Giáo Dân |
Hiến Chế Tín Lý
Về Giáo Hội
Lumen Gentium
Bản dịch Việt
Ngữ của Giáo Hoàng Học Viện Piô X
Prepared for
Internet by Vietnamese Missionaries in Asia
Chương IV: Giáo Dân
40*
30. Giáo dân trong Giáo Hội.
Sau khi xác định những chức vụ của các phẩm trật, Thánh Công
Ðồng sẵn lòng đề cập đến bậc sống của những Kitô hữu được gọi là
giáo dân. Mặc dầu tất cả những gì nói về Dân Thiên Chúa đều có
liên quan đến giáo dân, tu sĩ cũng như giáo sĩ, nhưng có một số
điều đặc biệt thuộc về giáo dân nam nữ, vì địa vị và sứ mệnh của
họ; những điều mà hoàn cảnh đặc biệt của thời đại chúng ta đòi
hỏi phải tìm hiểu nền tảng chung cách thấu đáo hơn. Thực thế,
các chủ chăn của Dân Thánh ấy biết rõ giáo dân giúp ích rất
nhiều cho toàn thể Giáo Hội. Các Ngài biết rằng Chúa Kitô không
đặt các Ngài lên để một mình lãnh lấy tất cả sứ vụ cứu độ của
Giáo Hội đối với thế giới; nhưng nhiệm vụ cao cả của các Ngài là
chăn dắt tín hữu và nhận biết các phận sự và đoàn sủng nơi họ,
để mọi người cùng góp phần vào công cuộc chung, tùy theo cách
thức của mình. Vì thế, mọi người "phải lấy bác ái mà thực hành
chân lý, nhờ mọi sự hãy lớn lên trong Ðấng làm đầu là Chúa Kitô;
nhờ Người, toàn thân thể được phối hợp và kết tụ bằng sự liên
lạc tương trợ nhau, tùy theo công dụng khả năng từng phần tử,
khiến thân thể được tiến triển hầu xây dựng trong đức ái" (x.
Eph 4,15-16).
31. Bản tính và sứ mạng giáo dân.
Danh hiệu giáo dân ở đây được hiểu là tất cả những Kitô hữu
không thuộc hàng giáo sĩ và bậc tu trì được Giáo Hội công nhận;
nghĩa là những Kitô hữu đã được tháp nhập vào Thân Thể Chúa Kitô
nhờ phép Thánh Tẩy, đã trở nên Dân Thiên Chúa, và tham dự vào
chức vụ tư tế, tiên tri và vương giả của Chúa Kitô theo cách
thức của họ; họ là những người đang thực hiện sứ mệnh của toàn
dân Kitô giáo trong Giáo Hội và trên trần gian theo phận vụ
riêng của mình.
Tính cách trần
thế là tính cách riêng biệt và đặc thù của giáo dân. Thực vậy
các phần tử trong hàng giáo sĩ dù đôi khi có thể lo những việc
trần thế, hoặc hơn nữa, hành nghề giữa đời, nhưng vì ơn kêu gọi
đặc biệt, sứ mệnh chính yếu và rõ rệt của họ vẫn là sứ vụ thánh.
Phần các tu sĩ, do bậc sống của họ, làm chứng cách hùng hồn và
cao quí rằng người ta không thể cải tạo thế giới và cung hiến nó
cho Thiên Chúa được, nếu không có tinh thần các mối phúc thật.
Vì ơn gọi riêng, giáo dân có bổn phận tìm kiếm nước Thiên Chúa
bằng cách làm các việc trần thế và xếp đặt chúng theo ý Thiên
Chúa. Họ sống giữa trần gian, nghĩa là giữa tất cả cũng như từng
công việc và bổn phận của trần thế, giữa những cảnh sống thường
ngày trong gia đình và ngoài xã hội; tất cả những điều đó như
dệt thành cuộc sống của họ. Ðó là nơi Thiên Chúa gọi họ, để dưới
sự hướng dẫn của tinh thần Phúc Âm, như men từ bên trong, họ
thánh hóa thế giới bằng việc thi hành những nhiệm vụ của mình;
và như thế, với lòng tin cậy mến sáng ngời, và nhất là với bằng
chứng đời sống, họ tỏ lộ Chúa Kitô cho kẻ khác, vì thế, họ có
nhiệm vụ đặc biệt soi sáng và xếp đặt những thực tại trần gian
có liên hệ mật thiết với họ, để chúng không ngừng phát triển và
bành trướng theo Thánh Ý Chúa Kitô, hầu ca tụng Ðấng Tạo Hóa và
Ðấng Cứu Ðộ.
41*
32. Ðịa vị giáo dân trong lòng Dân
Thiên Chúa. Giáo Hội do Chúa thiết lập được tổ
chức và điều khiển theo nhiều thể thức khác biệt rất lạ lùng.
"Vì như trong một thân thể, chúng ta có nhiều chi thể, nhưng mọi
chi thể không có cùng một nhiệm vụ; cũng vậy, chúng ta tuy nhiều
người song là một thân thể trong Chúa Kitô, nên mỗi người chúng
ta là chi thể lẫn nhau" (Rm 12,4-5).
Thế nên chỉ có
một Dân Thiên Chúa được Ngài tuyển chọn: "chỉ có một Thiên Chúa,
một đức tin, một Thánh Tẩy" (Eph 4,5), cùng chung một phẩm giá
của những chi thể vì đã được tái sinh trong Chúa Kitô, cùng một
ân huệ được làm con cái, một ơn gọi trở nên trọn lành, một ơn
cứu độ và một niềm hy vọng duy nhất và một đức ái không phân
chia. Vì thế, trong Chúa Kitô và trong Giáo Hội, không còn có sự
hơn kém vì nguồn gốc hay dân tộc, vì địa vị xã hội hoặc vì nam
nữ, bởi lẽ "không còn là người Do Thái hoặc Hy Lạp, nô lệ hay tự
do, nam hay nữ, vì anh em hết thảy đều là một trong Chúa Giêsu
Kitô" (Gal 3,38, bản Hy Lạp; x. Col 3,11).
Vì thế, tuy
trong Giáo Hội, tất cả không cùng đi một đường, nhưng tất cả vẫn
cùng được mời gọi nên thánh, và đồng thừa hưởng đức tin trong sự
công chính của Thiên Chúa (x. 2P 1,1). Mặc dù theo ý Chúa Kitô,
có những người được chọn làm tiến sĩ, làm người phân phát các
nhiệm tích hay chủ chăn lo cho kẻ khác, nhưng giữa tất cả mọi
người vẫn có sự bình đẳng thực sự, bình đẳng về phương diện phẩm
giá và hoạt động chung của mọi tín hữu để xây dựng thân thể Chúa
Kitô. Thực vậy, nếu Chúa phân biệt những thừa tác viên có chức
thánh với các thành phần khác của Dân Thiên Chúa thì sự phân
chia này vẫn hàm chứa một sự hiệp nhất, vì chủ chăn và các tín
hữu khác liên kết với nhau do những mối dây liên hệ chung. Các
chủ chăn trong Giáo Hội noi gương Chúa phải phục vụ lẫn nhau và
phục vụ các tín hữu khác; phần các tín hữu phải sẵn lòng hợp tác
với các chủ chăn và những người giảng dạy. Như thế, tuy khác
biệt nhau, nhưng tất cả đều làm chứng sự duy nhất kỳ diệu trong
Thân Thể Chúa Kitô. Thực vậy, chính sự khác biệt về ân huệ, chức
vụ và hoạt động lại là mối dây kết hợp con cái Thiên Chúa làm
một, vì "mọi sự ấy là công trình của cùng một Thánh Thần duy
nhất" (1Cor 12,11).
Vì thế, nhờ
lòng ưu ái của Thiên Chúa, giáo dân được làm em Chúa Kitô, Ðấng
đã đến không phải để được phục vụ, nhưng để phục vụ, dù Người là
Chúa tể muôn loài (x. Mt 20,28). Cũng vậy, họ làm em những người
đã lãnh nhận chức vụ thánh, những kẻ đang lấy quyền Chúa Kitô mà
giảng dạy, thánh hóa và cai quản để chăn dắt gia đình Chúa, hầu
mọi người chu toàn giới luật mới là luật bác ái. Thánh Augustinô
đã dùng những lời tuyệt diệu này để nói lên điều đó: "Làm Giám
Mục cho anh em, tôi rất sợ; là tín hữu với anh em, tôi rất an
tâm. Giám Mục là một chức vụ, tín hữu là một ân phúc. Giám Mục
là một danh hiệu nguy hiểm, tín hữu là danh hiệu đem ơn cứu độ"
1.
42*
33. Tông đồ giáo dân.
Giáo hữu được qui tụ trong Dân Thiên Chúa và cấu tạo thành Thân
Thể duy nhất của Chúa Kitô dưới quyền của một Ðầu duy nhất; dù
họ là ai, họ vẫn được kêu gọi dùng hết sức lực đã lãnh nhận do
lòng từ ái của Ðấng Tạo Hóa và do ân huệ Ðấng Cứu Thế để như
những chi thể sống động, phát triển và thánh hóa Giáo Hội không
ngừng.
Vì thế, giáo
dân làm tông đồ là thông phần vào chính sứ mệnh cứu độ của Giáo
Hội; nhờ lãnh nhận phép Thánh Tẩy và Thêm Sức, mỗi tín hữu đều
được Chúa đề cử làm tông đồ; đàng khác các bí tích, nhất là bí
tích Thánh Thể, thông ban và nuôi dưỡng trong họ đức ái đối với
Thiên Chúa và đối với loài người, nhân đức này là linh hồn của
mọi hoạt động tông đồ. Nhưng giáo dân được đặc biệt kêu mời làm
cho Giáo Hội hiện diện và hoạt động nơi và trong những hoàn cảnh
mà nếu không có họ, thì Giáo Hội sẽ không trở thành muối của thế
gian
2. Như thế, vì những ân huệ đã lãnh nhận, mọi giáo dân
vừa là chứng nhân vừa là dụng cụ sống động cho chính sứ mệnh
Giáo Hội, "tùy theo độ lượng ân sủng Chúa Kitô ban cho" (Eph
4,7).
Ngoài việc tông
đồ này, một việc có liên quan đến mọi Kitô hữu không trừ ai,
giáo dân có thể còn được mời gọi góp phần trực tiếp hơn và bằng
nhiều cách vào công cuộc tông đồ của hàng giáo phẩm
3, giống như những tín hữu nam nữ đã chịu vất vả vì
Chúa Kitô để giúp đỡ Tông đồ Phaolô rao giảng Phúc Âm (x. Ph
4,3; Rm 16,3tt). Ðàng khác, họ có những khả năng mà Hàng Giáo
Phẩm có thể dùng vào một số phận vụ thuộc hàng giáo sĩ có mục
đích thiêng liêng.
Bởi vậy, nhiệm
vụ cao cả của mọi giáo dân là làm cho ý định cứu độ của Thiên
Chúa ngày càng lan tới tất cả mọi người ở mọi nơi và mọi thời
đại. Vì thế, khắp nơi phải mở đường cho họ tích cực tham gia vào
công cuộc cứu độ của Giáo Hội, tùy sức lực họ và tùy nhu cầu của
thời đại.
43*
______
Chú thích
40* Vị trí và cơ cấu của
chương này cho ta thấy tầm quan trọng của nó. Lần đầu tiên trong
lịch sử, Công Ðồng bàn nguyên một chương đặc biệt về giáo dân,
và ở đây mới chỉ nhằm tới nền tảng thần học về cơ cấu Giáo Hội
dưới khía cạnh ơn gọi của giáo dân. Những khía cạnh thực tiễn
như về những hình thức tổ chức chẳng hạn, sẽ được đề cập trong
sắc lệnh đặc biệt về Tông Ðồ Giáo Dân. Và những vấn đề trọng đại
nói lên mối tương quan giữa Giáo Hội và các giá trị trần thế, sẽ
được nghiên cứu tỉ mỉ trong Hiến Chế Mục Vụ về Giáo Hội Trong
Thế Giới Ngày Nay.
Từ những cuộc
tranh luận trong Công Ðồng và từ chính những nghị định, chúng ta
có thể kết luận rằng, giáo dân không chỉ được định nghĩa một
cách đơn giản như không phải là giáo sĩ, nhưng trước hết phải
được công nhận là thuộc về Dân Chúa. Do đó, chúng ta sẽ nghiên
cứu chương này dựa trên chương II, bởi vì những đặc điểm của
giáo dân mô tả ở đây, có liên quan phần lớn tới phần tử Dân
Chúa. (Xem tiếp các chú thích 41* - 49*).
41* Công Ðồng bắt đầu bằng
số 31 để trả lời cho câu hỏi đã được đặt ra: giáo dân là gì
trong viễn tượng một khoa thần học về Giáo Hội? Công Ðồng đưa ra
ánh sáng những yếu tố tích cực biểu thị đặc tính của giáo dân,
và yếu tố chính là tính cách trần thế, nghĩa là người đảm nhận
qui hướng về Thiên Chúa những sự việc trần thế mà họ dấn thân.
Vậy những đặc điểm của một giáo dân là:
- Sống giữa mọi
người và trong xã hội nhờ dây liên lạc gia đình và nghề nghiệp.
- Thánh hóa
trần gian như men bột qua việc minh chứng bằng đời sống trong
khi thi hành nhiệm vụ riêng biệt trong nghề nghiệp của mình.
- Trách vụ làm
cho những thực tại trần thế biết ca tụng Ðấng Sáng Tạo và Cứu
Thế, những thực tại mà họ được nối kết chặt chẽ như Chúa Kitô
muốn.
Ðó là tình
trạng tạo nên một giáo dân, khiến họ có thể là chứng nhân tông
đồ đích thực giữa trần gian.
1 T. Augustinô, Serm. 340 :
PL 38, 1483.
42* Số 32 trình bày ý tưởng
giáo dân là phần tử Dân Chúa có địa vị là con cái Chúa, được mời
gọi nên thánh và lãnh nhận ơn Chúa. Về vấn đề này Công Ðồng quả
quyết hai điểm:
- Phép Thánh
Tẩy ban cho mọi người lãnh nhận sự bình đẳng căn bản.
- Mọi người
phải liên kết với nhau: mục tử không những là thủ lãnh nhưng còn
là người phục vụ Dân Chúa.
2 Xem Piô XI, Tđ.
Quadragesimo anno, 15-5-1931 : AAS 23 (1931), trg 212t. Piô XII,
diễn từ De quelle consolation, 14-10-1951 : AAS 43 (1951), trg
790t.
3 Xem Piô XII, diễn từ Six
ans se sont écoulés, 5-10-1957 : AAS 49 (1957), trg 927.
43* Số 33: Tiếp theo đó,
Công Ðồng tuyên bố hoạt động tông đồ giáo dân tham dự vào sứ
mệnh cứu rỗi của Giáo Hội vì đặt nền tảng trong phép Thánh Tẩy
và phép Thêm Sức. Tính cách đặc biệt của tông đồ giáo dân là làm
cho Giáo Hội hiên diện và hoạt động trong mọi hoàn cảnh của thế
giới. Vả lại, giáo dân vẫn có thể cộng tác chặt chẽ với hàng
giáo phẩm trong việc tông đồ của giáo sĩ đích danh. Sắc Lệnh về
Tông Ðồ Giáo Dân sẽ lặp lại và quảng diễn ý tưởng đó.
còn tiếp |
VỀ MỤC LỤC |
|
CHÚNG TA LÀM GÌ VỚI LỜI CHÚA.
|
(Suy niệm của
Jean-Yves Garneau, không rõ dịch giả)
Không bao giờ chúng ta coi trọng Lời Chúa mà lại không thay đổi
gì trong đời sống của mình.
Thiên Chúa lên tiếng.
Chúng ta thuộc vào
số những kẻ tin rằng Thiên Chúa đã ngỏ lời với nhân loại và Ngài
vẫn tiếp tục ngỏ lời bằng nhiều cách.
Các biến cố xảy đến
trên thế giới hoặc trong chính cuộc đời chúng ta thường là Lời
Chúa: một thiên tai, một chiến thắng trên bệnh tật, cái chết của
một người thân, một đứa con ra đời, một cử chỉ tử tế hoặc thù
hằn mà người nào đó làm cho chúng ta. Có bao nhiêu sứ điệp của
Thiên Chúa mà ta cần biết nhận ra.
Cả Thánh Kinh nữa,
tức là Lời mà Thiên Chúa đã nói với loài người suốt lịch sử
thánh và đã được ghi chép cẩn thận. Luôn luôn mang tính thời sự.
Lời này được loan báo và giải thích cho chúng ta mỗi Chúa nhật.
Bất cứ lúc nào chúng ta cũng có thể đọc, suy gẫm và đào sâu Lời
này.
Chắc chắn, Lời Chúa
luôn luôn ở trong tầm tay chúng ta như một ánh sáng có thể soi
sáng chúng ta, như một nguồn suối, mà bao giờ chúng ta cũng có
thể đến giải khát.
Trân trọng Lời Chúa.
Tuy nhiên, vấn đề
là biết được chúng ta đã làm gì với Lời Chúa. Vì, đọc và nghe
Lời Chúa chưa đủ, ta cần phải đem ra thực hành nữa. Biết Lời
Chúa không đủ, còn phải lấy Lời Chúa mà hướng dẫn đời mình nữa.
Những gì được nói
với chúng ta trong các bài đọc Thánh lễ hôm nay soi sáng và
thách thức chúng ta. Ngôn sứ Giona rao giảng khắp thành phố
Ninivê loan báo hình phạt của Chúa. Dân chúng trong thành phố
lớn này có thể giả điếc làm ngơ và tự nhủ Giona này chỉ là một
tiên tri giả thôi hoặc là một kẻ mơ mộng, không bình thường.
Nhưng trái lại, họ đã khôn ngoan tin rằng người này nói nhân
danh Thiên Chúa và họ đã đáp lại lời giảng của ông: họ ăn chay
và thay đổi cuộc sống. như vậy, họ đã khiến Thiên Chúa “từ bỏ
hình phạt mà Ngài đe dọa họ”.
Vậy việc trân trọng
Lời Chúa đã khiến dân thành Ninivê thay đổi cuộc sống. Đối với
họ, không phải chỉ kính cẩn, chăm chú nghe Lời Chúa, chỉ suy gẫm
Lời Chúa mà thôi, còn phải hành động theo những đòi hỏi của Lời
ấy nữa. Lời Chúa đòi hỏi gắt gao.
Cũng một sứ điệp
như vậy trong Tin Mừng. Trước lời mời gọi của Chúa Giêsu, các
tông đồ tương lai đáp trả bằng cách biến đổi hoàn toàn cuộc sống
của họ. “Tức khắc, họ bỏ lưới, (Simon và Andrê) để đi theo Chúa
Giêsu”.
Giacôbê và Gioan em
ông cũng làm như vậy nữa “bỏ cha và những người làm công lại
trong thuyền, họ đi theo Ngài”.
Chúng ta đừng đọc
trang Thánh Kinh này như một câu chuyện thần tiên trong đó các
anh hùng giải quyết mọi sự mà không cần cố gắng. Đối với Simon
và Andrê, đối với Giacôbê và Gioan, đối với dân thành Ninivê,
quyết định trân trọng lời mời gọi của Thiên Chúa là điều vất vả.
Quyết định ấy đã đòi hỏi thay đổi cuộc sống.
Ta không thể thật
sự trân trọng Lời Chúa mà không bao giờ thay đổi gì cả trong
cuộc sống của mình. Đây là sứ điệp của hôm nay. Về điểm này,
chúng ta phải tự hỏi: trong cụ thể, chúng ta làm gì với Lời Chúa
mà chúng ta đã nghe từ Chúa nhật này đến Chúa nhật khác? Trong
bao nhiêu năm nay chúng ta đã đi lễ, chúng ta có thực sự coi
trọng Lời Chúa vẫn được loan báo và giải thích cho chúng ta
không? Chúng ta hãy chính xác hơn nữa: chúng ta có thể kể ra
những lần chúng ta đã thay đổi điều gì đó trong cuộc sống của
mình vài Lời Chúa ta đã nghe không?
Thời gian thật ngắn ngủi.
Thánh Phaolô viết
cho giáo đoàn Côrintô: “Thời gian thật ngắn ngủi”. Vậy không
phải ngày mai mà ngay hôm nay chúng ta phải tìm cách gạt đi
những gì giả tạo hay vô ích trong cuộc sống chúng ta và tập
trung vào điều chính yếu. Những gì dân Ninivê đã làm. Những gì
các môn đệ sơ khởi đã làm.
Chắc hẳn chúng ta
cần một ơn đặc biệt để hành động như vậy. Ơn này không thiếu cho
chúng ta đâu. Hôm nay Thiên Chúa không ít quảng đại hơn hôm qua
đâu. Vậy chúng ta hãy nài xin Ngài cho chúng ta được ơn không
những biết nghe Lời Chúa mà còn biết “đem ra thực hành” nữa.
“Không phải những kẻ nói: “Lạy Chúa, lạy Chúa” là được vào Nước
Trời đâu, nhưng những kẻ thực thi ý Cha Ta trên trời” (Mt 7,21).
|
VỀ MỤC LỤC |
|
THIÊN CHÚA MUỐN ĐỔI MỚI TRONG NĂM
MỚI
|
VRNs (24.01.2012) - Sài Gòn – Gần 50 năm nay,
các buổi chiều ngày mùng Một, Hai, và Ba tết âm lịch, DCCT VN tổ
chức Hành Hương Minh Niên, quy tụ dân Chúa khắp Sài Gòn và vùng
lân cận.
Hôm qua, Mùng Một Tết, cha Vinh Sơn Phạm Trung Thành, giám
tỉnh DCCT VN đã chủ sự và giảng thuyết khai mạc cuộc hành
hương Đức Mẹ năm nay.
Xin mời anh chị em cùng nghe bài chia sẻ của cha giám tỉnh
trong lễ hành hương này:
Kính thưa anh
chị em,
Chúng ta rất
vui mừng khi được cùng nhau tụ họp nơi đây, tụ họp để ca
tụng Chúa, để vinh danh Chúa, để cảm tạ Chúa.
Chúng ta đang ở
trong những giờ khắc thiêng liêng nhất của dân tộc, của đất
nước. Những ngày đầu xuân, mọi sự đều đổi mới, Thiên Chúa
làm cho mọi sự được đổi mới, chúng ta cộng tác với Thiên
Chúa để làm cho mọi sự đổi mới. Thiên Chúa muốn đổi mới,
chúng ta cũng muốn đổi mới, chúng ta sử dụng ơn Chúa để đổi
mới.
Để làm
mới, chúng ta có cách làm mới của chúng ta
Chúng ta thay,
chúng ta đổi, chúng ta tìm kiếm, chúng ta trang hoàng, chúng
ta hy vọng, chúng ta cầu chúc nhau. Chúc ông chúc bà, chúc
anh chúc chị, năm mới thịnh vượng, năm mới phát tài phát
lộc, năm mới bình an, năm mới mạnh khỏe, năm mới nhiều may
mắn,… tất cả những điều đó đều đúng và cần thiết cho cuộc
sống của chúng ta.
Nhà vườn đổ bao
công sức để có những sản phẩm tươi đẹp cho năm mới, các bông
hoa tươi thắm rực rỡ, tha hồ khoe sắc làm ngây ngất lòng
người, hoa không canh không cửi thế mà Chúa lại mượn tay nhà
vườn để khoác cho nó bộ áo đẹp tuyệt trần như thế, hoa không
chỉ đẹp một mình nhưng hoa mang cái đẹp làm đẹp lòng nhân
thế. Lại cũng bàn tay con người sắp đặt để hoa vào đúng vị
trí của nó làm tăng thêm vẻ đẹp vốn sẽ kém cỏi nếu đơn độc.
Con người với tất cả ý hướng tốt lành cộng tác với Thiên
Chúa làm đẹp, làm mới mọi sự.
Có một lần cách
đây hơn 2000 năm, Thiên Chúa quyết định một lần dứt khoát
làm mới lại mọi sự, Thiên Chúa chọn cách làm mới của Thiên
Chúa để có thể thực sự là làm mới lại mọi sự, không làm mới
theo kiểu con người vẫn làm, muốn làm, để cái mới đó lại cũ
và lại cứ phải ra công làm mới lại mãi, làm mới đi làm mới
lại nhiều lần vẫn không kết quả. Cách làm của Thiên Chúa
không được mấy người hiểu biết và chấp nhận, đã trở nên cớ
vấp phạm cho nhiều người và bị dân ngoại cho là điên rồ và
dân Do Thái cho là dại dột.
Thiên
Chúa chọn cách làm mới lại mọi sự bằng cây thập giá
Trồng cây trái
cấm thất bại, trồng bao nhiêu cây cỏ cũng thất bại, Thiên
Chúa quyết định trồng cây thập giá. Như chúng ta đã thấy,
cách của Thiên Chúa làm không mấy ai hiểu, không mấy ai chấp
nhận, nhưng Thiên Chúa vẫn làm, chỉ vì Thiên Chúa muốn giải
quyết rốt ráo về thân phận con người, Thiên Chúa muốn đổi
thay thật sự toàn diện thân phận con người, một sự đổi mới
không ai có thể nghĩ ra. Qua cây thập giá, Thiên Chúa biến
con người là thân phận thụ tạo được trở nên con của Thiên
Chúa, quá độc đáo và quá sức tưởng tượng.
Đức
Trinh Nữ Maria đã trở nên Mẹ của ơn đổi mới ngay dưới chân
thập giá
Quyết định độc
đáo này loài người không thể hiểu nổi nên Thiên Chúa đã ban
tặng nhân loại một người mẹ, người mẹ này có cách làm cho
loài người hiểu, có cách làm cho loài người chấp nhận thập
giá, chấp nhận ơn đổi mới hoàn toàn. Hay có thể nói chức
năng làm mẹ của Đức Maria đươc hình thành ngay trong mầu
nhiệm thập giá, mầu nhiệm cứu độ, dưới chân thập giá, Mẹ trở
nên mẹ của ơn cứu giúp, mẹ của sự đổi mới triệt để, toàn
diện, của nhân loại.
Tất cả các cách
mà chúng ta cố gắng thực hiện để thay đổi đời mình, để đổi
mới đời mình sẽ là vô ích hoặc không đạt đến giá trị đổi mới
thực sự cho cuộc đời, cho sự sống đời đời, của chúng ta nếu
những nỗ lực ấy không có bóng dáng Đức Trinh Nữ Maria. Sẽ là
hời hợt, sẽ là mau qua, sẽ là phù vân nếu không được Đức
Maria dìu đến dưới chân thập giá.
Hôm nay ngày
đầu năm mới, ngày chúng ta ao ước được đổi mới biết chừng
nào, sao chúng ta không đến cùng Đức Mẹ, để trong Mẹ chúng
ta được đổi mới thật sự, được lãnh nhận ơn đổi mới thật sự?
Từ nay chúng ta không còn bám víu vào chuyện thế trần nữa,
thanh thản tấm lòng vì được nhận biết ơn đổi mới, từ nay
chúng ta không còn cần cậy dựa vào bất cứ thế lực trần gian
nào nữa, cho dù nó là gì, tiền bạc, sắc đẹp, tài năng, sự
lượn lẹo, dối trá, miệng lưỡi hay khéo léo khôn ngoan ngoại
giao, không “biết điều” theo kiểu người đời nữa… tất cả ra
vô ích vì chúng ta có Mẹ, có sự thật, có chân lý, có tình
thương và nhất là có tự do trong Chúa.
Chúng ta hãy
ngắm nhìn hình dáng Mẹ dưới chân thập giá, chắc chắn có khổ
đau, còn khổ đau nào hơn khổ đau nhìn thấy con mình phơi
thây trên thập giá, mọi người xa lánh mình, mọi người nguyền
rủa mình, mọi người kinh chê mình, bầu khí thù hận bao trùm
lên mọi cảnh vật, đẩy con một yêu dấu của mình đến cái chết.
Nhưng
chúng ta cũng thấy Mẹ thanh thản là dường nào, Mẹ bình an,
Mẹ phó thác, Mẹ tin tưởng, Mẹ tự do hoàn toàn
Mẹ
thanh thản bởi chính con Mẹ tiến lên thập giá thực
hiện thánh ý của Thiên Chúa, đi thực hiện thánh ý của Chúa
chứ không của bất cứ ai trên cõi đời này, cho dù họ có chức
vụ đạo đời nào đi nữa, cho dù họ có khôn ngoan đến thế nào
đi nữa, thì đó cũng không phải là ý Chúa, Con của Mẹ đi thi
hành ý của Thiên Chúa, thi hành ý của Thiên Chúa là điều mà
Thiên Chúa ưng ý.
Mẹ bình
an vì Mẹ có Chúa, ngay cả khi người ta dùng bạo lực
để cách ly Chúa với mọi người thì Mẹ vẫn bên Chúa, không chỉ
bện Chúa trong không gian, trong thời gian, nhưng bên Chúa
trong sự sâu thẳm nhất của tâm hồn Mẹ, nơi đó Mẹ chờ đợi như
đã hằng chờ đơi từ lâu lắm rồi và chỉ có Chúa mới lấp đầy
tâm hồn Mẹ mà thôi. Không phải thứ bình an mà thế gian ban
tặng, nay còn mai mất, nay cho mai tước đoạt, thứ bình an
không cứu nổi thân phận con người. Bình an của Mẹ và cũng là
bình an Chúa hằng mong ước ban cho chúng ta, bình an có Chúa
ở cùng.
Mẹ phó
thác vì Mẹ biết rằng quyền năng của Chúa có thể làm
được tất cả mọi sự, và mục đích của Chúa là hạnh phúc của
mỗi người chúng ta, Chúa không thề làm gì khác ngoài việc
làm cho chúng ta hạnh phúc, “cho dù chúng ta có thất tín thì
Ngài cũng không thế chối chính mình Ngài”, Ngài là Đấng
trung tín. Vì tín vào Chúa là Đấng trung tín nên Mẹ thanh
thản, bình an, phó thác.
Mẹ tin
tưởng tuyệt đối vào Chúa, không phải thứ niềm tin
vật vờ, hời hợt, chóng tan biến như con người thường gầy tạo
cho nhau, Mẹ đặt niềm tin vào Chúa, nghĩa là Mẹ dấn thân cả
cuộc đời Mẹ cho Chúa, tùy thuộc vào Chúa hoàn toàn, để Chúa
hành xử đời Mẹ, chỉ có Chúa và cho Chúa mà thôi.
Mẹ tự
do, giây phút dưới chân thập gía Mẹ tự do hoàn
toàn, Mẹ không lo sợ, không khiếp đảm, không tìm cách bao
che cho mình được an toàn, không cần phải tránh né, ngoại
giao để lấy lòng bất cứ ai, để mưu tìm bất cứ lợi lộc trần
gian nào. Mẹ có cái tự do hoàn toàn của một người thuộc về
Chúa, do Chúa chọn lựa, phó thác cho Chúa, tuôn theo thánh ý
Chúa, không bị áp lực hoặc lèo lái bởi bất cứ thế lực nào,
quyền lực trần gian nào.
Anh chị em thân
mến,
Chúng ta có ước
vọng một năm mới thanh thản không? Chúng ta có ước vọng một
năm mới bình an không? Chúng ta có ước vọng một năm mới sống
phó thác và tin tưởng vào Chúa không? Chúng ta có ước vọng
một năm mới được tự do hoàn toàn trong Thiên Chúa không? Sao
chúng ta không tìm đến cùng Mẹ, Mẹ của chúng ta, Mẹ của bình
an, tin yêu, phó thác và tự do. Mẹ xuất hiện ngay trong đỉnh
cao của chương trình cứu độ, đỉnh cao của cuộc đổi mới mọi
sự, không có sự đổi mới này chúng ta không có sự đổi mới
đích thực cho đời chúng ta.
LM. Vinh Sơn Phạm Trung
Thành, C.Ss.R.
|
VỀ MỤC LỤC |
|
HÀNG GIÁO PHẨM LÀ AI VÀ CÓ TRÁCH
NHIỆM GÌ TRONG GIÁO HỘI?
|
Hỏi:
xin cha giải thích:
I-
Trách nhiệm và quyền hạn của Đức Thánh Cha, Hồng Y, Tổng Giám
mục, Giám mục chính tòa, Giám mục Phó và Giám mục phụ tá.
II- Thế nào là những cuộc thăm viếng mục vu của các Giám mục?
Trả lời:
I- Hàng Giáo Phẩm:
Nói đến Hàng Giáo
Phẩm (Hierachy) trong Giáo Hội Công Giáo là nói đến vai trò và
trách nhiệm của Đức Thánh Cha, các Hồng Y , các Tổng Giám mục,
Giám mục, Linh mục và Phó tế trong Giáo Hội.
Có hai tiêu chuẩn
để nhận rõ vai trò và trách nhiệm của Hàng Giáo Phẩm như sau:
1- Trước hết là tiêu chuẩn chức thánh
(Holy Orders) -Với tiêu chuẩn này, Hàng Giáo Phẩm
gồm có các Giám Mục, Linh mục và Phó Tế. Trong trật tự này, thì
chức Giám Mục là chức thánh cao nhất trong Giáo Hội Công Giáo và
Chính Thống Giáo Đông Phương (Eastern Ỏrthodox Churches) chức
Phó Tế là chức thấp nhất. Các Hồng Y và chính Đức Thánh Cha cũng
chỉ có chức Giám Mục mà thôi nhưng với quyền hạn và trách nhiệm
lớn hơn mọi Giám mục khác. Giám mục, linh mục và Phó tế thuộc
hàng giáo sĩ (clergy) nhưng chỉ có Giám mục và Linh mục thuộc
hàng Tư Tế (sacerdos) để dâng Thánh Lễ Tạ Ơn (Eucharist) mà thôi
(x.Lumen Gentium số 28). Đây là hàng Giáo Phẩm xét theo cấp độ
chức thánh được lãnh nhận hợp pháp và thành sự ( validly and
licitly ) trong Giáo Hội. Thành sự và hợp pháp có nghĩa là chỉ
có Giám mục đã được chịu chức hợp pháp và thành sự mới có thể
truyền chức hợp pháp và thành sự cho các phó tế, linh mục thuộc
quyền mình và truyền chức Giám mục, linh mục hay phó cho người
khác khi được yêu cầu. Nhưng muốn truyền chức Giám mục hợp pháp
(licitly) cho ai thì phải có phép của Đức Thánh Cha chọn linh
mục nào đó lên hàng Giám mục. Nếu không có phép hay ủy nhiệm thư
của Đức Giáo Hoàng thì việc truyền chức là bất hợp pháp (
illicitly) mặc dù vẫn thành sự (validly). Trong trường hợp này,
thì người truyền chức và người chịu chức đều tức khắc bị vạ
tuyệt thông tiền kết. (x. Giáo luật số1382)
2- Tiêu chuẩn thứ hai là quyền tài
phán (Jurisdiction): với quyền tối cao này, đứng đầu
Hàng Giáo Phẩm là Đức Thánh Cha, người kế vị Thánh Phêrô trong
sứ mệnh lãnh đạo Giáo Hội hoàn vũ với sự cộng tác, hiệp thông
và vâng phục trọn vẹn của Giám mục Đoàn (College of Bishops)
trực thuộc. (x. giáo luật số 331). Thi hành quyền tài phán tối
cao này, Đức Thánh Cha bổ nhiệm, thuyên chuyển hay chế tài các
giám mục trong toàn Giáo Hội thuộc quyền cai quản của ngài trong
nhiệm vụ coi sóc các Giáo Hội địa phương ( Local Churches) tức
các Giáo phận ( Diceses) ở các quốc gia trên thế giới, hay đảm
trách những công việc quan trọng trong Giáo Triều Rôma ( Roman
Curia). Như thế, các Giám mục trong toàn Giáo Hội chỉ trực tiếp
chịu trách nhiệm trước Đức Thánh Cha mà thôi.
Trên hết, Đức Thánh
Cha, vị Đại Diện duy nhất ( Vicar) của Chúa Kitô trên trần thế,
không những có trách nhiệm lãnh đạo Giáo Hội hoàn vũ mà còn có
quyền công bố với ơn bất khả ngộ những tín điều (dogmas) và
những giáo huấn về luân lý ( morals) buộc mọi tín hữu trong Giáo
Hội phải tin và thi hành cho được rỗi linh hồn.
II- Trách nhiệm và quyền hạn của các vị trong hàng Giáo Phẩm:
Giám mục là những
người kế vị các Thánh Tông Đồ trong sứ mạng rao giảng Tin Mừng,
dạy dỗ chân lý đức tin, thánh hóa và cai quản đoàn chiên được
trao phó cho mình. Giám mục phải do chính Đức Thánh Cha bổ
nhiệm, thuyên chuyển và chế tài. Nghĩa là mọi Giám mục đều trực
tiếp chịu trách nhiệm với Đức Thánh Cha như đã nói ở trên.
Với chức thánh cao
nhất này, các giám mục được chia sẻ trọn vẹn Chức Linh Mục đời
của Chúa Kitô ( cf. LG số 26) trong khi linh mục chỉ được chia
sẻ một phần Chức Linh Mục tối cao này. Nhưng " cũng hiệp nhất
với Giám mục trong tước vị tư tế" ( cf .LG, số. 28)
Về trách nhiệm và
quyền hạn thì Giám mục được phân loại thành Giám mục Giáo phận
hay chính tòa, Giám mục hiệu tòa, Giám mục phó và Giám mục phụ
tá.
Từ hàng ngũ Giám
mục và Linh mục ( xuất sắc) Đức Thánh Cha chọn các Hồng Y (
Cardinals) để thi hành hai nhiêm vụ quan trong sau đây:
1- Làm cố
vấn cho Đức Thánh Cha trong việc cai quản Giáo Hội hoàn vũ.
2- Chỉ có
các Hồng Y dưới 80 tuổi mới được đi bầu Giáo Hoàng mới, sau khi
Đức Thánh Cha đương kim qua đời. Các Hồng Y vào Mật Hội
(Conclave) để bầu tân Giáo Hoàng thì ai cũng có khả năng được
bầu vào chức vụ tối cao này. Nghĩa là các ngài vừa là cử tri
(elector) vừa là ứng viên có khả năng được bầu, nhưng không ra
ứng cử ( potential candidates). Hồng Y là tước hiệu ( Title) chứ
không phải là chức thánh. Nếu Tân Giáo Hoàng được bầu mà không
có chức Giám Mục thì Hồng Y Niên Trưởng phải truyền chức Giám
Mục cho ngài trước khi đăng quang ( cf. giáo luật số 355& 1)
Nhưng cho đến nay, việc này chưa từng xẩy ra vì các Hồng Y không
có chức Giám mục ( tức các Linh mục được phong tước Hồng Y, một
truyền thống vẫn có cho đến nay) thì thường được tấn phong Giám
mục sau khi được phong tước Hồng Y. ( Giáo luật số 351 & 1)
Hồng Y họp lại
thành Hồng Y Đoàn (College of Cardinals) do một vị làm niên
trưởng (Dean). Các Hồng Y cũng chỉ chịu trách nhiệm trước Đức
Thánh Cha mà thôi. Các ngài thường được cử giữ các chức vụ quan
trọng, như đứng đầu các Bộ hay cơ quan trọng yếu trong Giáo
Triều Rôma , như Bộ Giáo Lý Đức Tin, Bộ Truyền Giáo, Bộ Giám
Mục, Bộ Tu Sĩ.... Các Hồng Y ở ngoài Giáo Triều, thì thường là
các Tổng Giám Mục đang coi sóc các Tổng Giáo Phận lớn trên thế
giới như Milan, Paris, Manilla, New York, Washington, Los
Angeles, Houston, Sydney, Hà nội, Saigon... Nhưng khi đến 75
tuổi, thì các Hồng Y đang giữ các trọng trách trong hay ngoài
Giáo Triều Rôma đều phải xin từ chức. (x giáo luật số 354)
a- Tổng
Giám Mục (Archbishops) cũng là Giám mục được bổ nhiệm đứng
đầu một Giáo Tỉnh hay Tổng Giáo Phận ( Archdiocese). Ngài cũng
là Giám mục chính tòa ( Ordinary) của Giáo Phận mình như các
Giám mục Giáo Phận khác. Việt Nam có 3 Tổng Giáo Phận là Hà Nội,
Huế và Saigon. Tổng Giáo Phận hay Giáo Tỉnh ( Ecclesial
Province) gồm có một số giáo phận trực thuộc, gọi là các Địa
phận hạt ( Suffragan Dioceses). Nhưng Tổng Giáo mục không có
quyền nào trên các Giám mục trong Giáo Tỉnh của mình, mà chỉ có
trách nhiệm " canh chừng để đức tin và kỷ luật Giáo
Hội được tuân hành chu đáo, và thông báo cho Đức Thánh Cha về
những sai trái hay lạm dụng nếu có,". Ngoài ra, Tổng Giám
Mục có thể bổ nhiệm giám quản cho một giáo phận thuộc Giáo Tỉnh
của mình đang trống tòa, vì giám mục chính tòa qua đời mà chưa
có người lên thay. ( x.giáo luật số 436 &1,2). Sau nữa, Tổng
Giám Mục được phép cử hành nghi lễ đại trào ( Pontifical Mass)
với mũ ( mitre) gậy ( crosier) và dây Pallium trong các Thánh
đường ở các giáo phận thuộc Giáo tỉnh của mình. Nhưng khi ra
ngoài giáo tỉnh, thì Tổng Giám Mục không được cử hành lễ đại
trào với mũ, gậy và đeo dây Pallium ở địa phận khác.
b- Giám
mục Giáo Phận hay chính tòa (Diocesan Bishop or Ordinary) là
Giám Mục được bổ nhiệm để coi sóc một Địa phận (Diocese) tức là
Chủ chăn của một Giáo hội địa phương (local church) hiệp thông
trọn vẹn với Đức Thánh Cha là Chủ chăn và là Thủ lãnh Giáo Hội
Công Giáo hoàn vũ (Universal Church)
c- Giám
Mục hiệu tòa
(titular bishop) là giám mục không có nhiệm vụ chính thức coi
sóc một Địa phận nào.
d- Giám
mục Phó
(Coadjutor) là Giám mục có quyền kế vị (lên thay thế) Giám mục
chính tòa khi vị này từ chức về hưu hay bất ngờ qua đời.
e- Giám
mục Phụ tá
(Auxiliary bishop) là Giám mục được bổ nhiệm để phụ giúp Giám
mục chính tòa trong việc điều hành giáo phận. Giám mục phụ tá
không có quyền kế vị khi giám mục giáo phận từ chức hay qua đời.
(giáo luật số 375-410)
Như thế, Giám mục,
tuy chức thánh bằng nhau, những quyền hạn và trách nhiệm khác
nhau từ trên xuống dưới như nói ở trên.
f- Linh
mục;
là công sự viên đắc lực của Giám mục trong sứ mệnh rao giảng,
dạy dỗ chân lý và coi sóc giáo dân được trao phó cho mình. Linh
mục tùy thuộc hoàn toàn Giám mục của mình để thi hành mọi sứ vụ
linh mục và mục vụ ( priestly and pastoral ministries). Nghiã là
nếu không có phép (năng quyền = faculties) của Giám mục, thì
không linh mục nào được thi hành trách nhiệm mục vụ của mình, dù
có chức linh mục. Đó là trường hợp các linh mục bị tạm ngưng thi
hành tác vụ, hay còn quen gọi là bị "treo chén" ( Suspension of
faculties)
g- Phó
tế
: được truyền chức để phụ giúp Linh mục trong các thánh vụ như
công bố và chia sẻ lời Chúa ( Phúc Âm) phụ giúp Bàn thánh,
chứng hôn, cử hành nghi thức an táng và rửa tội cho trẻ em
theo yêu cầu của
cha xứ.
III-Trách nhiệm mục vụ của Giám mục giáo phận:
Do thánh chức và
năng quyền (order &competence) được lãnh nhận, các giám mục giáo
phận hay chính tòa có nhiệm vụ dạy dỗ, thánh hóa và cai quản một
Giáo Phân (Địa Phận=Diocese) được trao phó cho mình. Trong nhiệm
vụ giảng dạy chân lý, Giám mục phải giảng dạy đúng giáo lý tinh
tuyền của Giáo Hội- chứ không phải giáo lý của riêng mình-
trong tinh thần vâng phục và hiệp thông trọn vẹn với Giám mục
Rôma, tức Đức Thánh Cha là Thủ lãnh Giáo Hội Công Giáo hoàn vũ.
Trong trách nhiệm
giảng dạy này " các Giám mục phải cố gắng hết sức để các
công cuộc rao giảng Phúc Âm và hoạt động tông đồ được các tín
hữu nhiệt liệt nâng đỡ và cổ võ... luôn luôn lo lắng cho các
Kitô hữu thấu hiểu và sống sâu xa hơn mầu nhiệm Phục Sinh thế
nào để, nhờ bí tích Thánh Thể, họ tạo thành một Thân Thể liên
kết rất chặt chẽ trong tình bác ái duy nhất của Chúa Kitô (
x.Sắc Lênh về Nhiệm vụ của các Giám Mục, số 6, 14).
Trong nhiệm vụ mục
vụ, Giám mục Giáo Phận phải mở những cuộc thăm viếng mục vụ, còn
gọi là kinh lược (Pastoral visitations) để viếng thăm các giáo
xứ trong toàn Địa Phận của mình để thăm và cử hành các bí tích,
đặc biệt là bí tích thêm sức, cho giáo dân được trao phó cho
mình coi sóc. Nếu vì lý do gì không thể đích thân đi kinh lược
được, thì giám mục chính tòa có thể ủy thác cho giám mục phó hay
giám mục phụ tá làm việc này (nếu có các vị này trong giáo phận)
(giáo luật số.396). Như thế có nghĩa là chỉ trong giáo phận của
mình, giám mục chính tòa mới có trách nhiệm thăm viếng mục vụ mà
thôi. Ngoài phạm vi giáo phận, Giám mục không có trách nhiệm mục
vụ nào đối với đoàn chiên không thuộc quyền coi sóc của mình.
Nói rõ hơn, trong
Giáo Hội, cụm từ “thăm viếng mục vụ” chỉ được dùng đúng
nghĩa, để chỉ những công vịệc thăm viếng giáo dân mà một giám
mục phải làm vì bổn phận và theo giáo luật (x giáo luật số 396
& 1) Ngay cả việc cử hành các nghi lễ giáo chủ hay đại trào
(Pontifical Mass) với đầy đủ phẩm phục giáo chủ gồm mũ (mitre)
và gậy (crozier), giám mục cũng chỉ được phép cử hành trong phạm
vi giáo phận của mình mà thôi. Khi ra khỏi giáo phận, nếu muốn
cử hành nghi lễ này ở nơi thuộc giáo phận khác, thì giám mục
khách cũng cần có sự đồng ý trước, tức là phải xin phép giám mục
bản quyền địa phương (local ordinary - giáo luật số 390). Trừ
Tổng Giám mục (Archbishop), thì được phép cử hành nghi lễ đại
trào và đeo dây "Pallium" trong bất cứ thánh đường nào thuộc
phạm vi Tổng Giáo Phận, hay Giáo Tỉnh thuộc quyền như đã nói ở
trên.( giáo luật số 437 &2)). Hồng Y thì được quyền cử hành
nghi lễ đại trào ở bất cứ nơi nào trong toàn Giáo Hội.
Như vậy, không thể
gọi bất cứ cuộc viếng thăm nào của một giám mục ở ngoài phạm vi
địa phận của mình là thăm viếng mục vụ được, vì không có
giám mục nào có trách nhiệm này theo giáo luật.
Chỉ riêng một mình
Đức Thánh Cha, với tư cách là Chủ Chăn của Giáo Hội Công Giáo
hoàn vũ, thì đi đến bất cứ nơi nào trên thế giới có giáo dân
công giáo, ngài cũng đến vì mục đích thăm viếng mục vụ dành
cho đoàn chiên thuộc quyền chăn dắt tối cao của mình. Trái
lại, các giám mục, dù đến thăm một công đoàn, hay giáo xứ có
giáo dân từng thuộc đoàn chiên cũ của mình ở địa phận nhà, thì
cuộc viếng thăm này cũng chỉ có tinh chất cá nhân thân hữu
(private visitation) mà thôi, chứ không có mục đích mục vụ nào
cả, vì các giáo dân đó nay đang thuộc quyền mục vụ của giám mục
địa phương rồi. Cụ thể, các giáo dân thuộc nhiều địa phận cũ ở
Việt Nam nay đang sinh sống ở Hoa Kỳ thì đều thuộc quyền mục vụ
của Giám mục địa phương nơi họ đang sống đạo chung với giáo dân
địa phương , nên chỉ phải vâng phục Đấng bản quyền địa phương đó
mà thôi. Do đó, phải tuân theo mọi qui luật về phụng vụ ở địa
phận mình trực thuộc. Nghĩa là không thể nói tôi là tín hữu Việt
Nam nên chỉ theo luật phụng vụ bên Việt Nam về các ngày lễ buộc,
hay Tết dân tộc. Nếu muốn cử hành lễ riêng trong dịp Tết Việt
Nam, thì phải xin phép giáo quyền địa phương, chứ không được tự
tiện áp dụng luật phụng vụ bên Việt Nam về các ngày Tết dân tộc
ở bất cứ quốc gia nào bên ngoài Việt Nam được.
Vậy xin lưu ý kỹ
những điều trên đây, để không lẫn lộn khi dùng những cụm từ chỉ
tước vị hay nhiêm vụ thực sự của các giám mục trong Giáo Hội.
Nghĩa là không nên gọi giám mục phụ tá là giám mục phó hay ngược
lại, cũng như không thể dùng cụm từ “thăm viếng mục vụ”
cho bất cứ cuộc viếng thăm nào của các giám mục từ địa phận này
đến địa phương khác.
Ngay cả đối với các
linh mục, thì nhiệm vụ mục vụ và sứ vụ linh mục (pastoral duties
and priestly ministries) cũng chỉ được thi hành hợp pháp trong
phạm vi giáo phận của mình, nơi linh mục đã lãnh nhận năng
quyền (faculty) từ giám mục của mình mà thôi. Khi ra khỏi địa
phận, nếu muốn thi hành sứ vụ linh mục ở đâu trong một thời gian
lâu dài sau một tháng, thì linh mục phải xin năng quyền ấy nơi
giáo quyền địa phương. (Có nhiều nơi đòi phải xin sau một hay
hai tuần lễ tạm trú, hoặc xuất trình chứng minh thư là linh mục
đang có năng quyền ở địa phận khác, muốn xin đồng tế trong một
nhà thờ ngoài địa phận mình). Nghĩa là không linh mục nào được
đến cử hành thánh lễ, và ban các bí tích ở địa phương khác mà
không có phép của Đấng bản quyền sở tại. Nhưng trong trường hợp
nguy tử, thì mọi linh mục đều được phép rửa tội, xức dầu và
giải tội ở bất cứ nơi nào có nhu cầu này trong lúc mình đang có
mặt ở đó (giáo luật số.976)
Đó là những điều
giáo dân cần biết để hiểu về vai trò và nhiệm vụ của Hàng Giáo
Phẩm trong Giáo Hội Công Giáo.
Lm. Phanxicô
Xaviê Ngô Tôn Huấn
|
VỀ MỤC LỤC |
|
CÁI GIÁ PHẢI TRẢ ĐỂ LÀ MÔN ĐỆ CHÚA |
(Suy niệm Phúc Âm Chúa Nhật 2
thường niên B)
(1Samuel 3:3b-10; 1Corinthians
6:13c-15a,17-20; John 1:35-42)
Bác sĩ Nguyễn Tiến Cảnh, MD
Khi suy niệm những bài đọc của Chúa
Nhật hôm nay, đặc biệt lời Chúa kêu gọi Samuel, An Rê và em ông, đã khiến tôi
nhớ đến một điều mà Dietrich Bonhoeffer, vị mục sư Tin lành Lutheran người Đức
đã viết từ trong nhà tù Đức Quốc Xã: “Chỉ có sống một cách thoải mái, không dè
dặt gì cả với những bổn phận, những khó khăn, những thành công hay thất bại,
những kinh nghiệm hay những xáo trộn của cuộc đời…mới có thể làm cho người ta
trở thành con người thực sự và một Kitô hữu đích thực”. Bonhoeffer đã trải
qua những kinh nghiệm về điều mà ông đã gọi một cách cay đắng là “Cái Giá
Phải Trả Đề Làm Môn Đệ”.
THÒI ĐẠI MỚI CỦA SAMUEL
Tiên tri Samuel, ông An Rê và Simon
Phêro đã trải qua cái giá này trong chính cuộc đời của các ông. Chúng ta thử coi
lại câu chuyện Chúa kêu gọi Samuel xem nó thế nào. Đây là câu chuyện khá cảm
động, nói lên lời kêu gọi rất sống động của Chúa, đồng thời cũng đưa ra cho
chúng ta một mẫu mực phải theo trong cuộc sống hàng ngày của chúng ta. Eli thì
đã già rồi, mắt thì gần như mù, không còn trông thấy gì nữa. Các con trai ông
lúc đó là những thầy cả ở trong đền thờ, thì lại chẳng còn tin vào Chúa gì cả.
Thời đại của họ coi như gần tàn, do đó Chúa đã kêu gọi Samuel bắt đầu một thời
đại mới.
Samuel cần sự giúp đỡ để ý thức được
tiếng Chúa kêu gọi mìnhh. Sự khôn ngoan của Eli và tình bạn nơi một người trẻ
lúc đó quả là cần thiết để Samuel có thể thực sự nghe ra tiếng gọi của Chúa. Có
lần Samuel nhận ra là Chúa đã gọi ông thực sự, và ông đã trở thành một nhà đại
tiên tri, có thể nhận ra được ý Chúa muốn đối với dân Ngài về những vấn đề chính
trị, xã hội và tôn giáo.
CHÚA NÓI, TA NGHE hay TA NÓI, CHÚA NGHE ?
Khi chúng ta đến quì gối trước mặt
Chúa để lắng nghe tiếng Chúa nói thì lời cầu khẩn thắm thiết của chúng ta từ
đáy lòng sẽ phải là: “Lạy Chúa, xin Chúa hãy nói, tôi tớ Chúa đang lắng nghe
đây.” Nhưng phải chăng tiếng kêu van đó lại thường đổi thành: “Lạy Chúa,
xin Chúa hãy lắng nghe, tôi tớ Chúa đang nói đây!”
NHỮNG TIẾN TRÌNH LẮNG NGHE
Trong kỳ Thượng Hội Đồng Giám
Mục Thế Giới năm 2008 bàn về “Lời Chúa trong cuộc sống và sứ mạng của
Giáo Hội”, Giám mục Luis Antonio Tagle thuộc giáo phận Imus ở Phi Luật Tân,
đã đưa ra một tiến trình lắng nghe rất đặc sắc. Giám mục trình bày cách bố cục
của sự lắng nghe lời Chúa hầu có thể giúp con người đạt tới đời sống thực. Ngài
nói:
-“Lắng nghe là một việc hệ trọng.
Giáo Hội cần phải đào tạo ra những người biết nghe lời Chúa. Nhưng việc lắng
nghe không thể chỉ chuyển đạt bằng giảng dạy mà còn phải có được môi trường để
lắng nghe.”
Giám mục Tagle đề nghị ba điểm để
phát triển cách nghe:
1. Lắng nghe trong niềm tin,
nghĩa là phải mở rộng lòng mình ra để đón nhận lời Chúa, để lời Chúa thấm nhuần
trong ta hầu biến cải chúng ta rồi đem ra thực hành. Cách thức này tương đương
với đức vâng lời trong niềm tin. Học tập lắng nghe liên hệ đến tạo lập đức tin
2. Thiếu lắng nghe, những biến
cố ở đời sẽ đưa tới những hậu quả thảm hại, sẽ gây ra những sung đột trong
gia đình, những khác biệt giữa thế hệ này với thế hệ nọ, quốc gia này với quốc
gia kia, giữa bạo động và an bình. Con người bị đóng khung trong môi trường độc
thoại, hững hờ, ồn ào, cố chấp và vị kỷ. Do đó, Giáo Hội cần phải cung ứng một
môi trường đối thoại, mọi người biết nể trọng, hỗ tương nhau hầu giúp con người
thăng tiến khá hơn.
3. Thiên Chúa phán và Giáo Hội
là tôi tớ, lấy tiếng nói của mình làm Lời Chúa. Nhưng Thiên Chúa không chỉ
nói mà thôi, Ngài cũng lắng nghe, nhất là lắng nghe những người công chính, góa
bụa, mồ côi, những kẻ bị áp bức truy nã và nghèo hèn không có tiếng nói. Giáo
Hội phải học tập cách lắng nghe của Thiên Chúa và phải dùng tiếng nói của Chúa
thay cho tiếng nói của những người không có tiếng nói.
TIẾNG CHÚA NÓI: HÃY ĐẾN MÀ COI
Trong câu chuyện Tin Mừng hôm nay,
chính Chúa Giêsu đã khởi sự bước đầu tiên. Câu Ngài hỏi các môn đệ hàm chứa một
thắc mắc: “Các ông đang tìm kiếm cái gì đó?” (Ga 1: 38). Đây không phải
là một câu hỏi đơn giản, mà là cả một vấn nạn thâm sâu về tôn giáo và thần học.
Chúa hỏi:
-“Tại sao các ông quay nhìn về
ta để tìm câu trả lời?”
-“Thưa Thầy –các môn đệ trả
lời- Thầy đang ở đâu?” (v 38)
Động từ “sống”, “ở lại”, “trú ngụ”,
“trọ”, “ở”, “nghỉ” đếm thấy cả thảy có tới 40 lần trong Tin Mừng thánh Gioan. Đó
là một động từ diễn tả rất rõ ràng ý nghĩa thần học của thánh Gioan về sự hiện
diện của hai chữ “trú ngụ”.
Các môn đệ không phải chỉ quan tâm
đến chuyện đêm nay Chúa sẽ ngủ ở đâu, mà thực ra còn muốn hỏi Chúa là “Chúa sống
ở đâu”. Chúa hiểu ý các ông và đã trả lời:
-“Hãy đến mà coi.” (v 39).
Hai tiếng “đến” và “coi” đã trải dài
xuyên suốt Tin Mừng thánh Gioan. Đối với Chúa Giêsu, tiếng “hãy đến” được dùng
để diễn tả niềm tin vào Chúa (cf. Ga 5: 40; 6: 35,37,45; 7:37). Đối với ông
Gioan, tiếng “hãy coi” có nghĩa là hãy nhìn kỹ chúa Giêsu để có một nhận thức
thực và chính xác mà tin vào Ngài.
CÁC
MÔN ĐỆ ĐÃ TIN VÀO CHÚA
Các môn đệ bắt đầu cuộc sống môn đệ
khi đi theo Chúa để coi xem Chúa ở lại đâu, và “các ông cũng ở lại với Chúa
ngày hôm đó” (Ga 1: 39). Các ông đã đáp ứng lời mời gọi của Chúa và tin, các
ông đã khám phá ra cuộc sống của Chúa là gì, và họ đã “ở lại” với Chúa. Các ông
bắt đầu sống trong Chúa và Chúa ở trong các ông. Sau khi ông An Rê đã hiểu biết
chín chắn và chính xác Chúa Giêsu là ai thì ông đã “đi kiếm anh mình” là
Simon Phêro và “dẫn đến với Chúa”. (v 41, 42). Tất cả những kinh nghiệm
này sẽ được hoàn thành khi mà các môn đệ nhìn thấy sự vinh quang khải hoàn của
Chúa trên thập giá.
CHÚA GỌI CHÚNG TA VÌ LỢI ÍCH CỦA THA NHÂN
Cái gì có thể giúp chúng ta học hỏi
được ở những bài đọc hôm nay nói về lời mời gọi của Chúa? Chúa không bao giờ
mời gọi chúng ta vì lợi ích của chúng ta, nhưng là vì lợi ích của tha nhân.
Chúa đã kêu gọi dân Israel vì lợi ích của những kẻ chưa nhận biết Chúa ở chung
quanh họ. Chúa gọi tất cả những Kitô hữu vì lợi ích của cả thế giới mà chúng ta
đang sống.
Để được mời gọi, chúng ta không cần
phải là hoàn hảo, nhưng đòi hỏi phải trung thành và biết lắng nghe lời thánh.
Samuel và các tiên tri của Israel, dân thuyền chài ở Galilee và ngay cả những
người thu thuế mà Chúa Giêsu đã gọi, chắc chắn là họ được gọi không phải vì họ
có đủ điều kiện hay đã làm được những việc trọng đại. Thánh Phaolo chả nói là
Chúa Giêsu đã mời gọi những kẻ “điên khùng” làm cho những người khôn ngoan phải
xấu hổ. Đó là một kiểu kêu gọi rất linh động có thể thích hợp với tất cả mọi đáp
ứng của chúng ta. Chúng ta sẽ hoàn toàn đổi mới, bởi lẽ Chúa đã gọi chúng ta, đã
yêu chúng ta, biến đổi chúng ta và làm cho chúng ta trở nên giống Chúa. Chúa đã
gọi chúng ta, chúng ta không có chọn lựa nào khác ngoài việc kêu gọi mọi người
đi theo Chúa.
ĐÔI
LỜI KẾT
Chúng ta đã được gọi để thoát ra khỏi
cuộc sống bình thưòng của chúng ta, khỏi những thất bại trong công việc đời sống
hàng ngày của chúng ta thế nào? Mục đích mới của chúng ta là gì khi chúng ta
bước theo con đường Chúa gọi? Qua ai và làm thế nào để chúng ta có thể tiếp nhận
được tiếng Chúa gọi? Trong quá khứ hay gần đây chúng ta có kêu gọi được ai trở
lại với Chúa không? Hay chúng ta không những đã chẳng gọi được ai theo Chúa mà
ngược lại đã làm nhiều người, vì chúng ta mà xa rời Chúa.
Chúa đã gọi tôi, tôi có trách nhiệm
kêu gọi mọi người bước theo Chúa, dù có gặp gian nan khổ ải. Đó là cái giá phải
trả để là môn đệ Chúa. Thánh Phêro, thánh Phaolo đều chết treo trên thập giá như
thày mình là Chúa Giêsu đã chết trên thập giá. Gần 200 thánh tử đạo Việt Nam đã
chịu bao nhiêu cực hình, hy sinh mạng sống mình vì lời Chúa gọi; một Tgm Nguyễn
Kim Điền, một cha chính Nguyễn văn Vinh của Hanoi và biết bao linh mục, tu sĩ,
giáo dân anh hùng khác đã hiên ngang tuyên xưng danh Chúa để rồi phải chết trong
những trại tù cực hình khốn khổ của csVN đã thực sự trả cái giá để là môn đệ
Chúa.
Gian nan, khốn khổ, cơ cực,
thánh giá…
Chắc chắn nó không phải là an
thân, nhàn hạ, bổng lộc, chức quyền và hưởng thụ.
Fleming Island, Florida
Jan. 26, 2012 (4 tháng Giêng, Nhâm
Thìn)
NTC
CA VỊNH
(Cv 40: 2, 4, 7-10)
Rx. Lạy Chúa, tôi
đây,…
tôi đến để đón nhận lời Chúa
* Tôi đang đợi chờ…
đợi chờ
Chúa,
Chúa nghiêng mình trên tôi…
Và nghe tiếng tôi kêu cầu
Cho tôi bài ca mới…
để miệng lưỡi tôi ca tụng vinh
danh Chúa. Rx.
*
Chúa chẳng mong chờ hy sinh hiến tế,
Chúa mở tai tôi để vâng nghe lời Chúa.
Lễ toàn thiêu cùng tạ tội Chúa cũng
không màng,
Tôi bèn nói “Lạy Chúa, tôi đến đây”.
Rx.
*“Trong sách quí, Người đã
chép cho tôi
lời Chúa dặn tôi phải làm.
Lạy Chúa tôi, đấng làm tôi hoan lạc.
Luật của Chúa nằm trong tim tôi”. Rx.
* Sự
công chính tôi loan truyền
giữa hội trường, trước muôn
dân…
Miệng lưỡi tôi không khép kín
Lạy Chúa, Chúa biết lòng tôi… Rx.
|
VỀ MỤC LỤC |
|
“CÁC CON LÀ NHỮNG TẤM GƯƠNG CHO
NGƯỜI LỚN”
|
Thông
thường người ta hay nói người lớn phải là tấm gương cho thanh
thiếu niên, và các bạn trẻ phải noi gương người lớn. Thế nhưng
trong Sứ điệp ngày Hoà Bình thế giới 01/01/2012, Đức Thánh Cha
Benedictô XVI viết cho giới trẻ:
“Hãy ý thức rằng chính các con là
tấm gương và niềm cảm hứng cho người lớn.” Hẳn
là Đức Thánh Cha đã nhìn thấy nhiều thực tế của xã hội trần thế
ngày nay.
Khi nói người lớn, Đức Thánh Cha muốn nói đến các bậc cha anh,
những người có trách nhiệm trong xã hội và có lẽ cả những bậc
thầy ở nhiều lãnh vực khác nhau. Người lớn cũng có thể hiểu là
những con người có quyền hành và có cả sức mạnh nữa.
Làm thế nào để giới trẻ làm gương cho người lớn? Đức Thánh Cha
viết:
“Hễ các con
càng cố gắng vượt thắng những bất công và tham ô, càng mong ước
một tương lai tốt đẹp hơn và dấn thân xây dựng tương lai ấy, thì
các con càng là những tấm gương cho người lớn” trước thực tế xã
hội ngày nay.
Thực tế trong xã hội cho thấy người lớn đang thực hành nhiều bất
công và bất minh. Bao nhiêu lý thuyết đã sụp đổ. Bao nhiêu màn
che đã mở ra. Bao nhiêu ánh sáng giả tạo đã tắt ngúm. Và những
lừa lọc, gian trá phơi bày trước người trẻ một cách rõ ràng
không còn gì che đậy được nữa.
Dường như sự giả trá lớn lao nhất của thế gian trong thời đại
này như quả núi khổng lồ không còn chịu nổi sức mạnh của chính
mình, đã gượng cười chua chát và ngã nhào xuống, ồn ào náo động
y như lúc nó hăm hở bước vào nhân gian.
Thực tế cũng cho thấy người lớn không biết lên tiếng nói cho Sự
Thật, Công Lý, Tình Yêu, Hoà Bình. Người lớn đang trình bày sự
thật nào có lợi cho họ. Người lớn đang định nghĩa công lý theo ý
riêng của họ.
Và cái định nghĩa lệch lạc về công lý có ảnh hưởng ghê sợ nơi
giới trẻ, bằng chứng là mới đây, một bạn trẻ đã bình luận trên
Facebook: “Mỗi người có một lý tưởng và mục đích sống khác nhau.
nên công lý của mình, hóa ra lại là nghịch lý với người khác.”
Cho rằng công lý lệ thuộc vào mục đích sống của từng người thì
quả là người ta chưa biết đến Giáo huấn Xã Hội Công giáo.
Người lớn cũng định nghĩa tình yêu một cách phiến diện. Họ cho
rằng yêu thương người khác là phải đơn sơ như chim bồ câu, là
sẵn sàng đưa má cho người ta vả. Như thế người ta mới thực hành
một nửa lời Thầy Chí Thánh đã dạy, và hiển nhiên là chưa đủ và
chưa đúng. Chúa Giêsu còn dạy phải khôn ngoan như con rắn, phải
chỉ rõ bộ mặt giả hình của Pharisiêu, phải đứng về phía người bị
áp bức.
Thực tế cũng cho thấy người lớn đang loan báo một thế giới vắng
bóng Thiên Chúa. Trường lớp, các phương tiện truyền thông đại
chúng và lối sống thực dụng đang gửi cho giới trẻ một thông điệp
kinh hoàng: không có Thiên Chúa là Đấng tạo thành và chăm sóc vũ
trụ này.
Thật ra không có con người nào có đủ lương tri mà lại từ chối sự
thật hiển nhiên là sự hiện diện của Đấng Tạo Hoá, nhưng tất cả
những mưu đồ và lợi lộc trần thế đã làm nhiều người lớn mờ mắt,
không nhìn thấy ánh sáng chói loà.
Điều đáng lo ngại hơn là chính những người lớn có trách nhiệm
giáo dục lại làm cho giới trẻ xa Thiên Chúa khi các ngài không
dám nói lên sự thật hay cố tình cổ vũ cho những giá trị sai lạc
và lỗi thời. Các ngài quên mất rằng chính sự e ngại do dự trong
sứ vụ mục tử làm cho giới trẻ mất định hướng và dần dần rời xa
Thiên Chúa.
Thế thì đến lượt giới trẻ, họ phải làm gương cho người lớn. Như
trên đã trình bày, Đức Thánh Cha nói rõ ràng rằng giới trẻ làm
gương cho người lớn “khi
các con càng cố gắng vượt thắng những bất công và tham ô, càng
mong ước một tương lai tốt đẹp hơn và dấn thân xây dựng tương
lai ấy”.
Nhiệt huyết của con tim, sự trong sạch của tâm hồn và khát vọng
vươn lên mà Chúa Giêsu đã gieo vào lòng bạn trẻ làm cho các bạn
có sức phản kháng trước những bất công, tàn nhẫn để vươn đến một
tương lai mà Thiên Chúa muốn các bạn cộng tác xây dựng.
Trong thời đại mà Bill Gates gọi là “Generation I” (thế hệ
Internet) khi ông đến nói chuyện với giới trẻ Singapore, chúng
ta nhìn thấy nhiệt huyết và khát vọng của các bạn trẻ khắp nơi
khá dễ dàng. Cứ thử vào các mạng xã hội hay các trang blog, trừ
một số những đùa cợt vô bổ hay cố tình khoe khoang chuyện này
chuyện nọ, còn đa số các bạn đều hướng đến các giá trị tâm linh
và nhân bản.
Những phê bình đầy thiện chí, những lời cầu nguyện thiết tha và
chân thành, những khát vọng được diễn tả rất đơn giản mộc mạc,
chắc chắn làm cho nhiều người lớn phải suy tư. Giới trẻ không
cần những triết thuyết xa lạ nói đến chuyện ở đâu đâu nếu những
triết thuyết ấy phủ nhận sự hiện hữu của Thiên Chúa. Giới trẻ
dùng thực tế, và cả những câu chuyện nhẹ nhàng để nói cho thế
giới vô cảm biết rằng Thiên Chúa là Đấng đang hiện diện và đang
âu yếm đặt bàn tay nhân hậu của Người trên mọi loài thọ sinh.
Và đặc biệt, giới trẻ cảm nghiệm được Thiên Chúa qua mọi biến cố
của lịch sử, trong thời đại mà thế giới biến chuyển không ngừng,
nói đúng hơn là thế giới đang rùng mình để loại bỏ những gì sai
lạc và gian dối. Mọi biến cố nói cho người trẻ nhiều hơn những
lời giáo huấn của người lớn.
Như thế, giới trẻ đang làm gương cho người lớn. Họ làm gương về
nhiệt huyết, về quả tim trong sạch và can đảm. Giới trẻ làm
gương cho người lớn trong cách thức đi tìm Thiên Chúa. Giới trẻ
cũng làm gương cho người lớn về một đức tin mạnh mẽ, đã được tôi
luyện qua những thử thách ngay trong môi trường của họ.
Đức Thánh Cha còn nói rằng giới trẻ là
niềm cảm hứng cho người lớn. Ước chi người lớn biết thỉnh thoảng
dừng lại khiêm tốn nhìn và lắng nghe giới trẻ, nếu không vì tôn
trọng giới trẻ thì cũng vì nghe lời Đấng Đại diện Chúa Kitô.
Sách Ai ca viết:
“Phúc
cho ai biết
tự kiềm chế mình
từ khi
còn trẻ”
(Ai ca 3, 27). Giới trẻ ngày nay thật có phúc vì họ đang tự chủ
để hướng đến các giá trị thiên linh. Đức Thánh Cha tuy cao tuổi
nhưng đã nhận ra giá trị này nơi giới trẻ. Chúng ta cùng tạ ơn
Chúa vì ân huệ này. Và như thế, chúng ta tin vào “một tương lai
tốt đẹp hơn” như Đức Thánh Cha nói.
Gioan Lê Quang Vinh
|
VỀ MỤC LỤC |
|
TÊN LỪA ĐẢO
|
Trong cuộc hành trình dương thế của chúng
ta, có một kẻ ẩn mặt nguy hiểm mà ta cần để ý đến. Tên hắn là
Satan (Lc 10:18). Satan có nghĩa là Tên Cám Dỗ. Một trong những
thủ đoạn của hắn là lừa đảo. Vì thế, xin được gọi Satan là “Tên
Lừa Đảo” để phân tích một số chiêu thức thâm độc của hắn.
Bạn thân mến, khi ý nghĩ viết xuống những
“phát hiện” của mình đối với Satan, có một cảm giác giống như là
mình đang tự đi vào một cuộc đối đầu với một thế lực hung dữ.
Thế lực đó nằm ẩn khuất đâu đó trong bóng tối còn mình thì ở
ngoài ánh sáng. Nó đang giận sôi lên giống như sư tử điên cuồng
muốn cắn xé (thư 1 Phê-rô 5:8). Bạn có thể hỏi mình “Sợ không?”
và mình trả lời ngay: “Sợ!” Nếu bạn hỏi tiếp “Sợ thì tại sao vẫn
viết?”, mình sẽ trả lời “Người chiến thắng luôn là Chúa, nên
chọn Chúa là chọn phần thắng dù có thể sẽ phải lao đao.” (Ga
16:33; Kh 12:7-10, 17:13-14)
Tên là “Lừa Đảo” thì việc hắn làm cũng là
lừa đảo. Trước khi bàn về một số “chiêu thức” của Satan, mình
xin được nói ngay rằng nếu bạn càng gần Chúa thì trong mắt Satan
bạn càng nguy hiểm cho kế hoạch của hắn; và vì thế, hắn sẽ ‘đầu
tư’ sức tấn công vào bạn nhiều hơn (Kh 12:17). Điều này dễ hiểu
vì ánh sáng luôn là đe dọa đối với bóng tối. Ngoài ra, những
chiêu thức này được triển khai trước hết nơi cá nhân rồi từ đó
lan rộng ra trên bình diện tập thể (gia đình, nhóm, giáo xứ,
quốc gia,…) Bây giờ, mời bạn cùng vạch mặt Tên Lừa Đảo.
Chiêu thứ nhất:
“ném đá giấu tay”. Đây là chiêu áp dụng thường xuyên của Satan.
Điều hắn sợ ở đây là bị ta “phát hiện” ra sự có mặt của hắn vì
một khi bị phát hiện thì những kế hoạch công kích không phát huy
được nhiều tác dụng nữa. Thỉnh thoảng vẫn có người đùa rằng “quỷ
rất đẹp”. Kể ra thì cũng có lý. Mình muốn thêm một câu đùa nữa
là “quỷ rất khéo”. Điều tạo nên cái “khéo” ấy chính là chọn tấn
công không lộ diện trực tiếp. Thông thường hắn luôn thích là “kẻ
thứ ba” đứng đàng sau một hoàn cảnh. Để tạo nên một mâu thuẫn
tinh vi, hắn khôn khéo chọn chiêu “núp bóng” sau lưng ta hay tha
nhân để gây nhiễu khiến hai bên thấy “ngứa mắt” lẫn nhau mà quên
đi Kẻ Xúi Dại (Satan) đứng đàng sau ‘thọc gậy bánh xe’.
Satan tuy độc ác ranh mãnh nhưng cũng có
lúc sơ hở. Một trong những sơ hở của nó là: để lộ tên. Ta lấy
một ví dụ đơn giản sau: Khi nó phá một gia đình, nó muốn gây
chia rẽ, mâu thuẫn, đối kháng bằng cách gây ra hiểu lầm, nhỏ
nhen và cố chấp. Chiêu độc ác mà cũng là sơ hở của hắn là: xui
khiến các thành viên trong nhà gọi nhau là ma quỷ. Chiêu này
thâm độc vì khi ta gọi người khác là ma quỷ thì trong lòng ta đã
tự cho mình là công chính hơn họ và từ chối việc xét mình một
cách khiêm tốn. Có thể nói rằng Satan muốn ta bị mù con mắt tâm
hồn. Trừ những trường hợp bị quỷ ám thực sự và có những biểu
hiện rõ ràng đáng khả nghi (ví dụ: điên cuồng, sùi bọt mép, trợn
trừng mắt mũi, chống lại Danh Thánh Giêsu, la hét khi thấy Thánh
Thể,…), bình thường ta không được phép kết án người khác là ma
quỷ, vì làm như vậy nghĩa là chính bản thân ta đang mắc kế của
Satan. Thật ra chiêu này không có gì mới lắm vì nó lặp lại câu
chuyện các ông Pha-ri-siêu bị trúng kế Satan khi nói Chúa Giêsu
bị quỷ ám (Mt 12: 24, 31). Như đã nói ở trên, chiêu này rất độc
ác nhưng nó lại dễ bị “phản đòn” khi ta phát hiện ra nó. Satan
“ngu” ở chỗ này: nó để lộ tên của nó.
Làm sao để nhận ra và khống chế chiêu độc
ác này? Mỗi khi thấy bên trong bất an, lộn xộn, muốn lên án
người khác, ta phải chủ động im lặng, im lặng thật sâu và cầu
nguyện. Nếu ta càng muốn nói thì càng phải im lặng, cho đến khi
lòng đã trở lại bình an thật sự. Chừng nào ta còn muốn gọi người
khác là quỷ ám thì chừng ấy ta còn đang bị cám dỗ. Phải chống
trả lại nếu không thì nguy hại cho bản thân và người khác. Vì
đây là một vấn đề nghiêm trọng nên Chúa Giêsu rất nghiêm khắc
đối với cơn cám dỗ này đến nỗi Người coi đó là sự xúc phạm đến
Chúa Thánh Thần (Mt 12: 24, 31). Cho nên, phải rất cẩn thận để
không mắc mưu của Tên Lừa Đảo.
Xin được đề nghị một cách cầu nguyện trong
trường hợp này: chủ động đến trước bàn thờ Chúa, chậm rãi đọc
kinh Lạy Cha. Khi đọc “Lạy Cha chúng con…”, ta chủ động đưa
người khác và bản thân mình vào lại trong một gia đình duy nhất
có chung một người Cha, ta xin cho Nước Tình Yêu
ngự trị trong tâm hồn mình bằng việc sống tha thứ
và chủ động vạch mặt sự cám dỗ của Satan: “Xin đừng để
chúng con sa vào chước cám dỗ [của Satan]”. Khi ta gọi tên
hắn là đã phát hiện ra tên “ném đá giấu tay” độc ác này và đã
hóa giải được phần lớn âm mưu của hắn.
Chiêu thứ hai:
gây ra “nội chiến”. Mũi tên của Tên Lừa Đảo
luôn luôn chỉ có một hướng: con người. Nó không thể tấn công
Chúa thì đối tượng duy nhất để tấn công là chính chúng ta đây.
Âm mưu của hắn là biến ta thành một bãi chiến trường hỗn loạn.
Hẳn ta không bao giờ được quên rằng Satan là một chuyên gia về
tâm lý chiến. Chiêu tâm lý chiến đem lại thành công nhanh nhất
mà ít tốn kém sức lực nhất là tạo ra một cuộc “nội chiến”. Cái
nhìn về bản thân ta sẽ bị bóp méo, bị bôi lên những nét tiêu cực
rối mù nào đó khiến ta tự thù nghịch với chính mình và dần dần
tự xoay mũi tên chĩa vào bản thân và bắn. Khi ấy, kẻ tấn công và
người bị tấn công, kẻ gây thương tích và người bị thương sẽ trở
thành một: chính bản thân ta. Hắn muốn ta tự huỷ diệt.
Chiêu thứ ba:
“tung hoả mù”. Satan luôn cố gắng “che mắt” ta. Một ví dụ cụ thể
là hắn tìm cách khiến ta không thấy sự đau khổ của người anh chị
em mà mình đang có vấn đề. Rất nguy hiểm! Nhiều lúc Satan dụ ta
“nhân danh quyền lợi” cá nhân để lên án tha nhân. Đành rằng
quyền lợi cá nhân có thể là điều nên bảo vệ khi nó thật sự chính
đáng và công bình bác ái, nhưng Tên Lừa Đảo rất tinh vi ở chỗ
hắn bóp méo ý nghĩa chân chính của quyền lợi cá nhân thành “cái
tôi ích kỷ”. Ta nhận ra điều này khi suy xét kỹ lưỡng và thấy
đâu đó ẩn dưới cái nhãn “quyền lợi cá nhân” một ý hướng muốn
kiểm soát, khống chế, điều khiển, thay đổi người khác theo quan
điểm của mình. Nói cách khác, ta đánh mất ý thức về quyền tự do
của người khác. Ta không muốn họ sống khác quan niệm của ta, mặc
dù nếu xét kỹ thì sự khác biệt của họ chỉ là khác ta chứ
không xấu xa tự bản chất. Ta bị cám dỗ “quên” đi một chi tiết
rất quan trọng cho phẩm giá một con người là: người anh chị em
đang đối diện với tôi là một chủ thể riêng biệt có toàn bộ “nhân
quyền” như tôi. Âm mưu độc hại ở đây là cướp đi sự nhạy cảm của
ta đối với hoàn cảnh của người khác, nhất là người đang trực
tiếp “có vấn đề” với mình. Hắn muốn ta chỉ thấy nỗi khổ của bản
thân thôi. Ta sẽ bị che mắt để không thấy rằng người anh chị em
ấy cũng đang bị cám dỗ, đang đau khổ, đang bị tấn công mà không
biết. Rõ ràng Tên Lừa Đảo muốn tạo nên sự đối kháng từ cả hai
phía khiến cả hai rơi vào tình trạng tranh chấp rối mù.
Chiêu thứ bốn:
chọn mặt trận mập mờ nhất và bất ổn nhất. Mặt trận được Tên Lừa
Đảo ưa thích để triển khai các cuộc tấn công là trí tưởng tượng
hay tâm trí của ta. Hắn vẽ lên nhiều hình ảnh tiêu cực, trái
ngược với hình ảnh tốt lành Thiên Chúa đã ghi dấu trong ta. Các
hình ảnh này thường có gam màu tối của giận hờn, hận thù, cố
chấp, tự trách, tư lợi, ích kỷ, tham lam, nhỏ mọn,… Hắn cố gắng
làm cho tâm trí ta hướng vào chính bản thân mình và cách nào đó
trói buộc ta bằng những hình ảnh ấy. Một khi bị cuốn vào vòng
xoáy này, ta sẽ bị luẩn quẩn trong lý luận. Ta càng luẩn quẩn
thì càng dễ vấp váp. Càng vấp váp thì càng dễ tổn thương. Càng
tổn thương thì chiến lược của Satan càng dễ thành công.
Một lưu ý quan trọng:
Sự hướng về bản thân có hai phía. Phía thứ nhất dẫn ta về với
Thiên Chúa, Đấng ban sức sống. Trường hợp này vẫn được gọi là
“tiếng nói lương tâm” hay “tiếng Chúa nói trong tâm hồn” kêu gọi
mình trở về với nẻo chính đường ngay để đời mình ngày càng vui
hơn, đẹp hơn và hạnh phúc hơn. Nói cách khác, phía này giúp ta
sống tình yêu đối với bản thân một cách chân thật và tốt lành,
nghĩa là không gây hại cho tâm hồn và nhân phẩm của ta. Còn phía
thứ hai, thoạt nhìn thì có vẻ như ta đang “yêu mình” nhưng thật
ra là ta đang bị lừa để “hại mình”. Làm sao để nhận ra điều này?
Ví dụ có những dấu hiệu sau đây: sự hướng về bản thân làm cho
mình thêm tức giận, chán nản, trách móc, bất an, hối tiếc, chết
cứng, cố chấp, mất tự tin, sợ hãi tương lai, nghi ngờ tình
thương của Chúa, thất vọng,…Sự hướng về bản thân thứ nhất thì
kéo ta bay lên cao về phía bình an, còn sự hướng về bản thân thứ
hai đẩy ta xuống hố sâu tự diệt vong.
Chiêu thứ năm:
tạo “mê hồn trận”. Chiêu này được áp dụng khá nhiều. Tên Lừa Đảo
tìm cách tạo ra một ảo giác rằng ta đang ở trong một góc bí, góc
bế tắc không có lối ra. Nhưng sự thật là: luôn luôn có hướng
giải quyết cho một vấn đề dù khó khăn đến đâu. Trước mặt ta là
cả một bầu trời rộng mở với nhiều hướng giải quyết khác nhau.
Cái góc bế tắc ấy chỉ là một ảo ảnh chứ không phải là thực tế.
Vì là ảo ảnh nên nó sẽ không tồn tại lâu nếu ta không tin vào
nó. Ảo ảnh vẽ ra trước mắt ta sẽ tự biến mất nếu ta không dán
mắt vào nó. Xin đề nghị một cách hóa giải đối với ảo ảnh: Bình
tĩnh để nhìn vấn đề một cách THỰC TẾ. Đưa “mắt” nhìn về một
hướng khác. Chủ động điều khiển tâm trí mình thoát khỏi ý nghĩ
một chiều. Có thể nhờ người khôn ngoan cùng nhìn vấn đề và phân
tích với mình cho có tính khách quan và khoa học.
Chiêu thứ sáu:
Gây hốt hoảng. Khi một cảm giác, một biến cố, một kinh nghiệm có
vẻ không bình thường hoặc lạ lẫm xảy ra với ta, Tên Lừa Đảo lập
tức tìm cách gây hoang mang, khó chịu, sợ hãi, bất an. Tâm trạng
của ta giống như con thuyền bồng bềnh trên dòng sông. Tên Lừa
Đảo rất khoái chơi trò khuấy nước để làm con thuyền chòng chành.
Hắn thích nhìn thấy người trên thuyền cuống lên, chạy tới chạy
lui tìm cách khống chế sự bấp bênh. Hẳn chúng ta còn nhớ câu
chuyện về tâm trạng hoảng loạn của các môn đệ Thầy Giêsu khi đối
diện với sóng gió (Mc 4: 35-40). Càng hoảng loạn con thuyền càng
chông chênh và họ càng mất định hướng. Điều đáng tiếc nhất là họ
quên mất tầm vóc của Thầy Giêsu, Đấng đang hiện diện ngay bên
cạnh họ. Họ mất niềm tin vào bản thân và mất niềm tin vào Đấng
Làm Chủ đang nằm ngủ ngon lành. Xin được gợi ý một phương thức
hóa giải chiêu này: Bình tĩnh! Vì Thầy luôn có đó. Sẽ ổn thôi.
Chiêu thứ bảy:
áp dụng “kỹ thuật” võ Aikido. Nguyên tắc chính của môn võ Aikido
là lợi dụng sức mạnh của đối phương để quật ngã đối phương. Tên
Lừa Đảo xem ra cũng khá về kung-fu vì hắn vẫn tìm mọi cách biến
điểm mạnh của ta thành điểm yếu để hạ gục ta. Nói theo dân gian
thì là “mượn gió bẻ măng.” Ta có thể lấy một số ví dụ thực tế
như sau. Ví dụ thứ nhất: Nếu thế mạnh của tôi là óc tổ chức,
thích làm việc rõ ràng ngăn nắp, thì mặt trái của tôi sẽ là óc
cầu toàn, luôn muốn mọi sự phải diễn ra đúng kế hoạch một cách
hoàn hảo. Ta thừa biết rằng cuộc đời này không bao giờ hoàn hảo,
nếu không muốn nói rằng khá nhiều thay đổi. Ở đây, Tên Lừa Đảo
sẽ tìm cách để khuấy động mặt trái này làm cho tôi mất bình an,
bất mãn, bực tức, tự trách, ân hận, chán nản, mất tự tin, tiếc
nuối, đổ thừa, đòi hỏi quá cao,… khi sự việc không xảy ra như
tôi dự tính. Ví dụ thứ hai: Nếu thế mạnh của tôi là sống có tình
cảm, tình nghĩa thì mặt trái của tôi có thể là dễ xúc động mạnh
và nhất là dễ luẩn quẩn trong cảm xúc tiêu cực. Một người khi bị
tấn công về phương diện cảm xúc sẽ dễ hao tốn năng lượng, mất
sức đề kháng. Lúc ấy sẽ dễ rơi vào tình trạng mất quân bình dẫn
đến cố chấp, tủi thân, giận dỗi, uất ức, bất cần, thất vọng,
muốn buông xuôi bỏ cuộc. Người ấy có khuynh hướng quên đi vai
trò của lý trí trong việc giúp đánh giá tình hình một cách thực
tế khách quan và lâu dài. Nói cách khác, tầm nhìn của người đang
ở trong tình trạng quá xúc động là khá ngắn. Ví dụ thứ ba: Bố
của Việt chia sẻ kinh nghiệm của những năm đi ‘giúp kẻ liệt’
(nghĩa là đến thăm người đau bệnh, thường là giai đoạn cuối đời
và không tự mình làm được các việc cơ bản, để động viên tinh
thần họ, cầu nguyện chung với họ, đọc sách thiêng liêng cho họ
nghe,…). Bố nói có những lúc ma quỷ rất ranh mãnh, cám dỗ ‘kẻ
liệt’ phản ứng nóng giận, thậm chí chửi bới, làm cho người đến
giúp bực tức không muốn tiếp tục nữa. Lúc ấy, cần phải “dùng nhu
chế cương”. Nếu mình cứng lên thì có thể sẽ trúng tà kế và thất
bại. Lúc ấy phải tỉnh táo và khôn ngoan đủ bằng cách trở nên
thật “mềm”, dẹp bỏ tự ái để tiếp tục yêu thương thì mới hoàn
thành được sứ mạng.
Cách đối xử của Satan ở đây rõ ràng là khác
hẳn với cách của Chúa, Đấng luôn tìm cách biến đổi điểm yếu,
ngay cả tội lỗi, của ta thành điểm mạnh mang lại lợi ích cho ta.
Vậy xin gợi ý một cách hóa giải chiêu này của Satan như sau: bám
vào Chúa và đặt trọn tất cả những gì mình đang mang, kể cả những
khiếm khuyết tội lỗi, vào trong tình yêu vô điều kiện của Chúa.
Xin Chúa giúp ta nhớ rằng Chúa, luôn đón nhận ta như ta là, và
xin Người giúp ta bắt chước Người mà biết cách đối xử nhân đạo
với bản thân.
Chiêu thứ tám:
lợi dụng “cơ chế tự vệ” bên trong để tấn công mình và người
khác. Chúng ta đều biết rằng ai cũng có một “bản năng sinh tồn”
để giúp họ phản ứng trước những hoàn cảnh khác nhau của cuộc
sống mà tồn tại. Xét trên phương diện tinh thần, tâm lý và tâm
linh, “bản năng sinh tồn” này được chuyển thành dạng “cơ chế tự
vệ”. Một biểu hiện của “cơ chế tự vệ” này là khuynh hướng phóng
chiếu lên người khác những điều mà ta cảm thấy bất ổn bên trong.
Khi ta phóng chiếu là ta đang muốn tạo cảm giác an toàn trong
lòng mình bằng cách “tấn công” lên người khác. Tại sao? Vì “tấn
công” người khác tạo cho ta cảm giác đang “có sức mạnh” và đang
“làm chủ tình thế”. Tên Lừa Đảo lợi dụng những điều này một cách
triệt để.
Bây giờ, ta lấy thử một ví dụ cụ thể của
việc “tự vệ” bằng cách “phóng chiếu” nhé. Mời bạn cùng phân tích
về “óc xét đoán”. Khác với việc phán đoán các dữ liệu mang tính
khoa học để xây dựng, xét đoán ở đây mang tính tiêu cực và phá
hủy. Vì thế, nó có màu sắc lên án, phê phán, chỉ trích vội vã.
Nói cách khác, ta tấn công người khác bằng ý nghĩ và lời nói.
Vấn đề đáng nói ở đây là: khi ta tấn công tha nhân thì thực ra
ta đang tự làm tổn thương mình. Để ý một chút, ta sẽ nhận ra
rằng lúc lên án một người anh em cũng là lúc tinh thần ta bắt
đầu bớt đi sự ổn định. Xét đoán dẫn đến bất an. Xét đoán là cám
dỗ một dạng gây hại cho cả đôi bên một cách phổ biến và dễ làm.
Ngược lại, khi ta đón nhận người anh em mình với lòng bao dung,
tha thứ, cảm thông, yêu thương thì ta lại cảm thấy bình an hơn,
tự do hơn, thoải mái hơn và thanh cao hơn.
Như đã nói, xét đoán tạo ra cảm giác mạnh
mẽ và an toàn, nhưng đó chỉ là giả tạo và đầy nguy hiểm. Thêm
nữa, xét đoán thường mang tính chủ quan một chiều đưa ta đến
nhiều nguy cơ sai lầm. Chẳng lạ gì khi xét đoán thường gắn liền
với các lý luận tự phụ như: tôi mới là người hiểu rõ vấn đề, tôi
tốt hơn người khác,… Nhưng nếu xét kỹ trên thực tế, không biết
được bao nhiêu lần ta thật sự hiểu đúng vấn đề của người khác?
Những gì ta cho là mình hiểu nhiều có khi lại khá giới hạn và
khập khiễng. Có lẽ không ít lần ta đã “hiểu oan” cho anh chị em.
Không phải ngẫu nhiên mà chúng ta chọn
khía cạnh “xét đoán” để phân tích với nhau. Ta chọn nó vì đây là
vấn đề nghiêm túc trong cuộc sống. Chính Chúa Giêsu dạy: “Anh
em đừng xét đoán, để khỏi bị Thiên Chúa xét đoán, vì anh em xét
đoán thế nào, thì anh em cũng sẽ bị Thiên Chúa xét đoán như vậy;
và anh em đong bằng đấu nào, thì Thiên Chúa cũng sẽ đong cho anh
em đấu ấy. Sao anh thấy cái rác trong con mắt của người anh em,
mà cái xà trong con mắt của mình thì lại không để ý tới?”
(Mt 7:1-3, Lc 6:37) Thánh Phaolô khuyên “đừng vội xét xử điều
gì trước kỳ hạn, trước ngày Chúa đến. Chính Người sẽ đưa ra ánh
sáng những gì ẩn khuất trong bóng tối, và phơi bày những ý định
trong thâm tâm con người.” (1Cor 4:5) Tắt một lời, quyền xét
đoán thâm tâm người khác thuộc về Thiên Chúa, Đấng “thấu suốt
mọi bí ẩn” (Mt 6, 1Sam 16:7) Khi ta bị cám dỗ “xét đoán” người
khác là ta đang bị cám dỗ có tham vọng thay thế vị trí của Thiên
Chúa. Nói mạnh hơn, nó là một dạng của kiêu ngạo và chống lại
vai trò tối thượng của Thiên Chúa. Tên Lừa Đảo cũng muốn ta dính
vào tội lỗi mà chính hắn đã phạm ngày xưa.
Chiêu thứ chín:
“điệu hổ ly sơn”. Satan cũng xem ra cũng cũng thuộc ca dao của
ông bà mình:
Một cây làm chẳng nên non
Ba cây chụm lại nên hòn núi cao.
Ông bà mình khuyên phải đoàn kết, sống gắn
bó với tha nhân thì mới có sức mạnh. Tên Lừa Đảo cũng áp dụng
nhưng theo hướng ngược lại: tách cá nhân ra khỏi cộng đoàn để dễ
tấn công. Hắn sẽ cố gắng tạo cho ta những lý lẽ sau đây: đây là
vấn đề của riêng tôi, chẳng ai có thể chia sẻ với tôi được, tôi
không nên làm phiền người khác, một mình tôi mới giải quyết
được…. Chừng nào tay ta không nắm lấy anh em, chừng ấy ta dễ bị
khuynh đảo. Gia đình, bạn bè, cộng đoàn tích cực,… là những nơi
tiếp thêm sức mạnh để ta đứng vững trong cuộc hành trình. Vậy
cách hóa giải chiêu này của Satan là: tìm “đồng minh”. Ta luôn
có “đồng minh”!
Vì “đồng minh” thường làm giảm thế lực của
hắn nên hắn cũng tìm cách phân tán “đồng minh” của ta bằng nhiều
cách khác nhau. Nếu ta có đồng minh thì hắn cũng có bè phái (Lc
11:26; Kh 13:1ff). Cuộc chiến bởi thế mà thêm nhiều thú vị gay
cấn. Ở đây, ta cần tỉnh táo lưu ý đến những cách mà hắn muốn
chia rẽ ta với những đồng minh tốt. Hãy cảnh giác để khỏi trúng
kế độc.
Chiêu thứ mười:
đánh vào cảm giác để gây hoang mang
đức tin. Còn sống trên trần gian, con người còn gắn bó
với cảm giác hoặc cảm xúc vì là xương là thịt. Việc cảm giác chi
phối lên tâm trí và hành xử của con người là điều hiển nhiên.
Đặc biệt, trong thế giới hiện đại hôm nay, con người bị cuốn vào
vòng xoáy của cảm giác. Việc hành xử dựa trên cảm giác là rất
phổ biến, nhiều khi lệ thuộc vào cảm giác ở mức độ quá mức cần
thiết. Chúng ta thử nhìn nhanh qua một vài phương diện sau để
thấy vấn đề rõ hơn. Về phương diện vật chất, người thời đại tìm
đủ các cách để đạt được sự thỏa mãn và khoái cảm cho cơ thể. Về
phương diện tương quan, ngày nay người ta chia tay với nhau khá
dễ dàng khi “cảm thấy không thích” nữa. Chán là bỏ. Bực là cắt.
Dường như chẳng còn nhiều kiên nhẫn để đối thoại, càng bớt lắng
nghe để hàn gắn,….
Tên Lừa Đảo đương nhiên không bỏ qua khía
cạnh tâm linh. Như chúng ta biết, đức tin là một chiều kích đặc
biệt vượt trên và vượt xa vấn đề cảm giác rất nhiều. Tin gắn với
yêu (tin-yêu) và cả hai về bản chất đều là những lựa chọn quyết
liệt chứ không chỉ đơn thuần là cảm giác hay cảm xúc. Đức tin và
tình yêu đích thực không hời hợt, dễ dãi như nhiều người thường
quan niệm “thấy thì tin”. Không, đức tin và tình yêu trưởng
thành mang kiểu mẫu của chính Thầy Giêsu: “Phúc cho ai không
thấy mà vẫn tin.” (Ga 20:29) Nếu tin-yêu chỉ là cảm xúc vui
vẻ thì liệu rằng Giêsu trên thập giá đau đớn tủi nhục ấy có còn
yêu nổi những kẻ đang giết mình không? Nếu tin-yêu chỉ là hứng
khởi nồng nàn thì nhiều cha mẹ liệu có thể vượt qua bao nhiêu
gian nan thách đố trong cuộc sống gia đình mà trung tín đến hôm
nay không? Chắc chắn là không! Tắt một lời, đức tin không hạn
hẹp và thất thường như cảm giác/xúc. Thậm chí, đi sâu hơn một
chút vào đức tin, ta có thể nói rằng: đức tin trưởng thành không
cần đến cảm xúc. Một ví dụ cụ thể là Mẹ Maria đứng dưới chân
thập giá chứng kiến cảnh con yêu dấu đang chết đau đớn tủi nhục.
Lúc ấy là lúc chết lặng vô cảm giác và cũng là lúc đức tin mạnh
mẽ nhất. Nói đến đây, có lẽ ta cũng nên nghiệm lại một chút xem
có khi nào bị cám dỗ đánh giá đức tin của mình dựa trên cảm giác
chưa. Có khi nào ta nghi ngờ, chán nản, thất vọng về niềm tin
của mình vì lý do “chẳng cảm thấy gì” không? Nếu có, ta nên cẩn
thận để khỏi tự gây đau khổ. Không cảm thấy nồng nàn mà vẫn tin,
vẫn yêu là một chuyện hoàn toàn bình thường, thậm chí cần thiết
và tốt lành. Nhiều vị thánh lớn trong Hội Thánh cũng trải qua
nhiều năm “không cảm thấy gì” nhưng vẫn tin, vẫn yêu đấy thôi.
Chiêu thứ mười một:
có bé xé ra to. Cám dỗ này không ai không
từng trải qua. Có những khi vấn đề chỉ bằng con chuột chũi thì
ta lại phóng nó to lên bằng quả núi. Lắm lúc chuyện chỉ bé bằng
hạt cơm thì lại bị thổi phồng lên bằng cái mâm. Thay vì giải
quyết nó trong vòng 5 phút thì lại cố chấp lê thê thành 5 ngày,
5 tháng, thậm chí 5 năm hoặc lâu hơn. Có bé xé ra to là một việc
phổ biến. Mời bạn phân tích chiêu tiếp theo vì nó có thể minh
họa rõ hơn cho chiêu mười một này.
Chiêu thứ mười hai:
ám ảnh bởi quá khứ đau thương. Người
lớn tuổi và từng trải qua nhiều biến cố trong cuộc sống dễ bị
tấn công theo chiêu này. Tên Lừa Đảo khó áp dụng chiêu này với
trẻ thơ hoặc những người có tinh thần trẻ thơ vì họ có “tật mau
quên”!
Ám ảnh với quá khứ đau thương là cứ nhớ, cứ
sống hoài chuyện đã qua. Có những chuyện xảy ra từ đời nào và
chẳng còn ý nghĩa gì cho cuộc sống hiện tại nhưng vẫn cứ được
tua đi tua lại trong lòng như thể mới xảy ra cách đây 5 phút. Ở
đây, Tên Lừa Đảo lợi dụng mặt tối của trí nhớ để giam hãm ta.
Khi hắn lèo lái, quá khứ tiêu cực có khuynh hướng phát sinh
những tiếc nuối, hờn giận, cố chấp, oán trách, bực bội, bất an,
hận thù… Nếu ta chấp nhận cám dỗ này, ta sẽ tự khoá mình vào
trong những năng lượng tiêu cực, luẩn quẩn dẫn đến tự tê liệt.
Satan không thích thấy ta được tự do bằng việc tha thứ, yêu
thương, khoan nhân, đại lượng… Bởi nếu ta như thế, ta sẽ giống
Thiên Chúa.
Đối với người Công giáo, có một điểm rất
tích cực khi đến với bí tích Hoà Giải vì nơi bí tích này họ lãnh
nhận lời tha thứ một cách rõ ràng. Một khi lời tha thứ được công
bố, những tội đã xưng không bao giờ được nhắc lại. Lời tha thứ
ấy giải phóng họ khỏi ám ảnh quá khứ, giúp họ ‘đoạn tuyệt’ với
quá khứ để tự tin bước vào tương lai của ân sủng. Cuốn sổ của
quá khứ đen tối bị đốt bỏ hoàn toàn và một trang đời mới được mở
ra cho tình yêu.
Tiện đây, mời bạn cùng khám phá một nghịch
lý thú vị của vấn đề “quá khứ đau thương”. Nếu ta đã trải qua
một biến cố khó khăn, ta có một điểm yếu và một điểm mạnh. Điểm
yếu, như phân tích ở trên, là ta có nguy cơ bị cám dỗ rơi vào ám
ảnh dĩ vãng. Điểm mạnh là: ta đã có kinh nghiệm về sự hiện diện
và ‘giải cứu’ của Chúa, có thể là ở…phút 89. Nhờ kinh nghiệm ấy
mà ta thêm vững tin, giàu hy vọng. Điều mạnh này rất có lợi cho
hành trình tương lai.
Chiêu thứ mười ba:
đẩy ta vào tuyệt vọng. Ngày hôm nay thần học nói đến một thứ
“tội trọng” là thái độ tuyệt vọng. Tên Lừa Đảo gắng hết sức để
kéo tinh thần ta về hướng tuyệt vọng. Tuyệt vọng ở đây mang
nhiều mức độ và thể hiện trên nhiều phương diện. Khi bị lôi kéo
về hướng tuyệt vọng, ta bị cám dỗ từ chối lối hành xử của Thiên
Chúa, Đấng luôn luôn “cho thêm một cơ hội”. Tên Lừa Đảo không
bao giờ muốn thấy bản thân ta hay người khác nghĩ đến cụm từ
“thêm một cơ hội” vì đó là chiều hướng của tương lai, của lạc
quan, của giải thoát. Chiều hướng này đối ngược với chủ trương
của hắn.
Làm sao để hóa giải? Xin được gợi ý hình
ảnh của hai môn đệ Thầy Giêsu: Phêrô và Giuđa. Cả hai đều phản
bội Thầy nhưng chỉ có Phêrô hiểu Thầy chính xác: Thầy luôn luôn
“cho thêm một cơ hội”. Vì thế, Phêrô đã chọn hướng hy vọng của
Thiên Chúa trong khi Giuđa chọn theo hướng tuyệt vọng của Satan.
Chiêu thứ mười bốn:
thua keo này bày keo khác (Lc 11:26). Tên
Lừa Đảo là kẻ không biết mệt mỏi trong khi sức người thì có hạn.
Bởi thế, ta cần những đồng minh ánh sáng hỗ trợ trong cuộc vận
lộn với hắn. Bạn mến, ta luôn luôn có đồng minh, và Đồng Minh
tuyệt vời nhất của ta là Thiên Chúa, Cha toàn năng và yêu
thương.
Chúc bạn tỉnh táo trước những quái chiêu
khác của Satan. Trong mọi hoàn cảnh, chúng ta luôn có Chúa Thánh
Linh hiện diện. Nguyện cho ta luôn bám chặt vào Người. Khi ấy,
Tên Lừa Đảo, mặc dù rất bực mình, cũng sẽ đành quay mặt bước đi
trong tức tối. Kệ hắn! Hắn tự gây ra thôi. Nếu thương hắn, cầu
nguyện cho hắn bớt đi bóng tối hận thù vậy! Nhất là, cầu nguyện
cho ta không đi vào con đường của hắn.
Joseph Việt, O.Carm.
|
VỀ MỤC LỤC |
|
TÌM HIỂU HUẤN DỤ XÃ HỘI CỦA GIÁO
HỘI (3)
|
NGUYỄN HỌC TẬP
Ki Tô giáo trong một
giai đoạn mới (1931-1958).
Năm 1931, khi Đức
Thánh Cha Pio XI viết Thông Điệp Quadragesimo Anno,
thì " vấn đề xã hội " đã thay đổi rất nhiều.
Dĩ nhiên " vấn đề
công nhân " vẫn còn tồn tại, nhưng biên giới các cuộc đụng
độ đã lan rộng ra nhiều và mãnh liệt hơn.
Cuộc đối đầu không còn
chỉ ở giữa hai hạng " chủ " và " công nhân " và
giữa các chủ đề lý thuyết và trừu tượng của hai ý thức hệ (
xã hội chủ nghĩa và tự do chủ nghĩa), mà giữa những khuôn
mẫu tổ chức Quốc Gia, được thoát xuất từ hai chủ thuyết đó.
1 - Xã hội chủ nghĩa thực hữu
(socialismo reale).
Năm 1917, với cuộc Cách Mạng
tháng 10, ý thức hệ mác xít không còn chỉ là những gì suy
diễn thuyết lý, mà được thể hiện thiết thực thành hệ thống chính
trị và kinh tế.
Đã trở thành xã hội chủ nghĩa
thiết thực, cộng sản chủ nghĩa.
Cuộc chạm trán với Giáo Hội liền
trở nên dữ dội, bắt đầu từ khi thiết lập trên Cộng Hoà Liên
Bang Sô Viết " chế độ ly khai " ( 23 tháng giêng, năm
1918).
Cộng Sản chủ nghĩa
hiện
nguyên hình, trên lý thuyết cũng như trên thực tế, là đối thủ
của tôn giáo.
Marx cho rằng tôn giáo là một
chứng bệnh của tinh thần băng hoại,
- " một phản ảnh của thế
giới thực tại ", sẽ phải tan biến đi khi tư bản chủ nghĩa kết
thúc " ( Karl Marx, IL Capitale, libro I, c. I, IV: IL carattere
feticcio della merce e il suo segreto,Utet, Torino 1960, 50).
Về phần mình, Lenin còn khắc khe
hơn, dẹp bỏ đi mọi ảo tưởng có thể:
- " Mác xít chủ nghĩa là duy
vật chủ nghĩa. Trong vị trí đó, mác xít chủ nghĩa là kẻ thù
không đội trời chung với tôn giáo, không khác gì duy vật chủ
nghĩa của các nhà bách khoa trong thế kỷ XVIII hay duy vật chủ
nghĩa của Feuerbach. Về vấn đề nầy không có một mãi mai nghi ngờ
nào ( ...) Chúng ta phải chống lại tôn giáo. Và đây là thượng
đỉnh của tất cả chủ thuyết duy vật và như vậy, cũng của mác xít
chủ nghĩa" ( V.I.U., IL partito operaio verso la religione, in
Opere Complete, XV ( 03. 1908 - 08 1909), Ed. Riuniti, Roma
1967, 384).
Trong một bản văn thời danh khác,
Lenin còn thêm:
- " Tôn giáo là thuốc phiện
đối với dân chúng. Tôn giáo là một loại rượu mạnh thiêng liêng,
trong đó các người nô lệ của tư bản chủ nghĩa lặn ngụp chết chìm
đi nhân cách của họ và một cách nào đó làm chết chìm đi quyền
được sống xứng đáng với con người " ( In Novata Gizn, n. 28 (
16.12.1905).
Ở Tây Âu nhiều đảng cộng sản quốc
gia là tiếng dội của những gì vừa đề cập. Chỉ cần lấy một ví dụ
ở Ý Quốc, Gramsci xác quyết rằng:
- "Mác xít chủ nghĩa đặt nền
tảng trên khung sườn triết lý " nuốt trửng đi tư tưởng về Thiên
Chúa ", ai có ước vọng làm cho mác xít chủ nghĩa chấp nhận tư
tưởng về tôn giáo " cũng giống như người cho rằng hình vuông có
thể trở thành tam giác " ( cit. by A. Pozzolini, Che cosa ha
detto veramente Gramsci, Ubaldini, Roma 1968, 128).
Và tiếp theo lời nói là hành động.
Bất cứ ở đâu cộng sản
chủ nghĩa chiếm được chính quyền, ở đó tôn giáo bị ngăn cấm,
thường khi cả với những phương thức tàn bạo. Dù sao đi nữa cộng
sản cũng dùng các phương thức quyền lực quốc gia, nhứt là hành
chánh làm cho tôn giáo khó hay không thể sống được.
Tất cả những điều đó,
chúng ta đừng quên, nếu không có cái nguy là ngày nay không hiểu
được phản ứng mạnh mẻ và cứng rắn của Giáo Hội.
Trước những cơn khủng
bố, tàn sát của Stalin, ngự trị trên chính trường trong
suốt 30 năm ( từ năm 1921, khi ông ta được chọn làm Tổng Bí
Thư Ủy Ban Trung Ương Đảng Cộng Sản Sô Viết, cho đến lúc
chết, ngày 05 tháng 3 năm 1933), ĐTC Pio XI và Pio XII đã
can thiệp một cách rất cứng rắn.
Tuy nhiên, Thông Điệp
Quadragesimo Anno , trong khi phân tích những biến chuyển
đang diễn ra, cũng không quên lưu ý rằng xã hội chủ nghĩa thực
tế không phải đều rập khuôn bất cứ ở đâu.
Bên cạnh Cộng Sản Chủ
Nghĩa,
- " ở bất cứ đâu
thu tóm được quyền hành, thì ở đó thật là không thể tưởng tượng
được luôn luôn thế nào là độc ác, hung bạo và vô nhân đạo " (
ĐTC Pio XI, Quadragesimo Anno ( 15.05.1931), n. 120, in CERAS,
100s),
chúng ta cũng thấy có
một xã hội chủ nghĩa chừng mực, dường như
- " biến chuyển và
một cách nào đó tiến gần đến các chân lý, mà truyền thống Ki Tô
giáo luôn luôn luôn luôn long trọng giảng dạy ", đến nỗi,
như ĐTC xác nhận,
- " một đôi khi
chủ trương của họ đứng rất sát gần với các điều mà các vị Ki Tô
hữu canh tân xã hội có lý do để đề ra " ( id., n. 122, in CERAS,
101).
Dầu vậy, mặc dầu xã hội
chủ nghĩa chừng mực ( cũng như tất cả những sai lầm khác), chứa
đựng một vài điều xác đáng, chân lý, chúng ta không nên để mình
bị lường gạt:
- " Không ai có
thể đồng thời vừa là người công giáo, vừa là thành viên của xã
hội chủ nghĩa " ( id. n.130, in CERAS, 104).
Như vậy, sự đoạn tuyệt
giữa Giáo Hội và Cộng Sản Chủ Nghĩa hay Xã Hội Chủ Nghĩa là đoạn
tuyệt tuyệt đối.
Không lâu sau đó,
Thông Điệp Divini Redemptoris ( 19.03.1937) chụp lấy ngực
cộng sản chủ nghĩa và tuyên bố vạ tuyệt thông, nói lên thái độ
cứng rắn của Giáo Hội đối với cộng sản chủ nghĩa và cho biết cả
lý do:
- " Cộng Sản Chủ
Nghĩa tự bản thể mình là chống tôn giáo, và cho rằng " tôn giáo
là thuốc phiện đối với dân chúng " ( ĐTC Pio XI, Divini
Redemptoris, n. 22 ( IG).
bởi đó
- " Cộng Sản Chủ
Nghĩa từ trong nội tại của mình là một chủ thuyết gian tà (
perverso) và không ai có thể chấp nhận cộng tác được với chủ
thuyết đó, trong bất cứ lãnh vực nào, bất cứ ai muốn giải thoát
nền văn minh Ki Tô giáo " ( id. n. 58 ( IG ).
Đức Thánh ChaPio XII
tiếp tục con đường, mà vị Tiền Nhiệm của ngài đã khởi sự.Ngày
1 tháng 7 năm 1949 chuẩn nhận và công bố Nghị Quyết thời
danh dứt phép thông công ( anatema sit ) của Văn
Phòng Toà Thánh:
- " Các tín hữu
tuyên xưng giáo điều của cộng sản chủ nghĩa, duy vật và chống Ki
tô giáo, và nhứt là những ai bênh vực chủ thuyết đó hay đứng ra
tuyên truyền, bởi chính do việc hành xử của mình ( ipso facto
), bị coi như là kẻ chối bỏ đức tin công giáo, phải chịu
phán quyết vạ tuyệt thông một cách đặc biệt, chỉ dành
cho quyền của Văn Phòng Toà Thánh " ( Decreto Sant'Uffic 41io (
28 06 ( 01.07) 1949. in AAS 41 ( 1949) 334 8 Denz - Huener,
3865).
Như vậy giữa Giáo Hội và
cộng sản chủ nghĩa được xác nhận là có sự rạn nứt tách rời vĩnh
viễn và loại trừ hẵn bât cứ một cuộc gặp gỡ, đối thoại nào có
thể ( Risposta confermata dal Papa, il 2 .04.
1959: " No, a norma del decreto
del Sant'Ufficio del 01.07.1949, n. 1, in AAS, 51 ( 1959) 27s.(
Denz-Huener, 3950).
Nói tóm lại, trong khoản thời kỳ
thứ hai của Huấn Dụ Xã Hội của Giáo Hội, nhứt là dưới
triều đại Đức Giáo Hoàng Pio XI và Pio XII, mối liên hệ
với vô thần cộng sản chủ nghĩa là cuộc đối đầu tuyệt đối và dùng
sức mạnh dữ dội.
Cuộc tranh đấu công khai chống lại
tôn giáo cản trở làm cho không thể nào có được một cuộc suy nghĩ
thanh thoảng về xã hội chủ nghĩa thực tế. Mọi cuộc đối thoại
chính đáng phải có hay ngay cả một cuộc phân tích vô tư, đều bị
cản trở từ trong trứng nước.
Phía cộng sản muốn tiêu diệt tôn
giáo, phiá Giáo Hội không còn có cách nào khác hơn là đóng
kín, " cửa đóng then gài " và phản ứng và với vạ tuyệt
thông đối với bất cứ ai ủng hộ, tuyên xưng, loan truyền và gia
nhập đảng cộng sản.
2 - Tân tự do chủ nghĩa.
Cũng trong thời gian đang được đề
cập về cộng sản chủ nghĩa như vừa nói, chủ thuyết tự do theo
khuôn mẫu Manchester đi vào khủng hoảng.
Năm 1929 thị trường chứng
khoáng Wall Street ( New York ) bị sụp đổ
và cuộc tuột hậu kinh tế thể hiện
rõ nhược điểm của ý thức hệ tự do cổ điển.
Kinh tê tư bản được chuyển đổi.
Từ cơn khủng hoảng kinh tế nảy
sinh ra một khuôn mẫu kinh tế tư bản mới và Quốc Gia tự do,
mà căn nguyên lý thuyết, chúng ta có thể tìm thấy một cách tổng
quát trong phiên đúc kết cuộc hợp mặt Lippmann ở Paris (
Colloquio Lipmann ) năm 1938, nơi quy tụ các nhà đại kinh tế
gia thời danh của chủ thuyết tân tự do chủ nghĩa kinh tế,
như Walter Lipmann, Friedrich von Hayek, Ludwig von Mises,
Wilhelm Roepke, Jacques Ruel và nhiều nhân vật khác nữa.
Chủ nghĩa tân tư bản kinh tế vẫn
giữ chặt nguyên tắc căn bản của chủ thuyết tự do cổ điển,
nghĩa là
- quyền tự do hoàn toàn có sáng
kiến kinh tế
- và thị trường tự do, nhưng
bác bỏ đi các tư tưởng quá khích về đướng lối " để tự do hoàn
toàn hành động " ( laissez faire" , bằng cách mở đường cho "
đường lối kinh tế hổn hợp " ( economia mista).
Điều đó có nghĩa là bên cạnh người
dân có toàn quyền sáng kiến kinh tế, cơ chế Quốc Gia không những
chỉ đóng vai trò trọng tài hay cảnh sát giữ an ninh, mà còn
bị bắt buộc phải can thiệp để chỉnh đốn lại các sức mạnh trong
kinh tế.
Bổn phận của cơ chế Quốc Gia là
- bảo toàn tính cách ngay thẳng
trong cạnh tranh
- và ngăn cản hiện tượng độc
quyền làm cho thị trường không thể nào hoạt động được.
Hiểu như vậy, chúng ta thấy được
chủ thuyết tân tự do kinh tế chấp nhận đường lối hoạt động
kinh tế theo chương trình được cơ chế Quốc Gia can thiệp đề
xướng để hướng dẫn, nhưng không phải là thiết đinh chương
trình, đường lối có tính cách bắt buộc theo kinh tế chỉ huy.
Hơn nữa khi soạn thảo chương
trình, định hướng cho hoạt động kinh tê,
- không phải chỉ có cơ thế quốc
gia ngồi vào bàn giấy, soạn thảo rồi phán xuống phải thi hành,
- mà là các chỉ thị, nghị quyết
đều phải có sự góp ý đồng thuận của các thành phần liên hệ,
* trung ương cũng như địa
phương,
* chủ nhân cũng như nghiệp
đoàn công nhân,
* cơ sở sản xuất cũng như
giới tiêu thụ.
Nói ngắn gọn, Quốc Gia phải can
thiệp,
- nhưng phải giới hạn tối đa
các cuộc can thiệp của mình đến đâu có thể, để cho dân chúng
được tự do,
- ngăn cản và loại trừ tập
trung độc quyền,
- giảm thiểu tối đa việc tiêu
dùng công qủy và mức thuế vụ, để khuyến khích sản xuất.
Về vấn đề đối chọi giữa vốn liếng
tiền bạc và việc làm, tân tự do chủ nghĩa cho rằng không thể nào
có thể tước bỏ đi được, bởi lý do tự bản tính triết học và của
việc sinh lợi lộc của vốn liếng.
Tuy nhiên chủ thuyết cũng chấp
nhận rằng cơ chế Quốc Gia phải tìm cách giảm bớt các mối bất
bình đẳng không thể nào tránh được trong xã hội, nhứt là bằng
phương thức tiên liệu, bảo trợ và phụ cấp xã hội. Tuy nhiên động
tác đó không thể bắt buộc đối với tất cả mọi người, để tránh
việc trách nhiệm cá nhân được thay thế bằng trách nhiệm tập thể,
có thể tạo cơ hội cho cá nhân có cách sống vô trách nhiệm:mọi
chuyện đã có bộ xã hội, bộ y tế lo cho. Khoẻ re , ta cứ ăn không
ngồi rồi !
Sau cùng, đối với vấn đề quyền
tư sản tân tự do kinh tế chủ nghĩa vẫn tiếp tục quan niệm đó
là yếu tố có liên quan đến cá nhân, như trước kia ( tự do chủ
nghĩa cỗ).
Quyền tự do kinh tế là quyền căn
bản thiết yếu cho mọi quyền tự do khác. Ngay cả tầm quan trọng
của các giá trị luân lý , mà không ai có thể chối cải, cũng được
quan niệm nhằm phát triển kinh tế phổ quát và tăng trưởng thêm.
Nói tóm lại, chúng ta có thể nói
là tân tự do kinh tế chủ nghĩa vẫn còn tồn giữ thực chất của
những đặc tính tự do chủ nghĩa cỗ, mặc dầu có một vài nhượng bộ
do tiến trình thời gian.
Từ đó kinh tế tư bản thập niên '30
không có gì ít nguy hiểm hơn chủ trương kinh tế trước đó. Còn
đúng hơn là một quan niệm kinh tế đáng sợ, bởi vì là quan niệm
làm phát sinh thu tóm, chồng chất quyền lực ( không phải chỉ
kinh tế) trong tay của một vài thiểu số.
Bởi đó Đức Thánh Cha Pio XI lên
tiếng:
- " Điều làm cho xốn mắt đó
là sự kiện trong thời đại chúng ta, không những chỉ có thu tóm,
tập trung của cải giàu sang, mà là tập trung cả một quyền lực
khổng lồ, tập trung kinh tế phe phái cha truyền con nối trong
tay một số ít, mà rất thường không phải họ là chủ nhân, mà chỉ
là những người được ủy thác và quản trị tài nguyên tư bản, nhưng
họ có thể hành xử cách nào tùy hỷ (...) Nói một cách nào đó, họ
là những người phân phát máu huyết làm cho cơ thể kinh tế sống
được, và họ có trong tay , chúng ta có thể nói như vậy, linh hồn
của kinh tế. Bởi đó ai chống lại họ, không thể nào có thể còn
thở được " ( ĐTC Pio XI, Quadragesimo Anno (15.05.1931), n.
113s, in CERAS, 98s).
Đâu là lý do tạo nên tình trạng
tha hóa đó?
Đức Thánh Cha Pio XI cho biết rằng
đó là sự tìm kiếm lợi nhuận trở thành việc tìm kiếm quyền
lực. Ngài còn nhấn mạnh, quyền lực không phải chỉ kinh tế,
mà cả chính trị, đến nỗi tạo ra cả một " đế quốc tài chánh
quốc tế " ( id., n. 117, in CERAS, 99s).
Nhưng lời cảnh cáo đó của Đức
Thánh Cha trước những bối cảnh thảm đạm xáo trộn thế giới, mà cả
hiện nay chúng ta cũng đang có trước mắt.
Đó là lý do tại sao Giáo Hội vẫn
tiếp tục cảnh cáo và lên án cả tân tự do kinh tế chủ nghĩa (
neoliberalismo). Bởi vì
- " việc tập trung tài sản,
giàu có và quyền lực trong tay một nhóm người tạo ra ba loại đấu
tranh để chiếm phần thượng phong, trước tiên là giành giựt để có
thế thượng phong kinh tế, kế đến là đấu tranh quyết liệt để
chiếm lấy quyền lực chính trị, để chiếm được sức mạnh của chính
trị và ành hưởng của nó trong việc cạnh tranh kinh tế; và sau
cùng là đấu tranh giành ảnh hưởng trên cả lãnh vực quốc tế, để
nhằm được mục đích. Như vậy cả lãnh vực kinh tế trở nên khó khăn
khủng khiếp, bất nhân nhượng và ác độc " ( id., n. 116s, in
CERAS, 99s).
Như vậy, phải làm gì?
ĐTC Pio XI
- không chỉ giới hạn lên án,
- mà còn thúc đẩy người công
giáo hãy ra tay, dấn thân tác động.
Đó là " con đường thứ ba ",
giữa cộng sản chủ nghĩa và tân tự do kinh tế chủ nghĩa, bằng thể
thức hành xử ngay cả trên phương diện luật pháp.
Về phía ĐTC Pio XII, ngài không
viết ra một Thông Điệp nào, chỉ lấy lại tư tưởng định hướng của
Vị Tiền Nhiệm mình và đề nghị dưới hình thức chuyên cần dấn thân
thiết thực, để xây dựng " một cách sống Ki Tô giáo mới "
hay xây dựng " một nền văn minh tình thương ".
3 - Văn minh Ki Tô giáo,
con đường thứ ba.
Đứng trước những ý thức hệ đã trở
thành khuôn mẫu thực hữu tổ chức xã hội và kinh tế với những đại
hoạ đã đem đến cho con người, như đã đề cập, Thông Điệp
Quadragesimo Anno khai triển rộng ra vấn đề xã hội đưa ra
một khuôn mẫu thứ ba, giải thích các nguyên tắc luân lý và các
lời giảng dạy của Giáo Hội thành phương thức tổ chức xã hội theo
nhãn quang Ki Tô giáo.
ĐTC Pio XI đề nghị tìm ra một "
nền văn minh Ki Tô giáo ", con đường thứ ba giữa công sản
chủ nghĩa kinh tế tập trung và tân tự do kinh tế chủ nghĩa với
những sai trái phải có, chúng ta vừa kể.
Tư tưởng vừa kể của ĐTC Pio XI
không có gì mới mẻ. Giáo Hội với nhiều hình thức văn hóa và
nhiều lần lên tiếng đòi buộc chính thức, chưa bao giờ buông tay
đầu hàng cho rằng Ki Tô giáo đã đi đến đường cùng.
Phương thức tổ chức xã hội thời
Trung Cổ, trong tâm thức nhiều người, vẫn còn là lý tưởng để tổ
chức xã hội.
Trước hết là nhóm công giáo bảo
thủ ( với Louis de Bonald), rồi kế đến là nhóm công giáo
cực đoan ( với Joseph de Maistre, Félicité de Lamemmais và
Louis Veuillot) nhấn mạnh rằng chuổi dài các sai trái của
thể giới tân tiến đưa đến Cách Mạng Pháp Quốc, thái độ chống đối
hàng giáo phẩm của tự do chủ nghĩa và tư tưởng vô thần của xã
hội chủ nghĩa, đó là do nền Ki Tô giáo thời Trung Cổ, việc đổ vở
giữa ngai vàng và bàn thờ và cũng do việc rách nát do việc Canh
Tân Tin Lành đưa đến.
Để có thể đứng thẳng dậy, không có
cách nào khác hơn là thiết định lại " nên văn minh Ki Tô giáo
" , nghĩa tổ chức xã hội thích đáng với đức tin.
Những nhà tư tưởng công giáo khác
cho rằng phải thiết đinh một khuôn mẫu chung sống văn minh khác,
không còn theo phương thức thời Trung Cổ nữa. có khả năng đáp
ứng lại những thử thách mới mẻ của thời đại mới. Nhưng có nhiều
người cho đó là ý nghĩ không tưởng.
ĐTC Pio XI lấy lại tư tưởng một
nền " văn minh Ki Tô giáo ", được coi như là con đường
thứ ba. Tuy nhiên tư tưởng của ngài không phải chỉ là trở
lại những gì trong quá khứ, mà là một đề nghị khuôn mẫu mới của
" một nền văn minh Ki Tô giáo ". Ngài đề nghị ra những
đường nét tổng quát và cả đến hình thức luật định về nghiệp hội.
Trên thực tế, ý định của ĐTC Pio
XI là đưa ra định chế cho quốc gia cũng như quốc tế, dựa trên
khuynh hướng cộng bình xã hội, có khả năng phối hợp các hoạt
động kinh tế nhằm công ích, băng cách tạo nên giữa Quốc Gia và
người dân, các tổ chức xã hội trung gian nhằm mục đích kinh tế
và nghề nghiệp ( tức là hiệp hội kỷ nghệ, công đoàn lạo động,
đảng phái chính trị ...).
Như vậy các cá nhân, cũng như các
tổ chức xã hội trung gian có thể hoạt động, mỗi thành phần trong
lãnh vực và thẩm quyền của mình, mà khọi bị quyền lực trung ương
truất hữu.
Trong tư tưởng đó, đây là lần đầu
tiên ĐTC Pio XI tuyên bố nguyên tắc " phụ túc bảo trợ " (
sussidiarietà ) và sau đó nguyên tắc được trở thành gia
tài chung cho việc tổ chức xã hội:
- " Cũng như là điều không
chính đáng tước bỏ đi đối với cá nhân điều gì anh ta có thể tự
sức lực và sáng kiến của mình có thể thực hiện được, để chuyển
giao cho cộng đồng, cũng vậy là điều không chính đáng uy thác
cho một tổ chức xã hội lớn hơn hay cao hơn, những gì mà các tổ
chức xã hội nhỏ bé hơn và thấp hơn có thể làm được " ( ĐTC Pio
XI, Quadragesio Anno 8 15.05.1931), n. 86, in CERAS, 92).
Trong nhãn quang " con đường
thứ ba " đó, được hiểu một cách chính đáng, chúng ta nên
hiểu các cập nhật hóa của ĐTC Pio XI đối với những gì đã được
tuyên bố trong Thông Điệp Rerum Novarum, để đáp ứng thích
hợp với những điều kiện lịch sử của " vấn đề xã hội " :
- lương bổng chính đáng ,
- vai trò xã hội của quyền tư
hữu,
- Quốc Gia can thiệp vào kinh
tế.
( Tài liệu nghiên cứu thêm:
Tổng lược Huấn Dụ Xã Hội của Giáo Hội, n. 91, 92: " ĐTC Pio XI
giữa cộng sản chủ nghĩa và tự do chủ nghĩa).
|
VỀ MỤC LỤC |
|
LINH MỤC GIÁO PHẬN TÁI ĐỊNH HƯỚNG ĐỜI SỐNG VÀ
SỨ VỤ CỦA MÌNH |
Mời thăm Blog của
Lm. Trần Minh Huy
http://www.chivilongchuathuongtoi.tk/
Tác phẩm: ĐÀO TẠO ỨNG SINH LINH
MỤC GIÁO PHẬN
Lm.
Micae-Phaolô Trần Minh Huy pss
CHƯƠNG SÁU
ỨNG
SINH LINH MỤC GIÁO PHẬN
HỌC
VƯỢT LÊN KHỦNG HOẢNG VÀ TÁI ĐỊNH HƯỚNG ĐỜI SỐNG VÀ SỨ VỤ ƠN GỌI
LINH MỤC (tiếp theo)
D. LINH MỤC GIÁO PHẬN
TÁI ĐỊNH HƯỚNG ĐỜI SỐNG VÀ SỨ VỤ CỦA MÌNH
“Anh em phải cởi bỏ con người cũ với nếp sống
xưa, là con người phải hư nát vì bị những ham muốn lừa dối, anh
em phải để Thần Khí đổi mới tâm trí anh em, và phải mặc lấy con
người mới, là con người đã được sáng tạo theo hình ảnh Thiên
Chúa để thật sự sống công chính và thánh thiện. Bởi thế, một khi
đã cởi bỏ sự gian dối, mỗi người trong anh em hãy nói sự thật
với người thân cận, vì chúng ta là phần thân thể của nhau. Anh
em đừng bao giờ thốt ra những lời độc địa, nhưng nếu cần, hãy
nói những lời tốt đẹp, để xây dựng và làm ích cho người nghe.
Anh em chớ làm phiền lòng Thánh Thần của Thiên Chúa, vì chính
Người là dấu ấn ghi trên anh em, để chờ ngày cứu chuộc. Đừng bao
giờ chua cay gắt gỏng, nóng nảy giận hờn, hay la lối thoá mạ, và
hãy loại trừ mọi hành vi gian ác. Trái lại, phải đối xử tốt với
nhau, phải có lòng thương xót và biết tha thứ cho nhau, như
Thiên Chúa đã tha thứ cho anh em trong Đức Kitô”
D.1 Định hướng tổng quát
Tuy nhiên, khủng hoảng không nhất thiết là một
dấu hiệu tiêu cực, nhưng đúng hơn, nó phải được coi là một thách
đố để tái định hướng đời sống và sứ vụ linh mục. Nó mời gọi một
đời sống thiêng liêng cá nhân sâu xa hơn, can đảm đối mặt và
chấp nhận các thực tại của bản thân, dù có khi đau đớn và xấu hổ
(bị sa vào bẫy mỹ nhân kế). Cần phải làm mới lại các liên hệ
lành mạnh để được nâng đỡ và cảm thông hơn.
Chúng ta phải có cái nhìn hy vọng ở bên kia
những cơn khủng hỏang, nghĩa là ở tình trạng sẽ được biến đổi
sau khi tái định hướng được đời sống và sứ vụ ơn gọi dựa vào
Chúa Kitô là trung tâm. Thánh Phaolô diễn tả điều đó như sau: “gieo
xuống thì hư nát, mà chỗi dậy thì bất diệt; gieo xuống thì hèn
hạ, mà chỗi dậy thì vinh quang; gieo xuống thì yếu đuối, mà chỗi
dậy thì mạnh mẽ, gieo xuống là thân thể có sinh khí, mà chỗi dậy
là thân thể có thần khí. Như có lời đã chép: con người đầu tiên
là A-đam được dựng nên thành một sinh vật, còn A-đam cuối cùng
là thần khí ban sự sống. Loài xuất hiện trước không phải là loài
có thần khí, nhưng là loài có sinh khí; loài có thần khí chỉ
xuất hiện sau đó. Người thứ nhất bởi đất mà ra thì thuộc về đất;
còn người thứ hai thì từ trời mà đến. Những kẻ thuộc về đất thì
giống như kẻ bởi đất mà ra; còn những kẻ thuộc về trời thì giống
như Đấng từ trời mà đến. Vì thế, cũng như chúng ta đã mang hình
ảnh người bởi đất mà ra, thì chúng ta cũng sẽ được mang hình ảnh
Đấng từ trời mà đến.”
Một trong những yếu tố rất quan trọng trong việc
tái định hướng đời sống và sứ vụ là Bí tích Hòa giải. Bí tích
Hòa giải không chỉ là một quà tặng của linh mục cho giáo dân,
nhưng cũng là một khí cụ quan trọng cho sự thánh hoá và tăng
trưởng của chính linh mục, đặc biệt nếu việc xưng tội không chỉ
được coi là một nghi thức, mà đúng hơn là một cơ hội không chỉ
để xưng tội, mà còn để trao đổi với một cha giải tội và linh
hướng có kinh nghiệm, nhờ đó nó trở thành một kinh nghiệm chữa
lành và vui sống. Việc linh hướng đều đặn là một bảo đảm khác
cho sự tăng trưởng và phát triển đời sống thiêng liêng trưởng
thành của linh mục.
Tạo lập lối sống và làm việc cộng đồng, sự ràng
buộc của tình bạn đích thực, cũng như những thời gian giải trí,
hồi tâm và thinh lặng giúp không chỉ chế ngự khủng hoảng mà còn
biến nó thành một cơ hội để đẩy xa hơn sự tăng trưởng và tiến bộ
trong sự trưởng thành cá nhân, cũng như bác ái mục tử sống
động.
Khủng hoảng rất lắm khi là một dấu hiệu tăng
trưởng, nhưng cũng tỏ lộ một số vấn đề và yếu đuối nào đó đang
được mở ra theo cách này. Trong các tình huống như thế, hãy xử
sự như trường hợp hỏa hoạn: hãy bình tĩnh và hành động cách có
trách nhiệm… Một tình huống như thế cần trước hết sự thinh lặng
và suy nghĩ để trở nên ý thức rõ ràng hơn về các vấn đề thực sự
là vấn đề.
Để được vậy, chúng ta cần thời gian và một nơi
chốn (ít là nội tâm) có thể ở một mình, suy tư và cầu nguyện.
Các cuộc tĩnh tâm và hồi tâm là các cơ hội đó. Thời gian khủng
hoảng mời gọi chúng ta xem xét các cội rễ căn nguyên và các tình
huống của các việc chúng ta đã trải nghiệm hầu được ý thức hơn
về các hậu quả của chúng. Mỗi vị thánh đều có một quá khứ và
mỗi tội nhân đều có một tương lai. Phải tin tưởng vào sự
biến đổi tốt đẹp trong tương lai, nhờ ơn Chúa, với cố gắng bản
thân và sự giúp đỡ của kẻ khác.
Việc tái định hướng được khởi đầu bằng cách trực
tiếp đối diện và chấp nhận chính thực tại của chúng ta, đồng
thời nhẫn nại hướng mình vào trong ý muốn của Chúa. Một tiến
trình như thế thường không hoàn toàn được thực hiện một mình.
Bên cạnh Chúa Cứu Thế mà chúng ta gặp gỡ trong cầu nguyện, chúng
ta cần một ai đó để nói với, một ai đó hành động như một khuếch
âm cho các kinh nghiệm và thấu hiểu của chúng ta, một ai đó có
khả năng cho chúng ta những định hướng mới phát ra từ sự biện
phân trong thinh lặng và nguyện cầu của chúng ta và nâng đỡ
chúng ta.
Một vị đồng hành thiêng liêng là một quà tặng
tốt nhất mà chúng ta có thể có được. Nhưng một vị hướng dẫn
thiêng liêng không chỉ đồng hành với chúng ta trong cơn khủng
hoảng và ở một tình huống riêng lẻ. Chúng ta nên đồng hành với
nhau trong suốt một thời gian dài, cùng bước đi và cùng lớn lên
bên nhau trong một mối quan tâm chung là trở nên gần gủi hơn với
Chúa Kitô và với con người thật của chúng ta.
Bí tích Hòa Giải là một bước cụ thể tiến vào một
cuộc sống mới sâu sắc hơn và vững chắc hơn nhờ cơn khủng hoảng -
hy vọng thế - Nếu vị hướng dẫn thiêng liêng là một linh mục,
thì Bí tích được trao ban trong tất cả tiến trình biện phân và
tái định hướng. Thường chỉ xưng tội thôi không đủ, nhưng chúng
ta cũng cần được trao đổi giải quyết và như thế thấy được các
gốc rễ sâu xa hơn và các viễn ảnh tương lai.
Yếu tố căn bản trong việc tái định hướng đời
sống và thừa tác vụ linh mục là bí tích Hòa giải, đặc biệt nếu
nó không chỉ được đánh giá và thực hành theo đường lối nghi
thức, mà đúng hơn như một cuộc đối thoại trong đó việc xưng tội
cùng lúc trở thành một cơ hội để tiến bộ. Lối xưng tội chia sẻ
và đối thoại như thế cũng mang lại một sự cởi mở lớn hơn trên
chiều kích nhân bản. Mới đây, ĐTC Biển Đức XVI nhấn mạnh tới sự
cần thiết phải mở ra một cuộc “đối thoại cứu độ” cho
những ai tìm kiếm ơn tha thứ. Nhắc tới cha sở thánh họ Ars Gioan
Maria Vianey, người đã thực thi sứ vụ hòa giải một cách anh hùng
và hiệu quả phong phú, Ngài nói rằng các linh mục có thể học “không
chỉ một niềm tín thác vô tận nơi bí tích sám hối, mà còn một
phương pháp đối thoại cứu độ phải được thực hiện trong khi ngồi
tòa.”
Chính vị linh mục cũng được khích lệ rất nhiều
trong một kinh nghiệm như thế, nhờ đó ngài có thêm hiểu biết,
kinh nghiệm và khả năng để giúp đỡ người khác trong cùng một
đường lối hoặc tương tự. Bí tích hòa giải là một trong những quà
tặng đặc biệt của linh mục cho kẻ khác trong thừa tác vụ bí tích
của ngài, nhưng đồng thời nó cũng là khí cụ cho linh mục tăng
trưởng trong đời sống thiêng liêng và bác ái mục tử.
D. 2. Giá trị của việc xưng tội cá nhân
“Để là một thừa tác viên tốt và hữu hiệu của
Bí tích Hòa giải, linh mục cần khơi nguồn từ nguồn ân sủng và
thánh thiện hiện diện trong Bí tích này. Căn cứ vào kinh nghiệm
bản thân, linh mục có thể quyết chắc rằng càng năng tiếp cận với
tư thái tốt và chu đáo lãnh nhận bí tích sám hối, càng chu toàn
tốt hơn thừa tác vụ giải tội của mình và chắc chắn rằng các hối
nhân hưởng được lợi ích từ bí tích này. Trái lại, nếu linh mục
không là một hối nhân tốt, thừa tác vụ giải tội sẽ mất đi nhiều
tính hữu hiệu của nó, (vì linh mục phải là người trước tiên phải
trở lại với Chúa và với chính mình). Đó là luận lý toàn diện của
bí tích cao cả này. Nó mời gọi tất cả chúng ta, là linh mục của
Chúa Kitô, phải luôn làm mới lại chú tâm của chúng ta vào việc
xưng tội cá nhân của mình”
Cuộc đối thoại giữa hối nhân và cha giải tội làm
cho việc cử hành bí tích đáp ứng sít sao hơn với tình huống cụ
thể của hối nhân, với các lý do khác nhau sau đây của hối nhân:
·
Nhu cầu hòa giải cá nhân và tái nhập vào tình bằng hữu
với Chúa nhờ nhận lại được những ơn đã mất do tội;
·
Nhu cầu tìm kiếm sự tiến bộ thiêng liêng;
·
Đôi khi cần một sự biện phân thích đáng hơn về ơn gọi;
·
Trong nhiều trường hợp, không những cần mà còn khao khát
thoát khỏi tình trạng hờ hững thiêng liêng và khủng hoảng đời
tu.
·
Nhờ những đặc tính cá nhân đó,
hình thức cử hành này liên kết với việc linh hướng.
·
Trong cuộc đối thoại này phải
tránh đề cập trực tiếp đến đệ tam nhân. Phải rất cẩn thận và tế
nhị trong các câu hỏi để làm sáng tỏ hầu có biện pháp và lời
khuyên thích ứng, giúp hối nhân thay đổi nên tốt.
·
ĐHY Hummes, Tổng trưởng Bộ Giáo sĩ viết: “Cũng thật buồn
là có một số linh mục đôi khi đã bị dính líu vào những vấn đề
nghiêm trọng và những hoàn cảnh phạm tội. Cần phải tiếp tục điều
tra những vấn đề này, xét xử họ và phạt họ như cần phải.”
Vậy chúng ta sử dụng các phương thế tự nhiên và siêu nhiên như
thế nào để đứng vững trong các mối quan hệ khác giới, kể cả với
các nữ tu?
·
Chúng ta cần lưu ý đặc biệt tránh khỏi ba trường hợp tội
với vạ tiền kết dành riêng cho Tòa Thánh: Lỗi ấn tòa giải tội,
khuyến dâm trong tòa và giải tội cho đồng phạm; và xét xem có
thể vận dụng khỏan GL.1048 và 220 hầu giúp đỡ hối nhân cách nào
không.
·
Tương quan linh hướng là một tương quan khép kín tay ba
(Chúa Thánh Thần, người thụ hướng và vị linh hướng). Điều mà vị
linh hướng khám phá về người thụ hướng thuộc về toà trong sẽ
không được tiết lộ ra ở toà ngoài. Dữ kiện này có cùng một qui
chế như ấn toà giải tội. Điều này không chỉ để bảo vệ người thụ
hướng, mà còn cống hiến cho họ sự tín nhiệm và tin tưởng rằng
điều gì họ đã bộc lộ ở tòa trong vẫn được giữ bí mật.
|
VỀ MỤC LỤC |
|
VỢ CHỒNG GIÚP NHAU NÊN THÁNH
|
Tác phẩm: Cẩm Nang Hạnh Phúc Gia Đình
Kitô - MỤC VỤ HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH
Tác
giả: D. WAHRHEIT (Lm. Minh Anh, GP. Huế tổng hợp biên tập)
B21. VỢ CHỒNG GIÚP NHAU NÊN THÁNH
1.
Nên thánh là ơn gọi và bổn phận của mỗi người đã nhận
lãnh phép rửa, nhưng nên thánh không phải là một ơn gọi giống
nhau cho mỗi người. Nói đến tiếng gọi là nói đến những hoàn cảnh
cá nhân, một cuộc sống đặc thù.
Nên thánh trong bậc vợ chồng là
một ơn gọi dành riêng cho những người sống đời lứa đôi. Nhưng
ngay cả trong bậc sống này, mỗi người phối ngẫu cũng sống ơn gọi
ấy với tất cả những gì là cá biệt, riêng rẽ nhất trong bản thân
mình. Tuy nhiên con đường nên thánh không phải là con đường cô
tịch nhưng là con đường rộng mở để ta cùng nắm tay nhau tiến
bước.
Tương trợ nhau trong ơn gọi nên
thánh là bổn phận của người tín hữu Kitô. Bổn phận này càng bó
buộc hơn đối với những người sống đời vợ chồng. Yêu nhau, tận
hiến cho nhau chính là muốn mang lại điều tốt đẹp nhất cho người
mình yêu. Và điều tốt đẹp nhất cho một Kitô hữu không gì khác
hơn là được lớn lên trong sự thánh thiện, giúp nhau thăng tiến
trong đường trọn hảo. Đó là điều mà chúng tôi xin chia sẻ trong
bài này.
2.
Để trở thành những bậc phụ huynh tốt, trước tiên phải là
những đôi vợ chồng tốt. Để trở thành những đôi vợ chồng tốt thì
mỗi người phối ngẫu cần phải là một tín hữu tốt. Hai người tín
hữu không sống đức tin không thể hợp thành một đôi vợ chồng tốt.
Một người tàn tật cộng với một người tàn tật không thể trở thành
một người khoẻ mạnh được.
Không phải đã nên vợ nên chồng thì
đương nhiên nên một thể xác. Không hẳn đã làm phép cưới trong
nhà thờ thì đương nhiên trở thành bí tích của tình yêu Thiên
Chúa. Nếu mỗi người phối ngẫu không quan tâm đến sự trưởng thành
trong nhân cách và đức tin của mình thì mãi mãi cuộc sống lứa
đôi có thể chỉ là một cuộc sống chung mà chưa phải là một xác
thể và trở thành một bí tích đích thực của tình yêu Thiên Chúa
đối với con người. Trước tiên mỗi người phải quan tâm đến sự
trưởng thành của mình. Đó là điều kiện tiên quyết để sống đời
lứa đôi.
Đức tin đặt mỗi người chúng ta và
chỉ mỗi người chúng ta trước mặt Thiên Chúa mà thôi. Chính trước
mặt Chúa mà mỗi người đón nhận mệnh lệnh của Ngài: “Các con phải
nên thánh vì Ta là Đấng Thánh”. Nên thánh là bổn phận của mỗi
người. Cho nên, không ai có thể biện minh cho sự tầm thường của
mình bằng gương xấu của người khác: “Tôi không khá hơn người
khác. Tất cả mọi người đều làm như vậy, hoặc chồng tôi, vợ tôi
không nghĩ như thế v.v..”.
Mỗi người, tự trong đáy thẳm tâm
hồn mình, cần phải đáp trả lại lời mời gọi của Chúa Giêsu, “Các
con hãy nên trọn lành như Cha các con trên trời là Đấng Trọn
Lành”. Nên thánh là một đòi hỏi và đồng thời là một biểu lộ cao
cả nhất của tình yêu. Yêu là trao ban và điều cao cả nhất mà
người ta trao ban cho người khác chính là bản thân mình. Nhưng
nếu không có làm sao ta có thể trao ban? Càng thánh thiện con
người càng muốn trao ban cho người khác.
3.
Nên thánh là một đáp trả của từng cá nhân đối với tiếng
gọi của Chúa, nhưng chỉ qua cửa ngõ của phép rửa mà con người
lắng nghe được tiếng gọi nên thánh ấy. Cho nên, chỉ trong Giáo
Hội, ơn gọi nên thánh mới được ngỏ cho con người. Điều đó có
nghĩa là không ai có thể nên thánh một mình.
Trong tình liên đới với mọi người
đã chịu phép rửa, chúng ta cần có sự trợ giúp của người khác để
sống ơn gọi Kitô hữu của mình. Chúng ta cần có sự hướng dẫn của
Giáo Hội, chúng ta cần có những nhà chuyên môn về tu đức hướng
dẫn, nhất là chúng ta cần có lời cầu nguyện của toàn thể Giáo
Hội để xin ơn trợ giúp của Chúa. Nên thánh không phải chỉ là một
cuộc thao dượt và cố gắng của ý chí. Nên thánh trước tiên là một
tham dự vào sự thánh thiện của Chúa. Điều đó cũng là công trình
của con người cùng với sự trợ giúp của ơn Chúa. Nên thánh là một
con đường do chính Chúa khai phá và mở rộng cho nhiều người.
Không ai có thể đi về nhà Chúa mà không cùng nắm tay tiến bước
với những người khác. Con đường nên thánh không phải là một con
đường đơn độc buồn tẻ nhưng là một đại lộ, trong đó, mọi người
cùng tiến bước với niềm hân hoan phấn khởi.
Niềm vui nào cũng cần được chia
sẻ, càng được chia sẻ, niềm vui càng lớn lên. Sự thánh thiện
đích thực được biểu lộ trước tiên bằng niềm vui. Người Tây
phương vẫn nói, một vị thánh buồn là một vị thánh đáng buồn. Do
đó, sự chia sẻ cao quí nhất mà người ta có thể làm cho người
khác chính là chia sẻ sự thánh thiện của mình. Nói cách khác,
người Kitô hữu không những có bổn phận nên thánh mà còn phải
giúp người khác nên thánh nữa.
4.
Bổn phận này càng đòi buộc hơn trong đời sống vợ chồng.
Với bí tích Hôn Phối, hai người nam nữ tạo thành một cộng đồng
tình yêu vốn được ví như một Giáo Hội thu gọn. Thực thế, nếu
Giáo Hội là bí tích tức là dấu chỉ và khí cụ biểu lộ tình yêu
của Thiên Chúa đối với con người, thì gia đình là nơi ưu việt
nhất để tính cách bí tích ấy của Giáo Hội được thể hiện.
Giáo Hội là thân thể hữu hình của
Chúa Kitô. Nhưng thực thể hữu hình ấy chỉ có thể hiện diện nhờ
các Kitô hữu mà thôi. Và dĩ nhiên không nơi nào sự hiện diện của
Giáo Hội được tỏ bày rõ nét cho bằng gia đình. Nơi đây, mọi
người nhất là vợ chồng được liên kết với nhau trong cùng một đức
tin, được sinh động bởi cùng một tình yêu và được nâng đỡ, hướng
dẫn bởi cùng một niềm hy vọng. Nếu sự hợp nhất là dấu hiệu khả
tín nhất của Giáo Hội thì không nơi đâu người ta có thể tìm thấy
dấu hiệu ấy một cách rõ nét cho bằng gia đình.
Chính vì là một Giáo Hội thu nhỏ,
một Giáo Hội điển hình mà gia đình phải luôn luôn quan tâm đến
vai trò bí tích tức vai trò chứng nhân của mình. Vai trò chứng
nhân ấy không là trách nhiệm riêng rẽ của mỗi người mà là bổn
phận của toàn thể gia đình. Bổn phận ấy chỉ có thể chu toàn với
sự cộng tác của mỗi thành phần trong gia đình. Do đó, trong khi
chu toàn bổn phận chứng nhân của gia đình mỗi người cũng quan
tâm đến người khác để tất cả được liên kết với nhau trong cùng
một quyết tâm làm chứng cho tình yêu Thiên Chúa.
Đức tin là giá trị cao cả nhất
trong cuộc sống của người tín hữu Kitô. Qua bí tích Hôn Phối,
cam kết tiên quyết nhất của hai người nam nữ Kitô hữu chính là
giúp nhau vun trồng, bảo vệ và thăng tiến đức tin của mỗi người…
Món quà cao quí nhất mà họ trao tặng cho nhau chính là đức tin.
Chỉ khi nào đức tin được giữ vững thì tình yêu giữa hai vợ chồng
và trong gia đình mới được bảo đảm.
Xây dựng hạnh phúc gia đình, bảo
vệ tình yêu hôn nhân, điều đó chỉ có thể thực hiện được đối với
người tín hữu Kitô khi nào niềm tin được vững vàng. Không có đức
tin, tình yêu hôn nhân và gia đình chỉ như một ngôi nhà xây trên
cát. Chỉ trong đức tin, hai người mới thực sự nên một trong thân
xác và tâm hồn. Chỉ trong đức tin, tình yêu giữa hai người mới
trở thành đức ái, hai người mới thực sự nên thánh thiện như Cha
trên trời.
|
VỀ MỤC LỤC |
|
ĐỐI PHÓ VỚI DỊ ỨNG
|
Kính gửi Bác sĩ,
Cháu là một độc giả
thường xuyên theo dõi các bài viết thú vị trên các báo của bác
sĩ. Nay cháu xin bác sĩ vui lòng giải đáp giúp về căn bệnh gây
phiền phức không ít cho cháu.
Thưa bác sĩ, cháu sang
Canada được 5 năm. Thời gian đầu
không sao cả, nhưng hai năm gần đây cháu bị dị ứng thời tiết
ngày càng nặng. Chứng dị ứng này khiến cháu mệt mỏi, khó chịu vì
nhiều khi nước mũi chảy dầm dề, mắt mũi ngứa ngáy... Mỗi khi như
vậy, cháu phải uống thuốc dị ứng. Khổ nỗi, triệu chứng dị ứng
nhiều khi cũng giống như bị cảm nên cháu không biết có phải đang
bị dị ứng không để mà uống thuốc.
Xin hỏi, làm sao để
biết đang bị dị ứng hay bị cảm?
Ngoài ra còn điều
khiến cháu băn khoăn là có người khuyên rằng đừng để bị như vậy
rồi mới uống thuốc, mà vào mùa bị dị ứng nên uống thuốc thường
xuyên để tăng sức đề kháng cơ thể, dần dần sẽ dứt hẳn chứng dị
ứng. Thưa bác sĩ, điều này có đúng không, uống thuốc dị ứng
thường xuyên như vậy có hại gì không?
Chân thành cảm ơn
bác sĩ.
Vân Nguyễn,
Toronto
Chào cô Vân
Không phải chỉ mình cô là khách hàng của Dị Ứng Theo Mùa (thời
tiết), mà các nhà chuyên môn y tế cho hay cứ 5 công dân Canada
( tức là khoảng 8 triệu người) thì một người bị bệnh. Ngoài ra,
có tới 80% người hen suyễn cũng rơi vào “bệnh phiền phức “ này.
Tại Hoa Kỳ, cũng có tới 60 triệu nạn nhân như vậy, với 10% dị
ứng theo mùa và 10% dị ứng thường xuyên với bụi bậm hoặc lông
chó lông mèo.
Câu
hỏi của cô tập trung vào mấy điểm là làm sao phân biệt dị ứng
với bệnh Cảm vì 2 bệnh có nhiều dấu hiệu tương tự và uống thuốc
dị ứng thường xuyên có hại gì không. Tuy nhiên, vì đây là vấn đề
mà nhiều người thắc mắc, cho nên “thỉnh cầu” cô cho tôi nhắc
lại vài chi tiết về bệnh này một chút, rồi trả lời 2 thắc mắc
của cô.
Dị
Ứng là một phản ứng khác thường của cơ thể đối với một tác nhân
nào đó để tự bảo vệ.
Nghiên cứu cho hay
khi một chất lạ xâm nhập cơ thể và gây ra các phản ứng, thì khi
tái tiếp xúc với chất này, cơ thể cũng có thể lập lại những phản
ứng khác thường đó, đôi lúc làm con người rất khó chịu.
Ý kiến khác
cho rằng dị ứng là một sự nhận nhầm căn cước. Ở người không bị
dị ứng thì khi hít phải phấn hoa, cơ thể coi như vô hại, bỏ qua.
Nhưng ở người bị dị ứng thì cơ thể lại coi chúng như kẻ gây hấn,
phản ứng lại bằng cách tiết ra histamine. Histamin tác động lên
mũi, mắt miệng, gây ra triệu chứng khó chịu. Cũng có ý kiến cho
rằng dị ứng là bệnh của nếp sống mới ngày nay, Con người càng
văn minh, càng vệ sinh sạch sẽ , ít tiếp xúc với cát bụi, chất
gây dị ứng thì càng dễ bị dị ứng. Cứ nhớ lại, ở Việt
Nam
mình khi xưa, sống dản dị, đâu có mấy ai bị cái bệnh “quái quỷ”
này. Ngoài ra, sự thay đổi khí hậu với hâm nóng toàn cầu do
công kỹ nghệ gây ra thì con số những hạt phấn gây dị ứng từ cỏ
cây hoa lá cũng nhiều hơn trong không khí.
Năm 1904, bác
sĩ nhi khoa Clément Von Pirquet ở nước Áo đã dùng chữ “Allergy”
để chỉ hiện tượng này. Allergy là sự kết hợp của hai từ gốc Hy
Lạp: allos có nghĩa là khác và ergos là phản ứng.
Allergy là một phản ứng khác hay “dị
ứng”.
Tác động dị ứng có
ba thành phần tham dự:
- Tác nhân gây dị
ứng đến từ bên ngoài cơ thể (thí dụ phấn hoa);
- Chất kháng thể
(IgE) ở trong người; và
- Hóa chất trung
gian Histamin.
Kháng thể hiện diện
trong máu như một thành phần của hệ miễn nhiễm để chống lại các
tác nhân gây hại cho cơ thể xâm nhập từ bên ngoài.
Histamin
do chính tế bào của cơ thể tiết ra như một cách để tự bảo vệ
khi có một chất lạ xâm nhập. Việc tạo ra histamin hoàn toàn tự
nhiên và trong đa số các trường hợp đều có lợi trong việc bảo vệ
sức khỏe. Tuy nhiên, có nhiều trường hợp mà sự nhạy cảm của cơ
thể vượt quá mức cần thiết, chính chất histamin này sẽ gây ra
những triệu chứng khó chịu cho con người.
Trong dị ứng theo mùa, tác nhân là phấn hoa của một số cây cối,
cỏ dại hoặc mốc meo, bụi bậm trong nhà mà con người có thể hít
vào qua mũi.
Tại
Canada cũng như Hoa Kỳ, dị ứng xảy ra vào những thời gian đặc
biệt.
-
Vào mùa Xuân, từ tháng 4 tới tháng 5 thì do phấn của các cây như
sồi cổ thụ(oak), liễu thướt tha (willow), thông cao vút;
-
Mùa Hạ, từ cuối tháng 5- giữa tháng 6 thì phấn cỏ dại hoặc cỏ
Phấn Hương (ragweed);
-
Tới mùa Thu, từ giữa tháng 8- 10 thì do lông chó mèo, mốc meo
trong buồng tắm, dưới chậu rửa chén bát hoặc những con mạt
(mite) bám vào màn cửa, thảm nylon.
Coi
vậy, ta thấy phấn hoa thay phiên nhau “hành hạ” con người. Thời
gian trong ngày mà phấn bay bổng nhiều nhất trong không gian là
từ mờ bình minh lúc 5 giờ tới 10 giờ sáng. Thời tiết ẩm với
những cơn mưa hoặc tuyết lạnh làm giảm đáng kể số lượng phấn hoa
của các thảo mộc này.
Bây
giờ xin trả lời mấy câu hỏi của cô Vân.
Đúng như cô nói, Dị ứng thời tiết và Cảm Lạnh có một số dấu hiệu
triêu chứng tương tự như nhau. Cũng chảy nước mắt, nước mũi, hắt
xì hơi, mệt mỏi, nhưng xét kỹ thì có nhiều điểm khác nhau.
Trước hết dị ứng do những hạt phấn hoa hoặc mốc meo gây ra còn
cảm lạnh lại do hàng trăm con virus. Virus có thể lan truyền từ
người bệnh sang người lành khi tay bắt mặt mừng, ôm vai mi má
hôn môi nhưng dị ứng thì hầu như những ai mẫn cảm với kháng
nguyên là người đó lãnh đủ.
Khi
hít phải phấn hoa dấu hiệu xuất hiện tức thì, kéo dài cả nhiều
tháng, còn cảm thì vài ba ngày sau mới bắt đầu hành hạ và dăm
bữa nửa tháng sau là bye bye tạm biệt, hẹn gặp kỳ sau. Cảm có
thể thấy vào bất cứ thời điểm nào nhưng thường xuất hiện vào mùa
Đông giá lạnh, người người “giao lưu”, tụ họp. Còn Dị ứng thì
quanh năm hoặc theo mùa nhưng mùa Đông ít hơn vì phấn hoa giảm.
Tuy nhiên lúc này lại nên “đề cao cảnh giác” với mấy trự “nội
thù” là mốc meo, bụi mạt trong buồng tắm không thoáng khí hoặc
tại nhà kho, mặt thảm.
Dấu
hiệu cũng có vài điểm khác nhau: Cảm Lạnh ho nhiều, rát họng,
đôi khi nóng sốt, nhức mỏi cơ bắp nhưng dị ứng lại ít ho, không
bao giờ gây sốt hoặc đau nhức nhưng mi mắt viền vải tây điều,
ngứa ngáy, dàn dụa lệ tuôn, còn mũi thì dầm dề sùi sụt nhớt dãi
trong veo chứ không vàng khè nhiễm trùng như cảm lạnh.
Bây
giờ là chuyện “uống thuốc thường xuyên để tăng sức đề kháng cơ
thể”, như cô nghe có người nói.
Thuốc mà bạn cô nói thuộc nhóm chống histamin (antihistamin).
Histamin là chất cơ thể sản xuất khi bị allergy với mục đích bảo
vệ thì lại là chất gây ra các dấu hiệu phiền phức cho nạn nhân ở
mắt ở da, ở mũi như đã nói ở trên đây.Thành ra uống antihistamin
chỉ là để chặn tác dụng của histamin, giảm thiểu các phiền phức
này chứ không phải là để chữa bệnh dị ứng cũng như không có khả
năng tăng cường tính miễn dịch.
Tại
Canada cũng như Hoa Jỳ, thuốc chống histamin như diphenhydramine
được bán tự do, không cần toa của ông bà bác sĩ, nhưng cần để ý
cách dùng và tác dụng ngoại ý, như ngây ngất buồn ngủ , không
tập trung làm việc được hoặc dễ dàng gây ra tai nạn khi lái xe
tự động. Thuốc là hóa chất lạ đối với cơ thể. Kẻ lạ ở lâu trong
nhà mà lại gia tăng thường xuyên thì cũng gây ra nhiều tác hại,
nhất là với người tuổi cao hoặc kém sức khỏe. Nên hỏi ý kiến bác
sĩ trước khi dùng nếu bị cao áp nhãn (glaucoma), cao huyết áp,
bệnh tim, tiểu tiện khó khăn vì sưng nhiếp tuyến hoặc khó thở,
hen suyễn.
Ngoài ra, bác sĩ cũng có thể cho dùng thuốc xịt mũi để giảm
nghẹt cũng như bảo vệ màng mũi với các chất gây dị ứng.
Vì
chỉ chữa các phiền phức do histamin gây ra cho nên thuốc chống
histamin không được dùng trước khi bị bệnh. Và thuốc này cũng
không chữa dứt dị ứng được. Đã bị dị ứng là hầu hết coi như tới
mùa là bị bệnh, không ai “lớn lên là hết” ngoại trừ một số nhỏ
các cháu bé. Khi tái phát thì dị ứng lại trầm trọng hơn.
Chắc cô Vân cũng có nghe việc chích ngừa dị ứng. Đây cũng là một
phương pháp trị liệu đang được áp dụng, nhưng công hiệu khiêm
nhường và cần được chích nhiều lần trong tuần, kéo dài cả dăm
bẩy năm, khá tốn kém. Bệnh nhân được thử coi xem dị ứng với chất
gì, được chích chất đó với số lượng bắt đầu rất ít rồi tăng dần.
Mục đích là để cơ thể làm quen với chất đó, đổi thù thành bạn.
Ngoài ra, hiện nay các khoa học gia cũng đangthử một loại thuốc
chống dị ứng đưa vào lưỡi, thay vì chích. Hy vọng thuốc sớm được
sản xuất.
Cô
Vân không hỏi đến cách phòng tránh, nhưng tiện đây thì tôi xin
mách vài mẹo vặt cho cô và quý độc giả đang bị dị ứng thời tiết
hành hạ:
-
Mỗi ngày, theo dõi mức độ phấn hoa trong không khí do sở khí
tượng địa phương báo cáo.
-
Coi chất gây dị ứng như những phần tử bất hảo, hãy tránh xa và
không để chúng tới gần. Cố thủ trong nhà vào thời điểm mức độ
phấn hoa cao nhất trong ngày. Nhà ở có máy điều hòa không khí,
quạt trần, cửa lớn cửa nhỏ đóng kín.
-
Nếu cần ra ngoài làm vườn, mang khẩu trang có lớp lọc phấn, bụi.
-
Lái xe hơi, mở máy lạnh, quay các cửa kính lên cao
-
Nhà ở thoáng khí, lau chùi buồng tắm nhà bếp, loại trử mốc meo,
bụi mạt trên thảm, màn cửa. Thay thảm với sàn gỗ, sàn nylon.
-
Chó mèo nuôi trong nhà cần được tắm gội thường xuyên, không cho
vào buồng ngủ.
-
Lâu lâu rửa mũi với dung dịch nước muối sinh lý, để làm sạch
niêm mạc.
-
Làm vườn đừng dụi tay lên mắt lên mũi. Rửa tay sạch sẽ trước khi
vào trong nhà. Đừng phơi quần áo, mùng mền ngoài trời...
Ngoài ra, xin mách cho cô Vân hay là, hàng năm tại Hoa Kỳ, Hội
Asthma & Allergy Foundation cũng đưa ra một danh sách những thị
trấn tương đối “thân thiện” hơn vể dị ứng, chẳng hạn Portland,
Seatles, San Diego. Vùng cao nguyên tương đối ít bị dị ứng hơn
là ở thung lũng đồng bằng, nơi khí hậu ẩm ướt tốt hơn là nơi khô
ráo, gần biển cũng vậy. Thành ra mình có thể hành động như dân
du mục hoặc bầy chim chốn rét, thay đổi chỗ ở để giảm thiểu hậu
quả của dị ứng.
Và,
không biết có nên “tư vấn” cô Vân điều này. Số là cách đây ít
lâu, có một số nghiên cứu “ báo cáo” là phụ nữ nhiều con ít rủi
do bị dị ứng thời tiết. Cô Vân thử áp dụng coi xem sao. Có khi
lại hết dị ứng mà lại đông con, líu lo ríu rít, vui cửa vui nhà.
Bác sĩ Nguyễn Ý Đức
Texas-Hoa Kỳ
www.bsnguyenyduc.com
|
VỀ MỤC LỤC |
TỪ CHẾT ĐẾN BỊ THƯƠNG Chuyện phiếm của
Gã Siêu |
“Cặp vợ chồng lý tưởng”, đó là tựa đề của
một chương trình truyền hình thật hấp dẫn và ăn khách. Năm cặp
vợ chồng bước vào phòng thu hình. Người điều khiển sẽ tách riêng
mỗi cặp, chồng đứng một nơi, vợ ngồi một nẻo và hỏi từng người
một. Rồi sau đó, cặp vợ chồng nào mà cả hai đều trả lời hoàn
toàn giống nhau cho tất cả những vấn đề được đặt ra, mới được
chọn làm cặp vợ chồng lý tưởng.
Chẳng hạn người điều khiển hỏi:
- Bạn thích ăn cơm nhão hay ăn cơm khô?
Nếu người vợ trả lời là cơm nhão và người
chồng cũng phải trả lời là cơm nhão, thì mới được điểm.
Chẳng hạn người điều khiển hỏi:
- Khi ra riêng, bạn sẽ vay tiền để mua sắm
đồ đạc hay cứ chịu khó tiết kiệm để rồi mua sắm sau?
Nếu người vợ trả lời rằng tiết kiệm trước,
mua sắm sau, và khi được hỏi, người chồng cũng phải trả lời y
chang như vậy, thì mới được điểm.
Từ đó, cặp vợ chồng lý tưởng sẽ phải là cặp
vợ chồng hoàn toàn hoà hợp, cả hai cùng nhất trí, cùng đồng ý
với nhau trong tư tưởng, trong lời nói, cũng như trong hành
động: Mình với ta tuy hai mà một. Họ chỉ còn là một tâm hồn và
một ước mơ, một trái tim và một việc làm.
Tuy nhiên, tìm được một người chồng hoàn
hảo, hay một người vợ tuyệt vời đã là một chuyện rất khó, còn
khó hơn cả việc mò kim dưới đáy biển, đơn giản chỉ vì nhân vô
thập toàn, ai cũng có những sai lỗi và khuyết điểm của mình, cho
nên người chồng hoàn hảo hay người vợ tuyệt vời chỉ là điều
không tưởng, chẳng hề có trong cuộc đời này.
Tìm kiếm một cặp vợ chồng lý tưởng, hoàn
toàn ăn ý với nhau, còn khó hơn thế nữa. Dù gã có đốt đuốc đi
tìm giữa ban ngày, thì cũng chẳng hề thấy, bởi vì bá nhân bá
tánh, mỗi người đều có một tính tình riêng. Ấy là gã chưa nói
đến mỗi người còn là một mầu nhiệm, một thế giới biệt lập với
những khoảng trời riêng tư. Và kinh nghiệm cũng cho hay: Trong
cuộc sống chung, vợ chồng sẽ không thể nào tránh khỏi những va
chạm, những bực bội và những buồn phiền. Thậm chí đối với một số
cặp vợ chồng, những bất đồng, cãi vã và xô xát vốn chỉ là những
chuyện rất bình thường, xảy ra như cơm bữa. Thế nhưng, nếu bình
tĩnh ngồi phân tích, gã nhận thấy giận vợ hay làm cho vợ giận,
trong cả hai trường hợp, phe ta chỉ toàn thua là thua, từ chết
đến bị thường mà thôi.
Trước hết là trường hợp vợ giận
Bản tính của đờn bà con gái vốn dịu hiền,
vì thế đứng trước những tức tối, phản ứng của các chị vợ thường
âm ỉ và dai dẳng, khiến cho anh chồng phải một phen ngậm đắng
nuốt cay, xất bất xang bang, giống như hiện tượng cháy ngầm
trong hoá học, tuy âm thầm nhưng vẫn có thể cưa đứt cả sắt thép.
Bình thường, chị vợ vốn hay nói dài, nói
dẻo, nói giai, nhưng khi đã giận rồi, thì bỗng trở thành…”tắt
tiếng”. Và một khi chị vợ đã quyết tâm, thì trời có đánh, thánh
có vật cũng không can nổi. Từ một người nói nhiều như đài phát
thanh, chị có thể câm nín, nhịn nói cả tuần lễ. Bộ mặt lầm lỳ
như công an hình sự. Có cậy miệng cũng chẳng thèm phát ngôn lấy
được một lời, làm cho anh chồng càng ngày càng bị căng thẳng và
khổ sở, bởi vì mỗi khi bước chân vào nhà, đều phải đối mặt với
một “pho tượng đá”, để rồi cuối cùng anh chồng đành phải xuống
nước, năn nỉ ỉ ôi, chị vợ mới mở lượng khoan hồng mà tha cho.
Sau cơn giận nín lặng thuộc vào hàng cao thủ võ lâm của chị vợ,
nhiều anh chồng mới sáng mắt và ngộ ra rằng: vợ nói nhiều còn dễ
chịu hơn là vợ lầm lì, tắt tiếng.
Thái độ thứ hai là ca tới ca lui cái điệp
khúc “trở về mái nhà xưa”. Thực vậy, cứ mỗi lần cãi nhau và khi
yêu cầu không được giải quyết một cách thoả đáng, nhiều chị vợ
bèn chẳng nói chẳng rằng, tự động gấp quần áo, xếp đồ đạc, khăn
gói quả mướp lên đường về với …bu! Để rồi anh chồng phải lí nhí
bẩm báo với mẹ vợ:
- Mẹ ơi, con có chuyện muốn thưa với mẹ.
Thực ra con và vợ con đều không có lỗi chi cả, chỉ hiểu lầm nhau
mà thôi. Mong mẹ khuyên nhủ nhà con giùm.
Thế nhưng, sự đời đâu có đơn giản. Mặc dù
được mẹ can gián, nhưng chị vợ vẫn cứ tiếp tục làm reo, ở thêm
ba bốn ngày cho hả giận. Và lần nào cũng vậy, anh chồng phải
đích thân sang nhà ngoại, đóng vai “bị can”, xuống nước van xin
lượng từ bi hì xả, mới được ân xá và rước chị vợ trở về. Có thể
nói được rằng, đối với người đàn ông, không có việc gì khổ sở
hơn là việc đó.
Về với bu là còn may phúc bảy mươi đời, vì
dù sao anh chồng cũng đã biết được địa chỉ nơi đến, một địa chỉ
an toàn tuyệt đối, nên yên chí phần nào. Trong khi đó, có những
chị vợ đùng đùng nổi giận đã anh dũng bỏ nhà ra đi cái một,
không hề tiếc xót, không hề nhung nhớ và cũng chẳng hề hé môi
cho biết là mình đi đâu, làm cho anh chồng một phen băn khoăn lo
nghĩ toát cả mồ hôi hột: Bà con họ hàng thì không có, thuê phòng
khách sạn thì không đủ tiền, hỏi han bạn bè thì chẳng ai biết,
gọi điện thoại thì không trả lời, thậm chí còn tắt cả nguồn, hay
chỉ nghe tổng đài léo nhéo tạm thời không liên lạc được, vì
ngoài vòng phủ sóng.
Trong khi đó con cái thì nheo nhóc, nhà cửa
thì bừa bãi, khiến anh chồng bèn phải xuống thang, rót từng lời
mật ngọt để dỗ dành, nhắn tin vào máy chị vợ. Cuối cùng, sau ba
ngày thấm đòn, khi bố con hốc hác, bơ phờ vì ngôi nhà không có
đờn bà, chị vợ mới chịu trở về với vẻ mặt kênh kiệu của người
chiến thắng, kèm theo một thông điệp:
- Tôi về là vì các con mà thôi, không êm
thì tôi sẽ đi tiếp cho mà biết.
(Phỏng theo Phụ nữ Thứ tư, số 67 ra ngày 28.7.2010).
Như vậy, hẳn mọi anh chồng đều nghiệm ra
rằng: Đừng dại dột mà làm cho vợ giận, bởi vì cuối cùng đều phải
xuống nước mà năn nỉ đến gãy cả lưỡi, cũng lại từ chết đến bị
thương mà thôi.
Tiếp đến là trường hợp giận vợ
Kinh nghiệm cho hay tính hiếu thắng dường
như là một cái gì đã được Tạo Hoá cài đặt sẵn trong máu huyết
của phe đờn ông con giai. Vì thế, trong những cuộc “nội chiến”,
anh chồng thường phấn đấu dành phần thắng cho bằng được, thậm
chí đôi lúc không ngần ngại dùng đến chiến thuật cả vú lấp miệng
em, mình sai mà vẫn cứ cãi chày cãi cối.
Hơn thế nữa, bản tính của đờn ông con giai
vốn nóng nảy và thẳng thừng, vì thế đứng trước những bực bội,
phản ứng của các anh chồng thường bộc phát một cách mãnh liệt
bằng những lời chửi bới và bằng những hành động mang tính cách
bạo lực, như thương cẳng chân hạ cẳng tay và để lại những đổ vỡ
tan hoang, giống như hiện tượng cháy bùng trong hoá học, nổ tung
làm tan xác pháo.
Bình thường, anh chồng vốn ít nói, nhưng
khi đã điên tiết vì cơn giận bốc lên đầu và bị tẩu hoả nhập ma,
thì lại hay nói to và nói tục với những lời lẽ cộc cằn và thô
lỗ, để rồi khi hạ nhiệt và cơn giận tan đi, lại phải một phen
uốn lưỡi xin lỗi chị vợ.
Ngoài ra, cũng không ít anh chồng còn xử lý
bằng bạo lực, như đập vỡ nồi niêu xoong chảo, đánh đập đấm đá
chị vợ. Rốt cuộc thì cũng lại từ chết đến bị thường, từ thua đến
thua mà thôi.
Suy gẫm về thái độ “vũ phu chi cục mịch”
này, gã thấy làm như vậy quả là vô cùng dại dột. Bởi vì khi tỉnh
cơn mê, lại phải bỏ tiền ra mua sắm những nồi niêu xoong chảo đã
bị đập bể. Nếu chị vợ bị đánh phun máu đầu, lại phải bỏ tiền bạc
và thời giờ ra chạy chữa. Còn nếu chẳng may chị vợ…bị đi tàu
suốt sang thế giới bên kia, thì chắc chắn ông chồng sẽ được luật
pháp sờ vào gáy, cho ngồi nhà đá mà đếm lịch. Rồi tương lai gia
đình và con cái sẽ như thế nào? Nheo nhóc và tan hoang là cái
chắc.
Chính vì thế, một anh chồng đã thề quyết
với bè bạn:
- Tớ hứa từ nay sẽ không bao giờ đánh vợ
nữa. Tốn kém lắm!
Mọi người đều ngạc nhiên:
- Sao lại tốn kém?
Anh chồng buồn sầu trả lời:
- Vợ tớ thích làm đẹp, tớ hoàn toàn đồng ý.
Nhưng càng ngày cô ấy càng quá đáng. Hôm trước cô ấy hỏi ý kiến
để đi xâm môi, tớ không đồng ý, vì từ cha sinh mẹ đẻ đến giờ môi
vợ tớ đã thật dễ thương rồi. Mua son gì tớ cũng chịu, chứ đi xăm
nó hâm hâm tái tái, như miếng thịt trâu ôi, nhìn thấy mà ghê. Tớ
cương quyết: Em mà xâm môi, anh nhất định sẽ không bao giờ hôn
em nữa. Đồ thật còn chẳng ăn, ai lại ăn đồ giả. Yên lặng được
một thời gian, lần này cô ấy chẳng thèm hỏi han gì, qua mặt tớ
cái vù. Các cậu thấy đấy, cái mũi của vợ tớ trước giờ vốn hênh
hếch nhìn có duyên đáo để. Thế mà hôm nay cô ấy đem về trình
diện tớ một cái mũi dọc dừa thẳng tưng, chóp mũi còn cao hơn cả
cái trán. Tớ mở tủ xem ngân quĩ thì thấy thiếu mất mấy triệu
đồng. Khổ quá! Đang dành tiền tính đổi cái xe đạp cà tàng cổ lỗ
sắp thành sắt phế thải rồi. Cũng phải lên đời, chuyển hệ thành
xe máy chứ. Tức quá, tớ gọi cô ấy lại, xáng cho nguyên một bạt
tai. Của đáng tội, tớ đánh nhẹ thôi chứ đâu có mạnh tay. Lần đầu
tiên kể từ khi cưới nhau, tớ đánh vợ tớ. Các cậu biết chuyện gì
xảy ra không? Cái mũi “mỹ viện” của cô ấy lệch sang một bên,
nhìn giống như một cục thịt thừa. Cô ấy soi vào gương mà cứ khóc
thút thít khiến tớ ân hận quá chừng. Nắn mãi cũng không làm sao
cho mũi ngay ngắn lại được. Đành phải chở vợ tớ tới mỹ viện, tốn
thêm mấy triệu đồng nữa để họ chỉnh cái mũi lại như cũ. Tớ chỉ
đánh vợ một lần duy nhất mà thôi, tởm tới già. Giận quá mất
khôn. Tốn một lần chưa đủ hay sao mà lại muốn tốn thêm một lần
nữa.
Kinh nghiệm sống sượng trên đây đáng cho
mọi anh chồng vũ phu suy gẫm trong cung cách cư xử với chị vợ
của mình. Làm thân đờn ông đã khó, còn làm anh “chồng giỏi chồng
ngoan” lại càng khó hơn. Vì vậy, một anh chồng thấm thía sự thua
lỗ mỗi khi đôi co với vợ, đã ví von bằng ngôn ngữ bóng đá như
sau:
- Các anh chồng nên xác tín rằng cãi nhau
với vợ chỉ là “đá giao hữu”, chứ không phải là đá ăn thua, một
mất một còn. Phải biết thua trong danh dự mới là cao thủ, và sau
đó chỉ sợ không đử sức nhận…”bồi thường chiến tranh” mà thôi.
Một anh chồng khác cũng đã rút tỉa, từ
những lần “va chạm, cọ quẹt” với chị vợ, một kinh nghiệm để đời:
- Trong những cuộc “nội chiến” với vợ,
không gì dại bằng giành phần thắng về cho mình, bởi lẽ ngay sau
đó chắc chắn sẽ bị trừng phạt, sẽ bị trả đũa, sẽ bị dạy cho một
bài học để biết thế nào là lễ độ. Cũng giống như dân An Nam ta
ngày xưa, dù có anh dũng đánh thắng Trung Quốc, thì khi hoà bình
trở lại, vẫn cứ phải triều cống và lệ thuộc, thì mới được yên
thân!
Anh chồng này còn bật mí thêm hai điều thật
quí giá:
- Một là vợ bao giờ cũng đúng. Hai là nếu
vợ sai, thì phải nhẩm đi nhẩm lại cho tới lúc hoàn toàn xác tín
vào điều một.
Chẳng thế mà các cụ ta ngày xưa đã từng
bảo:
- Lệnh ông không bằng cồng bà. Vợ muốn là
trời muốn.
Thậm chí còn xếp ông trời đứng sau lưng chị
vợ:
- Nhất vợ, nhì trời.
Sở dĩ như vậy cũng dễ hiểu, bởi vì vợ lúc
nào cũng có lý, cho dù là cái lý ngang như cua bò!
Trong một bài viết trên báo Phụ nữ Thứ sáu,
số ra ngày 06.8.2010, tác giả Trần Trung Hoà cho biết: Trong một
cuộc khảo sát 50 nữ sinh viên sắp ra trường với câu hỏi: Đức
tính nào của người chồng mà phụ nữ thích hơn cả? Có đến 87% trả
lời là thích tính hài hước. Vì vậy, khi tranh cãi với chị vợ,
các anh chồng không nên dùng lý lẽ sắc bén hay những câu nói gây
tổn thương, mà chỉ nên tranh luận bằng thứ ngôn ngữ có tính hài
hước. Đôi khi cũng phải miệng lưỡi chút xíu, vì đặc điểm của phụ
nữ là ưa nịnh. Người phương Tây đánh giá cao những anh đờn ông
giỏi “nịnh đầm”. Nhiều khi chỉ một câu nói pha trò là có thể
tránh được cả một cuộc chiến đau đầu. Chẳng hạn khi chị vợ bảo
nhất thiết phải có hành ngon để nấu ăn, tại sao anh chồng lại
không mở miệng ra mà nói:
- Vợ anh nấu ăn, thì không cần hành vẫn cứ
ngon ngất trời!
Hay:
- Anh đã cố đi tìm những năm cái chợ mà vẫn
không tìm ra thứ hành ngon nhất. Chỉ toàn hành héo, anh sợ đem
về, em lại mắng, nên không dám mua.
Chị vợ biết tỏng anh chồng nói ngoa, nhưng
nghe đến câu “anh sợ đem về, em lại mắng”, thì làm sao mà còn
giận, còn hờn được nữa. Lắm khi lại anh chồng lại còn được khoẻ
re, bởi vì dẻo miệng lưỡi, khoẻ tay chân, vì khéo nói, nên chẳng
phải làm chi cả.
Một anh bạn từ bên Mỹ vừa mới gửi về một
bài thơ, để gã dùng làm tài liệu…ngâm kiú. Bà thơ mang tựa đề là
“Sợ vợ” như sau:
Ngồi buồn kiếm chuyện nói chơi,
Nhất vợ nhì trời... là chuyện tự nhiên.
Đàn ông sợ vợ thì sang,
Đàn ông đánh vợ tan hoang cửa nhà.
Đàn ông không biết thờ bà
Cuộc đời lận đận kể là vứt đi.
Đàn ông sợ vợ ai khi,
Vợ mình, mình sợ xá gì thế gian!!!
Đàn ông khí phách ngang tàng,
Nghe lời vợ dạy là hàng trượng phu.
Đàn ông đánh vợ là ngu,
Tốn tiền cơm nước, ở tù như chơi.
Lấy nàng từ thuở mười nhăm,
Đến khi mười chín tôi đà năm con.
Nàng thì trông hãy còn son,
Tôi thì đinh ốc, bù lon rã rời.
Nắng mưa là chuyện của trời,
Tề gia nội trợ có tôi bao thầu.
Suốt ngày cày cấy như trâu,
Chiều về rửa chén cũng ngầu như ai.
Nấu cơm, đi chợ hàng ngày,
Bồng con, thay tã tôi đây vẹn toàn.
Lau nhà, lau cửa chẳng màng,
Ôi thời oanh liệt ngang tàng còn đâu.
Nhiều khi muốn hộc xì dầu,
Xin nàng nghỉ phép, nàng chau đôi mày.
Nàng đòi thi đấu võ đài,
Tung ra một chưởng, chén bay ào ào.
Nhớ xưa mình mới quen nhau,
Em ăn, em nói ngọt ngào dễ thương.
Cho nên tôi mới bị lường,
Mang thân ngà ngọc cậy nương nơi nàng.
Than ôi thực tế phũ phàng,
Mày râu một kiếp thôi đành đi đoong.
Một lòng thờ vợ sắt son,
Còn non còn nước thì tôi còn...thờ
Để kết thúc, gã xin ghi lại một mẩu chuyện
nho nhỏ “Tuy gần mà xa”, giúp cho bàn dân thiên hạ cùng suy gẫm,
hầu bắc được một nhịp cầu cảm thông và tạo được một bàu khí đầm
ấm trong gia đình của mình.
Có một nhà hiền triết đã hỏi các đệ tử
rằng:
- Tại sao trong cơn giận dữ người ta thường
phải hét thật to vào mặt nhau?
Sau một lúc suy nghĩ, một trong những đệ tử
đã trả lời:
- Bởi vì người ta mất bình tĩnh, mất tự
chủ!
Nhà hiền triết không đồng ý với câu trả
lời, ngài bảo:
- Nhưng tại sao phải hét lên trong khi cả
hai đang ở cạnh nhau, tại sao không thể nói với một âm thanh vừa
phải đủ nghe?
Các đệ tử lại phải ngẫm nghĩ để trả lời,
nhưng không câu giải thích nào khiến vị thầy của họ hài lòng.
Sau cùng ông bảo:
- Khi hai người đang giận nhau, thì trái
tim của họ không còn ở gần nhau nữa. Từ trong thâm tâm, họ cảm
thấy giữa họ và người kia có một khoảng cách rất xa, nên muốn
nói cho nhau nghe, thì họ phải dùng hết sức bình sinh để nói
thật to. Sự giận dữ càng lớn thì khoảng cách càng xa, họ càng
phải nói to hơn để tiếng nói của họ bao trùm khoảng cách ấy.
Ngưng một chút, ngài lại hỏi:
- Còn khi hai người bắt đầu yêu nhau thì
thế nào? Họ không bao giờ hét to mà chỉ nói nhỏ nhẹ, tại sao?
Bởi vì trái tim của họ cận kề nhau. Khoảng cách giữa họ rất
nhỏ.
Rồi ngài lại tiếp tục:
- Khi hai người ấy đã yêu nhau thật đậm đà,
thì họ không nói nữa, họ chỉ thì thầm, họ đã đến rất gần nhau
bằng tình yêu của họ. Cuối cùng ngay cả thì thầm cũng không cần
thiết nữa, họ chỉ cần đưa mắt nhìn nhau, thế thôi! Và qua ánh
mắt đó, họ đã biết đối phương nghĩ gì và muốn gì?
Và nhà hiền triết kết luận:
- Khi các con bàn cãi với nhau về một vấn
đề, hãy giữ trái tim của các con lúc nào cũng cận kề. Đừng bao
giờ thốt ra điều gì khiến các con cảm thấy xa cách nhau. Nếu
không, thì sẽ có một ngày, khoảng cách ấy càng lúc càng rộng,
càng lúc càng xa và các con sẽ không còn tìm được đường quay trở
lại với nhau.
Thật là trên cả tuyệt vời!!!
Gã Siêu
gasieu@gmail.com
|
VỀ MỤC LỤC |
|
- Mọi liên lạc: Ghi danh, thay đổi địa chỉ, đóng góp ý kiến,
bài vở..., xin gởi về địa chỉ
giaosivietnam@gmail.com
- Những nội dung sẽ được đề cao và chú ý bao gồm:
Trao đổi, chia sẻ những kinh nghiệm thực tế trong việc mục
vụ của Giáo sĩ; Những tài liệu của Giáo hội hoặc của các
Tác giả nhằm mục đích Thăng tiến đời sống Giáo sĩ; Cổ võ ơn
gọi Linh mục; Người Giáo dân tham gia công việc “Trợ lực
Giáo sĩ” bằng đời sống cầu nguyện và cộng tác trong mọi lãnh
vực; Mỗi Giáo dân phải là những “Linh mục” không có chức
Thánh; Đối thoại trong tinh thần Bác ái giữa Giáo dân và
Giáo sĩ… (Truyền giáo hay xây pháo đài?)
- Quy vị cũng có thể tham khảo những số báo đã phát hành tại
www.conggiaovietnam.net
Rất mong được sự cộng tác, hưởng ứng của tất cả Quí vị
Xin chân thành cám ơn tất cả anh chị em đã
sẵn lòng cộng tác với chúng tôi bằng nhiều cách thế khác
nhau.
TM. Đặc San Giáo Sĩ Việt Nam
Lm. Luca
Phạm Quốc Sử
USA
|
|
*************
|
|