Lời Kêu Gọi Mọi Người Nên Thánh Trong
Giáo Hội |
Hiến Chế Tín Lý
Về Giáo Hội
Lumen Gentium
Bản dịch Việt
Ngữ của Giáo Hoàng Học Viện Piô X
Prepared for
Internet by Vietnamese Missionaries in Asia
Chương V
Lời Kêu Gọi Mọi
Người Nên Thánh Trong Giáo Hội
50*
39. Sự thánh
thiện trong Giáo Hội. Chúng tôi tin Giáo Hội, một
mầu nhiệm được Thánh Công Ðồng trình bày, có tính cách thánh
thiện, bất khả khuyết. Thực vậy, Chúa Kitô Con Thiên Chúa, Ðấng
cùng với Chúa Cha và Chúa Thánh Thần, được ca tụng là "Ðấng
thánh duy nhất"
1, đã yêu dấu Giáo Hội như hiền thê mình và đã hiến
thân để thánh hóa Giáo Hội (x. Eph 5,25-26). Người kết hiệp với
Giáo Hội như thân thể Người và ban cho dư đầy ơn Thánh Thần để
làm vinh danh Thiên Chúa. Vì thế, tất cả mọi người trong Giáo
Hội - hoặc thuộc hàng giáo phẩm, hoặc được hàng giáo phẩm dìu
dắt - đều được kêu gọi nên Thánh, như lời Thánh Tông Ðồ dạy: "Vì
Thiên Chúa muốn anh em được thánh hóa" (1Th 4,3; x. Eph 1,4); sự
thánh thiện này của Giáo Hội luôn được biểu lộ và phải được biểu
lộ qua những hoa trái ân sủng mà Thánh Thần đã kết sinh nơi các
tín hữu; sự thánh thiện ấy được diễn tả dưới nhiều hình thức nơi
tất cả những ai đang cố đạt tới Ðức Ái trọn hảo trong bậc sống
của mình trong khi xây dựng kẻ khác. Ðặc biệt hơn, sự thánh
thiện đó tỏ lộ trong việc thực hành các lời khuyên, quen gọi là
lời khuyên của Phúc Âm. Nhờ Chúa Thánh Thần thúc đẩy, nhiều Kitô
hữu thực hành các lời khuyên ấy với tư cách cá nhân hoặc trong
những lối sống hay bậc sống đã được GiáoHội công nhận; việc thực
hành đó mang lại và phải mang lại cho thế giới một bằng chứng và
một mẫu gương rạng ngời về sự thánh thiện của Giáo Hội.
51*
40. Mọi
người được kêu gọi sống thánh thiện. Chúa Giêsu,
thầy dạy và mẫu mực thần linh của mọi sự trọn lành, đã giảng dạy
cho tất cả và cho mỗi một môn đệ, bất luận thuộc cảnh vực nào,
một đời sống thánh thiện mà chính Người vừa là Ðấng ban phát vừa
là Ðấng hoàn tất: "Vậy các con hãy trở nên trọn lành như Cha các
con ở trên trời" (Mt 5,48)
2. Bởi vậy, Người đã sai Thánh Thần đến với mọi người,
để từ bên trong Ngài thôi thúc họ yêu mến Thiên Chúa hết lòng,
hết linh hồn, hết trí khôn cùng hết sức họ (x. Mc 12,30), và yêu
thương nhau như Chúa Kitô yêu thương họ (x. Gio 13,34; 15,12).
Ðược Thiên Chúa kêu gọi và được công chính hóa trong Chúa Giêsu,
không phải vì công lao riêng, nhưng vì ý định và ân phúc của
Ngài, các môn đệ Chúa Kitô, nhờ lãnh nhận phép Thánh Tẩy, bí
tích đức tin, đã thực sự trở nên con cái Thiên Chúa và được
thông phần vào bản tính Ngài, và do đó, thực sự đã trở nên
thánh. Cho nên với ơn Chúa họ phải luôn gìn giữ và hoàn thành
trong đời sống sự thánh thiện mà họ đã lãnh nhận. Họ được Thánh
Tông Ðồ khuyên sống "xứng đáng như những vị thánh" (Eph 5,3) và
mặc lấy "lòng thương xót, nhân hậu, khiêm nhường, tiết độ và
nhẫn nại như những người đã được Thiên Chúa chọn lựa, thánh hóa
và yêu thương" (Col 3,12), và dùng hoa trái của Thánh Thần để
thánh hóa mình (x. Gal 5,22; Rom 6,22). Nhưng vì chúng ta ai
cũng có nhiều lầm lỗi (x. Giac 3,2), nên chúng ta luôn cần đến
lòng nhân từ của Thiên Chúa và hằng ngày phải cầu nguyện "xin
Chúa tha nợ chúng tôi" (Mt 6,12)
3.
Vì thế, mọi người đều thấy rõ ràng tất cả
các Kitô hữu, bất cứ theo bậc sống hay địa vị nào, đều được kêu
gọi tiến đến sự viên mãn của đời sống Kitô giáo và đến sự trọn
lành của Ðức Ái
4. Ngay trong xã hội trần thế sự thánh thiện này cũng
giúp người ta sống nhân đạo hơn. Ðể đạt được sự trọn lành đó,
tín hữu phải xử dụng những sức lực mà Chúa Kitô đã ban nhiều ít
tùy ý Người để trở nên giống Người khi theo vết chân Người, và
khi thực hành thánh ý Chúa Cha trong tất cả mọi sự, họ sẽ hết
lòng tìm vinh danh Chúa và phục vụ tha nhân. Như thế, sự thánh
thiện của Dân Thiên Chúa sẽ sinh hoa trái dồi dào, như lịch sử
Giáo Hội đã từng minh chứng rõ ràng qua đời sống của bao vị
thánh.
52*
41. Nhiều
hình thức thực hành sự thánh thiện duy nhất.
Những người được Thánh Thần Thiên Chúa hướng dẫn, nghe theo
tiếng gọi của Chúa Cha, thờ phượng Ngài trong tinh thần và chân
lý, noi gương Chúa Kitô nghèo khó, khiêm nhường và vác thập giá
để xứng đáng dự phần vào vinh quang của Người; tất cả những
người ấy đều theo đuổi cùng một sự thánh thiện tuy lối sống và
nhiệm vụ của họ có khác nhau, cho nên mỗi người, tùy theo ân
sủng và nhiệm vụ mình, phải nhất quyết tiến bước bằng con đường
đức tin sống động, đức tin khơi động đức cậy và hoạt động nhờ
đức ái.
Các chủ chăn lo cho đoàn chiên Chúa Kitô
phải là những người đầu tiên chu toàn thừa tác vụ mình cách
thánh thiện và hăng say, khiêm tốn và can đảm, noi gương vị Linh
Mục thượng phẩm và vĩnh cửu, vị Chủ Chăn và Giám Mục chăm sóc
linh hồn chúng ta: làm như thế, các ngài sẽ tìm thấy nơi thừa
tác vụ mình một phương thế tuyệt diệu để thánh hóa. Ðược chọn để
lãnh nhận trọn vẹn chức linh mục, các ngài hưởng nhờ ơn bí tích
để thi hành nhiệm vụ bác ái cao cả của vị chủ chăn
5, trong lời cầu nguyện, bằng việc hy sinh, giảng dạy
và bằng mọi hình thức chăm sóc và phục vụ khác thuộc bổn phận
của Giám Mục; các ngài đừng ngại hy sinh mạng sống vì con chiên
và trở nên mẫu mực cho đoàn chiên (x. 1P 5,3); sau cùng, các
ngài làm cho Giáo Hội ngày càng thánh thiện hơn bằng gương lành
của các ngài.
Các linh mục kết thành vòng hoa thiêng
liêng của hàng Giám Mục
6 và thông phần vào ân sủng thuộc chức vụ Giám Mục,
nhờ Chúa Kitô, Ðấng Trung Gian vĩnh cửu duy nhất; cũng như hàng
Giám Mục, các linh mục phải gia tăng tình yêu Thiên Chúa và tha
nhân bằng việc thi hành nhiệm vụ hàng ngày; các ngài phải gìn
giữ mối dây liên lạc giữa hàng linh mục, phải được dư đầy của
cải thiêng liêng, phải là những chứng nhân sống động của Thiên
Chúa trước mặt mọi người
7, và thi đua với những vị linh mục mà qua các thế hệ,
đã để lại những chứng tá thánh thiện sáng ngời trong những việc
phục vụ thường khiêm tốn và kín đáo. Các vị linh mục ấy được ca
tụng trong Giáo Hội Chúa. Linh mục có bổn phận dâng kinh nguyện
và lễ vật cho dân ngài và toàn thể Dân Thiên Chúa, các ngài phải
ý thức điều các ngài làm và sống xứng đáng hợp với những điều
các ngài cử hành
8. Các linh mục phải vượt qua những lo lắng tông đồ,
những nguy hiểm và thử thách mà không để chúng trở thành những
chướng ngại, hầu tiến xa hơn trên đường thánh thiện nhờ biết
nuôi dưỡng và củng cố hoạt động của mình bằng việc chiêm niệm
dồi dào. Như thế, các ngài sẽ mang lại niềm hoan hỷ cho toàn thể
Giáo Hội Chúa. Tất cả các linh mục, nhất là những vị đặc biệt
thụ phong để thành linh mục giáo phận, hãy nhớ rằng việc trung
thành kết hợp và quảng đại cộng tác với Giám Mục là phương tiện
rất tốt để thánh hóa chính mình.
Dự phần cách đặc biệt vào sứ mệnh và ân
sủng của chức linh mục thượng phẩm, còn có những thừa tác viên ở
bậc thấp hơn, trước hết là những vị Phó Tế; các Phó Tế khi phục
vụ các nhiệm tích của Chúa Kitô và Giáo Hội
9, phải giữ mình tinh sạch khỏi mọi nết xấu, làm đẹp
lòng Thiên Chúa và mưu cầu lợi ích cho nhân loại (x. 1Tm 3,8-10
và 12-13). Những giáo sĩ được Chúa kêu gọi để thuộc riêng về
Chúa, và đang sửa soạn để lãnh nhận nhiệm vụ thừa tác viên, dưới
sự coi sóc của vị chủ chăn, các vị ấy phải để lòng trí xứng hợp
với ơn gọi hết sức cao cả của mình bằng cách cầu nguyện liên lỉ,
yêu thương nhiệt thành, chỉ tưởng đến những điều chân thật,
chính đáng và lành thánh, và chu toàn mọi sự để làm vinh danh
Thiên Chúa. Thêm vào số người đó, còn có những giáo dân được
Thiên Chúa chọn; họ được Giám Mục gọi để dấn thân trọn vẹn vào
việc tông đồ, và họ làm việc rất hữu hiệu trong cánh đồng của
Chúa
10.
Còn bậc vợ chồng và cha mẹ Kitô giáo, khi
theo đuổi lối sống riêng của mình, nhờ ơn Chúa, họ phải suốt đời
nâng đỡ và trung thành yêu thương nhau; đối với con cái mà trong
yêu thương họ đã nhận từ Thiên Chúa, họ phải làm cho chúng hấp
thụ những học thuyết Kitô giáo và những nhân đức của Phúc Âm.
Nhờ đó họ nêu gương cho mọi người về mặt tình thương bền vững và
quảng đại, xây dựng bác ái huynh đệ, làm chứng và cộng tác vào
việc sinh sản của Giáo Hội, Mẹ chúng ta, trở nên dấu chỉ và
thông phần vào tình yêu Chúa Kitô đối với Hiền Thê Người: bởi
yêu thương, Người đã hiến mạng sống vì Hiền Thê
11. Dưới một hình thức khác, bậc quả phụ và độc thân
cũng nêu lên một gương tương tự: họ có thể góp phần không ít vào
sự thánh thiện và hoạt động của Giáo Hội. Còn những người thường
làm lụng vất vả, công việc của con người phải là phương thế để
đào tạo chính mình, trợ giúp đồng loại, thăng tiến toàn thể xã
hội và tạo vật; và sau cùng, hân hoan trong niềm hy vọng và kiên
nhẫn chịu đựng lẫn nhau, với đức ái sống động, họ phải noi gương
Chúa Kitô, Ðấng đã làm việc tay chân và không ngừng cùng với
Chúa Cha đem ơn cứu độ cho mọi người; và nhờ công ăn việc làm,
họ phải tiến xa hơn trên đường thánh thiện, một sự thánh thiện
còn có tính cách tông đồ.
Ước gì những người chịu đau khổ vì nghèo
đói, tật nguyền, đau yếu và những thử thách khác, hay bị bách
hại vì sự công chính cũng biết kết hợp cách đặc biệt với Chúa
Kitô, Ðấng đã chịu đau khổ để cứu chuộc thế giới, vì trong Phúc
Âm Chúa đã tuyên bố họ là người có phúc, và vì "Thiên Chúa của
mọi ân phúc, Ðấng đã gọi chúng ta đến sự vinh hiển muôn đời
trong Chúa Giêsu Kitô, sau khi chúng ta chịu đau khổ trong một
thời gian ngắn, chính người sẽ làm cho chúng ta hoàn hảo, vững
chắc và mạnh mẽ" (1P 5,10).
Vì thế, trong và nhờ những trạng huống,
chức nghiệp hay hoàn cảnh của cuộc sống, tất cả mọi Kitô hữu
ngày càng được thánh thiện hơn, nê�u họ biết tin tưởng lãnh nhận
tất cả mọi sự từ tay Cha trên Trời và biết cộng tác với thánh ý
Thiên Chúa bằng cách tỏ lộ cho mọi người biết tình yêu Thiên
Chúa đối với thế giới trong chính việc họ phục vụ trần thế.
53*
42. Ðường
lối và phương tiện nên thánh. "Thiên Chúa là tình
yêu, ai sống trong tình yêu là sống trong Thiên Chúa, và Thiên
Chúa sống trong người ấy" (1Gio 4,16), Thiên Chúa đã đổ tràn đức
ái Ngài trong tâm hồn chúng ta, nhờ Chúa Thánh Thần Ngài đã ban
cho chúng ta (x. Rm 5,5); cho nên ơn huệ thứ nhất và cần thiết
nhất là bác ái. Ðức ái làm cho chúng ta yêu mến Thiên Chúa trên
hết mọi sự và yêu mến tha nhân vì Ngài. Nhưng để đức ái, tựa hạt
giống tốt, lớn lên trong tâm hồn và kết sinh hoa trái, mỗi một
tín hữu phải sẵn lòng lo lắng nghe Lời Chúa, và với ơn Ngài thực
hành thánh ý Ngài; phải năng lãnh nhận các bí tích, nhất là bí
tích Thánh Thể, năng tham dự vào các nghi lễ phụng vụ, chuyên
cần cầu nguyện, từ bỏ mình, nhiệt thành phục vụ anh em và chuyên
cần luyện tập các nhân đức. Thực thế, đức ái là mối dây liên kết
của sự trọn lành, là sự viên mãn của lề luật (x. Col 3,14; Rm
13,10), nên đức ái chi phối mọi phương thế nên thánh, làm cho
chúng hình thành và đạt được cùng đích
12. Vì thế, đức ái đối với Thiên Chúa và tha nhân là
dấu chỉ người môn đệ chân chính của Chúa Kitô.
Vì Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa, đã tỏ tình
yêu của Người bằng cách hy sinh mạng sống vì chúng ta, nên không
ai có tình yêu cao cả hơn người hy sinh mạng sống vì Chúa và vì
anh em (x. 1Gio 3,16; Gio 15,13). Một số Kitô hữu ngay từ thời
sơ khai đã được gọi và sẽ còn được gọi mãi để làm chứng tình yêu
ấy cách hùng hồn trước mặt mọi người, nhất là trước mặt những kẻ
bách hại mình. Khi tử đạo, người môn đệ đồng hóa với Thầy mình,
Ðấng đã tình nguyện chấp nhận cái chết để cứu độ thế giới, và
người môn đệ nên giống Người trong việc đổ máu; Giáo Hội coi
việc tử đạo đó như một ân huệ lớn lao và một bằng chứng cao cả
về đức ái. Mặc dầu chỉ một số ít được phúc tử đạo, nhưng tất cả
mọi người phải sẵn sàng tuyên xưng Chúa Kitô trước mặt mọi
người, và bước theo Người trên đường thập giá giữa những cuộc
bách hại không hề thiếu vắng trong Giáo Hội.
Sự thánh thiện của Giáo Hội cũng được đặc
biệt khích lệ bởi nhiều lời khuyên Chúa đã đề ra trong Phúc Âm
cho môn đệ noi theo
13. Trong những lời khuyên ấy, trước hết phải kể ân
huệ cao quí mà Chúa Cha ban cho một số người (x. Mt 19,11; 1Cor
7,7), để họ tận hiến trọn tình yêu không chia xẻ cho một mình
Chúa cách dễ dàng hơn, trong bậc đồng trinh hay độc thân (x.
1Cor 7,32-34)
14. Sự tiết dục hoàn toàn vì Nước Trời luôn được Giáo
Hội đặc biệt quí trọng và coi như dấu chỉ và động lực của đức
ái, và như nguồn mạch đặc biệt sinh nhiều ơn ích thiêng liêng
trong thế giới.
Giáo Hội cũng nhớ lời khuyên nhủ của Thánh
Tông Ðồ thúc giục các tín hữu sống bác ái và khuyên họ phải có
tâm tình như Chúa Giêsu Kitô "Ðấng tự diệt mình, nhận lấy hình
hài tôi tớ..., và vâng lời cho đến chết" (Ph 2,7-8), và vì chúng
ta, "Người đã trở nên nghèo nàn, tuy Người vốn giàu sang" (2Cor
8,9). Việc noi theo và làm chứng đức ái cùng sự khiêm hạ của
Chúa Kitô cần được các môn đệ thực hiện không ngừng; nên Giáo
Hội là Mẹ chúng ta vui mừng khi thấy trong lòng mình có nhiều
con cái nam nữ muốn theo sát gương Ðấng Cứu Thế và tỏ lộ rõ ràng
hơn sự tự diệt của Người. Họ chấp nhận nghèo khó trong tự do của
con cái Thiên Chúa và từ bỏ ý riêng: hơn cả mức đòi buộc của
giới luật, họ tự nguyện tùng phục một con người, tùng phục vì
Chúa, trong những gì liên hệ tới sự trọn lành, hầu nên giống
Chúa Kitô vâng lời cách hoàn toàn hơn
15.
Vì thế, mọi Kitô hữu đều được kêu mời và có
bổn phận nên thánh và nên trọn lành theo bậc sống mình. Bởi vậy,
tất cả hãy lưu ý điều khiển tâm tình mình cho đúng đắn, để việc
xử dụng của cải trần gian và lòng quyến luyến sự giàu sang
nghịch với tinh thần khó nghèo của Phúc Âm, không cản trở họ
theo đuổi đức ái trọn hảo, như lời Thánh Tông Ðồ cảnh giác: ai
xử dụng thế gian này, xin chớ dừng lại đó, vì cuộc diện đời này
sẽ qua đi (x. 1Cor 7,31, bản Hy lạp)
16.
54*
Chú Thích:
50*
Trong lược đồ trình lên Công Ðồng khi khai mạc kỳ họp thứ hai,
cả hai chương V và VI như chúng ta thấy hiện nay đều nằm chung
trong một chương. Sự phân chia hai chương đó đặt ra hai câu hỏi:
1) Soạn một chương đặc biệt nói về tu sĩ
phải chăng không thích hợp: (x. cuộc tranh luận trong chương kế
tiếp).
2) Phải chăng tốt hơn là sắp đặt chương V
này của lược đồ vào trong các chương I và II? Bởi vì việc nên
thánh gắn liền với đời sống và mầu nhiệm Giáo Hội nên không thể
bàn riêng được. Như vậy đáng lẽ Hiến Chế được kết cấu cân xứng
và mạch lạc hơn: sau những chương đề cập đến mầu nhiệm Giáo Hội
và Dân Thiên Chúa (bao gồm cả khía cạnh thánh thiện và cánh
chung) là những chương nói về các bậc sống khác nhau trong Giáo
Hội: giáo phẩm, giáo dân cách tổng quát, tu sĩ và những người có
gia đình. Kết thúc là chương về Ðức Mẹ. Việc sắp xếp như vậy
không thực hiện được vì thiếu thời giờ.
Chương V được kết cấu như sau: Công Ðồng
xác định sự thánh thiện bản thể và luân lý của Giáo Hội (số 39),
rồi kêu gọi mọi phần tử trong Giáo Hội phải nên thánh và hướng
về sự nên thánh (số 40). Phải nên thánh thực sự trong bất cứ địa
vị, điều kiện hay nghề nghiệp nào (số 41) bởi vì mọi phần tử
trong Giáo Hội đều có những phương tiện tự nhiên và siêu nhiên
giúp cho họ không những nên thánh mà còn có được sự hoàn hảo
trong bậc sống riêng của mình (số 42).
1
Sách lễ Roma, Vinh danh Thiên Chúa trên các tầng trời. Xem Lc
1,35; Mc 1,24; Lc 4,34; Gio 6,69 (ho hagios tou Theou); CvTđ
3,14; 4,27 và 30; Dth 7,26; 1Gio 2,20; Kh 3,7.
51*
Số 39: Nhập đề.
Ðiều quả quyết chủ yếu của số này là: Giáo
Hội thánh thiện. Những ý tưởng khác trong số này đều phụ thuộc
vào điều quả quyết chủ yếu đó. Giáo Hội thánh thiện vì tham dự
vào sự thánh thiện của Chúa Giêsu Kitô. Do đó, mới có lời kêu
gọi nên thánh trong trật tự luân lý, vì trong trật tự đó mà Giáo
Hội phải thực hiện sự thánh thiện bản thể Chúa Kitô ban cho. Sự
thánh thiện này biểu lộ trong những hoa trái ân sủng nơi mỗi
người, dưới nhiều hình thức, và đặc biệt trong việc thực hành
các lời khuyên Phúc Âm với tính cách riêng hoặc chung. Tóm lại,
số này nhấn mạnh đến khía cạnh bản thể và luân lý của sự thánh
thiện mà Thiên Chúa ban cho Giáo Hội qua Chúa Kitô và trong Chúa
Thánh Thần; và chỉ mới trình bày nền tảng theo lời Thánh Phaolô:
"Vì Thiên Chúa muốn anh em được thánh hóa".
2
Xem Origenê, Comm. Rom. 7,7 : PG 14, 1122B Macariô Giả, De
oratione, 11 : PG 34, 861 AB. T. Tôma, Summa Theol. II-II, q.
184, a. 3.
3
Xem T. Augustinô, Retract. II, 18 : PL 32, 637t. Piô XII, Tđ.
Mystici Corporis, 29-6-1943 : AAS 35 (1943), trg 225.
4
Xem Piô XI, Tđ. Rerum omnium, 26-1-1923 : AAS 15 (1923), trg 50
và 59-60. n.t. Tđ. Casti connubii, 31-12-1930 : AAS 22 (1930),
trg 548. Piô XII, Tông hiến Provida Mater, 2-2-1947: AAS 39
(1947), trg 117. Diễn từ Annus sacer, 8-12-1950: AAS 43 (1951),
trg 27-28. Diễn từ Nel darvi, 1-7-1956 : AAS 48 (1956), trg
574t.
52*
Số 40: Mọi người đều được kêu gọi nên thánh.
Số này xét đến sự thánh thiện của mỗi Kitô
hữu nằm trong văn mạch về sự thánh thiện của Giáo Hội. Công Ðồng
đưa ra những yếu tố gắn liền với lời kêu gọi mỗi người nên
thánh. Ðoạn nhất bày tỏ sự thánh thiện của mỗi Kitô hữu, và vì
Kitô hữu được công chính hóa nhờ đức tin và phép Thánh Tẩy, tự
bản thể và căn nguyên họ trở nên thánh thiện trong chân lý, nên
họ có nhiệm vụ phải sống xứng hợp với điều ấy. Nền tảng thánh
thiện vẫn tồn tại sau khi phạm tội. Ðề cập đến tội lỗi là để
tránh một hình thức duy tâm nguy hại và để có thể lưu ý đến thực
tại. Ðoạn hai kêu gọi mọi người nên thánh hoàn toàn. Ðây là phần
kết luận cho cả số, rút ra từ nền tảng đã đặt định: Kitô hữu
không chỉ nên thánh mà thôi, nhưng còn phải thực hiện sự thánh
thiện trong đời sống cụ thể. Kitô hữu được kêu gọi làm việc đó.
5
Xem Tôma, Summa Theol. II-II, q. 184, a. 5 và 6; De Perfect.
Vitae spir., ch. 18. Originê, In Is. bài giảng 6,1 : PG 13, 239.
6
Xem T. Inhaxiô Tử đạo, Magn. 13,1 : x.b. Funk I, trg 241.
7
Xem T. Piô X, huấn từ Haerent animo, 4-8-1908: AAS 41 (1908),
trg 560t. Giáo luật kh. 124. Piô XI, Tđ. Ad Catholici sacerdoti
I, 20-12-1935 : AAS 28 (1936), trg 22.
8
Xem Pontificale Romanum, lễ truyền chức linh mục, lời huấn từ
đầu.
9
Xem T. Inhaxiô Tử đạo, Trall. 2,3 : x.b. Funk I, trg 244.
10
Xem Piô XII, diễn từ Sous la maternelle protection, 9-12-1957 :
AAS 50 (1958), trg 26.
11
Xem Piô XI, Tđ. Casti connubi I, 31-12-1930: AAS 22 (1930), trg
548. T. Gioan Kim Khẩu, In Ephes. Bài giảng 20,2 : PG 62,136 tt.
53*
Số 41: Thực hành sự thánh thiện.
Ðộng lực trong đời sống Kitô giáo hướng dẫn
mọi tín hữu đến đức ái hoàn hảo. Việc đó được thực hành theo
nhiều mức độ, cũng như tùy theo các hồng ân và trạng huống khác
nhau, hoặc trên bình diện đời sống Kitô giáo nói chung, hoặc mỗi
bậc sống nói riêng. Theo văn mạch chúng ta thấy rằng nếu sự
thánh thiện chỉ là một xét theo bản thể của nó, nó lại có nhiều
cấp độ, vì sự tự do cộng tác vào ân sủng khác nhau, vì các bậc
sống khác nhau và cuối cùng vì ân sủng được trao ban theo nhiều
cách thức và mỗi người có hồng ân riêng biệt của mình.
Phần còn lại là một lời khuyên nhủ đặc
biệt, có tính cách mục vụ, nhằm gởi đến những hạng người và
những bậc sống khác nhau trong Giáo Hội (giám mục, linh mục,
giáo sĩ, giáo dân, vợ chồng, công nhân, người chuyên nghiệp nói
chung), để họ sống và có thể thăng tiến trên đường thánh thiện,
phù hợp với địa vị và điều kiện riêng của họ. Như vậy là đi từ
lời kêu gọi nên thánh tới nhiệm vụ phải tự thánh hóa trong địa
vị và điều kiện riêng của mình. Và đó là nhiệm vụ của mỗi người.
trang)
12
Xem T. Augustinô, Enchir. 121, 32 : PL 40, 288. T. Tôma, Summa
Theol. II-II, q. 184, a.1. Piô XII, huấn từ Menti nostrae,
23-9-1950 : AAS 42 (1950), trg 660.
13
Về các lời khuyên nói chung, xem Origenê, Comm. Rom. X,14: PG
14, 1275B. T. Augustinô, De S. Virginitate, 15,15 : PL 40,403.
T. Tôma, Summa Theol. I-II, q. 100, a.2, C đoạn cuối; II-II, q.
44, a. 4,3.
14
Về sự cao vời của đức khiết tịnh thánh hiến, xem Tertullianô,
Exhort. Cast. 10 : PL 2,925C. T. Cyprianô, Hab. Virg. 3 và 22 :
PL 4,443B và 461At. T. Athanasiô (?), De Virg. PG 28,252tt. T.
Gioan Kim Khẩu, De Virg. : PG 48,533tt.
15
Về sự khó nghèo, xem Mt 5,3 và 19,21; Mc 10,21; Lc 18,22; gương
vâng lời của Chúa Kitô trong Gio 4,34 và 6,38; Ph 2,8-10; Dth
10,5-7. Các Giáo Phụ và các Ðấng sáng lập dòng thường đề cập rất
nhiều đến các nhân đức này.
16
Về sự thực hành công hiệu những lời khuyên mà không bắt buộc tất
cả mọi người, xem T. Gioan Kim Khẩu, In Mt. bài giảng 7,7 : PG
57,81t. T. Ambrosiô, De Viduis, 4, 23 : PL 16,
241t.
54*
Số 42 : Những phương tiện thánh hóa.
Số này trình bày động lực
làm cho Kitô hữu thăng tiến trên đường thánh thiện: đó là đức
ái. Cơ cấu của số này như sau: đức ái là linh hồn của mọi hành
động thánh thiện (42a), biểu lộ bằng hành động cao cả là tử đạo
(42b), trong các lời khuyên Phúc Âm, đặc biệt trong sự khiết
tịnh vẹn toàn (42c), trong sự khiêm hạ, tuân phục và khó nghèo
(42d). Chính nhờ đức ái mà chúng ta tránh được nguy hiểm (42e).
Ðức ái là con đường chính yếu và cần thiết để nên thánh. Công
Ðồng nhấn mạnh tới tính cách thiên phú của nhân đức này như là
hồng ân Chúa ban và tới khía cạnh giới luật đòi người ta phải
yêu mến Thiên Chúa và tha nhân nhờ thực hành các nhân đức khác.
Công Ðồng còn đề cập đến các bí tích, lời kinh nguyện, sự quên
mình, sự khổ hạnh và việc phục vụ huynh đệ. Như thế đức ái là
mầm mống các nhân đức khác. Từ những điều đã trình bày chúng ta
có thể kết luận là đức ái đòi phải thi hành mọi giới luật Thiên
Chúa (x. 1Gio 5,3; Gio 14,21; 2Gio 6). Bậc sống riêng nào của
mỗi người cũng có thể thực hành những lời khuyên Phúc Âm. Như
vậy là tránh được thiên kiến cho rằng các tu sĩ chiếm độc quyền
việc nên thánh. Số 42 làm sáng tỏ động lực này của đức ái qua sự
thực hành trong mỗi tình trạng cụ thể.
|
VỀ MỤC LỤC |
|
THƯ MỤC TỬ MÙA CHAY 2012
|
Kính gửi
: Anh Em linh mục, Anh Chị Em tu sĩ và giáo dân trong gia đình
giáo phận
Anh Chị Em rất thân
mến,
1.
Vào cuối năm 2011, chúng ta đã tổ chức Công Nghị giáo
phận, tạo cơ hội cho mọi thành phần trong giáo phận ý thức tham
gia xây dựng ngôi nhà gia đình, cộng đoàn giáo xứ, dòng tu, giáo
phận, thành Giáo Hội Mầu Nhiệm-Hiệp Thông-Sứ Vụ. Từ những đề
nghị của Công Nghị giáo phận, tôi mong muốn gia đình giáo phận
chúng ta khai triển kế hoạch mục vụ cho những năm tới như sau :
- Trọng tâm của năm 2012 và
2013
là củng cố mối hiệp thông với Thiên Chúa và đời sống đức tin
trên nền tảng Lời Chúa.
- Trọng tâm của năm 2014 và
2015
là vun đắp sự hiệp thông yêu thương hợp nhất trong gia đình,
giáo xứ, dòng tu, giáo phận.
- Trọng tâm của năm 2016 và
2017
là mở rộng sự hiệp thông, đồng cảm, chia sẻ để loan báo Tin Mừng
tình thương và sự sống.
2.
Lời Chúa chính là nền tảng vững chắc
cho việc xây ngôi nhà Giáo Hội Mầu Nhiệm-Hiệp Thông-Sứ Vụ. Ngay
từ Chúa nhật I Mùa Chay, Giáo Hội đã mời gọi con cái mình ý thức
về tầm quan trọng của Lời Chúa khi công bố Tin Mừng về Chúa
Giêsu chiến thắng những cơn cám dỗ (Mt 4,1-11) :
- Lời Chúa là lương thực nuôi
dưỡng đời sống con người toàn diện : “Người ta không chỉ
sống nhờ cơm bánh, nhưng còn nhờ lời từ miệng Thiên Chúa phán ra”
;
- Lời Chúa là thành trì bảo vệ và
khí giới giúp chúng ta chống trả những cơn cám dỗ muốn lôi kéo
chúng ta xa đường lối Chúa : “Ngươi chớ thử thách Chúa là
Thiên Chúa của ngươi” ;
- Lời Chúa là chuẩn mực hướng dẫn
mọi chọn lựa và quyết định của người Kitô hữu : “Ngươi
phải thờ lạy Chúa là Thiên Chúa của ngươi, và phải thờ phượng
một mình Người mà thôi”.
Do đó, trong Mùa Chay cũng như
trong suốt năm 2012 này, gia đình giáo phận chúng ta phải chú
tâm đặc biệt đến việc lắng nghe Lời Chúa, chia sẻ sức sống của
Lời Chúa cho nhau trong thánh lễ của giáo xứ, trong giờ kinh tối
gia đình, trong các giờ giáo lý và sinh hoạt nhóm, để cùng nhau
đem Lời Chúa vào cuộc sống. Lời Chúa được đón nhận trong tâm thế
cầu nguyện, dưới ánh sáng và tác động của Thánh Thần Chân Lý, sẽ
trở nên nguồn nước trong lành, vun tưới cho hạt mầm ơn thánh
phát triển và trổ sinh hoa thơm trái ngọt trong đời sống gia
đình và cộng đoàn tín hữu, cũng như cho đời sống xã hội.
3.
Cách cụ thể, tôi đề nghị với Anh Chị Em :
a)
Gia đình. Xây dựng đời sống gia đình trên nền tảng Lời
Chúa là xây nhà trên nền đá, nhờ đó gia đình vững vàng trước
những sóng gió và thử thách trong cuộc đời, trở nên mái ấm của
tình thương, thành trì bảo vệ sự sống và sự thiện, ngôi trường
đầu tiên dạy dỗ những đức tính căn bản của đời sống làm người.
Để được như thế :
- Mỗi gia đình cần có sách Kinh
Thánh, được đặt ở nơi xứng hợp, không phải để trưng bày cho đẹp
nhưng để đọc và cầu nguyện với Lời Chúa, nhất là trong giờ kinh
chung của gia đình.
- Kinh tối gia đình : Việc cầu
nguyện chung trong gia đình vừa củng cố sự hiệp thông của mỗi
người với Thiên Chúa, vừa liên kết mọi thành viên trong gia đình
với nhau. Đây là điều hết sức cần thiết trong một thời đại mà
đời sống gia đình gặp nhiều khó khăn và thử thách. Vì thế, xin
Anh Chị Em cố gắng duy trì giờ kinh chung trong gia đình, nhất
là đem Lời Chúa vào giờ kinh đó.
- Để giúp đỡ các gia đình thực
hiện điều này, giáo phận sẽ phổ biến những mẫu Kinh tối gia
đình, đồng thời tái bản cuốn Sống Lời Chúa hằng ngày.
Mong Anh Chị Em đón nhận và áp dụng.
b) Giáo xứ.
Trong mỗi giáo xứ, thánh lễ là nơi thuận lợi nhất cho các tín
hữu lắng nghe Lời Chúa. Vì thế, các linh mục cần chuẩn bị bài
giảng cách kỹ lưỡng bằng suy niệm và cầu nguyện, để có thể trình
bày Lời Chúa cách xứng hợp, rõ ràng và cụ thể, nhờ đó Lời Chúa
trở thành ánh sáng soi đường cho đời sống hằng ngày của các tín
hữu. Ngoài ra, các linh mục trong cùng một giáo hạt nên chia sẻ
với nhau những kinh nghiệm mục vụ, nhằm giúp Anh Chị Em giáo dân
tiếp cận Lời Chúa nhiều hơn, ví dụ : học thuộc lòng những câu
Kinh Thánh quan trọng, mở các khoá hướng dẫn học Kinh Thánh và
chia sẻ Lời Chúa.
c) Các đoàn thể tông đồ.
Các hội đoàn và phong trào tông đồ nên thúc đẩy các thành viên
tiếp cận Lời Chúa bằng cách đọc và suy niệm hằng ngày, cầu
nguyện với Lời Chúa và để cho Lời Chúa hướng dẫn mọi hoạt động
của mình.
d) Tu sĩ, chủng sinh.
Tôi cũng xin các học viện dòng tu cũng như chủng viện quan tâm
đến việc đào tạo chủng sinh và tu sĩ trẻ về Kinh Thánh, không
những về kiến thức chuyên môn nhưng còn giúp họ tập đọc Kinh
Thánh với đức tin, cụ thể là bằng phương pháp lectio divina.
Kết luận
Mùa Chay là thời gian
thuận lợi cho việc canh tân đời sống đức tin, cá nhân cũng như
cộng đoàn. Việc đổi mới đó
chỉ thành hiện thực nhờ ơn Chúa ban qua các bí tích và nhờ Lời
hằng sống mà chúng ta lắng nghe, suy niệm và đem ra thực hành.
Ước gì Mùa Chay thánh này trở thành cơ hội thuận lợi thúc đẩy
chúng ta yêu mến, gắn bó với Lời Chúa nhiều hơn, ngày càng trở
nên những Kitô hữu đích thực theo gương Đức Maria là người “lắng
nghe Lời Chúa và đem ra thực hành”, nhờ đó Mẹ được Thiên Chúa
chúc phúc : “Phúc cho bà là kẻ đã tin rằng Lời Chúa phán
cùng bà sẽ được thực hiện.”
Toà Tổng Giám Mục, thứ Tư lễ Tro, đầu Mùa Chay Thánh, 22-02-2012
Gioan Bta Phạm Minh Mẫn
Phêrô Nguyễn
Văn Khảm
Giám mục của Anh Chị Em
|
VỀ MỤC LỤC |
|
Mong
manh |
“Phù vân quả là phù vân, tất cả chỉ là phù vân” (Gv 1,2)
Lại một Mùa Chay nữa đang
về. Nghi thức khai mạc Mùa Chay mang ấn tượng đặc biệt
qua việc xức tro trên đầu các tín hữu. Những thực hành
đạo đức của Mùa Chay như sám hối, cầu nguyện, bác ái,
chay tịnh đều nhằm nhắc chúng ta nghĩ về thân phận mỏng
giòn của kiếp người.
Một năm vừa qua đi được
đánh dấu bằng biết bao sự kiện vui buồn. Có những niềm
vui của chiến thắng, thành công. Có những nỗi buồn của
tan vỡ, thất bại. Mỗi người tự do lượng giá những gì đã
xảy ra. Với cái nhìn đức tin, các tín hữu có thể đón
nhận những sứ điệp Chúa nhắn gửi cho nhân loại. Nhìn lại
năm đã qua, người viết mời quý Độc giả cùng suy tư về
hai chữ “mong manh”, phần nào gồm tóm “sự đời” đã và
đang diễn ra.
1- Sự mong manh của quyền lực
Năm 2011 chứng kiến sự sụp
đổ của một loạt các nhà độc tài trên thế giới:
– Khởi đi từ sự kiện
một
anh bán rau trên hè phố tự thiêu vì bị cảnh sát chèn ép,
một cuộc cách mạng mang tên “Cách mạng Hoa Nhài” đã ra
đời tại Tunisia.
Người thanh niên tự thiêu ngày 17-10-2010 có tên
là
Mohamed
Bouazizi. Mục đích của anh nhằm
phản kháng
việc
cảnh
sát cấm anh bán hàng trên đường phố.
Công chúng tức giận và bạo lực
gia
tăng
sau
cái chết của Bouazizi.
Tổng thống
Zine El Abidine Ben Ali của Tunisia, một
nhà độc tài, đã phải
từ chức ngày 14
tháng 1 năm 2011, sau 23 năm nắm quyền.
– Ngày 11-2-2011,
ông Hosni
Mubarak từ chức
sau 30 năm ở cương vị tổng thống
Ai Cập.
Hàng
triệu người dân đã đổ ra đường phố và hô vang khẩu hiệu
“Ai Cập tự do”.
Bầu không khí lễ hội hiện diện tại hầu như mọi con
đường, khu phố khắp nước.
Biến cố này đưa lịch sử
đất nước sang một trang mới.
Từ New York (Mỹ)
cho đến London (Anh), nhiều người Ai Cập cũng chào đón
một kỷ nguyên
“hậu
Mubarak”.
– Ngày 1-5-2011, tin thủ
lãnh Al-Qaeda
Bin Laden bị sát hại đã được loan đi. Sinh thời, nhân
vật “trùm khủng bố” này đã trở thành nỗi ám ảnh của nước
Mỹ, kể từ khi tòa Tháp đôi tại New York bị đánh sập vào
ngày 11-9-2001. Tin này được Nhà Trắng xác nhận vào lúc
7 giờ ngày 1-5. Vì những lý do chính trị, ông Bin Laden
đã được thủy táng. Nghi thức thủy táng được thuật lại
như sau: “Xác
ông được trùm vải trắng và đặt trong một cái túi chứa
vật nặng để cho chìm hẳn xuống đáy biển. Miệng túi được
cột rất chặt. Cái túi được cho trượt xuống biển bằng một
tấm ván. Lúc đó là 6 giờ (giờ quốc tế) tức khoảng 12 giờ
sau khi Bin Laden chết. Toàn bộ diễn biến lễ thủy táng
kéo dài khoảng 50 phút” (trích từ trang WEB “Tin
tức 24 giờ”, ngày 5-5-2011).
– Sau 42 năm trên vị trí
lãnh đạo quốc gia Lybia, đại tá Gadhafi đã bị giết ngay
tại quê hương của mình là thành phố Sirte. Khi nghe tin
này, hàng loạt xe hơi trên đường phố tại Tripoli đã đồng
loạt kéo còi kèm theo tiếng súng bắn chỉ thiên để ăn
mừng. Gadhafi bị lật đổ hồi tháng 8-2011, trong làn sóng
nổi dậy lan khắp thế giới Ảrập. Toà án hình sự quốc tế
(ICC) cũng đã phát lệnh bắt Gadhafi vì các cáo buộc tội
ác chống lại loài người.
Một vài
trường hợp điển hình trên đây cho thấy quyền lực trần
thế thật là mong manh. Có những người ở vị trí lãnh đạo
một quốc gia trong suốt gần nửa thế kỷ. Nếu họ là những
bậc minh quân, thì quốc gia ấy được hưởng biết bao điều
tốt lành. Nếu họ là những người độc tài, quốc gia ấy
phải gánh chịu những hậu quả vô cùng thảm hại. Khi ở địa
vị “thế thiên
hành đạo” mà họ không biết đặt ích lợi của người dân làm
đầu thì ngai vàng của họ sẽ bị lung lay và sụp đổ. Với
danh nghĩa “công bộc của dân” mà không biết lo lắng cho
dân được hạnh phúc thì chiếc ghế của họ cũng không thể
tồn tại lâu dài. Có người nói: “Quyền lực giống như cát
trong lòng bàn tay. Càng xiết chặt, cát càng chảy tuột,
nếu nhẹ nhàng, cát vẫn còn đó”. Trước tòa Philatô, Đức
Giêsu đã tuyên bố:
“Ngài
không có quyền gì đối với tôi, nếu Trời chẳng ban cho
ngài...” (Ga 19,11). Mọi quyền năng từ Trời mà
đến, nhưng một khi không thuận ý Trời, thì quyền năng ấy
sẽ bị lụn bại. Mọi chức vụ đều nhằm làm đẹp ý dân, nhưng
một khi không còn mang lại cho dân hạnh phúc, thì chức
vụ ấy sẽ thành vô nghĩa.
2- Sự mong manh của những tiến bộ kỹ thuật
– Người dân Hoa Kỳ, nhất
là những ai cư ngụ ở thành phố New York, đã có một thời
tự hào về Trung tâm Thương mại Thế giới (World Trade
Center), nổi bật với Tòa tháp đôi gồm 110 tầng,
được kiến trúc
sư
người Mỹ gốc Nhật
Minoru Yamasaki thiết kế. Khởi công từ
1966 và khánh thành vào
4-3-1973,
nó vượt qua chiều cao của tòa
Empire State lịch sử, trở thành tòa nhà cao nhất
thế giới.
Ấy vậy mà biểu tượng của niềm tự hào
này đã bị tiêu hủy ra mây khói trong vòng vài phút,
trong trận khủng bố do hai
chiếc phi cơ
Boeing đâm vào,
ngày 11-9-2001.
Tòa tháp đôi sụp đổ đã mang theo sinh mạng của
khoảng
4.000 người. Du khách đến với New York hôm nay chỉ còn
nhìn thấy một khu đất hoang tàn, với những phế tích còn
lại của Tháp đôi và những dòng chữ tưởng niệm các nạn
nhân vô tội do trận khủng bố dã man này.
– Nước Anh và nước Pháp đã
từng đi đầu trong công nghệ sản xuất máy bay với chiếc
Concorde,
là máy
bay chở khách siêu âm thương mại thành công nhất.
Bay thử lần đầu
năm 1969, Concorde bắt đầu được đưa vào phục vụ năm 1976
và có thời gian hoạt động dài 27 năm. Chiếc máy bay này
được mang danh là “Chú chim trắng trên bầu trời”,
và đã lập được
nhiều kỷ lục, gồm thời gian bay 2 giờ, 52 phút và 59
giây giữa New York và London, ngày
7-2-1996.
Mặc dù được đánh giá ở mức kỹ thuật hoàn hảo
tuyệt đối, ngày 25-7-2000, máy bay Concorde đã gặp phải
một tai nạn tại
Gonesse, Pháp. Vụ tai nạn đã
làm thiệt mạng
100 hành khách và 9 thành viên phi hành đoàn trên khoang
cùng 4 người dưới mặt đất. Đây là vụ tai nạn nghiêm
trọng đầu tiên và duy nhất của loại máy bay này.
Sau vụ khủng bố tại New York ngày 11-9-2001,
Concorde đã được
cho ngừng hoạt động ngày
24 tháng 10 năm
2003, chuyến bay
“về
hưu” diễn
ra ngày
26 tháng 11 năm ấy.
Niềm tự hào của những
ai đã tạo ra “chú chim trắng trên bầu trời” dần đi vào
dĩ vãng.
– Những ngày đầu năm 2012
này, thế giới kinh hoàng khi nghe tin chiếc tàu du lịch
hiện đại và khổng lồ của Italia gặp nạn. Chiếc tàu này
mang tên giống như chiếc máy bay Concorde. Tên đầy đủ
của nó là Costa Concordia. Con tàu trị giá 750.000 Mỹ
Kim đã gặp nạn ngày 14-1-2012 ở khu vực đảo Giglio, miền
Tuscany, Italia. Tàu Concordia có trọng lượng 114.500
tấn, đang chở
4.200 hành khách, đã va vào đá
ngầm. Biến cố này được giới báo chí gọi là “Tàu Titanic
Italia”. Một điều trùng hợp kỳ lạ là sự kiện này xảy ra
sau đúng 100 năm, kể từ khi con tàu Titanic gặp nạn.
Chiếc tàu Titanic chuyên chở 2.201 hành khách đã bị đắm
ngày 15-4-1912 làm thiệt mạng hơn 1.500 người.
Những trường hợp điển hình
được nêu trên đây cho thấy dù mạnh mẽ đến đâu, thì khoa
học kỹ thuật cũng không bao giờ được coi là hoàn hảo. Dù
tối tân hiện đại đến mức nào, thì con người cũng không
thể coi những sáng chế tinh vi là tối thượng. Khi đã đạt
tới đỉnh cao của công nghệ, người ta bị cám dỗ khước từ
Thiên Chúa, thậm chí còn có người báng bổ tự cho mình có
thể thay thế Thiên Chúa. Họ tự cho mình có thể làm được
mọi sự. Theo họ, Thiên Chúa đã trở thành một nhân vật
của huyền thoại, hoặc giả nếu Ngài có hiện hữu thì Ngài
cũng không phải là Đấng Toàn năng. Thấy rõ được nguy cơ
này, Đức Thánh Cha Bênêđictô đã viết trong Tự sắc về Năm
Đức Tin như sau: “So
với quá khứ, đức tin ngày nay đang phải chịu một loạt
những vấn nạn đến từ não trạng thay đổi, đặc biệt là
ngày nay não trạng này thu hẹp lãnh vực những điều chắc
chắn hợp lý vào lãnh vực những chinh phục của khoa học
và kỹ thuật”. Tuy vậy, vị Cha chung của Giáo Hội
khẳng định với chúng ta:
“Giáo
Hội không bao giờ sợ chứng minh rằng giữa đức tin và
khoa học chân chính không hề có xung đột, vì cả hai đều
hướng về sự thật, tuy bằng những con đường khác nhau”
(Tự sắc Porta Fidei, số 12).
3- Sự mong manh của kiếp người
Ngẫm về sự mỏng manh của
kiếp người, tác giả Thánh vịnh đã thốt lên:
“Kiếp phù sinh tháng ngày vắn vỏi,
tươi thắm như cỏ nội hoa đồng,
một cơn gió thoảng
là xong,
chốn xưa mình ở cũng không biết mình”
(Tv 103, 15-16)
Những phát minh khám phá trong lãnh vực y khoa, dù rất
hiện đại, cũng không thể kéo dài cuộc sống của con người
trên cõi dương gian. Kiếp người vẫn mỏng giòn, sớm nở
chiều tàn, như đóa phù dung.
–
Mong manh giữa sự sống và sự chết.
Mỗi năm, cả nước có đến trên chục ngàn người chết vì tai
nạn giao thông, hàng ngàn người chết do tai nạn lao
động. Tình trạng ngộ độc thực phẩm ngày càng nghiêm
trọng
đã
và đang cướp đi sinh mạng của biết bao người. Có nhiều
người còn trẻ đã phải vĩnh viễn ra đi. Biết bao sáng
kiến, biết bao quy định, nhưng số người chết vẫn không
giảm. Đã nhiều người lên tiếng, nhưng xem ra tình trạng
này chưa được cải thiện. Người dân đành phải sống theo
kiểu “ai có thân người ấy lo”. Những điều trên đây cho
thấy kiếp người thật mong manh, nay còn, mai mất. Mỗi
khi ra đường là lo lắng, chỉ khi về tới nhà mới chắc là
mình được an toàn.
–
Mong manh giữa cái thiện và cái ác. Chỉ một chút
nóng giận cũng cướp đi một mạng sống. Chỉ một lý do đơn
giản cũng làm mất một cuộc đời. Có những người suốt đời
chân chất, ăn ở hiền lành, vậy mà một giây phút không
làm chủ được bản thân đã trở thành kẻ giết người. Xã hội
hôm nay cho thấy ranh giới giữa thiện và ác thật mong
manh. Hậu quả là vợ đốt chồng, con giết cha. Xã hội khá
nhiều những người con “nghịch tử”. Sự bất hiếu có nguyên
nhân muốn đặt lợi lộc vật chất làm ưu tiên hàng đầu. Xã
hội đưa ra nhiều phong trào, nhưng chỉ giống như “ném
gạch giữa ao bèo”. Giáo Hội phát động nhiều chiến dịch,
nhưng chỉ như “muối bỏ biển”. Liều thuốc có hiệu quả
chắc chắn phải là sự cải hóa nội tâm. “Tâm bình, thế
giới bình”, chỉ một khi con người có lương tâm ngay
thẳng, chân thành hướng thiện, lúc đó họ mới có thể góp
phần xây dựng một cuộc sống an bình.
–
Mong manh giữa khôn và dại.
Gần đây, thành phần
những người phải ra trước vành móng ngựa càng ngày càng
đa dạng. Họ là quan chức cao cấp, là người mẫu, là diễn
viên điện ảnh, là chủ khách sạn, là người cha người mẹ,
là trẻ vị thành niên. Ai cũng hối hận nhưng đã quá muộn
màng. Trước khi bị bắt, ai cũng nghĩ mình khôn. Sau khi
vào tù, mới ngỡ ra mình dại. Những người đang khôn, bỗng
trở thành dại trong chốc lát, vì tham vọng, ghen tương
và vì lóa mắt trước những cám dỗ vật chất. “Vàng là vật
chất tỏa sáng, nhưng không phải bất cứ thứ gì tỏa sáng
đều là vàng”. Nhiều người ngẫm ra điều ấy thì thấy mình
đã quá dại dột. Làm sao biết mình khôn thực sự? Tác giả
Thánh vịnh trả lời: “Kính
sợ Chúa là đầu mối khôn ngoan”
(Tv 111,
10). Thực thế, khôn ngoan theo kiểu người đời sẽ làm con
người hư mất. Khôn ngoan trong ơn nghĩa Chúa sẽ đem lại
cho con người vinh quang. Vị Tông đồ dân ngoại cũng đã
đúc rút kinh nghiệm quý báu đó cho chính mình:
“Chúng
tôi không sống theo lẽ khôn ngoan người đời, nhưng theo
ân sủng của Thiên Chúa”
(2 Cr 1, 12).
Thì
ra trong “cõi người ta”, cái gì cũng chỉ là tương đối.
Quyền lực, danh vọng và của cải chỉ có ý nghĩa khi nó
nhằm phục vụ ích chung. Quyền lực được lâu bền nhờ tinh
thần phục vụ, thân thế được lưu danh nhờ biết sống vì
tha nhân. Đức Giêsu đã nói về quyền lực: “Anh
em biết: thủ lãnh các dân thì dùng uy quyền mà thống trị
dân, những người làm lớn thì dùng lấy quyền mà cai quản
dân. Giữa anh em thì không được như vậy: Ai muốn làm lớn
giữa anh em, thì phải làm người phục vụ anh em. Và ai
muốn làm đầu anh em thì phải làm đầy tớ anh em”.
Đức Giêsu đã áp dụng triết lý sống này nơi bản thân
Người: “Con
Người đến không phải được người ta phục vụ, nhưng là để
phục vụ và hiến dâng mạng sống làm giá chuộc muôn người”
(Mt 20,25-28). Khái niệm “lãnh đạo là người phục vụ” của
Tin Mừng đã ảnh hưởng sâu sắc tới nền văn hóa của các
nước có truyền thống Kitô giáo.
Khi nhận ra sự mong manh
của cuộc đời, chúng ta không bi quan chán nản trước
những bất toàn. Khi thấy rõ giới hạn của con người trần
thế, chúng ta vươn tới Đấng toàn năng cao cả. Vâng,
Thiên Chúa là Đấng trung thành. Ngài luôn hướng dẫn cuộc
đời chúng ta và trả công cho chúng ta theo như chúng ta
đối xử với anh chị em mình.
+
Gm
Giuse Vũ Văn Thiên
Giáo phận Hải Phòng (Nguồn WHĐ)
|
VỀ MỤC LỤC |
|
“ĐƯỜNG
HY VỌNG”
|
Gần đây,
3 Tổng Giáo Phận tại Việt Nam và rất nhiều trang mạng
Công Giáo thông báo về tiến trình điều tra để tuyên phong
Á Thánh và Hiển Thánh cho Đức Hồng Y Fx. Nguyễn Văn
Thuận. Xin được kính dâng ngài một chút lòng mọn.
Gần mười năm
Cha đã đi xa
Khỏi khuôn
khổ bầu trời trái đất
Gần mười
năm Cha đã mất
Chẳng còn qui
luật sáng tối bủa vây
Bảy mươi bốn
năm đường đời Cha đã kinh qua
Qua muôn nẻo
khổ đau hạnh phúc
Ba mươi bốn
năm làm Giám mục
Mặc áo tù
ròng rã mười ba năm
Áo tù nhân
bỗng hóa màu hồng
Thành tu phục
Hồng y tỏa sáng
Vạn gian
truân là vạn đóa hồng
“Đường Hy
Vọng” rộn rã tiếng yêu thương
Cha mang gì
trên “Đường Hy Vọng”
“Năm Chiếc
Bánh và Hai Con cá”
Chúa đã cho
năm ngàn người đói lả no nê
Để từ đây
chân chân trời góc bể
Niềm hy vọng
thắp sáng muôn lòng
Mặt trời mọc
từ phía đàng Đông
Con lại nhớ
Cha mang dòng máu Việt
Triệu con tim
rung nhịp thương tiếc
Ánh mặt trời
tắt lịm đàng Tây
Mặt trời ơi
hãy thức mỗi ngày
Cho Hy vọng
sáng bừng dương thế.
Pt. Thomas Nguyễn Văn Hiệp
|
VỀ MỤC LỤC |
|
HỒNG Y LÀ AI VÀ CÓ CHỨC NĂNG GÌ ?
|
Nhân dịp Đức
Thánh Cha Bê-nê-đich-tô 16 , ngày 06 tháng 1 vừa qua, nhân lễ
Chúa Hiển Linh, đã công bố việc chọn thêm 22 tân Hồng Y nữa cho
Giáo Hội, tôi xin được trả lời chung những câu hỏi của nhiều
đôc giả về vai trò và trách nhiệm của tước vị Hồng Y trong Giáo
Hội Công Giáo La Mã như sau:
Trước hết, về
ngữ căn (etymology), từ Hông Y (Cardinal) xuất phát từ nguyên
ngữ Latin CARDO có nghĩa là “cái bản lề" (hinge) tức bộ phân
then chốt để giừ cho cánh cửa được đứng vững trong khung cửa. Từ
ý nghĩa tượng trưng này, các Hồng Y được mệnh danh là “những
vị Hoàng tử ( princes) của Giáo Hội với 2 chức năng
rất quan trọng sau đây:
1-
Là cố vấn để đóng góp ý kiến (kiến thức và
khôn ngoan) cho Đức Thánh Cha trong việc điều hành và cai tri
Giáo Hôi Công Giáo hoàn vũ
2-
Khi vào Mật nghị (Conclave) để bầu Giáo
Hoàng mới , tất cả các Hông Y đủ điều kiện theo luật bầu cử đều
đương nhiên là các ứng viên (potential candidates có thể được
bầu chứ không ra ứng cử) và cũng là những người được quyền bỏ
phiếu chọn (elector) Giáo Hoàng mới. khi đương kim Giáo Hoàng
qua đời ( x. Giáo luật (1983) ,số 349)
Theo Luật bầu
Giáo Hoàng hiên hành, áp dụng từ nhiều năm qua, thì khi tròn 80
tuổi, các Hồng Y không còn được tham dự Mật nghị để bầu Giáo
Hoàng mới hay tham dự bất cứ mật hội nào do Đức Thánh Cha triệu
tập và chủ tọa để bàn thảo về một vấn đề quan trọng nào của
Giáo Hội.Thêm nữa, khi các Hồng Y đến tuổi 75, và hiện đang
coi sóc các Tổng Giáo Phận hay các Bộ hoặc Cơ quan trọng yếu
trong Giáo Triều Roma thì cũng phải xin từ chức, để tùy Đức
Thanh Cha quyết định chấp nhận hay cho lưu nhiệm thêm. Thí dụ,
trường hợp Đức đương kim Giáo Hoàng Bê-nê-đích- tô 16, khi
đang còn làm Tổng Trưởng Thánh Bộ Giáo Lý Đức Tin, đã xin nghỉ
hưu năm ngài 75 tuổi nhưng đã được Đức cố Giáo Hoàng
Gioan-Phaolô II yêu cầu tiếp tục nhiệm vụ thêm thời gian nữa,
nên ngài vẫn đảm trách chức vụ Tổng Trưởng trên cho đến khi
ngài được bầu lên ngôi Giáo Hoàng ngày 19-tháng 4 năm 2005 (
x.giáo luật 354)
Trước năm
1917 tức là năm ban hành bộ Giáo luật cũ, (giáo luật mới 1983
thay giáo luật cũ 1917) các Hồng Y có thể là những giáo dân
không có chức linh mục hay giám mục, được Giáo Hoàng ban cho
tước vị này vì những lý do riêng tư. Nhưng với Giáo luật năm
1917, thì người thường dân không còn được chọn nữa, mà chỉ dành
cho các linh mục hay giám mục xuất sắc mà thôi. Đến thời Đức cố
Giáo Hoàng Gioan XXIII, thì ai được phong tước Hông Y cũng phải
được thụ phong Giám mục nếu vị đó chưa là giám mục. Tuy nhiên
cho đến nay thì tước Hồng Y vẫn còn được trao cho một số linh
mục xuất sắc, từng giữ các chức vụ quan trọng trong Tòa Thánh
hoặc là những thần học gia nổi tiếng như các linh mục Yves
M.J Congar (O.P) Henri de LuBac và Allen Dulles (SJ) ( đều đã
qua đời) ... Trong đợt Hồng Y mới được công bố ngày 06 tháng 1
vừa qua, cũng có 3 linh mục xuất sắc, từng phục vụ đắc lực
trong Giáo Triều được chọn làm Hồng Y. Các tân Hông Y sẽ được
trao mũ đỏ ngày 18 tháng 2 này tại Đền Thánh Phêrô.
Cũng cần nói
thêm là khác với thông lệ trong quá khứ khi Hông Y được chọn từ
những gia đình quí tộc ỏ Âu Châu hoặc những người được Giáo
hoàng ưu đãi, thưởng công riêng, các Hồng Y ngày nay phần lớn
xuất thân từ những gia đình đạo đức, bình dân, phải là nam giới
và ít nhất là người có chức linh mục và “trỗi vượt về đạo lý,
tác phong, đạo đức và khôn ngoan” (x. giáo luật số 351 & 1).
Nhưng thường là các giám mục xuất sắc về đức độ và khả năng để
có thể trở thành Giáo Hoàng cai quản Giáo Hội trong tương lai.
Lại nữa, vì Hồng Y có thể là linh mục , nên nếu vị này được
đắc cử Giáo Hoàng thì phải được Hồng Y niên trưởng tấn phong
chức Giám Mục trước khi đăng quang (nhậm chức Giáo Hoàng)
(x.giáo luật số 355, &1)
Tuy nhiên
việc này chưa từng xẩy ra vì các Hồng Y từ nhiều thập niên qua
đều là những vị có chức Giám mục hay đã được tấn phong giám mục
sau khi được phong tước Hồng Y.
Như thế cho
thấy chức Giám mục là chức thánh quan trọng nhất của Giáo Hội,
vì Giám mục là những người kế vị các Thánh Tông Đồ trong chức
năng và sứ mệnh rao giảng Tin Mừng cứu độ, dạy dỗ chân lý và cai
trị Giáo Hội. Chúa Giêsu xưa chỉ chọn các nam Tông Đồ, mà người
kế vị các ngài là các Giám mục ngày nay trong Giáo Hội. Hồng Y
không phải là một chức thánh mà chỉ là tước vị (Title) do Giáo
Hội đặt ra vì nhu cầu chọn người kế vị Thánh Phêrô, tức Đức
Thánh Cha cũng là Giám mục Rôma và là Thủ lãnh Giáo Hội Công
Giáo hoàn vũ.
Các Hồng Y
họp lại thành Hồng Y Đoàn riêng biệt (College of Cardinals) do
một vị làm niên trưởng (Dean)
Có 3 đẳng
cấp Hồng Y sau đây.
1- Hồng
Y Giám mục
; (Cardinal bishops) là những giám mục từng coi sóc những giáo
phận chung quanh Rôma nhưng nay là những Hồng Y thâm niên làm
việc trọn thời gian (full-time) trong Giáo Triều Roma. (Roman
Curia)
2- Hồng
Y Linh mục
(Cardinal Priests) là những Hồng Y hoăc làm việc trong Giáo
Triều hoặc đang coi sóc các Tổng Giáo Phận ngoài Roma tức là
các Tổng Giáo phận ở Ý hay ở các quốc gia trên thế giới như
Paris, New York, Sydney, Houston, Saigon, Manilla v.v
3- Hồng
Y Phó Tế (Cardinal
Deacons) từng là những Giám mục hiệu tòa (Titular Bishops) tức
là không coi sóc Giáo phận nào, và đang làm việc trọn thời gian
trong Giáo Triều.
Khi các Hồng
Y họp kín để bầu Giáo Hoàng mới, Hồng Y Trưởng đẳng Phó tế sẽ
công bố danh tánh vị được đắc cử và có thể thay thế Đức Thánh
Cha để trao dây Pallium cho các tân Tổng Giám mục hoặc cho người
đại diện các vị vắng mặt. ( x. giáo luật số 355, & 2)
Thêm nữa, tất
cả các Hồng Y, khi được Đức Thánh Cha chọn và trao tước vị này,
đều được chỉ đinh tước hiệu (Title) của một thánh đường trong
hoặc ngoài Rôma. Với tước hiệu đó, tân Hông Y đến thánh đường
được chỉ định để nhận tòa nhưng không có quyền quản trị nào về
hành chánh, nhân sự cũng như tài sản của thánh đường đó, mà chỉ
hiệp thông để hỗ trợ về mặt tinh thần mà thôi. ( giáo luật số
357 &1)
Sau hết, tất
cả các Hồng Y, nếu không đảm nhận chức vụ Tổng Giám Mục để
coi sóc các Tổng giáo phận ở đâu trên thế giới, thì đều phải cư
trú ở Rôma hoặc phải trở về Giáo đô khi Đức Thánh Cha triệu tập
để họp bàn việc gì quan trọng của Giáo Hội (giáo luật số 356)
Chúng ta cầu
nguyện nhiều cho các Hồng Y –cách riêng cho 22 Tân Hồng Y của
Giáo Hội để các ngài xưng đáng lãnh nhận và chu toàn những nhiệm
vụ mà Giáo Hội trao phó.
LM. Phanxicô
Xaviê Ngô tôn Huấn
|
VỀ MỤC LỤC |
|
NGƯỜI PHONG HỦI THỨ 501.
|
Người ta ví 'bẩn như hủi' tức là
bệnh cùi hay còn gọi là bệnh phong. Đến những trung tâm tại
phong cùi thấy người bệnh bị lở loét, vết thương chảy nước, thịt
xương đỏ hoẻn, cụt chân tay, tai mũi,....mùi hôi thối sông lên
nồng nặc; đeo khẩu trang mà vẫn ngửi thấy mùi; có người thấy mà
phát nôn mửa về nhà không dám ăn cơm; trẻ em trông thấy khóc
thét lên. Người ta xa lánh, cách ly, cô lập người bệnh. Khổ lắm.
Thời cựu ước, sách Lêvi kể : “các
tư tế được quyền khám xét xem ai bị : ung nhọt, lác, đốm, nghẻ
lở, phỏng, lang ben, hói đầu hay phong hủi để tuyên bố là mắc ô
uế và họ khám xét rất kỹ người bệnh. Nếu vết thương thịt đỏ lòm
đó là bị cùi, hủi và phải theo qui chế là mặc áo rách, xoã tóc,
che râu và kêu lên 'ô uế, dơ bẩn', phải ở riêng ra, chỗ của họ
là một nơi bên ngoài trại, ai động vào người mắc bệnh ô uế tội
nặng” (bđ1, Lv 13, 1-2. 45- 46).
Thời Chúa Giêsu, ở Do thái có
những quy định bật cười hơn nữa:
- người hủi thò đầu vào nhà ai, bị
lây bẩn tận cây kèo trên mái nhà,
- không được đến gần họ 2m ; hủi
đứng đầu gió, người đứng cuối phải cách xa 45m.
- các rabbi Do thái không được ăn
quả trứng, nếu bán ở chợ có người hủi đi qua. Có lẽ còn hơn cả
dịch cúm H5N1 ở VN ta! Quá quắt thật.
Năm 1871, ông Hansen tìm ra vi
trùng bệnh phong (mang tên ông) đem lại niềm hy vọng cho người
phong hủi. Tới nay, người ta đã chữa được và làm cho không lây
lan.
Cha Đa-mi-êng người Bỉ được Đức
Cha cử giới thiệu sống với người phong hủi ở 1 hòn đảo. Họ không
tin cha là người thật. Cha đã sống với họ, và được gọi là 'tông
đồ của người cùi' rồi chết với họ. Đức cha Jean Cassaigne, người
Pháp đã phục vụ, sống chết với người hủi ở Di Linh Việt Nam. Nhà
thơ công giáo Hàn Mặc Tử cũng mắc bệnh hủi; thời gian bị bệnh
ông đã viết nhiều bài thơ nổi tiếng trong văn học VN, người ta
mới dựng phim cuộc đời thi sĩ điên.
Đức cha Fulton Sheen, một nhà
giảng thuyết nổi tiếng trên các đài truyền hình Mỹ (1955-1960)
kể: thăm trại cùi 500 người ở Châu Phi, ngài mang nhiều thánh
giá bạc làm quà tặng. Bệnh nhân đầu tiên ngài gặp chỉ còn 1 cánh
tay trái. Đức cha cầm thánh giá, giữ cách bàn tay người cùi 10cm
thả xuống lòng bàn tay bệnh nhân. Ngài bị đánh động và nói:
'thình lình tôi nhận ra có 501 người cùi trong trại. Và người
cùi ghẻ lở nhất là tôi'. Vì trao tặng thánh giá là biểu tượng
tình yêu nhưng tôi lại đánh mất ý nghĩa tình yêu ấy...Tôi ân bàn
tay vào bàn tay người cùi và trao tình yêu cho họ. Tôi đã làm
như thế cho 499 người còn lại'.
Gần thời chúng ta hơn nữa, có Mẹ
Têrêxa Calcutta đã lập quỹ giúp người phong cùi. Các thùng tiền
Mẹ đều đề hàng chữ ' hãy chạm đến người phong hủi bằng lòng trắc
ẩn của bạn'.
Tất cả những nhân vật nổi tiếng,
thánh thiện vừa kể trên là cha Đamiêng, đức cha Jean Cassainge,
nhà thơ Hàn Mặc Tử, đức cha Fulton Sheen, Mẹ Têrêxa Calcutta và
còn nhiều linh mục, tu sĩ, anh chị em giáo dân khác nữa đã vượt
qua nỗi sợ hãi, mặc cảm đối với người phong hủi để trao ban tình
thương cho họ noi gương Chúa Giêsu. Bài Tin mừng hôm nay kể :
Chúa Giêsu tiến lại gần, động lòng thương, giơ tay chạm vào
người phong cùi, anh ta được khỏi luôn. Ngài đã vượt qua hàng
rào cấm kỵ, đến gần người phong hủi, bất chấp nguy hiểm, cái
nhìn, và sự cấm kỵ của người Do thái. Vì "tất cả những ai đến
với Tôi, Tôi không xua đuổi bao giờ".
Đức Giêsu đã từng động chạm tới
mọi hạng người : trẻ em, người tội lỗi, mù, điếc, người chết
hoặc để cho họ đụng chạm vào như người đàn bà bị bệnh loạn
huyết. Tất cả đều được chữa lành hết. Ngài cũng gần gũi các loại
'bệnh hủi' khác như : người thu thuế, đĩ điếm, trộm cắp, ngoại
tình, ngoại đạo,...đó là những loại hủi trong xã hội và giáo
hội. Ngài là bác sĩ đa khoa mà, chữa rất nhanh mà không sợ lây
lan.
Qua cử chỉ động vào người phong
hủi, Đức Giêsu đã giải thoát họ khỏi đau đớn phần xác, làm cho
cơ thể lành lặn, da dẻ hồng hào, tươi tắn, khuôn mặt rạng rỡ,
giọng nói thanh tao như bao người khác; qua đó Chúa Giêsu còn đi
tới chỗ vuốt ve tâm hồn anh làm cho anh từ nay không còn mặc cảm
bệnh tật, không bị khinh miệt, không bị loại trừ, bỏ rơi, lạnh
giá nhưng trở nên gần gũi, trân trọng, yêu thương vỗ về, trái
tim lành lặn, được phục hồi tâm hồn, trả lại phẩm giá làm con
người, con Chúa để ngẩng cao đầu gia nhập cộng đoàn xã hội và
giáo hội qua đời sống sinh hoạt phụng vụ, gặp gỡ tư tế.
Đức Giêsu là bác sĩ cao tay tuyệt
vời : chữa bệnh tâm lý, thể lý, phần xác, phần hồn.. ngày nay,
Đức Giêsu vẫn động chạm tới con người qua các bí tích để chúng
ta được chữa lành. Chúng ta có để cho Chúa động chạm vào không?
Lát nữa, lên rước lễ được động chạm vào Mình Thánh Chúa, chúng
ta có tâm tình, thái độ, đức tin như thế nào? Hay 'gần chùa gọi
bụt bằng anh'?
Trong cuộc sống chúng ta có những
cái động chạm làm người khác : giật mình, run rẩy, kinh hãi, tự
ái hay ngược lại có những cái động chạm làm cho người khác được
ấm lòng lên, nồng nàn tình yêu, thay đổi cuộc sống. Có những cái
động chạm làm cho người khác phải đau xót, dằn vặt, không muốn
sống nữa.
Trong nhà thờ này, không có bác sĩ
nào dám khám xét để thống kê cho chính xác xem có bao nhiêu
người mắc bệnh hủi, nhưng tuy bề ngoài chúng ta sạch đẹp bóng
láng mà có thể :
- trong đầu óc bị cùi hủi, bẩn
thỉu lắm: khi mình đưa vào những hình ảnh, sách báo, phim truyện
xấu, những ý nghĩ xấu xa độc ác đang chen chúc chiếm chỗ nhau.
- tâm hồn chúng ta bị cùi hủi :
khi chất chứa đầy sự ích kỷ, giận hờn, ghen ghét,...
- tương quan xã hội bị cùi hủi :
khi lời nói, giọng nói, hành động xấu, cái nhìn khích bác, khinh
bỉ, xua đuổi, loại trừ anh chị em một cách xem ra tết nhị, lịch
sự, văn minh như một mũi kim nhỏ nhưng rất đau đớn trong tâm hồn
người khác.
- trong gia đình, khu xóm, cộng
đoàn không đón nhận nhau. Tội lỗi là một loại bệnh hủi ghê gớm,
lây lan. Chúng ta có thể tìm thấy nguyên nhân trên qua một lời
cầu nguyện rất hay sau đây:
"Lạy Chúa là Thiên Chúa của
con,
có những ngày đón nhận những
người khác là điều vượt quá sức con,
vì con kiêu hãnh, tự hào và yếu
đuối.
Lạy Chúa là Thiên Chúa của con,
có những ngày con không thể nào
kính trọng kẻ khác được,
vì ý kiến, vì màu da, vì cái
nhìn của người ấy.
Lạy Chúa là Thiên Chúa của con,
có những ngày mà yêu mến người
khác làm cho tim con đau nhói,
vì nỗi sợ hãi, nỗi khổ đau và
những giới hạn của bản thân con.
Lạy Chúa là Thiên Chúa của con,
trong những ngày khó khăn đó,
xin hãy nhắc cho con nhớ rằng
tất cả chúng con đều làm con cái Chúa
và đừng để con quên Lời Chúa
nói :
"Điều gì chúng con làm cho
người bé nhỏ nhất là làm cho chính Ta"
(trích trong Prier).
Lời cầu nguyện tuyệt vời này giúp
ta xét mình luôn.
Thực tế đời sống có nhiều người bị
khinh bỉ, xa lánh, ruồng rẫy chỉ vì kém may mắn, thiệt thòi.
Ngược lại, chỗ nào nhiều tiền của, địa vị, thú vui,...họ đổ xô
đến luồn cúi, lăn lộn, đào bới, moi móc quên chết. Người ta quý
nó hơn quý người. Hội thánh theo gương Đức Giêsu Kitô phục vụ
con người và dạy chúng ta chữa trị, băng bó vết thương xác hồn
cho những người nghèo đói, bệnh tật, khốn khổ không phân biệt ở
đâu, làm sao đưa họ vào một cộng đoàn ở đấy chỉ có biết sống yêu
thương, trân trọng nhau.
Lm. Pet. Bùi
Trọng Khẩn, Gp. Bùi Chu
|
VỀ MỤC LỤC |
|
NGƯỜI MẸ
|
Minh Tâm
Con gái của
tôi thích thú ngồi xem xét mấy bộ áo quần trẻ con bé xíu trăng
trắng vừa mua về cho bé gái đầu lòng sắp chào đời. Chỉ còn non
tháng nữa là cháu đến ngày mãn nguyệt khai hoa. Bụng của cháu
lớn như cái trống thật rồi. Chắc là nặng nề lắm. Nhà tôi nói
bụng to như vậy thì người mẹ thường xuyên đau lưng, tức ngực,
khó thở… Nhưng nghĩ đến đứa con thân yêu sắp ra đời, người mẹ
quên hết mọi nỗi nặng nhọc phải gánh chịu triền miên bao ngày
tháng… Nhìn con gái sắp trải qua nỗi đoạn trường tôi không khỏi
chạnh lòng.
Năm vừa qua,
cháu gái lớn của chúng tôi vừa sinh hạ đứa con thứ hai tại bệnh
viện phụ sản. Sáng sớm hôm đó vừa đau bụng chuyển dạ, cháu vội
vàng đón taxi nhập viện. Làm thủ tục xong, chờ sinh. Những khổ
nỗi, chờ suốt ngày hôm đó, rồi suốt đêm nữa, cháu ngoại chúng
tôi cũng không chịu chào đời. Con gái của tôi đau bụng từng cơn.
Mồ hôi vã ra từng hồi. Lưng đau thắt. Đứng không được, ngồi
không yên. Muốn ngả lưng một tí thì không có giường nằm. Cháu đi
tới, đi lui. Lát đứng, lát ngồi. Tay ôm bụng, mặt nhăn nhăn nhó
nhó. Tóc tai rũ rượi. Sản phụ nào có dấu hiệu sinh, thì nữ hộ
sinh mới đưa vào phòng sinh nằm chờ. Qua một ngày, rồi suốt đêm
kế đó canh thức với con gái ngoài hành lang bệnh viện, mẹ nó
đuối cả người, mờ cả mắt.
Đến ba giờ
sáng, có triệu chứng sinh, cháu vào phòng sinh. Mẹ nó thoát ra
ngoài rửa mặt, một lát vội quay lại để vào phòng sinh với cháu.
Nhưng không ngờ lại gặp cháu gái đang ngồi ôm bụng co ro một
mình trước phòng sinh. Hành lang lặng vắng như tờ. Trời tối ảm
đạm, rét căm căm. Cháu sướt mướt kể lại vào phòng sinh bác sĩ
đòi mổ, cháu không bằng lòng nên bị đẩy ra đây. Êkip blouse
trắng phủi tay lặn mất tăm. Mẹ nó cầu nguyện xin Chúa ra tay,
rồi gọi điện cho bác sĩ gia đình công tác tại đây. Từ nhà, bác
sĩ này gọi đến phòng trực thuyết phục cho sinh bình thường vì tử
cung của cháu đã nở tốt… đủ điều kiện để sinh thường. Sau đó,
nhờ lời chuyển cầu của Thánh Gierado, con gái tôi vượt biển một
mình, sinh thường thành công vuông tròn. Sinh mổ có nhiều di
chứng nguy hiểm, nhiều khuất tất và phải hơn ba năm sau người
phụ nữ mới có thể mang thai tiếp. Các cháu bái biệt bệnh viện
phụ sản ấy. Cháu gái kế này đã ghi danh sinh bé đầu lòng tại một
bệnh viện tư.
Thay vì tôn
vinh suông người phụ nữ qua Ngày Quốc tế Phụ nữ mùng 8 tháng Ba,
Nhà nước trong tay sẵn có quyền hành Thiên Chúa trao ban, cần
phải làm những gì thiết thực để chia sẻ gánh nặng với nữ giới.
Quý ông đáng kính ít ra phải đồng cảm với nữ giới là mẹ, là vợ,
là con của mình. Cần giúp đỡ người phụ nữ sinh con tốt, nuôi con
khỏe, dạy con ngoan. Hạn chế sinh sản để lăng xê “Gái một con
trông mòn con mắt” sao. Hãy coi gương Đảo quốc Singapore.
Sau một nửa thế kỷ hạn chế sinh sản, họ gặt hái được điều gì?
Hiện nay họ dành mọi ưu đãi và trợ cấp cho phụ nữ sinh ba trở
lên. Một thức tỉnh muộn màng nhưng đáng trân trọng.
Từ cuối thế
kỷ 20, các nước phát triển đã khuyến khích người chồng cố gắng
hiện diện trong phòng sinh để chứng kiến cảnh người yêu của mình
vượt cạn trong mồ hôi, nước mắt và máu. Nhưng số quý ông chấp
nhận bước vào phòng để nắm tay vợ mình trong giây phút thập tử
nhất sinh ấy chưa đến một phần ngàn. Cậu rể nhà tôi cũng né
tránh việc này. Chính mẹ vợ phải đóng quỹ nửa triệu đồng dịch vụ
để sát cánh với con gái tại phòng sinh. Thiếu cánh tay của
chồng, người phụ nữ lúc đó chỉ biết bám bíu vào thanh giường sắt
để vượt cạn. Bà nhà tôi cho biết cảm tưởng lúc đó thanh giường
như mềm ra. Bàn tay mong manh của sản phụ lúc ấy cứng hơn sắt
nguội! Thực ra, nếu quý ông chấp nhận bước vào phòng sinh, thì
cũng chỉ đơn thuần là chứng kiến. Làm sao người đàn ông đầu ấp
tay gối có thể chia sẻ được cái đau khủng khiếp của vợ mình. Nhà
tôi thường nhắc lại:
“Đàn ông
đi biển có đôi
Đàn bà đi biển mồ côi một mình”.
Bà nhà tôi
cũng chia sẻ: Người phụ nữ phải banh da xẻ thịt để sinh ra một
đứa con. Mỗi lần sinh con là như chết đi sống lại. Lúc đó tim
như ngừng đập, cổ họng như bị nghẹt không thở được. Nếu may mắn
thoát chết dưới vực sâu rùng rợn ấy thì thể trạng người phụ nữ
cũng sa sút thê thảm. Cả cơ thể rã rời như bị tra tấn từng
centimet. Bà nghĩ mình giống như con cua mới lột. Đó là lý do
chính đáng để sản phụ được mẹ chồng thời phong kiến chăm sóc
trọn một tháng. Sản phụ ngày ngày được hầu cơm tận giường. Mọi
công tác đồng áng hay làm dâu bếp núc cho nhà chồng đều miễn
trừ. Nhưng vì sức khỏe của mình, nhất là của hài nhi, sản phụ
phải kiêng khem đủ thứ. Các loại hải sản như cua, ghẹ, sò, ốc…
bò, gà và mọi loại trái cây hấp dẩn, nghĩa là các thứ khoái khẩu
của phái yếu đều phải nhịn đến sáu tháng. May thay thời nay, bác
sĩ chỉ khuyến cáo các con tôi kiêng cử các món đặc sản ấy ba
mươi ngày thôi.
Nhìn con gái
phấn khởi chuẩn bị ngày sinh nở, tôi thấy xót xa. Nếu cháu là
trai thì vợ chồng tôi không phải chuẩn bị tinh thần và vật chất
cho cháu vượt cạn như mẹ, như chị... Đây là thiên chức cao quý
của người phụ nữ hay là cái giá đắng cay phải trả cho tội nguyên
tổ nghìn đời. Đức Chúa đã phán với người nữ nguyên tổ Eva: “Ta
sẽ làm cho người phải cực nhọc thật nhiều khi thai nghén; ngươi
sẽ phải cực nhọc lúc sinh con”(St 3,16).
Tôi không có
con trai để nối dõi tông đường. Bạn bè nói tôi có bốn gái là tứ
quý. Tôi cười ậm ừ. Lòng buồn rười rượi! Không buồn thiếu người
khói nhang, vì trong ánh sáng đức tin Công giáo, Thiên Chúa
không phân biệt lời cầu xin của nam hay nữ. Nhưng tôi không khỏi
chạnh lòng khi nghĩ tới nỗi nghiệt ngã con gái tôi đang mang
lấy. Nhà tôi thường khuyến khích hai cháu nhỏ đi tu làm dì phước
để tránh nỗi đau sinh đẻ! Tôi không có ý kiến. Tốt hơn là hai
cháu tự quyết. Tôi chia sẻ với hai cháu nhỏ: Từ khi Đức Giêsu hy
tế mạng sống mình trên đồi Golgotha, thì mọi đau khổ của người
nam và người nữ đều được nâng lên một tầm cao mới và có giá trị
cứu rỗi. “Anh em sẽ lo buồn, nhưng nỗi buồn của anh em sẽ trở
thành niềm vui” (Ga 16, 20). Những ngày cuối của quãng thời
ba năm lê bước trên sỏi đá khai hóa cho chúng sinh nơi trần thế,
Chúa Giêsu không quên thánh hóa nỗi đau đớn nghiệt ngã của người
phụ nữ, của hơn một nửa nhân loại. Ngài tuyên dương sứ mạng
truyền sinh cao cả, sứ mạng cộng tác với Đấng Hóa Công: “Khi
sinh con, người đàn bà lo buồn vì đến giờ của mình; nhưng khi
sinh con rồi, thì không còn nhớ đến cơn gian nan nữa bởi được
chan chứa niềm vui vì một con người đã sinh ra trong thế gian”
(Ga 16, 21).
Nhà tôi sinh
cháu gái đầu thì khiếp quá, quyết không sinh nữa. Nhưng nhờ ân
sủng của Chúa Kitô Phục Sinh, mẹ cháu khi sinh con rồi, thì
không còn nhớ đến cơn gian nan nữa bởi được chan chứa niềm vui
vì một con người đã sinh ra trong thế gian. Viết đến đây, tôi
cảm thấy cần trang trọng nói lên lời cảm tạ tri ân. Cảm tạ Bà
tôi đã chấp nhận sinh ra mẹ tôi. Cảm tạ Mẹ tôi đã banh da xẻ
thịt sinh ra mười người con, trong đó có tôi. Cảm tạ vợ tôi đã
sinh ra cho tôi bốn cháu gái rượu trong máu và nước mắt. Ba năm
bú mớm. Nuôi dạy trưởng thành.
Con cái lập
gia đình, sinh con đẻ cháu. Người phụ nữ ấy lại lăn xả vào phòng
sinh cùng con vượt biển trong tuổi đời 50, 60, 70… Mỗi người mẹ
đều xứng đáng nhận Anh dũng Bội Tinh kèm Nhành Dương Liễu. Từ
khởi thủy, Đức Chúa khai thiên lập địa, các mẹ đã anh dũng đảm
nhận trách vụ sinh thành, nuôi dưỡng và giáo dục con cái trong
máu và nước mắt. Thế nhưng, khi có trục trặc gì thì quý ông
không tiếc lời đay nghiến “Con hư tại mẹ, cháu hư tại bà”;
bất kể là ngày mùng 7 hay mùng 8 tháng Ba. Khi người ta tôn
phong một vĩ nhân hay một thánh nhân thì không mấy ai buồn nhắc
đến người phụ nữ thánh đức đã hy sinh thân mình để sinh thành,
nuôi dưỡng và giáo dục con người thành đạt tuyệt đỉnh ấy.
Thời nay, khi
củi là quế khâu, gạo là châu ngọc, người phụ nữ lại phải xả thân
lăn vào chợ đời đen bạc chạy gạo toát mồ hôi. Đặc nhiệm thứ tư
này các chị cũng xuất sắc hoàn thành. Từ công sở về, chồng vắt
chân chữ ngũ ngồi xem truyền hình, vợ lăn vào bếp. Người mẹ lại
hợp tác với Đấng Hóa Công, vã mồ hôi trán, hì hục chế biến cỏ
cây thành thức ăn bổ dưỡng. Khi cả nhà ăn bữa ngon lành, thì vợ
mệt nhoài, no hơi, không thiết ăn nữa. Nhìn chồng con ngon miệng
thì các chị cũng no lây. Tôi thường nhắc các con, trước khi dùng
bữa thì cảm tạ Chúa, cũng cần cảm ơn mẹ nữa, không chỉ cho ngày
8 tháng Ba mà trong suốt cuộc đời! Hãy cảm tạ người phụ nữ đảm
đang con ạ!
Dù tôi có nói
gì đi nữa để tri ân người phụ nữ, thì rõ là quá vụng về, rỗng
tuếch. Thôi thì xin mạn phép mượn lời của Vị Chân Phước Giáo
hoàng Gioan Phaolô II để trân trọng tỏ chút lòng thành đến Đức
Mẹ Maria và các bà mẹ:
“Giáo hội
cảm ơn mọi biểu lộ của các thiên tài nữ giới đã xuất hiện suốt
dọc dài lịch sử giữa mọi dân tộc, mọi quốc gia. Giáo hội cảm ơn
vì mọi đặc sủng mà Chúa Thánh Thần đã rộng ban cho người phụ nữ.
Giáo hội cảm ơn vì mọi chiến thắng Giáo hội có được là nhờ đức
tin - đức cậy - đức mến của người phụ nữ. Giáo hội cảm ơn về
những hoa trái sự thánh thiện. Đó chính là phẩm giá của người
phụ nữ trong vai trò quý báu đã và đang tiếp tục nắm giữ trong
đời sống Giáo hội”.
|
VỀ MỤC LỤC |
|
HÀNH HƯƠNG
|
Hằng năm, cứ vào dịp Tết, hàng loạt các vấn
đề nhức nhối lập đi lập lại trên quê hương đất nước này, từ các
vấn đề thuộc lãnh vực giao thông, vận tải, sang các vấn đề
thuộc y tế, sức khoẻ, vấn đề thực phẩm, giá cả và cả những vấn
đề hình sự nữa. Tết cổ truyền là một truyền thống và văn hoá tốt
đẹp của người dân Việt, nhưng lâu nay nó là nguyên cớ gây quá
nhiều đau khổ cho nhiều người, nhiều gia đình, dĩ nhiên cho cả
xã hội nữa.
Làm sao lưu
giữ và phát triển thời điểm này, làm phong phú thêm cho văn hoá
và truyền thống của đất nước dân tộc ? Thiết nghĩ đây là vấn đề
của toàn xã hội, trong đó, những người có trách nhiệm trong lãnh
vực tôn giáo cần lưu tâm và định hướng. Làm sao cho cái Tết của
chúng ta giảm bớt được những tai nạn, tai nạn do giao thông, do
uống rượu và do cả nghèo đói nữa ! Làm sao cho cái Tết của chúng
ta là một thời điểm của bình an, hạnh phúc, vui tươi và thư giãn
? Không thể để mỗi lần Tết đến là một dịp ôn những kỷ niệm buồn,
mỗi năm hàng trăm gia đình buồn, cứ vậy chồng chất, sẽ đến một
lúc cả nước… buồn. Tôn giáo với tư cách là định hướng cao và sâu
cho cuộc sống sẽ giữ một vai trò nào trong việc gầy tạo những
giá trị tốt đẹp ?
Sau Tết, vấn
đề lễ hội, trong đó hành hương là một sinh hoạt thu hút rất đông
người. Không thể phủ nhận nhu cầu tâm linh trong tháng đầu năm
mới của đông đảo người dân Việt, con số hàng triệu lượt người đi
Chùa Hương, hàng vạn lượt người đến Đền Trần ở Nam Định để khẩn
cầu và xin ấn, hàng vạn lượt ng ười đi Chùa Bà ở Bình Dương, đi
núi Sam Châu Đốc… và bao nhiêu Đền Chùa Miếu Mạo khác nữa. Bản
thống kê mới đây trên báo chí ở Việt Nam cho biết: số lượng hàng
mã đốt trong dịp Tết được ước tính là 400 tỉ đồng, một con số
quá lớn góp phần làm… nghèo đất nước !
Ở miền Nam hình ảnh này đã diễn ra trong
rất nhiều năm trước năm 75, miền Bắc sau những năm cải tạo đủ
thứ, bài trừ đủ thứ, không một lễ hội nào được phép tổ chức nữa,
tưởng là đã mất hẳn, không ngờ bây giờ lại có cơ bộc phát dữ
dội. Người ta đi Đền đi Chùa nườm nượp để khấn vái cầu xin. Năm
nào cũng vậy, báo chí kêu ca nhưng hình ảnh xe công bảng số xanh
bảng số đỏ vẫn không giảm, không chỉ người dân, mà cả các quan
chức cũng lũ lượt đi khấn đi hứa. Tranh cãi mãi cuối cùng thì
đồng tiền vẫn là trên hết, chẳng còn học tập bài trừ mê tín làm
gì nữa, chẳng còn duy vật hay duy linh chi cả, vì chính quan to
quan nhỏ cũng hí hửng với ấn đỏ ấn xanh, có hẳn đường dây riêng
dành ấn cho quan chức, mặc dân chen nhau chảy máu vỡ đầu chỉ là…
húp nước cặn !
Dân cũng tin,
quan cũng tin, có khi quan còn tin hơn dân. Nghe nói hàng lãnh
đạo cao cấp cũng thường xuyên lên đồng lên cốt, thường xuyên xem
bói xem toán, thường xuyên lo phong thủy, yểm bùa chấn trạch,
điều chỉnh nhà cửa, mồ mả, bếp núc, kê lại bàn tủ ghế giường…
Như thế thì duy tâm hay duy vật gì cũng đều có nhu cầu liên lạc
với một thế giới nào đó khác với cái thế giới này, muốn truy tìm
một sự nâng đỡ nào đó ngoài vật chất, muốn cầu xin một sức mạnh
nào đó không phải từ con người, không chỉ để bảo vệ và nâng đỡ
cuộc sống hiện tại, mà còn ký thác cả tương lai.
Quan sát các
hiện tượng nêu trên chúng ta thấy, mọi người ai cũng đều có một
nhu cầu thật sự tìm đến với quyền lực trên cao, ước mong khấn
vái để được phù hộ độ trì cho những nhu cầu của họ, thời điểm
thích hợp không chỉ trong ba ngày Tết nhưng kéo dài cả tháng
Giêng.
Đứng trước hiện tượng này, các vị có trách
nhiệm trong đạo Công Giáo tại Việt Nam nghĩ gì ? Được biết trong
những năm vừa qua, rất đông anh chị em Tu Sĩ, và cả Linh Mục nữa
đã theo học và tốt nghiệp đại học ngành Xã Hội Học, không biết
đã có công trình nào nghiên cứu hiện tượng xã hội này chưa ? Nếu
có, hiệu quả của công trình đi đến đâu, có được ứng dụng trong
Mục Vụ chưa ?
Chúng tôi muốn đặt một vài câu hỏi. Có nên
mở cửa Nhà Thờ thường trực để mọi người có thể vào nghỉ ngơi
tinh thần, cầu nguyện và kính viếng Thánh Thể và các Thánh, nhất
là trong ba ngày Tết và cả tháng Giêng ? Có nên tổ chức các sinh
hoạt để phục vụ nhu cầu tâm linh của bổn đạo trong ba ngày Tết
và tháng Giêng ? Làm sao để các Nhà Thờ của chúng ta trở nên gần
gũi thân quen với mọi người, sân Nhà Thờ đầy bóng cây xanh, rộn
ràng tiếng chim hót, mát mẻ và thân thiện, các bạn sinh viên học
sinh tìm đến ôn bài và để tâm hồn được dịu xuống thanh thản ngay
giữa những bộn bề náo động của cuộc sống ?
Sở dĩ chúng
tôi đặt các câu hỏi như trên, là vì, rất đông các Nhà Thờ của
chúng ta cứ “cửa đóng then cài”, cửa chỉ mở vào các giờ lễ,
ngoài ra thì im ắng, ba ngày Tết, Nhà Thờ trở thành… “Chùa bà
Đanh”. Tết vừa qua, ngày mồng Một, tôi có dịp đến thăm một vị
Linh Mục vào buổi sáng, sau giờ lễ, ngôi Nhà Thờ đóng kín cửa,
tôi gọi điện thoại báo với cha sở là mình đang đứng trước cửa.
Ngài không tin, khi ra mở cửa để đón tôi, ngài ngạc nhiên vì tôi
lại đến thăm vào sáng mồng Một Tết, còn tôi thì cũng không ít
ngạc nhiên vì sáng mồng Một Tết mà ngài lại đóng cửa Nhà Thờ và…
ngủ ! Tôi đến ngài mừng quá, lôi đủ thứ trong tủ lạnh ra và bắt
phải “nhậu” với ngài một chầu, “may quá cậu đến chơi, chứ không
tớ không biết làm sao để ăn cho hết các thứ này !”
Tôi được biết
có một ngôi Nhà Thờ nọ, khi thiết kế, người thiết kế đã vẽ đồ án
kiến trúc một ngôi Nhà Thờ không có… tường, không có… cửa !
Người thiết kế muốn gởi gắm ý tưởng: Giáo Hội của thế kỷ 21 là
Giáo Hội không có rào chắn, không có tường che, là Giáo Hội của
mọi người, mở toang ra cho tất cả, chẳng trừ ai. Vị Linh Mục
chánh xứ đã phải rất vất vả để bảo vệ ý tưởng này, hầu hết mọi
người đều không đồng ý !
Trở lại vấn
đề được đặt ra. Đứng trước hiện tượng xã hội bộc lộ nhu cầu tâm
linh vào những ngày Tết và cả tháng Giêng, trách nhiệm của chúng
ta sẽ phải làm gì để đáp ứng một nhu cầu có thật, hữu lý và đáng
trân trọng. Dấu chỉ thời đại đã có, làm sao đọc ra được và thi
hành ý Chúa ?
Lm. VĨNH
SANG, DCCT, 14.2.2012 (Ephata 497)
|
VỀ MỤC LỤC |
|
TÌM HIỂU HUẤN DỤ XÃ HÔI CỦA GIÁO
HỘI ( 5 )
|
NGUYỄN HỌC TẬP
Huấn Dụ trong thời gian
( 1958-1978).
Năm 1958, khi Đức
Thánh Cha Gioan XXIII kế vị Đức Pio XII, thì vấn đề xã hội
lại thay đổi thêm một lần nữa. Có thể nói là thay đổi một cách
sâu đậm.
Nếu trong thời kỳ đầu,
vấn đề xã hội được hiểu là mối tương phản giữa giới vô sản và
chủ nhân tư bản và rồi trong giai đoạn thứ hai, như chúng ta
đã có dịp đề cập đến, vấn đề xã hội được biến thành cuộc đụng
độ giữa các hệ thống kinh tế xã hội đối ngược nhau, ( giữa cộng
sản và tư bản chủ nghĩa), thì trong giai đoạn thứ ba, tức là
trong khoảng thời gian đang bàn ( 1958-1978), vấn đề xã hội lan
rrộng đến tầm mức cả thế giới.
Đó là vấn đề tranh cải
có liên quan đến mức thăng bằng của chính nhân loại, giữa Bắc
bán cầu giàu có và Nam bán cầu nghèo đói.
Vấn đề nhân khẩu (
demografico) đã làm thay đổi trục quân bình thế giới từ
trung tâm điểm Âu Châu trong quá khứ thành trục đệ tam thế
giới ( terzomondismo) cho tương lai.
Bao nhiêu Quốc Gia rộng
lớn lạc hậu ( hay đang trên đà phát triển) ở Châu Mỹ La Tinh, Á
Châu và Phi Châu đang kêu gào công bình và tiến bộ.
Như vậy, nếu muốn được
sống hoà bình, hay đúng hơn muốn cho nhân loại được sống còn,
cần phải có một định chế mới toàn cầu về kinh tế, chính trị
và luật pháp.
Tiến trình toàn cầu
hoá
vừa kể vừa là nguyên
nhân và cũng là hậu quả cho cuộc khủng hoảng các ý thức hệ.
Các ý thức hệ cộng sản
chủ nghĩa và tân tự do chủ nghĩa đã dựng lên những bức tường
ngăn cách giữa các dân tộc huynh đệ với nhau, tạo nên thù oán và
chiến tranh tàn khóc, tạo ra không biết bao nhiêu máu và nước
mắt trong thế kỷ 20 của chúng ta.
Giờ đây lịch sử đã tương
đối hoá các ý thức hệ tự cho mình là tuyệt đối một cách vô
nghĩa, khiến cho chúng ta thấy được một vài yếu tố đâu là sự
thật. Và từ những yếu tố chân lý đó, con người có thể bắt đầu
lại cuộc đối thoại, khởi đầu từ những gì có khả năng kết hợp
con người với con người.
Những thay đổi sâu đậm
vừa đề cập không thể nào không kêu gọi đến Giáo Hội, là chủ thể
đang cùng bước đi giữa trần thế với con người ( Gaudium et
Spes, 1).
Đây là thời gian Công
Đồng Vatican II đang nhóm họp. Giáo Hội lên tiếng can đảm trả
lời, cập nhật hoá huấn dụ liên quan đến vấn đề xã hội của mình
và cũng bắt đầu canh tân chính mình.
Qua những gì vừa đề cập,
chúng ta có thể thấy được giai đoạn thứ ba của Huấn Dụ Xã Hội
của Giáo Hội chịu ảnh hưởng của ba yếu tố khác nhau, nhưng có
liên hệ với nhau. Đó là
- cuộc khủng hoảng
của các ý thức hệ ( cộng sản và tân tự do chủ nghĩa),
- tiến trình toàn cầu
hóa về các vấn đề kinh tế và xã hội
- những hiểu biết và
thu nhân mới về tín lý và mục vụ của Công Đồng Vatican II.
1 - Cơn khủng
hoảng của các ý thức hệ.
Lịch sử những thập niên
cuối cùng của thế kỷ 20 đã xác nhận không thể chối cải được các
lời tiên đoán không tưởng các ý thức hệ diễn dịch về tương lai
xã hội.
Các ý thức hệ ( cộng sản
cũng như tân tự do chủ nghĩa), qua tiến trình thực tế của lịch
sử đã đi vào khủng hoảng, khiến cho ngày nay khắp nơi đều bị đào
thải ( chỉ trừ một vài thành phần cố chấp bám víu vì lợi thú,
phe đảng).
Ý thức hệ trước tiên bị
đào thải đó là tự do và tân tự do chủ nghĩa ( liberalismo e
neoliberalismo), được nẩy sinh ra với biến cố cách mạng kỷ
nghệ. Ý thức hệ đó được phát triển một cách phi thường trong thế
kỷ 19.
Tự do chủ nghĩa là ý
thức hệ đầu tiên bị sụp đổ với cơn khủng hoảng thị trường chứng
khoán Wall Street 1929: Wall Street được dịch theo nguyên
ngữ là " Con Đường Bức Tường ".
Dầu vậy, tự do chủ nghĩa
của Manchester tỏ ra có khả năng sữa đổi chiều hướng để
đưa đến tân tự do chủ nghĩa về sau.
Kế đến là lịch sử của
Phát Xít chủ nghĩa ( Fascismo ) và Đức Quốc Xã chủ nghĩa
( Nazismo).
Hai ý thức hệ toàn
trị nầy ( totalitarismo) là những ý thức hệ sinh sau đẻ muộn
và cũng chết yểu không lâu sau đó, bị thế chiến thứ hai quét
sạch, không có đủ thời gian để đâm sâu gốc rễ và đâm chồi nẩy
mộng.
Chủ thuyết sau cùng, dai
dẵng khó chết , đó là chủ thuyết mát xít. Vật thể thấy được đó
là sự sụp đổ của bức tường Bá Linh năm 1989, nhưng cơn hấp hối
văn hoá và chính trị của cộng sản chủ nghĩa hay xã hội chủ
nghĩa thực tế ( socialismo reale) đã đi trước và chuẩn bị
gần như 30 năm trước.
Trong những năm đó, Giáo
Hội cũng không ngừng đưa ra những lời huấn dạy của mình về
phương thức phải có để tổ chức một xã hội xứng đáng với phẩm giá
con người.
2 - Giáo Hội Công
Giáo và Cộng Sản: phân biệt giữa chủ thể và chủ đề.
Thập niên 1960-1970 là
thời gian với nhiều biến chuyển thay đổi. Những chủ trương vô
nghĩa của ý thức hệ cộng sản mát xít và Công Đồng Vatican II bắt
đầu khơi động một tiến trình biến chuyển mới đối với thái độ bức
tường ngăn cách chống đối không thể vượt qua, mà chúng ta đã đề
cập đến trước đây.
Trước tiên là những chủ
thuyết không tưởng của ý thức hệ cộng sản đã bắt đầu gây rạn nứt
chống đối ngay trong nội bộ cộng sản.
Khởi đầu từ Kruscev, năm
1956, với việc " truất phế Stalin ", được Đại Hội XX Đảng
Cộng Sản ra lệnh.
Năm kế tiếp, năm 1957,
mối bất hoà giữa Nga Sô và Tàu Cộng bùng nổ lần đầu tiên, Mao
Trạch Đông tố cáo Nga là " bọn xét lại ".
Phiên xét xử
Siniavski ( 1966) tạo nên " phong trào ly khai " ở
Nga Sô, tiếp theo là truờng hợp của Solzenicyn và tiếp
theo đó là Sacharow.
Mặc dầu tất cả những
phong trào đó đều bị thất bại, nhưng các phong trào tìm cách
thực hiện " cộng sản thực hữu " ( comunismo reale) đó dẫn
theo nhiều hình thức áp dụng cộng sản chủ nghĩa khác nhau:
- cộng sản tự quản
trị của Nam Tư ,
- mùa xuân ở Praga (
1968),
- " chủ nghĩa xã
hội nhân bản " của Cuba,
- mát xít chủ nghĩa
đại nghị chế của Allende ở Cile,
- các phong trào xã
hội chủ nghĩa âu châu lựa chọn theo phương thức dân chủ tây
phương và tự coi mình tách rời khỏi chủ thuyết mát xít:
* phong trào ly khai
đầu tiên đó là đảng Dân Chủ Xã Hội Đức ở Bad Godesberg ( 1959),
* và kế đến là các
phong trào " cộng sản âu châu " khác nhau.
Cũng trong thời gian
nầy, Giáo Hội Công Giáo thay đổi thái độ, từ thẳng thừng quyết
liệt chạm trán với cộng sản, Giáo Hội tỏ ra có thái độ đối thoại
ôn hoà, nhờ những tiến bộ mà Công Đồng Vatican II đạt được.
Đặc biệt là thái độ xác
định theo chiều hướng vừa kể của Đức Thánh Cha Gioan XXIII
với Thông Điệp Pacem in Terris ( 1963): đó là phương cách
phân biệt của ngài giữa ý thức hệ ( chủ đề ) và các phong
trào lịch sử ( chủ thể ):
- " Không thể sáp
nhập đồng nhất hoá các ý thức hệ triết lý ( chủ đề ) sai lạc vể
bản tính, nguyên cội và cùng đích của vủ trụ và con người, cùng
với các phong trào lịch sử ( chủ thể ) có mục đích kinh tế, xã
hội, văn hoá và chính trị, mặc dầu các phong trào vừa kể phát
xuất từ các ý thức hệ đó và từ các ý thức hệ đó các phong trào
vẫn còn tiếp nhận được cảm hứng. Bởi vì các ý thức hệ một khi
được triển khai và xác định, vẫn luôn luôn là như vậy. Trong khi
đó thì những phong trào vừa kể, tác động liên quan đến những
hoàn cảnh lịch sử không ngừng biến chuyển, không thể không bị
ảnh hưởng và như vậy không thể không trở thành những chủ thể bị
ảnh hưởng, cả bị ảnh hưởng sâu đậm.
Đàng khác ai có thể
chối cải được các phong trào vừa kể, trong lúc hành động trung
thực với tiếng nói ngay chính của lương tâm và nói lên ước vọng
chính đáng của con người, lại không có những yếu tố tích cực và
đáng được tán thưỏng? Bởi đó thái độ tiến lại gần và gặp gỡ trên
các lãnh vực thực tế, trong quá khứ được coi là không nên làm,
ngày nay hay trong tương lai lại không thể là việc không đáng
được kích thích " ( ĐTC Gioan XXIII, Pacem in terris (
11.04.1963), n. 159, in CERAS 327s).
Việc phân tích vừa kể
khiến cho người công giáo vượt lên trên được nhãn quang hoàn
toàn tiêu cực và lên án đối với việc áp dụng vào lịch sử nhiều
tư tưởng xã hội chủ nghĩa khác nhau và cũng khiến cho Giáo Hội
tự hỏi mình, trong nhiều phong trào thoát thai từ cộng sản chủ
nghĩa, có những yếu tố tích cực đáp ứng lại các ước vọng của con
người hay không.
Một thái độ hiểu biết
như vậy, trước kia là điều không ai có thể tưởng tượng được, do
thái độ thẳng thừng chạm trán, đối đầu giữa Giáo Hội và cộng sản
chủ nghĩa, nhứt là đối với những chủ đề có liên quan đến
bản tính và tự do tuyên xưng và truyền bá tôn giáo.
Theo tư tưởng với thái
độ hiểu biết vừa kể, Công Đồng Vatican II cũng cùng bước đi với
Hiến Chế Gaudium et Spes , mặc dầu giới hạn không nêu
đích danh mát xít chủ nghĩa, Công Đồng vẫn thẳng thừng
lên án hệ phái vô thần chủ nghĩa, không có gì úp mở:
- " Giữa những
hình thức vô thần chủ nghĩa hiện đại, chúng ta đừng bỏ qua chủ
nghĩa nhằm giải thoát con người, nhứt là được tự do kinh tế và
xã hội. Chủ thuyết đó cho rằng tôn giáo là chướng ngại vật, tự
bản thể của mình, chống lại sự giải thoát đó, bởi vì tôn giáo
nhằm nâng cao hy vọng con người về một đời sống tương lai, là
thái đô gian xảo, làm cho con người xao lãng đi việc phải xây
dựng thị xã trần thế. Bởi đó những kẻ chủ trương chủ thuyết vừa
kể, một khi họ đạt được chính quyền, đàn áp tôn giáo bằng vũ lực
và loan truyền vô thần chủ nghĩa ngay cả bằng việc dùng đến
những dụng cụ gây áp lực, mà quyền lực công quyền có đưọc, nhứt
là trong lãnh vực giáo dục thanh thiếu niên " ( Gaudium et spes,
n. 20, in EV 1/1327).
Như vậy Giáo Hội xác
nhận rằng nếu một ý thức hệ ( chủ đề ) sai lạc, ý thức
hệ đó vẫn luôn luôn sai lạc và không thể chấp nhận được
trên phương diện nguyên tắc.
Dầu vậy, Công Đồng
Vatican II còn thêm, về phương diện lịch sử đối thoại là điều có
thể hiểu được và cần thiết nên làm. Thật vậy
- " Giáo Hội, mặc
dầu tuyết đối chống lại chủ thuyết vô thần, vẫn thành thật nhìn
nhận rằng mọi người, tín hữu cũng như không tín hữu, đều phải
cộng tác để xây dựng một cách chính đáng thế giới nầy, trong đó
con người cùng sống chung nhau: điều đó chắc chắn không thể nào
xảy ra được, nếu không có sự thành thật và khôn ngoan đối thoại
với nhau " ( Gaudium et spes, n. 21, in EV 1/1383).
Một vài năm sau, sự phân
biệt đó, phân biệt giữa ý thức hệ và các phong trào hành động
theo gợi ý của ý thức hệ, được ĐTC Phaolồ VI lấy lại trong
Thông Điệp Octogesima adveniens ( 1971), bằng cách vượt
lên trên quan niệm tổng quát, để áp dụng thẳng vào thái độ của
người tín hữu Chúa Ki Tô đối với những ai theo chủ thuyết mác
xít.
Trước tiên, ĐTC Phaolồ
VI xác nhận người tín hữu Chúa Ki Tô không thể nào chấp nhận ý
thức hệ cộng sản:
- " Người tín hữu
Chúa Ki Tô muốn sống đức tin của mình trong động tác chính trị,
được hiểu là tác động để phục vụ, không thể nào gia nhập vào
những hệ thống ý thức hệ thẳng thừng chống đối những điểm căn
bản, chống đối lại đức tin của mình và về quan niệm con người
của mình, mà không phản biện lại chính mình.Điều đó có nghĩa là
không thể chấp nhận ý thức hệ mác xít, vật chất chủ nghĩa vô
thần của nó, tiến trình bạo lực của chủ nghĩa đó và phương thức
của nó trong đó chủ nghĩa đó hấp thụ tự do cá nhân vào tập thể
cộng đồng, đồng thời chối bỏ mọi đặc tính linh thiêng tối thượng
của con người và lịch sử, cá nhân cũng như tập thể..." ( ĐTC
Phaolồ VI, Octogesima adveniens ( 14.05.1971),n. 26, in EV
IV/749).
Kế đến ĐTC còn tiếp, là
trước những biến chuyển của nhiều phong trào lịch sử, được nảy
sinh hay được gợi ý bởi ý thức hệ mác xít,
- " cần phải có
một sự phán đoán cẩn thận " ( id., n. 31, in EV IV/731).
để xem một tổ chức lịch
sử xã hội chủ nghĩa đã biến thiên đến mức nào đối với ý thức hệ
khởi thủy ( mặc dầu ý thức hệ đó vẫn còn là gia sản mớm ý cho tổ
chức ) và với mức độ nào một phong trào trong lịch sử chấp nhận
và bảo đảm các giá trị căn bản của con người
- " nhứt là đối
với quyền tự do, trách nhiệm và quyền được mở rộng mình ra đối
với lãnh vực thiêng liêng, là những gì bảo đảm cho con người có
được một sự triển nở toàn vẹn chính mình " ( id.).
Nhận thức đó - Thông
Điệp Octogesima adveniens kết luận -
- " cho phép người
tín hưu Chúa Ki Tô đến mức nào có thể lựa chọn một cách thiết
thực " cần thiết phải có để cùng chung với những người khác
kiến tạo một thế giới công chính hơn ( id.).
Tiếp theo sau thái độ
thay đổi đó, một chuổi các cuộc thí nghiệm được thực hiện, dĩ
nhiên không phải tất cả đều thực hiện một cách chính đáng và có
thể chấp nhận được, như trường hợp " phong trào Ki Tô hữu
thiên xã hội chủ nghĩa " , từ Châu Mỹ La Tinh được phổ biến
sang Âu Châu ( B. Sorge, Le scelte e le tesi dei " Cristiani
per il socialismo " alla luce dell'insegnamento della Chiesa,
Elle Di Ci, Leumann 1974).
Dù sao đi nữa, những
kinh nghiệm như kinh nghiệm vừa đề cập và những kinh nghiệm khác
nữa đã cộng tác khá nhiều cho thấy ý thức hệ cộng sản là ý
thức hệ lỗi thời, đối với những ai có chút ít trí óc để suy
tư, bởi lẽ là ý thức hệ chủ trương đưa ra những đường lối
không tưởng ( utopia, hy lạp = u: không;
topos: nơi chốn = đó là ý thực hệ không có thể
thực hiện được ở bất cứ nơi nào trên thế giới nầy ).
3 - Tiến trình
toàn cầu hoá.
Lý do thứ hai khiến cho
Giáo Hội có thái độ hoà hoản hơn đối với các phong trào chịu ảnh
hưởng các ý thức hệ bị kết án trong quá khứ, đây là thời điểm
thứ ba Huấn Dụ Xã Hội của Giáo Hội, đó là việc đặc tâm lưu ý đến
tiến trình toàn cầu hóa, mở rộng ra trước thế giới và
Giáo Hội
- " viễn ảnh liên
hệ toàn cầu với nhau " ( ĐTC Gioan Phaolồ II, Sollecitudo rei
socialis ( 30.12.1987), n. 9, in EV X/ 2524).
Viễn ảnh " vấn đề xã
hội " toàn cầu vừa kể trước tiên là do sự tiến bộ kỷ thuât,
hệ thống tự động, điện toán, robots, những hiểu biết nhân tạo và
cả viễn ảnh liên hành tinh, phát triển phương tiện truyền
thông..
Các tiến bộ trên làm tự
nhiên là phát sinh ra câu hỏi: " ai có thể kiểm soát được
những người kiểm soát và có các phuơng thế đó trong tay? ".
Đức Thánh Cha Phaolồ VI
cảnh giác:
- "Kỷ thuật của
ngày mai có thể là nguồn mạch cho các sự dữ không có gì ít đáng
sợ hơn tự do chủ nghĩa trong quá khứ" (ĐTC Phaolồ VI Populorum
progressio ( 26.03.1967),n. 34, in EV II/ 1079).
Để tránh cho con người
khỏi phải rơi vào cảnh nô bộc một lần nữa, nô lệ của xã hội chủ
nghĩa ( đảng lãnh đạo, nhà nước quản lý tha hồ thao túng bốc
lột), cũng như nô lệ của tự do chủ nghĩa ( công nhân bị chủ nhân
tư bản trả luơng như bố thí cho kẻ ăn mày), cần phải có một trật
tự thế giới mới.
Thật vậy, hậu quả cách
mạng và khó kiểm soát được không phải do việc xử dụng, trong mọi
lãnh vực, kỷ thuật và dụng cụ càng lúc càng tinh vi hơn, có khả
năng thay thế việc làm bằng tay chân của cả những nhân công,
chuyên viên có phẩm chất và đưa con người đến cùng đích, mà
trong quá khứ không thể đạt đến được.
Đúng hơn là viẹc phát
triển kỷ thuật đưa đến một loại văn hoá mới, một quan
niệm mới về các mối liên hệ xã hội, một quan niệm mới đối với
vật chất và đời sống tương quan.
Kỷ thuật, nói một cách
ngắn gọn, không phải chỉ là một phương thức mới để tổ chức làm
việc, đúng hơn là một loại văn hoá mới. Nền văn hoá mới đó
- không những chứa
đựng nơi mình một cách suy nghĩ khác về tiến trình sản xuất và
các hệ thống liên hệ,
- mà còn cách suy tư
khác về thế giới và con người làm việc trong đó.
Bởi đó bên cạnh một trật
tự mới về kinh tế, cần phải có một định chế mới về luật pháp.
Lương tâm và nhận biết
đối với các quyền căn bản của con người, cá nhân, đoàn thể hay
trong các mối tương quan quốc tế giữa các dân tộc, đưa đến xác
tính cần phải có các quyền đó và những mối tương quan vừa kể
cần phải được bảo đảm bởi một tổ chức quyền lực vượt lên trên
tầm mức Quốc Gia, thực hữu chớ không phải chỉ trên lý
thuyết. Như vậy mới có thể tránh được những hình thức thực
dân, đô hộ mới và làm đảo lộn trật tự sống của con người.
Muốn thực hiện được điều
vùa kể, cần phải có đối thoại để có thể quy hướng đồng quy các
ước vọng chính đáng vào mục đích, không những ở tầm mức liên hệ
của các quốc gia riêng rẻ, mà còn cả giữa các cơ chế có tầm vóc
toàn cầu.
Cũng trong khoảng thời
gian chúng ta đang bàn, từ thời đại nguyên tử của kinh nghiệm
thảm đạm Hiroshima đến biến cố Chernobyl
- không những khiến
cho các chiến lược quốc phòng đều trở thành vô dụng,
- mà cả các khối quân
sự đối đầu cũng trở thành vô nghĩa.
Nền hoà bình và thái độ
hiểu biết đồng thuận chính trị giữa các dân tộc không thể còn
được đặt nền tảng căn cứ vào lượng số tương đương cân bằng của
vũ khí, hoả tiển, khí giới nguyên tử hay mối lo sợ của phía bên
kia.
Nhân loại cần có một nền
văn hoá mới, mặc dầu khó thực hiện, nhưng là điều cần thiết phải
đạt cho được bằng mọi giá, đó là một nền văn hoá hoà bình
( sau khi các ý thức hệ sai lạc đã tàn lụi ), để từ đó
có thể triển nở ra một :
- " Phát triển là
danh xưng mới của hoà bình " ( ĐTC Phaolồ VI, Populoru,
progressio, n. 76, in EV II/1121).
Sau cùng một tiến trình
toàn cầu hoá khác cần phải được thiết định hoá một trật tự thế
giới thích hợp để đáp ứng, đó là hiện trạng thông tin và
truyền thông.
Cũng vậy, ở đây toàn cầu
hoá không phải chỉ có nghĩa là áp dụng các kỷ thuật tân kỳ mà
khoa học lãnh vực truyền thông đã đạt được.
Thực chất của vấn đề là
việc phổ biến văn hoá, kiến thức và tin tức cho đại chúng trong
thời gian rất mau chóng ( có thể được coi như đồng thời những gì
đang xảy ra, cho khắp thế giới ).
Phương tiện truyền thông
hiện đại,
- nếu một đàng làm
cho các dân tộc hiểu biết nhau hơn, tiến lại gần nhau hơn chỉ
cần một vài giây đồng hồ,
- thì đàng khác
phương tiện trên cũng có thể làm cho những ai có phương tiện
trong tay, có thể " thuộc địa hoá " văn hoá và làm băng
hoại luân lý không có gì khó khăn.
Trước tầm mức toàn cầu
hóa như vừa kể đối với " vấn đề xã hội ", Giáo Hội không
thể không canh tân sâu đậm Huấn Dụ Xã Hội của mình. Và Giáo Hội
đã can đảm duyệt xét, canh tân lại Huấn Dụ Xã Hội của mình, về
nội dung cũng như phương thức để áp dụng, dưới ánh sáng những
hiểu biết tín lý và mục vụ của Công Đồng Vatican II.
( Nghiên cứu thêm tư
tưởng về phát triển và hoà bình của ĐTC Gioan XXIII, cfr. Tổng
lược Huấn Dụ Xã Hội của Giáo Hội, n. 94-95 )
|
VỀ MỤC LỤC |
|
LINH MỤC GIÁO PHẬN TÁI
ĐỊNH HƯỚNG ĐỜI SỐNG VÀ SỨ VỤ BẰNG VIỆC SỐNG KINH NGHIỆM NỀN TẢNG
“CHÚA LÀ TẤT CẢ” |
Mời thăm Blog của
Lm. Trần Minh Huy
http://www.chivilongchuathuongtoi.tk/
Tác phẩm: ĐÀO TẠO ỨNG SINH LINH
MỤC GIÁO PHẬN
Lm.
Micae-Phaolô Trần Minh Huy pss
CHƯƠNG SÁU
ỨNG
SINH LINH MỤC GIÁO PHẬN
HỌC
VƯỢT LÊN KHỦNG HOẢNG VÀ TÁI ĐỊNH HƯỚNG ĐỜI SỐNG VÀ SỨ VỤ ƠN GỌI
LINH MỤC (tiếp theo)
F. LINH MỤC GIÁO PHẬN
TÁI ĐỊNH HƯỚNG ĐỜI SỐNG VÀ SỨ VỤ BẰNG VIỆC SỐNG KINH NGHIỆM NỀN
TẢNG “CHÚA LÀ TẤT CẢ”
F.1 Kinh nghiệm nền
tảng: THIÊN CHÚA LÀ TẤT CẢ - CHÍNH CHÚA
Kinh nghiệm nền tảng này bắt nguồn sâu xa từ một
kinh nghiệm thiêng liêng, nói được là thần bí, nó giúp chúng ta
nhận biết Thiên Chúa như là tuyệt đối và hữu thể chúng ta có qui
chiếu tối hậu nơi Ngài, ngay cả giữa những cơn thử thách lớn lao
và trong nỗi ngờ vực sâu xa nhất của đêm tối đức tin, chúng ta
cũng cảm nhận được cách chắc chắn rằng THIÊN CHÚA LÀ TẤT CẢ.
Xác tín này cổ vũ chúng ta dấn thân và sống bền
đỗ trong ơn gọi. Xác tín Chúa là tất cả là một kinh
nghiệm bình an và vui tươi ngày càng lớn lên; là một thứ thần bí
kích động làm phát sinh sức mạnh cần thiết để sống vui tươi cuộc
đời mình; là một nguồn lực năng động luôn luôn có mặt với chúng
ta.
Kinh nghiệm Chúa là tất cả này không bị
gắn kết với một sứ vụ, một trách nhiệm, một công việc, hay một
nơi nào đặc biệt… Nói cho cùng, đó là một ân ban của Chúa mà
chúng ta phải làm tăng trưởng bằng cầu nguyện, chiêm niệm và đời
sống nội tâm. Chúng ta phải chạy đến với kinh nghiệm nền tảng
Chúa là tất cả này cách tự phát khi gặp khủng hoảng, ngờ
vực, vì đó là một thứ đá tảng không thể chuyển lay: trong những
thời khắc khó khăn khác nhau của bất trung, chán nản, lầm lạc và
cả tội lỗi, kinh nghiệm nền tảng Chúa là tất cả này luôn
là một lời mời gọi chúng ta sám hối, trở về với lòng nhiệt thành
ban đầu, với điều kiện là ngọn lửa của nó không bị dập dắt vì sự
chểnh mảng của chúng ta.
Trong những cơn khủng hoảng tình cảm, kinh
nghiệm nền tảng Chúa là tất cả này xuất hiện như sức vượt
lên, và trong cô tịch của tâm hồn, nó trở thành sự thanh thản
sâu xa phát xuất do sự chắc chắn rằng Chúa yêu thương chúng ta
và Ngài yêu thương chúng ta cho đến cùng, bất chấp tất cả yếu
đuối và tội lỗi của chúng ta.
Kinh nghiệm nền tảng Chúa là Tất Cả này
là hàn thử biểu cho hành trình sứ vụ của chúng ta. Hành trình
này không được đo lường bởi tính hiệu quả và thành công trong
các hoạt động tông đồ, cũng không phải bởi sự phát triển hợp lý
và hữu hiệu các tài năng riêng của chúng ta. Chính vì thế mà
kinh nghiệm Chúa là tất cả này soi sáng và kích hoạt bất
cứ hoàn cảnh sống nào của chúng ta. Chúng ta có thể khẳng định
rằng nó có đủ nước để tưới mát bất cứ sa mạc khô cằn nào của tâm
hồn chúng ta.
Phải nhìn nhận rằng loại kinh nghiệm Chúa là
tất cả này bắt nguồn từ đặc sủng và sức năng động tông đồ
của vị sáng lập: Mọi sứ vụ, mọi tận tụy tông đồ, khát vọng hiến
mình cho các linh hồn đều được phát sinh và nuôi dưỡng thường
xuyên bởi cảm nhận Thiên Chúa là Tất Cả. Do đó, kinh
nghiệm và cảm nhận Chúa là tất cả này không bị đồng hóa
với bất cứ trung gian nào, để không bao giờ phải đi tới ngõ cụt
là lìa bỏ cộng đoàn vì một sự thay đổi, tuổi tác hay bệnh hoạn
làm cản trở công việc tông đồ.
Trong viễn ảnh này, chúng ta không bao giờ bị
rơi vào cám dỗ nghĩ rằng bên ngoài kia chúng ta sẽ hữu hiệu hơn
về lãnh vực tông đồ. Kinh nghiệm nền tảng Chúa là tất cả
này đi trước mọi sứ vụ gắn liền với nó. Sự đi trước này vừa có
tính cách luận lý [học qui chiếu vào nhận thức của chúng ta],
vừa có tính cách hữu thể học [qui chiếu vào bản chất của sứ vụ].
Như vậy có một sự đi trước luận lý của ơn gọi tương quan với một
sứ vụ, nhưng sự đi trước có tính cách hữu thể sẽ luôn cần thiết
để qui chiếu vào Thiên Chúa là Đấng nâng đỡ nó.
Chính kinh nghiệm nền tảng Chúa là Tất Cả
này giải thích thái độ của những người ngày đêm âm thầm phục vụ
trong những công việc tay chân tầm thường, hoặc thái độ của
những người đang dấn thân trong các hoạt động tông đồ thành công
bất ngờ bị bứng đi cách bất công theo lệnh, và rồi phải đi tới
một nơi như cuộc lưu đày lặng lẻ. Tuy nhiên họ vẫn kiên trì và
thanh thản ở lại cho đến cùng, không nghĩ rằng nếu rời bỏ cộng
đoàn họ có thể tiếp tục cách thành công và ngay cả thành công
lớn hơn nữa công việc họ vẫn làm cho đến lúc đó. Trong số đó có
những giáo sư, những nhà nghiên cứu, những nhà lãnh đạo mà hoạt
động của họ vốn sáng chói nay bị cấm viết, cấm dạy và bị loại
ra, nhưng họ đã bằng an chấp nhận sự thầm lặng mới đó mà không
hề chiến đấu chống lại. Tại sao? Vì kinh nghiệm nền tảng “Một
Mình Thiên Chúa là Đủ!”
Điều đó giải thích cho cuộc sống của một thành
viên trải qua hết năm này đến năm nọ ân cần nơi bàn giữ cổng,
cặm cụi trong nhà bếp, trại chăn nuôi hay cẩn thận nơi tay lái
mà vẫn nói rằng mình hạnh phúc và hoàn toàn thỏa mãn với cuộc
đời mình: Một mình Thiên Chúa là đủ!
Kinh nghiệm này là một ân ban của Chúa, cần phải
được các cơ cấu của đời sống cộng đoàn vun đắp và giúp đỡ. Quả
thế, đời sống thánh hiến và các hiệp hội tông đồ đã được thiết
lập để nuôi dưỡng kinh nghiệm nền tảng Chúa là tất cả luôn đặt
Chúa lên vị trí hàng đầu:
-
đức khó nghèo xét như sự lột bỏ và không
dính bén cung ứng những điều kiện tốt cho việc lệ thuộc vào
Chúa;
-
đức vâng lời là một sư phạm để học hỏi ở
người đã vượt qua những con đường thân mật với Chúa trước
mình;
-
đức khiết tịnh không phải là một khổ chế hay
trấn áp cho bằng là diễn tả một tình yêu trọn vẹn cho Thiên
Chúa.
Có một sự hiện diện thực sự hiện sinh của Thiên
Chúa trong tương quan với các cơ cấu cộng đoàn và những nỗ lực
tu đức: chúng ta có thể nói rằng Thiên Chúa can thiệp cách nhiệm
mầu vào cuộc sống chúng ta. Sự từ bỏ ý riêng tùy thuộc vào kinh
nghiệm về sự tuyệt đối của Thiên Chúa.
Kinh nghiện nền tảng Chúa là tất cả không
phải là điểm khởi đầu, mà là điểm phải đến: Chớ gì không có gì
làm con phải giao động, chớ gì không có gì làm con phải lo sợ.
Mọi sự đều qua đi. Thiên Chúa không hề thay đổi. Lòng nhẫn nại
vượt thắng tất cả. Ai có được Thiên Chúa thì chẳng thiếu gì hết:
Một mình Thiên Chúa là đủ.
F. 2. Kinh nghiệm sống
sứ vụ tông đồ - CÔNG VIỆC CỦA CHÚA
Kiểu sống sứ vụ tông đồ là cái chung nhất của
đời sống dâng hiến của chúng ta. Đa số trong chúng ta đều thuộc
về các cộng đoàn có động lực là sứ vụ tông đồ. Chúng ta gia nhập
cộng đoàn vì chúng ta muốn phục vụ tha nhân, muốn đi truyền
giáo, muốn tận tụy với việc đào tạo, muốn xả thân cho người
nghèo. Cái quan trọng nhất là việc phục vụ.
Các cơ cấu cộng đoàn được nhắm tới và được chấp
nhận như điểm tựa mục vụ, vì chúng tránh cho chúng ta những mối
bận tâm làm cản trở việc dấn thân trọn vẹn. Ngay cả sự nâng đỡ
tình cảm của anh chị em cũng có phận vụ tạo nên thế quân bình để
công việc phục vụ và truyền giáo được hiệu quả lớn nhất.
Các lời khuyên Phúc Âm cũng nhằm tới sứ vụ
truyền giáo: sự cần mẫn, quảng đại, tính sẵn sàng phục vụ… là
những giá trị hàng đầu. Việc hoàn thiện các đức tính nhân bản,
thăng tiến các tài năng, đào tạo nghiệp vụ là những yếu tố căn
bản cho hiệu năng tốt hơn trong việc tông đồ.
Đức khiết tịnh được xét đến trong viễn ảnh phục
vụ, vì nó được coi là thích hợp cho sự sẵn sàng khi thuyên
chuyển. Người ta nghĩ rằng hôn nhân và gia đình ngăn cản người
ta hiến thân trọn vẹn cho việc tông đồ. Do đó người ta càng đánh
giá cao những anh chị em có thành tích tông đồ, mà coi thường
những anh chị em thiếu khả năng đó.
Kiểu sống và quan niệm sứ vụ tông đồ này làm
phát sinh một vấn đề nội tại: khi một thành viên coi hoạt động
tông đồ là nguồn động lực tối hậu của ơn gọi mình thì khi mọi sự
trôi chảy, đáp ứng được các nhu cầu tâm lý, thiêng liêng và nhân
bản, thành viên đó bước đi trong an bình, các hoạt động thỏa mãn
được tình cảm, bù trừ cho sự từ bỏ của đời sống độc thân; những
thúc đẩy tình cảm tìm được sự thăng hoa lành mạnh và đời sống
thừa tác không có gì rắc rối. Đó là lý do tại sao lắm khi người
ta cảm nhận một nỗi lo sợ gần như vô thức trước những lời chỉ
trích về các công việc hay dự tính thay đổi hoặc chấm dứt một
công trình.
Vấn đề nổi lên khi hoạt động tông đồ mất đi hiệu
năng hay không còn mang lại ý nghĩa cho đời sống của vị tu sĩ.
Trong hoàn cảnh ấy, vị tu sĩ có thể nghĩ rằng hoạt động tông đồ
của mình sẽ hiệu quả hơn khi ở bên ngoài khung cảnh tu trì. Kinh
nghiệm cho thấy rằng một số giáo dân có đời sống dấn thân và hội
nhập triệt để hơn nhờ sự hỗ trợ tình cảm và tính hiệu năng họ
cung ứng lẫn cho nhau. Từ đó nổi lên vấn nạn: ích gì ở lại trong
đời tu nếu có thể làm tốt hơn công việc tông đồ đó khi ra đời và
lập gia đình?
Sự giàu có và trưởng giả của nhiều cơ cấu cộng
đoàn, lấy lý do là để phục vụ, đã kéo theo một cảm giác giảm sút
và không giúp ích cho việc tông đồ. Những ai đi tu chỉ quan tâm
đến sự dấn thân triệt để đó không thấy được tại sao mình cứ tiếp
tục đời tu vì nghĩ rằng họ sẽ có thể trở nên đích thực hơn trong
tư cách giáo dân có gia đình. Biết bao nhiêu giáo dân đóng vai
trò nhà đào tạo, cả trong lãnh vực tôn giáo, cách hiệu quả hơn
tu sĩ. Người ta không còn thấy sự khác biệt giữa giáo dân và
người tu trong những gì liên quan đến hoạt động tông đồ. Vậy thì
ích gì sống đời thánh hiến?
Có những trường hợp hùng hồn hơn nữa: một số
người xuất tu thực hiện một việc tông đồ còn hiệu quả hơn trước
kia. Mọi sự bị đảo lộn: giáo dân có nhiệm vụ đào tạo tôn giáo
cho học sinh trong khi linh mục, tu sĩ lại bận rộn với việc quản
trị các của cải vật chất.
Sự chán nản của các anh chị em đồng nghiệp quá
lý tưởng lúc mới vào tu thật lớn lao và họ cảm thấy không còn
động lực để kiên trì, nếu họ vào tu chỉ vì những động lực tông
đồ. Đó là lý do tại sao việc rời bỏ cộng đoàn là kết quả đương
nhiên của cơn khủng hoảng, vì động lực tông đồ có thể trở thành
sự làm nản lòng và bỏ cuộc. Cái giá của việc từ bỏ hôn nhân là
quá lớn đối với một công việc tương tự hay còn kém hơn nữa trên
bình diện tông đồ. Một cuộc sống tu trì thiếu hoạt động tông đồ
như thế không còn được biện minh.
Cơn khủng hoảng gây nên do kiểu sống sứ vụ tông
đồ thật bi đát trong các cộng đoàn đã sống kiểu sống đó cách
cứng nhắc, như sự cạn kiệt ơn gọi nhanh chóng, nhất là trong
những hoàn cảnh thiếu ơn gọi không thể tránh được của các thập
niên qua ở Âu Mỹ.
Trong một số trường hợp, người ta có cảm tưởng
rằng chỉ có những người không có khả năng đối đầu với sự thay
đổi hay thích giữ lấy cái nhịp điệu quen thuộc có sẵn là bằng
lòng ở lại cộng đoàn, vì lý do tâm lý hoặc những lý do quan
trọng khác.
Luật của tính ì thụ động thắng lướt nhiệt huyết
tông đồ. Sự xung đột của kiểu sống này cũng nhất thiết xảy ra rõ
ràng giữa các cơ cấu tông đồ truyền thống nặng nề và lối sống
tông đồ sáng tạo của thế hệ mới. Trong trường hợp này, gánh nặng
của cơ cấu truyền thống sẽ bị kết thúc bởi những khủng hoảng và
những cuộc ra đi, người ta không thể cầm chân người trẻ bằng
cách kêu gọi sự nhẫn nại, hay với lý lẽ cứ lặp đi lặp lại những
bài diễn thuyết ca ngợi các công trình truyền thống hay lòng tín
nhiệm vào cơ cấu mà kết quả thì chẳng thấy đâu.
Dĩ nhiên vẫn có những người kiên trì ở lại, ngay
cả khi họ không còn tin vào lý do tối hậu mà họ đã vào tu, tức
tính hữu hiệu tông đồ. Nhưng họ kiên trì ở lại bởi áp lực của
gia đình, xã hội, văn hóa… vì đối với họ, việc rời bỏ cộng đoàn
là một sự sụp đổ hoàn toàn. Trong kiểu sống này, đức khiết tịnh,
một khi không còn được nâng đỡ bởi nhiệt huyết tông đồ, phải
được duy trì bởi sự khổ hạnh và ngay cả bởi sự trấn áp. Đó là
một khổ hạnh gắn liền với kỷ luật hơn là tình yêu.
Một số tu sĩ tìm các giải pháp hoàn cảnh qua các
hoạt động tông đồ mới, bằng cách thay đổi các hoạt động và sự
mới mẻ đó duy trì sự hứng thú. Nhưng đến bao giờ? Có những tu sĩ
làm việc trong trường học đã bỏ trường học để đi ra giáo xứ, coi
đó là hứng thú; rồi khi chán mệt giáo xứ, họ lại ra đi vào đời,
và hứng thú lại trở lại. Nhưng khi họ lại chán mệt môi trường xã
hội thì họ sẽ đi đâu?
Có những người tìm giải pháp trong một thứ chủ
nghĩa theo thời tiêu cực: đã quá muộn để rời khỏi cộng đoàn…
phải cố chịu đựng cuộc sống như định mệnh đã an bài. Nhưng họ
đau khổ vì nỗi xao xuyến tiềm tàng nhận thấy sự thất bại của một
ơn gọi thật ý nghĩa trong quá khứ mà bây giờ không còn nữa.
Những người khác ở lại vì cộng đoàn mang lại cho
họ một cuộc sống tiện nghi và trưởng giả, dù rất tầm thường.
Trong trường hợp này, Nhà Dòng chỉ còn là một “quán trọ của
những người độc thân”, họ không còn tin tưởng vào lý do tồn tại
của cuộc sống họ đang sống, hoặc trong trường hợp kém bi đát
hơn, họ chấp nhận cái lợi ích tông đồ ít ỏi mà họ làm, biết rằng
nếu ra ngoài họ có thể làm được nhiều hơn nữa, nhưng không đủ
can đảm để làm điều đó.
F. 3. Sự điều hợp giữa
hai kiểu sống kinh nghiệm nền tảng và kinh nghiệm sống sứ vụ
tông đồ - CHÚA và VIỆC CỦA CHÚA
Dĩ nhiên một đời sống toàn diện tìm được giải
pháp dứt khoát khi có được sự điều hợp hài hòa giữa kinh nghiệm
nền tảng và sứ vụ tông đồ, hay nói ngắn gọn là giữa Chúa và việc
của Chúa. Khởi đầu chọn vào đời tu vì lý do tông đồ, nhưng qua
một cơn khủng hoảng lại khám phá thấy rằng còn có một lý do sâu
xa hơn để biện bạch cho cuộc sống tu trì là sự hiến dâng triệt
để cho Thiên Chúa.
Khởi đi từ một kinh nghiêm tông đồ, người ta có
thể đi tới kinh nghiệm nền tảng Chúa là tất cả. Trong
trường hợp này, các hoạt động tông đồ tìm được ý nghĩa đích thực
phát xuất từ kinh nghiệm nền tảng Chúa là tất cả này.
Ở đây vấn đề là tìm biết xem đâu là kinh nghiệm
đầu tiên dẫn chúng ta đến đời tu. Nếu đó là kinh nghiệm nền tảng
Chúa là tất cả, chúng ta phải coi đó là bảo đảm cho tính
trung thực đời tu được phân định và vun đắp của mình. Nếu đó là
lý do tông đồ, chúng ta phải tự hỏi xem mình có kiên vững ở đó
không.
Nếu lý do tông đồ không được tiến hóa hướng về
kinh nghiệm nền tảng Chúa là tất cả thì những bảo đảm
kiên bền, thánh hóa và niềm vui sẽ giảm đi và làm cho chúng ta
đi tới một tình huống thực sự nguy hiểm.
Câu kết luận hiển nhiên là kinh nghiệm nền tảng
Chúa là tất cả hoặc đã có mặt ngay từ đầu, hoặc đã trỗi
lên qua dòng đời dâng hiến và chúng ta phải tài bồi vun đắp cho
nó. Tất nhiên việc dấn thân trong sứ vụ, sự nhiệt tình tông đồ,
lòng tận tụy truyền giáo có thể là những trung gian quí báu để
khám phá được kinh nghiệm nền tảng “Chỉ một mình Chúa là đủ.”
Nếu một cộng đoàn chú tâm đặc biệt vào các hoạt
động mục vụ thì nó phải hướng các suy tư của mình nơi kinh
nghiệm nền tảng Chúa là tất cả để rút ra được ánh sáng,
sức mạnh, nhiệt tình tông đồ. Đó là một sự trở về nguồn thực sự.
Nếu không có sự trở về nguồn này thì mọi kế hoạch canh tân và
cập nhật sẽ thiếu nghiêm túc và chiều sâu.
Điều đó có nghĩa là không phải có hai kiểu sống,
mà là có hai cách thức để đạt tới kinh nghiệm nền tảng Chúa
là tất cả: hoặc ngay từ đầu đã có kinh nghiệm nền tảng
Chúa là tất cả, hoặc dần dần tiến lại kinh nghiệm nền tảng
này khởi đi từ các trung gian tông đồ.
Vì chúng ta đang sống trong một thế giới tục hóa
chỉ chú trọng tới hoạt động, hiệu năng, công việc nên thường các
ơn gọi trỗi dậy từ mối quan tâm tới hoạt động, nhưng thật là
nguy hại nếu chỉ dừng lại đó. Công cuộc đào tạo phải đưa các ứng
sinh đến trung tâm của ơn gọi là chính Chúa. Kỳ tĩnh tâm là một
cơ hội tuyệt hảo để xác định lại các kiểu sống của chúng ta và
tầm quan trọng của chúng.
Về đề tài này, thật là quan trọng để ý thức rằng
kinh nghiệm nền tảng Chúa là tất cả này không phải là một
bảo đảm luôn luôn sẵn có. Nhưng trước hết phải thử thách nó, nói
khác đi là ghi nhận tính đích thực của nó trên bình diện thiêng
liêng, tắt một lời là phải vun đắp và thăng tiến nó. Như bất cứ
thực tại nhân loại nào, kinh nghiệm nền tảng Chúa là tất cả
này cũng trải qua những yếu tố nhập nhằng, những thiếu sót tâm
lý, những ý hướng không trong sạch. Chính là nhờ việc tông đồ
thanh tẩy nó, đào sâu nó, làm cho nó được vững chắc. Tất nhiên
việc dấn thân truyền giáo là trung gian đặc ân cho chúng ta sống
kinh nghiệm nền tảng này.
Tóm lại, “Một mình Thiên Chúa là đủ” là
gốc rễ, các cành sẽ ở lại trong sự sống theo mức độ chúng được
nuôi dưỡng bởi nhựa luyện phát sinh từ gốc rễ. Rễ mà không mọc
ra và phân nhánh thì cành phải chết.
F. 4. CHÚA GIÊSU là
nguyên lý của đời sống và sứ vụ ơn gọi
Việc đạt tới nhận thức rằng Một mình Thiên
Chúa là đủ phải vừa là điểm xuất phát vừa là đích tới. Chúng
ta không đạt được kinh nghiệm nền tảng Chúa là tất cả
ngay từ bước đầu tiên của ơn gọi hoặc trong suốt hành trình đào
tạo, nhưng đúng hơn nó thường được tôi luyện rõ nét vào dịp các
khủng hoảng hay những thách đố lớn.
Tuy nhiên, chúng ta cũng phải nhìn nhận rằng các
khủng hoảng cũng là một dữ kiện sinh tồn. Có khủng hoảng tất
nhiên đòi hỏi phải có những tiêu chuẩn giải quyết: chúng ta phải
mở ra với thế giới đang đổi thay, nhưng phải tránh cơn cám dỗ
khuôn đúc theo thế giới này, đồng thời phải chuyển tải cái nhân
Phúc Âm đến cho một thế giới đang thực sự cần nó. Cái nhân Phúc
Âm này không phải là một giáo thuyết mà là một con người: Đức
Giêsu Kitô.
Ở bình diện Giáo Hội và cả ở bình diện cá nhân,
chúng ta phải đi gấp tới việc thanh tẩy các động lực của mình.
Cần phải nhớ rằng trước Công đồng Vaticanô II người ta đã nhấn
mạnh các viễn ảnh đạo đức và luân lý: bó buộc tìm kiếm sự hòan
thiện, lòng quảng đại trong các công việc tông đồ, đòi hỏi phải
có đời sống cộng đoàn. Tâm thức đó được chuyển tải trong các
sách tu đức, những khảo luận về lòng đạo đức và các thủ bản tĩnh
tâm.
Ý niệm đó phải bị vượt quá bởi một ý niệm khác
có tính chất Kinh Thánh hơn và đăt trọng tâm nơi Chúa Giêsu. Đặt
trọng tâm nơi Chúa Giêsu, “Đấng vẫn là một hôm qua, hôm nay và
mãi mãi”
là cốt lõi. Đặt trọng tâm nơi Thầy Chí Thánh là cách thế duy
nhất để trở nên người môn đệ truyền giáo hầu muôn dân có sự sống
trong Ngài.
Sự qui chiếu về Chúa Giêsu phải là tuyệt đối: “Đôi
lúc Chúa gửi đến cho tôi những khoảnh khắc bình an, trong những
khoảnh khắc ấy, tôi yêu và cảm nhận tôi được yêu. Chính trong
những khoảnh khắc ấy, tôi đã sáng tác một bản tuyên xưng đức
tin, trong đó mọi sự thật rõ ràng và thánh thiêng. Bản tuyên
xưng này rất giản dị như thế này:
Tôi tin rằng không có gì đẹp hơn, không có gì
sâu xa hơn, không có gì thiện cảm hơn, không có gì hữu lý hơn,
không có gì mạnh mẽ hơn, và không có gì hoàn hảo hơn Chúa Kitô.
Và tôi tự nhủ với một tình yêu ganh tỵ rằng chẳng có gì hiện hữu
và chẳng có gì có thể tồn tại, ngay cả khi một ai đó chứng minh
cho tôi rằng Chúa Kitô ở ngoài chân lý và chân lý không ở trong
Ngài thì tôi cũng sẽ chọn ở lại với Chúa Kitô thay vì ở lại với
cái chân lý được giả thiết đó”
(Dostoievski).
Trong cùng ý hướng ấy, thánh Patrice viết:
“Chúa Kitô ở với tôi, Chúa Kitô ở trong tôi,
Chúa Kitô ở đàng sau lưng tôi, Chúa Kitô ở đàng trước mặt tôi,
Chúa Kitô ở bên cạnh tôi, Chúa Kitô đến nắm lấy tôi, Chúa Kitô
đến an ủi tôi, Chúa Kitô đến bổ sức cho tôi, Chúa Kitô ở bên
dưới chân tôi, Chúa Kitô ở bên trên đầu tôi, Chúa Kitô ở trong
sự bình tâm, Chúa Kitô ở trong hiểm nguy, Chúa Kitô ở trong trái
tim của những người yêu mến tôi. Chúa Kitô ở nơi môi miệng của
bạn hữu cũng như của người xa lạ.”
Và thánh Vinh sơn đệ Phaolô viết:
“Bạn hãy nhớ rằng chúng ta sống trong Chúa Kitô nhờ cái chết
của Chúa Kitô, và chúng ta phải chết trong Chúa Kitô để được sự
sống của Chúa Kitô, đời sống chúng ta phải được giấu ẩn trong
Chúa Kitô và tràn đầy Chúa Kitô, và để chết như Chúa Kitô thì
phải sống như Chúa Kitô.”
|
VỀ MỤC LỤC |
|
SỐNG VỚI VIÊM KHỚP
|
Hai câu thơ
tình cảm của nhà thơ Nguyễn Bính:
"Nắng mưa là bệnh của trời
Tương tư là bệnh của tôi yêu nàng"
đã được cố
nhạc sĩ Nguyễn Hiền mượn vần để nói lên một tình trạng bệnh của
người cao tuổi như sau:
“Nắng
mưa là bệnh của trời
Đau xương
nhức khớp, bệnh người tuổi cao”.
Vì thực ra
Viêm Khớp là rối loạn thường thấy ở lớp tuổi “Cổ lai hy”. Chỉ
thường thấy mà thôi, chứ không phải cứ tuổi cao là bị bệnh. Bệnh
cũng xảy ra ở lớp tuổi trung niên, thậm chí trẻ hơn.
Viêm Khớp là
bệnh thoái hóa của khớp, một phần vì sự tả tơi hư hao với thời
gian sử dụng, nhưng cũng gây ra do nếp sống của con người và sự
không có hiểu biết rõ ràng về bệnh.
Khớp là nơi
kết nối của 2 hoặc nhiều xương. Đa số khớp có thể chuyển động
theo nhiều tầm khác nhau như xoay tròn, xoay ngang xoay dọc,
vươn lên cao hoặc xuống thấp, bước tới bước lui, nhờ đó con
người thực hiện được các công việc cần thiết cho sự sống.
Thành phần
tối quan trọng của khớp là lớp đĩa đệm bằng chất sụn để giảm cọ
sát của 2 đầu xương cũng như chống sốc khi khớp chuyển động.
Ngoài ra, còn gân, dây chằng, cơ bắp bao che xung quanh để giữ
khớp ở vị trí cố định và giúp khớp mạnh hơn; chất nhờn trơn để
mặt xương dễ dàng trườn lên nhau khi chuyển động.
Trong Viêm
Khớp, sụn hao mòn, rách tả tơi, đưa đến hậu quả là hai đầu xương
cọ vào nhau, gây ra đau, sưng và giảm tầm cử động của khớp. Một
vài cái gai (spur) từ xương cũng nhô ra, đụng vào cơ bắp, dây
thần kinh khiến người bệnh chịu nhiều đau đớn hơn.
Sụn hao mòn
với thời gian sử dụng cho nên quá bán quý vị cao niên trên 65
tuổi thường bị viêm một khớp nào đó trong cơ thể. Ở lớp tuổi trẻ
hơn, rủi ro gây viêm khớp có thể là chấn thương khi liên tục
dùng khớp quá sức: nâng vật nặng, va chạm trong thể dục thể thao
hoặc do quá mập phì. Khớp cuối các ngón tay, đầu gối, khớp cổ,
thắt lưng là nơi bị nhiều hơn cả.
Ngoài ảnh
hưởng lên sự di động, viêm khớp còn ảnh hưởng tới nếp sống, tới
công việc, khả năng tài chính và ngay cả tới địa hạt tinh thần.
Đi lại khó khăn. Không nâng nhấc được vật nặng.Tốn tiền chữa
trị. Kém thu nhập. Giới hạn nghề nghiệp, kém sinh hoạt hàng
ngày. Cảm thấy trở nên bất khiển dụng, rồi trầm cảm xuất hiện,
stress tăng, kém ăn, mất ngủ. Vì theo bác sĩ chuyên khoa xương
Scott J. Zashin, chưa có nghiên cứu dứt khoát nào cho hay là ta
có thể trì hoãn hoặc phòng tránh sự phát triển của Viêm Khớp
nhưng chỉ có cách để giảm những rủi ro gây ra bệnh.
Như vậy, các
nhà chuyên môn đều có ý kiến là, chẳng may bị Viêm Khớp thì hãy
tìm cách sống chung với bệnh. Tức là thay đổi nếp sống và
thói quen để đối phó với khó chịu của bệnh đồng thời cũng tránh
những gì có thể gây tổn thương thêm cho khớp đã bị hư hao.
1- Trước hết là cần có một vị lương y
cởi mở, tận tâm để sớm xác định bệnh rồi điều trị nhờ
đó giảm thiểu tổn thương và giảm đau. Có nhiều thuốc chống viêm,
chống đau mà bác sĩ có thể chỉ định cho từng người bệnh. Uống
theo đúng hướng dẫn. Nếu có tác dụng ngoại ý, cho bác sĩ biết để
đổi thuốc. Muốn dùng thêm thuốc trị “bá bệnh”, không khỏi sẽ
được trả lại tiền, thì cũng nên hỏi qua ý kiến bác sĩ. Kẻo mà
tiền mất tật mang, vì thuốc Tiên có thể chứa chất gây mục xương,
mập phì. Đôi khi bác sĩ cũng bơm bổ xung dầu mỡ nhân tạo
(hyaluronic) để khớp bớt khô, cử động dễ dàng.
Trong trường
hợp trầm trọng mà chữa trị bằng thuốc không được như ý muốn thì
bác sĩ có thể đề nghị giải phẫu khớp. Trước khi quyết định mổ,
hỏi bác sĩ xem còn điều trị nào khác không, có cần phải mổ
không, tỷ lệ giảm bệnh là bao nhiêu và áp dụng cách mổ nào? Thay
khớp, dính khớp hoặc mổ lấy gai, lấy mảnh vụn trong khớp. Hãy
tìm hiểu tường tận và tin tưởng ở khả năng của bác sĩ.
2- Hiểu
rõ về bệnh
Qua bác sĩ
cũng như sách báo, internet, hãy tìm hiểu cặn kẽ về diễn tiến,
biến chứng của bệnh để đôi bên có thể “sống chung hòa bình”.
Biết người, biết ta mà. Chấp nhận hoàn cảnh một cách tích cực,
tránh những gì có thể làm bệnh gia tăng đồng thời áp dụng các
phương thức giảm thiểu triệu chứng bệnh. Chia xẻ kinh nghiệm với
người cùng cảnh ngộ để giảm khó khăn. Có nhiều hiệp hội thân
hữu, hỗ trợ bệnh nhân Viêm Khớp mà ta có thể tham gia để học
hỏi, để an ủi lẫn nhau.
3- Bảo
vệ khớp
Gượng nhẹ và
không dùng khớp đang bị tổn thương để làm công việc cần sức
mạnh, như nâng nhấc vật nặng, di động quá nhanh; không đi giày
cao gót suốt ngày khi bị viêm khớp đầu gối, cổ chân; không bẻ
khớp ngón tay ngón chân để tránh viêm căng dây chằng, gân quanh
khớp đưa tới giảm sức mạnh bàn tay, bàn chân.
4- Giảm
sức nặng cơ thể.
Ăn uống vừa
đủ với nhu cầu, tránh mập phì. Theo bác sĩ Patience White, U.S.
Arthritis Foundation, với 1 kg thể trọng thì khớp đầu gối chịu
một sức nặng là 4 kg, tăng rủi ro viêm khớp. Thống kê cho hay
2/3 người mập phì bị viêm khớp.
5- Tập
luyện cơ thể
Nhiều người
cho là bị viêm khớp mà vận động cơ thể sẽ làm bệnh trầm trọng
hơn. Tin tưởng này đúng nếu không biết cách vận động và không
đúng nếu biết tập luyện tùy theo khả năng của khớp. Dòng nước
không chảy, nước tù đọng, dơ bẩn. Khớp không cử động, khớp “đóng
băng” cứng ngắc. Mỗi sáng, sau một đêm ngủ ngon, bà con thấy các
khớp của bàn tay, bàn chân, đầu gối đau đau, không co duỗi đựơc,
vì chúng bất động suốt 6,7 giờ. Thêm vào đó, vì khớp viêm đau,
bệnh nhân bảo vệ khớp, không dùng, cơ bắp xung quanh yếu, khiến
cho khớp thêm cứng. Với các nhà chuyên môn y khoa học, vận động
là phương thức hiệu nghiệm nhất vùa phòng tránh vừa giảm khó
chịu của Viêm Khớp. Bác sĩ Thấp Học Sam Schatten, Atlanta, nhận
xét: “Đi bộ cải thiện rất nhiều thái độ của con người và loại bỏ
vòng luẩn quẩn có hại buồn phiền và đau nhức”.
Có ít nhất 3
cách vận động giúp khớp bớt đau:
a- Vận động để tăng tầm chuyển động bình thường (range of
motion) và giảm sưng cứng của khớp. Nhiệm vụ khớp cổ tay là xoay
tròn về mọi phía thì nhẹ nhàng tập luyện xoay để khớp không đóng
băng. Khớp đầu gối là để đứng lên, ngồi xuống, bước tới bước lui
thì tập lên gối xuống gối để duy trì chức năng này.
b- Tập luyện để tăng cường sức chịu đựng của cơ thể (aerobic
exercise), tuần hoàn hô hấp hoạt động mạnh hơn, tinh thần thoải
mái, yêu đời, ngủ ngon hơn đồng thời cũng bớt mập phì, một trong
những rủi ro gây viêm khớp. Có thể đi bộ với nhịp bước nhanh
hoặc bơi lội.
c- Tập luyện để tăng sức mạnh của cơ bắp, gân, dây chằng chung
quanh khớp, nhờ đó khớp đang bị viêm không bị dao động, giảm
đau.
Cần hỏi ý
kiến bác sĩ về các phương thức tập luyện, sao cho thích hợp với
tình trạng bệnh của mình.
6- Sống
thoải mái tích cực.
Nhiều người
buồn rầu, than vãn vì triền miên đau, sống trong căng thẳng. Mà
stress làm cơ thể căng cứng, tăng đau nhức kèm theo bực bội và
giảm sinh hoạt. Tích cực sống hòa bình với Viêm khớp cũng tăng
sản xuất hóa chất endorphin trong người, là chất làm giảm đau.
Lâu lâu làm một cuộc massage, ngâm tắm nước nóng để máu huyết
lưu thông, thư dãn xương khớp, ngủ ngon, giảm đau.
7- Thời
tiết với Viêm Khớp
Nhiều người
tin tưởng rằng thời tiết khí hậu ảnh hưởng tới Viêm Khớp. Họ đã
chuyển nơi ở từ miền lạnh ẩm tới vùng khô ráo nắng ấm. Nhiều
người cũng nói “cứ mỗi khi tôi đau nhức xương khớp là y như rằng
Trời sắp giông tố, mưa bão”. Tin tưởng này có từ thuở xa xưa,
khiến cho các khoa học gia cũng phải lưu tâm, nghiên cứu.
Vào thập niên
60 của thế kỷ trước, bác sĩ John Hollander đã làm một nghiên cứu
về vấn đề này. Ông để 8 bệnh nhân bị Thấp Khớp và 4 bị Viêm Khớp
vào một căn phòng kín trong đó áp xuất không khí điều chỉnh lên
xuống được. Kết quả mà ông tìm ra là 8 người nhạy cảm với thời
tiết và 7 người cho hay đau hơn khi tăng độ ẩm và giảm áp xuất.
Kết quả được nhiều nhà chuyên môn lưu ý và nghiên cứu thêm. Một
giả thuyết giải thích hiện tượng này là khi áp xuất xuống thấp,
không khí ẩm khiến cho tế bào bị viêm “nở” ra đưa tới khớp hơi
sưng và đau.
Trong một tài
liệu của Johns Hopkins Medicine có ghi: Mặc dù có vài bằng chứng
rằng người sống ở vùng khí hậu ấm, khô ráo ít cơn đau viêm khớp,
nhưng khí hậu không ảnh hưởng tới diễn tiến của bệnh. Nhiều lắm
thì thời tiết có thể ảnh hưởng tới sự đau của khớp viêm.
Nghiên cứu về
Osteoarthritis pain and weather do
F. V. Wilder,
B. J. Hall
và
J. P. Barrett
thực hiện năm 2003 kết luận: Nói chung, các dữ kiện tìm thấy từ
nghiên cứu không hỗ trợ giả thuyết nói rằng thời tiết liên quan
tới đau. Thậm chí nếu có thì rất khiêm nhường.
Tạp chí y học J Rheumatology
2004;31:1327-34) có ghi
“Kinh nghiệm
cố cựu “ Lạnh và ẩm xấu, ấm và khô tốt cho Thấp Khớp” dường như
chì đúng với độ ẩm mà thôi”.
Đó là ý kiến
chung của các nhà nghiên cứu. Và các bác sĩ chuyên khoa Thấp học
cũng ít khi khuyên bệnh nhân di chuyển nơi ở, mà chỉ “nước đôi”
vô thưởng vô phạt, nếu quý vị muốn, hãy thử xem sao.
Vả lại, bệnh
Viêm Khớp, thấy có ở mọi quốc gia, từ miền nắng ấm tới vùng băng
giá quanh năm. Cho nên trước khi di chuyển, cũng nên cân nhắc,
sống thử một thời gian coi xem sao. Vả lại di chuyển, bỏ nơi
quen sống từ nhiều chục năm, từ bó bạn bè thân thuộc, ông bà
thầy thuốc thân yêu thì cũng hơi tiếc đấy.
Đặc biệt là
với quý bà chị. Vì theo bác sĩ
Maradee A. Davis và cộng sự viên,
University of California, San Francisco, tỷ lệ viêm khớp gối của
phụ nữ là 4.9% so với 2.6% ở nam giới. Và rủi ro này tăng khoảng
1.57 ở tuổi 45-54 lên 2.14 ở tuổi 65-74. Quý hiền tỷ phải cách
xa bạn “đồng bệnh “để “tương lân”, học hỏi kinh nghiệm sống với
Viêm Khớp thì có lẽ cũng hơi “buồn năm phút” đấy nhỉ.
Bác sĩ Nguyễn Ý Đức
Texas- Hoa Kỳ
www.bsnguyenyduc.com
|
VỀ MỤC LỤC |
BÀN VỀ CON TRÂU - Chuyện phiếm của Gã Siêu |
Vào khoảng năm 1958, dinh điền Cái Sắn được thành lập, dành cho
đồng bào Bắc kỳ Di cư tới sinh sống. Lúc bấy giờ tất cả mới chỉ
là một cánh đồng hoang bao la bát ngát, lau sậy mọc ngập đầu.
Chính phủ thuê người đào những con kênh để thoát phèn, cấp phát
cho mỗi đầu người bốn đồng một ngày để sinh sống, cho mỗi gia
đình một nếp nhà lá để ở tạm và một chiếc xuồng gỗ để di chuyển.
Rồi sau đó, cấp phát cho hai ba nhà một con trâu để canh tác…
Cuộc sống dần dần đi vào cái thế ổn định và bắt đầu khởi sắc.
Bọn nhóc tỳ, ngoài việc tới trường để học, còn được bố mẹ trao
phó cho việc chăn trâu ngoài đồng.
Đi chăn trâu lúc bấy giờ vui lắm.
Mỗi khi đi, các anh…nhớn thường phân công, để mang theo hai ba
cái nồi và một ít gạo cùng với mắm muối.
Bọn nhóc tì, đứa thì thổi cơm, đứa thì canh giữ đàn trâu. Còn
các anh nhớn thì đi kiếm thức ăn.
Chỉ cần mò dưới mấy cái lung là bắt được cá. Chỉ cần vớt những
bông súng hay đào những ngó sen là có được một thứ rau cao cấp.
Những lúc rảnh rỗi, các anh nhớn còn tổ chức…chọi trâu, để tìm
ra con trâu vô địch cho phe Bắc kỳ Di cư.
Chủ nhân của con trâu vô địch này có bổn phận phải chăm sóc sóc
nó cách đặc biệt, nhất là phải “tút” hai chiếc sừng của nó cho
thật nhọn, để rồi tới ngày giờ ấn định, đem ra chọi với con trâu
vô địch của…làng Nam.
Khi trâu đã ăn no và trước lúc trở về nhà, bọn nhóc tỳ thường
cho trâu xuống tắm dưới kênh. Một đứa ngồi trên mình trâu đánh
cho trâu đi thật nhanh, còn một đứa thì bơi và nắm chặt lấy đuôi
trâu để được trâu kéo đi, như người ta kéo xuồng vậy.
Trên đường về, trâu đứa nào thì đứa ấy cưỡi. Ngồi trên mình trâu
mà bỗng cảm thấy mình oai phong lẫm liệt, như Đinh Bộ Lĩnh ngày
xưa, đúng như một bài hát đã diễn tả:
- Ai bảo chăn trâu là khổ,
Chăn trâu sướng lắm chứ.
Ngồi mình trâu, cất ngọn cờ cao,
Và miệng hát nghêu ngao.
Vui thú không quên học đâu…
Theo sử sách kể lại thì Đinh Bộ Lĩnh quê ở động Hoa Lư thuộc
tỉnh Ninh Bình, vốn là con của quan Thứ Sử Hoan Châu, tên là
Đinh Công Trứ.
Thuở thiếu thời, Đinh Bộ Lĩnh thường theo bọn chăn trâu chơi,
ông bắt chúng làm kiệu công kênh đi, lại lấy bông lau làm cờ
quạt, bày ra trận giả để đánh nhau suốt ngày.
Nhờ sức khỏe phi thường, ông đã làm cho cả bọn trẻ đều khiếp sợ.
Trưởng thành, nhờ tài trí xuất chúng, ông dần dần thu phục được
các Sứ quân, rồi lên làm vua, xưng là Đinh Tiên Hoàng Đế, đặt
tên nước là Đại Cồ Việt, lấy hiệu là Thái Bình và đóng đô tại
Hoa Lư.
Đối với bọn nhóc tì, thì trâu là một con vật thật dễ thương và
dễ mến. Thế nhưng, bàn dân thiên hạ thì khác. Họ nhìn trâu bằng
cặp mắt khinh thường.
Trước hết trâu là một con vật xem ra có vẻ ngu đần. Cũng vì bị
coi là ngu đần, nên trâu phải cắn răng chịu đựng một kiếp sống
lầm than vất vả.
Chuyện ngụ ngôn kể lại rằng:
Vào một buổi trưa hè oi bức, bác nông phu cùng với con trâu đang
cố gắng cày nốt thửa ruộng ven rừng. Mồ hôi mồ kê nhễ nhại và
chảy xuống đầy mặt ròng ròng.
Sau khi công việc xong xuôi, bác nông phu ngồi nghỉ dưới bóng
một cây đa và bắn một điếu thuốc lào kêu ro ro. Còn trâu thì
được đằm mình trong một vũng nước gần đấy.
Một chú hổ từ trong rừng bước ra. Chú đến bên trâu và nói:
- Trâu ơi, sao mày ngu thế. Mày vừa to lại vừa khỏe, thế mà lại
để cho cái thằng người vừa nhỏ lại vừa yếu bắt phải làm những
công việc nặng nhọc, nào cày sâu, nào bừa nát…mày không biết xấu
hổ hay sao?
Trâu lắc đầu và bảo:
- Chú nói khe khẽ thôi, đừng để cho bác nông phu nghe thấy.
Rồi với dáng điệu bí mật, trâu bật mí cho chú hổ hay:
- Chú biết không, bác nông phu mà chú gọi là cái thằng người ấy
có cái này thật là tuyệt vời và hết ý.
Chú hổ bèn tò mò hỏi tiếp:
- Thế thì đó là cái gì vậy?
- Cái trí khôn đó mà.
- Thế thì cái trí khôn ấy nó ra làm sao?
Trâu trả lời:
- Tôi đành phải chịu thua, không thể diễn tả được.
Chú hổ tỏ ra bực bội và tức tối:
- Rõ đồ ngu như trâu!
Sau đó, chú hổ mon men đến bên cạnh và gợi chuyện với bác nông
phu:
- Này bác, tôi nghe người ta nói bác có cái trí khôn thật là cực
kỳ. Vậy bác làm ơn cho tôi xem tí nhé.
Bác nông phu trả lời:
- Rất tiếc. Hôm nay ta lại để nó ở nhà mất rồi.
Chú hổ năn nỉ ỉ ôi:
- Thế thì bác chịu khó chạy về lấy mang ra đây, tôi sẽ xin hậu
tạ.
Bác nông dân lắc đầu quầy quậy:
- Đâu có được. Vì nếu ta chạy về lấy, thì ở đây ngươi sẽ xơi tái
con trâu của ta mất thôi.
Suy nghĩ một lúc, bác nông phu nói tiếp:
- Nếu ngươi bằng lòng, tạm thời ta sẽ trói ngươi lại, trong lúc
ta chạy về nhà. Được không?
Chú hổ miễn cưỡng trả lời:
- Thế thì cứ tạm là như vậy.
Bác nông phu bèn mượn đỡ sợi dây thừng cột trâu trói nghiến chú
hổ lại. Vừa trói xong, thì nhanh như chớp, bác lấy chiếc đòn càn
đập túi bụi vào chú hổ. Vừa đập vừa la hét:
- Cái trí khôn của ta đây này, cái trí khôn của ta đây này…
Từ chỗ bị coi là hơi ngu đần, người ta còn gán ghép cho trâu
nhiều thói hư tật xấu khác nữa.
Nào là chậm chạp:
- Trâu chậm thì uống nước đục.
Có nghĩa là chậm chân thì đành phải dùng của thừa thãi, hay phải
cam chịu nhiều thiệt hại.
Nào là ghen tương:
- Trâu cột ghét trâu ăn.
Có nghĩa là trâu bị cột trong chuồng bực tức với trâu được thả
rong ngoài ruộng, tha hồ mà gặm cỏ.
Ám chỉ cùng chung một giai cấp, hay cùng ở trong một hoàn cảnh,
thế nhưng có kẻ được ưu đãi hay vì một lý do nào đó, được hưởng
nhiều lợi lộc, khiến cho kẻ khác phải ganh tị, tìm cách nói hành
nói xấu, dèm pha hạ nhục, theo kiểu:
- Trâu buộc thì ghét trâu ăn,
Quan võ thì ghét quan văn dài quần.
Nào là thiếu tinh thần trách nhiệm:
- Trâu lấm vẩy càn.
Có nghĩa là trâu vốn hay đầm mình xuống vũng bùn cho mát, nhưng
khi lên khô thường dùng đuôi vẩy vẩy hay lắc lư thân mình cho
bùn đất rơi xuống.
Ám chỉ kẻ hèn nhát đã lỡ mang tiếng xấu, hay đã lỡ làm nên tội
rồi, thì không còn e ngại chi cả, cứ việc khai bừa cho kẻ vô tội
hoặc đổ lỗi cho người khác.
Nào là gây nên nhiều thiệt hại:
- Trâu bò húc nhau, ruồi muỗi chết.
Có nghĩa là trâu bò được nhốt chung trong một chuồng, khi không
còn thuận hòa cùng nhau, thường hay dùng sừng mà húc vào nhau
một cách dữ dội, khiến cho ruồi muỗi bu quanh chuồng hay đậu
trên mình trâu bò, vô cớ bị chết oan vì cuộc đụng độ này.
Ám chỉ hai người, hai phe hay hai nước mạnh đấm đá nhau, thì tự
nhiên dân chúng hay những kẻ ở gần đều bị họa lây.
Nào là dấu chỉ của điềm dữ:
- Trâu trắng đi tới đâu, mất mùa tới đấy.
Theo sự tin tưởng của dân gian, thì trâu trắng là điềm gở, mang
lại nhiều xui xẻo.
Vì vậy, muôn đời trâu vẫn phải chịu đựng một số phận hẩm hiu:
- Trâu cày, ngựa cưỡi.
Có nghĩa là phải làm việc cực khổ như con trâu kéo cày để nuôi
người ta và như con ngựa hầu hạ để cho người ta cưỡi.
Ám chỉ việc phải làm tôi mọi cho bàn dân thiên hạ.
Tuy nhiên phải công bằng mà nói: Trâu là một con vật rất hiền
lành, rất chăm chỉ, đã tận tụy hy sinh tất cả để giúp đỡ cho nhà
nông, không quản ngại nắng mưa sương gió, vất vả cực nhọc.
Hồi còn ở ngoài Bắc, gã đã từng thấy có những gia đình nghèo,
không đủ tiền tậu lấy cho mình một con trâu. Vì thế, chị vợ thì
cầm cày, còn anh chồng thì phải nai lưng ra kéo cày, chuẩn bị
mảnh ruộng nhỏ để mà cấy lúa.
Chính vì thế, người ta thường nói:
- Con trâu là đầu cơ nghiệp.
Bò tuy nhanh, nhưng khi trời bắt đầu nóng là liền phá ngang.
Trong khi đó, trâu tuy chậm nhưng mà bền. Nhẩn nha kéo chiếc
cày, chiếc bừa, hay chiếc cộ lúa.
Cứ sau mỗi vụ xuống giống hay thu hoạch, cổ trâu đều bị rách
toạc và lở loét vì bị cọ xát với cái ách, cái vạy…chắc là đau
đớn lắm.
Nhiều khi đang mùa, trâu bị kiệt sức, khiến chủ nhà phải bồi
dưỡng thêm bằng cách cho ăn cỏ non, thậm chí còn cho ăn cám và
uống cả…bia nữa.
Ngày xưa ít muỗi, người ta chỉ cần cho trâu đằm dưới bùn. Hay sợ
đang đêm kẻ trộm đến dinh mất, thì nhốt trâu vào chuồng và chỉ
cần hun tí khói là trâu sẽ ngủ yên. Còn bây giờ tại Việt Nam,
muỗi liên tục phát triển, ban đêm chúng bay vo vo như một bản
hòa tấu. Vì thế, người ta phải làm thêm mùng, rồi buông xuống
cho trâu bò hay cho đàn lợn nuôi trong chuồng.
Và như vậy, trâu bỗng trở thành người thân cận và nghĩa thiết
của nhà nông. Người ta tâm sự với trâu như với một người bạn
chân thành:
- Trâu ơi, ta bảo trâu này,
Trâu ra ngoài ruộng, trâu cày với ta.
Cấy cày vốn nghiệp nông gia,
Ta đây, trâu đấy ai mà quản công.
Mai ngày cây lúa trổ bông,
Thì còn ngọn cỏ ngoài đồng trâu ăn.
Thế nhưng, cho đến ngày hôm nay, số kiếp của trâu, vốn dĩ đã bi
đát, lại càng thêm bẽ bàng và cay đắng. Người ta kêu gào văn
minh hóa và hiện đại hóa đất nước. Người ta không còn muốn nhìn
thấy cái cảnh lam lũ lầm than:
- Con trâu đi trước, cái cày theo sau.
Máy móc đã được thay thế cho trâu và đã dành được nhiều ưu thế.
Nào là sức kéo bền bỉ và dẻo dai. Nào là không phải tốn công cắt
cỏ và chăm sóc. Nào là được sử dụng vào nhiều công việc khác
nhau. Nào là mang lại hậu quả kinh tế cao. Nào là vân vân và vân
vân.
Chính vì thế, sự hiện diện của loài trâu, mặc dù chưa đi đến chỗ
tuyệt chủng, nhưng mỗi ngày một khan hiếm, một lơ thơ, như tơ
liễu buông mành.
Tuy nhiên, cái hiểm họa gay go nhất đe dọa loài trâu, khiến cho
loài trâu chui tọt vào bao tử của con người, đó là vì bàn dân
thiên hạ mách bảo nhau rằng thịt trâu lành và mát hơn thịt bò,
vì vậy thịt trâu bỗng lên ngôi và có giá trên thị trường ăn
nhậu.
Ngoài những món truyền thống như bắp trâu luộc chấm với tương
gừng, lá xách trâu xào với dưa chua…tại địa phương, nơi gã đang
cắm dùi, dân bợm nhậu rất khoái cái món lẩu trâu và thịt trâu
luộc với mẻ…
Để kết luận, gã xin kể lại nơi đây một câu truyện về trâu và một
câu tục ngữ cũng về trâu.
Trước hết là câu truyện về trâu được trích trong sách “Cổ Học
Tinh Hoa”, đại khái như sau:
Đời thượng cổ có ông Hứa Do là một nhà ẩn dật, sống ở trong chằm
Bát Trạch.
Vua Nghiêu nghe tiếng Hứa Do là người tài giỏi, nên mời ra xin
nhường cả thiên hạ. Hứa Do từ chối, lui về ở ẩn tại núi Tràng
Nhạc, phía nam sông Dĩnh Thủy.
Sau đó, vua Nghiêu lại tìm đến, cố mời Hứa Do ra làm quan, đứng
đầu cả chín châu. Hứa Do thấy vậy không muốn nghe chuyện nữa,
bèn ra bờ sông Dĩnh Thủy mà rửa tai.
Ngay lúc bấy giờ, Sào Phủ đang dắt trâu xuống bờ sông, gặp Hứa
Do nên hỏi:
- Việc gì mà bác phải rửa tai như vậy?
Hứa Do thuật chuyện. Sào phủ nghe xong, liền gò cổ trâu lại mà
nói:
- Ta toan cho trâu uống nước tại đây, nhưng lại e bẩn cả miệng
trâu.
Nói đoạn liền dắt trâu lên quãng sông trên mà cho trâu uống
nước.
Tác giả sách “Cổ Học Tinh Hoa” đã thêm vào câu truyện trên một
lời bàn như sau:
Có cả thiên hạ mà cố nhường cho người khác là chuyện lạ.
Người được nhường cả thiên hạ cho, mà không nhận cũng là chuyện
lạ.
Nghe thấy câu chuyện nhường thiên hạ, nghĩ là chuyện bẩn, nên
phải đi rửa tai, lại là chuyện lạ hơn.
Không để cho trâu uống cái nước đã rửa tai ấy, sợ bẩn miệng
trâu, lại là chuyện càng lạ quá đi nữa.
Đọc qua bài này, tưởng Hứa Do với Sào Phủ là hai người, nếu
không ngông cuồng, thì cũng gàn dở.
Nhưng vì Hứa Do với Sào Phủ hiểu thấu cái danh lợi nó hãm hại
người ta và làm cho mất hết liêm sỉ, nên hai ông không muốn để
cái danh lợi làm bẩn đến bản thân, chỉ ưa chuộng lấy việc sống
tự nhiên làm vui sướng, thì cũng là những bậc cao sĩ thờ một cái
chủ nghĩa cao quí vậy.
Chả bù cho những phường tham danh và trục lợi ngày nay, thường
say mê cái bả danh lợi, thậm chí cho đến chết, mà vẫn còn chưa
tỉnh ra.
Cũng trong chiều hướng ấy, gã xin bồi thêm một câu tục ngữ
cũng về trâu:
- Trâu chết để da, người ta chết để tiếng.
Ý nói con người cần phải cư xử thế nào cho phải đạo, biết trọng
điều nhân nghĩa. Danh thơm tiếng tốt không những được bàn dân
thiên hạ nhắc tới trong lúc còn sống, mà ngay cả sau khi đã
chết, vẫn còn được người đời truyền tụng.
Mong rằng trong năm Kỷ Sửu cầm tinh con trâu này, mỗi người
trong chúng ta biết ra sức tạo lấy cho mình một thứ danh thơm
tiếng tốt, giữa lúc nền luân lý đang suy thoái và nền đạo đức
đang trên đà tụt dốc không phanh.
Gã Siêu
gasieu@gmail.com
|
VỀ MỤC LỤC |
|
- Mọi liên lạc: Ghi danh, thay đổi địa chỉ, đóng góp ý kiến,
bài vở..., xin gởi về địa chỉ
giaosivietnam@gmail.com
- Những nội dung sẽ được đề cao và chú ý bao gồm:
Trao đổi, chia sẻ những kinh nghiệm thực tế trong việc mục
vụ của Giáo sĩ; Những tài liệu của Giáo hội hoặc của các
Tác giả nhằm mục đích Thăng tiến đời sống Giáo sĩ; Cổ võ ơn
gọi Linh mục; Người Giáo dân tham gia công việc “Trợ lực
Giáo sĩ” bằng đời sống cầu nguyện và cộng tác trong mọi lãnh
vực; Mỗi Giáo dân phải là những “Linh mục” không có chức
Thánh; Đối thoại trong tinh thần Bác ái giữa Giáo dân và
Giáo sĩ… (Truyền giáo hay xây pháo đài?)
- Quy vị cũng có thể tham khảo những số báo đã phát hành tại
www.conggiaovietnam.net
Rất mong được sự cộng tác, hưởng ứng của tất cả Quí vị
Xin chân thành cám ơn tất cả anh chị em đã
sẵn lòng cộng tác với chúng tôi bằng nhiều cách thế khác
nhau.
TM. Đặc San Giáo Sĩ Việt Nam
Lm. Luca
Phạm Quốc Sử
USA
|
|
*************
|
|