Tổ Chức Phẩm
Trật Giáo Hội (tiếp theo) |
Hiến Chế Tín Lý
Về Giáo Hội
Lumen Gentium
Bản dịch Việt
Ngữ của Giáo Hoàng Học Viện Piô X
Prepared for
Internet by Vietnamese Missionaries in Asia
Chương III
Tổ Chức Phẩm
Trật Giáo Hội
Và Ðặc Biệt Về
Chức Giám Mục
(tiếp theo)
28.
Các linh mục trong mối tương quan với Chúa Kitô, với các Giám
Mục, với anh em Linh Mục và với dân Chúa.
37* Ðược Chúa Cha thánh hóa và phái đến thế gian (x.
Gio 10,36), Chúa Kitô nhờ các Tông Ðồ, đã làm cho các Giám Mục,
những vị kế nghiệp các Tông Ðồ, có thể tham dự vào việc cung
hiến và vào sứ mạng của mình
62. Các Giám Mục lại giao nhiệm vụ thừa tác của mình
một cách hợp pháp cho nhiều phần tử trong Giáo Hội theo từng cấp
bậc. Như thế, thừa tác vụ do Thiên Chúa thiết lập trong Giáo Hội
được thi hành bởi những người có chức vụ khác nhau mà từ xưa
được gọi là Giám Mục, Linh Mục và Phó Tế
63. Linh Mục, dù không có quyền tư tế tối cao và tùy
thuộc Giám Mục khi thi hành quyền bính, cũng hiệp nhất với Giám
Mục trong tước vị Linh Mục
64. Nhờ bí tích Truyền Chức Thánh
65, linh mục được cung hiến theo hình ảnh Chúa Kitô,
thầy cả Thượng Phẩm vĩnh viễn (x. Dth 5,1-10; 7,24; 9,11-28), để
rao giảng Phúc Âm, chăn dắt tín hữu và cử hành việc thờ phượng
Thiên Chúa với tư cách tư tế đích thực của Tân Ước
66. Theo cấp bậc thừa tác của mình tham dự vào nhiệm
vụ Chúa Kitô, Ðấng trung gian duy nhất (x. 1Tm 2,5), các linh
mục loan báo lời Thiên Chúa cho mọi người. Nhưng các ngài thực
thi thánh vụ mình cách tuyệt hảo nhất là trong Thánh Lễ hoặc
cộng đồng tạ ơn, trong đó, các ngài thay thế Chúa Kitô
67 công bố mầu nhiệm của Chúa, kết hợp với ước nguyện
của tín hữu vào hy lễ của thủ lãnh và trong hy tế Thánh Lễ, hiện
tại hóa và áp dụng hy lễ duy nhất của Tân Ước
68, là của lễ tinh tuyền đã một lần tự dâng hiến lên
Chúa Cha (x. Dth 9,11-28), cho tới ngày Chúa trở lại (x. 1Cor
11,26). Linh mục chu toàn cách tuyệt hảo chức vụ giao hòa và an
ủi đối với các tín hữu thống hối và bệnh tật. Linh mục dâng lên
Chúa Cha các nhu cầu và lời khẩn nguyện của các tín hữu (x. Dth
5,1-3). Trong quyền hạn mình, linh mục thi hành nhiệm vụ Chúa
Kitô mục tử và thủ lãnh
69, tụ họp gia đình Thiên Chúa là cộng đoàn huynh đệ
có cùng một tâm hồn
70, và nhờ Chúa Kitô, trong Chúa Thánh Thần, dẫn đưa
cộng đoàn ấy về với Thiên Chúa Cha. Linh mục thờ lạy Thiên Chúa
trong tinh thần và trong chân lý giữa đoàn chiên (x. Gio 4,24).
Sau hết, vất vả truyền giáo và dạy dỗ (x. 1Tm 5,17), linh mục
tin những gì ngài đã đọc thấy và suy niệm trong lề luật Chúa,
dạy dỗ những gì mình tin và thực hành những điều mình dạy
71.
Là cộng sự viên khôn ngoan, là phụ
tá và là dụng cụ của hàng Giám Mục
72, linh mục được kêu gọi để phục vụ Dân Thiên Chúa.
Các ngài hợp với Giám Mục mình tạo thành linh mục đoàn duy nhất
với nhiều chức vụ khác nhau
73. Trong mỗi cộng đoàn tín hữu địa phương, linh mục,
là hiện thân của Giám Mục mà các ngài hằng liên kết với lòng tin
tưởng và quảng đại, lãnh nhận phần chức vụ cùng chia xẻ nỗi lo
lắng của Giám Mục và hằng ngày ân cần thi hành chức vụ ấy. Dưới
quyền Giám Mục, linh mục thánh hóa và dẫn dắt một phần đoàn
chiên Chúa trao phó cho mình, làm cho người ta thấy được Giáo
Hội phổ quát ngay tại địa phương mình, góp phần hữu hiệu vào
việc xây dựng toàn thân thể Chúa Kitô (x. Eph 4,12). Luôn mưu
cầu ích lợi cho con cái Thiên Chúa, linh mục phải hăng hái tham
gia công cuộc mục vụ của cả giáo phận, hơn nữa của toàn thể Giáo
Hội. Vì tham dự vào chức linh mục và vào sứ mệnh của Giám Mục,
linh mục phải thực sự xem ngài như cha mình và phải kính cẩn
vâng phục ngài. Phần Giám Mục cũng phải coi sóc các linh mục
cộng tác với mình như con cái và bạn hữu, như Chúa Kitô không
gọi môn đệ là tôi tớ, nhưng là bạn hữu (x. Gio 15,15). Do đó,
tất cả các linh mục triều cũng như dòng, bởi chức thánh và thừa
tác vụ, được nối kết vào Giám Mục Ðoàn và phục vụ cho lợi ích
của toàn thể Giáo Hội tùy theo ơn gọi và ân sủng riêng.
Một tình huynh đệ thắm thiết nối
kết tất cả các linh mục với nhau vì cùng tham dự một chức thánh
và một sứ mệnh chung. Tình huynh đệ đó phải bộc lộ một cách tự
phát tự nguyện qua sự tương trợ cả tinh thần lẫn vật chất, trong
phạm vi mục vụ cũng như trong phạm vi cá nhân, trong các buổi
hội họp, cũng như trong sự hiệp thông với nhau qua đời sống,
việc làm và tình bác ái.
Linh mục phải săn sóc các tín hữu
như những người cha trong Chúa Kitô, vì đã sinh ra họ cách
thiêng liêng nhờ phép Thánh Tẩy và giáo huấn (x. 1Cor 4,15 và 1P
1,23). Nêu gương cho đoàn chiên (1P 5,3), linh mục phải làm sao
hướng dẫn và phục vụ cộng đoàn địa phương của mình, để họ xứng
đáng mang danh hiệu Giáo Hội Thiên Chúa (x. 1Cor 1,2; 2Cor 1,1)
là danh hiệu riêng biệt của toàn thể Dân Thiên Chúa là Dân duy
nhất. Linh mục hãy nhớ rằng mình phải tỏ ra cho tín hữu và lương
dân, cho người công giáo và ngoài công giáo thấy gương mặt của
một thừa tác vụ thực sự tư tế và mục vụ, phải minh chứng cho mọi
người thấy chân lý và sự sống. Như mục tử tốt lành, linh mục còn
phải đi tìm (x. Lc 15,4-7) những người đã lãnh nhận phép Thánh
Tẩy trong Giáo Hội công giáo nhưng đã xao lãng không lãnh nhận
các bí tích hay nhất là đã mất đức tin.
Ngày nay, vì nhân loại ngày càng
hiệp nhất về dân sự, kinh tế và xã hội, nên các linh mục càng
phải loại trừ mọi mầm mống chia rẽ, phải nối kết cố gắng và khả
năng mình dưới sự hướng dẫn của các Giám Mục và Giáo Hoàng, để
toàn thể nhân loại hiệp nhất trong gia đình Thiên Chúa.
38*
29.
Các phó tế. Ở bậc thấp hơn của hàng giáo phẩm, có
các phó tế, những người đã được đặt tay "không phải để lãnh nhận
chức vụ linh mục, nhưng là để phục vụ"
74. Thực vậy, được ân sủng bí tích bồi bổ, các phó tế,
hiệp thông với Giám Mục và Linh Mục Ðoàn, phục vụ Dân Thiên Chúa
bằng việc phụng vụ, giảng dạy, và bác ái. Khi được những vị có
thẩm quyền chỉ định, các phó tế được cử hành trọng thể phép
Thánh Tẩy, giữ và trao Mình Thánh Chúa, nhân danh Giáo Hội chứng
kiến và chúc lành hôn phối, mang của ăn đàng cho kẻ hấp hối, đọc
Thánh Kinh cho tín hữu, giáo huấn và khuyên nhủ dân chúng, chủ
tọa việc phụng tự và kinh nguyện của tín hữu, cử hành các á bí
tích, chủ tọa lễ nghi tang chế và an táng. Ðược phong chức để lo
việc bác ái và việc quản trị, phó tế phải nhớ lời nhắn nhủ của
Thánh Polycarpô: "Hãy tỏ lòng nhân hậu, nhiệt thành, và hãy bước
theo chân lý của Chúa, Ðấng đã làm tôi tớ mọi người"
75.
Thực ra, trong nhiều nơi, vì kỷ
luật hiện hành của Giáo Hội La tinh có thể làm trở ngại việc chu
toàn những nhiệm vụ đó, những nhiệm vụ rất cần thiết cho đời
sống Giáo Hội, nên trong tương lai, chức phó tế có thể được tái
lập như một bậc riêng và vĩnh viễn thuộc phẩm trật. Các nhóm
Giám Mục địa phương, dưới những hình thức khác nhau, với sự chấp
thuận của chính Ðức Giáo Hoàng, có đủ thẩm quyền để xét xem có
nên bổ nhiệm các phó tế ấy và bổ nhiệm ở đâu, để họ coi sóc các
linh hồn. Với sự đồng ý của Ðức Giáo Hoàng, các Ngài có thể
phong chức phó tế cho những người đàn ông đứng tuổi, dù đã kết
hôn, cũng như cho các thanh niên có khả năng, nhưng các thanh
niên này phải giữ vững luật độc thân.
39*
Chú Thích:
39
Xem CÐ Trentô sắc lệnh De Reform., khóa V, ch. 2, số 9, và khóa
XXIV, đ.th. 4: Conc. Oec. Decr., trg 645 và 739.
40
Xem CÐ Vat. I, Hiến chế tín lý Dei Filius, 3: Dz 1712 (3011).
Xem ghi chú kèm theo Lược Ðồ I về De Eccl. (trích từ Thánh Rob.
Bellarminô): Mansi 51, 579C, và Lược Ðồ đã được sửa đổi của Hiến
Chế II De Eccl. Christi, với phần chú giải củ Kleutgen: Mansi
53, 313 AB. Ðức Piô IX, Thư "tuas libenter": Dz 1683 (2879).
41
Xem CIC các kh. 1322-1323.
42
Xem CÐ Vat. I, Hiến chế tín lý Pastor Aeternus: Dz 1839 (3074).
43
Xem giải nghĩa của Gasser trong CÐ Vat. I : Mansi 52. 1212 AC.
44
Xem Gasser n.v.t.: Mansi 1214A.
45
Xem Gasser n.v.t.: Mansi 1215 CD, 1216-1217 A.
46
Xem Gasser n.v.t. : Mansi 1213.
47
Xem CÐ Vat. I, Hiến chế tín lý Pastor aeternus, 4: Dz 1836
(3070).
48
Lời nguyện lễ tấn phong Giám Mục theo nghi lễ Bizantinô:
Euchologion to mega Roma, 1873, trg 139.
49
Xem T. Inhaxiô Tử đạo, Smyrn. 8,1: x.b. Funk I, trg 282.
50
Xem CvTđ 8,1; 14,22-23; 20,17 và nhiều chỗ khác.
51
Lời nguyện Tây Ban Nha: PL 96, 759B.
52
Xem T. Inhaxiô Tử đạo, Smyrn. 8,1: x.b. Funk, I, trg 282.
53
T. Tôma, Summa Theol. III, q. 73, a. 3.
54
Xem T. Augustinô, C. Faustum, 12, 20: PL 42, 265; Serm. 57, 7:
PL 38, 389, v.v...
55
T. Leô Cả, Serm. 63, 7: PL 54, 357C.
56
Xem Traditio Apostolica của Hippolytô, 2-3: x.b. Botte, trg
26-30.
57
Xem đoạn "khảo duyệt" ở đầu lễ tấn phong Giám Mục và kinh nguyện
sau lễ tấn phong Giám Mục, sau Te Deum.
58
Xem Benedictô XIV, Br. Romana Ecclesia, 5-10-1752, đoạn 1
Bullarium Benedicti XIV, bộ IV, Roma 1758, 21: "Giám Mục thay
mặt Chúa Kitô và chu toàn công cuộc của Ngài". Piô XII, Tđ.
Mystici Corporis, n.v.t., trg 211: "mỗi Giám Mục chăn dắt và
điều khiển đoàn chiên được giao phó nhân danh Chúa Kitô".
59
Xem Leô XIII, Tđ. Satis cognitum, 29-6-1896: AAS 28 (1895-96),
trg 732, n.v.t., thư Officio Sanctissimo, 22-12-1887: AAS 20
(1887), trg 264. Piô IX, Tông thư gửi các Giám Mục Ðức,
12-3-1875 và huấn từ 15-3-1875: Dz 3112-3117 trong lần phát hành
mới.
60
Xem CÐ Vat. I: Hiến Chế tín lý Pastor aeternus, 3: Dz 1828
(3061). Xem bài phúc trình của Zinelli: Mansi 52, 1114 D.
61
Xem T. Inhaxiô Tử đạo, Ad Ephes. 5,1 : x.b. Funk, I, trg 216.
37*
Tiểu mục 4: Những cộng tác viên của Giám Mục (các số 28-29).
Công Ðồng biên soạn và khai triển
đoạn này trong những cuộc bàn cãi vào tháng 9 năm 1964. Về linh
mục, số 29 còn được bổ túc và minh định qua Sắc Lệnh về nhiệm vụ
Giám Mục (các số 28-35). Công Ðồng chưa có thời giờ quảng diễn
một khoa thần học về chức linh mục thừa tác, nên tạm thời chỉ
nói sơ qua khi bàn về chức Giám Mục. Sự liên lạc giữa hai bên
khiến Công Ðồng liệt kê được những quả quyết chính yếu trong
những số này để kết thúc cho một chương khá dài, đòi nhiều công
phu.
62
Xem T. Inhatiô tử đạo, Ad Ephes. 6,1: x.b. Funk I, trg 218.
63
Xem CÐ Trentô, khóa 23, De Sacr. ord., ch. 2: Dz 958 (1765) và
đ. th. 6: Dz 966 (1776).
64
Xem Innocentiô I, Epist. ad Decentium: PL 20, 554A; Mansi 3,
1029; Dz 98 (215): "Linh mục tùy thuộc và hàng tư tế bậc thấp,
nên không có quyền tư tế tối cao". T. Cyprianô, Epist. 61, 3:
x.b. Hartel, trg 696.
65
Xem CÐ Trentô, n.v.t.: Dz 956-968 (1763-1778), và đặc biệt đ.th.
7: Dz 967 (1777). Piô XII, Tông hiến Sacramentum Ordinis: Dz
2301 (3857-61).
66
Xem Innocentiô I, n.v.t. - T. Gregoriô Naz., Apol. II, 22: PG
35, 432 B. Dionysiô Giả, Eccl. Hier., 1,2: PG 3,372 D.
67
Xem CÐ Trentô, khóa 22: Dz 940 (1743). Piô XII, Tđ. Mediator
Dei, 20-11-1947: AAS 39 (1947), trg 553; Dz 2300 (3850).
68
Xem CÐ Trentô, khóa 22: Dz 938 (1739-40) - CÐ Vat. II, Hiến chế
về Phụng Vụ Thánh Sacrosancium Concilium số 7 và 47: AAS 56
(1964), trg 100-113.
69
Xem Piô XII, Tđ. Mediator Dei, n.v.t., số 67.
70
Xem T. Cyprianô, Epist. 11,3: PL 4,242B; x.b. Hartel II, 2, trg
497.
71
Xem Pontificate Romanum, lễ truyền chức linh mục: lúc mặc áo lễ.
72
n.v.t.: kinh tiền tụng.
73
Xem T. Inhatiô Tử đạo, Philad. 4: x.b. Funk I, trg 266. T.
Corneliô I, trong T. Cyprianô, Epist. 48, 2: Hartel III, 2, trg
610.
38*
Số 28: Về Linh Mục.
Công Ðồng không muốn đề cập đến
những vấn đề thuộc khoa chú giải do Tân Ước đặt ra, nhưng chỉ
muốn xác định điều này: các linh mục, vì là những thừa tác viên
cộng tác với Giám Mục, nên được tham dự vào quyền hành và sứ
mệnh mà Chúa Kitô đã trao ban cho các Tông Ðồ.
- Tương quan giữa linh mục Chúa
Kitô: tùy theo mức độ thừa tác vụ, linh mục tham dự vào nhiệm vụ
Chúa Kitô là Vị Trung Gian duy nhất, nhiệm vụ được thi hành
trong việc tế tự và trong công hội: thừa tác vụ của ngài là dâng
Thánh Lễ, dẫn dắt đoàn chiên, dùng bí tích mà thánh hóa, rao
giảng Lời Chúa.
- Tương quan giữa linh mục và Giám
Mục: lặp lại hình thức linh mục đoàn ngày xưa, nghĩa là các linh
mục tập trung quanh Giám Mục để cùng lãnh trách nhiệm chung là
truyền bá Phúc Âm. Giám Mục phải sống tình cha con, còn linh mục
phải vâng lời và tuân phục. Chức tư tế của linh mục tùy thuộc và
tham dự vào chức tư tế của Giám Mục. Linh mục cộng tác vào công
cuộc truyền bá Phúc Âm có tính cách tập đoàn.
- Tương quan giữa linh mục với
nhau: Công Ðồng mời gọi các linh mục cộng tác với nhau về mặt
thiêng liêng, mục vụ và cả trong những công việc trần thế.
- Tương quan giữa linh mục và tín
hữu: linh mục quan tâm đến việc giúp đỡ các tín hữu trong Giáo
Hội địa phương, nhưng cũng không quên lo cho những người còn ở
ngoài Giáo Hội, và những Kitô hữu không còn sống đạo.
Ðể kết luận, Công Ðồng ước mong mọi
linh mục phải nỗ lực duy trì và phát huy sự hiệp nhất với nhau
và với Giám Mục, vì Phúc Âm và thế giới hôm nay đòi hỏi như thế.
74
Const. Eccl. Aegyptiacae III, 2: x.b. Funk, Didascalia II, trg
103. - Statuta Eccl. Ant. 37-41: Mansi 3,954.
75
T. Polycarpô, Ad Phil. 5,2: x.b. Funk I, trg 300: "Chúa Kitô tự
hạ được gọi là Ðấng Phó Tế mọi người". Xem Didachê 15,1: n.v.t.,
trg 32. T. Inhatiô Tử đạo, Trall. 2,3: n.v.t., trg 242. Const.
Apostolorum, 8,28,4 : x.b. Funk, Didascalia I, trg 530.
39*
số 29: Về Phó Tế.
Bản văn công phu được lặp lại hầu
như hoàn toàn trong kỳ họp thứ III của Công Ðồng, gồm hai phần:
- Nhiệm vụ của phó tế: Công Ðồng dè
dặt khi nói đến bí tích tính của chức phó tế, vì còn một số
người phân vân chưa quyết định, nên Công Ðồng không muốn làm cản
trở cho công cuộc tìm hiểu thêm. Ðặc điểm của chức phó tế là
phục vụ Giám Mục và linh mục đoàn. Phục vụ trong ba lãnh vực:
phụng vụ, rao giảng lời Chúa và thực thi bác ái.
- Tái lập phó tế như một chức
thường xuyên. Công Ðồng chỉ quả quyết là có thể tái lập ở những
nơi mà nhu cầu mục vụ đòi hỏi.
Việc tái lập như thế có tính cách
địa phương hơn là cho toàn thế giới, và do quyết định của hội
đồng Giám Mục địa phương với sự chấp thuận của Giáo Hoàng. Về
luật độc thân, phải phân biệt hai trường hợp: người đứng tuổi có
thể đã lập gia đình, còn các thanh niên phải giữ luật độc thân.
Bản phúc trình giải thích quyết định này như sau: lược đồ không
chủ trương đòi các phó tế phải có gia đình, dù ở nơi nào cũng
vậy, nhưng chỉ muốn dễ dãi đối với việc truyền chức phó tế cho
người có gia đình khi xét ra cần thiết hay hữu ích.
|
VỀ MỤC LỤC |
|
ĐỌC KINH THÁNH NHƯ THẾ NÀO TRONG
THỰC HÀNH LECTIO DIVINA?
|
Đọc Kinh Thánh trong thực hành Lectio divina quả thực là một
cuộc chiến bền bỉ. Để đạt được mục đích, người thực hành Lectio
divina cần phải có quyết tâm. Truyền thống đan tu cả Đông lẫn
Tây Phương trong lãnh vực này đều để lại cho chúng ta những bài
học, những lời khuyên chí lý không từ những lý thuyết, nhưng từ
những trải nghiệm quý báu. Sau đây là 10 đặc tính mà người thực
hành Lectio divina cần phải có:
1- Hứng khởi
(libenter,
enthousiasme)
2- Cẩn trọng
(prudenter,
prudence)
3- Khôn ngoan
(sapienter,
Intelligence)
4- Kiên trì
(constanter,
incessanter, constance)
5- Chú tâm
(solliciter,
attention)
6- Nhiệt thành
(ardenter,
ardeur)
7- Tôn kính
(cum honore
et timore, respect)
8- Trọn vẹn
(ex integro,
entièrement)
9- Trong cộng đoàn, trong hiệp thông
(in
communione, en communauté)
10- Quyết tâm đem ra thực hành
(efficaciter
comple, avec la ferme volonté de mettre cette lecture en
pratique).
Đó là 10 điều tâm niệm cho các môn đệ của LỜI.
Fr. Marie Bảo
Tịnh O.Cist
|
VỀ MỤC LỤC |
|
SUY NIỆM VỀ LỄ BA VUA
|
(Bài
đọc: Isaiah 60:1-6; Epheso 3:2-3a; PhúcÂm: Math 2:1-12)
Bác sĩ Nguyễn
Tiến Cảnh
Lễ BA VUA hay
là LỄ HIỂN LINH, tức lễ kỷ niệm ba nhà đạo sĩ đến thờ lạy Chúa
Hài Đồng Giêsu, cũng được gọi là lễ Chúa Tỏ Mình Cho Dân Ngoại.
Chúa tỏ mình cho dân ngoại thế nào? Làm sao để nhận ra Chúa?
CỰU ƯỚC NÓI VỀ
CHÚA RA ĐỜI
Khi nghe các
bài đọc về phụng vụ trong lễ Ba Vua ai mà không cảm thấy rúng
động với cảnh tráng lệ huy hoàng nơi thị thành, ánh sáng chan
hòa chiếu tỏa khắp phố phường, đặc biệt là quang cảnh mà tiên
tri Isaiah đã mô tả. “Hỡi Jerusalem, hãy vùng dậy trong huy
hoàng; ánh sáng của ngươi đã đến, vinh quang Thiên Chúa chiếu
rọi trên ngươi. Hãy trông kìa, bong tối bao phủ tràn lan mặt
đất, mây mù bao phủ muôn dân. Nhưng Thiên Chúa chiếu sáng trên
ngươi và trên ngươi là vinh quang của Chúa…” (60:1-6). Những
dân ngoại đến từ những phương trời xa xôi nhờ ánh sáng chiếu toả
trên thành Jerusalem hướng dẫn. Họ mang tặng vật đi theo cùng
với con trai và con gái của Thị Trấn Thánh này! Mặc dù bóng tối
bao phủ muôn dân, nhưng vinh quang Chúa đã bừng sáng chiếu tỏa
như bình minh ban mai. Làm sao chúng ta có thể diễn tả đúng mức
và đầy đủ nỗi vui mừng khi chúng ta hân hoan đón chào Chúa Giáng
Sinh Ra Đời!
TÂN ƯỚC BÁO TIN
CHÚA GIÁNG SINH
Câu chuyện
Tin Mừng thánh Mathew kể về Ba Vua được ngôi sao dẫn đường đến
thờ lạy Chúa Hài Đồng (2:1-12) cho chúng ta thấy đã lấp ló một
cuộc phấn đấu tất nhiên là căm go khi mà Thiên Chúa tỏ mình cho
muôn dân qua Chúa Kitô. Nếu đọc câu chuyện thật cẩn thận và để ý
một chút, chúng ta sẽ thấy đây không phải đơn thuần là câu
chuyện kể về một hài nhi, mà là một câu chuyện khá bi thảm về
một người lớn. Làn ranh chiến trận đã được vạch ra và quân đội
đã sẵn sàng. Một hài nhi bé nhỏ khi vừa chào đời thì đồng thời
cũng là lúc phải đối đầu với chết chóc do quyền lực thế gian.
Chúa Giêsu đã là mối đe dọa đối với Herod và mọi thế quyền: một
đàng là ngai vàng của ông vua, một đàng là cả một đế quốc tôn
giáo của nhiều người khác ….
BA VUA NHẬN RA
CHÚA VÀ CUỘC HÀNH TRÌNH
Tại quê hương
xa vời, ở những miền đất xa lạ, ba nhà đạo sĩ họ có thể sống
bình thản hưởng thụ cảnh vua chúa quan quyền một cách thoải mái,
nhưng họ bồn chồn băn khoăn trong lòng cảm thấy như thiếu thốn
một cái gì. Thế là họ chấp nhận khó khăn hiểm nguy làm một cuộc
hành trình viễn xứ để tìm cho ra chân lý cuộc đời, môt viễn
tượng đầy hứa hẹn. Không như những kẻ chăn chiên nghèo hèn, ba
vị đạo sĩ đã phải làm một cuộc hành trình dài, phải đối diện với
biết bao nghịch cảnh trên đường tìm kiếm lý tưởng. Những kẻ chăn
chiên chúng cũng nhận ra những nghịch cảnh như những phương tiện
giúp chúng chuẩn bị tâm hồn để chấp nhận sứ điệp của các thiên
thần. Chúng đã vượt qua mọi sợ hãi, và tiến bước đi về Bethlehem
để gặp Chúa Kitô Hài Đồng.
Đối với ba
vua, cuộc hành trình đi về Bethlehem quả là khó khăn hơn nhiều
vì đường xá xa xôi lại hiểm trở. Đây không phải là một cuộc hành
hương để vui chơi, hoặc gặp gỡ lãng mạng tình cảm mà chúng ta
thường thấy nơi quang cảnh hang đá máng cỏ ngày nay. Ba vua
không phải là những người mộng tưởng hay những nhân vật, những
biểu tượng bất thường về tôn giáo; nhưng các ngài là những người
thực tâm chấp nhận hy sinh cả tiền bạc, thời giờ, nghị lực và,
có lẽ cả mạng sống mình để tìm cho ra được người có thể đem lại
hòa bình đích thực.
CỰU
ƯỚC/JERUSALEM, DẤU CHỈ CHO DÂN NGOẠI NHẬN BIẾT CHÚA
Ba vua đã
hoàn toàn không bị lạc trên đường tới Jerusalem. Thị trấn hoa lệ
này cũng không thể làm cho cuộc hành hương của các ông bị ngưng
trệ. Trái lại, từ Jerusalem, họ đã đổi hướng để đi Bethlehem.
Những nhân vật này từ phương Đông, đúng nghĩa là những người
ngoại quốc, họ được hướng dẫn không phải do sự khôn ngoan và
hiểu biết về thiên văn qua các vì sao, mà còn được chỉ bảo bởi
Kinh Thánh / Cựu Ước. Ý nghĩa của cựu ước rất là quan trọng:
Chúa Kitô đã kêu gọi muôn dân của mọi quốc gia, dân ngoại cũng
như dân Do Thái là phải theo Ngài. Chúng ta có thể nói rằng
Jerusalem và Cựu Ước chính là điểm mốc khởi hành đối với dân
ngoại trên đường hành hương đi tìm Niềm Tin vào chúa Giêsu. Dân
chúng trong thị trấn vĩ đại này, và ngay cả chính vua Herod cũng
đã là dụng cụ chỉ đường cho ba nhà đạo sĩ tìm đến với Chúa Kitô.
ĐÂU LÀ ĐIỂM KHỞI
HÀNH CỦA CHÚNG TA ĐỂ TÌM VỀ CHÚA
Việc này có ý
nghĩa gì đối với cuộc hành hương đi tìm sự thật của chúng ta
ngày nay? Quá hiển nhiên rồi, Cựu Ước phải là trung tâm điểm của
cuộc hành trình của chúng ta để đến với chúa Kito; phải chăng
những thị trấn của chính chúng ta, tâm hồn chúng ta với những
hỗn loạn và nghi hoặc, không thể được dùng làm khởi điểm di hành
đi tìm niềm tin của chúng ta?
Trung tâm
điểm của toàn thể câu chuyện Tin Mừng với những tương phản nằm
tại Hài Nhi Giêsu ở Bethlehem chính là Niềm Vui. Herod e
ngại, sợ “dân chúng quá vui mừng”. Anh em đừng sợ, tôi báo
tin mừng trọng đại cho anh em, cũng là tin mừng cho muôn dân..
(Luc 2:10). Theo Tin Mừng thánh Mathew thì chúng ta không
biết cái gì đã xẩy ra cho ba vua khi họ trở về xứ sở của họ,
nhưng chúng ta có thể chắc chắn rằng họ đã thay đổi. Bởi vì họ
đã khám phá ra, thấy rằng ở Jerusalem và Bethlehem không có một
Chúa cho nước này hay nước kia nữa, cũng không có một tiên tri
phát sinh ra ở một miền xa xôi nào đó, nhưng là đã có một Thiên
Chúa là đấng Cứu Chuộc nhân loại đã hiện hình làm người bằng
xương bằng thịt. Đó là đấng Cứu Thế, là Niềm Vui cho nhân loại.
Cuối cùng, ba
vua đã đi theo con đường riêng của mình trở về nước, bởi vì họ
không còn bị mê hoặc hồ nghi nữa, họ cảm thấy ngỡ ngàng vì nỗi
vui mừng quá lớn lao và, ngôi sao dẫn đường cho họ đến đây giờ
này lại hiện ra tiếp tục chỉ đường dẫn lối cho họ đi về. Đây
không phải chỉ là dấu chỉ của thời đại chúa Giêsu sinh ra, mà
còn là dấu chỉ của thời đại ngày nay của chúng ta. Khi chúng ta
tìm ra được niềm vui lâu bền giữa vòng tròn quanh quẩn với những
buồn rầu, nghi hoặc, thất vọng, dửng dưng và vô nghĩa…thì cách
duy nhất phải làm là chúng ta quỳ gối và tôn thờ.
Lạy Ba Vua
(Gaspar, Melchior và Balthasar), xin hãy chúc bình an và ban
lòng khiêm tốn tràn đầy tâm hồn chúng tôi, gia đình chúng tôi!
Khi chúng tôi nghe thấy tiếng gọi của tử thần, của sợ hãi và
nghi hoặc, chớ gì chúng tôi có được can đảm tiếp tục đi theo con
đường của chúng tôi….và vui mừng, bởi vì chúng tôi đã thấy và đã
kinh qua sự huy hoàng cao cả của Thiên Chúa.
ĐÔI LỜI KẾT
Để kết thúc ,
chúng tôi muợn lời thánh nữ Teresa Benedicta Thánh Giá, viết về
mầu nhiệm Giáng Sinh làm lời suy niệm:
“Quì gối
chung quanh hang đá là hình ảnh của Ánh Sáng: Những đứa trẻ đơn
sơ dịu dàng, những mục đồng đầy tin tưởng, những ông vua khiêm
cung, Stephen, môn đệ nhiệt tình, và Gioan, môn đệ của tình
yêu, tất cả những người đã nghe theo tiếng gọi của Chúa. Họ là
kẻ thù của đêm tối cố chấp và mù quáng: các thánh sử là những
người thực sự biết đấng Cứu Chuộc nhân loại sinh ra ở đâu và lúc
nào, nhưng các ngài sẽ không đưa ra kết luận là: ‘Chúng
ta hãy về Bethlehem,’
Vua Herod là người muốn giết Chúa. Con đường tỏa đi từ Chúa Hài
Đồng nơi máng cỏ…..”
Có người chọn
con đường đi đến Sự Sống, có người chọn con đường đi đến Sự
Chết. Ngày nay khi chúng ta rời xa máng cỏ Chúa Hài Đồng là Vua,
xin hãy hy sinh hiến mình cho lý tưởng của cuộc sống là trung
tâm điểm của niềm vui Giáng Sinh. Nhất quyết đi theo con đường
LÝ TƯỞNG, con đường của NIỀM TIN ở Chúa Kitô đã sinh ra làm
người và chịu chết trên thập giá, không để cho thế quyền lung
lạc hoặc chạy theo thế quyền và bả vinh hoa bội phản Chúa.
Fleming
Island, Florida
Jan.5, 2012
NTC |
VỀ MỤC LỤC |
|
Thư Mục vụ của Tòa Giám mục Nha Trang và Thông báo của Tòa Tổng
Giám mục Hà Nội về tiến trình tuyên phong Á thánh và Hiển thánh
cho Vị Tôi tớ Chúa, Đức Hồng y Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận |
WHĐ (11.01.2012) – Tiếp theo Thông báo của Tòa Tổng giám mục TP.HCM liên quan
đến tiến trình phong Á thánh và Hiển thánh cho Vị Tôi tớ Chúa Phanxicô Xaviê
Nguyễn Văn Thuận, Tòa Giám mục Nha Trang và Tòa Tổng Giám mục Hà Nội cũng có Thư
Mục vụ và Thông báo mời gọi mọi người cầu nguyện cho tiến trình này được sớm
hoàn thành cũng như làm chứng về sự thánh thiện và nhân đức của Đức cố Hồng y
Phanxicô Xaviê.
Riêng tại giáo phận
Nha Trang, Đức giám mục giáo phận đã thành lập một Ban đặc biệt
do Đức Ông Tổng đại diện làm Trưởng ban, có nhiệm vụ tìm hiểu,
phổ biến những nét chính yếu về cuộc sống thánh thiện và các
nhân đức anh hùng của Vị Tôi tớ Chúa. Ngoài ra giáo phận Nha
Trang cũng hình thành một phái đoàn nhằm đáp ứng yêu cầu của Toà
Thánh trong tiến trình tuyên phong Á thánh và Hiển thánh cho Đức
cố Hồng y Phanxicô Xaviê.
Theo thông tin của
Tòa Giám mục Nha Trang và Tòa Tổng Giám mục Hà Nội, trong thời
gian ở Việt Nam từ ngày 23 tháng 3 đến ngày 9 tháng 4 năm 2012,
Phái đoàn của Hội đồng Tòa Thánh về Công lý và Hòa bình sẽ đến
Nha Trang từ ngày 29 đến ngày 31 tháng 3 và đến Hà Nội từ ngày 5
đến ngày 7 tháng 4.
Sau đây là Thư Mục
vụ của Tòa Giám mục Nha Trang và Thông báo của Tòa Tổng Giám mục
Hà Nội.
Toà Giám Mục Nha Trang
22 Trần Phú
Nha Trang – Việt Nam
Tel. 058. 3523 842
Fax. 058. 3522 494
E-mail:
tgmntrang@gmail.com
VỀ TIẾN TRÌNH TUYÊN PHONG Á THÁNH VÀ HIỂN THÁNH
CỦA ĐỨC HỒNG Y TÔI TỚ CHÚA PHANXICÔ XAVIÊ NGUYỄN VĂN THUẬN
Kính gửi:
Đức Cha Phaolô,
Đức Ông Tổng đại
diện, Quý Đức Ông,
Quý Cha Đại diện
Giám mục, Quý Cha Quản Hạt,
Quý Cha, Quý Bề trên
các Hội dòng,
Quý Tu sĩ nam nữ,
Chủng sinh và anh chị em giáo dân trong gia đình Giáo phận Nha
Trang,
1. Ngày 22 tháng 10
năm 2010, tại Rôma, theo thỉnh nguyện của Hội Đồng Toà Thánh về
Công Lý và Hoà Bình, Giáo Phận Roma đã chính thức mở án phong Á
thánh và Hiển thánh cho Đức Hồng Y Tôi tớ Chúa Phanxicô Xaviê
Nguyễn Văn Thuận. Ngài đã là Giám Mục Giáo phận Nha Trang từ năm
1967 đến năm 1975 và cho đến cuối đời, Ngài vẫn luôn nhớ đến và
yêu mến Giáo Phận Nha Trang chúng ta. Vì thế, sự kiện Toà Thánh
lập án phong thánh cho Ngài là niềm vinh dự lớn lao cho Giáo Hội
Công Giáo Việt Nam, đặc biệt cho Giáo phận Nha Trang.
2. Theo quy định của
Giáo Hội, để được tuyên phong Á thánh và Hiển thánh, vị Tôi Tớ
Chúa phải được Giáo Hội nhìn nhận là người có danh thơm tiếng
tốt về sự thánh thiện và những nhân đức anh hùng. Giáo Hội muốn
lắng nghe, tìm hiểu và nghiên cứu những chứng từ của các chứng
nhân về Đức Cố Hồng Y Phanxicô Xaviê.
3. Trong lá thư ngày
13 tháng 12 năm 2011 gửi Giám Mục Giáo phận Nha Trang, Đức Hồng
Y Peter K.A.Turkson, Chủ tịch Hội Đồng Toà Thánh về Công Lý và
Hoà Bình cho biết sẽ cử một phái đoàn đến Việt Nam từ ngày 23
tháng 3 đến ngày 9 tháng 4 năm 2012. Phái đoàn dành thời gian từ
ngày 29 đến 31 tháng 3 năm 2012, để gặp gỡ và lắng nghe những
chứng từ của Giáo phận Nha Trang.
4. Để chuẩn bị
cho sự kiện cao cả nầy, tôi quyết định thành lập một Ban của
Giáo Phận Nha Trang. Ban nầy có nhiệm vụ tìm hiểu, phổ biến
những nét chính yếu về cuộc sống thánh thiện và các nhân đức
anh hùng của Vị Tôi tớ Chúa và hình thành một phái đoàn của
Giáo phận Nha Trang nhằm đáp ứng yêu cầu của Toà Thánh trong
tiến trình tuyên phong Á thánh và Hiển thánh cho Đức Hồng y
Tôi tớ Chúa Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận. Thành phần của
Ban này gồm có:
1/ Đức Ông Giuse
Nguyễn Thế Thoại, Tổng đại diện, Trưởng Ban.
2/ Linh mục
Gioan Baotixita Ngô Đình Tiến, Chưởng ấn Toà Giám Mục, Thư
ký.
3/ Linh mục
Gioan Baotixita Lê Ngọc Dũng, Thường trực Tư pháp, Thành
viên.
4/ Linh mục
Giuse Lê Văn Sỹ, Quản Hạt Nha Trang, Quản xứ Chính Toà,
Thành viên.
5/ Linh mục
Phêrô Phạm Ngọc Lê, Giáo sư Đại Chủng Viện Sao Biển, Quản xứ
Ba Làng, Thành viên.
5. Xin tất cả
mọi người trong gia đình Giáo phận, sốt sắng cầu nguyện cho
tiến trình tuyên phong Á thánh và Hiển thánh cho Đức Cố Hồng
Y của chúng ta sớm được hoàn thành. Ngoài ra, những ai muốn
làm chứng về sự thánh thiện và nhân đức của ngài, xin vui
lòng viết thành văn bản và gửi về địa chỉ sau (hạn chót là
ngày 1 tháng 3 năm 2012):
22 Trần Phú - Hộp thư 42 Nha Trang – Việt Nam
6. Nguyện xin Thiên Chúa, qua lời chuyển cầu của Đức
Trinh Nữ Maria Vô nhiễm, Bổn mạng Giáo phận, tuôn đổ
muôn ơn lành hồn xác trên mọi thành phần Dân Chúa trong
Giáo phận Nha Trang thân yêu của chúng ta. Nhân dịp đầu
năm mới 2012 và Xuân Nhâm Thìn sắp tới, xin kính chúc
Đức Cha Phaolô, Đức Ông Tổng Đại diện, quý Đức Ông, quý
anh em Linh mục, quý Tu sĩ nam nữ, chủng sinh và toàn
thể anh chị em tín hữu giáo dân được Phúc, Lộc, Thọ, An
khang và Hạnh phúc.
Nha Trang, ngày
1 tháng 1 năm 2012
Giám Mục Giáo
phận Nha Trang
–––––––––––––––––––––––
TÒA TỔNG GIÁM MỤC HÀ
NỘI
40 Phố Nhà Chung -
Hà Nội
Ngày 06 tháng 01 năm
2012
THÔNG BÁO
Về Tiến Trình Tuyên
Phong Á Thánh và Hiển Thánh
Cho Đức Hồng Y Tôi
Tớ Chúa Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận
Kính gửi: Các linh
mục, tu sĩ nam nữ, chủng sinh và toàn thể anh chị em giáo dân
trong Tổng Giáo Phận Hà Nội.
Kính thưa quí cha,
tu sĩ và anh chị em,
Như chúng ta đã
biết, ngày 22 tháng 10 năm 2010, tại Rôma, theo thỉnh nguyện của
Hội Đồng Tòa Thánh về Công Lý và Hòa Bình, Giáo Phận Roma đã
chính thức mở án phong á thánh và hiển thánh cho Đức Hồng Y Tôi
Tớ Chúa Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận. Ngài đã là Giám Mục Nha
Trang (1967-1975), Tổng Giám Mục Phó Sài Gòn (1975-1994), Phó
Chủ Tịch (1994) và Chủ Tịch Hội Đồng Tòa Thánh Công Lý và Hòa
Bình (1998). Ngài được vinh thăng Hồng Y năm 2001 và qua đời
ngày 16 tháng 9 năm 2002 tại Roma.
Giáo Tỉnh Hà Nội có
quan hệ đặc biệt với ngài vì ngài đã sống tại miền Bắc từ năm
1976 cho đến khi sang Roma năm 1991. Tổng Giáo Phận Hà Nội có
quan hệ mật thiết với ngài vì ngài đã sống tại nhà xứ Giang Xá
từ năm 1978 đến năm 1981 và tại Tòa Tổng Giám Mục Hà Nội từ năm
1988 đến năm 1991. Nhiều linh mục, tu sĩ và giáo dân miền Bắc và
Tổng Giáo Phận Hà Nội đã có vinh hạnh được sống cạnh ngài, gặp
gỡ ngài và biết ngài. Vì thế, sự kiện Tòa Thánh lập án phong
thánh cho ngài là niềm vinh dự lớn lao cho Giáo Hội Công Giáo
Việt Nam, đặc biệt cho Tổng Giáo Phận Hà Nội chúng ta.
Theo quy định của
Giáo Hội, để được tuyên phong á thánh và hiển thánh, vị Tôi Tớ
Chúa phải được Giáo Hội nhìn nhận là người có danh thơm tiếng
tốt về sự thánh thiện và những nhân đức anh hùng. Giáo Hội muốn
lắng nghe, tìm hiểu và nghiên cứu những chứng từ của các chứng
nhân về Đức Cố Hồng Y Phanxicô Xaviê.
Trong thời gian qua,
Tòa Án Giáo Phận Roma đã cử phái đoàn đến nhiều nước trên thế
giới như Pháp, Đức, Hoa Kỳ, Úc châu, để gặp gỡ và lắng nghe các
chứng nhân. Nay phái đoàn sẽ đến Việt Nam từ ngày 23 tháng 3 đến
ngày 9 tháng 4 năm 2012. Phái đoàn sẽ hiện diện ở Hà Nội từ ngày
5 đến 7 tháng 4 năm 2012 để gặp gỡ và lắng nghe những chứng nhân
trong Giáo Tỉnh và Tổng Giáo Phận Hà Nội.
Vì vậy, tôi xin tất
cả mọi thành phần Dân Chúa trong Tổng Giáo Phận sốt sắng cầu
nguyện để tiến trình tuyên phong á thánh và hiển thánh cho Đức
Cố Hồng Y thân yêu của chúng ta sớm được hoàn thành. Ngoài ra,
các linh mục, tu sĩ nam nữ, cũng như anh chị em giáo dân nào đã
từng biết Đức Cố Hồng Y và muốn làm chứng trước phái đoàn của
Tòa Án Giáo Phận Roma về sự thánh thiện và nhân đức của ngài,
xin vui lòng viết thành văn bản (có bao gồm số điện thoại và
email để liên lạc) và gửi về địa chỉ sau (hạn chót là ngày 15
tháng 3 năm 2012):
Linh mục Tôma Aquinô
Nguyễn Xuân Thủy
Tòa Tổng Giám Mục Hà
Nội
40 Phố Nhà Chung, Hà
Nội
Email:
thomasxuanthuy@yahoo.com
Chúng ta hãy cảm tạ
Chúa đã ban cho Hội Thánh mẫu gương và chứng tá anh hùng của Đức
Hồng Y Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận. Ngài đã liên kết những
đau khổ của mình với cuộc khổ nạn của Chúa Kitô chịu đóng
đinh và trở nên một chứng nhân sáng ngời về sự hiệp nhất, yêu
thương và tha thứ, cũng như về công lý và hòa bình.
Xin ngài chuyển cầu
cho Tổng Giáo Phận chúng ta luôn bình an, hiệp nhất, bác ái và
trung thành làm chứng cho Chúa. Ước gì chúng ta thấy ngài sớm
được vinh hiển trên bàn thờ.
Trong Chúa Kitô,
+
Phêrô Nguyễn Văn Nhơn
Tổng Giám Mục Hà Nội
Tòa GM
Nha Trang & Tòa TGM Hà Nội
|
VỀ MỤC LỤC |
|
GIÁO HỘI NÀO LÀ GIÁO HỘI THẬT CỦA
CHÚA KITÔ ?
|
Hỏi
: 1- xin cha giải thích Giáo Hội nào là Giáo Hội thật
của Chúa Kitô
2- Người Công giáo có thể bỏ Giáo Hội để gia nhập Giáo Hội khác
được không?
Trả lời
:
I. Trong
một bài viết trước đây tôi đã có dịp nói đến nhiều Giáo Hội,
giáo phái khác nhau, mặc dù cùng chia sẽ chung niềm tin vào Chúa
Kitô, Đấng đã thiết lập Giáo Hội duy nhất của Người trên đá tảng
Phêrô:
“Anh
là Phêrô, nghĩa là Tảng Đá, trên tảng đá này, Thầy sẽ xây Hội
Thánh của Thầy, và quyền lực tử thần sẽ không thắng nổi.”
(Mt 16:18).
Nhưng Giáo
Hội duy nhất thánh thiện này đã trải qua nhiều sóng gió từ sau
ngày Chúa về trời cho đến nay. Chúa Giêsu đã nhìn thấy trước sự
phân ly trong Thân Thể Nhiệm Mầu của Người là Giáo Hội, cho
nên trước khi chịu khổ hình thập giá, Chúa đã tha thiết cầu xin
Chúa Cha “cho chúng được nên một
như chúng ta là một”
(Ga 17:22).
Hậu quả của
sự ly giáo (schism) trên cho đến nay là sự xuất hiện của các
Giáo Hội Chính thống Đông Phương (Eastern Orthodox Churches) từ
thế kỷ 11, hàng ngàn các giáo phái Tin lành (Protestant
Denominations) và Anh Giáo (Anglican Communion) từ thế kỷ 16.
Ngoài ra,
trong thời hiện đại, còn có âm mưu của một vài chế độ độc tài,
độc đảng, muốn tách Giáo Hội Công Giáo ở các địa phương dưới
quyền thống trị của họ, ra khỏi quyền cai trị và hiệp thông với
Rôma để thành lập các Giáo Hội Quốc Doanh như đã xảy ra ở Trung
Hoa lục địa. Đáng buồn thay là gần đây, có một số giáo sĩ đã
cộng tác với chế độ cai trị khi họ tuân lệnh của nhà nước để
truyền chức giám mục bất hợp pháp ( không có phép của Đức Thánh
Cha) cho vài linh mục quốc doanh, gây khó khăn thêm cho việc hoa
lục muốn cải thiện bang giao với Tòa Thánh. Nhưng đây chỉ là khó
khăn nhất thời,vì đại đa số giáo dân và giáo sĩ ở Hoa Lục vẫn
trung thành với Giáo Hội Mẹ ở Rôma, dù phải đương đầu với bao
khó khăn, bách hại của nhà cầm quyền cộng sản muốn thống trị
Giáo Hội Công Giáo.Chúng ta cầu xin cho Giáo Hội ở những quốc
gia không tôn trọng tự do tôn giáo và tự do hành Đạo này được
thêm kiên cường sống và làm chứng cho Đức Tin KitôGiáo trong khi
vẫn trung thành với Giáo Hội duy nhất mà Chúa Kitô đã thiết lập
trên nền tảng các Thánh Tông Đồ là Giáo Hội Công Giáo hoàn vũ.
Trở lại với
các nhóm tự nhận là Giáo Hội (Church) hay Giáo phái
(Denominations), các nhóm này cho đến nay vẫn chưa muốn hiệp
thông với Giáo Hội Công Giáo và nhận quyền cai trị của Đức Giáo
Hoàng. Vì thế, con đường tiến đến hiệp nhất trong cùng một niềm
tin, một Phép Rửa, một phụng vụ thánh, và một quyền bính cai
trị vẫn còn quá nhiều trở ngại, khó khăn phải vượt qua.
Nhưng cái khó
khắn lớn lao nhất vẫn là làm sao để mọi thành phần trong Giáo
Hội-Giáo phẩm, giáo sĩ, tu sĩ,và giáo dân- được đồng tâm nhất
chí sống trung thực, và làm chứng tá cho Tin Mừng Cứu Độ để
thuyết phục các anh em ly khai mau trở về với Giáo Hộ, cũng như
mời gọi thêm nhiều người chưa biết Chúa được nhận biết để cùng
nhau tôn thờ một Thiên Chúa, tuyên xưng một đức tin và được dẫn
dắt bởi một Mục Tử duy nhất là Đức Thánh Cha.
Về phần mình,
Giáo Hội Công Giáo, qua Hiến Chế tín lý Lumen Gentium của Thánh
Công Đồng Vaticanô II,, đã long trọng tuyên bố: “Giáo Hội độc
nhất của Chúa Kitô được chúng ta tuyên xưng trong Kinh Tin Kính
là duy nhất, thánh thiện, công giáo và tông truyền… Giáo Hội ấy
tồn tại trong Giáo Hội Công Giáo do Đấng kế vị Phêrô và các Giám
Mục hiệp thông với ngài điều khiển.” (x.LG, số 8)
Trung thành
với lập trường này, ngày 10 tháng 7, 2007 trước đây, Thánh Bộ
Giáo Lý Đức Tin (Congregation of Doctrine of the faith) đã công
bố một văn kiện mới, nói rõ về chân lý và đặc tính duy nhất của
Giáo Hội Công Giáo, là Giáo Hội của Chúa Kitô thiết lập như
phương tiện hữu hiệu để chuyên chở ơn cứu độ của Người cho muôn
dân đến tận cùng thời gian. Văn kiên này đã được Đức Thánh Cha
Bênêđíchtô XVI chấp thuận cho công bố để minh xác điều đã được
Thánh Công Đồng Vaticanô II tuyên bố trên đây, cách nay hơn 40
năm về bản tính và mầu nhiệm của Giáo Hội Chúa Kitô. Nói rõ
hơn, Đức Thánh Cha muốn mọi tín hữu Công giáo hiểu rõ là chỉ có
một Giáo Hội duy nhất được Chúa Kitô thiết lập trên nền tảng các
Tông Đồ và Giáo Hội này tồn tại trong Giáo Hội Công Giáo,
dưới quyền cai trị của Đức Giáo Hoàng là người kế vị Thánh
Phêrô, Tông Đồ trưởng.(Mt 16:18-19; Ga 21:15-16). Tuyên ngôn
trên chắc đã không làm hài lòng những anh em đang ở trong các
“Giáo hội hay Giáo phái” ngoài Công Giáo. Tuy nhiên để bảo vệ
chân lý tinh tuyền, Thánh Bộ Giáo Lý Đức Tin không có chọn lựa
nào khác.
Nhưng mặc dù
xác nhận Giáo Hội của Chúa Kitô tồn tại (subsists) trong
Giáo Hội Công Giáo, Công Đồng Vaticanô II cũng không loại bỏ sự
kiện là “bên ngoài cơ cấu của Giáo Hội, còn có nhiều yếu tố
thánh hóa và chân lý. Những yếu tố ấy là những ơn riêng của Giáo
Hội Chúa Kitô, nên cũng thúc đẩy đến sự hiệp nhất công giáo.” (
cf.LG, no.8).
Nói khác đi,
Giáo Hội nhìn nhận có ơn thánh hóa và một số yếu tố chân lý nơi
các Giáo phái ngoài Công Giáo, nhưng Giáo Hội Công Giáo có đầy
đủ phương tiện cứu chuộc của Chúa Kitô đến mức không cần phải
được bổ túc thêm yếu tố nào khác từ các giáo hội hay giáo phái
đang hoạt động bên ngoài Giáo Hội. Mọi chân lý đức tin đã được
Chúa Kitô dạy dỗ và mặc khải trọn vẹn cho các Tông Đồ là nền
tảng của Giáo Hội duy nhất của Chúa trên trần gian này. Vì thế,
chức năng và danh xưng Giáo Hội ( Church) đúng nghĩa chỉ thuộc
về Giáo Hội Công Giáo mà thôi. Riêng với các anh em Chính Thống
Đông Phương, Giáo Hội nhìn nhận họ có chung một truyền thống
tông đồ ( apostolic succession) cũng như có đủ bí tích hữu hiệu
như Công Giáo, nhưng không vì thế mà họ là Giáo Hội chính danh
như Giáo Hội Công Giáo, hay là một Giáo Hội thứ hai khác mà
Chúa Kitô đã thiết lập từ đầu. Sỏ dĩ họ chưa hiệp nhất được với
Giáo Hội Công Giáo vì có những bất đồng về tín lý từ năm 1054
cho đế nay, và đặc biết là về quyền bính của Đấng thay mặt Chúa
Kitô để lãnh đạo Giáo Hội là Đức Thánh Cha, Thủ lãnh Giáo Hội
Công Giáo hoàn vũ.
Trong hoàn
cảnh còn phân ly hiện nay, Giáo Hội tha thiết mong tiến đến hiệp
nhất với tất cả các anh em còn ở các “giáo hội” ngoài Công
Giáo, đặc biệt là anh em Chính Thống Đông Phương, vì các anh
em này gần Giáo Hội Công Giáo hơn tất cả mọi giáo phái mang danh
Kitô khác.Giáo Hội mong muốn sớm đạt được sự hiệp thông sâu xa
và trọn vẹn với tất cả mọi anh em còn ly khai để cùng nhau
tuyên xưng một đức tin, một Phép Rửa và tôn trọng một uy quyền
cai trị.
Kết quả cho
đến nay, nhờ Chúa Thánh Thần thúc đẩy, một số tiến bộ đã đạt
được trong nỗ lực hiệp nhất các Kitô hữu. Cụ thể, trong hai năm
qua một số đông các giáo sĩ và tín hữu Anh Giáo ( Anglicans)đã
xin gia nhập Giáo Hội Công Giáo. Và để đón mừng họ và tạo điều
kiện thuân lợi cho họ sống đức tin hiệp thông với Giáo Hội Công
Giáo, Đức Thánh Cha Bê-nê-đich tô XVI, ngày 9-11-09, đã ban
hánh Tông Thư Anglicanorum, cho phép thành lập các Giáo hạt
Tòng nhân cũng như cho phép các cựu tín hữu Anh giáo được duy
trì một số nghi thức phụng vụ theo truyền thống văn hóa của họ
trong khi hiệp thông với Giáo Hội Công giáo về mọi phương diện
khác. Giáo hạt tòng nhân có nghĩa là Giáo hạt được thành lập nơi
có các cựu tín hữu Anh Giáo sống đạo trong lãnh thổ của một Giáo
Phận Công Giáo Anh Quốc. Giáo hạt Tòng nhân đầu tiên là Giáo hạt
Đức Mẹ Washingham dành cho các cựu Anh Giáo ở Anh và xứ Wales.
Giáo Hạt này được trao cho cha Keith Newwton coi sóc. Ngài là
một trong ba giám mục Anh Giáo được thụ phong Linh mục Công Giáo
ngày 15-1-2011.Sở dĩ các cựu giáo sĩ Anh giáo như Giáo mục và
linh mục phải được huấn luyện thêm và chịu chức linh mục Công
Giáo vì Giáo Hội không công nhận việc truyền chức của Anh Giáo
và các giáo phái ngoài Công Giáo.Chỉ có điểm đặc biệt là các cựu
giáo sĩ Anh Giáo, sau khi được chịu chức linh mục Công Giáo, vẫn
được phép sống với vợ con, như họ đã sẵn có gia đình từ trước
khi gia nhập Công Giáo , nên họ được miễn trừ giữ luật độc thân(
celibacy)vẫn áp dụng nghiêm ngặt cho hàng giáo sĩ tu sĩ Công
Giáo.
Về phần các
Giáo Hội Chính Thông Đông Phương thì năm 2010, Đức Thánh Cha
Bê-nê-đíchtô XVI đã sang thăm viếng Thổ Nhĩ Kỳ, và đã có cuộc
gặp gỡ thân mật với Thượng Phụ Giáo Chủ Chính Thống ở Istanbul.
Riêng Giáo Hội Chính Thông Nga thì chưa tỏ dấu muốn xích lại gần
Rôma vì họ cho rằng Giáo Hội Công Giáo muốn "lôi kéo" tín hữu
Chính Thống Nga vào Công Giáo La Mã.
Chúng ta tiếp
tục cầu xin cho sự hiệp nhất của các giáo phái còn chưa muốn
hiệp thông với Giáo Hội Công Giáo duy nhất của Chúa Kitô trên
trần thế này.
II. Tín
hữu Công giáo
có được từ bỏ Giáo Hội để gia nhập các giáo phái khác hay không?
Thực tế cho
thấy là có nhiều tín hữu thuộc các tôn giáo hay giáo hội khác đã
gia nhập Giáo Hội Công Giáo. Và ngược lại, cũng có nhiều người
Công giáo đã bỏ Đạo để theo Tin lành hay các giáo hội khác hoặc
trở thành vô thần (atheist). Dĩ nhiên, không ai có quyền cấm
đoán việc này vì con người có lý trí và tự do mà chính Thiên
Chúa còn tôn trọng. Tuy nhiên, để bảo vệ chân lý của Chúa và vì
muốn chăm lo cho phần rỗi của đoàn chiên được trao phó cho mình
coi sóc, Giáo Hội Công Giáo đã tha thiết noi gương Chúa Kitô,
Đấng Chăn Chiên lành không muốn mất một con chiên nào, dù phải
bỏ 99 con phía sau để đi tìm con chiên bị lạc. Trong tinh thần
và mục đích đó, Giáo Hội cố gắng rao giảng giáo lý tinh tuyền
của Chúa Giêsu và làm chứng cho những chân lý ấy để củng cố đức
tin của mọi tín hữu trong Giáo Hội và mời gọi người khác tin và
gia nhập đoàn chiên duy nhất của Chúa Kitô dưới quyền chăn dắt
của Chủ Chiên duy nhất là Đức Thánh Cha, Người kế vị Thánh Phêrô
trong trách nhiệm lãnh đạo Giáo Hội Công Giáo hoàn vũ.
Mặt khác,
cũng vì tin tưởng vững chắc rằng Giáo Hội của Chúa Kitô, tồn
tại trong Giáo Hội Công Giáo, là phương tiện cứu rỗi cần thiết
cho mọi người, nên Giáo Hội cũng dạy rằng : “Vì thế, những
ai biết Giáo Hội Công Giáo được Thiên Chúa thiết lập nhờ
Chúa Kitô mà vẫn không muốn gia nhập hoặc kiên trì sống trong
Giáo Hội này thì không thể được cứu rỗi.” (LG, số.14.)
Nói khác đi,
những tín hữu đã gia nhập Giáo Hội Công Giáo qua phép rửa và
phép thêm sức cũng như đã được nuôi dưỡng bằng Mình Máu Chúa
Kitô qua Phép Thánh Thể, thì được mời gọi và mong đợi kiên trì
sống đức tin, đức cậy và nhất là đức ái trong Giáo Hội để được
cứu rỗi. Nhưng được rửa tội và gia nhập Giáo Hội mới chỉ là
bước đầu cần thiết tiến đến ơn cứu rỗi mà thôi. Bước kế tiếp
quan trọng hơn là phải thực thi và kiên trì sống những đòi hỏi
của Phép Rửa: đó là yêu mến Chúa trên hết mọi sự, yêu thương anh
chị em như Chúa Giêsu đã dạy và cộng tác với ơn thánh để chừa bỏ
mọi tội lỗi, xa lánh mọi gian tà, độc ác và dâm ô đầy rẫy ở mọi
môi trường xã hội ngày nay.. Nếu không thực hành tốt bước thứ
hai này thì dù có ở trong Giáo Hội cũng vô ích mà thôi, vì “tuy
thể xác họ thuộc về Giáo Hội nhưng tâm hồn họ không ở
trong Giáo Hội” (LG. số 14).
Đó là tình
trạng của những người Công giáo chỉ có tên chứ không có thực
hành, đang sống nửa nóng nửa lạnh, một tình trạng mà Chúa Kitô
đã nghiêm khắc cảnh cáo như sau trong Sách Khải Huyền:
"Ta biết
việc các ngươi làm, biết ngươi được tiếng là đang sống mà thực
ra đã chết. Hãy thức tỉnh, Hãy củng cố chút sức còn lại đang suy
tàn., vì Ta nhận thấy các việc của ngươi không được hoàn hảo
trước mặt Thiên Chúa của Ta..."( Kh 3 : 1-2)
Như vậy đủ
cho thấy là nếu không tha thiết sống Đạo trong Giáo Hội Công
Giáo mà cứ nửa nóng nửa lạnh như thực trạng của nhiều tín hữu
ngày nay, thì dù đã chịu phép Rửa và gia nhập Giáo Hội cũng
không ích gì cho phần rỗi của ai, như Chúa đã cảnh cáo thêm sau
đây:
" Ta biết
các việc ngươi làm: ngươi chẳng nóng mà cũng chẳng lạnh. Phải
chi ngươi lạnh hẳn hay nóng hẳn đi. Nhưng vì ngươi hâm hâm chẳng
nóng chẳng lạnh, nên Ta sắp mửa ngươi ra khỏi miệng Ta." (
Kh 3: 15-16)
Mặt khác,
những ai từ bỏ Giáo Hội để gia nhập các giáo phái khác thì cũng
tương tự như trên. Lý do là, tuy bên ngoài Giáo Hội, có thể có
một số yếu tố thánh hóa và chân lý nơi các tôn giáo khác, nhưng
chỉ trong Giáo Hội của Chúa Kitô, ví như con Tàu ông Noe của
thời Tân Ước, mới có đầy đủ mọi phương tiện cứu rỗi hữu hiệu là
các bí tích mà thôi. Như vậy, không nên vì một bất mãn nào đó
với ai, mà người tín hữu Công giáo có thể từ bỏ Giáo Hội, không
muốn sống đức tin Công Giáo nữa để đi tìm phương tiện cứu rỗi ở
nơi không có phương tiện hữu hiệu này, thì chắc chắn sẽ không
tìm được như Công Đồng đã dạy trên đây.
Tóm lại, chỉ
có một Giáo Hội duy nhất của Chúa Kitô tồn tại trong Giáo Hội
Công Giáo, là phương tiện hữu hiệu chuyên chở ơn cứu độ của
Chúa đến cho mọi người cho đến ngày cánh chung tức ngày mãn
thời gian mà thôi.
Chúng ta cùng
cảm tạ Chúa đã thiết lập Giáo Hội như Con Tàu cứu sống chúng ta
trong cơn đại hồng thủy mới đang cuồn cuộn nổi lên để cuốn sâu
vào lòng đại dương mọi sinh vật đang trôi dạt bên ngoài Con tầu
cứu nguy này.
Lm Phanxicô
Xaviê Ngô Tôn Huấn
|
VỀ MỤC LỤC |
|
“NGƯƠI MÀ XÂY NHÀ CHO TA SAO ?”
|
Vào Chúa
Nhật thứ tư Mùa Vọng năm B, chúng ta có bài đọc trích trong sách
Samuen: “Khi vua Đavít được yên cửa yên nhà, và Đức Chúa đã cho
vua được thành thơi mọi bề, không còn thù địch nào nữa, thì vua
nói với ngôn sứ Nathan: “Ông xem, tôi được ở trong nhà bằng gỗ
bá hương, còn Hòm Bia Thiên Chúa thì ở trong lều vải”. Ông
Nathan thưa với vua… Nhưng ngay đêm ấy, có lời Đức Chúa phán với
Nathan rằng: “Hãy đi nói với tôi tá của Ta là Đavít: Đức Chúa
phán thế này: “Ngươi mà xây nhà cho Ta ở sao ?…”
Ở một chỗ khác, chúng ta đọc được
một lời của Chúa trong sách Isaia, chương 66: “ĐỨC CHÚA phán thế
này: "Trời là ngai của Ta, và đất là bệ dưới chân Ta. Các ngươi
sẽ xây cho Ta nhà nào, và nơi nào sẽ là chốn Ta nghỉ ngơi ?”
Chúng ta thấy Đavit rất chân thành
trong việc xây Nhà cho Thiên Chúa, ông thao thức vì chưa xây
được Đền Thờ, ông trăn trở vì ông đã yên vị nhà cửa mà Hòm Bia
vẫn còn ở lều. Nhưng phản ứng của Thiên Chúa khác với điều ông
nghĩ, Thiên Chúa không cần những căn nhà xây bằng gạch bằng đá,
cho dù những căn nhà ấy sang trọng đến đâu, to lớn đến đâu cũng
không sánh bằng trời bằng đất. “Trời là ngai Ta ngự, đất là bệ
dưới chân Ta”.
Tin Mừng hôm nay đề cập đến hình
ảnh một người nữ, một người nữ tuyệt vời của nhân loại, Thiên
Chúa đã chọn người nữ ấy làm Đền Thờ của Ngài, làm nơi ẩn náu
của Ngôi Hai giáng trần, làm ngôi nhà của Thiên Chúa. Bài đọc
một trong sách Samuen trở nên nền tảng giúp chúng ta hiểu bài
Tin Mừng sâu hơn: Thiên Chúa muốn tấm lòng của mỗi người chúng
ta, Thiên Chúa cần nơi chúng ta sự thành tín, thủy chung và
thuộc về Thiên Chúa, chỉ mình Thiên Chúa mà thôi.
Xây Đền Thờ to lớn sẽ là vô ích
nếu chúng ta không xây tâm hồn mình nên Đền Thờ cho Thiên Chúa
ngự, xây Đền Thờ sang trọng sẽ là vô ích nếu lòng ta không thủy
chung với Thiên Chúa, không thuộc về Thiên Chúa trọn vẹn.
Ngày nay, nhiều nơi chúng ta chứng
kiến việc xây Nhà Thờ quá to lớn, ch ọn kiểu dáng quá lập dị,
trang hoàng quá sang trọng, không hiểu Thiên Chúa có chấp nhận
như vậy không ? Tình trạng có nhiều nơi, Nhà Thờ to lớn xa xỉ
phí phạm trong khi lại có quá nhiều nơi không xây nổi một Nhà
Thờ nho nhỏ, nhiều nơi còn không được phép xây Nhà Thờ, cho dù
chỉ là xây Nhà Thờ bằng vài khung gỗ và che bằng vài tấm bạt.
Tôi đã đi qua nhiều nơi Thánh Lễ
được dâng vội vàng trong một lò gạch, hoặc một góc ẩn phía sau
những căn nhà khác và lùi sâu trong một góc vườn, hoặc quây quần
giải tội và dâng lễ trong một căn hầm chật chội. Lại có những
ngôi Nhà Nguyện hôm nay tập họp để dâng lễ ngày mai bị giật
xuống vì đã “phạm tội”… xây dựng trái phép !
Tôi đã đến những nơi anh em kéo
nhau ra chặn chúng tôi lại van xin chúng tôi… “cho lễ” vì “quá
lâu rồi chúng con không được gặp Linh Mục”.
Tôi đã được xem đoạn video trên
mạng về một Nhà Nguyện, bên trong đang dâng lễ, bên ngoài người
ta kéo đến rất đông, khủng bố tinh thần Dân Chúa bằng cách cầm
loa la hét phản đối việc “tụ tập tôn giáo bất hợp pháp”.
Tôi đã đọc các bài tường thuật về
việc cố gắng bảo vệ nền cũ của Nhà Thờ, bảo vệ bức tường cũ kỹ
của Nhà Thờ nhỏ bé, không để cho người ta đào mương dưới chân
tường, thế mà lại bị đánh đập khổ sở, bị đe dọa, bị “Bề Trên”
bịt miệng không cho rên xiết… Vậy thử nghĩ Chúa có vui lòng vào
ngự trong những Đền Thờ to lớn hoành tráng kia không ?
Có người “khôn ngoan” dạy chúng
tôi cách nào hay nhất để có được đất xây Nhà Thờ, để được “cấp
lại” những ngôi nhà cũ của chính mình nay đang bị chiếm lấy, con
đường “pháp luật” bề mặt nhưng cần phải “cảm thông” bề trong,
muốn có đất có nhà thì cần phải chịu khó “bôi trơn” bộ máy cứu
xét, thường thì 50/50, cách ấy nhẹ nhàng, đẹp cả đôi bề, hai bên
đều có lợi, cái lợi nhất là ta có được đất để xây Nhà Thờ. Thế
nhưng, tôi tự hỏi: đất và nhà có được bằng kiểu cách đó có còn
là “đất sạch”, có còn là “nhà sạch” để thờ phượng Thiên Chúa
không ? Thiên Chúa có còn vui lòng ngự vào nơi chốn nhiều mánh
lới thủ đoạn thế gian như thế không ?
Đavit xưa
lòng dạ chân thành, của cải để xây dựng Đền Thờ bằng chính sự
đóng góp của toàn dân, đất chính là đất Chúa ban cho như lời đã
hứa, thế mà Chúa còn đặt điều kiện trước khi chấp thuận, Chúa
còn buộc phải tín trung với Chúa, tay sạch và lòng thanh đã, khi
đó Đền Thờ xây dựng mới được chấp thuận, vậy thì chắc gì cái
loại đất mua bằng các kiểu “lobby” dối trá, bất công, đen tối,
gian giảo xứng đáng để xây Đền Thờ ? Chúa không cần Đền Thờ vì
trời là ngai Chúa ngự, đất là bệ dưới chân Chúa, đừng buôn thần
bán thánh với quân vô đạo làm nhơ nhớp danh Chúa. Tệ hơn nữa đất
đó lại mua bằng sự vô cảm, sự bán đứng chính anh em mình bằng
một liên minh với “ngoại bang”, hỏi loại đất đó sẽ nhơ nhớp đến
độ nào ?
Lm. VĨNH SANG, DCCT, 18.12.2011
(Ephata 488)
|
VỀ MỤC LỤC |
|
CHUYẾN XE ĐÒ |
Dịch giả Hoàng Hưng đã chuyển
ngữ câu chuyện thương tâm có thật
đã xảy ra tại Trung Quốc như sau.
Một chiếc xe
bus chở đầy khách đang chạy trên đường đồi. Giữa đường, ba thằng
du côn có vũ khí để mắt tới cô lái xe xinh đẹp. Chúng bắt cô
dừng xe và muốn “vui vẻ” với cô. Tất nhiên là cô lái xe kêu cứu,
nhưng tất cả hành khách trên xe chỉ đáp lại bằng sự im lặng. Lúc
ấy một người đàn ông trung niên nom yếu ớt tiến lên yêu cầu ba
tên du côn dừng tay; nhưng ông đã bị chúng đánh đập. Ông rất
giận dữ và lớn tiếng kêu gọi các hành khách khác ngăn hành động
man rợ kia lại nhưng chẳng ai hưởng ứng. Và cô lái xe bị ba tên
côn đồ lôi vào bụi rậm bên đường. Một giờ sau, ba tên du côn và
cô lái xe tơi tả trở về xe và cô sẵn sàng cầm lái tiếp tục lên
đường…
“Này ông kia,
ông xuống xe đi!” Cô lái xe la lên với người đàn ông vừa tìm
cách giúp mình.
Người đàn ông
sững sờ, nói: “Cô làm sao thế? Tôi mới vừa tìm cách cứu cô, tôi
làm thế là sai à?”
“Cứu tôi ư?
Ông đã làm gì để cứu tôi chứ?” Cô lái xe vặn lại, và vài hành
khách bình thản cười.
Người đàn ông
thật sự tức giận. Dù ông đã không có khả năng cứu cô, nhưng ông
không nên bị đối xử như thế chứ. Ông từ chối xuống xe, và nói:
“Tôi đã trả tiền đi xe nên tôi có quyền ở lại xe.”
Cô lái xe
nhăn mặt nói: “Nếu ông không xuống, xe sẽ không chạy.”
Điều bất ngờ
là hành khách, vốn lờ lảng hành động man rợ mới đây của bọn du
côn, bỗng nhao nhao đồng lòng yêu cầu người đàn ông xuống xe, họ
nói: “Ông ra khỏi xe đi, chúng tôi có nhiều công chuyện đang chờ
và không thể trì hoãn thêm chút nào nữa!”
Một vài hành
khách khỏe hơn tìm cách lôi người đàn ông xuống xe. Ba tên du
côn mỉm cười với nhau một cách ranh mãnh và bình luận: “Chắc tụi
mình đã phục vụ cô nàng ra trò đấy nhỉ!”
Sau nhiều lời
qua tiếng lại, hành lý của người đàn ông bị ném qua cửa sổ và
ông bị đẩy ra khỏi xe. Chiếc xe bus lại khởi tiếp hành trình. Cô
lái xe vuốt lại tóc tai và vặn radio lên hết cỡ. Xe lên đến đỉnh
đồi và ngoặt một cái chuẩn bị xuống đồi. Phía tay phải xe là một
vực thẳm sâu hun hút. Tốc độ của xe bus tăng dần. Gương mặt cô
lái xe bình thản, hai bàn tay giữ chặt vô lăng. Nước mắt trào ra
trong hai mắt cô. Một tên du côn nhận thấy có gì không ổn, hắn
nói với cô lái xe: “Chạy chậm thôi, cô định làm gì thế hả?” Cô
tài xế vẫn không đáp lại lời nào. Tên du côn tìm cách giằng lấy
vô lăng, nhưng chiếc xe bus lao ra ngoài vực như mũi tên bật
khỏi cây cung.
Hôm sau, báo
địa phương loan tin một tai nạn bi thảm xảy ra ở vùng “Phục Hổ
Sơn”. Một chiếc xe cỡ trung rơi xuống vực, tài xế và 13 hành
khách đều thiệt mạng.
Người đàn ông
đã bị đuổi xuống xe đọc tờ báo và khóc. Không ai biết ông khóc
cái gì và vì sao mà khóc!
* * *
Mời bạn đặt
mình vào chuyến hành trình ấy để thử nhìn xem mình phản ứng ra
sao trong sự kiện trên.
Quan sát hoàn
cảnh, ta có thể nhận thấy có ba giai đoạn xảy ra sự kiện trong
câu chuyện. Hoàn cảnh thứ nhất, bạn chứng kiến cảnh cô gái kêu
cứu bạn, nhưng bạn không đáp trả lời kêu cứu ấy. Cảnh thứ hai,
bạn chứng kiến người đàn ông đã can đảm một mình đứng lên bênh
vực cho người yếu thế. Ông cũng kêu gọi sự trợ giúp của bạn,
nhưng bạn cũng làm ngơ. Cảnh thứ ba, bạn chứng kiến cảnh cô tài
xế đuổi người đàn ông ra khỏi xe (theo suy nghĩ thông thường, cô
tài xế đã hành xử bất công, nhẫn tâm), trong cảnh này, bạn cũng
lại im lặng, và thậm tệ hơn, có khi bạn lại nằm trong số hùa
theo đám đông xô người đàn ông ra khỏi xe để xe chạy cho tới nơi
của bạn.
* * *
Người sống
đúng với giá trị làm người của mình thường phải lội ngược dòng.
Động cơ nào mà người đàn ông trong câu chuyện trên đã sống ngược
dòng như vậy? Khi con người trở về với căn tính thật của mình,
họ sẽ có khả năng nhận ra ý nghĩa và mục đích của đời họ. Tự
trong sâu thẳm lương tâm của mỗi người, tiếng gọi sống vì lý
tưởng công bằng luôn luôn mạnh mẽ. Hay nói cách khác, người sống
căn tính thật với lòng mình họ sẽ dễ nhạy bén nhận ra sự bất
công đang xảy ra xung quanh họ. Khi đã nhận ra tiếng lương tâm
này, họ có sức mạnh phi thường để đứng lên bảo vệ cho người bị
bất công mà không hề nghĩ tới hậu quả sẽ xảy đến với chính mình.
Đây chính là đặc điểm cao quí của loài người mà các loài thú vật
không có được (hoặc nếu chúng có, thì chúng cũng chỉ phản ứng
theo bản năng của mối liên hệ mẹ-con).
Vấn đề đặt ra
là làm sao chúng ta luyện lương tâm chúng ta nhạy bén được như
thế? Hằng ngày, nếu bạn tập nghĩ đến người khác, nếu bạn lắng
nghe hoàn cảnh người khác với trái tim thông cảm, nếu bạn đặt
hoàn cảnh của mình vào những con người đang đau khổ mà chúng ta
gặp thấy hằng ngày qua báo chí, truyền hình, một lúc nào đó
lương tâm cũa bạn sẽ nhạy bén hơn đối với vấn đề bất công, nghèo
đói trong xã hội loài người. Vậy rào cản nào đã làm cho chúng ta
ít suy nghĩ tích cực và cảm thông với người khác? Thưa, đó là vì
chúng ta tập trung suy nghĩ về chúng ta thái quá; và chúng ta
cũng thường xét đoán về người khác. Hoặc quá bận tâm lo cho
chính ta, hoặc xét đoán “đúng sai” về người khác là cản trở lớn
cho chúng ta vươn ra khỏi cái tôi để học chia sẻ với người khác
– đó cũng chính là lối suy nghĩ tiêu cực, nhỏ nhen mà ít khi
chúng ta để ý tới.
Mục Sống
Sao Cho Đẹp mời bạn ví thử đời mình là một người hành khác
trong chuyến xe đò của môi trường mình đang làm việc, của cộng
đồng mình đang sinh hoạt, của đất nước mình đang sinh sống. Bạn
có thấy hoàn cảnh tương tự như câu chuyện trên không? Nếu bạn
không thấy, mời bạn tập suy nghĩ về người khác, tập quan tâm về
người khác, tập đặt minh trong hoàn cảnh của những người đang bị
bất công, bị đau khổ mà chúng ta gặp được trong cuộc sống. Nhưng
nếu bạn đã thấy những cảnh bất công tương tự như trong câu
chuyên, bạn sẽ làm gì sau khi đọc câu chuyện này?
Br.
Huynhquảng
|
VỀ MỤC LỤC |
|
TÌM HIỂU HUẤN DỤ XÃ HỘI CỦA GIÁO
HỘI (2)
|
NGUYỄN HỌC TẬP
Ý thức hệ công giáo (
1891-1931).
Năm 1891, Thông
Điệp Rerum Novarum của Đức Thánh Cha Leo XIII chính
thức mở đầu Huấn Dụ Xã
Hội của Giáo Hội.
Thông Điệp được viết ra
trong bối cảnh chạm trán thẳng thừng giữa Giáo Hội và thế giới
hiện trạng lúc đó.
Đó là một thế giới được
sinh ra, trong suốt thế kỷ 16 với R. Descartes, G. Gallilei,
J. Bodin, P. Bacon, H. Grotius, J. Locke và lớn lên trong
thế kỷ 17 với thiên khải chủ nghĩa ( illuminismo).
Đó là một thế giới trần
tục, được sinh ra bên ngoài và chống lại Giáo Hội,
- không phải chỉ nhằm
cất bỏ đi những đặc ân cổ truyền mà Giáo Hội được dành cho,
- mà còn quyết tâm
nhằm giảm thiểu các quyền và tự do của Giáo Hội, bằng cách đặt
Giáo Hội ra bên lề đời sống công cộng của xã hội, loại trừ đi
chính đức tin tôn giáo, nếu có thể, bằng cách dùng những lập
luận có tính cách triết lý, lịch sử và khoa học.
Đó là một thể giới
hoàn toàn
- đặt tin tưởng
của mình vào lý trí ,
được coi như " thần tượng "
- và vào tự do
tư tưởng và tự do lương tâm, như là ngọn cờ biểu hiệu chống lại
" tín lý chủ nghĩa Roma
" ( dogmatismo romano ).
Trưóc thái độ không có
gì thân thiện đó, Giáo Hội phản ứng bằng cách đóng kín lại quanh
mình và đoạn giao với thế giới bên ngoài.
Bối cảnh công giáo
lúc đó là bối cảnh đang bị bao trùm bởi một bầu không khí của "
một thành phố bị bao vây ", cộng đồng Ki Tô giáo là "
một pháo đài đóng kín ".
Chúng ta chỉ cần nhắc
lại các " vạ tuyệt thông " của Đức Giáo Hoàng Gregorio
XVI
- chống lại "
tự do báo chí tệ hại
nhứt cũng như chưa bao giờ ghê tởm đủ và nôn mửa đủ "
-
và chống lại "
tư tưởng vô lý và sai lầm, hay
đúng hơn là cơn hôn mê ( deliberamentum), đứng ra nhìn nhận và
bảo đảm cho mỗi người có tự do lương tâm " ( ĐTC Gregorio XVI,
Mirari vos ( 1832), in Tutte le encicliche dei sommi Pontefici
raccolte e annotate da E. Momigliano, Dall'Oglio, Milano 1959m
192).
Các vạ tuyệt thông đó,
đúng lý hay không, cũng là những biểu tượng cho thấy mối liên hệ
rách nát giũa Giáo hội và thế giới tân tiến lúc đó.
- " Cần phải lên
án, tài liệu của ĐTC Pio IX, bất cứ ai cho rằng Giáo
Hoàng Roma ( = Giáo Hội ) có thể và phải hoà hợp lại với tân
tiến chủ nghĩa ( modernismo) , với tự do chủ nghĩa (
liberalismo) và với văn minh hiện đại " ( ĐTC Pio IX, Sillabo,
prop. n. 80, in Denz. Humer, 2980).
Cơ hội để phá vở
đi tình trạng bị vây hảm và bất thông thương nầy, đó là " vấn
đề xã hội ", được nổi lớn lên nhân dịp " cách mạng kỷ
nghệ ".
Vào cuối thế kỷ XIX, "
vấn đề xã hội " được hiểu đồng nghĩa với " vấn đề
lương bổng công nhân ". Biến cố kỷ nghệ hoá, được thực hiện
bằng việc hội nhập máy móc vào chu kỳ sản xuất tạo ra tình trạng
thảm đạm vô nhân đạo đối với giới vô sản, bị bỏ rơi mặc kệ họ và
cho túi tham không đáy của giới tư bản: đông đảo nam nữ công
nhân và thợ thuyền, kể cả trẻ vị thành niên bị bắt buộc phải bán
sức lao động để sống còn - không có được một sự bảo đảm nào của
cơ chế quốc gia. Việc làm bị coi là một món hàng, như bất cứ
hàng hoá nào khác, với đồng lương chết đói với mức đê tiện hoá
con người và bốc lột không thể nói được.
Như vậy " vấn đề công
nhân " trở thành cơn thử thách, trong đó đối đầu nhau hai ý
thức hệ quan trọng của thế kỷ 18: tự do chủ nghĩa (
liberalismo ) và mác xít chủ nghĩa ( marxismo).
Đó là hai nhãn quang
toàn diện ( visioni globali ) và toàn trị ( totalizzanti) về
cuộc sống con người, xã hội và lịch sử. Đối đầu nhau và không
thể nào kết hợp hoà giải với nhau được. Đó là hai loại triết lý
đối đầu và chiến đấu tiêu diệt nhau. Cả hai đều thoát xuất từ
chính nền văn hoá duy vật của thế giới tiến bộ lúc đó.
1 - Nảy sinh Huấn Dụ Xã Hôi của
Giáo Hội.
Trước nguy cơ xã hội kỷ
nghệ mới vừa chớm nở có thể bị thống trị bởi duy vật chủ nghĩa,
Giáo Hội cảm thấy mình có cách hiện diện mới trong xã hội con
người.
Tuy vậy, Thông Điệp
Rerum Novarum không phải đột nhiên được viết ra. Trong Thông
Điệp " về vấn đề công nhân " của mình, Đức Thánh Cha Leo
XIII thu nhận kết quả chín mùi hơn của một lương tâm xã hội mới.
mà một thời gian qua đã được xác nhận khắp đó đây trong Giáo
Hội.
Chúng ta không sao
qưên được những khuôn mặt cao qúy của các Giám Mục, như von
Ketteler ở Đức, Manning ở Anh, Gibbona ở Mỹ, Mermillod ờ Thụy
Sĩ, Bonomelli ở Ý. Đồng thời cũng có nhiều tín hữu giáo dân
gia nhập trận chiến, đó là những người tích cực dấn thân vào các
động tác xã hội, như von Vogelang ở Áo, La Tour du Pin và L,
Harmel ở Pháp, hoặc là vào các việc nghiên cứu khoa học
trong các Trung Tâm Nghiên Cứu, như
Hiệp Hội Nghiên Cứu ở Fribourg và
Liège Thụy Sĩ và Hiệp Hội Nghiên Cứu ở Ý Quốc.
Như vậy đứng trước duy
vật triết lý của tự do chủ nghĩa và mác xít chủ nghĩa, Giáo Hội
không còn ngần ngại chần chờ và xác nhận lại vị trí thượng đẳng
của nền triết học Ki Tô giáo.
Đây thật là một ý thức
hệ công giáo đích thực và chính đáng xuất hiện để đương đầu lại
ý thức hệ tự do chủ nghĩa và xã hội chủ nghĩa.
Ngày nay đề đọc lại
Thông Điệp Rerum Novarum chúng ta có thể lấy làm lạ là tại
sao để giải quyết " vấn đề công nhân ", Thông Điệp chỉ
đưa ra những nguyên lý triết học và luân lý dưới nhãn quang Ki
Tô giáo về xã hội.
Tuy nhiên chúng ta cần
lưu ý là toàn diện tư cưởng công giáo, liền trước và sau Thông
Điệp Rerum Novarum, đều mang dấu chứng là đặt nặng vấn đề suy tư
triết học và luân lý.
Chính Đức Thánh Cha
Leo XIII đã mang theo mình vào triều đại giáo hoàng điều lo
lắng tiên phuông về giá trị chủ thuyết, sau khi đã thu nhận được
từ các vị thầy như Cha M. Lieratore và ĐHY T.M. Zigliara.
Những năm trước đó Cha Taparelli d'Azeglio với bài xã
luận Saggio teorico di diritto naturale appogiato sul fatto (
1843), đã khởi đầu trước một " phong trào về nguồn ",
trở lại các " nguyên tắc bất di dịch " của luật tự nhiên,
như là phản ứng chống lại tiến trình thế tục hoá của tư tưởng
tân tiến lúc đó, chỉ muốn hạn hẹp các nguyên tắc luân lý vào
lãnh vực lương tâm riêng tư của mỗi cá nhân.
Nhưng thái độ chọn lựa "
về nguồn ", trở lại nền tảng giáo lý tư tưởng xã hội Ki
Tô giáo cũng mang một khía cạnh tiêu cực: đó là không đánh giá
đủ giá trị các việc thăm dò định chuẩn xã hội học và những kết
quả các khoa học nhân văn tích cực.
Với trào lưu của việc
tái phát sinh nền triết học bất diệt ( tân kinh viện,
neo-scolastique), quan niệm cổ về các mối liên quan trong xã
hội là những gì thuộc về lãnh vực riêng tư được tái phát sinh.
Bởi đó nhiều người công
giáo xác tín rằng triết học bất diệt Ki tô giáo một khi được
thiết lập lại, sẽ có thừa khả năng để giải quyết tận gốc rễ "vấn
đề xã hội " , ngay cả trong các lãnh vực kinh tế và kỷ thuật
( M. Liberatore, Principi di economia politica ( 1889).
Những gì vừa kể có thể
giải thích được tại sao Thông Điệp Rerum Novarum đặt nặng
vấn đề giáo lý ( dottrinale) là nguyên tắc để giải đáp cho
các thách thức của các " vấn đề công nhân "
Dĩ nhiên trong Thông
Điệp cũng không hiếu việc đề cập đến hiện trạng lịch sử hiện
thực, nhưng điều vừa kể chỉ xảy ra một đôi khi.
Mấu chốt can thiệp của
Thông Điệp của việc đặt nặng " vấn đề công nhân " là vấn
đề có đặc tính chính yếu trong lãnh vực triết học và luân lý.
Bởi đó Đức Thánh Cha
Leo XIII tuyên bố trong các lời dẫn nhập của Thông Điệp Huấn
Dụ Xã Hội của Giáo Hội dưới dạng thức là một bản văn được trình
bày một cách mạch lạc và có hệ thống, bằng cách diễn dịch từ
những nguyên tắc bất di dịch của " quyền tự nhiên " và
của mạc khải Ki Tô giáo.
Trên thực tế, Thông
Điệp Rerum Novarum không có gì hơn là ý thức hệ công giáo,
được viết ra nhằm phản đối lại tự do chủ nghĩa và mác xít chủ
nghĩa.
2 - Chống lại mác xít chủ nghĩa và
tự do chủ nghĩa.
Khai triển tiên
khởi Huấn Dụ Xã Hội của Giáo Hội, trong nội dung của Thông
Điệp Rerum Novarum, được phát sinh nhằm
đương đầu và chống lại xã hội chủ
nghĩa ( socialismo) và tự do chủ nghĩa ( liberalismo).
Việc chạm trán giữa Giáo
Hội và mác xít chủ nghĩa đã khởi đầu từ khá lâu trước đó, cả
trước khi Manifesto ( Tuyên Ngôn ) mác xít được phổ biến
( 1848).
Đức Thánh Cha Pio IX,
trongThông Điệp Qui Pluribus đã lên án chủ thuyết đó như là
-
" tai họa cái gọi là cộng sản chủ
nghĩa " ( ĐTC Pio IX,Qui Pluribus ( 09.11.1846), in Denz. -
Huener, 2786).
Đó là năm 1846, cùng năm
mà K. Mark viết lên
- " Tình thương Ki
Tô giáo không có khả năng biến đổi thế giới, không cung ứng được
cho nghị lực cần thiết để cải tổ xã hội. Tình thương Ki Tô giáo
chỉ có khả năng diễn tả tâm tình, là những gì không thể phá vở
đi được các mối tương quan thực hữu; ru ngủ con người bằng một
bát cháo ấm áp tình càm.
Trong khi cần phải trả lại cho
con người nghị lực " ( cit. by P. Bartolomeo Sorge, Introduzione
alla Dottrina Sociale della Chiesa, id., 35).
Một vài năm sau khi bản Tuyên
Cáo ( Manifesto ) mác xít ra đời, năm 1864, ĐTC Pio IX còn
lên tiếng kết án
- " cộng sản chủ nghĩa và xã
hội chủ nghĩa là những điều tai hoạ thảm đạm nhứt " ( ĐTC Pio
IX, Quanta Cura, n. 5, ( IG).
Đức Thánh Cha Leo XIII, trong
Thông Điệp Rerum Novarum ,
không chỉ giới hạn vào việc lên án, mà còn giải thích những lý
do giáo lý của Giáo Hội, bằng cách chống đối ý thức hệ xã hội
chủ nghĩa có ý đồ
- loại bỏ đi quyền tư hữu
- và biến quyền tư hữu thành sở
hữu tập thể.
Đó không phải là phương thức giải
quyết " vấn đề nhân công ". Làm như vậy - ĐTC xác nhận rõ
- chỉ đạt được kết quả là
- " làm cho tình trạng người
công nhân càng trở nên trầm trọng hơn, bằng cách tước bỏ đi
quyền tự do xử dụng lương bổng của mình và như vậy cất bỏ đi
khỏi họ mọi hy vọng và mọi khả năng có thể tăng thêm gia tài của
mình và làm cho tình trạng mình trở nên khả quan hơn " ( ĐTC Leo
XIII, Rerum Novarum ( 15.05.1891), n.43, in CERAS, 28.).
Ngày nay, sau khi bức tường Bá
Linh sụp đổ, không ai có thể chối bỏ được thực trạng thảm đạm
lời phán quyết của Thông Điệp một trăm năm trước đó.
Tước bỏ đi quyền tư hữu không giải
quyết được gì " vấn đề công nhân ", trái lại đó là cách
hành xử làm phát sinh ra " chủ nghĩa tư bản Quốc Gia " (
capitalismo di Stato ), làm tái sinh hình thức nghèo khổ còn
thảm đạm hơn nữa, nô lệ hoá hơn nữa và đê tiện hoá hơn nữa các
khối vô sản, bần cố nông, mà K. Mark muốn giải quyết " một
cách khoa học ".
Đó là lý do tại sao, Thông Điệp
Rerum Novarum giải thích: đó là những gì bản tính thuộc lãnh vực
luân lý và nguyên tắc.
Thật vậy, bởi vì quyền tư hữu tự
bản thể là một quyền tự nhiên. Bởi đó, tước bỏ đi là điều bất
công và từ đó, dĩ nhiên, phải đưa đến việc xáo trộn cả trật tự
xã hội.
Trái lại phương thức giải quyết
thực tiển các vấn vô sản rất trầm trọng cần phải được tìm ra
trong
- phổ biến rộng rãi hơn quyền
tư hữu giữa các công nhân,
- làm thể nào để san bằng được
khoản cách giữa đại đa số người nghèo tuyệt vọng và mức giàu có
không lồ trong tay một ít chủ nhân ông.
Sau khi bác bỏ xã hội chủ nghĩa
trên chính bình diện nguyên tắc tổng quát của nền triết học xã
hội Ki tô giáo, Thông Điệp Rerum Novarum xoay qua chạm
trán với ý thức hệ tự do chủ nghĩa cũng trên cùng một
bình diện.
Thông Điệp không nêu đích danh "
tự do chủ nghĩa ", nhưng phá bỏ đi các tiền định giả
thiết ( presupposti) triết học và luân lý của học thuyết đó,
bằng cách đưa ra những đường nét chính của Huấn Dụ Xã Hội của
Giáo Hội, nền tảng của ý thức hệ công giáo.
3
- Các nguyên tắc của ý thức hệ công giáo.
a) Nguyên tắc thứ nhứt
dẫn đầu cho mọi duyệt xét suy tư khác đó là phẩm
giá con người và từ đó là việc làm của con người.
Người giàu và các chủ nhân - ĐTC
Leo XIII nói -
- "
không được đối xử với nhân công
như là nô lệ, phải kính trọng phẩm giá con người nơi người công
nhân ( ...). Dưới cặp mắt của lý trí và đức tin, việc làm không
đê tiện hoá con người, trái lại làm cho con người trở nên cao
qúy hơn ( ...). Điều không xứng đáng đối với con người, đó là
dùng con người như là dụng cụ để sinh lợi lộc, coi con người có
giá trị tùy theo năng lực sức lực thân xác của anh ta " ( ĐTC
Leo XIII, Rerum Novarum, n. 16,4, id.).
b) Nguyên tắc thứ hai,
đó là kinh tế có tầm vóc luân lý của mình,
chính trong đó mà kinh tế được định hướng nhằm phục vụ con
người.
Đây cũng là nguyên tắc đứng ra
công khai chống lại ý thức hệ tự do chủ nghĩa. Bởi lẽ tự do chủ
nghĩa luôn luôn chủ xướng rằng tiến trình kinh tế không có gì
liên hệ đến quan niệm luân lý. Bởi lẽ kinh tế chỉ theo lề luật
cứng rắn của thị trường, chớ không có gì phải quan tâm đối với
quan niệm " công bình " hay " bất công ".
Một cách cá biệt, ĐTC Leo XIII
nhấn mạnh đến mức lương bổng phải chính đáng:
- "
Ước gì chủ nhân và công nhân thoả
thuận được giao kèo với nhau và, một cách cá biệt, thiết lập
được với nhau mức lương bổng. Nhưng tất cả những điều đó không
loại bỏ đi cần phải có luật lệ công bằng thiên nhiên ở bên trên
ý chí tự do của hai bên ký thoả ước giao kèo và mức lương bổng
không thể nào dưới mức cho phép người công nhân đơn sơ và liêm
chính có thể sống được. Nếu người công nhân, bị bắt buộc vì nhu
cầu hay vì sợ phải tệ hại hơn, chấp nhận các điều kiện khắc khổ
hơn, đàng khác vì không thể nào có thể khước từ được, bởi vì đó
là các điều kiện mà chủ nhân hay người cung cấp việc cho áp đặt,
người công nhân đang bị bạo lực trấn áp, mà chống lại bạo
lực đó công lý phản đối " ( ĐTC Leo XIII, Rerum Novarum, n. 34,
4, id.).
Nói một cách tổng quát, mục
đích của kinh tế là con người, chớ không phải lợi nhuận. Con
người không bao giờ có thể làm tôi tớ cho lợi nhuận.
c) Nguyên tắc thứ ba ,
đó là cơ chế Quốc Gia phải can thiệp vào vấn đề xã
hội và kinh tế, trợ giúp những ai đang có nhu cầu.
Lý do đó là
- "
bổn phận của Quốc Gia là phải chăm lo cho công ích " ( ĐTC Leo
XIII, Rerum Novarum, n. 26, 2, id.).
Nhưng công ích không phải là tổng
số của các lợi ích riêng tư - như rất tiếc đó là theo quan niệm
của ý thức hệ tự do chủ nghĩa - và như vậy, mỗi người càng thành
đạt đươc bao nhiêu lợi nhuận cho chính mình, anh ta càng góp
công góp của nhiều hơn cho công đồng Quốc Gia.
Công ích vượt lên trên các lợi
thú riêng tư và bảo đảm cho mọi người đều có quyền như nhau,
bằng chính việc bảo đảm cho lợi ích chung.
Đó chính là lý do tại sao cơ chế
Quốc Gia phải can thiêp trợ giúp kẻ yếu kém hơn. Thật vậy,
Thông Điệp Rerum Novarum giải thích,
- " hạng giàu có, tự mình là
thành phần có thế lực, ít cần phải nhờ đến sự bênh vực của quyền
lực công cộng. Hạng vô sản, bần cố nông, trái lại, thiếu phương
tiện để sống còn, trông cậy nhứt là vào sự bảo vệ của cơ chế
Quốc Gia. Như vậy, Quốc Gia hãy là người bênh vực một cách cá
biệt đối với công nhân, là những người thuộc về hạng người nghèo
khổ " ( ĐTC Leo XIII, Rerum Novarum, n. 29, 2 id.).
Trong nhãn quang cơ chế Quốc
Gia cần phải can thiệp vì lợi ích chung ( cho cả chủ nhân
lẫn công nhân), Đức Thánh Cha Leo XIII đặt giải đáp trên
bình diện giáo lý cả đối với những phương diện quan trọng khác
của " vấn đề công nhân " : đó là tiên liệu cho quyền
đình công, thời gian được nghỉ ngơi, công đoàn lao động.
Nói tóm lại, Giáo Hội, dưới ánh
sáng mạc khải và triết học Ki Tô giáo, trong khi phê phán mác
xít chủ nghĩa và tự do chủ nghĩa, đi sâu cả đến một vài điểm
thiết yếu, mà sau đó sẽ trở thành " quyền làm việc ".
ĐTC Leo XIII
phát thảo ra các đường hướng nền
tảng của một tổ chức có hệ thống Huấn Dụ Xã Hội Ki Tô giáo, mà
ĐTC Pio XI không ngần ngại coi đó là " Magna Charta "
( Đại Văn Bản ), trên đó đặt nền tảng cả hoạt dộng Ki Tô
giáo trong lãnh vực xã hội (
ĐTC Pio XI, Quadragesimo anno ( 15.05.1891) , n. 42, in CERAS,
78).
(
Để có tài liệu nghiên cứu sâu rộng
hơn về những gì chúng ta đã ngắn gọn lượt tóm qua, Anh Em có thể
tra cứu thêm Tổng Lược Huấn Dụ Xã Hội của Giáo Hội, " vấn
đề công nhận ", ( Compendio della Dottrina Sociale della
Chiesa, nn. 88. 89. 90 ).
|
VỀ MỤC LỤC |
|
Các
dấu hiệu khủng hoảng trong đời sống và sứ vụ của linh mục giáo
phận |
Mời thăm Blog của
Lm. Trần Minh Huy
http://www.chivilongchuathuongtoi.tk/
Tác phẩm: ĐÀO TẠO ỨNG SINH LINH
MỤC GIÁO PHẬN
Lm.
Micae-Phaolô Trần Minh Huy pss
CHƯƠNG SÁU
ỨNG
SINH LINH MỤC GIÁO PHẬN
HỌC
VƯỢT LÊN KHỦNG HOẢNG VÀ TÁI ĐỊNH HƯỚNG ĐỜI SỐNG VÀ SỨ VỤ ƠN GỌI
LINH MỤC (tiếp theo)
C. 2.
Các dấu hiệu khủng hoảng trong đời sống và sứ vụ của linh mục
giáo phận
·
Trốn chạy
trong rượu, những hoạt động gây ấn tượng và cảm giác mạnh, thích
“xuất hiện” và khẳng định mình…
·
Chuyện phiếm,
tán gẫu không dứt, tâm sự…
·
Thiếu khả
năng sống trầm tĩnh, cô tịch, thinh lặng.
·
Ham mê giải
trí thái quá: suốt ngày lướt mạng xem phim, chơi games… hay đầu
tư quá nhiều thời giờ và tiền bạc vào chim, cá, kiểng…
·
Ham hoạt động
quá (quá lao lực sẽ kiệt lực)
·
Nhu cầu khẳng
định mình thái quá (cố gắng xây dựng những ‘công trình thế kỷ’
để đời mang dấu ấn của mình…)
·
Nhìn đời và
nhìn người cách tiêu cực, hay chỉ trích phê bình…
·
Khó ngủ (nhất
dạ sinh bá kế, gửi và nhận tin nhắn…)
·
Thiếu tự chủ
và làm chủ bản thân, có những bất bình thường về giới tính…
·
Những khó
khăn để thoát khỏi cô độc, sợ hãi…
·
Khả năng hoạt
động bị tê liệt (ở nhưng là cội rễ mọi sự dữ)
·
Chỉ thường
xuyên liên hệ với một số người nào đó thôi…
C.3.
Vài phản ứng cần thiết để vượt thắng cơn khủng hoảng
·
Cần có thời
gian cầu nguyện hằng ngày để chia sẻ bản thân với Chúa, hầu sống
căn tính linh mục thực sự của mình.
·
Tìm một đối
tác biện phân, như vị linh hướng, có thể là một người bạn thân
lâu dài, dẫn tới một căn tính trưởng thành. Các cân nhắc tâm lý
về cá tính cũng rất hữu ích.
·
Sự sống mật
thiết với Chúa Giêsu là phương dược chữa lành vạn năng, vì việc
không ngừng tìm kiếm kết hợp với Chúa Giêsu khiến linh mục
tìm được sự thống nhất đời sống của mình..
·
Quả thế,
trong đời sống độc thân của mình, linh mục cảm nhận sự cô đơn và
lắm khi cô đơn thực sự, và đôi khi sự cô đơn đè nặng trên con
người của ngài.
·
Sự nghi ngờ,
đố kỵ, ghen ghét hay thiếu thông cảm từ phía anh em linh mục
đồng nghiệp của ngài (kể cả từ Giám Mục) có thể làm gia trọng
nỗi thất vọng và cô đơn.
·
Nhung cô đơn
của linh mục không phải là sự trống rỗng và ngài cũng không thực
sự cô độc vì Đấng Cứu Thế luôn ở với ngài.
·
Chúa Giêsu
cũng vậy, trong những giờ phút bi thảm nhất của cuộc thương khó,
Ngài đã cảm nhận cô đơn và bị bỏ rơi, vì Ngài vừa liên đới với
thân phận tội nhân phản nghịch, lại vừa luôn sống hiệp thông mật
thiết với Chúa Cha và luôn tìm theo ý Chúa Cha.
Nơi nào có oán ghét hận
thù
Xin giúp con xấy dựng
tình thương.
Nơi nào có khinh khi
nhục mạ,
Xin giúp con mang lại
thứ tha.
Nới nào có mâu thuẫn bất
đồng,
Xin giúp con nên người
hòa giải.
Nơi nào có giả dối sai
lầm,
Xin giúp con rao truyền
chân lý.
Nơi nào có hoài nghi ngờ
vực,
Xin giúp con củng cố đức
tin.
Nơi nào có nản chí sờn
lòng,
Xin giúp con gieo niềm
hy vọng.
Nơi nào có bóng tối mây
mù,
Xin giúp con khai nguồn
ánh sáng.
Nơi nào có u sầu buồn
bã,
Xin giúp con đem lại an
vui.
Lời cầu Kinh
Sáng thứ bảy Tuần II.
|
VỀ MỤC LỤC |
|
SỰ
CAO CẢ CỦA TÍNH DỤC TRONG ĐỜI SỐNG VỢ CHỒNG |
Tác phẩm: Cẩm Nang Hạnh Phúc Gia Đình
Kitô - MỤC VỤ HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH
Tác
giả: D. WAHRHEIT (Lm. Minh Anh, GP. Huế tổng hợp biên tập)
B20. SỰ CAO CẢ CỦA TÍNH DỤC TRONG ĐỜI SỐNG VỢ CHỒNG
1. Để
sống một cách sung mãn trong ơn gọi hôn nhân, thiết tưởng cần
phải vượt qua não trạng vị luật hay đúng hơn cái tâm thức mà
chúng ta thường gọi là “tâm thức tiêu thụ” đối với các bí tích
trong Giáo Hội. Với tâm thức tiêu thụ ấy, nhiều đôi vợ chồng cho
rằng: một khi đã chịu bí tích trong nhà thờ thì cuộc sống hôn
nhân đương nhiên sẽ xuôi buồm thuận gió.
Thật ra nghi thức cử hành trong
nhà thờ mới chỉ là khởi đầu của bí tích Hôn Phối mà thôi. Bí
tích Hôn Phối là cả cuộc sống vợ chồng với tất cả những thăng
trầm, những chiến đấu, những vui buồn từng ngày. Chính qua những
sinh hoạt từng ngày ấy mà tình yêu vợ chồng trở thành bí tích,
nghĩa là trở thành dấu chỉ hữu hình của Thiên Chúa. Tất cả những
biểu lộ của tình yêu lứa đôi từ những lời nói, ánh mắt, sự âu
yếm cho đến tình thương đối với con cái… tất cả đều là dấu chỉ
hữu hình của Thiên Chúa tình yêu. Đó là một tình yêu có thể thấy
được, cảm nhận được. Con cái hân hoan khi chứng kiến tình yêu
ấy, những người xung quanh được thánh hóa khi nhìn thấy tình yêu
ấy.
Nhưng tất cả mọi biểu lộ của tình
yêu vợ chồng sẽ dẫn tới sự kết hợp nên một thân xác giữa hai
người, tức hành động giao hợp. Đó là dấu chứng cao cả nhất của
tình yêu Thiên Chúa. Bàn đến một nền tu đức đặc biệt cho các đôi
vợ chồng, thiết tưởng chúng ta không thể không nói đến giá trị
nội tại của hành động này. Một cái nhìn lành mạnh và thánh thiện
về hành động giao hợp là điều mà chúng tôi cố gắng trình bày
trong bài này.
2. Để
có được cái nhìn lành mạnh và thánh thiện trên đây, thiết tưởng
chúng ta cần đọc lại số 49 trong Hiến Chế Vui Mừng và Hy Vọng
của Công Đồng Vaticanô II:
“Là một hành động có đặc tính nhân
linh cao cả vì từ một nhân vị này hướng tới một nhân vị khác
bằng một tình cảm tự ý, tình yêu vợ chồng bao gồm hạnh phúc toàn
diện của con người. Vì thế, tình yêu vợ chồng có thể lồng vào
những biểu lộ của thân xác và tâm hồn một giá trị đặc biệt khiến
chúng trở nên cao quí như những yếu tố và dấu hiệu đặc thù của
tình yêu lứa đôi. Một tình yêu kết hợp yếu tố nhân loại với yếu
tố thần linh như thế phải thấm nhuần cả đời sống, và hướng dẫn
đôi vợ chồng biết tự do trao hiến cho nhau qua những tâm tình và
cử chỉ yêu mến. Hơn nữa chính nhờ những hành vi quảng đại của
mình mà tình yêu giữa hai người được trọn vẹn và lớn lên. Sự âu
yếm trên được biểu lộ và hoàn hảo một cách đặc biệt qua những
động tác riêng của bậc hôn nhân.
Bởi vậy, những hành vi thực hiện
sự kết hợp thân mật và thanh khiết của đôi vợ chồng thật là cao
quí và chính đáng. Việc thực hiện chúng một cách xứng với con
người, những hành vi ấy biểu lộ và khích lệ sự trao hiến cho
nhau, nhờ đó hai người làm cho nhau thêm phong phú trong hoan
lạc và biết ơn”.
Những dòng trên đây của Công Đồng
thực là một bài ca về hành động giao hợp trong đời sống vợ
chồng. Trước kia hành động ấy bị xem như một hành động thấp hèn
không xứng với phẩm giá con người, một hành động mà có lẽ Giáo
Hội chỉ cho phép làm để xoa dịu cơn đói khát tình dục mà thôi.
Với Công Đồng Vaticanô II, động tác ấy không chỉ được khuyến
khích mà còn được xem như một nghĩa vụ giúp hoàn thiện hoá hai
vợ chồng.
Nói cách khác, việc giao hợp vợ
chồng không là một động tác tuỳ tiện mà hai người chỉ thực hiện
theo sở thích, nhưng phải được xem như một phương thế để tiến
triển trên con đường nên thánh. Nếu đó là một động tác thực sự
xứng với con người được thực thi với sự chú ý, cảm thông, tôn
trọng, hy sinh, quảng đại thì đó cũng là một hành động thánh
thiện và mang tính tôn giáo, bởi vì sống trong tình yêu là sống
trong Chúa. Tác động đó cũng là một tác động Kitô giáo bởi nó là
hình ảnh của mối tương quan giữa Chúa Kitô và Giáo Hội của Ngài.
3.
Không thể bàn tới con đường tu đức cho các đôi vợ chồng mà không
đề cao tầm quan trọng ý nghĩa và giá trị sinh hoạt tính dục
trong đời sống lứa đôi. Ngày nay với cuộc cách mạng tình dục,
sách vở, báo chí và nhất là phim ảnh đang cổ võ cho một cuộc
sống tính dục buông thả trụy lạc, tính dục được hoàn toàn đồng
hóa với tình yêu hoặc hoàn toàn tách biệt khỏi tình yêu. Nhưng
kinh nghiệm cho chúng ta thấy, khi tính dục không còn là ngôn
ngữ của tình yêu thì cuộc sống xã hội cũng bị xáo trộn. Những tệ
trạng gia đình như phá thai, ly dị đến bao nhiêu tệ đoan xã hội
khác đều bắt nguồn từ chính sự tách biệt tính dục ra khỏi tình
yêu. Xét cho cùng, khi con người tách biệt tính dục ra khỏi tình
yêu thì nó tự hạ phẩm giá làm người của mình.
Vì là dấu chỉ của tình yêu Thiên
Chúa đối với con người nên bí tích Hôn Phối luôn nhắc nhở người
Kitô hữu về ý nghĩa cao cả của tính dục. Tính dục hay đúng hơn
việc giao hợp vợ chồng là bí tích của tình yêu Thiên Chúa qua sự
kết hợp nên một thân xác và tâm hồn giữa hai người. Hai vợ chồng
cần phải ý thức rằng, họ đang thực thi một sứ mệnh cao cả mà
Thiên Chúa đã uỷ thác. Đó là được tham dự vào quyền năng sáng
tạo và trở thành nhân chứng cho tình yêu của Ngài.
4.
Hành động giao hợp là một động tác cao cả và thánh thiện, đó là
cái nhìn mà các đôi vợ chồng luôn có đối với sinh hoạt tính dục
trong đời sống lứa đôi. Có lẽ không có mặc khải nào rõ ràng hơn
về ý nghĩa và giá trị của sinh hoạt tính dục trong đời sống vợ
chồng bằng sách Diễm Tình Ca. Vào khoảng năm 90 sau Công Nguyên,
trong một công hội tại Danđia bên Palestin, các giáo trưởng và
học giả Do Thái đã tranh luận sôi nổi về việc có nên xem tác
phẩm này là Sách Thánh nghĩa là được linh ứng hay không? Cuối
cùng, mọi người đã đồng thanh đưa tác phẩm vào qui điển, nghĩa
là danh mục các Sách Thánh. Và một giáo trưởng đã phát biểu như
sau: “Nếu những quyển Sách Thánh khác là thánh thì Diễm Tình Ca
là cực thánh”.
Cuộc tình lãng mạn giữa đôi trai
gái mục đồng ấy đã có một thời bị Giáo Hội nhìn với đôi mắt nghi
ngờ và sợ hãi. Ngày nay, với giáo huấn của Công Đồng Vaticanô
II, những biểu lộ tình yêu trong tác phẩm này đã tìm được giá
trị đúng đắn của nó.
Dưới sự soi sáng của Công Đồng,
ngày nay, Kitô hữu chúng ta sẽ không còn xem thân xác hay những
biểu lộ của tình yêu là đê hèn hay hạ cấp nữa, nhưng là dấu chỉ
của một thực tại cao cả là chính tình yêu của Thiên Chúa. Cái
nhìn thánh thiện ấy sẽ giúp các đôi vợ chồng luôn ý thức rằng,
họ đang trau dồi một trong những nghệ thuật cao cả nhất trong
cuộc sống con người. Đó là nghệ thuật yêu thương.
Nếu nghệ thuật là một cố gắng thể
hiện chân thiện mỹ thì tình yêu vợ chồng, mà tột đỉnh là sự kết
hợp nên một thân xác, cũng chính là một thể hiện của sự thánh
thiện, sự tuyệt mỹ của tình yêu Thiên Chúa. Sự kết hợp đó chỉ
thể hiện được tình yêu Thiên Chúa khi nó là tuyệt đỉnh, là điểm
hội tụ sự dâng hiến, lòng quảng đại, sự hy sinh mà hai vợ chồng
luôn thực thi cho nhau. Chỉ như thế, tình yêu giữa hai người mới
trở thành cung thánh cho sự hiện diện của Thiên Chúa và là bí
tích tình yêu của Ngài đối với nhân loại.
|
VỀ MỤC LỤC |
|
VIÊM GAN B
|
Theo Trung Tâm Kiểm Soát Bệnh CDC, người Mỹ
gốc Á Châu và Các Đảo Thái Bình Dương chỉ chiếm 5% dân số Hoa Kỳ
nhưng tỷ lệ bị bệnh Viêm Gan B mãn tính lên tới hơn 50% trong
tổng số người đang sống với bệnh này. Mặc dù có tỷ lệ bệnh cao,
nhưng đa số các cư dân này chưa được thử nghiệm coi xem có bị
bệnh và không biết là mình bị bệnh. Lý do là đa thiếu hiểu biết
hoặc hiểu nhầm về bệnh cũng như do trở ngại ngôn ngữ. Hậu quả là
họ thường bị một trong những biến chứng trầm trọng là Ung Thư
Gan. CDC cũng cho hay, 70% sắc dân này sanh ra hoặc có cha mẹ
đã sinh sống ở các quốc gia có dịch bệnh Viêm Gan B.
Tại Việt Nam, theo thống kê của Tổ Chức Y
tế Thế Giới, số người bị Viêm Gan B lên tới 10 triệu và là vấn
đề sức khỏe rất quan trọng. Thêm vào đó, việc chích ngừa Viêm
gan B cũng như điều trị tại đây vẫn còn ở mức hết sức giới hạn,
cho nên số người bị bệnh gan hoặc ung thư gan gia tăng.
Sau đây là tóm lược một số điểm căn bản về
Viêm Gan B, dựa theo tài liệu của CDC. Thể theo lời yêu cầu của
một thính giả ở Việt Nam qua chương Trình Hỏi Đáp Sức Khỏe Trực
Tiếp mỗi tối thứ Ba trên đài Phát Thanh Tiếng Nói Hoa Kỳ VOA và
một số độc giả ở thành phố Dallas-Fort Worth, Texas..
1- Viêm gan B là bệnh gì.
Đây là bệnh của gan gây ra do loại Virus
Hepatitis B. Sau khi xâm nhập cơ thể, các virus này sẽ ị viêm và
tổn thương cho tế bào gan, đưa tới rối loạn các chức năng của
gan như tiêu hóa thực phẩm, lọc máu và chống nhiễm trùng.
Viêm gan B rất phổ biến tại Hoa Kỳ. Hiện
nay có khoảng 1.2 triệu người bị Viêm Gan B mãn tính mà không
biết mình có bệnh. Hàng năm có khoảng 40.000 trường hợp bệnh mới
được khám phá.
Có 2 giai đoạn bệnh:
a- Cấp tính, kéo dài khoảng 6 tháng. Trong
giai đoạn này, một số bệnh nhân có thể chống trả với virus và
tiêu diệt chúng. Các dấu hiệu bệnh có thể từ rất nhẹ tới trầm
trọng cần được điều trị tại bệnh viện.
b- Mãn tính khi virus tiếp tục hiện diện
trong cơ thể, đánh phá tế bào gan và gây ra triệu chứng trầm
trọng ảnh hưởng tới sức khỏe.
2- Bệnh lây lan bằng cách nào?
Virus viêm gan B có nhiều ở máu, tinh dịch
và các chất lỏng trong cơ thể người bệnh. Khi các chất chứa
virus này xâm nhập người lành, chúng sẽ gây bệnh. Đường lây bệnh
thông thường nhất là qua sự giao hợp giữa người lành với người
bệnh, dùng chung kim tiêm chích hoặc truyền từ mẹ sang hài nhi
khi sanh đẻ. Giao hợp là cách lây lan bệnh thường thấy nhất ở
Hoa Kỳ.
Bệnh không truyền qua sữa mẹ, dùng chung
vật dụng trong nhà, ôm hôn, cầm tay, ho, hắt hơi hoặc qua thực
phẩm, nước uống.
3- Xin cho biết các dấu hiệu bệnh
Cần phân biệt 2 trường hợp:
a- Cấp tính là khi bệnh khởi phát nhanh,
các triệu chứng mạnh và kéo dài một thời gian ngắn.
Với Viêm gan B, thời gian cấp tính dài
khoảng 6 tháng. Ba tháng sau khi bị nhiễm thì dấu hiệu xuất hiện
với nóng sốt, mệt mỏi, đau bụng, kém ăn, nôn ói, phẩn có mầu
nhạt, nước tiểu màu đậm, vàng da. Thường thường sau thời gian
này, bệnh nhân bình phục.
b- Mãn tính mô tả sự kéo dài lâu của một
bệnh, bệnh tình khởi phát chậm và thay đổi từ từ.
Trong Viêm Gan B, sau 6 tháng, xét nghiệm
máu vẫn còn thấy có virus gây bệnh. Nhiều người mang bện mà
không thấy có dấu hiệu và không biết là mình bị bệnh. Có khi cả
vài ba chục năm sau, dấu hiệu bệnh mới xuất hiện và gan âm thầm
bị tổn thương vì virus vẫn còn trong cơ thể. Khi mà dấu hiệu
xuất hiện thì bệnh đã ở giai đoạn trầm trọng. Đó là trường hợp
của một số đồng hương mình. Sau những năm chiến tranh, đời sống
khó khăn, sống trong môi trường kém thuận lợi kèm theo dịch viêm
gan, dễ bị bệnh. Nhiều người sang Hoa Kỳ, được xét nghiệm mới
biết mình có bệnh. Và bắt đầu vội vàng lo sợ, tìm thầy chữa
chạy.
4- Viêm Gan B có nguy hiểm không
Viêm gan B khá nguy hiểm, Trung bình, từ
15-25% bệnh nhân Viêm Gan B bị các rối loạn ở gan như tổn thương
gan, suy yếu chức năng gan, xơ cứng gan và ung thư gan. Riêng
tại Hoa Kỳ, hàng năm có 3000 tử vong vì viêm gan B và trên thế
giới có khoảng 600.000 tử vong.
Điểm đáng lưu ý là nếu 90% người lớn tuổi
có thể loại bỏ virus, hồi phục sau khi bị Viêm Gan B thì 90%
bệnh nhân nhỏ tuổi trở thành mãn tính và chỉ có 10% hồi phục
(Hepatitis B Foundation)
Bình phục là sau khi xét nghiệm, không còn
virus trong máu .và cơ thể đã tạo ra tính miễn dịch với bệnh,
không bao giờ mắc bệnh nữa.
5- Làm sao biết bị Viêm Gan B
Để xác định Viêm gan B, cần làm một số xét
nghiệm máu đặc biệt và siêu âm. Kết quả xét nghiệm giúp bác sĩ
xác định coi nếu một người có bao giờ bị bệnh, đã bị bệnh và đã
hồi phục hoặc đang bị bệnh. Bạn tình hoặc thân nhân người bị
Viêm Gan B cũng cần làm các thử máu này để bảo đảm an toàn cho
sức khỏe của họ.
Thử máu cũng tìm hiểu xem chức năng gan
thay đổi. Nếu có, men gan sẽ lên cao.
6- Xin nói về cách điều trị
Bệnh nhân bị Viêm Gan B cần được bác sĩ có
kinh nghiệm về bệnh này như bác sĩ chuyên bệnh Gan hoặc Tiêu Hóa
chăm sóc, điều trị. Bác sĩ sẽ lựa các dược phẩm thích hợp cho
mỗi bệnh nhân. Có thể là thuốc uống, chích hoặc cả hai. Vì thuốc
có một số tác dụng ngoại ý, cho nên cần được thường xuyên theo
dõi, thay đổi liều lượng. Các thuốc này có thể làm chậm tác hại
do Virus, trì hoãn hoặc lật ngược ảnh hưởng của bệnh đối với
gan. Đa số bệnh nhân Viêm Gan B có thể kéo dài cuộc sống gần như
bình thường, và nhiều bệnh nhân cũng không cần điều trị.
Cũng nên ghi nhớ là không phải bất cứ bệnh
nhân bị Vêm Gan B mãn tính nào cũng cần điều trị. Bác sĩ chuyên
môn sẽ cùng bệnh nhân thảo luận phương pháp điều trị thích hợp
cho từng người.
7- Có thể phòng ngừa Viêm Gan B được không?
Có chứ. Đó là chích ngừa Viêm Gan B và là
phương thức hữu hiệu nhất để tránh bệnh. Vaccin được chích làm 3
lần trong vòng 6 tháng. Lần đâu bất cứ lúc nào; lần 2 sau 1
tháng, lần 3 sáu tháng sau lần đầu. Đôi khi có vaccine tăng
cường, chích làm 2 lần, dành riêng cho người trưởng thành. Có
thể chích ngừa tại phòng mạch bác sĩ hoặc tại các cơ sở y tế,
Phí tổn từ 75-165 mỹ kim. Trẻ em dưới 18 tháng có thể miễn phí
tại một số trung tâm y tế công cộng.
8- Những ai cần chích ngừa
- Mọi hài nhi từ lúc lọt lòng và tất cả
cháu tới tuổi 18
- Nhân viên y tế, phòng cấp cứu
- Thanh thiếu niên, người lớn có đời sống
tình dục mạnh
- Người nam làm tình với người nam
- Bạn tình hoặc thân nhân sống chung với
người bệnh
- Những ai muốn nhận con nuôi từ Hoa Kỳ
hoặc từ các quốc gia khác
- Du lịch tới các quốc gia thường xuyên có
dịch bệnh như ở Á Châu, châu Phi, Nam Mỹ, Đông Âu, Trung Đông và
Các Hải Đảo Thái Bình Dương
- Bệnh nhân thận đang lọc máu.
Những ai đã bị Viêm Gan B không cần chích
vì đã đựoc miễn dịch với bệnh.
9- Có cần kiêng ăn uống khi bị Viêm Gan B?
Cũng không cần kiêng khem nhiều lắm.
Trước hết là nên ăn uống đầy đủ và cân bằng
các loại thực phẩm chính như chất đạm, tinh bột. Riêng chất béo
thì giảm chút đỉnh.
Tiêu thụ nhiều rau và trái cây, vừa dễ
tiêu, nhiều chất dinh dưỡng mà lại không có cholesterol.
Không tiêu thụ tôm cua sống vì chúng có thể
chứa vài loại vi khuẩn gây bệnh.
Tuyệt đối không uống rượu, hút thuốc lá.
Và nhớ hỏi ý kiến bác sĩ trước khi dùng bất
cứ loại dược phẩm nào, kể cả âu dược do bác sĩ biên toa hoặc mua
tự do cũng như các loại dược thảo. bộ phận động vật “quý hiếm”
hoang dã.
Một lá gan đang bị tổn thương sẽ tổn thương
thêm khi người bệnh dùng các chất có hại cho gan.
Bác sĩ Nguyễn Ý Đức
Texas-Hoa Kỳ
www.bsnguyenyduc.com
|
VỀ MỤC LỤC |
KHI VỢ HƠN CHỒNG Chuyện phiếm của Gã
Siêu |
Mặc dù biết rất rõ mình chẳng có hoa tay và
tài khéo, nhưng lại “mê” vẽ, thành thử hồi còn ở trung học nội
trú, cứ chiều thứ năm được đi dạo phố, gã và mấy đứa bạn cùng sở
thích thường hay la cà ở đường Tự Do, từ bến Bạch Đằng đến nhà
thờ Đức Bà, hễ thấy có phòng triển lãm nào là chui vào ngắm
nghía. Rồi về nhà cùng nhau đọc sách và “ngâm kíu” thêm về hội
hoạ, cho nên gã cũng hiểu lõm bõm được thế nào là luật phối
cảnh, thế nào là cách thức pha màu và những tỷ lệ cần phải giữ
khi vẽ chân dung…Ngoài ra, gã cũng nhận thấy có những bức tranh
đẹp vì tác giả đã diễn tả được cái vẻ cân đối hài hoà, nhưng
cũng có những bức tranh đẹp vì ông hoạ sĩ đã sử dụng một cách
tài tình những đường nét tương phản.
Cuộc đời mỗi người cũng chính là một bức
tranh. Chẳng thế mà trong “Cung Oán Ngâm Khúc”, Ôn Như Hầu
Nguyễn Gia Thiều đã viết:
- Lò cừ nung nấu sự đời,
Bức tranh vân cẩu vẽ người tang thương.
Vân là mây, cẩu là chó. Mây đó, rồi lại chó
đó. Xuất phát từ câu “bạch vân biến vi thương cẩu” của thi hào
Đỗ Phủ, nghĩa là đám mây trắng bỗng biến thành con chó xanh, để
nói lên những đổi thay của đời người, nay còn mai mất.
Đời sống và nhất là đời sống hôn nhân cũng
thế. Có những cuộc tình đẹp do vẻ hài hoà cân đối. Chẳng thế mà
các cụ ta ngày xưa, khi dựng vợ gả chồng cho con cái, thường
tuân thủ định luật về “môn đương hộ đối”, nhà cửa phải ngang
bằng với nhau, có ý nói đến sự tương đương về tiền bạc, về địa
vị xã hội giữa nhà trai và nhà gái đang lăm le kết tình xui gia.
Thế nhưng, cũng có những cuộc tình đẹp do
nét tương phản: So với chị vợ, anh chồng thường phải cao một tí,
già hơn một tí và giỏi hơn một tí….Mặc dù không nói ra, nhưng
xem ra ai cũng công nhận và coi đó là một định lý thuận, một qui
luật chung, chuyện đời phải vậy mà thôi.
Tuy nhiên, nếu tình thế bị lật ngược, có
nghĩa là so với anh chồng, chị vợ cao hơn một tí, già hơn một tí
và giỏi hơn một tí, lúc đó trời đất sẽ quay cuồng, mọi người sẽ
không ngớt bàn ra tán vào, bàn vào tán ra. Thật là rách việc!
Cũng chính vì thế, mà hôm nay gã xin trình bày đôi ba nét về cái
“định lý đảo” này.
Thứ nhất, đó là khi chị vợ…cao hơn anh
chồng
Chồng cao hơn vợ một cái đầu, đó chỉ chuyện
thường ngày ở huyện. Bên cạnh nhà gã có một cô bé, hình dong bên
ngoài hơi bị khiêm tốn, nếu không muốn nói là bị thiếu hụt thước
tấc một cách trầm trọng. Bù lại, ông trời đã hào phóng ban tặng
cho cô bé cái năng khiếu bên trong về ngoại ngữ thật tuyệt vời.
Cô bé trở thành giáo viên dạy tiếng Anh tại một trường đại học.
Thế rồi cô bé và một vài người khác được
chọn, thay mặt cho nhà trường, đi trao đổi văn hoá tại Ấn Độ với
bạn bè quốc tế của khối nói tiếng Anh. Và trong cuộc giao lưu
này, một anh chàng Ăng Lê chính hiệu mắt xanh, tóc vàng hoe đã
làm quen với cô bé.
Sau đó, khi trở về nước, tình yêu của họ
bắt đầu đâm chồi nảy lộc qua những cái “meo” được trao đổi, cũng
như qua những lần nói chuyện đường dài, “nấu cháo điện thoại”.
Cuối cùng, anh chàng Ăng Lê đã chịu đèn,
say mê cô bé như điếu đổ, đích thân qua Việt Nam thăm cô bé, rồi
lại đưa cả bà mẹ sang xin cưới hỏi đàng hoàng theo đúng thủ tục
và nghi lễ của dân tộc ta. Thế nhưng, cô bé chỉ đứng tới ngực
anh chàng Ăng Lê mà thôi. Có một lần trong chỗ riêng tư, gã đã
hỏi cô bé:
- Khi hai người muốn hôn nhau một phát, thì
phải làm sao nhỉ?
Cô bé vô tư trả lời:
- Thì mình kiễng chân lên một tí, còn anh
ta thì cúi đầu xuống một tí. Và thế là có ngay một nụ hôn nồng
thắm!
Bà con lối xóm chỉ lắc đầu ngao ngán cho
cái thói to gan bạo phổi của cô bé. Nhưng dầu sao cho tới lúc
này cô bé vẫn luôn hạnh phúc mãi tận xứ sở của sương mù, bên
cạnh anh chồng cao khều của mình.
Tuy nhiên, điều không được bình thường cho
lắm khi áp dụng định lý đảo này vào chị vợ, nghĩa là chị ta lại
cao hơn anh chồng một tí. Có lẽ chính chị vợ cũng đã ngán ngẩm
khi nhận ra sự trực trặc ấy, như ca dao đã từng diễn tả:
- Mẹ em tham thúng xôi rền,
Tham con lợn béo, tham tiền Cảnh Hưng.
Em đã bảo mẹ rằng đừng,
Mẹ hấm, mẹ hứ, mẹ bưng ngay vào.
Bây giờ chồng thấp vợ cao,
Như đôi đũa lệch so sao cho vừa.
Còn bàn dân thiên hạ thì lại nhìn anh chàng
bằng cặp mắt soi mói, cộng thêm một chút thương hại:
- Chồng thấp mà lấy vợ cao,
Nồi tròn, vung méo úp sao cho vừa.
Viết tới đây, gã bỗng cảm thấy ngao ngán
thay cho những cô hoa hậu Việt Nam, bởi vì trong những năm gần
đây, người ta thường hay bình chọn những cô cao khoảng một mét
bảy đổ lên, để được bằng chị bằng em, lỡ có phải ra nước ngoài
thi thố. Nhưng người ta đâu có nghĩ tới tình trạng “lệch pha”
của những người đẹp chân dài khi bước vào đời sống vợ chồng.
Thứ hai, đó là khi chị vợ…già hơn anh
chồng
Anh chồng nhiều hơn chị vợ một vài tuổi, đó
là chuyện bình thường. Có khi còn hơn cả một hai con giáp, thì
cũng chẳng ai nhòm ngó. Thậm chí ngày nay nhiều cô gái trẻ lại
thích lấy anh chồng già, vì anh chồng già xem ra chững chạc hơn,
và nhất là biết chiều chuộng hơn: Chồng già vợ trẻ là tiên!
Chứ còn lấy anh chồng trẻ, tuổi tác xấp xỉ
ngang nhau, cả hai tính khí vẫn như con nít, xoay như chong
chóng, chẳng biết đường nào mà mò. Vợ chồng trẻ con, thích đấy
rồi lại chán đấy.
Thế nhưng, nếu chị vợ chẳng may già hơn anh
chồng một tí, thì lập tức liền bị bàn dân thiên hạ dí mũi, chõ
miệng vào mà chê bai và phê phán: Vợ già chồng trẻ là duyên…con
bò! Hay như ca dao cũng đã tốn nhiều lời bình luận:
- Chồng lớn vợ bé thì xinh,
Chồng bé vợ lớn ra tình chị em!
- Chồng già vợ trẻ là tiên,
Vợ già chồng trẻ như tiền vứt đi.
- Chồng già vợ trẻ là tiên,
Vợ già chồng trẻ là con điên lấy thằng
khùng.
Bạn bè thì khuyên nhủ:
- Bây giờ cậu còn trẻ, giỏi giang, hắn mê
cậu thật, nhưng sau mười năm nữa, cậu sẽ trở thành một bà già và
hắn sẽ bỏ cậu để chạy theo những đứa con gái trẻ đẹp cho mà xem.
Bản thân chị vợ nhiều lúc cũng bực bội tức
tối không ít, như câu chuyện dưới đây:
Vừa về đến nhà, bà M vứt phịch cái túi
xuống rồi ngồi thừ trên ghế. Đứa con gái vừa mon men lại gần, bà
liền quát um lên. Ông chồng dựng xe xong đi vào. Con gái cười
cười hỏi bố:
- Bố lại vừa phạm tội gì à?
- Tao trẻ hơn mẹ mày là tao có tội hử?
Chỉ chờ có thế, bà M liền nổi trận lôi
đình. Thì ra hai vợ chồng bà vừa đi ăn cưới về, tiện thể rẽ vào
nhà đứa con gái lớn chơi. Mấy người họ hàng nhà thông gia bên ấy
không hiểu mắt mũi thế nào mà lại đồng thanh chào:
- Cháu chào bà, cháu chào chú!
Bực nhất là có đứa còn hỏi ông chồng ra vẻ
quan tâm:
- Chú đưa mẹ vợ đi chơi đấy à?
Hai vợ chồng bà M mặt…ngắn tũn, sượng sùng!
(Diên Vỹ).
Tình trạng “lệch pha” này, được cánh báo
chí hiện nay diễn tả một cách cụ thể và chính xác bằng cụm từ
“phi công trẻ lái máy bay bà già”!
Thứ ba, đó là khi chị vợ…giỏi hơn anh
chồng
Chị vợ là giảng viên đại học. Anh chồng là
tài xế taxi. Những ngày mới cưới, họ còn ngồi xem TV và trò
chuyện với nhau. Nhưng rồi công việc của chị vợ mỗi ngày một
nhiều. Trong lúc chị vợ bận rộn đọc tài liệu, soạn bài giảng,
dịch sách…thì anh chồng lại ngồi đánh bài hay tán dóc với bè
bạn. Nhất là khi đứa con trai của họ khôn lớn và bước chân vào
ngưỡng cửa đại học, có việc gì nó cũng hỏi mẹ. Thành thử cứ mỗi
lần hai mẹ con trao đổi với nhau về chuyện học hành, thì anh
chồng lại bỏ ra quán cà phê hay tức tối gây sự. Anh cảm thấy
mình chỉ là một kẻ thừa thãi trong căn nhà đầy đủ tiện nghi.
Theo các chuyên gia tâm lý, thì sự chênh
lệch về học thức rất dễ tạo nên những mâu thuẫn trong nhiều lãnh
vực, chẳng hạn như giáo dục con cái, kế hoạch chi tiêu, quan hệ
xã hội và thậm chí cả trong sinh hoạt tình dục.
Những anh chồng học vấn thấp thường cảm
thấy ấm ức trước những ý kiến của chị vợ, nhất là khi chị vợ lại
tỏ ra áp đặt. Rồi từ đó, anh chồng mang một thái độ tiêu cực và
bất cần, không chịu chia sẻ công việc gia đình với chị vợ, và
nhiều khi còn tìm cách bạo hành vợ để “bù đắp” những khuyết điểm
của mình. (Minh Long).
Tác giả Lâm Thanh trên báo Phụ Nữ, khi phân
tích về tình trạng “vợ giỏi”, cũng đã ghi nhận như sau:
Do quan niệm Á Đông đề cao nam giới, nên
người vợ giỏi sẽ rất dễ làm nảy sinh mặc cảm và những suy nghĩ
tiêu cực nơi anh chồng. Chị vợ thành đạt không còn có nhiều thời
gian như trước đây, chị bận bịu hơn, nên thời gian dành cho gia
đình cũng ít hơn, khiến anh chồng lại càng mặc cảm. Anh ngộ ra
rằng vợ không còn đoái hoài gì đến mình, và mình cũng chẳng còn
giá trị gì nữa.
Từ đó, anh chồng thường tỏ ra bất hợp tác
với mọi việc làm của vợ, thậm chí còn quát mắng, đánh đập để thể
hiện uy quyền của mình… Không thiếu những anh chồng nghĩ rằng:
Là phụ nữ, dù có giỏi giang, thành đạt đến đâu chăng nữa, thì
cũng vẫn là phụ nữ, nghĩa là vẫn phải nấu cơm, vẫn phải giặt
quần áo cho chồng”.
Đúng như ca dao đã diễn tả:
- Khôn ngoan cũng thể đờn bà,
Dù rằng vụng dại cũng là đờn ông!
Có anh chồng đã quan niệm:
- Phụ nữ sinh ra không được quyền tài giỏi
hơn chồng.
Thậm chí có anh chồng còn hung hăng phát
biểu:
- Làm đàn ông có thể chịu khổ, chứ không
thể chịu nhục được.
Sau cùng thứ tư, đó là chị vợ…giàu hơn
anh chồng
Chữ giàu ở đây được hiểu theo hai nghĩa, đó
là gia đình thuộc vào hàng khá giả và bản thân lại kiếm được
nhiều tiền.
Người con gái trước khi lấy chồng được sánh
ví như một tấm lụa:
- Thân em như tấm lụa đào,
Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai?
Nếu lấy được anh chồng giàu, thì mọi người
đều trầm trồ khen ngợi, cho đó là một sự may mắn và số phận
dường như mỉm cười với chị ta. Trong khi đó, người con trai
chẳng may lấy được cô giàu, thì lại bị miệng lưỡi thế gian xỉa
xói:
- Đũa mốc mà lại chòi mâm son: nghĩa là con
nhà nghèo, học dốt, xấu trai mà lại đòi lấy vợ đẹp, con nhà
giàu!
- Chuột sa chĩnh gạo: mỉa mai sự may mắn
được làm rể nhà giàu. Thậm chí còn được phong làm kỹ sư…đào mỏ,
như ngôn ngữ thời nay người ta vốn thường dùng.
Một khi đã bước vào cuộc sống lứa đôi, để
xây dựng mái ấm gia đình, thì anh chồng và chị vợ phải biết cộng
tác với nhau: Chồng như đó vợ như hom, của chồng công vợ. Tiền
của ai cũng được, miễn là thu nhập một cách chính đáng.
Tuy nhiên, sự đời lại không đơn giản, nhất
là khi chị vợ có thu nhập cao hơn chồng. Đây chính là một con
dao hai lưỡi, luôn đe doạ cắt đứt những sợi chỉ mỏng manh dệt
nên tấm vải hạnh phúc. Hệ luỵ của nó, nhẹ thì ở mức vợ chồng lục
đục, còn nặng thì đổ vỡ hay con cái hư hỏng.
Sở dĩ như vậy là vì trong tư tưởng của
người Việt Nam, anh chồng vốn là cột trụ gia đình, có nhiệm vụ
kiếm tiền để bảo đảm một cuộc sống ấm no cho mọi người. Chính vì
thế, khi chị vợ có thu nhập cao hơn, thì lúc bấy giờ tiền sẽ trở
thành nguyên nhân gây nên những xáo trộn và bất ổn. Nhiều anh
chồng ngán ngẩm trước chị vợ giỏi kiếm tiền, đã rút ra được
những kinh nghiệm quí giá như sau:
1- Với chị vợ kiếm được nhiều tiền, anh
chồng dễ dàng bị sai khiến, không còn nở mày nở mặt và khoác lác
được với bạn bè nữa.
2- Với chị vợ có thu nhập cao, về đến nhà
chị ta sẽ nằm dài trên ghế sofa và truyền: Anh chỉ kiếm được vài
đồng thì mệt mỏi cái nỗi gì, mau đi nấu cơn cơm cho em ăn! Mất
toi những yêu thương và chăm sóc của bà xã.
3- Với chị vợ kiếm được nhiều tiền, anh
chồng không còn là trụ cột của gia đình nữa, mà chỉ là một hạng
ký sinh ăn bám mà thôi, thậm chí có khi còn bị đuổi ra khỏi nhà,
vất vưởng, bơ vơ. Bằng không thì cũng phải bất đắc dĩ đóng trọn
vai trò vừa làm bố, vừa làm mẹ, vừa làm “người chồng mẫu mực”.
4- Với chị vợ có thu nhập cao, anh chồng
phải thường xuyên tháp tùng đi mua sắm và làm phu khuân vác đến
toát cả mồ hôi hột, mệt nhừ cả người và chân tay bải hoải.
5- Với chị vợ kiếm được nhiều tiền, khi đi
lại thì ngồi trên xe con có máy lạnh, ít hoạt động, nên dễ sinh
bệnh tật. Khi ăn uống thì dùng những của ngon vật lạ, nếu huyết
áp không cao, thì lượng mỡ trong máu cũng sẽ tăng vọt.
6- Với chị vợ có thu nhập cao, tiền bạc của
anh chồng chỉ là chuyện nhỏ, không cần quản lý chặt chẽ, nên anh
ta khó tránh khỏi những thói hư tật xấu, như rượu chè, cờ bạc và
bồ nhí!
Chị vợ kiếm tiền giỏi hơn chồng không có
nghĩa là “lên mặt”, trái lại cần phải mềm mỏng và nhẹ nhàng xử
lý các tình huống, đồng thời dành quyền quyết định cho anh
chồng. Chị vợ nên khéo léo gợi ý, rồi vận dụng khả năng thuyết
phục một cách hợp lý, để nhận được sự đồng thuận của anh chồng.
Chị HM là một người phụ nữ xinh đẹp, tháo
vát và khéo nuôi con, nhưng lại mắc phải một tật xấu duy nhất là
kiếm tiền giỏi hơn chồng. Bản thân chị không bao giờ chê chồng
kém, nhưng ngặt một nỗi, cứ bàn đến chuyện gì trong gia có liên
quan tới tiền, thì anh chồng lại nói dỗi:
- Tôi làm sao được bằng cô, cô giỏi mà!!!
Thế nhưng, chị vẫn tôn trọng anh và cho
biết:
- Một tháng tôi có thể làm thêm được hai ba
chục triệu, nhưng nhìn một triệu anh đưa, tôi vẫn cảm thấy sung
sướng, vì tôi biết mình đang cầm những đồng tiền do mồ hôi của
chồng đổ xuống.
Còn anh chồng, trong những lúc sa cơ thất
thế, hay bị sao quả tạ chiếu tướng, thay vì có thái độ tiêu cực,
mặc cảm và bất hợp tác hãy khẳng định mình bằng những hành vi
giúp đỡ cho chị vợ.
Để kết luận, gã xin ghi lại một hình ảnh đã
được đăng tải trên báo Phụ Nữ như sau:
Trong đợt tập huấn về bạo hành gia đình
được tổ chức tại Hà Nội vừa qua, không ít người đã tròn mắt ngạc
nhiên trước cảnh sống của một cặp vợ chồng Singapore. Họ sang
Việt Nam để thuyết giảng về tâm lý. Người được mời là bà vợ, còn
ông chồng đi theo để…bế con và lo cơm nước. Hàng ngày, sau khi
đưa vợ đến hội trường, ông lái xe đưa bọn trẻ đi chơi và lo chăm
sóc chúng. Ông chăm sóc một cách tự nhiên và thuần thục. Cuối
ngày, ông đi đón vợ, mang cả con cái theo. Gặp vợ, ông lo lắng
hỏi han về công việc, không có chút mặc cảm nào, khi phải thực
hiện vai trò “nội tướng” của mình.
(Lâm Thanh).
Quả là đáng khâm phục lắm vậy thay!
Gã Siêu
gasieu@gmail.com
|
VỀ MỤC LỤC |
|
- Mọi liên lạc: Ghi danh, thay đổi địa chỉ, đóng góp ý kiến,
bài vở..., xin gởi về địa chỉ
giaosivietnam@gmail.com
- Những nội dung sẽ được đề cao và chú ý bao gồm:
Trao đổi, chia sẻ những kinh nghiệm thực tế trong việc mục
vụ của Giáo sĩ; Những tài liệu của Giáo hội hoặc của các
Tác giả nhằm mục đích Thăng tiến đời sống Giáo sĩ; Cổ võ ơn
gọi Linh mục; Người Giáo dân tham gia công việc “Trợ lực
Giáo sĩ” bằng đời sống cầu nguyện và cộng tác trong mọi lãnh
vực; Mỗi Giáo dân phải là những “Linh mục” không có chức
Thánh; Đối thoại trong tinh thần Bác ái giữa Giáo dân và
Giáo sĩ… (Truyền giáo hay xây pháo đài?)
- Quy vị cũng có thể tham khảo những số báo đã phát hành tại
www.conggiaovietnam.net
Rất mong được sự cộng tác, hưởng ứng của tất cả Quí vị
Xin chân thành cám ơn tất cả anh chị em đã
sẵn lòng cộng tác với chúng tôi bằng nhiều cách thế khác
nhau.
TM. Đặc San Giáo Sĩ Việt Nam
Lm. Luca
Phạm Quốc Sử
USA
|
|
*************
|
|