Ðặc Tính Cánh
Chung Của Giáo Hội Lữ Hành Và Sự Hiệp Nhất Với Giáo Hội Trên
Trời |
Hiến Chế Tín Lý
Về Giáo Hội
Lumen Gentium
Bản dịch Việt
Ngữ của Giáo Hoàng Học Viện Piô X
Prepared for
Internet by Vietnamese Missionaries in Asia
Chương VII:
Ðặc Tính Cánh Chung Của Giáo Hội Lữ
Hành Và Sự Hiệp Nhất Với Giáo Hội Trên Trời
61*
48. Ðặc tính chung của ơn gọi
chúng ta. Tất cả chúng ta được mời gọi gia nhập
Giáo Hội trong Chúa Kitô, và nhờ ân sủng Thiên Chúa, chúng ta
nên thánh trong Giáo Hội. Và Giáo Hội chỉ kết thúc trong vinh
quang trên trời, khi thời cải tạo mọi sự đến (CvTđ 3,21) và khi
toàn thể vũ trụ cùng với loài người được thiết lập toàn vẹn
trong Chúa Kitô, vì vũ trụ liên kết mật thiết với con người và
nhờ con người đạt được cùng đích của mình (x. Eph 1,10; Col
1,20; 2P 3,10-13).
Thực vậy, Chúa Kitô, khi bị treo lên khỏi đất, đã kéo mọi người
đến với mình (x. Gio 12,32, bản Hy lạp). Khi từ kẻ chết sống lại
(x. Rm 6,9), Người đã sai Thánh Thần ban sự sống đến với các môn
đệ và nhờ Thánh Thần thiết lập thân thể Người là Giáo Hội như bí
tích phổ quát cứu rỗi. Nay đang ngự bên hữu Chúa Cha, Người
không ngừng tác động trong thế giới để dẫn đưa mọi người về với
Giáo Hội, và qua Giáo Hội, kết hợp họ với Người khắng khít hơn;
Người còn lấy chính Mình Máu Người nuôi họ, cho họ tham dự vào
cuộc sống vinh hiển của Người. Vì vậy, sự cải tạo Chúa đã hứa và
chúng đang mong đợi đã khởi sự nơi Chúa Kitô, được xúc tiến khi
Thánh Thần đến và nhờ Ngài được tiếp diễn trong Giáo Hội. Nhờ
đức tin trong Giáo Hội, chúng ta còn hiểu được ý nghĩa cuộc sống
ở trần thế, ngay khi chúng ta lo hoàn tất công việc Chúa Cha
trao phó ở đời này trong niềm hy vọng hạnh phúc mai sau cũng như
khi chúng ta lo phần rỗi của mình (x. Ph 2,12).
Như thế thời đại cuối cùng đã đến với chúng ta rồi vậy (x. 1Cor
10,11). Việc canh tân thế giới được thiết lập một cách bất khả
phục hồi và thực sự đã bắt đầu một cách nào đó ngay từ bây giờ
vì Giáo Hội đã được trang điểm bằng sự thánh thiện đích thực,
tuy chưa hoàn toàn. Dù vậy, cho tới khi có trời mới và đất mới,
nơi công lý ngự trị (x. 2P 3,13), Giáo Hội lữ hành mang khuôn
mặt chóng qua của đời này, qua các bí tích và định chế là những
điều thuộc thời đại này. Và Giáo Hội vẫn sống giữa các thụ sinh
tới nay còn rên siết và quằn quại trong cơn đau đớn lúc sinh
con, và mong đợi con cái Thiên Chúa xuất hiện (x. Rm 8,19-22).
Bởi vậy, được nối kết với Chúa Kitô trong Giáo Hội và được in
dấu của Thánh Thần là "bảo chứng của cơ nghiệp chúng ta" (Eph
1,14), chúng ta thực sự được gọi là con Thiên Chúa và chúng ta
là con Chúa thật (x. 1Gio 3,1); nhưng chúng ta chưa được xuất
hiện với Chúa Kitô trong vinh quang (x. Col 3,4), trong đó chúng
ta sẽ nên giống Thiên Chúa, vì trông thấy Ngài như Ngài có thật
(x. 1Gio 3,2). Vì thế, "đang khi chúng ta còn ở trong thân xác
này, là phải lưu đày xa Chúa" (2Cor 5,6) và được hưởng hoa quả
đầu mùa của Thánh Thần, chúng ta âm thầm than vãn (x. Rm 8,23)
và khao khát được ở với Chúa Kitô (x. Ph 1,23). Chính đức ái đó
thúc bách chúng ta sống cho Người hơn nữa, vì Người đã chết và
sống lại cho chúng ta (x. 2Cor 5,15). Do đó chúng ta gắng sức
làm đẹp lòng Chúa trong mọi việc (x. 2Cor 5,9) và mặc lấy binh
giáp Thiên Chúa, hầu có thể đứng vững trước những cạm bẩy của ma
quỉ và kháng cự chúng trong ngày gian truân (x. Eph 6,11-13).
Ðàng khác, vì không biết ngày và giờ, chúng ta phải theo lời
Chúa dạy, luôn tỉnh thức, để khi cuộc đời độc nhất của chúng ta
ở trần gian chấm dứt (x. Dth 9,27), chúng ta xứng đáng vào dự
tiệc cưới với Người và được liệt vào số những người được chúc
phúc (x. Mt 25,31-46), chứ không như những tôi tớ khốn nạn và
lười biếng (x. Mt 25,26) sẽ bị đẩy vào lửa đời đời (x. Mt
25,41), vào chốn tối tăm, nơi "khóc lóc và nghiến răng" (Mt 22,
13 và 25,30). Thật vậy, trước khi ngự trị với Chúa Kitô vinh
hiển, mọi người chúng ta đều phải trình diện "trước tòa Chúa
Kitô, để mọi người lãnh lấy những thành quả đời mình đã làm
trong thân xác hoặc lành hoặc dữ" (2Cor 5,10). Và ngày tận thế
"ai đã làm lành sẽ sống lại hầu được sống, còn ai làm ác sẽ sống
lại để chịu đoán phạt" (Gio 5,29; x. Mt 25,46). Bởi đó, tin rằng
"những đau khổ hiện thời chẳng thấm vào đâu với vinh quang sắp
tới sẽ được giải bày cho chúng ta" (Rm 8,16; x. 2Tm 2,11-12),
chúng ta mạnh mẽ tin tưởng trông đợi "niềm hy vọng hạnh phúc và
ngày trở lại vinh quang của Thiên Chúa cao cả và Ðấng cứu chuộc
chúng ta là Chúa Giêsu Kitô" (Tit 2,13). "Người sẽ cải tạo thân
xác hèn mạt ta ra giống thân xác sáng láng của Người" (Ph 3,21)
và sẽ ngự đến "để được vinh quang trong các Thánh của Người và
được thán phục trong mọi người đã tin" (2Th 1,10).
62*
49. Sự hiệp thông giữa Giáo Hội
trên trời và Giáo Hội lữ hành.
63* Bởi thế, cho tới khi Chúa ngự đến trong uy nghi,
có tất cả các Thiên Thần theo Người (x. Mt 25,31), và khi sự
chết đã bị hủy diệt, mọi vật đều qui phục Người (x. 1Cor
15,26-27), thì trong số các môn đệ Chúa, có những kẻ còn tiếp
tục cuộc hành trình nơi trần thế, có những kẻ đã hoàn tất cuộc
sống này và đang được tinh luyện và có những kẻ được hiển vinh
đang chiêm ngưỡng "rõ ràng chính Thiên Chúa duy nhất trong Ba
Ngôi như Ngài hằng có"
1. Nhưng hết thảy mọi người chúng ta, tùy cấp bậc và
cách thức khác nhau, đều hiệp thông trong cùng một đức mến Chúa
yêu người, cùng hát lên một bài ca chúc tụng vinh quang Thiên
Chúa chúng ta. Vì tất cả những ai thuộc về Chúa Kitô và nhận
lãnh Thánh Thần Người, đều họp thành một Giáo Hội duy nhất và
liên kết với nhau trong Người (x. Eph 4,16). Bởi vậy, sự hiệp
nhất giữa những người còn sống trên dương thế với các anh em đã
yên nghỉ trong an bình Chúa Kitô không hề bị gián đoạn. Nhưng
trái lại, Giáo Hội xưa nay luôn tin rằng sự hiệp nhất đó còn
vững mạnh hơn nhờ việc truyền thông cho nhau những của cải
thiêng liêng
2. Quả thực, nhờ kết hiệp mật thiết với Chúa Kitô hơn,
các người ở trên trời củng cố toàn thể Giáo Hội vững bền hơn
trong sự thánh thiện, làm cho việc thờ phượng mà hiện nay Giáo
Hội tại thế dâng lên Thiên Chúa, được cao cả hơn, và họ góp phần
phát triển Giáo Hội rộng rãi hơn bằng nhiều cách (x. 1Cor
12,12-27)
3. Ðược về quê trời và hiện diện trước nhan Chúa (x.
2Cor 5,8) nhờ Người, với Người và trong Người, các Thánh không
ngừng cầu bầu cho chúng ta bên Chúa Cha
4, bằng cách trình bày các công nghiệp đã lập được khi
còn ở dưới thế, nhờ Ðấng Trung Gian duy nhất giữa Thiên Chúa và
loài người là Chúa Giêsu Kitô (x. 1Tm 2,5), khi họ đã phục vụ
Chúa trong mọi sự, và hoàn tất nơi thân xác họ những gì còn
thiếu sót trong các đau khổ của Chúa Kitô, hầu mưu ích cho Thân
Thể Người là Giáo Hội (x. Col 1,24)
5. Do đó, với tình huynh đệ, các ngài lo lắng giúp đỡ
chúng ta rất nhiều vì chúng ta yếu hèn.
64*
50. Tương quan giữa Giáo Hội lữ
hành và Giáo Hội trên trời. Nhận biết đúng đắn sự
hiệp thông này trong toàn Nhiệm Thể Chúa Giêsu Kitô, ngay từ
buổi đầu của Kitô giáo, Giáo Hội lữ hành hết lòng kính nhớ, dâng
lời cầu cho những người đã chết
6, "vì cầu nguyện cho người chết để họ được giải thoát
khỏi tội lỗi là một ý nghĩ lành thánh" (2Mac 12,46). Ðối với các
tông đồ và những vị tử đạo của Chúa Kitô, là những chứng nhân
cao cả đã đổ máu vì đức tin và đức ái, Giáo Hội luôn tin rằng,
các ngài liên kết với chúng ta khắng khít hơn trong Chúa Kitô:
với lòng yêu mến đặc biệt, Giáo Hội tôn kính các ngài cùng Ðức
Trinh Nữ Maria và các Thánh Thiên Thần
7, và sốt sắng nài xin các ngài trợ giúp và cầu bầu
cho. Sau đó không bao lâu, thêm vào số các vị trên, Giáo Hội còn
tôn kính những người đã nhiệt thành noi gương khiết trinh và khó
nghèo của Chúa Kitô
8; và sau cùng, có những người vì đã thực hành cách
phi thường các nhân đức Kitô giáo
9 và được Chúa ban nhiều ân điển, nên được các tín hữu
thành tâm tôn kính và noi theo
10.
Quả thực, khi ngắm nhìn đời sống những người đã trung thành bước
theo Chúa Kitô, chúng ta khám phá ra một lý do mới thúc đẩy
chúng ta tìm kiếm Thành Thánh tương lai (x. Dth 13,14 và 10,11),
đồng thời chúng ta cũng biết con đường chắc chắn giúp chúng ta
đạt tới sự kết hiệp hoàn toàn với Chúa Kitô, nghĩa là đạt tới sự
thánh thiện, giữa bao thăng trầm trần thế, tùy theo bậc sống và
hoàn cảnh riêng của mỗi người
11. Qua cuộc sống của những người cùng mang một bản
tính nhân loại như chúng ta, nhưng đã được biến đổi nên giống
hình ảnh Chúa Kitô hơn (x. Cor 3,18), Thiên Chúa tỏ lộ rõ ràng
cho con người thấy dung nhan và sự hiện diện của Ngài. Chính
Ngài nói với chúng ta qua các vị ấy và ban cho chúng ta thấy dấu
chỉ Nước Ngài
12, và mãnh liệt lôi cuốn chúng ta tới Nước ấy nhờ số
chứng nhân đông đảo như mây trời (x. Dth 12,1) và nhờ chân lý
Phúc Âm được chứng thật như thế.
Tuy nhiên, chúng ta kính nhớ các Thánh trên trời không chỉ vì
gương lành các ngài mà thôi, nhưng đúng hơn để sự hiệp nhất của
toàn thể Giáo Hội trong Thánh Thần được bền vững nhờ thực hành
đức bác ái huynh đệ (x. Eph 4,1-6). Thực vậy, cũng như mối hiệp
thông giữa các Kitô hữu còn sống trên dương thế đưa chúng ta tới
gần Chúa Kitô hơn, thì sự liên kết với các Thánh cũng hiệp nhất
chúng ta với Người, là Ðầu và là Nguồn phát sinh mọi ân sủng và
sự sống của chính Dân Thiên Chúa
13. Do đó, điều hết sức thích đáng là chúng ta yêu mến
các bạn hữu và những người đồng thừa tự của Chúa Kitô, cũng là
anh em và ân nhân đặc biệt của chúng ta, cũng như chúng ta dâng
lời cảm tạ Thiên Chúa vì các ngài
14 và "thành khẩn van nài, chạy đến xin các ngài cầu
nguyện và trợ lực, giúp đỡ, hầu Chúa Cha ban cho nhiều ơn lành,
nhờ Chúa Giêsu Kitô, Con Chúa, Chúa chúng ta, Ðấng Cứu Chuộc và
Giải Thoát duy nhất của chúng ta"
15. Thực vậy, mọi bằng chứng đích thực biểu lộ tình
yêu chúng ta đối với các Thánh trên trời, từ bản chất, luôn qui
hướng và kết thúc nơi Chúa Kitô là "triều thiên của toàn thể các
Thánh"
16, và nhờ Người qui hướng và kết thúc nơi Thiên Chúa,
Ðấng đáng ca tụng và tôn vinh trong các Thánh
17.
Hơn nữa, sự hiệp nhất của chúng ta với Giáo Hội trên trời được
thực hiện cách hết sức cao cả, đặc biệt trong Phụng Vụ, ở đó
quyền năng Thánh Thần hoạt động trên chúng ta qua các dấu chỉ bí
tích, ở đó chúng ta cùng lớn tiếng ngợi khen Thiên Chúa uy linh
18, và tất cả mọi người thuộc mọi chi tộc, ngôn ngữ,
dân tộc và quốc gia được cứu chuộc trong máu Chúa Kitô (x. Kh
5,9), hợp nhau trong một Giáo Hội duy nhất, đồng thanh chúc tụng
một Thiên Chúa Ba Ngôi. Bởi vậy, khi cử hành lễ hy tế tạ ơn,
chúng ta kết hợp rất mật thiết với việc thờ phượng của Giáo Hội
trên trời, vì hiệp cùng Giáo Hội, chúng ta kính nhớ trước hết
Ðức Maria vinh hiển, trọn đời Ðồng Trinh, sau là Thánh Giuse,
các Thánh Tông Ðồ và Tử Ðạo cùng toàn thể các Thánh
19.
65*
51. Hướng dẫn mục vụ của Công
Ðồng. Thánh Công Ðồng kính cẩn đón nhận niềm tin
cao trọng của tiền nhân chúng ta trong việc hiệp thông sống động
với các anh em được hiển vinh trên trời hay còn phải tinh luyện
sau khi chết, và lấy lại các sắc lệnh của các thánh Công Ðồng
Nicea II
20, Firenze
21 và Trentô
22. Ðồng thời, vì quan tâm đến mục vụ, Công Ðồng
khuyên nhủ tất cả những vị hữu trách hãy hết sức ngăn cản và sửa
dạy những ai lạm dụng, thái quá hay bất cập, và hãy tái lập mọi
sự để Thiên Chúa và Chúa Kitô được ngợi khen cách trọn hảo hơn.
Bởi vậy, các ngài hãy dạy cho tín hữu biết rằng, việc tôn kính
các Thánh đích thực không hệ tại nhiều ở những việc bề ngoài
bằng ở cường độ tình yêu tích cực của chúng ta. Tình yêu ấy giúp
chúng ta tìm thấy "một gương mẫu trong khi gặp gỡ các ngài, được
thông hiệp qua việc kết hợp với các ngài và được các ngài cầu
bầu trợ giúp"
23, để đem lại nhiều lợi ích cho Giáo Hội và cho chúng
ta. Ðàng khác, ước gì các ngài cũng hãy giúp các tín hữu hiểu
rằng mối liên lạc giữa chúng ta và các Thánh trên trời, hiểu
theo ánh trọn vẹn của đức tin, không hề làm suy giảm sự tôn thờ
dành riêng cho Thiên Chúa Cha nhờ Chúa Kitô trong Chúa Thánh
Thần, nhưng trái lại còn làm cho sự tôn thờ ấy thêm phong phú
hơn
24.
Vì tất cả chúng ta đều là con cái Thiên Chúa và hợp thành một
gia đình trong Chúa Kitô (x. Dth 3,6), nên khi hiệp thông với
nhau trong tình yêu qua lời đồng thanh ca tụng Chúa Ba Ngôi chí
thánh, chúng ta cùng đáp lại lời mời gọi thân tình của Giáo Hội,
và được tham dự, cảm mến trước phụng vụ vinh hiển toàn hảo
25. Vì khi Chúa Kitô hiện đến và khi kẻ chết sống lại
trong vinh quang, ánh sáng Thiên Chúa sẽ chiếu soi Thành Thánh
trên trời và Con Chiên sẽ là đuốc sáng (x. Kh 21,23). Toàn thể
Giáo Hội các Thánh sẽ thờ lạy Thiên Chúa và "Con Chiên đã bị
giết" (Kh 5,12) trong hạnh phúc sung mãn của đức ái, và đồng
thanh ca tụng rằng: "Ngợi khen, danh dự, vinh hiển, quyền năng
muôn đời cho Ðấng ngự trên ngai và Con Chiên" (Kh 5,13-14)
66*.
Chú Thích:
61* Chương này được khai
sinh theo ước muốn của Ðức Gioan XXIII.
Ðược Ủy ban Thần học soạn thảo lại, chương này được mọi người
công nhận là một phần của hiến chế mới (lược đồ đệ trình bấy giờ
chỉ có 4 chương). Nội dung của chương được tổng hợp trong tựa
đề. Công Ðồng nhấn mạnh tới hành động tôn vinh Thiên Chúa của
tất cả Thân Thể Chúa Kitô là Giáo Hội dưới đất cũng như trên
trời. Cơ cấu của chương như sau: số 48 nói lên hai giá trị của
Giáo Hội trong đó những thành phần dưới thế cùng tồn tại với
những thành phần cố định; các số 49 và 50 trình bày những mối
dây liên kết Kitô hữu còn ở trần gian với những người đã lên
trời hoặc ở trong luyện ngục: các Thánh trên trời cầu bầu cho
chúng ta là những kẻ lữ hành (số 49), mối tương quan giữa các
Ngài với chúng ta (số 50). Từ giáo lý này mà số 51 rút ra những
hậu kết có tính cách mục vụ.
62* Số 48: Ðặc tính cánh
chung của ơn gọi chúng ta.
Trong cuộc sống hiện tại, ơn gọi của chúng ta là: được Chúa Kitô
thánh hóa, chúng ta cùng với Người tiến về sự thánh thiện viên
mãn trong đời sống vĩnh cửu, khi chúng ta được chiêm ngưỡng
chính Thiên Chúa. Cuộc lữ hành đòi chúng ta phải ý thức về mối
liên hệ giữa đời sống hiện tại của chúng ta với đời sống vĩnh
cửu, để với lòng tin vững chắc vào Chúa Kitô Cứu Thế và hy vọng
một vinh quang mai hậu, chúng ta chịu đựng những nghịch cảnh đời
này, và chống lại ma quỉ. Ðời sống Kitô giáo có sự liên tục giữa
đời sống dưới thế và đời sống vĩnh cửu trên trời. Có ý thức sống
động được chân lý này, chúng ta mới nghĩ đến những người đã về
trời. Và điều đó làm chúng ta hiểu sâu sắc hơn về chính mầu
nhiệm Giáo Hội: là thực hiện sự hiệp thông giữa mọi người trong
Chúa Kitô, là sự hiện diện sống động của các thực tại trên trời
giữa dòng đời trần gian. Như thế, khi tín hữu nhớ lại lời Chúa
và các Tông Ðồ đã nói, có thể nhận ra sự liên lạc mật thiết giữa
các chân lý này và tầm quan trọng nền tảng của chúng đối với đời
sống Kitô giáo.
63* Các số 49-50: Sự hiệp
thông giữa Giáo Hội dưới đất và Giáo Hội trên trời.
Ðây là nền tảng giáo lý của cả chương, nghĩa là Giáo Hội dưới
đất và Giáo Hội trên trời tạo thành một Dân Chúa, một Thân Thể
Chúa Kitô. Công Ðồng giải thích sự hiệp nhất này vì dựa vào căn
bản là những mối dây liên lạc sống động giữa chúng ta, những
người lữ hành trên dương thế, và những người đã đạt tới quê
trời. Trong số những hoạt động và những mối liên quan ấy, điều
đáng kể là việc các Thánh cầu bầu cho cả Giáo Hội.
1 CÐ Firenze, Decretum
pro Graecis: Dz 693 (1305).
2 Ngoài những tài liệu
xưa hơn có từ thời Ðức Alexandrô IV ngăn cấm mọi hình thức chiêu
hồn (27-9-1258), xem Tđ. của Bộ thánh vụ De magnetismi abusu,
4-8-1856: ASS (1865) trg 177-178; Dz 1653-1654 (2823-2825); câu
trả lời của Bộ thánh vụ, 24-4-1917: AAS 9 (1917), trg 268, Dz
2182 (3642).
3 Xem bài đúc kết học
thuyết này của T. Phaolô, trong Tđ. Piô XII, Mystici Corporis:
AAS 35 (1943), trg 200 và nhiều nơi khác.
4 Xem T. Augustinô,
Enarr. in Ps. 85, 24: PL 37, 1099. T. Hieronimô, Liber contra
Vigilantium, 6: PL 23, 344. T. Tôma, In Ivm Sent., d. 45, q. 3,
a. 2. T. Bonaventura, In Ivm Sent., d. 45, a. 3, q. 2; v.v...
5 Xem Piô XII, Tđ.
Mystici Corporis : AAS 35 (1943), trg 245.
64* Số 49: Nền tảng giáo
lý và sự liên hệ giữa các Thánh trên trời và Giáo Hội.
Nền tảng tín lý được trình bày rõ ràng và chính xác để tránh
những khuynh hướng cực đoan và để giúp cho nhu cầu hiệp nhất
được dễ dàng hơn. Công Ðồng dạy rằng, cho tới khi Chúa lại đến
trong vinh quang, một số người đã ở trên Nước Trời, một số khác
ở trong luyện ngục, một số khác nữa đang trên đường tiến về đời
sau, nhưng tất cả đều kết hiệp với Chúa Kitô làm nên một Giáo
Hội duy nhất. Công Ðồng cũng dạy rằng, các Thánh trên trời lấy
tình thương phù trợ đặc biệt cho những người anh em khác, và
củng cố cũng như làm làm đẹp Giáo Hội trần gian.
6 Xem rất nhiều bi ký
trong các hầm mộ cổ ở Roma.
7 Xem Gelasiô I, giáo
lệnh De libris recipiendis, 3 : PL 59, 160; Dz 165 (353).
8 Xem Methodiô, Symposion
VII, 3 : GCS (Bonwetsch), trg 74.
9 Xem Benedictô XV,
Decretum approbationis virtutum in Causa beatificationis et
canonizationis Servi Dei Joannis Nepomuceni Neumann: AAS 14
(1922), trg 23. Nhiều diễn văn của Ðức Piô XI về các thánh:
Inviti all'eroismo, trong Discorsi e Radiomessaggi bộ I-III,
1941-1942, và nhiều nơi khác. Ðức Piô XII, Discorsi e
Radiomessaggi, bộ 1949, 37-43.
10 Xem Piô XII, Tđ.
Mediator Dei : AAS 39 (1947), trg 581.
11 Xem Dth 13,7; Hđ
44-50; Dth 11,3-40.
Xem thêm Piô XII, Tđ. Mediator Dei: AAS 39 (1947), trg 582-583.
12 Xem CÐ Vat. I, Hiến
chế về đức tin công giáo Dei Filius, ch. 3: Dz 1794 (3013).
13 Xem Piô XII, Tđ.
Mystici Corporis : AAS 35 (1943) trg 216.
14 Về sự biết ơn đối với
chính các thánh, xem E. Diehl, Inscriptiones latinae veteres, I,
Berlin, 1925, các số 2008, 2382 và nhiều nơi khác.
15 CÐ Trentô, sắc lệnh De
invocatione... sanctorum: Dz 984 (1821).
16 Sách nguyện Roma, Tiền
xướng trong lễ các Thánh.
17 Xem ví dụ: 2Th 1,10.
18 CÐ Vaticanô II, Hiến
chế Phụng vụ Thánh, Sacrosanctum Concilium, ch. 5, số 104 : AAS
56 (1964), trg 125-126.
19 Xem Sách lễ Roma, Lễ
qui.
65* Số 50: Sự liên hệ
giữa Giáo Hội dưới đất và Giáo Hội trên trời.
Số này trình bày cách thức mà Giáo Hội lữ hành phải có, để trong
thực hành, tạo được sự hiệp thông đã nói trong đoạn trước. Công
Ðồng đưa ra những động lực chính yếu giúp xây dựng và phát huy
sự hiệp thông của chúng ta với Giáo Hội trên trời. Những động
lực đó như sau: những người đã về trời nêu gương cho chúng ta
một đời sống đạo chính thực; sự liên lạc với họ sẽ đưa chúng ta
tiến tới việc kết hợp khắng khít hơn với Chúa Kitô; sự hiệp
thông với họ làm cho việc phụng tự qui về Chúa Kitô nơi Giáo Hội
trần gian được sung mãn. Ở nhiều nơi, Hiến Chế ám chỉ tới lịch
sử Giáo Hội, để làm sáng tỏ hơn những nền tảng thần học của giáo
lý đã trình bày và cũng để cho sự trình bày này được sống động
hơn, tương xứng hơn với nhu cầu mục vụ.
Ðoạn nhất nói lên những cách thức hiệp thông tổng quát với các
người anh em không thuộc về Giáo Hội trần gian: kính nhớ và vọng
độ cách chung, tôn kính và nài xin cầu bầu. Ðoạn hai nhấn mạnh
tới gương mẫu các Thánh nêu ra cho đời sống Kitô giáo chúng ta,
hoặc dưới khía cạnh sư phạm hoặc dưới khía cạnh minh giáo. Ðoạn
ba chúng ta thấy việc tôn kính các Thánh chính thực sẽ thúc giục
chúng ta thực thi bác ái huynh đệ và liên kết chúng ta với Chúa
Kitô bền chặt hơn. Tình bác ái huynh đệ nơi chúng ta là những
khách lữ hành không bị suy giảm, trái lại còn làm gia tăng đặc
tính qui về Chúa Kitô của Kitô giáo. Cũng vì lý do đó, sự liên
lạc và hiệp thông với các Thánh trên trời đã không làm cản trở
nhưng còn giúp đỡ cách lạ lùng cho tình yêu và sự kính thờ Ba
Ngôi Thiên Chúa. Ðoạn bốn có xác quyết căn bản như sau: việc tế
tự phụng vụ của Giáo Hội thực hiện tất cả những gì đã nói về sự
liên hệ với các Thánh trên trời.
20 Xem CÐ Nicea II, văn
kiên VII : Dz 302 (600).
21 Xem CÐ Firenze,
Decretum pro graecis : Dz 693 (1304).
22 Xem CÐ Trentô, sắc
lệnh De invocatione, veneratione et reliquiis Sanctorum et
sacris imaginibus: Dz 984-988 (1821-1824), sắc lệnh De
Purgatorio: Dz 983 (1820); sắc lệnh De justificatione, khoản 30:
Dz 840 (1580).
23 Sách lễ Roma, kinh
Tiền tụng, dùng trong các giáo phận Pháp.
24 Xem T. Phêrô Canisiô,
Catechismus Maior seu Summa Doctrinae christianae, ch. III, x.b.
F. Streicher, phần I, trg 15-16, số 44 và trg 100-101, số 49.
25 Xem CÐ Vat II, Hiến
chế về Phụng Vụ Thánh Sacrosanctum Concilium, ch. I, số 8: AAS
56 (1964), trg 401.
66* Số 51: Hậu kết mục
vụ.
Một vài hậu kết có tính cách mục vụ theo sau những nguyên tắc đã
đề ra. Hậu kết đó bao gồm một số ý hướng căn bản để việc tôn
kính các Thánh được thực hiện trong tinh thần đúng đắn và để có
thể ngăn ngừa những hình thức thái quá hay bất cập ở một vài
nơi. Một đàng Công Ðồng chủ trương rõ ràng giá trị việc tôn kính
các Thánh không cốt tại gia tăng các hành động bên ngoài, nhưng
do cường độ tình yêu của chúng ta; đàng khác Công Ðồng quả quyết
việc tôn kính ấy không đi ngược với tình yêu Thiên Chúa, với
việc tôn thờ dành cho mình Ngài. Số này chứa đựng nhiều điều có
thể cổ võ cho việc hiệp thông với các anh em ly khai, đặc biệt
với anh em Ðông Phương, vì giáo lý thuộc đức tin của chúng ta
đây đối với họ hết sức quan trọng, làm nên một di sản chung về
đức tin và về sự kính nhớ.
Phần kết luận cho toàn chương (51, đoạn hai) quả quyết rằng hiện
đại hóa sự hiệp thông của tất cả những người thuộc về Chúa Kitô
là đã bắt đầu cuộc sống vinh quang, và như vậy là ngay ở chốn
lưu đày này đã thực hiện được cùng đích của đời ta vì đã được
tham dự và thưởng thức phụng vụ vinh hiển trên trời.
|
VỀ MỤC LỤC |
|
CAO CẢ LÀ KHÔN NGOAN - CAO CẢ
TRONG CÁI BÌNH THƯỜNG LÀ KHÔN NGOAN PHI THƯỜNG.
|
+++
Mỗi ngày, ức triệu
người vẫn chạy đến với Bà để tâm sự nỗi lòng, xin hướng dẫn và
chữa lành. Qua Bà bao nhiêu điều kì diệu vẫn xảy ra không chỉ
nơi thân xác mà còn thẳm sâu trong linh hồn. Những điều tốt đẹp
đang diễn ra hôm nay khởi đi từ một lựa chọn của một thiếu nữ
rất bình thường.
YYYYYYY
Cô sinh ra, lớn
lên, sinh hoạt bình thường như mọi người nơi một vùng đất nghèo
hèn. Tính cách nhẹ nhàng, vui vẻ, hòa đồng để lại ấn tượng tốt
đẹp cùng lòng yêu thương mến mộ nơi những ai được phúc gặp gỡ
cô. Họ vừa ngưỡng mộ nét đẹp tâm hồn của cô, một nét đẹp tràn ra
ngoài nơi ánh mắt trìu mến, nụ cười hiền dịu, lời nói chân
thành. Họ cầu mong cho cô sẽ có một tương lai sán lạn, một gia
đình hạnh phúc. Thiện ý ấy đúng là có xảy ra: tương lai (hôm
nay) của cô vô cùng tươi sáng. Nhưng trước khi có vinh quang
này, cô đã trải qua biết bao thăng trầm khủng khiếp.
Kể về cô có lẽ
không đủ giấy viết. Ở đây, xin được kể một khoảnh khắc bước
ngoặt của cô thôi vì nó tác động sâu xa đến gia đình nhân loại
này, trong đó có bạn và mình. Bạn mến, người viết chỉ muốn nhấn
mạnh điểm này: Một cô gái bình thường như mọi người nhưng đã trở
nên vĩ đại trổi vượt vì đã lựa chọn can đảm và khôn ngoan.
Ngày ấy, cô thiếu
nữ trẻ trung miệng tươi môi thắm đang tung tăng từng nhịp bước
tiến về tương lai. Êm đềm sao những giai điệu hân hoan trong
dòng đời một con người có tâm hồn ngập bình an. Bỗng một hôm cô
gặp được một thông điệp từ Đấng Toàn Năng mời cô đảm nhận một sứ
mạng vô cùng cần thiết. Sứ mạng lớn lao gửi một thiếu nữ bé nhỏ.
Lời mời gọi nhẹ nhàng nhưng sứ mạng quan trọng quá khiến cô bất
ngờ, choáng ngợp, bối rối, thậm chí sợ hãi. Người thiếu nữ bình
thường đang đứng trước một lời mời không bình thường. Cô băn
khoăn tự hỏi điều ấy có nghĩa gì. Khó hiểu. Bao nhiêu câu hỏi ào
ạt ùa về: “Tại sao lại có điều kì lạ này? Sao không đến với ai
khác mà lại đến với mình chứ? Nếu chấp nhận lời mời ấy thì tương
lai sẽ đi về đâu? Những ước mơ thêu dệt bao ngày sẽ bị dang dở?
Sẽ phải bỏ hết những dự tính xưa nay vẫn ấp ủ trong lòng? Con
đường mời gọi phía trước xem ra chẳng giống ai. Chênh vênh quá.
Ai mà hiểu nổi chuyện như thế này. Mọi người sẽ phản ứng ra sao?
Người ta sẽ nói gì về mình đây? Cha mẹ thân yêu liệu có đón nhận
nổi những cú sốc không? Chưa hết, chuyện này sẽ phá tan hạnh
phúc gia đình bé nhỏ mà mình đang xây dựng. Còn nữa, theo luật
nơi đây thì 99,9% mình sẽ mang tội chết. Giờ phải làm sao ta?
Hmmm… Phải làm sao
đây?
Hmmm…
Chỉ có hai lựa
chọn: đồng ý hoặc từ chối. Đồng ý thì sẽ phải sẵn sàng đối diện
với những gì có thể xảy ra như mình đã hình dung. Từ chối thì sẽ
yên thân và chắc Đấng Toàn Năng cũng phải đành chịu thôi vì Ngài
rất tôn trọng tự do lựa chọn của mỗi người. Nhưng mà… từ chối
thì sứ mạng kia ai sẽ làm? Thật ra ai cũng có một sứ mạng riêng,
mình cũng vậy; và đây là sứ mạng Ngài ngỏ lời gửi trao cho cá
nhân mình. Đấng Toàn Năng chắc chắn biết rõ mình có thể thực
hiện được thì mới muốn gửi trao chứ. Ái chà… Giờ làm sao đây
ta?”
YYYYYYY
Tâm trạng trong
những giây phút như thế không dễ dàng chút nào. Rất khó! Rất cam
go! Nhưng người thiếu nữ nhỏ xinh đang đầy tràn ước mơ ấy đã
quyết định chọn hướng đi của niềm tin và tình yêu.
Cô tin rằng “không có gì là không thể” đối với
Đấng Toàn Năng (Lc1:37). Chỉ cần tin, tin thật sự và phó thác
hoàn toàn vận mệnh cuộc đời cho Ngài dẫn dắt. Thời gian nơi trần
thế thật ra vắn vỏi lắm, loanh quanh một tí là đến giờ về quê
thật ấy mà. Cho nên, cách tốt nhất là trao tay lái con thuyền
cuộc đời cho Ngài vì Ngài mới biết đâu là bến thật. Tầm nhìn của
Ngài xa rộng và chính xác hơn nhiều con mắt hạn hẹp này. Sợ đấy
nhưng tin nhiều hơn sợ! Cô yêu Đấng yêu cô và cô yêu tha
nhân hơn cả bản thân mình. Bởi thế, mặc dù trái tim con người
trong cô cũng rung động những khao khát mãnh liệt bình thường,
cô đã quảng đại nhường những cái lẽ ra cô được hưởng như
bao người để bao người được phúc hưởng điều quý giá đến từ
chương trình Ngài đã mời gọi cô.
Người thiếu nữ dáng
vẻ bình thường ấy mang trong mình một tình yêu phi thường. Đôi
mắt nhỏ xinh dịu hiền ấy đã trông được rất xa vì gắn bó với tầm
nhìn của đức tin.
Một khi đã xác tín
thánh ý Đấng Toàn Năng là tốt đẹp nhất và quyết định bước đi cho
đến ngày về với Ngài, người ta sẽ có được bình an thẳm sâu trong
hồn mà trung kiên và hân hoan sống mỗi ngày. Vấn đề là phải
quyết định và vững tin yêu. Cô cũng thế. Một khi đã quyết định
đón nhận thánh ý, cô hiên ngang bước đi. Sóng gió đã bao phen
nổi lên, cả khách quan lẫn chủ quan, nhưng cô vẫn vượt lên trên
sóng gió bằng sức mạnh của niềm tin, của tình yêu đã dâng trọn.
Một khi đã quyết định sống chết cho tình yêu cao quý này, cô
không bao giờ quay đầu nhìn lại. Gian nan thỉnh thoảng xuất hiện
thì cũng để trở thành cơ hội cho sự quảng đại của cô tỏa sáng
hơn nữa. Trái tim cô đầy tình yêu vô điều kiện nên gian khổ chỉ
còn là một dịp quý giá nữa để cô liên đới sẻ chia và thú vị tận
hưởng hoa trái thánh của nó. Hy sinh tiết ra loại mật ngọt mà
không loài ong nào trên trần gian có thể kết thâu.
Phần còn lại của
câu chuyện đời cô, nhiều người đã rõ.
YYYYYYY
Maria, Mẹ ơi, Mẹ
bình thường như con nên Mẹ hiểu thấu từng cảm nhận của con trong
cuộc hành trình này. Muôn thế hệ ca ngợi Mẹ là đầy ơn phúc, là
tuyệt mỹ khôn sánh vì Mẹ đã lựa chọn để cuộc đời mình chìm
ngập trong thánh ý Thiên Chúa Tình Yêu. Muôn người hôm nay
chạy đến với Mẹ lãnh nhận bao phúc lành là do lựa chọn ấy của
Mẹ. Tất cả những lời Mẹ dạy được ghi lại trong Kinh Thánh rất
ngắn gọn: “Người [Giêsu] bảo gì, hãy làm như vậy!”(Gioan
2:5). Mẹ ơi, Mẹ giúp con khôn ngoan chọn lựa và can đảm thực
hiện thánh ý Chúa trong hoàn cảnh cụ thể của con cho đến ngày
con về bên Mẹ, Mẹ nhé!
Giuse Việt, O.Carm.
English:
http://only3minutes.wordpress.com/english/noble/
NOBLE
Noble in the
ordinary is extraordinarily wise.
+++
Each day, numerous people come to
confide in her their heartfelt stories, asking for instruction
and healing. Through her wonders continuously take place not
only in their bodies but also deep down in their souls. All
those good things happening today started from a choice made by
young simple ordinary girl.
YYYYYYY
She was born, grew up and worked
hard as everyone in a little country. Her gentle, joyful and
friendly personality created a beautiful impression on and warm
affection to those who had a chance to meet her. They admired
the beauty of her soul, a beauty that overflew in her friendly
eyes, her gentle smiles and her sincere words. They desired that
she have a bright future, a happy family,… That good desire did
come true: her future (which is today) is gloriously bright. But
before this glory, she had undertaken many ups and downs in
life.
It would be inexhaustible to write
about her. Here, I would like to tell you about only one turning
point in her life since it has great impact on the human family,
among which we are. My dear friend, the emphasized point here
is: An ordinary girl like everyone else has become wonderfully
great because of her brave and wise choice.
In those days, the young cheerful
girl was enjoying walking toward future. Peaceful was the melody
of such a tranquil soul in the midst of the everyday. Suddenly
she received a message from The Almighty inviting her to
undertake a very necessary mission. The great mission was
entrusted to the humble girl. The invitation was gentle but its
mission was so important that she felt unexpected, overwhelmed,
embarrassed, and even frightened. The ordinary girl found
herself standing before a non-ordinary invitation, a mystery.
She wondered what all this would mean. Difficult to comprehend!
Tons of questions flooded in: “Why this strange thing? Why did
it not come to someone else but me? If I accept this invitation,
how will my future be? All my dreams will be interrupted? Will I
have to abandon the plans of my life? This road before me
doesn’t seem normal. I’m not sure at all! Who can understand
something like this?! How will people react? What will they say
about me? Can my beloved parents bear this shock? Still, this
will destroy the happiness of a small family that I have been
trying to build. Moreover, according to the law here, 99,9% I
will be condamned with a death penalty. What should I do now?
Humm… What must I do?
Hmmm…
There are only two choices to
make: accept or refuse. If I accept this invitation, I will have
to face what will happen to me. If I refuse it, I will avoid all
the problems and surely The Almighty will accept my refusal
because He always respects the freedom of choice of each person.
But…if I refuse this mission, who will do it? Will anyone?
Actually, each person has a proper mission in life; and this is
a mission He wishes me to undertake. The Almighty must know well
that I can fulfill it, and that’s why He has asked me. Hmmm….
What should I do now?”
YYYYYYY
It is not easy to have all these
feelings. Very hard! Very tense! However, the young lady whose
heart was full of dreams decided to choose the direction of
faith and love. She trusted that “nothing
is impossible” to The Almighty (Lk1:37). Believe, yes
totally believe, and entrust one’s life to His leading hand! The
time one has in this world is actually very short. The True
Lasting Home is only a few steps away. Therefore, the best way
is to let Him ride the ship of one’s life since only He knows
where the real destination is. His vision is much wider and more
accurate than the human eyes. Her fright was there, but her
faith was stronger. She loved The One who loved her first
and she loved others even more than herself. That’s why, though
her human heart was sometimes strongly moved by sincere natural
desires as everyone else’s, she sacrificed generously what she
deserved to enjoy by right as others so that they could enjoy
precious gifts resulting from the mission He had invited her to
undertake.
That ordinary-looking lady carried
in her an extraordinary love. Those gentle little eyes of hers
could see far and wide for they were attached to the powerful
vision of faith.
Once having trusted that the will
of The Almighty is the best and having decided to set foot on
the direction of His will, one shall have profound inner peace
to joyfully live it out each day. The point is that one needs to
make a decision and stand firm in love. She did. Once she
decided to welcome His will, she courageously moved forward.
Troubles soared many times, both objectively and subjectively,
but she still overcame them by the strength of faith and love.
Once she decided to live and die for this noble love, she never
turned back. If difficulties occurred sometimes, they just
became opportunities for her generosity to shine even more
brightly. Since her heart is full of unconditional love,
suffering remains only a precious occasion for her to reach out
to others and enjoy its holy fruit. Sacrifice produced for her a
kind of honey that no bees on earth could collect.
The rest of her life story is well
known to many people.
YYYYYYY
Oh Mary, my Mother, you are as
ordinary as me, and so you fully understand all my experience in
this journey. All generations praise you “full of grace”
and most beautiful because you have chosen to let your life sink
deep in the holy will of The Loving God. Numerous people come to
you receiving abundance of blessings thanks to that very choice
of yours - Fiat. All that you teach recorded in the Bible is
very succinct: “Do whatever He [Jesus] tells you!” (John
2:5) O Mother, please help me choose wisely and carry out the
will of God for me in my concrete situation until I see you in
our Lasting Home!
Joseph Viet,
O.Carm.
Vietnamse:
http://only3minutes.wordpress.com/tieng-viet/cao-c%E1%BA%A3/
|
VỀ MỤC LỤC |
|
DƯỠNG PHỤ ĐẤNG CỨU THẾ
|
Khi nói đến cha
nuôi hay mẹ nuôi, người ta thường nghĩ rằng tình cảm đối với con
cái sẽ không sâu đậm tha thiết bằng tình cha mẹ ruột. Thế nhưng
nghĩ như thế có thể chưa hẳn là đúng với rất nhiều trường hợp
cha nuôi, con nuôi.
Nếu có những cha mẹ
ruột không thương yêu con mình sinh ra, thì lịch sử đã chứng
minh không biết bao nhiêu người cha nuôi, mẹ nuôi thương con
mình hơn cả con ruột. Nhất là khi một người đã hy sinh đời mình
cho lý tưởng, không có gia đình riêng, thì tình thương họ dành
cho con nuôi thì vô cùng mãnh liệt.
Mới đây người ta
được đọc lại bài phỏng vấn ông Philipp
Rösler, phó
thủ tướng nước Đức. Ông là người Việt, có cha mẹ nuôi người Đức.
Trong bài trả lời phỏng vấn, ông nhắc đến người cha nuôi của
mình với lòng trìu mến đặc biệt. Và người ta cũng nhận thấy cha
mẹ nuôi của ông thương ông như thế nào.
Thánh Giuse trong
chương trình Cứu độ của Thiên Chúa không phải đóng vai trò lấp
đầy gia đình trần gian của Đức Kytô. Khi Thiên Chúa chọn con
người Giuse để gửi gắm Con Một của mình trong cuộc lữ hành trần
thế của Người, hẳn là Thiên Chúa đã chọn người thật xứng đáng
với vị trí cao sang ấy.
Tin Mừng không
thuật lại lời nào của Thánh Giuse, và do đó ai cũng hiểu rằng
Thánh Giuse âm thầm lặng lẽ vâng phục. Bởi vì ơn Cứu độ được
Thiên Chúa đem vào trần gian này để cứu con người khỏi sự kiêu
căng và nổi loạn, thì ba Con Người trong Thánh Gia Nagiarét phải
là những tấm gương vâng phục hiền hoà.
Đức Maria có lời
Xin Vâng vẫn còn ngân vang đến muôn ngàn đời, Chúa Giêsu có lời
nguyện: “... nhưng xin đừng theo ý con”, còn Thánh Giuse thể
hiện đức vâng phục qua hành động đáp trả mau mắn mọi lời Thiên
Chúa truyền.
Tại sao Thánh Giuse
vâng phục tuyệt đối với lòng tin vô song như thế? Chắc chắn vì
ngài yêu mến Chúa bằng một tình yêu không phải của một người cha
nuôi bình thường như mọi người cha nuôi khác. Chắc chắn Thánh
Giuse yêu mến Chúa Giêsu ngàn vạn lần hơn tình yêu của người cha
ruột. Chỉ có tình yêu mới khiến cho một người có danh hiệu Đấng
Công Chính hạ mình xuống làm người phục vụ hoàn toàn vô vị lợi.
Vai trò của Thánh
Giuse trong Tin Mừng có vẻ như mờ nhạt. Dường như ngài chỉ xuất
hiện để đưa Đức Maria và Chúa Giêsu đi đến một nơi nào đó khi
cần. Lên Giêrusalem. Sang Ai cập. Về lại Palestine. Rồi thôi. Có
lẽ không ai biết Thánh Giuse từ giã cuộc đời này lúc nào. Người
ta chỉ thấy rằng từ ngày Đức Giêsu đi rao giảng thì không thấy
bóng dáng ngài nữa.
Đức Mẹ cũng âm thầm
lặng lẽ. Nhưng tâm hồn nhạy cảm của một người mẹ đã làm cho Đức
Maria lặng lẽ đi theo Con mình, cho đến ngày Người trút hơi thở
cuối cùng. Còn Thánh Giuse, có lẽ ngài chịu đựng với tâm hồn
mạnh mẽ của một bậc trượng phu. Chắc chắn Thánh Giuse khóc thầm
mỗi khi Giêsu Con của ngài gặp đau khổ. Nhưng chẳng ai nhìn thấy
giọt nước mắt của Thánh Giuse.
Ngày còn bé, tôi
thích nghe cha xứ giải thích về cành huệ của Thánh Giuse. Dù
những chuyện kể về cây gậy của Thánh Giuse biến thành cành huệ
trắng không có gì xác thực, nhưng có một sự thật mà tôi tin là
hiển nhiên: ấy là dáng vẻ khô khan và lặng lẽ nơi Thánh Giuse
hẳn là đoá huệ đẹp trước mặt Thiên Chúa.
Đoá huệ của Thánh
Giuse không chỉ tượng trưng cho đức khiết tịnh. Đoá huệ ấy còn
là tình yêu trọn vẹn dành cho Thiên Chúa qua Chúa Giêsu con của
Thiên Chúa và của Thánh Giuse. Màu trắng của hoa huệ khác với
màu của tuyết hay của mây trời. Màu của tuyết thì trắng nhưng
lạnh lẽo. Màu trắng của mây trời thì đổi thay như bức tranh đổi
theo gió. Còn màu trắng của hoa huệ thì cao sang và ẩn chứa sự
hy sinh thầm lặng.
Truyền thống Hội
Thánh Công giáo dành một chỗ trang trọng cho Thánh Cả Giuse,
không chỉ trong các thánh đường, mà nhất là trong lòng người tín
hữu, dù có lúc trẻ em có lẽ không thấy gần gũi với Thánh Giuse
vì các ảnh tượng trình bày ngài như một cụ già. Thật ra thánh
Giuse là một thanh niên tuấn tú, có tâm hồn nhạy cảm, có tình
yêu bao la, và có sự hy sinh vô bờ bến cho công trình Cứu độ của
Thiên Chúa.
Mừng Lễ kính Thánh
Cả Giuse, Hội Thánh tôn vinh đức công chính của ngài. Đó là lòng
vâng phục Thiên Chúa, việc tuân giữ lề luật thánh, và lòng yêu
thương vô bờ với người Con nuôi chí thánh của ngài.
Kính xin Thánh cả
Giuse chúc lành cho từng người trong chúng con trong dịp lễ kính
Cha thánh, trong tháng Ba này và trong mọi ngày trên đường chúng
con đi theo Chúa. Ước chi cành huệ âm thầm mà tinh khiết của Cha
là cây gậy dẫn đường chúng con đi.
Gioan Lê Quang Vinh
|
VỀ MỤC LỤC |
|
MẤY CỤ GIÁM MỤC
THẬT LÀ BUỒN CƯỜI ! |
“Khi ấy, Chúa Giêsu
dạy các môn đệ rằng: ‘Con Người sẽ bị nộp vào tay người đời, họ
sẽ giết chết Người và ba ngày sau khi bị giết chết, Người sẽ
sống lại’. Nhưng các ông không hiểu lời đó, và các ông sợ không
dám hỏi lại Người. Sau đó, Đức Giêsu và các môn đệ đến thành
Capharnaum. Khi về tới nhà, Đức Giêsu hỏi các ông: ‘Dọc đường
anh em bàn tán điều gì vậy?’ Các ông làm thinh, vì khi đi đường
các ông đã cãi nhau xem ai là người lớn hơn cả. Rồi Đức
Giêsu ngồi xuống, gọi nhóm Mười hai lại mà nói: ‘Ai muốn làm
người đứng đầu, thì phải làm người rốt hết, và làm người phục vụ
mọi người’”
(Mc 9, 31-35).
Người giáo dân sẽ nghĩ như thế
nào, khi Đức Giáo hoàng và các Đức Giám mục cãi nhau?! Thế mà
HĐGM đầu tiên trên thế giới đã cãi nhau! Các đấng cãi nhau ngay
ngoài đường về vấn đề quyền bính trước mặt Đức Giêsu, nhưng Ngài
đã nín nhịn. Về tới nhà Ngài mới hỏi: “Dọc đường anh em bàn tán
với nhau chuyện gì thế?” Chúa hỏi là ‘bàn tán’ cho nó nhẹ nhàng
thôi, chứ thực ra là các cụ nhà mình vừa cãi nhau một trận cũng
tương đối đấy!
Cụ Giám mục Giacôbê
đã có kinh nghiệm về sự cãi nhau, ghen tương là không tốt, là
nguy hiểm, nên trong thư cụ viết cho bà con ta như sau: “Đâu có
ghen tương và tranh chấp, đấy có xáo trộn và đủ mọi thứ việc xấu
xa… Bởi đâu có chiến tranh, bởi đâu có xung đột giữa anh em?
Chẳng phải bởi điều này sao: là chính những khoái lạc của anh em
đang gây chiến trong con người anh em: anh em ham muốn mà không
có, nên anh em chém giết; anh em ghen ghét cũng chẳng được gì,
nên anh em xung đột nhau, gây chiến với nhau” (x. Gc 3,16;
4,1-2).
Tại sao các Thánh
Tông đồ lại cãi nhau để tranh giành quyền bính, vai vế cao thấp,
mà lại không ai dám tranh nhau về việc phục vụ? Mạnh Tử cho
rằng: “nhân chi hoạn, tại hiếu vi nhân sư”, nghĩa là: cái bệnh
của người đời là hay thích làm thầy thiên hạ. Cha Henri Nouwen
đã nói: “Chúng ta đã không ngừng bị cám dỗ dưới quyền lực thay
thế cho tình yêu. Chúa Giêsu đã trải qua cơn cám dỗ ấy một cách
vô cùng đau thương, từ sa mạc đến thập giá. Còn lịch sử dài và
đau thương của Giáo Hội là lịch sử của những con người chọn lựa
quyền lực thay cho tình yêu, chọn lựa thống trị thay cho thập
giá, chọn lựa làm lãnh đạo thay cho được lãnh đạo”. Thánh Phaolô
đã có kinh nghiệm và mời gọi người môn đệ thân yêu của mình là
Timôthê hãy can đảm: “Con hãy làm việc lao nhọc và chịu đựng như
là một người lính tốt của Chúa Kitô” (2 Tm 2,3).
Nhưng theo Chúa
Giêsu, quyền bính và phục vụ phải gắn liền với nhau làm nên bản
chất người môn đệ. Chúa Giêsu luôn phải vất vả dạy lại bài học
và môn học khó nhất trên đời, nhưng lại là môn học phổ thông
nhất (giống như văn hoá phổ cập), đó là môn học yêu thương phục
vụ: “Ai muốn làm người đứng đầu, thì phải làm người rốt hết, và
làm người phục vụ mọi người”. Thánh Phêrô đã ngỡ ngàng vì Thầy
quỳ xuống rửa chân cho mình và tất cả anh em. Nhưng Chúa đã nói
trước rằng: “Thầy sống giữa anh em như người đầy tớ”. Môn học
này người ta phải học cả đời mà không có ngày ra trường, mãn
khoá; vì thực sự học tới chết mà vẫn không xong, không đạt kết
quả để đến khi vào thiên đàng vẫn bị loại ra cả đống! Quả thật
đây là môn khó học, khó dạy và khó thực hành nhất trên đời. Nó
nằm trong chương trình quy hoạch tổng thể bao trùm mọi công việc
của người môn đệ mà Chúa Giêsu luôn đòi hỏi gay gắt, quyết liệt.
Theo Chúa, bao gồm
cả sự cho đi tận tuyệt, trọn vẹn. Chúa không đòi hỏi chúng ta
phải là con người siêu việt. Điều đòi hỏi đơn giản là người ta
trước hết phải nhận biết những yếu đuối của mình để được cứu
chuộc: “Sức mạnh của Thầy được biểu lộ trọn vẹn trong sự yếu
đuối” (2 Cr 12,9).
Để hiểu được Chúa
Giêsu thì cần phải chịu đau khổ với Ngài, theo Ngài bằng sự từ
bỏ con người của mình. Ai thực sự hiểu được Chúa Giêsu, người đó
chính là vị tử đạo, tử đạo không chỉ bằng lời nói mà còn bằng
những hành động nữa, người đó đã quảng diễn cuộc đời của mình
cho đến cuối cùng. Chúng ta sẽ được hoà nhập vào mầu nhiệm của
Chúa Giêsu trong chiều kích chúng ta sẵn sàng chịu đau khổ với
Ngài, và lúc đó chúng ta sẽ không hổ thẹn về Ngài và về những
lời Ngài.
Chính vì người ta
quên mất mình là môn đệ Chúa Kitô nên cứ mải mê phấn đấu đạt
được những tiêu chuẩn kiểu thời đại thực dụng. Chính vì đánh mất
hương vị của tình yêu đích thực nên người ta ra sức tìm những vỏ
bọc hời hợt, giả tạo để che lấp. Dáng dấp của sự phục vụ hôm nay
có mang theo nhiều thứ tinh vi khôn lường của ma quỷ. Có khi
người ta còn hy sinh nhiều hơn cho kế hoạch ấy mà lại cứ tưởng
là đang phụng sự Chúa! Biết bao nhiêu sự tranh đấu, tranh chấp,
dấn thân sai mục tiêu. Đức hồng y Carlo Martini nói: “Điều cơ
bản là không phải đấu tranh tới chỗ đổ máu, mà là tìm được sự
hoà thuận và những đường lối thích hợp”.
“Nguy cơ cho giáo
hội ngày nay không phải là vì bách hại mà là đánh mất hương vị
của mình, thiếu những người làm chứng rõ rằng thánh giá, toàn
thánh giá trong Chúa Kitô có thể nên vinh hiển, nguồn mạch cứu
độ” (ĐHY. Josef Tomko giảng tại Đài Loan 23/11/2009). Chúng ta
đánh mất hương vị của mình khi chối từ đau khổ; khi không dám
ghé vai vác thập giá được trao ban ngoài ý muốn.
Những thứ chủ nghĩa
và các mối quan hệ công chúng trong xã hội hiện đại hôm nay đang
làm chao đảo và điên đảo con người. Tính ‘hợp pháp tinh vi’ của
quyền hành và sự hưởng thụ cá nhân đang lôi kéo chúng ta xa rời
tâm tình dấn thân phục vụ và sự hy sinh vô vụ lợi của người tông
đồ. Những sự bao che, ngụy biện của một ‘lương tâm có vấn đề’
đang lấn lướt cuộc sống bình an của chúng ta từ hành vi cử chỉ
nhỏ nhặt cho tới những ứng xử hằng ngày. Thánh Augustinô nhận
định: “Trong đời sống người kitô hữu, có một cuộc chiến đấu giữa
hai thứ tình yêu: yêu Thiên Chúa cho đến từ bỏ bản thân mình và
yêu bản thân cho đến nỗi chối bỏ Thiên Chúa”. Đó là sự thật luôn
được chứng minh cụ thể.
Thánh Têrêsa Avila
nói: “Chúa không cần việc làm của chúng ta, Người chỉ muốn tình
yêu thúc đẩy những công việc ấy”. Còn Thánh nữ Têrêsa Hài Đồng
Giêsu thì nói: “Thiên Chúa chẳng cần đến việc làm của chúng ta
nhưng Người khát tình yêu của chúng ta”. Thiên Chúa không chờ
đợi nơi chúng ta những việc làm, những hoạt động, sản phẩm của
một việc lành nếu không làm vì tình yêu. Thánh Gioan Thánh Giá
bảo: “Tình yêu luôn biết lợi dụng tất cả, điều lành cũng như
điều dữ”. Tình yêu biết lợi dụng những cảm động cũng như những
khô khan, những tư tưởng cũng như những trống rỗng, nhân đức
cũng như tội lỗi.
Thực trạng của đời
sống tu trì hôm nay, cái làm cho người ta ngại sống không phải
là nếp sống khó nghèo mà là những chuyện khác. Chuyện khác đó là
những đối diện trực tiếp trong các mối tương giao con người
trong một thời đại đang quan niệm tự do dân chủ, tự do nhân
quyền; khiến mình dù trong bậc tu cỡ nào cũng phải đòi cho bằng
được một chút quyền mà quên mẫu gương Thầy Giêsu: “Dù là Thiên
Chúa nhưng không nhất thiết phải duy trì địa vị ngang hàng với
Thiên Chúa... đã vâng lời cho đến chết và chết trên thập giá”.
Đó là điều chính yếu trong đời dâng hiến phải có, nếu không chỉ
là lối sống vô nghĩa hay sống để lừa đảo, tranh giành hơn thua
với nhau mà thôi.
Giáo dân càng ngày
càng đòi hỏi sự phục vụ của chúng ta ở mức độ cao. Và xem ra
tương quan cuộc sống con người hôm nay nhiều khi được nhìn như
một siêu thị để mà chọn lựa và bình phẩm hàng hoá. Do đó, đôi
khi người giáo dân cắm cúi đi tìm nơi người tu hành một sự nâng
đỡ vật chất và chỉ coi đó là tiêu chuẩn cao để đánh giá bậc tu
hành. Đó là điều sai lầm. Cần phải chỉnh đốn và giáo dục cho họ
ý thức lại cho đúng. Bởi nó sẽ dẫn tới hậu quả không tốt cho họ
và cho chính nhà tu hành. Quả thật, cũng có phần đáng sợ khi
cuộc sống chỉ coi nhau như món hàng hay sự giá trị về mặt kinh
tế: khi nào còn tốt thì sử dụng khi hết hạn thì vất đi. Chân
phước Giáo hoàng Gioan Phaolô II chia sẻ: “Sự ác trong thời đại
chúng ta trước hết hệ tại ở chỗ hạ giá và tầm thường hoá tính
độc đáo duy nhất nền tảng của mỗi một con người. Cái ác này
không chỉ ở trên bình diện đạo đức nhưng sâu xa hơn, trên bình
diện hữu thể. Đối diện với cái ác này, cái ác mà những hệ tư
tưởng vô thần cổ súy, chúng ta phải chống lại, không chỉ bằng
những tranh biện vô bổ nhưng phải tìm cách ‘khôi phục’ huyền
nhiệm về con người như một ngôi vị” (Hiệp Thông số 64/2011,
tr.171).
“Giáo Hội phục vụ
tất cả những gì làm nên cuộc sống con người, trong lao động,
trong gia đình, trong xã hội, để tất cả được hoàn thành trọn vẹn
cho lợi ích của con người. Đó không phải là một chiến thuật để
lôi kéo họ về với Giáo Hội. Nhưng đó là một dịch vụ Kitô giáo
(service Chrétien) để cho con người được sống và được hạnh phúc
tràn đầy. Với danh hiệu đó, người kitô hữu, giáo dân và linh mục
phải có mặt và hoạt động trọn vẹn và chân thành trong chính cuộc
sống của thế giới” (Hồng y François Marty).
Đức Giám mục Tổng
thư ký xuất sắc của HĐGM tiên khởi là thánh Gioan Tông đồ đã dám
viết về người bạn của mình là ông Giám mục Giuđa đang giữ chức
Chủ tịch Uỷ Ban Bác Aí Xã Hội trong câu chuyện xức dầu thơm tại
Bêtania như sau: “Y (Giuđa) giữ túi tiền và thường lấy cho mình
những gì người ta bỏ vào quỹ chung chứ không phải là để lo cho
người nghèo” (Ga 12, 5-6). Cũng may Giuđa chết trước Gioan, chứ
nếu ông mà đọc được điều này thì Gioan cũng bị khốn khổ đấy!
Hãy bắt chước thánh
Phaolô mà thú nhận rằng: “Thật vậy, tất cả chúng ta nữa, xưa kia
chúng ta cũng ngu xuẩn, không vâng lời, lầm lạc, làm nô lệ cho
đủ thứ đam mê và khoái lạc, sống trong gian ác và ganh tị, đáng
ghét và ghen ghét lẫn nhau. Nhưng Thiên Chúa đã cứu độ chúng ta,
đã biểu lộ lòng nhân hậu và lòng yêu thương của Người đối với
nhân loại. Không phải vì tự sức chúng ta đã làm nên những việc
công chính, nhưng vì Người thương xót, nên Người đã cứu chúng ta
nhờ phép rửa ban ơn Thánh Thần để chúng ta được tái sinh và đổi
mới” (Tt 3,3-5). Thánh nhân còn lặp lại điều ấy trong thư gửi
tín hữu Êphêsô: “Tất cả chúng tôi xưa kia cũng thuộc hạng người
đó, khi chúng tôi buông theo các đam mê của tính xác thịt, thi
hành những ước muốn của tính xác thịt và của trí khôn. Bẩm sinh
chúng tôi là những kẻ đáng chịu cơn thịnh nộ của Thiên Chúa, như
những người khác. Nhưng Thiên Chúa giàu lòng thương xót và rất
mực yêu mến chúng ta, nên dầu chúng ta đã chết vì sa ngã Người
cũng cho chúng ta được cùng sống với Đức Kitô. Chính do ân sủng
mà anh em được cứu độ” (Ep 2,3-6).
Lm. Pet. Bùi Trọng Khẩn
|
VỀ MỤC LỤC |
|
HỌC CHO BIẾT THẾ NÀO LÀ VÂNG PHỤC
|
Chúa nhật V
Mùa Chay
Gr 31, 31-34;
Dt 5,7-9, Ga 12, 20-33
Bản tính của
con người vốn dĩ kiêu ngạo ! Nơi ông bà Ađam - Evà, chúng ta
nhận thấy rõ điều này. Thiên Chúa đã ban cho ông bà quyền trên
tất cả vạn vật mà Chúa đã dựng nên. Thế nhưng, hai ông bà đã
không đủ vâng phục, không đủ khiêm tốn để đón nhận lời Thiên
Chúa và đã nghe theo lời con rắn dữ để phản bội Thiên Chúa.
Máu kiêu
ngạo, sự không vâng phục của ông bà nguyên tổ đã len lỏi, đã
thẩm thấu vào máu của con người từ dạo đó. Và, cũng chính vì sự
bất tuân, sự kiêu ngạo mà con người đã phải lao đao. Không chỉ
là lao đao để kiếm sống như Thiên Chúa nói với ông bà nhưng là
đánh mất tình yêu Thiên Chúa, đã đánh mất ơn cứu độ của Ngài.
Dẫu con người
phản bội nhưng Thiên Chúa không bỏ rơi con người. Thiên Chúa vẫn
thiết lập giao ước với con người và dành cho con người tình cảm
hết sức đặc biệt.
Chúng ta vừa
nghe giao ước mà Thiên Chúa lập ra cho dân người qua miệng của
ngôn sứ Giêrêmia : "Ta sẽ lập với nhà Israel và nhà Giu đa một
giao ước mới, không giống như giao ước Ta đã lập với cha ông
chúng, ngày Ta cầm tay dẫn họ ra khỏi đất Ai cập; chính chúng đã
huỷ bỏ giao ước của Ta, mặc dầu Ta là Chúa Tể của chúng - sấm
ngôn của Đức Chúa. Nhưng đây là giao ước Ta sẽ lập với nhà
Israel sau những ngày đó - sấm ngôn của Đức Chúa. Ta sẽ ghi vào
lòng dạ chúng, sẽ khắc vào tâm khảm chúng Lề Luật của Ta. Ta sẽ
là Thiên Chúa của chúng, còn chúng sẽ là dân của Ta. Chúng sẽ
không còn phải dạy bảo nhau, kẻ này nói với người kia: "Hãy học
cho biết Đức Chúa", vì hết thảy chúng, từ người nhỏ đến người
lớn, sẽ biết Ta - sấm ngôn của Đức Chúa. Ta sẽ tha thứ tội ác
cho chúng và không còn nhớ đến lỗi lầm của chúng nữa. Israel sẽ
tồn tại mãi".
Và hết sức lạ
lùng khi nhìn con người. Thiên Chúa yêu như vậy nhưng hình như
con người cứ giả điếc làm ngơ trước tình cảm của Ngài. Con người
cứ mãi đi theo con đường bất tuân. Qua nhiều cách, nhiều kiểu và
nhiều người Thiên Chúa vẫn nói cho con người biết là Thiên Chúa
yêu thương con người nhưng vẫn không được. Sau cùng, Thiên Chúa
sai chính Con Một, đứa con yêu dấu của Ngài xuống thế gian để
cứu độ con người.
Người ta vẫn
thường nói "lỗi hệ thống" trong một chiếc máy vi tính thì sự bất
tuân của con người chính là lỗi hệ thống, đã làm hỏng tình yêu
của Thiên Chúa và con người. Chúa Giêsu đến thế gian để sửa sai
giúp con người. Chúa Giêsu đến thế gian này bằng con đường tình
yêu và đặc biệt bằng con đường vâng phục. Thật sự không phải đơn
giản để nói lời vâng phục với Chúa Cha. Thế nhưng trong thực tế,
Chúa Giêsu đã sống tròn vẹn lời vâng phục với Cha của mình.
Thánh Phaolô
đã quả quyết điều đó trong thư của Ngài gửi tín hữu Philip :
Đức Giê-su
Ki-tô
vốn dĩ là
Thiên Chúa
mà không nghĩ
phải nhất quyết duy trì
địa vị ngang
hàng với Thiên Chúa,
nhưng đã hoàn
toàn trút bỏ vinh quang
mặc lấy thân
nô lệ,
trở nên giống
phàm nhân
sống như
người trần thế.
Người lại còn
hạ mình,
vâng lời cho
đến nỗi bằng lòng chịu chết,
chết trên cây
thập tự.
Chính vì thế,
Thiên Chúa đã siêu tôn Người
và tặng ban
danh hiệu
trổi vượt
trên muôn ngàn danh hiệu.
Như vậy, khi
vừa nghe danh thánh Giê-su,
cả trên trời
dưới đất
và trong nơi
âm phủ,
muôn vật phải
bái quỳ;
và để tôn
vinh Thiên Chúa Cha,
mọi loài phải
mở miệng tuyên xưng rằng:
"Đức Giê-su
Ki-tô là Chúa".
Để vâng phục
như Chúa Giêsu không phải là chuyện đơn giản. Trong thư gửi tín
hữu Do Thái chúng ta vừa nghe, đã mời gọi chúng ta nhìn về gương
vâng phục của Chúa Giêsu : "Khi còn sống kiếp phàm nhân, Đức
Giê-su đã lớn tiếng kêu van khóc lóc mà dâng lời khẩn nguyện nài
xin lên Đấng có quyền năng cứu Người khỏi chết. Người đã được
nhậm lời, vì có lòng tôn kính. Dầu là Con Thiên Chúa, Người đã
phải trải qua nhiều đau khổ mới học được thế nào là vâng phục;
và khi chính bản thân đã tới mức thập toàn, Người trở nên nguồn
ơn cứu độ vĩnh cửu cho tất cả những ai tùng phục Người".
Một sự giằng
co vì lẽ quá đau khổ khi phải đón nhận cái chết trên thập giá.
Trang Tin
Mừng theo Thánh Gioan hôm nay, chúng ta nghe chính tâm sự của
Chúa Giêsu :"Bây giờ, tâm hồn Thầy xao xuyến! Thầy biết nói gì
đây? Lạy Cha, xin cứu con khỏi giờ này, nhưng chính vì giờ này
mà con đã đến. Lạy Cha, xin tôn vinh Danh Cha." Trong lúc cô
đơn, trong lúc thử thách đó thì Chúa Cha đã đến và đã an ủi Chúa
Giêsu "Ta đã tôn vinh Danh Ta, Ta sẽ còn tôn vinh nữa! "
Nghe lời ấy
Chúa Giêsu đáp : "Tiếng ấy đã vọng xuống không phải vì tôi, mà
vì các người. Giờ đây đang diễn ra cuộc phán xét thế gian này.
Giờ đây thủ lãnh thế gian này sắp bị tống ra ngoài! Phần tôi,
một khi được giương cao lên khỏi mặt đất, tôi sẽ kéo mọi người
lên với tôi."
Phải nói rằng
cả con người, cả cuộc đời Chúa Giêsu được gói gọn trong hai chữ
vâng phục ! Để vâng phục như Chúa Giêsu không phải đơn giản.
Phải học, phải sống lời vâng phục đó mỗi ngày trong cuộc đời.
Qua lời vâng phục, Chúa Giêsu được Chúa Cha tôn vinh và đã trở
nên nguồn ơn cứu độ cho muôn người. Để có được lời vâng phục như
thế, Chúa Giêsu luôn hướng về Cha, luôn kết hiệp cùng Cha và để
cho thánh ý của Cha thi hành trọn vẹn trên đời mình.
Khi và chỉ
khi chúng ta kết hiệp mật thiết với Chúa Cha như Chúa Giêsu
chúng ta mới học và sống được bài học vâng phục.
Xin cho chúng
ta cảm nghiệm được tình yêu của Chúa dành cho chúng ta để ngày
mỗi ngày ta kết hợp mật thiết với Chúa để rồi chúng ta cùng vác
thập giá mỗi ngày theo Chúa như Chúa Giêsu trong tâm tình vâng
phục Chúa Cha.
Lm.
Anmai, C.Ss.R. |
VỀ MỤC LỤC |
|
TÌM CHÚA GIỮA ĐỜI THƯỜNG
|
Sáng Thứ bảy
17/3/2012, anh chị em chúng tôi – “liên nhóm” tìm hiểu Giáo Huấn
Xã Hội Công Giáo (GHXHCG) và Thần Học luân lý (THLL) – vui mừng
tạ ơn Chúa cùng nhau về nhà thờ Chợ Đũi để tham dự Thánh Lễ nhậm
chức Cha Sở Họ Đạo Chợ Đũi của Linh mục Ernest Nguyễn Văn Hưởng
(Nhà thờ Chợ Đũi còn thường được gọi là nhà thờ Huyện Sĩ). Sau
27 năm thụ phong Linh Mục, rồi giữ chức Giám đốc Đại Chủng Viện
Thánh Giuse Sài Gòn (từ khóa 9 đến khóa 13), đây là lần đầu tiên
Ngài về coi sóc giáo xứ.
Là Giáo Sư
Thần học luân lý, Cha Ernest đã dành rất nhiều thời gian và công
sức để nâng đỡ anh chị em chúng tôi trong các bài giảng về
GHXHCG và THLL
trong thời gian qua.
Chúng tôi quí và yêu kính ngài như một người cha gần gũi. Ngài
không truyền đạt những gì quá cao xa, nhưng luôn mời gọi mỗi
người hãy suy nghĩ về những điều rất đời thường – “thường như
hơi thở” – mà lắm lúc người đời lãng quên… Bài giảng của Cha
trong Thánh Lễ hôm nay về Tin Mừng Gio-an, đoạn 14, câu 6-14,
gợi lên bao điều suy nghĩ:
“Ông
Phi-lip-phê nói: “Thưa Thầy, xin tỏ cho chúng con thấy
Chúa Cha, như thế là chúng con mãn nguyện rồi.”Đức Giê-su trả
lời: “Thầy ở với anh em bấy lâu, thế mà anh Phi-lip-phê, anh
chưa biết Thầy ư? Ai thấy thầy, là thấy Chúa Cha... Anh em hãy
tin Thầy: Thầy ở trong Chúa Cha và Chúa Cha ở trong Thầy… ai tin
vào Thầy, thì người đó sẽ làm được những việc Thầy làm, Người đó
còn làm được những việc lớn lao hơn nữa, bởi vì Thầy đến cùng
Chúa Cha”“(Ga 14, 8-12)
“Ai tin vào
Chúa Giê-su thì cũng sẽ làm được những việc Ngài làm, và còn làm
được những việc lớn lao hơn – Cha bắt đầu bài chia sẻ - những
lời đó chứng tỏ đức tin chiếm một vị trí quan trọng trong lời
dạy của Chúa Giê-su cũng như trong đời sống của mỗi Ki-tô hữu
chúng ta… Mỗi người có một cách diễn tả niềm tin, lòng mến Chúa
ra bên ngoài một cách khác nhau. Niềm tin ấy không chỉ là lý
thuyết, là trừu tượng, mà còn là một cuộc gặp gỡ giữa chúng ta
với Thiên Chúa. Nhờ Chúa Giê-su xuống thế làm người, nên cuộc
gặp gỡ ấy là gặp gỡ một con người cụ thể,
là Chúa Giê-su. Chúa Cha ở trong Chúa Giê-su nên ai thấy Chúa
Giê-su là thấy Chúa Cha. Chúa Giê-su ở trong các Ki-tô hữu, vì
các Ki-tô hữu là thân thể mầu
nhiệm của Đức Ki-tô, nên theo nguyên tắc, người ta có thể gặp gỡ
Chúa Giê-su khi gặp gỡ các Ki-tô hữu. Nhưng điều này dường như
có vấn đề. Ngày nay xem ra người ta khó gặp được Chúa Giê-su nơi
các Ki-tô hữu – tức là qua giáo dân, qua Linh Mục, Giám Mục. Vì
thế rất nhiều người tìm kiếm Đức Giê-su qua các ảnh tượng, các
phép lạ, chuyện lạ, qua các nơi hành hương. Sự kiện đó đặt ra
cho chúng ta nhiều suy nghĩ. Tại sao người khác không nhìn thấy
Chúa Giê-su nơi mỗi người chúng ta? Tại sao Đức Ki-tô nơi chúng
ta quá lu mờ để người khác không còn nhìn ra nữa? Hay phải chăng
người ta có quá nhiều bận tâm, nên không còn muốn nhìn thấy hình
ảnh hay là gương mẫu Đức Ki-tô nơi chúng ta – các Ki-tô hữu?
Những câu hỏi đó không phải là dễ trả lời.
Ngày nay, có
một hiện tượng đáng
chú ý là hầu hết mọi người đều quan tâm đến sự thật. Trong một
thế giới đầy những thực tại ảo, đầy những giả hình và dối trá,
nhiều người lừa đảo, làm giàu, hay cố gắng đạt được mục đích
bằng các phương tiện dối trá; trong một thế giới mà người ta
chạy theo làm môn đệ của Sa-tan, là cha sự dối trá, thì việc
quan tâm đến sự thật là một dấu hiệu rất tích cực. Ngày nay con
người bị thu hút bởi sự thật, hướng đến sự thật trở nên một nội
dung rao giảng hấp dẫn của Giáo Hội, đến nỗi đây là một nội dung
rao giảng Tin Mừng trong thế giới hôm nay. Và đây chính là một
trong những nội dung của học thuyết xã hội của Giáo Hội Công
Giáo, và Giáo Hội cố gắng truyền bá như một cố gắng rao giảng
Tin Mừng cho thế giới
hôm nay... Giáo Hội cố gắng rao giảng sự thật, vì người nào nghe
sự thật là nghe tiếng Thiên Chúa. Trong bài Phúc âm hôm nay,
Chúa Giê-su xác nhận: “Thầy là đường, là sự thật và là sự sống”.
Câu nói trên, Chúa Giê-su đã cho ta biết vì sao chúng ta không
là hình ảnh của Chúa Giê-su. Người ta không nhìn thấy
chúng ta là nhân chứng của Đức Ki-tô, khi thấy chúng ta nghiêng
về sự dối trá, giả hình. Người ta không nhìn thấy nơi chúng ta
tình yêu mà Đức Ki-tô mời gọi, khi chúng ta chỉ khơi lên hận
thù, chia rẽ, chạy theo danh, lợi, thú của thế gian...
Trong cuộc sống, nhiều khi chúng ta làm những chuyện vô ích.
Những việc ấy dẫn chúng ta đi lạc đường, xa lìa đường sống,
đường lối chân thật của Thiên Chúa...”
Lời
giảng của Cha gợi cho tôi nhớ lại một câu chuyện có thật xảy ra
tại nhà sách Đức Mẹ Đền Chúa Cứu Thế Sài Gòn, do Cha Mat-thêu Vũ
Khởi Phụng kể lại. Câu chuyện cách đây khá lâu, khi chưa xây nhà
sách mới: hôm ấy có một người đàn ông đứng tuổi, dáng người lam
lũ chân quê vào nhà sách xem ảnh tượng. Sau một hồi lâu nhìn
ngắm mọi thứ với vẻ lạ lẫm và thú vị, ông dừng lại chọn mua
tượng một gương mặt Chúa Giê-su chịu nạn trên Thập Giá, mồ hôi
máu tuôn đổ, ánh mắt thất thần nhưng chan chứa lòng xót thương.
Vòng mão gai đâm sâu rướm máu. Thấy cung cách khách hàng, chị
nhân viên đoán biết đây là người ngoài Công Giáo, mới thắc mắc
thăm dò: “Bác mua tặng người quen phải không ạ?” Vị khách hàng
trả lời rất tỉnh, làm mọi người đều ngạc nhiên: “Đâu có, tôi mua
về thờ đó chớ! Tôi không biết ông này là ai, nhưng nhìn ổng khổ
nạn, ổng giống tôi, chắc ổng phải biết nỗi khổ của tôi, sẽ xót
thương và phù hộ tôi!”. Chao ôi! Người đàn ông nghèo này đã tìm
thấy sự đồng cảm xót thương của Chúa Giê-su. Còn tôi, tôi đã làm
gì để chia sẻ với những cảnh đời lao nhọc? Hay tôi cứ ngụy tạo
cho mình một sự sang trọng lạnh lùng?
Tôi
lại nhớ đến hang đá Noel ở Đền Chúa Cứu Thế Sài Gòn
mùa
Giáng sinh
năm
2011
rất sốc: không hoa, không đèn màu rực rỡ như thông lệ. Thay vào
đó là những hình ảnh, áp-phích người thật việc thật của những
bất công, áp bức, giết người, phá thai, đói nghèo, tàn bạo…
Những tiếng rên xiết oán than đến tận trời!... Còn tôi, tôi tìm
Chúa Giáng Sinh ở đâu? Tôi bịt tai nhắm mắt, hớn hở đổ về các
nhà thờ lớn sáng lạng đèn hoa, thông cao ngút trời, đông vui
nhộn nhịp. Rồi chụp hình, ngắm cảnh, tiệc tùng suốt sáng thâu
đêm!.. Chúa của tôi Giáng Sinh khó nghèo trong máng cỏ bò lừa để
chia sẻ kiếp nhân sinh, sao tôi lại dám mặc cho Người những vinh
hoa lấp lánh, để lấy cớ làm cho đêm Thánh vô cùng trong bình an
sâu thẳm của Người trở thành một thứ lễ hội xa hoa, bỏ rơi bên
đời nhưng tủi hờn cơ cực!.. Ôi thương thay cho tôi! Tôi sống
trong bi kịch, ích kỷ và dối trá của chính tôi nhưng tôi nào hay
biết! Chúa Giáng Sinh nơi nào mà chẳng thấy ở nơi tôi! Thảo nào
người ta cứ phải ngược xuôi tìm Chúa!!!
Bài
giảng đã kết thúc, Thánh Lễ đã khép lại. Nhưng lời Chúa cứ vang
vang trong lòng tôi. Tâm can tôi như bị mổ xẻ, phơi bày trước
ánh sáng
của Lời. Chúa không hạch sách tôi. Ngài nhìn tôi với ánh mắt đầy
thương cảm, nhưng sao lương tâm tôi cứ khảo hạch chính mình! Tôi
đã tìm Giê-su nơi đâu? Tôi quên đi tìm Ngài nơi chính sự đơn sơ
lương thiện của chính tôi. Tôi cao rao tình yêu Thiên Chúa nhưng
không thể bỏ qua việc mua chiếc áo mới để lấy tiền chia cho bạn
nghèo. Tôi lên án sự dối trá nhưng lòng tôi vẫn ẩn khuất đầy
bóng tối! Tôi làm méo mó gương mặt của Đức Giêsu bằng sự ích kỷ
và kiêu ngạo của chính bản thân tôi!...
Lạy Chúa! Xin cho con nhận ra sự yếu đuối của chính bản thân
mình, để con biết nếu không có Chúa con chẳng làm được gì, vì
đến như Thánh Phao-lô mà còn rên xiết: “Tôi làm gì tôi
cũng chẳng hiểu: vì điều tôi muốn thì tôi không làm, nhưng điều
tôi ghét, thì tôi lại cứ là” (Rm 7,15). Xin cho con biết
“tìm sức mạnh trong Chúa và uy lực toàn năng của Người...
Vì chúng ta chiến đấu không phải với phàm nhân, nhưng là với
quyền lực thần thiêng, với những bậc thống trị thế giới tối tăm
này, với những thần linh quái ác chốn trời cao” (Ep
6,10-12)
Và
lạy Cha chí ái! Chúng con ước muốn được sống trong sự thật và
tình yêu. Nhưng Sự Thật và Tình Yêu là quyền năng
xuất phát từ nơi Cha. Xin hãy nhớ lời Thánh Tử yêu dấu của Cha:
“Con không xin Cha cất họ ra khỏi thế gian, nhưng xin Cha
gìn giữ họ khỏi ác thần... Xin Cha hãy lấy sự thật mà Thánh hiến
họ” (Ga 17,15-19). Xin Cha tha tội cho chúng con, và xin
hãy luôn đặt chúng con an toàn trong trái tim Cha – những người
con yêu thương cũng như cả thế giới tội lỗi này, vì chúng con đã
nhân Danh Giê-su mà cầu nguyện cho họ, như lời Chúa Giê-su đã
cầu nguyện cùng Cha: “Con không chỉ cầu nguyện cho những
người này, mà còn cho những ai nhờ lời họ mà tin vào con, để tất
cả nên một, như Cha ở trong Con và Con ở trong Cha...”
(Ga 17, 20-22).
Amen!
Mẩu Bút Chì |
VỀ MỤC LỤC |
|
MÔSÊ ! ÔNG ĐÂU RỒI ?
|
Trong lịch sử Dân Thiên Chúa,
Môsê, một nhân vật trung tâm trong cuộc giải phóng dân Do Thái
khỏi ách nô lệ ở Ai Cập đã xuất hiện như một con người lạ lùng.
Ông không hề có quyền lực, khôn ngoan, sức mạnh, tài trí hay lợi
khẩu, trái lại ông nhiều khiếm khuyết và nhiều giới hạn, cả về
sức khỏe lẫn tri thức, nhưng Thiên Chúa đã dùng ông, đã đi cùng
ông trong suốt hành trình nhiều gian lao, khó khăn, sóng gió.
Trong cả hành trình giải phóng của
dân tộc, ông không hề được biết con đường phải đi, đường lối
phải đấu tranh, kể cả phương pháp đấu tranh, ông không hề lên kế
hoạch chuẩn bị lẫn chiến lược thực hiện. Từ đầu đến cuối ông chỉ
lặng lẽ hỏi Chúa, lắng nghe lời Chúa nói, thực hiện những gì
Chúa dạy bảo, từng việc, từng chặng, từng giai đoạn, từng tình
huống, ngay cả những tình huống Thiên Chúa nói với ông qua người
cha vợ, một “dân ngoại” đúng nghĩa ( Xh 18, 13 – 27 ).
Môsê hiến mình theo tiếng Chúa,
hiến mình cho sự sống của dân tộc mình, cho lợi ích và sự tồn
vong của dân tộc mình, thế nhưng ông lại chỉ nhận được toàn là
những lời oán trách, tiếng kêu ca và cả những chống đối. Có lẽ
điều làm ông đau lòng nhất là chính những người ông hy sinh cho
họ để giải thoát họ khỏi nô lệ, chính những người ấy cay đắng
ông, lại còn liên kết với quyền lực thế gian mà ám hại ông. Ông
đã học được cách phản ứng của một người tin vào Chúa, chỉ tin
vào Chúa sau những kinh nghiệm đau thương, đó là ông đi gặp gỡ
Chúa mỗi khi bị chống đối, mỗi khi đối diện với đau khổ cô đơn.
Ông đã không tìm sự an ủi nơi người đời, nhưng chỉ có Chúa là
nơi ông tin cậy hoàn toàn.
Nhìn lại cả cuộc đời Môsê, chúng
ta thấy một điểm nổi bật, đó là một cuộc đời ông di chuyển liên
tục. Ông không bao giờ dừng chân ở một nơi nào để xây dựng cuộc
định cư vĩnh viễn, ông không hề mang ý tưởng định cư, vì thế đời
ông gắn với lều vải, một công trình kiến trúc thiết thân nhất
với ông. Nhưng nếu ông có muốn định cư cũng không được vì Chúa
liên tục gọi ông lên đường, luôn muốn ông rời bỏ cái mà con
người cho là vững bền để học biết chỉ có Chúa là thạch động cho
ông náu thân và chỉ vững bền khi náu thân nơi Chúa mà thôi.
Kính
nghiệm của dân Do Thái là mỗi khi dừng chân thì lập tức dân này
“ngoại tình”, không còn trung thành với Thiên Chúa, họ ve vãn đủ
thứ tà thần ngoại bang hoặc để cho chúng rù quyến họ, mê muội
họ. Họ thích dừng chân, họ không muốn luôn sẵn sàng lên đường,
họ thích cơ cấu, họ thích an thân. Mỗi khi thiết lập sự ổn định,
mỗi khi “thích ứng” với môi trường ngoại giáo, Chúa buộc họ lại
phải lên đường ngay, rũ bỏ ngay mọi thứ dính bén nếu không muốn
chết. Ngay cả trong biến cố được Chúa cứu khỏi rắn cắn, nghe
theo Chúa làm con rắn đồng, nhưng khi con rắn đồng được treo
lên, thay vì nhìn lên như một biểu tượng của cuộc cứu thoát để
tạ ơn Chúa, dần dần họ quay ra thờ luôn con rắn đồng ! Không ý
thức thì chính Chúa sẽ đập con rắn đồng thôi, cho dù chính Chúa
bảo treo nó lên mà nhìn ( 2V 18, 4 ).
Đền Thờ của dân Do Thái được xây
dựng bằng bao công sức của dân này sau khi trở về từ Babylon,
chính Chúa đã ủng hộ việc xây dựng và hướng dẫn cuộc xây dựng,
nhưng khi Đền Thờ không còn là nơi thờ phượng, biến thành nơi
buôn bán đổi chác, trở nên hang trộm cướp, nơi tranh giành quyền
lực, trở nên đấu trường cùa những phe phái, những lợi dụng, kiêu
căng vô lối, tự tin lố bịch, những mê tín, những trục lợi bất
xứng, những giả trá, những trò gian xảo, những hối lộ tham
nhũng, những bóc lột mẹ góa con côi… thì Chúa bảo đập nó đi, “ba
ngày sau Ta sẽ xây lại” ! Nếu không thanh tẩy thì Chúa sẽ thanh
tẩy, nếu không đập Chúa sẽ đập. Kinh nghiệm của Hội Thánh mấy
ngàn năm cho chúng ta biết điều đó.
Chúa muốn chúng ta luôn sẵn sàng
với Chúa như chính Chúa luôn sẵn sàng với chúng ta. Cuộc nhập
thể và nhập thế của Chúa là gì ? Đâu chỉ là lý thuyết thần học,
sao chúng ta lại tự hào về trí thức của mình mà nhốt “mầu nhiệm”
là một sự can thiệp vào định mệnh nhân loại, một sự chuyển động
của Thiên Chúa vào một hệ thống tư tưởng ? Rồi tranh cãi với
nhau về hệ thống đó ? Sao Hội Thánh tự căn nguyên là một cuộc lữ
hành mà chúng ta lại ngày dần ngày, xây dựng thành một “định
chế” bất động sơ cứng ? Cứ nhìn cơ cấu thì thấy. Chúng ta có xây
dựng một Hội Thánh cho những con người lữ hành hay không, hay
chúng ta luôn cố gắng xây dựng mọi công trình như là những công
trình kiên vững cho một tập thể bất động, không di chuyển cả
trong nghĩa đen lẫn nghĩa bóng ?
Ngày nay chúng ta đang chứng kiền
những cuộc di dân phiêu cư khổng lồ từ miền này sang miền khác,
chính dân tộc chúng ta một thế kỷ đi qua với những cuộc di tản
lớn nhỏ liên tục không ngừng, và ngày nay đang tiếp tục những
chuyển động đó, vậy mà chúng ta đang xây dựng cơ cấu Hội Thánh
theo cơ chế nào ? Chúng ta có tìm thấy được sự chuyển động hoặc
hướng đến sự chuyển động trong chính cơ cấu đó không ? Chúng ta
thích xây Đền Thờ hơn dựng Lều cho Thiên Chúa, còn Chúa thì Chúa
bảo: “Ta không cần các ngươi xây cho Ta một ngôi nhà”.
Dù muốn hay không, chúng ta đang
đứng trước một thực tế, những miền quê Xứ Đạo nay vắng bóng
thanh niên, những vùng kinh tế mới hình thành thay những cánh
rừng bạt ngàn xưa cũ, những khu công nghiệp ngập tràn người trẻ
lao động, những thành phố lớn to phình mất kiểm soát. Miền quê
Giáo Đường quạnh hiu, vùng sâu vùng xa thiếu giáo sĩ, ngược lại,
những khu ở trọ của công nhân bên các khu công nghiệp không
người chăm sóc, những thành phố lớn nuốt chửng nhưng con người
vô danh lẻ loi, và còn nữa, những người dân tất bạt đang lao
động xuyên biên giới, bơ vơ nơi xứ lạ quê người. Chúng ta có
thấy Chúa đang căng lều cùng đi với họ không, hay chúng ta loay
hoay với những hội nhập thích ứng thực chất là “ngoại tình”, thờ
ngẫu tượng ? Có khi là chính ngẫu tượng do chúng ta… đẻ ra !
Môsê ! Ông đâu rồi ?
Lm. VĨNH SANG, DCCT, 11.3.2012
(Ephata 500)
|
VỀ MỤC LỤC |
|
THIÊN CHỨC LÀM CHA MẸ (2)
|
NHỮNG SAI LẦM CHUNG TRONG VIỆC NUÔI TRẺ
Cung cấp và cưng
chìu một đứa trẻ không ngăn cản được sự xung khắc và đi đến chỗ
chiến tranh. Bên dưới sự bày tỏ tình yêu và sự dịu dàng, chúng
ta có thể tìm thấy sự biểu lộ của sự thù nghịch cách công khai
hay ẩn kín. Rất ít bố mẹ nhận ra được sự thù nghịch và chiến
trận khủng khiếp mà trong đó bố mẹ và con cái đi vào. Tất cả
những trục trặc về hành vi của con trẻ là triệu chứng của sự hận
thù. Thật rất khó để làm cho bà mẹ ý thức được điều đó. Bà không
thể hiểu rằng đứa trẻ có thể giận bà trong khi bà vững tin rằng
bà cho nó mọi sự và yêu nó nhiều. Tuy nhiên có biết bao nhiêu bà
suy sụp tinh thần khi các bà không thể ngăn cản con mình đòi bỏ
nhà ra đi. Có biết bao nhiêu bi kịch đã xảy ra, đặc biệt suốt
thời tuổi trẻ, lúc mà đứa trẻ cần phải lớn lên nên người hoặc
trở thành một đứa trẻ hư hỏng, một sự kiện mà người mẹ nào cũng
phải quan tâm lo lắng.
Trong việc che chở
và làm chủ đứa trẻ, không những chỉ có các bà mà còn có cả các
ông cũng cố gắng chứng tỏ cái quyền uy của mình mà họ cảm thấy
đang bị đe dọa bỡi những điều kiện khó khăn của cuộc sống hiện
tại. Một khi sự hận thù khởi sự, không còn sự bình an, cũng
không còn xã hội nữa. Trong một gia đình bị lung lay bỡi sự bất
bình và thù hận lẫn nhau, những khuyết điểm của con trẻ được chú
ý và được nuôi dưỡng. Những lỗi lầm của chúng được xử dụng như
là căn bản cho sự tố cáo lẫn nhau. Một cơ hội tốt cho mỗi bố mẹ
để bào chữa cho sự thiếu thích nghi vào xã hội và xem ra có lý
do để thanh minh cho những biểu lộ hận thù của họ. Sự hận thù có
thể bắt đầu rất sớm như lúc vừa được sinh ra mà không hề có giai
đoạn yêu thương và tình cảm. Thật là may mắn, sự loại bỏ con trẻ
xảy ra ngày càng ít vì người đàn ông đã học để ngăn ngừa mầm non
không được muốn. Trong bất cứ trường hợp nào, sự xung đột giữa
bố mẹ và con cái, chiến tranh trong gia đình, khiến nhiều cha mẹ
không muốn có con.
Không lạ gì bố mẹ
thường thất bại trong việc nuôi dưỡng con cái vì đó là bổn phận
khó khăn nhất trong đời sống hôn nhân. Giáo dục là một nghệ
thuật. Nó cần những khéo léo trong đó người thực hành phải được
huấn luyện cách kỹ lưỡng. Nhưng bố mẹ có được bao nhiêu sự huấn
luyện? Họ biết gì về vấn đề giáo dục? Điều mà họ biết thì quá ít
nhưng thường thì sai và nhiều nguy hại. Không có thợ đóng giày
nào dám mạo hiểm mở tiệm giày mà không được huấn luyện kỹ. Nhưng
bố mẹ mở một xưởng giáo dục mà không có một chuẩn bị nào, chỉ
với sự huấn luyện mà họ nhận được từ bố mẹ họ.
Buồn cười thay, họ
cố gắng bắt chước hành động của bố mẹ họ mà quên rằng chính họ
đã phải chịu nhiều đau khổ vì sự thiếu khả năng thích hợp của bố
mẹ họ. Hãy nhớ rằng một người cha đã bị đánh đập khi còn trẻ có
khuynh hướng đánh đập con cái mình. Ông ta quên sự nhục mạ ông
cảm nhận khi còn nhỏ, sự thù ghét và chống đối lớn dần dưới trận
đòn của bàn tay bố mẹ. Đây là lý do tại sao khó thuyết phục bố
mẹ rằng kỷ thuật và phương cách của họ là sai, không thành công,
và ngay cả có hại nữa. Mỗi bố mẹ trong thái độ biểu tượng thế hệ
mà họ bắt chước. Bất cứ cố gắng nào để làm ảnh hưởng tiến trình
giáo dục có nét đặc thù cho một gia đình đặc biệt, đều phải đối
diện với bức tường giáo dục truyền thống là cái được thực hiện
từ đời nọ sang đời kia. Thừa sản tinh thần thì mạnh hơn và có
tính cách quyết định hơn bất cứ thừa sản vật lý nào. Có thể là
những đặc nét quốc gia hay chủng tộc ít căn cứ trên bản chất
sinh học hơn là căn cứ trên phương cách giáo dục được dùng trong
những nhóm đặc biệt và được lưu truyền từ đời nầy sang đời
khác.
Phá vỡ truyền thống
nầy thì rất khó. Chúng ta hãy xem phương pháp giáo dục truyền
thống của chúng ta là đánh một đứa trẻ có hành vi khác với hành
vi được ước muốn bỡi người lớn. Hiệu quả thế nào trên đứa trẻ?
Chính thời gian ác độc và khủng khiếp nầy làm méo mó đặc tính,
tạo nên một sự mất niềm tin vào sự tử tế và tình bạn của con
người, cũng như sự mất niềm tin vào những người bạn. Những đứa
trẻ bị đánh đập, trong phản chứng của chúng, gây nên những tình
thế để rồi sẽ bị đập nữa về thể lý cũng như tinh thần. Trái lại,
nếu đứa trẻ bị ăn đòn đó vẫn có can đảm và sở thích xã hội, như
một người lớn, nó sẽ tránh bất cứ tình thế nào mà ở đó nó có thể
bị ăn đòn. Nó có thể vun trồng sức mạnh và chịu đựng sự khó khăn
và có thể đạt tới sự cứng rắn và ác độc trong đức tính là giá
rất cao cần phải được trả bỡi những con người mạnh mẽ và có khả
năng. Những con người nầy dửng dưng với tình cảm của bạn bè, bà
con, và con cái.
Tuy nhiên, thói
quen phát đít trong một thời gian dài được xem là một phương
cách thích hợp để huấn luyện con trẻ và được chấp nhận bỡi hầu
hết cha mẹ. Ngay cả những người nhận thấy rằng phát đít có nghĩa
là nhục mạ và vi phạm phẩm giá con người, cũng dùng kỷ thuật nầy
để bảo vệ cho ưu thế của họ, và biện minh cho hành động đó bằng
cách đỗ lỗi cho những xúc cảm không thể chế ngự được và sự buồn
chán căng thẳng. Thói quen phát đít là một trong những trở ngại
mạnh nhất trong việc phát triển bầu khí dân chủ, bình an, và
cộng tác trong gia đình, một cái gì đáng ghi nhớ của một thời
còn có cái quan niệm về phẩm giá và quyền con người.
Trục trặc của giáo
dục không tách rời khỏi trục trặc của cuộc sống chung. Tiến
trình của giáo dục cho thấy cái nhìn chung của một người, triết
lý nhân sinh của họ. Vì thế, bầu khí xã hội trong gia đình là
một yếu tố rất quan trọng trong vấn đề giáo dục con cái. Tất cả
những khiếm khuyết, lỗi lầm, hay sai trái của đứa trẻ có thể là
do phỏng theo dấu vết sai lầm được dùng bỡi những phần tử trong
gia đình trong việc đối xử với nhau. Đứa trẻ được chuẩn bị cách
thích hợp cho cuộc sống chỉ khi gia đình giữ những luật lệ điều
khiển được những liên hệ giữa những người trong gia đình. Vì gia
đình là cộng đoàn và đơn vị xã hội đầu tiên của đứa trẻ, đối với
đứa trẻ, nó biểu tượng một bức họa của cuộc đời nói chung, và
tất cả tùy thuộc vào bức tranh mà gia đình vẽ về thế giới rộng
lớn bên ngoài xác thực thế nào. Bầu khí đáng yêu của gia đình sẽ
khích lệ sự phát triển một thái độ đứng đắn nơi đứa trẻ, là đứa
khi đối diện thế giới, phải cắt nghĩa sao cho nó phù hợp với
kinh nghiệm và quan niệm nó thâu lượm được ở gia đình.
Không may, những
tương quan trong gia đình chúng ta ngày nay không phù hợp với
những tương quan trong đời sống bên ngoài. Con cái chúng ta
thường được bảo bọc quá đáng nên chúng dễ trở thành ích kỷ.
Trong thế giới của người lớn, chúng sẽ sống không như những
người bình đẳng nhưng như những người lệ thuộc. Chúng có ít cơ
hội để trở thành hữu dụng, để đóng góp cho nhóm, và để tạo được
một vị thế thích hợp bỡi chính mình. Phương cách mà chúng tìm sự
bảo đảm để được chấp nhận là đòi hỏi: đòi hỏi quà, đòi hỏi được
quan tâm, đòi hỏi được phục vụ từ người khác, đòi hỏi quá nhiều
hay ít ra là sự chú ý. Điều mà chúng muốn nhận được từ những đòi
hỏi đó là biểu tượng của sự quan trọng của chúng, còn việc đòi
hỏi của chúng chỉ là vô nghĩa. Nguyên tắc để sống phù hợp với
người ta đó thì trái ngược với tất cả những luật lệ cộng tác
được bàn thảo trên đây.
Bố mẹ càng cư xử
phù hợp với những luật lệ của sự cộng tác, càng dễ nuôi dưỡng
con cái một cách thích hợp. Đứa trẻ có thể thích nghi một cách ý
thức trong cách thế nó phải sống vì nó có sự hiểu biết bén nhạy
về những gì xảy ra chung quanh nó và về cách thế nó phải hướng
dẫn mình để phù hợp với hoàn cảnh chung quanh nó. Rất thường bố
mẹ dùng một bộ luật cho chính mình và một bộ khác cho con cái.
Thật là hồi hộp và cảm thấy mình bị xúc phạm nếu đứa trẻ nói
láo. Nhưng họ hoàn toàn quên mất những lần họ nói láo với người
láng giềng hoặc ngay cả đòi hỏi đứa trẻ nói láo thay cho họ. Họ
mong con mình cần mẫn làm việc trong khi bố mẹ phàn nàn về công
việc họ làm. Họ ngạc nhiên bỡi ngôn ngữ không thích hợp từ con
họ và tra hỏi nó đã học điều đó ở đâu trong khi đứa trẻ chỉ lập
lại những gì mà nó đã nghe từ họ. Có phải là ngông cuồng đối với
đứa trẻ nói với mẹ rằng: “Nếu mẹ không tử tế với con, con không
thu dọn phòng con”. Không phải bà mẹ đòi hỏi đứa trẻ tử tế trước
khi bà hoàn thành bổn phận của bà đối với đứa trẻ sao? Tuy
nhiên, bà mẹ cảm thấy hoảng hốt bỡi những lời lẽ như thế.
Thật khó cho bố mẹ
để nhận thấy rằng con cái cũng là con người như họ. Bố mẹ không
chỉ đòi hỏi những đặc ân làm sụp đổ trật tự xã hội và phá hủy
cảm giác thuộc về, nhưng còn trao ban cho đứa trẻ những đặc ân
mà họ không ban cho ai khác. Ban cho thì cũng tai họa như là đàn
áp. Chỉ có những luật lệ điều khiển cuộc đời của toàn thể gia
đình, những luật lệ bao gồm cả bố mẹ cũng như con cái, mới có
thể huấn luyện cái nhận thức đúng và sai. Ở đâu có những luật lệ
luân lý điều hành đời sống gia đình, ở đó không cần kỷ thuật
giáo dục đặc biệt được đòi hỏi cho sự lớn lên của đứa trẻ muốn
góp phần xây dựng cho sự lợi ích của cộng đồng.
Một gia đình với
một nền tảng và một bầu khí tốt đẹp như thế thì ở đâu? Những bố
mẹ biết can đảm và biết cộng tác như thế thì ở đâu? Như đã được
lưu ý, thời đại chúng ta không ưu đãi cho sự phát triển một gia
đình như thế cũng như những bố mẹ như thế. Một cảm giác bất an
sâu xa và một sự quan tâm tức khắc có liên quan đến tiếng tăm
chúng ta ngăn cản chúng ta trở thành những con người tốt như
chúng ta có thể. Cha mẹ không là một luật trừ.
Chúng ta không thể
mong đợi bố mẹ cộng tác với con cái hơn họ cộng tác với những
người tranh đua bên ngoài. Và thật là ngông cuồng mong đợi hòa
bình trong gia đình hơn trong xã hội như một toàn thể. Với cảm
giác đầy đủ về xã hội, chúng ta tìm thấy lối đi mọi nơi, nhưng
nếu không có cảm giác đó, chúng ta sẽ không tìm thấy lối đi. Con
cái không khác với những người khác, chúng có thể đe dọa danh
tiếng của bố mẹ như những người cạnh tranh nghề nghiệp, có thể
còn hơn nữa, vì bố mẹ rất dễ đau lòng đối với sự chống đối của
con cái. Họ tin rằng tình yêu của bố mẹ, sự ban cho của bố mẹ có
thể mua lấy sự phục tùng. Họ đòi hỏi sự chấp nhận và sự vâng lời
chỉ vì họ là bố mẹ. Mọi chống đối và bất tuân được xem như là
một sự xúc phạm cá nhân, như một sự bất kính xúc phạm tư tưởng
thần thánh về thiên chức làm phụ mẫu. Họ càng áp đặt ý muốn mình
lên đứa trẻ, họ càng ít thành công trong việc chiếm được sự cộng
tác của con mình, và càng cảm thấy thất vọng sâu xa hơn. Thất
vọng và cay đắng bỡi cuộc đời, họ mang sự thất vọng về nhà và
qua con cái họ, họ trả điều đó lại cho thế giới.
Lm
Lê Văn Quảng Psy.D.
|
VỀ MỤC LỤC |
|
TÌM HIỂU
HUẤN DỤ XÃ HỘI CỦA GIÁO HỘI (7) |
NGUYỄN HỌC TẬP
Đặc tính ngôn sứ Huấn Dụ
Xã Hội của Giáo Hội ( 1978-2005).
Với triều đại giáo hoàng
của Đức Thánh Cha Gioan Phaolồ II ( 16.10.1978 - 02.04.2005),
sau thời gian rất ngắn ngủi của ĐTC Gioan Phaolồ I ( 26.08 -
28.09.1978), Giáo Hội sống trong thời gian loan báo ngôn sứ
về những gì liên quan đến " vấn đề xã hội ".
ĐTC Gioan Phaolồ II
không những nhận thức và
xác nhận những hiểu biết không lâu trước đó về " vấn đề xã
hội " ( trong thời Công Đồng Vatican II, như chúng ta đã có
dịp đề cập), nhưng ngài còn khai triển thành một sứ điệp mới,
tiếp nối những gì Giáo Hội đã huấn dạy trước đó, mở ra các chân
trời của ngàn năm thứ ba Ki Tô giáo sắp đến.
Vấn đề xã hội
từ nay đã vượt khỏi tầm mức lượng số của địa cầu, mà trong đó
Giáo Hội đã lo lắng mở rộng các cuộc đối thoại ( dĩ nhiên là
đối thoại với các chủ thể ( persone ) sai lạc, vì bị
các chủ đề ( doctrine) lệch lạc, không tưởng mớm ý cho, chớ
không bao giờ Giáo Hội chấp nhận
các chủ đề sai lạc , phi lý và vô
nhân tính ).
Vấn đề xã hội
đã vượt khỏi tầm mức lượng số, để
liên quan đến vấn đề "
phẩm chất đáng ra phải có của một cuộc sống xứng đáng với phẩm
giá con người ".
Các cơn khủng hoảng mất
thăng bằng và các vấn đề liên hệ đến phẩm chất vừa nói đã mở
rộng ra đến độ vượt lên cả các biên giới vật chất thế giới và
đụng chạm thẳng đến những gì liên hệ đến chính đời sống con
người, khiến cho không ai có thể định lượng được.
Vấn đề xã hội
là vấn đề hoà bình và có
tầm vóc toàn cầu về phẩm chất cuộc sống hay là chết của con
người và đến môi sinh ( habitat ).
Trước tầm mức liên hệ
thiết yếu đến phẩm chất như vừa nói, Giáo Hội có những lời chỉ
dẫn của mình có thể nói lên ( ĐTC Gioan Phaolồ II,
Sollecitudo rei socialis ( 30.12.1987), n 41, in EV X/2667),
bởi lẽ những vấn đề liên quan đến các giá trị và các định hướng
luân lý- tôn giáo là chính là lãnh vực thuộc thẩm quyền của Giáo
Hội.
ĐTC Gioan Phaolồ II cho biết:
- "
Không phải phận vụ của Giáo Hội là phân tích một cách khoa học
các thay đổi xã hội. Trái lại Giáo Hội xác tín rằng phận vụ của
mình là góp phần định hướng các thay đổi đó, để có được một tiến
bộ thực hữu cho con người và cho xã hội " ( ĐTC Gioan Phaolồ II,
Laborem excercens ( 14.09.1981), n. 3, in EV VIII/1392).
Như vậy, những vấn đề mật thiết
liên hệ đến bản tính con người như vừa kể, thuộc lãnh vực luân
lý và tôn giáo, cho phép Giáo Hội đưa những lời hướng dẫn của
mình cho tất cả không phân biệt, vượt lên trên các khác biệt văn
hoá, vượt lên trên các hệ thống kinh tế, chính trị và xã hội.
Bởi đó ngay nay " Huấn Dụ Xã
Hội của Giáo Hội " ai cũng có thể hiểu được và hội nhập,
chia xẻ được, bởi lẽ là những lời chỉ dẫn liên hệ mật
thiết đến bản tính con người, có cuộc sống cho ra người,
người theo chủ nghĩa công sản cũng như theo tân tự do chủ
thuyết, dân ở các xứ tiến bộ cũng như người ở các xứ trên đà
phát triển, để có được một cuộc sống nhân bản trong những
năm 2000 mà chúng ta đang sống.
Qua các Thông Điệp của ĐTC
Gioan Phaolồ II, chúng ta thấy được đặc tâm của Giáo Hội đã
chuyển bước sự chú ý từ các hệ thống chính trị và kinh tế, đến
chính con người, từ phương diện lượng số đến lãnh vực phẩm chất.
Ngày nay mối lo âu đặt trọng tâm
của các Huấn Dụ Xã Hội của Giáo Hội đó là làm thể nào
- cứu vản lại được các giá trị
đang bị khủng hoảng ( đời sống, gia đình, việc làm ),
- cung cấp một linh hồn luân lý
cho một xã hội mới ( làm chính trị để phục vụ con người và phục
vụ công ích, chớ không phải để lo cho đầy túi cá nhân và phục vụ
cho Đảng và Nhà Nước),
- đưa đến cho con người ,một
viễn tượng đầy hy vọng một tương lai tốt đẹp hơn cho cả nhũng ai
nghèo khổ trong một xã hội với cuộc sống sung mãn.
Nói một cách ngắn gọn, Huấn Dụ
Xã Hội của Giáo Hội ngày nay là những gì Giáo Hội huấn dạy
qua động tác đọc " các dấu chỉ thời đại " dưới ánh sáng
Phúc Âm,
- để đón nhận được ý nghĩa lịch
sử
- và từ đó đặt nền tảng cho một
cuộc sống văn minh tình thương, cùng với tất cả những người
thành tâm thiện chí.
Giáo Hội hiện đại đang sống với sứ
mạng ngôn sứ của mình. Huấn Dụ Xã Hội của Giáo Hội hiện
đại, trả lời lại cho những thử thách của thời đại chúng ta, căn
bản là lời loan báo tiên tri của Phúc Âm về phẩm chất của đời
sống, việc làm và đức bác ái của con người đối với anh em mình.
Diễn từ của Đức Hồng Y Joseph
Ratzinger được tuyển chọn ( 19.04.2005) kế vị ĐTC Gioan Phaolồ
II càng xác nhận hơn nữa những gì chúng ta vừa đề cập đến.
1 - Phúc Âm của đời sống.
Thử thách nguyên cội của cơn khủng
hoảng về phẩm chất vừa đề cập là chủ đề chính yếu của Huấn Dụ
Xã Hội của Giáo Hội. Đó là huấn dụ nhận biết đời sống con
người có giá trị tuyệt đối, không thể nhân nhượng, tương đối hoá
đối với bất cứ một giá trị nào khác.
Huấn Dụ Xã Hội của Giáo Hội xác
nhận rằng mạng sống con người không thể đem so sánh với những
giá trị nào khác cả đối với những tài sản quan trọng như sức
khoẻ, các tiện nghi cho đời sống, lợi thú kinh tế, nghiên cứu và
tiến bộ khoa học.
Đối với những lợi thú vừa kể,
chúng ta xác nhận được thường khi mạng sống con người bị đặt vào
hạng thứ, trong cách hành xử của thế giới ngày nay.
Dầu cho tâm trạng của thế giới có
như vậy, nhưng Giáo Hội " không thể bỏ rơi con người ".
Đó là những gì ĐTC Gioan Phaolồ II đã lớn tiếng nói lên
ngay cả trong thông điệp đầu tiên của ngài,
Thông Điệp Redemptor hominis:
- "
Con người là con đường tiên khởi
mà Giáo Hội phải bước đi để chu toàn sứ mạng của mình, con người
là con đường trước tiên và căn bản của Giáo Hội " ( ĐTC Gioan
Phaolồ II, Redemptor hominis ( 04.03.1979),n. 14,in EV VI/1209).
Bởi đó đặc tính đầu tiên Huấn
Dụ Xã Hội của Giáo Hội ngày nay là bảo vệ phẩm giá tối
thượng tuyệt đối của con người. Mạng sống con người không thể
trở thành một giá trị thứ yếu trong bất cứ trường hợp nào.
Chuyên tâm của Huấn Dụ Xã Hội
của Giáo Hội ngày nay là đào tạo một lương tâm mới, tác động
không mệt mỏi để thiết lập lại một sự đồng thuận phổ quát về đời
sống con người, như là giá trị tuyệt đối của luân lý.
Bởi đó các Huấn Dụ Xã Hội của
Giáo Hội luôn luôn nhấn mạnh, như chưa bao giờ xảy ra trong
quá khứ, về quyền được sống như là nguyên tắc và nền tảng
của tất cả mọi quyền khác: có quyền được bảo đảm tự do
lương tâm, tự do ngôn luận, tự do hội họp để làm gì, nếu giá trị
tuyệt đối của quyền được bảo toàn mạng sống bị chối bỏ?
Thực chất của vấn đề là con người
ngày nay với ý nghĩa về
Thiên Chúa và về Thiên Chúa duy nhứt, tuyệt đối, nền tảng giá
trị tuyệt đối của con người, của phẩm giá con người, của quyền
tự do và các quyền của mình.
Lịch sử đã từng chứng minh rõ ràng
ý nghĩa về Thiên Chúa và ý nghĩa về con người, hoặc là cùng đi
chung với nhau, hoặc là cùng bị tha hóa chung nhau:
- " Một khi ý nghĩa về Thiên
Chúa bị mất đi, ý nghĩa về con người cũng bị hăm doạ và ô nhiểm
" ( ĐTC Gioan Phaolồ II, Evangelium vitae ( 25.03.1995), n. 22.,
in EV XI/2234).
Từ đó tạo ra " cái vòng lẩn
quẩn " tai hại:
- " mất đi ý nghĩa về Thiên
Chúa, con người cũng có khuynh hướng đánh mất đi ý nghĩa về con
người, về phẩm giá và giá trị đời sống của con người. Từ đó có
thể dễ dàng bước đến việc vi phạm có hệ thống lề luật luân lý (
...), tạo ra sự hiện diện một loại tiến trình tối tăm hoá khả
năng nhận ra sự hiện diện đời sống và cứu độ của Chúa " ( id.,
n. 21, in EV XIV/2231).
Hậu quả của những gì vừa kể, đó là
đời sống mất đi ý nghĩa của nó và cũng từ đó mất đi những gì là
phẩm chất cá biệt làm cho đời sống " người cho ra người "
: con người rơi vào không thể tránh được duy vật chủ nghĩa
đê tiện hoá con người, mà ai trong chúng ta cũng biết:
- " Những giá trị của sụ
hiện hữu con người bị đổi thành những giá trị có của cải. Mục
đích duy nhứt có ý nghĩa, đó là làm sao đạt được sự phồn thịnh
vật chất. Cái gọi là " phẩm chất của đời sống " được giải thích
bằng cách dành ưu tiên hay hoàn toàn cho hiệu năng kinh tế, tiêu
thụ loạn xạ, sắc đẹp và hưởng thụ thể lý, quên đi những chiều
kích sâu đậm hơn - liên hệ, thiêng liêng và tôn giáo - của cuộc
sống " ( id., n.25, in EV XIV/2239).
Điều vừa kể giải thích hiện trạng
nghịch lý mà thế giới hiện đại đang gặp phải:
- " Một đàng là những lời
tuyên bố khác nhau về các quyền của con người ( ...) họ cho rằng
hiện có sự xác nhận cở tầm mức thế giới tinh thần cảm nhận luân
lý chú tâm hơn nhận biết giá trị và phẩm giá của mỗi con người
như là người, không phân biệt phái giống, quốc tịch, tôn giáo,
chính kiến, cấp bậc xã hội. Nhưng đàng khác, đối với những lời
tuyên bố cao qúy đó rất tiếc lại có, trên thực tế, một sự khước
từ thảm đạm đối chọi lại ", và ĐTC Gioan Phaolồ II kết luận,
" từ xã hội cùng " chung sống với nhau ", các thị xã của chúng
ta có nguy cơ trở thành xã hội của những kẻ bị loại ra bên ngoài
" ( id., n. 18, in EV XIV/2222).
Trước cơn khủng hoảng thảm đạm về
ý nghĩa và phẩm chất con người đối với cuộc sống, Giáo Hội ngày
nay với Huấn Dụ Xã Hội của mình đáp ứng lại như là một
ngôn sứ.
Giáo Hội nhắc nhớ rằng con người
được kêu gọi để có một cuộc sống trọn hảo, vượt khỏi các tầm mức
trần thế, kinh tế, xã hội và chính trị, để rộng mở mình ra tham
dự vào chính đời sống Thiên Chúa.
Đó là vấn đề " nhân bản luận
".
Giáo Hội không khiếp đảm trước
thái độ khước từ của những ai cho rằng thái độ của Giáo Hội là
thái độ lỗi thời. Bởi vì Giáo Hội
- " biết rằng Phúc Âm nầy
của đời sống, được Chúa trao cho Giáo Hội, có tiếng vang sâu đậm
trong tâm hồn mỗi người, tín hũu cũng như những ai không tin,
bởi vì Phúc Âm vượt lên trên muôn lần các nỗi mong đợi, đáp ứng
lại tiếng vang đó một cách lạ thường. Mặc cho các khó khăn và
nhiều nghi vấn, mỗi con người thành thật rộng mở mình ra cho
chân lý và sự thiện, với ánh sáng của lý trí và dĩ nhiên không
thiếu ân sủng được ban cho trong thầm kín, có thể đạt đến nhận
ra được trong luật tự nhiên được ghi khắc vào tâm khảm mình giá
trị thiên thánh của đời sống con người từ lúc tiên khởi cho đến
thời điểm cuối cùng và xác nhận được rằng mỗi người đều có quyền
thấy được quyền tối thượng đó của mình phải được tôn trọng. Cuộc
chung sống của nhân loại và của chính cộng đồng chính trị được
đặt nền tảng trên sự nhận biết vừa kể " ( id., n.2,in EV
XIV/2170).
Điều vừa kể giải thích tại sao
Huấn Dụ Xã Hội của Giáo Hội trong những thập niên cuối cùng
nầy nhấn mạnh rất nhiều đến gia đình, đến việc cần
thiết phải bắt đầu giải quyết cơn khủng hoảng về giá trị cuộc
sống bằng cách giải quyết cơn khủng hoảng gia đình:
- " Cần phải trở lại nhận
biết gia đình như là thánh điện của đời sống. Thật vậy,
gia đình là thiên thánh; là nơi mà trong đó đời sống, ơn Chúa
ban cho, có thể được đón nhận một cách thích hợp và bảo vệ chống
lại bao nhiêu cuộc tấn công mà đời sống phải đối kháng, và là
nơi mà trong đó đời sống có thể được triển nở theo các đòi hỏi
để có được một cuộc tăng trưởng nhân loại thích đáng. Chống lại
cái gọi là văn hoá của sự chết, gia đình là nơi chốn của văn hoá
sự sống " ( ĐTC Gioan Phaolồ II, Centesimus annus ( 01.05.1991),
n. 39, in EV XIII/199).
( Xem thêm Phúc Âm của sự sống,
cfr.Tổng Lược Huấn Dụ Xã Hội của Giáo Hội ( Compendio della
Dottrina sociale della Chiesa), n.231).
2 - Phúc Âm của việc làm.
Bối cảnh kết thúc thảm đạm của xã
hôi chủ nghĩa thực tế sai lầm, không tưởng chưa phải là chiến
thắng của tư bản chủ nghĩa.
Nếu lịch sử đã chứng minh đường
lối của xã hội chủ nghĩa là lối suy tư sai lầm, phi lý, không
tưởng ( utopia, Hy Lạp, " u ": không; " topos ": nơi chốn
= tức là ý thức hệ không thể thực hiện được ở bất cứ nơi nào
trên thế giới), điều đó không có nghĩa là hiện nay, sau khi
ý thức hệ xã hội chủ nghĩa không tưởng đã kết thúc, cũng đã biến
mất các mối tuơng phản bất công của tư bản chủ nghĩa, mà từ đó
xã hội chủ nghĩa được nảy ra.
Nếu đứng trước những đống gạch vụn
của bức tường Bá Linh sụp đổ, tư bản chủ nghĩa có thể chứng minh
được có khả năng sản xuất và phân phối mức giàu có, nhưng trong
tư bản chủ nghĩa còn có một cái gì đó bất ổn, sai lầm. Đó là
ngay ở các Quốc Gia Tây Phương, con người rất nhiều lần bị tước
bỏ đi phẩm giá và trở thành nô lệ cho các nhu cầu không thiết
thực của mình, tạo nên bận tâm bực bội, bất đắc chí và thúc đẩy
đến hối lộ, bè phái, bất kể công lý.
Giáo Hội nhận biết vai trò chính
đáng của lợi nhuận, như là dấu chỉ mức độ tiến trình tốt đẹp của
xí nghiệp. Nhưng lợi nhuận không phải là dấu chỉ duy nhứt, động
lực chính yếu của phát triển và sản xuất,
- " nếu các tiêu chuẩn kế
toán kinh tế đều hoàn toàn tốt đẹp, nhưng cùng chung đó có những
con người, là thành phần qúy giá của tài sản xí nghiệp lại bị đê
tiện hoá và phẩm giá của mình bị xúc phạm " ( ĐTC Gioan Phaolồ
II, Centesimus annus ( 1991), n. 35, in EV XIII/187).
Những Huấn Dụ Xã Hội của Giáo
Hội gần đây đã cho biết lý do sâu xa tạo ra những tình trạng
nghịch thường trong tư bản chủ nghĩa vẫn còn tồn tại, mặc cho xã
hội chủ nghĩa đã phá sản, đó là sự kiện việc làm của con người (
cũng như đời sống của con người ) đã bị
tư bản chủ nghĩa đánh mất đi giá
trị đích thực của nó.
Ở đây cũng vậy, chúng ta đang đứng
trước cơn khủng hoảng về giá trị, về ý nghĩa, được thể hiện ra
trong hiện trạng đổ vở và đối nghịch bất tự nhiên giữa con người
và động tác sáng tạo của việc làm, giữa việc làm và tư bản, của
cải, giữa người làm việc và phẩm chất của đời sống mình.
Từ thái độ chán ngán tâm lý đối
với công việc thường nhật đến các hình thức đàn áp của
tân chủ nghĩa thuộc địa kinh tế quốc tế, việc mất đi ý nghĩa
việc làm của con người chắc chắn là một yếu tố căn bản của cơn
khủng hoảng hiện tại, bên cạnh việc mất đi ý nghĩa của cuộc
sống.
Các câu hỏi được đặt ra về làm
việc đươn kết với những câu hỏi về ý nghĩa của cuộc sống và sống
trong hoàn cảnh không có gì hứng khởi như vậy.
Biết bao nhiêu người làm việc chỉ
thấy việc làm là đinh mệnh khó khăn đầy lao lực, việc làm chỉ là
phương tiện để kiếm sống, hơn là những gì tốt đẹp có thể làm cho
mình triển nở và giúp cho xã hội phát triển, tức là giúp cho
anh em đồng bào và đồng loại của mình có được một cuộc sống tiện
nghi hơn, thoải mái hơn, tự do hơn, xứng đáng với phẩm giá con
người hơn !
Dĩ nhiên, ngày nay không ai có ý
nghĩ ngồi thảo ra trên lý thuyết một khuôn mẫu xã hội - kinh tế
mới, thay thế cho những ý thức hệ không tưởng đã phá sản thất
bại, dầu vậy chúng ta nghĩ rằng đây là thời điểm cần phải đặt
nền tảng cho khuôn mẫu lý tưởng đó.
Nhãn quang phẩm chất và tìm kiếm ý
nghĩa đó là đặc tính cá biệt Huấn Dụ Xã Hội của Giáo Hội.
Giáo Hội xác tính rằng mình có thể hiến tặng cho nhân loại chìa
khoá giải đáp thoả đáng, bằng cách loan báo cho tất cả
Phúc Âm của việc làm:
- " Nếu giải pháp, hay đúng
hơn giải pháp tuần tự vấn đề xã hội, là vấn đề vẫn tiếp tục hiện
diện càng lúc càng phức tạp hơn, giải pháp đó cần phải được tìm
kiếm trong định hướng làm sao cho đời sống xứng đáng với con
người hơn, hiểu như vậy việc làm của con người có tầm quan trọng
nền tảng và quyết định " ( ĐTC Gioan Phaolồ II, Laborem exercens
( 14.09.1981), n. 3, in EV VII/1398).
Tiếp tuc hành trình theo con đường
con người, đã được khởi sự ngay từ thời gian khởi thủy của triều
đại giáo hoàng, Đức Thánh Cha Gioan Phaolồ II nhắc nhở
cần phải đặc tâm chú ý đến việc làm, như là phương
diện nền tảng của đời sống con người, chính trong lúc cuộc cách
mạng kỷ thuật đang thay đổi sâu đậm đến chu kỳ sản xuất, hoặc
đến các liên hệ việc làm đối với con người.
Giáo Hội ý thức rằng
- " hiện nay chúng ta đang ở
trước thềm các phát triển mới về kỷ thuật, kinh tế và chính trị,
mà theo nhiều người có kinh nghiệm, những phát triển mới đó sẽ
có ánh hưởng đến thế giới việc làm và sản xuất không có gì kém
hơn cuộc cách mạng kỷ nghệ của thế ky vừa qua " ( id., n.1,in EV
VII/1391).
Trước trạng huống vừa kể,
ĐTC Gioan Phaolồ II kết luận,
- " cần phải gắp rút khám
phá ra những ý nghĩa mới về việc làm của con người và đề thảo ra
những bổn phận mới cần phải đáp ứng giải quyết " ( id., n.2, in
EV VII/1393).
Và đây là ý nghĩa đích thực việc
làm của con người, khối nhân cội của Phúc Âm việc làm, được chứa
đựng trong nguyên tắc sau đây:
- " Nền tảng để xác định giá
trị việc làm của con người, trước tiên không phải là loại việc
làm nào mà con người thực hiện, nhưng sự việc là người đứng ra
thực hiện việc làm đó là một con người. Căn nguyên của phẩm giá
việc làm cần phải được tìm ra, không phải dựa trên tầm mức đối
tượng, mà trên tầm mức chủ thể ", nói một cách ngắn gọn,
" việc làm có mục đích là làm cho con người chớ không phải con
người chỉ nhằm cho mục đích làm việc " ( id., n.6, in EV
VII/1414).
Dưới ánh sáng Phúc Âm của việc làm
vừa kể, chúng ta có thể hiểu được tại sao cả tư bản chủ nghĩa,
chớ đừng nói gì xã hội chủ nghĩa, cũng không thể là giải pháp
thoả đáng.
Cần phải vượt ra bên ngoài nhãn
quang thuần kinh tế và nhận biết rằng chủ thể đích thực của tiến
trình sản xuất chính là con người.
Trên thực tế, điều đó có nghĩa là
việc làm sẽ có được ý nghĩa đích thực và phẩm giá siêu việt của
mình, chỉ khi nào tổ chức xã hội con người quan tâm đến ba
phương diện nền tảng phải có của việc làm.
a) Trước tiên việc làm cần phải
luôn luôn được nhìn nhận như là chính một
động tác của chính con người:
- "
Như là người, con người là chủ thể của việc làm. Như là con
người, người làm việc thực hiện các động tác liên quan đến tiến
trình làm việc; các động tác đó, không tùy thuộc vào nội dung
đối tượng của chúng, tất cả đều lợi ích để làm triển nở thành
đạt nhân tính của người làm việc " ( id.).
b) Kế đến cần phải ý thức rằng
việc làm của con người là một
động tác sáng tạo
- " luôn luôn là nguyên cớ
hiệu lực tiên khởi, trong khi đó thì tiền bạc, tư bản, cùng
chung với những phương tiện sản xuất khác, vẫn chỉ là một phương
tiện ". Tiền bạc, tư bản
" được việc làm của con người sinh
ra và mang nơi mình các ấn tín của việc làm con người " ( id.,
n. 12, in EV VII/1439).
Đặc tính ưu tiên nặng nhọc của con
người trên tiền bạc,tư bản và trên cả tiến trình sản suất được
Phúc Âm của việc làm nhấn mạnh, với ý thức rằng
- " qua việc làm của mình,
con người tham dự vào công trình tạo dựng của Thiên Chúa " (
id., n. 25. in EV VII/1499) .
Không những vậy. Phúc Âm của
việc làm còn làm cho chúng ta biết mồ hôi và mệt nhọc,
bạn đồng hành bất khả phân ly của mỗi động tác con người, thay
vì làm cho con người xấu xí hơn, chúng làm cho con người trở
thành cộng sự viên của Chúa Ki Tô, " Con Người của việc làm "
tuyệt hảo (id., n. 26, in EV VII/1504-1510).
c) Bởi lý do đó, chúng ta còn
có phương diện thứ ba của việc làm cần đặc tâm lưu ý: đó là việc
làm tự bản thể của mình là một động tác liên đới ,
liên đới giữa các người làm việc với nhau, cũng như liên đới với
những người khác.
Liên đới, như là những gì thoát
xuất từ ý nghĩa đích thực của việc làm con người, không thể phải
là liên đới để chống lại ai, liên đới tiêu cực, mà tự bản thể
của mình, liên đới là liên đới với và cho ai, liên đới tích cực
và xây dựng:
- " Thật vậy, một sự liên
đới để chống báng đối nghịch với người khác, liên đới đó có thể
có được lý chứng nào để biện giải cho, liên đới để chống những
người khác ? ( ...) Sự liên đới có nguồng gốc và nghị lực của
mình trong bản thể việc làm của con người, tức là trong địa vị
thượng đẳng của con người trên các sự vật, sẽ là sự liên đới
biết tạo nên các phương tiện để đối thoại và cộng tác " ( ĐTC
Gioan Phaolồ II, Discorso alla 68° sessione della Conferenza
iternazionale del lavoro ( Ginevra, 15.06.1982), in Osservatore
Romano ( 16.06.1982).
Như vậy Huấn Dụ Xã Hội của Giáo
Hội, được đặt lên phía bên kia xã hội chủ nghĩa và tư bản chủ
nghĩa. Sau khi đã tìm được trong việc làm chìa khóa thiết yếu để
giải quyết " vấn đề xã hội " , cho thấy rằng dưới ánh
sáng Phúc Âm của việc làm , chúng ta có thể trả
lại cho việc làm của con người ý nghĩa thiết thực của nó và đặt
nền tảng trên việc làm một nền liên đới mới, mở rộng ra để có
thể gặp gỡ được mọi người thành tâm thiện chí.
(Tài liệu học hỏi thêm, Phúc
Âm của việc làm, cfr. n. 269, Tổng Lược Huấn Dụ Xã Hội của
Giáo Hội).
3 - Phúc Âm của bác ái.
Bác ái là chất xi măng mà người
tín hữu Chúa Ki Tô pha trộn vào trong việc kiến tạo xã hội con
người:
- " Đức bác ái xây dựng" ( I
Cor 8, 1), nói như Thánh Phaolồ.
Và Công Đồng Vatican II chú giải:
lời Chúa mạc khải cho chúng ta rằng
- " Thiên Chúa là bác ái và
dạy chúng ta rằng lề luật nền tảng sự thiện hảo của con người,
và vì đó cũng là nền tảng của việc hoán chuyển thế giới, là giới
răn mới về đức bác ái. Bởi đó ai tin vào lòng bác ái của Thiên
Chúa, là những người được Thiên Chúa bảo chứng cho rằng con
đường bác ái được rộng mở cho tất cả mọi người và những cố gắng
nhằm thực hiện tình huynh đệ phổ quát cho tất cả không phải là
những động tác hư không " ( Gaudium et spes, n. 38, in EV
I/1437).
Bác ái Ki Tô giáo vượt lên trên cả
lòng nhân ái ( philantropie) thông thường.
Thật vậy bác ái Ki Tô giáo không
phải chỉ là tuân giữ lề luật vàng ngọc:
- " Những gì anh em muốn
thiên hạ làm cho anh em, cả anh em, anh em cũng hãy làm cho họ "
( Mt 7, 12); vượt lên cả trên giới răn cỗ xưa:
- " Ngươi phải yêu người
thân cận như chính mình " (Mt 22, 39).
Như vậy, điều quan trọng là xác
nhận rõ ràng bản thể " mới " và siêu nhiên của đức bác ái
Ki Tô giáo:
- " Anh em hãy yêu thương
nhau như Thầy đã yêu thương anh em " ( Jn 15, 12).
Qua câu Phúc Âm vừa trích dẫn, đức
bác ái Ki Tô giáo là yêu thương người khác cũng bằng chính tình
yêu thương siêu nhiên của Thiên Chúa, đang ở trong mỗi người tín
hữu Chúa Ki Tô chúng ta.
Đức bác ái đích thực là nhân chứng
có khả năng làm cho người khác thấy được Thiên Chúa là Đấng vô
hình:
- "
Thiên Chúa chưa ai được chiêm ngưỡng bao giờ. Nếu chúng ta yêu
thương nhau, thì Thiên Chúa ở lại trong chúng ta và tình yêu của
Người nơi chúng ta mới nên hoàn hảo " ( 1 Jn 4, 12).
Lời huấn dạy nầy của Phúc Âm, được
xác nhận qua hai ngàn năm lịch sử, giải thích tầm quan trọng
quyết định của Huấn Dụ và cho thấy tại sao Giáo Hội liên kết đức
bác ái với sứ mạng nhân chứng khả tín rao giảng Phúc Âm:
- "
Bác ái ở tại trung tâm điểm của
Phúc Âm và là dấu chứng thúc đẩy tin vào Phúc Âm " ( CEI,
Evangelizzazione e testimonianza della carità, n. 9., in ECEI
IV/2727).
Điều vừa kể cũng cho thấy đức bác
ái là yếu tố không thể thiếu trong việc kiến tạo một xã hội nhân
bản, có tầm vóc xứng đáng với phẩm giá con người.
Điều đó cho thấy tại sao ĐTC
Gioan Phaolồ II cho biết:
- " các chủ đề và định hướng
nổi bậc được Huấn Dụ Xã Hội của Giáo Hội lập lại trong những năm
gần đây, ở vị trí hàng đầu là " thái độ lựa chọn hay tình yêu
thương cá biệt dành cho ngưòi nghèo khổ ".
Thật vậy ngày nay, ĐTC còn nói
thêm:
- " vấn đề xã hội có tầm mức
lan rộng mà chúng ta nghĩ đến đã ảnh hưởng đến khắp thế giới,
tình yêu thương dành riêng vừa kể với những quyết định gợi ý cho
chúng ta, không thể không bao gồm đoàn lủ bao la dân chúng đang
đói khát, đang hành khất ăn xin, những kẻ vô gia cư, những ai
không có được một sự bảo đảm y tế nào, nhứt là những ai không có
một hy vọng nào về tương lai khả quan hơn (...) Cuộc sống hằng
ngày của chúng ta cần phải được đánh dấu bằng các thực thể đó,
cũng như các quyết định của chúng ta trong lãnh vực chính trị và
kinh tế " ( ĐTC Gioan Phaolồ II, Sollecìtudo rei socialis (
30.12.1987), n. 42, in EV X/2673s).
Dành tình yêu thương bác ái một
cách riêng biệt cho người nghèo khổ bắt buộc mở đường cho chủ đề
giải thoát Ki Tô giáo. Đó là giải thoát người nghèo khỏi mọi
hình thức nô lệ, nhứt là khỏi các hình thức " bần tiện hoá
mới " đối với con người và khỏi " các cơ cấu tội lỗi
" , tức là khỏi các tình trạng cơ chế bất công xã hội, trong đó
gánh nặng đổ ập xuống nhứt là trên các giới yếu thế, " dân
oan ", " phụ nữ và trẻ em gái vị thành niên phải bán thân nuôi
miệng", " dân đói khổ phải bị bốc lột xuất khẩu lao động ", "
dân đi đòi nhà bị trấn nước", " dân trước toà án bị bịt miệng
" chẳng hạn.
Như vậy loan báo Phúc Âm của đức
bác ái là đấu tranh để giải thoát người nghèo khổ, những người
bị bạo lực đàn áp và tất cả những ai bị bỏ rơi, phải sống bên lề
xã hội.
Thật vậy, đức bác ái, khi nào là
bác ái đích thực và công chính, không thể nào không hàm chứa nơi
mình sự kính trọng và động tác thăng tiến công lý.
Có ý nghĩa gì cung hiến cho một ai
đó một cách nhưng không có sự liên đới của mình, nếu đồng thời
không chấp nhận điều mà đáng lý anh ta phải có được do chính
quyền anh ta chính đáng được có?
Tranh đấu cho công lý, tự nó đã là
tình yêu thương, bác ái. Thái độ " lách sang rồi bỏ đi luôn "
của thầy tư tế và thầy thông thái luật, trước người
Samaritano bị kẻ cướp đánh nửa sống nửa chết bên đường,
không những là thái độ thiếu bác ái, mà còn là thái độ hèn hạ và
đồng lỏa với kẻ ác ( Lc 10, 29-37). Đó có phải là cách
hành xử chính đáng của người tín hữu Chúa Ki Tô hay không?
Bởi đó ĐTC Phaolồ VI cho biết việc
chuyên cần dấn thân cho công lý của người tín hữu Chúa Ki Tô
là
- " lượng độ tối thiểu của
đức bác ái " ( ĐTC Phaolồ VI. Discorso ai campesinos ( Bogotà,
23.08.1968), in L'Osservatore Romano ( 25.08.1968).
Nhưng xác định vừa kể vẫn chưa đủ,
ĐTC Gioan Phaolồ II nói thêm
- "
Công lý tự mình thôi, chưa đủ, mà
đúng hơn có thể đưa đến sự chối bỏ và tiêu diệt chính mình, nều
không có chỗ cho mãnh lực sâu xa hơn, đó là tình yêu thương, sắp
xếp thiết định đời sống con người trong các chiều kích khác nhau
của nó " ( ĐTC Gioan Phaolồ II, Dives in misericordia (
30.11.1980), n. 12, in EV VII/ 926).
Và ĐTC nói lên lý chứng tại sao
cần phải có bác ái, để làm cho công lý được thực hiện hoàn hảo:
- " Bình đẳng được hội nhập
vào cuộc sống qua công lý, chỉ giới hạn được áp dụng vào lãnh
vực các các thực thể khách quan và ngoại tại, trong khi đó thì
tình yêu thương và nhân từ làm cho con người được gặp nhau ,
giữa họ với nhau, trong chính giá trị của con người, với phẩm
giá cá biệt của con người " ( id., n. 14. in EV VII/ 941).
Như vậy cùng đồng hành với việc
loan báo Phúc Âm của bác ái, Huấn Dụ Xã Hội của
Giáo Hội chỉ dẫn cho chúng ta trong tổng kết giữa công lý và
liên đới hỗ tương phương thế quyết định để kiến tạo một xã hội
mới xứng đáng với tầm vóc con người.
Một đóng góp quyết định trong
chiều hướng vừa kể, chúng ta có thể tìm được trong Thông Điệp
của Đức Thánh Cha Benedictus XVI, Deus caritas est, trong
đó ĐTC kết luận:
- " Xác quyết cho rằng các
cấu trúc chính đáng làm cho trở thành vô nghĩa các động tác bác
ái thực tế là xác quyết che giấu bên dưới quan niệm vật chất về
con người; đó là tiền kiến cho rằng con người có thể sống chỉ
nhờ bánh mà thôi ( Mt 4, 4 cfr. Dt 8, 3). Đó là xác tín đê tiện
hoá con người và phủ nhận chính những gì cá biệt của con người
" ( ĐTC Benedictus XVI, Deus caritas est, ( 23.12.2005), n. 28).
(
Nghiên cứu thêm về Phúc Âm của
bác ái, cfr. n. 4-6, Tổng Lược Huấn Dụ Xã Hội của Giáo Hội ,
Compendio della dottrina sociale della Chiesa).
|
VỀ MỤC LỤC |
|
BẢN DỊCH KINH THÁNH của Nhóm Phiên Dịch Các Giờ Kinh Phụng Vụ VÀ
VIỆC THỰC HÀNH LECTIO DIVINA |
Dịp đến đan viện Mỹ Ca tĩnh tâm và đồng thời học hỏi về thực
hành Lectio divina, tôi xin một cuộc trao đổi với cha Bảo Tịnh
O. Cist và cũng được phép ngài cho ghi âm. Viết lại đây cuộc
trao đổi này để gửi đến quý bạn.
TT: Nữ tu Tê-rê-sa Băng Thùy
BT: Cha Bảo Tịnh O.Cist
TT: Thưa cha, con được biết từ mấy năm nay cha phát động phong
trào thực hành Lectio divina?
BT: "Phát động"? Thưa chị, tôi chẳng có cái gì để phát động,
nhất là những gì liên quan đến Lời Chúa như việc thực hành
Lectio divina. Việc làm nhỏ bé của tôi chỉ là giúp những tâm hồn
muốn cầu nguyện với Lời Chúa theo phương thức này.
TT: Phương thức này là thế nào, thưa cha?
BT: Hỏi tôi để làm gì vậy? Được biết chị tới Mỹ Ca lần này để
tĩnh tâm và đồng thời để tìm hiểu học hỏi về thực hành Lectio
divina mà.
TT: Vâng, đúng vậy, thưa cha. Con có mấy thắc mắc liên quan tới
việc thực hành Lectio divina mà cha đang quảng bá.
BT: Vâng, dùng chữ "quảng bá" nghe tạm ổn. Vì việc làm của tôi
chỉ là tiếp tay với truyền thống của Giáo Hội. Lectio divina đơn
sơ nhưng cũng có khá nhiều điều cần phải biết. Chị muốn tôi nói
về vấn đề gì vậy?
TT: Thưa cha, để thực hành Lectio divina, người ta phải cần điều
gì nhất?
BT: Trong cùng một vấn đề, đôi khi cũng có nhiều cái nhất chứ
không phải chỉ có một cái nhất. Nhất đây phải hiểu là không có
nó thì bất thành. Tỷ dụ Lectio divina cần phải dành đủ giờ, ít
là tối thiểu nào đó, cần phải kiên trì liên tục chứ không cái
kiểu hứng thì làm, chán thì bỏ, nhất là cần phải có
bản văn Lời Chúa…
TT: Vâng thưa cha. Con muốn hỏi cha về vấn đề
bản văn Lời Chúa.
BT: Bản văn Lời Chúa. Đối với tôi, không phải chỉ là một trích
đoạn Lời Chúa, cho dù là cả cuốn sách bài đọc trong thánh lễ.
Bản văn Lời Chúa mà tôi muốn nói đây là cuốn
sách Kinh Thánh. Toàn bộ
cuốn sách Kinh Thánh gồm Cựu Ước và Tân Ước với phần dẫn giải và
chú thích phong phú nhất có thể.
TT: Hình như tiếng Việt mình đã có nhiều bản dịch rồi mà, thưa
cha.
BT: Có, nhưng có thế nào và tất cả những bản dịch đó có thuận
lợi tối đa cho việc thực hành Lectio divina không, đó mới là
chuyện cần xét.
TT: Theo ý cha?
BT: Theo tôi được biết thì tác giả Đỗ Hữu Nghiêm có viết một bài
đăng trên mạng cũng khá lâu rồi với tựa đề "Kinh Thánh tiếng
Việt hình thành thế nào"? Tôi có đọc qua nhưng không nhớ kỹ. Tuy
nhiên nhiều người biết hiện nay trong Giáo Hội Công Giáo Việt
Nam có mấy bản dịch này:
1- Bản dịch của Linh mục Nguyễn Thế Thuấn, dòng Chúa Cứu Thế.
2- Bản dịch của Linh mục Trần Đức Huân
3- Bản dịch của ĐHY Trịnh Văn Căn
4- Bản dịch của Linh mục An-sơn Vị (dòng Thiên An)
5- Bản dịch của Linh mục Gagnon Nhân (dòng Chúa Cứu Thế, người
Canada.)
6- Bản dịch trong sách Bài Đọc Thánh Lễ, tôi không biết ai dịch.
Bản dịch này chỉ dùng cho thánh lễ thì phải.
7- Và cuối cùng là Bản dịch của Nhóm Phiên Dịch Các Giờ Kinh
Phụng Vụ.
Hiện tại trong dòng của tôi thấy chỉ có bản dịch của Lm Nguyễn
Thế Thuấn (toàn bộ), của ĐHY Căn (Tân Ước), sách các Bài Đọc
trong thánh lễ và dĩ nhiên là một số ấn bản chung, riêng các
Sách Kinh Thánh của Nhóm PDCGKPV. Bản mới nhất có lẽ là "Ngũ
Thư".
TT: Còn các bản dịch của ĐHY Căn phần Cựu Ước, cha Huân, cha
Gagnon…
BT: Tôi vắng mặt khỏi nhà dòng từ năm 1969 đến 1994 nên không
biết. Năm 1977 nhà dòng bị trưng thu, cộng đoàn phải chạy đến
đây, chị thừa hiểu là có những khó khăn, chẳng ai còn hồn vía
nào để mà ôm các sách Kinh Thánh đó đi theo. Họa lắm thì được
mấy cuốn riêng tư của các cha các thầy lúc đó. Trước năm 1975
tôi gửi từ Thụy Sĩ về chừng 10 cuốn "Bible de Jérusalem", dĩ
nhiên bằng tiếng Pháp, cha cố Placide Phán của tôi rất mê tiếng
Pháp nên khi di chuyển, ngài đưa tới đây nên trong thư viện còn
được mấy cuốn. Bản dịch chúng tôi có dồi dào hiện nay tại nhà
dòng là của Nhóm PDCGKPV.
TT: Có nghĩa là cha thích bản dịch này nhất?
BT: Trả lời thế nào để chị hài lòng đây? Nếu muốn có nhất thì
phải có hai, có ba, có bốn để so sánh. Khi mới về lại nhà dòng
năm 1994, tôi đi tìm mua Sách Kinh Thánh. Rất hiếm. Chỉ tìm được
mấy cuốn của cha Thuấn. Tôi có mua được một cuốn của cha Thuấn
tại một quầy sách ở vỉa hè một đường phố Sài-gòn, lẫn lộn giữa
nhiều loại sách, thấy có cả sách nguyện của các cha … Không hề
thấy mặt mũi Sách Kinh Thánh của cha Huân, ĐHY Căn, Cha Nhân,
cha Vị. Có lẽ sách của cha Thuấn được các tu sĩ DCCT cho in đi
in lại, còn các sách khác thì không ai nghĩ đến chuyện in. Và
thực ra có nên bỏ tiền in trong lúc khó khăn như thế không? Tôi
được biết các tu sĩ, các chủng sinh, những người học Kinh Thánh
đều tìm cho có bản dịch của cha Thuấn.
Vậy thì tôi trả lời chị cách khôi hài thế này, ngoài bản dịch
của cha Thuấn thì chỉ còn bản dịch của Nhóm PDCGKPV và vì chỉ có
một bản dịch này nên nó là "nhất".
TT: Và bản dịch của cha Thuấn là "nhì"?
BT: Chị không hiểu hết ý tôi muốn nói. Tôi không so sánh. Theo
tôi sách của cha Thuấn có giá trị riêng, để dùng ở học viện, để
nghiên cứu v.v… rất tốt, tốt "nhất" cũng theo ý tôi vừa nói. Còn
ngoài ra đâu còn bản dịch nào để mà chọn lựa!
TT: Vậy có nghĩa là tự nó, bản dịch của Nhóm PDCGKPV cũng chưa
đạt?
BT: Không bao giờ tôi nói thế. Tôi mua hơn 5, 6 trăm cuốn Kinh
Thánh, nhất là Tân Ước của nhóm này dù dòng tôi không quá 50
người. Bản dịch này phải có một giá trị nào đó tôi mới chi tiền
để mua chứ!
TT: Cha mua nhiều với mục đích…
BT: Dĩ nhiên là có mục đích. Và cũng chính vì mục đích đó mà nếu
có tiền tôi còn mua thêm nhiều nữa.
TT: Để?
BT: Để gọi là quảng bá Sách Kinh Thánh cho nhiều người. Điều mà
chỉ mới đây HĐGM Việt Nam trong thư chung gửi dân Chúa tại Việt
Nam ngày 01.05.2011 kêu gọi phát động chương trình mỗi gia đình
cần có Sách Kinh Thánh. À, tôi có nhớ là trước năm 1975, phòng
tuyên úy quân đội của Miền Nam có phát động phong trào mỗi quân
nhân công giáo một Tân Ước (bản dịch của cha Thuấn, do cha Trần
Hữu Thanh phát động thì phải). Tôi không là quân nhân nhưng cũng
được tặng một cuốn, nhỏ gọn, rất xinh. Tôi vẫn còn để ở Thụy Sĩ.
Tôi rất thích thú với lời kêu gọi của
HĐGMVN lần này, nên nhớ thuộc lòng: "Đồng thời, các tín hữu Việt
Nam cần làm quen với Lời Chúa hơn nữa. Do đó Giáo Hội tại Việt
Nam phải “phát động chương trình mỗi gia đình một cuốn Kinh
Thánh được đặt nơi xứng hợp, cổ võ đọc và cầu nguyện với Lời
Chúa” khuyến khích học thuộc lòng những đoạn Kinh Thánh cốt yếu.
Mọi thành phần Dân Chúa, giáo dân, chủng sinh, tu sĩ và các mục
tử, cần tập thói quen đọc và suy niệm Lời Chúa hằng ngày, đặc
biệt theo phương thức Lectio divina.
Chị đồng ý chứ. Muốn "Phát động chương trình mỗi gia đình một
cuốn Kinh Thánh được đặt nơi xứng hợp", muốn "đọc và suy niệm
Lời Chúa hằng ngày, đặc biệt theo phương thức Lectio divina" thì
phải có sách Kinh Thánh chứ? Theo chị hiện tại ở Việt Nam nên
đưa bản dịch nào về các gia đình đây? Còn riêng phương thức
Lectio divina thì cho đến bây giờ, giúp nhiều nơi, nhiều nhóm,
nhiều cộng đoàn tu, tập viện tôi chỉ giới thiệu bản dịch của
Nhóm PDCGKPV. Sách của cha Thuấn không hợp cho phương thức thực
hành này, kể cả dùng đọc trong nhà thờ… tôi nghĩ thế.
TT: Tại sao vậy, thưa cha?
BT: Rất dễ hiểu. Bản dịch của các sách bài đọc thánh lễ ở nhà
thờ thì không được. Bản dịch của cha Thuấn chỉ nên dùng để học
Kinh Thánh. Vậy chỉ còn sách của Nhóm PDCGKPV.
TT: Con nghe nói bản dịch này không được dùng?
BT: Ai bảo chị thế? Phải nghe cho đúng! Từ ngày có ấn bản toàn
bộ KINH THÁNH CỰU & TÂN ƯỚC với tựa lớn "LỜI CHÚA CHO MỌI
NGƯỜI", tôi đã rất chú ý tới vấn đề
"Nihil obstat" và "Imprimatur" của Đấng Bản Quyền.
Quyển sách tôi vẫn dùng từ năm 2007 có thư của HĐGM Việt Nam.
Cuốn sách chị đang có trước mặt đó là ấn bản 2009 cũng có in lại
thư này. Chị mở ngay mấy trang đầu mà đọc.
TT: (Tôi mở thấy ở trang 4 in lá thư của HĐGMVN do đức cha
Phaolô Nguyễn Văn Hòa, chủ tịch HĐGMVN ký ngày 07-9-2006 tại
Huế. "Nihil obstat" do đức cha Bùi Văn Đọc ký và "Imprimatur" do
đức cha Phaolô Hòa ký. Tôi đọc phần hai của lá thư): "Sau khi
hỏi ý kiến Đức Cha Phaolô Bùi Văn Đọc, chủ tịch Ủy ban Giáo lý
Đức tin thuộc HĐGMVN và được Ngài cho biết cuốn sách không có gì
nguy hại (Nihil Obstat), HĐGMVN sẵn sàng cho phép in Imprimatur
cuốn Kinh Thánh này để phục vụ lợi ích thiêng liêng của Dân Chúa
và sử dụng ngoài cử hành Phụng Vụ".
BT: Chị thấy tôi nói có sách, mách có chứng chứ?
TT: Thưa cha vâng, nhưng sao đã có nhận
định là cuốn sách không có gì nguy hại (Nihil Obstat) và cho
phép in Imprimatur để phục vụ lợi ích thiêng liêng của Dân Chúa
mà lại chỉ được sử dụng ngoài cuộc cử hành Phụng vụ?
BT: Tôi có ở trong HĐGMVN đâu mà có thể trả lời chị chính xác
được! Tôi chỉ đoán thôi. Chắc là có trắc trở nào đó trong bản
dịch này khi đọc trong cử hành Phụng vụ. Hơn nữa dù thế nào thì
cũng đã có sách bài đọc được HĐGMVN chuẩn ẩn từ lâu rồi và đang
lưu hành. Ngay tại Mỹ Ca, dù tôi rất thích bản dịch của Nhóm
PDCGKPV, và dù đã mua 5 bộ sách bài đọc của nhóm này thực hiện,
tôi vẫn không cho cộng đoàn sử dụng mà chỉ sử dụng các sách bài
đọc cũ. Mình cứ vâng lời thì lòng mình thanh thỏa. Tôi nói là có
5 bộ, nhưng đã cho các việt kiều vác đi nước ngoài hết 4 bộ rồi,
chỉ còn 1 bộ.
TT: Nhưng, thưa cha, đi nhiều nơi con thấy nhiều nhà thờ vẫn sử
dụng bản dịch của nhóm PDCGKPV, tại các giáo phận trong nước
cũng như tại các cộng đoàn công giáo Việt Nam ở nước ngoài. Các
cộng đoàn người Việt ở Mỹ, ở Úc, ở Pháp, là những nơi con có dịp
đi qua đều thấy sử dụng bản dịch này, thế nghĩa là thế nào? Các
đấng Bản Quyền các nơi đó cho phép riêng hay sao?
BT: Tôi làm sao biết được. Tại giáo phận Nha Trang chị không
thấy như vậy đâu nhé. Các linh mục chúng tôi trong giáo phận này
vâng lời tuyệt đối .
Tôi chỉ nghĩ rất đơn sơ. Có hai lý do: Lý do bên ngoài: Sách mới
được in ấn: đẹp, rõ, xếp đặt các bài đọc hợp tình hợp lý dễ tìm
bài. Lý do bên trong: Rất ít người đọc kỹ thư của HĐGMVN cho
Imprimatur có ghi "và sử dụng ngoài cuộc cử hành Phụng vụ". Thêm
một lý do nữa: người đi tìm mua để biếu các nơi chưa có sách bài
đọc như tại các cộng đoàn người Việt ở nước ngoài thì dĩ nhiên
họ chẳng để ý gì đến phép với tắc, thấy có sách bán là mừng là
mua. Người nhận thấy có sách cho là vui là dùng. Riêng ở nước
ngoài, các cha phụ trách các cộng đoàn người Việt là vua… Các
giám mục địa phương biết gì mà cấm với đoán!
Chị đừng quên Giáo Hội Việt Nam chúng
ta đã và đang trải qua những khó khăn rất lớn ngay từ trước năm
1975, không thể dễ dàng làm hết được những gì muốn. Chúng ta
phải cầu nguyện nhiều.
TT: Xin cho con hỏi về vấn đề cha chọn sách "Lời Chúa cho mọi
người" để thực hành Lectio divina?
BT: Hì! Hì! Cha Nguyễn Ngọc Tỉnh OFM mà thấy có lần 15, 20, có
lần 30, có lần 80 học viên trẻ của tôi ngồi trong lớp, trên bàn
mỗi chị có để ngay ngắn cuốn "Lời Chúa cho mọi người" thì ngài
phải thích. Thích không phải vì bán được sách, nhưng thích vì
công khó của Nhóm được trân trọng đón nhận sử dụng. Và nhất là
thích vì Lời được các tâm hồn trẻ vui vẻ tiếp nhận.
TT: Đấy là các nhóm nữ tu trẻ, con nghĩ thế, còn phía giáo dân
thì con lại chỉ thấy phần nhiều là sách Tân Ước.
BT: Giáo dân mà có sách Tân Ước, tôi nghĩ cũng là bản dịch của
Nhóm, đã là điều mừng rồi, chúng ta đừng tham. Mình phải thực tế
với tầm mức của cái gọi là tinh thần tôn giáo của giáo dân mình…
TT: Nhưng tại sao cha lại khuyến khích sử dụng sách "Lời Chúa
cho mọi người" để thực hành Lectio divina"?
BT: Chỉ có 2 để chọn lựa như tôi trả lời chị trên kia. Sách của
cha Thuấn thì rất tốt cho việc học Kinh Thánh, còn lại chỉ có
sách của Nhóm PDCGKPV. Đấy là lý do khách quan. Lý do chủ quan
của tôi: tôi đã rất trân trọng bản dịch này và mới đây tôi đọc
Lời Giới Thiệu của Đức Tổng Kiệt, Tòa Tổng Giám Mục Hà Nội, cũng
vào năm 2006… chị mở đọc sẽ hiểu.
TT: (Tôi mở đọc ở trang 7 cuốn sách Kinh Thánh đang có trước
mặt): "Bản dịch Kinh Thánh của Nhóm PDCGKPV đã được biết đến từ
nhiều năm qua như công trình tập thể của nhóm chuyên viên giàu
khả năng và kinh nghiệm. Với lòng nhiệt thành phục vụ, với sự
kiên trì qua nhiều giai đoạn thăng trầm cầu tiến không ngừng,
nhóm Phiên Dịch làm việc liên tục trong nhiều năm để cống hiến
cho Dân Chúa những bản dịch ngày càng hoàn chỉnh"…
BT: Như vậy đủ rồi. Tôi không chuyên về Kinh Thánh, và biết
những tên tuổi của các thành viên trong nhóm thì tôi phải trân
trọng. Giả như có những bản dịch của các cá nhân khác, thì tôi
vẫn chọn công trình của tập thể. Tôi không biết HĐGMVN nói
chung, hoặc nói riêng Ủy ban Kinh Thánh, hay Ủy ban Phụng tự
trực thuộc HĐGMVN có chương trình dịch thuật Kinh Thánh hay
không, nhưng nếu có thì chắc chắn các Ủy ban này cũng quy tụ các
chuyên viên về Kinh Thánh chứ không thể khoán trắng cho một ai,
dù người đó là một "học giả". Tôi vẫn cầu mong có thêm những bản
dịch để có mà đối chiếu, nhất là có thêm những chú thích mà học
hỏi. Mình dốt thì phải nhờ vào mọi người thôi.
Tuy nhiên có một lý do cho chọn lựa của tôi mà tôi vẫn nói với
các học viên Lectio divina.
TT: Thưa cha lý do gì ạ?
BT: Chị đọc tiếp thư giới thiệu của Đức Tổng Kiệt đi. Tôi rất
tâm đắc lời giới thiệu này.
TT: (Tôi đọc tiếp ở trang 8): "Phần Dẫn
nhập và Chú thích cho quyển Lời Chúa cho mọi người là của
Bernard Hurault và Louis Hurault, hai chuyên viên về Kinh Thánh,
hai nhà truyền giáo nhiệt thành. Là chuyên viên, các ngài đưa ra
những chú thích tỉ mỉ, sâu sắc. Là những nhà truyền giáo, các
ngài hướng những chú thích đến người dân với những ưu tư trong
cuộc sống hằng ngày, với những băn khoăn trước vấn đề sống đức
tin trong xã hội. Nhờ đó, mọi người có thể tiếp cận, thấu hiểu
và áp dụng Lời Chúa vào hoàn cảnh sống của mình".
BT: Chị thấy tuyệt không? Thực hành Lectio divina cần những chú
thích loại đó. Tôi khuyến khích các học viên phải có cho được
sách "Lời Chúa cho mọi người" là vì thế. Dĩ nhiên lý do chính
yếu vẫn là thế giá của chính bản dịch Kinh Thánh. Các "dịch giả"
trong nhóm (các ngài cố gắng dịch "thật" chứ không dịch "giả"
đâu chị! (cười). Chị vừa đọc phần trên lời giới thiệu của Đức
Tổng Kiệt: "nhóm Phiên Dịch làm việc liên tục trong nhiều năm để
cống hiến cho Dân Chúa những bản dịch ngày càng hoàn chỉnh". Các
"dịch thật" của nhóm luôn kiên trì dai dẳng cố gắng tìm tòi để
cập nhật bản dịch của mình. Công việc đã 40 năm, nhưng đích tới
còn mịt mù… Chúng ta cần phải hỗ trợ nhóm, tuy là từ xa, bằng
cách cầu nguyện cho các nhóm viên. Một số những vị có mặt từ lúc
khởi xướng hoặc đã về Nhà Cha, hoặc đã hay sắp phải nghỉ hưu.
Cầu nguyện để có những người trẻ uyên bác về Kinh Thánh tiếp nối
công trình dài hơi này. Một trong những cách hỗ trợ, tôi nghĩ là
cũng rất quý báu, đó là chúng ta tiếp nhận thành quả của công
việc dịch thuật của các vị, trân trọng sử dụng với lòng biết ơn…
TT: Vâng thưa cha, nghe các chị em con nói cha hay đề cập đến
vấn đề này. Và hình như còn một lý do nữa để cha khuyến khích
các học viên có sách "Lời Chúa cho mọi người" để thực hành
Lectio divina?
BT: Tôi cũng đang định nói tới đây. Lý do này vô cùng quan
trọng, tuy chỉ là vấn đề hình thức. Đối với những con người sống
đức tin, tiếp nhận Lời Chúa là để đi vào sống kết hiệp với Chúa.
Cha Maurice Zundel có lần nói và tôi đã nghe tại Thụy Sĩ cách
đây khá lâu: "Kinh Thánh là một bí
tích, là tấm màn che. Qua đó, chúng ta phải khám phá ra khuôn
mặt Tình Yêu". Trong khóa học tìm hiểu về bản chất
của Lectio divina, tôi thường hay nhắc:
"Lectio divina là liên hệ đối thoại trong đức tin và tình yêu
giữa ta với Chúa Ki-tô là Đấng nói với ta, trong Chúa Thánh Thần
là Đấng dạy bảo ta, và trong ánh mắt của Cha là Đấng âu yếm nhìn
ta". Do đấy quyển Sách Kinh Thánh có một vai trò vô
cùng quan trọng để sống liên hệ đối thoại này. Qua quyển sách
cầm trên tay, chúng ta đi vào gặp gỡ
chính Ba Ngôi Thiên Chúa. Chắc tôi phải hơi dài dòng
một chút, chị chịu khó nghe nhé.
TT: Vâng, con sẵn sàng. Trao đổi với cha để nghe cha nói mà. Xin
cha cứ nói.
BT: Cám ơn chị. Khi chị tiếp nhận cuốn Sách Kinh Thánh, không
phải là chị cầm lấy sách này như cầm lấy bất cứ một cuốn sách
nào khác. Đấy cũng là lý do mà các giám mục Việt Nam mới đây
nhắc nhở rằng Sách Kinh Thánh phải "được đặt ở nơi xứng hợp"
(Thư chung số 11). Còn nhớ khi ở Thụy Sĩ tôi có một tấm hình vẽ
một đan sĩ quì trong góc một nhà nguyện đang thực hành Lectio
divina. Trên tay đan sĩ cầm quyển sách lớn mở khoảng giữa sách.
Trên hai trang chỉ đơn sơ vài hàng ngoằn ngoèo mờ mờ như những
hàng chữ, khuôn mặt của Chúa Giê-su phủ gần đầy cả hai trang hơi
rõ nét hơn. Tác giả muốn diễn tả ý tưởng của thánh Xíp-ri-a-nô:
khi ta mở đọc Sách Thánh, ta không đối
diện với một cuốn sách, nhưng là đối diện với chính Đức Ki-tô.
Nói thế chị hiểu lý do tại sao tôi trân trọng sách "Lời Chúa cho
mọi người" của nhóm PDCGKPV và khuyến khích các học viên phải có
cho được ấn bản đẹp và trang trọng đó. Nội dung bản dịch đã vậy,
còn những chú thích như Đức Tổng Kiệt đã nhận định trên đây.
Hình thức của "bí tích Lời Chúa" như cha Maurice Zundel nói cũng
vô cùng cần thiết. Sách Kinh Thánh không là như bất cứ quyển
sách nào. Là quyển sách chứa đựng bí tích Lời Chúa thì phải đẹp
nhất có thể về mọi mặt hình thức. Lời
Chúa và Thánh Thể ngang bằng nhau. Nhóm PDCGKPV đã có
những cố gắng tối đa để ấn bản xứng tầm là Sách Lời Chúa. Chị
cầm quyển sách này trên tay là chị nâng niu âu yếm ôm ấp chính
Đức Ki-tô của chị. Tôi ghi ơn những người đã thực hiện quyển
sách này.
TT: Nhưng, thưa cha, tại sao để thực hành Lectio divina cha
khuyên nên có cả một quyển sách toàn bộ Cựu và Tân Ước với những
chú thích tốt nhất. Khởi đầu cha khuyên chỉ nên thực hành Lectio
divina với các bài Phúc Âm của thánh lễ mỗi ngày. Vậy thì có
sách Tân Ước, sách bài đọc, hoặc có bản chụp, hay chép tay, đánh
máy trích đoạn đó không đủ sao?
BT: Đủ, khi chị không thể làm khác,
như đi đường xa, quên đưa sách Kinh Thánh đi theo, đến một nơi
không có sách… thì đành chịu. Lúc đó ngay cả việc không có một
bản văn trên giấy, mà chỉ có thể lôi trong ký ức ra một vài câu
Lời Chúa để đi vào Lectio divina cũng được. Thời các thánh tu
rừng xa xưa làm gì có sách Kinh Thánh như bây giờ, lại càng
không có sách của nhóm PDCGKPV (cười). Nhưng cứ sự thường, các
tu sĩ, các linh mục, các giáo hữu phải có sách Kinh Thánh toàn
bộ như quyển sách "Lời Chúa cho mọi người". Thực hành Lectio
divina, chị cầm sách trên tay để đọc và qua việc đọc chị lắng
nghe Chúa nói với chị. Chúa đây cụ thể hiện diện dưới hình thức
quyển sách, chứ không phải là một vài tờ giấy. Cũng như Người
hiện diện dưới hình bánh hay hình rượu.
Và quyển sách toàn bộ này là Đức Ki-tô toàn thể.
Hơn nữa chị đọc rồi chị suy, đó là giai đoạn tiếp theo. Những
chú thích là rất cần thiết để giúp chị suy. Đó cũng là khí cụ
Chúa Thánh Thần dùng để soi sáng cho chị. Những điều kiện này
hiện tại trong các nhà sách công giáo trên khắp nước chỉ có sách
"Lời Chúa cho mọi người" là đáp ứng nổi.
Tôi tiếp thị miễn phí đấy. Nói vậy cho chị cười vui chứ không
miễn phí đâu. "Cày" cho Chúa thì nhận được gấp trăm gấp ngàn. So
với bao nhiêu năm nhóm PDCGKPV "cày" thì việc tôi quảng bá không
đáng nói. Tôi tin chắc các vị trong nhóm làm việc cho Lời Chúa,
chỉ vì yêu mến Lời, muốn đưa Lời đến cho khắp các anh chị em của
mình, phục vụ Lời hết mình theo khả năng các vị có. Các vị không
mong phần thưởng nào hơn ngoài mong ước việc làm của mình được
đón nhận: Sách Lời Chúa đến được với mọi nhà, mọi tâm hồn để nhờ
đó Lời được tiếp nhận…
Bên cạnh quyển sách dày, to, trang trọng đó tôi cũng khuyên các
học viên Lectio divina nên có một cuốn sách Tân Ước nhỏ, mỏng để
tiện đi đường. Trong gói hành trang của tu sĩ chúng ta, bên cạnh
sách Kinh Nguyện Phụng Vụ (cũng của nhóm), còn cần phải có ít là
một sách Tân Ước mỏng nhỏ. Ấn bản Pháp ngữ, tôi thấy người ta
còn in riêng từng tập mỏng mỗi Phúc Âm, Công vụ Tông Đồ, Thư
Phao-lô v.v… rất thuận tiện cho việc đi đường.
Có lần tôi đề nghị cha Nguyễn Ngọc Tỉnh làm một số Sách Kinh
Thánh khổ rất lớn để chưng trong nhà thờ và ngài đã thực hiện,
như chị thấy trên Bàn Thờ Lời Chúa trong nguyện đường đan viện
Mỹ Ca. Riêng đề nghị in riêng các sách Kinh Thánh như ấn bản
tiếng Pháp, ngài cười nói còn tùy thuộc rất nhiều vấn đề, trong
đó có vấn đề… kinh tế.
TT: Cha còn muốn nói thêm gì không ạ?
BT: Chị hỏi thì tôi trả lời. Chị không hỏi nữa thì mình chấm hết
ở đây là vừa. Tôi thấy là đã trả lời chị khá dài dòng rồi.
TT: Vâng, cám ơn cha. Xin Chúa chúc lành cho cha.
BT: Và cho chị, cho tất cả các chị tìm hiểu, học hỏi thực hành
Lectio divina. Nhớ nhắc các chị em trong dòng chị phải có cho
được sách "Lời Chúa cho mọi người" nhé. Ai trong nhóm đang ở nhà
khách tĩnh tâm chưa có, tôi nhượng lại… Tôi còn khoảng 40 cuốn
khổ lớn nhất. Hình như giá bán 150.000 đồng. Giá bán này vừa bán
vừa tặng. Cuốn sách TOB, bản dịch đại kết của Pháp, hôm trước
tôi phải trả tới 60 euros. Tính ra cũng gần 2 triệu.
TT: Mà sao sách Việt mình lại rẻ vậy, thưa cha? In bằng giấy
bible mà lại dày tới 2180 trang chưa kể 4 trang bản đồ mầu. Công
khó dịch thuật, sửa chữa gần 40 năm, in ra mà chi bán 150 nghìn
đồng thì rẻ mạt! Con nghĩ nhóm PDCGKPV được hỗ trợ.
BT: Có được Liên Hiệp Thánh Kinh Hội giúp đỡ một phần, tôi thấy
ghi ở trang 4 như thế. Nhưng quan trọng là nhóm làm việc "thiện
nguyện" không lương nên bản in đề bán mới rẻ như thế.
TT: Chân thành cám ơn cha đã dành giờ trả lời những thắc mắc và
soi sáng cho con một số vấn đề mà con mù tịt. Con sẽ cho các chị
em con nghe những gì cha chia sẻ và có thể con sẽ viết lại trên
giấy.
BT: Tùy chị. Miễn là danh Chúa được cả sáng và Lời được quảng
bá.
Ghi tại Đan viện Xi-tô Thánh Mẫu Tâm Mỹ Ca 28.05.2011
Nữ tu Tê-rê-sa Băng Thùy
*****
Xin giới thiệu cho nhiều người thân tham gia Gia Đình Lectio
Divina
Lecdiv@gmail.com để
có thể hiệp thông với nhau trong đời sống cầu nguyện và cùng
giúp nhau thực hành
"điều cần thiết nhất trong mọi điều cần thiết".
Mọi thắc mắc về Lectio divina, xin gởi email cho cha Bảo
Tịnh, O.Cist Revbao@gmail.com
///
|
VỀ MỤC LỤC |
|
TRÍ NHỚ |
Theo định nghĩa, trí nhớ là một khả năng của trí tuệ để thu
thập, tích trữ và lấy ra các sự kiện mà con người đã
trải qua trong quá khứ.
Có
trí nhớ ngắn hạn, trí nhớ dài hạn. Ngắn hạn không tồn tại lâu và
có thể chuyển sang dài hạn và lưu trữ mãi mãi
Hãy
hình dung khung cảnh một buổi trưa hè, ta ngồi ở một nơi nào
không phải là quê hương Hà Nội, mà nhớ lại cách đây trên dưới
nửa thế kỷ, cùng bạn bè tắm sông, hái ổi trên Nghi Tàm, đạp xe
vào chùa Láng, chùa Trầm. Rồi tưởng tượng như đâu đây phảng phất
hương ngọc lan trên đường Quan Thánh, hay phượng vĩ đỏ ối chung
quanh Hồ Tây.
Làm
sao mà bất cứ lúc nào, nếu muốn, ta cũng như sống lại những gì
của quá khứ? Làm sao mà não bộ, một cơ quan chỉ nặng chừng 1.5
kí lô có thể thực hiện được cái công việc đầy khó khăn đó? Ấy là
chưa kể cả trăm công việc khác mà não bộ có thể đảm đương để duy
trì sự sống của con người.
Riêng về trí nhớ, khoa học đã cố gắng giải đáp, nhưng sự hiểu
biết mới chỉ có một phần.
Phát triển
của
não bộ
Khi
mới sanh, não bộ nặng khoảng 50 gr, lúc trưởng thành nặng 1,5
kg.
Đó
là một khối chất giống như bột mì nhão, mầu xám nhạt với cả tỷ
tế bào và nhiều triệu dây nối tiếp giữa các tế bào.Tín hiệụ
chuyển từ tế bào này sang tế bào khác ở chỗ nối tiếp và bằng hóa
chất trung gian Acétylcholin.
Mỗi ngày có từ 60.000 tới 100.000 tế bào thần kinh bị hủy diệt
và không được thay thế. Đây là một cuộc tàn sát lớn mà khi ta
tới tuổi 65, có đến 1/10 tổng số tế bào thần kinh bị tiêu hủy.
May
mắn thay là những tế bào còn lại có thể lãnh phần trách nhiệm
của những tế bào xấu số. Chúng sẽ mọc ra nhiều nhánh xen kẽ vào
khoảng trống để tiếp nhận tín hiệu thần kinh. Sự việc này cũng
giống như trong khu rừng già, một cây chết đi thì cây kế cận
vươn lên, sinh ra nhiều cành để điền khuyết.
Phần não có nhiệm vụ ghi trí nhớ nằm ở vùng vỏ não, hai bên
thái dương, sau mắt.
Phần nhận và thanh lọc tín hiệu cho trí nhớ nằm sâu trong não,
có hình chữ C, gọi là hải mã.
Sự
liên hệ chức năng giữa hai vùng này rất cần thiết cho trí nhớ .
Ở
tuổi già, khối lượng não nhỏ đi, tế bào thần kinh thay đổi hình
dạng, sự truyền tín hiệu chậm lại, chất lipofuscin xuất hiện
giữa tế bào, có thể gây rối loạn cho các cơ năng của não. Máu
vào óc ít hơn, sự cung cấp dưỡng khí cũng giảm.
Hình chụp do X quang cho thấy các luống óc não nhỏ đi, rãnh giữa
luống rộng ra. Từ tuổi 20 tới 90, não nhẹ bớt đi khoảng 5-10% và
chứa nhiều chất lỏng hơn. Những thay đổi này có ảnh hưởng phần
nào tới trí nhớ.
Trí nhớ
được
chia ra làm ba loại
:
1- Trí nhớ ngắn hạn.
Đây
là loại trí nhớ để phân tích những dữ kiện, sự việc cần tức thì
và kéo dài trong chốc lát . Người Mỹ gọi nó là trí nhớ làm việc
(working memory). Từ năm 1890, nhà tâm lý học Williams James gọi
là trí nhớ căn bản (Primary memory).
Ta
lấy một thí dụ: trí nhớ này giúp ta nhẩm trong đầu một số điện
thoại trong khi quay máy. Chẳng hạn: bà vợ hỏi chồng số điện
thoại của cô Cúc, em dâu, là bao nhiêu, chồng trả lời 8959.4762.
Vợ nhẩm số đó và quay. Hai chị em thảo luận về quần áo, phấn son
cả tiếng đồng hồ. Lần sau cần số điện thoại cô Cúc, nàng laị hỏi
chàng. Thật là tiện, khỏi mất công nhớ. Mà nếu muốn nhớ, nàng
phải dùng đi dùng lại nhiều lần, như là để củng cố, hợp nhất dữ
kiện đó vào não.
Trí
nhớ này bắt đầu có vào lúc 7 tuổi, thường thường không bị suy
giảm với tuổi cao. Nó kéo dài khoảng vài chục giây tới một phút.
2- Trí nhớ trung hạn.
Những dữ kiện ghi trong trí nhớ này tồn taị từ nhiều phút tới
vài năm. Một tín hiệu được nhắc đi nhắc laị, được sử dụng nhiều
lần sẽ được ghi đậm sâu trong vỏ não. Khi cần đến, óc sẽ được
kích thích để lấy ra dữ kiện này.
Còn
bé đi học, có những bài học thuộc lòng trong Luân Lý Giáo Khoa
Thư mà chắc bây giờ nhiều người trong chúng ta còn nhắm mắt ôn
lại được.
Xin
nói rõ là, để có chất liệu trong trí nhớ, ta phải đi qua ba giai
đoạn :
a-
Thu thập
Lấy
dữ kiện bằng học hỏi, thảo luận, suy nghĩ, và bằng sự nhận của
các giác quan.
b-
Tồn trữ
Một dữ kiện, muốn được tồn trữ, phải qua sự thanh lọc của bộ
phận hải mã, để coi nó có gây xúc động, hấp dẫn đáng ghi nhớ hay
không.
Tên
người yêu chắc chắn là phải cần ghi nhớ hơn là tên anh cảnh sát
công lộ vừa mới biên phạt mình vì lái xe quá tốc độ.
Dữ
kiện đó hoàn toàn mới hay có liên quan tới một kỷ niệm cũ. Thí
dụ ta đã có một số ý niệm về một ca sỹ với tiếng hát vượt thời
gian; rồi tháng sau có tin cô ấy lấy chồng, năm sau sinh đôi,
thì bộ phận hải mã sẽ xếp những tín hiệu mới này vào hình ảnh
cô ca sỹ nổi danh trên để được phong phú hơn.
c-
Phục hồi kỷ niệm
Giống như máy vi tính, ta có thể phục hồi, lấy ra, bất cứ lúc
nào, những dữ kiện có trong trí nhớ. Nghe tiếng hát cô ca sỹ kể
trên trong CD là ta có thể hình dung ra cuộc đời ái tình sự
nghiệp, gia cảnh cũng như hình dáng của cô ta .
Trí
nhớ này bắt đầu có vào lúc 10 tuổi.
3- Trí nhớ dài hạn.
Trí
nhớ này có thể tồn tại suốt đời người. Đây là kết quả tích tụ
của nhiều năm với những kỷ niệm, kinh nghiệm, kiến thức học hỏi
của người tuổi cao.
-
Có những trí nhớ về kiến thức tổng quát mà ta thu góp, tàng trữ
một cách tự nhiên, không cần biết nó xảy ra khi nào, ở đâu. Nói
đến quê hương Việt Nam là ta hình dung ra một giang sơn có hình
chữ S, có sông Hồng, núi Ngự, Cửu Long Giang. Khi nhắc tới Quang
Trung, ta nhớ lại sử sách kể những trận đánh quân Tàu oai hùng
của Người. Trí nhớ này tích tụ ngày một xúc tích, rất tự nhiên,
đầy lúc nào ta không hay.
-
Còn trí nhớ về những sự kiện cá nhân trong đời sống hàng ngày
được ghi nhận với thời gian và không gian. Chẳng hạn trưa hôm
qua ta ăn cơm Việt Nam ở quán Sải Gòn hoặc sinh nhật năm ngoái,
ta nhận được chiếc đồng hồ mới do vợ con mua tặng. Đó là trí nhớ
quá khứ.
-
Sáng nay khi đi làm, ta tự nhủ là chiều nay tan sở trước khi về
nhà, sẽ ghé siêu thị mua chai rượu vang vì tối nay vợ làm món cá
bông lau hấp. Đây là trí nhớ vị lai.
-
Có trí nhớ hành động thường nhật như ta tự hỏi, sáng nay có để
thức ăn cho chú chó không, hoặc tuần trước ta cắt cỏ ngày thứ
năm hay thứ sáu.
-
Trong trí nhớ hồi tưởng, ta nghĩ và nói về dữ kiện của “ những
ngày xưa thân ái ”, trí nhớ tự truyện nhắc đi nhắc lại chuyện về
mình trong vài năm trước.
-
Trí nhớ dung nhan khi “ Xin lỗi nom ông quen quen, mình đã gặp
nhau, mà không sao nhớ được tên ông ”, trí nhớ “đã thấy” (déjà
vu) mình đã ở nơi đó mà không nhớ bao giờ.
-
Bà nội trợ, làm bếp cần mấy củ tỏi, nhưng nhà không còn. Bà ta
nhẩm trong đầu là kỳ tới đi chợ thêm tỏi vào danh sách các thứ
cần mua. Khi viết danh sách lại quên biên tỏi. Đi chợ, qua hàng
rau quả, nhìn thây tỏi, bà ta lượm một túi, như vậy là trí nhớ
thầm kín đã gợi bà mua tỏi.
Kết
luận
Làm
sao mà não, nói chung, các trung tâm trí nhớ, nói riêng, có thể
hoàn tất công việc phức tạp đó một cách chu đáo và khoa học như
vậy? Cho tới nay, chưa có một giải đáp thỏa đáng mà chỉ có những
gơị ý, phỏng đoán.
Có
người đã ví não bộ như cả ngàn hệ thống điện thọai mà mỗi hệ
thống có thể cung cấp nhu cầu liên lạc cho tất cả dân chúng của
thành phố Nữu Ước. Các trung tâm này liên tục nhận những tín
hịêu thu lượm do ngũ quan đưa về, phân tích, xếp loại rồi tồn
trữ.
Óc
ghi nhận dữ kiện như một cái máy thu âm, bộ phận hải mã như là
một cái nút kiểm soát. Bình thường, nút bấm này tắt, và chỉ mở
để ghi khi nào dữ kiện được coi là quan trọng.
Một
dữ kiện không quan trọng thường lởn vởn trong đầu một lúc rồi
tan biến đi. Cho nên nếu ta có quên tên một người nào đó trong
tiệc cưới cũng là chuyện bình thường, giống như là lâu lâu ta
quên, không biết chìa khóa xe, chìa khóa nhà để ở đâu.
Nhưng lái xe đi làm mỗi ngày trên cùng con đường mà lạc lối;
quên những hẹn quan trọng; kể đi kể lại cùng câu chuyện trong
một cuộc gặp gỡ ngắn ngủi với bạn bè, thì là điều đáng ngại.
Những thắc mắc, lo âu, tự hỏi: Ta già rồi chăng? Hay ta đang mắc
chứng não suy trầm trọng?
Liệu trí nhớ có bỏ ta ra đi như những con chuột tìm đường chạy
trốn khỏi con tầu sắp chìm đắm dưới biển cả mênh mông!
Bác sĩ Nguyễn Ý-Đức
Texas- Hoa Kỳ
www.bsnguyenyduc.com
|
VỀ MỤC LỤC |
BÀN VỀ HEO
Chuyện phiếm của Gã Siêu |
Năm Đinh Hợi 2007, cầm tinh con heo và theo thói quen vốn có từ
lâu, số báo đầu xuân bao giờ cũng phải bàn về con vật gần gũi
này. Vì thế, gã bèn ngồi xuống bóp trán mà suy nghĩ : mình sẽ
viết cái chi đây ? Thôi thì biết cái gì thì viết cái nấy, chẳng
cần phải có đầu có đuôi, một loại…tạp ghi, giống như loài heo,
vốn mang đặc tính hỗn thực, tức là…ăn tạp vậy.
TÔI NUÔI HEO
Trong một bản nhạc, có nốt trầm, thì cũng phải có nốt bổng. Cũng
vậy, trong đời sống, có những lúc lên voi, thì cũng phải có
những lúc xuống chó. Cảnh xuống chó của gã xảy ra sau ngày 30
tháng 4 năm 1975. Thời điểm này chính là một cột mốc phân định
cho bản thân của gã và là một ngã rẽ cho đời của gã.
Thực vậy, mặc dù không bị kết án là phản động, bị xếp vào hàng
ngụy quân hay ngụy quyền, nhưng với cái nhãn hiệu là “tư sản” mà
vốn liếng chưa bằng một cái móng tay, cùng với cái mũ là “trí
thức”, mà sự hiểu biết chưa bằng một con ếch ngồi dưới đáy
giếng, thì phải khôn hồn lo chạy trước, đào vi thượng sách kia
mà. Vì thế, gã đành phải bỏ thành thị về nông thôn, xóa bàn làm
lại, xây dựng một cuộc sống mới.
Về nông thôn cắm dùi, làm ruộng thì không quen và cũng chẳng có
đất đâu mà cày, còn ăn mày thì…hổ ngươi, và thế là bèn xoay qua
nuôi heo.
Đối với người Do Thái, heo là một con vật “ô uế”, nên dân chúng
không được ăn thịt heo và chỉ những kẻ mạt rệp, khố rách áo ôm
mới làm cái nghề chăn heo. Thế nhưng, Việt Nam ta thì khác, heo
là một con vật thân thương và nhiều người đã phất lên trông thấy
nhờ cái nghề nuôi heo. Riêng gã, thì năm 1982, mới tập tễnh bước
vào cái nghề này.
Việc thứ nhất cần phải làm ngay, đó là
học hỏi.
Trước khi bắt đầu “sự nghiệp nuôi heo, gã đã phải “tầm sư học
đạo” bằng cách lên Saigon, tham quan một vài trại heo, cũng như
nhờ một vài người “thâm niên quân vụ” nhiều kinh nghiệm trong
nghề chỉ dẫn. Rồi lại còn phải “ngâm kíu” thêm một số những tài
liệu khác nữa.
Lúc bấy giờ sách của Hồ Văn Giá được coi như là “sách gối đầu
giường”, vừa đầy đủ lại vừa thực dụng. Gã đã phải học từ cách
tạo công thức chế biến thực phẩm, cho đến cách chữa trị một số
những chứng bệnh mà heo thường mắc phải.
Việc thứ hai cần phải làm ngay, đó là
làm chuồng.
Người dân địa phương hầu như nhà nào cũng nuôi một vài con heo.
Họ coi việc làm này như là một thứ…tiền bỏ ống. Vì thế, heo ở
chung với người và người ở chung với heo, chẳng cần phải làm
chuồng.
Chỉ những nơi chăn nuôi theo kiểu công nghiệp, mới cần xây dựng
chuồng trại với qui mô mô lớn.
Riêng gã thì nằm lơ lửng giữa hai thái cực trên, nên cũng phải
làm một cái chuồng, chia làm mấy ngăn : vài ngăn heo nái và vài
ngăn heo thịt. Chuồng tương đối thoáng mát và có ánh nắng mặt
trời ban sáng chiếu vào.
Việc thứ ba cần phải làm ngay là mua
heo giống.
Để bảo đảm chất lượng cao, gã đã phải tới mấy trại chăn nuôi,
mua dăm ba con heo giống “rặt dòng”, nghĩa là chưa bị lai tạp
bao nhiêu, cho dù giá cả rất mắc. Duroc ra Duroc. Yorkshire ra
Yorkshire.
Có một lần chở về hai con heo giống, được nhốt trong hai chiếc
lồng bằng sắt và cho lên mui xe. Khi xe vừa qua khỏi bắc Vàm
Cống, thì một chiếc lồng bị bật nắp và thế là con heo rớt ngay
xuống đường, chết không kịp ngáp. Heo chết không ai mua. Bỏ thì
thương, vương thì tội. Vì gần tới nhà rồi, nên đành phải mang về
xả thịt. Ăn những miếng thịt của con heo giống này, mà gã cảm
thấy như…vị đắng vỡ tan
trong miệng.
Việc thứ bốn cần phải làm ngay, đó là
chế biến thực phẩm.
Cứ một tuần hay mười ngày lại phải chế biến thực phẩm một lần :
nào là mua cám, nào là xay bột gạo, nào là xay bột cá, rồi trộn
chung với nhau theo một công thức, một tỉ lệ đã được tính toán
kỹ, sao cho đủ chất đạm, cũng như đủ “calorie” để con heo sinh
hoạt và tăng trưởng. Lúc bấy giờ chưa có điện, nên phải trang bị
một chiếc máy dầu cũ kỹ, nên mỗi lần xay cũng khá vất vả. Ngoài
còn phải trồng thêm một bè rau muống, một đám rau lang, hầu bồi
dưỡng thêm cho đàn heo.
Việc thứ năm cần phải làm ngay, đó là
chăm sóc heo bệnh.
Gã xin nói lên một kinh nghiệm có phần sống sượng và bẽ bàng,
nhưng lại là sự thật :
- Vợ con đau không lo cho bằng heo bị bệnh.
Thực vậy, vợ con đau thì mình đưa đi bác sĩ để biết được bệnh mà
trị liệu, còn heo đau thì vắt giò lên cổ mà chạy thuốc. May thì
khỏi, không may thì chết. Thành thử mỗi khi heo đau, một bầu khí
“tang thương ngẫu lục” phủ xuống, làm cho mọi người trong nhà
chẳng còn thiết ăn uống gì nữa.
Nuôi được một con heo, thì đã trầy da tróc vẩy, đổ mồ hôi sôi
nước mắt. Nhưng bán được một con heo cũng không kém phần nhiêu
khê và rắc rối trong hoàn cảnh lúc bấy giờ.
Thực vậy, heo mình nuôi mà muốn giết thịt, dù là heo bệnh, heo
đau…đều phải “xin phép” chính quyền địa phương, nghĩa là các
“quan ấp” có cho phép thì mới được giết thịt. Heo xuất chuồng
thì phải bán cho xã, để xã đạt được…”chỉ tiêu trên giao” mà báo
cáo. Thế nhưng, bán cho mấy ông nhà nước thì giá thấp hơn giá
thị trường, nên phải bán…chui. Có người bán chui, thì cũng có
người mua chui. Vô phúc mà bị mấy tên du kích vớ được, thì chỉ
có nước…lỗ sặc gạch mà thôi.
Cũng mừng vì heo ăn no chóng lớn, chỉ bốn tháng sau khi tách bầy
đã được hơn một tạ. Thêm vào đó, vì thuộc loại heo rặt dòng,
“nhiều nạc ít mỡ”, nên thiên hạ vẫn cứ tranh nhau mua, nhất là
vào dịp tết, để làm giò…bất chấp sự lùng sục của nhà nước.
Hiện nay nghề nuôi heo đang lâm vào một tình trạng thật bấp bênh
và mếu máo, giở khóc giở cười. Khi giá heo thịt cao, mà cám gạo
lại rẻ, thì liên tục phát triển, nhà nhà đều nuôi. Khi giá heo
thịt thấp, mà cám gạo lại mắc, thì nhiều nhà bèn dẹp tiệm do
bị thua lỗ.
Hơn thế nữa, vì dùng nhiều hóa chất trong thực phẩm, cũng như
kích thích khả năng tăng trọng, nên heo dễ bị nhiễm nhiều thứ
dịch bệnh khác nhau : Nào lở mồm long móng, nào “ ê-cô-li”… Và
khi heo bị nhiễm bệnh, người ta lại phải dùng nhiều loại thuốc
với liều lượng nặng, thành ra một số người bỗng ngại ăn thịt
heo.
NHỮNG BIỂU TƯỢNG CỦA DÒNG HỌ…TRƯ
Trong tiếng Tàu, trư có nghĩa là con heo. Sách có câu :
- Dưỡng nam bất giáo, bất như dưỡng trư. Dưỡng nữ bất giáo, bất
như dưỡng lư. Nuôi con trai mà không dạy, thì không bằng nuôi
heo. Nuôi con gái mà không dạy, thì không bằng nuôi lừa.
Theo “Từ Điển Bách Khoa Việt Nam”, heo là động vật có vú đã được
thuần hóa, rât gần gũi với đời sống con người. Trong tâm thức
của nông dân Việt Nam qua rất nhiều đời, heo cũng như gà trở
thành biểu tượng của ấm no, hạnh phúc và con đàn cháu đống. Đây
cũng chính là niềm mơ ước của phần đông dân chúng : đa tử, đa
tôn, đa phú quí.
Trong dân gian, người ta có thói quen làm những con heo đất,
bụïng rỗng, xẻ rãnh ở mông để cho tiền vào, hầu dạy cho trẻ em
biết tiết kiệm.
Báo chí đã nhiều lần lên tiếng ca ngợi những mẫu gương của các
em. Chẳng hạn khi được nhìn thấy một đứa bé tật nguyền, hay
chứng kiến những hình ảnh tang thương của đồng bào miền Trung
sau con bão, có em đã về nhà đập con heo đất của mình, lấy hết
số tiền đã dành dụm được để giúp đỡ cho những người bất hạnh ấy.
Heo là một con vật rất hữu ích và là một nguồn thực phẩm cho
chúng ta, thế nhưng ngoài những biểu tượng tốt kể trên, người ta
đã gán cho con vật thân thương này những thói hư tật xấu. Những
thói hư tật xấu này được diễn tả qua hình ảnh Trư Bát Giới
trong truyện Tây Du Ký.
Như chúng ta đã biết : Trư Bát Giới là một trong ba đệ tử đã đi
theo Đường Tăng sang Tây Trúc thỉnh kinh. Tác giả đã diễn tả Trư
Bát Giới qua vóc dáng của một con heo với ba đặc tính, đó là
hay ăn, hay ngủ và hay chạy theo…đờn bà con gái.
Trước hết là biểu tượng của sự tham ăn.
Heo là một loài hỗn thực, một loài ăn tạp, vừa phàm ăn lại vừa
ăn được mọi thứ, từ cục đất cục than đến nắm rau muống, từ chút
cơm thừa canh cặn đến những thứ thực phẩm được chế biến. Lúc đói
thì kêu la inh ỏi, nhưng khi người ta đổ cám vào thì chỉ biết
vục đầu xuống mà ăn.
Vì thế, theo Toan Ánh kể lại thì những tên “đơm lợn” chỉ cần một
cái giỏ cám. Khi đã lọt vào chuồng, chúng giơ giỏ cám ra. Đang
lúc heo chui đầu vào giỏ mà ăn lấy ăn để, chúng chỉ việc chịt
cổ lại và ung dung vác đi, mà heo chẳng kêu lên được một tiếng
vì trong mõm còn đầy thực phẩm.
Tương tự như loài heo, Trư Bát Giới thấy thức ăn là mắt sáng
như đèn ô tô, rồi vồ vập lấy mà ăn, như sợ người khác chớp mất.
Nhiều người trong chúng ta cũng vậy. Họ là một loài ăn tạp,
nghĩa là ăn được đủ thứ, đồng thời lấy cái bụng của mình làm
chúa. Ngoài những thứ cao lương mỹ vị tại các nhà hàng sang
trọng, họ còn ăn được những thứ khác chẳng dính dáng tới mồm tới
miệng, chẳng hạn như ăn hối lộ, ăn đút lót, ăn tiền, ăn gian, ăn
trộm, ăn cướp…đây là một lãnh vực dành cho phe đờn ông con giai,
nhất là đối với những kẻ có chức có quyền.
Còn phe đờn bà con gái thì thuộc loại phàm ăn, nghĩa là có thể
ăn ở mọi nơi và trong mọi lúc, đặc biệt là ăn quà vặt. Có bà có
cô đã phát ngôn một cách rất hách như sau :
- Đã là đàn bà con gái thì phải biết ăn hàng, bằng không, chẳng
còn phải là đàn bà con gái nữa.
Hay :
- Đi chợ mà không ăn quà, thì hẳn những hàng quán sẽ phải chết
đói.
Tục ngữ ca dao cũng đã bỏ ra rất nhiều lời để diễn tả về tập
quán này của các bà các cô. Có bà có cô được liệt vào hạng siêu
đẳng :
- Đi chợ,
Đồng bấc thì quên,
Đồng quà thì nhớ.
- Đi chợ ăn quà,
Về nhà đánh con.
Rồi đưa ra những lý do để bào chữa cho thói quen của mình :
- Đi chợ mất tám tiền quà,
Chồng thương, chồng bảo : về nhà đỡ cơm.
Vì được quản lý tiền bạc, nên các bà các cô tha hồ thao túng và
tự do vẫy vùng :
- Đêm nằm thì ngáy o o,
Chửa đi đến chợ đã lo ăn quà.
Hàng bánh, hàng bún bày ra,
Củ từ, khoai nướng, lẫn hàng cháo kê.
Ăn rồi cắp đít ra về,
Thấy hàng chả chuột lại lê trôn vào.
Chả này bà bán làm sao ?
Ba đồng một mớ lẽ nào chẳng xơi…
Tiếp đến là biểu tượng của sự lười
biếng
Con heo sau khi ăn no thì lăn kềnh ra ngủ. Điệp khúc của đời nó
là ăn rồi ngủ, ngủ rồi ăn, mà chẳng cần làm bất cứ công việc nào
cả. Thành thử được bầu chọn làm biểu tượng cho sự lười biếng kể
cũng không oan.
Còn Trư Bát Giới trong Tây Du Ký cũng giống như vậy. Rảnh rang
một tí là tìm chỗ ngả lưng. Và khi đã chợp mắt thì liền kéo gỗ,
ngáy vang như sấm.
Ngày xưa người ta diễn tả về anh học trò như sau :
- Ai ơi chớ lấy học trò,
Dài lưng tốn vải, ăn no lại nằm.
Ngày nay một số anh chồng cũng muốn noi theo tác phong ấy, chẳng
muốn động tay vào chuyện gì cả :
- Việc nhà phó mặc cho bu nó,
Quắc mắt khinh đời, cái bộ anh.
Chẳng những lười biếng mà còn bắt vợ con phải cung phụng đủ điều
đủ thứ :
- Bố tôi hay tửu hay tăm,
Hay nghiện chè tàu, hay nằm ngủ trưa.
Ngày thì ước những ngày mưa,
Đêm thì ước những đêm thừa trống canh.
Chỉ nguyên việc “ngồi thiền” tại quán cà phê, cũng đã mất toi cả
buổi sáng.
Còn phe đờn bà con gái, đôi khi cũng thấy xuất hiện những “siêu
sao” trong lãnh vực này. Người vợ vốn là người nội trợ, quán
xuyến mọi việc trong gia đình. Mà những việc trong gia đình
thường là những chuyện lặt vặt, nồi niêu xoong chảo, chổi cùn
rế rách…
Rất may, Thượng Đế đã an bài cho người phụ nữ một đức tính cần
cù, nhẫn nại và tinh vi, để sắp xếp, để dự phòng hầu nhà cửa
được ngăn nắp trật tự. Trong khi đó, người chồng, vì bận rộn với
công việc làm ăn, nên ít có thời giờ ngó ngàng đến.
Tuy nhiên, không phải tất cả những người vợ đều chăm chỉ, đều
cần cù nhẫn nại, trái lại cũng có những người vợ, vốn sẵn tính
lười, nên lợi dụng mọi hoàn cảnh để lười đến mức tối đa.
Con trai mà lười thì có thể dễ dàng xí xái bỏ qua, con gái mà
lười, thì khó lòng mà chấp nhận. Huống nữa là một người vợ, một
người mẹ mà lười thì chắc chắn đó là một tệ hại, và gia đình sẽ
đi đến chỗ lộn xộn, vô tổ chức.
Bệnh lười này thường được phát triển nơi các bà mẹ trẻ, bằng
cách núp sau lưng đứa nhỏ, để tối ngày đánh võng và nằm ngủ phó
mặc mọi công việc từ giặt giũ cho đến cơm nước cho chồng cho
con.
Rồi khi con cái khôn lớn được một chút, là họ lợi dụng tối đa,
qua những lệnh truyền và sai vặt không ngừng. Họ coi con cái như
những đứa đầy tớ, còn họ là những bà chủ, cứ việc chỉ tay năm
ngón mà thôi.
Bởi vậy, khi bước vào một gia đình, chúng ta có thể đánh giá
ngay lập tức được người vợ, người mẹ của gia đình ấy. Nếu thấy
con cái lem luốc và bẩn thỉu, nhà cửa lộn xộn và bừa bãi, quần
áo giăng cứ như mắc cửi, thì chúng ta biết được người vợ,
người mẹ của gia đình ấy bê bối, không biết sắp đặt và đã mắc
phải chứng bệnh…”lươi huyền” mãn tính
Trái lại vào nhà nào mà chúng ta thấy con cái sạch sẽ, áo quần
lành lặn, nhà cửa ngăn nắp, chúng ta biết được người vợ, người
mẹ của gia đình ấy là người trật tự, có óc tổ chức và siêng năng
chăm chỉ.
Đây cũng là một bí quyết để cầm chân người chồng và bảo vệ hạnh
phúc của gia đình. Thực vậy, người chồng sau một ngày làm lụng
vất vả tại công sở hay ngoài đồng nắng gắt, về đến nhà thấy con
cái sạch sẽ, nhà cửa gọn ghẽ, ắt sẽ hài lòng và gắn bó với mái
ấm của mình hơn.
Trái lại, về đến nhà thấy con cái bê bối, áo quần xốc xếch, mặt
mũi lem luốc, còn nhà cửa thì hôi hám, lộn xộn và bẩn thỉu, ắt
sẽ dễ dàng gắt gỏng, bực bội và khó chịu.
Sau cùng là biểu tượng của sự dâm đãng.
Gã không hiểu sao cả Tây phương lẫn Đông phương đều nhất trí với
nhau trong việc chọn loài heo làm biểu tượng cho sự dâm đãng.
Thực vậy, trong tiếng Pháp chữ danh từ “cochon” chỉ con lợn hay
con heo, nhưng cũng chỉ kẻ trụy lạc, dâm đãng. Cũng thế, danh từ
“porc” vừa chỉ con heo hay con lợn, nhưng cũng chỉ kẻ nhớp nhúa,
thô tục. Từ đó danh từ “porcnographie” có nghĩa là dâm thư, dâm
ảnh, dâm họa…Người Việt Nam chúng ta cũng ăn theo khi nói đến
những loại phim…con heo, phim “cô-xoong”, phim khiêu dâm.
Trong Tây Du Ký, Trư Bát Giới rất hăng hái và nhiệt tình trong
việc chạy theo đờn bà con gái, rất nhiều lần đã rơi vào động yêu
tinh và bị ám hại.
Người Việt Nam thường dùng hình ảnh “con lợn lòng” để nói về
những ước muốn xấu xa nổi lên trong tâm hồn, hay cụ thể hơn đó
là nỗi đam mê…nhục dục.
Đam mê này được biểu lộ qua những cuộc tình vụng trộm hay những
giao du thầm lén, bởi vì có những anh chàng đã bước vào cuộc
sống lứa đôi, nhưng vẫn không chịu từ bỏ thói hoa nguyệt, ong
bướm của mình bằng cách chơi bời bừa bãi để rồi đem về làm quà
cho vợ đủ các thứ vi trùng giang mai, hoa liễu, sida…
Mặc dù phần đông không đến nỗi trác táng như vậy, thì vẫn có
những ông chồng, vợ con đùm đề, mà vẫn chưa bỏ được thói quen lả
lướt ngày trước. Nay tán tỉnh cô này, mai vi vút với cô kia, mốt
dan díu với cô khác, lúc nào cũng cặp kè với bồ nhí, bất chấp cả
dư luận, bất chấp cả lương tâm, thản nhiên như không có gì.
Kết quả là làm tan nát cuộc đời người ta, đồng thời cũng làm tan
nát cả gia đình của mình nữa. Những lời bàn tán, những tiếng
bình phẩm về tác phong và tư cách của mình cũng chẳng xét đến.
Người vợ kia có ông chồng mới chết. Bà ta nhất định không cầu
nguyện cho ông. Người ta lấy làm lạ bèn hỏi tại sao, thì bà trả
lời :
- Ông nhà tôi chết, một là lên thiên đàng, hai là xuống hỏa
ngục, có cầu nguyện thì cũng bằng thừa. Còn nếu ông nhà tôi hiện
đang ở luyện ngục, thì tôi mong ông ấy ở dưới đó càng lâu càng
tối, như thế cũng đáng lắm vì khi còn sống, ông đã rượu chè, cờ
bạc, trai gái, đủ cả…tam khoanh.
Trở lại những biểu tượng tốt của loài heo, xin cầu chúc quý bạn
đọc năm Đinh Hợi : ấm no, hạnh phúc và con đàn cháu đống.
Gã Siêu
gasieu@gmail.com
|
VỀ MỤC LỤC |
|
- Mọi liên lạc: Ghi danh, thay đổi địa chỉ, đóng góp ý kiến,
bài vở..., xin gởi về địa chỉ
giaosivietnam@gmail.com
- Những nội dung sẽ được đề cao và chú ý bao gồm:
Trao đổi, chia sẻ những kinh nghiệm thực tế trong việc mục
vụ của Giáo sĩ; Những tài liệu của Giáo hội hoặc của các
Tác giả nhằm mục đích Thăng tiến đời sống Giáo sĩ; Cổ võ ơn
gọi Linh mục; Người Giáo dân tham gia công việc “Trợ lực
Giáo sĩ” bằng đời sống cầu nguyện và cộng tác trong mọi lãnh
vực; Mỗi Giáo dân phải là những “Linh mục” không có chức
Thánh; Đối thoại trong tinh thần Bác ái giữa Giáo dân và
Giáo sĩ… (Truyền giáo hay xây pháo đài?)
- Quy vị cũng có thể tham khảo những số báo đã phát hành tại
www.conggiaovietnam.net
Rất mong được sự cộng tác, hưởng ứng của tất cả Quí vị
Xin chân thành cám ơn tất cả anh chị em đã
sẵn lòng cộng tác với chúng tôi bằng nhiều cách thế khác
nhau.
TM. Đặc San Giáo Sĩ Việt Nam
Lm. Luca
Phạm Quốc Sử
USA
|
|
*************
|
|