Dân Thiên Chúa |
Hiến Chế Tín Lý
Về Giáo Hội
Lumen Gentium
Bản dịch Việt
Ngữ của Giáo Hoàng Học Viện Piô X
Prepared for
Internet by Vietnamese Missionaries in Asia
Chuong II
Dân Thiên Chúa
9*
9.
Giao Uớc mới và Dân Tộc mới .
Chắc chắn trong mọi thời đại và mọi dân tộc, bất cứ nguời nào
kính sợ Thiên Chúa và thực hành đức công chính đều đuợc Ngài
đoái thuong (x. CvTđ 10,35). Tuy nhiên, Thiên Chúa không muốn
thánh hóa và cứu rỗi loài nguời cách riêng rẽ, thiếu liên kết,
nhung Ngài muốn qui tụ họ thành một dân tộc để họ nhận biết
chính Ngài trong chân lý, và phụng sự Ngài trong thánh thiện. Vì
thế, Ngài đa chọn dân Israel là dân Ngài, đa thiết lập với họ
một giao uớc, giáo huấn họ dần dần bằng cách tỏ chính mình và ý
định mình qua lịch sử dân ấy, và Ngài đa thánh hóa họ để dành
riêng cho mình. Tuy nhiên, tất cả những điều ấy chỉ là chuẩn bị
và hình bóng của giao uớc mới và hoàn hảo, sẽ đuợc ký kết trong
Chúa Kitô, và là chuẩn bị cho mạc khải trọn vẹn hon do chính
Ngôi Lời Thiên Chúa nhập thể mang đến. Thiên Chúa phán: "Này đây
sẽ tới ngày Ta ký giao uớc mới với nhà Israel và nhà Giuđa... Ta
sẽ ban luật Ta trong lòng chúng, và khắc ghi luật ấy vào trái
tim chúng, và Ta sẽ là Thiên Chúa của chúng, và chúng sẽ trở
thành dân Ta... Tất cả mọi nguời từ nhỏ chí lớn đều sẽ nhận biết
Ta. Ðó là Lời Chúa phán" (Gier 31,31-34). Chúa Kitô đa thiết lập
minh uớc mới ấy, đó là giao uớc mới trong máu Nguời (x. 1Cor
11,25), Nguời triệu tập dân chúng từ dân Israel và từ các dân
ngoại, họp thành một khối duy nhất trong Thánh Thần chứ không
theo xác thịt, để làm họ nên dân tộc mới của Thiên Chúa. Thực
vậy, những ai tin kính Chúa Kitô đều đuợc tái sinh không phải
bởi mầm mống hay hu nát, nhung do mầm mống bất diệt nhờ lời
Thiên Chúa hằng sống (x. 1P 1,23), không phải bởi xác thịt nhung
bởi nuớc và Thánh Thần (x. Gio 3,5-6), và cuối cùng trở thành
một "dòng giống đuợc tuyển chọn, thành hàng tu tế vuong giả, dân
tộc thánh, dân tộc đa đuợc Thiên Chúa thu phục, truớc kia không
phải là một dân, mà nay là dân của Thiên Chúa" (1P 2,9-10).
Dân thiên sai này có vị thủ lãnh là Chúa
Kitô, "Ðấng đa bị nộp vì tội lỗi ta và phục sinh cho ta nên công
chính" (Rm 4,25), và bây giờ Nguời đuợc một danh hiệu vuợt trên
mọi danh hiệu, và đang hiển trị trên trời. Ðịa vị dân này là
đuợc vinh dự và tự do làm Con Thiên Chúa, và Thánh Thần ngự
trong tâm hồn họ nhu trong đền thờ. Luật của họ là giới răn mới:
phải thuong yêu nhau nhu chính Chúa Kitô đa yêu thuong chúng ta
(x. Gio 13,34). Sau cùng, cứu cánh của họ, tức là phát triển
thêm Nuớc Thiên Chúa, đã đuợc Ngài khai nguyên trên trần gian,
cho tới khi đuợc Ngài hoàn tất trong ngày tận thế, ngày mà Chúa
Kitô, sự sống của chúng ta, hiện đến (x. Col 3,4), ngày mà "chính
tạo vật cung đuợc giải phóng khỏi ách nô lệ hu nát, lại đuợc tự
do trong vinh quang con cái Thiên Chúa" (Rm 8,21). Vì thế, dân
tộc thiên sai ấy, tuy hiện nay chua bao gồm toàn thể nhân loại
và đôi khi tỏ ra nhu một đan chiên nhỏ, nhung lại là một mầm
mống vững chắc nhất của hiệp nhất, hy vọng và cứu rỗi cho toàn
thể nhân loại. Dân tộc thiên sai ấy đuợc Chúa Kitô thiết lập để
thông dự vào sự sống, bác ái và chân lý, đuợc Nguời xử dụng nhu
khí cụ cứu rỗi cho mọi nguời, và đuợc sai đi khắp thế giới nhu
ánh sáng trần gian và muối đất (x. Mt 5,13-16).
Cung nhu dân Israel theo xác thịt, khi đang lữ hành trong sa mạc,
đã đuợc gọi là Giáo Hội của Thiên Chúa (x. 2Esd 13,1; Ds 20,4;
Dnl 23,1tt), dân Israel mới tiến buớc trong thời đại này đang
tìm về thành thánh tuong lai bất diệt (x. Dth 13,14) cung đuợc
gọi là Giáo Hội Chúa Kitô (x. Mt 16,18). Thực vậy, chính Nguời
đã lấy máu mình mà chuộc lấy Giáo Hội đó (x. CvTđ 20,28), Nguời
đổ tràn Thánh Thần và ban các phuong thế thích hợp để kết hiệp
thành một xã hội hữu hình. Thiên Chúa triệu tập tất cả những
nguời tin kính và mong đợi Chúa Kitô, Ðấng ban on cứu độ và hiệp
nhất, nguyên lý của sự hòa bình; Ngài thiết lập họ thành Giáo
Hội để Giáo Hội trở nên bí tích hữu hình của sự hiệp nhất cứu độ
ấy cho toàn thể và cho mỗi nguời
1.
Với bổn phận phải lan rộng khắp thế giới, Giáo Hội đi sâu vào
lịch sử nhân loại. Tuy nhiên Giáo Hội đồng thời cung vuợt thời
gian và biên giới các dân tộc. Tiến buớc giữa con cám dỗ và đau
thuong, Giáo Hội vững mạnh nhờ on Thiên Chúa mà Chúa Giêsu đã
hứa ban, hầu Giáo Hội vẫn hoàn toàn trung tín, sống nhu một Hiền
Thê xứng đáng của Chúa mình, dầu xác thịt yếu hèn, và không
ngừng tự đổi mới duới tác động của Chúa Thánh Thần cho đến ngày,
nhờ thánh giá, đạt đến ánh sáng không hề tắt.
10*
10. Chức tu tế cộng đồng .
11*
Chúa Kitô, Linh Mục Thuợng Phẩm đuợc chọn noi loài nguời (x. Dth
5,1-5), để biến dân tộc mới thành một "vuong quốc, thành những
tu tế cho Thiên Chúa, Cha Nguời" (Kh 1,6; x. 5,9-10). Thực vậy,
những nguời đã lãnh phép Thánh Tẩy, nhờ đuợc tái sinh và xức dầu
của Thánh Thần, đuợc cung hiến để trở thành chỗ ở thiêng liêng
và nhận chức tu tế thánh, hầu qua mọi hoạt động của con nguời
Kitô hữu, dâng của lễ thiêng liêng và rao truyền những kỳ công
của Ðấng đa gọi họ từ bóng tối đến ánh sáng kỳ diệu của Ngài (x.
1P 2,4-10). Vì thế, tất cả các môn đệ của Chúa Kitô, trong khi
kiên tâm cầu nguyện và cùng nhau ca tụng Thiên Chúa (x. CvTđ
2,42-47), họ phải dâng mình làm của lễ sống động, thánh thiện,
đẹp lòng Thiên Chúa (x. Rm 12,1), phải làm chứng về Chúa Kitô
trên khắp mặt đất và trình bày niềm hy vọng về cuộc sống vinh
cửu mà họ ôm ấp cho những ai đang khao khát. (x. 1P 3,15).
Chức tu tế cộng đồng của các tín hữu và chức tu tế thừa tác hay
phẩm trật, tuy khác nhau không chỉ về cấp bậc mà còn về bản chất,
song cả hai bổ túc cho nhau. Thực vậy, cả hai đều tham dự vào
chức linh mục duy nhất của Chúa Kitô theo cách thức riêng của
mình
2.
Tu tế thừa tác, nhờ có quyền do chức thánh, đao tạo và cai quản
dân tộc tu tế, đóng vai trò Chúa Kitô cử hành hy tế tạ on và
dâng của lễ ấy lên Thiên Chúa nhân danh toàn thể dân chúng. Phần
tín hữu, nhờ chức tu tế vuong giả, cộng tác dâng thánh lễ
3,
và thi hành chức vụ đó trong việc lãnh nhận các bí tích, khi cầu
nguyện và tạ on, bằng đời sống chứng tá thánh thiện, bằng sự từ
bỏ và bác ái tích cực.
12*
11. Hành sử chức tu tế cộng đồng trong các bí tích .
13*
Ðặc tính thánh thiện và có tổ chức của cộng đoàn tu tế đuợc thể
hiện trong hành động nhờ các bí tích và các nhân đức. Các tín
hữu tháp nhập vào Giáo Hội bởi phép Thánh Tẩy, và nhờ ấn tích,
họ đuợc đề cử thi hành việc phụng thờ Kitô giáo và, đuợc tái
sinh làm con Thiên Chúa, họ có bổn phận tuyên xung truớc mặt mọi
nguời đức tin mà họ nhận lãnh từ Thiên Chúa qua Giáo Hội
4.
Nhờ on bí tích Thêm Sức, họ gắn bó với Giáo Hội cách hoàn hảo
hon và đuợc du đầy sức mạnh đặc biệt của Chúa Thánh Thần, do đó
họ càng có bổn phận khẩn thiết hon phải loan truyền và bảo vệ
đức tin bằng lời nói và việc làm nhu những chứng nhân đích thực
của Chúa Kitô
5.
Khi tham dự thánh lễ, nguồn mạch và chóp đỉnh của đời sống Kitô
giáo, họ dâng lên Thiên Chúa Lễ Vật thần linh và cùng với Lễ Vật
ấy họ tự dâng chính mình họ
6.
Khi dâng lễ cung nhu khi hiệp lễ, không phải cách lộn xộn, nhung
mỗi nguời một cách góp phần vào việc cử hành phụng vụ. Hon nữa,
đuợc bổ duỡng bởi Mình Thánh Chúa Kitô trong thánh lễ, họ biểu
lộ cách cụ thể sự hiệp nhất của Dân Thiên Chúa, sự hiệp nhất ấy
đuợc diễn tả đầy đủ và thực hiện cách kỳ diệu trong bí tích cực
trọng này.
Những ai đến nhận lãnh bí tích Cáo Giải đều
đuợc Thiên Chúa nhân từ tha thứ những xúc phạm đến Ngài. Ðồng
thời họ đuợc giao hòa cùng Giáo Hội mà tội lỗi họ đa làm tổn
thuong. Nhung Giáo Hội hằng nỗ lực lấy đức ái, guong lành và
kinh nguyện, để hoán cải họ. Bằng phép Xức Dầu Thánh và lời cầu
nguyện của các linh mục, toàn thể Giáo Hội phó thác các bệnh
nhân cho Chúa Kitô đau khổ và hiển vinh để Nguời an ủi và cứu
rỗi họ (x. Giac 5,14-16); hon nữa, Giáo Hội còn thúc giục họ sẵn
sàng kết hợp với Chúa Kitô chịu đau khổ và chịu chết (x. Rm
8,17; Col 1,24; 2Tm 2,11-12; 1P 4,13) để muu ích cho Dân Thiên
Chúa. Còn những nguời trong các tín hữu có hân hạnh lãnh nhận
chức Thánh, đuợc đặt lên nhân danh Chúa Kitô để chăn dắt Giáo
Hội bằng ân sủng và Lời Thiên Chúa. Sau cùng, nhờ sức thiêng của
bí tích Hôn Phối, các đôi vợ chồng Kitô giáo biểu hiện và tham
dự mầu nhiệm hiệp nhất và tình yêu phong phú giữa Chúa Kitô và
Giáo Hội (x. Eph 5,32); họ giúp nhau nên thánh trong đời sống
hôn nhân, trong việc đón nhận và giáo dục con cái; cung vì đó,
họ đuợc những on riêng cho đấng bậc mình trong Dân Chúa
7.
Từ sự kết hợp ấy phát sinh ra gia đinh, noi các công dân mới của
xã hội loài nguời đuợc sinh ra, và nhờ ân sủng của Chúa Thánh
Thần trong bí tích Thánh Tẩy, họ trở nên con cái Thiên Chúa, hầu
Dân Chúa tồn tại mãi trong dòng lịch sử. Trong gia đinh nhu một
Giáo Hội nhỏ, uớc gì cha mẹ là những nguời đầu tiên dùng guong
lành và lời nói mà truyền dạy đức tin cho con cái, cung nhu phải
lo chăm sóc đến on gọi riêng của từng đứa con, và phải đặc biệt
chăm sóc đến on kêu gọi làm linh mục.
Ðuợc ban cho
những phuong tiện cứu rỗi dồi dào nhu thế, mọi Kitô hữu, dù ở
địa vị nào, bậc sống nào, đều đuợc Chúa kêu gọi đạt tới sự trọn
lành thánh thiện nhu Chúa Cha trọn lành, tùy theo con đuờng của
mỗi nguời.
14*
12. Cảm thức của đức tin và đoàn sủng trong Dân Thiên Chúa .
Dân Thánh Thiên Chúa cung tham dự vào chức vụ tiên tri của Chúa
Kitô bằng cách phổ biến chứng tá sống động về Nguời, nhất là qua
đời sống đức tin và đức ái; và dâng lên Thiên Chúa của lễ ca
tụng, hoa trái của những miệng luỡi ngợi khen thánh Danh Nguời
(x. Dth 13,15). Toàn thể tín hữu, đuợc Chúa Thánh Thần xức dầu
(x. 1Gio 2,20 và 27), không thể sai lầm trong đức tin. Họ biểu
lộ đặc tính ấy nhờ cảm thức siêu nhiên về đức tin của toàn thể
dân Chúa, khi "từ các giám mục cho đến nguời giáo dân rốt hết"
8
đều đồng ý về những điều liên quan đến đức tin và phong hóa.
Thực vậy, nhờ cảm thức về đức tin đuợc Thánh Thần chân lý khoi
dậy và duy trì, duới sự huớng dẫn và giáo huấn thần linh của
Giáo Hội mà họ trung thành tuân theo, Dân Thiên Chúa nhận lãnh
không phải lời nói của loài nguời nữa, mà thực sự là lời của
Thiên Chúa (x. 1Th 2,13; họ gắn bó hoàn toàn "với đức tin chỉ
một lần đuợc ban bố cho các thánh" (Gđa 3), họ tiến sâu hon
trong đức tin nhờ phán đoán đứng đắn, và sống đức tin cách hoàn
hảo hon.
Hon nữa, cung chính Thánh Thần ấy, không chỉ thánh hóa và huớng
dẫn Dân Thiên Chúa bằng các bí tích, các chức vụ, và trang điểm
họ bằng các nhân đức, nhung Ngài còn ban phát các ân sủng đặc
biệt cho mọi cấp bậc các tín hữu "phân chia ân huệ cho mỗi nguời
theo ý Ngài" (1Cor 12,11), khiến nguời lãnh nhận các ân sủng ấy
có đủ khả năng và sẵn lòng đảm nhận các công việc và nhiệm vụ
khác nhau muu ích cho việc canh tân, xây dựng và phát triển Giáo
Hội nhu lời chép rằng: "Thánh Thần hiển hiện trong mỗi nguời hầu
mang lại lợi ích" (1Cor 12,7). Phải lãnh nhận những đoàn sủng
này, từ các on chói lọi nhất đến các on thuờng mà nhiều nguời
lãnh đuợc, với lòng tri ân và yên ủi vì các on đó mang ích lợi
và phù hợp với nhu cầu của Giáo Hội. Nhung không nên liều linh
kêu nài những on đặc biệt, và cung đừng vì đó mà tự đắc mong
rằng việc tông đồ sinh kết quả. Những vị thủ lãnh trong Giáo Hội
có thẩm quyền phán quyết về tính cách chân chính và sự xử dụng
hợp lý các on lạ ấy; các ngài có nhiệm vụ đặc biệt phải khảo sát
tất cả, không phải để dập tắt Thánh Thần, nhung để giữ lại những
điều thiện hảo (x. 1Th 5,12 và 19-21).
15*
13. Tính cách phổ quát noi Dân duy nhất của Thiên Chúa .
16*
Mọi nguời đuợc mời gọi gia nhập Dân Tộc mới của Thiên Chúa. Vì
thế, Dân mới này, một dân duy nhất và hằng hiệp nhất, có bổn
phận phải lan rộng khắp thế giới trải qua mọi thế hệ, hầu hoàn
tất kế hoạch của Thánh Ý Thiên Chúa, Ðấng từ nguyên thủy đa tạo
dựng một bản tính nhân loại duy nhất, và quyết định sau này tập
họp tất cả con cái Ngài tản mát đó đây thành một dân tộc độc
nhất (x. Gio 11,52). Chính vì mục đích ấy mà Thiên Chúa đa sai
Con Ngài xuống, Ðấng mà Ngài đa đặt làm thừa kế vu trụ (x. Dth
1,2), hầu trở nên Thầy, Vua và Tu Tế cho mọi nguời, và nên Thủ
Lãnh của dân tộc mới và phổ quát của con cái Thiên Chúa. Sau
cùng, cung vì mục đích đó mà Thiên Chúa đã sai Thánh Thần của
Con Ngài, là Chúa và là Ðấng ban sự sống. Ðối với toàn Giáo Hội,
với tất cả cung nhu với mỗi tín hữu, Thánh Thần là nguyên lý qui
tụ và hiệp nhất, trong giáo lý của các Tông Ðồ, trong sự hiệp
thông, bẻ bánh và kinh nguyện (x. CvTđ 2,42, bản Hy lạp).
Nhu thế, Dân
duy nhất của Thiên Chúa hiện diện noi mọi dân nuớc trần gian.
Tuy dân của Nuớc Ngài là công dân của các nuớc, song thực ra,
đặc tính của Nuớc ấy không thuộc về thế gian nhung thuộc về Trời.
Quả thực, mọi tín hữu rải rác trên khắp hoàn cầu đều hiệp thông
trong Thánh Thần với tất cả các tín hữu khác, và vì thế "kẻ ở
Rôma biết rằng nguời Ấn Ðộ là chi thể mình"
9.
Nhung vì Nuớc Chúa Kitô không thuộc về thế gian này (x. Gio
18,36), nên Giáo Hội, tức Dân Thiên Chúa, hợp thành Nuớc ấy,
không loại bỏ bất cứ một phần di sản trần thế nào của các dân
tộc; trái lại, Giáo Hội chăm sóc và thu dụng tất cả những gì tốt
lành noi gia sản, noi nguồn lực và phong hóa của các dân tộc, và
khi thu dụng, Giáo Hội tinh luyện, kiện toàn và làm chúng nên
cao thuợng. Thực vậy, Giáo Hội nhớ rằng mình phải kết hợp với
Vua ấy là Ðấng đa lãnh nhận các dân nuớc làm gia nghiệp mình (x.
Tv 2,8), và các dân nuớc mang đến Thành Ðô Nguời của lễ và tặng
vật (x. Tv 71 (72),10; Is 60,4-7; Kh 21,24). Ðặc tính phổ quát
này, tu trang của Dân Thiên Chúa, là một ân huệ do chính Thiên
Chúa ban, nhờ đó Giáo Hội Công Giáo luôn nỗ lực cách hữu hiệu
qui tụ toàn thể nhân loại cùng những gì tốt lành noi họ duới một
Thủ Lãnh là Chúa Kitô, trong sự hiệp nhất với Chúa Thánh Thần
10.
Nhờ đặc tính công giáo ấy, mỗi phần tử mang những ân huệ riêng
của mình đến cho các phần tử khác và cho toàn Giáo Hội, do đó
toàn thể và mỗi phần tử tăng triển nhờ hiệp thông với nhau và
nhờ nỗ lực tiến đến viên mãn trong sự hiệp nhất. Vì thế, Dân
Thiên Chúa tạo thành không những do các dân nuớc qui tụ lại
nhung còn do các chức vụ khác nhau trong nội bộ nữa. Thực vậy,
giữa các phần tử trong dân, có nhiều sự khác biệt: hoặc do chức
vụ, nhu những nguời thi hành thừa tác vụ thánh để muu lợi ích
cho anh em mình, hoặc do hoàn cảnh và nếp sống, nhu những nguời
sống trong bậc tu trì, cố gắng nên thánh bằng con đuờng khắc khổ
hon và nêu guong khích lệ anh em. Cung vì thế, ngay trong sự
hiệp thông của Giáo Hội cung có sự hiện diện hợp pháp của những
Giáo Hội địa phuong, thừa huởng những truyền thống riêng, mà vẫn
không phuong hại đến quyền tối thuợng của Tòa Thánh Phêrô, Tòa
Thánh này, thủ lãnh toàn thể cộng đoàn đức ái
11,
bảo vệ các dị biệt hợp pháp không phuong hại, trái lại còn sinh
ích cho sự hiệp nhất đó. Cung vì thế các thành phần khác nhau
của Giáo Hội liên kết với nhau bằng mối dây hiệp thông mật thiết
về của cải thiêng liêng, về thợ truyền giáo và về sự trợ giúp
vật chất. Quả thực, mọi phần tử Dân Thiên Chúa đuợc kêu gọi chia
sẻ của cải mình và lời nói sau đây của vị Tông Ðồ cung có giá
trị cho mọi Giáo Hội: "Mỗi nguời hãy tùy theo on đã nhận đuợc mà
giúp đỡ lẫn nhau, nhu những quản lý tài ba phân phối mọi thứ on
của Thiên Chúa" (1P 4,10).
Vì thế mọi nguời đều đuợc mời gọi vào sự
hiệp nhất công giáo này của Dân Thiên Chúa, sự hiệp nhất ấy tiên
báo và cổ võ nền hòa bình phổ quát. Họ thuộc về hoặc huớng về sự
hiệp nhất đó duới nhiều thể cách khác nhau, đuợc sắp xếp hoặc họ
là tín hữu công giáo hay là những nguời tin Chúa Kitô, hoặc sau
cùng tất cả mọi nguời không trừ ai đều đuợc on Thiên Chúa kêu
mời lãnh nhận phần rỗi.
17*
___________
Chú Thích
9*
Chuong nhất của Hiến Chế tín lý về Giáo Hội bàn về mầu nhiệm
Giáo Hội đặc biệt trong chiều huớng ngoài thời gian. Chuong hai
trình bày hình ảnh mầu nhiệm Giáo Hội cụ thể của Chúa Giêsu Kitô
trong chiều huớng lịch sử: sự xuất hiện, bản tính là Dân Thiên
Chúa đang trong cuộc hành trình, sự bành truớng của Giáo Hội
trong không gian và thời gian. Lịch sử tính phổ quát của mầu
nhiệm Giáo Hội - nhu số 8 đã khai mào - có thể diễn tả một cách
tổng hợp nhu sau: Giáo Hội là Dân Thiên Chúa trên đuờng lữ hành
qua lịch sử thánh, bắt đầu từ lúc Israel đuợc Chúa gọi đi tới
Giáo Hội với những chiều huớng phổ quát của cuộc hoàn tất trong
sự hiệp thông với Chúa Ba Ngôi. Công Ðồng đa luu tâm xây dựng
khoa Giáo Hội học dựa trên lịch sử cứu rỗi, nhu thế là trở về
với dự kiến nền tảng của khoa Giáo Hội học thời Giáo Hội so khai
mà khoa thần học thời Trung Cổ (ít quan tâm đến lịch sử), thời
chống phái Cải Cách (nhấn mạnh đặc biệt tới khía cạnh phẩm trật),
thuộc thế kỷ thứ XIX và đầu thế kỷ XX (khám phá ra đặc tính
huyền thiêng của Giáo Hội và khai triển ý niệm tinh về Nhiệm Thể)
đa bỏ qua. Dự kiện nền tảng ấy nhu sau: chỉ mình Giáo Hội Chúa
Kitô là sự hoàn tất hợp pháp của dân tộc mang lời hứa Cựu Uớc;
công đoàn con nguời là Giáo Hội (với những nhiệm vụ, vai trò và
trách nhiệm khác nhau) mặc hình thức một dân tộc đuợc triệu tập
và liên kết bởi một Tân Uớc tiếp nối cho Cựu Uớc. Triệu tập là
tiếp tục lời mời đối với Israel truớc đây, nhung không còn dành
riêng cho một chủng tộc nào nữa: từ nay trong Tân Uớc, lời mời
gọi của Thiên Chúa qua Máu Chúa Kitô sẽ đến với mọi nguời. Nhu
thế Giáo Hội đuợc coi nhu Dân Thiên Chúa đang tiến tới viên mãn
duới Thần Khí Chúa Kitô. Dự kiện ấy là nền tảng cho tất cả những
khai triển của Hiến Chế. Ðể có thể cân nhắc chính xác vai trò
của các hạng nguời trong Giáo Hội (phổ quát tính của Dân Chúa),
cần phải định vị các nhóm này (giáo phẩm, giáo dân, tu si) trong
toàn thể Dân Chúa: "Dân Chúa noi đây phải hiểu là cả mục tử lẫn
con chiên... Phải nhìn Dân Chúa trong toàn diện; có vậy mới thấy
rõ trách vụ của mục tử là cung ứng cho con chiên những phuong
thế cứu rỗi, và on gọi của con chiên là phải cộng tác với mục tử
để truyền bá Phúc Âm và mở mang Giáo Hội" (Rel. Gen.). Truớc khi
đề cập chi tiết đến những hạng nguời khác nhau, cần phải mô tả
cộng đoàn và cho biết yếu tố chung của mỗi nguời, tức là: phải
thuộc về Dân Thiên Chúa nhu là noi tập hợp các tín hữu.
Ý niệm về Dân Thiên Chúa giữ một vị trí
then chốt trong toàn thể Hiến Chế và nói lên hai điểm:
a) Sự liên tục lịch sử của kế hoạch cứu rỗi
của Thiên Chúa thực hiện trong mầu nhiệm Giáo Hội, nhu là dân
mới của Tân Uớc với đặc tính đón nhận mọi nguời;
b)
Cộng đoàn sống trong đức tin của tất cả những nhóm và những hạng
nguời tạo thành Dân Thiên Chúa.
Chuong này có kết cấu đon giản. Sau phần nhập đề về Dân Thiên
Chúa cách tổng quát (số 9), phần nhất mô tả địa vị chung và đồng
nhất cho mọi Kitô hữu đuợc Chúa chọn để tham dự vào Dân Ngài:
Dân Thiên Chúa là dân tu tế (các số 10-12). Phần hai bàn về on
gọi phổ quát - công giáo tính - của Dân Chúa, ý định đuợc cụ thể
hóa trong lịch sử Dân Ngài. Công Ðồng cố gắng bày tỏ sao cho
những hạng nguời khác nhau nói lên mối tuong quan với Dân Thiên
Chúa, là sự phô diễn lịch sử của mầu nhiệm cứu độ phổ quát (các
số 13-16). Phần kết luận của chuong này nói về Chúa Thánh Thần
là Ðấng xuớng xuất ra phổ quát tính ấy mà những sứ mệnh của Ngài
là biểu tuợng sống động.
1
Xem T. Cyprianô, Epist. 69, 6 : PL 3, 1142 B ; Hartel 3 B, trg
754: "bí tích hiệp nhất bất khả phân ly".
10* Số 9: Giao uớc mới và dân
tộc mới.
Thần học về Dân
Thiên Chúa đuợc trình bày qua ba giai đoạn:
a) Ý định hữu hiệu của Thiên Chúa muốn cứu
vớt nhân loại qua việc Chúa làm cho nhân loại trở thành một dân
tộc mà Israel cu là hình bóng chuẩn bị truớc. Dân tộc mới của
Chúa kế nghiệp dân tộc cu và cung dành cho mình những tuớc hiệu
của dân tộc cu (số 9a).
b)
Những chiều huớng của dân tộc mới: có thủ lãnh là Chúa Kitô, có
qui chế là chức vị và sự tự do của các con cái Chúa, có luật
pháp là giới răn mới, có không gian là phổ quát tính, có cùng
đích là Nuớc Trời. Nó vuợt quá biên cuong một quốc gia để tiến
tới mọi quốc gia (số 9b).
c) Dân tộc mới này là Giáo Hội Chúa Kitô.
Vì chính trong dân ấy mà ý định cứu rỗi đạt đuợc mục đích là qui
tụ các con cái tản mát của Thiên Chúa về hiệp nhất. Nhờ các con
cái ấy mà Dân Thiên Chúa tạo thành Giáo Hội để Giáo Hội trở nên
bí tích hữu hình của một on cứu rỗi. Giáo Hội là Dân Thiên Chúa
luôn tiến tới viên mãn là Nuớc Trời. Bén rễ trong lịch sử, thiết
lập trên trái đất và giữa trần gian, Giáo Hội đang trên đuờng đi
về Giêrusalem thiên quốc (số 9c; x. số 5 và chuong VIII).
11* Các số 11-12: Dân tu tế.
Dân tộc này là một dân "tu tế". Công Ðồng giải thích vắn tắt bản
tính của chức tu tế (số 10) và việc thi hành chức vụ ấy (các số
11-12).
2
Xem Piô XII, Huấn từ Magnificate Dominum, 2-11-1954 : AAS 46
(1954), trg 669. Tđ. Mediator Dei, 20-11-1947 : AAS 39 (1947),
trg 555.
3
Xem Piô XI, Tđ. Miserentissimus Redemptor, 8-5-1928 : AAS 20
(1928), trg 171t. Piô XII, Huấn từ "Vous nous avez", 22-9-1956 :
AAS 48 (1956), trg 714.
12*
Số 10: Bản tính của chức tu tế cộng đồng.
Công Ðồng đi theo đuờng lối truyền thống
khi quả quyết là nguời đã chịu phép Thánh Tẩy đều đuợc thánh
hiến để lãnh nhận chức tu tế thánh. Quả thực, Dân Thiên Chúa
tham dự vào chức vụ tu tế của Chúa Kitô vì là dân tộc đuợc thừa
huởng những đặc ân của dân tu tế mà Thiên Chúa đa tuyển chọn và
dành riêng cho Ngài trên núi Sinai. Chúa Kitô đa đuợc thánh hiến
để trở thành vị Tu Tế (tức là vị Trung Gian của Tân Uớc), nhờ
Ngôi Hiệp. Chức vụ tu tế ấy đuợc Dân Thiên Chúa tham dự, trở
thành chung cho mọi tín hữu nhờ phép Thánh Tẩy. Công Ðồng gọi là
"chức tu tế cộng đồng". Chúa Kitô biến dân này thành một cộng
đoàn đuợc thánh hiến. Nguời theo đuổi sứ mệnh của Nguời trong
mỗi tín hữu, mỗi phần tử của Dân Thiên Chúa. Ai chịu phép Thánh
Tẩy để vào Giáo Hội, thì cung đều nhận đuợc sự thánh hiến tu tế
này, nghia là, Chúa Kitô cho nguời đó tham dự vào chức tu tế, và
sứ mệnh tiên tri và vào chức vụ vuong giả của Nguời (sô 10a).
Nhung phải phân biệt chức tu tế cộng đồng này với chức tu tế
thừa tác đuợc trao phó cho một số nguời đã chịu phép Thánh Tẩy.
Chức tu tế thừa tác bao gồm quyền hành trên Dân Thiên Chúa. Cả
hai chức tu tế đều tham dự vào chức tu tế duy nhất của Chúa Kitô,
và có liên quan với nhau: chức tu tế cộng đồng hoàn tất nhờ chức
tu tế thừa tác và chức tu tế thừa tác dựa trên chức tu tế cộng
đồng (số 10b). ( Trở
lại đầu trang)
13* Các số 11-12: Việc thi hành
chức tu tế cộng đồng.
Việc thi hành bao gồm hai nhiệm vụ riêng
cho Dân Chúa: tham dự vào các bí tích và chứng tá cho đức tin.
4
Xem T. Tôma, Summa Theol. III, q.63, a.2.
5
Xem T. Cyrillô Hieros., Catech. 17, về Chúa Thánh Thần, II,
35-37 : PG 33, 1009-1012. Nic. Cabasilas, De vita in Christo, C.
III, về lợi ích của dầu thánh: PG 150, 569-580. T. Tôma, Summa
Theol. III, q. 95, a.3 và q. 72, a.1 và 5.
6
Xem Piô XII, Tđ. Mediator Dei, 20-11-1947 : AAS 39 (1947), nhất
là trg 552 t.
7
1Cor 7,7: "Mỗi nguời Chúa ban cho on riêng (idion charisma),
nguời đuợc on này, nguời đuợc on kia". Xem T. Augustinô, De Dono
Persev. 14, 37 : PL 45, 1015t: "Không những tiết dục, nhung cả
khiết tịnh của đôi bạn cung là on Chúa ban".
14*
Số 11: Tham dự vào các bí tích.
Chức tu tế cộng đồng biểu thị tính chât một cộng đoàn có tổ chức
hệ thống nên phải đuợc thi hành bằng những phuong tiện có hệ
thống và hữu hình. Bí tích chiếm hàng đầu, nhung cung đừng bỏ
qua những nhân đức Kitô giáo do các bí tích truyền thông và
thăng tiến nhờ chính những hoạt động của chúng. Ðoạn này nhắc
cho chúng ta ý niệm thần học cổ điển đa nói trong Thông điệp
"Mediator Dei": việc tham dự vào các bí tích (không phải chỉ
tiếp nhận thụ động, nhung phải tiếp nhận trong sự thấu suốt bằng
đức tin) là sự thi hành chức tu tế ấy. Thực ra, Công Ðồng nhấn
mạnh tới hiệu quả mà bí tích mang lại cho đời sống Kitô hữu hon
là tới chính việc tham dự vào quyền tu tế của Chúa Kitô. Thần
học sẽ còn phải đao sâu về quyền tu tế, một thứ quyền chủ động,
trên bình diện toàn thể Dân Chúa.
8
Xem T. Augustinô, De Praed. Sanct. 14,27 : PL 44, 980.
15*
Số 12: chứng tá cho đức tin.
Hiến chế coi việc tuyên xung đức tin Kitô giáo liên quan tới
chức vụ tu tế cộng đồng và đặc tính vô ngộ của đức tin noi toàn
thể Dân Thiên Chúa là do Chúa Thánh Thần linh ứng. Ðức tin này
không chỉ là việc tuân theo các lời giáo huấn của Giáo Hội, các
công thức Giáo Hội đề ra, nhung còn diễn tả một "ý thức" sâu
thẳm do Chúa Thánh Thần ghi tạc trong Dân Chúa, ý thức ấy giúp
phân biệt chân lý, vững tâm chấp nhận chân lý mà không sợ sai
lầm. Những chân lý ấy đuợc Công Ðồng quảng diễn theo ba cách:
a)
Truớc hết mối dây liên lạc giữa chức tu tế cộng đồng với sứ mệnh
tiên tri của Chúa Kitô, sứ mệnh mà Dân Chúa tham dự và cung nhờ
đó mới có thể minh chứng đức tin.
b) Ý thức đức tin có ảnh huởng trong cộng
đoàn nhờ việc Chúa Thánh Thần xức dầu, và nhu vậy chính tín hữu,
đuợc soi sáng trong tâm hồn, sẽ phân biệt giáo lý chân chính với
tà thuyết.
c) Trong ý thức đức tin, nguời ta có thể
nhận ra một đoàn sủng đuợc trao ban cho toàn thể cộng đoàn, và
biểu lộ bằng những ân sủng đặc biệt do Chúa Thánh Thần tự do ban
phát vì lợi ích cộng đoàn. Các đoàn sủng bày tỏ quyền năng hoạt
động của Chúa Thánh Thần trong Dân Chúa. Tuy nhiên, các thủ lãnh
của Giáo Hội phải cho biết giá trị chính thực của những ân sủng
đặc biệt này. ( Trở
lại đầu trang)
16*
Các số 13-16: Công giáo tính của một Dân Thiên Chúa.
Từ số 13, Công Ðồng bắt đầu một khai triển
mới, nhấn mạnh tới điều cốt yếu của hiệp nhất công giáo, nghia
là tới sự hiệp nhất của Giáo Hội đang lan rộng khắp cả thế giới.
Ðể quả quyết cho đặc điểm công giáo tính này, Công Ðồng chú
trọng đến ý định cứu rỗi của Thiên Chúa (1Tm 2,3). Có hai hiệu
quả là, một đang Giáo Hội tự mình phải lan rộng đến mọi dân tộc;
đang khác, mọi nguời có thiện chí, dù sống trong tình trạng nào
đi nữa, thì cung hoặc thuộc về Giáo Hội, hoặc có tuong quan với
Giáo Hội, hoặc huớng về Giáo Hội. Chủ đề đuợc khai triển trong
hai phần: phần nhất bàn về các nguyên tắc (số 13), và phần hai
trình bày những áp dụng cụ thể.
9
Xem T. Gioan Kim Khẩu, In Jo., bài giảng 65, 1 : PG 59, 361.
10
Xem T. Ireneô, Adv. Haer. III, 16, 6; 22, 1-3 : PG 7, 925C -
926A và 955C - 958A; Harvey 2, 87t. và 120-123; Sagnard, x.b.
Sources Chrét. Trg 290-292 và 372tt.
11
Xem T. Inhaxiô Tử Ðạo, Ad Rom., Lời mở đầu : x.b. Funk, I, trg
252.
17*
Số 13: Công giáo tính cứ luật của Giáo Hội.
Số 13 đa đuợc sửa đổi hầu hết trong lần tu
chính sau cùng. Theo thuyết trình viên thì "chủ đích của bản văn
này là trình bày những nguyên tắc của hiệp nhất tính và phổ quát
tính của Dân Chúa, truớc khi mô tả những phuong thức khác nhau
làm cho con nguời liên kết với Dân Chúa (các số 14-16). Bởi vậy,
đoạn này chính là gạch nối giữa hai phần của chuong hai: phần
đầu nói lên những đặc tính tổng quát của Dân Chúa, phần sau bàn
về các thành phần, hoặc hiện là thành phần, hoặc là thành phần
trong tiềm năng" (Rel. Gen.).
Những chủ đề đuợc quảng diễn nhu sau:
a) Ðoạn đầu (13a) chỉ nhấn mạnh tới sự hiệp
nhất nối kết Giáo Hội mọi lúc và mọi noi. Thiên Chúa đã muốn qui
tụ toàn thể nhân loại trong Con của Ngài nhờ hoạt động hiệp nhất
của Chúa Thánh Thần, và còn muốn nối kết nhân loại trong Giáo
Hội của Chúa Kitô. Sự hiệp nhất thấy đuợc trong việc bẻ bánh và
trong kinh nguyện.
b) Ðoạn hai (13b) khai triển ý tuởng Dân
Chúa hiện diện trong mọi quốc gia trên mặt đất mà không đồng hóa
với một quốc gia nào. Dân Chúa phổ quát theo sự lan rộng về địa
lý nhung lại vuợt quá biên cuong mọi quốc gia do đặc tính siêu
việt và do sự kiện bắt nguồn từ Thiên Chúa. Chính thế mà mọi dân
mọi nuớc khác biệt lại trở thành anh em và sự hiệp nhất của Dân
Chúa có tính cách "công giáo" thực sự. Chủ đề thu-về-một-mối
đuợc áp dụng triệt để.
c)
Nhờ đặc tính công giáo ấy, tất cả các phần tử Dân Chúa đặt mọi
của cải và ân huệ riêng biệt của mình làm của chung. Co cấu nội
tại của sự hiệp nhất công giáo của Giáo Hội thật phức tạp. Bởi
vậy mới có sự dị biệt hiệp nhất trong mọi tầng lớp của Dân Chúa
và mọi phần tử phải hợp tác vào sự hiệp nhất dị biệt. Ngay trên
bình diện Giáo Hội, cung cần phải có các giáo hội địa phuong
khác biệt nhau nhung bổ túc cho nhau, mà không phuong hại tới sự
hiệp nhất. Hủy bỏ mọi khác biệt sẽ tạo nên tình trạng nhàm chán
nghèo nàn, và là lý do gây nguy hại cho chính việc hiệp nhất.
Nhung muốn cho sự dị biệt sinh hiệu quả phong phú, cần phải có
yếu tố thông hảo trong đức ái. Trong chiều huớng ấy, Giáo Hội
Rôma là năng lực cai trị và là sự thống nhất các nguyên tắc nhờ
trung thành với đức ái (13c).
Trong câu kết luận (13d) sửa soạn cho phần
khai triển kế tiếp, Công Ðồng tái xác nhận việc mọi nguời đuợc
mời gọi tới on cứu rỗi trong Dân Chúa, nhung mức độ tham dự và
qui huớng tới Dân Chúa lại rất khác nhau, tùy nhu nguời đó đã
chịu phép Thánh Tẩy hay mới chỉ là những nguời đuợc định huớng
tới Giáo Hội mà chính họ không hay biết. Ðể nói lên sự khác nhau
đó, Công Ðồng xử dụng hai động từ: pertineri và ordinari. Chỉ
những ai chịu phép Thánh Tẩy đúng ra mới thuộc về Dân Chúa, còn
những nguời khác huớng về Dân Chúa tùy nhu mức độ và thiện chí
của họ. Cung nhu sự lôi cuốn giữa Cha và Con mà Giáo Hội đuợc
tham dự, Giáo Hội cung lôi kéo đến mình tất cả mọi nguời không
trừ ai, bởi vì mọi nguời đều qui huớng về Giáo Hội do ý định cứu
rỗi phổ quát.
|
VỀ MỤC LỤC |
|
NHÃN HIỆU
CỦA PHÓ TẾ VĨNH VIỄN LÀ VIỆC BÁC ÁI
|
“ Gương Sáng của Phó Tế (Nô Bộc-Phục vụ)
Lôrensô Tử Đạo”
Tôi Ăn-Nhai và
Nuốt Lời Chúa:
“Nhóm Mười hai
triệu tập toàn thể các Môn đệ và nói: “Chúng tôi mà bỏ việc rao
giảng Lời Thiên Chúa để lo việc ăn uống, là điều không phải. Vậy
anh em hãy tìm trong Cộng đoàn 7 người được tiếng tốt, đầy Thần
Khí và khôn ngoan, rồi chúng tôi sẽ cắt đặt họ làm công việc đó.”
(Cv 6, 2-3)
Thánh Lôrensô Tử Đạo
là một trong 7 Nô Bộc/Phục Vụ (Phó tế) của Giáo hội, chịu trách
nhiệm giúp đỡ người nghèo túng và ngài được giao cho trách nhiệm
“Quản lý tài sản của Giáo hội”.
1- Khi sự cấm đạo dưới thời
hòang đế Valerian bùng nổ, Thánh Giáo Hoàng Sixtus bị kết án tử
hình cùng với sáu Phó tế khác. Khi Giáo hoàng bị điệu ra pháp
trường, Lôrensô đi theo khóc lóc nức nở, ngài hỏi: “Cha ơi ! cha
đi đâu mà không cho nô bộc này đi theo?”- Đức Giáo hòang trả lời:
“Con ơi! Ta không bỏ con đâu! trong ba ngày nữa con sẽ đi theo ta
!” Nghe thấy thế Lôrensô thật vui mừng, ngài về phân phát hết tiền
của trong kho cho người nghèo và còn bán cả các phẩm phục đắt tiền
để có thêm tiền của mà phân phát cho người nghèo.
2- Quan Tổng Trấn Rôma, một
người tham lam, nghĩ rằng Giáo hội có dấu diếm nhiều của cải. Do
đó ông ra lệnh cho Lôrensô phải đem hết tài sản của Giáo hội cho
ông. Vì thánh trả lời: xin cho ba ngày. Thế là ngài đi khắp thành
phố, quy tụ mọi người nghèo khổ, đau yếu được Giáo hội giúp đỡ đến
trình diện họ trước mặt quan, ngài nói: “ Đây là tài sản của Giáo
hội.”
3- Giận điên người, quan tổng
trấn xử phạt Lôrensô phải chết một cách thê thảm và chết dần
mòn.Vị thánh bị cột trên một vỉ sắt lớn với lửa riu riu để từ từ
thiêu đốt da thịt của ngài; nhưng tâm hồn thánh nhân đang bừng
cháy với tình yêu Thiên Chúa, nên ngài không cảm thấy gì. Thật
vậy,Thiên chúa ban cho ngài một sức mạnh đến độ có thể đùa dỡn,
ngài nói : “lật tôi đi chứ, phía bên này chín rồi.”.
Và tước khi trút hơi
thở cuối cùng, ngài nói: “Bây giờ thì đã chín hết rồi.” Sau đó
ngài cầu xin cho thành phố Rôma được trở lại với Đức Kitô, và đức
tin vào Chúa được lan tràn khắp thế giới.
Lời hay ý đẹp :
Khía cạnh tuyệt vời nhất của Thiên Đàng là đời đời ở cùng Chúa
Giêsu. – The greatest aspect of heaven will be spending with
Jesus.
Phó tế JB. Nguyễn Định
|
VỀ MỤC LỤC |
|
CÓ CẦN THIẾT PHẢI THỰC HÀNH ĐỨC TIN TRONG GIÁO HỘI ĐỂ ĐƯỢC CỨU RỖI
KHÔNG ?
|
Hỏi : Thực tế là có rất nhiều
người Công giáo ngày nay không muốn đi xưng tội, không đi lễ
ngày Chúa Nhật và các ngày lễ buộc vì nhiều lý do. Nhiều người
nghĩ rằng chỉ cần giữ đức tin trong lòng và đọc Kinh Thánh ở nhà
là đủ, không cần phải đi nhà thờ nữa ! Như vậy có được không ?
Trả lời
; Thực trạng sống Đạo của rất nhiều người Công giáo ở khắp nơi trên
thế giới ngày nay ( trong đó có người công giáo ViệtNam ở hải
ngoại) quả thật là điều đáng buồn. Con số người đi xưng tội
chiều thứ bảy, tham dự Thánh lễ ngày Chúa Nhật và các ngày lễ
buộc đã giảm rất nhiều theo các thống kê đáng tin cậy.
Có nhiều lý do để giải thích thực
trạng này. Nào vì hấp lực của văn minh vật chất, chủ nghĩa tục hóa
( secularism) và hưởng thụ khoái lạc ( hedonism) đã lôi cuốn nhiều
người bỏ Chúa để chậy theo những quyến rũ của “văn hóa sự chết”
như Đức cố Giáo Hoàng Gioan-Phaolô II đã cảnh giác.
Đó là những người đang mê mải kiếm
tiền để làm giầu bằng mọi phương tiện, bắt chấp công bằng và bác
ái cũng như tìm vui trong trong việc ăn uống, nhẩy nhót,(già trẻ,
xồn xồn đều thích trò chơi thiếu lành mạnh này) cờ bạc, du hí ở
những nơi tội lỗi , và do đó bỏ quên hay lơ là việc sống Đạo, cần
thiết hơn. Mặt khác, cũng vì tình trạng tha hóa về luân lý, đạo
đức ngày một bành trướng ở khắp nơi trên thế giới, đặc biệt ở
những quốc gia vốn tự nhận là thuộc về KitôGiáo (Christian
Countries) như Pháp, Ý, Đức , Tây Ban Nha, Canada và Hoa kỳ… nhưng
nay lại dung dưỡng hay cho phép những thực hành phản KitôGiáo như
phá thái, chết êm dịu ( Euthanasia) ly dị , hôn nhân đồng tính
(same sex marriage) .Lại nữa ,họ cũng làm ngơ hay tiếp tay cho kỹ
nghệ sản xuất phim ảnh dâm ô (pornorgraphy), và mãi dâm phát
triển làm đồi trụy không những người lớn mà đặc biệt là thanh
thiếu niên vì những kỹ thuật và hình ảnh kích thích dâm tính công
khai bầy bán trong các tiệm DVD for Adaults và trên mạng vi tính
toàn cầu. Sau nữa, vì cuộc sống tương đối đễ dàng, thoải mái cộng
với tự do quá trớn ở các nước Âu Mỹ đã làm cho nhiều người không
còn cảm thấy cần Chúa nữa và chỉ muốn vui sồng cho thỏa thích
trong giây phút hiện tại mà thôi. Cứ đi một vòng quanh những nơi
tụ họp công công sẽ thấy trẻ già,trai gái, xồn xồn ôm nhau nhẩy
nhót trong những chương trình gọi là “văn nghệ cuối tuần” hay “
hát cho nhau nghe” trong đó chắc chắn có những người công giáo
không đi lễ ngày Chúa Nhật nhưng lại có mặt đúng giờ để tham dự
các cuộc vui thâu đêm suốt sáng này.! Đặc biệt, còn có rất nhiêu
người không đi Lễ mừng Chúa Giáng Sinh nhưng lại tích cực tổ chức
và tham dự những buổi ăn uống, dạ vũ vui chơi trong đêm Giáng
Sinh !!. Đây quả thực là một sỉ nhục cho ý nghĩa trọng đại của
ngày kỷ niệm “Thiên Chúa làm Người và cư ngụ giữa chúng ta.” (
Ga 1 :14).Do đó, không thể lấy cớ mừng Chúa Giáng Sinh để ăn
chơi phóng túng nhân dịp này, thay vì dọn tâm hồn cho sốt sắng để
cùng với Giáo Hội cảm tạ Chúa đã giáng sinh để cứu chuộc cho nhân
loại khỏi chết đời đời vì tội.
Nhưng đáng buồn thay, là đứng trước
thực trạng này, những người có trách nhiệm giáo dục luân lý và đạo
đức, -cách riêng hàng giáo sĩ với sứ mệnh rao giảng Tin Mừng Cứu
Độ, chăm lo cho phần rỗi của các tín hữu được trao phó cho mình
dạy dỗ, và hướng dẫn về mặt thiêng liêng, lại không có can đảm
nhìn vào sự thật và mạnh mẽ lên án những nguy cơ đe dọa cho đức
tin Công Giáo dẫn đến sự thờ ơ sống Đạo của nhiều tín hữu trong
Giáo Hội ngày nay.Đáng lý phải mạnh mẽ nói cho mọi tín hữu biết sự
cần thiết phải tìm kiếm Thiên Chúa và Vương Quôc bình an, hạnh
phúc của Người trên hết mọi vui thú và danh lợi chóng qua ở trần
thế này, thay vì im lặng để được an thân,- hay đáng buồn hơn nữa –
là một số người còn cộng tác với thế quyền để tìm tư lợi, bỏ quên
sứ vụ rao giảng và làm nhân chứng cho Chúa trước mặt người đời.
Nhưng thử
hỏi : được mọi lợi lãi ở đời này
mà không được cứu rỗi thì ích lợi gì ?
Tin mới nhất vừa cho biết là nhà độc
tài Gadahfi của Libya đã bị bắn chết cách thê thảm, kết thúc 42
năm cai trị sắt máu ở quốc gia Phi Châu này.
Nhưng nếu giả sử ông ta không được
cứu rỗi để sống đời đời, thì thử hỏi những lợi lãi trần thế to
lớn mà ông có được như 6 bà vợ chính thức, quyền uy tột đỉnh
danh vọng, tiền bạc vơ vét đầy túi, đầy kho, sau 42 năm cai trị xừ
giầu hỏa Libya liệu có thể bù đắp được cho sự thiệt thòi to lớn
là mất sự sống hay không ?
Dầu sao đây cũng là bài học đắt giá
cho những kẻ độc tài, cai trị vô nhân đạo còn sót lại trên thế
giới phải suy nghĩ mà sám hối để kịp thời rút lui, kẻo chắc
chắn có ngày sẽ bị quần chúng trừng trị đích đáng. như số phận
của Gadahfi, Mubareck, Sadam Hussein, Binladen…
Đó là lý do tại sao Chúa Giêsu đã
nói như sau với các môn đệ xưa: : “ Nếu người ta được cả thế
giới mà phải thiệt mất mạng sống, thì nào có lợi gì ? Hoặc người
ta sẽ lấy gì mà đổi mang sống mình? (Mt 16: 26; Mc 8:
36; Lc 9 : 25 )
Có ai được lợi lãi cả thế giới này
đâu.? Nhưng cho dù có ai chiếm được mọi của cải và danh vọng trên
trần thế này mà cuối cùng mất linh hồn thì những lợi lãi kia cũng
không thể bù đắp được cho sự thiệt thòi lớn lao là mất sự sống,
mất linh hồn. Đó là điều Chúa muốn nói với mỗi người chúng ta
đang sống trong môi trường thế giới quá bị nhiễm độc vì chủ nghĩa
tục hóa (secularism) tôn thờ vật chất và chủ nghĩa khoái lạc (
hedonism) lôi kéo con người đi tìm mọi mọi vui thú vô luân vô
đạo.
Để bào chữa cho việc thờ ơ sống Đạo,
không muốn tham dự các nghi thức phụng vụ của Giáo Hội- cụ thể là
tham dự Thánh Lễ các ngày Chúa Nhật và Lễ buộc- nhiều người nghĩ
rằng chỉ cần tin và đọc Kinh Thánh ở nhà , hay nghe những
chương trình giàng Kinh Thánh của các mục sư Tin Lành trên truyền
hình là đủ, không cần phải năng xưng tội hoặc tham dự Thánh Lễ
hàng tuần nữa.!.
Chúng ta phải nghĩ thế nào về
quan niệm này của những người nói trên ?
Chắc chắn đây không phải là cách
sống Đạo đúng nghĩa của người tín hữu Chúa Kitô trong Giáo Hội
Công Giáo.
Thật vậy, trước hết là vấn đề đức
tin.Thế nào là tin ? tin có Thiên Chúa tốt lành thì phải yêu mến
và giữ Luật của Người. Mà yêu mến thì phải thể hiện bằng hành
động cụ thể chứ không thể nói suông ngoài miệng là tin mà không
có việc làm nào bề ngoài để chứng minh.
Một chuyện vui kể rằng, ở một giáo
xứ kia, Cha Xứ chợt lưu ý đến một ông già nọ vốn thường sốt sắng
tham dự không những Thánh Lễ ngày Chúa Nhật mà còn siêng năng đi
lễ mỗi ngày nữa.. Nhưng bẵng đi một thời gian lâu, ông cụ vắng
bóng ở nhà thờ. Cha Xứ lấy làm lạ, tưởng ông cụ bị đau ốm hay đã
di chuyển đi nơi khác. Cha bèn đến nhà thăm ông xem sao. Đến nơi
cha vẫn thấy ông ở nhá. Hỏi lý do vì sao ông vắng mặt ít lâu nay ở
nhà thờ thì ông trả lời cha như sau:
“ con thấy không cần phải đi lễ ,
đọc kinh chung nữa. Con ở nhà đọc Kinh Thánh, lần chuỗi và nhớ đến
Chúa trong lòng là đủ rồi.
Cha mỉm cười và hỏi ông : “ thế
các con cháu cụ bây giờ ở đâu” ?
Ông cụ đáp : “chúng ở xa con lắm ,nhưng
hàng năm cứ vào dịp Lễ Giáng Sinh và Tết thì đều trở về thăm con
và cho quà tử tế.”
Nghe xong cha xứ nói : “tốt lắm,
nhưng cụ làm ơn cho tôi xin địa chỉ hay số phôn của của các con
cháu cụ đi ”.
-“Để làm gì thưa cha” ? ông cụ hỏi.
Cha trả lời ngay : “ để tôi viết thư
hay phôn cho các con cháu cụ bảo họ đừng tốn công và tiền bạc về
thăm cụ nữa. Họ chỉ cần nhớ đến cụ trong lòng là đủ rồi; không
cần thiết phải về thăm cho tốn thì giờ và tiền bạc nữa. Nói xong
cha xứ cáo từ ra về trong khi ông cụ ngồi suy nghĩ những lời của
cha vừa nói.. Và mấy hôm sau, người ta lại thấy ông cụ xuất hiện
ở nhà thờ như cũ.
Câu chuyện trên chỉ là chuyện tưởng
tượng, nhưng cũng giúp minh chứng phần nào điều Thánh Gia-cô-bê
Tông Đồ dạy như sau về sự cần thiết phải thể hiện đức tin qua hành
động cụ thể:
“Hởi
người đầu óc rỗng tuếch, bạn có muốn biết rằng đức tin không có
hành động là vô dụng không ? Ông Abraham tổ phụ chúng ta đã chẳng
được nên công chính nhờ hành động khi ông hiến dâng con mình là I-xa-ác
trên bàn thờ đó sao?
Bạn thấy đó : đức tin hợp tác
với hành động của ông, và nhờ hành động mà đức tin nên hoàn hảo.”
(Gc 2:20-22)
Chúa Kitô đã thiết lập Giáo Hôi của
Người trên trần thế và ban các bí tích như phương tiện hữu hiệu và
cần thiết để thông ban ơn cứu độ của Chúa cho những ai muốn nhận
lãnh qua Giáo Hội . Nhưng không phải cứ rửa tội rồi là sẽ được
cứu rỗi. Cũng không thể nói khơi khơi như anh em Tin Lành rằng “tôi
tin Chúa Kitô” là xong, không cần phải làm gì nữa, Tôi đã
hơn một lần nói rõ là : theo Thần học và giáo lý của Hội
Thánh, dựa trên Kinh Thánh và ơn mạc khải của Chúa Thánh Thần, thì
muốn được cứu rỗi , nghĩa là được sống hạnh phúc đời đời với
Thiên Chúa trên Thiên Nước Trời mai sau đòi hỏi chúng ta trước
hết phải cậy nhờ lòng thương xót vô
biên của Thiên Chúa và công nghiệp cứu chuộc vô giá của Chúa Kitô
cộng thêm phần đóng góp của cá nhân con người vào ơn thánh..
Chính yếu tố cần đóng góp thêm của
con người vào ơn cứu độ, mà người tín hữu không thể thờ ơ với
nhu cầu tối quan trọng là phải sống và thực hành đức tin trong
Giáo Hội sau khi được lãnh Phép Rửa.
Thật vậy, đức tin được ví như hạt
giống gieo vào tâm hồn trẻ nhỏ hay người tân tòng khi lãnh nhận bí
tích Rửa Tội. Hạt giống này không thể tự nó lớn lên và sinh hoa
kết quả được, nếu không có sự vun xới , tưới bón của những người
có trách nhiệm hỗ trợ về mặt thiêng liêng là cha mẹ và người đỡ
đầu đối với trẻ em, của người bảo trợ và cộng đoàn đức tin đồi
với người tân tòng..
Do đó, nếu cha mẹ không lo giáo dục
đức tin cho con cái trong gia đình, nhất là cho con cái được tiếp
cận với một cộng đoàn đức tin – cụ thể là một giáo xứ- để con em
được học hỏi giáo lý và lãnh nhận các bí tích quan trọng và cần
thiết khác như xưng tội , rước lễ lần đầu, và thêm sức thì đức
tin của các em sẽ không thể lớn lên được.
Đối với người tân tòng (catechumens)
và những người lớn ( adults) đã lãnh nhận bí tích Thánh Tẩy từ
ngày sơ sinh, thì việc nuôi dưỡng và thực hành đức tin trong Giáo
hội cũng cần thiết không kém..Cụ thể, nếu không tham dự việc cầu
nguyện chung với cộng đoàn đức tin là giáo xứ, và nếu không tin
–hay không nhìn nhận lợi ích của bí tích hòa giải để năng đi xưng
tội, nhất là không tham dự Thánh Lễ, và rước Mình Máu Thánh Chúa
là “ nguồn suối và đỉnh cao của đời sống Giáo Hội” thì
người ta lấy gì để nuôi dưỡng và lớn lên trong đức tin ?
Đằng rằng tin có Chúa là điều quan
trọng và đọc Thánh Kinh là cần thiết và bổ ích. Nhưng đức tin
phải được nuôi dưỡng sung mãn với ơn Chúa thông ban qua các bí
tích quan trọng như Phép rửa, Thêm sức, Hòa giải và nhất là bí
tích Thánh Thể là nguồn mạch chính nuôi dưỡng đời sống thiêng
liêng của Giáo Hội nói chung và của cá nhân mỗi tín hữu nói riêng.
Vì thế, nêu không tham dự mọi cử hành phụng vụ thánh của Giáo Hội
mà đỉnh cao là Thánh Lễ Tạ Ơn thì đức tin và đời sống thiêng
liêng của chúng ta sẽ không thể tăng trưởng được và có đủ sức để
sống đức tin ấy trước những thách đố của sự dữ, dịp tội đầy rẫy
trong trần thế này, nhất là những mưu chước thâm độc của ma quỉ “
Thù địch của anh em như sư tử gầm thét rảo quanh tìm
mồi cắn xé” ?( 1Pr 5: 8)
Kinh nghiệm cá nhân và phổ quát
chứng minh rằng muốn được thăng tiến trong bất cứ lãnh vực nào,
người ta cần phải cố gắng học hỏi và trau giồi kiến thức và kỹ
năng chuyên môn của lãnh vực ấy. Một lực sĩ không thể giữ được
thành tích của minh nếu không chuyên cần tập luyện mỗi ngày. Chân
lý này hoàn toàn đúng trong lãnh vực thiêng liêng, đạo đức. Một
người siêng năng cầu nguyện nhất là tham dự Thánh Lễ và rước Minh
Thánh Chúa sẽ tăng lòng yêu mến và gần Chúa hơn người làm biếng
không cầu nguyện và rước Minh Thánh Chúa.Tình trạng “nguội lạnh
thiêng liêng” này sẽ đưa đến sự sa sút đức tin, đức cậy và
đức mến.theo thời gian.
Đó chính là điều Chúa Giêsu đã nói
với các môn đệ xưa:
“Và phàm ai đã có thì được cho
thêm và sẽ dư thừa; còn ai không có thì ngay cái đang có, cũng sẽ
bị lấy đi.” ( Mt 25:29)
Nói khác đi, chính nhờ siêng năng
làm việc đạo đức và hiệp thông với Giáo Hôi trong mọi cử hành
phung vụ như cầu nguyện đọc kinh chung, đi Đàng Thánh Giá, chầu
Thánh Thể, năng xưng tội, nhất là tham dự Thánh Lễ để được rước
Mình Máu Thánh Chúa Kitô, mà đời sống thiêng liêng của chúng ta
được lớn lên, đưa chúng ta đến gần với Thiên Chúa Ba Ngôi mà
chúng ta tin có thật, Người đang yêu thương và muốn “ đến và ở
lại trong chúng ta” ( Ga 14: 23) , nếu chúng ta thực tâm yêu
mến và tìm kiếm Người trên hết mọi sự ở đời này.
Như thế, yêu mến Chúa thì không thể
coi nhẹ đời sống thiêng liêng, coi thường các phương tiện hữu
hiệu và cần thiết là các bí tích mà Chúa Kitô đã ban cho Giáo Hội
cử hành để mưu ích cho phần rỗi của mỗi người chúng ta, bao lâu
còn sống trên trần gian này.
Do đó, không thể “sống Đạo” một mình
mà không cần đến Giáo Hội, không tham gia đời sống bí tích và
phụng vụ của Giáo Hội như thực trạng sống Đạo hiện nay của rất
nhiều người..
Sau hết, liên quan đến việc đọc Kinh
Thánh, có thể nói vắn tắt như sau: đọc Kinh Thánh là cần thiết và
hữu ích.Tuy nhiên, không thể tự đọc mà hiểu đúng được Lời Chúa trong
Kinh Thánh.
Vì thế , cần thiết phải tham dự
Thánh lễ để được nghe và giải nghĩa lời Chúa qua các bài đọc ,đặc
biệt là bài Phúc Âm. Nhưng muốn được hiểu biết thêm về Kinh Thánh
thì có thể tham dự những lớp học hỏi về Kinh Thánh do những người
có khả năng chuyên môn hướng dẫn ở các giáo xứ, hoặc tốt nhất đi
học một khóa về Kinh Thánh ở Đại Học hay Chủng Viện. Ở Mỹ, có nhiều
chủng viện thâu nhận cả học viên bên ngoài vào học các lớp Thần
học và Kinh Thánh dành cho chủng sinh đang chuẩn bị làm linh mục.
Nghĩa là không thể tự học Kinh Thánh để hiểu cho đúng lời Chúa
được.
Tóm lại, quan niệm sống Đạo tách rời
khỏi , hay không cần hiệp thông hữu hình với Giáo Hội là rất sai
lầm. Là tự lừa dối mình nếu không muốn nói là tự kiêu tự đại, cho
mình có đủ khả năng để tìm đến với Chúa, không cần phương tiện hữu
hiệu mà Chúa Kitô đã có ý ban cho chúng ta là Giáo Hội của Chúa
trên trần thế này. Với chức năng siêu phàm, Giáo Hội được ví như
“ con Tàu của ông Nô-e” trong thời đại ngày nay để cho
những ai muốn vào sẽ được cứu sống giữa cơn phong ba của hồng
thủy đang nổi lên để cuốn đi vào lòng đại dương mọi sinh vật bên
ngoài con Tàu cứu nguy này.
Lm Phanxicô Xaviê
Ngô Tôn Huấn
|
VỀ MỤC LỤC |
|
VĂN TẾ CÁC ĐẲNG LINH HỒN
|
Hằng năm khi đến
ngày “lễ Các Đẳng” 02.11, các giáo xứ, họ đạo, các dòng tộc
thường có nghi thức đọc Văn tế (bài Chúc) tại nghĩa trang hay nơi
nhà thờ tộc. Tuy nhiên, bậc hậu sinh chúng ta nghe đọc văn tế đã
lạ, huống chi là soạn một bài văn tế. Chúng ta thử tìm hiểu đôi
nét về văn tế.
Văn tế là bài văn
được đọc trong khi cúng tế với nội dung nói về tính nết, công đức,
sự nghiệp, và kỷ niệm của tiền nhân hay người thân mới qua đời để
tỏ tấm lòng ngưỡng mộ và thương tiếc của người sống đối với người
chết.
Bố cục một bài
văn tế thường được chia ra làm ba phần:
1. Phần mở bài:
thường
dùng để nói về lai lịch của người quá cố và ngày giỗ (huý nhật)
của họ, ngày tháng năm và địa điểm tổ chức cúng tế, và sự liên hệ
giữa người sống và người chết. Phần mở bài này thường bắt đầu bằng
chữ "Duy" hay các nhóm chữ như: "Vọng tưởng Đấng Ngàn
Xưa," "Than ôi!" "Than rằng," hay "Thương ôi!"
Sau đó là một đoạn thơ hay văn để mở đầu cho bài văn tế.
2. Phần nói về
tính nết,
công đức, sự nghiệp,và kỷ niệm của tiền nhân hay của người thân đã
qua đời. Phần này thường bắt đầu bằng các từ như "Nhớ ơn…,"
"Nhớ ơn xưa," "Chúng con hằng nhớ," "Nhớ cha (mẹ)
xưa," hay "Nhớ bạn (cụ, bác, chú, cô, hay cậu) xưa,"
v.v. Sau đó là các đoạn thơ hay văn diễn tả tính nết, công đức, sự
nghiệp, và kỷ niệm của người quá cố.
3. Phần nói về
tấm lòng đau khổ,
thương tiếc, kính trọng, cầu khẩn, và ước nguyện của những người
còn sống đối với người đã qua đời. Phần này thường bắt đầu bằng
các chữ: "Nhưng nay thẹn nỗi ," "Ôi!" "Giờ đây,"
"Giờ phút này," "Chúng con nay," hay "Bản chức
nay," v.v. Sau đó là các đoạn văn thơ diễn tả lòng thương tiếc,
kính trọng, cầu khẩn, và ước mong của người sống đối với người quá
cố. Ở cuối bài văn tế thường kết thúc bằng từ "cung duy" (nghĩa
là tỏ lòng kính cẩn) và từ "thượng hưởng" (cung kính xin hưởng).
Bài văn tế có thể
được làm theo các thể: Văn xuôi,
Tán, Phú Cổ Thể,
Phú Đường Luật, Song Thất Lục Bát hay Thể Tổng Hợp.
Xin trưng dẫn một
nghi thức đọc văn tế tại nghĩa trang giáo xứ Cù Mi (gxcumi.blogspot.com)
VĂN TẾ CÁC ĐẲNG LINH
HỒN
(Đọc tại nghĩa
trang giáo xứ Cù Mi 02.11.2011)
LỜI DẪN
Kính thưa
cộng đoàn phụng vụ.
Hôm nay ngày
02.11 lễ Các Đẳng, Giáo Hội mời gọi chúng ta hướng về các đẳng
Linh Hồn là những người đã ra đi trước chúng ta, trong đó có tổ
tiên ông bà, cha mẹ, bà con thân thuộc, bạn bè xa gần và có cả con
cháu của chúng ta đang yên nghỉ nơi lòng đất mẹ, đã bước vào thế
giới bên kia; với mục đích là bày tỏ lòng hiếu kính với các ngài
và tình liên đới với những người đã khuất.
Hiện diện nơi
nghĩa trang tối nay, trước những nấm mồ nghi ngút khói hương,
trong giây phút linh thiêng này, chúng ta cùng thinh lặng, lắng
đọng tâm hồn, thành tâm hiếu kính, thắp nén hương lòng tưởng nhớ
công ơn trời bể, ân sâu nghĩa nặng của bao Đấng bậc Tiền nhân và
của bao hương hồn thân yêu đã khuất!
VĂN TẾ
Khởi chinh cổ (chiêng
trống)
- Khai
thánh nhạc (hát)
- Tiến
hương (dâng hương: cha xứ, cùng đoàn tế)
- Tam
bái (cúc cung bái)
- Dâng
lễ vật (hoa,nến,...)
- Đọc
chúc (văn tế): với cung giọng trầm ấm,cảm động chủ tế đã đọc bài
văn tế.
I
Kính lạy Anh Linh
Tiên Tổ ông bà cha mẹ,
cùng các vong linh đã khuất …!
Hôm nay hiệp cùng Hội Thánh,
dâng lễ cầu Các Đẳng,
tại nghĩa trang Cù Mi xứ,
tất cả chúng con
Là: Linh mục Chính xứ, Nam Nữ Tu Sĩ,
cùng toàn thể giáo dân,
khấu đầu trước Đấng Bậc Tiên nhân
cùng muôn vạn vong linh
dâng kính nén hương lòng tưởng niệm hiếu kính.
(cúc cung bái – chiêng trống)
Là cháu con hậu bối,
xin kính cẩn thưa rằng:
cây có cội, nước có nguồn,
con người có tổ có tông.
Công ơn sinh thành dưỡng dục,
sự độ trì che chở của Tiên Tổ.
Xưa tổ tiên hữu đức tiếng tốt lưu truyền.
Nay con cháu thừa ân danh thơm nhớ mãi.
(cúc cung bái – chiêng trống)
IIA
Nhớ ơn xưa,
khi quốc gia ly loạn,
lòng quan quyền nhuốm bụi sân si,
không phân tỏ điều ngay lẽ thật,
triệt phá nhà Thờ, bắt đạo Gia-tô.
Vì tận trung Tin Mừng cứu độ,
bảy gia đình quyết chí ra đi,
mặc hiểm nguy đói khổ,
vì Đạo Chúa
băng rừng vượt biển,
tiến về trời Nam,
tìm nơi nấu ẩn,
biến rừng thành rẫy
đầm lầy thành ruộng lúa phì nhiêu,
biển cả dư đầy tôm cá,
sớm hôm no đủ,
kính Chúa yêu người,
giữ trọn đạo Trời,
người người hạnh phúc,
sức sống Chúa ban,
con đàn cháu đống,
cuộc sống dư dật,
vật chất tinh thần,
khai sinh Cù Mi Xứ …
(cúc cung bái – chiêng trống)
II B
Ôi!
Phúc bất trùng lai,
họa vô đơn chí.
Cây muốn lặng mà gió chẳng dừng,
nỗi mừng liền gánh nỗi lo
gian nan liền khốn khó,
chiến tranh liên tiếp xảy ra,
đất lành bị đạn bom cày xới,
tơi bời khói lửa,
Nhà Thờ sập rồi lại sửa,
Thà Thờ thành biển lửa rồi lại dựng xây,
có nơi nào xây nhà Chúa nhiều lần như nơi đây?
Máu tươi hòa nước mắt,
gieo vãi trên miền cát trắng Cù Mi,
cho đức tin son sắt,
cho ý chí quật cường,
cho khí tiết bay cao,
gương anh hùng trung kiên lẫm liệt.
Vinh danh thay!
Tổ tiên hiên ngang
sống đạo,
sao sáng soi tỏ đêm trường,
làm gương sáng cho con cháu đời sau.
Xứng với Đấng bậc anh hùng tử đạo Việt Nam,
lẫy lừng khắp cõi năm Châu !
(cúc cung bái –
chiêng trống)
IIIA
Phận cháu con hôm nay thành tâm kính bái,
dâng nén hương lòng phụng kính tổ tiên,
đã dày công dựng xây giáo xứ,
một trăm hai mươi bốn năm qua,
Bao người ngã xuống,
tựa hạt giống gieo vào lòng đất
tan nát chính mình
cho mầm sống vươn cao.
Sao kể hết ân sâu nghĩa nặng,
của Tiền nhân Ông bà Cha mẹ,
cùng muôn vạn anh linh,
tuôn đổ trên đất lành Cù Mi yêu dấu.
Xin Tổ Tiên ông bà
cha mẹ,
cùng các đẳng linh hồn tha thứ,
những lầm lỗi bất hiếu,
bởi cám dỗ đam mê,
theo thế gian tà vạy,
bầy cháu con hậu bối,
khấu đầu xin tạ lỗi !
(cúc cung bái – chiêng trống)
IIIB
Xin Các Đẳng cầu thay
nguyện giúp
cho đàn con cháu Cù Mi,
đi theo ý Chúa,
noi gương Tiên Tổ,
chứng tá Tin Mừng,
là men là muối,
ướp mặn trần thế,
giữa đời dâu bể !
Xin Chúa Tể Càn Khôn,
cho Tổ tiên, Ông bà, Cha mẹ,
cho muôn vạn hương hồn đã khuất …,
được hưởng kiến Thiên Đàng vinh phúc.
Tiên Nhân Các Đẳng cung duy thượng hưởng !
(cúc cung bái –chiêng trống)
Thomas Nguyễn Văn Hiệp
|
VỀ MỤC LỤC |
|
NỖI NHỚ
|
Tháng mười một, như một tâm tư, như
một trải nghiệm, tôi đang sống và đã sống. Nỗi nhớ trong tôi hay
tôi đang trong nỗi nhớ, tôi chẳng hay, chẳng biết nhưng chỉ biết
trong nỗi nhớ này tôi thuật lại những hồng ân Thiên Chúa và những
cảm nghiệm.
Ngày tiễn đưa mẹ đến nơi an nghỉ
cuối cùng, tôi mới thấm thía nỗi buồn của mất mát. Ngày xưa, hai
chữ ấy thôi cũng nhắc lại cả một ký ức những ngày còn vui bên mẹ.
Bây giờ, nhìn tấm ảnh, bát hương, chiếc đèn, tưởng nhớ, nhận ra
lòng mình vẫn bơ vơ, nghe như lạc lõng niềm vui nhưng lại ắp đầy
trìu mến.
Ra nghĩa trang, bao nhiêu lần đưa
tiễn đến nơi hỏa táng, từ ngày mẹ mất dường như cảm thấy thương
hơn đối với các gia đình tang hiếu rơi vào khoảng lặng. Cũng một
nỗi buồn ấy, trong nhiều tâm trạng, nặng trĩu nhiều khuôn mặt, tôi
lại thấy nao nao những tưởng nhớ miên man. Tôi nhận ra trong tiếng
nấc nghẹn ngào, trong làn nước mắt, có nhiều kỷ niệm, có nhiều dấu
ấn của cuộc đời, lớn lên trong bàn tay yêu thương của cha mẹ.
Trong tiếng buồn rơi có những lời kinh trầm phó thác, trong bàn
tay tiễn biệt có những hạt kinh lặng lẽ.
Tôi thấy những bước chân buồn không
muốn nhấc, tôi thấy những chiếc xe chạy mà chẳng biết đang đi đâu,
bởi lòng chở đầy nỗi mất mát đau thương. Mỗi lần như thế, tôi lại
thấy những bước chân tìm đến Thánh đường, nhà chầu Thánh Thể,
dường như để sống lại những kỷ niệm, nơi ấy, chỗ ấy, người thân
yêu đã từng ngồi, đã ở đó để tham dự Thánh lễ, đã thường dẫn các
con vào nhà thờ lúc con còn thơ ấu.
Tôi không biết có tôn giáo nào có
nhiều kỷ niệm như Kitô giáo không. Tôi thấy rất nhiều gia đình tụ
họp trong ngày lễ cầu nguyện cho cha mẹ đã khuất. Tôi cũng thấy,
có những người con ngồi vào chỗ cha mẹ thường hay ngồi tham dự
Thánh Lễ trong nhà thờ, dường như muốn đọc lại tâm tình của cha
hay mẹ mỗi khi cầu nguyện, hoặc như muốn sống lại góc nhìn ngắm
Chúa từ chỗ quen thuộc ấy. Tôi không thể diễn giải hết bao tâm
tình từ một chỗ ngồi mà lại có biết bao cảm xúc, chỉ biết chắc
chắn rằng từ chỗ ấy đã từng có lời nguyện xin cho các con khi cha
mẹ còn sống.
Tôi không rõ có những cảm nghiệm về
tình cha nghĩa mẹ phong phú như thế không vào những buổi kinh tối
tại gia đình. Những ngày đưa tiễn cha, mẹ xong, gia đình lại có
những giờ phút ngồi lại bện nhau trong giờ kinh tối. Tôi nhớ đến
những ngày ấu thơ, anh chị em, mỗi đứa giành nhau ngồi vào lòng mẹ
hay cha, tiếng đọc kinh hòa cùng tiếng xì xầm của con trẻ, những
bàn tay lần hạt và những bàn tay mân mê đồ chơi của bé thơ...Tôi
thấy lại biết bao những kỷ niệm, mà giờ đây chỉ khi cha hay mẹ mất,
anh chị em từ nhiều nơi mới quy tụ lại như xưa, đọc giờ kinh tối.
Những lúc kinh tối này, nhìn sang những đứa cháu, nhìn qua các anh
chị em, lại vẫn thấy những khung cảnh ngày xưa, tay lần hạt và
những bán tay nhỏ xíu mân mê đồ chơi... Tôi lại thấy tuổi thơ mình
một thời đã sống.
Nỗi nhớ mênh mông nhưng là những nỗi
nhớ trong khung trời yêu thương của Thiên Chúa. Chúa đã yêu thương,
đã cho cha mẹ là người Công Giáo, có cha mẹ nhiệt thành sống đạo
Chúa. Trong mọi hoàn cảnh đều thấy bàn tay yêu thương của Thiên
Chúa trong đời sống nguyện cầu của cha mẹ. Được lớn lên giữa những
lời kinh, trưởng thành trong những lời nguyện, vượt qua những cám
dỗ nhờ đời sống gương mẫu của cha mẹ.
Quá nhiều hồng ân chất đầy trong nỗi
nhớ và nhiều nỗi nhớ chất đầy trong hồng ân, để bây giờ tôi thấy
bàn tay Thiên Chúa âm thầm nâng đỡ. Xin cảm tạ thiên Chúa và tất
cả các bậc cha mẹ đã nhiệt thành sống đạo Chúa. Xin cho các ngài
an vui một đời bên Chúa.
L.m Giuse Hoàng Kim Toan
|
VỀ MỤC LỤC |
|
NGƯỜI TÍN HỮU GIÁO DÂN VÀ HUẤN DỤ XÃ HỘI CỦA GIÁO HỘI .
|
NGUYỄN HỌC TẬP
( Viết theo tài liệu
của phiện họp Thượng Hội Đồng Giám Mục Ý Quốc 21.02.2010 )
Với Thông Điệp gần đây
Caritas in Veritate của Đức Thánh Cha Benedictus XVI, chúng ta
được mời gọi hãy đặt tâm chú ý đến Huấn Dụ Xã Hội của Giáo
Hội. Tức là hãy nhận thức ra những biến đổi sâu đậm trên
thế giới ( do tiến trình toàn cầu hoá và tầm quan trọng nổi
bậc của nền văn hoá khoa học - kỷ thuật ).
Giáo Hội mời gọi chúng ta
hãy biết đọc lại vấn đề xã hội dưới ánh sáng là vấn đề có
liên quan đến con người ( "vấn đề nhân chủng học " (
Caritas in Veritate, n. 21).
Con người đang bị đặt
trước một cơn khủng hoảng thiêng liêng trầm trọng, được thể hiện
bằng quan niệm không có gì sáng sủa về con người.
Sự kiện căn bản đó khiến
cho chúng ta phải đặc tâm chú ý đến Huấn Dụ Xã Hội của Giáo Hội,
đến " trái tim sống động " về tư tưởng xã hội của Ki Tô
giáo, đó là tư tưởng đặt người công giáo nói chung và người tín
hữu giáo dân một cách cá biệt vào việc dấn thân vào phục vụ cho
sự hiệp nhứt nhân loại.
Trong Tổng Lược Huấn Dụ Xã
Hội của Giáo Hội ( 2004), chúng ta đọc được như sau:
- " Nhân hoại càng
ngày càng hiểu rõ hơn rằng mình liên kết với nhau bằng một định
mệnh chung, đòi buộc tất cả đều phải đảm nhận trách nhiệm chung,
được gợi hứng bằng một dòng giống nhân loại hoàn hảo và liên đới
hỗ tương. Nhân loại nhận thức rằng định mệnh chung đó thường bị
đặt điều kiện và đôi khi cả áp đặt bởi kỷ thuật và kinh tế và cảm
nhận được cần phải có thái độ ý thức luân lý hơn, để định hướng
cho hướng đi chung...Người tín hữu giáo dân biết rằng mình có thể
tìm được trong Huấn Dụ Xã Hội của Giáo Hội các nguyên tắc để suy
tư, các tiêu chuẩn để chuẩn định và các định hướng để hành động,
từ đó phát khởi ra việc thăng tiến để có được một nền nhân bản
hoàn hảo và liên đới...Giáo Hội là dấu chứng tình yêu Thiên Chúa
đối với con người và là dấu chứng ơn gọi cả cộng đồng nhân loại
cùng quy tựu nhau trong niềm hiệp nhứt con cái của một Cha duy
nhứt ( Lumen Gentium, 1). Giáo Hội có ý trình bày cho tất cả mọi
người một dòng giống nhân loại tương ứng với mức độ tinh yêu của
Thiên Chúa trong lịch sử của mình, một dòng giống nhân loại hoàn
hảo và liên đới, có khả năng tác động một trật tự xã hội, kinh tế,
chính trị mới, được đặt nền tảng trên phẩm giá và tự do của mỗi
con người, được thực hiện trong hoà bình, công chính và liên đới "
( Tóm Lược Huấn Dụ Xã Hội của Giáo Hội, nn. 6, 7.19).
1 - Nền tảng và những tiêu
chuẩn thiết yếu.
Từ những lời nhắc nhở đơn
sơ đó, chúng ta có thể làm sáng tỏ ra một vài yếu tố thiết yếu làm
nền tảng thần học và đời sống thiêng liêng cho việc dấn thân-nhân
chứng của người tín hữu giáo dân trong xã hội và trong chính trị.
1.1 - Nước Chúa,
Giáo Hội và trần thế.
Giáo Hội cùng đồng hành
với cả nhân loại suốt dòng lịch sử.
Giáo Hội ở giữa trần thế
và , mặc dầu không phải thuộc về, nhưng được kêu gọi để phục vụ
trần thế. Cách hiện diện đó được xác tín cho rằng thế giới cần
nhận biết Giáo Hội là thực thể và men bột của lịch sử, cũng như
điều quan trọng là Giáo Hội phải biết bao nhiêu điều hữu ích mình
nhận được từ lịch sử và từ tiến hoá của nhân loại ( Gaudium et
Spes, 44).
Giáo Hội phục vụ thế gian
bằng cách phổ biến cho thể gian " những giá trị Phúc Âm ",
đó là cách thể hiện của Nước Chúa và giúp cho con người hiểu biết
và đón nhận đồ án mà Thiên Chúa muốn cho mình và cho anh em đồng
loại mình.
Thật ra các chất liệu của
Nước Thiên Chúa chúng ta cũng có thể tìm gặp được ở bên ngoài lằn
mức khuôn viên tổ chức Giáo Hội, trong chính bản thể và cả cuộc
sống nhân loại, khi nhân loại sống theo " các giá trị Phúc Âm
" và mở rộng mình ra " cho động tác của Chúa Thánh Thần,
Đấng gợi ý cho ở đâu và lúc nào theo ý Người muốn " ( Jn 3, 8).
1.2 - Phúc Âm, dấu
chỉ thời đại và điều răn yêu thương.
Thiên Chúa, nơi Chúa Ki
Tô, không chỉ đến để cứu độ con người như cá nhân, mà cũng để
thiết lập lại các mối tương quan xã hội giữa con người. Chính
Thánh Thần Thiên Chúa cũng là Đấng gợi ý những giải pháp mới và
hiện đại cho động tác của con người, cho công đồng Ki Tô giáo đang
hiện diện giữa trần thế và mở rộng cửa cộng tác với những người
thành tâm thiện chí ( Tổng Lược Huấn Dụ Xã Hội của Giáo Hội,
53).
Tìm kiếm những giải pháp
đó, được đặt nền tảng trên Chúa Giêsu, Đấng được Chúa Cha sai đến,
mạc khải diện mạo Tình Yêu của Thiên Chúa ( 1 Jn 4,8).
Người dạy chung ta rằng lề luật nền tảng của cuộc chuyển đổi
thế giới là điều răn bác ái mới.
Giáo Hội không hoà hợp lẫn
lộn với cộng đồng chính trị, nhưng được Chúa ủy thác cho chuẩn
định các dấu chỉ thời đại ( signa temporis ). Giữa những
dấu chỉ đó, Tổng Lược Huấn Dụ Xã Hội của Giáo Hội ( n. 383)
khám phá ra ba dấu chỉ có tính cách " thách thức ":
- chân lý của thực thể
con người,
- sự hiểu biết và
phương cách hành xử đối với những gì đa nguyên và khác biệt ở mọi
đẳng cấp
- và hiện tượng toàn
cầu hóa hiện hành.
1.3 - Dân Chủ, những
giá trị và trách nhiệm chính trị.
Nguyên tắc bác ái soi sáng
cho người tín hữu giáo dân ý nghĩa của việc chung sống chính
trị.
Giáo Hội ngưỡng mộ
hệ thống dân chủ, bởi vì dân chủ bảo đảm cho người dân có
quyền tham dự vào các việc lựa chọn chính trị và bảo đảm cho người
bị trị có thể tuyển chọn và kiểm soát giới đương quyền, đang thay
mặt mình quản trị Đất Nước, cũng như cho người dân có quyền thay
thế một cách ôn hoà, nơi đâu và lúc nào sự thay đổi đó cần thiết
và thuận tiện ( Centesimus Annus, 46).
- Huấn Dụ Xã Hội của
Giáo Hội phát hiện một trong những mối nguy hiểm to lớn cho
nền dân chủ hiện đại nằm trong các tư tưởng tương đối chủ nghĩa (
relativismo). Theo đó thì không có gì là tiêu chuẩn khách
quan và phổ quát để thiết định đâu là nền tảng và bậc thang các
giá trị.
Trong thể chế dân chủ,
những người có trách nhiệm chính trị đừng quên hay định thấp
giá tầm kích luân lý của địa vị đại diện mà mình đang đảm nhận,
trong việc chia xẻ đời sống với dân chúng và tìm ra những giải
pháp cho các vấn đề xã hội.
Ở đây, quyền năng có trách
nhiệm có nghĩa là có được những đức tín khiến cho việc áp dụng
quyền năng thực hữu của mình với tinh thần phục vụ ( nhẩn nại,
khiêm nhường, điều độ, kính trọng đối phương).
- Các chính đảng
có phận sự giúp cho sự tham dự quyền lực được trải
rộng ra trong dân chúng và mọi người đều có thể tham dự
vào việc đảm nhận trách nhiệm công cộng.
Các chính đảng được kêu
gọi giải thích các ước vọng của xã hội, bằng cách hướng dẫn các
ước vọng đó nhằm vào công ích, tạo điều kiện cho người dân có khả
năng thiết thực cùng nhau cộng tác thiết định các việc lựa chọn
đường lối chính trị Quốc Gia.
Các chính đảng phải
thực sự là những tổ chức dân chủ trong nội bộ của mình, có khả
năng tổng hợp chính trị và thiết định các chương trình hành động.
Các chính đảng cũng có
phận sự kiểm soát các động tác tha hóa chính trị, tiêu lòn, ăn hối
lộ và tố cáo cho dân chúng biết những thành phần ích kỷ, bất hảo,
phe phái, để dân chúng tiên liệu trong kỳ bầu cử tới.
1.4 - Hội nhập đức
tin vào văn hoá và chuẩn định chính trị của ngưòi tín hữu giáo
dân.
Nền nhân chủng học
Ki Tô giáo làm sống động và nâng đỡ động tác hội nhập đức
tin vào văn hoá. Động tác vừa kể cần được thực hiện trong xã hội,
để nhờ vào sức mạnh của Phúc Âm, con người có thể canh tân các
tiêu chuẩn để phán đoán, các giá trị thiết yếu, các đường hướng tư
tưởng và các khuôn mẫu đời sống con người hiện đại.
Hiểu nhu vậy, Huấn
Dụ Xã Hội của Giáo Hội phải là nền tảng căn bản của công trình
huấn luyện thường trực người tín hữu giáo dân.
Mọi thực tại của nhân loại
qua bao thế kỷ, cá nhân cũng như xã hội, là đối tượng của tình yêu
Thiên Chúa. Công cuộc dấn thân vào trần thế cua người tín hữu giáo
dân phải đáp ứng lại nhãn quang đó và điều đó cũng được coi là
những gì thể hiện đức bác ái Phúc Âm.
Đối với người tín hữu giáo
dân, việc dấn thân vào chính trị được coi như đặc tính thể
hiện và nhu cầu của việc chuyên cần dấn thân Ki Tô hữu để phuc vụ
nguời khác ( Quadagesimo Anno, 46).
Nhưng để thực hiện điều
đó, cần phải có một khuôn mẫu để chuẩn định, cá nhân cũng như cộng
đồng, được đặt liên hệ với một vài cự điểm, như
- hiểu biết được các
tình trạng,
- suy tư có hệ thống về
các hiện trạng thực tế,
- nhận thức được các
phương thức phải lựa chọn ( Tổng Lược Huấn Dụ Xã Hội của Giáo
Hội, 568).
Từ đó có thể thoát xuất ra
những sự lưa chọn tác động thiết thực và hữu hiệu. Nhưng nói nhu
vậy, chúng ta không thể coi đó là những gì có giá trị tuyệt đối ,
bởi vì
- " đức tin không
bao giờ có ý định viện cớ trói buộc tất cả vào một sơ đồ chắt nịch
các nội dung xã hội - chính trị, bởi vì đức tin ý thức được chiều
kích lịch sử trong đó con người đang sống, đòi buộc xác định sự
hiện hữu của các tình trạng không hoàn hảo và thường xuyên thay
đổi mau chóng " ( Thánh Bộ Tín Lý Đức Tin, Ghi Chú Tín Lý...2002,
7).
- " Lương tâm Ki Tô
giáo được đào tạo tốt đẹp không cho phép bất cứ ai đồng thuận bỏ
phiếu cho việc thục hiện một đồ án chính trị hay một đạo luật
riêng rẽ, trong đó các nội dung nền tảng của đức tin hay luân lý
bị đảo ngược do việc ban hành các lời đề nghị khác biệt hay ngược
lại với các nôi dung đó " ( id.,4).
- " Trong trường hợp
không thể nào tránh được việc thực hiện những chương trình chính
trị đó, một dân biểu quốc hội có thể trợ lực một cách chính đáng
cho nhũng đề nghị nhằm giới hạn những thiệt hai và giảm thiểu các
hậu quả tiêu cực trên lãnh vực văn hoá và luân lý công cộng " (
id.570).
Một lãnh vực cá biệt cho
việc chuẩn định đối với người tín hữu giáo dân đó là lãnh vực có
liên quan đến việc lựa chọn các dụng cụ chính trị, hay nói
đúng hơn đó là việc gia nhập vào một chính đảng và vào các phương
thức tham gia vào chính trị.
Cần phải tác động một việc
chọn lựa trung thành với các giá trị, trong khi lưu ý đến các
trường hợp thiết thực.
Ngưòi tín hữu giáo dân
không thể tìm được một chính đảng đáp ứng lại hoàn hảo các điều
đức tin đòi buộc và có liên hệ đến Giáo Hội. Việc gia nhập đứng về
phía nầy hay phía khác là việc lựa chọn chính trị, chớ không bao
giờ là việc lựa chọn ý thức hệ, nhưng dù sao đi nữa cũng luôn luôn
phải có cân nhắc, nhằm thực hiện những phương thức đặc tâm lưu ý
nhứt để đạt được công ích đích thực ( id. 573).
Gia nhập vào một
chính đảng hay một phe phái chính trị phải được coi là quyết định
với tư cách cá nhân.
Dù sao đi nữa, người tín
hữu trong chính trị cũng phải tìm cách
- " hiểu biết, thông
cảm nhau bằng một cuộc đối thoại thành thật, trong khi vẫn luôn
luôn gìn giữ đức bác ái đối với nhau và được thúc đẩy tiên khởi
nhằm công ích " ( Gaudium et Spes, 43).
2 - Các định hướng và các
điểm cốt yếu quan trọng.
Trong tiến trình văn hoá
phức tạp hiện nay, việc người tín hữu giáo dân dấn thân vào chính
trị được đặt thành vấn đề.
Thật vậy,
- một đàng người tín
hữu giáo dân không thể tránh né khỏi tham dự vào đời sống chính
trị,
- thì đàng khác họ lại
phải lưu tâm đến những khuynh hướng văn hoá mơ hồ tối nghĩa, thúc
đẩy con người có những lựa chọn có thể tranh cải được về luân lý
hay không thể chấp nhận được.
Về vấn đề nầy Thánh Bộ
Giáo Lý Đức Tin đã can thiệp với bản " Ghi chú tín lý
về một vài vấn đề có liên quan đến việc chuyên cần và thái
độ của người công giáo trong đời sống chính trị " ( Nota
dottrinale circa alcune questioni riguardanti l'impegno e il
comportamenti dei cattolici nella vita politica, 2002).
Bản tài liệu nhấn mạnh đến
- việc cần phải tạo một
linh hồn luân lý cho đời sống dân chủ ( n.2),
- cống hiến cho chính
trị một vài định hướng về vấn đề đa nguyên ( n.3 ),
- mối tương quan giữa
sự trung thành Ki Tô giáo và thuộc về phe phái chính trị ( n. 4),
- đặc tính trần thế của
chính trị ( n. 5-6).
2.1 - Linh hồn
luân lý cho dân chủ.
-Sau khi xã hội chủ nghĩa
áp dụng thiết thực đã tàn lụi, nền văn hoá tân-tự do chủ thuyết
(neoliberalismo) có khuynh hướng trở thành là nền văn
hóa độc tôn
- " đó là nền văn
hoá duy nhứt tạo ra mối nguy hiểm đồng nhất hoá mọi văn hoá khác,
bởi lẽ có cả một gia sản giá trị của mình. Nhược điểm của nền
văn hoá chính trị đang thịnh hành nằm trong mối đươn kết giữa dân
chủ và tương đối luân lý. Bởi đó các chính kiến khác nhau, văn
hoá khác nhau, luân lý và tôn giáo khác nhau đều được coi là có
giá trị như nhau và chính danh hợp pháp như nhau. Trong khi đó thì
tự do được hiểu như là mọi người đều có thể hành xử và lựa chọn
điều gì mình thích nhứt, chỉ có lằn mức duy nhứt là tôn trọng tự
do của người khác ( Nota doctrinalis, id.).
Bởi đó Ghi Chú Tín
Lý ( Nota doctrinalis...) đứng cách xa với quan niệm mọi
điều đều được phép và cá nhân chủ nghĩa đó. Bởi lẽ đó là thái độ
của chủ thuyết dân chủ thực dụng,
-
cơ chế quốc gia trở thành
dụng cụ quyền lực và lợi thú của phe nhóm,
- với hậu quả là không
còn tôn trọng phẩm giá cao cả thiêng liêng của con người và làm
cho chính nền dân chủ không còn đâu là định điểm để có thể quy
chiếu.
2.2 - Đa nguyên.
Cũng chính những lý do
khước từ tương đối luân lý chủ nghĩa là nền tảng chính đáng
cho quan niệm đa nguyên. Đa nguyên không liên quan
đến các nguyên tắc luân lý
- " bởi bản chất của
mình và tự phận vụ nền tảng cuộc sống chính trị của mình, các giá
trị luân lý là những giá trị không thể bàn thảo mặc cả được " (
Nota doctrinalis, n.3), nhưng
là những giá trị có thể đưa đến những chiến thuật chính trị khác
nhau.
Tính cách đa nguyên các
khuynh hướng chính trị không những là những điều chính đáng, mà
còn là những điều cần thiết trong cuộc sống dân chủ:
- " Như vậy, không
ai có thể chối cải quyền tự do của người tín hữu giáo dân lựa chọn
các khuynh hướng, chủ trương chính trị thích hợp với đức tin và
với lề luật luân lý tự nhiên, đó là lề luật theo tiêu chuẩn của
mình. các khuynh hướng, chương trình chính trị phải nhằm đáp ứng
một cách tốt đẹp nhứt cho các đòi hỏi của công ích ( Nota
doctrinalis, n. 3).
Hiểu như vậy, bổn phận mà
người tín hữu giáo dân phải hành xử thích ứng với đức tin và với
các nguyên tắc căn bản luân lý, không cấm cản người tín hữu giáo
dân có thể khác biệt giữa họ, trong việc chuẩn định phán đoán cần
có đối với một chương trình của chính đảng hay của chính quyền.
- Ghi Chú Tín Lý
( Nota doctrinalis...) còn nhấn mạnh rõ rệt hơn rằng
* " Có thể có nhiều
chính đảng mà trong đó người công giáo có thể chọn lựa để đấu
tranh với quyền và nhiệm vụ của mình - nhứt là qua các đại biểu
trong Quốc Hội - để xây dựng đời sống dân sự của Xứ Sở " ( Nota
doctrinalis, id.).
Đó là việc lựa chọn, tùy
thuộc lương tâm và cảm nhận xã hội-văn hoá của từng cá nhân:
- " Giáo Hội không
có bổn phận phải đưa ra những giải pháp thực tiển - càng không
phải hơn nữa đưa ra những giải pháp duy nhứt - đối với những vấn
đề trần thế mà Thiên Chúa đã để cho phán đoán của mỗi người được
tự do và có trách nhiệm, mặc dầu Giáo Hội có quyền và bổn phận
phải đưa ra những phán quyết luân lý của mình về các thực tại trần
thế, khi có sự đòi buộc đối với đức tin và luân lý " ( Nota
doctrinalis, id.).
Trong nhãn quang đó, người
tín hữu giáo dân ý thức rằng việc lựa chọn sống với chức
năng chính trị là những gì thể hiện cho thấy mức độ trưởng thành
thiêng liêng của con người đang liên hệ.
2.3 - Trung thành
Ki Tô giáo và thuộc về khuynh hướng chính trị.
Đa nguyên không có
nghĩa là dững dưng.
Bởi đó mặc dầu lựa chọn
khác nhau là điều chính đáng, nhưng cũng cần phải nhận thức rằng
không phải mọi chương trình, mọi khuynh hướng chính trị đều được
coi như là sát gần và thích hợp với nhãn quang xã hội của Ki tô
giáo và với lời huấn dạy của Giáo Hội.
Điểu vừa kể đặt người tín
hữu giáo dân trước một câu hỏi hệ trọng: làm sao có thể vẫn trung
thành với căn tính và lý tưởng của mình, khi mình thuộc hệ vào một
chính đảng hay một phe phái, khuynh hướng mà trong đó mình
không được nói lên hoàn hảo những giá trí mà mình tin vào đó,
khi vì phải tuân hành phương thức dân chủ mà mình lại bị đặt trước
những việc lựa chọn đối ngưọc lại những giá trị luân lý bất khả
nhượng của con người ( lợi ích toàn vẹn của con người, đời sống,
gia đình, giáo dục, tự do tôn giáo, hoà bình ) ?
- Ghi Chú Tín Lý
( Nota doctrinalis...) xác nhận rằng người công giáo phải có can
đảm nhân chứng trước công chúng,
-
khi họ chứng tỏ cho thấy
mình hoàn toàn khắng khít với những giá trị luân lý bất khả
nhượng. Người tín hữu giáo dân trong chính trị cũng cần xử
dụng tất cả những dụng cụ mà phương thức dân chủ cho phép để đạt
được điều tốt lành một cách thiết thực to lớn nhứt có thể trong
các hoàn cảnh khác nhau.
- Bản văn Nota
doctrinalis định hướng mà ĐTC Gioan Phaolồ II đã đưa ra về
vấn đề phá thai như sau:
* " Một vị dân biểu
Quốc Hội, mà thái độ chống đối tuyệt đối của mình được thể hiện rõ
rệt và ai cũng biết, có thể chính đáng đưa ra sự trợ lực của mình
đối với những lời đề nghị nhằm giảm thiểu các tai hại của đạo luật
đó và nhằm giảm thiểu các hậu quả tiêu cực về phương diện văn hóa
và luân lý công cộng " ( Evangelium vitae, 1995, n. 73).
Đức Hồng Y Carlo Maria
Martini đưa ra lý chứng sau đây để nói lên tính cách chính
đáng của thái độ vừa kể:
- " Động tác chính
trị...tự nó không có nghĩa là để thực hiện lập tức các nguyên tắc
tuyệt đối, mà đúng hơn là để thực hiện công ích một cách chính
đáng có thể, trong một hoàn cảnh thiết định nào đó " ( Incontro
conclusivo delle scuole di formazione socio-politica sul tema:
Politica, via alla santità, in Martini C. M. , Il Padre di tutti,
Lettere, discorsi e interventi, EDB, Bologna 1999, 290).
Bằng cách tránh đi thái độ
" hành động như nhà đạo đức ", " làm nhà luận lý ", thái độ
đó không đem lại lợi ích gì trong chính trị.
Với lương tâm cho rằng như
vậy chưa đủ luân lý hay không phải là thái độ luân lý trong đôi
tay trong sạch, có thể đưa đến những cuộc đụng chạm chống đối
quyền lực, người tín hữu giáo dân dấn thân vào các chính đảng phải
học hỏi trên chính bản thân mình rằng động tác chính trị
luôn luôn gồm cả ở việc thực hiện được tuần tự công ích.
Từ đó chúng ta có thể hiểu
được thái độ nguy hại là thái độ bỏ rơi chính trị vì sợ có thể bị
làm vẩn đục căn tính của chính mình hoặc cũng do đó mà khước từ
mọi động tác đối thoại, bởi lẽ
- " lời đề nghị
những bước đi tích cực, mặc dầu là những bước chậm chạp, tuần tự
còn hơn là thái độ khép kín trên những câu la ó từ chối " không ",
rồi về lâu về dài, với chiêu bài phải được điều tốt nhứt, khiến
cho tình trạng càng ngày càng trở nên tồi tệ, không xứng đáng với
con người hơn " ( ĐHY C.M. Martini, C'è un tempo per tacere e un
tempo per parlare 1995, Centro Ambrosiano, Milano 1995, 22ss).
Chủ trương đa nguyên văn
hoá và luân lý, cũng như địa vị thiểu số của người Ki Tô hữu trong
xã hội hiện nay dường như gợi ý cho chúng ta con đường của
sự hiện diện trải rộng của người tín hữu giáo dân trong nhiều lãnh
vực chính trị khác nhau.
Sự kiện vừa kể có thể giúp
cho người tín hữu giáo dân vượt qua khỏi các tiền kiến ý thức hệ
và đưa đến một cuộc hiểu biết, hội nhập bị đặt thành điều kiện ít
hơn vào những vấn đề khác nhau trên tầm mức luân lý.
Đàng khác việc áp dụng
hệ thống đa số khiến chúng ta phải tìm được những tổ
chức, những lãnh vực đồng thuận rộng rãi hơn những gì chỉ gói ghém
giới hạn trong lãnh vực thuộc hệ chính đảng, dựa trên việc xác
nhận một đồ án chính trị tổng phần của nó.
Tất cả những gì vừa kể đòi
buộc phải có một thái độ mở rộng, đối với nội bộ cộng đồng Ki Tô
giáo, mở rộng ra cho nhiều lãnh vực để có thể gặp gỡ nhau,
trong đó các tín hữu giáo dân của nhiều lực lượng chính trị khác
nhau có thể bình thản, thanh thoảng đối thoại, so sánh, cân nhắc
các chủ trương và chương trình hành động của nhóm mình.
2.4 - Đặc tính
trần thế.
Để hoà hợp được lòng trung
thành với căn tính Ki Tô giáo của chính mình và các lề luật,
nguyên tắc của chính trị, người tín hữu giáo dân cần có thái độ
trung gian điều giải luân lý và nhân chủng học, nhờ đó có thể
tránh được thái độ cực đoan của những ai muốn diễn dịch thẳng
các giá trị Ki Tô giáo của mình vào chính trị và thái độ của
kẻ " hề hà thế nào cũng được " ( qualunquismo ), sẵn sàng
hạ thấp giá trị của lương tâm, miễn là được một vài lợi nhuận tức
khắc.
Bản Ghi Chú Tín Lý (
Nota doctrinalis...) đứng ở một vị thế tách xa khỏi thái độ
của nhóm quá khích và nhóm " hề hà cái gì cũng được miễn là ",
bằng cách lập lại những thành đạt tín lý và mục vụ của Công
Dồng Vatican II và của Huấn Dụ Xã Hội của Giáo Hội.
Như mỗi thực thể khác ở
thế gian, chính trị cũng có tính cách trần thế.
Chính trị có mục đích nhằm
đạt được lợi ích trần thế cho cộng đồng dân chúng, bởi đó chính
trị có luật lệ và dụng cụ, phương tiện tự lập của chính mình,
không phải cần có sự trợ giúp của đức tin hay của phương thức tổ
chức thiêng liêng.
Từ đức tin chúng ta
không thể trực tiếp diễn dịch một khuôn mẫu tổ chức xã hội, chính
quyền hay chính đảng.
Đức tin không cho phép
người tín hữu giáo dân khỏi trách nhiệm , khỏi những nguy hiểm,
thử thách của động tác chính trị, khỏi lao lực để tìm ra được
phương thức trung gian điều giải mà cuộc sống dân chủ đòi buộc:
- " Đặc tính trần
thế là " đặc tính tự lập của lãnh vực đời sống dân sự và chính
trị, tự lập khỏi lãnh vực tôn giáo và giáo phẩm...là một giá trị
đạt được và được Giáo Hội nhìn nhận và thuộc về gia sản mà cuộc
sống văn minh đã đạt được " ( Nota doctrinalis, n.6).
Tuy nhiên, chính trị tự
lập đối với lãnh vực tôn giáo không có nghĩa là tự lập đối với
lãnh vực luân lý. Bởi đó là một cách phát biểu sai lạc cho rằng
việc Giáo Hội đứng ra bênh vực các đòi hỏi luân lý phải có trong
chính trị, là những gì không thuộc thẩm quyền và bổn phận của Giáo
Hội, cho rằng tốt hơn, Giáo Hội chỉ nên cáng đáng " việc nội bộ
" của mình. Bởi lẽ các đòi hỏi luân lý cũng là những gì phải
có đối với các nguyên tắc trần thế trên đó nền dân chủ có được nền
tảng:
- tôn trọng phẩm giá
con người,
- quyền tự do của mỗi
người,
- tình liên đới hỗ
tương,
- mọi người có quyền
bình đẳng như nhau,
- công lý và hoà bình.
Những việc lựa chọn mà
người tín hữu giáo dân được mời gọi hãy cùng thực hiện trong chính
trị với tất cả những người thành tâm thiện chí khác và trung thành
với ước vọng tôn giáo của mình, cũng là những động tác trần thế.
- " Quyền huấn dạy
của Giáo Hội không có ý định gì hành xử quyền lực chính trị, cũng
không nhằm loại trừ tự do tư tưỏng của người công giáo trong nhũng
vần đề trần thế. Trái lại Giáo Hội có ý...dạy bảo và soi sáng
lương tâm của các tín hữu, nhứt là của những ai dấn thân vào các
phận vụ chuyên cần trong đời sống chính trị, để cho động tác của
các tín hữu luôn luôn là động tác nhằm thăng tiến toàn vẹn con
người và công ích " ( Nota doctrinalis, n. 6).
Qua những gì vừa trình
bày, chúng ta hiểu được người tín hữu giáo dân được mời gọi
hãy tham gia vào việc soạn thảo đồ án tổng thể của xã hội và trung
gian điều giải ( mediation ) đức tin của mình thành ngôn từ nhân
chủng học, mọi người đều có thể hiểu được, các giá trị luân lý căn
bản, là phần gia sản của các giá trị Ki Tô giáo.
Bởi đó cần phải
khởi đầu từ văn hoá trong tinh thần tôn trọng đa nguyên , đặc tính
trần thế và hợp pháp của thể chế dân chủ. Người tín hữu giáo dân
không thể tự cho phép mình dững dưng, phủi tay, đứng ngoài (
diaspora ) đối với những gì có liên hệ đến " đời sống
thiêng liêng và văn hoá " của xã hội mình.
Như vậy,
" chúng ta ý thức được
cần có gấp rút một động tác mục vụ để
- xoá bỏ đi sự tách
rời giữa động tác thực hành tôn giáo và đời sống dân sự
- và thúc đẩy người
tín hữu giáo dân hiểu biết nhiều hơn và sâu đậm hơn Huấn Dụ Xã Hội
của Giáo Hội,
- để mình hiểu được
việc liên kết rao giảng Phúc Âm với nhân chứng của các động tác
liên quan đến công lý và liên đới hỗ tương " ( Documenti CEI, Per
un paese solidale. Chiesa italiana e Mezzogiorno, 21.02.2010)
|
VỀ MỤC LỤC |
|
KHI MÀ NHỮNG VỊ LÃNH
ĐẠO ĐÁNH RƠI MẤT LÝ TƯỞNG CỦA CHÚA GIÊSU
|
(Suy niệm Phúc Âm
Chúa Nhật XXXI Thường Niên A. Mt.23: 1-12)
Bác sĩ NGuyễn Tiến Cảnh, MD
Bài Tin Mừng Chúa Nhật hôm nay
(Mt.23:1-12):
23- 1 Bấy
giờ, Đức Giêsu nói với đám đông và các môn đệ của Ngài rằng:
2 “Các kinh sư và các người Pharisiêu ngồi trên tòa ông
Maisen mà giảng dạy. 3Vậy những gì họ nói thì anh em
hãy làm, hãy giữ; nhưng đừng làm theo hành động của họ, vì họ nói
mà không làm. 4Họ đem những gánh nặng mà chất lên
vai người khác, còn chính họ thì không buồn đụng đến ngón tay.
5Họ làm mọi việc cốt để thiên hạ thấy. Quả vậy, họ đeo
những hộp kinh thật lớn, mang những tua áo thật dài. 6Họ
ưa ngồi cỗ nhất trong đám tiệc, chiếm hàng ghế đầu trong hội
đường,7ưa được người ta chào hỏi ở những nơi công
cộng và được thiên hạ gọi là “rap-bai”.
8 “Phần anh em,
thì đừng để ai gọi mình là”rap-bai”, vì anh em chỉ có một Thầy,
còn tất cả anh em đếu là anh em với nhau. 9Anh em
cũng đùng gọi ai dưới đất này là cha của anh em, vì anh em chỉ có
một Cha là Cha trên trời. 10Anh em cũng đừng để ai
gọi mình là người lãnh đạo, vì anh em chỉ có một vị lãnh đạo, là
Đức Kitô. 11Trong anh em, người làm lớn hơn cả, phải
làm người phục vụ anh em. 12Ai tôn mình lên, sẽ bị
hạ xuống; còn ai hạ mình xuống, sẽ được tôn lên.”
***
“Một lần làm, bằng cả ngàn lần
nói” là câu nói ám chỉ sự quan trọng của gương sáng. Làm
gương sáng bằng hành động, cuộc sống thì có giá trị và kết quả hơn
nhiều lần lý thuyết lưu loát, lôi cuốn người nghe mà không thực
hành theo lời mình nói. Đó là ý Chúa Giêsu muốn dạy chúng ta,
những đấng làm thầy nên sống bằng gương sáng, có nghĩa là giảng
dạy thì phải thực hành những điều mình giảng. Đừng nghĩ mình là
“thầy dạy”, là “cha” thiên hạ, thì phải “ăn trên ngồi trước”. Xét
đoán của Chúa không phải như vậy đâu. Bài Phúc Âm Chúa Nhật hôm
nay thu gọn trong quan niệm này. Nói thì phải làm. Kẻ ngồi trên sẽ
bị kéo xuống. Người ở dưới sẽ được đưa lên.
ĐAI Ý BÀI PHÚC ÂM CHÚA NHẬT HÔM NAY
Bài Phúc Âm hôm nay (Mt 23:1-12) của
thánh Mathew được coi như là một cuộc bút chiến khá kịch liệt
trong Tin Mừng. Chúng ta lại một lần nữa học được bài học về những
xung đột cay đắng giữa những người Pharisiêu thuộc Do Thái giáo và
Cộng Đồng Giáo Hội của thánh Mathew. Đoạn văn cho thấy rõ ràng
chúa Giêsu đã lột mặt nạ đạo đức giả của những tên Pharisiêu và
kinh sư. Tài liệu này chỉ thấy duy nhất trong Tin Mừng thánh
Mathew mà thôi.
Trong phần đầu của chương 23, chúng
ta thấy tác giả đặc biệt nhắm vào những người gọi là thầy dạy về
tôn giáo và trách nhiệm của họ đối với dân chúng. Chúa Giêsu đã
phê phán những người tự coi là đạo đức nhưng lại đối kháng với
Ngài, trong đó đa số là những người Pharisiêu. Khi nói Pharisiêu
là những người “ngồi trên tòa Maisen” (câu 2) đơn thuần chỉ là
kiểu nói ẩn dụ ám chỉ uy quyền giảng dạy của Maisen hoặc là nói về
chiếc ghế mà thầy dạy ngồi để thuyết giáo. Những nghiên cứu sau
này xác nhận là vào thời kỳ sau thời Tin Mừng thánh Mathew cũng có
một loại ghế ngồi đặc biệt dành cho các thầy dạy ở trong các hội
đường.
Suôi theo dòng thời gian, lời Chúa
Giêsu trong Tin Mừng thánh Mathew phải đưọc hiểu trước tiên trực
tiếp nhắm vào những người Pharisiêu là các thầy dạy. Sau cuộc
chiến tàn khốc giữa Do Thái và La Mã (66-73AD), họ đã cố gắng tạo
dựng lại căn tính luân lý đạo đức của dân Do Thái bằng cách mở
rộng và củng cố ảnh hưởng của họ trong các hội đường ở Palestine
và các kiều bào Do Thái lưu vong.
TRỌNG TÂM CỦA CUỘC XUNG ĐỘT: Họ
Đã Làm Mất Lý Tưởng của Chúa Giêsu
Vậy thì đâu là trọng tâm của
cuộc xung đột? Các nhà truyền giáo Kitô giáo người Do Thái đã nói
đến và tuyên xưng một ngôn sứ đã chịu chết trên thập giá và sống
lại; họ nhận thấy những thầy dạy Pharisiêu này đã chống đối tư
tưởng đó một cách kịch liệt đến độ trở thành đối đầu. Do đó lời
chúa Giêsu đã được áp dụng trong trường hợp này. Một cách cắt
nghĩa khác là lời Chúa cũng ám chỉ những thầy dạy của Kitô giáo
được báo động là không giống như những thầy dạy chính danh đã bị
chúa Giêsu khiển trách và lên án.
Cái ưu tư thực sự của thánh Mathew
là cung cách của những vị lãnh đạo nơi Kitô giáo, những
người đã đánh mất lý tưởng mà chúa Giêsu đòi hỏi nơi họ.
Câu 6-12 không nên hiểu một cách đơn giản là câu nói độc thoại hay
nhắc tuồng để kết án mấy ông Pharisiêu, mà phải hiểu đây là mục
đích chính, trọng tâm của sứ điệp của Chúa Giêsu. Chúng ta phải
đọc và suy tư đoạn 23 Tin Mừng thánh Mathew này dưới những lăng
kính thần học; nó không phải chỉ như một lời khích lệ hay kết tội
một cái gì ở trong quá khứ.
PHÊ BÌNH NHỮNG THÀY DẠY PHARISIÊU
Các Pharisiêu là những thầy dạy, có
trách nhiệm đặc biệt hướng dẫn dân Israel vào buổi bình minh của
thời đại ngôn sứ, nhưng họ đã không làm tròn bổn phận của họ.
Chúng ta thử coi 4 điều chỉ trích nhắm vào các ông thày dạy này
được mô tả trong Phúc Âm thánh Mathew hôm nay:
-Thứ nhất, họ không thực
hành những điều họ giảng dạy (câu 3). Sự chỉ trích này có
thể áp dụng cho bất cứ một loại thầy dạy nào của bất cứ một tôn
giáo nào. Họ là những người phải đi sát những lời họ giảng dạy một
cách thật rõ ràng, hiển nhiên và đầy tính thuyết phục.
Đối với những ai hoàn toàn tin tưởng
vào Tin Mừng của Chúa Giêsu Kitô, thì họ phải rao giảng bất cứ
điều gì mà chúa Giêsu đã truyền dạy (28:19) đồng thời phải áp dụng
giáo huấn của Ngài trong chính cuộc sống của mình. Chúng ta hẳn
thực sự rất sốn sang trước lời chỉ trích này của Chúa, bởi vì
không một ai trong chúng ta lại khả dĩ có thể làm gương sáng một
cách trọn vẹn và đầy đủ cái lý tưởng mà chúng ta ao ước và cố công
biểu hiện trong cuộc sống hàng ngày của chúng ta.
-Chỉ trích thứ hai nằm ở câu 4 là: “Họ
đẩy những gánh nặng cho người khác, còn họ thì chẳng
làm gì cả”. Câu này làm cho người đọc hơi khó hiểu một
chút, vì câu 3 thoạt nghe thấy có vẻ ngược nghĩa: “Ngươi hãy
làm theo bất cứ điều gì mà họ giảng dạy”. Theo tôi hiểu thì ở
đây, thánh Mathew nói đến sự kiện là các ông Pharisiêu đã nhấn
mạnh một cách quyết liệt là phải tuân giữ luật lệ. Điều đó có quá
khắt khe, thiếu tính uyển chuyển không? Biểu giữ luật ngày Sabbath
một cách tổng quát thì chưa đủ, còn cần phải cẩn thận xác định
những sinh hoạt của những ngày thường trong tuần được gọi là “công
việc chính”, để rồi mới cấm làm những điều gọi là “công việc chính”
trong ngày Sabbath.
Mặc dù chúa Giêsu giữ luật ngày
Sabbath, nhưng Ngài cũng nhấn mạnh việc “phục vụ người
bệnh, những kẻ ốm đau phải ưu tiên hơn luật ngày Sabbath”.
Chúa đề nghị cho các môn đệ và những người nghe ngài một cái ách
dễ dàng hơn và một gánh nặng nhẹ nhàng hơn: “Tất cả những ai
đang vất vả và mang gánh nặng, hãy đến cùng ta, ta sẽ cho nghỉ
ngơi bồi dưỡng….. (Mt.11: 28-30). Thánh Mathew hẳn đã trực
tiếp bắn những mũi tên chỉ trích này vào những thày dạy của Kito
giáo là những người lúc đó buộc những người theo chúa Giêsu phải
giữ luật ngày Sabbath và những nghi thức luật lệ khác theo như
cách cắt nghĩa của phe Pharisiêu.
ĐẠO ĐỨC GIẢ
-Chỉ trích thứ ba nằm ở câu 5, cần
một diễn nghĩa nhỏ. “Họ làm mọi việc cốt để
mọi người nhìn thấy…”. Câu này tự nó đã nói lên vấn đề
đạo đức giả. Kẻ giả hình nhân đức là kẻ làm bộ thương người, biểu
diễn làm một việc tốt với mục đích được người đời ca ngợi hơn là
ca tụng Thiên Chúa. Hành động này đã bị Chúa thẳng thắn từ chối
một cách rõ ràng trong bài giảng trên núi nói về bố thí làm phúc
và ăn chay hãm mình (Mt.6: 1-6; 16-18). Đeo lủng lẳng trên người
những hộp đựng sách kinh thật lớn và quàng những sợi dây choàng
dài thòng huy hoàng với mục đích làm cho mọi người chú ý biết đến
ta là kẻ đạo đức, là thày dạy… !!!
NHỮNG DANH HIỆU VINH DỰ
-Chỉ trích thứ 4 là một chỉ trích
khá nghiêm khắc về danh hiệu (câu 7-11). Chỉ sau năm
70AD, người ta mới phát động dùng danh xưng “Rap-bai” như là một
từ có tính kỹ thuật để chỉ những người thuộc truyền thống
Pharisiêu, những người đã được huấn luyện để làm thầy dạy và được
xếp riêng vào thành phần có nhiệm vụ lãnh đạo trong cộng đồng.
Đành rằng đó là nhiệm vụ cần thiết, nhưng không thể dùng cái tước
hiệu đó để tự đế cao mình, làm tổn thương đến tình đoàn kết và
thiết thân trong cộng đồng. Chúa Giêsu cấm các môn đệ của Ngài
dùng những danh hiệu như vậy cho thấy trong cộng đồng của thánh
Mathew cũng có những người dùng các đanh hiệu kiểu ấy. Chúa cấm
không phải chỉ cái tên, cái danh hiệu không thôi, mà còn cấm cả
cái tinh thần “ta đây” tự cao tự đại, cho mình là sang cả,
hiểu biết, phải được trọng vọng hơn người, không ai có quyền nói
động đến ta, chỉ trích phê bình ta, cho dù ta làm bậy, không giữ
đúng phép tắc, luật lệ và bổn phận, nại cớ ta là thầy dạy…. Chúa
khẳng định cho chúng ta biết: Chỉ có một người được chấp nhận và
tôn vinh có danh hiệu, còn lại tất cả mọi người đều là anh chị em
huynh đệ, gắn bó với nhau trong tình nghĩa yêu thương và nể trọng
nhau.
DANH HIỆU “CHA”
Câu 9 trong đoạn Phúc Âm hôm nay,
Chúa đã đưa ra một mệnh lệnh: “Đừng gọi ai là cha ở
trên mặt đất này”. Tiếng cha này không có nghĩa là “cha
đẻ” của mình, mà là “cha với uy quyền tôn giáo”.
Một số vị lãnh đạo rap-bai thường tự xưng là “ab”, nghĩa là “Cha”.
Tuy nhiên trong Giáo Hội Công Giáo, dùng danh xưng Cha, Đức Cha,
Đức GM v.v…thì không có gì là sai trái, bởi vì những danh hiệu này
không làm cho người ta tách biệt khỏi uy quyền hay hệ thống lãnh
đạo của Giáo Hội, nó được dùng để chứng tỏ mối liên đới chính thức
và thân thiết trong công đồng Giáo Hội mà thôi. Tuy nhiên, đối với
những người được mang cái danh hiệu trọng vọng đó, thì phải hành
sử khiêm tốn làm sao để trở thành những nô bộc như Chúa truyền dạy
hầu phá tan những hàng rào ngăn cách, cản trở hiện có giữa những
người anh em huynh đệ là con cùng một cha chung ở trên trời trong
cộng đồng dân Chúa. Đó là điều cấp thiết, cần phải tích cực thực
hiện. Nhân đây cũng xin được nhắc lại là trong cộng đồng dân Chúa,
đã có thời xẩy ra những cuộc tranh luận khá sôi nổi về danh xưng
“cha” của các linh mục…ngay trong giới Công Giáo. Phải chăng đó là
do có người không biết sử dụng đúng nghĩa danh xưng cha?
NGƯỜI LỚN NHẤT PHẢI LÀ NÔ BỘC
Trong chỉ trích thứ 4 về danh hiệu,
Chúa ám chỉ địa vị thực sự lớn nhất trong cộng đồng các môn đệ là
cộng đồng đã trở thành giáo hội. Trong câu 11-12, thánh Mathew đã
đưa ra những đặc tính của một người lớn nhất trong cộng đồng: là
phải trở nên nô bộc của tất cả mọi người. Đây
là Lý Tưởng của Giáo Hội, một cộng đồng trong đó mọi người đều
bình đẳng với nhau, đã được thánh Phaolo sau này chọn làm tiêu
chuẩn khi ông đi giảng dạy trong những cộng đồng của Giáo Hội sơ
khai. Trong những thư mục vụ gửi cho các cộng đồng, thánh Phaolo
đã nhấn mạnh đến nhiệm vụ lãnh đạo mà không nhấn mạnh đến những
người được kêu gọi để chu toàn những nhiệm vụ đó. Thánh nhân đã
cầu nài mọi người hãy bỏ đi tính ích kỷ, lòng tham lam và hãy đối
sử với mọi người một cách khiêm tốn, coi họ như là bề trên của
mình vậy (Pl 2:3; Rm 12: 3,16).
LỜI KẾT:
HIẾN DÂNG TIN MỪNG CHÚA VÀ CẢ BẢN THÂN
MÌ NH
Khi suy niệm bài đọc 2 thư thánh
Phaolo gửi tín hữu Thessalonia (2Tx 2: 7b-9, 13), chúng ta không
thể nào không nhớ đến Chân Phước Gioan XXIII với tất cả lòng kính
mến và biết ơn. Những lời thánh Phaolo nói về cuộc đời mình khiến
chúng ta có cảm giác ngài diễn tả cuộc đời và sứ vụ của Angelo
Roncalli mà sau này trở thành Giáo Hoàng nổi tiếng Gioan XXIII:
“Chúng tôi đối sử hiền lành dịu dàng với anh em, như người mẹ nuôi
con mình. Với tình thương yêu mến anh em như vậy, chúng tôi quyết
định hiến dâng cho anh em không phải chỉ có Tin Mừng của Chúa, mà
còn chính bản thân chúng tôi nữa, bởi vì anh em đã trở thành những
người rất mực thương yêu của chúng tôi.”
Nhờ ánh sáng chiếu soi của thư thánh
Phaolo gửi tín hữu Thessalonia và bài Phúc Âm hôm nay nói về sứ
điệp lãnh đạo tôn giáo, chúng ta thử coi lại bài phát biểu khai
mạc Công Đồng Vatican II của Chân Phước Gioan XXIII được đọc tại
Vương Cung Thánh Đường Thánh Phêro ngày 11 tháng 10 năm 1962.
Mục Vụ Phải Ưu Tiên….
Trong công tác thi hành mục
vụ hàng ngày, chúng tôi thường phải lắng nghe -mặc dù không muốn-
những câu chuyện của những người, dù họ rất nhiệt tình, nhưng
không có được cái cảm quan kín đáo và biết giới hạn của mình. Ở
thời đại tân kỳ hiện nay, họ không nhìn thấy gì cả ngoài việc nói
loanh quanh dối trá và gây đổ vỡ. Họ nói rằng, thời đại của chúng
ta, nếu so sánh với những thời đại trước, thì tệ hơn nhiều, và họ
hành sử như thể họ chẳng học hỏi được gì cả ở lịch sử mà không ít
thì nhiều cũng là thầy dạy về cuộc sống. Họ hành sử như thể, ở
thời các công đồng trước, nói về tư tưởng Kitô giáo và đời sống và
về cả tự do tôn giáo, thì tất cả mọi sự đều thành công vẹn toàn.
Chúng tôi cảm thấy không thể đồng ý
với những vị tiên tri chuyên nói chuyện u ám buồn thảm đó, là
những người luôn luôn suy đoán về những thảm trạng đổ nát như thể
tận thế đang ở trước mặt.
…….. Cái cách thức mà giáo lý
thánh được loan truyền, ai cũng đã biết và công nhận, nó đã rõ
ràng trở thành kỳ vọng của Công Đồng thuộc về giáo lý. Nghĩa là,
Công Đồng Chung XXI đã được rút ra từ những kinh nghiệm phong phú,
quan trọng về pháp luật, phụng vụ, tông tòa và hành chánh có hiệu
quả cũng như những ước vọng truyền giao giáo lý tinh tuyền, đồng
nhất, không một suy giảm hay bóp méo, mà qua 20 thế kỷ, đã phải
chịu biết bao khó khăn và chống đối, nay đã trở thành gia sản
chung của con người. Đây là một gia sản, không những được tất cả
mọi người chấp nhận, mà luôn luôn còn là một kho tàng phong phú
cho những người thiện tâm thiện chí.
Bổn phận của chúng tôi không chỉ gìn
giữ cái kho tàng quí giá đó, vì sự cổ kính của nó, mà chúng
tôi còn hiến dâng chính bản thân chúng tôi với một ước nguyện nồng
nhiệt mà không lo ngại gì về công việc nặng nhọc trong phạm vi của
chúng tôi đòi hỏi, hầu bước theo vết chân mà Giáo Hội đã đi từ 20
thế kỷ nay. Do đó, điểm rõ ràng và nổi bật của Công Đồng
này, không phải chỉ có bàn luận về điều khoản này hay điều khoản
kia của giáo lý nền tảng của Giáo Hội đã được các Giáo Phụ và các
nhà thần học cổ điển cũng như đương đại nhắc đi nhắc lại mà tất cả
chúng ta ai cũng đều biết và đã quá quen thuộc.
……...Bản chất của giáo lý cổ điển về
Niềm Tin là một vấn đề, và phương thế diễn đạt, rao truyền nó lại
là một vấn đề khác.Việc diễn đạt, quảng bá này đòi hỏi phải nhẫn
nại và kiên trì, nhất nhất mọi sự phải được đo lường dưới những
dạng thức tương xứng của Huấn Quyền mà trong đó đặc tính mục vụ
phải ưu tiên.
“Ai đưa mình lên sẽ bị hạ
xuống. Ai hạ mình xuống sẽ được đưa lên.”
Fleming Island, Florida
Oct. 30, 2011
NTC
|
VỀ MỤC LỤC |
|
RƯỢU HAY NƯỚC
|
Chuyện
xưa kể rằng tại một ngôi làng, một nhóm mười người tổ chức cuộc
gặp mặt đón xuân mừng năm mới. Một vị lên tiếng, “Tôi đề nghị
chúng ta mỗi người góp tay nhau để vui xuân bằng cách mỗi người
mang theo rượu của mình và đổ chung vào một chum lớn để cùng chia
vui trong dịp xuân.” Mọi người đồng ý và vui vẻ ra về.
Khi về đến nhà, một
người trong nhóm cảm thấy hối tiếc vì mình đã nhận lời mang theo
bầu rượu quí lâu năm của mình để nạp chung vào nhóm. Vốn không
muốn chia sẻ bầu rượu của mình và cũng tiếc tiền để mua rượu khác
cho bữa tiệc, anh tỏ vẻ buồn rầu. Nhưng sau một hồi suy nghĩ, anh
ta quyết định. “Ta sẽ đổ nước lạnh vào bầu rượu. Khi đến dự tiệc,
ta sẽ đi thẳng vào chum lớn và đổ rượu của ta vào đó. Chín ông kia
sẽ mang rượu của họ đến, như thế “rượu” của ta sẽ hoà vào rượu của
họ, thì chắc chắn sẽ không ai biết được, vì một bầu nước của ta sẽ
bị lấn át bởi chín bầu rượu kia. Và như thế ta vẫn có rượu uống
như mọi người mà không mất bầu rượu quí này.”
Đến ngày dự tiệc,
anh ta mang “rượu” của mình và làm đúng như kế hoạch. Trời tối,
chum lớn, từng người một đem rượu của mình đổ vào chum và quay về
chỗ ngồi để chờ khai mạc tiệc vui. Sau khi mọi người đã vào bàn
tiệc, ông chủ nhà liền sai anh hầu bàn rót rượu mời từng vị khách.
Ai ai cũng háo hức để thưởng thức rượu ngon. Bắt đầu từ chủ nhà
đến các vị khách, mỗi người đều nhấm rượu. Đôi mắt mỗi người nhìn
chằm chằm vào nhau với sự nghi kỵ, xoi mói, hổ thẹn, nhưng miệng
vẫn hết lời khen rượu ngon hão hạng. Nhưng thực ra, thức uống mà
họ cầm trên tay chỉ toàn là nước lạnh, vì ai ai cũng có suy nghĩ
toan tính như anh kia. [i]
* * *
Thưa bạn, câu chuyện rượu hay nước
trên đây muốn nhắn gởi chúng ta điều gì?
Bạn muốn uống rượu, bạn phải cho rượu; bạn muốn đón nhận điều tốt
từ người khác, bạn phải mang điều tốt cho họ. Bạn đối xử với người
khác thế nào, bạn cũng sẽ nhận lại như thế. Bạn muốn xã hội
tốt đẹp, công bằng, hoà bình, bạn phải là người gieo những hạt
giống ấy chứ không chờ ai khác làm thay cho bạn.
Trong bàn tiệc cuộc đời, ai ai cũng được mời gọi mang “rượu” của
mình vào cuộc tiệc ấy. Hay nói cách khác, trong việc xây dựng xã
hội, đất nước, ai cũng có phần trách nhiệm mang “rượu” để góp
chung vào vận mạng của dân tộc.
Một
e m
bé 9 tuổi khi tự nguyện góp phần thức ăn nhỏ của mình để chờ chia
sẻ với mọi người bị nạn trong trận động đất tại Nhật Bản
(11/3/2011)[ii].
Em ấy mang “rượu” hay mang “nước”
đến bữa tiệc chung
của dân tộc Nhật Bản?
Hằng
tuần những người dân đơn sơ và những sinh viên biểu tình chống sự
xâm lược của Trung Cộng vào lãnh thổ Việt Nam để chỉ nói lên lòng
yêu nước của mình. Những người này bị đánh đập, bì trù dập, bị bỏ
tù, và hậu quả là một tương lai đen tối
đang chờ họ phía trước. Họ mang “rượu” hay mang “nước” đến
bữa tiệc chung của dân tộc?
Chân
Phước Gioan Phaolô
II mang “rượu” hay “nước” trong vấn đề của dân tộc Ba Lan khi bị
Liên Xô xâm chiếm? Thực vậy, rất mạnh mẽ và rõ ràng, chân phước
Gioan Phaolô
II đã không khoan nhượng trước việc Liên Xô chuẩn bị đánh chiếm
Ba Lan. Ngài đã biểu lộ lập trường của
một người con của dân tộc Ba Lan trong những buổi cầu nguyện công
khai; Ngài đã có những cuộc trò chuyện với cố Tổng thống Reagan,
với Walesa Lech, chủ tịch Phòng Trào Đoàn Kết Ba Lan để tìm phương
cách cứu dân tộc của Ngài. Đặc biệt, “Đức Giáo hoàng đã dùng tiền
của mình để
tài trợ Phong Trào Đoàn Kết trong việc xuất bản báo chí và phát
thanh chui”[iii]
tại quê nhà. Hơn thế nữa, ngài cũng đối diện trực tiếp với giới
lãnh đạo Liên Xô là những người đang âm mưu thâu tóm quê hương của
Ngài. Vào ngày 16 tháng 12 năm 1980,
Đức Gioan Phaolô II đã viết thư riêng cho
Tổng Bí thư Đảng Cộng Sản Liên Xô
Leonid Breznhev, trong đó, với ngôn
ngữ nhẹ nhàng nhưng thể
hiện
rõ quan điểm cương quyết trong việc Liên Xô chuẩn bị tấn công Ba
Lan. “Tôi yêu cầu ngài hãy làm mọi cách để chấm dứt những
tình trạng xáo trộn này.” Vào phần cuối thư, “Tôi hy vọng rằng
ngài sẽ tử tế đón nhận và xem xét những ý kiến của tôi [vì] đó là
bổn phận của tôi [để] trình bày [những vấn đề này] đối với ngài.
Ngài cũng nên hiểu rằng, động lực chính [của tôi] chính là sự hoà
bình và thông hiểu giữa các dân tộc với nhau.” [iv]
Mục Sống Sao Cho
Đẹp mời gọi bạn xem lại “bầu rượu” của mình khi đi “dự tiệc”
trong cộng đồng, xã hội. Nếu bạn không muốn mang “rượu”, thì ai sẽ
mang “rượu” trong vấn đề của cộng đồng, đất nước, dân tộc?
Br. Huynhquảng
http://brhuynhquang.org/
[i]
Lược dịch từ Elisa Pearmain, Doorways to the Soul,
(Oregon: Resource Publication, 1998), 66.
[ii]
Nước Nhật người Nhật, http://brhuynhquang.org/?cat=370
[iii] O'Sullivan,
John (2006). The President, the Pope, And the Prime
Minister: Three Who Changed the World (p. 181). Regnery
History. Kindle Edition.
[iv] Lược
dịch từ George Weigel, Witness to
Hope: The Biography of Pope John Paul II, 406.
|
VỀ MỤC LỤC |
|
ỨNG SINH LINH MỤC GIÁO PHẬN HỌC VÀ SỐNG
TƯƠNG QUAN VỚI GIA ĐÌNH
(tiếp theo) |
Mời thăm Blog của
Lm. Trần Minh Huy
http://www.chivilongchuathuongtoi.tk/
Tác phẩm: ĐÀO TẠO ỨNG SINH LINH
MỤC GIÁO PHẬN
Lm.
Micae-Phaolô Trần Minh Huy pss
CHƯƠNG
NĂM
ỨNG
SINH LINH MỤC GIÁO PHẬN
HỌC SỐNG CĂN TÍNH VÀ SỨ
VỤ LINH MỤC
D.
ỨNG SINH LINH MỤC GIÁO PHẬN HỌC VÀ SỐNG
TƯƠNG QUAN VỚI GIA ĐÌNH
(tiếp theo)
E. NHỮNG TRÔNG
ĐỢI
E.1. Linh mục
tương lai trông đợi
E.1a Nơi Giám
Mục và Linh mục đoàn
·
Cần có sự cảm
thông, chia sẻ và nâng đỡ từ Đức Giám mục. Nhưng không nên kỳ vọng
quá nhiều vào Ngài, đòi hỏi sự nâng đỡ đặt biệt hơn anh em khác.
·
Cần có tình hiệp
thông liên đới trong linh mục đoàn. Cùng cộng tác trong mục vụ,
chia sẻ và nâng đỡ giữa anh em với nhau. Mong sự cộng tác và nâng
đỡ, hiểu biết lẫn nhau, cùng nhau hướng tới vinh danh Thiên Chúa.
E.1.b Nơi bản
thân mỗi linh mục
·
Mong chính bản
thân linh mục luôn biết hướng tới Chúa là trung tâm và cùng đích
của đời sống linh mục của mình. Cần ơn Chúa giúp phát triển đời
sống thiêng liêng, gắn bó mật thiết với Thiên Chúa tình yêu, sống
hiền hoà với mọi người theo gương Chúa Kitô Mục Tử nhân lành.
·
Không nên thần
thánh hoá đời sống linh mục để đòi hỏi sự phục vụ, trọng vọng nơi
giáo dân và tìm vinh danh cho mình; quan cách trong giao tiếp, coi
khinh người khác, độc tài trong khi làm việc, coi mình là người
biết mọi thứ mà không chịu học hỏi, kiêu căng, tự phụ.
·
Mong linh mục
dành nhiều thời giờ hơn cho việc giảng dạy giáo lý và soạn bài
giảng lễ, luôn cập nhật và tự trau dồi thêm kiến thức đạo đời để
tiến kịp với thời đại, nếu không sẽ trở nên lạc hậu đối với giáo
dân.
E.1.c Nơi cha xứ
·
Mong cha xứ luôn hết lòng vì giáo dân, chu toàn bổn phận của mình,
nhất là việc cử hành các bí tích; sống chan hoà, chịu khó tiếp
khách, lắng nghe và ghi nhận những tâm tình, tiếp thu ý kiến của
giáo dân…
·
Mong cha xứ không co cụm lại, chỉ biết mỗi xứ mình, một mình một
kiểu, không giống ai, không chơi với ai; phân bì, so sánh, khích
bác, nói xấu cha xứ cũng như giáo dân các xứ lân cận.
·
Mong cha xứ không tự ti về những yếu kém của mình mà thụ động, dù
Chúa ban cho một nén cũng hãy cố gắng làm lợi cho Chúa một nén
khác.
·
Mong cha xứ không bỏ xứ đi quá nhiều, khổ cho dân, tạo vất vả cho
các cha khác trong việc ban các bí tích; hoặc nghĩ mình chuẩn bị
chuyển xứ, nên không làm gì cả hay làm qua loa cho xong chuyện.
·
Mong cha sở cùng anh em linh mục khác cộng tác làm việc chung với
nhau, thường xuyên giúp đỡ, ủi an, thăm viếng, tạo uy tín và giữ
uy tín cho nhau.
E.1.d
Nơi Cha phó
·
Mong
cha phó ý thức rõ quyền hạn và nghĩa vụ của mình, làm mọi việc mà
cha xứ nhờ hay uỷ quyền và làm tốt nhất những gì có thể.
·
Mong cha
phó năng động, cộng tác, chia sẻ gánh nặng mục vụ với cha xứ trong
mọi lãnh vực; cảm thông, tha thứ những khiếm khuyết, yếu kém của
cha xứ và giúp đỡ cha xứ chu toàn sứ vụ…
·
Mong
cha phó coi cha xứ như người anh, tế nhị, tôn trọng, để cùng nhau
phục vụ trong yêu thương.
·
Mong
cha phó không qua mặt, coi thường, hay chống đối cha xứ; gây áp
lực, bất cộng tác, kết bè kết cánh, gây chia rẽ, phá rối cộng
đoàn, chiến tranh lạnh với cha xứ, gây gương mù gương xấu cho giáo
dân.
·
Mong
cha phó không ù lỳ, lười biếng, chỉ làm lễ lấy tiền, còn mọi việc
mặc kệ; coi cha xứ là ông chủ còn mình là nô lệ. Trái lại, hãy mặc
lấy tâm tình phục vụ như Chúa Kitô.
E.1.e Nơi Thầy Xứ
·
Mong Thầy xứ ý thức mình chỉ là người cộng tác, cố gắng giúp cha
xứ cách tốt nhất trong các lãnh vực ca đoàn, giáo lý, phụng vụ.
·
Mong thầy xứ làm mọi việc có sự đồng thuận của cha xứ; không làm
gì theo ý mình, ngược với ý cha xứ.
·
Mong thầy xứ sống cởi mở, hoà nhã, lịch sự với hết mọi người;
nhiệt tình và có trách nhiệm với công việc, chứ không lười biếng
công việc, mà chỉ lo tìm kiếm các mối quan hệ vì tiền bạc hay tình
cảm.
·
Mong thầy xứ không ngông cuồng coi mình là giỏi, là hiểu biết rồi
không coi ai ra gì. Ai mời đi ăn cũng đi, rồi rượu chè say sưa
100%, tiếng tốt thì ít, tiếng xấu thì nhiều.
·
Mong các tu sĩ cũng tương tự như thầy xứ vậy.
E.1.f Nơi Giáo dân
·
Mong có sự cộng tác tích cực từ phía thường trực Ban Hành Giáo với
cha xứ, cùng bàn hỏi và tìm ra phương hướng chung, hiệu quả trong
việc phát triển giáo xứ để các hội đoàn cùng hiệp nhất phát triển
đức tin.
·
Mong giáo dân cầu nguyện cho cha xứ và nâng đỡ cha xứ về vật chất
cũng như tinh thần.
·
Mong giáo dân yêu thương, tôn trọng cha xứ như người cha tinh thần
mà Chúa gửi đến cho giáo xứ và giúp cha thi hành tác vụ cách tốt
nhất.
·
Mong giáo dân tha thứ cho cha xứ về những yếu kém, thiếu sót, lỗi
lầm… và góp ý cho cha xứ về những gì ngài không chuyên môn, những
mặt trái mà ngài không biết …
·
Mong giáo dân cộng tác với cha xứ trong những công việc chung,
trong việc lãnh đạo cộng đoàn, xây dựng đoàn hội, cơ sở vật chất
của giáo xứ… Đoàn kết, một lòng, luôn là những cánh tay cùng với
cha xứ xây dựng giáo xứ, thăng tiến giáo xứ về mọi mặt.
·
Mong giáo dân không lỗi đức bác ái: chửi bới, nói xấu, nói hành,
vu cáo, kiện tụng, bôi nhọ cha xứ; coi cha như người xa lạ, rồi ác
cảm, tránh mặt, không gặp, không đối thoại, không cộng tác.
·
Mong giáo dân không tìm cách ảnh hưởng lên cha xứ, cố gắng làm
được một chức gì đó trong xứ rồi ỷ thế làm càn, mang tiếng cho cha
xứ, gây gương mù cho cộng đoàn.
·
Mong giáo dân không vay mượn tiền bạc cũng như vật dụng của cha
xứ, vì vay mượn thì dễ mà trả thì khó, sinh ra nhiều phiền phức
mất lòng nhau; cũng đừng lừa dối cha xứ về tình, tiền, quyền.
·
Mong giáo dân không bè phái, cực đoan dòng họ, làm việc thì ít mà
bàn mưu tính kế hại nhau, làm mất mặt, mất thể diện của nhau thì
nhiều…
E.1.g
Nơi Chính quyền
·
Mong
Chính quyền tôn trọng và tạo điều kiện để giáo dân thi hành bổn
phận tôn giáo của mình; đồng thời tạo sự đoàn kết, thông thoáng
hơn trong các vấn đề xã hội, để giáo dân có thể tham gia nhiều hơn
trong việc đóng góp xây dựng đất nước.
·
Mong
Chính quyền để giáo dân được tham gia nhiều hơn trong các lĩnh vực
y tế, giáo dục, bác ái xã hội; thay đổi những chính sách hay thái
độ cư xử kỳ thị, thù nghịch, không công bằng; không làm gì cách áp
chế, khiến người dân có ác cảm với chính quyền.
E.2.
Giáo dân trông đợi
E.2.a
Trong tương quan linh mục với giáo dân
·
Giáo
dân Việt Nam rất quí trọng linh mục và lòng quí trọng này vừa là
một lợi điểm lại vừa là một nguy cơ: Là lợi điểm vì giúp cho linh
mục cảm thấy mình cần thiết và có ích, ít cảm thấy bị cô đơn; là
nguy cơ, vì lòng quí trọng ấy có thể làm cớ cho linh mục ỷ y mà
tôn mình lên, coi thường thiên hạ, cho mình có quyền ăn trên ngồi
trước, hách dịch, quan liêu.
·
Mong
linh mục coi lòng quí trọng này là một ơn riêng Chúa dành cho hàng
ngũ linh mục Việt Nam, để nhờ đó các vị được an vui và phấn khởi
trong chức vụ chứ không phải ngược lại.
E.2.b Trong căn
tính linh mục
·
Chức linh mục
được đề cao (là một Đức Kitô khác) và do sự đề cao quá đáng quyền
chức này mà linh mục dễ bị cám dỗ tôn mình lên, ví dụ trong ngày
chịu chức, khi người ta đến xin phép lành đầu tay hay ngỏ lời chúc
mừng. Đây là một cử chỉ đầy lòng tin và khiêm nhường, chớ gì tân
linh mục xúc động mà tăng thêm lòng tạ ơn Chúa và sống cho xứng
đáng.
·
Giáo dân muốn
linh mục nên giống Chúa Giêsu về lòng nhân ái và tinh thần phục vụ:
Chúa Giêsu luôn gần gũi tiếp xúc với người ta và tìm cách làm ơn
cho họ. Giáo dân cũng đợi chờ nơi linh mục đức tính này là dễ gặp,
dễ gần và dễ nhờ việc thiêng liêng. Vì đức tính này mà linh mục
được định nghĩa rất sâu sắc và thâm thuý là con người “bị ăn” (Le
prêtre est un homme mangé).
·
Nhiều linh mục
ngày nay dành nhiều thời giờ cho mình mà ít cho giáo dân. Có linh
mục làm lễ sáng xong là rút lui lên lầu, suốt ngày sống với máy vi
tính và các thứ máy móc khác, hoặc đi vắng không mấy khi có mặt ở
nhà, mọi việc giao cho thầy xứ, dì xứ hay Ban hành giáo, khiến cho
giáo dân nhiều người cần gặp mà không gặp được. Có những cha sở
tuy gặp được, nhưng giáo dân rất sợ tính lạnh lùng và hay bẳn gắt
của cha. Vì thế, giáo dân mong linh mục hoạ lại hình ảnh Chúa
Giêsu trong cách hành xử, nói năng và tiếp xúc.
·
Đức Giáo hoàng
Grêgoriô Cả than phiền là có nhiều linh mục, nhưng rất ít linh mục
chịu làm việc theo chức năng của mình hay có làm thì lại làm những
việc ở bên ngoài chứ không phải việc bên trong. Việc chính yếu của
linh mục là rao giảng lời Chúa, cử hành bí tích, giáo dục đức tin
và lo phần rỗi cho các tín hữu. Những việc này phải làm trước rồi
mới đến những việc khác như xây cất, mở mang cơ sở, hoạt động xã
hội, phát triển dân sinh v.v…
·
Ở Việt
Nam, cha sở có một vị trí xã hội tốt, nói thì dân dễ nghe và người
ta cũng hay nhờ thế cha sở để làm công kia việc nọ. Vì thế, cha sở
cũng dễ bị cám dỗ trở thành một nhân vật ngoài đời để có thế ăn
nói với người ta. Điều này có thể đưa linh mục đi ra khỏi phạm vi
chức vụ chính thức của mình. Linh mục phải coi chừng với tính
thích làm quan tự nhiên của mình mà luôn nhớ rằng linh mục chính
yếu là người phục vụ Chúa và Tin Mừng của Người.
·
Linh mục không
chỉ biết có phòng thánh, nhà thờ và nhà xứ, mà cũng không ham mê
lo những công việc bên ngoài. Phải theo bậc thang giá trị mà dành
ưu tiên cho những việc thuộc bổn phận linh mục: làm lễ, giải tội,
giảng thuyết, đi kẻ liệt, thăm viếng người nghèo khổ, ốm đau bệnh
tật. Một linh mục làm đầy đủ bổn phận của mình thì chẳng còn thời
giờ rảnh rỗi bao nhiêu; mà nếu có rảnh rỗi thì cũng nên dành thời
giờ để học hành, đọc sách vở thêm.
E.2.c Trong đời
sống tri thức
·
Làm linh mục
rồi nhưng vẫn còn phải học, phải viết bài giảng và giảng thế nào
cho người ta nghe được. Thường sau khi làm linh mục rồi, ít vị còn
thích tiếp tục làm việc tri thức. Vì vậy, giáo dân mong linh mục
dành giờ làm việc tinh thần mỗi ngày: soạn bài giảng không dài quá,
không chạy theo thời sự nhưng chú trọng vào sứ điệp lời Chúa,
không khuyên lơn hời hợt nhưng mở lối cho những áp dụng thiết thực
đức tin vào cuộc sống, không chiều theo thị hiếu người nghe mà chú
tâm vào việc giáo dục đức tin và đem lại cho người ta một cái gì
có chất lượng: muốn thấy một bài giảng chứ không muốn nghe một
bài giảng.
·
Dân chúng hôm
nay thích sự hào nhoáng và hình thức bên ngoài: thích vui, thích
dễ, thích ồn ào. Linh mục phải giữ chừng mực, nếu chiều theo
khuynh hướng này thì linh mục cũng dễ trở thành hời hợt nông cạn.
E.2.d Trong tác
phong linh mục
·
Giáo dân muốn
linh mục có tác phong thích đáng trong cách ăn mặc, nói năng, cư
xử. Ăn mặc như người ta có cái lợi là dễ hoà đồng, thoải mái,
nhưng có cái bất lợi là có thể làm cho linh mục quên căn tính của
mình mà không còn giữ gìn hay ít giữ gìn trong lời ăn tiếng nói và
cư xử với người ta nữa.
·
Vì vậy, tuy ăn
mặc như người đời, nhưng linh mục vẫn phải giữ cho mình cái cốt
cách là linh mục: đơn sơ xứng đáng với con người được học hành, có
chữ nghĩa và có văn hoá, không chải chuốt quá đáng mà cũng không
lôi thôi, áo quần luộm thuộm, đầu tóc bù xù, nói năng bừa bãi.
·
Có dư luận rằng
nhiều linh mục trẻ sau 1975 thiếu nhân bản trong cách hành xử,
đáng cho các linh mục lưu ý vì có liên quan đến ảnh hưởng và uy
tín của các vị trong vấn đề làm chứng cho Chúa và cho đạo.
·
Thận trọng
trong vấn đề vật chất: tiền bạc, của cải, đất đai nhà ở, đồ dùng
cá nhân. Giáo dân rất để ý, họ thích những linh mục không lo làm
giầu hay tìm kiếm của cải vật chất cho mình hoặc bà con họ hàng;
họ nể trọng những linh mục sống đơn sơ giản dị, không xa hoa trong
cách ăn mặc và biết sử dụng tiền bạc cách chính đáng.
E.2.e
Trong các tương quan
·
Một
trong những lý do khiến ít người theo đạo, dù đạo có tổ chức chặt
chẽ, kỷ luật nghiêm minh, nhà thờ đẹp đẽ, nhiều cơ sở to lớn và
các lễ nghi rất tưng bừng lôi cuốn, đó là tại giới linh mục xa
cách dân chúng. Do đó, linh mục phải để ý hơn đến những nghèo và
ít học, chứ không chỉ chơi với người giầu và có học.
·
Giáo
dân mong muốn thấy cha sở và cha phó sống gắn bó thân tình, đồng
tâm nhất trí với nhau trong công tác mục vụ và hướng dẫn cộng
đoàn. Gương sống hiệp thông thân mật, kính trọng, yêu thương và
nhường nhịn nhau giữa các vị mục tử là yếu tố có sức thuyết phục
nhất đối với cộng đoàn dân Chúa.
·
Giáo
dân mong linh mục bén nhạy với mọi diễn biến đổi thay của tình
hình xã hội để có những kế sách và phương án uyển chuyển, thích
nghi năng động và cảm thông sâu sắc những khó khăn trong việc sống
đạo của người tín hữu.
·
Mong
các ngài nhiệt thành việc tông đồ và vui vẻ hoà nhã, tậm tâm phục
vụ như người cha, người anh và là trụ cột vững vàng trong đại gia
đình giáo xứ giữa những biến động phức tạp của xã hội hôm nay.
Dự
phóng và ước mơ bao giờ cũng nhiều và đẹp. Chớ gì mỗi người theo
đuổi cho đến cùng những ước mơ và dự phóng tương lai của mình. Xin
Chúa tiếp tục cho đến hoàn thành tốt đẹp những gì Ngài đã khởi sự
với chúng ta và cho chúng ta.
|
VỀ MỤC LỤC |
|
YÊU THƯƠNG ĐÍCH
THỰC
|
Tác phẩm: Cẩm Nang Hạnh Phúc Gia Đình
Kitô - MỤC VỤ HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH
Tác
giả: D. WAHRHEIT (Lm. Minh Anh, GP. Huế tổng hợp biên tập)
B15. YÊU THƯƠNG ĐÍCH
THỰC
1.
“Biết làm sao định nghĩa được tình yêu”. Câu hát quen thuộc
ấy có lẽ cũng phải là câu hỏi mà mỗi người phối ngẫu cần phải tự
đặt ra cho mình để không ngừng kiểm điểm về cuộc sống hôn nhân và
gia đình của họ. Thật ra, câu hỏi đích thực mà mỗi người phải luôn
tự đặt ra là: “Tôi đã thực sự biết yêu chưa?”. Có những hành động
mà người ta tưởng là tình yêu, nhưng thực ra chỉ là những biểu lộ
của cảm xúc hoặc của tính ích kỷ mà thôi.
Nên thánh chính là thực thi tình yêu
theo giáo huấn và mẫu gương của Chúa Giêsu. Thế nào là tình yêu
đích thực theo giáo huấn và mẫu gương của Chúa? Chúng tôi xin tiếp
tục bàn đến một vài đặc tính của tình yêu đích thực theo quan niệm
của Kitô giáo.
2.
Trong Kitô giáo, chúng ta thường nghe nói đến hai chữ “đức
ái”. Theo định nghĩa đức ái là một nhân đức đối thần được ban cho
người tín hữu Kitô cùng với hai nhân đức cơ bản khác là đức tin và
đức cậy. Được gọi là đối thần bởi vì đối tượng và điểm đến của đức
ái chính là Thiên Chúa. Định nghĩa như thế không có nghĩa là loại
bỏ mọi quan hệ với tha nhân. Thực ra chính vì đức ái là tình yêu
đích thực phát xuất từ Thiên Chúa và hướng về Thiên Chúa, nên đức
ái cũng bao gồm cả tha nhân.
Được gọi là đối thần bởi vì đức ái
hay tình yêu đích thực không phải là một sáng chế hay chinh phục
của con người mà trước tiên là một ân huệ của Thiên Chúa. Điều đó
có nghĩa là tự bản tính, con người sinh ra với tỳ vết của tội
nguyên tổ vốn hướng chiều về tính ích kỷ. Tình yêu đích thực không
phải tự nhiên đến với con người. Năm tháng có qua đi, tuổi đời có
chồng chất, con người không vì thế mà đạt được tình yêu đích thực.
Tình yêu là một quà tặng của Thiên Chúa. Chỉ trong Thiên Chúa, con
người mới biết được thế nào là tình yêu và thế nào là yêu.
Thánh Gioan tông đồ viết: “Thiên
Chúa là tình yêu”. Đây không là một định nghĩa siêu hình. Thánh
Gioan đã viết điều đó sau những năm tháng sống gần gũi thiết thân
với Chúa Giêsu và cảm nghiệm được tình yêu của Thiên Chúa thể hiện
qua Ngài. Chúa Giêsu chính là tình yêu bằng xương bằng thịt của
Thiên Chúa. Qua Chúa Giêsu, không những Thiên Chúa bày tỏ thế nào
là tình yêu, Ngài còn cho con người biết thế nào là yêu. Trong
những lời cuối cùng với các môn đệ, Chúa Giêsu đã nói: “Các con
hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương các con”, và Ngài gọi
đó là giới răn mới của Ngài.
Thực ra, yêu thương không phải là
điều mới mẻ đối với trái tim con người. Trước Chúa Giêsu đã có
biết bao nhiêu người rao giảng về tình yêu. Chúa Giêsu gọi giới
răn của Ngài là một giới răn mới bởi Ngài muốn con người yêu
thương bằng chính tình yêu của Thiên Chúa, và yêu thương như Thiên
Chúa yêu.
3.
Tình yêu đích thực hay đức ái là một quà tặng của Thiên
Chúa. Do đó, để có thể yêu thương thực sự, con người cần có một
tâm hồn được đong đầy bằng chính tình yêu của Ngài. Yêu thương
trước tiên là trao ban, và người ta chỉ có thể cho điều mình có.
Chỉ khi nào cảm nhận được tình yêu của Thiên Chúa, con người mới
thấy mình được thôi thúc để trao tặng cho người khác.
Một người chồng chỉ cảm thấy muốn
trao tặng cho vợ thực sự khi tâm hồn anh được đong đầy bằng chính
tình yêu của Thiên Chúa. Cha mẹ chỉ muốn ban tặng cho con cái khi
chính tâm hồn họ được tràn đầy tình yêu của Thiên Chúa. Để cảm
nhận được tình yêu của Thiên Chúa như một sức mạnh nội tâm thôi
thúc con người trao ban thì sự kết hiệp với Thiên Chúa trong việc
cầu nguyện, trong việc lắng nghe Lời Ngài, trong việc thực thi ý
muốn của Ngài là điều không thể thiếu trong gia đình.
Giới răn thứ nhất mà Chúa Giêsu
truyền cho con người chính là yêu mến Thiên Chúa hết linh hồn, hết
trí khôn, hết sức lực. Nuôi dưỡng niềm tin là điều kiện tiên quyết
để sống đức ái. Một lòng tin sâu sắc luôn thôi thúc con người yêu
thương và yêu thương một cách đúng đắn.
Tình yêu đích thực hay đức ái là quà
tặng của Thiên Chúa, nghĩa là phát xuất từ Thiên Chúa. Do đó, yêu
thương thực sự là yêu thương như Thiên Chúa yêu. Và yêu thương như
Thiên Chúa yêu chính là yêu thương như Chúa Giêsu yêu. Yêu thương
như Chúa Giêsu yêu trước tiên là quên mình đến độ sẵn sàng hy sinh
chết vì người mình yêu. Chúa Giêsu đã nói về cái chết của Ngài:
“Không có tình yêu nào cao quý cho bằng tình yêu của người thí
mạng sống vì người mình yêu”.
Cái chết của Chúa Giêsu là định
nghĩa đích thực của tình yêu: Yêu là quên mình, yêu là hy sinh,
yêu là sẵn sàng chết cho người mình yêu. Định nghĩa như thế về
tình yêu cũng có nghĩa là vạch ra hướng đi và ý nghĩa cuộc sống.
Sống thực sự, sống sung mãn là sống cho người khác. Đó cũng chính
là con đường nên thánh. Bởi vì nên thánh là sống đức ái trọn vẹn
như Chúa Giêsu.
4.
Nên thánh không phải là một ơn gọi dành riêng cho một số người
được ưu tuyển, cũng không phải là một cuộc sống phi thường của
những bậc vĩ nhân, nên thánh hay sống đức ái thiết yếu là làm cho
nhân cách của mình được sung mãn. Tình yêu đích thực giúp con
người biết ra khỏi chính mình, cũng không phải là đánh mất chính
mình nhưng là thắng vượt con người ích kỷ nhỏ nhen của mình. Tình
yêu đích thực có sức đổi mới con người và giúp con người luôn muốn
canh tân.
Sống thiết yếu là thay đổi, là lớn
lên trong những chiều kích mới. Nhưng sống thiết yếu cũng là yêu.
Do đó, yêu cũng là thay đổi, là canh tân, là lột xác trong đau đớn.
Yêu là sinh lại không ngừng. Đó là định luật của cuộc sống và đó
cũng là bí quyết của hạnh phúc đích thực.
Thánh Phaolô tông đồ đã ghi lại một
lời vàng ngọc của Chúa Giêsu: “Cho thì có phúc hơn nhận”. Ai muốn
yêu và muốn được hạnh phúc, người đó cần phải ra khỏi chính mình,
quên chính bản thân, quên hạnh phúc riêng tư của mình và chú tâm
mang lại tình yêu và hạnh phúc cho người khác.
Một gia đình cầu nguyện là một gia
đình đứng vững, gia đình ấy đứng vững bởi vì biết múc lấy sức sống
tình yêu từ chính Chúa. Chính nhờ một lòng tin vững mạnh và kết
hiệp thâm sâu với Chúa, con người mới biết thế nào là tình yêu và
thế nào là yêu thực sự. Tất cả các vị thánh suốt đời xả thân hy
sinh cho tha nhân đều nắm chắc bí quyết ấy. Chúa Giêsu đã không
chỉ truyền dạy chúng ta hãy yêu thương tha nhân mà trước hết, hãy
yêu mến Thiên Chúa hết linh hồn, hết trí khôn, hết sức lực.
Bí quyết của hạnh phúc gia đình cũng
là bí quyết nên thánh chính là cảm nhận được tình yêu của Thiên
Chúa và theo gương Chúa Giêsu trao ban và hy sinh quên mình vì tha
nhân.
|
VỀ MỤC LỤC |
|
BẠO HÀNH GIA ĐÌNH
|
Một gia đình
nhà vợ khóc than thương tiếc trước thi hài 5 người thân sõng soài
đẫm máu trong đó có một phụ nữ mang thai và ngay cạnh là xác người
chồng gây ra thảm cảnh rồi lạnh lùng tự kết liễu đời mình.
Một đức lang
quân bị trói cứng, tay ôm bụng dưới rên siết đau đớn vì bị vợ phục
thuốc cắt đứt cơ quan sinh dục khi đã tỉnh thuốc mê.
Đó là hậu
quả của những cặp vợ chồng đã một thời đầu gối tay ấp, thề non,
hẹn biển mà bây giờ thì sóng gió hận thù, thưong tích, chết chóc.
Những hành vi mà nhân viên công lực điều tra sơ khởi cho là một
góc cạnh của nan giải xã hội “Bạo Hành Gia Đình”
Bạo Hành Gia Đình (Domestic Violence) là nhóm
chữ dùng để chỉ những hành vi có tính cách hung bạo như Bạc Đãi
Người Già hoặc Lạm Dụng Trẻ Em. Nhưng thông thường hơn là nói đến
hoàn cảnh ngang trái của một lứa đôi đã có nhiều gắn bó tình cảm
rồi dần dần một người lại dùng bạo lực để tỏ uy quyền, khống chế
người kia. Nói rõ ra là người chồng dùng vũ lực để hành hạ người
vợ.
Hành vi này không phải là chuyện mới đây, mà
đã thấy từ thuở xa xưa.
Tại một số quốc gia Á Đông, vào thời kỳ mà
quan niệm “Tứ Đức Tam Tòng” được ăn xâu vào tâm thức con người ,
khi mà triết lý Khổng Mạnh được tuân theo triệt để, thì người vợ
thường được coi như sở hữu chủ của người chồng. Khi người chồng
cho là có bổn phận hoặc có quyền “dạy vợ từ thuở bơ vơ mới về” thì
việc bạo hành trong hôn nhân được coi như chuyện thế gian sự
thường.
Cùng ý nghĩ đó, người Hy Lạp cổ xưa thường
dạy vợ bằng chân tay rồi cười xòa giải thích: “Đàn ông chúng tôi ở
đây đều hành động như vậy vì đã làm điều tốt để giúp vợ sửa mình”.
Đã có thời kỳ, dân Nga xưa có câu châm ngôn:
“Người vợ có thể yêu người chồng không bao giờ đánh đập vợ, nhưng
bà ta không bao giờ kính trọng ông ta”.
Luật tập tục trước đây ở vương quốc Anh cho
phép chồng trừng phạt vợ bằng khí giới không lớn hơn ngón tay cái.
Chịu ảnh hưởng
trên, luật lệ Hoa Kỳ thời xưa cũng ủng hộ ý kiến là chồng có thể
“kỷ luật” vợ, thậm chí tới thập niên 1960, các tòa án ở đây vẫn
không chịu xét xử các trường hợp bạo hành gia đình, cho đó là
chuyện trong nhà, cần đóng cửa bảo nhau. Mãi đến năm 1994 Quốc Hội
Hoa Kỳ mới thông qua Violence Against Woman Act, tập trung vào mức
độ phổ biến và trầm trọng của bạo lực gia đình, tấn công tình dục
và ngạo mạn đe dọa đối với nữ giới. Tháng 10 hàng năm đã được
dành riêng để nhắc nhở mọi người về thàm cành bạo hành trong gia
đình (
Domestic Violence Awareness Month), làm sao để tránh và làm gì để
cứu giúp nạn nhân.
Có người cho rằng Bạo Hành Gia Đình là một sự
việc tự nhiên trong mọi xã hội cho nên không thể ngăn ngừa và sửa
chữa được. Lập luận này không đứng vững vì đã có nhiều quốc gia
trong đó hành vi áp bức này hầu như không có.
Trái với tin tưởng thông thường, bạo hành gia
đình không chỉ xảy ra ở giai cấp hạ lưu kém lợi tức mà là vấn đề
của mọi giai tầng xã hội, của những cặp hôn nhân đồng tính cũng
như dị tính.
Từ thuở xa xưa, đa số người bị hành hung, lạm
dụng là người thường được coi là phái yếu, phụ thuộc: người vợ.
Nhưng người nam đôi khi cũng là nạn nhân của bà vợ “đành hanh”,
“nữ kê tác quái, gà mái đá gà cồ”.
Những hình thức bạo hành
Bạo
hành là một loạt những hành động có tính cách vũ phu, khống chế mà
người này áp đặt lên người kia. Nó là phần bất hạnh trong quan hệ
tình cảm giữa con người với con người. Bạo hành không chỉ là hành
động thể chất mà còn diễn ra dưới nhiều hình thức.
1- Bạo lực, thượng cẳng chân hạ cẳng tay.
Bực mình, không
vừa ý thì cứ nện cho một trận, “cho cạch tới già”. Hành động có
mục đích gây thương tích cho nạn nhân như đấm, đá, đạp, đẩy, tát,
nắm tóc kéo lê, vặn cổ tay, đâm chém bằng dao là phương thức
thường dùng. Và ngày nay thì súng ngắn súng dài. Ngoài ra còn dùng
các phương tiện làm suy yếu sức khỏe như dấu thực dược phẩm, quấy
rối không cho ngủ, ép dùng rượu, cần sa ma túy, bỏ rơi quãng đường
vắng, nguy hiểm.
2- Uy hiếp tinh thần
Nạn nhân liên
tục bị nghe những lời đay nghiến khủng bố đến nỗi bị hoảng loạn
tinh thần. Có thể là dọa nạt cắt nguồn tài chánh, nhục mạ trước
công chúng; dùng lời đường mật cho có hy vọng rồi cố tình quên đi;
luôn luôn truy hỏi, nặng lời để hạ nhân phẩm, mất niềm tự trọng;
kể lại một cách diễu cợt cho đối phương những vụ tình ái riêng tư;
hăm dọa cho sợ hãi bằng lời nói, cử chỉ cũng như khóe mắt; đập phá
đồ đạc, đánh chó chửi mèo để thị uy.
3- Bao vây kinh tế
Tạo ra hoàn
cảnh để đối tượng phải lệ thuộc về tiền nong, bắt phải hỏi xin, kê
khai mọi chi tiêu lớn nhỏ, tìm cách không cho có việc làm để ngày
ngày phải ngửa tay xin tiền.
4- Lạm dụng tình dục
Cưỡng bức giao
hợp, dày vò cơ quan sinh dục, làm tình hậu môn, cưỡng hiếp khi nạn
nhân đang ngủ hoặc đau ốm, chê bai cách làm tình của vợ, đi với vợ
mà cứ để ý tới phụ nữ khác, không lưu tâm tới nhu cầu sinh lý của
vợ.
5- Cô lập,
kiểm soát từ việc làm tới giao du,
di chuyển. Không cho thăm viếng thân nhân, bạn bè.
6- Tác phong
“Chồng chúa vợ tôi”, độc tài,
quyết đoán mọi việc lớn nhỏ, coi vợ như “ne pas”.
7- Hành hạ
pháp lý, gây khó dễ khiến đối
phương phải liên tục ra tòa vì những lý do không đâu như chậm trả
tiền trợ cấp, không cho thăm viếng con cái, gán cho là bất lực bất
xứng.
Những yếu tố tăng nguy cơ bạo hành
Cá nhân lạm
dụng vũ phu với phụ nữ có thể là người chồng người tình đương thời
hay đã chia tay. Từ thâm tâm, họ có nhiều lý do hoặc chính đáng
hoặc ngụy tạo để bào chữa cho hành động của mình. Đồng thời cũng
có những hoàn cảnh, những xáo trộn trong đời sống đưa đẩy khiến họ
trở nên hành động mất lý trí.
1- Nghiện ngập
Kết quả nhiều
nghiên cứu cho hay, có đến quá nửa trường hợp bạo hành là do người
nghiện rượu, nghiện thuốc cấm gây ra. Khi say, lý trí bị tê liệt,
họ có những hành động không hợp lý. Đôi khi họ cũng giả say, hành
hạ vợ để tránh lưới pháp luật.
2- Ghen tuông
Người chồng
thường buộc tội vợ lăng nhăng với người khác; có thai với mình
nhưng cứ ngạo ngược nói con ai đó, rồi hành hung vợ.
3- Khó khăn
tài chánh, trở ngại công việc làm
ăn, giảm thu nhập hoặc nội tình xáo trộn vì bệnh tật, vì mâu thuẫn
bố mẹ, con cái.
4-
Một số người còn ôm lấy cái quan niệm cũ
xưa, cho rằng vợ là sở hữu chủ, muốn chứng tỏ họ là chúa, cho nên
chỉ với một bực mình nhỏ nhặt là mang vợ ra hành hạ.
5-
Có người khi còn bé chứng kiến bạo lực
xảy ra giữa bố mẹ rồi lớn lên hành động tương tự, cho rằng dùng vũ
lực với vợ là chuyện bình thường trong mọi hôn nhân.
Hậu quả của bạo hành
Nạn
nhân của bạo hành sẽ mang nhiều thương tích về thể chất cũng như
bất ổn về tinh thần.
Trên da có
nhiều vết bầm, vết sẹo, những gẫy xương, trầy niêm mạc miệng, dưới
cơ quan sinh dục. Có nạn nhân bị hư thai, sanh non hoặc mang thai
ngoài ý muốn vì bị hãm hiếp. Họ thường xuyên đau ốm lặt vặt, rối
loạn tiêu hóa, nhức đầu. Thậm chí tử vong vì súng đạn khí giới
cũng có thể xảy ra.
Về tinh thần là
những hoảng sợ, lo âu, thiếu tự tin, trầm cảm, tự trách mình đã
gây ra lỗi lầm với chồng cho nên mới sinh chuyện. Nhiều nạn nhân
nói là cái đau về thể xác đôi khi còn chịu đựng được chứ cái đau
tinh thần sao mà quá mãnh liệt, không chịu đựng nổi cho nên đôi
khi đưa tới tìm quên trong rượu chè, hút xách. Họ thường xuyên là
thân chủ trung thành của phòng cấp cứu hoặc bác sĩ gia đình.
Đa số các vụ
bạo hành gia đình không được đưa ra ánh sáng vì kẻ chủ mưu đương
nhiên phủ nhận mà nạn nhân lại dấu giếm. Một đằng thì sợ luật pháp
can thiệp, ra tòa. Đằng kia thì sợ sẽ bị hành hạ trả thù nhiều hơn,
cho nên cắn răng chịu đựng. Họ cũng không muốn ai biết chuyện
chẳng lành vì nếu hôn nhân tan vỡ thì miệng người đàm tiếu, quy
trách nhiệm cho nạn nhân.
Một thắc mắc
thường được nhắc tới là, tại sao nạn nhân không chịu dứt khoát xa
lánh người đã hành hạ mình. Có nhiều lý lẽ được nêu ra:
a. Chia tay là
một việc cần sửa soạn chứ không phải đùng đùng xách gói ra đi;
b. Dù bị áp bức
nhưng trong lòng vẫn còn chút thương yêu, quyến luyến, hy vọng anh
ta sẽ đổi tính, đối xử khá hơn
c. Bị phụ thuộc
tài chánh;
d. Muốn cho con
cái có cột trụ gia đình là người cha;
e. E sợ chồng
bắt mất con, đe dọa tính mệnh mình hoặc thân nhân;
g. Tự trách
mình đã làm chồng phật ý vì vụng về, không làm đầy đủ bổn phận;
h. Tôn giáo,
gia đình ngăn cản, không cho phép dứt bỏ.
Không ít anh
chồng vũ phu cũng nhiều đòn phép, tỏ vẻ hối hận ăn năn, thề thốt
sẽ không bao giờ đụng tới chân lông vợ. Nhẹ dạ, cả tin, vợ cho
chồng có cơ hội để thay đổi. Nhưng rồi ngựa quen đường cũ, đâu vẫn
hoàn đó. Và hậu quả chẳng lành có thể xảy ra.
Giải quyết nan đề, tìm lối thoát
Theo cơ quan CDC, cứ ¼ người nữ và 1/9 người
nam tại Hoa Kỳ là nạn nhân của bạo hành gia đình với mức độ nặng
nhẹ khác nhau vào một thời điểm nào đó của cuộc đời.
Bạo hành thưởng mở màn với những hành vi kín
đáo khó nhận ra nhưng có tính toán từ kẻ chủ mưu. Như là tỏ vẻ
chăm sóc, cởi mở, bao bọc “chỉ đôi ta với nhau là đủ rồi”, để sau
đó dần dần cô lập, khống chế, gây sợ hãi. Ban đầu thì lâu lâu mới
nặng tay, rồi tỏ vẻ ăn năn, xin lỗi, hứa sẽ không tái phạm, nại cớ
đang bị căng thẳng. Sau đó mức độ bạo hành tăng dần kèm theo những
ghen tuông, nhiếc móc, cấm đoán, chê bai, ép buộc làm điều không
muốn khiến cho nạn nhân luôn luôn trong tình trạng bấp bênh, lo sợ,
không biết bao giờ chuyện chẳng lành xảy ra…
Khi thấy đời sống của mình và các con bị hành
hạ đe dọa thì nên sớm tìm giúp đỡ, thoát khỏi tai ương.
- Hãy tỏ bầy khó khăn với thân nhân, với bạn
tâm giao, hàng xóm tốt, các vị lãnh đạo tinh thần để họ góp ý kiến;
- Kể lại cho bác sĩ gia đình, các nhà chuyên
môn tâm lý, xã hội, y tá để được điều trị thương tích, bệnh tật,
hỗ trợ tinh thần, giới thiệu tới các cơ quan hữu trách;
- Tại Hoa Kỳ, kêu số điện thoại
National
Domestic Violence Hotline 1-800-799-SAFE (7233) hoặc cơ quan bảo
vệ nạn nhân bạo hành tại địa phương;
- Kêu cảnh sát
nếu thấy tình mạng bản thân và con cái bị đe dọa;
- Tìm kiếm nơi
tạm dung thân(shelter) mà địa phương nào cũng có.
- Mạnh dạn,
sáng suốt giải quyết khó khăn. Hãy nhớ là chỉ có mình thấu hiểu
hoạn nạn của mình. Đừng để ai đó lung lạc, quyến dụ, sui khiến làm
chuyện đâu đâu vô bổ.
Kết luận
Đề cập tới hậu
quả của thảm trạng bạo hành trong gia đình người Mỹ gốc Việt, Tiến
sĩ
Catherine Le Gales-Camus của Tổ
chức Y tế Thế giới có ý kiến rằng đây là vấn đề sức khỏe cộng đồng,
chẳng khác chi bệnh tiểu đường, cao huyết áp, ung thư cổ tử cung.
Một cuộc thăm
dò hơn 200 gia đình người Việt tỵ nạn tại Houston do Tiến Sĩ Tuyên
Nguyễn thực hiện cho thấy có tới 31% trả lời đã có bạo hành trong
gia đình.
Theo Giáo sư Xã
Hội Học Bùi Hoan, Đại học Tennessee-Knoxville thì, so sánh với phụ
nữ bản xứ, phụ nữ Mỹ gốc Việt ít kêu cảnh sát để nhờ can thiệp
bảo vệ khi có chuyện bạo hành trong gia đình. Mà nếu cảnh sát có
tới thì đa số lại đều không muốn chồng bị làm khó dễ, câu lưu. Vì
hy vọng vớt vát thương yêu, đùm bọc gia đình
Để rồi từ đó,
bạo hành nối tiếp bạo hành. Nạn nhân lại bị hành hạ và kẻ chủ mưu
ngạo mạn “enjoy” hậu quả các hành vi vũ phu, mất nhân tính của
mình.
Và người vợ
tiếp tục sống trong cảnh “địa ngục trần gian”, thay vì một mái ấm
gia đình có chồng có vợ, có con cái, xum họp hài hòa hạnh phúc bên
nhau.
Bác sĩ Nguyễn Ý
Đức
Texas- Hoa Kỳ
www.bsnguyenyduc.com
|
VỀ MỤC LỤC |
NÓI MÓC Chuyện phiếm
của Gã Siêu |
Hồi còn bé, gã đa cảm thấy say mê và thích thú khi đọc câu
chuyện, cung nhu khi xem cuốn phim về Đavít và Goliát. Theo Kinh
thánh, lúc bấy giờ nguời Do Thái và quân Philitinh đang dàn trận
đánh nhau. Bên quân Philitinh có Goliát, là một tên khổng lồ.
Hắn cao ba thuớc, đầu đội mu chiến bằng đồng, mình mặc áo giáp
vảy cá và nặng năm muoi ký. Chân mang tấm che bằng đồng, vai đeo
cây lao cung bằng đồng. Cán giáo của hắn nhu trục khung cửi thợ
dệt, còn mui giáo của hắn đuợc làm bằng sắt và nặng sáu ký.
Trong khi đó, Đa vít chỉ là một cậu bé chăn chiên, trong túi có
mấy hòn đá cuội nhặt đuợc ở duới suối, còn tay thì chỉ cầm một
sợi dây bắn đá.
Sáng nào cung thế, Goliát đều đến truớc doanh trại của nguời Do
Thái mà khích bác:
- Sao chúng bay không xông ra trận? Hãy chọn lấy một nguời và nó
hãy xuống đây với ta. Nếu nó đủ sức mạnh để chiến đấu với ta và
hạ đuợc ta, thì chúng tao sẽ làm nô lệ cho chúng bay. Còn nếu ta
mạnh hon nó và hạ đuợc nó, thì chúng bay sẽ làm nô lệ và hầu hạ
chúng tao.
Vua Saun và toàn thể dân Israel nghe những lời ấy, thì kinh
khiếp và sợ hãi lắm. Thế nhung,
Đavít liền nói với nhà vua:
- Xin đừng ai ngã lòng vì hắn ta. Tôi tớ ngài đây sẽ đi chiến
đấu với tên Philitinh ấy.
Đồng thời, Đavít đa trấn an nhà vua:
- Tôi tớ ngài là nguời chăn chiên chăn dê cho cha. Khi su tử hay
gấu đến tha đi một con chiên trong bầy gia súc, thì con đuổi
theo nó, đánh nó và giật con vật khỏi mõm nó. Nó mà chồm lên
con, thì con nắm lấy râu nó và đánh cho nó chết. Tôi tớ ngài đã
đánh cả su tử lẫn gấu, thì tên Philitinh không cắt bì này cung
sẽ là nhu một trong các con vật đó, vì nó đa thách thức các hàng
ngu của Thiên Chúa hằng sống…
Nhà vua liền nói với Đa vít:
- Con hãy đi và xin Đức Chúa ở với con.
Khi nhìn thấy Đavít, tên Philitinh liền tỏ vẻ khinh dể và đã nói
với cậu:
- Tao là chó hay sao mà mày cầm gậy đến với tao…Tới đây với tao,
tao sẽ đem thịt mày làm mồi cho chim trời và dã thú.
Đavít bảo tên Philitinh rằng:
- Mày mang guom, mang giáo, cầu lao mà đến với tao. Còn tao, tao
đến với mày nhân danh Đức Chúa các đạo binh là Thiên Chúa các
hàng ngu Israel mà mày thách thức. Ngay hôm nay, Đức Chúa sẽ nộp
mày vào tay tao, tao sẽ hạ mày và làm cho đầu mày lìa khỏi thân.
Ngay hôm nay, tao sẽ đem xác chết của quân đội Philitinh làm mồi
cho chim trời và dã thú. Toàn cõi đất sẽ biết rằng có một Thiên
Chúa che chở Israel…
Khi tên Philitinh bắt đầu xông lên và đến gần để đuong đầu với
Đavít, thì Đavít vội vàng chạy từ trận tuyến ra để đuong đầu với
tên Philitinh. Đavít thọc tay vào bị, lấy từ đó ra một hòn đá,
rồi dùng dây phóng mà ném trúng vào trán tên Philitinh. Hòn đá
cắm sâu vào trán, khiến hắn ngã sấp mặt xuống đất. Thế là Đavít
đã chiến thắng tên Philitinh chỉ nhờ một dây phóng và một viên
đá cuội. Nhung vì trong tay không có guom, Đavít bèn chạy đến,
đứng trên xác của tên Philitinh, lấy guom của hắn, rút khỏi bao,
kết liễu đời hắn và dùng guom chặt đầu hắn.
Theo truyện “Tam quốc chí diễn nghia” do Tử Vi Lang dịch, thì
vào cuối đời nhà Hán, Trung Hoa lục địa bị chia thành ba nuớc,
làm nên cái thế chân vạc, đó là nuớc Thục ở phía tây do Luu Bị
cai quản, nuớc Ngô ở phía đông do Tôn Quyền cầm đầu và nuớc Nguỵ
ở phía bắc do Tào Tháo thống lãnh. Chiến tranh và loạn lạc xảy
ra trong khắp cả thiên hạ. Tuy nhiên, có điều gã cung nhận thấy
đó là truớc mỗi cuộc giao tranh, bên này thuờng khích bác bên
kia, còn bên kia thì lại thuờng chửi bới bên này một cách thậm
tệ. Giống nhu một luợng dầu đuợc đổ thêm vào lửa, làm cho ngọn
lửa bùng cháy lên, thì những lời khích bác và chửi bới ấy cung
đa làm cho binh lính của cả đôi bên hăng tiết vịt. Và thế là họ
liền hùng hổ xông ra chiến trận, hăng say chém giết lẫn nhau.
Từ những sự việc kể trên gã đi vào đề tài của mục chuyện phiếm
hôm nay bàn về “nghệ thuật nói móc”. Hẳn rằng mọi nguời đều biết
ngôn ngữ và tiếng nói là một thứ quà tặng, đuợc Thuợng Đế uu ái
trao ban cho con nguời, để họ dùng làm phuong tiện mà liên hệ
với nhau. Vì thế, chúng ta có thể xác quyết một cách mạnh mẽ:
Nguời là một con vật có ngôn ngữ, có tiếng nói.
Di nhiên, gã không phủ nhận noi con vật cung có một thứ ngôn ngữ,
một thứ tiếng nói nào đó để diễn tả những uớc muốn của chúng,
nhung dầu sao thì thứ ngôn ngữ và tiếng nói ấy, cứ tạm gọi là
nhu thế, vẫn còn ở trong tình trạng ấu tri và đon giản. Chỉ có
ngôn ngữ và tiếng nói noi con nguời mới thực sự liên tục phát
triển và tiến tới một đẳng cấp, một trình độ nghệ thuật mà thôi.
Thế nhung, tuỳ theo phuong thức sử dụng, ngôn ngữ và tiếng nói
có thể mang lấy tính cách xây dựng hay phá đổ. Thực vậy, có
những lời nói chân thành, những lời nói an ủi và khích lệ đã tạo
đuợc một bầu khí hoà thuận, đã bắc đuợc một nhịp cầu cảm thông,
làm cho con nguời hiểu nhau, nhờ đó mà xích lại gần nhau hon.
Nhung đồng thời cung có những lời nói độc địa và cay đắng, những
lời nói bỏ vạ và cáo gian, đa làm cho nguời khác bị thân bại
danh liệt, khoi rộng thêm mối hận thù, vốn di đã từng âm ỉ trong
cõi lòng của con nguời.
Và theo thiển ý của gã, thì một trong những loại ngôn ngữ mang
lại hậu quả tàn phá, đó là nói móc. Thực vậy, mở bất kỳ một cuốn
tự điển Việt Nam ra đễ tra cứu, gã đều thấy phạm trù “nói” của
nguời Việt Nam thật là phong phú. Chẳng hạn trong cuốn “Việt Nam
tự điển” của Lê Văn Đức, gã đếm đuợc cả thảy hon sáu trăm chữ
đuợc ghép với chữ “nói”, từ “nói ấm ớ” đến “nói xiên nói xéo”…Quả
là tuyệt vời! Vậy thế nào là nói móc? Tuỳ theo mức độ “đậm đặc”
và ý đồ đen tối của nguời nói, gã ghi nhận đuợc nhiều cấp bậc
nói móc khác nhau:
Đầu tiên là nói bóng nói gió, tức là nói một cách xa xôi để
nguời ta hiểu ngầm, thuờng là với những lời hai ý. Tiếp đến là
nói mát, tức là mỉa mai nguời ta một cách nhẹ nhàng cho thoả mãn
nỗi tức giận của mình. Ai có tật thì giật mình.
Sau khi đa xoi qua những món khai vị, thì bây giờ mới tới món
chính, gồm có: Nói kháy là nói với giọng điệu khiêu khích; nói
móc là cố ý chọc tức, nói thế nào khiến cho nguời ta phải bực
bội. Cung trong phạm vi này, còn có nói xỏ, nói xóc, nghia là
chọc cho nguời ta tức, nói cho nguời ta giận. Sau cùng, theo
ngôn ngữ của nguời Hà Nội hôm nay, còn có nói đểu, nghia là nói
với đầy ác ý cốt để cho nguời khác phải tức giận đa đanh, mà còn
bồi thêm một cú mỉa mai và khinh bỉ.
Theo một vài nhà “ngâm kíu”, thì nói móc là một thứ đặc sản của
dân ta. Nó không phải chỉ là “tuyệt chiêu” của các bà các cô, mà
nhiều lúc còn trở thành “độc chiêu” của giới mày râu nữa.
Thí dụ: Ta chẳng ua gì một ông hàng
xóm, nhung lại không dám nói thẳng ra, và thế là ta bèn nói kháy,
nói móc, khiến cho ông bạn tức nhu bị bò đá mà vẫn cứ phải nín
khe. Ông bạn càng bực, càng tức, thì ta lại càng hả hê, khoái
cái miệng và suớng cả cõi lòng.
Thí dụ: Một đứa bé học trò nghịch ngợm trong lớp, bị ông thầy
đánh cho ba roi. Trong khi ông thầy quất cái roi xuống, đứa bé
theo phản xạ tự nhiên bèn đua tay ra đỡ. Chẳng may cái roi dụng
phải cái móng tay đứa bé và làm cho nó chảy máu. Đứa bé nuớc mắt
lung tròng chạy về nhà kể lể và tả oán với bố nó. Ông bố cáu
tiết bèn làm một màn nói móc và chửi đổng. Ông ta vừa chạy dọc
theo con đuờng duy nhất trong làng, vừa quát tháo ầm i :
- Tiên su bố nó! Nó không đẻ, nó không đau, nó dám đánh con
nguời ta nhu thế kia à. Tiên su bố nó!
Thậm chí ngay cả quí vị con nít cung học đoi bắt chuớc nguời lớn
mà nói móc, nói kháy. Thí dụ: Tí đến nhà Tèo choi. Vì đang học
đan, nên Tèo hí hửng lấy cây guitar và gẩy biểu diễn mấy bài
liền, sau đó quay sang hỏi Tí:
- Bạn thấy bài nào hợp với mình nhất?
Suy nghi một lát, Tí lắc đầu và nói:
- Trong số những bài này, thì mình không biết, nhung mình biết
có một bài rất hợp với bạn.
Tèo mừng húm:
- Bài nào vậy?
Tí tỏ vẻ bí mật, nói nhỏ vào tai Tèo:
- Bài “Đập vỡ cây đan”.
Nói xong, Tí ôm bụng cuời ngặt nghẹo, còn Tèo thì bực tức, muốn
cho thằng bạn xỏ lá xoi mấy cú đấm vào mặt.
Nhu trên gã đa bảo: nói móc là một trong những cách thức mau
chóng phá đổ tình nghia trong lãnh vực đời thuờng cung nhu trong
phạm vi cuộc sống gia đình. Nhất là khi nguời ta lại móc quá sâu
và quá đậm thì thuờng để lại những hậu quả thảm khốc, khó mà
luờng nổi. Gã xin muợn đỡ một vài kinh nghiệm của tác giả Trần
Triều trong bài “Bệnh kháy” đuợc đăng tải trên báo “Phụ Nữ Thứ
Ba” số ra ngày 18.8.2009.
Truớc hết là trong lãnh vực đời thuờng
Một tốp thanh niên đang ngồi uống bia trong quán, thì một tốp
khác cung vào và ngồi ở bàn bên cạnh. Tốp này nói với tốp kia:
- Chúng mày muốn uống bia thì phải gọi chúng tao bằng ông nội,
không thì ăn đon.
Một tên tốp kia hùng hổ tiến tới,
nhung bất ngờ bị ngáng chân té lăn cù trên đất, khiến cho tốp
này đều cuời ồ lên. Thế là cả tốp kia đều rút lui có trật tự,
nhung chỉ một lát sau liền trở lại quán với dao phay và mã tấu.
Hỗn chiến xảy ra, khiến một em chết liền tại chỗ!!!
Tiếp đến là trong phạm vi cuộc sống gia đình
Hai vợ chồng đang ngồi xem phim với nhau, đến đoạn nhân vật nam
ngoại tình, chị vợ bèn phán:
- Cái thứ đan ông mèo mả gà đồng, trăng hoa cho lắm. Một vợ thì
nằm giuờng lèo, hai vợ thì nằm chèo queo, ba vợ thì ra chuồng
heo mà nằm.
Anh chồng nóng mặt vì anh thừa biết chị muợn nhân vật trong phim
để “xoáy, nghiền, bóp” cái vết thuong cu của mình. Một năm truớc,
anh đi theo công trình xây dựng xuống Kiên Giang, và ở đây anh
đã léng phéng chút đỉnh với cô bán cà phê, nhung đa giải quyết
dứt điểm. Chuyện tuy đa qua, nhung hễ có dịp là chị vợ lại “móc”
cho một phát. Phim đến đoạn nhân vật nữ nổi con ghen, anh liền
“tung đòn”:
- Cái thứ đan bà mà ghen quá đáng nhu vậy, có ngày mất chồng
luôn mà không hay. Thằng đan ông đã bực lên rồi thì bỏ hết, bất
chấp tất cả.
Từ chỗ đang cùng ngồi coi phim một cách đầm ấm, bỗng chốc cả hai
vợ chồng quay ra hầm hè, cố tìm ra những từ, những cách nói
khiến “đối phuong” càng đau, thì mình càng “đa”. Từ chỗ mình
mình, em em, bỗng chốc biến thành cái thứ này, cái thứ nọ…
Chuyện chua kết thúc. Bực mình chị vùng vằng bỏ vào buồng, nhung
không quên quăng lại một câu:
- Coi cái phim này, khối thằng đan ông sáng mắt ra, bồ bịch lăng
nhăng thì cứ chuồng heo mà nằm.
Anh nổi điên:
- Nằm chuồng heo còn hon nằm với con đan bà điêu ngoa. Thật hết
chịu nổi.
Chỉ vì mấy câu nói móc mà vợ chồng đang sống chung hoà bình,
bỗng chuyển biến thành chiến tranh!
Một truờng hợp tuong tự khác. Anh tay trắng từ miệt vuờn lên
Saigon lập nghiệp, cuới đuợc chị là con gái một gia đình khá giả.
Thế nhung, mẹ ruột anh lại có tính hay “bòn”, mỗi lần lên thăm
anh, đều xin một vài món lặt vặt trong nhà, mà bà cho rằng các
con “thừa”, không dùng đến. Chị thì chỉ “bằng mặt chứ không bằng
lòng”. Còn anh thì lại chẳng quan tân đến mấy chuyện vặt vãnh đó.
Vấn đề là sau mỗi lần mẹ chồng ra về, chị lại móc:
- Tôi ghét nhất là mấy nguời đến đâu cung góp góp nhặt nhặt. Đồ
của nguời ta mà cứ nghi là không dùng đến, rồi năn nỉ ỉ ôi.
Anh nghe mà nổi nóng, vì có cảm giác mẹ mình bị xúc phạm:
- Cô muốn gì, thì cứ nói thẳng ra, chứ đừng bóng gió nhu thế.
Chị trêu nguoi:
- Tôi nói vu vo vậy
đó. Ai có tật thì giật mình chớ.
Anh lại càng tức điên lên, nhung nếu mắng mỏ thì xoàng quá, phải
móc lại mới đuợc. Anh nhẹ nhàng bảo:
- Ừ, họ gom hết đồ của con trai về xài, còn hon cái ngữ lén
chồng, gom của nhà mình đua về nhà mẹ. Mà nhà mẹ có khó khăn gì
đâu, rặt một lu luời lao động, chảy thây ra đó.
Đến luợt chị tức anh ách, nhung đanh phải nín thinh bỏ đi một
mạch, bởi vì anh biết chị lén “tiếp tế” cho nhà ngoại từ lâu,
nhung làm thinh, vì nghi chuyện cung chẳng đáng gì. Nhung khi bị
vợ “nói đểu”, anh đã không dằn lòng đuợc.
Một lần khác, anh tỏ ra hào hiệp cho nguời bạn thân vay tiền mua
xe. Biết có “xin”, thì chị cung chẳng “cho”, nên anh “tiền trảm
hậu tấu”. Sau khi nghe anh “tấu”, thì điều thật lạ lùng, đó là
chị không nổi giận mà lại tỏ ra dửng dung, khinh khỉnh. Biết
mình có lỗi, anh bấm bụng cho qua, coi nhu “kết thúc vụ án”. Vậy
mà một lần chị bâng quo nói với con:
- Con cố gắng lớn lên biết mở mắt ra một chút, chứ đừng có khôn
nhà dại chợ nhé con.
Chỉ nghe câu nói đó, anh đa hất chiếc tivi bể tan, đập bẹp thêm
chiếc quạt máy, rồi hầm hầm bỏ đi.
Kinh nghiệm cho thấy: Khi mâu thuẫn xảy ra, thà rằng hét toáng
lên cho hả giận, hoá ra lại hay hon là nhẹ nhàng “sửa lung” nhau”,
bởi vì việc cãi vã to tiếng sẽ sớm đi vào lãng quên, còn nói móc
hay nói kháy lại gây nên những vết thuong lòng âm ỉ và dai dẳng.
Những cặp vợ chồng xung đột trực tiếp, xem ra lại ở bền với nhau
hon những cặp choi trò nói móc và nói kháy. Nhiều khi cái “bệnh
móc” này thấm sâu vào lục phủ ngu tạng, đến nỗi một chuyện nhỏ
cung trở thành chuyện lớn. Chẳng hạn, anh chồng húp bát canh
thấy mặn, thay vì nói thẳng, thì lại nói bóng nói gió:
- Canh hôm nay nhạt nhỉ?
Chị vợ bực vì bị chồng “nói đểu”, tức vì đa là vợ chồng với nhau
nhung lại không trao đổi thật lòng. Chuyện nhỏ mà bị móc sẽ hoá
thành chuyện lớn. Và chuyện lớn mà bị móc thêm, sẽ dễ nổ tung
nhu trái lựu đạn.
Một anh chồng đa tâm sự nhu sau: Hồi mới cuới, chúng tôi cung đa
từng cạnh khoé với nhau dữ lắm. Tôi quyết tâm sửa là vì sau mỗi
lần nói móc, dù đạt đuợc mục đích tức thời là làm cho vợ tức
điên lên, nhung sau đó ngẫm lại, thấy bản thân mình cứ hèn hèn
sao ấy… Nguợc lại, vợ bóng bóng gió gió, tôi cung tức điên lên
và ghét cay ghét đắng cái tật ấy. Từ đó, mỗi lần vợ mở miệng ra
định móc, tôi liền cuong quyết:
- Muốn nói gì thì nói thẳng, hoặc đừng nói gì cả.
Dần dần thói quen nói thẳng và nói thật đuợc hình thành. Ngồi
vào bàn ăn thấy thiếu tuong ớt thì nói thẳng:
- Em oi, còn thiếu tuong ớt.
Chứ hồi còn mắc bệnh “móc”, thế nào tôi cung nói:
- Hình nhu độ này em chăm làm đẹp quá, sợ mặt nổi mụn nên kiêng
ăn tuong ớt đó à?
Tóm lại, các cụ ta ngày xua đã bảo: Nói gần nói xa, chẳng qua
nói thật. Hay nhu một câu danh ngôn cung đa khuyên nhủ: Hãy
ngoáy luỡi bảy lần truớc khi nói, để mỗi lời chúng ta nói ra sẽ
là một góp phần vào việc tạo nên một bầu khí hoà thuận và bắc
đuợc một nhịp cầu cảm thông:
- Lời nói chẳng mất tiền mua,
Liệu lời mà nói cho vừa lòng nhau.
Gã Siêu
gasieu@gmail.com
|
VỀ MỤC LỤC |
|
- Mọi liên lạc: Ghi danh, thay đổi địa chỉ, đóng góp ý kiến,
bài vở..., xin gởi về địa chỉ
giaosivietnam@gmail.com
- Những nội dung sẽ được đề cao và chú ý bao gồm:
Trao đổi, chia sẻ những kinh nghiệm thực tế trong việc mục
vụ của Giáo sĩ; Những tài liệu của Giáo hội hoặc của các
Tác giả nhằm mục đích Thăng tiến đời sống Giáo sĩ; Cổ võ ơn
gọi Linh mục; Người Giáo dân tham gia công việc “Trợ lực
Giáo sĩ” bằng đời sống cầu nguyện và cộng tác trong mọi lãnh
vực; Mỗi Giáo dân phải là những “Linh mục” không có chức
Thánh; Đối thoại trong tinh thần Bác ái giữa Giáo dân và
Giáo sĩ… (Truyền giáo hay xây pháo đài?)
- Quy vị cũng có thể tham khảo những số báo đã phát hành tại
www.conggiaovietnam.net
Rất mong được sự cộng tác, hưởng ứng của tất cả Quí vị
Xin chân thành cám ơn tất cả anh chị em đã
sẵn lòng cộng tác với chúng tôi bằng nhiều cách thế khác
nhau.
TM. Đặc San Giáo Sĩ Việt Nam
Lm. Luca
Phạm Quốc Sử
USA
|
|
*************
|
|