạo đức và ơn kính sợ Chúa.
Chúa Thánh
Thần được nhận biết qua nhân đức ban cho loài người mà Thánh
Phaolô Tông đồ gọi là hoa quả của Thần Khí, hay 12 Hoa quả Nhân
đức: Bác ái, hân hoan, bình an, khiêm
nhường, hiền hòa, nhẫn nhục, từ tâm, quảng đại, trung tín, trong
sạch, tiết độ và tự chủ.
Như thế, là
người Kitô-hữu, chúng ta phải nhận biết Chúa Thánh Thần ở giữa
và trong chúng ta, hầu vinh danh Thánh Linh trong thời đại chúng
ta, thể hiện bằng lòng sốt sắng khi tuyên xưng Thánh Thần.
Chúa Thánh Thần trong đời sống hằng ngày của người Kitô-hữu
Hằng ngày
người Kitô-hữu tuyên xưng Chúa Thánh Thần Ngôi Ba Thiên Chúa,
mỗi khi:
- Làm dấu
Thánh Giá: “Nhân danh Cha, và Con, và Thánh Thần”
- Đọc kinh
Sáng Danh: “Sáng danh Đức Chúa Cha và Đức Chúa Con và Đức Chúa
Thánh Thần ...”
- Đọc kinh
Chúa Thánh Thần, khởi đầu kinh nguyện: “Chúng con lạy ơn Đức
Chúa Thánh Thần thiêng
liêng sáng láng vô cùng ..”
- Đọc kinh
Tin Kính: “Bởi phép Đức Chúa Thánh Thần, Người đã nhập thể trong
lòng Trinh nữ Maria..
Tôi tin
kính Đức Chúa Thánh Thần là Thiên Chúa và là Đấng ban sự sống
..”
Xin gợi ý:
Cách riêng trong “Tuần 9 Ngày” trước Lễ Hiện Xuống (từ Thứ sáu
18-5 sau lễ Chúa Giêsu Thăng Thiên đến 26-5); hoặc 9 ngày từ Lễ
Hiện Xuống về sau (27-5 đến 4-6), xin giáo hữu quan tâm nhiệt
thành khi đọc các kinh nguyện trên, để sốt sắng tôn vinh và cầu
xin Chúa Thánh Thần.
Trần
Văn Trí (Th. 5-2012)
|
VỀ MỤC LỤC |
|
TRÁNH
LÃNG PHÍ
|
“Nào, con ngồi xuống đây ăn cơm với ngoại trước khi lên đường!”
Ngoại âu yếm, từ tốn mời cháu. Chuyến bay tối nay sẽ đưa Hy đi
đến một nơi xa, một nơi Hy chỉ mới nghe nói đến và thêu dệt
những ước mơ.
Từ nhỏ, Hy được sống với ngoại. Ngoại giống như người mẹ thứ
hai. Bây giờ Hy sắp lên đường để thực hiện những ước mơ ấy.
“Đây là các món ăn con thích nhất bao năm qua. Ngoại nấu cho
con. Con ăn thật no để lên đường vì chuyến đi này dài lắm đó
con.”
“Dạ.”
“Sau khi lên đường con chỉ có một mình, mọi sự phải dựa vào bản
lĩnh của con! Tuy con còn trẻ tuổi nhưng ngoại tin con sẽ thực
hiện được những điều con mơ ước.”
“Dạ. Ngoại an tâm vì chỗ con sẽ đến nghe nói cũng tốt lắm ngoại
à!”
“Năm nay ngoại cũng đã thất thập cổ lai hi.” Ngoại trầm xuống
chút. “Không biết khi con về thăm quê nhà, ngoại có còn sống để
đón con và nấu những món này cho con không?” Mắt ngoại rươm
rướm.
“Ngoại đừng suy nghĩ nhiều. Con sẽ trở về và ngoại vẫn khỏe mà!”
Hy vừa trấn an vừa cảm thấy sợ điều ngoại vừa nói. Thương ngoại
quá! Ngoại gạt vội dòng lệ mới chực tuôn trào thêm.
“Ngoại xin lỗi, ngoại không nên như thế trước lúc con đi. Ừa,
mình cứ tin tưởng và phó thác cho Trời Cao, con nhỉ! À, nhà mình
nghèo, ngoại không có gì nhiều cho con. Chỉ có bữa cơm quen
thuộc này. Chết, tí nữa ngoại quên. Ngoại có một món quà nhỏ để
gửi con làm hành trang vào đời.” Ngoại vừa nói vừa lấy trong túi
áo ra một phong bì.
“Không, ngoại cực khổ bấy lâu mới dành dụm được chút ít, ngoại
để chăm lo cho mình khi con không ở bên cạnh. Con không nhận
đâu. Con tự lo cho mình được. Ngoại yên tâm nhé ngoại.”
“Con ngoan, đây không phải là tiền. Khi nào con sang đến nơi,
con mở ra xem.” Ngoại âu yếm nựng má và vuốt tóc người cháu
cưng.
YYYYYYY
Chuyến bay đêm chuẩn bị cất cánh. Hy nhớ ngoại. Khóc.
Không biết bây giờ ngoại đang làm gì? Chắc ngoại cũng đang khóc
vì thương nhớ cháu. Nghẹn. Nghe nhói trong tim.
Muốn bóc phong bì kia ra xem trong đó có gì. Nhưng ngoại dặn là
qua đến nơi rồi mới mở ra, còn đêm nay thì Hy cần ngủ ngon trong
chuyến bay. Nghe lời ngoại, Hy nhắm mắt cầu nguyện rồi thiếp đi
vì mấy đêm rồi cũng không ngủ được.
YYYYYYY
Ngày mai, Hy bắt đầu cuộc sống nơi vùng đất mới, có những điều
lắng lo trộn lẫn hào hứng. Một chặng đường mới đang mở ra.
Đêm nay, Hy nhớ ngoại thật nhiều. Bây giờ ngoại đang thế nào?
Chợt Hy nhớ đến phong bì ngoại đưa. Hy vội vàng tìm trong túi
xách và bóc ra. Trong phong bì là một bức thư do chính bàn tay
ngoại viết, bàn tay đã bao năm giãi dầu mưa nắng để nuôi nấng
dưỡng dục Hy. Những dòng chữ nghiêng ngả chẳng đều hàng như cuộc
đời thăng trầm của ngoại, nhưng chúng lại vững chắc đến lạ
thường như cây cổ thụ rễ cắm sâu xuống lòng đất mẹ. Bức thư viết
thế này:
Cháu yêu của ngoại!
Con đang từng bước đi vào cuộc đời. Bao năm qua, được chăm sóc
và chứng kiến con lớn lên rồi trưởng thành, ngoại hạnh phúc và
tự hào về con. Ngoại tin con sẽ vững vàng chỉ sau một thời gian.
Những điều con đang đọc là đúc kết kinh nghiệm cuộc đời bôn ba
của ngoại. Con đọc nó như đang nói chuyện với ngoại nhé con.
Con thương, con sẽ làm việc, xoay sở tích góp cho mình những gì
con mong ước để thành công và hạnh phúc. Có những thứ con đạt
được và cũng có những thứ con sẽ không đạt được. Điều này là
bình thường. Con biết không, ngoại đã bôn ba mấy chục năm mới
hiểu được rằng không nhất thiết phải có tất cả những điều mình
muốn thì mới hạnh phúc. Quan trọng là biết thế nào là đủ và dừng
lại để trân trọng những gì mình đang có trong tay.
Đọc đến đây, Hy thấy thương ngoại ghê! Cũng lạ, mặc dù nhìn ở
ngoài vào, ngoại có vẻ là nghèo nàn vật chất nhưng ngoại lại rất
bình thản tự tại. Ngoại không để cho hoàn cảnh bên ngoài giật
mất hạnh phúc bên trong.
Con ơi, có được thêm điều gì trong cuộc sống thì tạ ơn Trời Cao.
Nếu không có được điều gì đó thì cũng tạ ơn Trời Cao vì biết đâu
như thế sẽ tốt hơn. Con biết không, mấy năm về trước khi con còn
nhỏ, có một lần ngoại nghe con nói một câu nói chứa đựng nhiều
khôn ngoan: “Nếu ta không có những gì ta yêu thì hãy yêu những
gì ta có.” Con có trí nhớ tốt, hẳn con còn nhớ thời gian ấy
ngoại gặp rất nhiều khó khăn. Nhưng chính nhờ nghe được câu nói
từ cháu ngoan mà ngoại hồi tâm và nhận ra những chìa khóa quan
trọng của hạnh phúc. Con à, trong thư này ngoại muốn cảm ơn con
về câu nói đúng lúc ấy và ngoại cũng muốn chia sẻ với con một
vài điều mà ngoại đã khám phá ra để sống đầy câu nói ấy. Khám
phá đơn sơ của ngoại chỉ gói trọn trong ba chữ thôi: “tránh lãng
phí”.
Hy dừng lại để suy nghĩ. Ngoại viết thư cho Hy như một người
bạn. Đây là lần đầu tiên Hy được đọc thư ngoại viết riêng cho
mình. Không ngờ ngoại khiêm nhường và trẻ trung thiệt. “Chống
lãng phí” gì đây? Hy đang nghèo lắm, có gì để mà lãng phí chứ?
Đọc tiếp thư của ngoại.
Con thương, có nhiều loại giàu – nghèo khác nhau. Sự giàu-nghèo
vật chất thường dễ biểu hiện ra ngoài trong khi sự giàu-nghèo
tinh thần thì ẩn kín hơn, nhưng điều ẩn sâu bên trong mới là cái
gốc quyết định cho hạnh phúc. Bình thường mà nói, con người ta
khi sinh ra thì đã được Đấng Tạo Hóa phú bẩm cho sự giàu có sung
túc về tinh thần để có thể đạt được hạnh phúc. Vấn đề là người
ta có biết dành thời gian để chiêm ngắm kho báu trong mình và
quý trọng sử dụng nó hiệu quả hay không thôi. Không biết mình
đang có kho báu để tận hưởng là một lãng phí đáng tiếc, phải
không con?! Bây giờ con cùng ngoại lấy một số ví dụ thực tế nhé.
Có những điều cần phải trải qua kinh nghiệm và có một đời sống
nội tâm sâu thì mới hiểu hết được.
Ngoại nói đúng lắm. Điều may mắn cho những người trẻ là họ được
học hỏi nhiều kinh nghiệm quý báu của người đi trước mà không
nhất thiết phải tốn phí thời gian và sức lực. Hy thầm cảm ơn
ngoại rồi đọc tiếp.
Khi một ai đó thành công, không chúc mừng họ là lãng phí một cơ
hội để sống đẹp.
Gặp một người đau yếu, không thăm hỏi hay chia sẻ một ánh mắt
cảm thương là lãng phí khả năng liên đới.
Khi nhận được một tin vui, không hòa mình vào tin vui ấy là lãng
phí một nụ cười khoan nhân.
Lúc gặp khó khăn, không biết chủ động dựa vào Đấng Yêu Thương và
sống tinh thần phó thác là lãng phí về sức mạnh.
Khi kẹt xe, chỉ nhìn đồng hồ rồi nóng nảy bực bội thay vì hát
lên một khúc nhạc yêu thích hay nghĩ về một kỉ niệm thân thương
là đang lãng phí thời gian.
Khi buồn sầu nặng trĩu, không chạy đến với Đấng Yêu Thương để
tâm sự mà lại ngồi đó ủ rũ, tự ti mặc cảm, tự trách,… là lãng
phí cơ hội để giải tỏa áp lực dồn nén bên trong.
Khi ai đó làm một điều gì đó dù rất nhỏ cho mình, không biết cảm
ơn là lãng phí phép lịch sự căn bản của nhiều năm ăn học.
Khi làm ai mất lòng mà không xin lỗi là lãng phí nét đẹp khiêm
nhường.
Lúc có xích mích bất hòa mà cứ tiếp tục giam hãm mình trong sự
khó chịu thay vì chủ động lên tiếng để hòa giải là lãng phí cơ
hội được thanh thản nội tâm.
Gặp một dịp đặc biệt (sinh nhật, lễ, tết,…) mà không trao gửi
một cử chỉ thân tình (tặng hoa, nhắn tin, gọi điện chúc mừng, …)
khi có điều kiện là lãng phí cơ hội thuận tiện của liên đới.
Quyết định trong lúc đang mất cân bằng, đầu óc rối rắm thì dễ
mắc sai lầm và lãng phí thêm năng lượng đã hao tổn.
Níu kéo quá khứ tiêu cực là lãng phí cơ hội tự do.
Sống trước tương lai (là điều chưa chắc chắn) là đang ảo tưởng
và lãng phí hiện tại.
Khi cần giúp đỡ của người khác mà cứ ngại ngần đơn thương độc mã
là dại dột lãng phí nguồn trợ lực tự nhiên mà Đấng Tạo Hóa đã có
ý đặt để trong trời đất.
Cố đuổi theo điều ngoài tầm tay là lãng phí thời gian và sức
lực.
Để cho mình bực bội vì một lời nói gió thoảng mây bay là lãng
phí sự bình an quý giá.
Không chủ động buông xả những ràng buộc, giải tỏa những dồn nén
trong lòng một cách tích cực hướng lên sự sống là lãng phí sức
lực có hạn của mình và chưa biết thương mình.
Không chủ động sắp xếp công ăn việc làm để có thời gian nghỉ
ngơi thư giãn là lãng phí sự cân bằng cần thiết của đời người.
Khi lòng trĩu nặng mà lại để mình tiếp xúc với những thứ kéo tâm
trạng mình đi xuống thêm là sai phương pháp và lãng phí kinh
nghiệm đã gặt hái được trong cuộc sống.
Làm tốt đủ thứ việc mà thiếu phần cầu nguyện là tự tạo lối sống
nông cạn và lãng phí nguồn dưỡng khí ích lợi cho tâm hồn.
Nhớ rất nhiều thứ chóng qua mà quên mất sự hiện diện không bao
giờ ngưng nghỉ của Đấng Yêu Thương là lãng phí đáng tiếc nhất
của đời người.
…
Hy yêu của ngoại, ngoại tin rằng con sẽ khôn ngoan dùng những
kho báu bên trong mà Đấng Tạo Hóa đã thương ban và sẽ không lãng
phí những hồng ân quý giá. Con sẽ còn khám phá thêm những kinh
nghiệm mới lạ trong hành trình cuộc sống. Dù ở đâu làm gì, ngoại
cầu chúc Hy của ngoại luôn giữ cho lòng đầy yêu thương và trang
điểm cho mình bằng chân-thiện-mỹ, con nhé! Con là niềm vui, hạnh
phúc và tự hào của ngoại.
Ngoại ôm hôn con!
Ngoại của con
Có giọt nước nóng ấm ở khóe mắt Hy khẽ lăn nhẹ. Là người biết
trân quý ân tình của người khác, Hy đọc lại lá thư lần nữa để
hiểu rõ và cảm nghiệm sâu hơn. Chắc chắn Hy sẽ còn đọc nhiều lần
nữa trong cuộc sống. Ngước mắt lên trời cao, Hy khẽ dâng lời tạ
ơn Đấng Yêu Thương, cầu nguyện cho ngoại và đặt một nụ hôn nhẹ
lên lá thư. Ngoại tuy xa mà không cách. Trong lòng Hy cảm thấy
ngoại thật gần, thật thương. Đúng là khi ở trong Ngài thì không
bao giờ có khoảng cách. Ấm áp lạ! Có những điều xem ra rất bình
thường nhưng lại vô cùng kì diệu.
“Ngoại ơi, ngoại hãy yên tâm. Con hứa sẽ sống hạnh phúc trong
bất cứ hoàn cảnh nào.” Hy thầm thĩ với ngoại trong tim. Đứng
lên, Hy cất bước đi tiếp cuộc hành trình trong tự tin và phó
thác.
Giuse Việt, O.Carm. |
VỀ MỤC LỤC |
|
Hành-trình vô-thần của Karl Marx khi còn thanh-niên qua những sách đọc tham-khảo
về tôn-giáo (tiếp theo) |
Gs. Trần Văn Toàn
Bài đăng ở
tập san Định Hướng
0. Phần
dẫn-nhập
Muốn biết những điều Marx -
không những Marx, mà bất cứ ai cũng thế - chủ-trương về tôn giáo có giá-trị tới
mức nào, thì người có chút óc phê-bình không những phải xem ông đã có những
lập-luận như thế nào, lấy từ đâu ra, mà hơn nữa còn phải vạch ra cho rõ ông đã
biết được những gì về tôn-giáo, về những tôn-giáo nào, biết qua chút kinh-nghiện
bản-thàn, hay là biết qua sách vở nào, ít hay nhiều. Sau đó lại còn phải tìm
biết ông theo đuổi những mục-đích, những dự-định nào, trong hoàn cảnh văn-hóa,
xã hội như thế nào.
Cho đến quãng năm 1975,
người ta chưa thấy rõ nguồn-gốc lập-trường vô-thần của Marx. Nhưng chắc một điều
là nó không phải từ học-thuyết duy-vật của người Pháp thế-kỷ XVIII mà ra. Chính
Marx gọi thứ duy-vật đó là thứ duy-vật quê-mùa, vì nó chưa có tính-cách
biện-chứng, cho nên cũng chỉ là một thứ siêu-hình-học, như học-thuyết duy-tâm
vậy. Marx nói về thứ duy-vật này rất ít ; trái lại ông hiểu-biết nhiều hơn về
các triết-gia duy-vật Hi-lạp thời thượng-cổ, vì đó chính là đề-tài nghiên-cứu
trong luận-văn tiến-sĩ triết-học của ông.
Năm 1841 thì trong học-phái
Hegel có Feuerbach cho xuất-bản cuốn Bản-chất đạo Thiên-Chúa (Das Wesen des
Christentums), gây ra phản-ứng rất hào-hứng trong nhóm đồ-đệ tả-khuynh của
Hegel, nhất là Marx và Engels. Marx coi việc phê-bình tôn-giáo của Feuerbach là
hoàn-hảo và dứt-khoát. Dứt-khoát là vì, trước đây trong những Khóa-trình
Triết-lý về tôn-giáo (Vorlesungen über die Philosophie der Religion)
Hegel đã lý-luận minh-chứng rằng đạo Thiên-Chúa là tôn-giáo hoàn-hảo, đã
thực-hiện được hoàn-toàn cái ý-niệm tôn-giáo, và là giai-đoạn tiến-bộ tối cao
trong lịch-sử tôn-giáo của nhân-loại ; nếu đã nhận lý-luận như thế là đúng, thì
dĩ-nhiên bây giờ chỉ cần phê-bình đạo Thiên-Chúa, tức là đã phê-bình được tất cả
các tôn-giáo một cách dứt-khoát. Sau đó, Marx thấy không cần lý-luận gì thêm, mà
chỉ còn dựa theo Feuerbach để đưa ra một loạt những lời tuyên-ngôn về
tôn-giáo mà chúng ta đã quá quen thuộc. Feuerbach hơn Marx 14 tuổi, và có
ảnh-hưởng nhiều đến tư-tưởng của ông, cho nên đã có một lần, vào năm 1844, Marx
kính-cẩn viết thư cho ngườì niên-trưởng đó để xin cộng-tác về mặt chính-trị.
Nhưng Feuerbach không đồng-ý, ông cho rằng về mặt lý-thuyết, việc phê-bình
tôn-giáo vẫn chưa hoàn-thành, và vì thế ông tiếp-tục phê-bình tôn-giáo cho đến
hết đời.
Nhưng Feuerbach không phải
là người duy nhất ảnh-hưởng tới Marx. Thực thế, từ trước Marx đã đi theo một con
đường khác, đưa ông đến chỗ tuyên-bố mình vô-thần, trong luận-văn tiến-sĩ
triết-học của ông năm 1841. Cho nên tuy rằng Feuerbach đã đem lại cho lập-trường
của Marx một cách thức biện-minh và một lối dẫn-chứng độc-đáo và chặt-chẽ hơn,
nhưng ông không phải là nguồn gốc quan hệ nhất của lập-trường vô-thần của Marx.
Vậy nguồn-gốc đó là ở đâu ?
Năm 1989, nhân dịp đọc những
cặp vở ghi-chú của Marx viết trước năm 1841, mới được xuất-bản năm 1975 trong bộ
MEGA mới, tập IV, tôi thấy cần phải đặt lại vấn-đề cho nghiêm-chỉnh
, vì nếu ta muốn biết những câu ông
phán-đoán về tôn-giáo có giá-trị tới mức nào, thì trước hết phải xem ông đã biết
được những gì về tôn-giáo, về những tôn-giáo nào, biết đến trình-độ nào, có
kinh-nghiệm bản-thân nhiều hay ít, đã đọc được những loại sách vở nào. Có biết
như thế mới nhận-định được cho rõ cái lộ-trình đưa Marx từ một nền giáo-dục
trong tông-phái Tin lành của đạo Thiên-Chúa, đến lập-trường vô-thần cách-mạng.
Có thế mới biết cái vô-thần đó muốn phế bỏ những thứ thần nào.
0.1 - Vì sao Marx không viết
sách ‘’Phê-bình tôn-giáo’’ ?
Marx là một nhà phê-bình,
trên trời dưới đất, cái gì cũng phê-bình. Các tác-phẩm quan-trọng của ông đều
thấy có chữ ‘’phê-bình’’ ở đầu-đề .
Rất nhiều người đương-thời, kể cả bạn bè và đồng-chí, đều bị ông phê-bình, nhiều
khi còn bị chế-diễu một cách cay nghiệt, ví dụ như Joseph Proudhon
. Cho đến nỗi có lẽ trừ Friedrich
Engels ra thì Marx không còn đi lại được với mấy ai. Ông viết : ‘’Phê-bình trên
trời rồi phải chuyển thành phê-bình dưới đất, phê-bình tôn-giào thành phê-bình
pháp-luật, phê-bình thần-học thành phê-bình chính-trị’’. Rồi ông
nói tiếp : ‘’Lấy phê-bình làm khí-giới thì không thể thay cho việc lấy khí-giới
mà phê-bình’’ .
Marx là nhà phê-bình
triệt-để, lại tuyên-bố là mình vô-thần, Cho nên xét lý ra, có thể đoán rằng thế
nào ông cũng viết một cuốn sách hay ít ra là một bài quan-trọng để phê-bình
tôn-giáo cho đáo-lý. Công việc đó, có làm cũng không khó gì, một là vì tài-liệu
ông thu-thập được, nếu không thể nói là đủ, thì cũng phải nhận là đã khá nhiều ;
hai là vì làm việc đó cũng không có gì nguy-hiểm như việc phê-bình chính-trị.
Thế nhưng Marx lại không làm. Trong những đoạn văn ông viết để công-kính
tôn-giáo, đại đa-số chỉ là loại văn tuyên-ngôn, tuyên-bố, bút-chiến
. Tôi cố tìm nhưng chỉ thấy có hai
đoạn văn, tất cả độ 2, 3 trang có tính cách luận-lý triết-học. Đại khái trong
đoạn văn thứ nhất, nằm ở trong phần phụ-lục của luận-văn tiến-sĩ (Bàn về điểm
dị-biệt giữa triết-học về thiên-nhiên của Đêmôcrit và của Êpicur, 1841),
Marx còn đứng trong lập-trường duy-tâm để phê-bình những chứng-lý biện-minh rằng
có Thiên-Chúa : ông cho đó chỉ là những câu nói đi nói lại rỗng tuếch, và tựu
chung chỉ chứng-minh được có một điều là có cái tự-kỷ-ý-thức (Selbstbewusstsein,
conscience-de-soi). Trong đoạn văn thứ hai nằm ơ phần đầu Bản thảo về kinh-tề
và triết-học (1844), Marx bàn luận về chứng-lý căn-cứ vào nguyên-tắc
nhân-quả để biện-minh rằng có Thiên-Chúa. Tôi đã có dịp phân-tích kỹ-càng hai
trang đó trong bài Karl Marx phê-bình tôn-giáo (1970), vừa nhắc tới trên
đây.
Nhưng như thế vẫn chưa hết.
Marx đã thu-thập được về tôn-giáo khá nhiều tài-liệu thuộc về những loại khác
nhau. Tất cả đều nằm trong những cặp vở ghi-chú trong những năm 1839-1840, khi
ông tham-khảo sách vở để soạn luận-văn tiến-sĩ. Ủy-ban cho ấn-hành bộ MEGA mới
đã gọi đó là Những cặp vở về triết-học của Êpicur (Hefte zur epikureischen
Philosophie) (MEGA IV / 1 / 1, tr 9-152). Những ghi-chú đó chỉ có một phần
được Marx dùng đến trong luận-văn của ông. Còn một phần lớn thì Marx không thấy
dùng trong những sách vở ông viết về sau này. Thêm vào đó lại còn Những cặp
vở viết tại Berlin (Berliner Hefte, 1840-1841), trong đó Marx có chép lại
những đoạn văn dài của triết-gia Hòa-lan B. Spinoza (MEGA IV / 1 / 1, tr
158-288) và bảy Cặp vở viết tại Bonn (Bonner Hefte, 1842) (MEGA IV / 1 /
1, tr 289-381), viết sau khi ông đậu tiến-sĩ, trong đó ông trích từ sách
nọ sách kia ra nhiều đoạn văn về lịch-sử nghệ-thuật và lịch-sử tôn-giáo. Nhờ có
Những cặp vở viết tại Bonn mà ngày nay ta nhớ ra rằng nhà văn và
chính-khách Benjamin Constant đã viết một bộ sách 5 cuốn, nhan đề là Bàn về
tôn-giáo, xét theo nguồn-gốc, các hình-thái và tiến-triển (De la religion
considérée dans sa source, ses formes et ses développements, Paris,
1825-1831).
Từ năm 1842 trở đi, trong
những ghi-chú và trích-dẫn của Marx không thấy có về tôn-giáo nữa, nhưng về
lịch-sử, kinh-tế và chính-trị mà thôi. Có thể nói là từ đây Marx có thể để những
cặp vở ghi-chú đó cho ‘’loài chuột đến gậm-nhấm phê-bình’’, mà không thiệt hại
gì cả. Thực thế, sau khi Feuerbach đã xuất-bản sách Bản-chất đạo Thiên-Chúa
(1841), thì Marx coi đó là lời phê-bình dứt-khoát, về mặt lý-thuyết không thể
làm hơn được nữa. Cho nên, như đã nói trên đây, sau khi đã phê-bình xong trên
trời, thì phải bắt đầu phê-bình dưới đất. Trong dự-định đó, Marx đã mời
Feuerbach cộng-tác hoạt-động chính-trị với ông. Feuerbach không hưởng-ứng, và từ
đó hai người tuyệt-giao. Feuerbach cho rằng việc phê-bình tôn-giáo vẫn chưa xong
hẳn, cho nên ông tiếp-tục suy-nghĩ và xuất bản thêm hai cuốn sách nữa là :
Giáo-trình về bản-chất của tôn-giáo (Vorlesungen über das Wesen der Religion,
1851), và Nguồn gốc phát-sinh ra thần-linh (Theogonie, 1857).
Nhưng nếu những người đi sau
Feuerbach, không thể phê-bình thêm về tôn-giáo nữa, thì ít ra cũng có thể
phê-bình hay hơn. Trong phần dẫn-nhập vào tác-phẩm của Marx được dịch ra
Pháp-văn, và in trong bộ Tác-phẩm (Oeuvres, tập I, Tủ sách Pléiade, Nxb
Gallimard), Maximilien Rubel có cho biết rằng : ‘’Vào năm 1840, trong lúc soạn
luận-văn tiến-sĩ, Marx có ý-định viết mấy bài có tính-cách vừa bút-chiến vừa
hài-hước, để chống lại khuynh-hướng hòa-giải tôn-giáo và triết-học, đang được
một nhóm người ở đại-học chủ-trương’’ (tr LIX-LX). Những bài như thế rõ-ràng là
để chống lại các đồ-đệ của Hegel, vì Marx cho rằng hệ-thống triết-học của Hegel
đã cho tôn-giáo được một chỗ cuối cùng để tị-nạn.
Cũng vào thời đó, Bruno
Bauer đang sửa soạn một bài bút-chiến nhan đề là Cái loa thổi ngày phán-xét
chung để chống lại Hegel là vô-thần và là quỉ-sứ, mà phần thứ nhất phải được
in ra muộn nhất là vào tháng 11 năm 1841. Còn phần thứ hai thì đã dự-tính
là Marx phải viết, mà viết về quan-niệm của Hegel về tôn-giáo. Vấn-đề là
giải-thích rằng Hegel coi tôn-giáo là một hiện-tượng riêng của tự-kỷ-ý-thức đang
phát-triển. Người ta còn thấy dấu-vết ý-kiến đó trong phần phụ-lục luận-văn của
Marx, mà ta đã nhắc tới trên đây .
Thế nhưng sau khi phần thứ nhất bị chính-quyền cấm, thì phần thứ hai cũng phải
đình lại. Cuối tháng giêng năm 1842, lại dự-tính để Marx viết phần thứ hai,
nhưng gọi tên khác đi là Học-thuyết Hegel về tôn-giáo và nghệ-thuật, được
phê-bình theo quan-điểm của người tín-hữu, do b.m. viết. Nhưng bài đó không
thể xuất-bản ở Leipzig được vì bị kiểm-duyệt ở nước Sachsen (Saxe). Marx lại
tính nhờ Arnold Ruge đem đi xuất bản ở Thụy-sĩ. Nhưng Ruge cho biết là muốn thế
phải viết lại tất cả. Rốt cục thì việc đó phải bỏ hẳn, vì Marx vừa được nhận làm
chủ bút cho tờ báo Rheinische Zeitung (Nhật-báo miền sông Ranh), cho nên
không còn thì-giờ viết lại.
Thế là Marx không bao giờ
viết ra được cuốn sách Phê-bình tôn-giáo. Nhưng tài liệu, nếu chưa đủ thì
cũng đã sẵn cả rồi.
0.2 - Nhìn tổng-quát về các
tài-liệu của Marx
Đọc mấy trăm trang ghi-chú
của Marx về tôn-giáo, chúng ta biết rõ hơn về những tài- liệu ông thâu-lượm, về
ý-định của ông trong việc chọn tác-giả nào nên đọc, chọn đoạn văn nào nên chép.
Những bản văn mà Marx đã đọc
và chép lại bằng chính-văn hay là bằng bản dịch ra tiếng Đức thì bây giờ được in
trong MEGA, loại IV, tập 1, cuốn 1. Còn những bản văn tiếng Hi-lạp và tiếng
La-tinh, ví dụ như của Spinoza, thì nhà xuất-bản đã cho dịch sang tiếng Đức và
in trong tập 1, cuốn 2 ; nghĩa là những bản văn trong cuốn 2. không phải là
chính văn, cũng không phải là văn của Marx, cho nên có thể có chỗ dịch sai, như
ta sẽ thấy sau này.
Những đoạn văn được chép lại
và những ghi-chú của Marx có thể xếp thành hai loại.
Loại thứ nhất nằm trong bảy
cặp vở và gồm những tài-liệu để soạn luận-văn tiến-sĩ. Loại này thì ta đã biết
từ lâu, vì đó là phần phụ-lục của luận-văn tiến-sĩ, đã được xuất-bản lần đầu
tiên, năm 1927, trong bộ MEGA cũ, loại I, tập 1, cuốn 1, tr 84-144, nhưng không
đầy-đủ, vì chỉ in những ghi-chú của Marx, còn những đoạn văn Marx đã chép lại
thì không in, mà chỉ đề xuất-xứ mà thôi, Trong bộ MEGA mới thì cho in đầy đủ tất
cả và in cả chính-văn nữa. Loại thứ nhất này có liên-quan tới triết-học duy-vật,
và cho ta thấy lộ-trình đưa Marx tới lập-trường vô-thần
.
Loại thứ hai gồm những bản
văn chép và ghi-chú trong những năm 1839-1842, về triết-học tổng-quát, về
lịch-sử nghệ-thuật và về lịch-sử tôn-giáo .
Nói chung thì Marx tham-khảo
khá rộng. Có điều đáng chú-ý là Marx không đọc sách các nhà thần-học đạo
Thiên-Chúa. Phải chăng là vì ông nghĩ rằng theo học được mấy bài giáo lý ở
trung-học cũng là biết quá đủ rồi ? Phải chăng là vì vào thời Marx, nhiều nhà
thần-học không phân-biệt được thần-học với triết-lý về tôn-giáo ? Cho đến nỗi
Feuerbach chủ-trương thần-học và vô-thần cũng chỉ là một
.
Nói cho đúng thì trong những
ghi-chú này, Marx chỉ để ý đến triết-lý về tôn-giáo và lịch-sử các tôn-giáo mà
các tác-giả viết vào thời thượng-cổ Hi-lạp và La-tinh, vào thời Cận-đại và người
đương-thời với ông, và bỏ hẳn ra hơn một nghìn năm thời Trung-cổ.
Sau đây ta sẽ căn-cứ vào các
thời-đại, các sách mà Marx đã chọn, đã đọc, đã chép và đã ghi-chú, để xét
lộ-trình đã đưa ông đến vô-thần.
(còn tiếp)
|
VỀ MỤC LỤC |
|
GIÁ TRỊ VIỆC LÀM của CON NGƯỜI
TRONG HUẤN DỤ XÃ HỘI CỦA GIÁO HỘI (1)
|
NGUYỄN HỌC TẬP
1 - Con người làm việc
là hình ảnh của Thiên Chúa.
Nhãn quang Ki Tô giáo về
việc làm của con người thoát xuất từ nguyên cội mạc khải của
Thiên Chúa.
Nguồn mạc khải đó chiếu
tỏa lên tất cả những gì thuộc về con người và cho thấy ý nghĩa
sâu thẩm của con người.
Con người làm việc không
phải chỉ là hậu quả của những gì thuộc về hoàn cảnh nhân loại
của mình, mà còn có căn nguyên có liên hệ đến mối tương quan
tiên khởi giữa Thiên Chúa và con ngưòi, và giữa Thiên Chúa và
thế giới.
Ngay từ lúc tạo dựng vũ
trụ, khi con người và môi trường của mình đều được Chúa dựng nên
thoát xuất từ hư vô, việc làm đã được thể hiện lần đầu tiên như
là chiếc cầu gạch nối giữa Thiên Chúa và con người ( M.D.
Chenu, Per una teologia del lavoro, trad. it. di G. Bertone,
Boria, Torino 1984).
Những
tư tưởng vừa kể, Thánh Kinh ghi lại cho chúng ta:
- " Thiên Chúa ban
phúc lành cho hai ông bà và phán với ông bà: " Hãy sinh sôi nẩy
nở thật nhiều cho đầy mặt đất, và thống trị mặt đất. Hãy làm bá
chủ cá biển chim trời và mọi giống vật bò trên mặt đất " ( Gen
1, 28).
Và khi viết về việc làm
của con người, ĐTC Gioan Phaolồ II cũng đã lập lại:
- " Trong Lời Chúa
Mạc Khải đã đươc ghi khắc rất sâu đậm chân lý nền tảng nầy, đó
là con người được dựng nên giống hình ảnh Thiên Chúa, qua việc
làm của mình con người tham dự vào công trình của Đấng Tạo Hoá,
và trong tầm mức khả năng của mình, một cách nào đó, con người
tiếp tục khai triển và hoàn hảo hóa công trình của Người, luôn
luôn tiến thêm lên trong việc khám phá ra các nguồn tài nguyên
và các giá trị được chứa đựng trong những gì đã được tạo dựng
nên " ( LE, n. 25).
Đến đây, chúng ta đang
đứng trước nguồn gốc và tâm điểm của Mạc Khải.
Đấng Tạo Hoá là Đấng đã
dựng nên tất cả mọi vật, là Người Làm Việc Tiên Khởi.
Giữa những sản phẩm công
trình tạo dựng của Người, có những tạo vật được dựng nên để cộng
tác vào công trình vĩ đại nầy trong việc kiến tạo nên vũ trụ.
Chúng ta đừng nghĩ rằng
Công Cuộc Sáng Tạo như là động tác khởi thủy, rồi sau đó
Đấng Tạo Hoá rút lui để cho thế giới tự nhiên tiếp theo đường
hướng của mình và để giao cho động tác tự lập của con người.
Công Trình Sáng Tạo là
một động tác của Chúa vẫn tiếp tục và việc làm của con người
luôn luôn là việc cộng tác đang tiếp nối.
Ngày qua ngày Thiên Chúa
làm việc bên cạnh con người, Thiên Chúa ở trong con người và con
người cộng tác với Thiên Chúa để làm cho công trình sáng tạo
luôn luôn hoàn hảo hơn ( M.D. Chenu, id.).
Căn nguyên nền tảng nầy
vệc làm của con người là điều tuyệt đối mới mẻ trong tư tưởng Do
Thái - Ki Tô giáo.
Con người thời cỗ không
thể đánh giá được việc làm của con người và không thể nhận biết
được đặc tính tích cực và cao cả của nó, bởi lẽ con người thời
cỗ không biết gì đến công cuộc sáng tạo:
- " Thiên Chúa
chúc lành cho ông bà và phán với ông bà: " Hãy sinh sôi nẩy nở
thật nhiều, cho đày mặt đất, và thông trị mặt đất. Hãy làm bá
chủ cá biển chim trời, và mọi giống vật bò trên mặt đất " ( Gen
1, 28).
- " Từ cỏi trời
thánh thiêng Chúa ngự, xin gởi Đức Khôn Ngoan Ngài tới, xin phái
đến từ toà cao vinh hiển, để phù trì và đồng lao cộng khỏ với
con, cho con biết điều đẹp ý Chúa " ( Sap 9, 10).
Con người thời cỗ quan
niệm rằng thế giới vĩnh viễn và như là mọi chuyện đã hoàn tất.
Bởi đó con người không còn phải làm gì hơn là nhận biết và chiêm
ngắm thế giới.
Nhưng thế giới không
phải được dựng nên mà không có dòng lịch sử của mình. Chính vì
Thiên Chúa đã muốn mời gọi con người cộng tác vào công trình
sáng tạo nầy, bởi đó công cuộc sáng tạo có dòng lịch sử, phát
triển và cùng đích.
Làm việc, con người tạo
nên dòng lịch sử cho thế giới và làm thành lịch sử.
Con người được kêu gọi
làm việc vì lòng yêu mến Chúa: kính yêu Thiên Chúa bằng việc làm
là điều kiện, địa vị của con người và làm việc để làm vinh danh
Chúa ( M.D.Chenu, id).
Hiểu như vậy, chúng ta
không có gì phải ngạc nhiên biết được việc làm là một phần nằm
ngay trong bản thể, địa vị và hoàn cảnh của con người.
Như chúng ta biết quan
niệm Ki Tô giáo về con ngưòi có thể gồm tóm vào tín lý hình ảnh
Thiên Chúa. Con người là hình ảnh Thiên Chúa.
Ý nghĩa vừa kể gợi ý cho
chúng ta những mối liên hệ giữa con người và Thiên Chúa là những
gì gần gũi cá biệt, đến nỗi con người mang lấy nơi mình và
trong động tác của mình dấu vết của Thiên Chúa.
Con người là hình ảnh
Thiên Chúa, giống như Thiên Chúa, không phải chỉ ở những gì con
người là con người trong bản thể của mình - như những gì trong
qúa khứ thường đề cập đến - mà còn giống Thiên Chúa cả trong
những gì con người hành động:
- " Con người là
hình ảnh của Thiên Chúa, đàng khác, do bởi sứ mạng nhận được từ
Đấng Tạo Hoá mình, để cư ngụ và thống trị mặt đất. Trong khi
thực hành sứ mạng đó, con người, mỗi con người, phản ảnh lại
chính động tác của Đấng Tạo Hoá vũ trụ. Việc cai quản thống trị
trái đất là dấu chứng cho đặc tính giống hình ành nầy, mà ngay
cảc tội lỗi, mà từ đó mệt nhọc và mồ hôi được thể hiện trong
việc làm, cũng không xoá bỏ đưọc " ( LE, n.9; GS, n.34).
Nguyên tội không phải là
nguyên cớ hay căn nguyên nền tảng khiến cho con người phải làm
việc, mà chỉ là căn nguyên của sự mệt nhọc và những khó khăn của
việc làm ( Gen 3, 16-19):
- " Với người đàn
bà Chúa phán: " Ta sẽ làm cho ngươi phải cực nhọc thật nhiều khi
thai ngén; ngươi sẽ phải cực nhọc lúc sinh con. Ngươi sẽ thèm
muốn chồng ngươi, và nó sẽ thống trị ngươi ".
Với người đàn
ông , Chúa phán: " Vì ngươi đã nghe lời vợ và ăn trái cây mà Ta
đã truyền cho ngươi rằng: " Ngươi đừng ăn nó ", nên đất đai bị
nguyền rủa vì ngươi, ngươi phải cực nhọc mọi ngày trong đời
ngươi, mới kiếm được miếng ăn từ đất ra. Đất đai sẽ trổ sinh gai
góc cho ngươi, ngươi sẽ ăn cỏ ngoài đồng: Ngươi sẽ phải đổ mồ
hôi trán mới có mà ăn " ( Gen 3, 16-19).
Những gì vừa trích dẫn
góp nhận một đường lối suy tư, được từ lâu đâm rễ sâu vào truyền
thống và cho thấy mối liên hệ giữa việc làm và sự quan phòng của
Thiên Chúa.
Chúng ta có thể nói một
cách ngắn gọn là để tiên liệu được những gì tốt đẹp cho mình và
cho người khác, đó là mục đích của việc làm.
Khi Huấn Dụ Xã Hội
của Giáo Hội (HDXHGH) nhấn mạnh đến phẩm giá của người làm
việc, là luôn luôn nghĩ đến hình ảnh Thiên Chúa của con người,
khiến cho công việc của tay chân và trí nảo con người mang
tính cách thiêng thánh, cần phải được kính trọng và bảo vệ.
Làm viêc là một phương thức sống của con người, với tư cách là
tạo vật do Chúa dựng nên:
- "Chính chủ thể việc làm là con người " ( LE, n.5).
Chúng ta cần nhấn mạnh ở
đây, trong HDXHGH, phẩm giá của người làm việc được đặt trổi
thượng hơn địa vị của người công dân ( đối với tổ chức xã hội -
chính trị ). Con người làm việc là định hướng tiên khơi được
Đấng Tạo Hoá khắc ghi vào bản thể con người.
Con người được Thiên
Chúa dựng nên ở bên ngoài vườn đia đàng, kế đến được Thiên Chúa
dắt vào vườn địa đàng để " làm việc và canh giữ đất đai
":
- " Thiên Chúa lấy
bụi đất nặn ra con ngưòi, thổi sinh khí vào lỗ mũi, và con người
trở nên một sinh vật...Chúa là Thiên Chúa đem con người đặt vào
vườn địa đàng, để trồng trọt và canh giữ đất đai " ( Gen 2,
6.15).
Đối với con người làm
việc đó, " trồng trọt và canh giữ đất đai ", Thiên Chúa
ban các mệnh lệnh của Người liên quan đến Cây sự sống và đến
những gì hiểu biết. chỉ khi nào con người đã ở trong vườn
địa đàng và thực hiện phận vụ của mình được Chúa giao phó, "
trồng trọt và canh giữ đất đai ", con người mới phải chạm
trán với Lề Luật, tức là cần phải tôn trọng các sự vật được
tạo dựng và nhận biết các sự vật, của mình cũng như của người
khác là do công trình sáng tạo của Chúa ( J.M Ibànez Langlois,
La dottrina sociale della Chiesa, Ares, Milano 1987, p. 41ss).
Các HDXHGH ngay từ
Thông Điệp Rerum Novarum ( n. 32) đã nhấn mạnh đến mối tương
quan giữa việc làm và hinh ảnh Thiên Chúa nơi con người ( ĐTC
Pio XII, Radiomessaggio natalizo ( 1955),n. 18.; S. Tommaso
d'Aquino, Somma teologia, I-II, q.92, a.2).
Thái độ thường tình hiện
nay là tách rời hay gián đoạn mối liên hệ giữa các quyền người
công dân và các quyền làm việc hay đúng hơn là đảo ngược phẩm
trật giá trị.
HDXHGH trái lại, trong
các lời tuyên bố gần đây, đặt nặng vấn đề trong việc bảo vệ phẩm
giá người làm việc có cả những đòi buộc trước tiên phải có trước
đó nữa, đó là bảo vệ các quyền căn bản của con người.
Tuy nhiên điều đó không
có nghĩa là coi thường các lãnh vực khác của động tác con người
( xã hội, chính tri, luân lý ) theo kiểu cộng sản chủ nghĩa,
nghĩa là động tác của con người chỉ có giá trị nhằm liên hệ đến
lãnh vực sản xuất.
Trái lại, chính vì trong
động tác làm việc của con người là động tác chứa đầy kho tàng
phong phú của con người và phát sinh từ gốc rễ liên hệ giữa các
chủ thể con người với nhau.
Trong động tác làm việc
đã thể hiện tất cả con người và qua động tác đó, con người diễn
tả ra chính mình.
Và bởi vì là động tác
phát xuất từ căn cội con người, từ bản thể con người, tất cả các
mục đích của việc làm con người là những mục đích có liên hệ đến
lãnh vực luân lý.
Điều đó có nghĩa là một
mục đích luân lý được thể hiện nhằm đáp ứng lại các nhu cầu
chính yếu của chính mình và của anh em đồng bào và đồng loại
mình. Điều đó cũng nói lên mục đích luân lý, việc làm của con
người, là điều được nhằm đến " để trồng trọt và canh giữ đất
đai ", để quản trị, điều khiển và canh giữ những gì Thiên
Chúa dựng nên, theo thánh ý Người.
Ngay trong ý nghĩa vừa
kể, quan niệm Ki Tô giáo không phải là quan niệm xa lánh thế
tục, mà là quan niệm dấn thân vào trần thế, " để trồng trọt
và canh giữ đất đai ", tạo nên lợi ích cho chính mình, đáp
ứng lại các nhu cầu của mình và của anh em đồng bào và đồng loại
mình, như ý Chúa muốn: canh giữ, quản trị và tác động để tiếp
tục công trình sáng tạo của Chúa, làm cho thế giới mỗi ngày một
phát triển hơn, tốt đẹp hơn cho chính mình và cho nhân loai,
theo đồ án sáng tạo của Chúa.
Bởi đó có những quan
niệm thiêng liêng sai lạc nhìn việc làm con người trong động tác
" để trồng trọt và canh giữ đất đai " như là động tác chỉ
nhằm mục đích thoả mãn các nhu cầu và lợi thú vật chất của mình,
hơn là một bổn phận luân lý, đã hàm chứa trong đồ án sáng tạo
của Chúa ngay từ lúc khởi đầu ( S. Veca, Cittadinanza.
Riflessioni filosofiche sull'idea di emancipazione, Feltrini,
Milano 1990).
Ngoài ra, phải là động
tác thống trị, cai quản trên tạo vật được hiểu như là thái độ
bắt buộc tạo vật phải tuân phục mình ( assujettir), đặt tay
sắp xếp, có uy quyền trên các tạo vật,
Nói cách khác, không
phải là con người ở vi thế thượng đẳng hơn các tạo vật khác tùy
hỷ theo ý muốn của mình.
Cách hành xử đó không
đúng với thái độ chính đáng phải có về phương diện luân lý, nhứt
là động tác làm việc của con người trên tạo vật phải được hiểu
như là động tác cộng tác với Thiên Chúa để tiếp tục biến
chuyển công trình sáng tạo của Người hoàn hảo hơn, tốt đẹp hơn,
đáp ứng thích hợp hơn cho mình và cho anh em mình có được cuộc
sống xứng đáng với con người, hình ảnh của Thiên Chúa ( Gen
1, 28) và là con Thiên Chúa ( Mt 6, 9).
Bởi đó là cách suy nghĩ
bất chính của những người cho rằng kỷ thuật, trong thực thể của
mình, là những gì bạo lực đối với tạo vật và từ đó tất cả nền
văn minh của con người không có gì khác hơn là bạo lực và lướt
bỏ đi, coi thường căn nguyên và nền tảng sáng tạo của Thiên Chúa
( Chúa đã tạo dựng tạo vật như vậy, tại sao con người lại dùng
kỷ thuật để thay đổi, áp chế và đôi khi cả loại trừ đi ) (
Girard e J. Tischner, Etica del lavoro, Cseo, Bologna 1982).
Có thể là như vậy, nếu
chúng ta nghĩ rằng kỷ thuật khoa học con người không hề bị một
lằn mức nào chuẩn định và giới hạn, cũng như không phải tuân
phục một lề luật luân lý nào.
Điều đó có nghĩa là khi
khoa học kỷ thuật chối bỏ đi công việc sáng tạo của Thiên Chúa
và Thiên Chúa là Đấng Tạo Hoá, đã khắc ghi lề luật của Người
trong bản tính của các tạo vật và lề luật luân lý phải tuân giữ
trong tâm hồn con người.
Quan niệm Ki Tô giáo về
việc làm gặp được trong điều mà có vẻ như chỉ dùng như là phương
tiện để kiếm sống, lại là nơi hàm chứa ý nghĩa cai quản thống
trị và sáng tạo, ý nghĩa lịch sử và mạo hiểm của nhân loại giữa
thế giới đã được Chúa sáng tạo nên:
-" Chúa là Thiên
Chúa đem con người đặt vào vườn địa đàng để tồng trọt va canh
giữ đất đai " ( Gen 2, 15),
-" ...và hãy thống
trị mặt đất. hãy làm bá chủ cá biển chim trời và mọi vật bò trên
mặt đất " ( Gen 1, 28).
Việc làm của con người,
nhìn thoáng qua có vẻ như nói lên sự mỏng dòn yếu đuối, chóng
qua của con người, trái lại nói lên địa vị cao cả của con người
và hình ảnh của Thiên Chúa:
- " Việc làm là
động tác của con người nhằm tìm ra được những gì đáp ứng lại các
nhu cầu của đời sống, và nhứt là để giữ cho mình được sống còn:
" với mồ hôi của con, con sẽ có được bánh để ăn ".( E. Severino,
Tecniche. Le radici della violenza, Rusconi, Milano 1979, 4)
Trong tạm thời chúng ta
thấy đuợc hai đặc tính trong việc làm:
- đặc tính thứ nhứt,
đó là đặc tính cá nhân, bởi vì việc làm thoát xuất từ sức
mạnh năng động liên hệ với chủ thể hành động và chính là của
người đang tác động và động tác đó đem lại lợi ích cho người
đương cuộc.
- đặc tính thứ hai,
đó là đặc tính cần thiết, bởi vì kết quả của việc làm là
những gì cần thiết đáp ứng lại nhu cầu của con người, để con
người còn giữ được mạng sống mình:
- * " giữ cho
mình còn sống được là một bổn phận không thể tách bỏ đi được, do
bản tính thiên nhiên của mình đòi buôc " ( RN, n. 36).
Nói tóm lại
Con người, " được
dựng nên giống hình ành Thiên Chúa " ( Gen 1, 28), không có
nghĩa là giống Chúa nhưng chết cứng bất động như một bức tượng
điêu khắc tuyệt vời, như một bức tranh hội hoa tuyệt hảo để treo
lên bức tường, như một bức hình chụp đầy màu sắc sặc sỡ, nhưng
bỏ đó im lặng không cựa quậy, một tạo vật vô hồn.
- Con người "
giống hình ảnh Thiên Chúa " là con người sống động với bản
tính " giống Thiên Chúa " của mình, là tạo vật duy nhứt
được Thiên Chúa " thổi sinh khí vào lỗ mũi " ( Gen 2,
7), ban sức sống của Người cho.
" Sinh khí đó "
của Thiên Chúa vẫn tồn tại trong bản thể con người, khiến cho
con người sống, năng động đi đứng và " làm việc " với sức
sống, trí khôn ngoan, lòng ước muốn tự do, phản ảnh lại Thiên
Chúa là Đấng khôn ngoan và tự do vô hạn, và lề luật luân lý của
Người cũng được khắc ghi vào thâm tâm con người của mình.
Như vậy con người làm
việc là làm việc với trí khôn ngoan, lòng ước muốn tự do tôt đẹp
hơn và tuân theo lề luật luân lý được khắc ghi vào nội tâm của
mình và tuân giữ bản tính của các tạo vât được Chúa ghi khắc vào
bàn thể của chúng; làm việc để tạo cho mình và cho anh em đồng
bào và đồng loại mình một thế giới sống tốt đẹp hơn.
Con người làm việc, là
tiếp tục công trình sáng tạo của Thiên Chúa cho nhân loại, để
sản xuất, kiến tạo, sắp xếp, sữa đổi, thiết định bằng " sinh
khí " được Thiên Chúa thổi vào lỗ mũi.
Nói cách khác, Thiên
Chúa vẫn ở bên cạnh con người, vẫn ở trong con người khi con
người làm việc với phần " sinh khí " mà Chúa ban cho mỗi
người, tùy theo hoàn cảnh và điều kiện của mỗi người.
Như vậy, giá trị việc
làm của con người không phải chỉ được định giá bằng sản phẩm vật
chất có thể tạo được, mà còn bao gồm cả địa vị " hình ảnh
Thiên Chúa " và " sinh khí " hay sức sống Thiên Chúa
ban cho mà con người có nơi mình.
Dựa trên kết quả vật
chất để đánh giá và nhứt là ỷ lại vào quyền thế để đối đãi với
con người làm việc như súc vật, lợi dụng, bốc lộ và tha hoá con
người , đàn áp, đánh đập, " trấn nước ", " bịt miệng "
con người là thái độ xúc phạm cả đến Thiên Chúa ( cfr. A. M.
Baggio, Lavoro e Cristianesimo, Cittanuova, Roma 1988)..
Tiến sĩ Nguyễn Học Tập
|
VỀ MỤC LỤC |
|
Đừng quấy
rầy tiếng ồn! |
Nguyên tác: Taking Flight - Bay Lên Đi
Tác giả: Anthony de Mello, S.J.
Chuyển ngữ: Lm. Minh Anh (Gp. Huế)
Chỉ dẫn:
Tốt nhất, các câu chuyện sẽ được đọc theo thứ tự như đã sắp xếp.
Mỗi lần đọc không quá một hoặc hai mẩu chuyện nếu bạn ước ao có
được một cái gì đó hơn là chỉ giải trí.
Lưu ý:
Các chuyện kể trong tập sách này đến từ nhiều đất nước, nhiều
nền văn hoá và tôn giáo khác nhau; chúng thuộc về những di sản
thiêng liêng, những câu chuyện hài hước được ưa chuộng của dòng
đời nhân loại.
Những gì tác giả làm là xâu kết chúng lại với nhau theo một ý
hướng đặc thù. Công việc của tác giả là công việc của người thợ
dệt và thợ nhuộm, tác giả chẳng có công trạng gì về những tấm
vải và những sợi chỉ.
LTS. Chỉ dẫn và lưu ý trên
đây là của tác giả. Tuy nhiên, vì Đặc San GSVN chỉ phát hành 2
tuần một lần nên mỗi số báo BBT xin giới thiệu trung bình từ 5
đến 7 mẫu chuyện. Bạn đọc có thể lưu lại để nghiền ngẫm suy tư.
Chủ đề: CẦU NGUYỆN
1. “Đừng quấy rầy tiếng ồn!”
Một đêm kia, khi thầy Bruno đang cầu nguyện thì tiếng kêu ộp ộp
của một con ếch quấy rầy thầy. Những cố gắng của thầy nhằm lờ đi
cái âm thanh ồn ào đó xem ra vô hiệu. Từ khung cửa sổ, thầy hét
lên, “Im, ta đang cầu nguyện”.
Vì là một người thánh thiện, nên lệnh của thầy được chấp hành
ngay. Mọi sinh vật kìm giữ âm thanh của mình tạo nên một sự im
ắng thuận lợi cho việc cầu nguyện.
Nhưng này đây, một âm thanh khác xen vào việc thờ phượng của
thầy Bruno - một tiếng nói ậm ự thốt lên rằng, “Có lẽ Thiên Chúa
cũng hài lòng với tiếng kêu ộp ộp của một con ếch như lời thầy
hát các Thánh Vịnh”. Thầy Bruno dể duôi biện bạch, “Trong tiếng
kêu ồn ào của một con ếch, có cái gì có thể làm vui tai Thiên
Chúa?”. Nhưng giọng nói ấy vẫn không chịu thua, “Tại sao thầy
không nghĩ đến việc Thiên Chúa cũng đã tạo nên cả những tiếng
ồn?”.
Thầy Bruno quyết định tìm xem lý do. Thầy nhoài người qua cửa sổ
và ra lệnh, “Hát!”. Tiếng ộp ộp nhịp nhàng của con ếch toả lan
hoà chung với tiếng nhạc nền của tất cả những con ếch vùng lân
cận. Và khi thầy Bruno cùng lên tiếng với âm thanh đó, thì chúng
ngưng kêu và thầy khám phá ra rằng, nếu chịu dựng được chúng,
chúng thật sự làm phong phú cái im ắng của đêm.
Với khám phá đó, tâm hồn thầy Bruno trở nên hài hoà với vạn vật,
và lần đầu tiên trong đời, thầy hiểu ý nghĩa của việc cầu
nguyện.
ڰ
2. Giải đáp cho mọi vấn nạn
Chuyện Do Thái: Tại một thành phố nhỏ nước Nga, những người Do
Thái đang nóng lòng đợi chờ một Rabbi. Đây là một dịp hiếm có,
vì thế họ dành nhiều thời giờ chuẩn bị những câu hỏi được đặt ra
cho con người lành thánh này.
Cuối cùng, ông cũng đến và gặp họ tại sãnh đường thị trấn, ông
cảm nhận được sự căng thẳng của bầu khí khi mọi người đang nao
nức chờ xem những câu trả lời cho họ từ phía ông.
Trước tiên, không nói với họ một lời, ông chỉ chăm nhìn vào mắt
họ và ngâm lên một giai điệu buồn buồn không thành tiếng. Thế là
mọi người ngâm nga theo. Ông bắt đầu hát và mọi người cùng hát.
Ông đong đưa thân mình, nhảy múa trang trọng với những bước nhịp
nhàng. Cộng đồng cùng nhảy theo. Trong phút chốc, mọi người bị
cuốn hút vào điệu nhảy, tập trung hết cả tâm trí vào nhịp chân
đến nỗi quên hết mọi sự trên đời. Và như thế mỗi người trong đám
đông làm nên một tổng thể, những rạn nứt bên trong được chữa
lành và không gì còn ngăn cản họ tìm gặp Chân Lý.
Gần một giờ sau, vũ điệu mới ngưng dần và dừng lại. Không còn
căng thẳng nội tâm, bấy giờ, mọi người ngồi xuống trong an tĩnh,
một sự an tĩnh đang ngập tràn căn phòng. Thế rồi, chiều hôm ấy
vị kinh sư chỉ nói một câu duy nhất: “Tôi tin rằng, tôi đã giải
đáp cho mọi vấn nạn của quý vị”.
ڰ
3. Kinh nguyện và nhảy múa
Một tu sĩ Hồi Giáo được hỏi tại sao ông thờ phượng Thiên Chúa
qua việc nhảy múa. Ông trả lời, “Vì lẽ thờ phượng Thiên Chúa có
nghĩa là chết đi cho chính mình, múa nhảy giết chết cái tôi. Khi
cái tôi chết đi, mọi vấn nạn cùng chết với nó. Ở đâu không có
cái tôi, ở đó có tình yêu, có Thiên Chúa”.
Vị Thầy ngồi với các đồ đệ đang chăm chú lắng nghe. Ông nói,
“Các bạn đã nghe nhiều kinh và đã đọc nhiều kinh. Chiều nay tôi
muốn các bạn chứng kiến một lời kinh khác”.
Ngay lúc đó, màn mở ra và vũ điệu ba lê bắt đầu.
ڰ
4. Ba lời cầu nguyện khôi hài
Một thầy đồng đạo Hồi trẩy đi hành hương đền Mecca. Kiệt sức vì
hành trình dài, ông nằm mọp bên đường tại một vùng ngoại ô. Vừa
chợp mắt vì buồn ngủ, ông bị một người hành hương đang giận dữ
đánh thức một cách thô bạo. “Đây là lúc mọi tín đồ sụp đầu hướng
về Mecca, còn anh lại chỉa chân về đền thánh. Anh thuộc loại Hồi
Giáo nào?”. Thầy đồng không nhúc nhích, nhưng chỉ mở mắt và nói,
“Này người anh em, anh làm ơn đặt chân tôi theo hướng nào mà
chúng sẽ không chỉa vào Thiên Chúa?”.
Lời cầu của một người mộ đạo dâng Thần Vishnu:
“Lạy ngài, xin ngài tha ba trọng tội cho con: trước hết, con
đã hành hương tại nhiều đền thánh của ngài nhưng lại quên mất
ngài ở khắp mọi nơi; thứ đến, con thường cầu xin ngài trợ giúp
nhưng lại quên rằng ngài quan tâm đến lợi ích của con hơn chính
con; và sau hết, này con đang xin ngài tha thứ cho con khi con
biết rằng, mọi tội lỗi của con đều đã được tha trước cả khi con
phạm chúng”.
ڰ
5. Nhà phát minh lửa
Sau nhiều năm làm việc, một nhà phát minh khám phá được cách
thức làm ra lửa. Ông đem theo dụng cụ trẩy lên vùng tuyết phủ
Bắc Cực và dạy cho một bộ lạc ở đó nghệ thuật làm ra lửa cùng
những lợi ích của nó. Dân chúng bị cuốn hút bởi phát minh mới mẻ
này đến nỗi quên cả việc cám ơn ông. Ngày kia, ông lặng lẽ bỏ đi
nơi khác. Là một trong những người cao thượng hiếm có, ông chẳng
trông mong được nhớ tới hay được tôn vinh. Những gì ông chờ đợi
là sự mãn nguyện khi biết rằng một ai đó đã hưởng được lợi ích
từ phát minh của ông.
Bộ lạc tiếp theo ông đi đến cũng nóng lòng học hỏi như bộ lạc
trước. Nhưng các thầy sãi ở đó lại phát ghen vì ảnh hưởng của
con người xa lạ này trên dân chúng, họ cho người giết ông. Để
tránh mọi nghi ngờ về tội ác này, họ đặt một bức tượng của nhà
phát minh vĩ đại ngay trên bàn thờ chính của đền thờ và một nghi
lễ được phác thảo, trong đó tên tuổi của nhà phát minh sẽ được
tôn kính và lưu truyền. Người ta hết sức quan tâm để không một
đề mục nào trong nghi thức này phải thay đổi hay bị bỏ qua. Vật
dụng làm ra lửa được đặt trịnh trọng trong một chiếc hộp và mọi
người bảo nhau, tất cả những ai có lòng tin đặt tay trên đó đều
được chữa lành mọi bệnh tật.
Chính vị thầy sãi trưởng nhận trách nhiệm biên soạn Tiểu Sử
Nhà Phát Minh. Tác phẩm này đã trở thành Sách Thánh, trong
đó lòng nhân ái của nhà phát minh được đề cao như một gương mẫu
để mọi người noi theo, những công trình hiển hách của ông được
tán dương, bản tính siêu phàm của ông làm nên điều phải tin. Các
thầy sãi phải liệu làm sao để Sách thánh được lưu truyền cho các
thế hệ tương lai trong khi chính họ giải thích một cách có thẩm
quyền những gì nhà phát minh dạy và ý nghĩa sự sống cũng như sự
chết thánh thiêng của ông. Các vị sẽ trừng phạt đến chết hoặc
trục xuất bất cứ ai lạc xa giáo thuyết của họ. Bị chụp lấy bởi
những bổn phận mang tính đạo đức đó, dân chúng quên hẳn nghệ
thuật làm ra lửa.
ڰ
6. Hãy hoàn toàn trở nên lửa
Thầy Lot đến cùng Cha Đan Phụ Joseph và nói: “Thưa cha, với khả
năng của con, con giữ luật, chay tịnh, suy niệm, thinh lặng
chiêm ngắm; và trong mức độ có thể, con thanh tẩy tâm hồn khỏi
mọi ý tưởng tà vạy. Giờ đây con còn phải làm
gì?”. Cha Đan Phụ đứng tuổi đứng dậy, đưa hai tay lên trời và
mười ngón tay của ngài như mười ngọn đèn đang cháy. Thầy nói,
“Này đây: Hãy hoàn toàn trở nên lửa.
ڰ
7. Kinh sáng của người thợ giày
Một người thợ giày đến gặp thầy Isaac of Ger và
nói, “Xin chỉ cho tôi biết phải đọc kinh sáng làm sao. Khách
hàng của tôi là những người nghèo, họ chỉ có một đôi giày. Tôi
nhận giày của họ vào chiều tối, sửa cho tới khuya, rạng sáng vẫn
chưa xong để họ có giày cho kịp đi làm. Vậy câu hỏi của tôi là
làm sao tôi có thể đọc kinh sáng?
Vị kinh sư hỏi lại: Thế thì từ trước đến giờ anh
đọc kinh thế nào?
Đôi khi tôi đọc kinh vội vã rồi trở lại với công
việc - nhưng rồi cảm thấy không ổn. Nhiều lần bỏ đọc kinh và cảm
thấy thiếu sót làm sao, thỉnh thoảng trong lúc tay tôi đưa búa
lên thì gần như tôi nghe tiếng lòng mình thổn thức, “Tội nghiệp
tôi, tôi không đọc kinh sáng được”.
Vị kinh sư liền nói, “Nếu tôi là Chúa, tôi sẽ
thích lời thổn thức đó hơn là kinh sáng của anh”.
ڰ
(hẹn gặp lại kỳ sau)
|
VỀ MỤC LỤC |
|
MỘT MÔ HÌNH LINH MỤC CHO NGÀY HÔM NAY |
Mời thăm Blog của
Lm. Trần Minh Huy
http://chivilongchuathuongtoi.blogspot.com/
BẢN THẢO
ỨNG SINH LINH MỤC HỌC &
SỐNG LINH ĐẠO LINH MỤC GIÁO PHẬN
GIÁO TRÌNH TU ĐỨC LỚP THẦN II & III
ĐẠI CHỦNG VIỆN THÁNH GIUSE HÀ NỘI
2011-2012
CHƯƠNG MỘT:
ỨNG SINH LINH MỤC HỌC & SỐNG LINH ĐẠO
LINH MỤC GIÁO PHẬN
A. MỘT MÔ HÌNH LINH MỤC CHO NGÀY HÔM NAY
Tây phương có câu ngạn ngữ “trong
khi rèn, người ta trở thành thợ rèn.” Cũng thế, càng sống đời chủng sinh
càng trở nên chủng sinh hơn, và càng sống đời linh mục càng trở nên linh mục
hơn. Nhưng con đường đạt tới lý tưởng linh mục qua công cuộc được đào tạo và tự
đào tạo còn nhiều gian nan, cần ơn Chúa và cố gắng bản thân, cùng sự giúp đỡ tận
tình của những người có trách nhiệm. Vậy đâu là mẫu người linh mục đích thực như
lòng Chúa và Giáo Hội mong muốn.
Trước hết, chúng ta có thể nhìn
thấy hình ảnh linh mục nơi thánh Gioan Tông đồ, người môn đệ được Chúa Giêsu
yêu. Thánh Gioan đã thể hiện một tình thân thiết đặc biệt với Chúa Giêsu, tiêu
biểu nhất là tư thế tựa đầu vào ngực Chúa Giêsu và mặt hướng ra bên ngoài. Hình
ảnh ấn tượng này nói lên tình thân thiết và việc lắng nghe. Khi kề tai vào ngực
ai đó, ta có thể nghe thấy nhịp đập trái tim họ. Cũng thế người môn đệ Chúa
Giêsu yêu là người đã nghe được nhịp đập trái tim Người và từ hướng nhìn ra
ngoài đó, ông hướng lòng ra với thế giới. Như vậy, trở thành môn đệ của Chúa
Giêsu là có đôi tai bắt nhịp được với nhịp đập trái tim Ngài, cùng Ngài dõi nhìn
ra thế giới bên ngoài để mang ơn cứu độ cho nhân loại. Khi thực hành điều này
như thánh Gioan, người linh mục hiện tại cũng như tương lai sẽ luôn đứng về phía
tình yêu, có những hướng nhìn đúng đắn, và có dũng khí để hành động theo tình
yêu Chúa Giêsu dẫn lối trong đời sống và sứ vụ linh mục của mình ở cả hai chiều
kích dưỡng giáo và truyền giáo.
Nhưng chúng ta phải nói ngay rằng
linh mục phải biến tất cả cuộc sống mình thành việc phục vụ Giáo Hội, nghĩa là
việc phục vụ Giáo Hội là sứ mạng nền tảng của linh mục, bên kia sự đa dạng của
các hình thức thừa tác vụ. Cái nguy hiểm lớn nhất là định nghĩa và giới hạn linh
mục trong việc thực thi các nhiệm vụ đặc biệt riêng rẻ. Không, linh mục sống sứ
vụ nền tảng phục vụ Giáo Hội của mình bằng những cách thức khác nhau thôi, như
cha sở, cha tuyên uý, giáo sư…, thậm chí có người theo một nghề nghiệp nào đó để
xích lại gần với người đương thời (linh mục thợ chẳng hạn). Mỗi thời mỗi thế,
chúng ta không sao chép quá khứ hay bắt chước cách máy móc, nhưng chúng ta xem
xét quá khứ và không để bị cắt đứt khỏi quá khứ, vì nhờ những hình thức đạo đức
của những người đi trước mà chúng ta đang là như hôm nay.
Quả vậy, thánh chức linh mục không phải là những gì mà chúng ta đang thực hiện;
thánh chức linh mục là một Ơn gọi, không phải là một sự nghiệp; không chỉ đơn
giản là một thừa tác vụ, nhưng là một Con Đường Sống thiêng liêng; không phải là
một phận vụ chức năng, nhưng là một giao ước suốt đời; không phải một vai trò
phục vụ tạm thời, nhưng là một căn tính đang hình thành, đang trở nên đồng hình
đồng dạng với Chúa Kitô. Vì thế, hãy luôn ở lại với Chúa, tuân theo ý Chúa, ra
đi với Chúa, tỉnh thức cùng với Chúa và bền đỗ với Chúa.
Mới đây, ngày 26/1/2012, tại
Rôma, ĐTC Biển Đức XVI dạy: “Bối cảnh văn hóa hiện nay cần một nền đào tạo
triết học và thần học vững chắc cho phép hiểu biết cấu trúc nội tại của đức tin
trọn vẹn và trả lời cho những vấn nạn của con người hiện đại… Tuy nhiên, việc
nghiên cứu thần học phải luôn mật thiết gắn liền với đời sống cầu nguyện... Do
đó cần thiết phải hội nhập hài hòa giữa thừa tác vụ, hoạt động mục vụ và đời
sống thiêng liêng của linh mục. Điều ấy rất quan trọng đối với linh mục, vì nó
sẽ là tất cả cuộc sống của ngài: đặt quân bình con tim và trí óc, lý trí và tình
cảm, thân xác và linh hồn, nghĩa là tất cả những gì trọn vẹn là con người… Vì
thế, cần phải rất chú ý chiều kích nhân bản của các ứng viên… để linh mục thực
sự là người của Thiên Chúa trước mặt mọi người... Mối tương quan với Thiên Chúa
trong Chúa Giêsu Kitô phải là nền tảng trong thời gian đào tạo cũng như suốt cả
đời sống linh mục.”
Ngài lặp lại lời Đức Gioan
XXIII khuyến cáo rằng “trước
khi là linh mục học thức, hùng biện, thức thời, thì cần phải là linh mục thánh
thiện và là người thánh hóa kẻ khác… Đó là những quyết tâm luôn luôn thời sự vì
hơn bao giờ hết Giáo Hội cần những chứng nhân đáng tin cậy chuyển tải sự thánh
thiện bằng chính cuộc sống của mình.”
A.1.
Linh mục là người được Chúa Thánh Thần tác động, chiếm hữu và hướng dẫn
A.1a
Mẹ Maria đầy Chúa Thánh Thần
Mẹ Maria là mẹ và kiểu mẫu mọi thời
cho linh mục để mình được Chúa Thánh Thần tác động, chiếm hữu và hướng dẫn.
Trình thuật truyền tin tô đậm nét cho xác quyết này:
-
‘Việc ấy sẽ xảy ra cách nào
được, vì tôi không biết đến việc vợ chồng!’
-
‘Thánh Thần sẽ ngự xuống trên
bà, và quyền năng Đấng Tối Cao sẽ rợp bóng trên bà, vì thế, Đấng Thánh sắp
sinh ra sẽ được gọi là Con Thiên Chúa’
-
“Đối với Thiên Chúa, không có
gì là không thể làm được.”
-
“Này tôi là nữ tỳ của Chúa, Xin
Vâng như lời sứ thần Chúa truyền.” (Lc 1, 34-35,37-38)
Nhờ
quyền năng Chúa Thánh Thần, Mẹ Maria mang thai Chúa Giêsu. Nhờ Mẹ mang Chúa đến
thăm, bà Elizabeth được đầy Chúa Thánh Thần: “Bà Êlisabét vừa nghe tiếng bà
Maria chào, thì đứa con trong bụng nhảy lên, và bà được đầy tràn Thánh Thần”
A.1b Một số nhân vật Phúc Âm được đầy Chúa Thánh Thần
-
Gioan Tẩy Giả:
“Vì em bé sẽ nên cao cả trước mặt Chúa…và ngay khi còn trong lòng mẹ, em
đã đầy Thánh Thần”
-
Dacaria:
“Dacaria, được đầy Thánh Thần, liền nói tiên tri rằng…”
-
Thánh Giuse
được thiên thần loan báo về Chúa Giêsu sinh ra
-
Simêon:
“Ông là người công chính và sùng đạo, ông những mong chờ niềm an ủi của
Israel, và Thánh Thần hằng ngự trên ông. Ông đã được Thánh Thần linh báo là
ông sẽ không thấy cái chết trước khi được thấy Đấng Kitô của Chúa: được
Thánh Thần thúc đẩy, ông lên đền thờ.”
-
Đặc biệt
Chúa Giêsu:
-
Được Isaia báo trước:
“Thần khí của Đức Chúa là Chúa Thượng ngự trên tôi, vì Đức Chúa đã xức dầu tấn
phong tôi, sai đi báo tin mừng cho kẻ nghèo hèn, băng bó những tấm lòng tan nát,
công bố lệnh ân xá cho kẻ bị giam cầm, ngày phóng thích cho những tù nhân, công
bố một năm hồng ân của Đức Chúa, một ngày báo phục của Thiên Chúa chúng ta;
Người sai tôi đi yên ủi mọi kẻ khóc than…”
-
Chính Chúa Giêsu khẳng định
về mình ở Hội đường Nazareth: “Thần Khí Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu
tấn phong tôi, để tôi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn. Người đã sai tôi đi
công bố cho kẻ bị giam cầm biết họ được tha, cho người mù biết họ được sáng mắt,
trả lại tự do cho người bị áp bức, công bố một năm hồng ân của Chúa… Hôm nay đã
ứng nghiệm lời Kinh Thánh quý vị vừa nghe”
A.1c Linh mục với
Chúa Thánh Thần
Cũng như mọi người,
linh mục đã lãnh nhận Chúa Thánh Thần và trở nên đền thờ Ngài ngự khi chịu bí
tích Rửa tội; và còn nhận lãnh Thánh Thần đầy đủ hơn trong Bí tích Thêm sức và
Truyền chức linh mục (với quyền tha tội). Vài đoạn Kinh Thánh nói rõ điều đó:
-
Mc 1,8 “Tôi thì tôi làm
phép rửa cho anh em trong nước, còn Người, Người sẽ làm phép rửa cho anh em
trong Thánh Thần.”
-
Lc 3,16 “Tôi,
tôi làm phép rửa cho anh em trong nước, nhưng có Đấng mạnh thế hơn tôi đang
đến, tôi không đáng cởi quai dép cho Người. Người sẽ làm phép rửa cho anh em
trong Thánh Thần và lửa.”
-
Ga 1,33 “Tôi
đã không biết Người,nhưng chính Đấng sai tôi đi làm phép rửa trong nước đã
bảo tôi: "Ngươi thấy Thần Khí xuống và ngự trên ai, thì người đó chính là
Đấng làm phép rửa trong Thánh Thần."
-
Ga 3,5 Chúa Giêsu đáp: “Thật,
tôi bảo thật ông: không ai có thể vào Nước Thiên Chúa, nếu không sinh ra bởi
nước và Thần Khí.”
-
Cv 1,5 “Ông
Gioan thì làm phép rửa bằng nước, còn anh em thì trong ít ngày nữa sẽ chịu
phép rửa trong Thánh Thần.”
-
Cv 6,2-4 “Chúng
tôi mà bỏ việc rao giảng Lời Thiên Chúa để lo việc ăn uống là điều không
phải. Vậy, anh em hãy tìm trong cộng đoàn bảy người được tiếng tốt, đầy Thần
Khí và khôn ngoan, rồi chúng tôi sẽ cắt đặt họ làm công việc đó. Còn chúng
tôi, chúng tôi sẽ chuyên lo cầu nguyện và phục vụ Lời Thiên Chúa.”
Hơn ai
hết linh mục phải để Chúa Thánh Thần hướng dẫn, như đã làm với chính Chúa Giêsu:
-
Mt 4,1 Bấy
giờ Chúa Giêsu được Thần Khí dẫn vào hoang địa, để chịu quỷ cám dỗ.
-
Mc 1,12
“Thần Khí liền đẩy Người vào hoang địa.”
-
Lc 4,1 “Chúa Giêsu được đầy
Thánh Thần, từ sông Giođan trở về.”
-
Ga 14,26: Chúa
Thánh Thần dạy dỗ và nhắc nhở mọi điều Chúa Giêsu đã dạy: “Nhưng Đấng Bảo
Trợ là Thánh Thần Chúa Cha sẽ sai đến nhân danh Thầy, Đấng đó sẽ dạy anh em
mọi điều và sẽ làm cho anh em nhớ lại mọi điều Thầy đã nói với anh em”
-
Lc 12,11-12: Thánh Thần cũng
sẽ dạy cho biết phải nói gì: “Khi người ta đưa anh em ra trước hội đường,
trước mặt những người lãnh đạo và những người cầm quyền, thì anh em đừng lo
phải bào chữa làm sao, hoặc phải nói gì, vì ngay trong giờ đó, Thánh Thần sẽ
dạy cho anh em biết những điều phải nói”
-
Mt 10,20; Mc 13,11: Thánh Thần
còn nói thay cho nữa -“Thật vậy, không phải chính anh em nói, mà là Thần
Khí của Cha anh em nói trong anh em.” "Khi người ta điệu anh em đi nộp, thì
anh em đừng lo trước phải nói gì, nhưng trong giờ đó, Thiên Chúa cho anh em
biết điều gì, thì hãy nói điều ấy: thật vậy, không phải chính anh em nói, mà
là Thánh Thần nói.”
Chúa Thánh Thần giúp kiện toàn đời sống và
sứ vụ linh mục bằng 7 ơn của Ngài: Khôn ngoan, tri thức, thấu hiểu, sức mạnh, lo
liệu, đạo đức và kính sợ Chúa. Chính Ngài đã ngự xuống trên các tông đồ dưới
hình những lưỡi lửa, cho họ nói các thứ tiếng khác nhau, biến đổi họ nên can đảm
rao giảng Chúa Kitô Phục Sinh và hôm ấy có khoảng ba ngàn người theo Đạo.
Chúng
ta phải trung thành và ngoan ngoãn nghe theo ơn soi sáng của Chúa Thánh Thần,
hầu mang lại hoa trái: Bác ái, vui mừng, bình an, nhẫn nại, tế nhị, tốt bụng,
quảng đại, hòa nhã, trung tín, khiêm tốn, tự chủ và thanh khiết.
Xin
Chúa Thánh Thần dùng môi miệng của ta mà nói điều Chúa muốn nói; xin Ngài soi
sáng trong trí khôn cho ta viết lại; Ngài cũng có thể cầm tay ta giúp ta viết
lên điều Ngài muốn; xin Ngài viết ra trên vách cho ta xem mà chép lại, như
trường hợp Danien giải thích cho vua Bensatsa:
“Thiên Chúa đã cho bàn tay đến viết hàng chữ kia: MƠ-NÊ, TƠ-KÊN, PƠ-RẾT. Và đây
là lời giải thích những chữ đã được viết ra:
-
MƠ-NÊ có nghĩa
là đếm: Thiên Chúa đã đếm và chấm dứt những ngày của triều đại ngài;
-
TƠ-KÊN có nghĩa
là cân: ngài đã bị đặt trên bàn cân và thấy là không đủ;
-
PƠ-RẾT có nghĩa
là phân chia: vương quốc của ngài đã bị phân chia và trao cho các dân Mêđi
và Batư.”
Và vì tất cả những
lẽ đó, thánh Phaolô nhắc nhở chúng ta đừng làm phiền lòng Chúa Thánh Thần,
đừng dập tắt Thần Khí.
Còn Chúa Giêsu thì khẳng định rằng ai phạm đến Chúa Thánh Thần thì chẳng được
tha, cả đời này lẫn đời sau.
A.1d Bảy ơn
Chúa Thánh Thần trong đời sống linh mục
Trong buổi tiếp kiến ngày
12/2/2011, ĐTC Biển Đức XVI nhắc nhở “Cũng
như toàn thể Giáo Hội, đời sống linh mục cần được canh tân liên lỉ, để tìm thấy
lại trong cuộc sống của Chúa Giêsu những hình thức thiết yếu nhất của con người
mình.” Chúng ta chỉ có
thể tìm được tác nhân khởi động, tiếp tục và kiện toàn sự canh tân liên lỉ đó ở
nơi Chúa Thánh Thần. Chính Ngài giúp chúng ta biến đổi và kiện toàn đời sống và
sứ vụ qua bảy ơn của Ngài:
1) Ơn Kính Sợ là
hồng ân giúp chúng ta không dám làm bất cứ điều gì khả dĩ làm mất lòng Chúa. Đây
là một sự tế nhị của người đang yêu: tế nhị khác sợ hãi, cậu bé Saviô dóc lòng “thà
chết chứ không phạm tội trọng” và mẹ vua thánh Louis luôn nhắc nhở con “thà
mẹ nhìn thấy con chết trước mắt mẹ hơn là thấy con phạm tội trọng mất lòng Chúa.”
Như thế, điều quan trọng trong đào tạo kitô giáo là gây nên nơi tín hữu một ý
thức sợ tội, vì người ngày nay mất dần cảm thức về tội. Chính vì vậy, thành công
của công việc đào tạo tín hữu, nhất là đào tạo linh mục và tu sĩ, là biết làm
cho người thụ huấn có được lòng kính sợ Thiên Chúa, không dám phạm tội mất lòng
Chúa.
2) Ơn Đạo Đức giúp
chúng ta nhận ra mối tương quan yêu thương giữa chúng ta với Thiên Chúa, và
tương quan yêu thương giữa chúng ta với anh chị em, trong tinh thần siêu nhiên
và đức tin.
3) Ơn Suy Biết giúp
chúng ta có thể đánh giá các sự vật ở trên bậc thang giá trị đích thực. Đừng
hiểu lầm Lời Chúa, Chúa không bao giờ bảo chúng ta ghét cha mẹ, gia đình hay bản
thân, nhưng là biết đặt nó vào đúng vị trí của nó trên bậc thang giá trị, ví dụ
chúng ta có bổn phận thảo kính và mến yêu cha mẹ, nhưng cha mẹ lại không thể
được đặt cao hơn Chúa và tình yêu đối với Chúa…
4) Ơn Sức Mạnh
là ơn giúp chúng ta can đảm vượt lên những chướng ngại để chọn lựa như Chúa muốn
và sống theo ý Chúa, ví dụ tấm gương của thánh Françoise de Chantal, khi đã góa
chồng và đã nuôi dưỡng 4 con trưởng thành, bà gặp thánh Françoise de Salle, biết
được lời mời gọi và ý muốn của Chúa rồi muốn đi tu, bốn đứa con ngăn cản nằm dài
trên lối đi, bà đã can đảm tay cầm mouchoir vừa gạt nước mắt vừa bước qua từng
người con để từ bỏ gia đình ra đi lập dòng Visitadines.
5) Ơn Lo Liệu là
ơn giúp chúng ta tìm ra những phương thế và cách sống nào thích hợp nhất để thực
hiện điều Chúa muốn, tùy theo bậc sống của mình.
6) Ơn Thông Hiểu giúp
đưa chúng ta vào sự thật viên mãn khi đọc Lời Chúa.
Nhiều linh mục giáo phận có thói quen xin ơn Chúa Thánh Thần mỗi khi soạn bài và
giảng cho giáo dân: Xin Chúa Thánh Thần tiếp tục tác động, biến đổi và thánh
hóa con cùng những người sẽ lắng nghe con, xin Chúa dùng môi miệng con mà nói
điều Chúa muốn nói. Tông huấn Verbum Domini số 85-87 gợi cho linh mục 3 câu
hỏi trước khi dọn và giảng: Sứ điệp Lời Chúa hôm nay là gì? Lời Chúa dạy gì
riêng cho tôi hôm nay? Lời Chúa hôm nay dạy gì cho những người sắp nghe tôi?
Có thế thì bài giảng mới đưa Lời Chúa vào thực tiễn cuộc sống và biến đổi cuộc
sống được.
7) Ơn Khôn Ngoan mang
lại ơn chiêm niệm, ơn thần bí, ơn cảm nếm được sự dịu ngọt và khôn
ngoan của Thiên Chúa.
Thánh Phaolô trong thư thứ 2 gởi giáo đoàn Corinthô
đã kể lại việc ngài đã được ơn này như thế nào: không còn biết đến thế giới vật
chất này nữa, không còn bị giới hạn bởi không gian và thời gian nữa, “ở trong
thân xác hay ngoài thân xác” ngài đều không biết. Cụ già Simêon được ơn này
lúc bồng Chúa Hài Nhi trên cánh tay cằn cỗi của mình, nhưng mãn nguyện thốt lên
“xin để cho tôi tớ Chúa ra đi bình an, vì mắt tôi đã nhìn thấy Ơn cứu độ…”
Chúng ta cũng hãy cầu xin ơn này trong đời sống kết hiệp nội tâm với Chúa.
Chúa luôn đổi mới lời mời gọi của
Chúa trong từng hoàn cảnh sống của chúng ta, thì chúng ta cũng phải đổi mới luôn
lời đáp trả của chúng ta sao cho phù hợp. Chúa Giêsu đã khẳng định rằng người
cha trần thế vốn xấu ác mà còn biết lựa của tốt cho con cái, vậy Cha trên trời
sẽ ban Thánh Thần cho những ai kêu xin Người. Chúng ta cầu xin Chúa Thánh Thần
đến sửa lại mọi sự trong ngoài đời sống và sứ vụ của chúng ta, đặc biệt trong
việc tìm kiếm và xây dựng tình yêu thương hiệp nhất: Tháp Babel vì ngôn ngữ bất
đồng mà thất bại; Chúa Thánh Thần Hiện Xuống ban cho các tông đồ nói thứ ngôn
ngữ mà mọi dân nước đều hiểu được. Sách Công vụ Tông đồ thuật lại việc Chúa
Thánh Thần đã ngự xuống trên các tông đồ dưới hình những lưỡi lửa, cho họ nói
thứ tiếng mà các dân tộc khác nhau đều hiểu được trong tiếng mẹ đẻ của mình,
biến đổi các ngài nên can đảm rao giảng Chúa Kitô Phục Sinh và hôm ấy có khoảng
ba ngàn người theo Đạo.
Đó là ngôn ngữ chung của Tình Yêu? Vì chỉ có tình yêu mới có khả năng biến đổi
như thế và Thiên Chúa là Tình Yêu. Lời Ca Tiếp Liên lễ Chúa Thánh Thần Hiện
Xuống là một lời cầu nguyện tuyệt vời cho chúng ta:
Muôn lạy Chúa Thánh Thần, xin ngự
đến trần gian,
Từ trời cao gửi xuống nguồn ánh
sáng tỏa lan.
Lạy Cha kẻ bần hàn,
Đấng tặng ban ân điển và soi dẫn
nhân tâm,
Cúi xin Ngài ngự đến.
Đấng an ủi tuyệt diệu, thượng
khách của tâm hồn
Ôi ngọt ngào êm dịu, dòng suối mát
chảy tuôn.
Khi vất vả lao công, Ngài là nơi
an nghỉ
Gió mát đuổi cơn nồng, tay hiền
lau giọt lệ.
Hỡi hào quang linh diệu, xin chiếu
giãi ánh hồng
Vào tâm hồn tín hữu cho rực rỡ
trinh trong.
Không thần lực phù trì, kẻ phàm
nhân cát bụi
Thật chẳng có chi mà không là tội
lỗi.
Hết những gì nhơ bẩn, xin rửa cho
sạch trong
Tưới gội nơi khô khan, chữa lành
mọi vết thương.
Cứng cỏi uốn cho mềm, lạnh lùng
xin sưởi ấm,
Những đường nẻo sai lầm, sửa sang
cho ngay thẳng.
Những ai hằng tin tưởng, trông cậy
Chúa vững vàng
Dám xin Ngài rộng lượng, bảy ơn
thánh rộng ban.
Nguyện xin Chúa thưởng công, cuộc
đời dày đức độ,
Ban niềm vui muôn thuở, sau giờ
phút lâm chung. Amen
_____
chú thích
(còn tiếp nhiều kỳ)
|
VỀ MỤC LỤC |
|
VAI TRÒ CỦA TRUYỀN THÔNG VỚI SỨC
KHỎE QUẦN CHÚNG
|
Trong thế kỷ
vừa qua, sự tiến bộ của y khoa học đã vượt quá sức tưởng tượng.
Những khám
phá mới về cấu tạo cơ thể đã giúp hiểu rõ hơn về sự mầu nhiệm
của tạo hóa khi tạo ra con người với muôn ngàn chức năng thần
sầu, ngoạn mục.
Thêm vào đó
là rất nhiều phát minh đã làm sáng tỏ về căn nguyên, diễn tiến,
cách chẩn đoán cũng như điều trị các loại bệnh.
Tin tức về y
khoa trở nên phong phú hơn nhưng cũng phức tạp, khó hiểu với các
từ ngữ mới về bệnh tật, các danh từ kỹ thuật về phương thức chẩn
đoán khám chữa bệnh cũng như danh tính các tác nhân gây bệnh.
Nguồn cung cấp tin tức dữ kiện y khoa học cũng nhiều và dưới các
hình thức khác nhau, đặc biệt là kết quả các nghiên cứu đã hoàn
tất mỹ mãn cũng như kết quả sơ khởi, cần nhiều nghiên cứu khác
để được coi là chung kết.
Trước các
kiến thức mới này, một người có sức học trung bình thu lượm được
cách đây trên dưới nửa thế kỷ đôi khi cảm thấy mình như lạc lõng
không biết phải dùng những tin tức nào để duy trì sức khỏe. Đặc
biệt là đối với những người tuổi cao, nhóm dân thiểu số, những
người có căn bản giáo dục giới hạn, lợi tức thấp hoặc đang ở
trong tình trạng sức khỏe suy kém.
Thống kê cho
hay có tới 12% dân chúng thiếu hiểu biết về các vấn đề sức khỏe.
Họ sẽ rơi vào các hoàn cảnh như:
- Thiếu hiểu
biết hoặc hiểu biết không đúng về cấu tạo cơ thể, diễn tiến và
nguyên nhân gây ra bệnh
- Không biết
tự chăm sóc cũng như phòng tránh bệnh tật.
- Thường có
sức khỏe kém vì bỏ qua các phương thức phòng tránh bệnh mà khoa
học đã cống hiến. Chẳng hạn, họ sẽ không làm mammogram để tìm
kiếm ung thư nhũ hoa, không làm pap smear để sớm khám phá ung
thư cổ tử cung, không chịu chích ngừa cúm…
- Có nhiều
bệnh kinh niên và thường hay than phiền đau chỗ này bệnh chỗ kia
- Không chữa
trị ổn định bệnh do đó dùng nhiều dịch vụ để chữa các biến chứng
của bệnh và ít dùng dịch vụ để giảm thiểu các biến chứng.
- Nhập bệnh
viện nhiều hơn
- Thường tới
phòng cấp cứu để chữa các bệnh thông thường thay vì tới bác sĩ
gia đình, đưa tới gia tăng chi phí y tế.
- Chỉ đi khám
bệnh khi bệnh đã trở nên trầm trọng.
Nhìn thấy vấn
đề, chính quyền và các tổ chức y tế xã hội công tư đã cố gắng
cùng nhau:
- Nâng cao ý
thức y tế, giúp cải thiện tình trạng sức khỏe của cá nhân, gia
đình, cộng đồng và xã hội
- Nâng cao ý
thức y tế giúp mọi người sống lành mạnh hơn
- Nâng cao ý
thức y tế cũng giảm thiểu nạn tử vong vì sanh non, tại nạn giao
thông, lao động, ảnh hưởng của các chất có hại cho sức khỏe
- Nhờ tập
trung vào sự phòng bệnh, nâng cao ý thức y tế giúp cắt giảm chi
phí chăm sóc điều trị cho cá nhân cũng như gia đình và ngân sách
quốc gia.
Cổ võ y tế
dựa trên các kết quả nghiên cứu về sinh học, môi trường, tâm lý,
y khoa học để duy trì sức khỏe, tránh bệnh tật, chết yểu…bằng
cách thúc đẩy quần chúng tự mình thay đổi nếp sống, áp dụng điều
tốt, loại bỏ điều xấu.
Cổ võ y tế
cũng giúp quần chúng tạo ra các cơ hội để nâng cao kiến thức,
tạo ra hành vi lành mạnh, bảo vệ sức khỏe.
Cổ võ y tế có
thể sử dụng các phương tiện liên lạc để chuyển đạt các tin tức
có tính cách xây dựng.
Bottom of Form
Một trong
những phương tiện để tăng cường sự hiểu biết và cải thiện sức
khỏe của quần chúng là truyền-thông-đại-chúng (Mass
Communications hoặc Mass Media).
Truyền thông đại
chúng có ít nhất 4 vai trò:
- Thu lượm
tin tức về sức khỏe bệnh tật
- Lọc lựa
phân tich các tin tức
- Phổ biến
các tin tức chính xác có ích lợi trong việc bảo vệ sức khỏe tới
dân chúng đồng thời cũng tạo điều kiện để mọi người có thể đối
thoại với nhau dù ở cách xa.
- Cung cấp
giải trí để đời sống quần chúng thoải mái, thư giãn hơn.
Nhờ truyền
thông giáo dục, mọi người có thể nghe tận tai, đọc- nhìn tận mắt
những gì mà nếu không có truyền thông đều không có được. Thế
giới như thu hẹp lại nhờ truyền thông. Đây là kết quả của tiến
bộ trong lãnh vực kỹ thuật và công kỹ nghệ điện tử.
Ngày xưa,
việc truyền đạt lệnh lạc, ý tưởng trực tiếp giữa con người diễn
ra trong phạm vi hết sức hạn hẹp. Thông tin trong xóm làng là
các chú “Mõ” lốc cốc gõ sừng trâu, gáo dừa đi từng xóm để loan
tin cần thiết. Rộng lớn hơn thì có truyền hịch, chạy ngựa báo
tin. Ngày nay nhờ truyền thông đại chúng, sự trao đổi này quy mô
rộng lớn hơn, từ địa phương nhỏ bé tới không gian bao la, từ một
số giới hạn con người tới cả triệu triệu quần chúng. Một dịch
bệnh nguy hiểm ở vùng sa mạc Phi châu chỉ cần vài phút là quần
chúng khắp địa cầu biết tới. Một phương thức trị bệnh mới lạ
cũng mau chóng được thông báo tới các bác sĩ và bệnh nhân.
Truyền thông
cũng mang lại nhiều thay đổi trong các giá trị sẵn có từ lâu và
cũng thúc đẩy con người “hiện đại” hóa cuộc sống.
Các phương
tiện truyền thông đại chúng gồm có:
1- TV truyền
hình
Đây là phương
tiện chuyển đạt tin tức rất hữu hiệu tới mọi người, không kế già
trẻ, nam nữ.
Lợi điểm của
truyền hình là gửi đi cả lời nói lẫn hình ảnh, khiến cho người
coi lãnh hội dễ dàng và có ảnh hưởng lâu dài, vì quần chúng sẽ
nhớ mãi.
Tuy nhiên,
bên cạnh những tin tức tài liệu hữu ích thì TV đôi khi cũng có
những màn bạo lực, dâm ô, quảng cáo quá mức, gây ảnh hưởng xấu
cho sức khỏe.
2- Radio
Rất phổ biến,
tới được nhiều thính giả với đầy đủ chi tiết và chi phí cũng ít
hơn là với TV. Các vị cao niên đều rất thích nghe các chương
trình của radio, từ thời sự thế giới tới cách bảo vệ sức khỏe,
phân ưu, chia vui…
3- Báo chí
Theo thống
kê, có tới 70% dân chúng thu lượm kiến thức về sức khỏe qua nhật
báo. Lợi điểm của báo chí là độc giả có đầy đủ các loại tin tức,
đọc lúc nào cũng được chứ không như TV, radio: mất dịp coi nghe
một chương trình là mất luôn, không coi nghe lại được.
4- Tạp chí
Với tạp chí,
độc giả thường có tính cách chọn lựa, tài liệu tương đối có giá
trị hơn và thường được cất giữ để dành hoặc trao đổi với bạn
bè.
5- Internet
Đây là phương
tiện truyền thông rất phổ biến hiện nay, ai cũng có thể sử dụng
để thu nhận và truyền đạt tin tức. Người sử dụng có thể dùng bất
cứ lúc nào, gửi đi bất cứ tin tức gì. Tuy nhiên, các tin tức
nhiều khi không được kiểm chứng tính cách xác thực, gây hoang
mang, ngộ nhận cũng như làm phiền lòng người nhận.
6- Các
trang web, blogger với các bài viết y khoa học đầy đủ chi
tiết có tính cách xây dựng, giáo dục.
Đó là chưa kể
tới các thông tin qua tờ bướm tờ rơi, bảng quảng cáo, bích
chương, bích báo, bản tin luân lưu nội bộ cũng như âm nhạc, hình
ảnh, nét vẽ minh thị…
Truyền thông
đại chúng cũng được các nhà chuyên môn y tế xã hội sử dụng rất
nhiều để cải thiện sức khỏe quần chúng. Nhờ truyền thông mà các
phương thức phòng ngừa bệnh, các hiểu biết về nguyên nhân gây
bệnh, diễn tiến bệnh cũng như các phương thức điều trị căn bản
được phổ biến.
Các nhà
chuyên môn có thể dùng truyền thông để gửi tới dân chúng các tin
tức y học liên quan tới việc bảo vệ sức khỏe, phòng tránh bệnh
tật. Họ cũng có thể dùng truyền thông để mở ra các cuộc thảo
luận với dân chúng về y khoa học hoặc góp ý kiến, giải đáp cho
dân chúng về các thắc mắc bệnh tật thông thường.
Truyền thông có
một số lợi điểm như:
- Truyền
thông dễ dàng lôi cuốn sự lưu ý của quần chúng đối với các vấn
đề sức khỏe một cách mau chóng
- Truyền
thông có thể đưa ra các ý kiến về sức khỏe hết sức hữu hiệu.
- Truyền
thông có thể kích thích quần chúng, tạo ra những đáp ứng tình
cảm để người nghe-coi thay đổi nếp sống ngõ hầu có một sức khỏe
tốt.
- Truyền
thông có thể tác động lên dư luận, tạo ra các cơ hội để tranh
luận cách thức duy trì sức khỏe, phòng ngừa bệnh tật qua phượng
tiện liên lạc.
- Truyền
thông có thể hợp tác với các nhà chuyên môn để tổ chức các buổi
gặp gỡ giữa quần chúng với nhau hoặc giữa các nhà chuyên môn với
quần chúng để trao đổi kiến thức bảo vệ sức khỏe.
Ngoài ra,
truyền thông cũng có:
- Tính cách
giáo dục, chia sẻ kiến thức, cổ võ những hành vi có lợi cho công
ích
- Giúp cải
thiện sự gắn bó các quan hệ công cộng, giúp các tổ chức liên
quan tới bảo vệ sức khỏe cùng sát cánh làm việc.
- Góp phần
tranh đấu, cổ võ, truyền thông tiếp tay với các nhà lãnh đạo đưa
ra các chính sách y tế, dung hòa các tranh luận và tìm ra các hỗ
trợ ý kiến có tính cách quyết định đặc biệt.
Tuy vậy, truyền
thông cũng có một số bất lợi như:
- Truyền
thông gửi ra thông tin nhưng ít khi tiếp nhận được phản ứng của
quần chúng.
- Khó mà ước
lượng coi xem tin tức đưa ra có đáp ứng nhu cầu dân chúng, có
đúng thời điểm và không biết phản ứng của dân chúng ra sao.
- Dân chúng
có thề không coi, không đọc hoặc tắt tv, radio giữa chừng vì bất
đồng ý kiến.
- Do ảnh
hưởng của kinh tế tự do cạnh tranh “khuyến thị”, truyền thông
cũng lệ thuộc vào các “thông-tin-thương-mại” để trang trải chi
phí điều hành, cơ sở, nhân viên, cho nên nhiều khi phổ biến
những dữ kiện có tính cách chủ quan, thỏa mãn lợi nhuận cho giới
sản xuất, cung cấp dịch vụ, hàng hóa. Nhưng, “đời là thế”, khán
thính giả cũng “sính sái”, thông cảm. Vì “có bột mới gột nên
hồ”. Không tiền thì lấy đâu ra đài ra sóng, không cả văn nghệ
văn gừng giải trí chứ nói chi tới tuyên truyền cổ võ sức khỏe
miễn phí.
- Đôi khi vì
tính cách thời sự nóng hổi, “giật gân”, truyền thông cũng loan
tải các tin tức chưa được chứng minh tính cách xác thực hoặc
chưa có sự đồng thuận của các nhà chuyên môn, gây hoang mang cho
người nhận.
Truyền Thông
giữ một vai trò quan trọng trong việc chăm sóc sức khỏe
của quần chúng. Đó là điều quan tâm hàng đầu của nhân
loại. Bản hiến chương của Tổ Chức Y Tế Liên Hiệp Quốc,
WHO, đã công bố “ sức khỏe là một quyền căn bản của con
người “
Đối với
Phật giáo, sức khỏe được xem là món quà lớn nhất của
đời người. Một trạng thái an lạc và khỏe mạnh của thân
và tâm là tối cần thiết trong việc tập trung tư tưởng
để tu tập.
Mặc dù có vài
khuyết điểm có thể điều chỉnh và tránh được, truyền thông đại
chúng vẫn có vai trò quan trọng trong việc bảo vệ sức khỏe quần
chúng.Điều tiên quyết là các dữ kiện đưa ra phải rõ ràng, chính
xác, có tính cách thuyết phục và có thể giúp người nhận áp dụng
được.
Như Đức Giáo
Hoàng John Paul II từng nhắc nhở:
“Sự phát
triển tích cực của truyền thông để phục vụ chính nghĩa chung là
trách nhiệm của mỗi người. Vì sự liên quan chặt chẽ giữa truyền
thông với kinh tế, chính trị, văn hóa, cần có một hệ thống điều
hành có khả năng bảo vệ quyền hạn và nhân cách của con người,
bảo vệ tính ưu việt của gia đình như một đơn vị căn bản của xã
hội và sự gắn bó đích thực giữa người với người”.
Bác sĩ Nguyễn Ý
Đức.
Arlington-Texas.
www.bsnguyenyduc.com
|
VỀ MỤC LỤC |
CON HEO TRONG NẾP SỐNG CỦA
NGƯỜI BÌNH DÂN -
Chuyện phiếm của Gã Siêu |
Heo là một loài gia súc, tức là
một loại súc vật được nuôi trong nhà, rất thân thương và gần gũi
với chúng ta. Phần lớn các gia đình tại nông thôn, nhà nào cũng
nuôi một vài con heo, tựa hồ như tiền bỏ ống. Mỗi ngày chỉ cần
cho heo ăn cơm thừa canh cặn, hay bỏ ra một chút cám bã, để rồi
khi bán sẽ có được một món tiền kha khá, chi dùng cho những việc
lớn
Người miền Bắc thường nuôi heo
trong chuồng, còn người miền Nam cứ để heo đi lông bông, thành
thử heo chung sống với người và người chung sống với heo.
Ngày xưa muỗi không đến nỗi
nhiều, ban tối người ta hun khói, hay cho heo rúc vào đống lá
chuối khô. Ngày nay, do ảnh hưởng của việc trồng lúa thần nông,
nên muỗi cứ liên tục phát triển, nhất là vào những thời điểm
bơm nước và vãi phân, thành thử người ta phải làm…mùng cho heo
ngủ.
Tuy nhiên, để heo được chóng
lớn, thì phải biết chọn những con đầu đàn, nghĩa là những con
to, những con lớn, chứ còn nuôi heo còi, heo tẹt, thì chỉ tốn
công, mà lời lãi thì chẳng được bao nhiêu.
Vì thế mà người ta đã khuyên :
- Lợn đầu, cau cuối.
Khi nuôi heo, ngán nhất là khi heo đau, heo bệnh. Gã xin nói lên
một kinh nghiệm có phần sống sượng và bẽ bàng, nhưng lại là sự
thật :
- Vợ con đau không lo cho bằng heo bị bệnh.
Thực vậy, vợ con đau thì mình đưa đi bác sĩ để biết được bệnh mà
trị liệu, còn heo đau thì vắt giò lên cổ mà chạy thuốc. May thì
khỏi, không may thì chết. Thành thử mỗi khi heo đau, một bầu khí
“tang thương ngẫu lục” phủ xuống, làm cho mọi người trong nhà
chẳng còn thiết ăn uống gì nữa.
Trong việc cho heo ăn, người ta thường nói :
- Lợn đói một bữa, bằng người đói nửa năm.
Đây là một kinh nghiệm trong nghề chăn nuôi : Lợn mới bị đói một
bữa chưa kịp cho ăn, là nó kêu réo dữ lắm và nhìn thân hình nó
dường như đã gầy tóp đi phần nào, nên trước khi đem lợn đi bán,
người ta phải cho chúng ăn thật no.
Còn nghề nuôi tằm cũng thế :
- Lợn đói một năm, bằng tằm đói một bữa.
Tằm còn háu ăn hơn cả lợn. Nếu chậm cho tằm ăn một bữa, thì
chúng sẽ bò đi hết, việc tăng trưởng bị chậm lại thấy rõ, về sau
chúng nhả tơ có phần it đi.
Cùng với cá, thịt heo là một món ăn thông thường của người Việt
Nam, đặc biệt vào những dịp hội hè đình đám cũng như tết nhất.
Mỗi khi tết đến, gã lại nghe rộn rã :
- Thị mỡ, dưa hành, câu đối đỏ,
Nêu cao, pháo nổ, bánh chưng xanh.
Vào những ngày gần tết, người ta thường thấy những ông đồ nho,
ngồi viết câu đối trên nên giấy đỏ để bán cho khách qua lại :
- Mỗi năm hoa đào nở,
Lại thấy ông đồ già,
Bày mực tàu giấy đỏ,
Bên phố đông người qua.
Bao nhiêu người thuê viết,
Tấm tắc ngợi khen tài.
Hoa tay thảo những nét,
Như phượng múa rồng bay.
Nhưng rồi chữ quốc ngữ được phổ biết, và nhất là thời bây giờ
với nền văn hóa thực dụng, người ta nghĩ đến những chiếc phong
bì, đến những chai rượu tây, đến những món quà…”chất lượng cao”,
nên cũng chẳng còn thấy bóng dáng ông đồ nữa :
- Năm nay đào lại nở,
Không thấy ông đồ xưa.
Những người muôn năm cũ,
Hồn ở đâu bây giờ.
Tuy nhiên, những người miền Nam vào dịp tết thường mua những cặp
dưa hấu trưng trên bàn thờ. Vì thế, nên người ta đã đổi thành :
- Thịt mỡ dưa hành, dưa hấu đỏ,
Nêu cao pháo nổ, bánh chưng xanh.
Mấy năm gần đây, nhà nước cấm làm pháo và cấm đốt pháo. Vì thế,
trong những đám cưới người ta đã làm cho những chiếc bong bóng
nổ thay vì tiếng pháo. Vậy chẳng lẽ phải đổi thêm một lần nữa :
- Thịt mỡ dưa hành, dưa hấu đỏ,
Nêu cao…bóng nổ, bánh chưng xanh.
Người Việt Nam ăn tết không thể thiếu món thịt lợn, nhất là đối
với những người sống ở nông thôn ngày xưa. Lúc bấy giờ, cuộc
sống còn nhiều lam lũ và thiếu thốn, có khi cả năm trời mới được
một vài lần ăn thịt mà thôi, thành thử vào dịp tết, người ta
thường “đánh đụng” với nhau, để có tí thịt cho gia đình. Vì thế,
ông thầy bói đoán chẳng sai :
- Số cô chẳng giàu thì nghèo,
Ba mươi tết có thịt heo trong nhà.
Một trong những món ăn được coi là “đặc sản” của người Việt Nam,
đó là món lòng lợn tiết canh. Muốn có được bộ lòng ngon thì phải
biết chọn con lợn mập :
- Trông mặt mà bắt hình dong,
Con lợn có béo thì lòng mới ngon.
Cổ họng, sườn non băm nhuyễn, rồi xào lên mà đánh tiết canh thì
thật tuyệt, ăn vào cứ gọi là ngọt lịm. Ở miền Nam, người ta hay
đánh tiết canh bằng dĩa, còn ở miền Bắc người ta hay đáng tiết
canh bằng bát. Một người một bát tiết canh nho nhỏ.
Trong bộ lòng, cái mà nhiều người cho là ngon nhất, đó là cái dạ
con, người Bắc gọi là…tràng lợn. Tràng lợn có thể luộc, xào hay
khìa, chế biến cách nào cũng tuyệt vời, vì vừa ngậy lại vừa dòn.
Hơn thế nữa, hình ảnh con heo cũng đã chiếm một vị trí quan
trọng trong mối liên hệ với những người chung quanh suốt dọc
cuộc sống thường ngày.
Thực vậy, lời nói chính là một phương tiện để tỏ lộ cho người
khác biết được những tư tưởng, những ước muốn của chúng ta, nhờ
đó mà bắc được một nhịp cầu cảm thông và xích lại gần nhau hơn.
Thế nhưng, có những kẻ mắc phải cái tật nói dài, nói dẻo, nói
dai, nhưng lại toàn những lời nói gian, nói dối, nói lươn, nói
lẹo để mà luồn, mà lách hay úp úp mở mở, khiến người khác bực
bội mà bảo
- Hãy nói toạc móng heo ra đi.
Bàn chân con heo có hai móng, cứ mỗi lần bước đi, thì hai móng
ấy lại toạc ra, rẽ ra để bấm chặt vào đất mà leo lên nơi cao,
hay dễ dàng bới đất tìm củ mà ăn. Ý nghĩa của cây này là hãy nói
thẳng ra, rõ ràng minh bạch, không che dấu sự thật.
Có người lại cắt nghĩa như sau : móng heo là một loại sừng cứng
bao bọc kín hết ngón chân. Cái vỏ bên ngoài vừa cứng lại vừa kín
như vậy, hẳn là khó lòng biết rõ được cái bên trong. Vậy muốn
biết ngón chân heo chỉ còn cách làm toạc móng. Quả nhiên, khi
làm toạc móng, một mặt làm mất cái che đậy bên ngoài, mặt khác
làm lộ rõ phần bên trong của chân heo.
Trong công việc làm ăn, đôi khi người ta tự mình tạo nên những
khó khăn cho bản thân :
- Lợn trong chuồng thả ra mà bắt.
Hay vì thiếu kinh nghiệm, ít khả năng mà làm hỏng việc, đang tốt
mà hóa thành xấu, đang ngon lành trở thành hư hại, đúng là :
- Lợn lành chữa ra lợn què.
- Lợn lành chữa lợn toi.
Câu này ý nghĩa hơi khác đi một tí : khi dịch bệnh tràn lan,
phải bán con heo mạnh khỏe đi để lấy tiền chạy chữa cho những
con heo đau.
Đã là người, thì ai cũng đều có máu tham lưu thông trong huyết
quản, không nhiều thì ít. Máu tham ấy dường như là một mẫu số
chung của tất cả chúng ta :
- Lòng vả cũng như lòng sung,
Một trăm con lợn cũng chung một lòng.
Máu tham ấy, một khi đã bốc lên bừng bừng, thì chúng ta sẵn sàng
đòi hỏi người khác những việc khó khăn, và vô lý, miễn sao mang
lại lợi lộc cho chúng ta :
- Mổ lợn đòi bèo,
Mổ mèo đòi mỡ.
Cám trộn lẫn với bèo, khi heo ăn vào sẽ được tiêu hóa, tới lúc
làm thịt thì đâu còn nữa mà đòi. Còn mèo thi có con nào mập đâu
mà đòi mỡ. Rõ thật đòi hỏi những sự trái khoáy và quá quắt.
Còn bản thân mình, thì lại rất sẵn sàng :
- Mượn đầu heo nấu cháo.
Có nghĩa là mượn vốn người khác để mua bán lấy lời, hay nhận ký
gửi hàng hóa của nhà sản xuất để bán lấy tiền, rồi dùng tiền ấy
mua hàng hóa khác mà bán, lâu lắm mới tính sổ và thanh toán cho
nhà sản xuất. Cũng giống như nấu cháo với cái đầu heo mượn của
người khác, cho ra nước ngọt, mà cái đầu heo vẫn còn nguyên để
hoàn trả cho…khổ chủ.
Ngoài ra, trong việc diệt trừ tham nhũng, ở nước nào cũng vậy,
chỉ những tên tép riu là thiệt, còn các quan lớn, ăn miếng to
thì chẳng ma nào dám đụng tới, thành thử cái nạn tham nhũng ấy
vẫn cứ tồn tại và liên tục phát triển :
- Mèo tha miếng thịt xôn xao,
Kễnh tha con lợn thì nào thấy chi.
Nhưng đặc biệt hơn cả phải là chỗ đứng của con heo trong tình
yêu, trong mối quan hệ giữa nam và nữ.
Ở đây gã không bàn tới “con lợn lòng”, tức là những ước muốn xấu
xa nổi lên trong tâm hồn, nỗi đam mê về…nhục dục nơi cõi lòng
chúng ta, mà chỉ nói đến những con heo cụ thể bằng xương bằng
thịt.
Trước khi bước vào cuộc sống hôn nhân, người con trai cũng như
người con gái đều trải qua một thời gian tìm hiểu để rồi chọn
lựa, bởi vì hôn nhân không phải chỉ ảnh hưởng tới cả hai người
trong suốt cuộc đời, mà còn ảnh hưởng tới cả con cái cháu chắt
nữa.
Trong việc chọn lựa, phải xét đến yếu tố gia đình, yếu tố dòng
tộc. Về mặt sức khỏe, gia đình ấy và dòng tộc ấy có mang những
chứng bệnh di truyền hay không ? Về mặt đạo đức, gia đình ấy và
dòng tộc ấy có đáng tin cậy hay không ? Thành thử những người
giàu kinh nghiệm đã khuyên nhủ :
- Lấy vợ xem tông, lấy chồng xem giống.
Nhất là đối với người con trai, cần phải xem xét, tìm hiểu và
cân nhắc cho thật thấu đáo, giống như :
- Mua heo lựa nái,
Cưới gái chọn dòng.
Khi tình yêu đã chín mùi, nhà trai sẽ thương lượng với nhà gái
về những chuyện lỉnh kỉnh để tiến hành và tổ chức hôn lễ. Trong
những chuyện lỉnh kỉnh ấy có tục “thách cưới”. Tục lệ này không
phải chỉ phổ biến ở nông thôn mà còn ở thành phố, không phải chỉ
ngày xưa mới có, mà hôm nay cũng có, nhưng xem ra nhẹ nhàng và
giản dị hơn.
Thách cưới là việc nhà gái đưa ra những điều kiện về sính lễ để
gả con. Theo Việt Nam Văn Hóa Sử Cương :
“Việc gả chồng cho con gái thì từ xưa đã đã thành một việc
bán con gái để lấy tiền, nên nhiều nhà gái thách cưới rất cao”.
Có những kiểu thách cưới như bỡn cợt, hay như một lời chối từ,
vì nhà trai không thể nào thực hiện được :
- Em là con gái nhà giàu,
Mẹ cha thách cưới ra màu xênh xao.
Cưới em trăm tấm lụa đào,
Một trăm hòn ngọc, hai mươi tám ông sao trên trời.
Tháp tròn dẫn đủ trăm đôi,
Ống thuốc bằng bạc, ống vôi bằng vàng.
Sắm xe tứ mã đem sang,
Để quan viên họ nhà nàng đưa dâu.
Ba trăm nón Nghệ đội đầu,
Mỗi người một cái quạt Tàu thật xinh.
Anh về sắm nhiễu Nghi Đình,
May chăn cho rộng, ta mình đắp chung.
Một kiểu thách cưới khác cũng không kém phần viển vông :
- Cưới em chín chĩnh mật ong,
Mười cót xôi trắng, mười nong xôi vò.
Cưới em tám vạn xôi vò,
Bảy vạn dê lợn, chín vò rượu tăm,
Lá đa mặt nguyệt hôm rằm,
Răng nanh thằng Cuội, râu cằm ông Thiên Lôi.
Gan ruồi mỡ muỗi cho tươi,
Cưới em chín chục con dơi góa chồng.
Thách thế mới thỏa tấm lòng,
Chàng mà lo được thiếp thời theo chân.
Tác giả Lê Xuân trong một bài viết về chuyện thách cưới, đăng
trên báo “Kiến Thức Ngày Nay”, số 588, đã tưởng tượng ra một
cuộc đối thọai giữa đôi trai gái nhà nghèo.
Cô gái thách cho vui :
- Cưới em có cánh con gà,
Có dăm sợi bún, có vài hạt xôi.
Cưới em còn nữa anh ơi,
Có một đũa đậu, hai môi rau cần,
Có xa dịch lại cho gần,
Nhà em thách cưới có ngần ấy thôi.
Chàng trai còn đang ngần ngừ đắn đo xem có lo nổi hay không, thì
cô gái đã gợi ý hạ giá :
- Hay là nặng lắm anh ơi,
Để em bớt lại một môi rau cần.
Chàng trai đồng ý với điều kiện là :
- Cưới em có một tiền hai,
Có dăm sợi bún, có vài hạt xôi.
Họ hàng ăn uống xong rồi,
Tôi xin cái chảo tôi lôi nó về.
Hóa ra anh chàng này lém thật, vừa được người lại vừa được của,
được cái chảo lôi về!
Còn đây là lời một anh chàng nói dóc có hạng để thoái thác lễ
vật thách cưới :
- Cưới nàng anh toan dẫn voi,
Anh sợ quốc cấm nên thôi không bàn.
Dẫn trâu sợ họ máu hàn,
Dẫn bò sợ họ nhà nàng co chân.
Miễn là có thú bốn chân,
Dân con chuột béo mời dân, mời làng.
Chàng trai đưa ra lễ vật từ con to nhất là voi, rồi hạ từng mức
xuống trâu, bò. Và sau cùng chỉ còn…một con chuột béo để mời
quan viên hai họ. Song cô gái chẳng những không trách, không
buồn mà còn khen lễ vật như thế là sang, rồi chỉ thách những thứ
thiết thực với cuộc sống nghèo của người bình dân :
- Chàng dẫn thế em lấy làm sang,
Nỡ nào em lại phá ngang như là.
Người ta thách lợn thách gà,
Còn em chỉ thách…một nhà khoai lang.
Đem khoai lang ra để thách cưới quả là có một không hai. Thứ lễ
vật đặc biệt này rất gắn bó với đời sống con người nông dân,
không những mọi người được hưởng mà những con vật nuôi trong nhà
cũng rất vui vì được ăn cỗ cưới :
- Củ to thì để mời làng,
Còn như củ nhỏ họ hàng ăn chơi.
Bao nhiêu củ mẻ chàng ơi,
Để cho con trẻ ăn chơi giữ nhà.
Bao nhiêu củ rím, củ hà.
Để cho con lợn, con gà nó ăn.
Và tác giả đã kết luận như sau :
“Xưa kia biết bao cô gái, chàng trai như đữa ngọc mâm vàng mà
phải xa nhau chỉ vì chuyện thách cưới của cha mẹ bởi chuyện
thách cưới của cha mẹ, bởi ham giàu, bởi bác mẹ nói ngang, nhiều
khi dẫn tới những bi kịch thật đau thương. Ngày nay vẫn còn một
số ít người có chức có quyền, lợi dụng danh nghĩa để thương mại
hóa trong chuyện cưới gả con cái, để kinh doanh mà trục lợi…”
Tuy nhiên cũng có những người đưa ra mức độ thách cưới thường
thường bậc trung, khả dĩ có thể chấp nhận được :
- Giúp em một thúng xôi vò,
Một con lợn béo, một vò rượu tăm.
Người con gái khi sắc đẹp còn tươi thắm, thì đưa ra những tiêu
chuẩn cao để chọn lưa, nhưng một khi sắc đẹp đã tàn phai, thì
thượng vàng hạ cám cũng không sao, miễn là có được một tấm chồng
:
- Còn duyên đóng cửa kén chồng,
Hết duyên ngồi gốc cây hồng nhặt hoa.
- Còn duyên kén cá chọn canh,
Hết duyên rốc đực, cua kềnh cũng vơ.
- Còn duyên kén những trai tơ,
Hết duyên ông lão cũng vơ làm chồng.
Thậm chí có anh chàng còn phũ phàng hơn nữa :
- Còn duyên anh cưới ba heo,
Hết duyên anh đánh ba hèo đuổi đi.
Con heo vốn là biểu tượng của ấm no, hạnh phúc. Vì thế, trước
thềm năm Đinh Hợi 2007, xin kính chúc quí vị một năm mới khang
an thịnh vượng về đủ mọi mặt.
Gã Siêu
gasieu@gmail.com
|
VỀ MỤC LỤC |
|
- Mọi liên lạc: Ghi danh, thay đổi địa chỉ, đóng góp ý kiến,
bài vở..., xin gởi về địa chỉ
giaosivietnam@gmail.com
- Những nội dung sẽ được đề cao và chú ý bao gồm:
Trao đổi, chia sẻ những kinh nghiệm thực tế trong việc mục
vụ của Giáo sĩ; Những tài liệu của Giáo hội hoặc của các
Tác giả nhằm mục đích Thăng tiến đời sống Giáo sĩ; Cổ võ ơn
gọi Linh mục; Người Giáo dân tham gia công việc “Trợ lực
Giáo sĩ” bằng đời sống cầu nguyện và cộng tác trong mọi lãnh
vực; Mỗi Giáo dân phải là những “Linh mục” không có chức
Thánh; Đối thoại trong tinh thần Bác ái giữa Giáo dân và
Giáo sĩ… (Truyền giáo hay xây pháo đài?)
- Quy vị cũng có thể tham khảo những số báo đã phát hành tại
www.conggiaovietnam.net
Rất mong được sự cộng tác, hưởng ứng của tất cả Quí vị
Xin chân thành cám ơn tất cả anh chị em đã
sẵn lòng cộng tác với chúng tôi bằng nhiều cách thế khác
nhau.
TM. Đặc San Giáo Sĩ Việt Nam
Lm. Luca
Phạm Quốc Sử
USA
|
|
*************
|
|