Ðức Nữ Trinh Maria Mẹ Thiên Chúa Trong
Mầu Nhiệm Chúa Kitô Và Giáo Hội |
Hiến Chế Tín Lý
Về Giáo Hội
Lumen Gentium
Bản dịch Việt
Ngữ của Giáo Hoàng Học Viện Piô X
Prepared for
Internet by Vietnamese Missionaries in Asia
Chương VIII
Ðức Nữ
Trinh Maria Mẹ Thiên Chúa
Trong Mầu
Nhiệm Chúa Kitô
Và Giáo Hội
67*
I. Lời Mở Ðầu
52. Nhập đề.
68* Thiên Chúa là Ðấng vô cùng nhân hậu và khôn ngoan
đã muốn hoàn tất việc cứu chuộc thế giới, nên "khi đến thời viên
mãn, Ngài đã sai Con Mình đến, sinh bởi người nữ... để chúng ta
được nhận làm nghĩa tử" (Gal 4,4-5). "Vì loài người chúng ta và
để cứu rỗi chúng ta, Người đã từ trời xuống thế, bởi phép Chúa
Thánh Thần, Người đã nhập thể trong lòng Trinh Nữ Maria"
1. Mầu nhiệm cứu rỗi thần linh này được mạc khải cho
chúng ta và vẫn tiếp tục trong Giáo Hội, Giáo Hội mà Chúa đã lập
làm thân thể Người. Trong Giáo Hội ấy, liên kết với Chúa Kitô
Thủ Lãnh, và hiệp thông với toàn thể các Thánh Người, các tín
hữu cũng phải kính nhớ "trước hết đức Maria vinh hiển, trọn đời
Ðồng Trinh, Mẹ Thiên Chúa và Mẹ Chúa Giêsu Kitô, Chúa chúng ta"
2.
69*
53. Ðức
Maria và Giáo Hội. Thực vậy, khi sứ thần truyền
tin, Ðức Nữ Trinh Maria đã đón nhận Ngôi Lời Thiên Chúa trong
tâm hồn và thân xác, và đem sự sống đến cho thế gian. Ngài được
công nhận và tôn kính là Mẹ thật của Thiên Chúa và của Ðấng Cứu
Thế. Ðược cứu chuộc cách kỳ diệu hơn nhờ công nghiệp Con Ngài và
hiệp nhất mật thiết và bền chặt với Con, Ðức Maria đã lãnh nhận
sứ mệnh và vinh dự cao cả là được làm Mẹ Con Thiên Chúa, do đó
làm ái nữ của Chúa Cha và cung thánh của Chúa Thánh Thần. Nhờ
lãnh nhận ân sủng vô cùng cao quí này, Ngài đã trổi vượt mọi tạo
vật trên trời dưới đất. Nhưng đồng thời, vì thuộc dòng dõi Adam,
Ngài cũng liên kết với tất cả mọi người cần được cứu rỗi; hơn
nữa, "Ngài thật là Mẹ các chi thể (của Chúa Kitô)... vì đã cộng
tác trong đức ái để sinh ra các tín hữu trong Giáo Hội là những
chi thể của Ðầu ấy"
3. Vì thế, Ngài cũng được chào kính như chi thể của
Giáo Hội tối cao và độc nhất vô nhị, cũng như mẫu mực và gương
sáng phi thường của Giáo Hội trên phương diện đức tin và đức ái.
Và Giáo Hội Công Giáo, được Chúa Thánh Thần chỉ dạy, dâng lên
Ngài tình con thảo, như đối với một người Mẹ rất dấu yêu.
70*
54. Ý hướng
của Công Ðồng. Bởi thế, khi trình bày giáo lý về
Giáo Hội - trong Giáo Hội này, Chúa Cứu Thế thực hiện cuộc cứu
độ - Thánh Công Ðồng ân cần mong muốn làm sáng tỏ vai trò của
Ðức Nữ Trinh trong mầu nhiệm Ngôi Lời Nhập Thể và Nhiệm Thể,
cũng như làm sáng tỏ bổn phận những người được cứu chuộc đối với
Mẹ Thiên Chúa, là Mẹ Chúa Kitô và Mẹ nhân loại, cách riêng Mẹ
các tín hữu. Tuy nhiên, Công Ðồng không có ý đưa ra một học
thuyết đầy đủ về Ðức Maria và giải quyết các vấn đề mà sự nghiên
cứu của các nhà thần học chưa làm sáng tỏ trọn vẹn. Những ý kiến
được tự do trình bày trong các trường phái công giáo về Ðấng có
địa vị cao cả nhất trong Giáo Hội thánh sau Chúa Kitô, và cũng
là Ðấng rất gần chúng ta
4, những ý kiến ấy đều được duy trì cách hợp pháp
71*.
II.
Vai Trò Ðức Nữ Trinh Trong Nhiệm
Cuộc Cứu Rỗi
72*
55. Mẹ Ðấng
Cứu Thế trong Cựu Ước. Thánh Kinh, Cựu Ước cũng
như Tân Ước, và Thánh Truyền đáng kính, trình bày ngày một sáng
tò hơn vai trò của Mẹ Ðấng Cứu Thế trong nhiệm cuộc cứu rỗi và
đưa vai trò ấy ra cho chúng ta chiêm ngắm. Thực vậy, các sách
Cựu Ước thuật lại lịch sử cứu rỗi, trong đó ngày Chúa Kitô xuất
hiện trên thế giới được chuẩn bị cách tiệm tiến. Các tài liệu
tiên khởi này, như Giáo Hội vẫn đọc và về sau hiểu theo ánh sáng
mạc khải trọn vẹn, dần dần cho thấy rõ ràng hơn hình ảnh người
nữ, Mẹ Ðấng Cứu Thế. Theo ánh sáng mạc khải ấy, người nữ này đã
được phác họa trước trong lời hứa chiến thắng con rắn, lời hứa
mà Tổ Tông đã nhận được sau khi phạm tội (x. Stk 3,15). Cũng
thế, Ngài là Trinh Nữ sẽ thụ thai và sinh con trai tên là
Emmanuel (x. Is 7,14 so sánh với Mik 5,2-3; Mt 1,22-23). Ngài
trổi vượt trên các người khiêm hạ và khó nghèo của Chúa, là
những người tin tưởng, hy vọng và lãnh nhận ơn cứu độ nơi Chúa.
Cuối cùng, sau đêm dài mong đợi lời hứa được thực hiện, với
Ngài, người Thiếu Nữ cao sang của Sion, thời gian đã nên trọn và
Nhiệm Cuộc mới được thiết lập: khi Con Thiên Chúa mặc lấy bản
tính nhân loại nơi Ngài để giải thoát con người khỏi tội lỗi nhờ
các mầu nhiệm của thân xác Chúa.
73*
56. Ðức
Maria trong việc truyền tin. Nhưng Chúa Cha rất
nhân từ đã muốn sự ưng thuận của người mẹ được tiền định trước
khi Chúa Con nhập thể, để như một người nữ đã hợp tác cho sự
chết, thì cũng một người nữ hợp tác cho sự sống. Ðiều đó đặc
biệt thích hợp với Mẹ Chúa Giêsu, vì Ngài đem đến cho thế giới
chính Nguồn Sống cải tạo mọi sự, và đã được Chúa ban cho nhiều
ơn cân xứng với sứ mệnh cao cả như thế. Do đó, không có gì lạ,
nếu các Thánh Giáo Phụ đã thường xưng tụng Mẹ Thiên Chúa là Ðấng
toàn thánh, không vương nhiễm một tội nào, như một tạo vật mới
do Chúa Thánh Thần uốn nắn và tác thành
5. Tràn đầy thánh thiện, có một không hai ngay từ lúc
mới được thụ thai, Ðức Trinh Nữ thành Nazareth được Thiên Thần
vâng lệnh Chúa đến truyền tin và kính chào là "Ðấng đầy ân phúc"
(x. Lc 1,28). Và Trinh Nữ đã đáp lời Thiên Sứ rằng: "Này tôi là
Tôi Tá Chúa, xin hãy xảy ra cho tôi theo lời Ngài" (Lc 1,38).
Như thế, Ðức Maria, con cháu Adam, vì chấp nhận lời Thiên Chúa,
đã trở nên Mẹ Chúa Giêsu. Hết lòng đón lấy ý định cứu rỗi của
Thiên Chúa, vì không một tội nào ngăn trở Ngài, Ðức Maria đã tận
hiến làm tôi tớ Chúa, phục vụ cho thân thể và sự nghiệp của Con
Ngài, và nhờ ân sủng của Thiên Chúa toàn năng, phục vụ mầu nhiệm
cứu chuộc dưới quyền và cùng với Con Ngài. Bởi vậy, các Thánh
Giáo Phụ đã nghĩ rất đúng rằng: Thiên Chúa đã không thu dụng Ðức
Maria một cách thụ động, nhưng đã để Ngài tự do cộng tác vào
việc cứu rỗi nhân loại, nhờ lòng tin và sự vâng phục của Ngài.
Thực vậy, Thánh Ireneô nói: "Chính Ngài, nhờ vâng phục, đã trở
nên nguyên nhân cứu rỗi cho mình và cho toàn thể nhân loại"
6. Và cùng với thánh Ireneô còn có rất nhiều Thánh
Giáo Phụ thời xưa cũng không ngần ngại giảng dạy rằng: "Nút dây
đã bị thắt lại do sự bất tuân của Evà, nay được gỡ ra nhờ sự
vâng phục của Ðức Maria; điều mà trinh nữ Evà đã buộc lại bởi
cứng lòng tin, Ðức Trinh Nữ Maria đã tháo ra nhờ lòng tin
7; và so sánh với Evà, các ngài gọi Ðức Maria là "Mẹ
kẻ sống"
8, và thường quả quyết rằng: "bởi Evà đã có sự chết,
thì nhờ Maria lại được sống"
9.
74*
57. Ðức
Maria và thời thơ ấu Chúa Giêsu. Sự liên kết giữa
Mẹ và Con trong công cuộc cứu rỗi được tỏ rõ từ khi Ðức Maria
thụ thai Chúa Kitô cách trinh khiết cho đến lúc Chúa Kitô chết.
Thực vậy, trước hết, Ðức Maria vội vã đến thăm bà Elizabeth và
được bà ấy chào mừng là người có phúc vì đã tin vào sự cứu rỗi
Chúa đã hứa, trong lúc đó vị tiền hô nhảy trong lòng mẹ (x. Lc
1, 41-45). Rồi ngày sinh nhật, Mẹ Thiên Chúa đã vui mừng giới
thiệu với các mục đồng và các nhà bác học đứa Con đầu lòng của
mình, mà khi sinh ra đã không làm giảm bớt nhưng còn thánh hiến
sự trinh khiết toàn vẹn của Ngài
10. Trong đền thánh, sau khi hiến lễ vật ấn định cho
người nghèo, Ðức Maria dâng Con lên cho Thiên Chúa, và đã nghe
Simeon báo trước Con mình sẽ là dấu chỉ sự phản kháng, và một
lưỡi gươm sẽ đâm thấu lòng mẹ, nhờ đó tư tưởng trong lòng nhiều
người sẽ được bày tỏ (x. Lc 2, 34-35). Khi trẻ Giêsu lạc mất,
Cha Mẹ đã lo âu tìm kiếm và gặp lại Con trong đền thánh đang bận
tâm lo việc của Cha Người. Các Ngài không hiểu lời Con nói;
nhưng Mẹ Chúa Giêsu giữ lấy tất cả các điều ấy và suy gẫm trong
lòng (x. Lc 2, 41-51).
75*
58. Ðức
Maria và đời sống công khai Chúa Giêsu. Trong
cuộc đời công khai của Chúa Giêsu, Mẹ Người cũng đã xuất hiện rõ
ràng, và ngay từ đầu, trong tiệc cưới thành Cana xứ Galilêa, vì
động lòng thương xót, Ngài đã cầu bầu, khiến Chúa Giêsu, Ðấng
Thiên Sai, làm phép lạ đầu tiên của Người (x. Gio 2, 1-11).
Trong thời gian Chúa truyền đạo, Ðức Maria đã đón nhận lời của
Con Ngài, những lời nâng cao Nước Trời lên khỏi những lý do và
liên hệ huyết nhục, và tuyên bố là có phúc cho những ai nghe và
giữ lời Thiên Chúa (x. Mc 3,35 và song song; Lc 11,27-28) như
chính Ngài hằng thực hành những điều đó cách trung tín (x. Lc
2,19 và 51). Như thế Ðức Nữ Trinh cũng đã tiến bước trong cuộc
lữ hành đức tin, trung thành hiệp nhất với Con cho đến bên thập
giá, là nơi mà theo ý Thiên Chúa, Ngài đã đứng đó (x. Gio
19,25). Ðức Maria đã đau đớn chịu khổ cực với Con một của mình
và dự phần vào hy lễ của Con, với tấm lòng của một người mẹ hết
tình ưng thuận hiến tế lễ vật do lòng mình sinh ra. Và cuối cùng
chính Chúa Giêsu Kitô khi hấp hối trên thập giá đã trối Ngài làm
Mẹ của môn đệ qua lời này: "Thưa Bà, này là con Bà" (x. Gio
19,26-27)
11.
76*
59. Ðức
Maria sau khi Chúa lên trời. Vì Thiên Chúa không
muốn tỏ bày mầu nhiệm cứu rỗi nhân loại cách long trọng trước
khi Ngài đổ tràn Thánh Thần Chúa Kitô đã hứa, nên chúng ta thấy
các Tông Ðồ trước ngày Hiện Xuống "đã kiên tâm hiệp ý cầu
nguyện, cùng với các phụ nữ, với Ðức Maria, Mẹ Chúa Giêsu, và
với anh em Người" (CvTđ 1,14). Ðức Maria cũng tha thiết cầu xin
Thiên Chúa ban Thánh Thần, là Ðấng đã bao phủ lấy Ngài trong
ngày Truyền Tin. Sau cùng, được gìn giữ tinh sạch khỏi mọi vết
tội nguyên tổ
12, và sau khi hoàn tất cuộc đời dưới thế, Ðức Nữ
Trinh Vô Nhiễm đã được đưa lên hưởng vinh quang trên trời cả hồn
lẫn xác
13, và được Thiên Chúa tôn vinh làm Nữ Vương vũ trụ,
để nên giống Con Ngài trọn vẹn hơn, là Chúa các Chúa (x. Kh
19,16), Ðấng đã chiến thắng tội lỗi và sự chết
14.
77*
III. Ðức Nữ
Trinh Và Giáo Hội
78*
60. Ðức
Kitô, Ðấng trung gian độc nhất và Mẹ Maria.
79* Chúng ta chỉ có một Ðấng Trung Gian duy nhất, như
lời Thánh Tông Ðồ dạy: "Thực vậy, chỉ có một Thiên Chúa duy
nhất, và chỉ có một Ðấng Trung Gian duy nhất giữa Thiên Chúa với
nhân loại, đó là Chúa Giêsu Kitô, là Người, đã dâng mình làm giá
chuộc mọi người" (1Tm 2,5-6). Nhưng vai trò làm mẹ của Ðức Maria
đối với loài người không làm lu mờ hay giảm bớt vai trò trung
gian duy nhất của Chúa Kitô chút nào, trái lại còn làm sáng tỏ
mãnh lực của sự trung gian ấy. Vì mọi ảnh hưởng có sức cứu rỗi
của Ðức Nữ Trinh trên nhân loại không phát sinh từ một sự cần
thiết khách thể nào, nhưng từ ý định nhân lành của Thiên Chúa,
và bắt nguồn từ công nghiệp dư tràn của Chúa Kitô. Ảnh hưởng ấy
nương tựa và hoàn toàn tùy thuộc vào sự trung gian của Chúa
Kitô, nguồn mạch mọi quyền lực của ảnh hưởng đó. Nhưng ảnh hưởng
này không làm cản trở gì, trái lại còn giúp đỡ các tín hữu kết
hiệp trực tiếp với Chúa Kitô.
80*
61. Cộng tác
vào việc cứu chuộc. Từ muôn đời, Ðức Nữ Trinh đã
được tiền định làm Mẹ Thiên Chúa cùng một lúc với việc nhập thể
của Ngôi Lời Thiên Chúa. Và theo chương trình của Chúa Quan
Phòng, trên trần gian Ngài đã trở nên Mẹ cao trọng của Ðấng Cứu
Chuộc thần linh, và cách đặc biệt hơn mọi người khác, Ngài là
cộng sự viên quảng đại và tôi tá khiêm hạ của Chúa. Vì đã cưu
mang, sinh hạ và nuôi dưỡng Chúa Kitô, đã dâng Chúa Kitô lên
Chúa Cha trong đền thánh và cùng đau khổ với Con mình chết trên
thập giá, Ðức Maria đã cộng tác cách rất đặc biệt vào công trình
của Ðấng Cứu Thế, nhờ lòng vâng phục, nhờ đức tin, đức cậy và
đức ái nồng nhiệt, để tái lập sự sống siêu nhiên cho các linh
hồn. Bởi vậy, trên bình diện ân sủng, Ngài thật là Mẹ chúng ta.
81*
62. Vai trò
tùy thuộc trong việc cứu rỗi. Nhưng trong nhiệm
cuộc ân sủng, Ðức Maria luôn tiếp tục thiên chức làm mẹ, từ khi
Ngài tin tưởng ưng thuận trong ngày Truyền Tin - sự ưng thuận mà
Ngài đã không ngần ngại giữ vững bên thập giá - cho tới lúc vĩnh
viễn hoàn tất việc cứu rỗi mọi người được tuyển chọn. Thật vậy,
sau khi về trời, vai trò của Ngài trong việc cứu độ không chấm
dứt, nhưng Ngài vẫn tiếp tục liên lỉ cầu bầu để đem lại cho
chúng ta những ân huệ giúp chúng ta được phần rỗi đời đời
15. Với tình từ mẫu, Ngài chăm sóc những anh em của
Con Ngài đang lữ hành trên dương thế và đang gặp bao nguy hiểm,
thử thách, cho đến khi họ đạt tới hạnh phúc quê trời. Vì thế,
trong Giáo Hội, Ðức Nữ Trinh được kêu cầu qua các tước hiệu:
Trạng Sư, vị Bảo Trợ, Ðấng Phù Hộ và Ðấng Trung Gian
16. Tuy nhiên phải hiểu các tước hiệu ấy thế nào để
không thêm bớt gì vào vinh dự và quyền năng của Ðấng Trung Gian
duy nhất
17.
Thực vậy, không bao giờ có thể đặt một tạo
vật ngang hàng với Ngôi Lời nhập thể và cứu chuộc; nhưng cũng
như chức linh mục của Chúa Kitô được thông ban dưới nhiều hình
thức cho các thừa tác viên và các giáo dân, và cũng như sự tốt
lành duy nhất của Thiên Chúa được ban phát nhiều cách cho các
tạo vật, thì sự trung gian duy nhất của Ðấng Cứu Thế không những
không loại bỏ mà còn khuyến khích các thụ sinh cộng tác, trong
sự tùy thuộc vào nguồn mạch duy nhất.
Vai trò tùy thuộc ấy của Ðức Maria, Giáo
Hội không ngần ngại tuyên xưng, mà luôn nghiệm thấy, và nhắn nhủ
các tín hữu ghi nhớ trong lòng để nhờ sự nâng đỡ và phù hộ từ
mẫu của Ngài, họ gắn bó mật thiết hơn với Ðấng Trung Gian và Cứu
Thế.
82*
63. Maria
trinh nữ và người mẹ là mẫu mực của Giáo Hội.
83* Ðức Trinh Nữ nhờ ân huệ và sứ mệnh làm Mẹ Thiên
Chúa, nhờ đó Ngài được hiệp nhất với Con là Ðấng Cứu Chuộc, và
nhờ các ơn và nhiệm vụ đặc biệt khác, Ngài còn kết hiệp mật
thiết với Giáo Hội, như thánh Ambrosiô đã dạy, Mẹ Thiên Chúa là
mẫu mực của Giáo Hội trên bình diện đức tin, đức ái và hiệp nhất
hoàn hảo với Chúa Kitô
18. Thực vậy, trong mầu nhiệm Giáo Hội, chính Giáo Hội
cũng được gọi cách hợp pháp là Mẹ và Trinh Nữ, Ðức Nữ Trinh
Maria đi tiên phong, tỏ ra là một người mẹ và một trinh nữ gương
mẫu tuyệt vời và hiếm có
19. Vì, bởi lòng tin và vâng phục, Ngài đã sinh chính
Con Chúa Cha nơi trần gian, mà không hề biết đến người nam,
nhưng được Chúa Thánh Thần bao phủ. Như một Evà mới, Ngài đã đặt
niềm tin vào sứ giả của Thiên Chúa, chứ không đặt vào con rắn
xưa, một niềm tin không bị một nghi ngờ nào làm phai nhạt. Nhưng
Người Con mà Ngài đã sinh ra, Thiên Chúa đã đặt làm Trưởng Tử
trong nhiều anh em (x. Rm 8,29), nghĩa là các tín hữu, mà Ngài
cộng tác vào việc sinh hạ và giáo dục với tình thương của một
người mẹ.
84*
64. Giáo Hội
là trinh nữ và là mẹ. Tuy nhiên, khi chiêm ngưỡng
sự thánh thiện kỳ bí và noi gương đức ái của Ðức Maria, và khi
trung thành chu toàn thánh ý Chúa Cha, Giáo Hội cũng được làm mẹ
nhờ lời Thiên Chúa mà Giáo Hội trung thành lãnh nhận: thực vậy,
nhờ việc rao giảng và ban phép Thánh Tẩy, Giáo Hội sinh hạ những
người con được thụ thai bởi phép Chúa Thánh Thần và sinh ra do
Thiên Chúa để họ lãnh nhận một đời sống mới và bất diệt. Giáo
Hội cũng là trinh nữ đã giữ gìn toàn vẹn và tinh tuyền lòng
trung nghĩa đã hiến cho Phu Quân; và noi gương Mẹ Chúa mình, nhờ
thần lực của Thánh Thần, Giáo Hội bảo tồn cho tinh tuyền một đức
tin toàn vẹn, một đức cậy bền vững và một đức mến chân thành
20.
85*
65. Giáo Hội
phải bắt chước nhân đức của Mẹ Maria. Tuy nhiên,
Giáo Hội, qua con người của Ðức Nữ Trinh, đã đạt tới sự toàn
thiện làm cho mình nên thanh sạch và vẹn tuyền (x. Eph 5,27),
nhưng Kitô hữu vẫn còn phải cố gắng chiến thắng tội lỗi để tiến
trên đường thánh thiện. Vì thế, họ ngước mắt nhìn lên Ðức Maria
là một mẫu gương nhân đức sáng ngời cho toàn thể cộng đoàn những
người được chọn. Nhờ thành kính tưởng nhớ Ðức Maria và chiêm
ngưỡng Ngài dưới ánh sáng của Ngôi Lời nhập thể, Giáo Hội cung
kính tiến sâu hơn vào mầu nhiệm cao thẳm, tức là mầu nhiệm nhập
thể, và nên giống Phu Quân mình ngày một hơn. Thực vậy, Ðức
Maria đã mật thiết gắn liền với lịch sử cứu rỗi, và có thể nói
là Ngài đã qui tụ và phản chiếu nơi mình những đòi hỏi cao cả
nhất của đức tin, và khi các tín hữu nghe rao giảng về Ngài và
tôn sùng Ngài, họ được Ngài mời gọi đến kết hiệp với hy lễ của
Con Ngài và yêu mến Chúa Cha. Phần Giáo Hội càng tìm kiếm vinh
quang Chúa Kitô càng nên giống Khuôn Mẫu cao cả của mình, nhờ
luôn tiến tới trong đức tin, đức cậy, đức mến, và tìm kiếm cùng
vâng theo thánh ý Thiên Chúa trong mọi sự. Do đó, trong công
cuộc tông đồ, Giáo Hội có lý để nhìn lên Ðấng đã sinh Chúa Kitô
là người được thụ thai bởi phép Chúa Thánh Thần và được Ðức Nữ
Trinh sinh ra để, nhờ Giáo Hội, cũng sinh ra và lớn lên trong
lòng các tín hữu. Ðời sống của Ðức Nữ Trinh là một gương sáng
của tình mẫu tử thắm thiết. Tình mẫu tử ấy phải là động lực của
tất cả những ai cộng tác vào sứ mệnh tông đồ của Giáo Hội để tái
sinh nhân loại.
86*
____________
Chú thích
67*
Ðây là một trong những chương được tranh luận nhiều nhất. Việc
khai sinh ra nó cũng gây nhiều sôi nổi. Trong số những lược đồ
được đệ trình, có một lược đồ về Ðức Maria. Vì những lý do có
tính cách hoặc thần học hoặc mục vụ hoặc hiệp nhất, một vài Nghị
Phụ muốn cho lược đồ về Ðức Maria xen vào Hiến Chế Tín Lý về
Giáo Hội. Ngày 29-10-1963, các Nghị Phụ đứng trước một câu hỏi
như sau: "Các Nghị Phụ Công Ðồng có muốn lược đồ về Ðức Trinh Nữ
Mẹ Giáo Hội đổi thành chương cuối cùng của lược đồ về Giáo Hội
chăng?" Trước khi bỏ phiếu, có hai bản phúc trình chính thức về
vấn đề này: Hồng Y Konig, người muốn cho xen vào hiến chế, và
Hồng Y Santos muốn làm một lược đồ riêng. Cả hai dùng những luận
chứng dồi dào và vững chắc để trình bày trước các Nghị Phụ và sự
thích hợp của quan điểm mình. Kết quả cuộc đầu phiếu thật sát
nút: với 2,193 Nghị Phụ có mặt thì 1,114 vị bỏ phiếu thuận,
1,074 phiếu chống. Phiếu thuận chỉ hơn có 40 phiếu và Công Ðồng
chấp nhận việc xen lược đồ vào trong Hiến Chế.
Một vấn đề thứ hai được đặt ra: nếu xen thì
xen vào chỗ nào? Mẹ Thiên Chúa liên kết khắng khít với mầu nhiệm
Giáo Hội, nhưng muốn giải thích sự liên kết này, cần quan niệm
vai trò của Mẹ Thiên Chúa trong mầu nhiệm Ngôi Lời Nhập Thể. Ðối
với khía cạnh này, giáo lý về Ðức Maria vượt quá giáo lý về Giáo
Hội. Do đó chỉ có thể đặt vào phần cuối Hiến Chế. Ðấy là lý do
tại sao có chương VIII và vị trí của nó trong Hiến Chế.
Bố cục của chương này như sau: trong phần
nhập đề (các số 52-54), Công Ðồng xác định địa vị của Ðức Maria
trong Giáo Hội và những nguyên tắc giáo lý làm kim chỉ nam cho
việc trình bày về Ðức Maria. Ðồng thời Công Ðồng cũng cho biết
chủ đích của mình. Phần nhất (các số 55-59) giải thích địa vị
của Mẹ Thiên Chúa trong mầu nhiệm Ngôi Lời Nhập Thể. Phần hai
(các số 60-65) trình bày địa vị đó trong viễn tượng Giáo Hội,
nói lên những liên lạc của Ðức Maria với Giáo Hội. Phần ba (các
số 66-67) đề cập những bổn phận Kitô hữu đối với Ðức Maria. Phần
kết luận vắn tắt (các số 68-69) trình bày Mẹ Thiên Chúa như dấu
hiệu hy vọng và sự liên quan của Ngài với việc hiệp nhất các
Kitô hữu.
68*
Các số 52-54: Nhập đề.
Các số này thống nhất với nhau (trong lần
soạn thảo đầu chúng ở trong cùng một số) có mục đích trình bày
đối tượng của chương VIII. Ý tưởng chính rất đơn giản: mạc khải
đã minh nhiên làm nổi bật địa vị của Mẹ Thiên Chúa, trong ý định
cứu rỗi từ đời đời của Chúa, trong sự thực hiện ý định ấy do
Chúa Giêsu Kitô, bởi vì có sự liên tục (chương VII) giữa công
việc dưới đất và công việc trên trời của Chúa Kitô và ngày nay
Ðức Mẹ cũng vẫn còn giữ nguyên địa vị này (số 52). Maria là phần
tử đặc biệt và là khuôn mẫu Giáo Hội (số 53). Chủ đích của Công
Ðồng là: trình bày vai trò của Mẹ Thiên Chúa trong mầu nhiệm
Chúa Kitô và Giáo Hội và những bổn phận của Kitô hữu đối với Mẹ
(số 54).
1
Kinh tin kính của CÐ Constantinopla: Mansi 3, 566. Xem CÐ
Ephesô, n.v.t., 4, 1130 (và n.v.t., 2, 665 và 4, 1071). Xem CÐ
Calcedonia, n.v.t., 7, 111-116. CÐ Constantinopla II n.v.t., 9,
375-396. Sách lễ Roma, kinh tin kính.
2
Sách lễ Roma, lễ qui.
69*
Số 52.
Việc cứu thế được thực hiện nhờ Thiên Chúa
đã gửi Con Ngài đến, sinh bởi người nữ. Ðó là nền tảng của cả
khoa Thánh Mẫu học. Ðức Nữ Ðồng Trinh Maria liên kết mật thiết
với việc Nhập Thể Cứu Chuộc đó.
3 T.
Augustinô, De S. Virginitate, 6 : PL 40, 399.
70*
Số 53.
Số này đặt Mẹ Chúa Kitô Cứu Thế trong tương
quan với Giáo Hội. Ðầu tiên là quả quyết Ðức Maria đã tự ý chấp
nhận lời thiên thần báo tin sẽ sinh Ðấng Cứu Thế. Câu chuyện báo
tin được đặt nổi bật. Sau đó Công Ðồng nghiên cứu sâu xa những
mối liên hệ giữa Maria và Ba Ngôi Thiên Chúa trong viễn tượng
Giáo Hội theo một đề tài quen thuộc với Hiến Chế như đề tài Giáo
Hội từ mầu nhiệm Ba Ngôi. Vì trách vụ được Chúa trao phó nên Mẹ
được cứu chuộc kỳ diệu hơn, do công nghiệp Con Mẹ, Ðấng mà Mẹ đã
kết hiệp mật thiết và bền chặt. Trong chiều hướng ấy, Công Ðồng
không ngần ngại liên tiếp trình bày Ðức Trinh Nữ như là Mẹ của
Con Thiên Chúa, là ái nữ của Chúa Cha, là cung thánh của Chúa
Thánh Thần. Cả ba danh hiệu hoàn toàn theo truyền thống. Nhưng
tâm điểm của số này ở chỗ Công Ðồng quả quyết rằng Maria vừa có
các danh hiệu đó, nhưng đồng thời, vì thuộc dòng dõi Adam, Mẹ
cũng liên kết với tất cả mọi người, và Mẹ đã cộng tác vào công
việc cứu thế. Do đó, Mẹ Chúa Kitô vẫn là phần tử Giáo Hội, dù là
phần tử tuyệt hảo và đặc biệt, một trật cũng là khuôn mẫu của
Giáo Hội. Bởi vậy Giáo Hội tôn kính Mẹ như Mẹ thật với tình con
thảo.
4
Xem Phaolô VI, Diễn văn trong Công Ðồng, ngày 4-12-1963 : AAS 56
(1964), trg 37.
71*
Số 54.
Công Ðồng giải thích vắn tắt về vai trò Ðức
Maria trong mầu nhiệm cứu rỗi và về các bổn phận của tín hữu đối
với Mẹ. Công Ðồng tự giới hạn trong viễn tượng này chứ không
nhằm trình bày đầy đủ giáo lý về Ðức Maria, cũng không nhằm giải
quyết các vấn đề mà các nhà thần học tranh luận.
72*
Các số 55-59: Phần I - Ðịa vị và vai trò của Ðức Maria trong
nhiệm cuộc cứu rỗi.
Bố cục phần này rất rõ ràng, vì dựa theo
các dữ kiện lịch sử mạc khải về Mẹ Thiên Chúa trong Thánh Kinh,
bắt đầu từ Cựu Ước tới thời kỳ Giáo Hội, qua sự kiện truyền tin,
tới cuộc đời thơ ấu và công khai của Chúa Giêsu. Cứ như bản phúc
trình chính thức đã nói, đây là phần chính yếu nhất trong Chương
VIII.
73*
Số 55: Trong Cựu Ước.
Thứ tự của số này theo sát lịch sử cứu rỗi
như thấy trong Cựu Ước, để chúng ta thấy rằng người phụ nữ làm
Mẹ Chúa Kitô trong Phúc Âm cũng là Mẹ Thiên Chúa mà chúng ta
nhận biết qua thần học và qua việc tôn kính nơi các dân Kitô
giáo. Như thế là Công Ðồng cho biết sự tiến triển của mạc khải
về Ðức Maria và không ngần ngại chấp thuận phương pháp lịch sử
cứu rỗi, một phương pháp mà một số người chuyên về Thánh Mẫu học
không mấy tin tưởng. Không muốn gây ra cuộc bút chiến, nên Công
Ðồng chỉ nhằm trình bày một "bản tiểu sử" về người Phụ Nữ, dựa
trên toàn thể chứng từ được linh ứng của Mạc Khải trọn vẹn và
trên chứng từ của đời sống Giáo Hội.
5
Xem T. Germanô, Const. Hom. in Annunt. Deiparae: PG 98, 328 A;
In Dorm. 2: 357 Anatasiô thành Antiokia, Serm. 2 de Annunt. 2:
PG 89, 1377 AB: Serm. 3, 2 : 1388 C. T. Anrê Cret., Can. in B.V.
Nat. 4 : PG 97, 1321 B; in B.V. Nat. 1: 812 A; Hom. in dorm. 1:
1068 C. T. Sophroniô, Or. 2 in Annunt. 18: PG 87 (3), 3237 BD.
6 T.
Ireneô, Adv. Haer. III, 22, 4: PG 7, 959 A; Harvey 2, 123.
7 T.
Ireneô, n.v.t., Harvey, 2, 124.
8 T.
Epiphaniô, Haer. 78, 18 : PG 42, 728 CD-729 AB.
9 T.
Hieronimô, Epist. 22, 21: PL 22, 408. Xem T. Augustinô, Serm.
51, 2, 3 : PL 38, 335; Serm. 232, 2: 1108. T. Cyrillô Jerusalem.
Catech., 12, 15: PG 33, 741, AB. T. Gioan Kim Khẩu, In Ps. 44,
7: PG 55, 193. T. Gio Damascenô, Hom. 2 in dorm. BMV. 3: PG 96,
728.
74*
Số 56: Truyền tin.
Công Ðồng theo vết các Giáo Phụ, coi câu
chuyện truyền tin rất quan trọng, vì nhìn thấy ở đó thái độ căn
bản của mọi Kitô hữu. Giáo Hội thuở đầu đã bày tỏ lòng tin của
họ vào thái độ chấp nhận này của Ðức Maria, vì là kết quả của
đức tin và tình yêu của Mẹ. "Chấp nhận" không những là tiếng nói
then chốt trong cả câu chuyện nhưng đồng thời còn là tiếng nói
lược tóm tất cả viễn ảnh đời sống của Kitô hữu: ưng thuận khi
Chúa đến và để ý định cứu rỗi hoàn tất trong ta, vừa biết quảng
đại phục vụ cho công cuộc cứu thế; cũng như Ðứa Maria, chúng ta
tích cực cộng tác mà không tự mãn, và qua việc chấp nhận ấy, ân
sủng đem lại sự sống: trong Chúa Kitô, Ðức Maria đã ban cho thế
giới Nguồn Sống đổi mới mọi sự.
10
Xem CÐ Lateranô, năm 649, đ. th. 3: Mansi 10, 1151. T. Leô Cả,
Epist. ad Flav.: PL 54. 759. CÐ Calcedonia: Mansi 7, 462. T.
Ambrosiô, De inst. Virg.: PL 16, 320.
75*
Số 57: Ðức Maria và cuộc đời thơ ấu Chúa Giêsu.
Câu đầu tiên của số này nêu lên ý tưởng chỉ
dẫn: Ðức Maria liên kết với Chúa Con trong công cuộc cứu thế từ
lúc thụ thai Chúa Giêsu mà vẫn đồng trinh cho tới mầu nhiệm cuộc
tử nạn của Chúa. Công Ðồng trình bày chân lý này rõ ràng hơn bao
giờ hết. Chủ đề trở lại ba lần: lần Ðức Maria đi thăm bà
Elizabeth, lần sinh Chúa ở Bêlem và lần dâng Chúa trong đền thờ.
Câu chuyện tìm thấy Chúa trong đền thờ giúp chúng ta hiểu rõ hơn
về sự liên kết ấy.
11
Xem Piô XII, Tđ. Mystici Corporis, 29-6-1943: AAS 35 (1943), trg
247-248.
76*
Số 58: Ðức Maria và cuộc đời công khai của Chúa Giêsu.
Một cách vắn tắt, Công Ðồng đóng khung hoạt
động của Ðức Maria trong cuộc đời công khai của Chúa, vì theo
thánh Gioan, lúc khởi đầu và kết thúc sứ vụ công khai đều có sự
hiện diện của Ðức Maria. Trong hai lúc này Ðức Maria mới chỉ
được gọi là "Bà". Ðó là lúc ở tiệc cưới Cana và khi đứng dưới
chân Thánh Giá. Hai lời Chúa nói xem ra như hất hủi Ðức Maria.
Việc can thiệp của Ðức Maria có nhiều ý nghĩa, nhưng lại nằm
trong văn mạch mới đầu có thể coi là kỳ lạ. Ý tưởng chính là:
Nước Thiên Chúa vượt quá mọi mối liên hệ xác thịt và hoàn toàn ở
trên sự tính toán của con người. Câu chính trong số này trình
bày một ý tưởng ít quen thuộc hơn: Ðức Maria cũng tiến tới trong
cuộc hành trình Ðức Tin qua đau khổ và u tối.
12
Xem Piô IX, sắc chỉ Ineffabilis, 8-12-1854 : văn kiện của Ðức
Piô IX, 1, I, trg 616; Dz 1641 (2803).
13
Xem Piô XII, Tông hiến Munificentissimus, 1-11-1950: AAS 42
(1950); Dz 2333 (3903). Xem T. Gio Damascenô, Enc. in dorm. Dei
Genitricis, bài giảng 2 và 3: PG 96, 721-761. nhất là cột 728B.
T. Germanô Constantinopla, In S. Dei gen. Dorm. bài giảng 1: PG
98 (6); 340-348; bài giảng 3: cột 361. T. Modestô Jerusalem, In
dorm. SS. Deiparae: PG 86 (2) 3277-3312.
14
Xem Piô XII, Tđ. Ad caeli Reginam, 11-10-1954: AAS 46 (1954),
trg 633-636; Dz 3913tt. Xem T. Anrê Gret., Hom. 3 in dorm. SS.
Deiparae: PG 97, 1089-1109. T. Gioan Damascenô, De fide orth.,
IV, 14: PG 94, 1153-1161.
77*
Số 59: Ðức Maria sau khi Chúa lên trời.
Có hai vấn đề nói ở đây: 1) Lời cầu nguyện
của Ðức Maria trước lễ Hiện Xuống cùng với các Tông Ðồ, các phụ
nữ và các anh em Chúa. Ðức Maria ở giữa dân chúng chứ không ở
trong số những người điều khiển cộng đoàn. Mẹ tham dự vào kinh
nguyện chung. Mẹ thuộc thành phần Giáo Hội cầu nguyện đang chuẩn
bị thi hành sứ mệnh của mình, và Mẹ cầu nguyện với tước hiệu duy
nhất là Mẹ Chúa Giêsu (CvTđ 1,14). 2) Công Ðồng tái xác nhận hai
tín điều đã được Giáo Hội tuyên bố khi lập lại những lời của các
câu định tín liên hệ. Hai tín điều này có liên quan mật thiết
với nhau. Ðức Maria được suy tôn làm Nữ Vương của vũ trụ, để trở
nên giống với Con Mẹ là Chúa các Chúa một cách hoàn toàn hợn, và
được suy tôn là Ðấng chiến thắng tội lỗi và sự chết.
78*
Các số 60-65: Phần II - Sự liên lạc giữa Mẹ Thiên Chúa và Giáo
Hội.
Phần này trực tiếp bàn về sự liên lạc giữa
Ðức Maria và Giáo Hội. Trước hết, Công Ðồng nhấn mạnh tới sự
đồng công cứu chuộc của Ðức Maria do sự tự ý chấp thuận việc
Nhập Thể của Con Thiên Chúa, do việc dâng hy tế trên Thánh giá
và do việc cầu bầu liên lỉ trên trời. Trong văn mạch này, giữa
những tước hiệu khác nhau Công Ðồng đề cập đến tước hiệu Ðấng
Trung Gian. Một số người trong Ủy ban thần học chưa nhìn thấy rõ
tước hiệu này nên Công Ðồng giải thích cho biết tước hiệu này
vẫn không làm lu mờ sự tuyệt hảo Ðấng Trung Gian duy nhất là
Chúa Kitô (các số 60-62). Sau đó (trong các số 63-64) Công Ðồng
giải thích lý do khiến Ðức Maria, là Trinh Nữ và là Mẹ, lại là
hình bóng của Giáo Hội. Giáo lý này có tầm quan trọng đặc biệt,
vì Công Ðồng rất lưu tâm đến những khía cạnh trổi vượt của mầu
nhiệm Giáo Hội. Sau cùng (số 65), Ðức Maria được coi như gương
mẫu các nhân đức.
79*
Các số 60-62: Ðức Maria trong công trình cứu chuộc.
80*
Số 60: Những nguyên tắc giáo lý.
Số này tóm lược các nguyên tắc giáo lý và
chỉ dẫn cho biết giáo lý trình bày trong những số kế tiếp phải
được hiểu theo những nguyên tắc này. Mọi nỗ lực và hành động của
Ðức Maria đều do vị Trung Gian duy nhất là Chúa Kitô, Ðấng đã
muốn cho Ðức Maria cộng tác vào công trình cứu chuộc. Sự trung
gian của Ðức Maria biểu lộ rõ rệt hơn và còn giúp cho sự trung
gian của Chúa Kitô nữa. Chỉ vì ý muốn hoàn toàn nhưng không của
Thiên Chúa nhân từ và quyền năng, Ðấng Cứu Thế đã thông truyền
ảnh hưởng cứu rỗi cho các chi thể và đặc biệt cho Mẹ Người, là
Ðấng ngay từ đầu đã cộng tác với Người và với công việc Người.
Ðó chính là nguyên tắc của kế hoạch cứu rỗi hay nguyên tắc ban
phát đời sống thần linh. Giáo Hội sẽ trở nên bí tích để ban phát
đời sống đó. Còn Ðức Maria, là chi thể trổi vượt đầu tiên, sẽ là
khuôn mẫu cho Giáo Hội.
81*
Số 61: Trong cuộc đời trần gian.
Số này nói rất vắn tắt đến trọng tâm việc
cộng tác của Ðức Maria. Là mẹ Thiên Chúa, là tôi tớ khiêm hạ của
Chúa, Mẹ là cộng sự viên quảng đại của Ðấng Cứu Thế và là Mẹ
chúng ta trên bình diện ân sủng. Bản văn theo sát với sự thể
hiện của nhiệm vụ này. Nhờ hoàn toàn sẵn sàng tuân theo ý Chúa,
Ðức Trinh Nữ đã mang thai Chúa Giêsu, Ðấng sẽ xóa hết tội lỗi
Dân Người. Ðức Maria đã sinh con và đã nuôi nấng. Mẹ đã dâng Con
cho Chúa Cha trong Ðền Thánh, đã đau khổ với cái chết của Con
trên Thánh Giá. Mẹ đã cụ thể hóa việc cộng tác tuyệt đối duy
nhất này trong sự tuân phục vô điều kiện, sự tuân phục thấm
nhuần đức tin, đức cậy và đức mến hăng nồng. Sự trung thành của
Mẹ trong việc chấp thuận chương trình cứu rỗi là then chốt cho
việc quảng diễn các ý tưởng khác (x. các số 53, 56, 63 và 64).
15
Xem Kleutgen, ch. IV bản đã sửa: De Mysterio Verbi incarnati:
Mansi 53, 290. Xem T. Anrê Gret. In nat. Mariae, bài giảng 4: PG
97, 865A. T. Germanô Constantinopla, In annunt., Deiparae: PG
98, 321 BC; In dorm. Deiparae III, 361D. T. Gio Damascenô, In
dorm. BV. Mariae, bài giảng 1, 8 : PG 90, 712BC-713A.
16
Xem Leô XIII, Tđ. Adjutricem populi, 5-9-1895: ASS 28 (1895-96),
trg 229. T. Piô X, Tđ. Ad diem illum, 2-2-1904, văn kiện I, trg
154; Dz 1978a (3370). Piô XI, Tđ. Miserentissimus, 8-5-1928: AAS
20 (1929), trg 178. Piô XII, sứ điệp truyền thanh, 13-5-1946:
AAS 38 (1946), trg 266.
17
Xem T. Ambrosiô, Epist. 63 : PL 16, 1218.
82*
Số 62: Trên trời.
Là Mẹ ban ân sủng, ở trên trời Ðức Maria
tiếp tục một địa vị khác trong công trình cứu rỗi. Tình mẫu tử
của Mẹ tiếp tục hoạt động. Chắc chắn Mẹ không ban phát ân sủng
riêng, nhưng là ân sủng Chúa Kitô, vì không có ân sủng nào khác.
Sứ mệnh của Ðức Maria là liên kết Chúa Kitô với những phần tử
làm thành Giáo Hội. Ðó là ý nghĩa của tiếng Maria, Mẹ đầy ơn. Mẹ
thực hiện sứ mệnh qua việc bầu cử cho nhân loại. Do đó, mà Giáo
Hội gọi Mẹ bằng các danh hiệu: Ðấng Bảo Vệ, Ðấng Phù Trợ, Ðức Mẹ
Hằng Cứu Giúp, Ðấng Trung Gian. Các nhà thần học tranh luận về ý
nghĩa gán cho các tước hiệu ấy, nhất là tước hiệu sau cùng. Công
Ðồng không muốn giải quyết cuộc tranh luận, nhưng chỉ quả quyết
một thực tại hoàn toàn được toàn thể Giáo Hội chấp nhận, mà
không bận tâm đến những điều xác định rõ rệt có tính cách kỹ
thuật. Công Ðồng cũng nói thêm là tước hiệu này không làm mất
cũng không thêm thắt gì vào địa vị và hành động của Chúa Kitô,
Ðấng Trung Gian duy nhất, vì không tạo vật nào có thể đóng vai
trò trên cùng một bình diện như Chúa Cứu Thế.
83*
Các số 63-64: Ðức Maria là mẫu mực Giáo Hội.
Tính cách song đối giữa Ðức Maria và Giáo
Hội đưa ra một chủ đề hoàn toàn mới mẻ trong khoa thần học hiện
thời. Quả thực được liên kết với Con mình trong công trình cứu
chuộc, Ðức Trinh Nữ Maria đã vượt trên mọi người khác và trở nên
mẫu mực Giáo Hội. Ðó chính là một phần tử trong nhóm đang hình
thành, gây ảnh hưởng trên người khác, lôi cuốn và làm gương cho
họ. Ở đây Công Ðồng khai triển vắn tắt chủ đề này về Ðức Maria
là hình bóng Giáo Hội, không phải hình bóng hay mẫu mực theo
nghĩa thiết lập phẩm trật hay bí tích, nhưng như người cổ xúy
đời sống thiêng liêng trong đó sự đồng trinh nẩy nở thành tình
mẫu tử.
18
Xem T. Ambrosiô, Expos. Lc II. 7; PL 15, 1555.
19
Xem Phêrô Dam. Giả, Serm. 63: PL 144, 861 AB. Godefridus a S.
Victore, in nat. BM., Ms. Paris, Mazarine, 1002, tờ 109c.
Gerhohus Reich., De gloria et honore Filii hominis, 10 : PL 194,
1105 AB.
84*
Số 63: Ðức Maria là mẫu mực Giáo Hội, như một Trinh Nữ và một
người Mẹ.
Trước hết là đức đồng trinh, nhưng hiểu
theo chiều hướng thiêng liêng. Nó hệ tại đức tin và đức cậy nhờ
đó Ðức Maria đã sinh Con Chúa do quyền phép Chúa Thánh Thần mà
không có sự liên lạc xác thịt nào với người nam, và như vậy đã
trở thành người Mẹ. Ðức Maria đã thụ thai Ngôi Lời trong tâm hồn
trước khi thụ thai trong lòng. Ðức đồng trinh tương quan với sự
chấp thuận bất khả khuyết của đức tin. Ðức Maria đi trước Giáo
Hội ở điểm này; chính do Mẹ mà Chúa Kitô được sinh ra, Ðấng sẽ
làm cho Giáo Hội thành thân thể của Người.
20
Xem Ambrosiô, Expos. Lc.II,7 và X,24-25; PL 15, 1555 và 1810. T.
Augustinô, In Jo Tr. 13,12: PL 35, 1499. Xem Serm. 191, 2,3: PL
38, 1010; v.v... Cũng xem chân phước Beda, In Lc. Expos. I, ch.
2 : PL 92, 330. Isaac de Stella, Serm. 51: PL 194, 1863A.
85*
Số 64: Giáo Hội là Mẹ và là Trinh Nữ.
Hình thức song đối đã nói trên kết thúc ở
đây: tính cách làm Mẹ đồng trinh của Ðức Maria chính là bí tích,
dấu hiệu hoặc hình ảnh của Giáo Hội đồng trinh, cũng thụ thai và
sinh dưỡng các con cái mình. Tính cách làm mẹ của Giáo Hội, noi
theo Ðức Maria, là việc đón nhận Lời Chúa trong tâm hồn. Ðón
nhận có nghĩa là thực hành. Như thế Giáo Hội trở thành mẹ của
một cuộc sống bất tử, nhờ Thần Khí của việc sáng tạo mới. Sự
đồng trinh của Giáo Hội - là điều kiện để sinh nhiều con cái -
hệ tại việc trung thành thực thi các nhân đức đối thần, theo
gương Ðức Maria và nhờ sức mạnh Chúa Thánh Thần.
86*
Số 65: Giáo Hội và việc noi theo các nhân đức của Ðức Maria.
Ở đây, Công Ðồng trình bày Ðức Maria như
gương mẫu các nhân đức mà Giáo Hội phải noi theo. Việc kính nhớ
Mẹ Thiên Chúa làm cho tín hữu thâm hiểu mầu nhiệm Nhập Thể hơn
vì có nhiều khía cạnh của mầu nhiệm này biểu hiện nơi Mẹ Thiên
Chúa. Ngay từ thời xa xưa, Giáo Hội đã cầu khẩn với Ðức Maria,
nhờ thế mà Giáo Hội tiến tới trên con đường đức tin và trên
đường sứ mệnh tông đồ, trở nên giống với mẫu mực của mình hơn.
|
VỀ MỤC LỤC |
|
NẾN CHÁY
|
Jorathe Nắng Tím
Giây
phút lung linh phấn khởi và cảm động ấm lòng nhất với tôi trong
đêm vọng Phục Sinh là lúc lửa từ cây nến lớn Phục Sinh được
chuyền đến các cây nến nhỏ trên tay mọi người. Lửa Phục Sinh
bừng cháy, sáng rực nhà thờ, rạng rỡ từng khuôn mặt, ấm áp mọi
tâm hồn. Lửa Phục Sinh nhẩy nhót mừng vui trên đôi mi chớp nhanh
vừa quen ánh sáng, trên đôi tay gầy xương xẩu của tuổi già,
trên má hồng au đỏ rạng rỡ muà tình yêu. Lửa Phục Sinh xua khỏi
nhà thờ màn đêm ảm đạm như đuổi đêm tối lạnh lùng ra khỏi lòng
ai băng giá. Lửa cho ánh sáng tràn đầy, Lửa cho niềm vui chan
chứa, Lửa cho tình yêu rạo rực, Lửa trả về sự sống nguyên vẹn
sau những ngày buồn, tang chế.
Nến
cháy và sáng lên từ người này đến người kia, từ hàng ghế trước
đến hàng ghế sau cho đến khi tất cả đều cháy sáng, tất cả đều
rực sáng, tất cả đều rạo rực một niềm vui được chiếu sáng. Đêm
nay có nến sáng, không chỉ sáng trên bàn thờ, dưới chân Thánh
Giá, bên tượng Đức Mẹ, không chỉ sáng những cây nến có phúc
được đốt dưới chân các Thánh, trên cung thánh, nhưng nến sáng
trên tay mọi người, nến sáng trong tim từng người, nến sáng ngay
trong cuộc đời mỗi người.
Cử
chỉ chuyển lửa Phục Sinh cho nhau, đốt nến cho nhau, trao ánh
sáng cho nhau trong đêm Phục Sinh là một hình ảnh tuyệt đẹp.
Tuyệt đẹp vì ý nghiã hợp nhất, chia sẻ, cộng đòan của ánh sáng
Đức Kitô Phục Sinh. Tuyệt đẹp vì nói lên mối liên quan mật thiết
giữa các chi thể của thân thể Đức Kitô sống lại. Tuyệt đẹp vì
hình ảnh hiệp thông trong Đức Tin, Đức Ái và niềm Hy Vọng của
mọi thành phần trong Giáo Hội.
Đêm
nay, tất cả đều có nến trong tay, những ngọn nến được đốt sáng
từ lửa phục sinh, từ cây nến lớn là Đức Kitô, ánh sáng muôn dân.
Chung một ánh sáng, chung một lửa yêu thương như chung một phép
rửa, mọi tín hữu thấy mình cùng thuộc về Đức Kitô, thuộc về Giáo
Hội và thuộc về nhau.
Người
ta sẽ không đốt nến một mình, giữ nến một mình nhưng chia sẻ ánh
sáng, chung hưởng ánh sáng, truyền cho nhau ánh sáng để ánh sáng
rực rỡ, huy hoàng, rạng ngời hơn. Người ta không đốt nến rồi
dấu dưới gầm giường hay lấy thùng đậy lại, nhưng giơ cao, đặt
trên bàn cho ánh sáng tỏa lan, cho ánh sáng chan hoà . Nến sáng
không còn là sở hữu của một người, nhưng là gia tài chung của cả
nhân loại mà càng chia sẻ, trao ban, gia tài ấy càng sinh sôi
nẩy nở…
Đêm
nay, nến sáng được ân cần trao tay nhau đã xóa tan bóng tối ngăn
cách và làm cho nhau nhận ra dung mạo dễ thương « con Chúa, anh
em của nhau ». Mục đích của bóng tối là ngăn cách, chia rẽ, phá
hoại. Như bức tường giữa con người với con người, bóng tối đã
không cho con người nhận diện đúng đắn về nhau, không cho sự
thật của nhau được tôn trọng, không cho diện mạo, giá trị của
nhau được trân qúy, không cho niềm vui của nhau đuợc trọn vẹn,
không cho đời sống của nhau được an bình.
Bóng
tối như tên phá hoại lợi dụng ánh sáng vắng mặt để gieo ngờ vực,
thù hận, ganh ghét và dựng những hàng rào chia cách, cô lập, tạo
những vùng cấm, bất khả xâm phạm, làm nên những biên giới, lằn
ranh không được vượt qua trong cộng đồng nhân loại. Bản chất
bóng tối không nối kết, hiệp thông nhưng biến con người thành kẻ
thù, đối phương của nhau bằng gây hiểu lầm, bất hoà, đố kỵ.
Ánh
sáng được ân cần chuyền tay nhau đêm nay là hình ảnh mọi nguời
cùng tự nguyện xua đuồi bóng tối, cùng góp sức đạp đổ bức tường,
cùng chung lòng xóa biên giới, hàng rào để nhờ ánh sáng, mọi
người nhìn thấy nhau, hiểu nhau, bỏ qua cho nhau những hiểu lầm,
thứ tha cho nhau những lầm lỗi phần lớn vì tối qúa đã không nhìn
ra. Ánh sáng được âu yếm trao tay nhau đêm nay sẽ làm cho lòng
nhau ấm lại sau những tháng năm dài lạnh lẽo, hiu quạnh vì đời
bị cô lập bởi những bức tường bóng tối nghi kỵ. Ánh sáng được
vui vẻ trao tay nhau đêm nay cũng làm rung động những trái tim
tưởng đã khô cằn, vô cảm nhờ sức hồi sinh, truyền cảm của ánh
sáng.
Đêm
nay thật đẹp trong ánh sáng chứa chan tình Chúa, tình người. Đêm
hồng ân, đêm hạnh phúc khi con người được ánh sáng Đức Kitô phục
sinh giao hoà : Thiên Chúa giao hoà với con người và con người
tìm về nhận diện, gặp gỡ, thông cảm nhau.
Đức
Kitô là ánh sáng giải phóng con người khỏi những nhà tù của thù
hận, ích kỷ, bon chen ; là ánh sáng làm sụp đổ những bức tường
ô nhục của vong thân, phản bội ; là ánh sáng tiêu diệt bóng đêm
tội lỗi đã biến con người thành nô lệ ; là ánh sáng kéo con
người ra khỏi bóng tối lầm lạc, nghi nan, tuyệt vọng.
Ngài
không là ánh sáng làm chói mắt, không là ánh sáng xoi mói, lột
trần, không là ánh sáng thiêu đốt, trừng phạt ; nhưng là ánh
sáng êm dịu cứu chữa, ánh sáng nhẹ nhàng cảm thông, ánh sáng
hiền lành che chở, ánh sáng nhân từ thứ tha, ánh sáng khiêm hạ ở
gần. Ánh sáng Đức Kitô Phục Sinh mang ngây thơ, vô tội của tình
yêu chết cho người mình yêu. Ánh sáng Đức Kitô nhuộm sắc máu
của « tình yêu đến cùng » trên Thánh Giá. Ánh sáng Đức Kitô lấp
lánh lòng thương xót của tình Cha nhân hậu. Ánh sáng Đức Kitô
lắng đọng hào quang của một tấm lòng chỉ biết chạnh lòng bao
dung.
Ánh
sáng ấy không tiêu diệt con người cùng với tội lỗi, nhưng tách
tội lỗi khỏi con người, nên bất cứ ở đâu và mãi mãi, tội nhân
vẫn được lòng xót thương mời gọi. Ánh sáng ấy biết hậu qủa tai
hại của tội , nhưng cũng biết giá trị con người cao qúy đến độ
không gì có thể thay thế. Ánh sáng ấy nhìn ra từng hoàn cảnh của
con người yếu đuối để giảm khinh, thương xót ; nhìn từng kẽ hở
của thân phận tội lụy để cảm thương, bênh vực ; nhìn thấu từng
đường tơ cọng chỉ của tâm tình sâu kín để chia sẻ, ủi an. Ánh
sáng ấy cũng nhìn cặn kẽ từng góc cạnh của đường đời người lữ
khách không luôn trung thành, bền bỉ để không lớn tiếng nặng lời
trách móc, nhưng đằm thắm nhắc nhở, chỉ bảo, khuyên răn.
Ánh
sáng Đức Kitô đem lại ơn cứu độ, ơn giải phóng, ơn làm người, ơn
làm con Thiên Chúa. Ánh sáng trả lại tự do trong tình yêu, tự do
trong tư tưởng, tự do trong đời sống của con người đã một lần
trót đánh mất khi rơi vào tình trạng nô lệ. Tội là bóng tối
biến con người thành nô lệ, làm con người mù loà, vấp ngã. Tội
là bóng đêm làm con người chao đảo, ngã qụy. Chỉ có ánh sáng
mới xua đuổi được tòan bộ bóng tối và sẽ không còn tối khi ánh
sáng ùa vào, không còn góc tối khi ánh sáng tràn lan, không còn
khoảng tối khi ánh sáng ngự trị, không còn mảng tối khi ánh sáng
ghé thăm, không còn đêm tối khi bình minh Phục Sinh ló dạng.
Đức Kitô phục sinh là ánh sáng chiến thắng bóng tối, ánh sáng
của sự sống chiến thắng bóng đêm tử thần, ánh sáng tình yêu tiêu
diệt đêm đen thù hận, ánh sáng hy vọng xóa bỏ màn đêm tuyệt
vọng, ánh sáng an bình phá tan đêm tối ngờ vực, lo âu.
Nhưng
để là ánh sáng cứu độ, Đức Kitô đã phải đi qua đêm tối của chết
chóc ; để là ánh sáng giải phóng, Ngài đã phải sống những giây
phút tối tăm khi Chúa Cha vắng mặt, không lên tiếng ; để là
ánh sáng bao dung, Ngài đã nằm yên trong mộ phần u tối. Ánh
sáng tình yêu nơi Ngài không khơi khơi, lơ lửng, nhưng sáng lên
từ đinh sắt, lưỡi đòng, mạo gai, thập tự.
Ánh
sáng sự sống của Ngài không tùy tiện, bừa bãi, nhưng sáng lên
từ « máu và nước » chảy ra từ cạnh sườn bị đâm thủng. Ánh sáng
bình an của Ngài không mơ hồ, vô định, nhưng sáng lên từ bàn
tay, bàn chân gẫy nát, bấy máu, tím bầm. Thánh giá khổ đau làm
nên nến sáng phục sinh. Nước mắt, máu đào là sáp cho nến cháy.
Nến cháy nhờ sáp tiêu hao, nên sáp có chấp nhận bị tiêu hao, nến
mới lung linh hạnh phúc ; sáp có vui nhận đời tận hiến, quên
mình, nến mới rực rỡ mắt sáng niềm vui ; sáp có nhẫn nhục chịu
mất mát, kiên trì ở lại, nến mới nồng nàn ấm áp niềm hy vọng.
Tình
của sáp làm ánh sáng của nến bao dung. Lòng của sáp làm ánh
sáng của nến hiền lành. Tim của sáp làm ánh sáng của nến không
biết mệt mỏi yêu thương. Trong sáp có hy sinh, nên lửa của nến
mới thắm thiết, mặn nồng. Ở sáp có đau khổ, nên lửa của nến mới
không ngừng thông cảm, thi ân. Nến sáng nhờ sáp chịu tiêu hao
như tình yêu sống nhờ hy sinh, quên mình. Nến sẽ không cháy nếu
sáp từ chối hiến mình. Nến sẽ không sáng, nếu sáp không chịu
liên lỷ biến tan. Nến sẽ không nóng, nếu sáp không tự nguyện
xóa mình như của lễ bị thiêu hủy.
Khi
trao nhau ngọn nến đêm vọng Phục Sinh, chúng ta không chỉ trao
nhau cây nến như bao nhiêu cây nến bình thường, vô tri, nhưng
trao nhau ngọn nến sáng Phục Sinh được lấy từ lửa tình yêu trong
trái tim Đức Kitô đã chết và vừa sống lại. Lửa của tình yêu
chịu chết cho người mình yêu, lửa từ tình yêu hiến trọn cuộc đời
cho người mình yêu, lửa nơi « tình yêu đến cùng, vô cùng » dành
cho người mình yêu. Lửa ấy đã lan đến tay, vào trong hồn mỗi
người khi nến Phục Sinh được thắp sáng.
Nhận
nến sáng Phục Sinh trong đêm hồng phúc là nhận sứ mệnh của Đức
Kitô phục sinh : « Chúng con là ánh sáng thế gian » (Mt 5,14)
và để ánh sáng ấy soi đường, giài phóng, cứu sống, yêu thương
thế gian, « chúng con hãy đi khắp nơi, đến tận cùng thế giới làm
chứng về Thầy cho muôn dân » và Thầy sẽ ở với chúng con, như ánh
sánh Tình Yêu, An Bình, cho đến tận thế (Mt 28,19-20)
Ước
gì khi nhã nhặn trao nhau ánh sáng Phục Sinh, chúng ta cũng ân
cần trao nhau tình yêu có hy sinh, chịu đựng, có nhẫn nại, thứ
tha như sáp cho nến hồng rực sáng trong đêm ngóng đợi Thiên
Chúa Tình yêu sống lại.
|
VỀ MỤC LỤC |
|
CÓ NHỮNG THẬP GIÁ ĐỜI
|
Trên cây khổ giá đời, có biết bao thân phận đang chịu treo,
những thân phận của con người nhỏ bé, gầy guộc, đau thương.
Trên cây khổ giá đời, có những giọt nước mắt tuôn chảy, có
những tiếng thì thào và im bặt. Chẳng biết bao lâu nữa, ai
sẽ gỡ những thập giá đời cho những thân phận nhỏ nhoi, chẳng
biết bao lâu nữa giọt nước mắt biến thành nụ cười.
Có những đèn
đêm, người lao công quét đường, người bán hàng rong, chiếc
gõ đều đặn. Cuộc sống gian khổ bên những chiếc xe rú chạy,
có những giọt mồ hôi bên những giọng cười say khướt, có
những nhọc nhằn bên những xa hoa. Thập giá đời sao quá nặng
để nuôi đàn con ăn học, những đêm khuya vắng, than cùng
tiếng chổi quét, khàn đi cùng tiếng rao.
Có ánh đèn dầu
đêm ngoài vườn khuya, người lao động cắt vội mớ rau, hái vội
những trái, trẩy vội những củ. Áo vai gầy ướt sẫm, mắt mờ đi
vì thiếu ngủ. Những luống rau rồi đây cũng chẳng còn, miếng
đất sẽ là nhà ở mà chẳng bao giờ là của mình. Luống rau, mồ
hôi, sẽ chẳng còn những đêm vất vả. Ngày mai, bó gối ngồi
chợ người, chờ ai đó thuê mướn làm mọi thứ có thể làm. Ngày
mai miếng đất không còn, cuộc đời buồn hơn.
Có những ngày
nắng đổ lửa, chiếc xe đẩy kẽo kẹt, những trái cây bán ven
đường, chở vài cây cảnh, bán vài con cá, một vài mớ rau,
thịt. Làm bất cứ công việc nhỏ nhen vừa với đồng vốn. Vật vã
trụ lại trong cuộc sống. Hớt ha, hớt hải đẩy xe bỏ trốn công
an dẹp lòng lề đường, cuốn vội tấm bạt bày bán quần áo, giày
dép, những thứ linh tinh. Những con người khốn khổ, lã chã
mồ hôi bên cóng cơm nguội lạnh, nhìn theo những người đi
qua. Bên dòng đời ngược xuôi vất vả, nhìn ai cũng thấy
thương.
Có những cụ già
trong ngoài bảy mươi, mắt kèm nhèm lần từng bước bên bờ
biển, nhặt về từng con ốc, cái sò. Những cụ già nhặt bao
nylon, những chiếc chai nhựa. Nhặt nhẹm nuôi thân già cô
độc, một ngày chưa được một tô phở giá bèo lại còn thêm vài
ba đứa cháu. Có những phận người đau khổ suốt một đời, cặm
cụi bước chân với những tờ vé số, những chén trà xanh bên
góc đường nhỏ, nhặt nhặn những rau thừa, cá cặn bên hông
những chợ, hàng quán. Thân già còm cõi giữa những hàng phố
sang trọng, bước chậm từng bước trên con lộ thênh thang,
đông người qua lại.
Có những chàng
trai, thiếu nữ giả dạng câm điếc, đui mù, què quặt, thương
tích, vạ vật bên đường. Những cuộc đời dường như không lối
thoát, không chữ, không nghề, không ai thuê mướn; vẫn phải
sống, vẫn phải giả dạng. Một trong số họ, ngày nào đó trở
thành cướp, bởi đàng nào cũng mất. Có những đứa trẻ đen nhẻm
trong bộ quần áo học sinh, nhìn vào hàng đồ chơi thèm ước,
trên tay chỉ có chiếc ca hay ít tờ vé số hoặc vài nhánh hoa,
cùng bà mẹ mưu sinh.
Có những Osin
chịu ngược đãi, bị lợi dụng tình dục, chỉ vì cuộc sống khó
khăn quê nhà mà phải cắn răng chịu đựng. Có Osin bị dội nước
sôi bởi bà chủ độc ác, có Osin chịu xâm trên mặt con rồng
quỷ quái, bởi bá chủ ghen tuông. Thân phận tôi đòi, nhân
phẩm bị chà đạp, con người chịu xúc phạm. Thập giá của ô
nhục con người dành cho con người, tàn nhẫn và độc ác.
Có những công
việc không đủ sống, giá cả đắt đỏ, các thứ phí chồng chất,
gánh nặng lại nặng hơn. Miệt mài nhập liệu, kiểm toán, dịch
tài liệu, làm thêm ngoài giờ và cả ngoài ngành, giao hàng,
bỏ báo, may, thêu. Cuộc sống tất bật, căng tai, căng mắt,
thiếu ăn, mất ngủ, làm hụt hơi mà vẫn thiếu. Cuộc sống kéo
lê thập tự, những lúc chẳng vác nổi. Những con người tử tế
với đồng lương ít ỏi, kéo cày thêm công việc để bươn trải
cuộc sống cho gia đình, những đứa con được ăn học.
Có những đồng
vốn bỏ ra và rồi thấp thỏm, chẳng biết cái nhà đang cầm có
ngày nào chuộc được, khi đổ vào hết ao cá, ruộng vườn. Chủ
nợ trốn mất, lao đao vô vọng, bạc trắng mái đầu, công nợ
chồng chất chẳng lấy đâu ra trả. Những con người khổ trí khổ
tâm giữa dòng đời lừa lọc, biết đâu thật, đâu giả. Muốn sống
đời lương thiện giữa dòng đời giả dối, đôi khi mất hết, về
với con số nợ, lầm than .
Qúa nhiều thập
giá khiến nhiều người không vác nổi, dẫn đến quyết định biết
là đau khổ, trái lương tâm, khi đành hy sinh đứa con trong
bụng vì sinh ra biết rằng sẽ khó khăn chồng chất. Quá nhiều
tủi nhục, đau thương, nhiều người không đứng vững, quỵ ngã
trong nghiện ngập, buông xuôi trong tự vẫn. Những thập giá
đời của lương tâm cắn rứt, của những tâm hồn tê dại.
Có những cuộc
đời, sống gần như đang chết, bị lừa lọc, bị bán cho thú vui
người đời. Những con người sống mà chỉ muốn chết. Những thân
phận bị giam nhốt cho công nghệ tình dục. Những lúc khốn
cùng, tiếng cô gái nhỏ van xin đừng làm hại đời mình. Tiếng
khóc không thành tiếng, một tiếng khóc vừa tủi nhục của kiếp
nghèo vừa khóc hận vì người bỏ tiền mua. Một thập giá đời
của con người, bầm dập với những cuồng si. Bao cô gái chưa
kịp vui ngày cưới đã khóc thương một phận đời bị bán buôn,
trao đổi. Bao nhiêu giọt nước mắt nữa, khóc cho đời người
con gái, rồi đây sẽ chai đi vì nhục nhằn, vô cảm vì không
biết ý nghĩa tình yêu, mang vào trong mình những oán hận,
trầm uất.
Những cô gái
quê mơ ước xứ Hàn, xứ Đài, xứ Trung, qua phim ảnh, ca nhạc,
tươi cười bên chồng ngoại để đổi đời, đổi số. May mắn thì
ít, tai hoạ lại nhiều, vì đâu lường hết bao nhiêu vấn đề
thương mại trong cuộc tình duyên. Bên kia người ta quảng cáo
môi giới những cô gái Việt làm vợ, không hài lòng còn có thể
trả lại, thua món hàng “mua rồi miễn trả lại”. Thương cho
những thập giá đời đến từ những lam lũ đồng quê và mong ước
được đổi đời, từ đau khổ này sang đau khổ khác tệ hại hơn.
Bao nhiêu thập
giá nữa trên thân phận thống khổ này? Tai họa đến từ thiên
nhiên, đến từ con người ác tâm giả nghĩa, vơ vét cho đầy túi
tham. Biến rừng thành hồ làm hủy điện, có cơ hội bòn rút, để
khi mưa về xả lũ, gây bao tai ương cho dân lành dưới xuôi,
hết năm này đến năm khác ngập lụt, mất nhà, mất thu hoạch
ruộng nương và mất cả người. Biến thửa ruộng bao đời vun
xới, đất tổ, nghĩa trang, thành sân gold, thành khu công
nghiệp bỏ hoang, thành những khu biệt thự không người và đẩy
những con người nông dân chất phác trở thành dân oan từ chục
năm này qua năm khác, không ai giải quyết. Những vùng đất
trồng trà, cà phê trở thành nơi khai thác khoáng sản, nhiễm
độc. Đau thương cho những người dân đang góp phần nhiều nhất
cho nền kinh tế phải chịu bán rẻ bởi những lòng tham vô độ.
“Vì cây xanh
tươi mà người ta còn đối xử như thế, thì cây khô héo sẽ ra
sao?” (Lc 23, 31). Những thập giá đời, không mong ước gì
hơn, xin đừng vô cảm, xin đừng nhục mạ, cướp bóc, lọc lừa,
trên những mồ hôi nước mắt của những con người dân đen, chất
phác. Xin đừng biến những con người lương thiện, ngây thơ,
thành những món hàng trao đổi. Gỡ những chiếc đinh đóng vào
thập giá cho nhau. “Hãy quan tâm tới nhau, khích lệ nhau làm
việc lành, phúc đức” (Dt 10, 24).
|
VỀ MỤC LỤC |
|
VẤT VẢ VỚI HAI CHỮ “PHỤC SINH”
|
Trần Mỹ Duyệt
Đối với nhiều Kitô hữu
thế là xong. Mùa Chay, Tuần Thánh và Phục Sinh đã qua. Tất
cả đều lùi vào quá khứ và đây là thời gian “ăn mặn” trở lại.
Chúa đã phục sinh và sống lại thật cho chúng nhân rồi. Mình
phải vui mừng, ăn nhậu. Alleluia! Alleluia.
Nhưng đối với những
Kitô hữu chân chính, những Kitô hữu với lòng yêu mến Thiên
Chúa và yêu mến hồng ân Cứu Độ của Ngài thì không suy nghĩ
và sống như vậy. Họ vẫn phải chiến đấu để duy trì hai chữ
“Phục Sinh” trong cuộc sống tâm linh và trong đời thường của
mình. Đúng hơn, họ vẫn phải sống tinh thần Phục Sinh mỗi
ngày, và từng ngày. Đối với họ, Phục Sinh không chỉ là một
biến cố giới hạnh của thời gian và không gian, nhưng nó là
một biến cố sống động và tái diễn mọi ngày trong cuộc sống
người Kitô hữu.
Thật vậy, ý nghĩa Phục
Sinh chính là lời diễn giải của Thánh Phaolô: “Nếu chúng ta
cùng chết với Ngài, chúng ta tin rằng sẽ cùng sống lại với
Ngài” (Rom 6:7). Và cái cốt lõi cũng như cái nguyên nhân
chính đưa đến việc Phục Sinh của Chúa Kitô, đó là Chúa Kitô
đã chết. Chết vì phần rỗi nhân loại, chết để xóa tội trần
gian, và chết để giải thoát nhân loại khỏi nô lệ tội lỗi,
khỏi nô lệ của Satan. Do đó, nếu muốn phục sinh và sống lại
với Ngài thì cũng giống như Ngài, con người phải qua cái
“chết” như Ngài đã chết. Nhưng đối với các Kitô hữu, chết
đây không có nghĩa là chỉ chết một lần như Chúa rồi sống lại
vinh hiển, sáng láng, và hạnh phúc. Chết đây là chết mỗi
ngày trong cuộc sống. Và đây là cái mà chúng ta phải vất vả,
vì thực tế là phần đông chúng ta chỉ muốn phục sinh, muốn
sống lại nhưng ngại và sợ chết. Vậy nếu “Phục Sinh” là biến
cố luôn luôn hiện hữu thì cái chết cũng luôn luôn có mặt
trong cuộc sống tâm linh và cuộc đời của mỗi Kitô hữu.
Nhưng có lẽ bạn hỏi,
vậy cái chết đây là gì và phải chết như thế nào? Tác giả
Lung Linh trong Tâm Linh Vào Đời đã có những suy tư rất thực
tế và cũng rất hợp với kiếp người. Theo đó:
Sự chết thường được mộ
tả như những bóng tối nặng nề. Thí dụ như:
- Có thứ bóng tối tội
lỗi.
- Có thứ bóng tối đam
mê dục vọng.
- Có thứ bóng tối tham
lam ích kỷ.
- Có thứ bóng tối ghen
ghét oán thù.
- Có thứ bóng tối tự ái
kiêu căng.
Và dĩ nhiên, còn có
nhiều thứ bóng tối khác nữa như bóng tối đa mê quyền lực.
Bóng tối đa mê cờ bạc, nghiện hút, bóng tối danh vọng chức
quyền… Tất cả những bóng tối đó đang che khuất nẻo về và
khiến con người lạc vào trong cõi u mê của ảo vọng, ảo giác
về cái tôi của mình cũng như về cái thế giới phồn vinh giả
tạo do Satan đang làm chủ. Những bóng tối mà ánh sáng Chúa
Phục Sinh bị đẩy lui. Bóng tối ngăn chặn dòng suối ơn sủng
của Ngài.
Để ánh sáng Phục Sinh
của Chúa tràn vào hồn ta, ta phải quét sạch và xua tan những
bóng tối ấy. Dĩ nhiên điều này làm cho con người phải vất
vả, phải chịu khó, và phải hy sinh. Đôi khi sự hy sinh này
đòi hỏi phải đổ máu như chính Chúa Kitô đã đổ máu Ngài trên
thập tự giá để có được sự Phục Sinh vinh thắng.
Bạn và tôi đều biết rõ
điều này, trong tất cả những cái khó khăn, rườm ra, xung
đột, tranh giành, giận hờn, ghen ghét, và cả đến việc chửi
bới, thanh toán nhau tất cả đều do cái tôi mà ra. Điều này
rất đúng, nhất là khi con người đặt cái tôi sai chỗ, đặt cái
tôi của mình trên cái tôi của người khác. Và nhất là cái tôi
ấy lại đặt cao hơn cái “Tôi” của Thiên Chúa, tức Thánh Ý
Nhiệm Mầu của Ngài. Trong vườn Diệu Quang Adong và Evà cũng
đã làm như vậy. Các vị cũng đã muốn đặt cái tôi của mình
trên cái “Tôi” của Đấng Tạo Hóa khi chấp nhận ăn trái cấm.
Từ đó mới đưa đến phản nghịch. Mới đem đến việc con người
muốn thay thế cái “Tôi” của Thiên Chúa bằng cái tôi của
mình.
Thay thế cái “Tôi” của
Thiên Chúa không được, con người lại tìm cách thay thế cái
“tôi” của những người khác. Muốn thay thế tất cả những cái
tôi của người khác bằng cái tôi của mình. Chúa Cứu Thế đã
biết rõ điều này, nên khi còn tại thế, Ngài đã đặt điều kiện
cho những ai muốn đi theo vết chân Ngài, muốn thành môn đệ
Ngài, đó là “Nếu ai muốn theo Ta, phải từ bỏ mình, vác thập
giá mình mà theo” (Mat 16:24). Điều kiện đã rõ ràng, không
bỏ cái tôi đi, không thể vác thập giá mình được. Và dĩ
nhiên, không thể trở thành môn đệ của Ngài được. Như vậy
cũng có nghĩa là bóng tối che khuất nẻo về vĩnh hằng. Bóng
tối che khuất con đường tìm về chân thiện mỹ. Bóng tối dẫn
đến u mê đó phát xuất từ cái tôi của mỗi người. Cái tôi ấy
hiển diện trong mọi ngóc ngách cuộc đời, ngay khi ta ăn,
uống, ngủ, nghỉ, vui chơi, và ngay cả khi ta đọc kinh, cầu
nguyện. Khi làm việc lớn, khi làm việc nhỏ. Trong vai trò
lớn nhỏ trong Giáo Hội cũng như xã hội. Tóm lại, cái tôi đó
chính là những gì đang làm nên con người thật của mỗi chúng
ta lúc này. Chiến đấu được, kiềm chế được tức là đẩy lui
bóng tối, là bỏ mình, là vác được thập giá, và để ánh sáng
Phục Sinh Chúa chiếu dọi.
Lm. Raniero Cantalamessa, dòng
Capuchino, Giảng thuyết viên tại Phủ Giáo Hoàng đã diễn
giảng về đề tài là một câu trích từ sách Khải Huyền “Tôi đã
chết, giờ đây Tôi sống mãi mãi” (Kh 1,18), trong nghi
thức Tưởng Niệm Cuộc
Khổ Nạn của Chúa Kitô vào chiều thứ Sáu, ngày 6 tháng 4 năm
2012, trước sự chủ tọa của Đức Thánh Cha Bênêđíctô XVI cùng
với sự tham dự của gần 9 ngàn tín hữu, hơn 40 Hồng Y và 50
Giám Mục, Ngài đã nhắc
lại hình ảnh mà một số Giáo Phụ dùng để
mô tả sự tham phần của chúng ta vào chiến thắng của Chúa
Kitô, trong đó Thánh Gioan Kim Khẩu đã thốt lên: “Các lưỡi
gươm của chúng ta không vấy máu, chúng ta không ở giữa thao
trường, chúng ta không bị vết thương nào, chúng ta cũng
chẳng thấy cuộc chiến, vậy mà này đây chúng ta đạt được
chiến thắng. Cuộc chiến ấy là của chúng ta, triều thiên là
của chúng ta. Vì chiến thắng ấy cũng là của chúng ta...Chúng
ta hãy vui mừng, xướng lên những bài ca chúc tụng Chúa” (De
coemeterio et de cruce, PG, 49,596). (Lm. Trần Đức Anh, O.P,
Vietcatholic.org)
Chúa đã chết và hủy
diệt tội lỗi. Chúa đã chết và đã sống lại. Ngài đã chiến
thắng thế gian. Nhưng Ngài không hủy diệt thế gian. Ngài
không hủy diệt cái tôi của mỗi người. Ngài cũng không hủy
diệt Satan. Ngài muốn để phần đó cho mỗi môn đệ Ngài. Bởi vì
theo Thánh Phaolô, mỗi người phải hoàn tất phần còn lại
trong cuộc Khổ Nạn của Chúa Kitô. Và vì thế, chúng ta cần
phải nhủ mình rằng, trong khi vui mừng vì chiến thắng Chúa
Phục Sinh, cũng đừng quên vẫn còn phải vất vả, mệt mỏi với
hai chữ Phục Sinh.
|
VỀ MỤC LỤC |
|
KHỔ NẠN CỦA CHÚA LÀ HY VỌNG CỦA
CHÚNG TA
|
Suy Niệm Phúc
Âm Chúa Nhật Lễ Lá
(Isaiah 50: 4-7;
Phil 2: 6-11; Mc 14: 1-15:47 hoặc 15:1-39)
Bác sĩ Nguyễn Tiến
Cảnh, MD
Chúa Nhật Lễ Lá là
ngày đầu tiên của Tuần Thánh, khởi đầu cuộc khổ nạn của Chúa
Giêsu để rồi dẫn đến cái Chết của Chúa trên thập tự để cứu chuộc
muôn dân. Và Chúa đã sống lại đem hy vọng cho thế gian.
Cuộc Khổ Nạn, Cực
Hình, Cái Chết và Sự Phục Sinh của Chúa chính là những đề tài
đã kết hợp tất cả chúng ta lại với nhau thành một Giáo Hội với
những thần dân Kito hữu trong Tuần Thánh Này.
Tin Mừng thánh Mác
Cô Chúa Nhật Lễ Lá hôm nay diễn tả cho chúng ta thấy những ngày
giờ cuối cùng của cuộc khổ nạn của chúa Giêsu ở dương thế. Đây
là câu chuyện với những tình tiết rất là tương phản nhau. Khi
chúng ta một lần nữa nghe lại câu chuyện cảm động này của Chúa
thì cuộc khổ nạn của Chúa lại xâm nhập và hiện ra trong tâm can
chúng ta. Đây là một tuần lễ đặc biệt. Chúng ta lại có dịp học
hỏi nhiều điều qua những biến cố đã xẩy ra cho chúa Giêsu, khám
phá ra không những cái căn cước của những kẻ đã cố gắng làm nhục
chúa, kết án chúa và giết chúa trước đây, mà còn cả những gì
đang và sẽ giết chúa, cái vòng luẩn quẩn của những thói hư tật
xấu, khủng bố, bạo lực, tàn ác, hận thù, oán ghét, nghi kỵ, ghen
tương vẫn đang tiếp tục đóng đanh Chúa nơi những người anh chị
em huynh đệ của mình, trong gia đình mình, ngay nơi mình sống,
tập thể của mình, xã hội quê hương mình và cả nhân loại hiện
nay.
ĐẶC ĐIỂM CỦA CÂU CHUYỆN KHỔ NẠN CỦA CHÚA GIÊSU
Theo thánh Mac Cô
(Mc 11: 1-10), thì cuộc di hành của chúa Giêsu vào thành
Jerusalem đã được làm cho nhẹ bớt đi nhiều. Vì một lý do gì đó,
thánh Mac Cô lại đặc biệt đem con lừa vào trong khung cảnh này.
Theo thông lệ những người hành hương thường đi bộ vào thành
Jerusalem, ngoại trừ chỉ có vua chúa mới cưỡi súc vật để vào thi
trấn, mà thường là những con vật coi bộ oai phong nhất như ngựa
quí và có đoàn rước đi theo để mọi người nhận biết ra họ là đấng
cao trọng. Với Chúa Giêsu, là vua rất khác biệt, ngài cũng cưỡi
một con vật, nhưng không phải là ngựa quí hùng dũng oai phong mà
chỉ là một con lừa con dùng để chở đồ.
Ngồi trên lưng lừa,
chúa Giêsu đi vào thành Jerusalem như một ông vua, nhưng đến
không phải “để được phục vụ mà là để phục vụ”
(Mat.20: 28). Nước của Ngài được tạo dựng nên không phải bằng
quyền lực mà vì lòng trắc ẩn, sự đồng cảm và xả thân phục vụ tất
cả mọi chư dân. Hình ảnh con lừa khiến chúng ta nhớ lại những
lời tiên tri Zechariah đã nói về quang cảnh này trước đây cả 5
thế kỷ: “Hỡi con cái Zion ! Hãy vui lên, hãy reo hò vang
lên. Hỡi con cái Jerusalem! Trông kìa, Vua các người đang đến,
trong khải hoàn vinh quang nhưng khiêm tốn ngồi trên lưng lừa…”
Qua cuộc khổ nạn
của chúa Giêsu mà thánh Mac Cô kể lại, chúng ta cảm nhận thấy
vẻ mặt Chúa Giêsu buồn rầu lo lắng vì bị bạn bè và các môn đệ
bỏ rơi. Chúa Giêsu đã cam chịu, phó mặc cho số phận. Chúa không
thèm trả lời Giuda là kẻ phản bội Ngài, cũng như Philato khi ông
ta chất vấn Chúa. Theo thánh Mac Cô, tổng trấn Philatô đã không
cố gắng cứu Ngài với tư cách một Toàn Quyền, vị đại diện của La
Mã như nói trong 3 phúc âm thư kia.
Thánh Mac Cô, qua
toàn thể Tin Mừng của mình, đã làm nổi bật cái thất bại cay đắng
của các môn đệ là đã không an ủi nâng đỡ Chúa Giêsu, ngay cả
hiểu biết những gì đang xẩy ra cho thầy mình. Một môn đệ trẻ đã
chạy trốn vào đêm tối không kịp mặc áo quần, vào lúc mà Chúa
Giêsu bị bắt. Môn đệ này chính là biểu tượng đầy uy quyền trong
số các môn đệ của Chúa, lúc khởi đầu đã bỏ gia đình bạn bè bà
con để theo Chúa. Bây giờ nguy khốn xẩy đến thì lại bỏ mọi sự,
bỏ cả Chúa để thoát thân.
Chúng ta thử nhớ
lại những biến cố của Tuần Thánh đầu tiên đó. Từ căn phòng Chúa
ở đến vườn Gethsemane, từ phiên tòa Philato đến đồi Golgotha, từ
thập tự giá đến ngôi mộ trống, Chúa Giêsu đã làm đảo lộn toàn
thể thế giới. Ngài dạy cho chúng ta biết quyền lực thực chỉ thấy
ở nơi tinh thần phục vụ và lòng quảng đại đối với tha nhân;
trọng tâm của sự cao cả phải là lòng khiêm tốn; ước vọng yêu
thương và công chính sẽ được Thiên Chúa khuyến khích và chúc
lành.
CUỘC KHỔ NẠN CỦA CHÚA VÀ SỰ TRUNG THÀNH
Thánh Mac Cô kể
rằng, lúc ấy chúa Giêsu đang ở làng Betania và đến thăm ông
Simon bị bệnh cùi, một người đàn bà đến mang theo một bình bạch
ngọc đựng đầy dầu thơm thứ đắt tiền rồi đập bể bình, lấy dầu
thơm đổ lên đầu Chúa theo phong cách của hoàng gia (Mc 14: 3-9).
Mùi thơm lan tỏa khắp nhà, mọi người ở bên Chúa Giêsu lúc đó tỏ
vẻ bất bình vì cử chỉ phung phí của bà này. Chúa Giêsu đọc được
ý của họ, bèn nói đỡ cho bà ta là “bà đã biểu lộ một hành
động trung thành và yêu thương thực sự”. Chúa Giêsu đã nói
với họ rằng: “Bà này đã xức dầu lên người tôi để chuẩn bị cho
ngày ướp xác” (Mc 14: 8). Vì lý do đó, chúa Giêsu đã hứa là
“bất cứ nơi nào mà Tin Mừng được loan truyền đến thì
câu chuyện này của bà cũng sẽ được kể lại để mọi người nhớ đến
bà”. (Mc 14: 9). Người đàn bà này, không kể Đức Maria mẹ
Chúa Giêsu, sẽ là người duy nhất được tôn vinh cao cả.
Trong khi các đệ tử
và tông đồ Chúa tỏ ra thất bại rõ ràng vì phản bội và bỏ chạy
thì người đàn bà vô danh này đã chứng tỏ chí cương quyết, lòng
quả cảm, yêu thương và trung thành. Một gương sáng đáng ghi nhớ!
Mặc dù bà ta không hiểu rõ hoàn toàn ý nghĩa việc làm có tính
ngôn sứ và biểu trưng của bà ta, cũng như thời điểm của hành
động của bà, nhưng bà ta đơn giản chỉ ước muốn biểu lộ cho Chúa
biết là bà ta thực sự quan tâm, để ý đến Chúa và yêu mến Chúa
thật tình.
Đó phải chăng là
điều mà mỗi người chúng ta được mời gọi để thực thi trong Tuần
Thánh này một cách đặc biệt? Phải chăng là yêu Chúa Giêsu và
chú ý đến Ngài xuyên suốt qua những biến động bi thảm cuối cùng
của bản hòa tấu về cuộc đời của Chúa nơi dương thế này, giữa tất
cả những tổn thương, thất bại và bội phản của chính chúng ta
trong cuộc sống? Cuộc sống của chúng ta phải giống như bình
bạch ngọc đựng đầy dầu thơm quí giá của người đàn bà đã đổ ra
tràn lan trên Chúa trong những giờ phút cuối cùng của đời Ngài
nơi dương thế này.
ĐÔI LỜI KẾT:
AI ĐÂY, NẾU
KHÔNG PHẢI LÀ ĐẤNG CỨU THẾ ĐÃ BỊ KẾT ÁN ?
Lúc kết thúc đoạn
đường Thánh Giá tại đấu trường Colosseum ở Rome vào đêm thứ Sáu
Tuần Thánh năm Thánh 2000, Đức Chân Phước Gioan Phaolo II đã nói
những lời rất cảm động nhưng đầy mãnh lực:
“Ai đây, nếu
không phải là đấng cứu thế đã bị kết án, có thể hiểu một cách
đấy đủ và trọn vẹn nỗi đau khổ của những người bị kết tội một
cách bất công?
“Ai đây, nếu
không phải là Vua Trời Đất bị khinh miệt và nhục mạ, có thể đáp
ứng được những chờ mong của biết bao nhiêu người cả nam lẫn nữ
đang sống trong vô vọng và mất nhân phẩm?
“Ai đây, nếu
không phải là Con Thiên Chúa, có thể biết được nỗi buồn rầu và
cô đơn của biết bao nhiêu người không có tương lai đang sống rải
rắc trên khắp mặt địa cầu ?”
Đó là Đấng Cứu Thế,
vị cứu chuộc nhân loại mà chúng ta đang có. Ngài là đấng thực sự
thấu hiểu những điều kiện nhân tính của chúng ta. Ngài đồng hành
cùng chúng ta và chia sẻ cùng chúng ta những sầu muộn, cô đơn và
khổ đau của chúng ta. Chúng ta đã đáp trả lại loại tình yêu lạ
lùng ấy và tình liên đới hiệp nhất thực sự ấy như thế nào? Ngày
Chúa Nhật Lễ Lá mở đầu Tuần Thánh Chúa Chịu Nạn, mời gọi chúng
ta chấp nhận điều mà thánh Phao Lồ gọi là “Thái Độ của Chúa
Giêsu Kitô” (Phil 2: 6-11) trong khi Chúa chịu nạn và chịu
chết. Hãy trút bỏ mọi ưóc muốn tư lợi và ích kỷ, mọi sợ hãi
và nhu cầu riêng tư của mình vì lợi ích của tha nhân….
Chớ gì chúng ta có
thể vươn tới để hàn gắn những vết thương của những kẻ đau khổ,
an ủi những kẻ thất vọng ở quanh ta mặc dù bản thân chúng ta là
những kẻ phản bội và chối Chúa.
Trong lúc những
nghi lễ phụng vụ của Tuần Thánh diễn ra thật cảm động thì chúng
ta có được những ân sủng đặc biệt để tiếp tục sống với niềm vui
và hy vọng, mặc dù bị phụ rẫy, xỉ nhục và đau khổ. Trong chiều
hướng đó, cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu sẽ trở thành lý do để
chúng ta Hy Vọng và có những giây phút tràn đầy hồng ân khi
chúng ta đi tìm kiếm Nước Chúa trong đời sống chúng ta, cho dù
sự tìm kiếm đó đơn độc và đau thương.
Tuần Thánh quả là
một nguồn an ủi và một xác tín rằng chúng ta không phải là những
kẻ cô đơn. Chúa đã cứu chúng ta và hàng ngày đang đồng hành với
chúng ta.
Fleming Island,
Florida
Thứ Bảy trước ngày
Lễ Lá
March 31, 2012
NTC |
VỀ MỤC LỤC |
|
Hành-trình vô-thần của Karl Marx khi còn thanh-niên qua những
sách đọc tham-khảo về tôn-giáo |
Gs. Trần Văn Toàn
Bài đăng ở
tập san Định Hướng
Lời nói đầu
(viết ngày 1-5-1995)
1- Thiên khảo-luận sau đây có mục-đích
là vạch cho rõ nguồn-gốc lập-trường vô-thần của Karl Marx.
Nguồn-gốc đó cho đến nay vẫn chưa được trình bày cho xác-đáng,
vì nhiều lý-do :
Lý-do thứ nhất : Tuy Marx đã sáng-tác ra mấy khẩu-hiệu đanh thép
và mấy câu tuyên-bố gắt-gao về tôn-giáo (ví-dụ : ‘’tôn giáo là
thuốc phiện làm mê-hoặc nhân-dân’’), nhưng trong tác-phẩm
mênh-mông của ông chỉ có tất cả độ 2, 3 trang dành cho lập-luận
biện-minh cho vô-thần.
Như thế kể là không có bao nhiêu, lại chỉ là những câu biện-minh
có tính-cách lẻ-loi trong những bài viết nhằm mục-đích khác.
Thực ra Marx thấy không cần mất thì-giờ đi vào lập-luận
lý-thuyết làm gì, vì cái mà triết-gia cần phê-bình, cái mà nhà
cách mạng cần phải lật đổ, đó là cái chế-độ đang thực-sự áp-bức
nhân-dân về mặt xã-hội, kinh-tế và chính-trị. Thiếu gì người
đương-thời với ông đã viết những pho sách lớn để phê-bình
tôn-giáo, nhưng có làm đổi được thực-tế đâu. Vì thế, sau khi đọc
cuốn sách Bản-chất đạo Thiên-Chúa (Das Wesen des
Christentums) của Feuerbach xuất-bản năm 1841, Marx
chấp-nhận lập-trường của Feuerbach, cho đó là sách phê-bình
dứt-khoát, và vì thế từ đây không cần phải tiếp-tục phê-bình
những cái ở trên trời, mà ngược lại, cần phải phê-bình và đánh
đổ những chế-độ bóc-lột ở dưới đất.
Cần phải nói : đó là một lập-trường can đảm, đòi-hỏi phải
dấn-thân. Chứ phê-bình tôn-giáo thì đâu có nguy-hiểm cho bằng
phê-bình những lực-lượng xã-hội, kinh-tế và chính-trị đang thực
sự bóp-chẹt con người. Lập-trường dấn-thân ấy bắt nguồn từ
phong-trào xã-hội chủ-nghĩa mà Marx đã thấy bên Pháp vào giữa
thế-kỷ XIX. Đây là một ưu-điểm của chủ-nghĩa Marx, cho đến nay
vẫn còn có giá-trị.
Lý-do thứ hai : đã thế, nhưng dù có muốn nghiên-cứu cho kỹ về
nguồn-gốc lập-trường của Marx, người ta cũng thiếu tài-liệu.
Quanh đi quẩn lại, cho tới gần đây người ta thường giải-thích nó
là con đẻ của học-thuyết Feuerbach, và xa hơn tí nữa, của
học-thuyết Hegel.
Thực vậy, cho tới ngót 20 năm trước đây, trong hơn bốn chục cuốn
Tác-phẩm của Marx-Engels (Marx-Engels Werke), xuất-bản ở
Berlin (Đông-Đức), vẫn không có nhiều tài-liệu về lập-luận
vô-thần của Marx, vì trong bộ tác-phẩm đó chỉ cho in ra những
tác-phẩm từ quãng năm 1841 trở đi mà thôi.
Nhưng cũng cách đây chừng 20 năm, người ta bắt đầu cho in lại và
tu-bổ thêm bộ Marx-Engels toàn-tập (Marx-Engels
Historisch-kritische Gesamtausgabe) viết tắt là bộ MEGA, mà
trước đây Rjazanov đã xuất-bản ở Berlin và Moskva, được chừng 6
cuốn, từ năm 1927 đến năm 1935, nghĩa là sau khi đảng Quốc-xã
của Hitler lên nắm chính-quyền tại nước Đức thì phải đình lại.
Bộ MEGA mới thì theo thứ-tự và phân-loại khác bộ MEGA cũ, nhưng
đặc-biệt nhất là đã cho in ra đầy-đủ tất cả những tập vở ghi-chú
của Marx trước năm 1841, viết ra trong lúc ông đọc sách
tham-khảo để soạn luận-văn tiến-sĩ triết-học (1841). Đây là lần
đầu tiên người ta khám-phá ra là Marx đã đọc nhiều sách về
vấn-đề tôn-giáo, từ thời Thượng-cổ, bỏ ra thời Trung-cổ, cho đến
thời Cận-đại và đầu thế-kỷ XIX. Nghĩa là : ngoài Hegel và
Feuerbach ra, còn có nhiều nhà tư-tưởng khác đã góp phần vào
hành-trình vô-thần của Marx .
Thiên nghiên-cứu sau đây của tôi là căn-cứ vào những tập vở
ghi-chú của Marx mới được in ra trong bộ MEGA mới
, mà cho đến nay chưa
ai khai-thác. Mục-đích của nó là để hiểu cho rõ, trong một
trường hợp đặc-biệt, nguồn-gốc của một học-thuyết vô-thần.
2- Từ nghiên-cứu đó, tôi thấy cần phải
đặt thêm mấy vấn-đề then-chốt khác nữa :
Thứ nhất :
xét cho cùng thì vô-thần, vô-tôn-giáo là những ý-niệm tiêu-cực,
nội-dung của nó chỉ được xác-định khi ta biết cái mà nó
phủ-nhận. Phải biết người ta hiểu thế nào là thần, thế nào là
tôn-giáo, mới biết vô-thần, vô-tôn-giáo là gì.
Vì thế, tìm
hiểu một học-thuyết vô-thần cũng tức là tìm hiểu thứ thần nào
người ta muốn khước từ. Đó là điểm xem ra minh-bạch tronh
hành-trình vô-thần của Marx : vô-thần bao giờ cũng là khước-từ
một số quan niệm về thần-thánh, về Thiên-Chúa. Cái đó có đúng
hệt như cái mà người tín-hữu gọi là thần, là Chúa, hay không,
thì đó lại là vấn-đề khác. Vì thế lập-luận vô-thần có thể làm
mất tín-ngưỡng của người này, mà không làm mất tín-ngưỡng của
người khác. Thường thì lời phê-bình của phái vô-thần có tác-dụng
là làm cho người tín-hữu biết suy-nghĩ và chuyển đến một
quan-niệm thanh-cao hơn về thần, về Thiên-Chúa.
Một vài
ví-dụ : vào đầu Tây-lịch kỷ-nguyên, chính-quyền đế-quốc Roma đã
cấm đạo Thiên-Chúa và chém giết các tín-đồ, vì coi họ là nhóm
vô-thần. Vô-thần ở đây là không nhìn nhận các thần-linh của nhà
nước, và nhất là không coi hoàng-đế Roma là thần-linh. Một trong
những lý-do sâu-xa làm cho vương-quyền theo Nho-giáo ở Việt-nam
và ở các nước theo văn-hóa Tàu, quyết định cấm đạo Thiên-Chúa,
thì cũng tương-tự như thế. Người ta cho rằng làm người thì phải
biết giữ đạo vua tôi, đạo cha con. Người ta trách tín-đồ đạo
Thiên-Chúa là không biết thờ vua, không biết hiếu với cha mẹ. Sự
thực không đơn giản như thế : họ biết thảo kính cha mẹ, nhưng
không theo thể-thức cúng-tế cũ, họ thờ vua, nhưng không coi vua
là thần-linh tuyệt-đối. Đạo vua tôi, cha con của họ được thi
hành trong khuôn-khồ quan niệm ‘’tam phụ’’ : hạ phụ là cha (mẹ),
trung phụ là vua (quan), thượng phụ là Thiên Chúa. Dĩ nhiên nếu
ngườì làm vua cho rằng mình có quyền tuyệt đối trên đầu
thần-dân, có quyền ‘’dọc ngang nào biết trên đầu có ai’’, thì dễ
gì chịu nhận rằng mình chỉ là người, chỉ là trung phụ và phải
theo mệnh trời. Cần phải nói thêm là tư-tưởng dân-chủ được
phát-triển ở Âu-châu vào những lúc người ta không chịu nhìn nhận
vương quyền là quyền tuyệt-đối có tính-cách thần-thiêng. Nhưng
vấn-đề cấm đạo ở Việt-nam còn có nguyên-do khác , mà đây không
phải là chỗ tranh-luận.
Thứ hai :
vấn-đề nghiên-cứu tôn-giáo cũng cần phải đặt ra một cách có
phương-pháp.
Đành rằng
phải mô-tả tỉ-mỉ các hành-động tôn-giáo : nghi-lễ, nếp sống,
luân-lý, cách tổ-chức, phương-diện kinh-tế, nhưng cần phải biết
cái gì là kinh-nghiệm sâu-xa làm cho người ta định-hướng cho đời
sống, cho nếp sống như thế. Thực ra hai chữ ‘’tôn-giáo’’ có rất
nhiều nghĩa, và bao trùm nhiều quan-niệm rất khác nhau về vũ-trụ
và về nhân-sinh. Rất có thể là những hình-thức gọi là tôn-giáo
nhiều khi không có gì đồng-tính mà lại trái ngược nhau. Cho nên
trong khi phân-tích, không thể coi tôn-giáo này chỉ là biến-thể
của tôn-giáo kia, từ quan-niệm phù-thủy, vật-bái cho đến những
tôn-giáo có tính-cách thanh-cao thoát tục. Cũng không nên vội vã
coi tôn-giáo chỉ là phương-tiện và cho ngay rằng có chỉ có
mục-đích, có công-dụng là để giảo-lao, để nâng cao tinh-thần
hợp-đoàn, hay chỉ là cái mặt nạ để che đậy một thực tại không
đẹp-đẽ gì v.v. Nhưng đây lại là cả một vấn-đề phiền-phức.
(còn tiếp nhiều kỳ) |
VỀ MỤC LỤC |
|
TAKING FLIGHT - BAY LÊN ĐI!
|
LTS. Đặc San GSVN hân hạnh
khởi sự giới thiệu liên tiếp trọn bộ cuốn sách rất nổi tiếng của
một Linh mục dòng Tên Anthony de Mello:
TAKING FLIGHT - BAY LÊN ĐI!
Do Linh mục Dominic Minh Anh, Tổng giáo phận Huế
đã vất vả chuyển ngữ. Chúng con xin chân thành cám ơn Linh mục
dịch giả đã sẵn lòng chấp thuận cho chúng con phổ biến các sách
do Cha đã dịch thuật trong nhiều năm qua.
GSVN
Nguyên tác: Taking Flight
Tác giả: Anthony de Mello, S.J.
Chuyển ngữ: Lm. Minh Anh (Gp. Huế)
LỜI NÓI ĐẦU
Đã một thời, Tony de Mello, một linh mục dòng
Tên dạy đàng thiêng liêng không ngừng đánh động tâm hồn
bao người khắp năm châu; bởi lẽ, ngài quá yêu đời, yêu cuộc sống
- một cuộc sống thực tế, sôi nổi và tràn đầy niềm vui. Những
chuyện kể đầy mê hoặc, đầy nhiệt huyết, đậm nét hài hước và
những hiểu biết sâu sắc của ngài về bí quyết hạnh phúc, về việc
khám phá bản ngã đích thực của mỗi người - tất cả đã tạo nên một
tác động đầy phấn khích cho bất cứ ai đã từng nghe ngài. Ngài
đến cho những tâm hồn được giải thoát, cho người vô cảm biết yêu
thương, đem ý nghĩa cho tất cả những gì làm nên một nẻo đường
thiêng liêng trên đó bao người đang tiến bước.
Một linh đạo rạch ròi bền bỉ trong những gì ngài dạy dỗ không
quy chiếu trên bản thân ngài, nhưng trên chính mỗi người chúng
ta:
Để chỉ cho thấy trong mỗi người, có một thầy dạy thiêng
liêng,
Để mỗi người có thể múa nhảy chính vũ khúc của mình,
Để mỗi người hát lấy chính bài ca của họ.
Tony de Mello đã làm cho mỗi người phấn khích tự kỷ ám thị:
Hãy là ánh sáng cho chính mình.
Ngày 02 tháng 6 năm 1987, Tony qua đời, tôi không ngạc nhiên
trước những tình cảm mất mát lớn lao của bạn hữu và những người
ngưỡng mộ ngài trên đất nước Ấn Độ này và cả những con người
thuộc các châu lục khác. Điều làm tôi sửng sốt là những tình cảm
thất vọng và nuối tiếc mang tính “cá nhân” không chỉ nơi những
ai đã từng biết ngài nhưng những tình cảm này cũng bộc lộ từ rất
nhiều người những ước ao được gặp hoặc được nghe ngài.
Điều an ủi mà tôi có thể cống hiến cho những con người này chính
là di sản bút văn mà tác giả để lại. Quà tặng cuối cùng của ngài
chính là thủ bản cuốn sách bạn sắp đọc ,
sắp suy tư và chắc chắn sẽ rút ra được những điều bổ ích. Trong
lá thư chưa kịp gửi cho một người bạn, ngài cho thấy phải làm
việc vất vả làm sao để hoàn thành bản thảo trước khi đến Mỹ:
“Tôi muốn viết cho xong trước khi rời Ấn Độ nhưng không có lấy
một chút thì giờ. Tôi cặm cụi trên bản thảo suốt ngày, như tôi
đang viết đây, vì tôi sắp phải giao nó cho nhà xuất bản”.
Đúng là một công việc đầy lý thú và say mê.
Viết lời mở đầu cho tác phẩm cuối cùng của Tony cũng là một công
việc đầy lý thú và say mê. Thử tưởng tượng bạn sẽ thế nào khi
cầm một bản thảo nào đó của một người bạn thân nhất, của một
đồng sự, một vị linh hướng bậc thầy, một bạn đồng hành sau khi
người ấy chết; và biết rằng đây là bản thảo chỉ một mình bạn có?
Tôi đã xúc động biết bao khi đọc những trang đầu tiên đó. Tôi
chưa bao giờ nghe câu chuyện thứ nhất, “Lời Kinh của con Ếch”.
Đời sống thiêng liêng của con người lạ thường đó thật độc đáo -
yêu đời, nhạy bén trước điều thiện, trước vẻ đẹp của mọi sự -
ngay cả tiếng kêu ộp ộp của một con ếch! Sống trong một toà nhà
với các sinh viên, thỉnh thoảng tôi cũng nghe tiếng ếch kêu,
liệu tôi sẽ nói “khó chịu quá?”. Tôi sẽ không bao giờ quên được
cái ý tưởng nghịch thường của Tony: “Đừng quấy rầy tiếng ồn!”.
Thật lạ lùng.
Tuy nhiên, trong lần linh hướng cuối cùng, Tony vẫn không dạy
tôi một điều gì, nghĩa là tìm cách truyền đạt cho tôi một triết
lý thiêng liêng hay một cách sống nào đó. Những gì ngài làm là
động viên tôi khám phá cho mình điều gì thật, điều gì đúng, điều
gì đẹp đẽ trong cuộc sống. Không hình thức giáo dục nào tốt hơn,
không đường hướng thiêng liêng nào tinh ròng hơn. Ngài nhắc đi
nhắc lại: “Sẽ không có hạnh phúc, không có một đời sống thiêng
liêng đích thực, không có một hiểu biết thật sự bao lâu bạn chưa
được tự do. Và ngược lại, sẽ không có tự do đích thực bao lâu
bạn chưa thực sự hiểu biết”. Với ngài, khám phá sự thật đồng
nghĩa với việc hiểu biết cái tôi đích thực của mỗi người.
Đó là lý do tại sao mỗi cuộc gặp gỡ, mỗi chuyện kể, mỗi tiếng
cười của De Mello đều có thể trở nên một tiềm lực gieo vào những
nhà tù sợ hãi của bạn hầu chực nổ tung bất cứ khi nào để phát
tán những xích xiềng quá khứ hoặc những lo toan tương lai ngay
khi bạn vừa cởi mở đủ và cho phép điều đó xảy ra.
Và như thế, Tony de Mello nào đâu có chết.
J. Francis Stroud, SJ.
De Mello Spirituality Center
Fordham University
Bronx, New York
NỘI DUNG
Cầu Nguyện
Ý Thức
Tôn Giáo
Ân Sủng
Các “Thánh”
Bản Ngã
Tình Yêu
Chân Lý
Cảnh báo
Thật lạ lùng, dẫu trái tim con người khát khao chân lý đến đâu
và chỉ ở đó, nó mới được giải đáp và thoả mãn, thì phản ứng đầu
tiên của nó trước chân lý vẫn là thù nghịch và sợ hãi. Thế nên,
những thầy dạy thiêng liêng của nhân loại như Phật Thích Ca, như
Chúa Giêsu đều tạo nên một công cụ để làm thất bại sự chống đối
nơi người nghe, đó là kể chuyện. Các ngài biết, những lời quyến
rũ nhất mà một ngôn ngữ có là “ngày xửa ngày xưa…”; các ngài
biết, chống lại chân lý là chuyện thường tình, nhưng với một câu
chuyện thì không. Vyasa, tác giả cuốn Mahabharata, nói rằng, nếu
cẩn thận lắng nghe một câu chuyện, bạn sẽ không bao giờ là mình
trước đây. Bởi lẽ, câu chuyện sẽ thấm vào lòng, bẻ gãy những rào
chắn ngăn cản bạn đến với Đấng thiêng liêng. Thậm chí nếu bạn
đọc những câu chuyện trong tập sách này chỉ để giải trí, thì vẫn
không gì bảo đảm một câu chuyện bất chợt nào đó sẽ không len lõi
vào những đối kháng và nổ tung khi bạn ít ngờ tới nhất. Thế nên,
bạn hãy coi chừng!
Nếu bạn đủ liều lĩnh để tìm kiếm sự giác ngộ, thì đây là những
gì tôi đề nghị:
A. Hãy ghi nhớ một câu
chuyện nào đó trong trí và dừng lại với nó những lúc nhàn rỗi.
Nó sẽ có cơ hội tác động lên tiềm thức và sẽ tỏ cho bạn thấy ý
nghĩa tiềm tàng của nó. Bạn sẽ ngạc nhiên khi thấy nó có thể đến
với bạn một cách khá bất ngờ ngay khi bạn cần phải sáng suốt
trước một biến cố, một hoàn cảnh; nó sẽ đem cho bạn sự nhận thức
cũng như an bình nội tâm. Đó là lúc bạn nhận ra rằng, một khi mở
lòng cho những câu chuyện này, bạn đang lắng nghe một Giáo Trình
Giác Ngộ, qua đó, bạn không cần một thầy dạy nào nữa ngoài chính
bản thân!
B. Mỗi câu chuyện là một mặc
khải của Chân Lý, và vì là Chân Lý được viết hoa, nên phải hiểu
ở đây, chân lý về chính bạn. Vậy mỗi lần đọc một câu
chuyện, bạn hãy nhủ lòng tìm kiếm thêm một sự hiểu biết sâu sắc
hơn về chính mình. Hãy đọc theo cách một người đọc sách y
khoa - liệu mình có triệu chứng nào không; chứ không như một
sách tâm lý - vừa đọc vừa phân loại tính tình bạn bè. Nếu
không vượt qua những cám dỗ xét đoán người khác, những câu
chuyện này sẽ tác hại bạn.
Vì quá say mê chân lý, thầy Mullah Nasruddin đã lên đường đi đến
những nơi xa xôi tìm những học giả của Kinh Koran và không chút
e dè, thầy kéo những người ngoại đạo tới chợ để tranh luận về
những chân lý của niềm tin mình.
Ngày kia, vợ ông than phiền làm sao ông có thể cư xử bất công
với bà đến thế - và bà khám phá ra rằng, chính chồng bà cũng
chẳng cảm thấy ích lợi gì với thứ chân lý ấy!
Dĩ nhiên, chính đó là cái đáng kể. Quả thực, thế giới của
chúng ta sẽ thay đổi nếu chúng ta, những học giả, những trí
thức, những tu sĩ dòng triều hay giáo dân có được đam mê muốn
biết chính mình như đam mê đối với các giáo thuyết hay tín điều
của mình.
“Bài giảng tuyệt vời”, một bà giáo dân bắt tay cha quản xứ, “Con
biết, những gì cha nói đều thích ứng với một người nào đó mà con
quen”.
Các bạn hiểu không?
Chỉ dẫn:
Tốt nhất, các câu chuyện sẽ được đọc theo thứ tự như đã sắp xếp.
Mỗi lần đọc không quá một hoặc hai mẩu chuyện nếu bạn ước ao có
được một cái gì đó hơn là chỉ giải trí.
Lưu ý:
Các chuyện kể trong tập sách này đến từ nhiều đất nước, nhiều
nền văn hoá và tôn giáo khác nhau; chúng thuộc về những di sản
thiêng liêng, những câu chuyện hài hước được ưa chuộng của dòng
đời nhân loại.
Những gì tác giả làm là xâu kết chúng lại với nhau theo một ý
hướng đặc thù. Công việc của tác giả là công việc của người thợ
dệt và thợ nhuộm, tác giả chẳng có công trạng gì về những tấm
vải và những sợi chỉ.
Lưu ý của nhà Xuất Bản: Bởi số lượng lớn, bản thảo được
phát hành như hai cuốn riêng biệt. Sau cuốn Taking
Flight là cuốn The Heart of the Enlightened.
(Còn tiếp nhiều kỳ)
|
VỀ MỤC LỤC |
|
LIỆU
PHÁP REBT
|
Phương pháp tâm lý trị liệu Rational-Emotive Behavior Theraphy
(tạm dịch, Liệu Pháp Hành Vi Cảm Xúc, viết tắt REBT) do nhà tâm
lý học Albert Ellis (1930-2007) nghiên cứu và phổ biến; nó được
cho là một trong những phương pháp hữu hiệu trong việc giúp bệnh
nhân có thói quen thường hay “nuôi dưỡng” những tư tưởng tiêu
cực luẫn quẩn trong tâm trí. Ông Albert Ellis sơ lược tiến trình
này như sau: Sự kiện – Dựng chuyện – Tin chuyện – Cảm xúc – Hậu
quả. Chúng ta hãy cùng nhau phân tích một ví dụ thuộc loại REBT,
và tìm hiểu nguyên nhân của nó.
Sự
kiện: Hai tu sĩ trong một cộng đoàn. Tu sĩ A là người có trách
nhiệm giữ vệ sinh trong phòng họp. Tu sĩ B từ cộng đoàn khác mới
chuyển tới, người thường mang thức ăn và thức uống vào phòng
họp. Theo qui định chung, trong phòng họp không được mang thức
ăn. Vì việc này, tu A nhắc nhở tu sĩ B.
Dựng chuyện: Sau khi được góp ý, tu sĩ B bên ngoài nói lời cám
ơn, nhưng bên trong lại tỏ ra bất bình, không vui. Tu sĩ B nghĩ
rằng “Nó là ai mà nhắc nhở mình trước cộng đoàn như vậy, tuổi nó
đáng con mình mà bày đặt.” Thêm vào nữa, tu sĩ B đi nghe ngóng
và gợi những chuyện tiêu cực về tu sĩ A. Dần dần, tu sĩ B đã
dựng thành công một câu chuyện về tu sĩ A: “Tu sĩ A là người
thích làm nỗi, thích chỉ dạy, tỏ vẻ bề trên.”
Tin
Chuyện: Từ câu chuyện được dựng nên, tu sĩ B đi tới sự “xác tín”
từ sự kiện mà mình tìm được trong câu chuyện do mình dựng lên.
“Tu sĩ A là người kêu ngạo.”
Cảm
xúc: Từ “niềm tin” này, tu sĩ B luôn buồn bực, hay giận, nóng
nảy đối với tu sĩ A và một số người xung quanh.
Hậu
quả: Tu sĩ B thường tỏ ra khó chịu, phàn nàn, chê bai, hậm hực
đặc biệt những lúc tu sĩ A phát biểu hay xuất hiện trong cộng
đoàn. “Nó đâu có xứng đáng đứng đó; chuyện này do người khác làm
thì tốt hơn “nó” nhiều.”
Vòng xoáy cứ thế tiếp diễn: Sự kiện – dựng chuyện – tin chuyện –
cảm xúc – hậu quả.
* *
*
Giai đoạn “sự kiện” trong cuộc sống luôn luôn đến một cách rất
khách quan đối với mỗi người chúng ta. Nhưng sự thiếu khiêm tốn
bắt đầu hình thành vào giai đoạn “dựng chuyện.” “Dựng chuyện”
tựa như dựng nên một bức tường chung quanh mình để bảo vệ mình.
Hay nói cách khác, khi một sự kiện xảy ra không “thuận ý” mình,
con người thường có phản ứng xây nên những tường luỹ xung quanh
mình, trước là để bảo vệ mình, thứ đến là “tấn công” người đã
tạo nên sự kiện ấy. Vậy lý do gì mà ta phải tạo nên những “tường
luỹ” như vậy? Tính tự nhiên là muốn “che” những khuyết điểm của
mình, muốn bảo vệ mình, và muốn cho người khác không biết về
điểm yếu của mình.
Sau
khi đã hoàn thành giai đoạn “dựng chuyện,” giai đoạn “tin
chuyện” diễn ra như để cũng cố thêm giai đoạn “dựng chuyện.”
“Tin chuyện” để quả quyết thêm tôi đúng, còn người kia sai. Tôi
hay, còn người kia dỡ. Tôi đáng được điều đó, còn người kia thì
không đáng. “Tin chuyện” đã tạo nền móng cho “cái tôi” được lớn
thêm, mạnh thêm, và vững trụ thêm trên chiếc ghế quan toà.
Nhưng dù hai giai đoạn “dựng chuyện, tin chuyện” có thành công
đến bao nhiêu đi chăng nữa, sự thật khách quan vẫn không thay
đổi, vì “dựng chuyện và tin chuyện” chỉ diễn ra trong nội tâm
con người để che đậy điểm yếu trong người mình và để biện mình
cho hành động của mình. Chính vì thế, những cảm xúc và hậu quả
tiêu cực vẫn diễn ra – vá có thể nói nó càng thêm trầm trọng.
Thực tế, những sự kiện khách quan bên ngoài, những con người gây
nên những sự kiện khách quan ấy không thể biết và đọc được được
những gì đang diễn ra trong nội tâm của chúng ta. Trận chiến
đang diễn ra chính là trận chiến nội tâm, và kẻ thù gây nên trận
chiến ấy chính là sự kêu ngạo. Như thế, để muốn khống chế kẻ thù
kêu ngạo, vũ khí ta cần dùng chính là sự khiêm tốn chứ không
phải là xây thêm pháo đài “dựng chuyện, tin chuyện.” Hay nói
cách khác, hãy dẹp bỏ những tường luỹ ấy đi, và để đơn sơ thừa
nhận: Tôi là con người, nên thường khi vẫn thiếu xót sai lỗi.
Mục
Sống Sao Cho Đẹp mời bạn suy nghĩ áp dụng thực tế trong
hoàn cảnh của bạn. Cứ mỗi lần một sự kiện “trái ý” nào đó xảy
đến với bạn. Hãy cẩn thận với phản ứng “dựng chuyện.” Nó xuất
hiện như những người “giúp đỡ” bạn bằng những ý tưởng “ủng hộ,
bảo vệ, cũng cố” nhưng thực ra, nó đang xây nên một bức tường để
giam bạn - trong đó, bạn không có khả năng để nhìn thấy sự thật
khách quan đang diễn ra. Bức tường ấy xây càng cao, thì cái tôi
của bạn càng lớn. Cái tôi càng lớn, thì sự bình an càng nhỏ. Để
tìm lại sự bình an, bạn cần phải sử dụng đức khiêm tốn. Tốt
nhất, không nên xây nên những bức tường ấy. Nếu đã xây, hãy đập
phá nó đi và chỉ đơn sơ thừa nhận: Tôi là con người, nên thường
khi vẫn thiếu xót sai lỗi.
Thưa bạn, bức tường nào đang ngăn cách bạn với người thân, anh
em, bạn hữu? Có phải loại này không?
Br. Huynhquảng |
VỀ MỤC LỤC |
|
TÌM HIỂU HUẤN DỤ XÃ HỘI CỦA GIÁO
HỘI (9)
|
NGUYỄN HỌC TẬ P
Giáo Hội hiện diện trong
các lãnh vực xã hội.
- " Tôi nghĩ rằng
không thể hiểu chính trị theo nghĩa hẹp. Nhiệm vụ của Đức Giáo
Hoàng là rao giảng Phúc Âm, nhưng trong Phúc Âm có con người. Sự
tôn trọng đối với con người, tức là nhân quyền, sự tự do lương
tâm và tất cả những gì thuộc về con người. Nếu tất cả những điều
đó có một giá trị chính trị, thì đúng, Đức Giáo Hoàng có làm
chính trị. Nhưng Người luôn luôn đề cập đến con người, Đức Giáo
Hoàng bênh vực con người " ( Ezio Mauro e Paolo Mieli, La
Stampa, 04.03.1991, p. 2).
Đó là câu trả lời của
Đức Thánh Cha Gioan Phaolồ II cho Ezio Mauro và Paolo Mieli,
hai phóng viên của tờ nhật báo La Stampa, một trong những tờ
báo lớn nhứt ở Ý.
Câu trả lời vừa kể nói
lên lý do tại sao Giáo Hội hiện diện trong các lãnh vực xã hội,
mặc dầu nhiệm vụ của Đức Giáo Hoàng, nhiệm vụ của tôn giáo là
chuyên lo về những gì lãnh vực tôn giáo.
Tinh thần vừa kể của câu
trả lời cho thấy ý nghĩa Huấn Dụ Xã Hội của Giáo Hội, như chúng
ta đã tìm hiểu trong những bài vừa qua.
Huấn Dụ Xã Hội của Giáo
Hội có nội dung chính xác, có " ý nghĩa " hiện hữu của
mình đối với mọi người thành tâm thiện chí.
Giáo Hội có " lời đề
nghị " của mình cống hiến cho xã hội con người, nhằm chỉ dẫn
một vài nguyên tắc căn bản ( nguyên tắc, tiêu chuẩn để suy nghĩ
phán đoán và định hướng để hoạt động), từ đó con người có thể đề
thảo ra những đồ án văn hoá theo tinh thần Ki Tô giáo gợi ý cho
, ( bên cạnh những đồ án khác có thể), nhờ vào sự cộng tác của
tất cả những ai thành tâm thiện chí và do đó có thể chấp nhận
được.
" Đề nghị xã hội
" ( hay Huấn Dụ Xã Hội của Giáo Hội ) như vừa kể đã từ lâu được
biết dưới danh nghĩa là kiến tạo " một nền văn minh tình
thương " cho xã hội con người.
Đây không phải là một
khẩu hiệu rỗng tuếch để hô to tả oán, cũng không phải
chỉ là một lời nhắn nhủ luân lý, mà là một dự án xã hội, một
thách thức lịch sử, được Giáo Hội nêu lên:
- " Đây là một
thách chức chưa hề có - Huấn Dụ Libertatis conscientia xác
nhận - được nêu lên cho các tín hữu Chúa Ki Tô đang hoạt động
để thực hiện một " nền văn minh tình thương ", tổng kết gia sản
luân lý - văn hoá của Phúc Âm. Nhiệm vụ nầy đòi buộc phải có một
suy nghĩ mới về những gì thiết lập nên mối tương quan giữa giới
răn tối thượng tình thương với trật tự xã hội, được nhìn dưới
nhãn quang phức tạp của nó. Đúc kết trực tiếp của việc suy tư
sâu xa nầy là việc đề thảo ra và thực hiện các chương trình hành
động bạo dạn trong viễn tượng giải thoát xã hội và kinh tế đối
với hàng bao triệu người nam nữ, mà hoàn cảnh bị đàn áp về kinh
tế, xã hội và chính trị của họ không thể chịu đựng được " (
Thánh Bộ Tín Lý, Libertatis conscientia ( 22. 03.1986), n. 81,
in EV X/312).
Như vậy đề nghị hay Huấn
Dụ Xã Hội của Giáo Hội không chỉ giới hạn là lời loan báo về
nguyên tắc hay là khuyến khích tổng quát về việc chuyên cần dấn
thân vào xã hội.
Huấn Dụ Xã Hội của Giáo
Hội " chính yếu nhằm vào động tác " ( id., n. 72, in EV
X/294), tức là không phải nói để mà nói, tuyên bố
như những nguyên tắc " vô thưởng vô phạt ", mà là những
định hướng nhằm đưa đến hoạt động, tổ chức, phát triển một "
nền văn minh tình thương " cho nhân loại:
- " Anh em hãy yêu
thương nhau, như Thầy đã yêu thương anh em " ( Jn 15, 12).
Để thực hiện giới răn đó
bằng động tác, Giáo Hội luôn luôn xác nhận mình có quyền và bổn
phận hiện diện và hành động trong lãnh vực xã hội:
- " Giáo Hội có
quyền và bổn phận ( compete il diritto e dovere ) không những
bảo vệ các nguyên tắc thuộc lãnh vực luân lý và tôn giáo, mà còn
phải can thiệp một cách có uy tín vào lãnh vực trần thế, khi
phải phán đoán việc áp dụng các nguyên tắc đó vào thực tế " (
ĐTC Gioan XXIII, Mater et magistra ( 15.05.1961), in CERAS,
273).
Dĩ nhiên không phải Hàng
Giáo Phẩm đứng ra chỉ huy quân đội, hành xử các phận vụ của đại
biểu Quốc Hội, Tổng Thống - Thủ Tướng, các Bộ Trưởng, Thẩm
Phám..., mà là dựa vào các nguyên tắc nền tảng tình yêu, tôn
trọng con người, con Thiên Chúa của Phúc Âm, để hướng dẫn và
phán đoán động tác hành xử của các chức vụ đó và các tùy viên
thuộc hệ, khi có liên quan đến đời sống và phẩm giá con người.
Hiểu như vậy, chúng ta
thấy rằng
- không phải thuộc
thẩm quyền của Giáo Hội đề thảo là đưa ra " đồ án chuyên môn
" về các lãnh vực xã hội,
- nhưng điều đó không
có gì ngăn cản Giáo Hội có quyền và bổn phận phải nói lên "
đề nghĩ xã hội " để áp dụng vào thực tế, cho người tín hữu
Chúa Ki Tô cũng như cho tất cả những ai thành tâm thiện chí, tự
do và tự lập, cứu xét và áp dụng vào cuộc sống tổ chức thực tế
xã hội " bằng những chương trình can đảm và gan dạ " ( id.).
Giờ đây, tiến trình từ "
đê nghị " đến " hành động " không phải là những gì
mới lạ hiện nay, mà luôn luôn vẫn là một đòi buộc cần thiết
phải có trong việc người tín hữu Chúa Ki Tô phục vụ thế giới.
Qua những gì được đề
cập, chúng ta thấy cần phải lưu ý đến hai nhắn nhủ quan trọng:
a) Điều thứ nhứt, đó
là chính người tín hữu giáo dân ( dĩ nhiên không phải một mình
họ ) có bổn phận thực hiện những gì chính đáng đã được chọn lựa
trong lãnh vực trần thế, bởi lẽ lãnh vực trần thế là môi trường
sống và hoạt động của họ, từ gia đình, học đường, đến hiệp hội,
chính đảng, cơ chế quốc gia và cả liên hệ quốc tế.
b) Điều thứ hai, như
chúng ta biết, mặc dầu bổn phận chính của Giáo Hội là bổn phận
tôn giáo,
- " rao giảng
Phúc Âm", như ĐTC Gioan Phaolồ II nói,
nhưng bổn phận cá biệt
đó không miễn chuẩn cho Giáo Hội hiện diện trong các lãnh vực
trần thế, bởi vì
- "... trong Phúc
Âm có con người ..., Đức Giáo Hoàng luôn luôn đề cập đến con
người.Đức Giáo Hoàng bênh vực con người" ( id.)
Bởi đó đòi buộc Giáo Hội
phải can đảm hiện diện và hiện diện với tư cách ngôn sứ,
không lẫn lộn với bổn phận trần thế của người tín hữu giáo dân
và những ai thành tâm thiện chí, có đức tin hay không cũng vậy,
để huớng dẫn, nâng đỡ và khuyến khích xây dựng một " nền văn
minh tình thương ", xứng đáng với đời sống con người,
- " được dựng nên
giống hình ảnh Thiên Chúa " ( Gen 1, 27)
-
và là " con Thiên Chúa " ( Mt
6, 9).
Nói cách khác, sự biến chuyển từ "
lời đề nghị " đến " động tác " để thục hiện một "
nền văn minh tình thương " được thể hiện qua hai hình
thức:
- hình thức thứ nhứt, đó là qua
sự hiện diện của các người tín hữu giáo dân trong xã hội và
chính trị, đó là sự hiện diện tác động chính yếu của họ, không
ai có thể thay thế được;
- kế đến là sự hiện diện xã
hội-chính trị của Giáo Hội dưới một hình thức khác, đó là hiện
diện của cộng đồng Ki Tô giáo, một cách đặc biệt của những vị
thừa tác viên trong cộng đồng, để giúp phổ biến, giải thích và
chuẩn định những gì đã, đang và sẽ thực hiện trong xã hội-chính
trị, dưới ánh sáng các nguyên tắc Phúc Âm.
( Nhiên cứu thêm: Sự hiện
diện của cộng đồng Ki Tô hữu và các tín hữu giáo dân trong các
lãnh vực xã hội-chính trị, cfr. Tổng Lược Huấn Dụ Xã Hội
của Giáo Hội, n. 83).
VAI TRÒ
TRẦN THẾ KHÔNG THỂ THAY THẾ CỦA NGƯỜI TÍN HỮU GIÁO DÂN
I - Vai trò không thể
thay thế của người tín hữu giáo dân.
1) Đức Giáo Hoàng Gioan
Pholồ II trong phần đầu của Thông Điệp " Người tín hữu giáo
dân" ( Christifideles laici) đã đề cập đến vai trò
không thể thay thế của người tín hũu giáo dân trong các lãnh vực
trần thế như sau:
- " Trong thời điểm huy hoàng
và thảm đạm nầy của lịch sử, trước ngàn năm thứ ba đang đến,
những hoàn cảnh mới, đối với Giáo Hội cũng như xã hội, chính trị
và kinh tế, hiện nay đòi buộc với một động lực đặc biệt tác động
của các người tín hữu giáo dân. Nếu thái độ dững dưng buông trôi
lúc nào cũng có thể bị coi là cách hành xử không thể chấp nhận
được, thì trước thời điểm hiện tại thái độ đó là thái độ phạm
tội. Không ai được phép ăn không ngồi rồi phủi tay, điềm nhiên
toạ thị " ( ĐTC Gioan Phaolồ II, Christifideles laici (
30.12.1988), n. 3).
Giải thích một cách nôm na câu văn
vừa kể của Thông Điệp: người tín hữu giáo dân trưởng thành cần
phải dấn thân rao giảng Phúc Âm và đem phục vụ Ki Tô giáo vào
trần thế.
Nói cách khác, không có người
tín hữu giáo dân trưởng thành và dấn thân, hiện nay Giáo Hội
không thể hiện diện được giữa trần thế với các động tác để chu
toàn sứ mạng rao giảng Phúc Âm của mình.
Nói như vậy không có nghĩa là từ
nay Giáo Hội có thể rao giảng Phúc Âm không cần có hàng giáo
phẩm, mà là một nhận thức đức tin trưởng thành, để truyền bá
Phúc Âm trong môi trường đổi mới của thế giới hiện tại.
Nhận thức trên nói lên xác tín của
mọi thành phần Giáo Hội đều có bổn phận
- " tham dự vào lãnh vực
trần thế, là phận vụ phát xuất từ bản tính nội tại và sứ mạng
của mình" ( ĐTC G. Phaolồ II, Christifideles laici, n.
15).
Điều vừa kể về bổn phận hiện diện
giữa trần thế của Giáo Hội đưa đến một kết luận quan trọng:
- trần thế không phải là nơi
lưu đày cần phải thoát ly, vượt ngục, trốn chạy,
- mà là một " không gian
thần học ", nơi mà mọi tín hữu Chúa Ki Tô đều được mời gọi
sống và tác động để rao giảng và nhân chứng cho ơn cứu rỗi của
Chúa Ki Tô.
Người tín hữu giáo dân có bổn phận
đặc biệt trong phận vụ tác động đó của cả Giáo Hội:
- " Hình ảnh Phúc Âm về muối,
ánh sáng và men bột, mặc dầu liên hệ đến bất cứ thành phần nào
đối các môn đệ Chúa Giêsu, nhưng nói lên ý nghĩa áp dụng cá biệt
đối với người tín hữu giáo dân. Đó là những hình ảnh mang những
ý nghĩa huy hoàng, bởi vì nói lên không những người tín hữu giáo
dân là những người được hội nhập sâu đậm vào đất đai, vào trần
thế, vào cộng đồng nhân loại, mà còn và nhứt là nói lên điều mới
mẻ và đặc sắc của cộng cuộc hội nhập và tham dự của họ để phổ
biến Phúc Âm cứu rỗi " ( ĐTC G. Phaolo II,
Christifideles laici, n. 15).
Người tín hữu giáo dân, mặc dầu
với đặc tính trần thế của mình ( Gioan XXIII, Mater et
Magistra, n. 239), không phải là một cơ thể tách biệt, một
tế bào lơ lửng trôi đó trôi đây trong cơ quan thân thể Giáo Hội.
Người tín hữu giáo dân không nhận
lãnh lệnh dấn thân phục vụ xã hội và chính trị do Giám Mục
hay Cha Sở " ủy thác" cho, mà lãnh nhận sứ mạng trực tiếp từ
Chúa Giêsu trong Phép Rửa.
Ơn gọi sống và tác động giữa trần
thế của họ là ợn gọi bẩm sinh, được củng cố thêm bằng
Phép Thêm Sức và mỗi ngày lớn lên bằng Phép Thánh Thể, đặt người
tín hữu giáo dân có địa vị và quyền hạn đầy đủ trong cộng đồng
Giáo Hội.
Trong mối hiệp thông giữa các
thành phần trong cộng đồng Giáo Hội với nhau, không có sự phân
biệt về địa vị và trách nhiệm đối với sứ mạng chung của Giáo
Hội:
" Một vài thành phần do ý muốn
của Chúa Giêsu được thiết lập thành tiến sĩ, kẻ khác phân phát
các Bí Tích , cũng như mục tử cho người khác, nhưng vẫn luôn
hiện hữu quyền bình đẳng về địa vị và động tác chung đối với mọi
tín hữu trong việc xây dựng thân thể Chúa Ki Tô" ( Lumen
Gentium, n. 32).
2) Phận vụ tổng hợp của
người tín hữu giáo dân.
Trở lại vai trò của người tín hữu
giáo dân, chúng ta thấy được họ là những người có vai trò "
tổng hợp".
Trước hết, trong cuộc sống cá nhân
của mình, người tín hữu giáo dân là người tổng hợp
- giữa đức tin và cuộc sống
lịch sử trần thế,
- giữa đức tin và văn hoá,
- giữa đức tin và chính trị, mà
chính Giáo Hội cũng phải hành xử tương tợ để có thể " hiện
diện" rao giảng Phúc Âm giữa trần thế.
- " Nhân chứng huy hoàng và
có sức thuyết phục của sức mạnh có khả năng chuyển đổi của Phúc
Âm là sự tổng hợp sống động mà người tín hữu giáo dân biết thực
hiện giữa Phúc Âm và cuộc sống thường nhật " ( ĐTC G.
Phaolồ II, Christifideles laici, n. 34).
Cũng vậy nhân chứng có khả năng
thuyết phục của một nền văn minh mới mẻ đặt nền móng trên
tình thương mà Giáo Hội có thể thực hiện được là
- khả năng tổng hợp giữa Lời Chúa
và cuộc sống,
- giữa rao giảng Phúc Âm và thăng
tiến con người,
- giữa tình thương đối với Chúa và
phục vụ anh em.
Bổn phận không ai có thể thay
thế được
đó
là bổn phận của người tín hữu giáo dân, đem ra thực hành
những gì hàm chứa trong huấn vụ xã hội của Giáo Hội.
Chỉ có thể qua người tín hữu giáo
dân, mà Giáo Hội hiện diện được đầy đủ và hiệu nghiệm trong các
lãnh vực trần thế, và thực hiện được trung thành sứ mạng mà Chúa
Giêsu đã ủy thác cho, khi Người lập Giáo Hội: loan báo
và thực hiện ơn cứu rỗi bằng rao giảng Phúc Âm và thăng tiến con
người.
II - Vai
trò người tín hữu giáo dân trong chính trị.
a) Chưa bao giờ Giáo Hội nhấn
mạnh đến việc người tín hữu giáo dân cần thiết phải hiện diện
và hiện diện năng động, kể cả chủ động, trong lãnh
vực xã hội và chính trị như hiện nay.
Giáo Hội luôn luôn nhắc đi nhắc
lại và nói một cách rõ ràng việc cần thiết người tín hữu giáo
dân trung thực biến đổi, chuyển hóa các nội dung Huấn Dụ Xã Hội,
mà Giáo Hội đã liên tục huấn dạy trên 100 năm nay, thành thực
hành, biến xã hội con người đang sống thành tổ chức một "
xã hội tình thương".
Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolồ II đã
khuyến khích người tín hữu giáo dân phải hiện diện tích cực,
năng động và chủ động trong lãnh vực xã hội và chính trị,
ngay cả việc dấn thân vào các lãnh vực vừa kể, lãnh vực của
những ai hành xử công quyền, có thể là môi trường và cơ hội cho
nhiều nguy hiểm lệch lạc luân lý:
- " Người tín hữu giáo dân
không thể vắng bóng trong việc tham dự vào chính trị (...).Những
tố cáo cho rằng làm chính trị là làm để được thành đạt, lấy
quyền bính làm thần tượng, là môi trường đầy tham nhủng (...)
hay ngay cả ý kiến cho rằng (...) chính trị là môi trường chắc
chắn sẽ đưa đến nguy hiểm luân lý. Tất cả những suy nghĩ đó
không cách gì có thể biện minh cho tâm trạng tiêu cực, cũng như
cho " thối thoát vắng bóng" của người tín hữu Chúa Ki Tô trong
công việc chung " ( ĐTC G. Phaolồ II, Christifideles
laici, n. 42).
Lý do tại sao Giáo Hội luôn luôn
mời gọi khẩn thiết và nhấn mạnh sự hiện diện không thể thiếu của
người tín hữu giáo dân trong chính trị?
a) Lý dó thứ nhứt của các lý do,
đó là những thay đổi sâu đậm về xã hội trong thời đại chúng ta.
Những cuộc thay đổi và khủng hoảng
của thế giới hiện đại trực tiếp kêu cứu đến Giáo Hội, đến suy tư
và động tác của các tín hữu trong Giáo Hội.
Công Đồng Vatican II đã nhiều lần
nhấn mạnh đến ảnh hưởng của Giáo Hội liên quan đến các hoàn cảnh
lịch sử và đến các biến chuyển xã hội ,văn hoá:
- " Giáo Hội cùng bước đi
với cả nhân loại và có kinh nghiệm cùng chung số phận với thế
giới" ( Gaudium et Spes, n. 41.
Bức tường Bá Linh đã sụp đổ, vừa
đánh dấu biến cố phá sản của ý thức hệ cuối cùng còn sót lại của
thế kỷ 18. vừa báo động cho chúng ta biết những thử thách luân
lý của thế kỷ 20 mà chúng ta còn đang nắm trong tay.
Giải quyết vấn đề, liên quan đến
một tương lai tươi đẹp hơn cho nhân loại, hệ tại ở việc
chuyên cần, dấn thân canh tân hoá xã hội và chính trị, có khả
năng giải đáp thoả đáng các liên quan luân lý của những khúc mắc
cần được giải quyết.
Hiện nay không ai còn ngây thơ cho
rằng một xã hội lý tưởng mới được phát sinh chỉ là kết quả của
phương thức tổ chức hiệu năng và hữu hiệu kinh tế, luật pháp hay
quân sự.
Tất cả chúng ta đều xác tín rằng,
tương lai ngày mai sẽ sáng lạng hơn, cùng chung với việc thay
đổi và thích hợp hơn các phương thức cấu trúc cho cuộc sống
chung, nếu chúng ta thực hiện được những thay đổi về tâm
thức và lối sống, được hướng dẫn bằng những thay
đổi theo những giá trị chính xác luân lý và tôn giáo.
Nhìn lại thế kỷ 20 vừa qua đi,
chúng ta thấy những gì đã xảy ra, chứng thực một cách thảm đạm
và chính xác những gì Đức Giáo Hoàng Phaolồ VI đã tuyên đoán:
- " Con người chỉ có thể
thực hiện được chính mình, bằng cách siêu nhiên hoá chính mình(
se transcendendum)...Dĩ nhiên, con người có thể tổ chức cuộc
sống trần gian không cần có Chúa, nhưng không có Chúa, thế nào
rồi con người cũng sẽ tổ chức cuộc sống làm hại cho chính mình"
( Paolo VI, Populorum progressio, n. 42).
Giữa cơn khủng hoảng siêu nhiên và
luân lý như vừa kể của cuộc sống xã hội hiện tại, làm sao người
tín hữu Chúa Ki Tô lại có thể vắng bóng được?
b) Giáo Hội đã trưởng thành -
nhứt là nhờ Công Đồng Vatican II -, ý thức hơn về các liên hệ
của sứ mạng truyền giáo của mình, sứ mạng rao giảng Phúc Âm mà
mình có bổn phận đem đến cho con người liên hệ và hàm chứa bổn
phận, ánh sáng và sức mạnh có thể góp phần để làm cho sinh
trưởng ra một xã hội mới, công bằng hơn, thân hữu và
liên đới hổ tương hơn, yêu thương hơn cho cộng đồng nhân loại.
Ý thức hơn về sứ mạng của mình và
về mối liên quan nội tại giữa rao giảng Phúc Âm và thăng tiến
con người, nói lên một chuổi các nguyên cớ khác, khiến Giáo Hội
hôm nay xác nhận rằng mình có quyền và bổn phận hiện diện trong
xã hội con người.
Góp phần xây dựng một xã
hội nhân bản hơn, liên đới thân hữu hổ tương hơn là
phần thiết yếu của chính sứ mạng truyền giáo của Giáo Hội.
Bởi đó càng lúc càng thường xuyên
hơn, không những Giáo Hội cho biết lý do về việc huấn dạy,
- đưa ra các chỉ thị liên quan
đến khuôn mẫu xây dựng một xã hội nhân bản, xứng đáng với nhân
phẩm con người, con Thiên Chúa của mình,
- mà còn đưa ra những tiêu
chuẩn phải có cho việc kiến tạo và thực thi xã hội lý tưởng đó.
Qua những gì vừa kể, các tiêu
chuẩn mà Giáo Hội đưa ra liên quan đến việc tổ chức một xã hội
tốt đep hơn cho con nguời gồm hai lãnh vực:
+) Việc lựa chọn đường
lối xã hội- chính trị của người tín hữu giáo dân:
- " Người tín hữu giáo dân
có bổn phận làm cho Giáo Hội thể hiện và năng động tích cực ở
những nơi và trong những trường hợp, trong đó Giáo Hội không có
cách nào trở thành muối cho thế gian, nếu không phải là qua
chính họ" ( Lumen Gentium, n.33), nghĩa là trong
những lãnh vực trần thế, để chia xẻ số phận và các vấn đề của
người nghèo, của kẻ bị loại ra bên lề xã hội, trong các hoàn
cảnh tương phản và tranh chấp xã hội, trong lãnh vực việc làm,
trong gia đình, học đường, nghề nghiệp.
Việc
lựa chọn có tính cách tôn giáo, của cộng đồng Giáo Hội:
Chính việc lựa chọn tính cách tôn
giáo của cồng đồng Giáo Hội là hình thức hiện diện thứ hai trong
xã hội của Giáo Hội, hiện diện qua những ai nhờ ơn gọi được mời
gọi trở thành thừa tác viên, đáp ứng lại ơn kêu gọi của mình.
Ơn gọi sống đời người tín hữu
giáo dân và ơn gọi chủ chăn, thừa tác viên qua phép truyền chức,
không phải là hai lối chọn lựa trái ngược nhau, cho bằng là hai
cách sống bổ túc cho nhau .
Như mọi nổ lực rao giảng Phúc Âm
cần được thể hiện bằng động tác phục vụ biến cải xã hội thành xã
hội xứng đáng với nhân phẩm con người, cũng vậy mọi cuộc dấn
thân chuyên cần để thăng tiến con người, phục vụ dưới ánh sáng
Phúc Âm, luôn luôn biến thành động tác rao giảng Phúc Âm:
- " Hành động vì công lý và
tham gia cải tiến thế gian đều thể hiện rõ rệt cho chúng ta
chiều hướng cấu trúc cho việc rao giảng Phúc Âm, nghĩa là sứ
mạng của Giáo Hội đem ơn cứu rỗi đến cho nhân loại và giải phóng
con người khỏi mọi trạng thái áp bức" ( Sinodo 1971,
Documento sulla giustizzia nel mondo, Introduzione, in EV
IV/1243).
Qua những tư tưởng dẫn nhập vừa
được đề cập, lịch sử và thần học, Giáo Hội có thể rút ra những
lý do chính cho việc nhấn mạnh mời gọi người tín hữu giáo dân
dấn thân vào các lãnh vực xã hội, nhứt là lãnh vực chính trị.
III -
A
- Tầm vóc quan trọng của chính
trị.
Có hai lý do thúc đẩy Giáo Hội
nhấn mạnh đến bổn phận của người tín hữu giáo dân tích cực dấn
thân vào chính trị:
a) Lý do thứ nhứt
được
đặt nền tảng trên vai trò quyết định của chính trị đối với đời
sống cá nhân và xã hội của con người, mặc cho những bất toàn và
giới hạn của nó.
Ai trong chúng ta cũng có kinh
nghiệm trên bản thân những quyết định chính trị liên quan đến
mình, ảnh hưởng đến đời sống cá nhân và xã hội của mình?
- Việc tăng thuế trên giá xăng
dầu,
- tăng hay giảm thuế trị giá gia
tăng của các sản phẩm nhu yếu,
- tăng giá phiếu khám sức khoẻ mỗi
khi vào bệnh viện,
- tăng thêm hay giảm lệ phí học
đường đối với con em, tùy theo lợi tức của phụ huynh,
- tăng thêm mức tuổi tối thiểu để
được về hưu...
Đó là gì, nếu không phải là những
quyết định chính trị, đụng chạm thẳng đến mức sống vá túi tiền
của chúng ta?
Đó là chưa kể nên đánh hay làm hoà
với Cam bốt, Ký thoả ước thương mãi với Hoa Kỳ và Tây Âu hay
với Trung Cộng, hay bán đất nhượng biển cho Trung Cộng, để Trung
Cộng " gật đầu " cho phép " bịt miệng" đàn áp
thẳng tay những ai " hó hé " đòi dân chủ, nhân quyền,
những quan niệm mà Trung Cộng chưa bao giờ có khả năng hiểu
nổi?
b) Lý do kế đến
có tính cách thần học: chính trị
có nguồn gốc căn nguyên được đặt trên bản thể con người và cuộc
sống xã hội của con người.
Nói cách khác, chính trị được đặt
nền tảng trên chính bản thể con người, trên những gì Chúa muốn
cho cách sống của con người, khi Ngài dựng nên con người:
- " Dĩ nhiên là cộng đồng
chính trị và công quyền có nền tảng của chúng được đặt trong bản
tính của con người và do đó thuộc về trật tự đã được Chúa thiết
lập" ( Gaudium et Spes, n.74).
Như vậy chính trị,
nếu được tổ chức và sống hành xử một cách chính đáng phải có,
trong tinh thần phục vụ, thành tín và tương ứng với khả năng, là
một trong những hoạt động quan trọng nhứt.
Bởi vì chính trị ảnh hưởng một
cách quyết định đến cuộc sống con người và liên hệ đến các khía
cạnh nền tảng của đời sống cá nhân và chung sống xã hội: gia
đình, việc làm, sức khoẻ, học đường, nhà cửa và cả đến việc bảo
vệ các quyền bất khả xâm phạm của con người.
Hơn nữa, nhiều quyết định chính
trị ảnh hưởng quan trọng đến các thế hệ tương lai và đến vận
mệnh của nhân loại, nhứt là trong viễn ảnh liên hệ toàn cầu hoá
của thế giới hiện tại của chúng ta.
Còn nữa, sau khi bức tường Bá Linh
sụp đổ, ý thức hệ không tưởng của Cộng Sản đã bị phá sản, cuộc
chống đối giữa ý thức hệ Cộng Sản và không Cộng Sản không còn
nữa, ít nhứt là đối với những Quốc Gia Tây Âu, ( nếu không phải
là những cuộc chống đối cuối cùng để đánh sập tiệm một vài nhóm
lãnh đạo cố chấp nào đó, còn cố bám díu để giữ lấy quyền hành,
chà đạp con người và hút máu dân)
Nhưng một khi những cuộc chạm trán
ý thức hệ không còn, xã hội dễ trở thành xã hội đa nguyên và nếu
xã hội đa nguyên không có được những giá trị cố định về
con người hướng dẫn, xã hội sẽ trở thành bất định và dễ
băng hoại.
Người tín hữu Chúa Ki Tô là những
người mang trong mình giá trị cao cả về địa vị con người, có thể
góp phần quan trọng định hướng cho xã hội.
B - Thăng tiến con người là
yếu tố thiết yếu của sứ điệp Phúc Âm.
Và đây là những gì chúng ta biết
được về đề tài đang bàn qua các Văn Bản
Tổng Lược
Huấn Dụ Xã Hội của Giáo Hội:
( Compendio della Dottrina Sociale
della Chiesa).
N. 66:
Huấn dụ xã hội là phần thiết yếu
của chức năng rao giảng Phúc Âm của Giáo Hội.
Tất cả những gì có liên quan đến
cộng đồng con người, đến các hoàn cảnh và vấn đề liên quan đến
công lý, giải thoát, phát triển, liên hệ giữa các dân tộc, hoà
binh, không phải là những gì ngoại tại không liên quan gì đến
rao giảng Phúc Âm. Và việc rao giảng Phúc Âm sẽ không đầy đủ,
nếu lời kêu gọi vẫn tiếp tục không liên kết nhau giữa Phúc Âm và
đời sống thực tế, cá nhân và xã hội của con người.
Giữa rao giảng Phúc Âm và thăng
tiến con người có những mối liên hệ sâu đậm:
- Các mối liên hệ trên bình
diện nhân loại, bởi vì con người được Phúc Âm rao giảng cho
không phải là một con người trừu tượng, mà là con người với các
điều kiện xã hội và kinh tế thiết thực của mình.
- Các mối liên hệ trên bình
diện thần học, bởi vì không ai có thể tách rời chương trình tạo
dựng ra khỏi chương trình cứu rỗi được. Bởi lẽ chương trình cứu
rỗi liên hệ đến cả những hoàn cảnh thực tại bất công cần phá đổ
và hoàn cảnh thực tại công bình cần được xây dựng.
- Các mối liên hệ đặc biệt
trên bình diện Phúc Âm, đó là mối liên hệ đến bác ái: thật vậy,
làm sao có thể tuyên bố một điều răn mới, mà không thăng tiến
công lý và hoà bình thực sự, thăng tiến thực sự làm cho con
người được triển nở hoàn hảo"
( ĐTC Phaolồ VI, Evangelium nuntiandi, n.31).
N. 67:"
Huấn Dụ Xã Hội của Giáo Hội tự mình đã có giá trị là một dụng
cụ để loan truyền Phúc Âm" ( ĐTC G. Phaolồ II,
Christifideles laici, n. 31).
Và Huấn Dụ Xã Hội của Giáo Hội
luôn luôn được phát triển và canh tân giữa sứ điệp Phúc Âm và
lịch sử con người.
Hiểu như vậy, chúng ta hiểu được
Huấn Dụ Xã Hội của Giáo Hội là phương thức đặc biệt để thực thi
phận vụ rao giảng lời Chúa và phận vụ ngôn sứ:
- " Đối với Giáo Hội, huấn
dạy và phổ biến Huấn Dụ Xã Hội thuộc về sứ mạng rao giảng Phúc
Âm của mình và là phần chính yếu của sứ điệp Ki Tô giáo, bởi vì
các huấn dụ đó cống hiến cho con người những hệ trong trực tiếp
đến cuộc sống xã hội, đặt khuôn viên cho các động tác thường
nhật và chiến đấu cho công chính bằng nhân chứng rằng Chúa Ki Tô
là Đấng Cứu Thế" ( ĐTC G. Phaolồ II, Christifideles
laici, II, n. 5).
Như vậy Huấn Dụ Xã Hội của Giáo
Hội không phải là một lợi điểm hay hành động ngoại vi, thêm vào
sứ mạng của Giáo Hội, mà chính là trung tâm điểm của phận vụ.
Qua Huấn Dụ Xã Hội,
- " Giáo Hội loan báo Thiên
Chúa và mầu nhiệm cứu rỗi của Chúa Giêsu cho mỗi con người, và
đồng thời cũng mạc khải chính con người cho con người" (
id., n. 54).( Pontifico Consiglio della Giustizia e della
Pace, Compendio della Dottrina Sociale della Chiesa, Libreria
Editrice Vaticana, Città del Vaticana, 2004, 35-36).
Và phận vụ đó của Giáo Hội, được
thực thi không những bằng lời rao giảng, mà còn bằng cả nhân
chứng.
Thượng Hội Đồng các Giám Mục năm
1987 về " Ơn kêu gọi và sứ mạng của người tín hữu giáo dân
trong Giáo Hội và giữa trần thế ", lấy lại đề tài vừa đề cập
đến, được Công Đồng Vatican II đưa ra ánh sáng và được Thượng
Hội Đồng năm 1971 xác nhận, trong lời kêu gọi cuối cùng như
sau:
- " Việc dấn thân vào động
tác xã hội - chính trị của người tín hữu giáo dân, có nguồn gốc
từ trong đức tin của họ, bởi vì đức tin soi sáng toàn vẹn con
người và đời sống (...). Bởi đó muốn sống chính trực đời sống
đức tin và đời sống thường nhật của mình, cách sống đó phải được
đi đôi với việc dấn thân của người tín hữu giáo dân vào lãnh vực
công cộng, vào việc họ tham dự vào các cơ chế chính trị và xã
hội, cũng như góp phần vào cuộc sống thường nhật để thấm nhuần
các cấu trúc và hoạt động trần thế bằng ánh sáng Phúc Âm" (
Sinodo 1987, Vocazione e missione dei laici nella Chiesa e
nel mondo, Appello finale, . 10, in EV X/2230).
Thăng
tiến con người và rao giảng Phúc Âm liên hệ chặt chẽ với nhau.
Do đó, không thể có môt cuộc rao
giảng Phúc Âm thực sự với ý nghĩa đầy đủ phải có, nếu không tạo
được tiến bộ xã hội và thăng tiến con người.
Thật vậy, Đức Giáo Hoàng Gioan
Phaolồ II đã xác quyết với chúng ta:
- " Con người là con đường
tiên khởi và căn bản của Giáo Hội, con người được hiểu theo chân
lý trọn vẹn việc hiện hữu của mình, của cá nhân con người mình
và của những gì liên hệ đến thực thể cộng đồng và xã hội của
mình" ( ĐTC G. Phaolồ II, Redemptor hominis, n. 14, in
EV VI/1209).
Rao giảng Phúc Âm không chỉ có
nghĩa là loan báo minh bạch sứ điệp Ki Tô giáo, mà đồng thời còn
có nghĩa là soi sáng lương tâm và trí nảo bằng ánh sáng Phúc Âm,
thông truyền cho con người nghị lực và phương thế có tính cách
luân lý - tôn giáo, mặc dầu là nghị lực và phương thế có tính
cách siêu nhiên, có khả năng định hướng các lựa chọn trần thế,
văn hóa, xã hội, chính tri, kinh tế, để góp phần quan trọng xây
dựng một cuộc sống xứng đáng với con người hơn, công chính hơn.
Điều vừa kể giải thích tại sao Lời
Chúa, cần phải được " hội nhập văn hoá " (
inculturazione) , nếu muốn được mọi người hiểu rõ và tự do
đón nhận.
" Hội nhập văn hóa" là Lời
Chúa phải được diễn dịch thành những giá trị, tư tưởng,
ngôn ngữ và phong tục tập quán của mỗi dân tộc.
Và như vậy, một khi được tự do đón
nhận, Lời Chúa có thể định hướng, qua tiến trình trung gian
điều giải ( mediazione) đối với chính trị, nền tảng cấu trúc
và cơ chế Quốc Gia.
Không thể rao loan báo và sống
Phúc Âm trong các hoàn cảnh lịch sử khác nhau, nếu chúng ta
không thay đổi và cải thiện được thế giới con người, dĩ nhiên là
cải thiện cả đường lối chính trị:
- người công nhân hay chủ nhân
hành động như là người tín hữu Chúa Ki Tô trong lãnh vực mình,
thay đổi và cải thiện hoá thế giới làm việc.
- học sinh, sinh viên và giáo
chức sống sứ mạng học đường như là bổn phận phải có của người
tín hữu Chúa Ki Tô, họ thay đổi và cải thiện hóa thế giới học
đường.
- nhà chính trị tác động lãnh
vực chính trị, như là bổn phận phải có của người tín hữu Chúa Ki
Tô, nhà chính trị thay đổi và cải thiện hóa thế giới chính trị.
Tiến sĩ Nguyễn Học Tập
|
VỀ MỤC LỤC |
|
ỨNG SINH LINH MỤC HỌC & SỐNG LINH ĐẠO LINH
MỤC GIÁO PHẬN |
LTS. Đặc
San GSVN tiếp tục hân hạnh được giới thiệu những tài liệu về
"Đào Tạo Và Tự Đào Tạo Linh Mục" của Lm. Micae-Phaolô Trần Minh
Huy, pss trong suốt thời gian dài đã qua và sắp đến. BBT xin
chân thành cám ơn Cha vì dù các học trò của Cha có thể chưa được
biết hết tài liệu quí này, nhưng Cha vẫn sẵn lòng cho chúng con
phổ biến rộng rãi qua Đặc San điện tử GSVN.
GSVN
Mời thăm Blog của
Lm. Trần Minh Huy
http://chivilongchuathuongtoi.blogspot.com/
BẢN THẢO
ỨNG SINH LINH MỤC HỌC &
SỐNG LINH ĐẠO LINH MỤC GIÁO PHẬN
GIÁO TRÌNH TU ĐỨC LỚP THẦN II & III
ĐẠI CHỦNG VIỆN THÁNH GIUSE HÀ NỘI
2011-2012
LỜI NÓI ĐẦU
Sau nhiều năm chia sẻ với các ứng sinh linh
mục và tu sĩ thuộc nhiều giai đoạn được đào tạo và tự đào tạo,
từ những gì tôi đã học hiểu, sống và trải nghiệm bản thân,
kể cả những thăng trầm va
vấp trong gần suốt 73 năm tuổi đời và 40 năm tuổi linh mục,
tôi nhận ra một thực tế rất hữu ích rằng chúng ta cần cùng nhau
học với vị thầy đích thực đầu tiên là Chúa Giêsu Kitô Mục Tử
Nhân Lành để trở nên đồng hình đồng dạng với Ngài mỗi ngày một
hơn. Tiếp đến, học với các lãnh đạo Giáo Hội, học với các Giám
Mục, học với các linh mục đàn anh, học với nhau, học với các đàn
em, học với các tu sĩ nam nữ, học với giáo dân, học với người
già, học với người trẻ, học với em bé, học với người tốt để làm
điều tốt như họ, học với người xấu để tránh làm điều xấu của họ,
học với mọi người để hướng dẫn mọi người và cùng mọi người tìm
về với Chúa.
Mong muốn của tôi là cố gắng theo sát ánh
sáng Lời Chúa và giáo huấn của Giáo Hội để nhìn vào thực tế đang
diễn ra trong Giáo Hội và thế giới, đặc biệt trong bối cảnh Giáo
Hội và Xã hội Việt Nam, hầu giúp ứng sinh linh mục can đảm đối
mặt với thực tế của đời mình, và từ thực tế đó mà định hướng hay
tái định hướng đời sống và sứ vụ ơn gọi của mình theo đúng bản
chất đích thực của lý tưởng linh đạo linh mục giáo phận mà Chúa
và Giáo Hội mong muốn, thế giới và con người ngày nay đang chờ
đợi, với mục đích kép là vừa học cho mình sống hôm nay trong
Chủng viện vừa chuẩn bị hành trang cho sứ vụ của mình mai ngày
giữa lòng Giáo Hội và thế giới. Mong muốn ấy thúc đẩy và gợi
hứng cho tôi soạn tập tài liệu “ỨNG SINH LINH MỤC HỌC & SỐNG
LINH ĐẠO LINH MỤC GIÁO PHẬN”
này.
Quả thế,
ĐTC Biển Đức XVI
nhắc nhở: “Giáo
Hội cần đến những
linh mục được chuẩn bị tốt,
đầy khôn ngoan
nhờ
tình bạn
thân thiết
với Chúa Giêsu, liên lỉ
chạy đến
bàn tiệc Thánh Thể và nguồn mạch không thể
lay chuyển của Phúc Âm.
Từ hai nguồn mạch bất khả thay thế này, các con hãy biết múc lấy
sự nâng đỡ thường xuyên
và sự gợi hứng cần thiết cho đời sống và thừa tác vụ của các
con, cũng như cho lòng
chân thành
yêu mến
chân lý mà
hôm nay
các con được
mời
gọi đào sâu,
nhất là qua việc học hành và nghiên cứu khoa học
để rồi mai ngày
các con có thể chia sẻ với nhiều người
khác.”
Trong
thư bổ nhiệm ĐHY Ivan Dias làm đặc sứ đến chủ sự lễ Bế mạc Năm
Thánh Việt Nam 4-6/1/2011 tại Trung Tâm Thánh Mẫu Toàn Quốc
Lavang, Ngài cũng
đã định hướng con đường
phải đi cho chúng ta qua lời ủy thác: “Hiền đệ hãy nhắn nhủ
mọi người canh tân lòng nhiệt thành tông đồ, để nhờ niềm hy vọng
nảy sinh từ đức tin, lòng yêu mến đối với Thiên Chúa, Thiên Chúa
được mọi người chúc tụng, vì lòng từ bi của Ngài tồn tại muôn
đời (Spe salvi, 37). Để cho toàn dân Việt Nam được thịnh vượng
hơn, chúng tôi nhắn nhủ cộng đoàn Công Giáo tại Việt Nam, được
xây dựng theo nghĩa vừa nói, hãy tăng cường tình hiệp nhất giữa
các vị Chủ Chăn với nhau, cũng như giữa các vị Chủ Chăn với các
tín hữu, thăng tiến việc đào tạo nhân bản và tu đức cho các ứng
sinh linh mục, việc thường huấn cho các linh mục và tu sĩ nam
nữ, cũng như chuẩn bị thích hợp cho các giáo dân.”
Vấn đề thật cần thiết và
hữu ích, nhưng vượt quá tầm với của sức mình, nên tôi thêm hai
chữ “BẢN THẢO” ở giáo trình này. Phải, đây mới là bản thảo,
nghĩa là chưa xong, chưa đầy đủ, chưa tốt, cần phải được liên
tục sửa chữa, hiệu đính, cập nhật cái mới, bỏ đi cái cũ hay
không thích hợp. Tôi tha thiết xin mọi người, nhất là các bậc
Thầy, các bậc Đàn Anh giúp chỉ giáo và sửa chữa cho tôi, vì lợi
ích lớn hơn của các ứng sinh đang học làm linh mục và sẽ
thực sự sống tư cách linh mục trong sứ mệnh của Giáo Hội
giữa lòng thế giới không ngừng biến chuyển, đặc biệt trong bối
cảnh Giáo Hội và Xã Hội Việt Nam hôm nay. Tôi chân thành cám ơn
tất cả mọi người. Nguyện xin Chúa Thánh Thần tiếp tục cho đến
hoàn thành tốt đẹp những gì Ngài đã thương khởi sự cho chúng ta,
với chúng ta và qua chúng ta, nhờ lời cầu bàu mạnh thế của Mẹ
Maria Lavang và Thánh Cả Giuse.
Micae-Phaolô Trần Minh Huy pss
_______
|
VỀ MỤC LỤC |
|
TỆ NẠN BUÔN NGƯỜI
|
Ngày 10 tháng 12 , 2011 vừa qua,
Chính phủ Đài Loan đã trao giải thưởng Nhân Quyền và Dân Quyền Á
Châu năm 2011 cho Tổ chức BPSOS, Ủy Ban Cứu Người Việt Biển, mà
Tiến Sĩ Nguyễn Đình Thắng là Giám Đốc Điều Hành từ mấy thập niên
vừa qua.
Trong lễ vinh danh, Tổng Thống Đài Bắc Mã Anh Cửu tuyên
bố :“Cách
đây 5 năm, giới truyền thông trong và ngoài nước xem Đài Loan là thiên đường của
những kẻ buôn người. Ngày nay, quốc tế ghi nhận Đài Loan là quốc gia hàng đầu về
phòng và chống buôn người. BPSOS và Ts. Thắng, qua Liên Minh CAMSA, đã đóng góp
nhiều cho sự chuyển đổi này”.
Được biết, Tổ Chức BPSOS đã đóng góp ý kiến
và hợp tác với chính phủ Đài Loan trong việc xóa bỏ tệ nạn buôn
người ở Đài Loan từ hơn 6 năm vừa qua.
Tệ nạn buôn người vẫn là vấn đề trầm trọng
chưa được giải quyết tại khắp mọi quốc gia trên thế giới, kể cả
ở Hoa Kỳ. Do đó, mới đây Tổng Thống Barrack Obama đã công bố
Tháng Giêng năm 2012 là
National Slavery and Human Trafficking
Prevention Month. Theo ông: “Mạng lưới buôn người hoạt động tại
nội địa Hoa Kỳ lẫn các quốc gia khác và mặc dù sự lạm dụng tác
hại nhiều tới phụ nữ và bé gái, nạn nhân của thảm trạng toàn cầu
này bao gồm cả nam nữ và trẻ em ở mọi lứa tuổi. Từ ép buộc lao
động tới khai thác thương mại tình dục và lao nô tại gia ngoài ý
muốn, buôn người hoành hành không chừa một quốc gia nào”
Theo ước lượng của chính quyền liên bang,
mỗi năm có tên dưới 20,000 người đặc biệt là phụ nữ và trẻ em bị
buôn đưa vào Hoa Kỳ để khai thác tình dục và sức lao động. Ngay
tại Hoa Kỳ, hàng năm cũng có tới cả 200,000 bé gái rơi vào bàn
tay kẻ buôn người để phục vụ kỹ nghệ tình dục. Nạn nhân thường
là nhóm người có nhiều bất lợi xã hội như di dân, người bỏ gia
đình, người nghèo thất nghiệp, không nói được Anh ngữ. Đàn ông
cũng bị bắt cóc đưa vào làm việc tại nông trại, nhà hàng với số
lương bạc bẽo. Nữu Ước, Florida và California là 3 tiểu bạng có
tệ nạn buôn người nhiều nhất ở Hoa Kỳ.
Tại Việt Nam, nạn nhân của buôn người bị
đưa tới khai thác tại các quốc gia như Cao Miên, Trung Hoa, Thái
Lan, Hong Kong, Nam Hàn, Mã Lai Á, Đài Loan, Anh và Cộng hòa
Tiệp. Nạn nhân được tuyển chọn qua hình thức hôn nhân giả tạo,
hứa hẹn hão về việc làm, di dân lậu hoặc qua các dịch vụ tuyển
lựa lao động để xuất cảnh. Theo nguồn tin từ cơ quan an ninh Cao
Miên vào năm 2004, quốc gia này có khoảng 50,000 gái mãi dâm thì
đa số đều bị ép buộc đưa vào từ Việt Nam.
Hôn nhân giả tạo đang là hình thức buôn
người khá phổ biến tại Việt Nam. Theo nguồn tin từ nhà nước,
khoảng 10% các cuộc hôn nhân do mối giới với đàn ông Trung Hoa
trở thành nạn nhân của buôn người. Họ sẽ bị hãm hiếp bởi người
chồng, thậm chỉ bởi cả cha chồng. Đôi khi còn bị sang tên bán
đứng cho người đàn ông khác.
Hoàn cảnh đưa tới bị là nạn nhân của buôn
người tại Việt Nam và các quốc gia đang mở mang là do nghèo
khó, không có công ăn việc làm, ít học, bất ổn gia đình, không
hiểu rõ về tệ nạn buôn người cho nên dễ bị lừa gạt, bắt cóc.
Cũng có nhiều thiếu nữ ham “tham quan” du lịch bị lừa gạt qua
biên giới rồi bị bán để làm nghề mãi dâm hoặc lấy chồng ngoại
kiều.
Đã có nhiều trường hơp lạm dụng bạc đãi bắt
làm việc quá sức lao động đối với công nhân Việt Nam xuất cảnh.
Họ cầu cứu tới cơ quan đại diện ngoại giao của mình ở nước sở
tại, nhưng không được giúp đỡ thỏa đáng.
Việt Nam cũng đã cố gắng hợp tác với các
cơ quan quốc tế để chống tệ nạn buôn người, nhưng hiệu năng làm
việc chưa đạt chỉ tiêu. Lý do là mặc dù VN có luật lệ nhưng
không được áp dụng phân minh cũng như do chính quyền các cấp
tham nhũng, nhận hối lộ của kẻ buôn người rồi “xử lý” qua
loa.Việt Nam được xếp vào mức độ Tier 2 về giải quyết nạn buôn
người, có nghĩa là đã cố gắng nhưng chưa hết mình.
Tuyển tập
Báo cáo Hội nghị Sinh viên Nghiên cứu Khoa học lần thứ 7 Đại học
Đà Nẵng năm 2010 có ghi rằng “Tại
Việt Nam, theo Báo cáo kết quả thực hiện Chương trình 130/CP từ
năm 2005 đến nay cả nước đã phát hiện hơn 1.600 vụ mua bán phụ
nữ, trẻ em, trong đó có 4.300 phụ nữ, trẻ em bị mua bán. Riêng 6
tháng đầu năm 2009 đã xảy ra 191 vụ, trong đó có 417 phụ nữ, trẻ
em bị buôn bán. Cũng Báo cáo trên cho thấy trong số nạn nhân
trên thì 60% nạn nhân bị buôn bán tự trở về, 19% trở về qua con
đường giải cứu, 21% qua con đường trao trả. Trong đó có 60% tổng
số vụ mua bán sang Trung Quốc, 11% sang Camphuchia, số còn lại
sang Lào qua tuyến hàng không, tuyến biển để bán ra một số nước
khác. Địa phương xảy ra tình trạng trên nhiều nhất là Hà Giang,
Lào Cai, Lạng Sơn, Quảng Ninh, Hà Nội, Nghệ An, Lai Châu, Bắc
Giang.”
Một diễn tiến
điển hình của nạn buôn người có thể là:
Một thiếu nữ
nhà nghèo ở vủng quê xa xôi, có chút nhan sắc nhưng thất nghiệp,
ít học lại ước mơ có một việc làm ở một quốc gia hoa lệ như Hong
Kong, Nam Hàn. Cô được môi giới giúp hoàn tất mộng đẹp. Khi tới
đất “thần tiên”, cô bèn bị tịch thu giấy thông hành, hộ chiếu,
bị kẻ ác đánh đập hãm hiếp chán chê rồi bán cho động mãi dâm. Cô
phải tiếp cả chục khách làng chơi mỗi ngày mà không nhận được
thù lao, vì phải trả tiền nợ thủ tục xuất cảnh, di chuyển. Sau
một thời gian, cô bị bán cho động mãi dâm khác. Và cuộc đời cứ
như vậy tiếp diễn. Cô mắc bệnh HIV, sức khỏe suy sụp, muốn chạy
trốn mà không biết đi đâu, cầu cứu thì ngôn ngữ bất đồng và đang
bị cô lập. Khi may mắn được giải thoát thì thân tàn ma dại, về
nhà thì lãnh đủ những chê bai nhiếc móc thế gian…
Buôn người không phải là chuyện mới xảy ra,
mà đã xuất hiện từ nhiều trăm năm về trước với chế độ buôn bán
nô lệ. Đây là một sự vi phạm trầm trọng tới những quyền căn bản
của mỗi cá nhân như sự tự do đi lại, tự do làm việc, tự do lựa
chọn, tự do kiểm soát thể chất, tinh thần và chọn lựa tương lai.
Hiện nay, buôn người đứng hàng thứ 3 trong số các tội phạm kỹ
nghệ, sau buôn lậu khí giới và dược phẩm loại cấm. Theo Liên
Hiệp Quốc, buôn người đã mang về lợi nhuận cho các tổ chức chủ
mưu từ 7 tới 10 tỷ Mỹ kim mỗi năm với cả nhiều triệu nạn nhân.
Buôn người bây giờ được coi như một hình thức nô lệ mới, có tổ
chức quốc tế tinh vi khoa học hơn.
Cần phân biệt giữa buôn người với nhập cảnh
di dân bất hợp pháp. Buôn người có tính cách cưỡng bách còn di
dân lậu là theo ý muốn của con người, trả tiền để được kín đáo
nhập cảnh.
Tổ chức Liên Hiệp Quốc định nghĩa Tệ Nạn
Buôn Người với 3 đặc điểm:
- Hành động tuyển
chọn, chuyên trở, chuyển giao, tiếp nhận, chứa chấp nạn nhân
- Áp dụng phương thức dụ dỗ lường gạt hoặc
đe dọa, dùng sức mạnh hoặc ép buộc, bắt cóc nạn nhân
- Với mục đích khai thác nạn nhân để thu
lợi.
Sự khai thác có thể là để hành nghề mãi dâm
hoặc lạm dụng tình dục, bóc lột sức lao động, làm nô lệ hoặc để
bị lấy cơ quan bộ phận cơ thể. Theo thống kê, 79% nạn nhân là để
khai thác tình dục, 18% bắt lao động chân tay quá mức với lương
bổng rất thấp.
Nạn nhân sẽ bị đặt dưới sự kiểm soát của
nhóm chủ mưu dưới nhiều hình thức như:
- Bắt ký giấy nợ tiền cho tất cả các chi
phí về thủ tục xuất cảnh, chuyên chở, ăn uống, nhà ở…
- Tịch thu giấy tờ cá nhân, sổ thông hành,
giấy chiếu khán khiến cho nạn nhân không thể chạy trốn
- Bị đặt trong tình trạng sống riêng rẽ,
không được tiếp xúc với bất cứ ai nhất là không biết ngôn ngữ
mới
- Bị đe dọa trả thù cá nhân hơặc gia đình
nếu chạy trốn hoặc tiết lộ với nhà chức trách
- Đánh đập, hành hạ tâm lý nếu không làm
theo những gì mà kẻ chủ mưu bắt buộc như mãi dâm, làm việc quá
sức lao động…
Và hậu quả của nạn buôn người cũng vô cùng
tai hại, tai hại cả về thể xác lẫn tinh thần. Nạn nhân sẽ rơi
vào nhiều hoàn cảnh bệnh hoạn như:
- Sức khỏe suy nhược, thiếu dinh dưỡng, làm
việc quá sức lao động mà không được nghỉ ngơi
- Mắc các bệnh nhiễm qua tình dục như
HIV/AIDS. Phụ nữ bị khai thác tình dục mắc bệnh HIV 10 lần nhiều
hơn người bình thường.
- Mang thai ngoài ý muốn và không biết cha
đứa bé là ai
- Mắc các bệnh truyền nhiễm vì sống trong
điều kiện không có vệ sinh cá nhân, nơi ở quá chật hẹp, không có
nước sạch
- Rủi ro sức khỏe gây ra do lao động quá
sức như thương tích, nhiễm trùng ngoài da, bệnh đường hô hấp
- Ảnh hưởng tâm lý như buồn rầu, uất hận,
bực bội vì bị hành hạ, khai thác, làm việc quá sức hoặc lạm dụng
tình dục, mất ngủ, ác mộng, ý nghĩ tự hủy
Buôn người cũng đưa tới sự tan vỡ gia đình,
xã hội.
Nếu may mắn được giải thoát, về nhà sẽ bị
làng xóm không những không thương sót thông cảm mà lại bị ruồng
bỏ, chê bai, kéo dài cuộc sống cô đơn, đau khổ, buồn tủi cho số
phận.
Nạn nhân thường không tìm kiếm cứu vớt vì
sợ bị trả thù cho mình và cho thân thân, sợ bị trục xuất, không
hiểu rõ luật lệ địa phương. Nạn nhân cũng thường xuyên được thay
đổi chỗ ở và không được tiếp xúc với người ngoài do đó việc giải
thoát khó khăn.
Để đối phó với tệ nạn buôn người có tính
cách toàn cầu, Liên Hiệp Quốc cùng với các quốc gia đã hợp tác
với nhau để xóa bỏ hình thức thương mại bất hợp pháp này. Năm
2003, Liên Hiệp Quốc đã đưa ra một kế hoạch rất chi tiết bao gồm
sự phòng ngừa, xóa sổ và trừng phạt những tổ chức cũng như cá
nhân liên can tới buôn người đồng thời cũng cứu giúp nạn nhân.
Nhưng khó khăn giải quyết vẫn tồn tại ở nhiều quốc gia, trong đó
chính quyền bao che cho thủ phạm, vì quyền lợi cá nhân, tham
nhũng, hối lộ.
Kết
luận
Buôn người vẫn tiếp tục xảy ra. Nạn nhân
vẫn tiếp tục bị khai thác bóc lột. Hình thức nô lệ trước đây
được thành hình là với mục đích mở mang thuộc địa, phát triển
kinh tế, nhưng ngày nay buôn người- tân nô lệ- chỉ mang lợi
nhuận cho kẻ chủ mưu đồng thời là một hành động dã man, khai
thác bóc lột người nghèo, phá hoại hạnh phúc gia đình nạn nhân.
Bác sĩ Nguyễn Ý Đức
Arlington-Texas
www.bsnguyenyduc.com
|
VỀ MỤC LỤC |
CON LỢN LÒNG Chuyện phiếm của Gã Siêu |
Khi bàn về con lợn, con vật cầm tinh cho
năm Đinh Hợi 2007 này, gã tự hỏi :
- Tại sao cả Tây phương lẫn Đông phương đều
chọn con lợn làm biểu tượng của sự dâm đãng ?
Rất có thể vì một anh heo nọc được mang đi
gieo giống cho hầu hết các chị heo nái trong ấp. Cũng có thể vì
chị heo nái khi tới thời điểm…”động đực” thì bần thần, đứng nằm
không yên ?
Chưa hài lòng với câu trả lời ấy, gã bèn
phải “ngâm kíu” thêm.
Người phương Tây thì chịu ảnh hưởng của
Kitô giáo, mà Kitô giáo thì chịu ảnh hưởng của Do Thái giáo. Đối
với người Do Thái, thì lợn là một con vật ô uế và họ bị cấm
không được ăn thịt lợn.
Sách Lêvi viết như sau :
“Con heo, vì nó có chân chẻ làm hai móng,
nhưng không nhai lại: các ngươi phải coi nó là loài ô uế. Thịt
của chúng, các ngươi không được ăn, xác chết của chúng, các
ngươi không được đụng đến” (Lv 11,7).
Sách Macabêô kể lại rằng :
Sau khi chiếm được Giêrusalem, vua Antiocho
đã truyền cho người Do Thái phải lập các bàn thờ và phải sát tế
lợn, cũng như bắt họ phải ăn thịt heo và coi đó như một hành
động bội tín, chối bỏ niềm tin của mình (1Mcb 1,47; 2Mcb 6,18).
Các thầy thông luật còn cấm không cho đồng
bào của mình làm nghề chăn heo, chỉ trừ ra nhưng kẻ mạt rệp,
những bần cùng khố rách áo ôm như chàng trai hoang đàng mới đâm
đầu vào cái nghề xấu xa này mà thôi (Lc 15,15).
Có lẽ vì mang ấn tượng heo là một con vật ô
uế, nên trong tiếng Pháp có hai chữ xuất phát từ loài heo, loài
lợn, nhưng đều ám chỉ kẻ dâm đãng :
Trước hết là chữ “cochon” chỉ con lợn hay
con heo, nhưng cũng chỉ kẻ trụy lạc.
Tiếp đến chữ “porc” cũng vậy, vừa chỉ con
heo hay con lợn, nhưng cũng chỉ kẻ nhớp nhúa, thô tục.
Từ đó, chữ “porcnographie” có nghĩa là dâm
thư, dâm ảnh, dâm họa…Người Việt Nam chúng ta cũng ăn theo, khi
nói đến những loại phim…con heo, phim “cô-xoong”, tức là phim
khiêu dâm.
Ngoài ra, người Việt Nam còn dùng hình ảnh
“con lợn lòng” để nói về những ước muốn xấu xa nổi lên trong tâm
hồn, hay cụ thể hơn đó là nỗi đam mê…nhục dục. Nhân dịp đầu xuân
năm mới, gã xin bàn ra tán vào tí xíu về con lợn lòng này một tí
nhé.
Con lợn lòng trước hôn nhân
Trong sự
phát triển tình cảm bình thường, tới một lúc nào đó, những người
thân yêu trong gia đình và những người bạn cùng phái thưở nào
không còn đủ cho chúng ta nữa.
Lúc bấy giờ
chúng ta hướng tới một khuôn mặt rắn chắc hay một làn tóc mềm
mại, nghĩa là chúng ta hướng tới những người khác phái.
Trai và gái
hướng tới nhau, đó là chuyện bình thường như tục ngữ đã bảo :
- Trai thấy
gái lạ, như quạ thấy gà con.
Hai cực âm
và dương của thỏi nam châm hút nhau thế nào, thì trai và gái
cũng hướng tới nhau như vậy. Đó là lẽ thường tình. Vì thế, bè
bạn khác phái, tự nó không phải là điều xấu.
Tuy nhiên,
chúng ta cần phải có thái độ nghiêm túc và những giới hạn của
nó. Không thô kệch lố lăng hay lý la lý lắc. Cũng không nhút
nhát rụt rè hay “bế môn tỏa cảng”.
Trái lại,
hãy biết kính trọng nhau với tâm hồn cao thượng, với lời nói
thanh tao và những cử chỉ đứng đắn, để rồi nhờ đó chúng ta dần
dần tiến tới hôn nhân.
Nhìn vào xã
hội Việt Nam ngày xưa, trong phạm vi giao tiếp, các cụ ta vốn
thường quan niệm :
- Nam nữ
thọ thọ bất thân, nghĩa là trai gái không được thân mật với
nhau, thậm chí khi trao cho nhau vật gì, thì không được dùng tay
để chạm vào nhau.
Còn về hôn
nhân, các cụ ta thường nói :
- Cha mẹ
đặt đâu, con ngồi đó.
Gã đã từng
nghe thấy có ông bố mắng đứa con của mình như sau :
- Tao với
mẹ mày ngày xưa làm gì có trò chuyện, thông cảm, tìm hiều…cưới
nhau cái rụp, thậm chí chưa hề quen biết, thế mà vẫn đẻ ra chúng
mày rầm rầm. Còn chúng mày bây giờ bày đặt nhiều chuyện, rách
việc quá.
Tuy nhiên
quan niệm này đã bị coi như là…xưa rồi Diễm ơi. Nhìn những cô
cậu choai choai lai nhau trên xe gắn máy, phóng như bay ngoài
đường, có người đã phải chép miệng thở dài :
- Nam nữ cọ
cọ rất là…giật gân.
Hơn thế
nữa, ngày nay người ta chủ trương cần phải tìm hiểu nhau trước
bước vào cuộc sống hôn nhân, thế nhưng nếu không đề cao cảnh
giác, thì đây lại là những dịp để cho con lợn lòng xổ chuồng.
Thực vậy,
thay vì tìm hiểu nhau một cách đứng đắn và công khai, chẳng hạn
thăm dò qua bè bạn quen biết, gặp gỡ nhau trong gia đình trước
sự chứng giám của cha mẹ hay các anh các chi, thì lại hẹn hò
nhau một cách lén lút. Nơi thôn quê thì ở bụi tre, khóm chuối
hay đống rơm. Còn nơi thành thị thì ở rạp hát hay quán cà phê
đèn mờ…
Thay vì tìm
hiểu xem liệu mình có thể sống hòa hợp cùng nhau để xây dựng một
mái ấm hạnh phúc hay không ? Thay vì đưa ra những vấn đề như :
những đức tính cần thiết, lòng đạo đức, trình độ văn hóa, hoàn
cảnh gia đình, địa vị xã hội, tài sản đôi bên, tuổi tác, sức
khỏe…thì lại chỉ mải mê khám phá thân xác của nhau, thỏa mãn
những cảm xúc rạo rực và nếm thử trái cấm trước khi đi vào cuộc
sống lứa đôi.
Vì thế,
chuyện ăn ở với nhau trước hôn nhân, chuyện “ăn cơm trước kẻng”,
đã trở nên một hiện tượng đang tràn lan trong giới trẻ, mà hậu
quả cay đắng thường thì người con gái phải gánh chịu và ân hận
suốt cả một đời.
Thực vậy,
tâm lý người con trai bao giờ cũng muốn chinh phục. Mà chinh
phục càng khó khăn, thì chiến thắng mới vinh quang. Một cánh cửa
mà ai cũng qua được đâu còn gì là giá trị. Chính sự đoan trang
và đứng đắn mới là nét duyên ngầm, làm cho người con gái thêm
phần giá trị.
Trái lại,
một khi đã mang tiếng lẳng lơ, thì rất có thể sẽ hỏng cả đời con
gái. Nhiều lúc trước mặt mình, họ ca tụng thế này, họ khen ngợi
thế kia. Nhưng sau lưng mình và nhất là khi đã được thỏa mãn, họ
sẽ nhìn mình bằng một cặp mắt khinh bỉ, bởi vì họ thầm nghĩ :
- Mình dễ
dãi với họ, thì cũng rất có thể dễ dãi với những kẻ khác.
Lúc bấy giờ
chính người con gái cũng cảm thấy phẩm giá bị tổn thương vì bản
thân bị lừa gạt hay trở thành một thứ trò chơi.
Rất có thể
chỉ vì một phút yếu lòng mà sa ngã, để rồi đi vào chỗ bế tắc,
những người xưa cũng đã từng cảnh cáo :
- Kiếm củi
ba năm thiêu một giờ.
Và rồi dư
luận cũng sẽ mỉa :
- Gái chửa
hoang, các vàng không lấy.
- Không
chồng mà chửa mới ngoan,
Có chồng
mà chửa, thế gian sự thường.
Con
lợn lòng sau hôn nhân
Trong xã
hội Việt Nam ngày xưa, chỉ có một số ít người rủng rỉnh tiền bạc
mới vướng vào cái nạn “đa thê”, rước về dinh ba bốn bà, chứ còn
phần đông đều “nhất phu nhất phụ”, một vợ một chồng
- Thế gian
một vợ một chồng,
Chẳng như
vua bếp một ông hai bà.
Quan niệm
trên thật gần gũi với lập trường của Chúa Giêsu :
- Thưở ban
đầu, Thiên Chúa đã dựng nên một người nam và một người nữ. Bởi
đó người nam sẽ lìa bỏ cha mẹ mà kết hợp với vợ mình, để rồi cả
hai cùng trở nên một xương một thịt. Vậy sự gì Thiên Chúa đã kết
hợp, loài người không được phân ly.
Và Ngài còn
nghiêm ngặt hơn nữa :
- Ai nhìn
người nữ mà ước ao phạm tội thì đã ngoại tình trong lòng rồi.
Lý thuyết
là thế, nhưng trong thực tế nhiều ông chồng đã để cho con lợn
lòng của mình xổ chuồng, bằng những hành động ngoại tình, thầm
lén giao lưu tình cảm ngoài luồng, chia sẻ vụng trộm với người
thứ ba không phải là bà xã của mình. Vợ con đùm đề mà vẫn cứ
thích đèo bòng bồ nhí, cơm nhà không thèm ăn, lại cứ thích đi ăn
phở như bài thơ sau đây đã diễn tả :
- Bồ là phở
nóng tuyệt vời,
Vợ là cơm
nguội đáy nồi hẩm hiu.
Bồ là nơi
tỏ lời yêu,
Vợ là nơi
trút bao nhiêu bực mình.
Bồ là
rượu ngon trong bình,
Vợ là
nước ở ao đình nhạt phèo.
Nhìn bồ
đôi mắt trong veo,
Trông vợ
đôi mắt như beo gườm gườm.
Bồ tiêu
thì chẳng tiếc tiền,
Vợ tiêu
một cắc thì liền kêu hoang.
Bồ giỗi
thì phải xuống thang,
Vợ hờn bị
mắng, bị phang thêm liền.
…………………………………..
Vợ là cơm
nguội của ta,
Nhưng là
đặc sản thành cha láng giềng…
Đã là người
thì ai cũng đã hơn một lần cảm thấy con tim mình “lúc lắc” và
xúc động, đồng thời ít ra trong một khoảng thời gian nào đó cũng
đã cảm thấy những đòi hỏi của xác thịt và con lợn lòng cứ lồng
lộn lên đòi xổ chuồng, như ca dao đã bảo :
- Đó với
đây không dây mà buộc,
Tôi với
nàng không thuốc mà say.
Chính
Luther cũng đã phát biểu ý kiến như sau :
- Sự đòi
hỏi của sắc dục thật tự nhiên như sự đòi hỏi của cơm nước.
Rút kinh
nghiệm bản thân, nhiều nhà đạo đức đã mạnh dạn quả quyết :
- Khuynh
hướng này còn tồn tại hai mươi bốn giờ sau khi con tim đã ngừng
đập. Chính vì thế, về chuyện này không ai có thể nói mạnh được.
Trận chiến
tình cảm là một trận chiến tuy âm thầm, nhưng rất cam go và
không kém phần khốc liệt. Biết bao nhiêu vị vua chúa uy quyền,
biết bao nhiêu vị tướng lãnh tài giỏi, đánh lớn thắng lớn, đánh
nhỏ thắng nhỏ, càng đánh lại càng thắng, thế mà lại bị thua chạy
một cách thê thảm trong lãnh vực tình cảm. Chẳng hạn như hoàng
đế César, vua Kiệt, vua Trụ…Bởi đó, Napoléon đã có lý khi nói :
- Chiến
thắng được cả Âu châu còn dễ hơn chiến thắng chính bản thân
mình.
Trên mộ bia
của ông Saipion, người ta đã khắc ghi một câu đáng cho chúng ta
ghi nhớ :
- Ông
Saipion đã thắng nhiều trận oanh liệt, nhưng trận oanh liệt nhất
ông đã chiến thắng, đó là chiến thắng chính mình.
Sở dĩ như
vậy vì cuộc chiến tình cảm, cuộc chiến bản thân, là một cuộc
chiến cam go, đòi buộc chúng ta phải hy sinh, phải từ bỏ thật
nhiềm, mới có thể quản lý được con tim và làm chủ được những
tình cảm, để rồi chiến thắng.
Nếu chiến
thắng, chúng ta sẽ thâu lượm được những hậu quả tốt đẹp, còn nếu
thất bại, chúng ta sẽ phải gánh chịu những hậu quả thảm khốc.
Thực vậy,
nếu thất bại, thì dù là bác sĩ hay kỹ sư, dù là thủ tướng hay
tổng thống chăng nữa, mà đời sống tình cảm lem nhem, chắc chắn
cũng sẽ bị dư luận lên án gắt gao.
Cách đây đã
lâu, báo chí thế giới đã bàn luận sôi nổi về ông bộ trưởng chiến
tranh nước Anh tên là Profuno đã dính líu với một cô gái tên là
Christine Keller làm gián điệp cho Liên xô. Kết quả ông bộ
trưởng này bị thân bại danh liệt, cả một nội các bị sụp đổ vì vụ
tai tiếng này.
Gần đây,
báo chí cũng đã làm rùm beng về câu chuyện tình vụng trộm giữa
tổng thống Bill Clinton nước Mỹ với cô thực tập sinh tại tòa
Bạch ốc tên là Monica Lewinsky, khiến cho ông tổng thống này
phải một phen sứt bất sang bang…
Cho dù
những vụng trộm thầm lén, những chuyện đi ngang về tắt của
chúng ta chưa một ai biết đến, nhưng tục ngữ cũng đã cảnh cáo
:
- Đi đêm có
ngày gặp ma.
Tới một lúc
nào đó, câu chuyện bị đổ bể, lúc bấy giờ những người chung quanh
sẽ nghĩ gì về chúng ta ? Danh dự là một kho tàng quí giá không
thể nào mua được bằng tiền bạc, chắc chắn sẽ bị sứt mẻ. Đã một
lần mang tai mang tiếng, thì ông không còn là ông và bà chẳng
còn là bà.
Một khi con
lợn lòng đã xổ chuồng, người ta sẽ trở nên mù quáng, không còn
nghĩ tới danh dự, gia đình và xã hội. Người ta bỏ ngoài tai
những lời phê bình chỉ trích. Người ta như kẻ bị thôi miên, cắm
đầu làm nô lệ cho nỗi đam mê của mình. Trong một bài hát, Trịnh
công Sơn đã diễn tả :
- Tình yêu
như trái phá con tim mù lòa.
Thực vậy,
thánh Leonardo đã kể lại câu chuyện sau đây trong một bài giảng.
Một thiếu
nữ con nhà tử tế, được cha mẹ giáo dục cẩn thận. Ban đêm cô ngủ
trong căn phòng nhỏ ở trên lầu. Song có một chàng thanh niên
khéo tán tỉnh, đã dụ dỗ được cô.
Chìa khóa
cầu thang và cổng ra vào thì ông bố cất kỹ. Nhưng tình cảm mù
quáng thúc đảy khiến cho mỗi đêm, khi cả nhà đã ngủ, cô mở của
sổ, thòng giây tuột xuống để đi gặp người tình. Rủi thay một
ngày nọ, người đầy tớ bắt gặp, nó hỏi cô :
- Sao cô
liều lĩnh và táo bạo thế ?
Cô trả lời
:
- Tình dục
làm cho mù quáng.
- Cô trèo
như vậy nhỡ gẫy chân gẫy tay thì sao ?
Cô cũng trả
lời :
- Tình dục
làm cho mù quáng.
- Nhỡ ông
bà bắt được thì sao ?
Cô cũng chỉ
trả lời :
- Tình dục
làm cho mù quáng.
Nếu đọc lại
lịch sử thế giới, từ cổ chí kim, từ đông sang tây, chúng ta sẽ
ghi nhận được rất nhiều hành động điên khùng và mù quáng như
vậy.
Vua
Assureus nước Syria, chỉ vì say mê nét kiều diễm của Esther mà
bị mất nước. Đại tướng Holopherne, chỉ vì ngất ngây trước vẻ đẹp
của bà Judith mà bị mất đầu. Vua Herode, chỉ vì ngẩn ngơ trước
điệu múa của Salomê mà đã sai người lấy đầu Gioan Tiền Hô. Vua
Kiệt vua Trụ cũng chỉ vì chìm đắm trong sắc dục mà cơ đồ bị sụp
đổ. Vua Ngô phù sai chỉ vì nụ cười của nàng Tây thi mà sự
nghiệp bị tiêu tan.
Ngoài ra,
một khi con lợn lòng đã xổ chuồng, thì tiền bạc hao tốn hơi
bị…nhiều vì phải chu cấp cho “bồ nhí”, như ca dao đã diễn tả :
- Bắc thang
lên hỏi ông trời,
Đem tiền
cho gái, có đòi được không ?
Tình cảm mà
xây dựng trên tiền bạc, thì một khi tiền hết, bạc cạn, thì tình
cũng tan theo :
- Bây giờ
tiền hết gạo không,
Anh ơi, ở
lại mà trông lấy hòm.
Bao giờ
tiền có gạo còn,
Thì em ở
lại trông hòm cho anh.
- Một khi
túi hãy còn tiền,
Thì bồ
thắm thiết kề liền bên anh.
Một mai
hết sạch sành sanh,
Bồ đi vợ
lại đón anh về nhà.
Bồ là
lều, vợ là nhà,
Gió lớn
lều sụp, mái nhà còn kia.
Tóm lại,
ttình dục chỉ là một phương tiện trợ giúp cho tình yêu mà thôi,
chứ không phải là tất cả cho tình yêu. Con vật sống theo bản
năng và khi những đòi hỏi nổi lên, thì khó có thể chống cưỡng
nổi. Nhưng Con người thì khác. Các cụ ta ngày xưa đã từng bảo :
- Nhân linh
ư vạn vật. Có nghĩa là con người cao hơn con vật.
Sở dĩ như
vậy vì con người có trí khôn và ý muốn, được dựng nên giống hình
ảnh Thiên Chúa. Bởi đó, hãy dùng trí khôn và ý muốn mà làm chủ
lấy những đòi hỏi mù quáng của bản năng, hãy quản lý chặt chẽ
con lợn lòng của mình, đừng để nó xổ chuồng mà xông xao khắp
nơi, khắp xó, nhờ đó làm cho tình yêu thêm bền vững và cao đẹp.
Gã Siêu
gasieu@gmail.com
|
VỀ MỤC LỤC |
|
- Mọi liên lạc: Ghi danh, thay đổi địa chỉ, đóng góp ý kiến,
bài vở..., xin gởi về địa chỉ
giaosivietnam@gmail.com
- Những nội dung sẽ được đề cao và chú ý bao gồm:
Trao đổi, chia sẻ những kinh nghiệm thực tế trong việc mục
vụ của Giáo sĩ; Những tài liệu của Giáo hội hoặc của các
Tác giả nhằm mục đích Thăng tiến đời sống Giáo sĩ; Cổ võ ơn
gọi Linh mục; Người Giáo dân tham gia công việc “Trợ lực
Giáo sĩ” bằng đời sống cầu nguyện và cộng tác trong mọi lãnh
vực; Mỗi Giáo dân phải là những “Linh mục” không có chức
Thánh; Đối thoại trong tinh thần Bác ái giữa Giáo dân và
Giáo sĩ… (Truyền giáo hay xây pháo đài?)
- Quy vị cũng có thể tham khảo những số báo đã phát hành tại
www.conggiaovietnam.net
Rất mong được sự cộng tác, hưởng ứng của tất cả Quí vị
Xin chân thành cám ơn tất cả anh chị em đã
sẵn lòng cộng tác với chúng tôi bằng nhiều cách thế khác
nhau.
TM. Đặc San Giáo Sĩ Việt Nam
Lm. Luca
Phạm Quốc Sử
USA
|
|
*************
|
|