Đặc San Giáo Sĩ Việt Nam

 

 

 

ĐỰƠC CHỌN GIỮA LOÀI NGƯỜI
VÀ CHO LOÀI NGƯỜI  (x. Dt, 5.1)

 

GIÁO SĨ:

Xuất phát từ giáo dân, hiện diện vì giáo dân và cậy dựa vào giáo dân

 

ĐỂ CÙNG LÀM VINH DANH THIÊN CHÚA

 

www.conggiaovietnam.net                          giaosivietnam@gmail.com

Đặc San Điện Tử    Giáo Sĩ Việt Nam    Số 165, Chúa Nhật 26.02.2012


MỤC LỤC 

Lời Kêu Gọi Mọi Người Nên Thánh Trong Giáo Hội                                                       Vatican 2

THƯ MỤC TỬ MÙA CHAY 2012                                                            HY. GB. Phạm Minh Mẫn

Mong Manh                                                                                             Gm Giuse Vũ Văn Thiên

"Đường Hy Vọng"                                                                         Pt. Thomas Nguyễn Văn Hiệp

HỒNG Y LÀ AI VÀ CÓ CHỨC NĂNG GÌ ?                                                 Lm. PX. Ngô Tôn Huấn

NGƯỜI PHONG HỦI THỨ 501.                                                             Lm. Pet. Bùi Trọng Khẩn

Người Mẹ                                                                                                                      Minh Tâm

Hành Hương                                                                                            Lm. VĨNH SANG, DCCT

TÌM HIỂU HUẤN DỤ XÃ HÔI CỦA GIÁO HỘI (5)                                  Tiến sĩ Nguyễn Học Tập

LINH MỤC GIÁO PHẬN TÁI ĐỊNH HƯỚNG ĐỜI SỐNG VÀ SỨ VỤ BẰNG VIỆC SỐNG KINH NGHIỆM NỀN TẢNG “CHÚA LÀ TẤT CẢ”                       Lm. Micae-Phaolo Trần Minh Huy, pss.

SỐNG VỚI VIÊM KHỚP                                                                              Bác sĩ Nguyễn Ý Đức

BÀN VỀ CON TRÂU -                                                                         Chuyện phiếm của Gã Siêu


Lời Kêu Gọi Mọi Người Nên Thánh Trong Giáo Hội

 

Hiến Chế Tín Lý Về Giáo Hội

Lumen Gentium

 

Bản dịch Việt Ngữ của Giáo Hoàng Học Viện Piô X

Prepared for Internet by Vietnamese Missionaries in Asia

 

Chương V

Lời Kêu Gọi Mọi Người Nên Thánh Trong Giáo Hội 50*

 

39. Sự thánh thiện trong Giáo Hội. Chúng tôi tin Giáo Hội, một mầu nhiệm được Thánh Công Ðồng trình bày, có tính cách thánh thiện, bất khả khuyết. Thực vậy, Chúa Kitô Con Thiên Chúa, Ðấng cùng với Chúa Cha và Chúa Thánh Thần, được ca tụng là "Ðấng thánh duy nhất" 1, đã yêu dấu Giáo Hội như hiền thê mình và đã hiến thân để thánh hóa Giáo Hội (x. Eph 5,25-26). Người kết hiệp với Giáo Hội như thân thể Người và ban cho dư đầy ơn Thánh Thần để làm vinh danh Thiên Chúa. Vì thế, tất cả mọi người trong Giáo Hội - hoặc thuộc hàng giáo phẩm, hoặc được hàng giáo phẩm dìu dắt - đều được kêu gọi nên Thánh, như lời Thánh Tông Ðồ dạy: "Vì Thiên Chúa muốn anh em được thánh hóa" (1Th 4,3; x. Eph 1,4); sự thánh thiện này của Giáo Hội luôn được biểu lộ và phải được biểu lộ qua những hoa trái ân sủng mà Thánh Thần đã kết sinh nơi các tín hữu; sự thánh thiện ấy được diễn tả dưới nhiều hình thức nơi tất cả những ai đang cố đạt tới Ðức Ái trọn hảo trong bậc sống của mình trong khi xây dựng kẻ khác. Ðặc biệt hơn, sự thánh thiện đó tỏ lộ trong việc thực hành các lời khuyên, quen gọi là lời khuyên của Phúc Âm. Nhờ Chúa Thánh Thần thúc đẩy, nhiều Kitô hữu thực hành các lời khuyên ấy với tư cách cá nhân hoặc trong những lối sống hay bậc sống đã được GiáoHội công nhận; việc thực hành đó mang lại và phải mang lại cho thế giới một bằng chứng và một mẫu gương rạng ngời về sự thánh thiện của Giáo Hội. 51*

40. Mọi người được kêu gọi sống thánh thiện. Chúa Giêsu, thầy dạy và mẫu mực thần linh của mọi sự trọn lành, đã giảng dạy cho tất cả và cho mỗi một môn đệ, bất luận thuộc cảnh vực nào, một đời sống thánh thiện mà chính Người vừa là Ðấng ban phát vừa là Ðấng hoàn tất: "Vậy các con hãy trở nên trọn lành như Cha các con ở trên trời" (Mt 5,48) 2. Bởi vậy, Người đã sai Thánh Thần đến với mọi người, để từ bên trong Ngài thôi thúc họ yêu mến Thiên Chúa hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn cùng hết sức họ (x. Mc 12,30), và yêu thương nhau như Chúa Kitô yêu thương họ (x. Gio 13,34; 15,12). Ðược Thiên Chúa kêu gọi và được công chính hóa trong Chúa Giêsu, không phải vì công lao riêng, nhưng vì ý định và ân phúc của Ngài, các môn đệ Chúa Kitô, nhờ lãnh nhận phép Thánh Tẩy, bí tích đức tin, đã thực sự trở nên con cái Thiên Chúa và được thông phần vào bản tính Ngài, và do đó, thực sự đã trở nên thánh. Cho nên với ơn Chúa họ phải luôn gìn giữ và hoàn thành trong đời sống sự thánh thiện mà họ đã lãnh nhận. Họ được Thánh Tông Ðồ khuyên sống "xứng đáng như những vị thánh" (Eph 5,3) và mặc lấy "lòng thương xót, nhân hậu, khiêm nhường, tiết độ và nhẫn nại như những người đã được Thiên Chúa chọn lựa, thánh hóa và yêu thương" (Col 3,12), và dùng hoa trái của Thánh Thần để thánh hóa mình (x. Gal 5,22; Rom 6,22). Nhưng vì chúng ta ai cũng có nhiều lầm lỗi (x. Giac 3,2), nên chúng ta luôn cần đến lòng nhân từ của Thiên Chúa và hằng ngày phải cầu nguyện "xin Chúa tha nợ chúng tôi" (Mt 6,12) 3.

Vì thế, mọi người đều thấy rõ ràng tất cả các Kitô hữu, bất cứ theo bậc sống hay địa vị nào, đều được kêu gọi tiến đến sự viên mãn của đời sống Kitô giáo và đến sự trọn lành của Ðức Ái 4. Ngay trong xã hội trần thế sự thánh thiện này cũng giúp người ta sống nhân đạo hơn. Ðể đạt được sự trọn lành đó, tín hữu phải xử dụng những sức lực mà Chúa Kitô đã ban nhiều ít tùy ý Người để trở nên giống Người khi theo vết chân Người, và khi thực hành thánh ý Chúa Cha trong tất cả mọi sự, họ sẽ hết lòng tìm vinh danh Chúa và phục vụ tha nhân. Như thế, sự thánh thiện của Dân Thiên Chúa sẽ sinh hoa trái dồi dào, như lịch sử Giáo Hội đã từng minh chứng rõ ràng qua đời sống của bao vị thánh. 52*

41. Nhiều hình thức thực hành sự thánh thiện duy nhất. Những người được Thánh Thần Thiên Chúa hướng dẫn, nghe theo tiếng gọi của Chúa Cha, thờ phượng Ngài trong tinh thần và chân lý, noi gương Chúa Kitô nghèo khó, khiêm nhường và vác thập giá để xứng đáng dự phần vào vinh quang của Người; tất cả những người ấy đều theo đuổi cùng một sự thánh thiện tuy lối sống và nhiệm vụ của họ có khác nhau, cho nên mỗi người, tùy theo ân sủng và nhiệm vụ mình, phải nhất quyết tiến bước bằng con đường đức tin sống động, đức tin khơi động đức cậy và hoạt động nhờ đức ái.

Các chủ chăn lo cho đoàn chiên Chúa Kitô phải là những người đầu tiên chu toàn thừa tác vụ mình cách thánh thiện và hăng say, khiêm tốn và can đảm, noi gương vị Linh Mục thượng phẩm và vĩnh cửu, vị Chủ Chăn và Giám Mục chăm sóc linh hồn chúng ta: làm như thế, các ngài sẽ tìm thấy nơi thừa tác vụ mình một phương thế tuyệt diệu để thánh hóa. Ðược chọn để lãnh nhận trọn vẹn chức linh mục, các ngài hưởng nhờ ơn bí tích để thi hành nhiệm vụ bác ái cao cả của vị chủ chăn 5, trong lời cầu nguyện, bằng việc hy sinh, giảng dạy và bằng mọi hình thức chăm sóc và phục vụ khác thuộc bổn phận của Giám Mục; các ngài đừng ngại hy sinh mạng sống vì con chiên và trở nên mẫu mực cho đoàn chiên (x. 1P 5,3); sau cùng, các ngài làm cho Giáo Hội ngày càng thánh thiện hơn bằng gương lành của các ngài.

Các linh mục kết thành vòng hoa thiêng liêng của hàng Giám Mục 6 và thông phần vào ân sủng thuộc chức vụ Giám Mục, nhờ Chúa Kitô, Ðấng Trung Gian vĩnh cửu duy nhất; cũng như hàng Giám Mục, các linh mục phải gia tăng tình yêu Thiên Chúa và tha nhân bằng việc thi hành nhiệm vụ hàng ngày; các ngài phải gìn giữ mối dây liên lạc giữa hàng linh mục, phải được dư đầy của cải thiêng liêng, phải là những chứng nhân sống động của Thiên Chúa trước mặt mọi người 7, và thi đua với những vị linh mục mà qua các thế hệ, đã để lại những chứng tá thánh thiện sáng ngời trong những việc phục vụ thường khiêm tốn và kín đáo. Các vị linh mục ấy được ca tụng trong Giáo Hội Chúa. Linh mục có bổn phận dâng kinh nguyện và lễ vật cho dân ngài và toàn thể Dân Thiên Chúa, các ngài phải ý thức điều các ngài làm và sống xứng đáng hợp với những điều các ngài cử hành 8. Các linh mục phải vượt qua những lo lắng tông đồ, những nguy hiểm và thử thách mà không để chúng trở thành những chướng ngại, hầu tiến xa hơn trên đường thánh thiện nhờ biết nuôi dưỡng và củng cố hoạt động của mình bằng việc chiêm niệm dồi dào. Như thế, các ngài sẽ mang lại niềm hoan hỷ cho toàn thể Giáo Hội Chúa. Tất cả các linh mục, nhất là những vị đặc biệt thụ phong để thành linh mục giáo phận, hãy nhớ rằng việc trung thành kết hợp và quảng đại cộng tác với Giám Mục là phương tiện rất tốt để thánh hóa chính mình.

Dự phần cách đặc biệt vào sứ mệnh và ân sủng của chức linh mục thượng phẩm, còn có những thừa tác viên ở bậc thấp hơn, trước hết là những vị Phó Tế; các Phó Tế khi phục vụ các nhiệm tích của Chúa Kitô và Giáo Hội 9, phải giữ mình tinh sạch khỏi mọi nết xấu, làm đẹp lòng Thiên Chúa và mưu cầu lợi ích cho nhân loại (x. 1Tm 3,8-10 và 12-13). Những giáo sĩ được Chúa kêu gọi để thuộc riêng về Chúa, và đang sửa soạn để lãnh nhận nhiệm vụ thừa tác viên, dưới sự coi sóc của vị chủ chăn, các vị ấy phải để lòng trí xứng hợp với ơn gọi hết sức cao cả của mình bằng cách cầu nguyện liên lỉ, yêu thương nhiệt thành, chỉ tưởng đến những điều chân thật, chính đáng và lành thánh, và chu toàn mọi sự để làm vinh danh Thiên Chúa. Thêm vào số người đó, còn có những giáo dân được Thiên Chúa chọn; họ được Giám Mục gọi để dấn thân trọn vẹn vào việc tông đồ, và họ làm việc rất hữu hiệu trong cánh đồng của Chúa 10.

Còn bậc vợ chồng và cha mẹ Kitô giáo, khi theo đuổi lối sống riêng của mình, nhờ ơn Chúa, họ phải suốt đời nâng đỡ và trung thành yêu thương nhau; đối với con cái mà trong yêu thương họ đã nhận từ Thiên Chúa, họ phải làm cho chúng hấp thụ những học thuyết Kitô giáo và những nhân đức của Phúc Âm. Nhờ đó họ nêu gương cho mọi người về mặt tình thương bền vững và quảng đại, xây dựng bác ái huynh đệ, làm chứng và cộng tác vào việc sinh sản của Giáo Hội, Mẹ chúng ta, trở nên dấu chỉ và thông phần vào tình yêu Chúa Kitô đối với Hiền Thê Người: bởi yêu thương, Người đã hiến mạng sống vì Hiền Thê 11. Dưới một hình thức khác, bậc quả phụ và độc thân cũng nêu lên một gương tương tự: họ có thể góp phần không ít vào sự thánh thiện và hoạt động của Giáo Hội. Còn những người thường làm lụng vất vả, công việc của con người phải là phương thế để đào tạo chính mình, trợ giúp đồng loại, thăng tiến toàn thể xã hội và tạo vật; và sau cùng, hân hoan trong niềm hy vọng và kiên nhẫn chịu đựng lẫn nhau, với đức ái sống động, họ phải noi gương Chúa Kitô, Ðấng đã làm việc tay chân và không ngừng cùng với Chúa Cha đem ơn cứu độ cho mọi người; và nhờ công ăn việc làm, họ phải tiến xa hơn trên đường thánh thiện, một sự thánh thiện còn có tính cách tông đồ.

Ước gì những người chịu đau khổ vì nghèo đói, tật nguyền, đau yếu và những thử thách khác, hay bị bách hại vì sự công chính cũng biết kết hợp cách đặc biệt với Chúa Kitô, Ðấng đã chịu đau khổ để cứu chuộc thế giới, vì trong Phúc Âm Chúa đã tuyên bố họ là người có phúc, và vì "Thiên Chúa của mọi ân phúc, Ðấng đã gọi chúng ta đến sự vinh hiển muôn đời trong Chúa Giêsu Kitô, sau khi chúng ta chịu đau khổ trong một thời gian ngắn, chính người sẽ làm cho chúng ta hoàn hảo, vững chắc và mạnh mẽ" (1P 5,10).

Vì thế, trong và nhờ những trạng huống, chức nghiệp hay hoàn cảnh của cuộc sống, tất cả mọi Kitô hữu ngày càng được thánh thiện hơn, nê�u họ biết tin tưởng lãnh nhận tất cả mọi sự từ tay Cha trên Trời và biết cộng tác với thánh ý Thiên Chúa bằng cách tỏ lộ cho mọi người biết tình yêu Thiên Chúa đối với thế giới trong chính việc họ phục vụ trần thế. 53*

42. Ðường lối và phương tiện nên thánh. "Thiên Chúa là tình yêu, ai sống trong tình yêu là sống trong Thiên Chúa, và Thiên Chúa sống trong người ấy" (1Gio 4,16), Thiên Chúa đã đổ tràn đức ái Ngài trong tâm hồn chúng ta, nhờ Chúa Thánh Thần Ngài đã ban cho chúng ta (x. Rm 5,5); cho nên ơn huệ thứ nhất và cần thiết nhất là bác ái. Ðức ái làm cho chúng ta yêu mến Thiên Chúa trên hết mọi sự và yêu mến tha nhân vì Ngài. Nhưng để đức ái, tựa hạt giống tốt, lớn lên trong tâm hồn và kết sinh hoa trái, mỗi một tín hữu phải sẵn lòng lo lắng nghe Lời Chúa, và với ơn Ngài thực hành thánh ý Ngài; phải năng lãnh nhận các bí tích, nhất là bí tích Thánh Thể, năng tham dự vào các nghi lễ phụng vụ, chuyên cần cầu nguyện, từ bỏ mình, nhiệt thành phục vụ anh em và chuyên cần luyện tập các nhân đức. Thực thế, đức ái là mối dây liên kết của sự trọn lành, là sự viên mãn của lề luật (x. Col 3,14; Rm 13,10), nên đức ái chi phối mọi phương thế nên thánh, làm cho chúng hình thành và đạt được cùng đích 12. Vì thế, đức ái đối với Thiên Chúa và tha nhân là dấu chỉ người môn đệ chân chính của Chúa Kitô.

Vì Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa, đã tỏ tình yêu của Người bằng cách hy sinh mạng sống vì chúng ta, nên không ai có tình yêu cao cả hơn người hy sinh mạng sống vì Chúa và vì anh em (x. 1Gio 3,16; Gio 15,13). Một số Kitô hữu ngay từ thời sơ khai đã được gọi và sẽ còn được gọi mãi để làm chứng tình yêu ấy cách hùng hồn trước mặt mọi người, nhất là trước mặt những kẻ bách hại mình. Khi tử đạo, người môn đệ đồng hóa với Thầy mình, Ðấng đã tình nguyện chấp nhận cái chết để cứu độ thế giới, và người môn đệ nên giống Người trong việc đổ máu; Giáo Hội coi việc tử đạo đó như một ân huệ lớn lao và một bằng chứng cao cả về đức ái. Mặc dầu chỉ một số ít được phúc tử đạo, nhưng tất cả mọi người phải sẵn sàng tuyên xưng Chúa Kitô trước mặt mọi người, và bước theo Người trên đường thập giá giữa những cuộc bách hại không hề thiếu vắng trong Giáo Hội.

Sự thánh thiện của Giáo Hội cũng được đặc biệt khích lệ bởi nhiều lời khuyên Chúa đã đề ra trong Phúc Âm cho môn đệ noi theo 13. Trong những lời khuyên ấy, trước hết phải kể ân huệ cao quí mà Chúa Cha ban cho một số người (x. Mt 19,11; 1Cor 7,7), để họ tận hiến trọn tình yêu không chia xẻ cho một mình Chúa cách dễ dàng hơn, trong bậc đồng trinh hay độc thân (x. 1Cor 7,32-34) 14. Sự tiết dục hoàn toàn vì Nước Trời luôn được Giáo Hội đặc biệt quí trọng và coi như dấu chỉ và động lực của đức ái, và như nguồn mạch đặc biệt sinh nhiều ơn ích thiêng liêng trong thế giới.

Giáo Hội cũng nhớ lời khuyên nhủ của Thánh Tông Ðồ thúc giục các tín hữu sống bác ái và khuyên họ phải có tâm tình như Chúa Giêsu Kitô "Ðấng tự diệt mình, nhận lấy hình hài tôi tớ..., và vâng lời cho đến chết" (Ph 2,7-8), và vì chúng ta, "Người đã trở nên nghèo nàn, tuy Người vốn giàu sang" (2Cor 8,9). Việc noi theo và làm chứng đức ái cùng sự khiêm hạ của Chúa Kitô cần được các môn đệ thực hiện không ngừng; nên Giáo Hội là Mẹ chúng ta vui mừng khi thấy trong lòng mình có nhiều con cái nam nữ muốn theo sát gương Ðấng Cứu Thế và tỏ lộ rõ ràng hơn sự tự diệt của Người. Họ chấp nhận nghèo khó trong tự do của con cái Thiên Chúa và từ bỏ ý riêng: hơn cả mức đòi buộc của giới luật, họ tự nguyện tùng phục một con người, tùng phục vì Chúa, trong những gì liên hệ tới sự trọn lành, hầu nên giống Chúa Kitô vâng lời cách hoàn toàn hơn 15.

Vì thế, mọi Kitô hữu đều được kêu mời và có bổn phận nên thánh và nên trọn lành theo bậc sống mình. Bởi vậy, tất cả hãy lưu ý điều khiển tâm tình mình cho đúng đắn, để việc xử dụng của cải trần gian và lòng quyến luyến sự giàu sang nghịch với tinh thần khó nghèo của Phúc Âm, không cản trở họ theo đuổi đức ái trọn hảo, như lời Thánh Tông Ðồ cảnh giác: ai xử dụng thế gian này, xin chớ dừng lại đó, vì cuộc diện đời này sẽ qua đi (x. 1Cor 7,31, bản Hy lạp) 16. 54*

 


Chú Thích:

50* Trong lược đồ trình lên Công Ðồng khi khai mạc kỳ họp thứ hai, cả hai chương V và VI như chúng ta thấy hiện nay đều nằm chung trong một chương. Sự phân chia hai chương đó đặt ra hai câu hỏi:

1) Soạn một chương đặc biệt nói về tu sĩ phải chăng không thích hợp: (x. cuộc tranh luận trong chương kế tiếp).

2) Phải chăng tốt hơn là sắp đặt chương V này của lược đồ vào trong các chương I và II? Bởi vì việc nên thánh gắn liền với đời sống và mầu nhiệm Giáo Hội nên không thể bàn riêng được. Như vậy đáng lẽ Hiến Chế được kết cấu cân xứng và mạch lạc hơn: sau những chương đề cập đến mầu nhiệm Giáo Hội và Dân Thiên Chúa (bao gồm cả khía cạnh thánh thiện và cánh chung) là những chương nói về các bậc sống khác nhau trong Giáo Hội: giáo phẩm, giáo dân cách tổng quát, tu sĩ và những người có gia đình. Kết thúc là chương về Ðức Mẹ. Việc sắp xếp như vậy không thực hiện được vì thiếu thời giờ.

Chương V được kết cấu như sau: Công Ðồng xác định sự thánh thiện bản thể và luân lý của Giáo Hội (số 39), rồi kêu gọi mọi phần tử trong Giáo Hội phải nên thánh và hướng về sự nên thánh (số 40). Phải nên thánh thực sự trong bất cứ địa vị, điều kiện hay nghề nghiệp nào (số 41) bởi vì mọi phần tử trong Giáo Hội đều có những phương tiện tự nhiên và siêu nhiên giúp cho họ không những nên thánh mà còn có được sự hoàn hảo trong bậc sống riêng của mình (số 42).

1 Sách lễ Roma, Vinh danh Thiên Chúa trên các tầng trời. Xem Lc 1,35; Mc 1,24; Lc 4,34; Gio 6,69 (ho hagios tou Theou); CvTđ 3,14; 4,27 và 30; Dth 7,26; 1Gio 2,20; Kh 3,7.

51* Số 39: Nhập đề.

Ðiều quả quyết chủ yếu của số này là: Giáo Hội thánh thiện. Những ý tưởng khác trong số này đều phụ thuộc vào điều quả quyết chủ yếu đó. Giáo Hội thánh thiện vì tham dự vào sự thánh thiện của Chúa Giêsu Kitô. Do đó, mới có lời kêu gọi nên thánh trong trật tự luân lý, vì trong trật tự đó mà Giáo Hội phải thực hiện sự thánh thiện bản thể Chúa Kitô ban cho. Sự thánh thiện này biểu lộ trong những hoa trái ân sủng nơi mỗi người, dưới nhiều hình thức, và đặc biệt trong việc thực hành các lời khuyên Phúc Âm với tính cách riêng hoặc chung. Tóm lại, số này nhấn mạnh đến khía cạnh bản thể và luân lý của sự thánh thiện mà Thiên Chúa ban cho Giáo Hội qua Chúa Kitô và trong Chúa Thánh Thần; và chỉ mới trình bày nền tảng theo lời Thánh Phaolô: "Vì Thiên Chúa muốn anh em được thánh hóa".

2 Xem Origenê, Comm. Rom. 7,7 : PG 14, 1122B Macariô Giả, De oratione, 11 : PG 34, 861 AB. T. Tôma, Summa Theol. II-II, q. 184, a. 3.

3 Xem T. Augustinô, Retract. II, 18 : PL 32, 637t. Piô XII, Tđ. Mystici Corporis, 29-6-1943 : AAS 35 (1943), trg 225.

4 Xem Piô XI, Tđ. Rerum omnium, 26-1-1923 : AAS 15 (1923), trg 50 và 59-60. n.t. Tđ. Casti connubii, 31-12-1930 : AAS 22 (1930), trg 548. Piô XII, Tông hiến Provida Mater, 2-2-1947: AAS 39 (1947), trg 117. Diễn từ Annus sacer, 8-12-1950: AAS 43 (1951), trg 27-28. Diễn từ Nel darvi, 1-7-1956 : AAS 48 (1956), trg 574t.

52* Số 40: Mọi người đều được kêu gọi nên thánh.

Số này xét đến sự thánh thiện của mỗi Kitô hữu nằm trong văn mạch về sự thánh thiện của Giáo Hội. Công Ðồng đưa ra những yếu tố gắn liền với lời kêu gọi mỗi người nên thánh. Ðoạn nhất bày tỏ sự thánh thiện của mỗi Kitô hữu, và vì Kitô hữu được công chính hóa nhờ đức tin và phép Thánh Tẩy, tự bản thể và căn nguyên họ trở nên thánh thiện trong chân lý, nên họ có nhiệm vụ phải sống xứng hợp với điều ấy. Nền tảng thánh thiện vẫn tồn tại sau khi phạm tội. Ðề cập đến tội lỗi là để tránh một hình thức duy tâm nguy hại và để có thể lưu ý đến thực tại. Ðoạn hai kêu gọi mọi người nên thánh hoàn toàn. Ðây là phần kết luận cho cả số, rút ra từ nền tảng đã đặt định: Kitô hữu không chỉ nên thánh mà thôi, nhưng còn phải thực hiện sự thánh thiện trong đời sống cụ thể. Kitô hữu được kêu gọi làm việc đó.

5 Xem Tôma, Summa Theol. II-II, q. 184, a. 5 và 6; De Perfect. Vitae spir., ch. 18. Originê, In Is. bài giảng 6,1 : PG 13, 239.

6 Xem T. Inhaxiô Tử đạo, Magn. 13,1 : x.b. Funk I, trg 241.

7 Xem T. Piô X, huấn từ Haerent animo, 4-8-1908: AAS 41 (1908), trg 560t. Giáo luật kh. 124. Piô XI, Tđ. Ad Catholici sacerdoti I, 20-12-1935 : AAS 28 (1936), trg 22.

8 Xem Pontificale Romanum, lễ truyền chức linh mục, lời huấn từ đầu.

9 Xem T. Inhaxiô Tử đạo, Trall. 2,3 : x.b. Funk I, trg 244.

10 Xem Piô XII, diễn từ Sous la maternelle protection, 9-12-1957 : AAS 50 (1958), trg 26.

11 Xem Piô XI, Tđ. Casti connubi I, 31-12-1930: AAS 22 (1930), trg 548. T. Gioan Kim Khẩu, In Ephes. Bài giảng 20,2 : PG 62,136 tt.

53* Số 41: Thực hành sự thánh thiện.

Ðộng lực trong đời sống Kitô giáo hướng dẫn mọi tín hữu đến đức ái hoàn hảo. Việc đó được thực hành theo nhiều mức độ, cũng như tùy theo các hồng ân và trạng huống khác nhau, hoặc trên bình diện đời sống Kitô giáo nói chung, hoặc mỗi bậc sống nói riêng. Theo văn mạch chúng ta thấy rằng nếu sự thánh thiện chỉ là một xét theo bản thể của nó, nó lại có nhiều cấp độ, vì sự tự do cộng tác vào ân sủng khác nhau, vì các bậc sống khác nhau và cuối cùng vì ân sủng được trao ban theo nhiều cách thức và mỗi người có hồng ân riêng biệt của mình.

Phần còn lại là một lời khuyên nhủ đặc biệt, có tính cách mục vụ, nhằm gởi đến những hạng người và những bậc sống khác nhau trong Giáo Hội (giám mục, linh mục, giáo sĩ, giáo dân, vợ chồng, công nhân, người chuyên nghiệp nói chung), để họ sống và có thể thăng tiến trên đường thánh thiện, phù hợp với địa vị và điều kiện riêng của họ. Như vậy là đi từ lời kêu gọi nên thánh tới nhiệm vụ phải tự thánh hóa trong địa vị và điều kiện riêng của mình. Và đó là nhiệm vụ của mỗi người.  trang)

12 Xem T. Augustinô, Enchir. 121, 32 : PL 40, 288. T. Tôma, Summa Theol. II-II, q. 184, a.1. Piô XII, huấn từ Menti nostrae, 23-9-1950 : AAS 42 (1950), trg 660.

13 Về các lời khuyên nói chung, xem Origenê, Comm. Rom. X,14: PG 14, 1275B. T. Augustinô, De S. Virginitate, 15,15 : PL 40,403. T. Tôma, Summa Theol. I-II, q. 100, a.2, C đoạn cuối; II-II, q. 44, a. 4,3.

14 Về sự cao vời của đức khiết tịnh thánh hiến, xem Tertullianô, Exhort. Cast. 10 : PL 2,925C. T. Cyprianô, Hab. Virg. 3 và 22 : PL 4,443B và 461At. T. Athanasiô (?), De Virg. PG 28,252tt. T. Gioan Kim Khẩu, De Virg. : PG 48,533tt.

15 Về sự khó nghèo, xem Mt 5,3 và 19,21; Mc 10,21; Lc 18,22; gương vâng lời của Chúa Kitô trong Gio 4,34 và 6,38; Ph 2,8-10; Dth 10,5-7. Các Giáo Phụ và các Ðấng sáng lập dòng thường đề cập rất nhiều đến các nhân đức này.

16 Về sự thực hành công hiệu những lời khuyên mà không bắt buộc tất cả mọi người, xem T. Gioan Kim Khẩu, In Mt. bài giảng 7,7 : PG 57,81t. T. Ambrosiô, De Viduis, 4, 23 : PL 16, 241t.

54* Số 42 : Những phương tiện thánh hóa.

Số này trình bày động lực làm cho Kitô hữu thăng tiến trên đường thánh thiện: đó là đức ái. Cơ cấu của số này như sau: đức ái là linh hồn của mọi hành động thánh thiện (42a), biểu lộ bằng hành động cao cả là tử đạo (42b), trong các lời khuyên Phúc Âm, đặc biệt trong sự khiết tịnh vẹn toàn (42c), trong sự khiêm hạ, tuân phục và khó nghèo (42d). Chính nhờ đức ái mà chúng ta tránh được nguy hiểm (42e). Ðức ái là con đường chính yếu và cần thiết để nên thánh. Công Ðồng nhấn mạnh tới tính cách thiên phú của nhân đức này như là hồng ân Chúa ban và tới khía cạnh giới luật đòi người ta phải yêu mến Thiên Chúa và tha nhân nhờ thực hành các nhân đức khác. Công Ðồng còn đề cập đến các bí tích, lời kinh nguyện, sự quên mình, sự khổ hạnh và việc phục vụ huynh đệ. Như thế đức ái là mầm mống các nhân đức khác. Từ những điều đã trình bày chúng ta có thể kết luận là đức ái đòi phải thi hành mọi giới luật Thiên Chúa (x. 1Gio 5,3; Gio 14,21; 2Gio 6). Bậc sống riêng nào của mỗi người cũng có thể thực hành những lời khuyên Phúc Âm. Như vậy là tránh được thiên kiến cho rằng các tu sĩ chiếm độc quyền việc nên thánh. Số 42 làm sáng tỏ động lực này của đức ái qua sự thực hành trong mỗi tình trạng cụ thể.

 

 
VỀ MỤC LỤC
THƯ MỤC TỬ MÙA CHAY 2012
  

Kính gửi : Anh Em linh mục, Anh Chị Em tu sĩ và giáo dân trong gia đình giáo phận

Anh Chị Em rất thân mến,

1.     Vào cuối năm 2011, chúng ta đã tổ chức Công Nghị giáo phận, tạo cơ hội cho mọi thành phần trong giáo phận ý thức tham gia xây dựng ngôi nhà gia đình, cộng đoàn giáo xứ, dòng tu, giáo phận, thành Giáo Hội Mầu Nhiệm-Hiệp Thông-Sứ Vụ. Từ những đề nghị của Công Nghị giáo phận, tôi mong muốn gia đình giáo phận chúng ta khai triển kế hoạch mục vụ cho những năm tới như sau :

- Trọng tâm của năm 2012 và 2013 là củng cố mối hiệp thông với Thiên Chúa và đời sống đức tin trên nền tảng Lời Chúa.

- Trọng tâm của năm 2014 và 2015 là vun đắp sự hiệp thông yêu thương hợp nhất trong gia đình, giáo xứ, dòng tu, giáo phận.

- Trọng tâm của năm 2016 và 2017 là mở rộng sự hiệp thông, đồng cảm, chia sẻ để loan báo Tin Mừng tình thương và sự sống.

2.     Lời Chúa chính là nền tảng vững chắc cho việc xây ngôi nhà Giáo Hội Mầu Nhiệm-Hiệp Thông-Sứ Vụ. Ngay từ Chúa nhật I Mùa Chay, Giáo Hội đã mời gọi con cái mình ý thức về tầm quan trọng của Lời Chúa khi công bố Tin Mừng về Chúa Giêsu chiến thắng những cơn cám dỗ (Mt 4,1-11) :

- Lời Chúa là lương thực nuôi dưỡng đời sống con người toàn diện : “Người ta không chỉ sống nhờ cơm bánh, nhưng còn nhờ lời từ miệng Thiên Chúa phán ra” ;

- Lời Chúa là thành trì bảo vệ và khí giới giúp chúng ta chống trả những cơn cám dỗ muốn lôi kéo chúng ta xa đường lối Chúa : “Ngươi chớ thử thách Chúa là Thiên Chúa của ngươi” ;

- Lời Chúa là chuẩn mực hướng dẫn mọi chọn lựa và quyết định của người Kitô hữu : “Ngươi phải thờ lạy Chúa là Thiên Chúa của ngươi, và phải thờ phượng một mình Người mà thôi”.

Do đó, trong Mùa Chay cũng như trong suốt năm 2012 này, gia đình giáo phận chúng ta phải chú tâm đặc biệt đến việc lắng nghe Lời Chúa, chia sẻ sức sống của Lời Chúa cho nhau trong thánh lễ của giáo xứ, trong giờ kinh tối gia đình, trong các giờ giáo lý và sinh hoạt nhóm, để cùng nhau đem Lời Chúa vào cuộc sống. Lời Chúa được đón nhận trong tâm thế cầu nguyện, dưới ánh sáng và tác động của Thánh Thần Chân Lý, sẽ trở nên nguồn nước trong lành, vun tưới cho hạt mầm ơn thánh phát triển và trổ sinh hoa thơm trái ngọt trong đời sống gia đình và cộng đoàn tín hữu, cũng như cho đời sống xã hội.

3.     Cách cụ thể, tôi đề nghị với Anh Chị Em :

a) Gia đình. Xây dựng đời sống gia đình trên nền tảng Lời Chúa là xây nhà trên nền đá, nhờ đó gia đình vững vàng trước những sóng gió và thử thách trong cuộc đời, trở nên mái ấm của tình thương, thành trì bảo vệ sự sống và sự thiện, ngôi trường đầu tiên dạy dỗ những đức tính căn bản của đời sống làm người. Để được như thế :

- Mỗi gia đình cần có sách Kinh Thánh, được đặt ở nơi xứng hợp, không phải để trưng bày cho đẹp nhưng để đọc và cầu nguyện với Lời Chúa, nhất là trong giờ kinh chung của gia đình.

- Kinh tối gia đình : Việc cầu nguyện chung trong gia đình vừa củng cố sự hiệp thông của mỗi người với Thiên Chúa, vừa liên kết mọi thành viên trong gia đình với nhau. Đây là điều hết sức cần thiết trong một thời đại mà đời sống gia đình gặp nhiều khó khăn và thử thách. Vì thế, xin Anh Chị Em cố gắng duy trì giờ kinh chung trong gia đình, nhất là đem Lời Chúa vào giờ kinh đó.

- Để giúp đỡ các gia đình thực hiện điều này, giáo phận sẽ phổ biến những mẫu Kinh tối gia đình, đồng thời tái bản cuốn Sống Lời Chúa hằng ngày. Mong Anh Chị Em đón nhận và áp dụng.

b) Giáo xứ. Trong mỗi giáo xứ, thánh lễ là nơi thuận lợi nhất cho các tín hữu lắng nghe Lời Chúa. Vì thế, các linh mục cần chuẩn bị bài giảng cách kỹ lưỡng bằng suy niệm và cầu nguyện, để có thể trình bày Lời Chúa cách xứng hợp, rõ ràng và cụ thể, nhờ đó Lời Chúa trở thành ánh sáng soi đường cho đời sống hằng ngày của các tín hữu. Ngoài ra, các linh mục trong cùng một giáo hạt nên chia sẻ với nhau những kinh nghiệm mục vụ, nhằm giúp Anh Chị Em giáo dân tiếp cận Lời Chúa nhiều hơn, ví dụ : học thuộc lòng những câu Kinh Thánh quan trọng, mở các khoá hướng dẫn học Kinh Thánh và chia sẻ Lời Chúa.

c) Các đoàn thể tông đồ. Các hội đoàn và phong trào tông đồ nên thúc đẩy các thành viên tiếp cận Lời Chúa bằng cách đọc và suy niệm hằng ngày, cầu nguyện với Lời Chúa và để cho Lời Chúa hướng dẫn mọi hoạt động của mình.

d) Tu sĩ, chủng sinh. Tôi cũng xin các học viện dòng tu cũng như chủng viện quan tâm đến việc đào tạo chủng sinh và tu sĩ trẻ về Kinh Thánh, không những về kiến thức chuyên môn nhưng còn giúp họ tập đọc Kinh Thánh với đức tin, cụ thể là bằng phương pháp lectio divina.

Kết luận

Mùa Chay là thời gian thuận lợi cho việc canh tân đời sống đức tin, cá nhân cũng như cộng đoàn. Việc đổi mới đó chỉ thành hiện thực nhờ ơn Chúa ban qua các bí tích và nhờ Lời hằng sống mà chúng ta lắng nghe, suy niệm và đem ra thực hành. Ước gì Mùa Chay thánh này trở thành cơ hội thuận lợi thúc đẩy chúng ta yêu mến, gắn bó với Lời Chúa nhiều hơn, ngày càng trở nên những Kitô hữu đích thực theo gương Đức Maria là người “lắng nghe Lời Chúa và đem ra thực hành”, nhờ đó Mẹ được Thiên Chúa chúc phúc : “Phúc cho bà là kẻ đã tin rằng Lời Chúa phán cùng bà sẽ được thực hiện.

Toà Tổng Giám Mục, thứ Tư lễ Tro, đầu Mùa Chay Thánh, 22-02-2012

 

Gioan Bta Phạm Minh Mẫn          

Phêrô Nguyễn Văn Khảm

Giám mục của Anh Chị Em

 

VỀ MỤC LỤC
Mong manh
 

“Phù vân quả là phù vân, tất cả chỉ là phù vân” (Gv 1,2)

Lại một Mùa Chay nữa đang về. Nghi thức khai mạc Mùa Chay mang ấn tượng đặc biệt qua việc xức tro trên đầu các tín hữu. Những thực hành đạo đức của Mùa Chay như sám hối, cầu nguyện, bác ái, chay tịnh đều nhằm nhắc chúng ta nghĩ về thân phận mỏng giòn của kiếp người.

Một năm vừa qua đi được đánh dấu bằng biết bao sự kiện vui buồn. Có những niềm vui của chiến thắng, thành công. Có những nỗi buồn của tan vỡ, thất bại. Mỗi người tự do lượng giá những gì đã xảy ra. Với cái nhìn đức tin, các tín hữu có thể đón nhận những sứ điệp Chúa nhắn gửi cho nhân loại. Nhìn lại năm đã qua, người viết mời quý Độc giả cùng suy tư về hai chữ “mong manh”, phần nào gồm tóm “sự đời” đã và đang diễn ra.

1- Sự mong manh của quyền lực

Năm 2011 chứng kiến sự sụp đổ của một loạt các nhà độc tài trên thế giới:

– Khởi đi từ sự kiện một anh bán rau trên hè phố tự thiêu vì bị cảnh sát chèn ép, một cuộc cách mạng mang tên “Cách mạng Hoa Nhài” đã ra đời tại Tunisia. Người thanh niên tự thiêu ngày 17-10-2010 có tên là Mohamed Bouazizi. Mục đích của anh nhằm phản kháng việc cảnh sát cấm anh bán hàng trên đường phố. Công chúng tức giận và bạo lực gia tăng sau cái chết của Bouazizi. Tổng thống Zine El Abidine Ben Ali của Tunisia, một nhà độc tài, đã phải từ chức ngày 14 tháng 1 năm 2011, sau 23 năm nắm quyền.

– Ngày 11-2-2011, ông Hosni Mubarak từ chức sau 30 năm ở cương vị tổng thống Ai Cập. Hàng triệu người dân đã đổ ra đường phố và hô vang khẩu hiệu “Ai Cập tự do”. Bầu không khí lễ hội hiện diện tại hầu như mọi con đường, khu phố khắp nước. Biến cố này đưa lịch sử đất nước sang một trang mới. Từ New York (Mỹ) cho đến London (Anh), nhiều người Ai Cập cũng chào đón một kỷ nguyên hậu Mubarak”.

– Ngày 1-5-2011, tin thủ lãnh Al-Qaeda Bin Laden bị sát hại đã được loan đi. Sinh thời, nhân vật “trùm khủng bố” này đã trở thành nỗi ám ảnh của nước Mỹ, kể từ khi tòa Tháp đôi tại New York bị đánh sập vào ngày 11-9-2001. Tin này được Nhà Trắng xác nhận vào lúc 7 giờ ngày 1-5. Vì những lý do chính trị, ông Bin Laden đã được thủy táng. Nghi thức thủy táng được thuật lại như sau: “Xác ông được trùm vải trắng và đặt trong một cái túi chứa vật nặng để cho chìm hẳn xuống đáy biển. Miệng túi được cột rất chặt. Cái túi được cho trượt xuống biển bằng một tấm ván. Lúc đó là 6 giờ (giờ quốc tế) tức khoảng 12 giờ sau khi Bin Laden chết. Toàn bộ diễn biến lễ thủy táng kéo dài khoảng 50 phút” (trích từ trang WEB “Tin tức 24 giờ”, ngày 5-5-2011).

– Sau 42 năm trên vị trí lãnh đạo quốc gia Lybia, đại tá Gadhafi đã bị giết ngay tại quê hương của mình là thành phố Sirte. Khi nghe tin này, hàng loạt xe hơi trên đường phố tại Tripoli đã đồng loạt kéo còi kèm theo tiếng súng bắn chỉ thiên để ăn mừng. Gadhafi bị lật đổ hồi tháng 8-2011, trong làn sóng nổi dậy lan khắp thế giới Ảrập. Toà án hình sự quốc tế (ICC) cũng đã phát lệnh bắt Gadhafi vì các cáo buộc tội ác chống lại loài người.

Một vài trường hợp điển hình trên đây cho thấy quyền lực trần thế thật là mong manh. Có những người ở vị trí lãnh đạo một quốc gia trong suốt gần nửa thế kỷ. Nếu họ là những bậc minh quân, thì quốc gia ấy được hưởng biết bao điều tốt lành. Nếu họ là những người độc tài, quốc gia ấy phải gánh chịu những hậu quả vô cùng thảm hại. Khi ở địa vị “thế thiên hành đạo” mà họ không biết đặt ích lợi của người dân làm đầu thì ngai vàng của họ sẽ bị lung lay và sụp đổ. Với danh nghĩa “công bộc của dân” mà không biết lo lắng cho dân được hạnh phúc thì chiếc ghế của họ cũng không thể tồn tại lâu dài. Có người nói: “Quyền lực giống như cát trong lòng bàn tay. Càng xiết chặt, cát càng chảy tuột, nếu nhẹ nhàng, cát vẫn còn đó”. Trước tòa Philatô, Đức Giêsu đã tuyên bố: “Ngài không có quyền gì đối với tôi, nếu Trời chẳng ban cho ngài...” (Ga 19,11). Mọi quyền năng từ Trời mà đến, nhưng một khi không thuận ý Trời, thì quyền năng ấy sẽ bị lụn bại. Mọi chức vụ đều nhằm làm đẹp ý dân, nhưng một khi không còn mang lại cho dân hạnh phúc, thì chức vụ ấy sẽ thành vô nghĩa.

2- Sự mong manh của những tiến bộ kỹ thuật

– Người dân Hoa Kỳ, nhất là những ai cư ngụ ở thành phố New York, đã có một thời tự hào về Trung tâm Thương mại Thế giới (World Trade Center), nổi bật với Tòa tháp đôi gồm 110 tầng, được kiến trúc sư người Mỹ gốc Nhật Minoru Yamasaki thiết kế. Khởi công từ 1966 và khánh thành vào 4-3-1973, nó vượt qua chiều cao của tòa Empire State lịch sử, trở thành tòa nhà cao nhất thế giới. Ấy vậy mà biểu tượng của niềm tự hào này đã bị tiêu hủy ra mây khói trong vòng vài phút, trong trận khủng bố do hai chiếc phi cơ Boeing đâm vào, ngày 11-9-2001. Tòa tháp đôi sụp đổ đã mang theo sinh mạng của khoảng 4.000 người. Du khách đến với New York hôm nay chỉ còn nhìn thấy một khu đất hoang tàn, với những phế tích còn lại của Tháp đôi và những dòng chữ tưởng niệm các nạn nhân vô tội do trận khủng bố dã man này.

– Nước Anh và nước Pháp đã từng đi đầu trong công nghệ sản xuất máy bay với chiếc Concorde, là máy bay chở khách siêu âm thương mại thành công nhất. Bay thử lần đầu năm 1969, Concorde bắt đầu được đưa vào phục vụ năm 1976 và có thời gian hoạt động dài 27 năm. Chiếc máy bay này được mang danh là “Chú chim trắng trên bầu trời”, và đã lập được nhiều kỷ lục, gồm thời gian bay 2 giờ, 52 phút và 59 giây giữa New York và London, ngày 7-2-1996. Mặc dù được đánh giá ở mức kỹ thuật hoàn hảo tuyệt đối, ngày 25-7-2000, máy bay Concorde đã gặp phải một tai nạn tại Gonesse, Pháp. Vụ tai nạn đã làm thiệt mạng 100 hành khách và 9 thành viên phi hành đoàn trên khoang cùng 4 người dưới mặt đất. Đây là vụ tai nạn nghiêm trọng đầu tiên và duy nhất của loại máy bay này. Sau vụ khủng bố tại New York ngày 11-9-2001, Concorde đã được cho ngừng hoạt động ngày 24 tháng 10 năm 2003, chuyến bay về hưu diễn ra ngày 26 tháng 11 năm ấy. Niềm tự hào của những ai đã tạo ra “chú chim trắng trên bầu trời” dần đi vào dĩ vãng.

– Những ngày đầu năm 2012 này, thế giới kinh hoàng khi nghe tin chiếc tàu du lịch hiện đại và khổng lồ của Italia gặp nạn. Chiếc tàu này mang tên giống như chiếc máy bay Concorde. Tên đầy đủ của nó là Costa Concordia. Con tàu trị giá 750.000 Mỹ Kim đã gặp nạn ngày 14-1-2012 ở khu vực đảo Giglio, miền Tuscany, Italia. Tàu Concordia có trọng lượng 114.500 tấn, đang chở 4.200 hành khách, đã va vào đá ngầm. Biến cố này được giới báo chí gọi là “Tàu Titanic Italia”. Một điều trùng hợp kỳ lạ là sự kiện này xảy ra sau đúng 100 năm, kể từ khi con tàu Titanic gặp nạn. Chiếc tàu Titanic chuyên chở 2.201 hành khách đã bị đắm ngày 15-4-1912 làm thiệt mạng hơn 1.500 người.

Những trường hợp điển hình được nêu trên đây cho thấy dù mạnh mẽ đến đâu, thì khoa học kỹ thuật cũng không bao giờ được coi là hoàn hảo. Dù tối tân hiện đại đến mức nào, thì con người cũng không thể coi những sáng chế tinh vi là tối thượng. Khi đã đạt tới đỉnh cao của công nghệ, người ta bị cám dỗ khước từ Thiên Chúa, thậm chí còn có người báng bổ tự cho mình có thể thay thế Thiên Chúa. Họ tự cho mình có thể làm được mọi sự. Theo họ, Thiên Chúa đã trở thành một nhân vật của huyền thoại, hoặc giả nếu Ngài có hiện hữu thì Ngài cũng không phải là Đấng Toàn năng. Thấy rõ được nguy cơ này, Đức Thánh Cha Bênêđictô đã viết trong Tự sắc về Năm Đức Tin như sau: “So với quá khứ, đức tin ngày nay đang phải chịu một loạt những vấn nạn đến từ não trạng thay đổi, đặc biệt là ngày nay não trạng này thu hẹp lãnh vực những điều chắc chắn hợp lý vào lãnh vực những chinh phục của khoa học và kỹ thuật”. Tuy vậy, vị Cha chung của Giáo Hội khẳng định với chúng ta: “Giáo Hội không bao giờ sợ chứng minh rằng giữa đức tin và khoa học chân chính không hề có xung đột, vì cả hai đều hướng về sự thật, tuy bằng những con đường khác nhau” (Tự sắc Porta Fidei, số 12).

3- Sự mong manh của kiếp người

Ngẫm về sự mỏng manh của kiếp người, tác giả Thánh vịnh đã thốt lên:

“Kiếp phù sinh tháng ngày vắn vỏi,

tươi thắm như cỏ nội hoa đồng,

 một cơn gió thoảng là xong,

chốn xưa mình ở cũng không biết mình (Tv 103, 15-16)

Những phát minh khám phá trong lãnh vực y khoa, dù rất hiện đại, cũng không thể kéo dài cuộc sống của con người trên cõi dương gian. Kiếp người vẫn mỏng giòn, sớm nở chiều tàn, như đóa phù dung.

Mong manh giữa sự sống và sự chết. Mỗi năm, cả nước có đến trên chục ngàn người chết vì tai nạn giao thông, hàng ngàn người chết do tai nạn lao động. Tình trạng ngộ độc thực phẩm ngày càng nghiêm trọng đã và đang cướp đi sinh mạng của biết bao người. Có nhiều người còn trẻ đã phải vĩnh viễn ra đi. Biết bao sáng kiến, biết bao quy định, nhưng số người chết vẫn không giảm. Đã nhiều người lên tiếng, nhưng xem ra tình trạng này chưa được cải thiện. Người dân đành phải sống theo kiểu “ai có thân người ấy lo”. Những điều trên đây cho thấy kiếp người thật mong manh, nay còn, mai mất. Mỗi khi ra đường là lo lắng, chỉ khi về tới nhà mới chắc là mình được an toàn.

Mong manh giữa cái thiện và cái ác. Chỉ một chút nóng giận cũng cướp đi một mạng sống. Chỉ một lý do đơn giản cũng làm mất một cuộc đời. Có những người suốt đời chân chất, ăn ở hiền lành, vậy mà một giây phút không làm chủ được bản thân đã trở thành kẻ giết người. Xã hội hôm nay cho thấy ranh giới giữa thiện và ác thật mong manh. Hậu quả là vợ đốt chồng, con giết cha. Xã hội khá nhiều những người con “nghịch tử”. Sự bất hiếu có nguyên nhân muốn đặt lợi lộc vật chất làm ưu tiên hàng đầu. Xã hội đưa ra nhiều phong trào, nhưng chỉ giống như “ném gạch giữa ao bèo”. Giáo Hội phát động nhiều chiến dịch, nhưng chỉ như “muối bỏ biển”. Liều thuốc có hiệu quả chắc chắn phải là sự cải hóa nội tâm. “Tâm bình, thế giới bình”, chỉ một khi con người có lương tâm ngay thẳng, chân thành hướng thiện, lúc đó họ mới có thể góp phần xây dựng một cuộc sống an bình.

Mong manh giữa khôn và dại. Gần đây, thành phần những người phải ra trước vành móng ngựa càng ngày càng đa dạng. Họ là quan chức cao cấp, là người mẫu, là diễn viên điện ảnh, là chủ khách sạn, là người cha người mẹ, là trẻ vị thành niên. Ai cũng hối hận nhưng đã quá muộn màng. Trước khi bị bắt, ai cũng nghĩ mình khôn. Sau khi vào tù, mới ngỡ ra mình dại. Những người đang khôn, bỗng trở thành dại trong chốc lát, vì tham vọng, ghen tương và vì lóa mắt trước những cám dỗ vật chất. “Vàng là vật chất tỏa sáng, nhưng không phải bất cứ thứ gì tỏa sáng đều là vàng”. Nhiều người ngẫm ra điều ấy thì thấy mình đã quá dại dột. Làm sao biết mình khôn thực sự? Tác giả Thánh vịnh trả lời: “Kính sợ Chúa là đầu mối khôn ngoan(Tv 111, 10). Thực thế, khôn ngoan theo kiểu người đời sẽ làm con người hư mất. Khôn ngoan trong ơn nghĩa Chúa sẽ đem lại cho con người vinh quang. Vị Tông đồ dân ngoại cũng đã đúc rút kinh nghiệm quý báu đó cho chính mình: “Chúng tôi không sống theo lẽ khôn ngoan người đời, nhưng theo ân sủng của Thiên Chúa” (2 Cr 1, 12).

Thì ra trong “cõi người ta”, cái gì cũng chỉ là tương đối. Quyền lực, danh vọng và của cải chỉ có ý nghĩa khi nó nhằm phục vụ ích chung. Quyền lực được lâu bền nhờ tinh thần phục vụ, thân thế được lưu danh nhờ biết sống vì tha nhân. Đức Giêsu đã nói về quyền lực: “Anh em biết: thủ lãnh các dân thì dùng uy quyền mà thống trị dân, những người làm lớn thì dùng lấy quyền mà cai quản dân. Giữa anh em thì không được như vậy: Ai muốn làm lớn giữa anh em, thì phải làm người phục vụ anh em. Và ai muốn làm đầu anh em thì phải làm đầy tớ anh em”. Đức Giêsu đã áp dụng triết lý sống này nơi bản thân Người: “Con Người đến không phải được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ và hiến dâng mạng sống làm giá chuộc muôn người” (Mt 20,25-28). Khái niệm “lãnh đạo là người phục vụ” của Tin Mừng đã ảnh hưởng sâu sắc tới nền văn hóa của các nước có truyền thống Kitô giáo.

Khi nhận ra sự mong manh của cuộc đời, chúng ta không bi quan chán nản trước những bất toàn. Khi thấy rõ giới hạn của con người trần thế, chúng ta vươn tới Đấng toàn năng cao cả. Vâng, Thiên Chúa là Đấng trung thành. Ngài luôn hướng dẫn cuộc đời chúng ta và trả công cho chúng ta theo như chúng ta đối xử với anh chị em mình.

+ Gm Giuse Vũ Văn Thiên

Giáo phận Hải Phòng   (Nguồn WHĐ)


VỀ MỤC LỤC

“ĐƯỜNG HY VỌNG”

 

Gần đây, 3 Tổng Giáo Phận tại Việt Nam và rất nhiều trang mạng Công Giáo thông báo về tiến trình điều tra để tuyên phong Á Thánh và Hiển Thánh cho Đức Hồng Y Fx. Nguyễn Văn Thuận. Xin được kính dâng ngài một chút lòng mọn.

 

Gần mười năm Cha đã đi xa

Khỏi khuôn khổ bầu trời trái đất

Gần mười năm Cha đã mất

Chẳng còn qui luật sáng tối bủa vây

 

Bảy mươi bốn năm đường đời Cha đã kinh qua

Qua muôn nẻo khổ đau hạnh phúc

Ba mươi bốn năm làm Giám mục

Mặc áo tù ròng rã mười ba năm

 

Áo tù nhân bỗng hóa màu hồng

Thành tu phục Hồng y tỏa sáng

Vạn gian truân là vạn đóa hồng

“Đường Hy Vọng” rộn rã tiếng yêu thương

 

Cha mang gì trên “Đường Hy Vọng”

“Năm Chiếc Bánh và Hai Con cá”

Chúa đã cho năm ngàn người đói lả no nê

Để từ đây chân chân trời góc bể

Niềm hy vọng thắp sáng muôn lòng

 

Mặt trời mọc từ phía đàng Đông

Con lại nhớ Cha mang dòng máu Việt

Triệu con tim rung nhịp thương tiếc

Ánh mặt trời tắt lịm đàng Tây

Mặt trời ơi hãy thức mỗi ngày

Cho Hy vọng sáng bừng dương thế.

 

Pt. Thomas Nguyễn Văn Hiệp

 
VỀ MỤC LỤC
HỒNG Y LÀ AI VÀ CÓ CHỨC NĂNG GÌ ?
  

Nhân dịp  Đức Thánh Cha Bê-nê-đich-tô 16 , ngày 06  tháng 1 vừa qua, nhân lễ Chúa Hiển Linh, đã công bố việc chọn thêm 22 tân Hồng Y nữa cho Giáo Hội, tôi xin được trả lời  chung những câu hỏi của nhiều đôc giả về vai trò và trách nhiệm của tước vị Hồng Y trong Giáo Hội Công Giáo La Mã như sau:

Trước hết, về ngữ căn (etymology), từ Hông Y (Cardinal) xuất phát từ  nguyên ngữ Latin CARDO có nghĩa là “cái bản lề" (hinge) tức bộ phân then chốt để giừ cho cánh cửa được đứng vững trong khung cửa. Từ ý nghĩa tượng trưng này, các Hồng Y được mệnh danh là “những vị Hoàng tử ( princes) của Giáo Hội  với  2 chức năng rất quan trọng sau đây:

1-    Là cố vấn để đóng góp ý kiến (kiến thức và khôn ngoan) cho Đức Thánh Cha trong việc điều hành và cai tri Giáo Hôi Công Giáo  hoàn vũ

2-    Khi vào Mật nghị (Conclave) để bầu Giáo Hoàng mới , tất cả các Hông Y đủ điều kiện theo luật bầu cử đều đương nhiên là các  ứng viên (potential candidates có thể được bầu chứ không ra ứng cử) và cũng là những người được quyền bỏ phiếu chọn (elector) Giáo Hoàng mới. khi đương kim Giáo Hoàng qua đời ( x. Giáo luật (1983) ,số 349)

Theo Luật bầu Giáo Hoàng hiên hành, áp dụng từ nhiều năm qua, thì khi tròn 80 tuổi, các Hồng Y không còn được tham dự Mật  nghị  để bầu  Giáo Hoàng mới  hay tham dự bất cứ mật hội nào do Đức Thánh Cha triệu tập và chủ tọa để bàn thảo về  một vấn đề quan trọng nào của Giáo Hội.Thêm nữa, khi các  Hồng Y đến tuổi 75, và hiện đang  coi sóc các Tổng Giáo Phận hay các  Bộ hoặc Cơ quan trọng yếu  trong Giáo Triều Roma  thì cũng phải xin từ chức, để tùy Đức Thanh Cha quyết định chấp nhận hay cho lưu nhiệm thêm. Thí dụ, trường hợp  Đức đương  kim  Giáo Hoàng Bê-nê-đích- tô 16,  khi đang còn làm Tổng Trưởng Thánh Bộ Giáo Lý Đức Tin, đã xin nghỉ hưu năm ngài 75 tuổi nhưng đã được Đức cố Giáo Hoàng  Gioan-Phaolô II yêu cầu tiếp tục nhiệm vụ  thêm thời gian nữa, nên ngài vẫn đảm trách chức vụ Tổng Trưởng trên cho đến  khi ngài được bầu lên ngôi Giáo Hoàng  ngày 19-tháng 4 năm 2005 ( x.giáo luật 354)

Trước năm 1917 tức là năm ban hành bộ Giáo luật cũ, (giáo luật mới 1983 thay giáo luật cũ 1917) các Hồng Y có thể là những giáo dân  không có chức linh mục hay giám mục, được Giáo Hoàng ban cho tước vị này vì những lý do riêng tư. Nhưng với Giáo luật năm 1917, thì người thường dân không còn được chọn nữa, mà chỉ dành cho các linh mục hay giám mục xuất sắc mà thôi. Đến thời Đức cố Giáo Hoàng Gioan XXIII, thì ai được phong tước Hông Y cũng phải được thụ phong Giám mục nếu vị đó chưa là giám  mục. Tuy nhiên cho đến nay thì tước Hồng Y vẫn còn được trao cho một số linh mục xuất sắc, từng giữ các chức vụ quan trọng trong Tòa Thánh  hoặc là những thần học gia nổi tiếng như các linh mục  Yves M.J  Congar (O.P) Henri de LuBac và Allen Dulles (SJ) ( đều đã qua đời) ... Trong đợt Hồng Y mới được công bố ngày 06  tháng 1 vừa qua, cũng có  3  linh mục  xuất sắc, từng phục vụ đắc lực trong Giáo Triều được chọn làm Hồng Y. Các tân Hông Y sẽ được trao mũ đỏ ngày 18 tháng 2 này tại Đền Thánh Phêrô.

Cũng cần nói thêm là khác với thông lệ trong quá khứ khi Hông Y được chọn từ những gia đình quí tộc ỏ Âu Châu hoặc những người được Giáo hoàng ưu đãi, thưởng công riêng, các Hồng Y ngày nay phần lớn xuất thân từ những gia đình đạo đức, bình dân, phải là nam giới và ít nhất  là  người có chức linh mục và  “trỗi vượt về đạo lý, tác phong, đạo đức và khôn ngoan” (x. giáo luật số 351 & 1). Nhưng thường là  các giám mục xuất sắc về đức độ và khả năng để có thể trở thành Giáo Hoàng cai quản Giáo Hội trong tương lai. Lại nữa, vì  Hồng Y có thể là linh mục , nên nếu vị  này được đắc cử Giáo Hoàng thì phải được Hồng Y niên trưởng tấn phong chức  Giám  Mục trước khi  đăng quang (nhậm chức Giáo Hoàng) (x.giáo luật số 355, &1)

 Tuy nhiên việc này chưa từng xẩy ra vì các Hồng Y từ nhiều thập niên qua đều là những vị có chức Giám mục  hay đã được tấn phong giám mục sau khi được phong tước Hồng Y.

 Như thế cho thấy chức Giám mục là chức thánh quan trọng nhất của Giáo Hội, vì Giám mục là những người kế vị các Thánh Tông Đồ trong chức năng và sứ mệnh rao giảng Tin Mừng cứu độ, dạy dỗ chân lý và cai trị Giáo Hội. Chúa Giêsu xưa chỉ chọn các nam Tông Đồ, mà người kế vị các ngài là các Giám mục ngày nay trong Giáo Hội. Hồng Y không phải là một chức thánh mà chỉ là tước vị (Title) do Giáo Hội đặt ra vì nhu cầu chọn người kế vị Thánh Phêrô, tức Đức Thánh Cha cũng là Giám mục Rôma và  là Thủ lãnh Giáo Hội Công Giáo hoàn vũ. 

Các Hồng Y họp lại thành Hồng Y Đoàn riêng biệt (College of Cardinals) do  một vị làm niên trưởng (Dean)

Có 3 đẳng cấp Hồng Y  sau đây.

1-  Hồng Y Giám mục ; (Cardinal bishops) là những giám mục từng coi sóc những giáo phận chung quanh Rôma nhưng nay là những Hồng Y thâm niên  làm việc trọn thời gian (full-time) trong Giáo Triều Roma. (Roman Curia)

2-  Hồng Y Linh mục (Cardinal Priests) là những Hồng Y hoăc làm việc trong Giáo Triều hoặc đang coi sóc các Tổng Giáo Phận ngoài Roma  tức là các Tổng Giáo phận ở Ý hay ở các quốc gia trên thế giới như Paris, New York, Sydney, Houston, Saigon, Manilla v.v

3-  Hồng Y Phó Tế (Cardinal Deacons) từng là những Giám mục hiệu tòa (Titular Bishops) tức là không coi sóc Giáo phận nào, và đang làm việc trọn thời gian trong Giáo Triều.

Khi các Hồng Y họp kín để bầu Giáo Hoàng mới, Hồng Y Trưởng đẳng Phó tế sẽ công bố danh tánh vị được đắc cử và có thể thay thế Đức Thánh Cha để trao dây Pallium cho các tân Tổng Giám mục hoặc cho người đại diện các vị vắng mặt. ( x. giáo luật số 355, & 2)

Thêm nữa, tất cả các Hồng Y, khi được Đức Thánh Cha chọn và trao tước vị này,  đều được chỉ đinh tước hiệu (Title) của một thánh đường trong hoặc ngoài Rôma. Với tước hiệu đó,  tân Hông Y đến thánh đường được chỉ định để nhận tòa nhưng không có quyền quản trị nào về hành chánh, nhân sự cũng như tài sản của thánh đường đó, mà chỉ hiệp thông để hỗ trợ về mặt  tinh thần mà thôi. ( giáo luật số 357 &1)

Sau hết, tất cả  các Hồng Y,  nếu không đảm nhận chức vụ Tổng Giám Mục  để coi sóc các Tổng giáo phận ở đâu  trên thế giới, thì đều phải cư trú ở Rôma  hoặc phải trở về Giáo đô khi Đức Thánh Cha triệu tập để họp bàn việc gì quan trọng của Giáo Hội (giáo luật số 356)

Chúng ta cầu nguyện nhiều cho các Hồng Y –cách riêng cho 22 Tân Hồng Y của Giáo Hội để các ngài xưng đáng lãnh nhận và chu toàn những nhiệm vụ mà Giáo Hội trao phó.

LM. Phanxicô Xaviê Ngô tôn Huấn

 

VỀ MỤC LỤC
NGƯỜI PHONG HỦI THỨ 501.
 

Người ta ví 'bẩn như hủi' tức là bệnh cùi hay còn gọi là bệnh phong. Đến những trung tâm tại phong cùi thấy người bệnh bị lở loét, vết thương chảy nước, thịt xương đỏ hoẻn, cụt chân tay, tai mũi,....mùi hôi thối sông lên nồng nặc; đeo khẩu trang mà vẫn ngửi thấy mùi; có người thấy mà phát nôn mửa về nhà không dám ăn cơm; trẻ em trông thấy khóc thét lên. Người ta xa lánh, cách ly, cô lập người bệnh. Khổ lắm.

Thời cựu ước, sách Lêvi kể : “các tư tế được quyền khám xét xem ai bị : ung nhọt, lác, đốm, nghẻ lở, phỏng, lang ben, hói đầu hay phong hủi để tuyên bố là mắc ô uế và họ khám xét rất kỹ người bệnh. Nếu vết thương thịt đỏ lòm đó là bị cùi, hủi và phải theo qui chế là mặc áo rách, xoã tóc, che râu và kêu lên 'ô uế, dơ bẩn', phải ở riêng ra, chỗ của họ là một nơi bên ngoài trại, ai động vào người mắc bệnh ô uế tội nặng” (bđ1, Lv 13, 1-2. 45- 46).

Thời Chúa Giêsu, ở Do thái có những quy định bật cười hơn nữa:

- người hủi thò đầu vào nhà ai, bị lây bẩn tận cây kèo trên mái nhà,

- không được đến gần họ 2m ; hủi đứng đầu gió, người đứng cuối phải cách xa 45m.

- các rabbi Do thái không được ăn quả trứng, nếu bán ở chợ có người hủi đi qua. Có lẽ còn hơn cả dịch cúm H5N1 ở VN ta! Quá quắt thật.

Năm 1871, ông Hansen tìm ra vi trùng bệnh phong (mang tên ông) đem lại niềm hy vọng cho người phong hủi. Tới nay, người ta đã chữa được và làm cho không lây lan.

Cha Đa-mi-êng người Bỉ được Đức Cha cử giới thiệu sống với người phong hủi ở 1 hòn đảo. Họ không tin cha là người thật. Cha đã sống với họ, và được gọi là 'tông đồ của người cùi' rồi chết với họ. Đức cha Jean Cassaigne, người Pháp đã phục vụ, sống chết với người hủi ở Di Linh Việt Nam. Nhà thơ công giáo Hàn Mặc Tử cũng mắc bệnh hủi; thời gian bị bệnh ông đã viết nhiều bài thơ nổi tiếng trong văn học VN, người ta mới dựng phim cuộc đời thi sĩ điên.

Đức cha Fulton Sheen, một nhà giảng thuyết nổi tiếng trên các đài truyền hình Mỹ (1955-1960) kể: thăm trại cùi 500 người ở Châu Phi, ngài mang nhiều thánh giá bạc làm quà tặng. Bệnh nhân đầu tiên ngài gặp chỉ còn 1 cánh tay trái. Đức cha cầm thánh giá, giữ cách bàn tay người cùi 10cm thả xuống lòng bàn tay bệnh nhân. Ngài bị đánh động và nói: 'thình lình tôi nhận ra có 501 người cùi trong trại. Và người cùi ghẻ lở nhất là tôi'. Vì trao tặng thánh giá là biểu tượng tình yêu nhưng tôi lại đánh mất ý nghĩa tình yêu ấy...Tôi ân bàn tay vào bàn tay người cùi và trao tình yêu cho họ. Tôi đã làm như thế cho 499 người còn lại'.

Gần thời chúng ta hơn nữa, có Mẹ Têrêxa Calcutta đã lập quỹ giúp người phong cùi. Các thùng tiền Mẹ đều đề hàng chữ ' hãy chạm đến người phong hủi bằng lòng trắc ẩn của bạn'.

Tất cả những nhân vật nổi tiếng, thánh thiện vừa kể trên là cha Đamiêng, đức cha Jean Cassainge, nhà thơ Hàn Mặc Tử, đức cha Fulton Sheen, Mẹ Têrêxa Calcutta và còn nhiều linh mục, tu sĩ, anh chị em giáo dân khác nữa đã vượt qua nỗi sợ hãi, mặc cảm đối với người phong hủi để trao ban tình thương cho họ noi gương Chúa Giêsu. Bài Tin mừng hôm nay kể : Chúa Giêsu tiến lại gần, động lòng thương, giơ tay chạm vào người phong cùi, anh ta được khỏi luôn. Ngài đã vượt qua hàng rào cấm kỵ, đến gần người phong hủi, bất chấp nguy hiểm, cái nhìn, và sự cấm kỵ của người Do thái. Vì "tất cả những ai đến với Tôi, Tôi không xua đuổi bao giờ".

Đức Giêsu đã từng động chạm tới mọi hạng người : trẻ em, người tội lỗi, mù, điếc, người chết hoặc để cho họ đụng chạm vào như người đàn bà bị bệnh loạn huyết. Tất cả đều được chữa lành hết. Ngài cũng gần gũi các loại 'bệnh hủi' khác như : người thu thuế, đĩ điếm, trộm cắp, ngoại tình, ngoại đạo,...đó là những loại hủi trong xã hội và giáo hội. Ngài là bác sĩ đa khoa mà, chữa rất nhanh mà không sợ lây lan.

Qua cử chỉ động vào người phong hủi, Đức Giêsu đã giải thoát họ khỏi đau đớn phần xác, làm cho cơ thể lành lặn, da dẻ hồng hào, tươi tắn, khuôn mặt rạng rỡ, giọng nói thanh tao như bao người khác; qua đó Chúa Giêsu còn đi tới chỗ vuốt ve tâm hồn anh làm cho anh từ nay không còn mặc cảm bệnh tật, không bị khinh miệt, không bị loại trừ, bỏ rơi, lạnh giá nhưng trở nên gần gũi, trân trọng, yêu thương vỗ về, trái tim lành lặn, được phục hồi tâm hồn, trả lại phẩm giá làm con người, con Chúa để ngẩng cao đầu gia nhập cộng đoàn xã hội và giáo hội qua đời sống sinh hoạt phụng vụ, gặp gỡ tư tế.

Đức Giêsu là bác sĩ cao tay tuyệt vời : chữa bệnh tâm lý, thể lý, phần xác, phần hồn.. ngày nay, Đức Giêsu vẫn động chạm tới con người qua các bí tích để chúng ta được chữa lành. Chúng ta có để cho Chúa động chạm vào không? Lát nữa, lên rước lễ được động chạm vào Mình Thánh Chúa, chúng ta có tâm tình, thái độ, đức tin như thế nào? Hay 'gần chùa gọi bụt bằng anh'?

Trong cuộc sống chúng ta có những cái động chạm làm người khác : giật mình, run rẩy, kinh hãi, tự ái hay ngược lại có những cái động chạm làm cho người khác được ấm lòng lên, nồng nàn tình yêu, thay đổi cuộc sống. Có những cái động chạm làm cho người khác phải đau xót, dằn vặt, không muốn sống nữa.  

Trong nhà thờ này, không có bác sĩ nào dám khám xét để thống kê cho chính xác xem có bao nhiêu người mắc bệnh hủi, nhưng tuy bề ngoài chúng ta sạch đẹp bóng láng mà có thể :

- trong đầu óc bị cùi hủi, bẩn thỉu lắm: khi mình đưa vào những hình ảnh, sách báo, phim truyện xấu, những ý nghĩ xấu xa độc ác đang chen chúc chiếm chỗ nhau.

- tâm hồn chúng ta bị cùi hủi : khi chất chứa đầy sự ích kỷ, giận hờn, ghen ghét,...

- tương quan xã hội bị cùi hủi : khi lời nói, giọng nói, hành động xấu, cái nhìn khích bác, khinh bỉ, xua đuổi, loại trừ anh chị em một cách xem ra tết nhị, lịch sự, văn minh như một mũi kim nhỏ nhưng rất đau đớn trong tâm hồn người khác.

- trong gia đình, khu xóm, cộng đoàn không đón nhận nhau. Tội lỗi là một loại bệnh hủi ghê gớm, lây lan. Chúng ta có thể tìm thấy nguyên nhân trên qua một lời cầu nguyện rất hay sau đây:

"Lạy Chúa là Thiên Chúa của con,

có những ngày đón nhận những người khác là điều vượt quá sức con,

vì con kiêu hãnh, tự hào và yếu đuối.

Lạy Chúa là Thiên Chúa của con,

có những ngày con không thể nào kính trọng kẻ khác được,

vì ý kiến, vì màu da, vì cái nhìn của người ấy.

Lạy Chúa là Thiên Chúa của con,

có những ngày mà yêu mến người khác làm cho tim con đau nhói,

vì nỗi sợ hãi, nỗi khổ đau và những giới hạn của bản thân con.

Lạy Chúa là Thiên Chúa của con,

trong những ngày khó khăn đó,

xin hãy nhắc cho con nhớ rằng tất cả chúng con đều làm con cái Chúa

và đừng để con quên Lời Chúa nói :

"Điều gì chúng con làm cho người bé nhỏ nhất là làm cho chính Ta"

(trích trong Prier).

 

Lời cầu nguyện tuyệt vời này giúp ta xét mình luôn.

 

Thực tế đời sống có nhiều người bị khinh bỉ, xa lánh, ruồng rẫy chỉ vì kém may mắn, thiệt thòi. Ngược lại, chỗ nào nhiều tiền của, địa vị, thú vui,...họ đổ xô đến luồn cúi, lăn lộn, đào bới, moi móc quên chết. Người ta quý nó hơn quý người. Hội thánh theo gương Đức Giêsu Kitô phục vụ con người và dạy chúng ta chữa trị, băng bó vết thương xác hồn cho những người nghèo đói, bệnh tật, khốn khổ không phân biệt ở đâu, làm sao đưa họ vào một cộng đoàn ở đấy chỉ có biết sống yêu thương, trân trọng nhau.

 

Lm. Pet. Bùi Trọng Khẩn, Gp. Bùi Chu

 

VỀ MỤC LỤC
NGƯỜI MẸ

Minh Tâm

Con gái của tôi thích thú ngồi xem xét mấy bộ áo quần trẻ con bé xíu trăng trắng vừa mua về cho bé gái đầu lòng sắp chào đời. Chỉ còn non tháng nữa là cháu đến ngày mãn nguyệt khai hoa. Bụng của cháu lớn như cái trống thật rồi. Chắc là nặng nề lắm. Nhà tôi nói bụng to như vậy thì người mẹ thường xuyên đau lưng, tức ngực, khó thở… Nhưng nghĩ đến đứa con thân yêu sắp ra đời, người mẹ quên hết mọi nỗi nặng nhọc phải gánh chịu triền miên bao ngày tháng… Nhìn con gái sắp trải qua nỗi đoạn trường tôi không khỏi chạnh lòng.

Năm vừa qua, cháu gái lớn của chúng tôi vừa sinh hạ đứa con thứ hai tại bệnh viện phụ sản. Sáng sớm hôm đó vừa đau bụng chuyển dạ, cháu vội vàng đón taxi nhập viện. Làm thủ tục xong, chờ sinh. Những khổ nỗi, chờ suốt ngày hôm đó, rồi suốt đêm nữa, cháu ngoại chúng tôi cũng không chịu chào đời. Con gái của tôi đau bụng từng cơn. Mồ hôi vã ra từng hồi. Lưng đau thắt. Đứng không được, ngồi không yên. Muốn ngả lưng một tí thì không có giường nằm. Cháu đi tới, đi lui. Lát đứng, lát ngồi. Tay ôm bụng, mặt nhăn nhăn nhó nhó. Tóc tai rũ rượi. Sản phụ nào có dấu hiệu sinh, thì nữ hộ sinh mới đưa vào phòng sinh nằm chờ. Qua một ngày, rồi suốt đêm kế đó canh thức với con gái ngoài hành lang bệnh viện, mẹ nó đuối cả người, mờ cả mắt.

Đến ba giờ sáng, có triệu chứng sinh, cháu vào phòng sinh. Mẹ nó thoát ra ngoài rửa mặt, một lát vội quay lại để vào phòng sinh với cháu. Nhưng không ngờ lại gặp cháu gái đang ngồi ôm bụng co ro một mình trước phòng sinh. Hành lang lặng vắng như tờ. Trời tối ảm đạm, rét căm căm. Cháu sướt mướt kể lại vào phòng sinh bác sĩ đòi mổ, cháu không bằng lòng nên bị đẩy ra đây. Êkip blouse trắng phủi tay lặn mất tăm. Mẹ nó cầu nguyện xin Chúa ra tay, rồi gọi điện cho bác sĩ gia đình công tác tại đây. Từ nhà, bác sĩ này gọi đến phòng trực thuyết phục cho sinh bình thường vì tử cung của cháu đã nở tốt… đủ điều kiện để sinh thường. Sau đó, nhờ lời chuyển cầu của Thánh Gierado, con gái tôi vượt biển một mình, sinh thường thành công vuông tròn. Sinh mổ có nhiều di chứng nguy hiểm, nhiều khuất tất và phải hơn ba năm sau người phụ nữ mới có thể mang thai tiếp. Các cháu bái biệt bệnh viện phụ sản ấy. Cháu gái kế này đã ghi danh sinh bé đầu lòng tại một bệnh viện tư.

Thay vì tôn vinh suông người phụ nữ qua Ngày Quốc tế Phụ nữ mùng 8 tháng Ba, Nhà nước trong tay sẵn có quyền hành Thiên Chúa trao ban, cần phải làm những gì thiết thực để chia sẻ gánh nặng với nữ giới. Quý ông đáng kính ít ra phải đồng cảm với nữ giới là mẹ, là vợ, là con của mình. Cần giúp đỡ người phụ nữ sinh con tốt, nuôi con khỏe, dạy con ngoan. Hạn chế sinh sản để lăng xê “Gái một con trông mòn con mắt” sao. Hãy coi gương Đảo quốc Singapore. Sau một nửa thế kỷ hạn chế sinh sản, họ gặt hái được điều gì? Hiện nay họ dành mọi ưu đãi và trợ cấp cho phụ nữ sinh ba trở lên. Một thức tỉnh muộn màng nhưng đáng trân trọng.

Từ cuối thế kỷ 20, các nước phát triển đã khuyến khích người chồng cố gắng hiện diện trong phòng sinh để chứng kiến cảnh người yêu của mình vượt cạn trong mồ hôi, nước mắt và máu. Nhưng số quý ông chấp nhận bước vào phòng để nắm tay vợ mình trong giây phút thập tử nhất sinh ấy chưa đến một phần ngàn. Cậu rể nhà tôi cũng né tránh việc này. Chính mẹ vợ phải đóng quỹ nửa triệu đồng dịch vụ để sát cánh với con gái tại phòng sinh. Thiếu cánh tay của chồng, người phụ nữ lúc đó chỉ biết bám bíu vào thanh giường sắt để vượt cạn. Bà nhà tôi cho biết cảm tưởng lúc đó thanh giường như mềm ra. Bàn tay mong manh của sản phụ lúc ấy cứng hơn sắt nguội! Thực ra, nếu quý ông chấp nhận bước vào phòng sinh, thì cũng chỉ đơn thuần là chứng kiến. Làm sao người đàn ông đầu ấp tay gối có thể chia sẻ được cái đau khủng khiếp của vợ mình. Nhà tôi thường nhắc lại:

“Đàn ông đi biển có đôi
Đàn bà đi biển mồ côi một mình”.

Bà nhà tôi cũng chia sẻ: Người phụ nữ phải banh da xẻ thịt để sinh ra một đứa con. Mỗi lần sinh con là như chết đi sống lại. Lúc đó tim như ngừng đập, cổ họng như bị nghẹt không thở được. Nếu may mắn thoát chết dưới vực sâu rùng rợn ấy thì thể trạng người phụ nữ cũng sa sút thê thảm. Cả cơ thể rã rời như bị tra tấn từng centimet. Bà nghĩ mình giống như con cua mới lột. Đó là lý do chính đáng để sản phụ được mẹ chồng thời phong kiến chăm sóc trọn một tháng. Sản phụ ngày ngày được hầu cơm tận giường. Mọi công tác đồng áng hay làm dâu bếp núc cho nhà chồng đều miễn trừ. Nhưng vì sức khỏe của mình, nhất là của hài nhi, sản phụ phải kiêng khem đủ thứ. Các loại hải sản như cua, ghẹ, sò, ốc… bò, gà và mọi loại trái cây hấp dẩn, nghĩa là các thứ khoái khẩu của phái yếu đều phải nhịn đến sáu tháng. May thay thời nay, bác sĩ chỉ khuyến cáo các con tôi kiêng cử các món đặc sản ấy ba mươi ngày thôi.

Nhìn con gái phấn khởi chuẩn bị ngày sinh nở, tôi thấy xót xa. Nếu cháu là trai thì vợ chồng tôi không phải chuẩn bị tinh thần và vật chất cho cháu vượt cạn như mẹ, như chị... Đây là thiên chức cao quý của người phụ nữ hay là cái giá đắng cay phải trả cho tội nguyên tổ nghìn đời. Đức Chúa đã phán với người nữ nguyên tổ Eva: “Ta sẽ làm cho người phải cực nhọc thật nhiều khi thai nghén; ngươi sẽ phải cực nhọc lúc sinh con”(St 3,16).

Tôi không có con trai để nối dõi tông đường. Bạn bè nói tôi có bốn gái là tứ quý. Tôi cười ậm ừ. Lòng buồn rười rượi! Không buồn thiếu người khói nhang, vì trong ánh sáng đức tin Công giáo, Thiên Chúa không phân biệt lời cầu xin của nam hay nữ. Nhưng tôi không khỏi chạnh lòng khi nghĩ tới nỗi nghiệt ngã con gái tôi đang mang lấy. Nhà tôi thường khuyến khích hai cháu nhỏ đi tu làm dì phước để tránh nỗi đau sinh đẻ! Tôi không có ý kiến. Tốt hơn là hai cháu tự quyết. Tôi chia sẻ với hai cháu nhỏ: Từ khi Đức Giêsu hy tế mạng sống mình trên đồi Golgotha, thì mọi đau khổ của người nam và người nữ đều được nâng lên một tầm cao mới và có giá trị cứu rỗi. “Anh em sẽ lo buồn, nhưng nỗi buồn của anh em sẽ trở thành niềm vui” (Ga 16, 20). Những ngày cuối của quãng thời ba năm lê bước trên sỏi đá khai hóa cho chúng sinh nơi trần thế, Chúa Giêsu không quên thánh hóa nỗi đau đớn nghiệt ngã của người phụ nữ, của hơn một nửa nhân loại. Ngài tuyên dương sứ mạng truyền sinh cao cả, sứ mạng cộng tác với Đấng Hóa Công: “Khi sinh con, người đàn bà lo buồn vì đến giờ của mình; nhưng khi sinh con rồi, thì không còn nhớ đến cơn gian nan nữa bởi được chan chứa niềm vui vì một con người đã sinh ra trong thế gian” (Ga 16, 21).

Nhà tôi sinh cháu gái đầu thì khiếp quá, quyết không sinh nữa. Nhưng nhờ ân sủng của Chúa Kitô Phục Sinh, mẹ cháu khi sinh con rồi, thì không còn nhớ đến cơn gian nan nữa bởi được chan chứa niềm vui vì một con người đã sinh ra trong thế gian. Viết đến đây, tôi cảm thấy cần trang trọng nói lên lời cảm tạ tri ân. Cảm tạ Bà tôi đã chấp nhận sinh ra mẹ tôi. Cảm tạ Mẹ tôi đã banh da xẻ thịt sinh ra mười người con, trong đó có tôi. Cảm tạ vợ tôi đã sinh ra cho tôi bốn cháu gái rượu trong máu và nước mắt. Ba năm bú mớm. Nuôi dạy trưởng thành.

Con cái lập gia đình, sinh con đẻ cháu. Người phụ nữ ấy lại lăn xả vào phòng sinh cùng con vượt biển trong tuổi đời 50, 60, 70… Mỗi người mẹ đều xứng đáng nhận Anh dũng Bội Tinh kèm Nhành Dương Liễu. Từ khởi thủy, Đức Chúa khai thiên lập địa, các mẹ đã anh dũng đảm nhận trách vụ sinh thành, nuôi dưỡng và giáo dục con cái trong máu và nước mắt. Thế nhưng, khi có trục trặc gì thì quý ông không tiếc lời đay nghiến “Con hư tại mẹ, cháu hư tại bà”; bất kể là ngày mùng 7 hay mùng 8 tháng Ba. Khi người ta tôn phong một vĩ nhân hay một thánh nhân thì không mấy ai buồn nhắc đến người phụ nữ thánh đức đã hy sinh thân mình để sinh thành, nuôi dưỡng và giáo dục con người thành đạt tuyệt đỉnh ấy.

Thời nay, khi củi là quế khâu, gạo là châu ngọc, người phụ nữ lại phải xả thân lăn vào chợ đời đen bạc chạy gạo toát mồ hôi. Đặc nhiệm thứ tư này các chị cũng xuất sắc hoàn thành. Từ công sở về, chồng vắt chân chữ ngũ ngồi xem truyền hình, vợ lăn vào bếp. Người mẹ lại hợp tác với Đấng Hóa Công, vã mồ hôi trán, hì hục chế biến cỏ cây thành thức ăn bổ dưỡng. Khi cả nhà ăn bữa ngon lành, thì vợ mệt nhoài, no hơi, không thiết ăn nữa. Nhìn chồng con ngon miệng thì các chị cũng no lây. Tôi thường nhắc các con, trước khi dùng bữa thì cảm tạ Chúa, cũng cần cảm ơn mẹ nữa, không chỉ cho ngày 8 tháng Ba mà trong suốt cuộc đời! Hãy cảm tạ người phụ nữ đảm đang con ạ!

Dù tôi có nói gì đi nữa để tri ân người phụ nữ, thì rõ là quá vụng về, rỗng tuếch. Thôi thì xin mạn phép mượn lời của Vị Chân Phước Giáo hoàng Gioan Phaolô II để trân trọng tỏ chút lòng thành đến Đức Mẹ Maria và các bà mẹ:

Giáo hội cảm ơn mọi biểu lộ của các thiên tài nữ giới đã xuất hiện suốt dọc dài lịch sử giữa mọi dân tộc, mọi quốc gia. Giáo hội cảm ơn vì mọi đặc sủng mà Chúa Thánh Thần đã rộng ban cho người phụ nữ. Giáo hội cảm ơn vì mọi chiến thắng Giáo hội có được là nhờ đức tin - đức cậy - đức mến của người phụ nữ. Giáo hội cảm ơn về những hoa trái sự thánh thiện. Đó chính là phẩm giá của người phụ nữ trong vai trò quý báu đã và đang tiếp tục nắm giữ trong đời sống Giáo hội”.

 

VỀ MỤC LỤC
HÀNH HƯƠNG
 

 

Hằng năm, cứ vào dịp Tết, hàng loạt các vấn đề nhức nhối lập đi lập lại trên quê hương đất nước này, từ các vấn đề thuộc lãnh vực giao  thông, vận tải, sang các vấn đề thuộc y tế, sức khoẻ, vấn đề thực phẩm, giá cả và cả những vấn đề hình sự nữa. Tết cổ truyền là một truyền thống và văn hoá tốt đẹp của người dân Việt, nhưng lâu nay nó là nguyên cớ gây quá nhiều đau khổ cho nhiều người, nhiều gia đình, dĩ nhiên cho cả xã hội nữa.

Làm sao lưu giữ và phát triển thời điểm này, làm phong phú thêm cho văn hoá và truyền thống của đất nước dân tộc ? Thiết nghĩ đây là vấn đề của toàn xã hội, trong đó, những người có trách nhiệm trong lãnh vực tôn giáo cần lưu tâm và định hướng. Làm sao cho cái Tết của chúng ta giảm bớt được những tai nạn, tai nạn do giao thông, do uống rượu và do cả nghèo đói nữa ! Làm sao cho cái Tết của chúng ta là một thời điểm của bình an, hạnh phúc, vui tươi và thư giãn ? Không thể để mỗi lần Tết đến là một dịp ôn những kỷ niệm buồn, mỗi năm hàng trăm gia đình buồn, cứ vậy chồng chất, sẽ đến một lúc cả nước… buồn. Tôn giáo với tư cách là định hướng cao và sâu cho cuộc sống sẽ giữ một vai trò nào trong việc gầy tạo những giá trị tốt đẹp ?

Sau Tết, vấn đề lễ hội, trong đó hành hương là một sinh hoạt thu hút rất đông người. Không thể phủ nhận nhu cầu tâm linh trong tháng đầu năm mới của đông đảo người dân Việt, con số hàng triệu lượt người đi Chùa Hương, hàng vạn lượt người đến Đền Trần ở Nam Định để khẩn cầu và xin ấn, hàng vạn lượt ng  ười đi Chùa Bà ở Bình Dương, đi núi Sam Châu Đốc… và bao nhiêu Đền Chùa Miếu Mạo khác nữa. Bản thống kê mới đây trên báo chí ở Việt Nam cho biết: số lượng hàng mã đốt trong dịp Tết được ước tính là 400 tỉ đồng, một con số quá lớn góp phần làm… nghèo đất nước !

Ở miền Nam hình ảnh này đã diễn ra trong rất nhiều năm trước năm 75, miền Bắc sau những năm cải tạo đủ thứ, bài trừ đủ thứ, không một lễ hội nào được phép tổ chức nữa, tưởng là đã mất hẳn, không ngờ bây giờ lại có cơ bộc phát dữ dội. Người ta đi Đền đi Chùa nườm nượp để khấn vái cầu xin. Năm nào cũng vậy, báo chí kêu ca nhưng hình ảnh xe công bảng số xanh bảng số đỏ vẫn không giảm, không chỉ người dân, mà cả các quan chức cũng lũ lượt đi khấn đi hứa. Tranh cãi mãi cuối cùng thì đồng tiền vẫn là trên hết, chẳng còn học tập bài trừ mê tín làm gì nữa, chẳng còn duy vật hay duy linh chi cả, vì chính quan to quan nhỏ cũng hí hửng với ấn đỏ ấn xanh, có hẳn đường dây riêng dành ấn cho quan chức, mặc dân chen nhau chảy máu vỡ đầu chỉ là… húp nước cặn !

Dân cũng tin, quan cũng tin, có khi quan còn tin hơn dân. Nghe nói hàng lãnh đạo cao cấp cũng thường xuyên lên đồng lên cốt, thường xuyên xem bói xem toán, thường xuyên lo phong thủy, yểm bùa chấn trạch, điều chỉnh nhà cửa, mồ mả, bếp núc, kê lại bàn tủ ghế giường… Như thế thì duy tâm hay duy vật gì cũng đều có nhu cầu liên lạc với một thế giới nào đó khác với cái thế giới này, muốn truy tìm một sự nâng đỡ nào đó ngoài vật chất, muốn cầu xin một sức mạnh nào đó không phải từ con người, không chỉ để bảo vệ và nâng đỡ cuộc sống hiện tại, mà còn ký thác cả tương lai.

Quan sát các hiện tượng nêu trên chúng ta thấy, mọi người ai cũng đều có một nhu cầu thật sự tìm đến với quyền lực trên cao, ước mong khấn vái để được phù hộ độ trì cho những nhu cầu của họ, thời điểm thích hợp không chỉ trong ba ngày Tết nhưng kéo dài cả tháng Giêng.

Đứng trước hiện tượng này, các vị có trách nhiệm trong đạo Công Giáo tại Việt Nam nghĩ gì ? Được biết trong những năm vừa qua, rất đông anh chị em Tu Sĩ, và cả Linh Mục nữa đã theo học và tốt nghiệp đại học ngành Xã Hội Học, không biết đã có công trình nào nghiên cứu hiện tượng xã hội này chưa ? Nếu có, hiệu quả của công trình đi đến đâu, có được ứng dụng trong Mục Vụ chưa ?

Chúng tôi muốn đặt một vài câu hỏi. Có nên mở cửa Nhà Thờ thường trực để mọi người có thể vào nghỉ ngơi tinh thần, cầu nguyện và kính viếng Thánh Thể và các Thánh, nhất là trong ba ngày Tết và cả tháng Giêng ? Có nên tổ chức các sinh hoạt để phục vụ nhu cầu tâm linh của bổn đạo trong ba ngày Tết và tháng Giêng ? Làm sao để các Nhà Thờ của chúng ta trở nên gần gũi thân quen với mọi người, sân Nhà Thờ đầy bóng cây xanh, rộn ràng tiếng chim hót, mát mẻ và thân thiện, các bạn sinh viên học sinh tìm đến ôn bài và để tâm hồn được dịu xuống thanh thản ngay giữa những bộn bề náo động của cuộc sống ?

 Sở dĩ chúng tôi đặt các câu hỏi như trên, là vì, rất đông các Nhà Thờ của chúng ta cứ “cửa đóng then cài”, cửa chỉ mở vào các giờ lễ, ngoài ra thì im ắng, ba ngày Tết, Nhà Thờ trở thành… “Chùa bà Đanh”. Tết vừa qua, ngày mồng Một, tôi có dịp đến thăm một vị Linh Mục vào buổi sáng, sau giờ lễ, ngôi Nhà Thờ đóng  kín cửa, tôi gọi điện thoại báo với cha sở là mình đang đứng trước cửa. Ngài không tin, khi ra mở cửa để đón tôi, ngài ngạc nhiên vì tôi lại đến thăm vào sáng mồng Một Tết, còn tôi thì cũng không ít ngạc nhiên vì sáng mồng Một Tết mà ngài lại đóng cửa Nhà Thờ và… ngủ ! Tôi đến ngài mừng quá, lôi đủ thứ trong tủ lạnh ra và bắt phải “nhậu” với ngài một chầu, “may quá cậu đến chơi, chứ không tớ không biết làm sao để ăn cho hết các thứ này !”

Tôi được biết có một ngôi Nhà Thờ nọ, khi thiết kế, người thiết kế đã vẽ đồ án kiến trúc một ngôi Nhà Thờ không có… tường, không có… cửa ! Người thiết kế muốn gởi gắm ý tưởng: Giáo Hội của thế kỷ 21 là Giáo Hội không có rào chắn, không có tường che, là Giáo Hội của mọi người, mở toang ra cho tất cả, chẳng trừ ai. Vị Linh Mục chánh xứ đã phải rất vất vả để bảo vệ ý tưởng này, hầu hết mọi người đều không đồng ý !

Trở lại vấn đề được đặt ra. Đứng trước hiện tượng xã hội bộc lộ nhu cầu tâm linh vào những ngày Tết và cả tháng Giêng, trách nhiệm của chúng ta sẽ phải làm gì để đáp ứng một nhu cầu có thật, hữu lý và đáng trân trọng. Dấu chỉ thời đại đã có, làm sao đọc ra được và thi hành ý Chúa ?

Lm. VĨNH SANG, DCCT, 14.2.2012 (Ephata 497)

VỀ MỤC LỤC
TÌM HIỂU HUẤN DỤ XÃ HÔI CỦA GIÁO HỘI ( 5 )
 

NGUYỄN HỌC TẬP 

Huấn Dụ trong thời gian ( 1958-1978). 

Năm 1958, khi Đức Thánh Cha Gioan XXIII kế vị Đức Pio XII, thì vấn đề xã hội lại thay đổi thêm một lần nữa. Có thể nói là thay đổi một cách sâu đậm.

Nếu trong thời kỳ đầu, vấn đề xã hội được hiểu là mối tương phản giữa giới vô sản và chủ nhân tư bản và rồi trong giai đoạn thứ hai, như chúng ta đã có dịp đề cập đến, vấn đề xã hội được biến thành cuộc đụng độ giữa các hệ thống kinh tế xã hội đối ngược nhau, ( giữa cộng sản và tư bản chủ nghĩa), thì trong giai đoạn thứ ba, tức là trong khoảng thời gian đang bàn ( 1958-1978), vấn đề xã hội lan rrộng  đến tầm mức cả thế giới.

Đó là vấn đề tranh cải có liên quan đến mức thăng bằng của chính nhân loại, giữa Bắc bán cầu giàu có và Nam bán cầu nghèo đói.

Vấn đề nhân khẩu ( demografico) đã làm thay đổi trục quân bình thế giới từ trung tâm điểm Âu Châu trong quá khứ thành trục đệ tam thế giới ( terzomondismo) cho tương lai.

Bao nhiêu Quốc Gia rộng lớn lạc hậu ( hay đang trên đà phát triển) ở Châu Mỹ La Tinh, Á Châu và Phi Châu đang kêu gào công bình và tiến bộ.

Như vậy, nếu muốn được sống hoà bình, hay đúng hơn muốn cho nhân loại được sống còn, cần phải có một định chế mới toàn cầu về kinh tế, chính trị và luật pháp. 

Tiến trình toàn cầu hoá vừa kể vừa là nguyên nhân và cũng là hậu quả cho cuộc khủng hoảng các ý thức hệ.

Các ý thức hệ cộng sản chủ nghĩa và tân tự do chủ nghĩa đã dựng lên những bức tường ngăn cách giữa các dân tộc huynh đệ với nhau, tạo nên thù oán và chiến tranh tàn khóc, tạo ra không biết bao nhiêu máu và nước mắt trong thế kỷ 20 của chúng ta.

Giờ đây lịch sử đã tương đối hoá các ý thức hệ tự cho mình là tuyệt đối một cách vô nghĩa, khiến cho chúng ta thấy được một vài yếu tố đâu là sự thật. Và từ những yếu tố chân lý đó, con người có thể bắt đầu lại cuộc đối thoại, khởi đầu từ những gì có khả năng kết hợp con người với con người. 

Những thay đổi sâu đậm vừa đề cập không thể nào không kêu gọi đến Giáo Hội, là chủ thể đang cùng bước đi giữa trần thế với con người ( Gaudium et Spes, 1).

Đây là thời gian Công Đồng Vatican II đang nhóm họp. Giáo Hội lên tiếng can đảm trả lời, cập nhật hoá huấn dụ liên quan đến vấn đề xã hội của mình và cũng bắt đầu canh tân chính mình.  

Qua những gì vừa đề cập, chúng ta có thể thấy được giai đoạn thứ ba của Huấn Dụ Xã Hội của Giáo Hội chịu ảnh hưởng của ba yếu tố khác nhau, nhưng có liên hệ với nhau. Đó là

   - cuộc khủng hoảng của các ý thức hệ ( cộng sản và tân tự do chủ nghĩa),

   - tiến trình toàn cầu hóa về các vấn đề kinh tế và xã hội

   - những hiểu biết và thu nhân mới về tín lý và mục vụ của Công Đồng Vatican II.

 

   1 - Cơn khủng hoảng của các ý thức hệ.

Lịch sử những thập niên cuối cùng của thế kỷ 20 đã xác nhận không thể chối cải được các lời tiên đoán không tưởng các ý thức hệ diễn dịch về tương lai xã hội.

Các ý thức hệ ( cộng sản cũng như tân tự do chủ nghĩa), qua tiến trình  thực tế của lịch sử đã đi vào khủng hoảng, khiến cho ngày nay khắp nơi đều bị đào thải ( chỉ trừ một vài thành phần cố chấp bám víu vì lợi thú, phe đảng). 

Ý thức hệ trước tiên bị đào thải đó là tự do và tân tự do chủ nghĩa ( liberalismo e neoliberalismo), được nẩy sinh ra với biến cố cách mạng kỷ nghệ. Ý thức hệ đó được phát triển một cách phi thường trong thế kỷ 19.

Tự do chủ nghĩa là ý thức hệ đầu tiên bị sụp đổ với cơn khủng hoảng thị trường chứng khoán Wall Street 1929: Wall Street được dịch theo nguyên ngữ là " Con Đường Bức Tường ".

Dầu vậy, tự do chủ nghĩa của Manchester tỏ ra có khả năng sữa đổi chiều hướng để đưa đến tân tự do chủ nghĩa về sau. 

Kế đến là lịch sử của Phát Xít chủ nghĩa ( Fascismo ) và Đức Quốc Xã chủ nghĩa ( Nazismo).

Hai ý thức hệ toàn trị nầy ( totalitarismo) là những ý thức hệ sinh sau đẻ muộn và cũng chết yểu không lâu sau đó, bị thế chiến thứ hai quét sạch, không có đủ thời gian để đâm sâu gốc rễ và đâm chồi nẩy mộng. 

Chủ thuyết sau cùng, dai dẵng khó chết , đó là chủ thuyết mát xít. Vật thể thấy được đó là sự sụp đổ của bức tường Bá Linh năm 1989, nhưng cơn hấp hối văn hoá và chính trị của cộng sản chủ nghĩa hay xã hội chủ nghĩa thực tế ( socialismo reale) đã đi trước và chuẩn bị gần như 30 năm trước.

Trong những năm đó, Giáo Hội cũng không ngừng đưa ra những lời huấn dạy của mình về phương thức phải có để tổ chức một xã hội xứng đáng với phẩm giá con người.

 

2 - Giáo Hội Công Giáo và Cộng Sản: phân biệt giữa chủ thể và chủ đề.

Thập niên 1960-1970 là thời gian với nhiều biến chuyển thay đổi. Những chủ trương vô nghĩa của ý thức hệ cộng sản mát xít và Công Đồng Vatican II bắt đầu khơi động một tiến trình biến chuyển mới đối với thái độ bức tường ngăn cách chống đối không thể vượt qua, mà chúng ta đã đề cập đến trước đây.

Trước tiên là những chủ thuyết không tưởng của ý thức hệ cộng sản đã bắt đầu gây rạn nứt chống đối ngay trong nội bộ cộng sản.

Khởi đầu từ Kruscev, năm 1956, với việc " truất phế Stalin ", được Đại Hội XX Đảng Cộng Sản ra lệnh.

Năm kế tiếp, năm 1957, mối bất hoà giữa Nga Sô và Tàu Cộng bùng nổ lần đầu tiên, Mao Trạch Đông tố cáo Nga là " bọn xét lại ".

Phiên xét xử Siniavski ( 1966) tạo nên " phong trào ly khai " ở Nga Sô, tiếp theo là truờng hợp của Solzenicyn và tiếp theo đó là Sacharow.

Mặc dầu tất cả những phong trào đó đều bị thất bại, nhưng các phong trào tìm cách thực hiện " cộng sản thực hữu " ( comunismo reale) đó dẫn theo nhiều hình thức áp dụng cộng sản chủ nghĩa khác nhau:

   - cộng sản tự quản trị của Nam Tư ,

   - mùa xuân ở Praga ( 1968),

   - " chủ nghĩa xã hội nhân bản " của Cuba,

   - mát xít chủ nghĩa đại nghị chế của Allende ở Cile,

   - các phong trào xã hội chủ nghĩa âu châu lựa chọn theo phương thức dân chủ tây phương và tự coi mình tách rời khỏi chủ thuyết mát xít:

    * phong trào ly khai đầu tiên đó là đảng Dân Chủ Xã Hội Đức ở Bad Godesberg ( 1959),

    * và kế đến là các phong trào " cộng sản âu châu " khác nhau. 

Cũng trong thời gian nầy, Giáo Hội Công Giáo thay đổi thái độ, từ thẳng thừng quyết liệt chạm trán với cộng sản, Giáo Hội tỏ ra có thái độ đối thoại ôn hoà, nhờ những tiến bộ mà Công Đồng Vatican II đạt được.

Đặc biệt là thái độ xác định theo chiều hướng vừa kể của Đức Thánh Cha Gioan XXIII với Thông Điệp Pacem in Terris ( 1963): đó là phương cách phân biệt của ngài giữa ý thức hệ ( chủ đề ) và các phong trào lịch sử ( chủ thể ):

   - " Không thể sáp nhập đồng nhất hoá các ý thức hệ triết lý ( chủ đề ) sai lạc vể bản tính, nguyên cội và cùng đích của vủ trụ và con người, cùng với các phong trào lịch sử ( chủ thể )  có mục đích kinh tế, xã hội, văn hoá và chính trị, mặc dầu các phong trào vừa kể phát xuất từ các ý thức hệ đó và từ các ý thức hệ đó các phong trào vẫn còn tiếp nhận được cảm hứng. Bởi vì các ý thức hệ một khi được triển khai và xác định, vẫn luôn luôn là như vậy. Trong khi đó thì những phong trào vừa kể, tác động liên quan đến những hoàn cảnh lịch sử không ngừng biến chuyển, không thể không bị ảnh hưởng và như vậy không thể không trở thành những chủ thể bị ảnh hưởng, cả bị ảnh hưởng sâu đậm. 

Đàng khác ai có thể chối cải được các phong trào vừa kể, trong lúc hành động trung thực với tiếng nói ngay chính của lương tâm và nói lên ước vọng chính đáng của con người, lại không có những yếu tố tích cực và đáng được tán thưỏng? Bởi đó thái độ tiến lại gần và gặp gỡ trên các lãnh vực thực tế, trong quá khứ được coi là không nên làm, ngày nay hay trong tương lai lại không thể là việc không đáng được kích thích " ( ĐTC Gioan XXIII, Pacem in terris ( 11.04.1963), n. 159, in CERAS 327s). 

Việc phân tích vừa kể khiến cho người công giáo vượt lên trên được nhãn quang hoàn toàn tiêu cực và lên án đối với việc áp dụng vào lịch sử nhiều tư tưởng xã hội chủ nghĩa khác nhau và cũng khiến cho Giáo Hội tự hỏi mình, trong nhiều phong trào thoát thai từ cộng sản chủ nghĩa, có những yếu tố tích cực đáp ứng lại các ước vọng của con người hay không.

Một thái độ hiểu biết như vậy, trước kia là điều không ai có thể tưởng tượng được, do thái độ thẳng thừng chạm trán, đối đầu giữa Giáo Hội và cộng sản chủ nghĩa, nhứt là đối với những chủ đề có liên quan đến bản tính và tự do tuyên xưng và truyền bá tôn giáo.

Theo tư tưởng với thái độ hiểu biết vừa kể, Công Đồng Vatican II cũng cùng bước đi với Hiến Chế Gaudium et Spes , mặc dầu giới hạn không nêu đích danh mát xít chủ nghĩa, Công Đồng vẫn thẳng thừng lên án hệ phái vô thần chủ nghĩa, không có gì úp mở:

   - " Giữa những hình thức vô thần chủ nghĩa hiện đại, chúng ta đừng bỏ qua chủ nghĩa nhằm giải thoát con người, nhứt là được tự do kinh tế và xã hội. Chủ thuyết đó cho rằng tôn giáo là chướng ngại vật, tự bản thể của mình, chống lại sự giải thoát đó, bởi vì tôn giáo nhằm nâng cao hy vọng con người về một đời sống tương lai, là thái đô gian xảo, làm cho con người xao lãng đi việc phải xây dựng thị xã trần thế. Bởi đó những kẻ chủ trương chủ thuyết vừa kể, một khi họ đạt được chính quyền, đàn áp tôn giáo bằng vũ lực và loan truyền vô thần chủ nghĩa ngay cả bằng việc dùng đến những dụng cụ gây áp lực, mà quyền lực công quyền có đưọc, nhứt là trong lãnh vực giáo dục thanh thiếu niên " ( Gaudium et spes, n. 20, in EV 1/1327).  

Như vậy Giáo Hội xác nhận rằng nếu một ý thức hệ ( chủ đề )  sai lạc, ý thức hệ đó vẫn luôn luôn sai lạc và không thể chấp nhận được trên phương diện nguyên tắc.

Dầu vậy, Công Đồng Vatican II còn thêm, về phương diện lịch sử đối thoại là điều có thể hiểu được và cần thiết nên làm. Thật vậy

   - " Giáo Hội, mặc dầu tuyết đối chống lại chủ thuyết vô thần, vẫn thành thật nhìn nhận rằng mọi người, tín hữu cũng như không tín hữu, đều phải cộng tác để xây dựng một cách chính đáng thế giới nầy, trong đó con người cùng  sống chung nhau: điều đó chắc chắn không thể nào xảy ra được, nếu không có sự thành thật và khôn ngoan đối thoại với nhau " ( Gaudium et spes, n. 21, in EV 1/1383).  

Một vài năm sau, sự phân biệt đó, phân biệt giữa ý thức hệ và các phong trào hành động theo gợi ý của ý thức hệ, được ĐTC Phaolồ VI lấy lại trong Thông Điệp Octogesima adveniens ( 1971), bằng cách vượt lên trên quan niệm tổng quát, để áp dụng thẳng vào thái độ của người tín hữu Chúa Ki Tô đối với những ai theo chủ thuyết mác xít.

Trước tiên, ĐTC Phaolồ VI xác nhận người tín hữu Chúa Ki Tô không thể nào chấp nhận ý thức hệ cộng sản:

   - " Người tín hữu Chúa Ki Tô muốn sống đức tin của mình trong động tác chính trị, được hiểu là tác động để phục vụ, không thể nào gia nhập vào những hệ thống ý thức hệ thẳng thừng chống đối những điểm căn bản, chống đối lại đức tin của mình và về quan niệm con người của mình, mà không phản biện lại chính mình.Điều đó có nghĩa là không thể chấp nhận ý thức hệ mác xít, vật chất chủ nghĩa vô thần của nó, tiến trình bạo lực của chủ nghĩa đó và phương thức của nó trong đó chủ nghĩa đó hấp thụ  tự do cá nhân vào tập thể cộng đồng, đồng thời chối bỏ mọi đặc tính linh thiêng tối thượng của con người và lịch sử, cá nhân cũng như tập thể..." ( ĐTC Phaolồ VI, Octogesima adveniens ( 14.05.1971),n. 26, in EV IV/749). 

Kế đến ĐTC còn tiếp, là trước những biến chuyển của nhiều phong trào lịch sử, được nảy sinh hay được gợi ý bởi ý thức hệ mác xít,

   - " cần phải có một sự phán đoán cẩn thận " ( id., n. 31, in EV IV/731).

để xem một tổ chức lịch sử xã hội chủ nghĩa đã biến thiên đến mức nào đối với ý thức hệ khởi thủy ( mặc dầu ý thức hệ đó vẫn còn là gia sản mớm ý cho tổ chức ) và với mức độ nào một phong trào trong lịch sử chấp nhận và bảo đảm các giá trị căn bản của con người

   - " nhứt là đối với quyền tự do, trách nhiệm và quyền được mở rộng mình ra đối với lãnh vực thiêng liêng, là những gì bảo đảm cho con người có được một sự triển nở toàn vẹn chính mình " ( id.).   

Nhận thức đó - Thông Điệp Octogesima adveniens kết luận -

   - " cho phép người tín hưu Chúa Ki Tô đến mức nào có thể lựa chọn một cách thiết thực " cần thiết phải có để cùng chung với những người khác kiến tạo một thế giới công chính hơn ( id.). 

Tiếp theo sau thái độ thay đổi đó, một chuổi các cuộc thí nghiệm được thực hiện, dĩ nhiên không phải tất cả đều thực hiện một cách chính đáng và có thể chấp nhận được, như trường hợp " phong trào Ki Tô hữu thiên xã hội chủ nghĩa " , từ Châu Mỹ La Tinh được phổ biến sang Âu Châu ( B. Sorge, Le scelte e le tesi dei " Cristiani per il socialismo " alla luce dell'insegnamento della Chiesa, Elle Di Ci, Leumann 1974). 

Dù sao đi nữa, những kinh nghiệm như kinh nghiệm vừa đề cập và những kinh nghiệm khác nữa đã cộng tác khá nhiều cho thấy ý thức hệ cộng sản là ý thức hệ lỗi thời, đối với những ai có chút ít trí óc để suy tư, bởi lẽ là ý thức hệ chủ trương đưa ra những đường lối không tưởng ( utopia, hy lạp = u: không; topos: nơi chốn = đó là ý thực hệ không có thể thực hiện được ở bất cứ nơi nào trên thế giới nầy ).

 

   3 - Tiến trình toàn cầu hoá.

Lý do thứ hai khiến cho Giáo Hội có thái độ hoà hoản hơn đối với các phong trào chịu ảnh hưởng các ý thức hệ bị kết án trong quá khứ, đây là thời điểm thứ ba Huấn Dụ Xã Hội của Giáo Hội, đó là việc đặc tâm lưu ý đến tiến trình toàn cầu hóa, mở rộng ra trước thế giới và Giáo Hội

   - " viễn ảnh liên hệ toàn cầu với nhau " ( ĐTC Gioan Phaolồ II, Sollecitudo rei socialis ( 30.12.1987), n. 9, in EV X/ 2524). 

Viễn ảnh " vấn đề xã hội " toàn cầu vừa kể trước tiên là do sự tiến bộ kỷ thuât, hệ thống tự động, điện toán, robots, những hiểu biết nhân tạo và cả viễn ảnh liên hành tinh, phát triển phương tiện truyền thông..

Các tiến bộ trên làm tự nhiên là phát sinh ra câu hỏi: " ai có thể kiểm soát được những người kiểm soát và có các phuơng thế đó trong tay? ".

Đức Thánh Cha Phaolồ VI cảnh giác:

   - "Kỷ thuật của ngày mai có thể là nguồn mạch cho các sự dữ không có gì ít đáng sợ hơn tự do chủ nghĩa trong quá khứ" (ĐTC Phaolồ VI Populorum progressio ( 26.03.1967),n. 34, in EV II/ 1079).

Để tránh cho con người khỏi phải rơi vào cảnh nô bộc một lần nữa, nô lệ của xã hội chủ nghĩa ( đảng lãnh đạo, nhà nước quản lý tha hồ thao túng bốc lột), cũng như nô lệ của tự do chủ nghĩa ( công nhân bị chủ nhân tư bản trả luơng như bố thí cho kẻ ăn mày), cần phải có một trật tự thế giới mới. 

Thật vậy, hậu quả cách mạng và khó kiểm soát được không phải do việc xử dụng, trong mọi lãnh vực, kỷ thuật và dụng cụ càng lúc càng tinh vi hơn, có khả năng thay thế việc làm bằng tay chân của cả những nhân công, chuyên viên có phẩm chất và đưa con người đến cùng đích, mà trong quá khứ không thể đạt đến được.

Đúng hơn là viẹc phát triển kỷ thuật đưa đến một loại văn hoá mới, một quan niệm mới về các mối liên hệ xã hội, một quan niệm mới đối với vật chất và đời sống tương quan.

Kỷ thuật, nói một cách ngắn gọn, không phải chỉ là một phương thức mới để tổ chức làm việc, đúng hơn là một loại văn hoá mới. Nền văn hoá mới đó

   - không những chứa đựng nơi mình một cách suy nghĩ khác về tiến trình sản xuất và các hệ thống liên hệ,

   - mà còn cách suy tư khác về thế giới và con người làm việc trong đó. 

Bởi đó bên cạnh một trật tự mới về kinh tế, cần phải có một định chế mới về luật pháp.

Lương tâm và nhận biết đối với các quyền căn bản của con người, cá nhân, đoàn thể hay trong các mối tương quan quốc tế giữa các dân tộc, đưa đến xác tính cần phải có các quyền đó và những mối tương quan vừa kể cần phải được bảo đảm bởi một tổ chức quyền lực vượt lên trên tầm mức Quốc Gia, thực hữu chớ không phải chỉ trên lý thuyết. Như vậy mới có thể tránh được những hình thức thực dân, đô hộ mới và làm đảo lộn trật tự sống của con người.

Muốn thực hiện được điều vùa kể, cần phải có đối thoại để có thể quy hướng đồng quy các ước vọng chính đáng vào mục đích, không những ở tầm mức liên hệ của các quốc gia riêng rẻ, mà còn cả giữa các cơ chế có tầm vóc toàn cầu. 

Cũng trong khoảng thời gian chúng ta đang bàn, từ thời đại nguyên tử của kinh nghiệm thảm đạm Hiroshima đến biến cố Chernobyl

   - không những khiến cho các chiến lược quốc phòng đều trở thành vô dụng,

   - mà cả các khối quân sự đối đầu cũng trở thành vô nghĩa.

Nền hoà bình và thái độ hiểu biết đồng thuận chính trị giữa các dân tộc không thể còn được đặt nền tảng căn cứ vào lượng số tương đương cân bằng của vũ khí, hoả tiển, khí giới nguyên tử hay mối lo sợ của phía bên kia.

Nhân loại cần có một nền văn hoá mới, mặc dầu khó thực hiện, nhưng là điều cần thiết phải đạt cho được bằng mọi giá, đó là một nền văn hoá hoà bình ( sau khi các ý thức hệ sai lạc đã tàn lụi ), để từ đó có thể triển nở ra một :

   - " Phát triển là danh xưng mới của hoà bình " ( ĐTC Phaolồ VI, Populoru, progressio, n. 76, in EV II/1121).  

Sau cùng một tiến trình toàn cầu hoá khác cần phải được thiết định hoá một trật tự thế giới thích hợp để đáp ứng, đó là hiện trạng thông tin và truyền thông.

Cũng vậy, ở đây toàn cầu hoá không phải chỉ có nghĩa là áp dụng các kỷ thuật tân kỳ mà khoa học lãnh vực truyền thông đã đạt được.

Thực chất của vấn đề là việc phổ biến văn hoá, kiến thức và tin tức cho đại chúng trong thời gian rất mau chóng ( có thể được coi như đồng thời những gì đang xảy ra, cho khắp thế giới ).

Phương tiện truyền thông hiện đại,

   - nếu một đàng làm cho các dân tộc hiểu biết nhau hơn, tiến lại gần nhau hơn chỉ cần một vài giây đồng hồ,

   - thì đàng khác phương tiện trên cũng có thể làm cho những ai có phương tiện trong tay, có thể " thuộc địa hoá " văn hoá và làm băng hoại luân lý không có gì khó khăn.  

Trước tầm mức toàn cầu hóa như vừa kể đối với " vấn đề xã hội ", Giáo Hội không thể không canh tân sâu đậm Huấn Dụ Xã Hội của mình. Và Giáo Hội đã can đảm duyệt xét, canh tân lại Huấn Dụ Xã Hội của mình, về nội dung cũng như phương thức để áp dụng, dưới ánh sáng những hiểu biết tín lý và mục vụ của Công Đồng Vatican II. 

( Nghiên cứu thêm tư tưởng về phát triển và hoà bình của ĐTC Gioan XXIII, cfr. Tổng lược Huấn Dụ Xã Hội của Giáo Hội, n. 94-95 )  

VỀ MỤC LỤC
LINH MỤC GIÁO PHẬN TÁI ĐỊNH HƯỚNG ĐỜI SỐNG VÀ SỨ VỤ BẰNG VIỆC SỐNG KINH NGHIỆM NỀN TẢNG “CHÚA LÀ TẤT CẢ”

 

Mời thăm Blog của Lm. Trần Minh Huy http://www.chivilongchuathuongtoi.tk/

Tác phẩm: ĐÀO TẠO ỨNG SINH LINH MỤC GIÁO PHẬN

Lm. Micae-Phaolô Trần Minh Huy pss

CHƯƠNG SÁU 

ỨNG SINH LINH MỤC GIÁO PHẬN

HỌC VƯỢT LÊN KHỦNG HOẢNG VÀ TÁI ĐỊNH HƯỚNG ĐỜI SỐNG VÀ SỨ VỤ ƠN GỌI LINH MỤC (tiếp theo)

 

F. LINH MỤC GIÁO PHẬN TÁI ĐỊNH HƯỚNG ĐỜI SỐNG VÀ SỨ VỤ BẰNG VIỆC SỐNG KINH NGHIỆM NỀN TẢNG “CHÚA LÀ TẤT CẢ” 

 

F.1 Kinh nghiệm nền tảng: THIÊN CHÚA LÀ TẤT CẢ - CHÍNH CHÚA 

Kinh nghiệm nền tảng này bắt nguồn sâu xa từ một kinh nghiệm thiêng liêng, nói được là thần bí, nó giúp chúng ta nhận biết Thiên Chúa như là tuyệt đối và hữu thể chúng ta có qui chiếu tối hậu nơi Ngài, ngay cả giữa những cơn thử thách lớn lao và trong nỗi ngờ vực sâu xa nhất của đêm tối đức tin, chúng ta cũng cảm nhận được cách chắc chắn rằng THIÊN CHÚA LÀ TẤT CẢ.

Xác tín này cổ vũ chúng ta dấn thân và sống bền đỗ trong ơn gọi. Xác tín Chúa là tất cả là một kinh nghiệm bình an và vui tươi ngày càng lớn lên; là một thứ thần bí kích động làm phát sinh sức mạnh cần thiết để sống vui tươi cuộc đời mình; là một nguồn lực năng động luôn luôn có mặt với chúng ta.  

Kinh nghiệm Chúa là tất cả này không bị gắn kết với một sứ vụ, một trách nhiệm, một công việc, hay một nơi nào đặc biệt… Nói cho cùng, đó là một ân ban của Chúa mà chúng ta phải làm tăng trưởng bằng cầu nguyện, chiêm niệm và đời sống nội tâm. Chúng ta phải chạy đến với kinh nghiệm nền tảng Chúa là tất cả này cách tự phát khi gặp khủng hoảng, ngờ vực, vì đó là một thứ đá tảng không thể chuyển lay: trong những thời khắc khó khăn khác nhau của bất trung, chán nản, lầm lạc và cả tội lỗi, kinh nghiệm nền tảng Chúa là tất cả này luôn là một lời mời gọi chúng ta sám hối, trở về với lòng nhiệt thành ban đầu, với điều kiện là ngọn lửa của nó không bị dập dắt vì sự chểnh mảng của chúng ta.  

Trong những cơn khủng hoảng tình cảm, kinh nghiệm nền tảng Chúa là tất cả này xuất hiện như sức vượt lên, và trong cô tịch của tâm hồn, nó trở thành sự thanh thản sâu xa phát xuất do sự chắc chắn rằng Chúa yêu thương chúng ta và Ngài yêu thương chúng ta cho đến cùng, bất chấp tất cả yếu đuối và tội lỗi của chúng ta. 

Kinh nghiệm nền tảng Chúa là Tất Cả này là hàn thử biểu cho hành trình sứ vụ của chúng ta. Hành trình này không được đo lường bởi tính hiệu quả và thành công trong các hoạt động tông đồ, cũng không phải bởi sự phát triển hợp lý và hữu hiệu các tài năng riêng của chúng ta. Chính vì thế mà kinh nghiệm Chúa là tất cả này soi sáng và kích hoạt bất cứ hoàn cảnh sống nào của chúng ta. Chúng ta có thể khẳng định rằng nó có đủ nước để tưới mát bất cứ sa mạc khô cằn nào của tâm hồn chúng ta. 

Phải nhìn nhận rằng loại kinh nghiệm Chúa là tất cả này bắt nguồn từ đặc sủng và sức năng động tông đồ của vị sáng lập: Mọi sứ vụ, mọi tận tụy tông đồ, khát vọng hiến mình cho các linh hồn đều được phát sinh và nuôi dưỡng thường xuyên bởi cảm nhận Thiên Chúa là Tất Cả. Do đó, kinh nghiệm và cảm nhận Chúa là tất cả này không bị đồng hóa với bất cứ trung gian nào, để không bao giờ phải đi tới ngõ cụt là lìa bỏ cộng đoàn vì một sự thay đổi, tuổi tác hay bệnh hoạn làm cản trở công việc tông đồ.

Trong viễn ảnh này, chúng ta không bao giờ bị rơi vào cám dỗ nghĩ rằng bên ngoài kia chúng ta sẽ hữu hiệu hơn về lãnh vực tông đồ. Kinh nghiệm nền tảng Chúa là tất cả này đi trước mọi sứ vụ gắn liền với nó. Sự đi trước này vừa có tính cách luận lý [học qui chiếu vào nhận thức của chúng ta], vừa có tính cách hữu thể học [qui chiếu vào bản chất của sứ vụ]. Như vậy có một sự đi trước luận lý của ơn gọi tương quan với một sứ vụ, nhưng sự đi trước có tính cách hữu thể sẽ luôn cần thiết để qui chiếu vào Thiên Chúa là Đấng nâng đỡ nó.  

Chính kinh nghiệm nền tảng Chúa là Tất Cả này giải thích thái độ của những người ngày đêm âm thầm phục vụ trong những công việc tay chân tầm thường, hoặc thái độ của những người đang dấn thân trong các hoạt động tông đồ thành công bất ngờ bị bứng đi cách bất công theo lệnh, và rồi phải đi tới một nơi như cuộc lưu đày lặng lẻ. Tuy nhiên họ vẫn kiên trì và thanh thản ở lại cho đến cùng, không nghĩ rằng nếu rời bỏ cộng đoàn họ có thể tiếp tục cách thành công và ngay cả thành công lớn hơn nữa công việc họ vẫn làm cho đến lúc đó. Trong số đó có những giáo sư, những nhà nghiên cứu, những nhà lãnh đạo mà hoạt động của họ vốn sáng chói nay bị cấm viết, cấm dạy và bị loại ra, nhưng họ đã bằng an chấp nhận sự thầm lặng mới đó mà không hề chiến đấu chống lại. Tại sao? Vì kinh nghiệm nền tảng “Một Mình Thiên Chúa là Đủ!” 

Điều đó giải thích cho cuộc sống của một thành viên trải qua hết năm này đến năm nọ ân cần nơi bàn giữ cổng, cặm cụi trong nhà bếp, trại chăn nuôi hay cẩn thận nơi tay lái mà vẫn nói rằng mình hạnh phúc và hoàn toàn thỏa mãn với cuộc đời mình: Một mình Thiên Chúa là đủ! 

Kinh nghiệm này là một ân ban của Chúa, cần phải được các cơ cấu của đời sống cộng đoàn vun đắp và giúp đỡ. Quả thế, đời sống thánh hiến và các hiệp hội tông đồ đã được thiết lập để nuôi dưỡng kinh nghiệm nền tảng Chúa là tất cả luôn đặt Chúa lên vị trí hàng đầu:

  • đức khó nghèo xét như sự lột bỏ và không dính bén cung ứng những điều kiện tốt cho việc lệ thuộc vào Chúa;

  • đức vâng lời là một sư phạm để học hỏi ở người đã vượt qua những con đường thân mật với Chúa trước mình;

  • đức khiết tịnh không phải là một khổ chế hay trấn áp cho bằng là diễn tả một tình yêu trọn vẹn cho Thiên Chúa.

 Có một sự hiện diện thực sự hiện sinh của Thiên Chúa trong tương quan với các cơ cấu cộng đoàn và những nỗ lực tu đức: chúng ta có thể nói rằng Thiên Chúa can thiệp cách nhiệm mầu vào cuộc sống chúng ta. Sự từ bỏ ý riêng tùy thuộc vào kinh nghiệm về sự tuyệt đối của Thiên Chúa.  

Kinh nghiện nền tảng Chúa là tất cả không phải là điểm khởi đầu, mà là điểm phải đến: Chớ gì không có gì làm con phải giao động, chớ gì không có gì làm con phải lo sợ. Mọi sự đều qua đi. Thiên Chúa không hề thay đổi. Lòng nhẫn nại vượt thắng tất cả. Ai có được Thiên Chúa thì chẳng thiếu gì hết: Một mình Thiên Chúa là đủ.  

 

F. 2. Kinh nghiệm sống sứ vụ tông đồ - CÔNG VIỆC CỦA CHÚA 

Kiểu sống sứ vụ tông đồ là cái chung nhất của đời sống dâng hiến của chúng ta. Đa số trong chúng ta đều thuộc về các cộng đoàn có động lực là sứ vụ tông đồ. Chúng ta gia nhập cộng đoàn vì chúng ta muốn phục vụ tha nhân, muốn đi truyền giáo, muốn tận tụy với việc đào tạo, muốn xả thân cho người nghèo. Cái quan trọng nhất là việc phục vụ.  

Các cơ cấu cộng đoàn được nhắm tới và được chấp nhận như điểm tựa mục vụ, vì chúng tránh cho chúng ta những mối bận tâm làm cản trở việc dấn thân trọn vẹn. Ngay cả sự nâng đỡ tình cảm của anh chị em cũng có phận vụ tạo nên thế quân bình để công việc phục vụ và truyền giáo được hiệu quả lớn nhất.  

Các lời khuyên Phúc Âm cũng nhằm tới sứ vụ truyền giáo: sự cần mẫn, quảng đại, tính sẵn sàng phục vụ… là những giá trị hàng đầu. Việc hoàn thiện các đức tính nhân bản, thăng tiến các tài năng, đào tạo nghiệp vụ là những yếu tố căn bản cho hiệu năng tốt hơn trong việc tông đồ.  

Đức khiết tịnh được xét đến trong viễn ảnh phục vụ, vì nó được coi là thích hợp cho sự sẵn sàng khi thuyên chuyển. Người ta nghĩ rằng hôn nhân và gia đình ngăn cản người ta hiến thân trọn vẹn cho việc tông đồ. Do đó người ta càng đánh giá cao những anh chị em có thành tích tông đồ, mà coi thường những anh chị em thiếu khả năng đó.  

Kiểu sống và quan niệm sứ vụ tông đồ này làm phát sinh một vấn đề nội tại: khi một thành viên coi hoạt động tông đồ là nguồn động lực tối hậu của ơn gọi mình thì khi mọi sự trôi chảy, đáp ứng được các nhu cầu tâm lý, thiêng liêng và nhân bản, thành viên đó bước đi trong an bình, các hoạt động thỏa mãn được tình cảm, bù trừ cho sự từ bỏ của đời sống độc thân; những thúc đẩy tình cảm tìm được sự thăng hoa lành mạnh và đời sống thừa tác không có gì rắc rối. Đó là lý do tại sao lắm khi người ta cảm nhận một nỗi lo sợ gần như vô thức trước những lời chỉ trích về các công việc hay dự tính thay đổi hoặc chấm dứt một công trình. 

Vấn đề nổi lên khi hoạt động tông đồ mất đi hiệu năng hay không còn mang lại ý nghĩa cho đời sống của vị tu sĩ. Trong hoàn cảnh ấy, vị tu sĩ có thể nghĩ rằng hoạt động tông đồ của mình sẽ hiệu quả hơn khi ở bên ngoài khung cảnh tu trì. Kinh nghiệm cho thấy rằng một số giáo dân có đời sống dấn thân và hội nhập triệt để hơn nhờ sự hỗ trợ tình cảm và tính hiệu năng họ cung ứng lẫn cho nhau. Từ đó nổi lên vấn nạn: ích gì ở lại trong đời tu nếu có thể làm tốt hơn công việc tông đồ đó khi ra đời và lập gia đình? 

Sự giàu có và trưởng giả của nhiều cơ cấu cộng đoàn, lấy lý do là để phục vụ, đã kéo theo một cảm giác giảm sút và không giúp ích cho việc tông đồ. Những ai đi tu chỉ quan tâm đến sự dấn thân triệt để đó không thấy được tại sao mình cứ tiếp tục đời tu vì nghĩ rằng họ sẽ có thể trở nên đích thực hơn trong tư cách giáo dân có gia đình. Biết bao nhiêu giáo dân đóng vai trò nhà đào tạo, cả trong lãnh vực tôn giáo, cách hiệu quả hơn tu sĩ. Người ta không còn thấy sự khác biệt giữa giáo dân và người tu trong những gì liên quan đến hoạt động tông đồ. Vậy thì ích gì sống đời thánh hiến?

Có những trường hợp hùng hồn hơn nữa: một số người xuất tu thực hiện một việc tông đồ còn hiệu quả hơn trước kia. Mọi sự bị đảo lộn: giáo dân có nhiệm vụ đào tạo tôn giáo cho học sinh trong khi linh mục, tu sĩ lại bận rộn với việc quản trị các của cải vật chất.  

Sự chán nản của các anh chị em đồng nghiệp quá lý tưởng lúc mới vào tu thật lớn lao và họ cảm thấy không còn động lực để kiên trì, nếu họ vào tu chỉ vì những động lực tông đồ. Đó là lý do tại sao việc rời bỏ cộng đoàn là kết quả đương nhiên của cơn khủng hoảng, vì động lực tông đồ có thể trở thành sự làm nản lòng và bỏ cuộc. Cái giá của việc từ bỏ hôn nhân là quá lớn đối với một công việc tương tự hay còn kém hơn nữa trên bình diện tông đồ. Một cuộc sống tu trì thiếu hoạt động tông đồ như thế không còn được biện minh. 

Cơn khủng hoảng gây nên do kiểu sống sứ vụ tông đồ thật bi đát trong các cộng đoàn đã sống kiểu sống đó cách cứng nhắc, như sự cạn kiệt ơn gọi nhanh chóng, nhất là trong những hoàn cảnh thiếu ơn gọi không thể tránh được của các thập niên qua ở Âu Mỹ.  

Trong một số trường hợp, người ta có cảm tưởng rằng chỉ có những người không có khả năng đối đầu với sự thay đổi hay thích giữ lấy cái nhịp điệu quen thuộc có sẵn là bằng lòng ở lại cộng đoàn, vì lý do tâm lý hoặc những lý do quan trọng khác. 

Luật của tính ì thụ động thắng lướt nhiệt huyết tông đồ. Sự xung đột của kiểu sống này cũng nhất thiết xảy ra rõ ràng giữa các cơ cấu tông đồ truyền thống nặng nề và lối sống tông đồ sáng tạo của thế hệ mới. Trong trường hợp này, gánh nặng của cơ cấu truyền thống sẽ bị kết thúc bởi những khủng hoảng và những cuộc ra đi, người ta không thể cầm chân người trẻ bằng cách kêu gọi sự nhẫn nại, hay với lý lẽ cứ lặp đi lặp lại những bài diễn thuyết ca ngợi các công trình truyền thống hay lòng tín nhiệm vào cơ cấu mà kết quả thì chẳng thấy đâu.  

Dĩ nhiên vẫn có những người kiên trì ở lại, ngay cả khi họ không còn tin vào lý do tối hậu mà họ đã vào tu, tức tính hữu hiệu tông đồ. Nhưng họ kiên trì ở lại bởi áp lực của gia đình, xã hội, văn hóa… vì đối với họ, việc rời bỏ cộng đoàn là một sự sụp đổ hoàn toàn. Trong kiểu sống này, đức khiết tịnh, một khi không còn được nâng đỡ bởi nhiệt huyết tông đồ, phải được duy trì bởi sự khổ hạnh và ngay cả bởi sự trấn áp. Đó là một khổ hạnh gắn liền với kỷ luật hơn là tình yêu. 

Một số tu sĩ tìm các giải pháp hoàn cảnh qua các hoạt động tông đồ mới, bằng cách thay đổi các hoạt động và sự mới mẻ đó duy trì sự hứng thú. Nhưng đến bao giờ? Có những tu sĩ làm việc trong trường học đã bỏ trường học để đi ra giáo xứ, coi đó là hứng thú; rồi khi chán mệt giáo xứ, họ lại ra đi vào đời, và hứng thú lại trở lại. Nhưng khi họ lại chán mệt môi trường xã hội thì họ sẽ đi đâu? 

Có những người tìm giải pháp trong một thứ chủ nghĩa theo thời tiêu cực: đã quá muộn để rời khỏi cộng đoàn… phải cố chịu đựng cuộc sống như định mệnh đã an bài. Nhưng họ đau khổ vì nỗi xao xuyến tiềm tàng nhận thấy sự thất bại của một ơn gọi thật ý nghĩa trong quá khứ mà bây giờ không còn nữa. 

Những người khác ở lại vì cộng đoàn mang lại cho họ một cuộc sống tiện nghi và trưởng giả, dù rất tầm thường. Trong trường hợp này, Nhà Dòng chỉ còn là một “quán trọ của những người độc thân”, họ không còn tin tưởng vào lý do tồn tại của cuộc sống họ đang sống, hoặc trong trường hợp kém bi đát hơn, họ chấp nhận cái lợi ích tông đồ ít ỏi mà họ làm, biết rằng nếu ra ngoài họ có thể làm được nhiều hơn nữa, nhưng không đủ can đảm để làm điều đó.

 

F. 3. Sự điều hợp giữa hai kiểu sống kinh nghiệm nền tảng và kinh nghiệm sống sứ vụ tông đồ - CHÚA và VIỆC CỦA CHÚA 

Dĩ nhiên một đời sống toàn diện tìm được giải pháp dứt khoát khi có được sự điều hợp hài hòa giữa kinh nghiệm nền tảng và sứ vụ tông đồ, hay nói ngắn gọn là giữa Chúa và việc của Chúa. Khởi đầu chọn vào đời tu vì lý do tông đồ, nhưng qua một cơn khủng hoảng lại khám phá thấy rằng còn có một lý do sâu xa hơn để biện bạch cho cuộc sống tu trì là sự hiến dâng triệt để cho Thiên Chúa.  

Khởi đi từ một kinh nghiêm tông đồ, người ta có thể đi tới kinh nghiệm nền tảng Chúa là tất cả. Trong trường hợp này, các hoạt động tông đồ tìm được ý nghĩa đích thực phát xuất từ kinh nghiệm nền tảng Chúa là tất cả này.  

Ở đây vấn đề là tìm biết xem đâu là kinh nghiệm đầu tiên dẫn chúng ta đến đời tu. Nếu đó là kinh nghiệm nền tảng Chúa là tất cả, chúng ta phải coi đó là bảo đảm cho tính trung thực đời tu được phân định và vun đắp của mình. Nếu đó là lý do tông đồ, chúng ta phải tự hỏi xem mình có kiên vững ở đó không.  

Nếu lý do tông đồ không được tiến hóa hướng về kinh nghiệm nền tảng Chúa là tất cả thì những bảo đảm kiên bền, thánh hóa và niềm vui sẽ giảm đi và làm cho chúng ta đi tới một tình huống thực sự nguy hiểm. 

Câu kết luận hiển nhiên là kinh nghiệm nền tảng Chúa là tất cả hoặc đã có mặt ngay từ đầu, hoặc đã trỗi lên qua dòng đời dâng hiến và chúng ta phải tài bồi vun đắp cho nó. Tất nhiên việc dấn thân trong sứ vụ, sự nhiệt tình tông đồ, lòng tận tụy truyền giáo có thể là những trung gian quí báu để khám phá được kinh nghiệm nền tảng “Chỉ một mình Chúa là đủ.”

Nếu một cộng đoàn chú tâm đặc biệt vào các hoạt động mục vụ thì nó phải hướng các suy tư của mình nơi kinh nghiệm nền tảng Chúa là tất cả để rút ra được ánh sáng, sức mạnh, nhiệt tình tông đồ. Đó là một sự trở về nguồn thực sự. Nếu không có sự trở về nguồn này thì mọi kế hoạch canh tân và cập nhật sẽ thiếu nghiêm túc và chiều sâu. 

Điều đó có nghĩa là không phải có hai kiểu sống, mà là có hai cách thức để đạt tới kinh nghiệm nền tảng Chúa là tất cả: hoặc ngay từ đầu đã có kinh nghiệm nền tảng Chúa là tất cả, hoặc dần dần tiến lại kinh nghiệm nền tảng này khởi đi từ các trung gian tông đồ. 

Vì chúng ta đang sống trong một thế giới tục hóa chỉ chú trọng tới hoạt động, hiệu năng, công việc nên thường các ơn gọi trỗi dậy từ mối quan tâm tới hoạt động, nhưng thật là nguy hại nếu chỉ dừng lại đó. Công cuộc đào tạo phải đưa các ứng sinh đến trung tâm của ơn gọi là chính Chúa. Kỳ tĩnh tâm là một cơ hội tuyệt hảo để xác định lại các kiểu sống của chúng ta và tầm quan trọng của chúng. 

Về đề tài này, thật là quan trọng để ý thức rằng kinh nghiệm nền tảng Chúa là tất cả này không phải là một bảo đảm luôn luôn sẵn có. Nhưng trước hết phải thử thách nó, nói khác đi là ghi nhận tính đích thực của nó trên bình diện thiêng liêng, tắt một lời là phải vun đắp và thăng tiến nó. Như bất cứ thực tại nhân loại nào, kinh nghiệm nền tảng Chúa là tất cả này cũng trải qua những yếu tố nhập nhằng, những thiếu sót tâm lý, những ý hướng không trong sạch. Chính là nhờ việc tông đồ thanh tẩy nó, đào sâu nó, làm cho nó được vững chắc. Tất nhiên việc dấn thân truyền giáo là trung gian đặc ân cho chúng ta sống kinh nghiệm nền tảng này. 

Tóm lại, “Một mình Thiên Chúa là đủ” là gốc rễ, các cành sẽ ở lại trong sự sống theo mức độ chúng được nuôi dưỡng bởi nhựa luyện phát sinh từ gốc rễ. Rễ mà không mọc ra và phân nhánh thì cành phải chết.

 

F. 4. CHÚA GIÊSU là nguyên lý của đời sống và sứ vụ ơn gọi 

Việc đạt tới nhận thức rằng Một mình Thiên Chúa là đủ phải vừa là điểm xuất phát vừa là đích tới. Chúng ta không đạt được kinh nghiệm nền tảng Chúa là tất cả ngay từ bước đầu tiên của ơn gọi hoặc trong suốt hành trình đào tạo, nhưng đúng hơn nó thường được tôi luyện rõ nét vào dịp các khủng hoảng hay những thách đố lớn. 

Tuy nhiên, chúng ta cũng phải nhìn nhận rằng các khủng hoảng cũng là một dữ kiện sinh tồn. Có khủng hoảng tất nhiên đòi hỏi phải có những tiêu chuẩn giải quyết: chúng ta phải mở ra với thế giới đang đổi thay, nhưng phải tránh cơn cám dỗ khuôn đúc theo thế giới này, đồng thời phải chuyển tải cái nhân Phúc Âm đến cho một thế giới đang thực sự cần nó. Cái nhân Phúc Âm này không phải là một giáo thuyết mà là một con người: Đức Giêsu Kitô. 

Ở bình diện Giáo Hội và cả ở bình diện cá nhân, chúng ta phải đi gấp tới việc thanh tẩy các động lực của mình. Cần phải nhớ rằng trước Công đồng Vaticanô II người ta đã nhấn mạnh các viễn ảnh đạo đức và luân lý: bó buộc tìm kiếm sự hòan thiện, lòng quảng đại trong các công việc tông đồ, đòi hỏi phải có đời sống cộng đoàn. Tâm thức đó được chuyển tải trong các sách tu đức, những khảo luận về lòng đạo đức và các thủ bản tĩnh tâm.  

Ý niệm đó phải bị vượt quá bởi một ý niệm khác có tính chất Kinh Thánh hơn và đăt trọng tâm nơi Chúa Giêsu. Đặt trọng tâm nơi Chúa Giêsu, “Đấng vẫn là một hôm qua, hôm nay và mãi mãi”[1] là cốt lõi. Đặt trọng tâm nơi Thầy Chí Thánh là cách thế duy nhất để trở nên người môn đệ truyền giáo hầu muôn dân có sự sống trong Ngài.  

Sự qui chiếu về Chúa Giêsu phải là tuyệt đối: “Đôi lúc Chúa gửi đến cho tôi những khoảnh khắc bình an, trong những khoảnh khắc ấy, tôi yêu và cảm nhận tôi được yêu. Chính trong những khoảnh khắc ấy, tôi đã sáng tác một bản tuyên xưng đức tin, trong đó mọi sự thật rõ ràng và thánh thiêng. Bản tuyên xưng này rất giản dị như thế này:

Tôi tin rằng không có gì đẹp hơn, không có gì sâu xa hơn, không có gì thiện cảm hơn, không có gì hữu lý hơn, không có gì mạnh mẽ hơn, và không có gì hoàn hảo hơn Chúa Kitô. Và tôi tự nhủ với một tình yêu ganh tỵ rằng chẳng có gì hiện hữu và chẳng có gì có thể tồn tại, ngay cả khi một ai đó chứng minh cho tôi rằng Chúa Kitô ở ngoài chân lý và chân lý không ở trong Ngài thì tôi cũng sẽ chọn ở lại với Chúa Kitô thay vì ở lại với cái chân lý được giả thiết đó” (Dostoievski).

Trong cùng ý hướng ấy, thánh Patrice viết:

Chúa Kitô ở với tôi, Chúa Kitô ở trong tôi, Chúa Kitô ở đàng sau lưng tôi, Chúa Kitô ở đàng trước mặt tôi, Chúa Kitô ở bên cạnh tôi, Chúa Kitô đến nắm lấy tôi, Chúa Kitô đến an ủi tôi, Chúa Kitô đến bổ sức cho tôi, Chúa Kitô ở bên dưới chân tôi, Chúa Kitô ở bên trên đầu tôi, Chúa Kitô ở trong sự bình tâm, Chúa Kitô ở trong hiểm nguy, Chúa Kitô ở trong trái tim của những người yêu mến tôi. Chúa Kitô ở nơi môi miệng của bạn hữu cũng như của người xa lạ.”  

Và thánh Vinh sơn đệ Phaolô viết:

Bạn hãy nhớ rằng chúng ta sống trong Chúa Kitô nhờ cái chết của Chúa Kitô, và chúng ta phải chết trong Chúa Kitô để được sự sống của Chúa Kitô, đời sống chúng ta phải được giấu ẩn trong Chúa Kitô và tràn đầy Chúa Kitô, và để chết như Chúa Kitô thì phải sống như Chúa Kitô.”


[1] Dt 13,8.

VỀ MỤC LỤC
SỐNG VỚI VIÊM KHỚP
 

Hai câu thơ tình cảm của nhà thơ Nguyễn Bính:

"Nắng mưa là bệnh của trời

Tương tư là bệnh của tôi yêu nàng"

 

đã được cố nhạc sĩ Nguyễn Hiền mượn vần để nói lên một tình trạng bệnh của người cao tuổi như sau:

Nắng mưa là bệnh của trời

Đau xương nhức khớp, bệnh người tuổi cao”.

Vì thực ra Viêm Khớp là rối loạn thường thấy ở lớp tuổi “Cổ lai hy”. Chỉ thường thấy mà thôi, chứ không phải cứ tuổi cao là bị bệnh. Bệnh cũng xảy ra ở lớp tuổi trung niên, thậm chí trẻ hơn.

Viêm Khớp là bệnh thoái hóa của khớp, một phần vì sự tả tơi hư hao với thời gian sử dụng, nhưng cũng gây ra do nếp sống của con người và sự không có hiểu biết rõ ràng về bệnh.

Khớp là nơi kết nối của 2 hoặc nhiều xương. Đa số khớp có thể chuyển động theo nhiều tầm khác nhau như xoay tròn, xoay ngang xoay dọc, vươn lên cao hoặc xuống thấp, bước tới bước lui, nhờ đó con người thực hiện được các công việc cần thiết cho sự sống.

Thành phần tối quan trọng của khớp là lớp đĩa đệm bằng chất sụn để giảm cọ sát của 2 đầu xương cũng như chống sốc khi khớp chuyển động. Ngoài ra, còn gân, dây chằng, cơ bắp bao che xung quanh để giữ khớp ở vị trí cố định và giúp khớp mạnh hơn; chất nhờn trơn để mặt xương dễ dàng trườn lên nhau khi chuyển động.

Trong Viêm Khớp, sụn hao mòn, rách tả tơi, đưa đến hậu quả là hai đầu xương cọ vào nhau, gây ra đau, sưng và giảm tầm cử động của khớp. Một vài cái gai (spur) từ xương cũng nhô ra, đụng vào cơ bắp, dây thần kinh khiến người bệnh chịu nhiều đau đớn hơn.

Sụn hao mòn với thời gian sử dụng cho nên quá bán quý vị cao niên trên 65 tuổi thường bị viêm một khớp nào đó trong cơ thể. Ở lớp tuổi trẻ hơn, rủi ro gây viêm khớp có thể là chấn thương khi liên tục dùng khớp quá sức: nâng vật nặng, va chạm trong thể dục thể thao hoặc do quá mập phì. Khớp cuối các ngón tay, đầu gối, khớp cổ, thắt lưng là nơi bị nhiều hơn cả.

Ngoài ảnh hưởng lên sự di động, viêm khớp còn ảnh hưởng tới nếp sống, tới công việc, khả năng tài chính và ngay cả tới địa hạt tinh thần. Đi lại khó khăn. Không nâng nhấc được vật nặng.Tốn tiền chữa trị. Kém thu nhập. Giới hạn nghề nghiệp, kém sinh hoạt hàng ngày. Cảm thấy trở nên bất khiển dụng, rồi trầm cảm xuất hiện, stress tăng, kém ăn, mất ngủ. Vì theo bác sĩ chuyên khoa xương Scott J. Zashin, chưa có nghiên cứu dứt khoát nào cho hay là ta có thể trì hoãn hoặc phòng tránh sự phát triển của Viêm Khớp nhưng chỉ có cách để giảm những rủi ro gây ra bệnh.

Như vậy, các nhà chuyên môn đều có ý kiến là, chẳng may bị Viêm Khớp thì hãy tìm cách sống chung với bệnh. Tức là thay đổi nếp sống và thói quen để đối phó với khó chịu của bệnh đồng thời cũng tránh những gì có thể gây tổn thương thêm cho khớp đã bị hư hao.

1- Trước hết là cần có một vị lương y cởi mở, tận tâm để sớm xác định bệnh rồi điều trị nhờ đó giảm thiểu tổn thương và giảm đau. Có nhiều thuốc chống viêm, chống đau mà bác sĩ có thể chỉ định cho từng người bệnh. Uống theo đúng hướng dẫn. Nếu có tác dụng ngoại ý, cho bác sĩ biết để đổi thuốc. Muốn dùng thêm thuốc trị “bá bệnh”, không khỏi sẽ được trả lại tiền, thì cũng nên hỏi qua ý kiến bác sĩ. Kẻo mà tiền mất tật mang, vì thuốc Tiên có thể chứa chất gây mục xương, mập phì. Đôi khi bác sĩ cũng bơm bổ xung dầu mỡ nhân tạo (hyaluronic) để khớp bớt khô, cử động dễ dàng.

Trong trường hợp trầm trọng mà chữa trị bằng thuốc không được như ý muốn thì bác sĩ có thể đề nghị giải phẫu khớp. Trước khi quyết định mổ, hỏi bác sĩ xem còn điều trị nào khác không, có cần phải mổ không, tỷ lệ giảm bệnh là bao nhiêu và áp dụng cách mổ nào? Thay khớp, dính khớp hoặc mổ lấy gai, lấy mảnh vụn trong khớp. Hãy tìm hiểu tường tận và tin tưởng ở khả năng của bác sĩ.

2- Hiểu rõ về bệnh

Qua bác sĩ cũng như sách báo, internet, hãy tìm hiểu cặn kẽ về diễn tiến, biến chứng của bệnh để đôi bên có thể “sống chung hòa bình”. Biết người, biết ta mà. Chấp nhận hoàn cảnh một cách tích cực, tránh những gì có thể làm bệnh gia tăng đồng thời áp dụng các phương thức giảm thiểu triệu chứng bệnh. Chia xẻ kinh nghiệm với người cùng cảnh ngộ để giảm khó khăn. Có nhiều hiệp hội thân hữu, hỗ trợ bệnh nhân Viêm Khớp mà ta có thể tham gia để học hỏi, để an ủi lẫn nhau.

3- Bảo vệ khớp

 Gượng nhẹ và không dùng khớp đang bị tổn thương để làm công việc cần sức mạnh, như nâng nhấc vật nặng, di động quá nhanh; không đi giày cao gót suốt ngày khi bị viêm khớp đầu gối, cổ chân; không bẻ khớp ngón tay ngón chân để tránh viêm căng dây chằng, gân quanh khớp đưa tới giảm sức mạnh bàn tay, bàn chân.

4- Giảm sức nặng cơ thể.

Ăn uống vừa đủ với nhu cầu, tránh mập phì. Theo bác sĩ Patience White, U.S. Arthritis Foundation, với 1 kg thể trọng thì khớp đầu gối chịu một sức nặng là 4 kg, tăng rủi ro viêm khớp. Thống kê cho hay 2/3 người mập phì bị viêm khớp.

5- Tập luyện cơ th

Nhiều người cho là bị viêm khớp mà vận động cơ thể sẽ làm bệnh trầm trọng hơn. Tin tưởng này đúng nếu không biết cách vận động và không đúng nếu biết tập luyện tùy theo khả năng của khớp. Dòng nước không chảy, nước tù đọng, dơ bẩn. Khớp không cử động, khớp “đóng băng” cứng ngắc. Mỗi sáng, sau một đêm ngủ ngon, bà con thấy các khớp của bàn tay, bàn chân, đầu gối đau đau, không co duỗi đựơc, vì chúng bất động suốt 6,7 giờ. Thêm vào đó, vì khớp viêm đau, bệnh nhân bảo vệ khớp, không dùng, cơ bắp xung quanh yếu, khiến cho khớp thêm cứng. Với các nhà chuyên môn y khoa học, vận động là phương thức hiệu nghiệm nhất vùa phòng tránh vừa giảm khó chịu của Viêm Khớp. Bác sĩ Thấp Học Sam Schatten, Atlanta, nhận xét: “Đi bộ cải thiện rất nhiều thái độ của con người và loại bỏ vòng luẩn quẩn có hại buồn phiền và đau nhức”.

Có ít nhất 3 cách vận động giúp khớp bớt đau:

            a- Vận động để tăng tầm chuyển động bình thường (range of motion) và giảm sưng cứng của khớp. Nhiệm vụ khớp cổ tay là xoay tròn về mọi phía thì nhẹ nhàng tập luyện xoay để khớp không đóng băng. Khớp đầu gối là để đứng lên, ngồi xuống, bước tới bước lui thì tập lên gối xuống gối để duy trì chức năng này.

            b- Tập luyện để tăng cường sức chịu đựng của cơ thể (aerobic exercise), tuần hoàn hô hấp hoạt động mạnh hơn, tinh thần thoải mái, yêu đời, ngủ ngon hơn đồng thời cũng bớt mập phì, một trong những rủi ro gây viêm khớp. Có thể đi bộ với nhịp bước nhanh hoặc bơi lội.

            c- Tập luyện để tăng sức mạnh của cơ bắp, gân, dây chằng chung quanh khớp, nhờ đó khớp đang bị viêm không bị dao động, giảm đau.

Cần hỏi ý kiến bác sĩ về các phương thức tập luyện, sao cho thích hợp với tình trạng bệnh của mình.

6- Sống thoải mái tích cực.

Nhiều người buồn rầu, than vãn vì triền miên đau, sống trong căng thẳng. Mà stress làm cơ thể căng cứng, tăng đau nhức kèm theo bực bội và giảm sinh hoạt. Tích cực sống hòa bình với Viêm khớp cũng tăng sản xuất hóa chất endorphin trong người, là chất làm giảm đau. Lâu lâu làm một cuộc massage, ngâm tắm nước nóng để máu huyết lưu thông, thư dãn xương khớp, ngủ ngon, giảm đau.

7- Thời tiết với Viêm Khớp

Nhiều người tin tưởng rằng thời tiết khí hậu ảnh hưởng tới Viêm Khớp. Họ đã chuyển nơi ở từ miền lạnh ẩm tới vùng khô ráo nắng ấm. Nhiều người cũng nói “cứ mỗi khi tôi đau nhức xương khớp là y như rằng Trời sắp giông tố, mưa bão”. Tin tưởng này có từ thuở xa xưa, khiến cho các khoa học gia cũng phải lưu tâm, nghiên cứu.

Vào thập niên 60 của thế kỷ trước, bác sĩ John Hollander đã làm một nghiên cứu về vấn đề này. Ông để 8 bệnh nhân bị Thấp Khớp và 4 bị Viêm Khớp vào một căn phòng kín  trong đó áp xuất không khí điều chỉnh lên xuống được. Kết quả mà ông tìm ra là 8 người nhạy cảm với thời tiết và 7 người cho hay đau hơn khi tăng độ ẩm và giảm áp xuất. Kết quả được nhiều nhà chuyên môn lưu ý và nghiên cứu thêm. Một giả thuyết giải thích hiện tượng này là khi áp xuất xuống thấp, không khí ẩm khiến cho tế bào bị viêm “nở” ra đưa tới khớp hơi sưng và đau.

Trong một tài liệu của Johns Hopkins Medicine có ghi: Mặc dù có vài bằng chứng rằng người sống ở vùng khí hậu ấm, khô ráo ít cơn đau viêm khớp, nhưng khí hậu không ảnh hưởng tới diễn tiến của bệnh. Nhiều lắm thì thời tiết có thể ảnh hưởng tới sự đau của khớp viêm.

Nghiên cứu về Osteoarthritis pain and weather do F. V. Wilder, B. J. Hall J. P. Barrett thực hiện năm 2003 kết luận: Nói chung, các dữ kiện tìm thấy từ nghiên cứu không hỗ trợ giả thuyết nói rằng thời tiết liên quan tới đau. Thậm chí nếu có thì rất khiêm nhường.

 Tạp chí y học J Rheumatology 2004;31:1327-34) có ghi “Kinh nghiệm cố cựu “ Lạnh và ẩm  xấu, ấm và khô tốt cho Thấp Khớp” dường như chì đúng với độ ẩm mà thôi”. 

Đó là ý kiến chung của các nhà nghiên cứu. Và các bác sĩ chuyên khoa Thấp học cũng ít khi khuyên bệnh nhân di chuyển nơi ở, mà chỉ “nước đôi” vô thưởng vô phạt, nếu quý vị muốn, hãy thử xem sao.

Vả lại, bệnh Viêm Khớp, thấy có ở mọi quốc gia, từ miền nắng ấm tới vùng băng giá quanh năm. Cho nên trước khi di chuyển, cũng nên cân nhắc, sống thử một thời gian coi xem sao. Vả lại di chuyển, bỏ nơi quen sống từ nhiều chục năm, từ bó bạn bè thân thuộc, ông bà thầy thuốc thân yêu thì cũng hơi tiếc đấy.

Đặc biệt là với quý bà chị. Vì theo bác sĩ Maradee A. Davis và cộng sự viên, University of California, San Francisco, tỷ lệ viêm khớp gối của phụ nữ là 4.9% so với 2.6% ở nam giới. Và rủi ro này tăng khoảng 1.57 ở tuổi 45-54 lên 2.14 ở tuổi 65-74. Quý hiền tỷ phải cách xa bạn “đồng bệnh “để “tương lân”, học hỏi kinh nghiệm sống với Viêm Khớp thì có lẽ cũng hơi “buồn năm phút”  đấy nhỉ.

Bác sĩ Nguyễn Ý Đức

Texas- Hoa Kỳ   www.bsnguyenyduc.com

VỀ MỤC LỤC
BÀN VỀ CON TRÂU -  Chuyện phiếm của Gã Siêu

  

Vào khoảng năm 1958, dinh điền Cái Sắn được thành lập, dành cho đồng bào Bắc kỳ Di cư tới sinh sống. Lúc bấy giờ tất cả mới chỉ là một cánh đồng hoang bao la bát ngát, lau sậy mọc ngập đầu.

Chính phủ thuê người đào những con kênh để thoát phèn, cấp phát cho mỗi đầu người bốn đồng một ngày để sinh sống, cho mỗi gia đình một nếp nhà lá để ở tạm và một chiếc xuồng gỗ để di chuyển. Rồi sau đó, cấp phát cho hai ba nhà một con trâu để canh tác…

Cuộc sống dần dần đi vào cái thế ổn định và bắt đầu khởi sắc. Bọn nhóc tỳ, ngoài việc tới trường để học, còn được bố mẹ trao phó cho việc chăn trâu ngoài đồng.

Đi chăn trâu lúc bấy giờ vui lắm.

Mỗi khi đi, các  anh…nhớn thường phân công, để mang theo hai ba cái nồi và một ít gạo cùng với mắm muối.

Bọn nhóc tì, đứa thì thổi cơm, đứa thì canh giữ đàn trâu. Còn các anh nhớn thì đi kiếm thức ăn.

Chỉ cần mò dưới mấy cái lung là bắt được cá. Chỉ cần vớt những bông súng hay đào những ngó sen là có được một thứ rau cao cấp.

Những lúc rảnh rỗi, các anh nhớn còn tổ chức…chọi trâu, để tìm ra con trâu vô địch cho phe Bắc kỳ Di cư.

Chủ nhân của con trâu vô địch này có bổn phận phải chăm sóc sóc nó cách đặc biệt, nhất là phải “tút” hai chiếc sừng của nó cho thật nhọn, để rồi tới ngày giờ ấn định, đem ra chọi với con trâu vô địch của…làng Nam.

Khi trâu đã ăn no và trước lúc trở về nhà, bọn nhóc tỳ thường cho trâu xuống tắm dưới kênh. Một đứa ngồi trên mình trâu đánh cho trâu đi thật nhanh, còn một đứa thì bơi và nắm chặt lấy đuôi trâu để được trâu kéo đi, như người ta kéo xuồng vậy.

Trên đường về, trâu đứa nào thì đứa ấy cưỡi. Ngồi trên mình trâu mà bỗng cảm thấy mình oai phong lẫm liệt, như Đinh Bộ Lĩnh ngày xưa, đúng như một bài hát đã diễn tả:

- Ai bảo chăn trâu là khổ,

  Chăn trâu sướng lắm chứ.

  Ngồi mình trâu, cất ngọn cờ cao,

  Và miệng hát nghêu ngao.

  Vui thú không quên học đâu…

Theo sử sách kể lại thì Đinh Bộ Lĩnh quê ở động Hoa Lư thuộc tỉnh Ninh Bình, vốn là con của quan Thứ Sử Hoan Châu, tên là Đinh Công Trứ.

Thuở thiếu thời, Đinh Bộ Lĩnh thường theo bọn chăn trâu chơi, ông bắt chúng làm kiệu công kênh đi, lại lấy bông lau làm cờ quạt, bày ra trận giả để đánh nhau suốt ngày.

Nhờ sức khỏe phi thường, ông đã làm cho cả bọn trẻ đều khiếp sợ.

Trưởng thành, nhờ tài trí xuất chúng, ông dần dần thu phục được các Sứ quân, rồi lên làm vua, xưng là Đinh Tiên Hoàng Đế, đặt tên nước là Đại Cồ Việt, lấy hiệu là Thái Bình và đóng đô tại Hoa Lư.

Đối với bọn nhóc tì, thì trâu là một con vật thật dễ thương và dễ mến. Thế nhưng, bàn dân thiên hạ thì khác. Họ nhìn trâu bằng cặp mắt khinh thường.

Trước hết trâu là một con vật xem ra có vẻ ngu đần. Cũng vì bị coi là ngu đần, nên trâu phải cắn răng chịu đựng một kiếp sống lầm than vất vả.

Chuyện ngụ ngôn kể lại rằng:

Vào một buổi trưa hè oi bức, bác nông phu cùng với con trâu đang cố gắng cày nốt thửa ruộng ven rừng. Mồ hôi mồ kê nhễ nhại và chảy xuống đầy mặt ròng ròng.

Sau khi công việc xong xuôi, bác nông phu ngồi nghỉ dưới bóng một cây đa và bắn một điếu thuốc lào kêu ro ro. Còn trâu thì được đằm mình trong một vũng nước gần đấy.

Một chú hổ từ trong rừng bước ra. Chú đến bên trâu và nói:

- Trâu ơi, sao mày ngu thế. Mày vừa to lại vừa khỏe, thế mà lại để cho cái thằng người vừa nhỏ lại vừa yếu bắt phải làm những công việc nặng nhọc, nào cày sâu, nào bừa nát…mày không biết xấu hổ hay sao?

Trâu lắc đầu và bảo:

- Chú nói khe khẽ thôi, đừng để cho bác nông phu nghe thấy.

Rồi với dáng điệu bí mật, trâu bật mí cho chú hổ hay:

- Chú biết không, bác nông phu mà chú gọi là cái thằng người ấy có cái này thật là tuyệt vời và hết ý.

Chú hổ bèn tò mò hỏi tiếp:

- Thế thì đó là cái gì vậy?

- Cái trí khôn đó mà.

- Thế thì cái trí khôn ấy nó ra làm sao?

Trâu trả lời:

- Tôi đành phải chịu thua, không thể diễn tả được.

Chú hổ tỏ ra bực bội và tức tối:

- Rõ đồ ngu như trâu!

Sau đó, chú hổ mon men đến bên cạnh và gợi chuyện với bác nông phu:

- Này bác, tôi nghe người ta nói bác có cái trí khôn thật là cực kỳ. Vậy bác làm ơn cho tôi xem tí nhé.

Bác nông phu trả lời:

- Rất tiếc. Hôm nay ta lại để nó ở nhà mất rồi.

Chú hổ năn nỉ ỉ ôi:

- Thế thì bác chịu khó chạy về lấy mang ra đây, tôi sẽ xin hậu tạ.

Bác nông dân lắc đầu quầy quậy:

- Đâu có được. Vì nếu ta chạy về lấy, thì ở đây ngươi sẽ xơi tái con trâu của ta mất thôi.

Suy nghĩ một lúc, bác nông phu nói tiếp:

- Nếu ngươi bằng lòng, tạm thời ta sẽ trói ngươi lại, trong lúc ta chạy về nhà. Được không?

Chú hổ miễn cưỡng trả lời:

- Thế thì cứ tạm là như vậy.

Bác nông phu bèn mượn đỡ sợi dây thừng cột trâu trói nghiến chú hổ lại. Vừa trói xong, thì nhanh như chớp, bác lấy chiếc đòn càn đập túi bụi vào chú hổ. Vừa đập vừa la hét:

- Cái trí khôn của ta đây này, cái trí khôn của ta đây này…

Từ chỗ bị coi là hơi ngu đần, người ta còn gán ghép cho trâu nhiều thói hư tật xấu khác nữa.

Nào là chậm chạp:

- Trâu chậm thì uống nước đục.

Có nghĩa là chậm chân thì đành phải dùng của thừa thãi, hay phải cam chịu nhiều thiệt hại.

Nào là ghen tương:

- Trâu cột ghét trâu ăn.

Có nghĩa là trâu bị cột trong chuồng bực tức với trâu được thả rong ngoài ruộng, tha hồ mà gặm cỏ.

Ám chỉ cùng chung một giai cấp, hay cùng ở trong một hoàn cảnh, thế nhưng có kẻ được ưu đãi hay vì một lý do nào đó, được hưởng nhiều lợi lộc, khiến cho kẻ khác phải ganh tị, tìm cách nói hành nói xấu, dèm pha hạ nhục, theo kiểu:

- Trâu buộc thì ghét trâu ăn,

  Quan võ thì ghét quan văn dài quần.

Nào là thiếu tinh thần trách nhiệm:

- Trâu lấm vẩy càn.

Có nghĩa là trâu vốn hay đầm mình xuống vũng bùn cho mát, nhưng khi lên khô thường dùng đuôi vẩy vẩy hay lắc lư thân mình cho bùn đất rơi xuống.

Ám chỉ kẻ hèn nhát đã lỡ mang tiếng xấu, hay đã lỡ làm nên tội rồi, thì không còn e ngại chi cả, cứ việc khai bừa cho kẻ vô tội hoặc đổ lỗi cho người khác.

Nào là gây nên nhiều thiệt hại:

- Trâu bò húc nhau, ruồi muỗi chết.

Có nghĩa là trâu bò được nhốt chung trong một chuồng, khi không còn thuận hòa cùng nhau, thường hay dùng sừng mà húc vào nhau một cách dữ dội, khiến cho ruồi muỗi bu quanh chuồng hay đậu trên mình trâu bò, vô cớ bị chết oan vì cuộc đụng độ này.

Ám chỉ hai người, hai phe hay hai nước mạnh đấm đá nhau, thì tự nhiên dân chúng hay những kẻ ở gần đều bị họa lây.

Nào là dấu chỉ của điềm dữ:

- Trâu trắng đi tới đâu, mất mùa tới đấy.

Theo sự tin tưởng của dân gian, thì trâu trắng là điềm gở, mang lại nhiều xui xẻo.

Vì vậy, muôn đời trâu vẫn phải chịu đựng một số phận hẩm hiu:

- Trâu cày, ngựa cưỡi.

Có nghĩa là phải làm việc cực khổ như con trâu kéo cày để nuôi người ta và như con ngựa hầu hạ để cho người ta cưỡi.

Ám chỉ việc phải làm tôi mọi cho bàn dân thiên hạ.

Tuy nhiên phải công bằng mà nói: Trâu là một con vật rất hiền lành, rất chăm chỉ, đã tận tụy hy sinh tất cả để giúp đỡ cho nhà nông, không quản ngại nắng mưa sương gió, vất vả cực nhọc.

Hồi còn ở ngoài Bắc, gã đã từng thấy có những gia đình nghèo, không đủ tiền tậu lấy cho mình một con trâu. Vì thế, chị vợ thì cầm cày, còn anh chồng thì phải nai lưng ra kéo cày, chuẩn bị mảnh ruộng nhỏ để mà cấy lúa.

Chính vì thế, người ta thường nói:

- Con trâu là đầu cơ nghiệp.

Bò tuy nhanh, nhưng khi trời bắt đầu nóng là liền phá ngang. Trong khi đó, trâu tuy chậm nhưng mà bền. Nhẩn nha kéo chiếc cày, chiếc bừa, hay chiếc cộ lúa.

Cứ sau mỗi vụ xuống giống hay thu hoạch, cổ trâu đều bị rách toạc và lở loét vì bị cọ xát với cái ách, cái vạy…chắc là đau đớn lắm.

Nhiều khi đang mùa, trâu bị kiệt sức, khiến chủ nhà phải bồi dưỡng thêm bằng cách cho ăn cỏ non, thậm chí còn cho ăn cám và uống cả…bia nữa.

Ngày xưa ít muỗi, người ta chỉ cần cho trâu đằm dưới bùn. Hay sợ đang đêm kẻ trộm đến dinh mất, thì nhốt trâu vào chuồng và chỉ cần hun tí khói là trâu sẽ ngủ yên. Còn bây giờ tại Việt Nam, muỗi liên tục phát triển, ban đêm chúng bay vo vo như một bản hòa tấu. Vì  thế, người ta phải làm thêm mùng, rồi buông xuống cho trâu bò hay cho đàn lợn nuôi trong chuồng.

Và như vậy, trâu bỗng trở thành người thân cận và nghĩa thiết của nhà nông. Người ta tâm sự với trâu như với một người bạn chân thành:

- Trâu ơi, ta bảo trâu này,

  Trâu ra ngoài ruộng, trâu cày với ta.

  Cấy cày vốn nghiệp nông gia,

  Ta đây, trâu đấy ai mà quản công.

  Mai ngày cây lúa trổ bông,

  Thì còn ngọn cỏ ngoài đồng trâu ăn.

Thế nhưng, cho đến ngày hôm nay, số kiếp của trâu, vốn dĩ đã bi đát, lại càng thêm bẽ bàng và cay đắng. Người ta kêu gào văn minh hóa và hiện đại hóa đất nước. Người ta không còn muốn nhìn thấy cái cảnh lam lũ lầm than:

- Con trâu đi trước, cái cày theo sau.

Máy móc đã được thay thế cho trâu và đã dành được nhiều ưu thế. Nào là sức kéo bền bỉ và dẻo dai. Nào là không phải tốn công cắt cỏ và chăm sóc. Nào là được sử dụng vào nhiều công việc khác nhau. Nào là mang lại hậu quả kinh tế cao. Nào là vân vân và vân vân.

Chính vì thế, sự hiện diện của loài trâu, mặc dù chưa đi đến chỗ tuyệt chủng, nhưng mỗi ngày một khan hiếm, một lơ thơ, như tơ liễu buông mành.

Tuy nhiên, cái hiểm họa gay go nhất đe dọa loài trâu, khiến cho loài trâu chui tọt vào bao tử của con người, đó là vì bàn dân thiên hạ mách bảo nhau rằng thịt trâu lành và mát hơn thịt bò, vì vậy thịt trâu bỗng lên ngôi và có giá trên thị trường ăn nhậu.

Ngoài những món truyền thống như bắp trâu luộc chấm với tương gừng, lá xách trâu xào với dưa chua…tại địa phương, nơi gã đang cắm dùi, dân bợm nhậu rất khoái cái món lẩu trâu và thịt trâu luộc với mẻ…

Để kết luận, gã xin kể lại nơi đây một câu truyện về trâu và một câu tục ngữ cũng về trâu.

Trước hết là câu truyện về trâu được trích trong sách “Cổ Học Tinh Hoa”, đại khái như sau:

Đời thượng cổ có ông Hứa Do là một nhà ẩn dật, sống ở trong chằm Bát Trạch.

Vua Nghiêu nghe tiếng Hứa Do là người tài giỏi, nên mời ra xin nhường cả thiên hạ. Hứa Do từ chối, lui về ở ẩn tại núi Tràng Nhạc, phía nam sông Dĩnh Thủy.

Sau đó, vua Nghiêu lại tìm đến, cố mời Hứa Do ra làm quan, đứng đầu cả chín châu. Hứa Do thấy vậy không muốn nghe chuyện nữa, bèn ra bờ sông Dĩnh Thủy mà rửa tai.

Ngay lúc bấy giờ, Sào Phủ đang dắt trâu xuống bờ sông, gặp Hứa Do nên hỏi:

- Việc gì mà bác phải rửa tai như vậy?

Hứa Do thuật chuyện. Sào phủ nghe xong, liền gò cổ trâu lại mà nói:

- Ta toan cho trâu uống nước tại đây, nhưng lại e bẩn cả miệng trâu.

Nói đoạn liền dắt trâu lên quãng sông trên mà cho trâu uống nước.

Tác giả sách “Cổ Học Tinh Hoa” đã thêm vào câu truyện trên một lời bàn như sau:

Có cả thiên hạ mà cố nhường cho người khác là chuyện lạ.

Người được nhường cả thiên hạ cho, mà không nhận cũng là chuyện lạ.

Nghe thấy câu chuyện nhường thiên hạ, nghĩ là chuyện bẩn, nên phải đi rửa tai, lại là chuyện lạ hơn.

Không để cho trâu uống cái nước đã rửa tai ấy, sợ bẩn miệng trâu, lại là chuyện càng lạ quá đi nữa.

Đọc qua bài này, tưởng Hứa Do với Sào Phủ là hai người, nếu không ngông cuồng, thì cũng gàn dở.

Nhưng vì Hứa Do với Sào Phủ hiểu thấu cái danh lợi nó hãm hại người ta và làm cho mất hết liêm sỉ, nên hai ông không muốn để cái danh lợi làm bẩn đến bản thân, chỉ ưa chuộng lấy việc sống tự nhiên làm vui sướng, thì cũng là những bậc cao sĩ thờ một cái chủ nghĩa cao quí vậy.

Chả bù cho những phường tham danh và trục lợi ngày nay, thường say mê cái bả danh lợi, thậm chí cho đến chết, mà vẫn còn chưa tỉnh ra.

Cũng trong chiều hướng ấy, gã xin bồi thêm một  câu tục ngữ  cũng về trâu:

- Trâu chết để da, người ta chết để tiếng.

Ý nói con người cần phải cư xử thế nào cho phải đạo, biết trọng điều nhân nghĩa. Danh thơm tiếng tốt không những được bàn dân thiên hạ nhắc tới trong lúc còn sống, mà ngay cả sau khi đã chết, vẫn còn được người đời truyền tụng.

Mong rằng trong năm Kỷ Sửu cầm tinh con trâu này, mỗi người trong chúng ta biết ra sức tạo lấy cho mình một thứ danh thơm tiếng tốt, giữa lúc nền luân lý đang suy thoái và nền đạo đức đang trên đà tụt dốc không phanh.

Gã Siêu   gasieu@gmail.com

 

VỀ MỤC LỤC

- Mọi liên lạc: Ghi danh, thay đổi địa chỉ, đóng góp ý kiến, bài vở..., xin gởi về địa chỉ

giaosivietnam@gmail.com

- Những nội dung sẽ được đề cao và chú ý bao gồm:

Trao đổi, chia sẻ những kinh nghiệm thực tế trong việc mục vụ của Giáo sĩ;  Những tài liệu của Giáo hội hoặc của các Tác giả nhằm mục đích Thăng tiến đời sống Giáo sĩ; Cổ võ ơn gọi Linh mục; Người Giáo dân tham gia công việc “Trợ lực Giáo sĩ” bằng đời sống cầu nguyện và cộng tác trong mọi lãnh vực; Mỗi  Giáo dân phải là những “Linh mục” không có chức Thánh; Đối thoại trong tinh thần Bác ái giữa Giáo dân và Giáo sĩ… (Truyền giáo hay xây pháo đài?)

- Quy vị cũng có thể tham khảo những số báo đã phát hành tại

www.conggiaovietnam.net

Rất mong được sự cộng tác, hưởng ứng của tất cả Quí vị

Xin chân thành cám ơn tất cả anh chị em đã sẵn lòng cộng tác với chúng tôi bằng nhiều cách thế khác nhau.

TM. Đặc San Giáo Sĩ Việt Nam

Lm. Luca Phạm Quốc Sử  USA

 

 

Duoc chon giua loai nguoi va cho loai nguoi; GIAO SI: Xuat phat tu giao dan, hien dien vi giao dan va cay dua vao giao dan, de cung lam VINH DANH THIEN CHUA

*************