Đặc San Giáo Sĩ Việt Nam

 

 

 

ĐỰƠC CHỌN GIỮA LOÀI NGƯỜI
VÀ CHO LOÀI NGƯỜI  (x. Dt, 5.1)

 

GIÁO SĨ:

Xuất phát từ giáo dân, hiện diện vì giáo dân và cậy dựa vào giáo dân

 

ĐỂ CÙNG LÀM VINH DANH THIÊN CHÚA

 

www.conggiaovietnam.net                          giaosivietnam@gmail.com

Đặc San Điện Tử    Giáo Sĩ Việt Nam    Số 168, Chúa Nhật 08.04.2012


MỤC LỤC 

Ðức Nữ Trinh Maria Mẹ Thiên Chúa Trong Mầu Nhiệm Chúa Kitô Và Giáo Hội            Vatican 2

NẾN CHÁY                                                                                                       Jorathe Nắng Tím

CÓ NHỮNG THẬP GIÁ ĐỜI                                                             Lm. Giuse Hoàng Kim Toan 

VẤT VẢ VỚI HAI CHỮ “PHỤC SINH”                                                      Tiến Sĩ Trần Mỹ Duyệt

KHỔ NẠN CỦA CHÚA LÀ HY VỌNG CỦA CHÚNG TA                   Bác sĩ Nguyễn Tiến Cảnh, MD.

Hành-trình vô-thần của Karl Marx khi còn thanh-niên ...                              Gs. Trần Văn Toàn

TAKING FLIGHT - BAY LÊN ĐI!                                           Lm. Minh Anh, GP Huế chuyển ngữ

LIỆU PHÁP REBT                                                                                               Br. Huynhquảng

TÌM HIỂU HUẤN DỤ XÃ HỘI CỦA GIÁO HỘI (9)                                  Tiến sĩ Nguyễn Học Tập

ỨNG SINH LINH MỤC: HỌC & SỐNG LINH ĐẠO LINH MỤC GIÁO PHẬN
Lm. Micae-Phaolo Trần Minh Huy, pss

TỆ NẠN BUÔN NGƯỜI                                                                                Bác sĩ Nguyễn Ý Đức

CON LỢN LÒNG                                                                                Chuyện phiếm của Gã Siêu


Ðức Nữ Trinh Maria Mẹ Thiên Chúa Trong Mầu Nhiệm Chúa Kitô Và Giáo Hội

 

Hiến Chế Tín Lý Về Giáo Hội

Lumen Gentium

 

Bản dịch Việt Ngữ của Giáo Hoàng Học Viện Piô X

Prepared for Internet by Vietnamese Missionaries in Asia

 

Chương VIII

Ðức Nữ Trinh Maria Mẹ Thiên Chúa

Trong Mầu Nhiệm Chúa Kitô

Và Giáo Hội 67*

 

I. Lời Mở Ðầu 

52. Nhập đề. 68* Thiên Chúa là Ðấng vô cùng nhân hậu và khôn ngoan đã muốn hoàn tất việc cứu chuộc thế giới, nên "khi đến thời viên mãn, Ngài đã sai Con Mình đến, sinh bởi người nữ... để chúng ta được nhận làm nghĩa tử" (Gal 4,4-5). "Vì loài người chúng ta và để cứu rỗi chúng ta, Người đã từ trời xuống thế, bởi phép Chúa Thánh Thần, Người đã nhập thể trong lòng Trinh Nữ Maria" 1. Mầu nhiệm cứu rỗi thần linh này được mạc khải cho chúng ta và vẫn tiếp tục trong Giáo Hội, Giáo Hội mà Chúa đã lập làm thân thể Người. Trong Giáo Hội ấy, liên kết với Chúa Kitô Thủ Lãnh, và hiệp thông với toàn thể các Thánh Người, các tín hữu cũng phải kính nhớ "trước hết đức Maria vinh hiển, trọn đời Ðồng Trinh, Mẹ Thiên Chúa và Mẹ Chúa Giêsu Kitô, Chúa chúng ta" 2. 69*

53. Ðức Maria và Giáo Hội. Thực vậy, khi sứ thần truyền tin, Ðức Nữ Trinh Maria đã đón nhận Ngôi Lời Thiên Chúa trong tâm hồn và thân xác, và đem sự sống đến cho thế gian. Ngài được công nhận và tôn kính là Mẹ thật của Thiên Chúa và của Ðấng Cứu Thế. Ðược cứu chuộc cách kỳ diệu hơn nhờ công nghiệp Con Ngài và hiệp nhất mật thiết và bền chặt với Con, Ðức Maria đã lãnh nhận sứ mệnh và vinh dự cao cả là được làm Mẹ Con Thiên Chúa, do đó làm ái nữ của Chúa Cha và cung thánh của Chúa Thánh Thần. Nhờ lãnh nhận ân sủng vô cùng cao quí này, Ngài đã trổi vượt mọi tạo vật trên trời dưới đất. Nhưng đồng thời, vì thuộc dòng dõi Adam, Ngài cũng liên kết với tất cả mọi người cần được cứu rỗi; hơn nữa, "Ngài thật là Mẹ các chi thể (của Chúa Kitô)... vì đã cộng tác trong đức ái để sinh ra các tín hữu trong Giáo Hội là những chi thể của Ðầu ấy" 3. Vì thế, Ngài cũng được chào kính như chi thể của Giáo Hội tối cao và độc nhất vô nhị, cũng như mẫu mực và gương sáng phi thường của Giáo Hội trên phương diện đức tin và đức ái. Và Giáo Hội Công Giáo, được Chúa Thánh Thần chỉ dạy, dâng lên Ngài tình con thảo, như đối với một người Mẹ rất dấu yêu. 70*

54. Ý hướng của Công Ðồng. Bởi thế, khi trình bày giáo lý về Giáo Hội - trong Giáo Hội này, Chúa Cứu Thế thực hiện cuộc cứu độ - Thánh Công Ðồng ân cần mong muốn làm sáng tỏ vai trò của Ðức Nữ Trinh trong mầu nhiệm Ngôi Lời Nhập Thể và Nhiệm Thể, cũng như làm sáng tỏ bổn phận những người được cứu chuộc đối với Mẹ Thiên Chúa, là Mẹ Chúa Kitô và Mẹ nhân loại, cách riêng Mẹ các tín hữu. Tuy nhiên, Công Ðồng không có ý đưa ra một học thuyết đầy đủ về Ðức Maria và giải quyết các vấn đề mà sự nghiên cứu của các nhà thần học chưa làm sáng tỏ trọn vẹn. Những ý kiến được tự do trình bày trong các trường phái công giáo về Ðấng có địa vị cao cả nhất trong Giáo Hội thánh sau Chúa Kitô, và cũng là Ðấng rất gần chúng ta 4, những ý kiến ấy đều được duy trì cách hợp pháp 71*.

 

II. Vai Trò Ðức Nữ Trinh Trong Nhiệm Cuộc Cứu Rỗi 72*

55. Mẹ Ðấng Cứu Thế trong Cựu Ước. Thánh Kinh, Cựu Ước cũng như Tân Ước, và Thánh Truyền đáng kính, trình bày ngày một sáng tò hơn vai trò của Mẹ Ðấng Cứu Thế trong nhiệm cuộc cứu rỗi và đưa vai trò ấy ra cho chúng ta chiêm ngắm. Thực vậy, các sách Cựu Ước thuật lại lịch sử cứu rỗi, trong đó ngày Chúa Kitô xuất hiện trên thế giới được chuẩn bị cách tiệm tiến. Các tài liệu tiên khởi này, như Giáo Hội vẫn đọc và về sau hiểu theo ánh sáng mạc khải trọn vẹn, dần dần cho thấy rõ ràng hơn hình ảnh người nữ, Mẹ Ðấng Cứu Thế. Theo ánh sáng mạc khải ấy, người nữ này đã được phác họa trước trong lời hứa chiến thắng con rắn, lời hứa mà Tổ Tông đã nhận được sau khi phạm tội (x. Stk 3,15). Cũng thế, Ngài là Trinh Nữ sẽ thụ thai và sinh con trai tên là Emmanuel (x. Is 7,14 so sánh với Mik 5,2-3; Mt 1,22-23). Ngài trổi vượt trên các người khiêm hạ và khó nghèo của Chúa, là những người tin tưởng, hy vọng và lãnh nhận ơn cứu độ nơi Chúa. Cuối cùng, sau đêm dài mong đợi lời hứa được thực hiện, với Ngài, người Thiếu Nữ cao sang của Sion, thời gian đã nên trọn và Nhiệm Cuộc mới được thiết lập: khi Con Thiên Chúa mặc lấy bản tính nhân loại nơi Ngài để giải thoát con người khỏi tội lỗi nhờ các mầu nhiệm của thân xác Chúa. 73*

56. Ðức Maria trong việc truyền tin. Nhưng Chúa Cha rất nhân từ đã muốn sự ưng thuận của người mẹ được tiền định trước khi Chúa Con nhập thể, để như một người nữ đã hợp tác cho sự chết, thì cũng một người nữ hợp tác cho sự sống. Ðiều đó đặc biệt thích hợp với Mẹ Chúa Giêsu, vì Ngài đem đến cho thế giới chính Nguồn Sống cải tạo mọi sự, và đã được Chúa ban cho nhiều ơn cân xứng với sứ mệnh cao cả như thế. Do đó, không có gì lạ, nếu các Thánh Giáo Phụ đã thường xưng tụng Mẹ Thiên Chúa là Ðấng toàn thánh, không vương nhiễm một tội nào, như một tạo vật mới do Chúa Thánh Thần uốn nắn và tác thành 5. Tràn đầy thánh thiện, có một không hai ngay từ lúc mới được thụ thai, Ðức Trinh Nữ thành Nazareth được Thiên Thần vâng lệnh Chúa đến truyền tin và kính chào là "Ðấng đầy ân phúc" (x. Lc 1,28). Và Trinh Nữ đã đáp lời Thiên Sứ rằng: "Này tôi là Tôi Tá Chúa, xin hãy xảy ra cho tôi theo lời Ngài" (Lc 1,38). Như thế, Ðức Maria, con cháu Adam, vì chấp nhận lời Thiên Chúa, đã trở nên Mẹ Chúa Giêsu. Hết lòng đón lấy ý định cứu rỗi của Thiên Chúa, vì không một tội nào ngăn trở Ngài, Ðức Maria đã tận hiến làm tôi tớ Chúa, phục vụ cho thân thể và sự nghiệp của Con Ngài, và nhờ ân sủng của Thiên Chúa toàn năng, phục vụ mầu nhiệm cứu chuộc dưới quyền và cùng với Con Ngài. Bởi vậy, các Thánh Giáo Phụ đã nghĩ rất đúng rằng: Thiên Chúa đã không thu dụng Ðức Maria một cách thụ động, nhưng đã để Ngài tự do cộng tác vào việc cứu rỗi nhân loại, nhờ lòng tin và sự vâng phục của Ngài. Thực vậy, Thánh Ireneô nói: "Chính Ngài, nhờ vâng phục, đã trở nên nguyên nhân cứu rỗi cho mình và cho toàn thể nhân loại" 6. Và cùng với thánh Ireneô còn có rất nhiều Thánh Giáo Phụ thời xưa cũng không ngần ngại giảng dạy rằng: "Nút dây đã bị thắt lại do sự bất tuân của Evà, nay được gỡ ra nhờ sự vâng phục của Ðức Maria; điều mà trinh nữ Evà đã buộc lại bởi cứng lòng tin, Ðức Trinh Nữ Maria đã tháo ra nhờ lòng tin 7; và so sánh với Evà, các ngài gọi Ðức Maria là "Mẹ kẻ sống" 8, và thường quả quyết rằng: "bởi Evà đã có sự chết, thì nhờ Maria lại được sống" 9. 74*

57. Ðức Maria và thời thơ ấu Chúa Giêsu. Sự liên kết giữa Mẹ và Con trong công cuộc cứu rỗi được tỏ rõ từ khi Ðức Maria thụ thai Chúa Kitô cách trinh khiết cho đến lúc Chúa Kitô chết. Thực vậy, trước hết, Ðức Maria vội vã đến thăm bà Elizabeth và được bà ấy chào mừng là người có phúc vì đã tin vào sự cứu rỗi Chúa đã hứa, trong lúc đó vị tiền hô nhảy trong lòng mẹ (x. Lc 1, 41-45). Rồi ngày sinh nhật, Mẹ Thiên Chúa đã vui mừng giới thiệu với các mục đồng và các nhà bác học đứa Con đầu lòng của mình, mà khi sinh ra đã không làm giảm bớt nhưng còn thánh hiến sự trinh khiết toàn vẹn của Ngài 10. Trong đền thánh, sau khi hiến lễ vật ấn định cho người nghèo, Ðức Maria dâng Con lên cho Thiên Chúa, và đã nghe Simeon báo trước Con mình sẽ là dấu chỉ sự phản kháng, và một lưỡi gươm sẽ đâm thấu lòng mẹ, nhờ đó tư tưởng trong lòng nhiều người sẽ được bày tỏ (x. Lc 2, 34-35). Khi trẻ Giêsu lạc mất, Cha Mẹ đã lo âu tìm kiếm và gặp lại Con trong đền thánh đang bận tâm lo việc của Cha Người. Các Ngài không hiểu lời Con nói; nhưng Mẹ Chúa Giêsu giữ lấy tất cả các điều ấy và suy gẫm trong lòng (x. Lc 2, 41-51). 75*

58. Ðức Maria và đời sống công khai Chúa Giêsu. Trong cuộc đời công khai của Chúa Giêsu, Mẹ Người cũng đã xuất hiện rõ ràng, và ngay từ đầu, trong tiệc cưới thành Cana xứ Galilêa, vì động lòng thương xót, Ngài đã cầu bầu, khiến Chúa Giêsu, Ðấng Thiên Sai, làm phép lạ đầu tiên của Người (x. Gio 2, 1-11). Trong thời gian Chúa truyền đạo, Ðức Maria đã đón nhận lời của Con Ngài, những lời nâng cao Nước Trời lên khỏi những lý do và liên hệ huyết nhục, và tuyên bố là có phúc cho những ai nghe và giữ lời Thiên Chúa (x. Mc 3,35 và song song; Lc 11,27-28) như chính Ngài hằng thực hành những điều đó cách trung tín (x. Lc 2,19 và 51). Như thế Ðức Nữ Trinh cũng đã tiến bước trong cuộc lữ hành đức tin, trung thành hiệp nhất với Con cho đến bên thập giá, là nơi mà theo ý Thiên Chúa, Ngài đã đứng đó (x. Gio 19,25). Ðức Maria đã đau đớn chịu khổ cực với Con một của mình và dự phần vào hy lễ của Con, với tấm lòng của một người mẹ hết tình ưng thuận hiến tế lễ vật do lòng mình sinh ra. Và cuối cùng chính Chúa Giêsu Kitô khi hấp hối trên thập giá đã trối Ngài làm Mẹ của môn đệ qua lời này: "Thưa Bà, này là con Bà" (x. Gio 19,26-27) 11. 76*

59. Ðức Maria sau khi Chúa lên trời. Vì Thiên Chúa không muốn tỏ bày mầu nhiệm cứu rỗi nhân loại cách long trọng trước khi Ngài đổ tràn Thánh Thần Chúa Kitô đã hứa, nên chúng ta thấy các Tông Ðồ trước ngày Hiện Xuống "đã kiên tâm hiệp ý cầu nguyện, cùng với các phụ nữ, với Ðức Maria, Mẹ Chúa Giêsu, và với anh em Người" (CvTđ 1,14). Ðức Maria cũng tha thiết cầu xin Thiên Chúa ban Thánh Thần, là Ðấng đã bao phủ lấy Ngài trong ngày Truyền Tin. Sau cùng, được gìn giữ tinh sạch khỏi mọi vết tội nguyên tổ 12, và sau khi hoàn tất cuộc đời dưới thế, Ðức Nữ Trinh Vô Nhiễm đã được đưa lên hưởng vinh quang trên trời cả hồn lẫn xác 13, và được Thiên Chúa tôn vinh làm Nữ Vương vũ trụ, để nên giống Con Ngài trọn vẹn hơn, là Chúa các Chúa (x. Kh 19,16), Ðấng đã chiến thắng tội lỗi và sự chết 14. 77*

 

III. Ðức Nữ Trinh Và Giáo Hội 78* 

60. Ðức Kitô, Ðấng trung gian độc nhất và Mẹ Maria. 79* Chúng ta chỉ có một Ðấng Trung Gian duy nhất, như lời Thánh Tông Ðồ dạy: "Thực vậy, chỉ có một Thiên Chúa duy nhất, và chỉ có một Ðấng Trung Gian duy nhất giữa Thiên Chúa với nhân loại, đó là Chúa Giêsu Kitô, là Người, đã dâng mình làm giá chuộc mọi người" (1Tm 2,5-6). Nhưng vai trò làm mẹ của Ðức Maria đối với loài người không làm lu mờ hay giảm bớt vai trò trung gian duy nhất của Chúa Kitô chút nào, trái lại còn làm sáng tỏ mãnh lực của sự trung gian ấy. Vì mọi ảnh hưởng có sức cứu rỗi của Ðức Nữ Trinh trên nhân loại không phát sinh từ một sự cần thiết khách thể nào, nhưng từ ý định nhân lành của Thiên Chúa, và bắt nguồn từ công nghiệp dư tràn của Chúa Kitô. Ảnh hưởng ấy nương tựa và hoàn toàn tùy thuộc vào sự trung gian của Chúa Kitô, nguồn mạch mọi quyền lực của ảnh hưởng đó. Nhưng ảnh hưởng này không làm cản trở gì, trái lại còn giúp đỡ các tín hữu kết hiệp trực tiếp với Chúa Kitô. 80*

61. Cộng tác vào việc cứu chuộc. Từ muôn đời, Ðức Nữ Trinh đã được tiền định làm Mẹ Thiên Chúa cùng một lúc với việc nhập thể của Ngôi Lời Thiên Chúa. Và theo chương trình của Chúa Quan Phòng, trên trần gian Ngài đã trở nên Mẹ cao trọng của Ðấng Cứu Chuộc thần linh, và cách đặc biệt hơn mọi người khác, Ngài là cộng sự viên quảng đại và tôi tá khiêm hạ của Chúa. Vì đã cưu mang, sinh hạ và nuôi dưỡng Chúa Kitô, đã dâng Chúa Kitô lên Chúa Cha trong đền thánh và cùng đau khổ với Con mình chết trên thập giá, Ðức Maria đã cộng tác cách rất đặc biệt vào công trình của Ðấng Cứu Thế, nhờ lòng vâng phục, nhờ đức tin, đức cậy và đức ái nồng nhiệt, để tái lập sự sống siêu nhiên cho các linh hồn. Bởi vậy, trên bình diện ân sủng, Ngài thật là Mẹ chúng ta. 81*

62. Vai trò tùy thuộc trong việc cứu rỗi. Nhưng trong nhiệm cuộc ân sủng, Ðức Maria luôn tiếp tục thiên chức làm mẹ, từ khi Ngài tin tưởng ưng thuận trong ngày Truyền Tin - sự ưng thuận mà Ngài đã không ngần ngại giữ vững bên thập giá - cho tới lúc vĩnh viễn hoàn tất việc cứu rỗi mọi người được tuyển chọn. Thật vậy, sau khi về trời, vai trò của Ngài trong việc cứu độ không chấm dứt, nhưng Ngài vẫn tiếp tục liên lỉ cầu bầu để đem lại cho chúng ta những ân huệ giúp chúng ta được phần rỗi đời đời 15. Với tình từ mẫu, Ngài chăm sóc những anh em của Con Ngài đang lữ hành trên dương thế và đang gặp bao nguy hiểm, thử thách, cho đến khi họ đạt tới hạnh phúc quê trời. Vì thế, trong Giáo Hội, Ðức Nữ Trinh được kêu cầu qua các tước hiệu: Trạng Sư, vị Bảo Trợ, Ðấng Phù Hộ và Ðấng Trung Gian 16. Tuy nhiên phải hiểu các tước hiệu ấy thế nào để không thêm bớt gì vào vinh dự và quyền năng của Ðấng Trung Gian duy nhất 17.

Thực vậy, không bao giờ có thể đặt một tạo vật ngang hàng với Ngôi Lời nhập thể và cứu chuộc; nhưng cũng như chức linh mục của Chúa Kitô được thông ban dưới nhiều hình thức cho các thừa tác viên và các giáo dân, và cũng như sự tốt lành duy nhất của Thiên Chúa được ban phát nhiều cách cho các tạo vật, thì sự trung gian duy nhất của Ðấng Cứu Thế không những không loại bỏ mà còn khuyến khích các thụ sinh cộng tác, trong sự tùy thuộc vào nguồn mạch duy nhất.

Vai trò tùy thuộc ấy của Ðức Maria, Giáo Hội không ngần ngại tuyên xưng, mà luôn nghiệm thấy, và nhắn nhủ các tín hữu ghi nhớ trong lòng để nhờ sự nâng đỡ và phù hộ từ mẫu của Ngài, họ gắn bó mật thiết hơn với Ðấng Trung Gian và Cứu Thế. 82*

63. Maria trinh nữ và người mẹ là mẫu mực của Giáo Hội. 83* Ðức Trinh Nữ nhờ ân huệ và sứ mệnh làm Mẹ Thiên Chúa, nhờ đó Ngài được hiệp nhất với Con là Ðấng Cứu Chuộc, và nhờ các ơn và nhiệm vụ đặc biệt khác, Ngài còn kết hiệp mật thiết với Giáo Hội, như thánh Ambrosiô đã dạy, Mẹ Thiên Chúa là mẫu mực của Giáo Hội trên bình diện đức tin, đức ái và hiệp nhất hoàn hảo với Chúa Kitô 18. Thực vậy, trong mầu nhiệm Giáo Hội, chính Giáo Hội cũng được gọi cách hợp pháp là Mẹ và Trinh Nữ, Ðức Nữ Trinh Maria đi tiên phong, tỏ ra là một người mẹ và một trinh nữ gương mẫu tuyệt vời và hiếm có 19. Vì, bởi lòng tin và vâng phục, Ngài đã sinh chính Con Chúa Cha nơi trần gian, mà không hề biết đến người nam, nhưng được Chúa Thánh Thần bao phủ. Như một Evà mới, Ngài đã đặt niềm tin vào sứ giả của Thiên Chúa, chứ không đặt vào con rắn xưa, một niềm tin không bị một nghi ngờ nào làm phai nhạt. Nhưng Người Con mà Ngài đã sinh ra, Thiên Chúa đã đặt làm Trưởng Tử trong nhiều anh em (x. Rm 8,29), nghĩa là các tín hữu, mà Ngài cộng tác vào việc sinh hạ và giáo dục với tình thương của một người mẹ. 84*

64. Giáo Hội là trinh nữ và là mẹ. Tuy nhiên, khi chiêm ngưỡng sự thánh thiện kỳ bí và noi gương đức ái của Ðức Maria, và khi trung thành chu toàn thánh ý Chúa Cha, Giáo Hội cũng được làm mẹ nhờ lời Thiên Chúa mà Giáo Hội trung thành lãnh nhận: thực vậy, nhờ việc rao giảng và ban phép Thánh Tẩy, Giáo Hội sinh hạ những người con được thụ thai bởi phép Chúa Thánh Thần và sinh ra do Thiên Chúa để họ lãnh nhận một đời sống mới và bất diệt. Giáo Hội cũng là trinh nữ đã giữ gìn toàn vẹn và tinh tuyền lòng trung nghĩa đã hiến cho Phu Quân; và noi gương Mẹ Chúa mình, nhờ thần lực của Thánh Thần, Giáo Hội bảo tồn cho tinh tuyền một đức tin toàn vẹn, một đức cậy bền vững và một đức mến chân thành 20. 85*

65. Giáo Hội phải bắt chước nhân đức của Mẹ Maria. Tuy nhiên, Giáo Hội, qua con người của Ðức Nữ Trinh, đã đạt tới sự toàn thiện làm cho mình nên thanh sạch và vẹn tuyền (x. Eph 5,27), nhưng Kitô hữu vẫn còn phải cố gắng chiến thắng tội lỗi để tiến trên đường thánh thiện. Vì thế, họ ngước mắt nhìn lên Ðức Maria là một mẫu gương nhân đức sáng ngời cho toàn thể cộng đoàn những người được chọn. Nhờ thành kính tưởng nhớ Ðức Maria và chiêm ngưỡng Ngài dưới ánh sáng của Ngôi Lời nhập thể, Giáo Hội cung kính tiến sâu hơn vào mầu nhiệm cao thẳm, tức là mầu nhiệm nhập thể, và nên giống Phu Quân mình ngày một hơn. Thực vậy, Ðức Maria đã mật thiết gắn liền với lịch sử cứu rỗi, và có thể nói là Ngài đã qui tụ và phản chiếu nơi mình những đòi hỏi cao cả nhất của đức tin, và khi các tín hữu nghe rao giảng về Ngài và tôn sùng Ngài, họ được Ngài mời gọi đến kết hiệp với hy lễ của Con Ngài và yêu mến Chúa Cha. Phần Giáo Hội càng tìm kiếm vinh quang Chúa Kitô càng nên giống Khuôn Mẫu cao cả của mình, nhờ luôn tiến tới trong đức tin, đức cậy, đức mến, và tìm kiếm cùng vâng theo thánh ý Thiên Chúa trong mọi sự. Do đó, trong công cuộc tông đồ, Giáo Hội có lý để nhìn lên Ðấng đã sinh Chúa Kitô là người được thụ thai bởi phép Chúa Thánh Thần và được Ðức Nữ Trinh sinh ra để, nhờ Giáo Hội, cũng sinh ra và lớn lên trong lòng các tín hữu. Ðời sống của Ðức Nữ Trinh là một gương sáng của tình mẫu tử thắm thiết. Tình mẫu tử ấy phải là động lực của tất cả những ai cộng tác vào sứ mệnh tông đồ của Giáo Hội để tái sinh nhân loại. 86*

____________

Chú thích

67* Ðây là một trong những chương được tranh luận nhiều nhất. Việc khai sinh ra nó cũng gây nhiều sôi nổi. Trong số những lược đồ được đệ trình, có một lược đồ về Ðức Maria. Vì những lý do có tính cách hoặc thần học hoặc mục vụ hoặc hiệp nhất, một vài Nghị Phụ muốn cho lược đồ về Ðức Maria xen vào Hiến Chế Tín Lý về Giáo Hội. Ngày 29-10-1963, các Nghị Phụ đứng trước một câu hỏi như sau: "Các Nghị Phụ Công Ðồng có muốn lược đồ về Ðức Trinh Nữ Mẹ Giáo Hội đổi thành chương cuối cùng của lược đồ về Giáo Hội chăng?" Trước khi bỏ phiếu, có hai bản phúc trình chính thức về vấn đề này: Hồng Y Konig, người muốn cho xen vào hiến chế, và Hồng Y Santos muốn làm một lược đồ riêng. Cả hai dùng những luận chứng dồi dào và vững chắc để trình bày trước các Nghị Phụ và sự thích hợp của quan điểm mình. Kết quả cuộc đầu phiếu thật sát nút: với 2,193 Nghị Phụ có mặt thì 1,114 vị bỏ phiếu thuận, 1,074 phiếu chống. Phiếu thuận chỉ hơn có 40 phiếu và Công Ðồng chấp nhận việc xen lược đồ vào trong Hiến Chế.

Một vấn đề thứ hai được đặt ra: nếu xen thì xen vào chỗ nào? Mẹ Thiên Chúa liên kết khắng khít với mầu nhiệm Giáo Hội, nhưng muốn giải thích sự liên kết này, cần quan niệm vai trò của Mẹ Thiên Chúa trong mầu nhiệm Ngôi Lời Nhập Thể. Ðối với khía cạnh này, giáo lý về Ðức Maria vượt quá giáo lý về Giáo Hội. Do đó chỉ có thể đặt vào phần cuối Hiến Chế. Ðấy là lý do tại sao có chương VIII và vị trí của nó trong Hiến Chế.

Bố cục của chương này như sau: trong phần nhập đề (các số 52-54), Công Ðồng xác định địa vị của Ðức Maria trong Giáo Hội và những nguyên tắc giáo lý làm kim chỉ nam cho việc trình bày về Ðức Maria. Ðồng thời Công Ðồng cũng cho biết chủ đích của mình. Phần nhất (các số 55-59) giải thích địa vị của Mẹ Thiên Chúa trong mầu nhiệm Ngôi Lời Nhập Thể. Phần hai (các số 60-65) trình bày địa vị đó trong viễn tượng Giáo Hội, nói lên những liên lạc của Ðức Maria với Giáo Hội. Phần ba (các số 66-67) đề cập những bổn phận Kitô hữu đối với Ðức Maria. Phần kết luận vắn tắt (các số 68-69) trình bày Mẹ Thiên Chúa như dấu hiệu hy vọng và sự liên quan của Ngài với việc hiệp nhất các Kitô hữu.

68* Các số 52-54: Nhập đề.

Các số này thống nhất với nhau (trong lần soạn thảo đầu chúng ở trong cùng một số) có mục đích trình bày đối tượng của chương VIII. Ý tưởng chính rất đơn giản: mạc khải đã minh nhiên làm nổi bật địa vị của Mẹ Thiên Chúa, trong ý định cứu rỗi từ đời đời của Chúa, trong sự thực hiện ý định ấy do Chúa Giêsu Kitô, bởi vì có sự liên tục (chương VII) giữa công việc dưới đất và công việc trên trời của Chúa Kitô và ngày nay Ðức Mẹ cũng vẫn còn giữ nguyên địa vị này (số 52). Maria là phần tử đặc biệt và là khuôn mẫu Giáo Hội (số 53). Chủ đích của Công Ðồng là: trình bày vai trò của Mẹ Thiên Chúa trong mầu nhiệm Chúa Kitô và Giáo Hội và những bổn phận của Kitô hữu đối với Mẹ (số 54).

1 Kinh tin kính của CÐ Constantinopla: Mansi 3, 566. Xem CÐ Ephesô, n.v.t., 4, 1130 (và n.v.t., 2, 665 và 4, 1071). Xem CÐ Calcedonia, n.v.t., 7, 111-116. CÐ Constantinopla II n.v.t., 9, 375-396. Sách lễ Roma, kinh tin kính.

2 Sách lễ Roma, lễ qui.

69* Số 52.

Việc cứu thế được thực hiện nhờ Thiên Chúa đã gửi Con Ngài đến, sinh bởi người nữ. Ðó là nền tảng của cả khoa Thánh Mẫu học. Ðức Nữ Ðồng Trinh Maria liên kết mật thiết với việc Nhập Thể Cứu Chuộc đó.

3 T. Augustinô, De S. Virginitate, 6 : PL 40, 399.

70* Số 53.

Số này đặt Mẹ Chúa Kitô Cứu Thế trong tương quan với Giáo Hội. Ðầu tiên là quả quyết Ðức Maria đã tự ý chấp nhận lời thiên thần báo tin sẽ sinh Ðấng Cứu Thế. Câu chuyện báo tin được đặt nổi bật. Sau đó Công Ðồng nghiên cứu sâu xa những mối liên hệ giữa Maria và Ba Ngôi Thiên Chúa trong viễn tượng Giáo Hội theo một đề tài quen thuộc với Hiến Chế như đề tài Giáo Hội từ mầu nhiệm Ba Ngôi. Vì trách vụ được Chúa trao phó nên Mẹ được cứu chuộc kỳ diệu hơn, do công nghiệp Con Mẹ, Ðấng mà Mẹ đã kết hiệp mật thiết và bền chặt. Trong chiều hướng ấy, Công Ðồng không ngần ngại liên tiếp trình bày Ðức Trinh Nữ như là Mẹ của Con Thiên Chúa, là ái nữ của Chúa Cha, là cung thánh của Chúa Thánh Thần. Cả ba danh hiệu hoàn toàn theo truyền thống. Nhưng tâm điểm của số này ở chỗ Công Ðồng quả quyết rằng Maria vừa có các danh hiệu đó, nhưng đồng thời, vì thuộc dòng dõi Adam, Mẹ cũng liên kết với tất cả mọi người, và Mẹ đã cộng tác vào công việc cứu thế. Do đó, Mẹ Chúa Kitô vẫn là phần tử Giáo Hội, dù là phần tử tuyệt hảo và đặc biệt, một trật cũng là khuôn mẫu của Giáo Hội. Bởi vậy Giáo Hội tôn kính Mẹ như Mẹ thật với tình con thảo.

4 Xem Phaolô VI, Diễn văn trong Công Ðồng, ngày 4-12-1963 : AAS 56 (1964), trg 37.

71* Số 54.

Công Ðồng giải thích vắn tắt về vai trò Ðức Maria trong mầu nhiệm cứu rỗi và về các bổn phận của tín hữu đối với Mẹ. Công Ðồng tự giới hạn trong viễn tượng này chứ không nhằm trình bày đầy đủ giáo lý về Ðức Maria, cũng không nhằm giải quyết các vấn đề mà các nhà thần học tranh luận.

72* Các số 55-59: Phần I - Ðịa vị và vai trò của Ðức Maria trong nhiệm cuộc cứu rỗi.

Bố cục phần này rất rõ ràng, vì dựa theo các dữ kiện lịch sử mạc khải về Mẹ Thiên Chúa trong Thánh Kinh, bắt đầu từ Cựu Ước tới thời kỳ Giáo Hội, qua sự kiện truyền tin, tới cuộc đời thơ ấu và công khai của Chúa Giêsu. Cứ như bản phúc trình chính thức đã nói, đây là phần chính yếu nhất trong Chương VIII.

73* Số 55: Trong Cựu Ước.

Thứ tự của số này theo sát lịch sử cứu rỗi như thấy trong Cựu Ước, để chúng ta thấy rằng người phụ nữ làm Mẹ Chúa Kitô trong Phúc Âm cũng là Mẹ Thiên Chúa mà chúng ta nhận biết qua thần học và qua việc tôn kính nơi các dân Kitô giáo. Như thế là Công Ðồng cho biết sự tiến triển của mạc khải về Ðức Maria và không ngần ngại chấp thuận phương pháp lịch sử cứu rỗi, một phương pháp mà một số người chuyên về Thánh Mẫu học không mấy tin tưởng. Không muốn gây ra cuộc bút chiến, nên Công Ðồng chỉ nhằm trình bày một "bản tiểu sử" về người Phụ Nữ, dựa trên toàn thể chứng từ được linh ứng của Mạc Khải trọn vẹn và trên chứng từ của đời sống Giáo Hội.

5 Xem T. Germanô, Const. Hom. in Annunt. Deiparae: PG 98, 328 A; In Dorm. 2: 357 Anatasiô thành Antiokia, Serm. 2 de Annunt. 2: PG 89, 1377 AB: Serm. 3, 2 : 1388 C. T. Anrê Cret., Can. in B.V. Nat. 4 : PG 97, 1321 B; in B.V. Nat. 1: 812 A; Hom. in dorm. 1: 1068 C. T. Sophroniô, Or. 2 in Annunt. 18: PG 87 (3), 3237 BD.

6 T. Ireneô, Adv. Haer. III, 22, 4: PG 7, 959 A; Harvey 2, 123.

7 T. Ireneô, n.v.t., Harvey, 2, 124.

8 T. Epiphaniô, Haer. 78, 18 : PG 42, 728 CD-729 AB.

9 T. Hieronimô, Epist. 22, 21: PL 22, 408. Xem T. Augustinô, Serm. 51, 2, 3 : PL 38, 335; Serm. 232, 2: 1108. T. Cyrillô Jerusalem. Catech., 12, 15: PG 33, 741, AB. T. Gioan Kim Khẩu, In Ps. 44, 7: PG 55, 193. T. Gio Damascenô, Hom. 2 in dorm. BMV. 3: PG 96, 728.

74* Số 56: Truyền tin.

Công Ðồng theo vết các Giáo Phụ, coi câu chuyện truyền tin rất quan trọng, vì nhìn thấy ở đó thái độ căn bản của mọi Kitô hữu. Giáo Hội thuở đầu đã bày tỏ lòng tin của họ vào thái độ chấp nhận này của Ðức Maria, vì là kết quả của đức tin và tình yêu của Mẹ. "Chấp nhận" không những là tiếng nói then chốt trong cả câu chuyện nhưng đồng thời còn là tiếng nói lược tóm tất cả viễn ảnh đời sống của Kitô hữu: ưng thuận khi Chúa đến và để ý định cứu rỗi hoàn tất trong ta, vừa biết quảng đại phục vụ cho công cuộc cứu thế; cũng như Ðứa Maria, chúng ta tích cực cộng tác mà không tự mãn, và qua việc chấp nhận ấy, ân sủng đem lại sự sống: trong Chúa Kitô, Ðức Maria đã ban cho thế giới Nguồn Sống đổi mới mọi sự.

10 Xem CÐ Lateranô, năm 649, đ. th. 3: Mansi 10, 1151. T. Leô Cả, Epist. ad Flav.: PL 54. 759. CÐ Calcedonia: Mansi 7, 462. T. Ambrosiô, De inst. Virg.: PL 16, 320.

75* Số 57: Ðức Maria và cuộc đời thơ ấu Chúa Giêsu.

Câu đầu tiên của số này nêu lên ý tưởng chỉ dẫn: Ðức Maria liên kết với Chúa Con trong công cuộc cứu thế từ lúc thụ thai Chúa Giêsu mà vẫn đồng trinh cho tới mầu nhiệm cuộc tử nạn của Chúa. Công Ðồng trình bày chân lý này rõ ràng hơn bao giờ hết. Chủ đề trở lại ba lần: lần Ðức Maria đi thăm bà Elizabeth, lần sinh Chúa ở Bêlem và lần dâng Chúa trong đền thờ. Câu chuyện tìm thấy Chúa trong đền thờ giúp chúng ta hiểu rõ hơn về sự liên kết ấy.

11 Xem Piô XII, Tđ. Mystici Corporis, 29-6-1943: AAS 35 (1943), trg 247-248.

76* Số 58: Ðức Maria và cuộc đời công khai của Chúa Giêsu.

Một cách vắn tắt, Công Ðồng đóng khung hoạt động của Ðức Maria trong cuộc đời công khai của Chúa, vì theo thánh Gioan, lúc khởi đầu và kết thúc sứ vụ công khai đều có sự hiện diện của Ðức Maria. Trong hai lúc này Ðức Maria mới chỉ được gọi là "Bà". Ðó là lúc ở tiệc cưới Cana và khi đứng dưới chân Thánh Giá. Hai lời Chúa nói xem ra như hất hủi Ðức Maria. Việc can thiệp của Ðức Maria có nhiều ý nghĩa, nhưng lại nằm trong văn mạch mới đầu có thể coi là kỳ lạ. Ý tưởng chính là: Nước Thiên Chúa vượt quá mọi mối liên hệ xác thịt và hoàn toàn ở trên sự tính toán của con người. Câu chính trong số này trình bày một ý tưởng ít quen thuộc hơn: Ðức Maria cũng tiến tới trong cuộc hành trình Ðức Tin qua đau khổ và u tối.

12 Xem Piô IX, sắc chỉ Ineffabilis, 8-12-1854 : văn kiện của Ðức Piô IX, 1, I, trg 616; Dz 1641 (2803).

13 Xem Piô XII, Tông hiến Munificentissimus, 1-11-1950: AAS 42 (1950); Dz 2333 (3903). Xem T. Gio Damascenô, Enc. in dorm. Dei Genitricis, bài giảng 2 và 3: PG 96, 721-761. nhất là cột 728B. T. Germanô Constantinopla, In S. Dei gen. Dorm. bài giảng 1: PG 98 (6); 340-348; bài giảng 3: cột 361. T. Modestô Jerusalem, In dorm. SS. Deiparae: PG 86 (2) 3277-3312.

14 Xem Piô XII, Tđ. Ad caeli Reginam, 11-10-1954: AAS 46 (1954), trg 633-636; Dz 3913tt. Xem T. Anrê Gret., Hom. 3 in dorm. SS. Deiparae: PG 97, 1089-1109. T. Gioan Damascenô, De fide orth., IV, 14: PG 94, 1153-1161.

77* Số 59: Ðức Maria sau khi Chúa lên trời.

Có hai vấn đề nói ở đây: 1) Lời cầu nguyện của Ðức Maria trước lễ Hiện Xuống cùng với các Tông Ðồ, các phụ nữ và các anh em Chúa. Ðức Maria ở giữa dân chúng chứ không ở trong số những người điều khiển cộng đoàn. Mẹ tham dự vào kinh nguyện chung. Mẹ thuộc thành phần Giáo Hội cầu nguyện đang chuẩn bị thi hành sứ mệnh của mình, và Mẹ cầu nguyện với tước hiệu duy nhất là Mẹ Chúa Giêsu (CvTđ 1,14). 2) Công Ðồng tái xác nhận hai tín điều đã được Giáo Hội tuyên bố khi lập lại những lời của các câu định tín liên hệ. Hai tín điều này có liên quan mật thiết với nhau. Ðức Maria được suy tôn làm Nữ Vương của vũ trụ, để trở nên giống với Con Mẹ là Chúa các Chúa một cách hoàn toàn hợn, và được suy tôn là Ðấng chiến thắng tội lỗi và sự chết.

78* Các số 60-65: Phần II - Sự liên lạc giữa Mẹ Thiên Chúa và Giáo Hội.

Phần này trực tiếp bàn về sự liên lạc giữa Ðức Maria và Giáo Hội. Trước hết, Công Ðồng nhấn mạnh tới sự đồng công cứu chuộc của Ðức Maria do sự tự ý chấp thuận việc Nhập Thể của Con Thiên Chúa, do việc dâng hy tế trên Thánh giá và do việc cầu bầu liên lỉ trên trời. Trong văn mạch này, giữa những tước hiệu khác nhau Công Ðồng đề cập đến tước hiệu Ðấng Trung Gian. Một số người trong Ủy ban thần học chưa nhìn thấy rõ tước hiệu này nên Công Ðồng giải thích cho biết tước hiệu này vẫn không làm lu mờ sự tuyệt hảo Ðấng Trung Gian duy nhất là Chúa Kitô (các số 60-62). Sau đó (trong các số 63-64) Công Ðồng giải thích lý do khiến Ðức Maria, là Trinh Nữ và là Mẹ, lại là hình bóng của Giáo Hội. Giáo lý này có tầm quan trọng đặc biệt, vì Công Ðồng rất lưu tâm đến những khía cạnh trổi vượt của mầu nhiệm Giáo Hội. Sau cùng (số 65), Ðức Maria được coi như gương mẫu các nhân đức.

79* Các số 60-62: Ðức Maria trong công trình cứu chuộc.

80* Số 60: Những nguyên tắc giáo lý.

Số này tóm lược các nguyên tắc giáo lý và chỉ dẫn cho biết giáo lý trình bày trong những số kế tiếp phải được hiểu theo những nguyên tắc này. Mọi nỗ lực và hành động của Ðức Maria đều do vị Trung Gian duy nhất là Chúa Kitô, Ðấng đã muốn cho Ðức Maria cộng tác vào công trình cứu chuộc. Sự trung gian của Ðức Maria biểu lộ rõ rệt hơn và còn giúp cho sự trung gian của Chúa Kitô nữa. Chỉ vì ý muốn hoàn toàn nhưng không của Thiên Chúa nhân từ và quyền năng, Ðấng Cứu Thế đã thông truyền ảnh hưởng cứu rỗi cho các chi thể và đặc biệt cho Mẹ Người, là Ðấng ngay từ đầu đã cộng tác với Người và với công việc Người. Ðó chính là nguyên tắc của kế hoạch cứu rỗi hay nguyên tắc ban phát đời sống thần linh. Giáo Hội sẽ trở nên bí tích để ban phát đời sống đó. Còn Ðức Maria, là chi thể trổi vượt đầu tiên, sẽ là khuôn mẫu cho Giáo Hội.

81* Số 61: Trong cuộc đời trần gian.

Số này nói rất vắn tắt đến trọng tâm việc cộng tác của Ðức Maria. Là mẹ Thiên Chúa, là tôi tớ khiêm hạ của Chúa, Mẹ là cộng sự viên quảng đại của Ðấng Cứu Thế và là Mẹ chúng ta trên bình diện ân sủng. Bản văn theo sát với sự thể hiện của nhiệm vụ này. Nhờ hoàn toàn sẵn sàng tuân theo ý Chúa, Ðức Trinh Nữ đã mang thai Chúa Giêsu, Ðấng sẽ xóa hết tội lỗi Dân Người. Ðức Maria đã sinh con và đã nuôi nấng. Mẹ đã dâng Con cho Chúa Cha trong Ðền Thánh, đã đau khổ với cái chết của Con trên Thánh Giá. Mẹ đã cụ thể hóa việc cộng tác tuyệt đối duy nhất này trong sự tuân phục vô điều kiện, sự tuân phục thấm nhuần đức tin, đức cậy và đức mến hăng nồng. Sự trung thành của Mẹ trong việc chấp thuận chương trình cứu rỗi là then chốt cho việc quảng diễn các ý tưởng khác (x. các số 53, 56, 63 và 64).

15 Xem Kleutgen, ch. IV bản đã sửa: De Mysterio Verbi incarnati: Mansi 53, 290. Xem T. Anrê Gret. In nat. Mariae, bài giảng 4: PG 97, 865A. T. Germanô Constantinopla, In annunt., Deiparae: PG 98, 321 BC; In dorm. Deiparae III, 361D. T. Gio Damascenô, In dorm. BV. Mariae, bài giảng 1, 8 : PG 90, 712BC-713A.

16 Xem Leô XIII, Tđ. Adjutricem populi, 5-9-1895: ASS 28 (1895-96), trg 229. T. Piô X, Tđ. Ad diem illum, 2-2-1904, văn kiện I, trg 154; Dz 1978a (3370). Piô XI, Tđ. Miserentissimus, 8-5-1928: AAS 20 (1929), trg 178. Piô XII, sứ điệp truyền thanh, 13-5-1946: AAS 38 (1946), trg 266.

17 Xem T. Ambrosiô, Epist. 63 : PL 16, 1218.

82* Số 62: Trên trời.

Là Mẹ ban ân sủng, ở trên trời Ðức Maria tiếp tục một địa vị khác trong công trình cứu rỗi. Tình mẫu tử của Mẹ tiếp tục hoạt động. Chắc chắn Mẹ không ban phát ân sủng riêng, nhưng là ân sủng Chúa Kitô, vì không có ân sủng nào khác. Sứ mệnh của Ðức Maria là liên kết Chúa Kitô với những phần tử làm thành Giáo Hội. Ðó là ý nghĩa của tiếng Maria, Mẹ đầy ơn. Mẹ thực hiện sứ mệnh qua việc bầu cử cho nhân loại. Do đó, mà Giáo Hội gọi Mẹ bằng các danh hiệu: Ðấng Bảo Vệ, Ðấng Phù Trợ, Ðức Mẹ Hằng Cứu Giúp, Ðấng Trung Gian. Các nhà thần học tranh luận về ý nghĩa gán cho các tước hiệu ấy, nhất là tước hiệu sau cùng. Công Ðồng không muốn giải quyết cuộc tranh luận, nhưng chỉ quả quyết một thực tại hoàn toàn được toàn thể Giáo Hội chấp nhận, mà không bận tâm đến những điều xác định rõ rệt có tính cách kỹ thuật. Công Ðồng cũng nói thêm là tước hiệu này không làm mất cũng không thêm thắt gì vào địa vị và hành động của Chúa Kitô, Ðấng Trung Gian duy nhất, vì không tạo vật nào có thể đóng vai trò trên cùng một bình diện như Chúa Cứu Thế.

83* Các số 63-64: Ðức Maria là mẫu mực Giáo Hội.

Tính cách song đối giữa Ðức Maria và Giáo Hội đưa ra một chủ đề hoàn toàn mới mẻ trong khoa thần học hiện thời. Quả thực được liên kết với Con mình trong công trình cứu chuộc, Ðức Trinh Nữ Maria đã vượt trên mọi người khác và trở nên mẫu mực Giáo Hội. Ðó chính là một phần tử trong nhóm đang hình thành, gây ảnh hưởng trên người khác, lôi cuốn và làm gương cho họ. Ở đây Công Ðồng khai triển vắn tắt chủ đề này về Ðức Maria là hình bóng Giáo Hội, không phải hình bóng hay mẫu mực theo nghĩa thiết lập phẩm trật hay bí tích, nhưng như người cổ xúy đời sống thiêng liêng trong đó sự đồng trinh nẩy nở thành tình mẫu tử.

18 Xem T. Ambrosiô, Expos. Lc II. 7; PL 15, 1555.

19 Xem Phêrô Dam. Giả, Serm. 63: PL 144, 861 AB. Godefridus a S. Victore, in nat. BM., Ms. Paris, Mazarine, 1002, tờ 109c. Gerhohus Reich., De gloria et honore Filii hominis, 10 : PL 194, 1105 AB.

84* Số 63: Ðức Maria là mẫu mực Giáo Hội, như một Trinh Nữ và một người Mẹ.

Trước hết là đức đồng trinh, nhưng hiểu theo chiều hướng thiêng liêng. Nó hệ tại đức tin và đức cậy nhờ đó Ðức Maria đã sinh Con Chúa do quyền phép Chúa Thánh Thần mà không có sự liên lạc xác thịt nào với người nam, và như vậy đã trở thành người Mẹ. Ðức Maria đã thụ thai Ngôi Lời trong tâm hồn trước khi thụ thai trong lòng. Ðức đồng trinh tương quan với sự chấp thuận bất khả khuyết của đức tin. Ðức Maria đi trước Giáo Hội ở điểm này; chính do Mẹ mà Chúa Kitô được sinh ra, Ðấng sẽ làm cho Giáo Hội thành thân thể của Người.

20 Xem Ambrosiô, Expos. Lc.II,7 và X,24-25; PL 15, 1555 và 1810. T. Augustinô, In Jo Tr. 13,12: PL 35, 1499. Xem Serm. 191, 2,3: PL 38, 1010; v.v... Cũng xem chân phước Beda, In Lc. Expos. I, ch. 2 : PL 92, 330. Isaac de Stella, Serm. 51: PL 194, 1863A.

85* Số 64: Giáo Hội là Mẹ và là Trinh Nữ.

Hình thức song đối đã nói trên kết thúc ở đây: tính cách làm Mẹ đồng trinh của Ðức Maria chính là bí tích, dấu hiệu hoặc hình ảnh của Giáo Hội đồng trinh, cũng thụ thai và sinh dưỡng các con cái mình. Tính cách làm mẹ của Giáo Hội, noi theo Ðức Maria, là việc đón nhận Lời Chúa trong tâm hồn. Ðón nhận có nghĩa là thực hành. Như thế Giáo Hội trở thành mẹ của một cuộc sống bất tử, nhờ Thần Khí của việc sáng tạo mới. Sự đồng trinh của Giáo Hội - là điều kiện để sinh nhiều con cái - hệ tại việc trung thành thực thi các nhân đức đối thần, theo gương Ðức Maria và nhờ sức mạnh Chúa Thánh Thần.

86* Số 65: Giáo Hội và việc noi theo các nhân đức của Ðức Maria.

Ở đây, Công Ðồng trình bày Ðức Maria như gương mẫu các nhân đức mà Giáo Hội phải noi theo. Việc kính nhớ Mẹ Thiên Chúa làm cho tín hữu thâm hiểu mầu nhiệm Nhập Thể hơn vì có nhiều khía cạnh của mầu nhiệm này biểu hiện nơi Mẹ Thiên Chúa. Ngay từ thời xa xưa, Giáo Hội đã cầu khẩn với Ðức Maria, nhờ thế mà Giáo Hội tiến tới trên con đường đức tin và trên đường sứ mệnh tông đồ, trở nên giống với mẫu mực của mình hơn.

 
VỀ MỤC LỤC
NẾN CHÁY
  

Jorathe Nắng Tím

Giây phút lung linh phấn khởi và cảm động ấm lòng nhất với tôi trong đêm vọng Phục Sinh là lúc lửa từ cây nến lớn Phục Sinh được chuyền đến các cây nến nhỏ trên tay mọi người. Lửa Phục Sinh bừng cháy, sáng rực nhà thờ, rạng rỡ từng khuôn mặt, ấm áp mọi tâm hồn. Lửa Phục Sinh nhẩy nhót mừng vui trên đôi mi chớp nhanh vừa quen ánh sáng, trên đôi tay gầy xương xẩu  của tuổi già, trên má hồng au đỏ rạng rỡ muà tình yêu. Lửa Phục Sinh xua  khỏi nhà thờ  màn đêm ảm đạm như đuổi đêm tối lạnh lùng ra khỏi lòng ai băng giá. Lửa cho ánh sáng tràn đầy, Lửa cho niềm vui  chan chứa, Lửa cho tình yêu rạo rực, Lửa trả về sự sống nguyên vẹn sau những ngày buồn, tang chế.

Nến cháy và sáng lên từ người này đến người kia, từ hàng ghế trước đến hàng ghế sau  cho đến khi tất cả đều cháy sáng, tất cả đều rực sáng, tất cả đều rạo rực một niềm vui được chiếu sáng. Đêm nay có nến sáng, không chỉ  sáng trên bàn thờ, dưới chân Thánh Giá, bên tượng Đức Mẹ, không chỉ sáng những cây nến có phúc  được đốt dưới chân các Thánh, trên cung thánh, nhưng nến sáng trên tay mọi người, nến sáng trong tim từng người, nến sáng ngay trong cuộc đời mỗi  người.

Cử chỉ chuyển lửa Phục Sinh cho nhau, đốt nến cho nhau, trao ánh sáng cho nhau trong đêm Phục Sinh là một hình ảnh tuyệt đẹp. Tuyệt đẹp vì ý nghiã hợp nhất, chia sẻ, cộng đòan của ánh sáng Đức Kitô Phục Sinh. Tuyệt đẹp vì nói lên mối liên quan mật thiết giữa các chi thể của thân thể Đức Kitô sống lại. Tuyệt đẹp vì hình ảnh hiệp thông trong Đức Tin, Đức Ái và niềm Hy Vọng của mọi thành phần trong Giáo Hội.

 Đêm nay, tất cả đều có nến trong tay, những ngọn nến được đốt sáng từ lửa phục sinh, từ cây nến lớn là Đức Kitô, ánh sáng muôn dân. Chung một ánh sáng, chung một lửa yêu thương như chung một phép rửa, mọi tín hữu thấy mình cùng thuộc về Đức Kitô, thuộc về Giáo Hội và thuộc về nhau.

Người ta sẽ không đốt nến một mình, giữ nến một mình nhưng chia sẻ ánh sáng, chung hưởng ánh sáng, truyền cho nhau ánh sáng để ánh sáng rực rỡ, huy hoàng, rạng ngời hơn. Người ta không  đốt nến rồi dấu dưới gầm giường hay lấy thùng đậy lại, nhưng giơ cao, đặt trên bàn cho ánh sáng tỏa lan, cho ánh sáng chan hoà . Nến sáng không còn là sở hữu của một người, nhưng là gia tài chung của cả nhân loại mà càng chia sẻ, trao ban, gia tài ấy càng sinh sôi nẩy nở…

Đêm nay, nến sáng được ân cần trao tay nhau đã xóa tan bóng tối ngăn cách và làm cho nhau nhận ra dung mạo dễ thương « con Chúa, anh em của nhau ». Mục đích của bóng tối là ngăn cách, chia rẽ, phá hoại. Như bức tường  giữa con người với con người, bóng tối đã không cho con người nhận diện đúng đắn về nhau, không cho sự thật của nhau được tôn trọng, không cho diện mạo, giá trị của nhau được trân qúy, không cho niềm vui của nhau đuợc trọn vẹn, không cho đời sống của nhau được an bình.

Bóng tối như tên phá hoại lợi dụng ánh sáng vắng mặt để gieo ngờ vực, thù hận, ganh ghét và dựng những hàng rào chia cách, cô lập, tạo những vùng cấm, bất khả xâm phạm, làm nên những biên giới, lằn ranh không được vượt qua trong cộng đồng nhân loại. Bản chất bóng tối không nối kết, hiệp thông nhưng biến con người thành kẻ thù, đối phương của nhau bằng gây hiểu lầm, bất hoà, đố kỵ.

Ánh sáng được ân cần chuyền tay nhau đêm nay là hình ảnh mọi nguời cùng tự nguyện xua đuồi bóng tối, cùng góp sức đạp đổ bức tường, cùng chung lòng xóa biên giới, hàng rào để nhờ ánh sáng, mọi người nhìn thấy nhau, hiểu nhau, bỏ qua cho nhau những hiểu lầm, thứ tha cho nhau những lầm lỗi phần lớn vì tối qúa đã không nhìn ra. Ánh sáng được âu yếm trao tay nhau đêm nay sẽ làm cho lòng nhau ấm lại sau những tháng năm dài lạnh lẽo, hiu quạnh vì đời bị cô lập bởi những bức tường bóng tối nghi kỵ.  Ánh sáng được vui vẻ trao tay nhau đêm nay cũng làm rung động những trái tim tưởng đã khô cằn, vô cảm nhờ sức hồi sinh, truyền cảm của ánh sáng.

Đêm nay thật đẹp trong ánh sáng chứa chan tình Chúa, tình người. Đêm hồng ân, đêm hạnh phúc khi con người được ánh sáng Đức Kitô phục sinh giao hoà : Thiên Chúa giao hoà với con người và con người tìm về nhận diện, gặp gỡ, thông cảm nhau.        

Đức Kitô là ánh sáng giải phóng con người khỏi những nhà tù của thù hận, ích kỷ, bon chen ;  là ánh sáng làm sụp đổ những bức tường ô nhục của vong thân, phản bội ;  là ánh sáng tiêu diệt bóng đêm tội lỗi đã biến con người thành nô lệ ; là ánh sáng kéo con người ra khỏi bóng tối lầm lạc, nghi nan, tuyệt vọng.

Ngài không là ánh sáng làm chói mắt, không là ánh sáng xoi mói,  lột trần, không là ánh sáng thiêu đốt, trừng phạt ;  nhưng là ánh sáng êm dịu cứu chữa, ánh sáng nhẹ nhàng cảm thông, ánh sáng hiền lành che chở, ánh sáng nhân từ thứ tha, ánh sáng khiêm hạ ở gần. Ánh sáng Đức Kitô Phục Sinh mang ngây thơ, vô tội của tình yêu chết cho người mình yêu. Ánh sáng Đức Kitô nhuộm sắc  máu của « tình yêu đến cùng » trên Thánh Giá. Ánh sáng Đức Kitô lấp lánh lòng thương xót của tình Cha nhân hậu. Ánh sáng Đức Kitô lắng đọng hào quang của một tấm lòng chỉ biết chạnh lòng bao dung.

 Ánh sáng ấy không tiêu diệt con người cùng với tội lỗi, nhưng tách tội lỗi khỏi con người, nên bất cứ ở đâu và mãi mãi, tội nhân vẫn được lòng xót thương mời gọi. Ánh sáng ấy biết hậu qủa tai hại của tội , nhưng cũng biết giá trị con người cao qúy đến độ không gì có thể thay thế. Ánh sáng ấy nhìn ra từng hoàn cảnh của con người yếu đuối để giảm khinh, thương xót ; nhìn từng kẽ hở của thân phận tội lụy để cảm thương, bênh vực ; nhìn thấu từng đường tơ cọng chỉ của tâm tình sâu kín để chia sẻ, ủi an. Ánh sáng ấy cũng nhìn cặn kẽ từng góc cạnh của đường đời người lữ khách không luôn trung thành, bền bỉ để không lớn tiếng nặng lời trách móc, nhưng đằm thắm nhắc nhở, chỉ bảo, khuyên răn.

Ánh sáng Đức Kitô đem lại ơn cứu độ, ơn giải phóng, ơn làm người, ơn làm con Thiên Chúa. Ánh sáng trả lại tự do trong tình yêu, tự do trong tư tưởng, tự do trong đời sống của con người đã một lần trót đánh mất  khi rơi vào tình trạng nô lệ. Tội  là bóng tối biến con người thành nô lệ, làm con người mù loà, vấp ngã. Tội là bóng đêm làm con người chao đảo, ngã qụy.  Chỉ có ánh sáng mới xua đuổi được  tòan bộ bóng tối và sẽ không còn tối khi ánh sáng ùa vào, không còn góc tối khi ánh sáng tràn lan, không còn khoảng tối khi ánh sáng ngự trị, không còn mảng tối khi ánh sáng ghé thăm, không còn đêm tối khi bình minh Phục Sinh ló dạng.  Đức Kitô phục sinh là ánh sáng chiến thắng bóng tối, ánh sáng của sự sống chiến thắng bóng đêm tử thần, ánh sáng tình yêu tiêu diệt đêm đen thù hận, ánh sáng hy vọng xóa bỏ màn đêm tuyệt vọng, ánh sáng an bình phá tan đêm tối ngờ vực, lo âu.

Nhưng để là ánh sáng cứu độ, Đức Kitô đã phải đi qua đêm tối của chết chóc ; để là ánh sáng giải phóng,  Ngài đã phải sống những giây phút  tối  tăm khi Chúa Cha vắng mặt, không lên tiếng ; để là ánh sáng  bao dung, Ngài đã nằm yên trong mộ phần u tối. Ánh sáng tình yêu nơi Ngài không khơi khơi, lơ lửng, nhưng sáng lên từ đinh sắt, lưỡi đòng, mạo gai, thập tự.

Ánh sáng  sự sống của Ngài không tùy tiện, bừa bãi, nhưng sáng lên từ  « máu và nước » chảy ra từ cạnh sườn bị đâm thủng. Ánh sáng bình an của Ngài không mơ hồ, vô định, nhưng sáng lên từ bàn tay, bàn chân gẫy nát, bấy máu, tím bầm. Thánh giá khổ đau  làm nên nến sáng phục sinh. Nước mắt, máu đào là sáp cho nến cháy. Nến cháy nhờ sáp tiêu hao, nên sáp có chấp nhận bị tiêu hao, nến mới lung linh hạnh phúc ;  sáp có vui nhận đời tận hiến, quên mình, nến mới rực rỡ mắt sáng niềm vui ; sáp có nhẫn nhục chịu mất mát, kiên trì ở lại, nến mới nồng nàn ấm áp niềm hy vọng.

Tình của sáp làm ánh sáng của  nến bao dung. Lòng của sáp làm ánh sáng của nến hiền lành. Tim của sáp làm ánh sáng của nến không biết mệt mỏi yêu thương. Trong sáp có hy sinh, nên lửa của nến mới thắm thiết, mặn nồng. Ở sáp có đau khổ, nên lửa của nến mới không ngừng thông cảm, thi ân. Nến sáng nhờ sáp chịu tiêu hao như tình yêu sống nhờ hy sinh, quên mình. Nến sẽ không cháy nếu sáp từ chối hiến mình. Nến sẽ không sáng, nếu sáp không  chịu liên lỷ  biến tan. Nến sẽ không nóng, nếu sáp không tự nguyện xóa mình như của lễ bị thiêu hủy.

Khi trao nhau ngọn nến  đêm vọng Phục Sinh, chúng ta không chỉ trao nhau cây nến như bao nhiêu cây nến bình thường, vô tri, nhưng trao nhau ngọn nến sáng Phục Sinh được lấy từ lửa tình yêu trong trái tim  Đức Kitô đã chết và vừa sống lại. Lửa của tình yêu chịu chết cho người mình yêu, lửa từ tình yêu hiến trọn cuộc đời cho người mình yêu, lửa nơi « tình yêu đến cùng, vô cùng » dành cho người mình yêu. Lửa ấy đã lan đến tay, vào trong  hồn mỗi người khi nến Phục Sinh được thắp sáng.

Nhận nến sáng Phục Sinh trong đêm hồng phúc là nhận sứ mệnh của Đức Kitô phục sinh : « Chúng con là ánh sáng thế gian » (Mt 5,14)  và để ánh sáng ấy soi đường, giài phóng, cứu sống, yêu thương thế gian, « chúng con hãy đi khắp nơi, đến tận cùng thế giới làm chứng về Thầy cho muôn dân » và Thầy sẽ ở với chúng con, như ánh sánh Tình Yêu, An Bình, cho đến tận thế (Mt 28,19-20)

Ước gì khi nhã nhặn trao nhau ánh sáng Phục Sinh, chúng ta cũng ân cần trao nhau tình yêu có hy sinh, chịu đựng, có nhẫn nại, thứ tha như  sáp cho nến  hồng rực sáng trong  đêm ngóng đợi Thiên Chúa Tình yêu sống lại.

 

VỀ MỤC LỤC
CÓ NHỮNG THẬP GIÁ ĐỜI
 

Trên cây khổ giá đời, có biết bao thân phận đang chịu treo, những thân phận của con người nhỏ bé, gầy guộc, đau thương. Trên cây khổ giá đời, có những giọt nước mắt tuôn chảy, có những tiếng thì thào và im bặt. Chẳng biết bao lâu nữa, ai sẽ gỡ những thập giá đời cho những thân phận nhỏ nhoi, chẳng biết bao lâu nữa giọt nước mắt biến thành nụ cười.  

Có những đèn đêm, người lao công quét đường, người bán hàng rong, chiếc gõ đều đặn. Cuộc sống gian khổ bên những chiếc xe rú chạy, có những giọt mồ hôi bên những giọng cười say khướt, có những nhọc nhằn bên những xa hoa. Thập giá đời sao quá nặng để nuôi đàn con ăn học, những đêm khuya vắng, than cùng tiếng chổi quét, khàn đi cùng tiếng rao. 

Có ánh đèn dầu đêm ngoài vườn khuya, người lao động cắt vội mớ rau, hái vội những trái, trẩy vội những củ. Áo vai gầy ướt sẫm, mắt mờ đi vì thiếu ngủ. Những luống rau rồi đây cũng chẳng còn, miếng đất sẽ là nhà ở mà chẳng bao giờ là của mình. Luống rau, mồ hôi, sẽ chẳng còn những đêm vất vả. Ngày mai, bó gối ngồi chợ người, chờ ai đó thuê mướn làm mọi thứ có thể làm. Ngày mai miếng đất không còn, cuộc đời buồn hơn.

Có những ngày nắng đổ lửa, chiếc xe đẩy kẽo kẹt, những trái cây bán ven đường, chở vài cây cảnh, bán vài con cá, một vài mớ rau, thịt. Làm bất cứ công việc nhỏ nhen vừa với đồng vốn. Vật vã trụ lại trong cuộc sống. Hớt ha, hớt hải đẩy xe bỏ trốn công an dẹp lòng lề đường, cuốn vội tấm bạt bày bán quần áo, giày dép, những thứ linh tinh. Những con người khốn khổ, lã chã mồ hôi bên cóng cơm nguội lạnh, nhìn theo những người đi qua. Bên dòng đời ngược xuôi vất vả, nhìn ai cũng thấy thương.

Có những cụ già trong ngoài bảy mươi, mắt kèm nhèm lần từng bước bên bờ biển, nhặt về từng con ốc, cái sò. Những cụ già nhặt bao nylon, những chiếc chai nhựa. Nhặt nhẹm nuôi thân già cô độc, một ngày chưa được một tô phở giá bèo lại còn thêm vài ba đứa cháu. Có những phận người đau khổ suốt một đời, cặm cụi bước chân với những tờ vé số, những chén trà xanh bên góc đường nhỏ, nhặt nhặn những rau thừa, cá cặn bên hông những chợ, hàng quán. Thân già còm cõi giữa những hàng phố sang trọng, bước chậm từng bước trên con lộ thênh thang, đông người qua lại.

Có những chàng trai, thiếu nữ giả dạng câm điếc, đui mù, què quặt, thương tích, vạ vật bên đường. Những cuộc đời dường như không lối thoát, không chữ, không nghề, không ai thuê mướn; vẫn phải sống, vẫn phải giả dạng. Một trong số họ, ngày nào đó trở thành cướp, bởi đàng nào cũng mất. Có những đứa trẻ đen nhẻm trong bộ quần áo học sinh, nhìn vào hàng đồ chơi thèm ước, trên tay chỉ có chiếc ca hay ít tờ vé số hoặc vài nhánh hoa, cùng bà mẹ mưu sinh.

Có những Osin chịu ngược đãi, bị lợi dụng tình dục, chỉ vì cuộc sống khó khăn quê nhà mà phải cắn răng chịu đựng. Có Osin bị dội nước sôi bởi bà chủ độc ác, có Osin chịu xâm trên mặt con rồng quỷ quái, bởi bá chủ ghen tuông. Thân phận tôi đòi, nhân phẩm bị chà đạp, con người chịu xúc phạm. Thập giá của ô nhục con người dành cho con người, tàn nhẫn và độc ác.

Có những công việc không đủ sống, giá cả đắt đỏ, các thứ phí chồng chất, gánh nặng lại nặng hơn. Miệt mài nhập liệu, kiểm toán, dịch tài liệu, làm thêm ngoài giờ và cả ngoài ngành, giao hàng, bỏ báo, may, thêu. Cuộc sống tất bật, căng tai, căng mắt, thiếu ăn, mất ngủ, làm hụt hơi mà vẫn thiếu. Cuộc sống kéo lê thập tự, những lúc chẳng vác nổi. Những con người tử tế với đồng lương ít ỏi, kéo cày thêm công việc để bươn trải cuộc sống cho gia đình, những đứa con được ăn học.

Có những đồng vốn bỏ ra và rồi thấp thỏm, chẳng biết cái nhà đang cầm có ngày nào chuộc được, khi đổ vào hết ao cá, ruộng vườn. Chủ nợ trốn mất, lao đao vô vọng, bạc trắng mái đầu, công nợ chồng chất chẳng lấy đâu ra trả. Những con người khổ trí khổ tâm giữa dòng đời lừa lọc, biết đâu thật, đâu giả. Muốn sống đời lương thiện giữa dòng đời giả dối, đôi khi mất hết, về với con số nợ, lầm than .

Qúa nhiều thập giá khiến nhiều người không vác nổi, dẫn đến quyết định biết là đau khổ, trái lương tâm, khi đành hy sinh đứa con trong bụng vì sinh ra biết rằng sẽ khó khăn chồng chất. Quá nhiều tủi nhục, đau thương, nhiều người không đứng vững, quỵ ngã trong nghiện ngập, buông xuôi trong tự vẫn. Những thập giá đời của lương tâm cắn rứt, của những tâm hồn tê dại.

Có những cuộc đời, sống gần như đang chết, bị lừa lọc, bị bán cho thú vui người đời. Những con người sống mà chỉ muốn chết. Những thân phận bị giam nhốt cho công nghệ tình dục. Những lúc khốn cùng, tiếng cô gái nhỏ van xin đừng làm hại đời mình. Tiếng khóc không thành tiếng, một tiếng khóc vừa tủi nhục của kiếp nghèo vừa khóc hận vì người bỏ tiền mua. Một thập giá đời của con người, bầm dập với những cuồng si. Bao cô gái chưa kịp vui ngày cưới đã khóc thương một phận đời bị bán buôn, trao đổi. Bao nhiêu giọt nước mắt nữa, khóc cho đời người con gái, rồi đây sẽ chai đi vì nhục nhằn, vô cảm vì không biết ý nghĩa tình yêu, mang vào trong mình những oán hận, trầm uất.

Những cô gái quê mơ ước xứ Hàn, xứ Đài, xứ Trung, qua phim ảnh, ca nhạc, tươi cười bên chồng ngoại để đổi đời, đổi số. May mắn thì ít, tai hoạ lại nhiều, vì đâu lường hết bao nhiêu vấn đề thương mại trong cuộc tình duyên. Bên kia người ta quảng cáo môi giới những cô gái Việt làm vợ, không hài lòng còn có thể trả lại, thua món hàng “mua rồi miễn trả lại”. Thương cho những thập giá đời đến từ những lam lũ đồng quê và mong ước được đổi đời, từ đau khổ này sang đau khổ khác tệ hại hơn.

Bao nhiêu thập giá nữa trên thân phận thống khổ này? Tai họa đến từ thiên nhiên, đến từ con người ác tâm giả nghĩa, vơ vét cho đầy túi tham. Biến rừng thành hồ làm hủy điện, có cơ hội bòn rút, để khi mưa về xả lũ, gây bao tai ương cho dân lành dưới xuôi, hết năm này đến năm khác ngập lụt, mất nhà, mất thu hoạch ruộng nương và mất cả người. Biến thửa ruộng bao đời vun xới, đất tổ, nghĩa trang, thành sân gold, thành khu công nghiệp bỏ hoang, thành những khu biệt thự không người và đẩy những con người nông dân chất phác trở thành dân oan từ chục năm này qua năm khác, không ai giải quyết. Những vùng đất trồng trà, cà phê trở thành nơi khai thác khoáng sản, nhiễm độc. Đau thương cho những người dân đang góp phần nhiều nhất cho nền kinh tế phải chịu bán rẻ bởi những lòng tham vô độ.

“Vì cây xanh tươi mà người ta còn đối xử như thế, thì cây khô héo sẽ ra sao?” (Lc 23, 31). Những thập giá đời, không mong ước gì hơn, xin đừng vô cảm, xin đừng nhục mạ, cướp bóc, lọc lừa, trên những mồ hôi nước mắt của những con người dân đen, chất phác. Xin đừng biến những con người lương thiện, ngây thơ, thành những món hàng trao đổi. Gỡ những chiếc đinh đóng vào thập giá cho nhau. “Hãy quan tâm tới nhau, khích lệ nhau làm việc lành, phúc đức” (Dt 10, 24).

L.m Giuse Hoàng Kim Toan 

 Joshkimt    www.joshkimt.blogspot.com  

 
VỀ MỤC LỤC
VẤT VẢ VỚI HAI CHỮ “PHỤC SINH”
 

 

Trần Mỹ Duyệt

 

 

Đối với nhiều Kitô hữu thế là xong. Mùa Chay, Tuần Thánh và Phục Sinh đã qua. Tất cả đều lùi vào quá khứ và đây là thời gian “ăn mặn” trở lại. Chúa đã phục sinh và sống lại thật cho chúng nhân rồi. Mình phải vui mừng, ăn nhậu. Alleluia! Alleluia. 

 

Nhưng đối với những Kitô hữu chân chính, những Kitô hữu với lòng yêu mến Thiên Chúa và yêu mến hồng ân Cứu Độ của Ngài thì không suy nghĩ và sống như vậy. Họ vẫn phải chiến đấu để duy trì hai chữ “Phục Sinh” trong cuộc sống tâm linh và trong đời thường của mình. Đúng hơn, họ vẫn phải sống tinh thần Phục Sinh mỗi ngày, và từng ngày. Đối với họ, Phục Sinh không chỉ là một biến cố giới hạnh của thời gian và không gian, nhưng nó là một biến cố sống động và tái diễn mọi ngày trong cuộc sống người Kitô hữu.

 

Thật vậy, ý nghĩa Phục Sinh chính là lời diễn giải của Thánh Phaolô: “Nếu chúng ta cùng chết với Ngài, chúng ta tin rằng sẽ cùng sống lại với Ngài” (Rom 6:7). Và cái cốt lõi cũng như cái nguyên nhân chính đưa đến việc Phục Sinh của Chúa Kitô, đó là Chúa Kitô đã chết. Chết vì phần rỗi nhân loại, chết để xóa tội trần gian, và chết để giải thoát nhân loại khỏi nô lệ tội lỗi, khỏi nô lệ của Satan. Do đó, nếu muốn phục sinh và sống lại với Ngài thì cũng giống như Ngài, con người phải qua cái “chết” như Ngài đã chết. Nhưng đối với các Kitô hữu, chết đây không có nghĩa là chỉ chết một lần như Chúa rồi sống lại vinh hiển, sáng láng, và hạnh phúc. Chết đây là chết mỗi ngày trong cuộc sống. Và đây là cái mà chúng ta phải vất vả, vì thực tế là phần đông chúng ta chỉ muốn phục sinh, muốn sống lại nhưng ngại và sợ chết.  Vậy nếu “Phục Sinh” là biến cố luôn luôn hiện hữu thì cái chết cũng luôn luôn có mặt trong cuộc sống tâm linh và cuộc đời của mỗi Kitô hữu. 

 

Nhưng có lẽ bạn hỏi, vậy cái chết đây là gì và phải chết như thế nào? Tác giả Lung Linh trong Tâm Linh Vào Đời đã có những suy tư rất thực tế và cũng rất hợp với kiếp người. Theo đó:

 

Sự chết thường được mộ tả như những bóng tối nặng nề. Thí dụ như:

- Có thứ bóng tối tội lỗi.

- Có thứ bóng tối đam mê dục vọng.

- Có thứ bóng tối tham lam ích kỷ.

- Có thứ bóng tối ghen ghét oán thù.

- Có thứ bóng tối tự ái kiêu căng.

 

Và dĩ nhiên, còn có nhiều thứ bóng tối khác nữa như bóng tối đa mê quyền lực. Bóng tối đa mê cờ bạc, nghiện hút, bóng tối danh vọng chức quyền… Tất cả những bóng tối đó đang che khuất nẻo về và khiến con người lạc vào trong cõi u mê của ảo vọng, ảo giác về cái tôi của mình cũng như về cái thế giới phồn vinh giả tạo do Satan đang làm chủ. Những bóng tối mà ánh sáng Chúa Phục Sinh bị đẩy lui. Bóng tối ngăn chặn dòng suối ơn sủng của Ngài.

 

Để ánh sáng Phục Sinh của Chúa tràn vào hồn ta, ta phải quét sạch và xua tan những bóng tối ấy. Dĩ nhiên điều này làm cho con người phải vất vả, phải chịu khó, và phải hy sinh. Đôi khi sự hy sinh này đòi hỏi phải đổ máu như chính Chúa Kitô đã đổ máu Ngài trên thập tự giá để có được sự Phục Sinh vinh thắng.

 

Bạn và tôi đều biết rõ điều này, trong tất cả những cái khó khăn, rườm ra, xung đột, tranh giành, giận hờn, ghen ghét, và cả đến việc chửi bới, thanh toán nhau tất cả đều do cái tôi mà ra. Điều này rất đúng, nhất là khi con người đặt cái tôi sai chỗ, đặt cái tôi của mình trên cái tôi của người khác. Và nhất là cái tôi ấy lại đặt cao hơn cái “Tôi” của Thiên Chúa, tức Thánh Ý Nhiệm Mầu của Ngài. Trong vườn Diệu Quang Adong và Evà cũng đã làm như vậy. Các vị cũng đã muốn đặt cái tôi của mình trên cái “Tôi” của Đấng Tạo Hóa khi chấp nhận ăn trái cấm. Từ đó mới đưa đến phản nghịch. Mới đem đến việc con người muốn thay thế cái “Tôi” của Thiên Chúa bằng cái tôi của mình.

 

Thay thế cái “Tôi” của Thiên Chúa không được, con người lại tìm cách thay thế cái “tôi” của những người khác. Muốn thay thế tất cả những cái tôi của người khác bằng cái tôi của mình. Chúa Cứu Thế đã biết rõ điều này, nên khi còn tại thế, Ngài đã đặt điều kiện cho những ai muốn đi theo vết chân Ngài, muốn thành môn đệ Ngài, đó là “Nếu ai muốn theo Ta, phải từ bỏ mình, vác thập giá mình mà theo” (Mat 16:24). Điều kiện đã rõ ràng, không bỏ cái tôi đi, không thể vác thập giá mình được. Và dĩ nhiên, không thể trở thành môn đệ của Ngài được.  Như vậy cũng có nghĩa là bóng tối che khuất nẻo về vĩnh hằng. Bóng tối che khuất con đường tìm về chân thiện mỹ. Bóng tối dẫn đến u mê đó phát xuất từ cái tôi của mỗi người. Cái tôi ấy hiển diện trong mọi ngóc ngách cuộc đời, ngay khi ta ăn, uống, ngủ, nghỉ, vui chơi, và ngay cả khi ta đọc kinh, cầu nguyện. Khi làm việc lớn, khi làm việc nhỏ. Trong vai trò lớn nhỏ trong Giáo Hội cũng như xã hội. Tóm lại, cái tôi đó chính là những gì đang làm nên con người thật của mỗi chúng ta lúc này. Chiến đấu được, kiềm chế được tức là đẩy lui bóng tối, là bỏ mình, là vác được thập giá, và để ánh sáng Phục Sinh Chúa chiếu dọi.

 

Lm. Raniero Cantalamessa, dòng Capuchino, Giảng thuyết viên tại Phủ Giáo Hoàng đã diễn giảng về đề tài là một câu trích từ sách Khải Huyền “Tôi đã chết, giờ đây Tôi sống mãi mãi” (Kh 1,18), trong nghi thức Tưởng Niệm Cuộc Khổ Nạn của Chúa Kitô vào chiều thứ Sáu, ngày 6 tháng 4 năm 2012, trước sự chủ tọa của Đức Thánh Cha Bênêđíctô XVI cùng với sự tham dự của gần 9 ngàn tín hữu, hơn 40 Hồng Y và 50 Giám Mục, Ngài đã nhắc lại hình ảnh mà một số Giáo Phụ dùng để mô tả sự tham phần của chúng ta vào chiến thắng của Chúa Kitô, trong đó  Thánh Gioan Kim Khẩu đã thốt lên: “Các lưỡi gươm của chúng ta không vấy máu, chúng ta không ở giữa thao trường, chúng ta không bị vết thương nào, chúng ta cũng chẳng thấy cuộc chiến, vậy mà này đây chúng ta đạt được chiến thắng. Cuộc chiến ấy là của chúng ta, triều thiên là của chúng ta. Vì chiến thắng ấy cũng là của chúng ta...Chúng ta hãy vui mừng, xướng lên những bài ca chúc tụng Chúa” (De coemeterio et de cruce, PG, 49,596). (Lm. Trần Đức Anh, O.P, Vietcatholic.org)

 

Chúa đã chết và hủy diệt tội lỗi. Chúa đã chết và đã sống lại. Ngài đã chiến thắng thế gian. Nhưng Ngài không hủy diệt thế gian. Ngài không hủy diệt cái tôi của mỗi người. Ngài cũng không hủy diệt Satan. Ngài muốn để phần đó cho mỗi môn đệ Ngài. Bởi vì theo Thánh Phaolô, mỗi người phải hoàn tất phần còn lại trong cuộc Khổ Nạn của Chúa Kitô. Và vì thế, chúng ta cần phải nhủ mình rằng, trong khi vui mừng vì chiến thắng Chúa Phục Sinh, cũng đừng quên vẫn còn phải vất vả, mệt mỏi với hai chữ Phục Sinh. 

 
VỀ MỤC LỤC
KHỔ NẠN CỦA CHÚA LÀ HY VỌNG CỦA CHÚNG TA
 

Suy Niệm Phúc Âm Chúa Nhật Lễ Lá

(Isaiah 50: 4-7; Phil 2: 6-11; Mc 14: 1-15:47 hoặc 15:1-39)

Bác sĩ Nguyễn Tiến Cảnh, MD

Chúa Nhật Lễ Lá là ngày đầu tiên của Tuần Thánh, khởi đầu cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu để rồi dẫn đến cái Chết của Chúa trên thập tự để cứu chuộc muôn dân. Và Chúa đã sống lại đem hy vọng cho thế gian.

Cuộc Khổ Nạn, Cực Hình, Cái Chết và Sự Phục Sinh của Chúa chính là những đề tài  đã kết hợp tất cả chúng ta lại với nhau thành một Giáo Hội với những thần dân Kito hữu  trong Tuần Thánh Này.

Tin Mừng thánh Mác Cô Chúa Nhật Lễ Lá hôm nay diễn tả cho chúng ta thấy những ngày giờ cuối cùng của cuộc khổ nạn của chúa Giêsu ở dương thế. Đây là câu chuyện với những tình tiết rất là tương phản nhau. Khi chúng ta một lần nữa nghe lại câu chuyện cảm động này của Chúa thì cuộc khổ nạn của Chúa lại xâm nhập và hiện ra trong tâm can chúng ta. Đây là một tuần lễ đặc biệt. Chúng ta lại có dịp học hỏi nhiều điều qua những biến cố đã xẩy ra cho chúa Giêsu, khám phá ra không những cái căn cước của những kẻ đã cố gắng làm nhục chúa, kết án chúa và giết chúa trước đây, mà còn cả những gì đang và sẽ giết chúa, cái vòng luẩn quẩn của những thói hư tật xấu, khủng bố, bạo lực, tàn ác, hận thù, oán ghét, nghi kỵ, ghen tương vẫn đang tiếp tục đóng đanh Chúa nơi những người anh chị em huynh đệ của mình, trong gia đình mình, ngay nơi mình sống, tập thể của mình, xã hội quê hương mình và cả nhân loại hiện nay.

 

ĐẶC ĐIỂM CỦA CÂU CHUYỆN KHỔ NẠN CỦA CHÚA GIÊSU

Theo thánh Mac Cô (Mc 11: 1-10), thì cuộc di hành của chúa Giêsu vào thành Jerusalem đã được làm cho nhẹ bớt đi nhiều. Vì một lý do gì đó, thánh Mac Cô lại đặc biệt đem con lừa vào trong khung cảnh này. Theo thông lệ những người hành hương thường đi bộ vào thành Jerusalem, ngoại trừ chỉ có vua chúa mới cưỡi súc vật để vào thi trấn, mà thường là những con vật coi bộ oai phong nhất như ngựa quí và có đoàn rước đi theo để mọi người nhận biết ra họ là đấng cao trọng. Với Chúa Giêsu, là vua rất khác biệt, ngài cũng cưỡi một con vật, nhưng không phải là ngựa quí hùng dũng oai phong mà chỉ là một con lừa con dùng để chở đồ.

Ngồi trên lưng lừa, chúa Giêsu đi vào thành Jerusalem như một ông vua, nhưng đến không phải “để được phục vụ mà là để phục vụ” (Mat.20: 28).  Nước của Ngài được tạo dựng nên không phải bằng quyền lực mà vì lòng trắc ẩn, sự đồng cảm và xả thân phục vụ tất cả mọi chư dân. Hình ảnh con lừa khiến chúng ta nhớ lại những lời tiên tri Zechariah đã nói về quang cảnh này trước đây cả 5 thế kỷ:  “Hỡi con cái Zion ! Hãy vui lên, hãy reo hò vang lên. Hỡi con cái Jerusalem! Trông kìa, Vua các người đang đến, trong khải hoàn vinh quang nhưng khiêm tốn ngồi trên lưng lừa…”

Qua cuộc khổ nạn của chúa Giêsu mà thánh Mac Cô kể lại, chúng ta cảm nhận thấy  vẻ mặt Chúa Giêsu buồn rầu lo lắng vì bị bạn bè và các môn đệ bỏ rơi. Chúa Giêsu đã cam chịu, phó mặc cho số phận. Chúa không thèm trả lời Giuda là kẻ phản bội Ngài, cũng như Philato khi ông ta chất vấn Chúa. Theo thánh Mac Cô, tổng trấn Philatô đã không cố gắng cứu Ngài với tư cách một Toàn Quyền, vị đại diện của La Mã như nói trong 3 phúc âm thư kia.

Thánh Mac Cô, qua toàn thể Tin Mừng của mình, đã làm nổi bật cái thất bại cay đắng của các môn đệ là đã không an ủi nâng đỡ Chúa Giêsu, ngay cả hiểu biết những gì đang xẩy ra cho thầy mình. Một môn đệ trẻ đã chạy trốn vào đêm tối không kịp mặc áo quần, vào lúc mà Chúa Giêsu bị bắt. Môn đệ này chính là biểu tượng đầy uy quyền trong số các môn đệ của Chúa, lúc khởi đầu đã bỏ gia đình bạn bè bà con để theo Chúa. Bây giờ nguy khốn xẩy đến thì lại bỏ mọi sự, bỏ cả Chúa để thoát thân.

Chúng ta thử nhớ lại những biến cố của Tuần Thánh đầu tiên đó. Từ căn phòng Chúa ở đến vườn Gethsemane, từ phiên tòa Philato đến đồi Golgotha, từ thập tự giá đến ngôi mộ trống, Chúa Giêsu đã làm đảo lộn toàn thể thế giới. Ngài dạy cho chúng ta biết quyền lực thực chỉ thấy ở nơi tinh thần phục vụ và lòng quảng đại đối với tha nhân; trọng tâm của sự cao cả phải là lòng khiêm tốn; ước vọng yêu thương và công chính sẽ được Thiên Chúa khuyến khích và chúc lành.

 

CUỘC KHỔ NẠN CỦA CHÚA VÀ SỰ TRUNG THÀNH

Thánh Mac Cô kể rằng, lúc ấy chúa Giêsu đang ở làng Betania và đến thăm ông Simon bị bệnh cùi, một người đàn bà đến mang theo một bình bạch ngọc đựng đầy dầu thơm thứ đắt tiền rồi đập bể bình, lấy dầu thơm đổ lên đầu Chúa theo phong cách của hoàng gia (Mc 14: 3-9). Mùi thơm lan tỏa khắp nhà, mọi người ở bên Chúa Giêsu lúc đó tỏ vẻ bất bình vì cử chỉ phung phí của bà này. Chúa Giêsu đọc được ý của họ, bèn nói đỡ  cho bà ta là “bà đã biểu lộ một hành động trung thành và yêu thương thực sự”. Chúa Giêsu đã nói với họ rằng: “Bà này đã xức dầu lên người tôi để chuẩn bị cho ngày ướp xác” (Mc 14: 8). Vì lý do đó, chúa Giêsu đã hứa là “bất cứ nơi nào mà Tin Mừng được loan truyền đến thì câu chuyện này của bà cũng sẽ được kể lại để mọi người nhớ đến bà”. (Mc 14: 9). Người đàn bà này, không kể Đức Maria mẹ Chúa Giêsu, sẽ là người duy nhất được tôn vinh cao cả.

Trong khi các đệ tử và tông đồ Chúa tỏ ra thất bại rõ ràng vì phản bội và bỏ chạy thì người đàn bà vô danh này đã chứng tỏ chí cương quyết, lòng quả cảm, yêu thương và trung thành. Một gương sáng đáng ghi nhớ! Mặc dù bà ta không hiểu rõ hoàn toàn ý nghĩa việc làm có tính ngôn sứ và biểu trưng của bà ta, cũng như thời điểm của hành động của bà, nhưng bà ta đơn giản chỉ ước muốn biểu lộ cho Chúa biết là bà ta thực sự quan tâm, để ý đến Chúa và yêu mến Chúa thật tình.

Đó phải chăng là điều mà mỗi người chúng ta được mời gọi để thực thi trong Tuần Thánh này một cách đặc biệt?  Phải chăng là yêu Chúa Giêsu và chú ý đến Ngài xuyên suốt qua những biến động bi thảm cuối cùng của bản hòa tấu về cuộc đời của Chúa nơi dương thế này, giữa tất cả những tổn thương, thất bại và bội phản của chính chúng ta trong cuộc sống?  Cuộc sống của chúng ta phải giống như bình bạch ngọc đựng đầy dầu thơm quí giá của người đàn bà đã đổ ra tràn lan trên Chúa trong những giờ phút cuối cùng của đời Ngài nơi dương thế này.

 

ĐÔI LỜI KẾT:

AI ĐÂY, NẾU KHÔNG PHẢI  LÀ ĐẤNG CỨU THẾ ĐÃ BỊ KẾT ÁN ?

Lúc kết thúc đoạn đường Thánh Giá tại đấu trường Colosseum ở Rome vào đêm thứ Sáu Tuần Thánh năm Thánh 2000, Đức Chân Phước Gioan Phaolo II đã nói những lời rất cảm động nhưng đầy mãnh lực:

“Ai đây, nếu không phải là đấng cứu thế đã bị kết án, có thể hiểu một cách đấy đủ và trọn vẹn nỗi đau khổ của những người bị kết tội một cách bất công?

Ai đây, nếu không phải là Vua Trời Đất bị khinh miệt và nhục mạ, có thể đáp ứng được những chờ mong của biết bao nhiêu người cả nam lẫn nữ đang sống trong vô vọng và mất nhân phẩm?

“Ai đây, nếu không phải là Con Thiên Chúa, có thể biết được nỗi buồn rầu và cô đơn của biết bao nhiêu người không có tương lai đang sống rải rắc trên khắp mặt địa cầu ?”

Đó là Đấng Cứu Thế, vị cứu chuộc nhân loại mà chúng ta đang có. Ngài là đấng thực sự thấu hiểu những điều kiện nhân tính của chúng ta. Ngài đồng hành cùng chúng ta và chia sẻ cùng chúng ta những sầu muộn, cô đơn và khổ đau của chúng ta. Chúng ta đã đáp trả lại loại tình yêu lạ lùng ấy và tình liên đới hiệp nhất thực sự ấy như thế nào? Ngày Chúa Nhật Lễ Lá mở đầu Tuần Thánh Chúa Chịu Nạn, mời gọi chúng ta chấp nhận điều mà thánh Phao Lồ gọi là “Thái Độ của Chúa Giêsu Kitô” (Phil 2: 6-11) trong khi Chúa chịu nạn và chịu chết. Hãy trút bỏ mọi ưóc muốn tư lợi và ích kỷ, mọi sợ hãi và nhu cầu riêng tư của mình vì lợi ích của tha nhân….

Chớ gì chúng ta có thể vươn tới để hàn gắn những vết thương của những kẻ đau khổ, an ủi những kẻ thất vọng ở quanh ta mặc dù bản thân chúng ta là những kẻ phản bội và chối Chúa.

Trong lúc những nghi lễ phụng vụ của Tuần Thánh diễn ra thật cảm động thì chúng ta có được những ân sủng đặc biệt để tiếp tục sống với niềm vui và hy vọng, mặc dù bị phụ rẫy, xỉ nhục và đau khổ. Trong chiều hướng đó, cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu sẽ trở thành lý do để chúng ta Hy Vọng và có những giây phút tràn đầy hồng ân khi chúng ta đi tìm kiếm Nước Chúa trong đời sống chúng ta, cho dù sự tìm kiếm đó đơn độc và đau thương.

Tuần Thánh quả là một nguồn an ủi và một xác tín rằng chúng ta không phải là những kẻ cô đơn. Chúa đã cứu chúng ta và hàng ngày đang đồng hành với chúng ta.  

Fleming Island, Florida

Thứ Bảy trước ngày Lễ Lá

March 31, 2012

NTC

VỀ MỤC LỤC
Hành-trình vô-thần của Karl Marx khi còn thanh-niên qua những sách đọc tham-khảo về tôn-giáo 

 

Gs. Trần Văn Toàn

Bài đăng ở tập san Định Hướng

 

Lời nói đầu

(viết ngày 1-5-1995) 

1- Thiên khảo-luận sau đây có mục-đích là vạch cho rõ nguồn-gốc lập-trường vô-thần của Karl Marx. Nguồn-gốc đó cho đến nay vẫn chưa được trình bày cho xác-đáng, vì nhiều lý-do :

Lý-do thứ nhất : Tuy Marx đã sáng-tác ra mấy khẩu-hiệu đanh thép và mấy câu tuyên-bố gắt-gao về tôn-giáo (ví-dụ : ‘’tôn giáo là thuốc phiện làm mê-hoặc nhân-dân’’), nhưng trong tác-phẩm mênh-mông của ông chỉ có tất cả độ 2, 3 trang dành cho lập-luận biện-minh cho vô-thần. Như thế kể là không có bao nhiêu, lại chỉ là những câu biện-minh có tính-cách lẻ-loi trong những bài viết nhằm mục-đích khác.

Thực ra Marx thấy không cần mất thì-giờ đi vào lập-luận lý-thuyết làm gì, vì cái mà  triết-gia cần phê-bình, cái mà nhà cách mạng cần phải lật đổ, đó là cái chế-độ đang thực-sự áp-bức nhân-dân về mặt xã-hội, kinh-tế và chính-trị. Thiếu gì người đương-thời với ông đã viết những pho sách lớn để phê-bình tôn-giáo, nhưng có làm đổi được thực-tế đâu. Vì thế, sau khi đọc cuốn sách Bản-chất đạo Thiên-Chúa (Das Wesen des Christentums) của Feuerbach xuất-bản năm 1841, Marx chấp-nhận lập-trường của Feuerbach, cho đó là sách phê-bình dứt-khoát, và vì thế từ đây không cần phải tiếp-tục phê-bình những cái ở trên trời, mà ngược lại, cần phải phê-bình và đánh đổ những chế-độ bóc-lột ở dưới đất.

Cần phải nói : đó là một lập-trường can đảm, đòi-hỏi phải dấn-thân. Chứ phê-bình tôn-giáo thì đâu có nguy-hiểm cho bằng phê-bình những lực-lượng xã-hội, kinh-tế và chính-trị đang thực sự bóp-chẹt con người. Lập-trường dấn-thân ấy bắt nguồn từ phong-trào xã-hội chủ-nghĩa mà Marx đã thấy bên Pháp vào giữa thế-kỷ XIX. Đây là một ưu-điểm của chủ-nghĩa Marx, cho đến nay vẫn còn có giá-trị.

Lý-do thứ hai : đã thế, nhưng dù có muốn nghiên-cứu cho kỹ về nguồn-gốc lập-trường của Marx, người ta cũng thiếu tài-liệu. Quanh đi quẩn lại, cho tới gần đây người ta thường giải-thích nó là con đẻ của học-thuyết Feuerbach, và xa hơn tí nữa, của học-thuyết Hegel.

Thực vậy, cho tới ngót 20 năm trước đây, trong hơn bốn chục cuốn Tác-phẩm của Marx-Engels (Marx-Engels Werke), xuất-bản ở Berlin (Đông-Đức), vẫn không có nhiều tài-liệu về lập-luận vô-thần của Marx, vì trong bộ tác-phẩm đó chỉ cho in ra những tác-phẩm từ quãng năm 1841 trở đi mà thôi.

Nhưng cũng cách đây chừng 20 năm, người ta bắt đầu cho in lại và tu-bổ thêm bộ Marx-Engels toàn-tập (Marx-Engels Historisch-kritische Gesamtausgabe) viết tắt là bộ MEGA, mà trước đây Rjazanov đã xuất-bản ở Berlin và Moskva, được chừng 6 cuốn, từ năm 1927 đến năm 1935, nghĩa là sau khi đảng Quốc-xã của Hitler lên nắm chính-quyền tại nước Đức thì phải đình lại. Bộ MEGA mới thì theo thứ-tự và phân-loại khác bộ MEGA cũ, nhưng đặc-biệt nhất là đã cho in ra đầy-đủ tất cả những tập vở ghi-chú của Marx trước năm 1841, viết ra trong lúc ông đọc sách tham-khảo để soạn luận-văn tiến-sĩ triết-học (1841). Đây là lần đầu tiên người ta khám-phá ra là Marx đã đọc nhiều sách về vấn-đề tôn-giáo, từ thời Thượng-cổ, bỏ ra thời Trung-cổ, cho đến thời Cận-đại và đầu thế-kỷ XIX. Nghĩa là : ngoài Hegel và Feuerbach ra, còn có nhiều nhà tư-tưởng khác đã góp phần vào hành-trình vô-thần của Marx .

Thiên nghiên-cứu sau đây của tôi là căn-cứ vào những tập vở ghi-chú của Marx mới được in ra trong bộ MEGA mới , mà cho đến nay chưa ai khai-thác. Mục-đích của nó là để hiểu cho rõ, trong một trường hợp đặc-biệt, nguồn-gốc của một học-thuyết vô-thần.

 

2- Từ nghiên-cứu đó, tôi thấy cần phải đặt thêm mấy vấn-đề then-chốt khác nữa :

Thứ nhất : xét cho cùng thì vô-thần, vô-tôn-giáo là những ý-niệm tiêu-cực, nội-dung của nó chỉ được xác-định khi ta biết cái mà nó phủ-nhận. Phải biết người ta hiểu thế nào là thần, thế nào là tôn-giáo, mới biết vô-thần, vô-tôn-giáo là gì.

Vì thế, tìm hiểu một học-thuyết vô-thần cũng tức là tìm hiểu thứ thần nào người ta muốn khước từ. Đó là điểm xem ra minh-bạch tronh hành-trình vô-thần của Marx : vô-thần bao giờ cũng là khước-từ một số quan niệm về thần-thánh, về Thiên-Chúa. Cái đó có đúng hệt như cái mà người tín-hữu gọi là thần, là Chúa, hay không, thì đó lại là vấn-đề khác. Vì thế lập-luận vô-thần có thể làm mất tín-ngưỡng của người này, mà không làm mất tín-ngưỡng của người khác. Thường thì lời phê-bình của phái vô-thần có tác-dụng là làm cho người tín-hữu biết suy-nghĩ và chuyển đến một quan-niệm thanh-cao hơn về thần, về Thiên-Chúa.

Một vài ví-dụ : vào đầu Tây-lịch kỷ-nguyên, chính-quyền đế-quốc Roma đã cấm đạo Thiên-Chúa và chém giết các tín-đồ, vì coi họ là nhóm vô-thần. Vô-thần ở đây là không nhìn nhận các thần-linh của nhà nước, và nhất là không coi hoàng-đế Roma là thần-linh. Một trong những lý-do sâu-xa làm cho vương-quyền theo Nho-giáo ở Việt-nam và ở các nước theo văn-hóa Tàu, quyết định cấm đạo Thiên-Chúa, thì cũng tương-tự như thế. Người ta cho rằng làm người thì phải biết giữ đạo vua tôi, đạo cha con. Người ta trách tín-đồ đạo Thiên-Chúa là không biết thờ vua, không biết hiếu với cha mẹ. Sự thực không đơn giản như thế : họ biết thảo kính cha mẹ, nhưng không theo thể-thức cúng-tế cũ, họ thờ vua, nhưng không coi vua là thần-linh tuyệt-đối. Đạo vua tôi, cha con của họ được thi hành trong khuôn-khồ quan niệm ‘’tam phụ’’ : hạ phụ là cha (mẹ), trung phụ là vua (quan), thượng phụ là Thiên Chúa. Dĩ nhiên nếu ngườì làm vua cho rằng mình có quyền tuyệt đối trên đầu thần-dân, có quyền ‘’dọc ngang nào biết trên đầu có ai’’, thì dễ gì chịu nhận rằng mình chỉ là người, chỉ là trung phụ và phải theo mệnh trời. Cần phải nói thêm là tư-tưởng dân-chủ được phát-triển ở Âu-châu vào những lúc người ta không chịu nhìn nhận vương quyền là quyền tuyệt-đối có tính-cách thần-thiêng. Nhưng vấn-đề cấm đạo ở Việt-nam còn có nguyên-do khác , mà đây không phải là chỗ tranh-luận.

Thứ hai : vấn-đề nghiên-cứu tôn-giáo cũng cần phải đặt ra một cách có phương-pháp.

Đành rằng phải mô-tả tỉ-mỉ các hành-động tôn-giáo : nghi-lễ, nếp sống, luân-lý, cách tổ-chức, phương-diện kinh-tế, nhưng cần phải biết cái gì là kinh-nghiệm sâu-xa làm cho người ta định-hướng cho đời sống, cho nếp sống như thế. Thực ra hai chữ ‘’tôn-giáo’’ có rất nhiều nghĩa, và bao trùm nhiều quan-niệm rất khác nhau về vũ-trụ và về nhân-sinh. Rất có thể là những hình-thức gọi là tôn-giáo nhiều khi không có gì đồng-tính mà lại trái  ngược nhau. Cho nên trong khi phân-tích, không thể coi tôn-giáo này chỉ là biến-thể của tôn-giáo kia, từ quan-niệm phù-thủy, vật-bái cho đến những tôn-giáo có tính-cách thanh-cao thoát tục. Cũng không nên vội vã coi tôn-giáo chỉ là phương-tiện và cho ngay rằng có chỉ có mục-đích, có công-dụng là để giảo-lao, để nâng cao tinh-thần hợp-đoàn, hay chỉ là cái mặt nạ để che đậy một thực tại không đẹp-đẽ gì v.v. Nhưng đây lại là cả một vấn-đề phiền-phức.

(còn tiếp nhiều kỳ)

VỀ MỤC LỤC
TAKING FLIGHT - BAY LÊN ĐI!

 

 LTS. Đặc San GSVN hân hạnh khởi sự giới thiệu liên tiếp trọn bộ cuốn sách rất nổi tiếng của một Linh mục dòng Tên Anthony de Mello: TAKING FLIGHT - BAY LÊN ĐI! Do Linh mục Dominic Minh Anh, Tổng giáo phận Huế đã vất vả chuyển ngữ. Chúng con xin chân thành cám ơn Linh mục dịch giả đã sẵn lòng chấp thuận cho chúng con phổ biến các sách do Cha đã dịch thuật trong nhiều năm qua.

GSVN

 

Nguyên tác: Taking Flight

Tác giả: Anthony de Mello, S.J.

Chuyển ngữ: Lm. Minh Anh (Gp. Huế)

LỜI NÓI ĐẦU 

Đã một thời, Tony de Mello, một linh mục dòng Tên dạy đàng thiêng liêng không ngừng đánh động tâm hồn bao người khắp năm châu; bởi lẽ, ngài quá yêu đời, yêu cuộc sống - một cuộc sống thực tế, sôi nổi và tràn đầy niềm vui. Những chuyện kể đầy mê hoặc, đầy nhiệt huyết, đậm nét hài hước và những hiểu biết sâu sắc của ngài về bí quyết hạnh phúc, về việc khám phá bản ngã đích thực của mỗi người - tất cả đã tạo nên một tác động đầy phấn khích cho bất cứ ai đã từng nghe ngài. Ngài đến cho những tâm hồn được giải thoát, cho người vô cảm biết yêu thương, đem ý nghĩa cho tất cả những gì làm nên một nẻo đường thiêng liêng trên đó bao người đang tiến bước.         

Một linh đạo rạch ròi bền bỉ trong những gì ngài dạy dỗ không quy chiếu trên bản thân ngài, nhưng trên chính mỗi người chúng ta: 

Để chỉ cho thấy trong mỗi người, có một thầy dạy thiêng liêng,         

Để mỗi người có thể múa nhảy chính vũ khúc của mình,           

Để mỗi người hát lấy chính bài ca của họ.  

Tony de Mello đã làm cho mỗi người phấn khích tự kỷ ám thị:          

Hãy là ánh sáng cho chính mình.   

Ngày 02 tháng 6 năm 1987, Tony qua đời, tôi không ngạc nhiên trước những tình cảm mất mát lớn lao của bạn hữu và những người ngưỡng mộ ngài trên đất nước Ấn Độ này và cả những con người thuộc các châu lục khác. Điều làm tôi sửng sốt là những tình cảm thất vọng và nuối tiếc mang tính “cá nhân” không chỉ nơi những ai đã từng biết ngài nhưng những tình cảm này cũng bộc lộ từ rất nhiều người những ước ao được gặp hoặc được nghe ngài. 

Điều an ủi mà tôi có thể cống hiến cho những con người này chính là di sản bút văn mà tác giả để lại. Quà tặng cuối cùng của ngài chính là thủ bản cuốn sách bạn sắp đọc[1], sắp suy tư và chắc chắn sẽ rút ra được những điều bổ ích. Trong lá thư chưa kịp gửi cho một người bạn, ngài cho thấy phải làm việc vất vả làm sao để hoàn thành bản thảo trước khi đến Mỹ: “Tôi muốn viết cho xong trước khi rời Ấn Độ nhưng không có lấy một chút thì giờ. Tôi cặm cụi trên bản thảo suốt ngày, như tôi đang viết đây, vì tôi sắp phải giao nó cho nhà xuất bản”. Đúng là một công việc đầy lý thú và say mê.         

Viết lời mở đầu cho tác phẩm cuối cùng của Tony cũng là một công việc đầy lý thú và say mê. Thử tưởng tượng bạn sẽ thế nào khi cầm một bản thảo nào đó của một người bạn thân nhất, của một đồng sự, một vị linh hướng bậc thầy, một bạn đồng hành sau khi người ấy chết; và biết rằng đây là bản thảo chỉ một mình bạn có? Tôi đã xúc động biết bao khi đọc những trang đầu tiên đó. Tôi chưa bao giờ nghe câu chuyện thứ nhất, “Lời Kinh của con Ếch”. Đời sống thiêng liêng của con người lạ thường đó thật độc đáo - yêu đời, nhạy bén trước điều thiện, trước vẻ đẹp của mọi sự - ngay cả tiếng kêu ộp ộp của một con ếch! Sống trong một toà nhà với các sinh viên, thỉnh thoảng tôi cũng nghe tiếng ếch kêu, liệu tôi sẽ nói “khó chịu quá?”. Tôi sẽ không bao giờ quên được cái ý tưởng nghịch thường của Tony: “Đừng quấy rầy tiếng ồn!”. Thật lạ lùng. 

Tuy nhiên, trong lần linh hướng cuối cùng, Tony vẫn không dạy tôi một điều gì, nghĩa là tìm cách truyền đạt cho tôi một triết lý thiêng liêng hay một cách sống nào đó. Những gì ngài làm là động viên tôi khám phá cho mình điều gì thật, điều gì đúng, điều gì đẹp đẽ trong cuộc sống. Không hình thức giáo dục nào tốt hơn, không đường hướng thiêng liêng nào tinh ròng hơn. Ngài nhắc đi nhắc lại: “Sẽ không có hạnh phúc, không có một đời sống thiêng liêng đích thực, không có một hiểu biết thật sự bao lâu bạn chưa được tự do. Và ngược lại, sẽ không có tự do đích thực bao lâu bạn chưa thực sự hiểu biết”. Với ngài, khám phá sự thật đồng nghĩa với việc hiểu biết cái tôi đích thực của mỗi người. 

Đó là lý do tại sao mỗi cuộc gặp gỡ, mỗi chuyện kể, mỗi tiếng cười của De Mello đều có thể trở nên một tiềm lực gieo vào những nhà tù sợ hãi của bạn hầu chực nổ tung bất cứ khi nào để phát tán những xích xiềng quá khứ hoặc những lo toan tương lai ngay khi bạn vừa cởi mở đủ và cho phép điều đó xảy ra. 

Và như thế, Tony de Mello nào đâu có chết.   

J. Francis Stroud, SJ.

De Mello Spirituality Center

Fordham University

Bronx, New York 

 

NỘI DUNG  

Cầu Nguyện

Ý Thức 

Tôn Giáo 

Ân Sủng 

Các “Thánh” 

Bản Ngã 

Tình Yêu 

Chân Lý 

 

Cảnh báo 

Thật lạ lùng, dẫu trái tim con người khát khao chân lý đến đâu và chỉ ở đó, nó mới được giải đáp và thoả mãn, thì phản ứng đầu tiên của nó trước chân lý vẫn là thù nghịch và sợ hãi. Thế nên, những thầy dạy thiêng liêng của nhân loại như Phật Thích Ca, như Chúa Giêsu đều tạo nên một công cụ để làm thất bại sự chống đối nơi người nghe, đó là kể chuyện. Các ngài biết, những lời quyến rũ nhất mà một ngôn ngữ có là “ngày xửa ngày xưa…”; các ngài biết, chống lại chân lý là chuyện thường tình, nhưng với một câu chuyện thì không. Vyasa, tác giả cuốn Mahabharata, nói rằng, nếu cẩn thận lắng nghe một câu chuyện, bạn sẽ không bao giờ là mình trước đây. Bởi lẽ, câu chuyện sẽ thấm vào lòng, bẻ gãy những rào chắn ngăn cản bạn đến với Đấng thiêng liêng. Thậm chí nếu bạn đọc những câu chuyện trong tập sách này chỉ để giải trí, thì vẫn không gì bảo đảm một câu chuyện bất chợt nào đó sẽ không len lõi vào những đối kháng và nổ tung khi bạn ít ngờ tới nhất. Thế nên, bạn hãy coi chừng! 

Nếu bạn đủ liều lĩnh để tìm kiếm sự giác ngộ, thì đây là những gì tôi đề nghị: 

A. Hãy ghi nhớ một câu chuyện nào đó trong trí và dừng lại với nó những lúc nhàn rỗi. Nó sẽ có cơ hội tác động lên tiềm thức và sẽ tỏ cho bạn thấy ý nghĩa tiềm tàng của nó. Bạn sẽ ngạc nhiên khi thấy nó có thể đến với bạn một cách khá bất ngờ ngay khi bạn cần phải sáng suốt trước một biến cố, một hoàn cảnh; nó sẽ đem cho bạn sự nhận thức cũng như an bình nội tâm. Đó là lúc bạn nhận ra rằng, một khi mở lòng cho những câu chuyện này, bạn đang lắng nghe một Giáo Trình Giác Ngộ, qua đó, bạn không cần một thầy dạy nào nữa ngoài chính bản thân! 

B. Mỗi câu chuyện là một mặc khải của Chân Lý, và vì là Chân Lý được viết hoa, nên phải hiểu ở đây, chân lý về chính bạn. Vậy mỗi lần đọc một câu chuyện, bạn hãy nhủ lòng tìm kiếm thêm một sự hiểu biết sâu sắc hơn về chính mình. Hãy đọc theo cách một người đọc sách y khoa - liệu mình có triệu chứng nào không; chứ không như một sách tâm lý - vừa đọc vừa phân loại tính tình bạn bè. Nếu không vượt qua những cám dỗ xét đoán người khác, những câu chuyện này sẽ tác hại bạn.  

Vì quá say mê chân lý, thầy Mullah Nasruddin đã lên đường đi đến những nơi xa xôi tìm những học giả của Kinh Koran và không chút e dè, thầy kéo những người ngoại đạo tới chợ để tranh luận về những chân lý của niềm tin mình. 

Ngày kia, vợ ông than phiền làm sao ông có thể cư xử bất công với bà đến thế - và bà khám phá ra rằng, chính chồng bà cũng chẳng cảm thấy ích lợi gì với thứ chân lý ấy! 

Dĩ nhiên, chính đó là cái đáng kể. Quả thực, thế giới của chúng ta sẽ thay đổi nếu chúng ta, những học giả, những trí thức, những tu sĩ dòng triều hay giáo dân có được đam mê muốn biết chính mình như đam mê đối với các giáo thuyết hay tín điều của mình.  

“Bài giảng tuyệt vời”, một bà giáo dân bắt tay cha quản xứ, “Con biết, những gì cha nói đều thích ứng với một người nào đó mà con quen”. 

Các bạn hiểu không?

 

Chỉ dẫn: 

Tốt nhất, các câu chuyện sẽ được đọc theo thứ tự như đã sắp xếp. Mỗi lần đọc không quá một hoặc hai mẩu chuyện nếu bạn ước ao có được một cái gì đó hơn là chỉ giải trí.

 

Lưu ý: 

Các chuyện kể trong tập sách này đến từ nhiều đất nước, nhiều nền văn hoá và tôn giáo khác nhau; chúng thuộc về những di sản thiêng liêng, những câu chuyện hài hước được ưa chuộng của dòng đời nhân loại. 

Những gì tác giả làm là xâu kết chúng lại với nhau theo một ý hướng đặc thù. Công việc của tác giả là công việc của người thợ dệt và thợ nhuộm, tác giả chẳng có công trạng gì về những tấm vải và những sợi chỉ.  


[1] Lưu ý của nhà Xuất Bản: Bởi số lượng lớn, bản thảo được phát hành như hai cuốn riêng biệt. Sau cuốn Taking Flight là cuốn The Heart of the Enlightened.

(Còn tiếp nhiều kỳ)

VỀ MỤC LỤC
LIỆU PHÁP REBT
 

Phương pháp tâm lý trị liệu Rational-Emotive Behavior Theraphy (tạm dịch, Liệu Pháp Hành Vi Cảm Xúc, viết tắt REBT) do nhà tâm lý học Albert Ellis (1930-2007) nghiên cứu và phổ biến; nó được cho là một trong những phương pháp hữu hiệu trong việc giúp bệnh nhân có thói quen thường hay “nuôi dưỡng” những tư tưởng tiêu cực luẫn quẩn trong tâm trí. Ông Albert Ellis sơ lược tiến trình này như sau: Sự kiện – Dựng chuyện – Tin chuyện – Cảm xúc – Hậu quả. Chúng ta hãy cùng nhau phân tích một ví dụ thuộc loại REBT, và tìm hiểu nguyên nhân của nó.

Sự kiện: Hai tu sĩ trong một cộng đoàn. Tu sĩ A là người có trách nhiệm giữ vệ sinh trong phòng họp. Tu sĩ B từ cộng đoàn khác mới chuyển tới, người thường mang thức ăn và thức uống vào phòng họp. Theo qui định chung, trong phòng họp không được mang thức ăn. Vì việc này, tu A nhắc nhở tu sĩ B.

Dựng chuyện: Sau khi được góp ý, tu sĩ B bên ngoài nói lời cám ơn, nhưng bên trong lại tỏ ra bất bình, không vui. Tu sĩ B nghĩ rằng “Nó là ai mà nhắc nhở mình trước cộng đoàn như vậy, tuổi nó đáng con mình mà bày đặt.” Thêm vào nữa, tu sĩ B đi nghe ngóng và gợi những chuyện tiêu cực về tu sĩ A. Dần dần, tu sĩ B đã dựng thành công một câu chuyện về tu sĩ A: “Tu sĩ A là người thích làm nỗi, thích chỉ dạy, tỏ vẻ bề trên.”

Tin Chuyện: Từ câu chuyện được dựng nên, tu sĩ B đi tới sự “xác tín” từ sự kiện mà mình tìm được trong câu chuyện do mình dựng lên. “Tu sĩ A là người kêu ngạo.”

Cảm xúc: Từ “niềm tin” này, tu sĩ B luôn buồn bực, hay giận, nóng nảy đối với tu sĩ A và một số người xung quanh.

Hậu quả: Tu sĩ B thường tỏ ra khó chịu, phàn nàn, chê bai, hậm hực đặc biệt những lúc tu sĩ A phát biểu hay xuất hiện trong cộng đoàn. “Nó đâu có xứng đáng đứng đó; chuyện này do người khác làm thì tốt hơn “nó” nhiều.”

Vòng xoáy cứ thế tiếp diễn: Sự kiện – dựng chuyện – tin chuyện – cảm xúc – hậu quả.

* * *

Giai đoạn “sự kiện” trong cuộc sống luôn luôn đến một cách rất khách quan đối với mỗi người chúng ta. Nhưng sự thiếu khiêm tốn bắt đầu hình thành vào giai đoạn “dựng chuyện.” “Dựng chuyện” tựa như dựng nên một bức tường chung quanh mình để bảo vệ mình. Hay nói cách khác, khi một sự kiện xảy ra không “thuận ý” mình, con người thường có phản ứng xây nên những tường luỹ xung quanh mình, trước là để bảo vệ mình, thứ đến là “tấn công” người đã tạo nên sự kiện ấy. Vậy lý do gì mà ta phải tạo nên những “tường luỹ” như vậy? Tính tự nhiên là muốn “che” những khuyết điểm của mình, muốn bảo vệ mình, và muốn cho người khác không biết về điểm yếu của mình.

Sau khi đã hoàn thành giai đoạn “dựng chuyện,” giai đoạn “tin chuyện” diễn ra như để cũng cố thêm giai đoạn “dựng chuyện.” “Tin chuyện” để quả quyết thêm tôi đúng, còn người kia sai. Tôi hay, còn người kia dỡ. Tôi đáng được điều đó, còn người kia thì không đáng. “Tin chuyện” đã tạo nền móng cho “cái tôi” được lớn thêm, mạnh thêm, và vững trụ thêm trên chiếc ghế quan toà.

Nhưng dù hai giai đoạn “dựng chuyện, tin chuyện” có thành công đến bao nhiêu đi chăng nữa, sự thật khách quan vẫn không thay đổi, vì “dựng chuyện và tin chuyện” chỉ diễn ra trong nội tâm con người để che đậy điểm yếu trong người mình và để biện mình cho hành động của mình. Chính vì thế, những cảm xúc và hậu quả tiêu cực vẫn diễn ra – vá có thể nói nó càng thêm trầm trọng. Thực tế, những sự kiện khách quan bên ngoài, những con người gây nên những sự kiện khách quan ấy không thể biết và đọc được được những gì đang diễn ra trong nội tâm của chúng ta. Trận chiến đang diễn ra chính là trận chiến nội tâm, và kẻ thù gây nên trận chiến ấy chính là sự kêu ngạo. Như thế, để muốn khống chế kẻ thù kêu ngạo, vũ khí ta cần dùng chính là sự khiêm tốn chứ không phải là xây thêm pháo đài “dựng chuyện, tin chuyện.” Hay nói cách khác, hãy dẹp bỏ những tường luỹ ấy đi, và để đơn sơ thừa nhận: Tôi là con người, nên thường khi vẫn thiếu xót sai lỗi.

Mục Sống Sao Cho Đẹp mời bạn suy nghĩ áp dụng thực tế trong hoàn cảnh của bạn. Cứ mỗi lần một sự kiện “trái ý” nào đó xảy đến với bạn. Hãy cẩn thận với phản ứng “dựng chuyện.” Nó xuất hiện như những người “giúp đỡ” bạn bằng những ý tưởng “ủng hộ, bảo vệ, cũng cố” nhưng thực ra, nó đang xây nên một bức tường để giam bạn - trong đó, bạn không có khả năng để nhìn thấy sự thật khách quan đang diễn ra. Bức tường ấy xây càng cao, thì cái tôi của bạn càng lớn. Cái tôi càng lớn, thì sự bình an càng nhỏ. Để tìm lại sự bình an, bạn cần phải sử dụng đức khiêm tốn. Tốt nhất, không nên xây nên những bức tường ấy. Nếu đã xây, hãy đập phá nó đi và chỉ đơn sơ thừa nhận: Tôi là con người, nên thường khi vẫn thiếu xót sai lỗi.

Thưa bạn, bức tường nào đang ngăn cách bạn với người thân, anh em, bạn hữu? Có phải loại này không?   

Br. Huynhquảng

VỀ MỤC LỤC
TÌM HIỂU HUẤN DỤ XÃ HỘI CỦA GIÁO HỘI (9)

NGUYỄN HỌC TẬ

Giáo Hội hiện diện trong các lãnh vực xã hội. 

   - " Tôi nghĩ rằng không thể hiểu chính trị theo nghĩa hẹp. Nhiệm vụ của Đức Giáo  Hoàng là rao giảng Phúc Âm, nhưng trong Phúc Âm có con người. Sự tôn trọng đối với con người, tức là nhân quyền, sự tự do lương tâm và tất cả những gì thuộc về con người. Nếu tất cả những điều đó có một giá trị chính trị, thì đúng, Đức Giáo Hoàng có làm chính trị. Nhưng Người luôn luôn đề cập đến con người, Đức Giáo Hoàng bênh vực con người " ( Ezio Mauro e Paolo Mieli, La Stampa, 04.03.1991, p. 2). 

Đó là câu trả lời của Đức Thánh Cha Gioan Phaolồ II cho Ezio Mauro và Paolo Mieli, hai phóng viên của tờ nhật báo La Stampa, một trong những tờ báo lớn nhứt ở Ý.

Câu trả lời vừa kể nói lên lý do tại sao Giáo Hội hiện diện trong các lãnh vực xã hội, mặc dầu  nhiệm vụ của Đức Giáo Hoàng, nhiệm vụ của tôn giáo là chuyên lo về những gì lãnh vực tôn giáo. 

Tinh thần vừa kể của câu trả lời cho thấy ý nghĩa Huấn Dụ Xã Hội của Giáo Hội, như chúng ta đã tìm hiểu trong những bài vừa qua.

Huấn Dụ Xã Hội của Giáo Hội có nội dung chính xác, có " ý nghĩa " hiện hữu của mình đối với mọi người thành tâm thiện chí.

Giáo Hội có " lời đề nghị " của mình cống hiến cho xã hội con người, nhằm chỉ dẫn một vài nguyên tắc căn bản ( nguyên tắc, tiêu chuẩn để suy nghĩ phán đoán và định hướng để hoạt động), từ đó con người có thể đề thảo ra những đồ án văn hoá theo tinh thần Ki Tô giáo gợi ý cho , ( bên cạnh những đồ án khác có thể), nhờ vào sự cộng tác của tất cả những ai thành tâm thiện chí và do đó có thể chấp nhận được. 

" Đề nghị xã hội " ( hay Huấn Dụ Xã Hội của Giáo Hội ) như vừa kể đã từ lâu được biết dưới danh nghĩa là kiến tạo " một nền văn minh tình thương " cho xã hội con người.

Đây không phải là một khẩu hiệu rỗng tuếch để hô to tả oán, cũng không phải chỉ là một lời nhắn nhủ luân lý, mà là một dự án xã hội, một thách thức lịch sử, được Giáo Hội nêu lên: 

   - " Đây là một thách chức chưa hề có - Huấn Dụ Libertatis conscientia xác nhận - được nêu lên cho các tín hữu Chúa Ki Tô đang hoạt động để thực hiện một " nền văn minh tình thương ", tổng kết gia sản luân lý - văn hoá của Phúc Âm. Nhiệm vụ nầy đòi buộc phải có một suy nghĩ mới về những gì thiết lập nên mối tương quan giữa giới răn tối thượng tình thương với trật tự xã hội, được nhìn dưới nhãn quang phức tạp của nó. Đúc kết trực tiếp của việc suy tư sâu xa nầy là việc đề thảo ra và thực hiện các chương trình hành động bạo dạn trong viễn tượng giải thoát xã hội và kinh tế đối với hàng bao triệu người nam nữ, mà hoàn cảnh bị đàn áp về kinh tế, xã hội và chính trị của họ không thể chịu đựng được " ( Thánh Bộ Tín Lý, Libertatis conscientia ( 22. 03.1986), n. 81, in EV X/312).  

Như vậy đề nghị hay Huấn Dụ Xã Hội của Giáo Hội không chỉ giới hạn là lời loan báo về nguyên tắc hay là khuyến khích tổng quát về việc chuyên cần dấn thân vào xã hội.

Huấn Dụ Xã Hội của Giáo Hội " chính yếu nhằm vào động tác " ( id., n. 72, in EV X/294), tức là không phải nói để mà nói, tuyên bố như những nguyên tắc " vô thưởng vô phạt ", mà là những định hướng nhằm đưa đến hoạt động, tổ chức, phát triển một " nền văn minh tình thương " cho nhân loại: 

   - " Anh em hãy yêu thương nhau, như Thầy đã yêu thương anh em " ( Jn 15, 12).  

Để thực hiện giới răn đó bằng động tác, Giáo Hội luôn luôn xác nhận mình có quyền và bổn phận hiện diện và hành động trong lãnh vực xã hội: 

   - " Giáo Hội có quyền và bổn phận ( compete il diritto e dovere ) không những bảo vệ các nguyên tắc thuộc lãnh vực luân lý và tôn giáo, mà còn phải can thiệp một cách có uy tín vào lãnh vực trần thế, khi phải phán đoán việc áp dụng các nguyên tắc đó vào thực tế " ( ĐTC Gioan XXIII, Mater et magistra ( 15.05.1961), in CERAS, 273). 

Dĩ nhiên không phải Hàng Giáo Phẩm đứng ra chỉ huy quân đội, hành xử các phận vụ của đại biểu Quốc Hội, Tổng Thống - Thủ Tướng, các Bộ Trưởng, Thẩm Phám..., mà là dựa vào các nguyên tắc nền tảng tình yêu, tôn trọng con người, con Thiên Chúa của Phúc Âm, để hướng dẫn và phán đoán động tác hành xử của các chức vụ đó và các tùy viên thuộc hệ, khi có liên quan đến đời sống và phẩm giá con người. 

Hiểu như vậy, chúng ta thấy rằng

   - không phải thuộc thẩm quyền của Giáo Hội đề thảo là đưa ra " đồ án chuyên môn " về các lãnh vực xã hội,

   - nhưng điều đó không có gì ngăn cản Giáo Hội có quyền và bổn phận phải nói lên " đề nghĩ xã hội " để áp dụng vào thực tế, cho người tín hữu Chúa Ki Tô cũng như cho tất cả những ai thành tâm thiện chí, tự do và tự lập, cứu xét và áp dụng vào cuộc sống tổ chức thực tế xã hội " bằng những chương trình can đảm và gan dạ " ( id.).

Giờ đây, tiến trình từ " đê nghị " đến " hành động " không phải là những gì mới lạ hiện nay, mà luôn luôn vẫn là  một đòi buộc cần thiết phải có trong việc người tín hữu Chúa Ki Tô phục vụ thế giới.

Qua những gì được đề cập, chúng ta thấy cần phải lưu ý đến hai nhắn nhủ quan trọng:

   a) Điều thứ nhứt, đó là chính người tín hữu giáo dân ( dĩ nhiên không phải một mình họ ) có bổn phận thực hiện những gì chính đáng đã được chọn lựa trong lãnh vực trần thế, bởi lẽ lãnh vực trần thế là môi trường sống và hoạt động của họ, từ gia đình, học đường, đến hiệp hội, chính đảng, cơ chế quốc gia và cả liên hệ quốc tế.

   b) Điều thứ hai, như chúng ta biết, mặc dầu bổn phận chính của Giáo Hội là bổn phận tôn giáo,

   - " rao giảng  Phúc Âm", như ĐTC Gioan Phaolồ II nói,

nhưng bổn phận cá biệt đó không miễn chuẩn cho Giáo Hội hiện diện trong các lãnh vực trần thế, bởi vì

   - "... trong Phúc Âm có con người ..., Đức Giáo Hoàng luôn luôn đề cập đến con người.Đức Giáo Hoàng bênh vực con người" ( id.)

Bởi đó đòi buộc Giáo Hội phải can đảm hiện diện và hiện diện với tư cách ngôn sứ, không lẫn lộn với bổn phận trần thế của người tín hữu giáo dân và những ai thành tâm thiện chí, có đức tin hay không cũng vậy, để huớng dẫn, nâng đỡ và khuyến khích xây dựng một " nền văn minh tình thương ", xứng đáng với đời sống con người,

   - " được dựng nên giống hình ảnh Thiên Chúa " ( Gen 1, 27)

   - và là " con Thiên Chúa " ( Mt 6, 9).

Nói cách khác, sự biến chuyển từ " lời đề nghị " đến " động tác " để thục hiện một " nền văn minh tình thương " được thể hiện qua hai hình thức:

   - hình thức thứ nhứt, đó là qua sự hiện diện của các người tín hữu giáo dân trong xã hội và chính trị, đó là sự hiện diện tác động chính yếu của họ, không ai có thể thay thế được;

   - kế đến là sự hiện diện xã hội-chính trị của Giáo Hội dưới một hình thức khác, đó là hiện diện của cộng đồng Ki Tô giáo, một cách đặc biệt của những vị thừa tác viên trong cộng đồng, để giúp phổ biến, giải thích và chuẩn định những gì đã, đang và sẽ thực hiện trong xã hội-chính trị, dưới ánh sáng các nguyên tắc Phúc Âm. 

( Nhiên cứu thêm: Sự hiện diện của cộng đồng Ki Tô hữu và các tín hữu giáo dân trong các lãnh vực xã hội-chính trị, cfr. Tổng Lược Huấn Dụ Xã Hội của Giáo Hội, n. 83).  

 

VAI TRÒ TRẦN THẾ  KHÔNG THỂ THAY THẾ CỦA NGƯỜI TÍN HỮU GIÁO DÂN   

I - Vai trò không thể thay thế của người tín hữu giáo dân. 

    1) Đức Giáo Hoàng Gioan Pholồ II trong phần đầu của Thông Điệp " Người tín hữu giáo dân" ( Christifideles laici) đã đề cập đến vai trò không thể thay thế của người tín hũu giáo dân trong các lãnh vực trần thế như sau: 

- " Trong thời điểm huy hoàng và thảm đạm nầy của lịch sử, trước ngàn năm thứ ba đang đến, những hoàn cảnh mới, đối với Giáo Hội cũng như xã hội, chính trị và kinh tế, hiện nay đòi buộc với một động lực đặc biệt tác động của các người tín hữu giáo dân. Nếu thái độ dững dưng buông trôi lúc nào cũng có thể bị coi là cách hành xử không thể chấp nhận được, thì trước thời điểm hiện tại thái độ đó là thái độ phạm tội. Không ai được phép ăn không ngồi rồi phủi tay, điềm nhiên toạ thị " ( ĐTC Gioan Phaolồ II, Christifideles laici ( 30.12.1988), n. 3). 

Giải thích một cách nôm na câu văn vừa kể của Thông Điệp: người tín hữu giáo dân trưởng thành cần phải dấn thân rao giảng Phúc Âm và đem phục vụ Ki Tô giáo vào trần thế.

Nói cách khác, không có người tín hữu giáo dân trưởng thành và dấn thân, hiện nay Giáo Hội không thể  hiện diện được giữa trần thế với các động tác để chu toàn sứ mạng rao giảng Phúc Âm của mình.

Nói như vậy không có nghĩa là từ nay Giáo Hội có thể rao giảng Phúc Âm không cần có hàng giáo phẩm, mà là một nhận thức đức tin trưởng thành, để truyền bá Phúc Âm trong môi trường đổi mới của thế giới hiện tại.

Nhận thức trên nói lên xác tín của mọi thành phần Giáo Hội đều có bổn phận  

   - " tham dự vào lãnh vực trần thế, là phận vụ phát xuất từ bản tính nội tại và sứ mạng của mình" ( ĐTC G. Phaolồ II, Christifideles laici, n. 15). 

Điều vừa kể về bổn phận hiện diện giữa trần thế của Giáo Hội đưa đến một kết luận quan trọng:

   - trần thế không phải là nơi lưu đày cần phải thoát ly, vượt ngục, trốn chạy,

   - mà là một " không gian thần học ", nơi mà mọi tín hữu Chúa Ki Tô đều được mời gọi sống và tác động để rao giảng và nhân chứng cho ơn cứu rỗi của Chúa Ki Tô.

Người tín hữu giáo dân có bổn phận đặc biệt trong phận vụ tác động đó của cả Giáo Hội: 

- " Hình ảnh Phúc Âm về muối, ánh sáng và men bột, mặc dầu liên hệ đến bất cứ thành phần nào đối các môn đệ Chúa Giêsu, nhưng nói lên ý nghĩa áp dụng cá biệt đối với người tín hữu giáo dân. Đó là những hình ảnh mang những ý nghĩa huy hoàng, bởi vì nói lên không những người tín hữu giáo dân là những người được hội nhập  sâu đậm vào đất đai, vào trần thế, vào cộng đồng nhân loại, mà còn và nhứt là nói lên điều mới mẻ và đặc sắc của cộng cuộc hội nhập và tham dự của họ để phổ biến Phúc Âm cứu rỗi " ( ĐTC  G. Phaolo II, Christifideles laici, n. 15).

Người tín hữu giáo dân, mặc dầu với đặc tính trần thế của mình ( Gioan XXIII, Mater et Magistra, n. 239), không phải là một cơ thể tách biệt, một tế bào lơ lửng trôi đó trôi đây trong cơ quan thân thể Giáo Hội.

Người tín hữu giáo dân không nhận lãnh lệnh dấn thân phục vụ xã hội và chính trị do Giám Mục hay Cha Sở " ủy thác" cho, mà lãnh nhận sứ mạng trực tiếp từ Chúa Giêsu trong Phép Rửa.

Ơn gọi sống và tác động giữa trần thế của họ là ợn gọi bẩm sinh, được củng cố thêm bằng Phép Thêm Sức và mỗi ngày lớn lên bằng Phép Thánh Thể, đặt người tín hữu giáo dân có địa vị và quyền hạn đầy đủ trong cộng đồng Giáo Hội.

Trong mối hiệp thông giữa các thành phần trong cộng đồng Giáo Hội với nhau, không có sự phân biệt về địa vị và trách nhiệm đối với sứ mạng chung của Giáo Hội:

" Một vài thành phần do ý muốn của Chúa Giêsu được thiết lập thành tiến sĩ, kẻ khác phân phát các Bí Tích , cũng như mục tử cho người khác, nhưng vẫn luôn hiện hữu quyền bình đẳng về địa vị và động tác chung đối với mọi tín hữu trong việc xây dựng thân thể Chúa Ki Tô" ( Lumen Gentium, n. 32). 

2) Phận vụ tổng hợp của người tín hữu giáo dân.

Trở lại vai trò của người tín hữu giáo dân, chúng ta thấy được họ là những người có vai trò " tổng hợp".

Trước hết, trong cuộc sống cá nhân của mình, người tín hữu giáo dân là người tổng hợp

   - giữa đức tin và cuộc sống lịch sử trần thế,

   - giữa đức tin và văn hoá,

   - giữa đức tin và chính trị, mà chính Giáo Hội cũng phải hành xử tương tợ để có thể " hiện diện" rao giảng Phúc Âm giữa trần thế. 

   - " Nhân chứng huy hoàng và có sức thuyết phục của sức mạnh có khả năng  chuyển đổi của Phúc Âm là sự tổng hợp sống động mà người tín hữu giáo dân biết thực hiện giữa Phúc Âm và cuộc sống thường nhật " ( ĐTC G. Phaolồ II, Christifideles laici, n. 34). 

Cũng vậy nhân chứng có khả năng thuyết phục của một nền văn minh mới mẻ đặt nền móng trên tình thương mà Giáo Hội có thể thực hiện được là

- khả năng tổng hợp giữa Lời Chúa và cuộc sống,

- giữa rao giảng Phúc Âm và thăng tiến con người,

- giữa tình thương đối với Chúa và phục vụ anh em.

Bổn phận không ai có thể thay thế được đó là bổn phận của người tín hữu giáo dân, đem ra thực hành những gì hàm chứa trong  huấn vụ xã hội của Giáo Hội.

Chỉ có thể qua người tín hữu giáo dân, mà Giáo Hội hiện diện được đầy đủ và hiệu nghiệm  trong các lãnh vực trần thế, và thực hiện được trung thành sứ mạng mà Chúa Giêsu đã ủy thác cho, khi Người lập Giáo Hội: loan báo và thực hiện ơn cứu rỗi bằng rao giảng Phúc Âm và thăng tiến con người.

  

II - Vai trò người tín hữu giáo dân trong chính trị.

   a) Chưa bao giờ Giáo Hội nhấn mạnh đến việc người tín hữu giáo dân cần thiết phải hiện diện và hiện diện năng động, kể cả chủ động, trong lãnh vực xã hội và chính trị như hiện nay.

Giáo Hội luôn luôn nhắc đi nhắc lại và nói một cách rõ ràng việc cần thiết người tín hữu giáo dân trung thực biến đổi, chuyển hóa các nội dung Huấn Dụ Xã Hội, mà Giáo Hội đã liên tục huấn dạy trên 100 năm nay, thành thực hành, biến xã hội con người đang sống thành tổ chức một " xã hội tình thương".

Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolồ II đã khuyến khích người tín hữu giáo dân phải hiện diện tích cực, năng động và chủ động trong lãnh vực xã hội và chính trị, ngay cả việc dấn thân vào các lãnh vực vừa kể, lãnh vực của những ai hành xử công quyền, có thể là môi trường và cơ hội cho nhiều nguy hiểm lệch lạc luân lý: 

- " Người tín hữu giáo dân không thể vắng bóng trong việc tham dự vào chính trị (...).Những tố cáo cho rằng làm chính trị là làm để được thành đạt, lấy quyền bính làm thần tượng, là môi trường đầy tham nhủng (...) hay ngay cả ý kiến cho rằng (...) chính trị là môi trường chắc chắn sẽ đưa đến nguy hiểm luân lý. Tất cả những suy nghĩ đó không cách gì có thể biện minh cho tâm trạng tiêu cực, cũng như cho " thối thoát vắng bóng" của người tín hữu Chúa Ki Tô trong công việc chung " ( ĐTC  G. Phaolồ II, Christifideles laici, n. 42).  

Lý do tại sao Giáo Hội luôn luôn mời gọi khẩn thiết và nhấn mạnh sự hiện diện không thể thiếu của người tín hữu giáo dân trong chính trị?

a) Lý dó thứ nhứt của các lý do, đó là những thay đổi sâu đậm về xã hội trong thời đại chúng ta.

Những cuộc thay đổi và khủng hoảng của thế giới hiện đại trực tiếp kêu cứu đến Giáo Hội, đến suy tư và động tác của các tín hữu trong Giáo Hội.

Công Đồng Vatican II đã nhiều lần nhấn mạnh đến ảnh hưởng của Giáo Hội liên quan đến các hoàn cảnh lịch sử và đến các biến chuyển xã hội ,văn hoá:

   - " Giáo Hội cùng bước đi với cả nhân loại và có kinh nghiệm cùng chung số phận với thế giới" ( Gaudium et Spes, n. 41. 

Bức tường Bá Linh đã sụp đổ, vừa đánh dấu biến cố phá sản của ý thức hệ cuối cùng còn sót lại của thế kỷ 18. vừa báo động cho chúng ta biết những thử thách luân lý của thế kỷ 20 mà chúng ta còn đang nắm trong tay.

Giải quyết vấn đề, liên quan đến một tương lai tươi đẹp hơn cho nhân loại, hệ tại ở việc chuyên cần, dấn thân canh tân hoá xã hội và chính trị, có khả năng giải đáp thoả đáng các liên quan luân lý của những khúc mắc cần được giải quyết.

Hiện nay không ai còn ngây thơ cho rằng một xã hội lý tưởng mới được phát sinh chỉ  là kết quả của phương thức tổ chức hiệu năng và hữu hiệu kinh tế, luật pháp hay quân sự.

Tất cả chúng ta đều xác tín rằng, tương lai ngày mai sẽ sáng lạng hơn, cùng chung với việc thay đổi và thích hợp hơn các phương thức cấu trúc cho cuộc sống chung, nếu chúng ta thực hiện được những thay đổi về tâm thức và lối sống, được hướng dẫn bằng những thay đổi theo những giá trị chính xác luân lý và tôn giáo.

Nhìn lại thế kỷ 20 vừa qua đi, chúng ta thấy những gì đã xảy ra, chứng thực một cách thảm đạm và chính xác những gì Đức Giáo Hoàng Phaolồ VI đã tuyên đoán: 

   - " Con người chỉ có thể thực hiện được chính mình, bằng cách siêu nhiên hoá chính mình( se transcendendum)...Dĩ nhiên, con người có thể tổ chức cuộc sống trần gian không cần có Chúa, nhưng không có Chúa, thế nào rồi con người cũng sẽ tổ chức cuộc sống làm hại cho chính mình" ( Paolo VI, Populorum progressio, n. 42).  

Giữa cơn khủng hoảng siêu nhiên và luân lý như vừa kể của cuộc sống xã hội hiện tại, làm sao người tín hữu Chúa Ki Tô lại có thể vắng bóng được? 

   b) Giáo Hội đã trưởng thành - nhứt là nhờ Công Đồng Vatican II -, ý thức hơn về các liên hệ của sứ mạng truyền giáo của mình, sứ mạng rao giảng Phúc Âm  mà mình có bổn phận đem đến cho con người liên hệ và hàm chứa bổn phận, ánh sáng và sức mạnh có thể góp phần để làm cho sinh trưởng ra một xã hội mới, công bằng hơn, thân hữu và liên đới hổ tương hơn, yêu thương hơn cho cộng đồng nhân loại.

Ý thức hơn về sứ mạng của mình và về mối liên quan nội tại giữa rao giảng Phúc Âm và thăng tiến con người, nói lên một chuổi các nguyên cớ khác, khiến Giáo Hội hôm nay xác nhận rằng mình có quyền và bổn phận hiện diện trong xã hội con người.  

Góp phần xây dựng một xã hội nhân bản hơn, liên đới thân hữu hổ tương hơn là phần thiết yếu của chính sứ mạng truyền giáo của Giáo Hội. 

Bởi đó càng lúc càng thường xuyên hơn, không những Giáo Hội cho biết lý do về việc huấn dạy,

   - đưa ra các chỉ thị liên quan đến khuôn mẫu xây dựng một xã hội nhân bản, xứng đáng với nhân phẩm con người, con Thiên Chúa của mình,

   - mà còn đưa ra những tiêu chuẩn phải có cho việc kiến tạo và thực thi xã hội lý tưởng đó. 

Qua những gì vừa kể, các tiêu chuẩn mà Giáo Hội đưa ra liên quan đến việc tổ chức một xã hội tốt đep hơn cho con nguời gồm hai lãnh vực:

   +) Việc lựa chọn đường lối xã hội- chính trị của người tín hữu giáo dân:  

   - " Người tín hữu giáo dân có bổn phận làm cho Giáo Hội thể hiện và năng động tích cực ở những nơi và trong những trường hợp, trong đó Giáo Hội không có cách nào trở thành muối cho thế gian, nếu không phải là qua chính họ" ( Lumen Gentium, n.33), nghĩa là trong những lãnh vực trần thế, để chia xẻ số phận và các vấn đề của người nghèo, của kẻ bị loại ra bên lề xã hội, trong các hoàn cảnh tương phản và tranh chấp xã hội, trong lãnh vực việc làm, trong gia đình, học đường, nghề nghiệp. 

 

  Việc lựa chọn có tính cách tôn giáo, của cộng đồng Giáo Hội: 

Chính việc lựa chọn tính cách tôn giáo của cồng đồng Giáo Hội là hình thức hiện diện thứ hai trong xã hội của Giáo Hội, hiện diện qua những ai nhờ ơn gọi được mời gọi trở thành thừa tác viên, đáp ứng lại ơn kêu gọi của mình.

Ơn gọi sống đời người tín hữu giáo dân và ơn gọi chủ chăn, thừa tác viên qua phép truyền chức, không phải là hai lối chọn lựa trái ngược nhau, cho bằng là hai cách sống bổ túc cho nhau.

Như mọi nổ lực rao giảng Phúc Âm cần được thể hiện bằng động tác phục vụ biến cải xã hội thành xã hội xứng đáng với nhân phẩm con người, cũng vậy mọi cuộc dấn thân chuyên cần để thăng tiến con người, phục vụ dưới ánh sáng Phúc Âm, luôn luôn biến thành động tác rao giảng Phúc Âm: 

   - " Hành động vì công lý và tham gia cải tiến thế gian đều thể hiện rõ rệt cho chúng ta chiều hướng cấu trúc cho việc rao giảng Phúc Âm, nghĩa là sứ mạng của Giáo Hội đem ơn cứu rỗi đến cho nhân loại và giải phóng con người khỏi mọi trạng thái áp bức" ( Sinodo 1971, Documento sulla  giustizzia nel mondo, Introduzione, in EV IV/1243). 

Qua những tư tưởng dẫn nhập vừa được đề cập, lịch sử và thần học, Giáo Hội có thể rút ra những lý do chính cho việc nhấn mạnh mời gọi người tín hữu giáo dân dấn thân vào các lãnh vực xã hội, nhứt là lãnh vực chính trị.

 

III -

A - Tầm vóc quan trọng của chính trị.

Có hai lý do thúc đẩy Giáo Hội nhấn mạnh đến bổn phận của người tín hữu giáo dân tích cực dấn thân vào chính trị:

   a) Lý do thứ nhứt được đặt nền tảng trên vai trò quyết định của chính trị đối với đời sống cá nhân và xã hội của con người, mặc cho những bất toàn và giới hạn của nó.

Ai trong chúng ta cũng có kinh nghiệm trên bản thân những quyết định chính trị liên quan đến mình, ảnh hưởng đến đời sống cá nhân và xã hội của mình?

- Việc tăng thuế trên giá xăng dầu,

- tăng hay giảm thuế trị giá gia tăng của các sản phẩm nhu yếu,

- tăng giá phiếu khám sức khoẻ mỗi khi vào bệnh viện,

- tăng thêm hay giảm lệ phí học đường đối với con em, tùy theo lợi tức của phụ huynh,

- tăng thêm mức tuổi tối thiểu để được về hưu...

Đó là gì, nếu không phải là những quyết định chính trị, đụng chạm thẳng đến mức sống vá túi tiền của chúng ta?

Đó là chưa kể nên đánh hay làm hoà với Cam bốt, Ký thoả ước thương  mãi với Hoa Kỳ và Tây Âu hay với Trung Cộng, hay bán đất nhượng biển cho Trung Cộng, để Trung Cộng " gật đầu " cho phép " bịt miệng" đàn áp thẳng tay những ai " hó hé " đòi dân chủ, nhân quyền, những quan niệm mà Trung Cộng chưa bao giờ có khả năng hiểu nổi? 

   b) Lý do kế đến có tính cách thần học: chính trị có nguồn gốc căn nguyên được đặt trên bản thể con người và cuộc sống xã hội của con người.

Nói cách khác, chính trị được đặt nền tảng trên chính bản thể con người, trên những gì Chúa muốn cho cách sống của con người, khi Ngài dựng nên con người:  

   - " Dĩ nhiên là cộng đồng chính trị và công quyền có nền tảng của chúng được đặt trong bản tính của con người và do đó thuộc về trật tự đã được Chúa thiết lập" ( Gaudium et Spes, n.74).

Như vậy chính trị, nếu được tổ chức và sống hành xử một cách chính đáng phải có, trong tinh thần phục vụ, thành tín và tương ứng với khả năng, là một trong những hoạt động quan trọng nhứt.

Bởi vì chính trị ảnh hưởng một cách quyết định đến cuộc sống con người và liên hệ đến các khía cạnh nền tảng của đời sống cá nhân và chung sống xã hội: gia đình, việc làm, sức khoẻ, học đường, nhà cửa và cả đến việc bảo vệ các quyền bất khả xâm phạm của con người.

Hơn nữa, nhiều quyết định chính trị ảnh hưởng quan trọng đến các thế hệ tương lai và đến vận mệnh của nhân loại, nhứt là trong viễn ảnh liên hệ toàn cầu hoá của thế giới hiện tại của chúng ta.

Còn nữa, sau khi bức tường Bá Linh sụp đổ, ý thức hệ không tưởng của  Cộng Sản đã bị phá sản, cuộc chống đối giữa ý thức hệ Cộng Sản và không Cộng Sản không còn nữa, ít nhứt là đối với những Quốc Gia Tây Âu, ( nếu không phải là những cuộc chống đối cuối cùng để đánh sập tiệm một vài nhóm lãnh đạo cố chấp nào đó, còn cố bám díu để giữ lấy quyền hành, chà đạp con người và hút máu dân)

Nhưng một khi những cuộc chạm trán ý thức hệ không còn, xã hội dễ trở thành xã hội đa nguyên và nếu xã hội đa nguyên không có được những giá trị cố định về con người hướng dẫn, xã hội sẽ trở thành bất định và dễ băng hoại.

Người tín hữu Chúa Ki Tô là những người mang trong mình giá trị cao cả về địa vị con người, có thể góp phần quan trọng định hướng cho xã hội. 

    B - Thăng tiến con người là yếu tố thiết yếu của sứ điệp Phúc Âm.

Và đây là những gì chúng ta biết được về đề tài đang bàn qua các Văn Bản

 

Tổng Lược Huấn Dụ Xã Hội của Giáo Hội:

( Compendio della Dottrina Sociale della Chiesa).

N. 66:  Huấn dụ xã hội là phần thiết yếu của chức năng rao giảng Phúc Âm của Giáo Hội.

Tất cả những gì có liên quan đến cộng đồng con người, đến các hoàn cảnh và vấn đề liên quan đến công lý, giải thoát, phát triển, liên hệ giữa các dân tộc, hoà binh, không phải là những gì ngoại tại không liên quan gì đến rao giảng Phúc Âm. Và việc rao giảng Phúc Âm sẽ không đầy đủ, nếu lời kêu gọi vẫn tiếp tục không liên kết nhau giữa Phúc Âm và đời sống thực tế, cá nhân và xã hội của con người.

Giữa rao giảng Phúc Âm và thăng tiến con người có những mối liên hệ sâu đậm: 

   - Các mối liên hệ trên bình diện nhân loại, bởi vì con người được Phúc Âm rao giảng cho không phải là một con người trừu tượng, mà là con người với các điều kiện xã hội và kinh tế thiết thực của mình.

  - Các mối liên hệ trên bình diện thần học, bởi vì không ai có thể tách rời chương trình tạo dựng ra khỏi chương trình cứu rỗi được. Bởi lẽ chương trình cứu rỗi liên hệ đến cả những hoàn cảnh thực tại bất công cần phá đổ và hoàn cảnh thực tại công bình cần được xây dựng.

  - Các mối liên hệ đặc biệt trên bình diện Phúc Âm, đó là mối liên hệ đến bác ái: thật vậy, làm sao có thể tuyên bố một điều răn mới, mà không thăng tiến công lý và hoà bình thực sự, thăng tiến thực sự làm cho con người được triển nở hoàn hảo" ( ĐTC Phaolồ VI, Evangelium nuntiandi, n.31). 

N. 67:" Huấn Dụ Xã Hội của Giáo Hội tự mình đã có giá trị là một dụng cụ để loan truyền Phúc Âm" ( ĐTC G. Phaolồ II, Christifideles laici, n. 31).

Và Huấn Dụ Xã Hội của Giáo Hội luôn luôn được phát triển và canh tân giữa sứ điệp Phúc Âm và lịch sử con người.

Hiểu như vậy, chúng ta hiểu được Huấn Dụ Xã Hội của Giáo Hội là phương thức đặc biệt để thực thi phận vụ rao giảng lời Chúa và phận vụ ngôn sứ: 

   - " Đối với Giáo Hội, huấn dạy và phổ biến Huấn Dụ Xã Hội thuộc về sứ mạng rao giảng Phúc Âm của mình và là phần chính yếu của sứ điệp Ki Tô giáo, bởi vì các huấn dụ đó cống hiến cho con người những hệ trong trực tiếp đến cuộc sống xã hội, đặt khuôn viên cho các động tác thường nhật và chiến đấu cho công chính bằng nhân chứng rằng Chúa Ki Tô là Đấng Cứu Thế" ( ĐTC G. Phaolồ II, Christifideles laici, II, n. 5).  

Như vậy Huấn Dụ Xã Hội của Giáo Hội không phải là một lợi điểm hay hành động ngoại vi, thêm vào sứ mạng của Giáo Hội, mà chính là trung tâm điểm của phận vụ.

Qua Huấn Dụ Xã Hội,

   - " Giáo Hội loan báo Thiên Chúa và mầu nhiệm cứu rỗi của Chúa Giêsu cho mỗi con người, và đồng thời cũng mạc khải chính con người cho con người" ( id., n. 54).( Pontifico Consiglio della Giustizia e della Pace, Compendio della Dottrina Sociale della Chiesa, Libreria Editrice Vaticana, Città del Vaticana, 2004, 35-36).

Và phận vụ đó của Giáo Hội, được thực thi không những bằng lời rao giảng, mà còn bằng cả nhân chứng.

Thượng Hội Đồng các Giám Mục năm 1987 về " Ơn kêu gọi và sứ mạng của người tín hữu giáo dân trong Giáo Hội và giữa trần thế ", lấy lại đề tài vừa đề cập đến, được Công Đồng Vatican II đưa ra ánh sáng và được Thượng Hội Đồng năm 1971 xác nhận, trong lời kêu gọi cuối cùng như sau: 

   - " Việc dấn thân vào động tác xã hội - chính trị của người tín hữu giáo dân, có nguồn gốc từ trong đức tin của họ, bởi vì đức tin soi sáng toàn vẹn con người và đời sống (...). Bởi đó muốn sống chính trực đời sống đức tin và đời sống thường nhật của mình, cách sống đó phải được đi đôi với việc dấn thân của người tín hữu giáo dân vào lãnh vực công cộng, vào việc họ tham dự vào các cơ chế chính trị và xã hội, cũng như góp phần vào cuộc sống thường nhật để thấm nhuần các cấu trúc và hoạt động trần thế bằng ánh sáng Phúc Âm" ( Sinodo 1987, Vocazione e missione dei laici nella Chiesa e nel mondo, Appello finale, . 10, in EV  X/2230). 

 

Thăng tiến con người và rao giảng Phúc Âm liên hệ chặt chẽ với nhau.

Do đó, không thể có môt cuộc rao giảng Phúc Âm thực sự với ý nghĩa đầy đủ phải có, nếu không tạo được tiến bộ xã hội và thăng tiến con người.

Thật vậy, Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolồ II đã xác quyết với chúng ta:

   -  " Con người là con đường tiên khởi và căn bản của Giáo Hội, con người được hiểu theo chân lý trọn vẹn việc hiện hữu của mình, của cá nhân con người mình và của những gì liên hệ đến thực thể cộng đồng và xã hội của mình" ( ĐTC  G. Phaolồ II, Redemptor hominis, n. 14, in EV  VI/1209). 

Rao giảng Phúc Âm không chỉ có nghĩa là loan báo minh bạch sứ điệp Ki Tô giáo, mà đồng thời còn có nghĩa là soi sáng lương tâm và trí nảo bằng ánh sáng Phúc Âm, thông truyền cho con người nghị lực và phương thế có tính cách luân lý - tôn giáo, mặc dầu là nghị lực và phương thế có tính cách siêu nhiên, có khả năng định hướng các lựa chọn trần thế, văn hóa, xã hội, chính tri, kinh tế, để góp phần quan trọng xây dựng một cuộc sống xứng đáng với con người hơn, công chính hơn.

Điều vừa kể giải thích tại sao Lời Chúa, cần phải được " hội nhập văn hoá " ( inculturazione) , nếu muốn được mọi người hiểu rõ và tự do đón nhận.

" Hội nhập văn hóa" là Lời Chúa phải được diễn dịch thành những giá trị, tư tưởng, ngôn ngữ và phong tục tập quán của mỗi dân tộc.

Và như vậy, một khi được tự do đón nhận, Lời Chúa  có thể định hướng, qua tiến trình trung gian điều giải ( mediazione) đối với chính trị, nền tảng cấu trúc và cơ chế Quốc Gia.

Không thể rao loan báo và sống Phúc Âm trong các hoàn cảnh lịch sử khác nhau, nếu chúng ta không thay đổi và cải thiện được thế giới con người, dĩ nhiên là cải thiện cả đường lối chính trị:

   - người công nhân hay chủ nhân hành động như là người tín hữu Chúa Ki Tô trong lãnh vực mình, thay đổi và cải thiện hoá thế giới làm việc.

   - học sinh, sinh viên và giáo chức sống sứ mạng học đường như là bổn phận phải có của người tín hữu Chúa Ki Tô, họ thay đổi và cải thiện hóa thế giới học đường.

   - nhà chính trị tác động lãnh vực chính trị, như là bổn phận phải có của người tín hữu Chúa Ki Tô, nhà chính trị thay đổi và cải thiện hóa thế giới chính trị.

Tiến sĩ Nguyễn Học Tập

VỀ MỤC LỤC
ỨNG SINH LINH MỤC HỌC & SỐNG LINH ĐẠO LINH MỤC GIÁO PHẬN

 

LTS. Đặc San GSVN tiếp tục hân hạnh được giới thiệu những tài liệu về "Đào Tạo Và Tự Đào Tạo Linh Mục" của Lm. Micae-Phaolô Trần Minh Huy, pss trong suốt thời gian dài đã qua và sắp đến. BBT xin chân thành cám ơn Cha vì dù các học trò của Cha có thể chưa được biết hết tài liệu quí này, nhưng Cha vẫn sẵn lòng cho chúng con phổ biến rộng rãi qua Đặc San điện tử GSVN.

GSVN

Mời thăm Blog của Lm. Trần Minh Huy http://chivilongchuathuongtoi.blogspot.com/

 

BẢN THẢO

ỨNG SINH LINH MỤC HỌC & SỐNG LINH ĐẠO LINH MỤC GIÁO PHẬN

GIÁO TRÌNH TU ĐỨC LỚP THẦN II & III

ĐẠI CHỦNG VIỆN THÁNH GIUSE HÀ NỘI 

2011-2012

 

LỜI NÓI ĐẦU

Sau nhiều năm chia sẻ với các ứng sinh linh mục và tu sĩ thuộc nhiều giai đoạn được đào tạo và tự đào tạo, từ những gì tôi đã học hiểu, sống và trải nghiệm bản thân, kể cả những thăng trầm va vấp trong gần suốt 73 năm tuổi đời và 40 năm tuổi linh mục, tôi nhận ra một thực tế rất hữu ích rằng chúng ta cần cùng nhau học với vị thầy đích thực đầu tiên là Chúa Giêsu Kitô Mục Tử Nhân Lành để trở nên đồng hình đồng dạng với Ngài mỗi ngày một hơn. Tiếp đến, học với các lãnh đạo Giáo Hội, học với các Giám Mục, học với các linh mục đàn anh, học với nhau, học với các đàn em, học với các tu sĩ nam nữ, học với giáo dân, học với người già, học với người trẻ, học với em bé, học với người tốt để làm điều tốt như họ, học với người xấu để tránh làm điều xấu của họ, học với mọi người để hướng dẫn mọi người và cùng mọi người tìm về với Chúa.

Mong muốn của tôi là cố gắng theo sát ánh sáng Lời Chúa và giáo huấn của Giáo Hội để nhìn vào thực tế đang diễn ra trong Giáo Hội và thế giới, đặc biệt trong bối cảnh Giáo Hội và Xã hội Việt Nam, hầu giúp ứng sinh linh mục can đảm đối mặt với thực tế của đời mình, và từ thực tế đó mà định hướng hay tái định hướng đời sống và sứ vụ ơn gọi của mình theo đúng bản chất đích thực của lý tưởng linh đạo linh mục giáo phận mà Chúa và Giáo Hội mong muốn, thế giới và con người ngày nay đang chờ đợi, với mục đích kép là vừa học cho mình sống hôm nay trong Chủng viện vừa chuẩn bị hành trang cho sứ vụ của mình mai ngày giữa lòng Giáo Hội và thế giới. Mong muốn ấy thúc đẩy và gợi hứng cho tôi soạn tập tài liệu “ỨNG SINH LINH MỤC HỌC & SỐNG LINH ĐẠO LINH MỤC GIÁO PHẬN[1] này.

Quả thế, ĐTC Biển Đức XVI nhắc nhở: “Giáo Hội cần đến những linh mục được chuẩn bị tốt, đầy khôn ngoan nhờ tình bạn thân thiết với Chúa Giêsu, liên lỉ chạy đến bàn tiệc Thánh Thể và nguồn mạch không thể lay chuyển của Phúc Âm. Từ hai nguồn mạch bất khả thay thế này, các con hãy biết múc lấy sự nâng đỡ thường xuyên và sự gợi hứng cần thiết cho đời sống và thừa tác vụ của các con, cũng như cho lòng chân thành yêu mến chân lý mà hôm nay các con được mời gọi đào sâu, nhất là qua việc học hành và nghiên cứu khoa học để rồi mai ngày các con có thể chia sẻ với nhiều người khác.[2]

Trong thư bổ nhiệm ĐHY Ivan Dias làm đặc sứ đến chủ sự lễ Bế mạc Năm Thánh Việt Nam 4-6/1/2011 tại Trung Tâm Thánh Mẫu Toàn Quốc Lavang, Ngài cũng đã định hướng con đường phải đi cho chúng ta qua lời ủy thác: “Hiền đệ hãy nhắn nhủ mọi người canh tân lòng nhiệt thành tông đồ, để nhờ niềm hy vọng nảy sinh từ đức tin, lòng yêu mến đối với Thiên Chúa, Thiên Chúa được mọi người chúc tụng, vì lòng từ bi của Ngài tồn tại muôn đời (Spe salvi, 37). Để cho toàn dân Việt Nam được thịnh vượng hơn, chúng tôi nhắn nhủ cộng đoàn Công Giáo tại Việt Nam, được xây dựng theo nghĩa vừa nói, hãy tăng cường tình hiệp nhất giữa các vị Chủ Chăn với nhau, cũng như giữa các vị Chủ Chăn với các tín hữu, thăng tiến việc đào tạo nhân bản và tu đức cho các ứng sinh linh mục, việc thường huấn cho các linh mục và tu sĩ nam nữ, cũng như chuẩn bị thích hợp cho các giáo dân.[3]

Vấn đề thật cần thiết và hữu ích, nhưng vượt quá tầm với của sức mình, nên tôi thêm hai chữ “BẢN THẢO” ở giáo trình này. Phải, đây mới là bản thảo, nghĩa là chưa xong, chưa đầy đủ, chưa tốt, cần phải được liên tục sửa chữa, hiệu đính, cập nhật cái mới, bỏ đi cái cũ hay không thích hợp. Tôi tha thiết xin mọi người, nhất là các bậc Thầy, các bậc Đàn Anh giúp chỉ giáo và sửa chữa cho tôi, vì lợi ích lớn hơn của các ứng sinh đang học làm linh mục và sẽ thực sự sống tư cách linh mục trong sứ mệnh của Giáo Hội giữa lòng thế giới không ngừng biến chuyển, đặc biệt trong bối cảnh Giáo Hội và Xã Hội Việt Nam hôm nay. Tôi chân thành cám ơn tất cả mọi người. Nguyện xin Chúa Thánh Thần tiếp tục cho đến hoàn thành tốt đẹp những gì Ngài đã thương khởi sự cho chúng ta, với chúng ta và qua chúng ta, nhờ lời cầu bàu mạnh thế của Mẹ Maria Lavang và Thánh Cả Giuse.

Micae-Phaolô Trần Minh Huy pss

 _______

[1] Xin xem thêm Micae-Phaolô Trần Minh Huy, Đào tạo và tự đào tạo thiêng liêng của các linh mục tương lai trong bối cảnh Việt Nam ngày nay, ĐCV. Huế, 2006.

[2] ĐTC Biển Đức XVI nói với Giáo Hoàng Học Viện Giáo Sĩ Ba Lan ngày 17/1/2011 tại Vatican (http://www.zenit.org/article-26667?l=french)

[3] Trích Thư ĐTC Biển Đức XVI bổ nhiệm ĐHY Ivan Dias làm đặc sứ tại Việt Nam ngày 21/12/2010.

 

VỀ MỤC LỤC
TỆ NẠN BUÔN NGƯỜI
 

Ngày 10 tháng 12 , 2011 vừa qua, Chính phủ Đài Loan đã trao giải thưởng Nhân Quyền và Dân Quyền Á Châu năm 2011 cho Tổ chức BPSOS, Ủy Ban Cứu Người Việt Biển,  mà Tiến Sĩ Nguyễn Đình Thắng là Giám Đốc Điều Hành từ mấy thập niên vừa qua.

Trong lễ vinh danh, Tổng Thống Đài  Bắc  Mã Anh Cửu tuyên bố :“Cách đây 5 năm, giới truyền thông trong và ngoài nước xem Đài Loan là thiên đường của những kẻ buôn người. Ngày nay, quốc tế ghi nhận Đài Loan là quốc gia hàng đầu về phòng và chống buôn người. BPSOS và Ts. Thắng, qua Liên Minh CAMSA, đã đóng góp nhiều cho sự chuyển đổi này”.

Được biết, Tổ Chức BPSOS đã đóng góp ý kiến và hợp tác với chính phủ Đài Loan trong việc xóa bỏ tệ nạn buôn người ở Đài Loan từ hơn 6 năm vừa qua.

Tệ nạn buôn người vẫn là vấn đề trầm trọng chưa được giải quyết tại khắp mọi quốc gia trên thế giới, kể cả ở Hoa Kỳ. Do đó, mới đây Tổng Thống Barrack Obama đã công bố Tháng Giêng năm 2012 là National Slavery and Human Trafficking Prevention Month. Theo ông: “Mạng lưới buôn người hoạt động tại nội địa Hoa Kỳ lẫn các quốc gia khác và mặc dù sự lạm dụng tác hại nhiều tới phụ nữ và bé gái, nạn nhân của thảm trạng toàn cầu này bao gồm cả nam nữ và trẻ em ở mọi lứa tuổi. Từ ép buộc lao động tới khai thác thương mại tình dục và lao nô tại gia ngoài ý muốn, buôn người hoành hành không chừa một quốc gia nào”

Theo ước lượng của chính quyền liên bang, mỗi năm có tên dưới 20,000 người đặc biệt là phụ nữ và trẻ em bị buôn đưa vào Hoa Kỳ để khai thác tình dục và sức lao động. Ngay tại Hoa Kỳ, hàng năm cũng có tới cả 200,000 bé gái rơi vào bàn tay kẻ buôn người để phục vụ kỹ nghệ tình dục. Nạn nhân thường là nhóm người có nhiều bất lợi xã hội như di dân, người bỏ gia đình, người nghèo thất nghiệp, không nói được Anh ngữ. Đàn ông cũng bị bắt cóc đưa vào làm việc tại nông trại, nhà hàng với số lương bạc bẽo. Nữu Ước, Florida và California là 3 tiểu bạng có tệ nạn buôn người nhiều nhất ở Hoa Kỳ.

Tại Việt Nam, nạn nhân của buôn người bị đưa tới khai thác tại các quốc gia như Cao Miên, Trung Hoa, Thái Lan, Hong Kong, Nam Hàn, Mã Lai Á, Đài Loan, Anh và Cộng hòa Tiệp. Nạn nhân được tuyển chọn qua hình thức hôn nhân giả tạo, hứa hẹn hão về việc làm, di dân lậu hoặc qua các dịch vụ tuyển lựa lao động để xuất cảnh. Theo nguồn tin từ cơ quan an ninh Cao Miên vào năm 2004, quốc gia này có khoảng 50,000 gái mãi dâm thì đa số đều bị ép buộc đưa vào từ Việt Nam.

Hôn nhân giả tạo đang là hình thức buôn người khá phổ biến tại Việt Nam. Theo nguồn tin từ nhà nước, khoảng 10% các cuộc hôn nhân do mối giới với đàn ông Trung Hoa trở thành nạn nhân của buôn người. Họ sẽ bị hãm hiếp bởi người chồng, thậm chỉ bởi cả cha chồng. Đôi khi còn bị sang tên bán đứng cho người  đàn ông khác.

Hoàn cảnh đưa tới bị là nạn nhân của buôn người tại Việt Nam  và các quốc gia đang mở mang là do nghèo khó, không có công ăn việc làm, ít học, bất ổn gia đình, không hiểu rõ về tệ nạn buôn người cho nên dễ bị lừa gạt, bắt cóc. Cũng có nhiều thiếu nữ ham “tham quan” du lịch bị lừa gạt qua biên giới rồi bị bán để làm nghề mãi dâm hoặc lấy chồng ngoại kiều.

Đã có nhiều trường hơp lạm dụng bạc đãi bắt làm việc quá sức lao động đối với công nhân Việt Nam xuất cảnh. Họ cầu cứu tới cơ quan đại diện ngoại giao của mình ở nước sở tại, nhưng không được giúp đỡ thỏa đáng.

Việt  Nam cũng đã cố gắng hợp tác với các cơ quan quốc tế để chống tệ nạn buôn người, nhưng hiệu năng làm việc chưa đạt chỉ tiêu. Lý do là mặc dù VN có luật lệ nhưng không được áp dụng phân minh cũng như do chính quyền các cấp tham nhũng, nhận hối lộ của kẻ buôn người rồi “xử lý” qua loa.Việt Nam được xếp vào mức độ Tier 2 về giải quyết nạn buôn người, có nghĩa là đã cố gắng nhưng chưa hết mình.

Tuyển tập Báo cáo Hội nghị Sinh viên Nghiên cứu Khoa học lần thứ 7 Đại học Đà Nẵng năm 2010 có ghi rằng “Tại Việt Nam, theo Báo cáo kết quả thực hiện Chương trình 130/CP từ năm 2005 đến nay cả nước đã phát hiện hơn 1.600 vụ mua bán phụ nữ, trẻ em, trong đó có 4.300 phụ nữ, trẻ em bị mua bán. Riêng 6 tháng đầu năm 2009 đã xảy ra 191 vụ, trong đó có 417 phụ nữ, trẻ em bị buôn bán. Cũng Báo cáo trên cho thấy trong số nạn nhân trên thì 60% nạn nhân bị buôn bán tự trở về, 19% trở về qua con đường giải cứu, 21% qua con đường trao trả. Trong đó có 60% tổng số vụ mua bán sang Trung Quốc, 11% sang Camphuchia, số còn lại sang Lào qua tuyến hàng không, tuyến biển để bán ra một số nước khác. Địa phương xảy ra tình trạng trên nhiều nhất là Hà Giang, Lào Cai, Lạng Sơn, Quảng Ninh, Hà Nội, Nghệ An, Lai Châu, Bắc Giang.” 

Một diễn tiến điển hình của nạn buôn người có thể là:

Một thiếu nữ nhà nghèo ở vủng quê xa xôi, có chút nhan sắc nhưng thất nghiệp, ít học lại ước mơ có một việc làm ở một quốc gia hoa lệ như Hong Kong, Nam Hàn. Cô được môi giới giúp hoàn tất mộng đẹp. Khi tới đất “thần tiên”, cô bèn bị tịch thu giấy thông hành, hộ chiếu, bị kẻ ác đánh đập hãm hiếp chán chê rồi bán cho động mãi dâm. Cô phải tiếp cả chục khách làng chơi mỗi ngày mà không nhận được thù lao, vì phải trả tiền nợ thủ tục xuất cảnh, di chuyển. Sau một thời gian, cô bị bán cho động mãi dâm khác. Và cuộc đời cứ như vậy tiếp diễn. Cô mắc bệnh HIV, sức khỏe suy sụp, muốn chạy trốn mà không biết đi đâu, cầu cứu thì ngôn ngữ bất đồng và đang bị cô lập. Khi may mắn được giải thoát thì thân tàn ma dại, về nhà thì lãnh đủ những chê bai nhiếc móc thế gian… 

Buôn người không phải là chuyện mới xảy ra, mà đã xuất hiện từ nhiều trăm năm về trước với chế độ buôn bán nô lệ. Đây là một sự vi phạm trầm trọng tới những quyền căn bản của mỗi cá nhân như sự tự do đi lại, tự do làm việc, tự do lựa chọn, tự do kiểm soát thể chất, tinh thần và chọn lựa tương lai. Hiện nay, buôn người đứng hàng thứ 3 trong số các tội phạm kỹ nghệ, sau buôn lậu khí giới và dược phẩm loại cấm. Theo Liên Hiệp Quốc, buôn người đã mang về lợi nhuận cho các tổ chức chủ mưu  từ 7 tới 10 tỷ Mỹ kim mỗi năm với cả nhiều triệu nạn nhân. Buôn người bây giờ được coi như một hình thức nô lệ mới, có tổ chức quốc tế tinh vi khoa học hơn.

Cần phân biệt giữa buôn người với nhập cảnh di dân bất hợp pháp. Buôn người có tính cách cưỡng bách còn di dân lậu là theo ý muốn của con người, trả tiền để được kín đáo nhập cảnh.

Tổ chức  Liên Hiệp Quốc định nghĩa Tệ Nạn Buôn Người với 3 đặc điểm:

- Hành động tuyển chọn, chuyên trở, chuyển giao, tiếp nhận, chứa chấp nạn nhân

- Áp dụng phương thức dụ dỗ lường gạt hoặc đe dọa, dùng sức mạnh hoặc ép buộc, bắt cóc nạn nhân

- Với mục đích khai thác nạn nhân để thu lợi.

Sự khai thác có thể là để hành nghề mãi dâm hoặc lạm dụng tình dục, bóc lột sức lao động, làm nô lệ hoặc để bị lấy cơ quan bộ phận cơ thể. Theo thống kê, 79% nạn nhân là để khai thác tình dục, 18% bắt lao động chân tay quá mức với lương bổng rất thấp.

Nạn nhân sẽ bị đặt dưới sự kiểm soát của nhóm chủ mưu dưới nhiều hình thức như:

- Bắt ký giấy nợ tiền cho tất cả các chi phí về thủ tục xuất cảnh, chuyên chở, ăn uống, nhà ở…

- Tịch thu giấy tờ cá nhân, sổ thông hành, giấy chiếu khán khiến cho nạn nhân không thể chạy trốn

- Bị đặt trong tình trạng sống riêng rẽ, không được tiếp xúc với bất cứ ai nhất là không biết ngôn ngữ mới

- Bị đe dọa trả thù cá nhân hơặc gia đình nếu chạy trốn hoặc tiết lộ với nhà chức trách

- Đánh đập, hành hạ tâm lý nếu không làm theo những gì mà kẻ chủ mưu bắt buộc như mãi dâm, làm việc quá sức lao động… 

Và hậu quả của nạn buôn người cũng vô cùng tai hại, tai hại cả về thể xác lẫn tinh thần. Nạn nhân sẽ rơi vào nhiều hoàn cảnh bệnh hoạn như: 

- Sức khỏe suy nhược, thiếu dinh dưỡng, làm việc quá sức lao động mà không được nghỉ ngơi

- Mắc các bệnh nhiễm qua tình dục như HIV/AIDS. Phụ nữ bị khai thác tình dục mắc bệnh HIV 10 lần nhiều hơn người bình thường.

- Mang thai ngoài ý muốn và không biết cha đứa bé là ai

- Mắc các bệnh truyền nhiễm vì sống trong điều kiện không có vệ sinh cá nhân, nơi ở quá chật hẹp, không có nước sạch

- Rủi ro sức khỏe gây ra do lao động quá sức như thương tích, nhiễm trùng ngoài da, bệnh đường hô hấp

- Ảnh hưởng tâm lý như buồn rầu, uất hận, bực bội vì bị hành hạ, khai thác, làm việc quá sức hoặc lạm dụng tình dục, mất ngủ, ác mộng, ý nghĩ tự hủy

Buôn người cũng đưa tới sự tan vỡ gia đình, xã hội. Nếu may mắn được giải thoát, về nhà sẽ bị làng xóm không những không thương sót thông cảm mà lại bị ruồng bỏ, chê bai, kéo dài cuộc sống cô đơn, đau khổ, buồn tủi cho số phận.

Nạn nhân thường không tìm kiếm cứu vớt vì sợ bị trả thù cho mình và cho thân thân, sợ bị trục xuất, không hiểu rõ luật lệ địa phương. Nạn nhân cũng thường xuyên được thay đổi chỗ ở và không được tiếp xúc với người ngoài do đó việc giải thoát khó khăn.

Để đối phó với tệ nạn buôn người có tính cách toàn cầu, Liên Hiệp Quốc  cùng với các quốc gia đã hợp tác với nhau để xóa bỏ hình thức thương mại bất hợp pháp này. Năm 2003, Liên Hiệp Quốc đã đưa ra một kế hoạch rất chi tiết bao gồm sự phòng ngừa, xóa sổ và trừng phạt những tổ chức cũng như cá nhân liên can tới buôn người đồng thời cũng cứu giúp nạn nhân. Nhưng khó khăn giải quyết vẫn tồn tại ở nhiều quốc gia, trong đó chính quyền bao che cho thủ phạm, vì quyền lợi cá nhân, tham nhũng, hối lộ.

Kết luận

Buôn người vẫn tiếp tục xảy ra. Nạn nhân vẫn tiếp tục bị khai thác bóc lột. Hình thức nô lệ trước đây được thành hình là với mục đích mở mang thuộc địa, phát triển kinh tế, nhưng ngày nay buôn người- tân nô lệ- chỉ mang lợi nhuận cho kẻ chủ mưu đồng thời là một hành động dã man, khai thác bóc lột người nghèo,  phá hoại hạnh phúc gia đình nạn nhân.

Bác sĩ Nguyễn Ý Đức

Arlington-Texas

www.bsnguyenyduc.com

 
VỀ MỤC LỤC
CON LỢN LÒNG Chuyện phiếm của Gã Siêu

  

Khi bàn về con lợn, con vật cầm tinh cho năm Đinh Hợi 2007 này, gã tự hỏi :

- Tại sao cả Tây phương lẫn Đông phương đều chọn con lợn làm biểu tượng của sự dâm đãng ?

Rất có thể vì một anh heo nọc được mang đi gieo giống cho hầu hết các chị heo nái trong ấp. Cũng có thể vì chị heo nái khi tới thời điểm…”động đực” thì bần thần, đứng nằm không yên ?

Chưa hài lòng với câu trả lời ấy, gã bèn phải “ngâm kíu” thêm.

Người phương Tây thì chịu ảnh hưởng của Kitô giáo, mà Kitô giáo thì chịu ảnh hưởng của Do Thái giáo. Đối với người Do Thái, thì lợn là một con vật ô uế và họ bị cấm không được ăn thịt lợn.

Sách Lêvi viết như sau :

“Con heo, vì nó có chân chẻ làm hai móng, nhưng không nhai lại: các ngươi phải coi nó là loài ô uế. Thịt của chúng, các ngươi không được ăn, xác chết của chúng, các ngươi không được đụng đến” (Lv 11,7).

Sách Macabêô kể lại rằng :

Sau khi chiếm được Giêrusalem, vua Antiocho đã truyền cho người Do Thái phải lập các bàn thờ và phải sát tế lợn, cũng như bắt họ phải ăn thịt heo và coi đó như một hành động bội tín, chối bỏ niềm tin của mình (1Mcb 1,47; 2Mcb 6,18).

Các thầy thông luật còn cấm không cho đồng bào của mình làm nghề chăn heo, chỉ trừ ra nhưng kẻ mạt rệp, những bần cùng khố rách áo ôm như chàng trai hoang đàng mới đâm đầu vào cái nghề xấu xa này mà thôi (Lc  15,15).

Có lẽ vì mang ấn tượng heo là một con vật ô uế, nên trong tiếng Pháp có hai chữ xuất phát từ loài heo, loài lợn, nhưng đều ám chỉ kẻ dâm đãng :

Trước hết là chữ “cochon” chỉ  con lợn hay con heo, nhưng cũng chỉ kẻ trụy lạc.

Tiếp đến chữ “porc” cũng vậy, vừa chỉ con heo hay con lợn, nhưng cũng chỉ kẻ nhớp nhúa, thô tục.

Từ đó, chữ  “porcnographie” có nghĩa là dâm thư, dâm ảnh, dâm họa…Người Việt Nam chúng ta cũng ăn theo, khi nói đến những loại phim…con heo, phim “cô-xoong”, tức là phim khiêu dâm.

Ngoài ra, người Việt Nam còn dùng hình ảnh “con lợn lòng” để nói về những ước muốn xấu xa nổi lên trong tâm hồn, hay cụ thể hơn đó là nỗi đam mê…nhục dục. Nhân dịp đầu xuân năm mới, gã xin bàn ra tán vào tí xíu về con lợn lòng này một tí nhé.

 

Con lợn lòng trước hôn nhân 

Trong sự phát triển tình cảm bình thường, tới một lúc nào đó, những người thân yêu trong gia đình và những người bạn cùng phái thưở nào không còn đủ cho chúng ta nữa.

Lúc bấy giờ chúng ta hướng tới một khuôn mặt rắn chắc hay một làn tóc mềm mại, nghĩa là chúng ta hướng tới những người khác phái.

Trai và gái hướng tới nhau, đó là chuyện bình thường như tục ngữ đã bảo :

- Trai thấy gái lạ, như quạ thấy gà con.

Hai cực âm và dương của thỏi nam châm hút nhau thế nào, thì trai và gái cũng hướng tới nhau như vậy. Đó là lẽ thường tình. Vì thế, bè bạn khác phái, tự nó không phải là điều xấu.

Tuy nhiên, chúng ta cần phải có thái độ nghiêm túc và những giới hạn của nó. Không thô kệch lố lăng hay lý la lý lắc. Cũng không nhút nhát rụt rè hay “bế môn tỏa cảng”.

Trái lại, hãy biết kính trọng nhau với tâm hồn cao thượng, với lời nói thanh tao và những cử chỉ đứng đắn, để rồi nhờ đó chúng ta dần dần tiến tới hôn nhân.

Nhìn vào xã hội Việt Nam ngày xưa, trong phạm vi giao tiếp, các cụ ta vốn thường quan niệm :

- Nam nữ thọ thọ bất thân, nghĩa là trai gái không được thân mật với nhau, thậm chí khi trao cho nhau vật gì, thì không được dùng tay để chạm vào nhau.

Còn về hôn nhân, các cụ ta thường nói :

- Cha mẹ đặt đâu, con ngồi đó.

Gã  đã từng nghe thấy có ông bố mắng đứa con của mình như sau :

- Tao với mẹ mày ngày xưa làm gì có trò chuyện, thông cảm, tìm hiều…cưới nhau cái rụp, thậm chí chưa hề quen biết, thế mà vẫn đẻ ra chúng mày rầm rầm. Còn chúng mày bây giờ bày đặt nhiều chuyện, rách việc quá.

Tuy nhiên quan niệm này đã bị coi như là…xưa rồi Diễm ơi. Nhìn những cô cậu choai choai lai nhau trên xe gắn máy, phóng như bay ngoài đường, có người đã phải chép miệng thở dài :

- Nam nữ cọ cọ rất là…giật gân.

Hơn thế nữa, ngày nay người ta chủ trương cần phải tìm hiểu nhau trước  bước vào cuộc sống hôn nhân, thế nhưng nếu không đề cao cảnh giác, thì đây lại là những dịp để cho con lợn lòng xổ chuồng.

Thực vậy, thay vì tìm hiểu nhau một cách đứng đắn và công khai, chẳng hạn thăm dò qua bè bạn quen biết, gặp gỡ nhau trong gia đình trước sự chứng giám của cha mẹ hay các anh các chi, thì lại hẹn hò nhau một cách lén lút. Nơi thôn quê thì ở bụi tre, khóm chuối hay đống rơm. Còn nơi thành thị thì ở rạp hát hay quán cà phê đèn mờ…

Thay vì tìm hiểu xem liệu mình có thể sống hòa hợp cùng nhau để xây dựng một mái ấm hạnh phúc hay không ? Thay vì đưa ra những vấn đề như : những đức tính cần thiết, lòng đạo đức, trình độ văn hóa, hoàn cảnh gia đình, địa vị xã hội, tài sản đôi bên, tuổi tác, sức khỏe…thì lại chỉ mải mê khám phá thân xác của nhau, thỏa mãn những cảm xúc rạo rực và nếm thử trái cấm trước khi đi vào cuộc sống lứa đôi.

Vì thế, chuyện ăn ở với nhau trước hôn nhân, chuyện “ăn cơm trước kẻng”, đã trở nên một hiện tượng đang tràn lan trong giới trẻ, mà hậu quả cay đắng thường thì người con gái phải gánh chịu và ân hận suốt cả một đời.

Thực vậy, tâm lý người con trai bao giờ cũng muốn chinh phục. Mà chinh phục càng khó khăn, thì chiến thắng mới vinh quang. Một cánh cửa mà ai cũng qua được đâu còn gì là giá trị. Chính sự đoan trang và đứng đắn mới là nét duyên ngầm, làm cho người con gái thêm phần giá trị.

Trái lại, một khi đã mang tiếng lẳng lơ, thì rất có thể sẽ hỏng cả đời con gái. Nhiều lúc trước mặt mình, họ ca tụng thế này, họ khen ngợi thế kia. Nhưng sau lưng mình và nhất là khi đã được thỏa mãn, họ sẽ nhìn mình bằng một cặp mắt khinh bỉ, bởi vì họ thầm nghĩ :

- Mình dễ dãi với họ, thì cũng rất có thể dễ dãi với những kẻ khác.

Lúc bấy giờ chính người con gái cũng cảm thấy phẩm giá bị tổn thương vì bản thân bị lừa gạt hay trở thành một thứ trò chơi. 

Rất có thể chỉ vì một phút yếu lòng mà sa ngã, để rồi đi vào chỗ bế tắc, những người xưa cũng đã từng cảnh cáo :

- Kiếm củi ba năm thiêu một giờ.

Và rồi dư luận cũng sẽ mỉa :

- Gái chửa hoang, các vàng không lấy.

- Không chồng mà chửa mới ngoan,

  Có chồng mà chửa, thế gian sự thường.

 

Con lợn lòng sau hôn nhân 

Trong xã hội Việt Nam ngày xưa, chỉ có một số ít người rủng rỉnh tiền bạc mới vướng vào cái nạn “đa thê”, rước về dinh ba bốn bà, chứ còn phần đông đều “nhất phu nhất phụ”, một vợ một chồng

- Thế gian một vợ một chồng,

  Chẳng như vua bếp một ông hai bà.

Quan niệm trên thật gần gũi với lập trường của Chúa Giêsu :

- Thưở ban đầu, Thiên Chúa đã dựng nên một người nam và một người nữ. Bởi đó người nam sẽ lìa bỏ cha mẹ mà kết hợp với vợ mình, để rồi cả hai cùng trở nên một xương một thịt. Vậy sự gì Thiên Chúa đã kết hợp, loài người không được phân ly.

Và Ngài còn nghiêm ngặt hơn nữa :

- Ai nhìn người nữ mà ước ao phạm tội thì đã ngoại tình trong lòng rồi.

Lý thuyết là thế, nhưng trong thực tế nhiều ông chồng đã để cho con lợn lòng của mình xổ chuồng, bằng những hành động ngoại tình, thầm lén giao lưu tình cảm ngoài luồng, chia sẻ vụng trộm với người thứ ba không phải là bà xã của mình. Vợ con đùm đề mà vẫn cứ thích đèo bòng bồ nhí, cơm nhà không thèm ăn, lại cứ thích đi ăn phở như bài thơ sau đây đã diễn tả :

- Bồ là phở nóng tuyệt vời,

  Vợ là cơm nguội đáy nồi hẩm hiu.

  Bồ là nơi tỏ lời yêu,

  Vợ là nơi trút bao nhiêu bực mình.

  Bồ là rượu ngon trong bình,

  Vợ là nước ở ao đình nhạt phèo.

  Nhìn bồ đôi mắt trong veo,

  Trông vợ đôi mắt như beo  gườm gườm.

  Bồ tiêu thì chẳng tiếc tiền,

  Vợ tiêu một cắc thì liền kêu hoang.

  Bồ giỗi thì phải xuống thang,

  Vợ hờn bị mắng, bị phang thêm liền.

   …………………………………..

  Vợ là cơm nguội của ta,

  Nhưng là đặc sản thành cha láng giềng…

Đã là người thì ai cũng đã hơn một lần cảm thấy con tim mình “lúc lắc” và xúc động, đồng thời ít ra trong một khoảng thời gian nào đó cũng đã cảm thấy những đòi hỏi của xác thịt và con lợn lòng cứ lồng lộn lên đòi xổ chuồng,  như ca dao  đã bảo :

- Đó với đây không dây mà buộc,

  Tôi với nàng không thuốc mà say.

Chính Luther cũng đã phát biểu ý kiến như sau :

- Sự đòi hỏi của sắc dục thật tự nhiên như sự đòi hỏi của cơm nước.

Rút kinh nghiệm bản thân, nhiều nhà đạo đức đã mạnh dạn quả quyết :

- Khuynh hướng này còn tồn tại hai mươi bốn giờ sau khi con tim đã ngừng đập. Chính vì thế, về chuyện này không ai có thể nói mạnh được.

Trận chiến tình cảm là một trận chiến tuy âm thầm, nhưng rất cam go và không kém phần khốc liệt. Biết bao nhiêu vị vua chúa uy quyền, biết bao nhiêu vị tướng lãnh tài giỏi, đánh lớn thắng lớn, đánh nhỏ thắng nhỏ, càng đánh lại càng thắng, thế mà lại bị thua chạy một cách thê thảm trong lãnh vực tình cảm. Chẳng hạn như hoàng đế César, vua Kiệt, vua Trụ…Bởi đó, Napoléon đã có lý khi nói :

- Chiến thắng  được cả Âu châu còn dễ hơn chiến thắng chính bản thân mình.

Trên mộ bia của ông Saipion, người ta đã khắc ghi một câu đáng cho chúng ta ghi nhớ :

- Ông Saipion đã thắng nhiều trận oanh liệt, nhưng trận oanh liệt nhất ông đã chiến thắng, đó là chiến thắng chính mình.

Sở dĩ  như vậy vì cuộc chiến tình cảm, cuộc chiến bản thân, là một cuộc chiến cam go, đòi buộc chúng ta phải hy sinh, phải từ bỏ thật nhiềm, mới có thể quản lý được con tim và làm chủ được những tình cảm, để rồi chiến thắng.

Nếu chiến thắng, chúng ta sẽ thâu lượm được những hậu quả tốt đẹp, còn nếu thất bại, chúng ta sẽ phải gánh chịu những hậu quả thảm khốc.

Thực vậy, nếu thất bại, thì dù là bác sĩ hay kỹ sư, dù là thủ tướng hay tổng thống chăng nữa, mà đời sống tình cảm lem nhem, chắc chắn cũng sẽ bị dư luận lên án gắt gao.

Cách đây đã lâu, báo chí thế giới đã bàn luận sôi nổi về ông bộ trưởng chiến tranh nước Anh tên là Profuno đã dính líu với một cô gái tên là Christine Keller làm gián điệp cho Liên xô. Kết quả ông bộ trưởng này bị thân bại danh liệt, cả một nội các bị sụp đổ vì vụ tai tiếng này.

Gần đây, báo chí cũng đã làm rùm beng về câu chuyện tình vụng trộm giữa tổng thống Bill Clinton nước Mỹ với cô thực tập sinh tại tòa Bạch ốc tên là Monica Lewinsky, khiến cho ông tổng thống này phải một phen sứt bất sang bang…

Cho dù những vụng trộm thầm lén, những chuyện đi ngang về tắt  của chúng ta chưa một ai biết đến, nhưng tục ngữ cũng đã cảnh   cáo :

- Đi đêm có ngày gặp ma.

Tới một lúc nào đó, câu chuyện bị đổ bể, lúc bấy giờ những người chung quanh sẽ nghĩ gì về chúng ta ? Danh dự là một kho tàng quí giá không thể nào mua được bằng tiền bạc, chắc chắn sẽ bị sứt mẻ. Đã một lần mang tai mang tiếng, thì ông không còn là ông và bà chẳng còn là bà.

Một khi con lợn lòng đã xổ chuồng, người ta sẽ trở nên mù quáng, không còn nghĩ tới danh dự, gia đình và xã hội. Người ta bỏ ngoài tai những lời phê bình chỉ trích. Người ta như kẻ bị thôi miên, cắm đầu làm nô lệ cho nỗi đam mê của mình. Trong một bài hát, Trịnh công Sơn đã diễn tả :

- Tình yêu như trái phá con tim mù lòa.

Thực vậy, thánh Leonardo đã kể lại câu chuyện sau đây trong một bài giảng.

Một thiếu nữ con nhà tử  tế, được cha mẹ giáo dục cẩn thận. Ban đêm cô ngủ trong căn phòng nhỏ ở trên lầu. Song có một chàng thanh niên khéo tán tỉnh, đã dụ dỗ được cô.

Chìa khóa cầu thang và cổng ra vào thì ông bố cất kỹ. Nhưng tình cảm mù quáng thúc đảy khiến cho mỗi đêm, khi cả nhà đã ngủ, cô mở của sổ, thòng giây tuột xuống để đi gặp người tình. Rủi thay một ngày nọ, người đầy tớ bắt gặp, nó hỏi cô :

- Sao cô liều lĩnh và táo bạo thế ?

Cô trả lời :

- Tình dục làm cho mù quáng.

- Cô trèo như vậy nhỡ gẫy chân gẫy tay thì sao ?

Cô cũng trả lời :

- Tình dục làm cho mù quáng.

- Nhỡ ông bà bắt được thì sao ?

Cô cũng chỉ trả lời :

- Tình dục làm cho mù quáng.

Nếu đọc lại lịch sử thế giới, từ cổ chí kim, từ đông sang tây, chúng ta sẽ ghi nhận được rất nhiều hành động điên khùng và mù quáng như vậy.

Vua Assureus nước Syria, chỉ vì say mê nét kiều diễm của Esther mà bị mất nước. Đại tướng Holopherne, chỉ vì ngất ngây trước vẻ đẹp của bà Judith mà bị mất đầu. Vua Herode, chỉ vì ngẩn ngơ trước điệu múa của Salomê mà đã sai người lấy đầu Gioan Tiền Hô. Vua Kiệt vua Trụ cũng chỉ vì chìm đắm trong sắc dục mà cơ đồ bị sụp đổ. Vua Ngô phù sai chỉ vì nụ cười của nàng Tây thi  mà sự nghiệp bị tiêu tan.

Ngoài ra, một khi con lợn lòng đã xổ chuồng, thì tiền bạc hao tốn hơi bị…nhiều vì phải chu cấp cho “bồ nhí”, như ca dao đã diễn tả :

- Bắc thang lên hỏi ông trời,

  Đem tiền cho gái, có đòi được không ?

Tình cảm mà xây dựng trên tiền bạc, thì một khi tiền hết, bạc cạn, thì tình cũng tan theo :

- Bây giờ tiền hết gạo không,

  Anh ơi, ở lại mà trông lấy hòm.

  Bao giờ tiền có gạo còn,

  Thì em ở lại trông hòm cho anh.

- Một khi túi hãy còn tiền,

  Thì bồ thắm thiết kề liền bên anh.

  Một mai hết sạch sành sanh,

  Bồ đi vợ lại đón anh về nhà.

  Bồ là lều, vợ là nhà,

  Gió lớn lều sụp, mái nhà còn kia.

  Tóm lại, ttình dục chỉ là một phương tiện trợ giúp cho tình yêu mà thôi, chứ không phải là tất cả cho tình yêu. Con vật sống theo bản năng và khi những đòi hỏi nổi lên, thì khó có thể chống cưỡng nổi. Nhưng Con người thì khác. Các cụ ta ngày xưa đã từng bảo :

- Nhân linh ư vạn vật. Có nghĩa là con người cao hơn con vật.

Sở dĩ như vậy vì con người có trí khôn và ý muốn, được dựng nên giống hình ảnh Thiên Chúa. Bởi đó, hãy dùng trí khôn và ý muốn mà làm chủ lấy những đòi hỏi mù quáng của bản năng, hãy quản lý chặt chẽ con lợn lòng của mình, đừng để nó xổ chuồng mà xông xao khắp nơi, khắp xó, nhờ đó làm cho tình yêu thêm bền vững và cao đẹp.

Gã Siêu   gasieu@gmail.com


VỀ MỤC LỤC

- Mọi liên lạc: Ghi danh, thay đổi địa chỉ, đóng góp ý kiến, bài vở..., xin gởi về địa chỉ

giaosivietnam@gmail.com

- Những nội dung sẽ được đề cao và chú ý bao gồm:

Trao đổi, chia sẻ những kinh nghiệm thực tế trong việc mục vụ của Giáo sĩ;  Những tài liệu của Giáo hội hoặc của các Tác giả nhằm mục đích Thăng tiến đời sống Giáo sĩ; Cổ võ ơn gọi Linh mục; Người Giáo dân tham gia công việc “Trợ lực Giáo sĩ” bằng đời sống cầu nguyện và cộng tác trong mọi lãnh vực; Mỗi  Giáo dân phải là những “Linh mục” không có chức Thánh; Đối thoại trong tinh thần Bác ái giữa Giáo dân và Giáo sĩ… (Truyền giáo hay xây pháo đài?)

- Quy vị cũng có thể tham khảo những số báo đã phát hành tại

www.conggiaovietnam.net

Rất mong được sự cộng tác, hưởng ứng của tất cả Quí vị

Xin chân thành cám ơn tất cả anh chị em đã sẵn lòng cộng tác với chúng tôi bằng nhiều cách thế khác nhau.

TM. Đặc San Giáo Sĩ Việt Nam

Lm. Luca Phạm Quốc Sử  USA

 

 

Duoc chon giua loai nguoi va cho loai nguoi; GIAO SI: Xuat phat tu giao dan, hien dien vi giao dan va cay dua vao giao dan, de cung lam VINH DANH THIEN CHUA

*************