Mầu Nhiệm Giáo
Hội |
Thánh Công
Ðồng Chung Vaticanô II
Khóa V Ngày 21 tháng 11 Năm 1964
Phaolô Giám Mục
Tôi Tớ Các Tôi Tớ Thiên Chúa
Hiệp Nhất Với Các Nghị Phụ Của Thánh
Công Ðồng
Ðể Muôn Ðời Ghi Nhớ
Hiến Chế Tín Lý
Về Giáo Hội
Lumen Gentium
Bản dịch Việt
Ngữ của Giáo Hoàng Học Viện Piô X
Prepared for
Internet by Vietnamese Missionaries in Asia
Chương I
Mầu Nhiệm Giáo
Hội
1*
1. Giáo Hội,
bí tích trong Ðức Kitô. Ánh sáng muôn dân chính
là Chúa Kitô, nên Thánh Công Ðồng đang nhóm họp trong Chúa Thánh
Thần hết lòng mong ước soi dẫn mọi người bằng ánh sáng của Chúa
phản chiếu trên dung nhan Giáo Hội, bằng việc rao truyền Phúc Âm
cho mọi tạo vật (x. Mc 16,15). Vì Giáo Hội ở trong Chúa Kitô như
bí tích hoặc dấu chỉ và khí cụ của sự kết hợp mật thiết với
Thiên Chúa và của sự hiệp nhất toàn thể nhân loại, nên, dựa trên
giáo huấn của các Công Ðồng trước, Giáo Hội muốn làm sáng tỏ bản
tính và sứ mệnh phổ quát của mình cho tín hữu và toàn thế giới.
Những hoàn cảnh hiện tại làm cho nhiệm vụ của Giáo Hội thêm khẩn
thiết hơn, để ngày nay mọi người liên hệ chặt chẽ hơn bởi nhiều
ràng buộc xã hội, kỹ thuật, văn hóa, cũng được hiệp nhất trọn
vẹn trong Chúa Kitô.
2*
2. Ý định
cứu chuộc phổ quát của Chúa Cha.
3* Bởi ý định khôn ngoan nhân lành, hoàn toàn tự do và
mầu nhiệm, Chúa Cha hằng hữu đã tạo dựng vũ trụ; Ngài đã quyết
định nâng loài người lên tham dự đời sống thần linh, và Ngài đã
không từ bỏ con người sa ngã trong Adam, nhưng luôn ban sự trợ
giúp để họ được cứu rỗi, nhờ Chúa Kitô, Ðấng Cứu Thế, "là hình
ảnh Thiên Chúa vô hình, Con đầu lòng của tạo vật" (Col 1,15).
Thực vậy, từ muôn thuở tất cả mọi người được tuyển chọn, Chúa
Cha "đã biết trước và đã tiền định cho họ trở nên giống hình ảnh
Con Chúa, hầu người Con đó được trở nên Trưởng Tử trong nhiều
anh em" (Rm 8,29). Thế nên Chúa Cha muốn qui tụ những ai tin
kính Chúa Kitô vào trong Giáo Hội. Từ nguyên thủy, Giáo Hội được
phác thảo bằng hình bóng, được chuẩn bị kỳ diệu trong lịch sử
dân Israel và trong giao ước cũ
1, được thành lập trong thời cuối cùng, và được biểu
hiện lúc Chúa Thánh Thần ngự xuống, rồi đến ngày tận thế sẽ kết
thúc trong vinh quang. Bấy giờ, như chúng ta đọc thấy nơi các
Giáo Phụ, mọi người công chính từ Adam, "từ Abel công chính đến
người được tuyển chọn cuối cùng"
2 sẽ được tập họp trong Giáo Hội phổ quát bên Chúa
Cha.
3. Sứ mạng
và công cuộc của Chúa Con. Thế là Chúa Con được
phái đến do Chúa Cha, Ðấng đã tuyển chọn chúng ta nơi Người
trước khi tạo dựng vũ trụ và tiền định chúng ta làm dưỡng tử, vì
Ngài mong ước cải tạo tất cả trong Chúa Con (x. Eph 1,4-5 và
10). Bởi thế, để chu toàn thánh ý Chúa Cha, Chúa Kitô đã khai
nguyên nước trời nơi trần gian, mạc khải cho chúng ta mầu nhiệm
của Ngài, và thực hiện việc cứu thế bằng việc vâng phục Chúa
Cha. Giáo Hội hoặc nước Chúa Kitô đã hiện diện cách mầu nhiệm,
nhờ thần lực Thiên Chúa, phát triển trong thế gian cách hiển
nhiên. Sự khai nguyên và phát triển đó được biểu thị bằng máu và
nước chảy ra từ cạnh sườn Chúa Giêsu chịu đóng đinh (x. Gio
19,34) và được tiên báo qua lời Chúa nói về cái chết của Người
trên thập giá: "Và Ta, khi bị treo lên khỏi đất, Ta sẽ kéo mọi
người lên cùng Ta" (Gio 12,32, bản Hy lạp). Mỗi lần hy lễ thánh
giá được cử hành trên bàn thờ, nhờ đó "Chúa Kitô, chiên vượt qua
của chúng ta chịu hiến tế" (1Cor 5,7), thì công trình cứu chuộc
chúng ta được thực hiện. Bí tích Thánh Thể cũng biểu thị và thực
hiện sự hiệp nhất các tín hữu, là những kẻ hợp thành một thân
thể, trong Chúa Kitô (x. 1Cor 10,17). Mọi người đều được mời gọi
kết hiệp cùng Chúa Kitô như vậy. Người là ánh sáng thế gian.
Chúng ta phát xuất từ Người, sống nhờ Người và hướng về Người.
4. Việc
thánh hóa Giáo Hội của Chúa Thánh Thần. Khi công
trình Chúa Cha trao phó cho Chúa Con thực hiện trên trần gian đã
hoàn tất (x. Gio 17,4) Chúa Thánh Thần được phái đến trong ngày
lễ Hiện Xuống để thánh hóa Giáo Hội mãi mãi, và như thế những ai
tin sẽ được tới cùng Chúa Cha qua Chúa Kitô trong một Thần Khí
duy nhất (x. Eph 2,18). Chính Ngài là Thánh Thần ban sự sống, là
mạch nước vọt lên sự sống vĩnh cửu (x. Gio 4,14; 7,38-39), nhờ
Ngài, Chúa Cha hồi sinh những kẻ đã chết vì tội lỗi, đợi đến khi
phục sinh thân xác hay chết của họ trong Chúa Kitô (x. Rm
8,10-11). Chúa Thánh Thần ngự trị trong Giáo Hội và trong tâm
hồn các tín hữu như ngự giữa đền thờ (x. 1Cor 3,16; 6,19). Trong
họ, Ngài cầu nguyện và chứng nhận họ là dưỡng tử (x. Gal 4,6; Rm
8,15-16 và 26). Ngài dẫn đưa Giáo Hội trong hiệp thông và phục
vụ. Ngài huấn luyện và dẫn dắt Giáo Hội bằng muôn ơn theo phẩm
chức và đoàn sủng, trang điểm Giáo Hội bằng hoa quả của Ngài (x.
Eph 4,11-12; 1Cor 12,4; Gal 5,22). Nhờ sức mạnh Phúc Âm, Ngài là
tươi trẻ, không ngừng canh tân và dẫn đưa Giáo Hội đến kết hợp
hoàn toàn với Phu Quân mình
3. Thực vậy, Chúa Thánh Thần và Hiền Thê nói cùng Chúa
Giêsu rằng: "Xin hãy đến" (x. Kh 22,17).
Như thế Giáo Hội phổ quát xuất hiện như
"một dân tộc hiệp nhất do sự hiệp nhất giữa Chúa Cha, Chúa Con
và Chúa Thánh Thần"
4.
5. Nước
Thiên Chúa.
4* Mầu nhiệm Giáo Hội thánh thiện được biểu lộ trong
chính việc thành lập. Thực thế, Chúa Giêsu đã khai sinh Giáo Hội
bằng việc rao giảng Phúc Âm rằng Nước Thiên Chúa đã đến như đã
hứa trong Thánh Kinh từ ngàn xưa: "Thời gian đã trọn, Nước Thiên
Chúa gần đến" (Mc 1,15; x. Mt 4,17). Nước này chiếu sáng trước
mặt mọi người qua lời nói, hành động và sự hiện diện của Chúa
Kitô. Lời Chúa ví như hạt giống gieo trong ruộng (x. Mc 4,14):
ai tin nghe lời Chúa và gia nhập đàn chiên nhỏ của Chúa Kitô (x.
Lc 12,32), thì đã đón nhận chính Nước Ngài; rồi tự sức mình, hạt
giống nẩy mầm và lớn lên cho đến mùa gặt (x. Mc 4,26-29). Các
phép lạ của Chúa Giêsu cũng chứng minh rằng Nước Ngài đã đến thế
gian: "Nếu Ta dùng ngón tay Thiên Chúa để trừ ma quỉ, ắt Nước
Thiên Chúa đã đến nơi các ngươi rồi" (Lc 11,20; x. Mt 12,28).
Nhưng trước tiên, Nước ấy biểu lộ trong chính con người Chúa
Kitô, Con Thiên Chúa và Con loài người, Ðấng đã đến "để hầu hạ
và hiến mạng sống mình làm giá chuộc thiên hạ" (Mc 10,45).
Vì sau khi chịu chết trên thập giá cho nhân
loại, Chúa Giêsu đã phục sinh, nên Người được phong làm Chúa,
làm Ðấng Kitô và làm Linh Mục muôn đời (x. CvTđ 2,36; Dth 5,6;
7,17-21); và Người đổ tràn Thánh Thần mà Chúa Cha đã hứa trên
các môn đệ Người (x. CvTđ 2,33). Vì thế, với ân huệ của Ðấng
sáng lập, và trong khi trung thành tuân giữ các giới răn bác ái,
khiêm nhường và từ bỏ, Giáo Hội đã lãnh nhận sứ mệnh rao truyền
và thiết lập Nước Chúa Kitô và Nước Thiên Chúa trong mọi dân
tộc; Giáo Hội là mầm mống và khai nguyên Nước ấy trên trần gian.
Ðang lúc từ từ phát triển, Giáo Hội vẫn khát mong Nước ấy hoàn
tất và thiết tha hy vọng, mong ước kết hợp với Vua mình trong
vinh quang.
5*
Chú Thích
1*
Hai chương đầu của Hiến chế tín lý về Giáo Hội nhằm trình bày
mầu nhiệm Giáo Hội trong ý định cứu rỗi của Thiên Chúa như Thánh
Kinh đã mạc khải, trước khi phân tích cơ cấu phẩm trật (ch. III)
và tác động siêu nhiên.
Sau khi đã xác định Giáo Hội khai sinh từ
Mầu Nhiệm Ba Ngôi, chương I của Hiến Chế tìm hiểu những danh
xưng và những hình ảnh khác nhau mà Thánh Kinh xử dụng để chỉ
Giáo Hội, đặc biệt nhấn mạnh tới danh xưng của Thánh Phaolô gọi
Giáo Hội là "Thân Thể Chúa Kitô" (các số 5-7), nhưng không tuyệt
đối theo cách gọi đó. Sau cùng, chương I còn cắt nghĩa thực tại
Giáo Hội trong tình trạng cụ thể (số 8).
2*
Số 1: Nhập đề
Ðây là phần nhập đề tổng quát, nói lên
chiều hướng riêng biệt của Hiến Chế. Công Ðồng quả quyết sứ mệnh
cứu rỗi phổ quát của Giáo Hội đã được Chúa Kitô trao phó, qua ý
niệm bí tích phổ quát của ơn cứu rỗi. Ở đây, sự cứu rỗi được
quan niệm dưới hình thức hợp thông với Ba Ngôi.
3*
Các số 2-4: Giáo Hội từ Mầu Nhiệm Chúa Ba Ngôi.
Các số này có sự thống nhất khá chặt chẽ về
đề mục và cơ cấu, nói lên hoạt động của Ba Ngôi trong đời sống
Giáo Hội. Giáo Hội khai sinh từ ý định tự do của Chúa Cha hằng
hữu (số 2), ý định đó được thực hiện qua sứ mệnh của Chúa Con
(số 3), và được bổ túc nhờ sự thánh hóa mà Chúa Thánh Thần đem
đến (số 4). Như vậy chúng ta thấy rõ Giáo Lý Công Giáo về Giáo
Hội được xây dựng trên tín điều căn bản của Kitô giáo. Công Ðồng
nói theo kiểu nói của Thánh Kinh chứ không theo kiểu nói thần
học. Và không muốn giải quyết vấn đề: phải hiểu những hoạt động
của Ba Ngôi như thế nào. Câu sau cùng của số 4 bao gồm chủ đích
và nội dung của số đó.
1
Xem T. Cyprianô, Epist. 64,4: PL 3,1017; CSEL (Hartel), III B,
trg 720. T. Hilariô Pict., In Mt. 23,6: PL 9,1047. T. Augustinô,
nhiều chỗ khác. T. Cyrillô Alex. Glaph. in Gen. 2, 10: PG 69,
110A.
2 T.
Gregoriô Cả. Hom. in Evang. 19,1: PL 76,1154 B. Xem T.
Augustinô, Serm. 341, 9,11: PL 39,1499t. T. Gio. Damascenô, Adv.
Iconoct. 11: PG 96,1357.
3
Xem T. Ireneô, Adv. Haer. III, 24, 1: PG 7, 966 B; Harvey 2,
131; x. b. Sagnard, Sources Chr., trg 398.
4 T.
Cyprianô, De Orat. Dom. 23 : PL 4, 553: Hartel, III A, trg 285.
T. Augustinô, Serm. 71, 20, 33: PL 38, 463t. T. Gioan Damascenô,
Adv. Iconocl. 12: PG 96, 1358 D.
4*
Các số 5-7: Giáo Hội trong lịch sử cứu rỗi.
Các số này trình bày sự hiện diện và hoạt
động siêu nhiên của Thiên Chúa qua Giáo Hội trong công cuộc cứu
độ. Công Ðồng muốn giải thích ý định cứu rỗi của Ba Ngôi thực
hiện qua Giáo Hội (các số 2-4) tiến triển như thế nào trong lịch
sử cứu rỗi. Việc đó phải nhờ vào sự phân tích tỉ mỉ những cách
diễn tả của mạc khải Thánh Kinh. Như thế trong số 5, Công Ðồng
nói về Giáo Hội như một Nước Thiên Chúa ở trần gian; số 6 trình
bày những hình ảnh và những hình bóng khác nhau mà Thánh Kinh xử
dụng để mô tả Giáo Hội như là việc của Thiên Chúa; và sau cùng,
trong số 7, Công Ðồng giải thích sâu xa hơn về Giáo Hội là Thân
Thể Chúa Kitô, theo sát với giáo lý của Thánh Phaolô.
5*
Số 5: Giáo Hội là Nước Chúa.
Nước phải hiểu theo nghĩa Thánh Kinh chứ
không chỉ nguyên nghĩa xã hội, tức là phải hiểu như là một hành
động cai trị (chính sự thống trị) hơn là sự nới rộng đất đai
(hiệu quả của hành động thống trị). Trong viễn tượng ấy, Công
Ðồng quả quyết có hai sự kiện tạo nên Giáo Hội, tức là Nước
Thiên Chúa: hoạt động của Chúa Kitô trước Phục Sinh trong đó
Nước Thiên Chúa (theo ý nghĩa đã giải thích) đã được biểu lộ, và
việc Chúa thiết lập qua Mầu Nhiệm Phục Sinh. Như thế, ngay cả
những yếu tố giúp Nước Thiên Chúa thực hiện cũng đã được phác
họa:
a/ Yếu tố siêu nhiên: Là những hồng ân mà
Vị Sáng Lập Giáo Hội ban cho (tổng kết: là ơn trọng đại của Chúa
Thánh Thần);
b/ Yếu tố luân lý: Chấp nhận những đòi hỏi
tinh thần về việc Chúa thống trị trên con người, một cách tự do
và toàn vẹn;
c/ Yếu tố thừa sai: Giáo Hội lãnh nhận từ
Ðấng Sáng Lập sứ mệnh loan báo và tạo lập sự thống trị này của
Thiên Chúa trên mọi người;
d/ Yếu tố cánh chung: Việc thống trị ấy còn
bất toàn trên trần gian, bởi vậy khuynh hướng cánh chung của
toàn thể Giáo Hội hướng tới một Nước hoàn hảo phải được thực
hiện trong thời sau hết (x. số 48c).
5
Xem Origenê, In Mat 16,21: PG 13, 1443 C. Tertullianô, Adv.
Marc. 3,7: PL 2, 357 C; CSEL 47,3 trg 380. Về tài liệu phụng vụ,
xem Sacramentarium Gregorianum: PL 78,160 B. Hoặc C. Mohlberg,
Liber Sacramentorum Romanae Ecclesiae, Roma, 1960, trg 111, XC:
"Thiên Chúa không bị ràng buộc đã ban cho ngươi nơi cư ngụ vĩnh
cửu của các thánh...". Ca ngợi Urbs Jerusalem beata trong sách
kinh nhật tụng đan viện, và Coelestis urbs Jerusalem trong sách
kinh nhật tụng Roma.
còn tiếp nhiều kỳ
|
VỀ MỤC LỤC |
|
AI ĐƯỢC MỜI GỌI PHẢI SỐNG KHÓ
NGHÈO ?
|
Trong một thế
giới ngày một trở nên tục hóa, (secularization) tôn thờ vật
chất, tiền bạc, chuộng khoái lạc (Hedonism) và mọi vui thú vô
luân, vô đạo (immoral, unethical) thì khó nghèo là một bất
hạnh to lớn phải tránh (misfortune, evil ), một điều đáng cười
chê và khinh bỉ, vì không có một giá trị nào đối với những
người chỉ biết coi trọng tiền bạc, phương tiện vật chất, giầu
sang trên mọi giá trị tinh thần, luật công bình, lòng nhân đạo,
bác ái để quay mặt đi hay vô cảm trước nỗi đau khổ vì nghèo
đói của người khác. Tắt một lời: đối với những kẻ này chỉ có
tiền là trên hết và có giá trị nhất mà thôi.!
Mặt khác, trong mức độ và điều kiện cần
thiết để sống cho phù hợp với nhân phẩm và chu toàn mọi bổn phận
chính đáng, thì tiền bạc và phương tiện vật chất như nhà ở, quần
áo, thuốc men lương thực và phương tiện di chuyển ( xe cộ)
lại trở nên cần thiết và phải được thỏa mãn đúng mức.
Và không có
gì là sai trái đạo đức khi xử dụng những phương tiên trên cho
mục đích chính đáng.
Cụ thể, sống
và làm mục vụ ở Âu Mỹ, Canada, Úc Châu và Tân Tây Lan... thì đòi
hỏi phải có xe hơi để di chuyển chứ không thể đi xe đạp hay đi
bộ được. Đức Thánh Cha còn cần cả phi cơ và một đoàn xe hộ tống
để bảo vệ cho ngài trong mọi cuộc
công du mục vụ. Ngoài ra ngân sách (budget)
của Tòa Thành cần hàng trăm triệu đôla mỗi năm để chi phí cho
mọi nhu cầu thiết yếu như truyền giáo, huấn luyện và trợ giúp
các Giáo Hội nghèo trên khắp thế giới.
Như thế, không thể đòi hỏi sống nghèo bằng
cách cắt hết mọi phương tiện vật chất kể cả tiền bạc cần thiết
cho nhu cầu Phúc âm hóa và mục vụ của Giáo Hội địa phương hay
hoàn vũ. Cũng không thể nói tiền là không quan trọng và cần
thiết cho đời sống con người ở khắp nơi.
Chỉ có người nào quá ngây thơ, ảo tưởng
hay không thực tế mới đòi hỏi như vậy mà thôi.
Nhưng nếu vậy, thì Ai phải sống cái
nghèo của Phúc Âm để đáng được Chúa chúc phúc như Người đã nói
trong Bài Giảng Trên Núi xưa kia : “
Phúc cho ai có tâm hồn nghèo khó vì Nước
Trời là của họ” ( Mt 5: 2 Lc 6: 20)
Chúa không giảng lý thuyết suông mà Người
đã thực sự sống khó nghèo từ khi sinh ra nơi chuồng bò cho đến
khi chết trần trụi trên thập giá, đúng với tinh thần Người đã
nói với các môn đệ ngày kia rằng “
con chồn có hang, chim trời có tổ nhưng
Con Người không có chỗ tựa đầu.”( Mt 8: 20; Lc 9: 58)
Chắc chắn Chúa đã không “đóng kịch” để
phỉnh gạt ai về sự khó nghèo mà Người đã tự ý chọn khi sống thân
phận con người và đi rao giảng Tin Mừng Cứu Độ trong suốt 3 năm
tại thế.
Như thế, sự khó nghèo phải có giá trị thực
dụng và thiêng liêng rất cao mà Chúa muốn dạy các Tông Đồ trước
tiên và tất cả mọi người chúng ta ngày nay trong Giáo Hội.
Thực vậy, sự khó nghèo mà Chúa Giêsu đã
chọn và thực sự sống trước hết không có nghĩa là phải chê ghét
mọi nhu cầu cần thiết cho đời sống con người như tiền bạc, cơm
ăn, áo mặc, thuốc men, nhà ở và phương tiện di chuyển, nhất là
trong hoàn cảnh thế giới ngày nay hoàn toàn khác biệt với hoàn
cảnh xã hội thời Chúa sống và đi rao giảng Tin Mừng.
Dầu vậy, tinh thần khó nghèo mà Chúa đã làm
gương vẫn có thể thực hiện được –và phải thực hiện- trong hoàn
cảnh xã hội ngày nay. Đó là sự khó nghèo nội tâm, sự chê ghét
trong nội tâm để không tôn thờ hay làm nô lệ cho tiền bạc và mọi
phương tiện vật chất đến nỗi quên mất hay coi nhẹ mục đích quan
trọng hơn : đó là tìm kiếm Chúa và Vương Quốc giầu sang của
Người trên hết mọi sự ở trần gian này.
Đó là tất cả ý nghĩa của lời Chúa dạy các
Tông Đồ xưa và nay sau đây:
“ Không ai có thể làm tôi hai chủ, vì hoặc
sẽ ghét chủ này mà yêu chủ kia, hoặc sẽ gắn bó với chủ này mà
khinh dể chủ kia. Anh em không thể vừa làm tôi Thiên Chúa vừa
làm tôi tiền của được.”
( Mt 6 : 24)
Không thể vừa làm tôi Thiên Chúa vừa làm
tôi tiền của có nghĩa là không thể yêu mến và tôn thờ Thiên Chúa
như yêu mến và tôn thờ tiền của được.
Cứ nhìn vào thực trạng sống của con người
–trong đó có người tin hữu Chúa Kitô- ở khắp nơi trên thế giới
ngày nay cũng đủ cho ta thấy ai đang làm tôi Thiên Chúa và ai
đang làm tôi tiền của.
Trước hết là tập đoàn tài phiệt, đại tư bản
gian ác ở Mỹ đã và đang là nguyên nhân gây ra thảm trạng kinh
tế của Hoa Kỳ hiện nay, khiến cho hàng triệu người thất nghiệp,
đau khổ và không có bảo hiểm sức khỏe. Lý do chỉ vì bọn tài
phiệt trên đã tìm mọi cách để làm giầu, vơ vét của cải với sự hỗ
trợ ngầm ( vì đã bỏ nhiều tiền ra mua chuộc ) của giới cầm
quyền ở Quốc Hội và Nhà Trắng, bất chấp sự đau khổ của người
dân đang sống ở mức nghèo khó. Người không có bảo hiểm sức khỏe
không thể vào các bênh viện nào để được chửa trị vì bọn điều
hành hệ thống bệnh viện ở Mỹ không bao giờ chữa trị cho ai
không có bảo hiểm sức khỏe để chúng moi tiền ! Thế ra bệnh
viện, bác sĩ hoạt động vì tiền chứ không vì nhân đạo, vì muốn
cứu giúp bệnh nhân đau khổ ?.
Tại sao các quốc gia khác như Anh, Pháp,
Canada, Úc ,Tân Tây Lan cho người dân của họ miễn phí khi nằm
bệnh viện mà Mỹ mang tiếng là giầu có lại không làm được như vậy
?
Lý do duy nhất là bọn tài phiệt nắm trọn hệ
thông chăm sóc sức khỏe (healthcare) để bán bảo hiểm sức khỏe
cho người có tiền mà thôi. Vì thế mọi cải cách y tế đều không đi
đến đâu vì bọn cầm đầu ngành phúc lợi này không bao giờ muốn hy
sinh quyền lợi to lớn của họ cho ai hết.!
Họ đúng là những kẻ tôn thờ tiền của trên
mọi giá trị tinh thần, lòng nhân đạo và bác ái khiến họ hoàn
toàn vô cảm (numb) trước những người nghèo khó và bệnh tật
không có bảo hiểm sức khỏe.
Ai sống ở Mỹ đều biết rõ.thực trạng này.
Ở thế cực bên kia, những kẻ tự xưng là vô
sản, tranh đấu để đạp đổ giai cấp tư bản vì quyền lợi của giai
cấp vô sản, nhưng thực chất chính họ lại trở thành những “đại
tư bản đỏ” chỉ vì cũng tham tiền, tham của cải vật chất như
ai, không thua kém gì , và có thể còn hơn bọn tư bản vô tâm vô
đạo kia nữa. Họ cai trị để làm giầu cho tập đoàn của họ và con
cháu họ chứ không vì phúc lợi nào của người dân, chẳng may sống
dưới chế độ bất công, bóc lột vô nhân đạo của bọn họ.
Đó là thực trạng của những kẻ yêu mến tiền
và của cải vật chất trên hết mọi sự ở đời này.
Trước thực trạng này, người tín hữu Chúa Kitô- giáo sĩ, tu sĩ và
giáo dân- phải sống thế nào để nói lên giá trị của sự khó nghèo
mà Chúa Kitô đã nêu gương sáng trước tiên?
Chắc chắn Chúa không cấm ta làm việc để có
tiền chi phí cho những nhu cầu cần thiết cho đời sống con người
như cơm ăn, áo mặc, thuốc men, nhà ở, máy móc và phương tiện di
chuyển. Nhưng chỉ có sự khác biệt là chúng ta phải xử dụng
những phương tiện cần thiết ấy đúng nghĩa là những
phương tiện chứ không phải là mục đích tối cao phải tìm
kiếm cho đời mình. Mục đích tối cao đó chính là điều Chúa
Giêsu đã chỉ rõ cho các môn đệ xưa kia và cho chúng ta ngày
nay. Đó là :“ Trước hết hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và đức
công chính của Người; còn tất cả những thứ kia, Người sẽ thêm
cho.” ( Mt 6: 33)
Nói khác đi, tìm kiếm Thiên Chúa để sống
theo đường lối của Ngài phải là ưu tiên hàng đầu, phải là mục
đích tối cao nhất của những ai tin có Chúa là nguồn hạnh phúc và
thực tâm yêu mến Người trên hết mọi lợi lãi ở trần gian này. Có
như thế, thi mới xứng đáng là người có đức tin và sống đức tin
ấy cách cụ thể để làm chứng cho những giá trị - trong đó có giá
trị của sự khó nghèo- mà Chúa Kitô đã giảng dạy và làm gương cho
ta bắt chước.
Lời Chúa phải được thực hành trong Giáo Hội
và trong đời sống của mọi tín hữu. Nghĩa là không thể đọc và
nghe lời Chúa như đọc sách báo, xem phim ảnh, truyền hình rồi
quên ngay để còn dành tâm trí và thì giờ tìm kiếm hay lo cho
những việc mà người không có niềm tin nơi Chúa coi là quan
trọng nhất: đó là tìm tiền bạc và danh vọng phù phiếm bằng mọi
giá. Thêm vào đó là tìm kiếm để hưởng những thú vui không mấy
lành mạnh như nhẩy nhót, du hí ở những nơi tội lỗi và sửa sang
thân thể cho trẻ đẹp và hấp dẫn, thêm khiêu gợi thèm muốn vô
luân vô đạo cho người khác.
Xã hội Âu Mỹ sống với “văn hóa của sự
chết” là điển hình rõ nét nhất về lòng tham mê tiền bạc, của
cải vật chất và mọi vui thú vô luân vô đạo, trống vắng niềm tin
và mọi khát vọng siêu nhiên.
Nói khác đi, nếu không có sự khó nghèo nội
tâm để chê ghét những của phù vân và vui thú vô luân vô đạo ở
trần gian này thì người ta sẽ khó mà nhận ra sự khó nghèo
thiêng liêng khi sống trong sự sung túc vật chất, buông thả
luân lý, đạo đức như Chúa đã cảnh giác sau đây:
“ Ngươi nói tôi giầu có, tôi đã làm giầu,
tôi chẳng thiếu thốn chi. Nhưng ngươi không biết rằng ngươi là
kẻ khốn nạn, đáng thương, nghèo khổ. Đui mù và trần truồng. Vì
thế Ta khuyên ngươi đến với Ta mà mua vàng đã thử lửa để làm
giầu, mua áo trắng để mặc khiến ngươi khỏi xấu hổ vì để lộ thân
thể trần truồng, mua thuốc để xức mắt cho ngươi nhìn thấy được.”
( Kh 3: 17-18)
Lời Chúa trong Sách Khải Huyền trên đây đã
chỉ rõ cho ta thấy là nếu chỉ yêu mến và tìm kiếm sự
sang giầu, với tiền bạc và của cải ở trần gian này thôi,
thì người ta sẽ trở nên nghèo nàn, trần trụi và đui mù
về mặt thiêng liêng, khiến không thể nhìn ra
Chúa là cội nguồn của mọi vui thú, giầu sang đích thực, mà những
ai tin có Người phải tìm kiếm để chiếm hữu cho bằng được. Đây
mới chính là lợi lãi mà người tin có Thiên Chúa phải tìm kiếm
với tất cả khả năng của khối óc và mọi phương tiện vật chất ở
trần gian này để chiếm lấy như lợi lộc đích thực của đời mình.
Nếu không, thì khi nhắm mắt lìa đời, không
sớm thì muộn, vì “ bộ mặt của thế gian này đang biến đi.”
( 1 Cor 7 :31) người ta không những phải bỏ lại tất cả mọi của
cải và danh vọng phù vân đã tích lũy được để ra đi với hai bàn
tay trắng, không một hành trang, không “một bảo hiểm thiêng
liêng” để được vào vui hưởng sự sống và hạnh phúc vinh cửu
với Chúa trên Nước Hằng Sống.
Đó là lý do tại sao Chúa Giêsu đã dạy bảo
mọi người chúng ta như sau :
“ Anh em đừng tích lũy cho mình những
kho tàng dưới đất nơi mối mọt làm hư nát., nơi kẻ trộm khoét
vách và lấy đi. Nhưng hãy tích lũy cho mình những kho tàng trên
trời, nơi mốt mọt không làm hư nát, nơi trộm cắp không đào ngạch
và lấy đi được.” ( Mt 6 : 19-20).
Tìm kiếm những kho tàng không hư mất ,
những tờ giấy bạc không bị nhàu nát mai một, trước kết có nghĩa
là phải có lòng khao khát muốn nên thánh vì Chúa là Đấng Thánh.
Và muốn được như vậy, thì cần thiết phải từ bỏ mọi tội lỗi,
trong đó có tội ham mê tiền của đến quên mục đích tối cao là tìm
Chúa và Vương Quốc an bình và hạnh phúc của người. Mặt khác,
không ham mê tiền của cũng giúp người ta dễ dàng mở lòng nhân
ái thực thi bác ái cách rộng rãi nhờ tiền của mình kiếm được.
Đây là cách mua bảo hiểm tốt nhất cho đời sống mai sau trên Nước
Trời.
Như thế, mọi tín hữu đều phải biết khôn
ngoan tìm kiếm và tích trữ cho mình những của cải không hề hư
mất, những đồng tiền không thể mất giá, thay vì chỉ chú tâm
tìm kiếm những kho tàng không thể mang theo về nơi vĩnh phúc.
Cụ thế, là người Tông Đồ, tất cả đều được mời gọi và mong đợi (
expected) sống cái nghèo của Phúc Âm theo gương Chúa Kitô “
Người vốn giầu sang phú quí,
nhưng đã tự ý trở nên nghèo khó vì anh em để lấy cái nghèo của
mình mà làm cho anh em trở nên giầu có.” ( 2 Cor 8:9)
Thực hành tinh thần nghèo khó trên đây
-xin nói lại một lần nữa- không có nghĩa là không được có tiền
bạc và những phương tiện sống cần thiết như nhà ở, áo quần, xe
cộ , máy móc…Ở Mỹ , phải có xe hơi thì mới đi làm mục vụ được,
vì không thể đi bộ hay xe đạp đến thăm người đau ốm ở tư gia hay
bệnh viện. Nhưng không vì lý do này mà linh mục phải sắm cho
mình những xe đắt tiền và sang trọng như Mercedes, BMW, Lexus,
Infinity… hoặc đeo đông hồ Rolex, Omega.. Nếu chỉ lãnh lương qui
định của giáo xứ thì khó có thể có tiền để mua được những xe
hay đồng hồ nói trên. Vì thế , khi thấy linh mục nào chậy những
loại xe này, giáo dân sẽ tự hỏi : làm sao cha có tiền để mua xe
đắt giá như vậy ? Và như thế, linh mục sẽ không thể làm gương
sống khó nghèo cho ai được, vì đời sống thực tế của mình đã
hoàn toàn mâu thuẫn với lời giảng dạy về đức khó nghèo của Phúc
Âm.
Chúa Giê su đã đòi hỏi các môn đệ xưa và
nay phải từ bò mọi của cải như điều kiện để được đi theo Người:
“Cũng vậy, ai trong anh em không từ bỏ hết
những gì mình có thì không thể làm môn đệ của Tôi được
” (Lc 14: 33)
Từ bỏ hết những gì mình có nghĩa là không
được say mê tiền của và giầu sang ở đời này đến mức coi nhẹ ơn
gọi đi theo Chúa để rao giảng hạnh phúc và phú quý của Nước Trời
cho chính mình trước khi cho người khác. Và nhờ gương sống tinh
thần khó nghèo thực sự của mình sẽ thuyết phục được người khác
tin yêu và tôn thờ Thiên Chúa trên hết mọi giầu sang và danh lợi
ở đời này, một trở ngại lớn lao cho những ai ham mê của cải hơn
yêu mến Chúa và Vương Quốc của Người.
Mặt khác, cũng không nên quá chú trọng vào
việc xây cất, sửa sang nhà thờ để tiếp tục thi nhau ra nước
ngoài xin tiền, làm phiền cho giáo dân không có lợi tức cao, cứ
phải gặp các cha các Sơ đến “thăm giáo xứ, Công đoàn” của mình
trong các ngày lễ cuối tuần. Nếu cứ lấy cớ vì nhu cầu thì nhu
cầu này sẽ bất tận không biết đến khi nào mới thỏa mãn hết được.
Vì hết xây nhà thờ, lại xây nhà xứ, nhà trường v.v Nhưng điều
quan trọng đối với người Tông Đồ không phải là chỉ lo xây nhà
thờ bề ngoài cho sang cho đẹp mà cốt yếu phải xây Đền thờ Chúa
trong tâm hồn mỗi người giáo dân mà mình có sứ vụ coi sóc, chăm
lo về mặt thiêng liêng. Phục vụ tốt cho họ không những đòi hỏi
phải dạy dỗ đúng theo thần học, giáo lý, giáo luật và kỷ luật
bí tích của Giáo Hội mà quan trọng hơn nữa là phải là nhân
chứng sống động cho Chúa Kitô về đức công bình, bác ái và khó
nghèo nội tâm. Nghĩa là phải chứng tỏ cho giáo dân thấy là mình
thực sự có tâm hồn nghèo khó, thực tâm chê ghét sự sang giầu vật
chất để không chạy theo hay làm thân với người giầu có, thi ân
cho họ để bù lại được lợi cho mình. Đồng thời phải nhìn thấy
Chúa thực sự hiện diện nơi anh chị em nghèo khó, cô thân cô
thế, những trẻ thơ không có sữa nuôi, những bệnh nhân đang quằn
quại đau đớn ở bênh viện hay tư gia. Nên cần đến thăm và an ủi
họ hơn là phí thì giờ lưu tới những nhà giầu hay những người có
quyền thế để tìm lợi lộc mà người nghèo không thể cung phụng
cho ai cho được
Tóm lại, người Tông Đồ lớn nhỏ mà ham mê
tiền của sẽ dẫn đến gian tham để ăn cắp tiền của giáo xứ, của
nhà Dòng rồi bỏ đi xây tổ ấm ở đâu không ai biết. Hay giả tàn
tật, giả mạo giấy giới thiệu của Bề Trên để đi ra nước ngoài xin
tiền như đã từng xảy ra.
Đó là nguy hại của lòng tham mê tiền của
hơn yêu mến sứ vụ rao giảng và làm nhân chứng đích thực cho Chúa
Kitô, Đấng đã hoàn toàn sống nghèo và chết nghèo để cho chúng ta
được sang giầu phú quí vĩnh viễn trên Nước Trời.
Lm Phanxicô Xaviê Ngô Tôn Huấn.
|
VỀ MỤC LỤC |
|
Con cá
thứ nhất: Mẹ Maria, mối tình đầu của tôi |
Tác phẩm năm chiếc bánh
và hai con cá
của ĐHY PX. Nguyễn Văn
Thuận
Con cá thứ nhất: Mẹ
Maria, mối tình đầu của tôi
Tôi trao phó cho Mẹ Maria... những hy
vọng, những mong đợi của các bạn trẻ khắp hang cùng ngỏ hẻm của
hành trình, đang lặp lại lời của Mẹ: “Này tôi là tớ nữ Thiên
Chúa. Tôi xin vâng như lời thiên thần truyền” (Lc 1, 38) ...
Các bạn sẵn sàng loan báo cho những người trẻ cùng lứa tuổi với
mình, như các tông đồ đã làm: “Chúng tôi đã gặp Đấng Thiên
Sai!” ( Ga 1, 41).
(Gioan Phaolô II, Sứ điệp NQTGT XII, số 10)
“Mẹ Maria Vô Nhiễm là mối tình đầu của
tôi”, câu nói đó là của thánh Gioan Maria Vianney, cha xứ Ars,
tôi đã đọc trong sách của cha Francois Erochu, hồi tôi còn ở
tiểu chủng viện.
Mẹ tôi đã đổ vào tim tôi lòng kính mến Đức
Mẹ, từ tuổi ấu thơ. Bà nội tôi, mỗi buổi tối, lúc gia đình đọc
kinh xong rồi, bà còn ngồi lần thêm một tràng hạt. Tôi hỏi bà,
bà đáp:
- Mệ lần một chuỗi cầu nguyện cho các cha.
Bà tôi không biết đọc biết viết, nhưng
chính những người bà, người mẹ như thế, đã vun trồng hát giống
ơn thiên triệu trong lòng chúng tôi.
Đức Maria có một vai trò đặc biệt trong đời
tôi. Tôi đã bị bắt ngày lễ Đức Mẹ Hồn Xác Lên Trời, 15 tháng 8
năm 1975. Tôi ra đi với hai tay không, trong túi không có gì
cả, ngoại trừ một tràng hạt, và tôi đi bình an. Mẹ tôi đã dạy
tôi như vậy từ thuở bé. Đêm ấy trên tuyến đường dài 450 km,
tôi đã đọc không biết bao nhiêu lần kinh “Hãy Nhớ”.
Các bạn hỏi tôi, Đức Mẹ đã giúp tôi vượt
bao thử thách trong đời tôi thế nào. Tôi sẽ thuật lại cho các
bạn một vài chuyện đang còn tươi rói trong ký ức tôi. Lúc còn
là một linh mục du học ở Rôma, tháng 9 năm 1957, tôi đi Lộ Đức
để cầu nguyện với Đức Mẹ. Quỳ trước hang đá, nhìn lên tượng Mẹ,
tôi nghe như Đức Mẹ nói với tôi như đã nói với thánh nữ
Bernadette:
- Benadette,
Mẹ không hứa cho con hân hoan và an ủi ở trần gian này, nhưng
hứa đau khổ và thử thách.
Tôi run sợ, nhưng tôi chấp nhận và phó thác
trong tay Mẹ. Tôi tiếp tục học hành thi cử, và trở về Việt Nam,
làm giáo sư, Giám đốc tiểu chủng viện Hoan-Thiện, Tổng đại diện,
Giám mục Giáo phận Nha Trang năm 1967. Cám ơn Chúa , công việc
mục vụ của tôi nói được là thành công.
Tôi trở lại Lộ Đức nhiều lần và nhiều lần
tôi tự hỏi: “Có lẽ lời Đức Mẹ đã nói với thánh Bernadette không
phải Mẹ cũng nhắc lại với tôi?” Thánh giá bổn phận của tôi
không đến nỗi quá nặng, dù sao tôi sẵn sàng chấp nhận thánh ý
Chúa.
Tiếp đến mùa hè 1975, tôi bị bắt, bị cầm
tù, ở trại cải tạo, bị biệt giam... hơn 13 năm gian truân! Bấy
giờ, tôi mới hiểu Đức Mẹ đã muốn chuẩn bị cho tôi từ 1957: “Mẹ
không hứa cho con hân hoan và an ủi ở trần gian này, nhưng hứa
đau khổ và thử thách”. Mỗi ngày tôi càng hiểu thâm thúy hơn ý
nghĩa của sứ điệp ấy và tôi phó mình trong tay Mẹ.
Lúc những khổ đau thể xác và tinh thần trở
nên quá nặng nề, tôi không đọc kinh nổi, tôi chỉ lặp đi lặp lại
“Ave Maria”, không biết bao nhiêu lần mỗi ngày: “Lạy Mẹ, con
quá yếu nhược, cong không đọc kinh nổi nữa, con chỉ biết dâng
lên Mẹ muôn vàn ‘Ave Maria’, xin Mẹ ban phát cho giáo dân của
con, cho mọi người, cho toàn thể Hội thánh đang cần đến lòng
thương xót của Mẹ. Tất cả với Mẹ, vì Mẹ và trong Mẹ”.
Không những tôi cầu xin Mẹ ban ơn, nhưng
tôi năng thưa với Mẹ: “Lạy Mẹ, con có thể làm gì giúp Mẹ được?
Con sẵn sàng theo lệnh Mẹ, chịu đựng tất cả, làm tất cả vì ‘Nước
Chúa Giêsu, con Mẹ’. Lúc ấy, tuy ở giữa gian lao, tôi cảm thấy
hết lo sợ và bình an.
Lúc nào cầu nguyện với Mẹ Maria, tôi không
thể quên thánh Giuse bạn trinh khiết của Mẹ. Vì đó là một
nguyện ước của Chúa Giêsu và Mẹ. Thánh Giuse là người được Chúa
Giêsu và Mẹ yêu mến cách đặc biệt nhất. Mẹ tôi đã dạy cho tôi
điều này.
Mẹ Maria Vô nhiễm không bỏ quên tôi. Mẹ đã
sát cánh tôi dọc đường gập ghềnh đen tối của lao tù. Trong
những năm tháng thử thách triền miên ấy, tôi đã cầu xin Mẹ cách
đơn sơ mà đầy tin tưởng cậy trông: “Lạy Mẹ, nếu Mẹ biết con
không thể làm ích gì để phục vụ Hội thánh nữa thì xin Mẹ cho con
đặc ân được chết trong tù, để hy sinh trọn vẹn. Ngược lại nếu
Mẹ biết con còn phục vụ Hội thánh được, xin Mẹ cho con một dấu
chỉ : ra khỏi tù trong một ngày lễ của Mẹ!”
Một hôm trời mưa, tôi đang thổi cơm trưa,
tôi nghe điện thoại của chiến sĩ trực reo. “Biết đâu có tin gì
cho tôi? Đúng rồi, bữa nay là lễ Đức Mẹ dâng mình vào đền
thánh, 21 tháng 11 mà!”
Năm phút sau, anh chiến sĩ trực đến:
- Ông Thuận ơi, ông ăn chưa?
- Chưa ạ, tôi đang thổi cơm đây.
- Ăn xong, ăn mặc sạch sẽ, đi gặp lãnh đạo.
- Lãnh đạo là vị nào vậy?
- Tôi không biết, tôi chỉ được báo thế.
Chúc ông may mắn.
Tôi đã được đưa đến nhà khách chính phủ,
bên hồ Ha-le, và tôi đã gặp ông Mai Chí Thọ, Bộ trưởng Nội vụ
(Bộ công an). Sau lời chào hỏi xã giao, ông Bộ trưởng đã hỏi:
- Ông có nguyện vọng gì không?
- Thưa có, tôi muốn được tự do.
- Bao giờ?
- Hôm nay.
Ông Bộ trưởng có vẻ ngạc nhiên, thường tình
phải có thời gian cho cơ quan nhà nước xếp đặt... Nhưng hôm nay
là lễ Đức Mẹ nên tôi tin chắc và xin như vậy. Để đánh tan bầu
khí lúng túng và ngạc nhiên ấy, tôi nói:
- Thưa ông Bộ trưởng, tôi ở tù lâu lắm,
suốt ba đời Giáo hoàng: Phaolô VI, Gioan Phaolô I, và Gioan
Phaolô II. Về phía xã hội chủ nghĩa thì tôi đã ở tù bốn đời
Tổng Bí thư Liên Xô: Brezhnev, Andropov, Chernenko, và
Gorbachev.
Ông Bộ trưởng bật cười và nói:
- Đúng! đúng!
Ông quay qua bảo người bí thư:
- Hãy liệu đáp ứng nguyện vọng của ông.
Trong lòng tôi vui mừng tạ ơn Đức Mẹ Maria,
vì không những được tự do mà còn được cả dấu chỉ. Chắc Mẹ tha
tội tôi cả gan thách đố Mẹ.
Các bạn hỏi tôi về vai trò của Mẹ Maria
trong đời tôi, đặc biệt là sự chọn lựa triệt để theo Chúa Giêsu?
Tôi cảm nghiệm rằng, trên Thánh giá, Chúa
Giêsu đã bảo thánh Gioan: “Đây là Mẹ con!” (Ga 19, 29). Sau
phép Thánh Thể thì Chúa Giêsu không thể để lại cho loài người sự
gì cao quý hơn chính Mẹ của Ngài.
Đức Mẹ với tôi là một cuốn Phúc âm sống,
loại bỏ túi, phổ biến rộng rãi nhất, dễ hiểu nhất, dễ thương
nhất.
Đức Mẹ là Mẹ của Chúa Giêsu, chính Ngài
trối Mẹ lại cho tôi. Chính điều này cho tôi thấy sự hiệp nhất
giữa Mẹ Maria, Chúa Giêsu và tôi. Mỗi khi dâng thánh lễ, đọc
lời truyền phép, tôi cảm thấy tôi là con Đức Mẹ hơn cả, vì tôi
hiệp nhất với Chúa Giêsu.
Đức Mẹ không những lo lắng cho Chúa Giêsu
mà còn lưu tâm giúp đỡ bà Isave, thánh Gioan, đôi tân hôn ở làng
Cana... mọi người, toàn thể Hội thánh.
Tôi rất thích câu nói của thánh nữ Têrêxa
Hài Đồng: “Tôi muốn làm linh mục để giảng về Đức Mẹ”. Cuộc đời
Mẹ Maria có thể tóm gọn trong ba tiếng: “Ecce, Fiat,
Magnificat”.
“Này tôi là tớ nữ của Thiên Chúa” (Lc 1,
38).
“Tôi xin vâng như lời thiên thần truyền
cho tôi”... (Lc 1, 38).
“Linh hồn tôi ngợi khen Chúa”... (Lc 1,
46).
Cầu Nguyện
Maria, Mẹ chúng con
Lạy Mẹ Maria, Mẹ Chúa Giêsu, Mẹ chúng
con, con muốn gọi Mẹ là Mẹ chúng con, để cảm thấy mình hợp nhất
với Chúa Giêsu và mọi người anh em của con.
Xin Mẹ hãy đến và sống trong
con. Cùng Chúa Giêsu, con rất yêu dấu của Mẹ.
Trong sự thinh lặng, tỉnh
thức, cầu nguyện, hiến tế.
Trong sự thông hiệp với Hội
thánh và Chúa Ba Ngôi.
Trong kinh Magnificat, sứ
điệp đổi mới toàn diện của Mẹ,
Trong sự kết hợp với thánh
Giuse, bạn chí thánh của Mẹ,
Trong lao động đầy khiêm
tốn, yêu thương, để thực hiện di chúc của Chúa Giêsu.
Trong tình yêu của Mẹ đối
với Chúa Giêsu, thánh Giuse, Hội thánh và tất cả nhân loại.
Trong đức tin sắt đá của Mẹ,
giữa muôn vàn thử thách vì nước trời.
Trong niềm hy vọng của Mẹ,
luôn hành động để xây dựng một thế giới mới, đầy công lý, hòa
bình, hạnh phúc và yêu thương thực sự.
Trong sự vẹn toàn các nhân
đức của Mẹ trong Chúa Thánh Thần, để nên nhân chứng của Phúc âm,
nên Tông đồ truyền giáo.
Trong con, xin Mẹ tiếp tục
làm việc, cầu nguyện, yêu thương, hy sinh.
Xin Mẹ tiếp tục thi hành
thánh ý Chúa Cha, tiếp tục làm Mẹ loài người.
Xin Mẹ tiếp tục sống sự
Thương khó và Phục sinh của Chúa Giêsu.
Con xin dâng mình cho Mẹ.
Tất cả cho Mẹ.
Hôm nay và mãi mãi đến muôn
đời.
Con sống tinh thần của Chúa
Giêsu, khi sống tinh thần Maria và Giuse.
Với Chúa Giêsu, thánh Giuse,
các thiên thần, các thánh và tất cả các linh hồn.
Con yêu mến Mẹ, Mẹ chúng
con, và con xin chia sẻ,
Công việc của Mẹ,
Nỗi thao thức của Mẹ,
Cuộc chiến đấu của Mẹ vì nước Chúa Giêsu. Amen.
Biệt giam tại Hà Nội,
1-1-1986,
Lễ Đức Maria Mẹ Thiên Chúa.
|
VỀ MỤC LỤC |
|
CÁCH VÂNG PHỤC
THIÊN CHÚA HOÀN TOÀN |
LỄ ĐỨC MẸ MÂN CÔI (07.10.2011)
(Cv 1,12-14 hay
Gl 4, 4-7; Lc 1, 26-38)
Trước hết chúng ta cùng tìm hiểu nghĩa của hai chữ “Mân côi”:
Mân Côi hay còn gọi là
Mai Khôi, Môi
Khôi, Văn Côi là các danh
từ Hán việt. Đây là những cách phiên âm Hán việt khác
nhau của danh từ Latinh ở số nhiều “Rosarium”, tiếng Anh là
Rosary, có nghĩa là một vườn hoa hồng; một tràng, một chuỗi,
một xâu hoa hồng; hay một xâu chuỗi hạt trai, hạt đá quý để đeo
quanh cổ người phụ nữ.
Theo Công Giáo
Báck Khoa Từ Điển, ấn bản Anh ngữ, sở dĩ gọi là Kinh Hoa Hồng là
do tích truyện một thầy tu khi đọc kinh Kính Mừng, Đức Mẹ đã lấy
những nụ hoa hồng trên môi của thầy tu ấy kết thành vòng hoa đội
lên đầu mình. Tiếng Anh gọi là Corona, Chaplet, Garland là Vòng
Hoa Hồng hay Chuỗi Hạt, tương đương với ý nghĩa từ Rosarium của
Latinh.
Còn tiếng Hán
Hiện đại (Hoa ngữ) dịch nghĩa chữ “Rosarium” tiếng Latinh là “玫 瑰 涇”
(phiên âm theo Bắc Kinh là ‘méiguijing’), đọc theo âm Hán việt
là “Mân Côi kinh”.
Theo các Từ
Điển (hay Tự Điển) Hán Việt cổ và Từ Điển Hán Việt Hiện đại thì
chữ “Mân” (玫)
còn có âm đọc là “Mai”, “Môi” hay “Văn” là
một thứ đá quí, ngọc quí, hoa hồng (chỉ thực vật). Còn chữ “Côi”
(瑰),
hay cũng có âm đọc là “Khôi”, có nghĩa là ngọc quí hay
mang nghĩa (tính từ) là hiếm, quý, lạ. Như thế, “Mân côi” có
nghĩa là một chuỗi ngọc quí hiếm hay chuỗi hoa hồng. Bởi thế,
theo cách tạo từ của chữ Nôm thì “kinh Mân côi” (涇 玫 瑰)
có nghĩa là kinh chuỗi ngọc quí hay kinh chuỗi hoa
hồng [1].
Thứ đến, chúng ta cùng tìm hiểu ý nghĩa phụng vụ của thánh lễ
hôm nay. Lễ Đức Mẹ Mân Côi không nhằm vào xâu chuỗi cho bằng
hướng về Thánh Mẫu Mân Côi, đó là Đức Trinh nữ Maria.
Thánh Lễ
được Đức Giáo Hoàng Piô V, xuất thân từ Dòng Đa Minh, lập ra vào
năm 1572 để kỷ niệm chiến thắng của Hạm đội Công giáo trên dân
Hồi giáo ở Thổ Nhĩ Kỳ tại vịnh Lepanto ngày 7.10.1571. Và sau
cuộc chiến thắng quân Thổ Nhĩ Kỳ ở Peterwardein xứ Hungaria ngày
5.8.1716, theo yêu cầu của vua Charles VI, Đức Giáo Hoàng đã cho
phép mừng lễ Đức Mẹ Mân Côi trong toàn Hội Thánh. [2]
Như thế,
phụng vụ hôm nay mời gọi chúng ta hướng về Đức Mẹ để noi gương
bắt chước Người và sử dụng phương thế quí báu và hữu hiệu mà Mẹ
đã trao ban cho chúng ta là tràng chuỗi Mân côi để thánh hóa
cuộc đời chúng ta.
Bài Tin Mừng
hôm nay mời gọi chúng ta noi gương Đức Mẹ sống vâng phục Thiên
Chúa cách hoàn toàn. Chính Đức Mẹ đã thốt lên với sứ thần: “Vâng,
tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ
thần nói”. Nhưng làm sao chúng ta có thể vâng phục Thiên
Chúa cách hoàn toàn như Mẹ?
Xin được minh họa bằng một nhân vật trong Tam Quốc Diễn Nghĩa.
Chắc ai cũng mến mộ Trương Lương, một trong những vị tướng tài
ba của Lưu Bang. Thuở nhỏ, Trương Lương đi dạo chơi ngoài bờ
sông. Thấy một ông lão ăn mặc rách rưới nằm ngủ trên cầu. Ông
lão ngủ say làm rơi một chiếc dép xuống sông. Thấy Trương Lương,
ông sai bảo: "Thằng bé, nhặt chiếc dép cho ta". Trương Lương vui
vẻ xuống sông nhặt chiếc dép kính cẩn đưa lại cho cụ già. Cụ cầm
lấy. không một lời cám ơn. Loay hoay xỏ mãi không vào, cụ đánh
rơi chiếc dép một lần nữa. Cụ lại quát bảo Trương Lương: “Thằng
bé, xuống nhặt dép cho ta". Trương Lương vẫn vui vẻ giúp cụ. Lần
thứ ba cũng thế. Thấy vậy, ông lão khen: "Thằng bé này dạy được
đây". Thì ra cụ là một cao nhân lỗi lạc. Và cụ nhận Trương Lương
làm học trò, truyền dạy binh pháp cho ông. Nhờ thế, Trương Lương
trở nên một danh tướng văn võ song toàn, đã giúp cho Lưu Bang
dựng nên nghiệp đế vương.
Cho dù tích truyện trên chỉ là sự hư cấu của tác giả La Quán
Trung, tuy nhiên qua nhân vật Trương Lương cho ta thấy một qui
luật làm nên cốt cách của con người đó là sự tập luyện. Không
phải một sớm một chiều mà Trương Lương có được nhân đức khiêm
nhường tùng phục để giúp ông sau này làm nên nghiệp lớn. nhân
đức ấy đã được Trương Lương luyện tập, đã đi vào máu thịt cốt
tủy của ông ngay từ bé và đã lộ diện khi gặp quí nhân bên bờ
sông. Sự thành công của Trương Lương không phải bởi cơ may gặp
được thầy giỏi, nhưng phần lớn là nhờ nhân đức khiêm nhường tùng
phục vụ, một nhân đức nhân bản mà ông đã luyện tập đến chín mùi.
Bài Tin Mừng hôm nay cũng cho chúng ta thấy, không phải bỗng
dưng mà Đức Mẹ thốt lên được hai tiếng “xin vâng” với sứ
thần. Đức Mẹ cũng có thắc mắc nghi nan. Nhưng một khi biết được
thánh ý Chúa và nhờ nhân đức khiêm nhường vâng phục đã
được Đức Mẹ tập luyện ngay từ thuở bé, đã trở nên máu thịt cốt
tủy của Mẹ. Bởi thế, cho dù Đức Mẹ đã có chương trình riêng.
Chương trình đó là sống độc thân trinh khiết, là một chương
trình tốt đẹp. Nhưng khi Thiên Chúa ngỏ ý muốn Đức Mẹ theo
chương trình của Ngài, Đức Mẹ đã mau mắn từ bỏ chương trình
riêng tư của mình để đi vào chương trình của Thiên Chúa.
Nhân đức “khiêm nhường vâng phục” mà Đức Mẹ luyện
tập là một nhân đức nhân bản, nhân đức nhân bản này đã được bén
rễ trong nhân đức đối thần là Đức tin. Nhờ tập luyện thường
xuyên và kiên trì nên nhân đức này đã thắng vượt những thắc mắc
nghi nan của Đức Mẹ. Khiêm nhường vâng phục đã trở
nên một thái độ kiên định vững chắc giúp Đức Mẹ vâng phục Thiên
Chúa suốt cả cuộc đời.
Sách Giáo Lý 1992 đã nói rõ: “Nhân đức nhân bản là những thái
độ vững chắc, những xu hướng kiên trì, những trọn hảo thường
xuyên của lý trí và ý chí, nhằm điều khiển các hành vi của chúng
ta, điều tiết các đam mê của chúng ta, và hướng dẫn nếp sống của
chúng ta phù hợp với lý trí và đức tin. Các nhân đức này đem lại
cho con người sự thoải mái, sự tự chủ và niềm vui, để sống một
đời sống tốt lành về mặt luân lý” (số 1804). “Nhân đức
nhân bản được bén rễ trong nhân đức đối thần, là những nhân đức
thích ứng các tài năng của con người để dự phần vào bản tính
Thiên Chúa” (số 1812).
Chính Tràng Kinh Mân côi là tràng hoa hồng thơm ngát, là tràng
chuỗi ngọc quí giá và hữu hiệu trình bày cho chúng ta con đường
“khiêm nhường vâng phục” thánh ý Thiên Chúa của Đức Mẹ.
Nếu chúng ta đọc kinh Mân côi cách liên lỉ, đọc
không ngừng nghỉ, đọc mọi nơi mọi lúc mọi hoàn cảnh thì nhân đức
“khiêm nhường vâng phục” thánh ý Thiên Chúa thấm nhập vào thân
xác, linh hồn; là thái độ, là phương châm hành động của mỗi
người chúng ta. Có như thế mỗi người chúng ta mới có thể “vâng
phục” Thánh ý Thiên Chúa một cách hoàn toàn, vâng phục trong
từng phút giây, vâng phục suốt cả cuộc đời như Đức Mẹ. Amen.
Thomas Nguyễn
Văn Hiệp
[1] x.
NGUYỄN LONG
THAO, “Giải
Thích Từ Mân Côi - Mai Khôi - Môi Khôi - Văn Côi Trong Kinh Sách
Công Giáo”,
vietcatholic.org
[2] x. LM HỒ
BẠT XÁI, Hạt Giống Nẩy Mầm; LM NGUYỄN VĂN TRINH, Phụng
Vụ Chư Thánh
|
VỀ MỤC LỤC |
|
MỘT BÍ QUYẾT HẠNH PHÚC
|
Ông ‘nổi tiếng’ là học rất dốt. Thi đâu
trượt đấy trong nhiều năm trời. Thế nhưng cuộc đời của ông lại
tỏa sáng trên toàn thế giới vì ông đã chạm vào tâm hồn nhiều thế
hệ. Tầm vóc vĩ đại của một người đơn sơ như ông đã đạt đến đỉnh
cao khi ông được chọn làm gương mẫu đời sống cho những nhà lãnh
đạo tinh thần của Hội Thánh trong vai trò ‘cha chánh xứ’. Trong
những bút tích còn lưu giữ của ông, người ta tìm thấy nhiều điều
khôn ngoan dẫn đến hạnh phúc. Xin được trích lại nơi đây một ‘bí
quyết để hạnh phúc’. Ông viết: “Con người có một điều tuyệt
đẹp, đó là khả năng cầu nguyện và yêu thương. Bạn cầu nguyện,
bạn yêu thương, đây chính là hạnh phúc của con người trên trái
đất này…. Cầu nguyện là nếm hưởng trước Thiên Đàng.”[1]
(Gioan-Maria Vianney)
Cầu nguyện là một bí quyết để hạnh phúc. Ai
đã có kinh nghiệm trong đời sống cầu nguyện sẽ hiểu rõ điều này.
Muốn sử dụng hiệu quả một bí quyết thì phải có phương pháp đúng
đắn, khoa học. Phương pháp càng tốt thì càng đạt hiệu quả nhiều.
Cầu nguyện càng tích cực thì hạnh phúc càng kết trái đơm bông
dồi dào.
+++
Họ là hai người thuộc hai lối sống, hai
hoàn cảnh, hai môi trường nghề nghiệp, hai quan niệm khác nhau,
nhưng cả hai đều có chung một mục đích trong đời: đi tìm hạnh
phúc. May thay, cả hai đều biết đến và thực hành ‘bí quyết để
hạnh phúc’ trên, nhưng xem ra mức độ hạnh phúc họ đạt được khá
khác biệt.
Khoảng 5 giờ chiều mỗi ngày, Cần thu xếp
cửa hàng tạp hóa. Công việc đôi lúc cũng dồn dập đến mệt lả
nhưng nói chung làm chủ tiệm thì vẫn chủ động hơn về giờ giấc.
Tiệm của mình, mình muốn đóng cửa lúc nào tùy mình. Sau cơm tối,
Cần bật tivi lên xem thời sự, nghe ca nhạc hoặc coi một cuốn
phim nào đó giải trí. Thói quen cầu nguyện trước khi ngủ là món
quà quý giá mẹ Cần đã để lại cho con. Quý giá vì nó hỗ trợ tinh
thần cho Cần những lúc căng thẳng giữa dòng đời nổi trôi phức
tạp này. Ngồi ngay ngắn, Cần bắt đầu cầu nguyện: “Chúa ơi, hôm
nay con mệt quá. Dạo này kinh tế khủng hoảng, làm ăn khó có đồng
lời như hồi trước. Không biết bao giờ mới đủ tiền xây căn nhà
đàng hoàng mà lấy vợ đây? Xin giúp cho con có thêm khách hàng
Chúa nhé. Xin Chúa cũng chữa cho con cái bệnh nhức đầu, chắc tại
con suy nghĩ nhiều quá nên bị stress. À, xin Chúa soi sáng cho
bà chủ tiệm bên cạnh nhận ra lỗi của bà ta sáng nay. Con không
cần lời xin lỗi nhưng…. Con biết Chúa dạy con phải yêu thương cả
kẻ thù nữa nhưng bà ta quả là rất khó chịu. Ngày nào cũng gặp
một người như thế thật là dễ mất bình an. …”
Nhờ ít phút cầu nguyện mỗi đêm như thế mà
Cần cảm thấy bớt ức chế. Ít ra cũng được giải tỏa phần nào về
tâm lý khi có Chúa kiên nhẫn lắng nghe. Dẫu vậy, phương pháp cầu
nguyện này không có khả năng tạo được sự bình an vững chắc trong
lòng Cần giữa biển đời. Con thuyền tâm hồn dễ chòng chành, chao
đảo, quay quắt khi sóng gió nổi lên.
Hân rời quê lên thành phố mưu sinh. Dưới
quê việc làm khan hiếm, gia đình chỉ có miếng đất nhỏ nên làm
chẳng đủ ăn. Cha mẹ Hân cũng đã lớn tuổi, lại còn mấy đứa em nhỏ
đang học trường làng. Tụi nó đều muốn nghỉ học nhưng Hân cương
quyết không cho. Hân muốn các em sau này có tương lai sáng sủa
hơn mình. Lên thành phố, Hân tìm hỏi bạn bè và được nhận vào một
nhà hàng lớn. Công việc chính của Hân là rửa chén, lau chùi nhà
vệ sinh và làm các việc vặt khác nếu chủ cần đến. Có những lúc
đông khách, Hân làm việc quên cả ăn uống, đến gần nửa đêm mới
trở về căn nhà trọ cách đó nửa tiếng đi bộ.Về đến nhà, tắm rửa
một chút thì mệt lắm rồi. Không biết là hên hay xui, Hân không
có tivi mà chỉ có cái radio nhỏ nghe tin tức nên không ‘phải’
thức khuya để …luyện phim chưởng. Trước lúc đi ngủ, Hân có thói
quen ngồi nhắm mắt cầu nguyện. Thỉnh thoảng có ngày mệt mỏi quá
thì nằm nói chuyện với Chúa và ngủ lúc nào không biết. Từ kinh
nghiệm của gia đình cũng như bản thân, mặc dù có những cảm thấy
khô khan hoặc làm biếng, cầu nguyện đối với Hân là việc quan
trọng phải làm mỗi ngày. Hân thường thủ thỉ với Chúa như thế
này: “Cha ơi, một ngày lại đang dần khép lại. Cảm ơn Cha đã giúp
con giữ giờ tâm sự này với Cha để con được bình an. Cảm ơn Cha
vẫn duy trì sự sống và đức tin cho con. Cảm ơn Cha soi sáng cho
con nhận ra sự hiện diện của Cha trong các biến cố ngày hôm nay.
Ui, nếu mà không có Cha giúp con nhanh tay chụp lại cái đĩa thì
tiền lương của con lại bị trừ mất một ít! Cảm ơn Cha giúp con
kiên nhẫn với chị nấu bếp khi chị ấy nổi nóng la con. Cảm ơn Cha
cho con biết làm chứng cho Cha qua nụ cười của con. Có mấy
người nói rằng con tuy không đẹp nhưng con có duyên nhờ nụ cười.
Hì hì hì…. Cha cũng khéo giúp con qua mấy lời khen ấy quá nhỉ!
À, Cha ơi, bệnh chị họ của con vẫn chưa thuyên giảm. Con thấy
lòng mình lo lắng nhiều. Con xin Cha giúp con trông cậy và phó
thác nơi Cha nhiều hơn. Mong sao việc cầu nguyện của con không
phải để đòi Cha phải thay đổi theo ý con nhưng để con được biến
đổi theo tầm nhìn sâu thẳm và toàn diện của Cha vì cuối cùng chỉ
có Cha là người thương chúng con nhất và hiểu rõ chúng con cần
ơn gì nhất. Con xin dâng chứng đau lưng kinh niên của con như
một hy sinh nhỏ bé để hiệp thông với người bạn thân đang gặp
khủng hoảng. Và nếu hợp ý Cha, trong những ơn mà Cha ban cho con
hôm nay, con nguyện tặng những ơn cần thiết cho người ấy. Cha,
con xin lỗi vì hôm nay có mấy lần con xét đoán người khác trong
tư tưởng. Con thấy mình còn nông cạn, hẹp hòi quá! À, thế này,
xin Cha tiếp tục nhắc con biết sống cầu nguyện thêm trong ngày,
đặc biệt là lúc con làm việc, để con gặp gỡ Cha nhiều hơn nữa.
Như thế con sẽ bình an hơn Cha nhỉ! Bây giờ con đi ngủ đây! Úi,
suýt nữa con quên cầu nguyện theo lời mẹ dạy: Cho những ai không
biết tầm quan trọng của cầu nguyện, con xin cầu nguyện thay cho
họ. Cho những ai không biết tạ ơn Cha, con xin tạ ơn thay cho
họ. Cho bản thân con, xin Cha giúp con đừng bao giờ dại dột bỏ
cầu nguyện. Con xin phó thác hết mọi sự cho Cha. Cảm ơn Cha vẫn
luôn yêu con. Con cũng yêu Cha!” Rồi, khò khò khò ò ò ò …
Nhờ thái độ và cách cầu nguyện thực tế,
tích cực này mà Hân vững tâm, lạc quan trong cuộc sống.
+++
Còn nhiều câu chuyện về cầu nguyện hữu ích
khác mà ta có thể kể cho nhau nghe. Vì thời gian có hạn nên xin
được khép lại bài này nơi Thầy Giêsu, đỉnh cao và trung tâm của
cầu nguyện.
+++
Trước khi quyết định một việc gì, Thầy đến
gặp Cha. Điều này chứng tỏ cầu nguyện có thể giúp định hướng và
soi sáng cho ta. Bắt đầu một ngày mới, Thầy đến gặp Cha. Như thế
có nghĩa là cầu nguyện giúp ta khởi sự ngày mới trong Thần Khí
Thiên Chúa. Ngày sống bận rộn trăm công ngàn việc của Thầy được
đặt hoàn toàn trong sự hiệp thông với Thánh Ý của Cha. Điều này
chứng minh rằng cầu nguyện giúp ta dễ nhận biết và sống đúng hơn
thánh ý Thiên Chúa. Sau một ngày vất vả, Thầy lại dành một không
gian và thời gian riêng tư thân mật để gặp Cha. Như thế cầu
nguyện cho ta sự nghỉ ngơi bổ dưỡng an lành. Những lúc đối diện
với cám dỗ, khó khăn, hiểu lầm, chê bai, ganh ghét, vu khống,
thù hận, bách hại…, Thầy nắm chặt lấy tay Cha. Điều này cho thấy
cầu nguyện đem lại sức mạnh và vững tâm…. Còn nhiều khía cạnh bổ
ích khác về cầu nguyện trong cuộc sống của Thầy mà ta có thể
thêm vào đây.
Bạn thân mến, sở dĩ Gioan-Maria Vianney
hiểu được “cầu nguyện là hưởng nếm trước Thiên Đàng” là
vì ông đã khôn ngoan làm theo lời Thầy Giêsu dạy: “Anh em
hãy cầu nguyện luôn.” (Lc 18:1, 21:36; Eph 6:18; 1 Thes
5:16-18)
Để đời ta bình an và hạnh phúc hơn, mình
cùng làm theo lời Thầy dạy, bạn nhé.
Giuse Việt, O.Carm.
Đọc trong blog:
http://only3minutes.wordpress.com/tieng-viet/mot-bi-quyet-hanh-phuc/
[1]
“L’homme a une belle fonction, celle de prier er
d’aimer…. Vous priez, vous aimez: voilà le bonheur de
l’homme sur la terre!... La prière est un avant-gout du
ciel, un ecoulement du paradis.”
|
VỀ MỤC LỤC |
|
PHẬN VỤ TÔNG ĐỒ NGƯỚI TÍN HỮU GIÁO
DÂN TRONG CÔNG ĐỒNG VATICAN II
|
NGUYỄN HỌC TẬP
(Viết theo tài liệu
Thông Tấn Xã Toà Thánh Vatican, www.zenit.org, 06.12.2005, nhân
dịp kỷ niệm 40 năm Công Đồng Vatican II đã kết thúc).
1 - Điều gì đã khiến cho
các Nghị Phụ Công Đồng Vatican II đã áp dụng một nhãn quan rộng
rãi hơn về phận vụ tông đồ của người tín hữu giáo dân, được thể
hiện lên trong Nghị Quyết Apostolicam Actuositatem
Có hai yếu tố: đó là các
dữ kiện và yếu tố thần học.
a ) Các dữ
kiện:
Trước hết đứng trước
tình trạng phong trào thế tục hoá ( secularisazione
) và chống đối hàng giáo phẩm (anticlericalismo),
các linh mục và giáo sĩ trên thực tế không thể hiện diện
trong nhiều lãnh vực xã hội ở nhiều Quốc Gia trên thế giới.
Và do đó, đây là yếu tố
thứ hai, nếu Giáo Hội muốn hiện diện trong những môi trường đó,
Giáo Hội chỉ có thể hiện diện qua các tín hữu giáo dân
Trong thời Công Đồng
Vatican II vấn đề đã trở thành quan trọng khến cho nhiều Giáo
Hội phải là " Giáo Hội thầm lặng " phía bên kia lằn ranh
giới giữa thế giới tự do và thế giới độc tài vô thần và phi
nhân, nhưng một cách nào đó chúng ta cũng có " Giáo Hội thầm
lặng " cả ở những Quốc Gia Tây Phương: Giáo Hội nói, nhưng
nhiều người không muốn nghe.
b) Yếu tố thần
học:
Yếu tố thần học đó là
cách hiểu biết mới với ý nghĩa Giáo Hội là mầu nhiệm thông
hiệp , mà chúng ta gặp được thể hiện lên trong Hiến
Chế Lumen Gentium.
Thay gì Giáo Hội được
diễn tả như là hình một kim tự tháp đảo ngược, Giáo Hội của Công
Đồng Vatican II được hiểu như là một cấu trúc phẩm trật, với các
phận vụ và động tác khác nhau, nhưng trong đó mỗi thành phần đều
có địa vị và quyền hạn căn bản như nhau.
Trong ý nghĩa đó, Giáo
Hội được diễn tả như là " Thân Thể Chúa Ki Tô ", là "
Cộng Đồng Dân Chúa ".
Điều quan trọng căn bản,
đó là địa vị và phân vụ của các thành phần Giáo Hội, đều
thoát xuất từ Phép Rửa, làm cho mọi người có quyền và bổn
phận tham gia vào sứ mạng của Giáo Hội.
Từ ngữ tổng quát để ám
chỉ sứ mạng đó là " phận vụ tông đồ ". Và vì đó
việc tham dự của người tín hữu giáo dân vào sứ mạng của Giáo Hội
được gọi là " phận vụ hay sứ mạng tông đồ của người tín
hữu giáo dân ".
Một điều khác cũng không
kém phần quan trọng, như Hiến Chế Lumen Gentium đã nói
rõ, người tín hữu giáo dân cũng như giáo sĩ và tu sĩ, tất cả
đều được Chúa kêu gọi hãy hưóng đến mức thánh thiện cao nhứt,
hãy trở nên thánh. Đó là những gì Hiến Chế đã xác nhận rõ
rệt trong chương V, trong khi đó thì tình trạng người tín hữu
giáo dân liên hệ với Giáo Hội và với sứ mạng của mình được thể
hiện nơi chương IV.
Hiểu như vậy, chúng ta
thấy được Nghị Quyết Apostolicam Actuositatem là bản văn
diễn tả cách áp dụng thực tế và có chương trình các nguyên tắc
đẵ được Hiến Chế Lumen Gentium tuyên bố. Hai tài liệu bổ
túc cho nhau.
2 - Đâu là quyền và bổn
phận của người tín hữu giáo dân trong phận vụ tông đồ mà Nghị
Quyết Apostolicam Actuositatem đã đề cập đến, trong cuộc sống
hằng ngày ?
Khác với vị thế của thời
gian trước Công Đồng Vatican II về việc tông đồ của người tín
hữu giáo dân, theo đó thì việc tông đồ của người tín hữu giáo
dân là sự tham dự, đáp ứng đối với sự ủy nhiệm của hàng giáo
phẩm, Công Đồng Vatican II dạy rằng người tín hữu giáo dân có
quyền và bổn phận làm phát triển các động tác tông đồ, đơn thuần
bởi vì họ là thành phần của Giáo Hội.
Lời kêu gọi thẻ hiện
phận vụ tông đồ được Chúa Ki Tô kêu gọi người tín hữu giáo dân
và được đặt trên nền tảng Phép Rửa và Phép Thêm Sức.
Phận vụ tông đồ của
người tín hữu giáo dân không phải là những gì được hàng giáo
phẩm ủy thác cho, mặc dầu dĩ nhiên để hành động nhân danh Giáo
Hội, người tín hữu giáo dân phải được giáo quyền cho phép và
nhứt là được hàng giáo phẩm dạy bảo cho, đặc biệt đối với những
gì có liên quan đến lãnh vực tín lý và luân lý.
Sau những gì được đề
cập, Công Đồng Vatican II xác nhận thi hành việc tông đồ là
động tác tự lập của người tín hữu giáo dân, có thể được thể
hiện dưới hai hình thức: tông đồ cá nhân và tông đồ dưới hình
thức hội đoàn.
Tất cả mọi tín hữu giáo
dân, nam cũng như nữ, có tham dự vào việc tông đồ tập thể hay
không, đều được mời gọi hãy thực hiện việc tông đồ cá nhân trong
cuộc sống của mình.
Người tín hữu giáo dân
được mời gọi thực hiện nhãn quang nầy của việc tông đồ trong đời
sống hằng ngày của mình, theo cách chuẩn đinh cá nhân của mình.
Thiên Chúa gọi chúng ta
thế nào, ở đây và hiện thời, để phục vụ người thân cận chúng ta
và làm phát triển công trình cứu rổi của Chúa Ki Tô, sứ mạng của
Giáo Hội ?
Thái độ trả lời cá nhân,
được đặt trên chuẩn định ơn gọi, nói lên cho chúng ta hình thức
cá biệt phận vụ tông đồ mà người tín hữu giáo dân liên hệ sẽ thể
hiện. Những người khác có thể giúp cho ý kiến, lời khuyên bảo,
chuẩn định những phương thức có thể thực hiện được. Nhưng nói
cho cùng, chính việc chuẩn định cá nhân ơn gọi là điều mà chủ
thể liên hệ phải chính mình đứng ra thực hiện.
3 - Theo tài liệu
Apostolicam Actuositatem, người tín hữu giào dân không nên chỉ
giới hạn việc tông đồ của mình vào lãnh vực họ đạo, nhưng họ
được khuyến khích hãy trải rộng động tác tông đồ của mình ra cả
tầm mức Quốc Gia và đến cả tầm mức Quốc Tế nữa. Điều đó có nghĩa
là gì ?
Họ đạo không phải là môi
trường dành riêng và đặc thù, nơi người tín hữu giáo dân thể
hiên sứ mạng phận vụ tông đồ của mình. Cũng vậy đối với bất cứ
các cấu trúc hay cơ chế nào khác của Giáo Hội.
Động tác tông đồ của
người tín hữu giáo dân trước tiên được nhằm vào lãnh vực trần
thế, và đó là nơi mình phải tác động, như những gì Nghị Quyết
Actuositatem Apostolicam nhằm nói đến:
- " Người tín hữu
giáo dân phải đảm nhận việc canh tân trật tự trần thế như là bổn
phận cá biệt của chính mình " ( n. 7).
Tầm mức quan trọng quá
đáng hiện nay dành cho động tác của người tín hữu giáo dân trong
nội bộ cấu trúc và cơ chế Giáo Hội đã có từ thập niên '70. Công
Đồng Vatican II đã đề cập đến ít, quá ít về chức năng (
ministère ) của người tín hữu giáo dân.
Đối với việc tham dự của
người tín hữu giáo dân vào sứ mạng của Giáo Hội, Công Đồng đề
cập đến nhứt là phận vụ tông đồ của người tín hữu giáo dân, bằng
cách xác nhận một cách rõ ràng rằng việc chính yếu phận vụ tông
đồ của họ là nhằm đem Phúc Âm vào trần thế.
4 - Ý thức đến sự giảm
thiểu số lượng linh mục, nhứt là ở các Quốc Gia Tây Phương, Nghị
Qquyết Apostolicam Actuositatem có tầm quan trọng nào ?
Sự giàm thiểu số lượng
linh mục và tu sĩ làm cho vai trò của người tín hữu giáo dân
càng trở nên quan trọng hơn trong việc tạo lại được trớn sức
mạnh tiến mau lên của Giáo Hội.
Nhưng chúng ta cần xác
định rõ: đó là chúng ta đang nói đến các hình thức chức năng
khác nhau, ví dụ như thừa tác viên Phép Thánh Thể, các giáo lý
viên giáo dân và những gì tương tợ như vậy, chúng ta đang nói
đến chức năng chớ không đang nói đến phận vụ tông đồ.
Sự cần thiết phai chạm
trán với trào lưu trần tục hóa " sécularisation " của xã
hội dựa vào động tác tông đồ của các tín hữu giáo dân là điều
kiện phải có, không tùy thuộc gì vào việc thiếu thốn nhân sự
giáo sĩ và tu sĩ. Và điều cần thiết đòi buộc đó, ai cũng thấy
rõ, càng ngày càng trở nên khẩn cấp.
5 - Động tác tông đồ của
gia đình là gì, mà Công Đồng Vatican II đề cập đến?
Cách diễn tả vừa kể mang
nhiều ý nghĩa khác nhau.
a ) Một trong những
động tác " cho gia đình " đó, chinh yếu là việc chuyên
cần dấn thân để giáo huấn và nâng đỡ các gia đình và hôn nhân.
Đây là điều cấp thiết ai
cũng thấy được, theo bản thống kê, hiện nay ở Hoa Kỳ phân nữa
các cuộc hôn nhân được kết thúc bằng ly dị và áp lực rất nặng nề
cho việc hợp thức hoá các trường hợp đồng tính luyến ái, ở một
vài nơi trào lưu đó cũng thắng thế được.
b) Động tác tông đồ "
của gia đình " có liên quan đến việc chuyên cần của cặp
vợ chồng và của gia đình, tác động việc tông dồ với tư cách là
gia đình, trong khi trợ giúp người thân cận và bạn bè bằng các
gương mẫu tốt lành và bằng lời nói.
Các gia đình cũng có thể
và phải liên kết nhau để liên đới hỗ trợ nhau.
Đức Thánh Cha Gioan
Phaolồ II đã
đề cập rất nhiều về vấn đề nầy và nói rất hay trong Huấn Dụ "
Familiaris Consortio " của ngài.
6 - Người tín hữu giáo
dân có vai trò trong việc huấn luyện tông đồ và về đàng thiêng
liêng, liên quan đến ơn gọi tông đồ của mình không?
Huấn luyện tông đồ là
điều thiết yếu tuyệt đối và không thể tách rời khỏi việc huấn
luyện về đàng thiêng liêng.
Một trong những sự cộng
tác qúy báu mà các hiệp, tổ chức mới, như các Phong Trào Giáo
Dân ( Movimenti laici ), Công Tác của Chúa ( Opus Dei ), Thông
Hiệp và Giải Thoát ( Comunione e Liberazione ), Phong
Trào Tân Tòng ( Neocatecumenali ) và các tổ chức khác nữa,
cung cấp cho đó là việc chuyên cần chăm lo về việc huấn luyện
giáo dân.
Điều vừa kể có tầm quan
trọng gấp đôi, bởi vì gần như tất cả các việc huấn luyện người
tín hữu giào dân được giao cho chức năng của các giáo dân. Dĩ
nhiên, các thừa tác viên giáo dân phải được huấn luyện, và phải
được huấn luyện tốt đẹp.
Nhưng ngay cả ai đặt tầm
quan trọng vào việc tông đồ giữa trần thế cũng cần có được một
nền giáo dục vững chắc và liên tục . Nhưng rât tiếc là có nhiểu
trường hợp điều đó không được thực hiện đầy đủ. Nhiều trường hợp
có vẻ như các họ đạo và các trường công giáo không không đặt tầm
quan trọng, ưu tiên đủ cho vấn đề vừa kể.
Một vần đề thiết yếu
khác và thường khi việc huấn luyện người tín hữu giáo dân không
quan tâm đến, mà Đức Thánh Cha Gioan Phaolồ II đã đề cập
đến trong Thông Điệp Christifideles Laici của ngài. Đó là
việc huấn luyện người tín hữu giáo dân, hay ít là huấn luyện mà
người tín hữu giáo dân phải có, phải được coi như là một ơn gọi:
- " Việc huấn
luyện người tín hữu giáo dân có mục đích căn bản là để khám phá
ra càng lúc càng rõ hơn ơn gọi của mình và làm cho mình luôn
luôn sẵn sàng hơn và đại lượng hơn sống ơn gọi đó trong việc chu
toàn sứ mạng của chính mình " ( n. 58).
Đức Thánh Cha đang nói
về sự huấn luyện các tín hữu giáo dân để họ chuẩn định được ơn
gọi. Các nhóm và các tổ chức vừa được đề cập, và hy vọng sẽ còn
có nhiều tổ chức khác nữa sẽ được thiết lập cùng nhằm mục đích,
có lẽ hiểu được ngụ ý của Đức Thánh Cha muốn nói đến.
Ước gì những cá nhân và
tổ chức khác cũng nhận thức được như vậy, hàng gíáo phẩm, các
học viện công giáo, cũng như các tổ chức và hội đoàn.
Phận vụ tông đồ của
người tín hữu giáo dân: đem ánh sáng Phúc Âm vào giữa trần thế.
|
VỀ MỤC LỤC |
|
NGỤ NGÔN ÔNG CHỦ VƯỜN NHO
|
(Suy niệm Phúc Âm Chúa Nhật 25
Thường niên A . Mat 20:1-16a)
Bác sĩ Nguyễn Tiến Cảnh, MD
“20- 1Nước Trời giống
như chuyện ông chủ vườn nho, vừa tảng sáng ông ra mướn thợ vào
làm việc trong vườn nho của mình. 2Sau khi đã thỏa
thuận với thợ là tiền công mỗi ngày là một quan tiền, ông sai họ
vào vườn nho làm việc. 3Khoảng giờ thứ ba, ông lại trở
ra, thấy những người khác đang đứng không ngoài chợ. 4Ông
cũng bảo họ: “Cả các anh nữa, hãy vào làm, tôi sẽ trả lương cho
các anh hợp lẽ công bằng”. 5Họ liền đi. Khoảng giờ thứ 6,
rồi giờ thứ 9, ông lại trở ra và cũng làm y như vậy. 6Khoảng
giờ thứ 11, ông trở ra và thấy còn những người khác đứng đó, ông
nói với họ: “Sao các anh đứng đây suốt ngày không làm gì hết?”
7Họ đáp: “Vì không ai mướn chúng tôi”. Ông bảo họ: “Cả
các anh nữa, hãy đi vào làm vườn nho cho tôi!” 8Chiều
đến, ông chủ vườn nho bảo người quản lý: “Anh gọi thợ lại và trả
tiền công cho họ, bắt đầu từ những người vào làm sau chót tới
những người vào làm trước nhất”. 9Vậy những người làm giờ
thứ 11 tiến lại và lãnh được mỗi người một quan tiền. 10Khi
tới lượt những người vào làm trước nhất, họ tưởng sẽ được lãnh
nhiều hơn, nhưng cũng chỉ lãnh được mỗi người một quan tiền.
11Họ vừa lãnh tiền vừa cằn nhằn với gia chủ:
12“Mấy người
sau chót này chỉ làm có 1 giờ mà ông lại coi họ ngang hàng với
chúng tôi là những người đã phải làm việc cực nhọc suốt cả ngày,
lại còn bị nắng trời thiêu đốt”. 13Ông chủ trả lời cho
một người trong bọn họ: “Này bạn, tôi đâu có ăn gian, xử bất
công với bạn. Bạn đã chẳng thỏa thuận với tôi tiền công là một
quan tiền sao? 14 Cầm lấy phần của bạn mà đi. Còn tôi,
tôi muốn cho người vào làm sau chót này cũng được bằng bạn đó.
15Chẳng lẽ tôi lại không có quyền tự do định đoạt về
những gì là của tôi hay sao? Hay vì thấy tôi tốt bụng mà bạn đâm
ra ganh tức?” 16Thế là những kẻ đứng chót sẽ được lên
hàng đầu, còn những kẻ đứng đầu sẽ phải xuống hàng chót.16a“Vì
kẻ được gọi thì nhiều mà người được chọn thì ít”. (Mat.20:1-16a)
***
Đọc câu chuyện Phúc Âm trên đây,
với con mắt người thường, chúng ta cảm thấy khó chịu, có cái gì
như bất nhẫn vì tư cách của ông chủ vườn nho đối với đám thợ.
Nhưng với con mắt đức tin của người Kitô hữu và sự khôn ngoan
của chúa Giêsu, chúng ta phải nghĩ thế nào?
Ý NIỆM MỚI VỀ TƯỚC VỊ VÀ SỰ TƯỞNG THƯỞNG
Qua câu chuyện ngụ ngôn, Chúa
Giêsu đã cho chúng ta thấy những sự thật thâm kín bên trong được
diễn tả bằng những hình ảnh đơn giản nhưng lại đập mạnh vào tâm
trí chúng ta. Trong cựu ước, dùng ngụ ngôn làm biểu tượng qua
những câu chuyện thực tế xẩy ra hàng ngày là một phương pháp
giáo huấn phổ quát để đưa ra những bài học về luân lý đạo đức
cần được áp dụng trong đời sống. Đa số khán thính giả khi nghe
những câu chuyện như vậy thì tự mình rút ra kết luận cho mình.
Trái lại vào thời các thánh tông đồ, các thánh sử đã diễn nghĩa
câu chuyện của chúa Giêsu. Thường là cắt nghĩa một cách gián
tiếp, theo nghĩa bóng; nhưng những người nghe câu chuyện Chúa
nói ra, lại hiểu theo nghĩa đen nên không thể bắt được ý khôn
ngoan mà chúa muốn ám chỉ.
Qua câu chuyện ông chủ vườn nho
trả tiền công cho thợ (Mathew 20:1-16a), chúa Giêsu đã nêu ra
cho chúng ta một tư tưởng mới để sửa đổi một ý niệm sai lầm về
tước vị và sự tưởng thưởng. Câu chuyện phản ảnh
bối cảnh kinh tế xã hội ở Palestine vào thời chúa Giêsu. Câu
chuyện có vẻ bất nhẫn và xem ra thiếu công bằng, bất công đối
với chúng ta.
THIÊN CHÚA LÀ TÌNH YÊU BAO LA
Để bắt nắm được ý
nghĩa thực của câu chuyện, chúng ta cần để ý theo dõi sự liên
tục của những biến cố xẩy ra từ đầu đến cuối của câu chuyện ngụ
ngôn. Ông chủ vườn nho mướn một số thợ lúc 6:00 giờ sáng với giá
1 đồng là tiền công cho cả ngày. Như vậy chúng ta đã biết
là tiền công một ngày là 1 đồng, và sự quảng đại của ông chủ khi
ông mướn thợ ở những giờ khác nhau. Phải chăng ông chủ đã động
lòng thương, băn khoăn nỗi niềm trắc ẩn đối với những người thất
nghiệp và gia đình họ, ngược lại với nhu cầu cần thợ của ông?
Câu hỏi này đã tự nó đưa đến kết luận bằng cách mở rộng vấn đề.
Những người thợ được mướn đầu tiên
lúc 6:00giờ sáng đã được trả công hợp lý và đúng lẽ công bằng vì
họ đã chấp nhận giao kèo như vậy. Sự than phiền của họ về những
người thợ được mướn sau cùng lại được trả tiền công bằng họ xem
ra là không cần thiết, bởi vì chắc chắn ông chủ có quyền cho
những người thợ được mướn sau cùng thêm tiền vì lòng quảng đại
của ông, vì ông tội nghiệp họ phải đứng chờ đợi suốt ngày nóng
bức để mong có người thuê đi làm. Có người đã cố gắng làm nhẹ
bớt đi sự thiếu công bằng của ông chủ bằng cách cắt nghĩa là có
lẽ giá trị của việc làm ở những giờ phút cuối cùng trong ngày
cực nhọc bằng cả ngày như những người thợ khác. Người khác thì
hoàn toàn dựa vào lý, cắt nghĩa là đã mướn thế nào thì trả như
vậy, giao kèo là giao kèo. Do đó những người thợ được thuê từ
sáng sớm không có lý do gì để than phiền về tiền lương của mình.
Nhưng về phương diện hợp lý và hoàn toàn con người, thì phần nào
họ có lý do để than phiền. Tuy nhiên, câu chuyện ngụ ngôn trong
bài phúc âm này không có ý nhắm vào vấn đề quản trị lao động có
tính đạo đức và công bằng, mà mục đích là nói về bản tính nguyên
thủy của Thiên Chúa là sự quảng đại, lòng thương yêu trắc ẩn bao
la của Ngài và tính cách quyết định của Thiên Chúa về Nước Trời.
ĐỪNG GHEN TỨC VÌ THẤY ÔNG CHỦ TỐT BỤNG
Thời gian xẩy ra câu chuyện cũng
được diễn tả ở Phúc âm Mathew 19: 30 “nhiều kẻ đứng đầu sẽ
phải xuống hàng chót, và nhiều kẻ đứng chót sẽ được đưa lên hàng
đầu”, tương tự như ở đoạn 20:8-9, những người thợ được mướn
sau cùng vào buổi chiều không phải được trả lương ít hơn mà lại
được trả bằng những người được thuê từ sáng sớm vì sự cố gắng,
chờ mong của họ. Câu chuyện đã đưa chúng ta tới đỉnh chót của
vấn đề ở câu 15 với câu hỏi “Chẳng lẽ tôi lại không có quyền
tự định đoạt về những gì là của tôi hay sao? Hay vì thấy tôi tốt
bụng mà bạn sinh lòng ghen tức hay sao? Vì vậy ông chủ vườn
nho có quyển trả lương cho thợ không phải chỉ dựa vào công trình
của thợ mà còn dựa vào lòng thương yêu trắc ẩn của ông ta đối
với họ nữa.
LÒNG QUẢNG ĐẠI CỦA CHÚA THÌ VÔ BIÊN, TÌNH YÊU CỦA CHÚA THÌ PHI
THƯỜNG .
Tại sao ông chủ tốt bụng, có lòng
quảng đại lại bị kết án là bất công? Bởi vì lòng quảng đại của
Chúa thì vô biên, tình yêu thương của Chúa thì phi thường. Đây
là tư tưởng đã được nói đến trong Cựu Ước về Thiên Chúa là đấng
sáng tạo, người tốt lành và quảng đại với tất cả mọi người biết
trở về với Người. Đó là Thiên Chúa mà chúa Giêsu tin yêu và sống
với Người. Nhưng trong con người chúa Giêsu, niềm thương yêu
trắc ẩn, lòng nhân hậu và sự tốt lành có tính thiên chúa ấy đã
vượt quá sự công bằng của thiên chúa. Do đó những ai theo chúa
Giêsu để làm môn đệ và bạn của Ngài phải noi gương bắt chước
lòng trắc ẩn phi thường và sự quảng đại vô biên ấy của ngài mà
không bao giờ được thắc mắc, đặt vấn đề, từ chối hay tị hiềm gì
cả.
Thiên Chúa là Cha của Đức Giêsu
Kitô đã biểu lộ đặc tính của Ngài cho chúng ta trong bài đọc 1
hôm nay qua tiên tri Isaiah: “Vì ý nghĩ của ta không phải là
ý nghĩ của ngươi –Thiên Chúa phán- cũng như cách thức của ta
không phải là cách thức của các ngươi. Vì trời thì cao hơn đất,
cho nên cách thức ta làm cao hơn cách của các ngươi cũng
như tư tưởng của ta cao hơn tư tưởng của các ngươi” (Isaiah
55:8-9)
DANH TỪ “CHỨC VỊ” KHÔNG CÓ TRONG NGÔN NGỮ NƯỚC TRỜI
Có lẽ nhiều người trong chúng ta
đã có nhận xét sai lầm giống như những người thợ được thuê từ
sáng sớm ở câu 12. Đã bao nhiêu lần chúng ta biết về những ông
chủ kỳ quái, lại quá quảng đại, cứ thưởng công cho những người
thợ lười biếng, có vấn đề hơn là để ý đến những người thợ trung
thành, đáng tin cẩn làm việc cực nhọc suốt ngày đêm? Chúng ta có
thể tự hỏi xem Chúa đã bất công thế nào? Chúa đã để ý đến những
người thợ trung thành nhất của Chúa thế nào? Đằng sau câu chuyện
ngụ ngôn này là cả một vấn đề chúng ta có thể mà cả với Chúa.
Vào thời tôn giáo khởi thủy, người ta tin rằng loài người có thể
mà cả với các thần thánh để đòi hỏi những điều mà người ta mong
ước.
Đã bao nhiêu lần chúng ta làm như
vậy với Giáo Hội của chúng ta? Một số người có lẽ đã lẩm bẩm
than rằng họ làm việc rất bền bỉ, không biết mệt với những công
việc đáng tin cậy thì phải xứng đáng được trả công lớn, chức vị
cao ngay lập tức, đồng thời phải có đặc quyền đặc lợi và nêu
danh uy tín. Trong những lúc như vậy, chính ra chúng ta nên
khiêm nhường nhận biết rằng chúng ta giống như những người thợ
làm việc giờ thứ 11. Không một ai trong chúng ta xứng đáng với
ân phúc mà Thiên Chúa đã sửa soạn cho chúng ta. Lẩm bẩm và nhìn
sang bên cạnh so kè với những người khác thì thường đưa đến
những xúc phạm nghiêm trọng khó có thể hủy bỏ đi được dễ dàng.
Tất cả những việc lành ta làm không cần phải khai báo với Chúa.
Ngay cả khi chúng ta chu toàn tất cả mọi việc mà bổn phận chúng
ta buộc phải làm, chúng ta cũng chẳng có quyền hạn gì để đòi hỏi
Thiên Chúa tôn vinh hay khen thưởng một cách đặc biệt như thể
chúng ta là những nhân vật cần phải được khen thưởng vì nhu cầu
sự nghiệp của Chúa. Nên nhớ rằng danh từ “chức vị” không
có trong ngôn ngữ của Nước Trời.
Phương thuốc duy nhất để chữa trị
những suy nghĩ tình cảm như vậy là ngước mắt nhìn lên Chúa Giêsu
đầy lòng khoan dung nhân hậu để nhận ra sự quảng đại vô bờ bến
của Ngài. Lý luận của con người thì có hạn nhưng lòng khoan dung
và ân sủng của Chúa thì vô biên. Thiên Chúa hành động không theo
những tiêu chuẩn loài người của chúng ta. Điều đó có nghĩa là
chúng ta phải nhận ra Chúa và chấp nhận Người chính nơi những
người ở chung quanh ta, những người anh em huynh đệ của chúng ta
như Chúa mong muốn. Khi Chúa chọn một người nào để ban ân sủng
cho họ, chúc phúc họ, cho họ tặng vật gì thì Chúa cũng không
chối từ bất cứ ai khác mà không ban ơn phúc, ân sủng cho họ. Ơn
phúc và ân sủng của Chúa thì vô biên, mỗi một người chúng ta đều
có can dự và được chia phần trong đó. Chúa chọn một người nào
hay một dân tộc nào thì đó không phải là cái cớ để hãnh diện vì
được chọn hay buồn phiền than trách vì bị từ chối không được
chọn. Chỉ khi nào cả hai phía đều tỏ ra khiêm tốn, đơn sơ và
cùng nhau nhận biết ra Chúa là tình yêu và khoan dung nơi việc
làm trong đời sống của mình, thì lúc đó họ mới bắt đầu “ngộ” ra
được ý nghĩa đích thực của tình yêu và công bằng, và sau cùng
mới đi tới hòa giải và hiểu biết nhau một cách sâu đậm và chân
thật.
ĐÔI ĐIỀU SUY TƯ
Trong Tân Ước, chúa Giêsu dạy
chúng ta phải tránh ghen tương hận thù. Nó dẫn chúng ta đến câu
chuyện ngụ ngôn trong bài Phúc Âm hôm nay nói về những người thợ
vườn nho làm việc vào những giờ khác nhau trong ngày nhưng lại
nhận được lương bằng nhau. Những người đến làm việc trước nhất
càu nhàu than trách ông chủ thì được ông chủ trả lời cho một
trong những người đó là: “Bạn ơi, Tôi không ăn gian của
bạn…Phải chăng bạn ganh tị vì tôi quảng đại hay
sao?”(Mt.20:13-15).
Hãy để ý đến hai câu Giáo lý Công
Giáo sau đây: #2552 - 2553
-2552: Điều răn thứ 10 cấm tham
lam thái quá, sinh ra ham mê của cải và danh vọng quá độ.
-2553: Ghen tị là cảm thấy buồn
phiền vì phúc lộc của tha nhân và ước ao một cách vô độ để chiếm
lấy cho mình. Ghen tị là một tính xấu chủ chốt.
Ghen tị chính là tật xấu của con
người khiến nó không thể nhận ra được vẻ đẹp và tính đặc thù của
tha nhân, đồng thời còn chối bỏ niềm vinh hạnh của họ. Để tới
gần Chúa là đấng hoàn toàn nhất mực nhân từ, đầy vẻ đẹp và lòng
quảng đại, thái độ xấu này cần phải được giệt trừ tận căn gốc
ngay từ trong thâm tâm sâu thẳm. Ghen tị khiến con người không
còn khả năng nhìn ra sự việc, mắt bị mây mù che phủ đóng kín.
Ghen tị và tham lam là hai tội phạm vào giới răn thứ 10 của
Chúa. Vậy thì chúng ta có thể làm gì để vượt thoát khỏi sự mù
lòa và lòng trai đá của con tim? Hãy suy nghĩ để tự tìm ra câu
trả lời.
BÁC ÁI TRONG SỰ THẬT
Nhờ ánh sáng chiếu soi của đoạn
phúc âm hôm nay nói về sự đền bù, chúng ta thử coi lại Tông thư
Bác Ái trong Sự Thật của Đức Thánh Cha Biển Đức XVI, đoạn
#63 nói về Phát Triển con người toàn diện trong Bác Ái và Sự
Thật:
63- Nếu để ý đến những bất
ổn liên quan đến phát triển thì không thể không thấy có sự liên
hệ rõ nét và trực tiếp giữa nghèo đói và nạn thất nghiệp. Trong
nhiều trường hợp, nạn nghèo đói là do ở sự vi phạm nhân phẩm
trong việc làm, hoặc bởi vì cơ hội kiếm công ăn việc làm bị giới
hạn (vì nạn thất nghiệp hoặc việc làm thiếu) hoặc “bởi vì tiền
công thấp so với việc làm và những quyền lợi từ công việc làm,
đặc biệt là quyền có lương bổng một cách công bằng cũng như
quyền lợi về an toàn của công nhân và gia đình họ”. Vì lý do này
mà ngày 1 tháng 5 năm 2000 dịp lễ đại xá công nhân, vị tiền
nhiệm của tôi là Đức Gioan Phaolo II đã đưa ra lời kêu gọi “liên
kết toàn thể thế giới để có ‘việc làm thích hợp’”, hỗ trợ
cho kế hoạch của Tổ Chức Lao Động Quốc Tế. Theo thể thức này,
ngài đã đưa ra một đòi hỏi luân lý rất mạnh mẽ cho chủ đích này,
như một khát vọng của tất cả mọi gia đình ở mỗi quốc gia trên
khắp thế giới.
Thế nào là “thích hợp”
đối với công ăn việc làm? Nó có nghĩa là việc làm phải nói lên
được cái nhân phẩm căn bản của con người, nam cũng như nữ, trong
khung cảnh xã hôi đặc biệt của họ: Việc làm phải được tự do chọn
lựa, phối hợp một cách hiệu quả các công nhân, nam cũng như nữ,
với sự phát triển cộng đồng của họ; việc làm phải khả dĩ giúp
cho công nhân được tôn trọng và không bị kỳ thị vì bất cứ lý do
gì; việc làm phải là khả dĩ cho cả gia đình hầu đạt được nhu cầu
của họ, giúp con em họ đến trường học mà không buộc chúng phải
lao động; việc làm phải cho phép công nhân được tự do tổ chức
nghiệp đoàn và tiếng nói của họ phải được lắng nghe; việc làm
phải để chừa chỗ cho công nhân tìm thấy lại nguồn gốc của mình ở
tầng mức cá nhân, gia đình và tinh thiêng liêng; việc làm là
phải bảo đảm cho những người về hưu có được mức sống căn bản
thích hợp.
Fleming Island, Florida
Sept 19, 2011
NTC
|
VỀ MỤC LỤC |
|
ÔNG STEPHEN HAWKING
|
Hằng ngày,
qua báo chí, tin tức chúng ta gặp được những gương sống tích
cực, những con người đã hoàn thành sứ mạng làm người của họ. Thế
nhưng dù những tấm gương này rất đáng cho ta ngưỡng phục, nhưng
chúng ta gặp nhiều khó khăn trong việc noi theo gương sống của
họ. Hay nói một cách khác, ta gặp được họ trong báo chí, sách
vở, nhưng ta vẫn chưa gặp được họ trong cuộc sống riêng của ta.
Tại sao?
Khi nhìn
những người thành đạt, chúng ta thường nhận định họ theo theo
tiêu chuẩn “có” (tài năng, sắc đẹp, địa vị). Nhưng đối với những
người này, những điều họ “có” cũng chưa đủ để giúp họ cảm
nghiệm được giá trị cuộc sống cho đến một lúc nào đó họ khám phá
ra họ “là.” Như thế, khi chúng ta nhìn người khác vì họ “là” thì
chúng ta sẽ dễ thấy họ trong mình, và mình cũng trong họ. Còn
khi chúng ta nhìn người khác theo tiêu chuẩn họ “có” thì ta khó
tìm thấy họ trong ta, và ta trong họ. Đó cũng là rào cản lớn
trong việc giúp cho ta có đủ nội lực tập sống cao thượng.
* * *
Ông Stephen
Hawking, giáo sư vật lý thiên văn tại đại học Cambrige, Anh
quốc, được cho là một trong những người thông minh nhất thế giới
vì chính ông đã phát triển thuyết
Tương đối
tuyệt hảo nhất từ thời Einstein. Thế nhưng, khi bác sĩ cho biết
ông chỉ có thể sống thêm hai năm nữa vì do chứng bệnh Lou
Gehrig, chính lúc đó ông mới nhận ra giá trị của cuộc sống. Ông
tâm sự rằng, trước khi phát hiện ra bệnh, ông chẳng tỏ vẻ thích
thú gì về cuộc đời, ông gọi đời ông là sự “hiện hữu vô vị.” Sau
khi biết cuộc sống mình sắp đến ngày hạn định, ông chợt nhận ra
rằng, “Khi sự kỳ vọng của một con người chỉ còn lại số zero,
người ấy bắt đầu trân trọng giá trị của từng sự vật và hoàn cảnh
hiện tại.” Thật lạ lùng thay, trong thời gian hai năm ngắn ngủi
ấy, chính là lúc ông Hawking cảm nghiệm được giá trị cuộc đời
hơn bao giờ hết. Ông thấu chạm được ông là ai, và cuộc đời là
gì. Với ông, những gì cuộc đời trao ban đều là quà tặng. Những
nụ cười, những bước dạo bộ, những ánh bình minh, và thậm chí cả
căn bệnh ông đang mang. Tất cả là quà tặng! [i]
* * *
Thưa bạn, lúc
khỏe mạnh, ông Hawking có nhiều điều mà nhiều người mơ ước. Ông
có trí tuệ, địa vị, bằng cấp, danh tiếng. Thế nhưng ông vẫn cho
đời ông là “sự hiện hữu vô vị” cho đến khi ông nhận thức đầy đủ
về con người của ông. Căn bịnh, hoàn cảnh tưởng chừng như đánh
gục được con người vốn coi mình là sự “hiện hựu vô vị,” nhưng
không, khi đặt mình vào “số zero”, mình chợt nhận ra giá trị
thật của đời mình. Giá trị thật đời mình không phải những gì
mình “có”, nhưng chính là sự cảm nghiệm mình “là.” Chính khi
thấu chạm được sự thật về mình “là,” mình sẽ tìm thấy giá trị
tuyệt hảo của chính con người mình và của người khác.
Khi nhận thức
đầy đủ về mình “là” (ai), con người tự nhiên sẽ có cái nhìn tích
cực về con người, về cuộc đời, và hoàn cảnh. Những nổ lực không
ngơi nghỉ của một vĩ nhân, sự kiên trì đấu tranh cho nhân quyền
của một chiến sĩ dân chủ hoà bình, một sự tận tuỵ chăm lo chồng
con của mỗi người mẹ, một sự tín trung với lời đoan hứa của một
tu sĩ, hay sự chăm chỉ học tập của một học sinh, tất cả những
con người này điều biểu lộ rõ khát vọng hoàn thiện con người của
họ, nhưng không theo tiêu chuẩn “có,” nhưng theo tiêu chuẩn
“là.” Họ là những người đã nhận thức đầy đủ về phẩm giá con
người, vì thế họ không ngơi nghỉ trong nổ lực hoàn thiện chính
họ trong phận vụ họ đang sống.
Câu chuyện
sau đây của linh mục Giuse Trương Đình Hiền [ii]
minh hoạ cho thấy sự nổ lực không ngơi nghỉ của những vĩ nhân
giữa đời thường khi nhận ra giá trị tích cực trong hoàn cảnh hạn
hẹp của mình.
Năm 2003,
Phân khoa Xã Hội Học Trường Đại Học Xạ hội và Nhân văn tại Sài
gòn trao bằng cử nhân thủ khoa cho sinh viên Nguyễn Thị Mai, với
luận văn đề tài: “Tìm Hiểu Một Số Thuận Lợi và Hạn Chế Trong
Tiến Trình Hội Nhập và Phát Triển của Người Khuyết Tật tại Việt
Nam.” Khi danh xưng của ứng sinh nhận bằng thủ khoa được xướng
lên, mọi người đều kinh ngạc thấy một cô bé bại liệt cả tứ chi
được đưa lên lễ đài trên một chiếc xe lăn! Không kể những nỗ
lực của em trong bốn năm đại học, thì muốn viết cuốn luận văn 70
trang kia, em đã chỉ sử dụng hai cổ tay kẹp một chiếc đũa để gõ
từng ký tự trên bàn phím vi tính. Không cần phải đi sâu vào
cuộc đời cũng thấy quyết tâm sắt đá của cô gái trẻ này…
Cách đây
không lâu, một cô gái khuyết tật âm thầm qua đời trong bệnh viện
lao Phạm Ngọc Thạch trước cái nhìn bất lực của các bác sĩ. Cô
đã được đưa vào bệnh viện quá trễ, khi bệnh lao vào thời kỳ cuối
đã đặt cô vào tình trạng hấp hối. Cô gái ấy chính là sinh viên
Nguyễn Thị Mai, người bạn trẻ đã tốt nghiệp danh dự thủ khoa
ngành Xã hội học năm 2003. 27 năm cuộc đời của một cô gái luôn
phải nằm sát mặt đất vì không thể nào ngồi được! 27 năm phấn
đấu với tật nguyền, với nghèo khó, với thua thiệt, với số phận
hẩm hiu, để rồi chưa kịp nở một nụ cười mãn nguyện thì đã về với
thiên thu.
* * *
Vậy đó, như
một nụ hoa nở cho trọn phận, mỗi con người chúng ta luôn được
mời gọi sống hết khả năng làm người của mình. Thấy được nét đẹp
nơi chính mình và trân trọng những nét đẹp ấy là khởi điểm cho
những suy nghĩ tích cực về mình và về cuộc đời. Những gì mình
có, dù là những giá trị vật chất hay tinh thần, những điều ấy
cũng chỉ thực sự giá trị khi ta biết dùng chúng để khám phá ra ý
nghĩa thật của đời người. Nét đẹp nơi Nguyễn Thị Mai chính là
không gom góp những cái “có, được” để chiếm hữu cho mình, nhưng
chính là dùng chúng để trang điểm cho mình thêm đẹp và sống trọn
vẹn nhân phẩm con người.
Mục
Sống Sao Cho
Đẹp mời bạn sống tích cực thêm chút nữa, nhưng không phải
để bạn “có” thêm điều gì, nhưng mà để bạn hoàn thiện con người
mình như mình “là.”
Br.
Huynhquảng
[i]James
Dobson,
New
Man, October, 1994, p. 36.
[ii]
Từ
Suy niệm hằng ngày, Tro Bụi Cuộc Đời.
|
VỀ MỤC LỤC |
|
TỔ ẤM HOÀNG HÔN |
LTS. Dưới đây là BÀI ĐỌC
THÊM thuộc chương V, trong tác phẩm Đào Tạo Ứng Sinh Linh Mục
Giáo Phận
của tác giả
Lm.
Micae-Phaolô Trần Minh Huy pss
Mời thăm Blog của
Lm. Trần Minh Huy
http://www.chivilongchuathuongtoi.tk/
Nhiều Giáo phận có nhà hưu dưỡng tại Giáo
phận, ngay trong khu vực Tòa Giám mục hoặc một nơi riêng biệt,
cho các linh mục lớn tuổi hoặc bệnh hoạn không còn làm việc được
nữa sống những ngày cuối đời, chờ đợi Chúa gọi về. Nhưng cũng có
những Giáo phận chưa có nhà hưu dưỡng dành riêng cho linh mục và
để các linh mục tự lo liệu lấy. Có những Giáo phận có nhà hưu
dưỡng, nhưng để các linh mục được tự do hưu ở nhà hưu của giáo
phận hay ở đâu có thể tiếp nhận họ, hoặc ở với bà con cháu
chắt.
Phần đông nhà hưu dưỡng giáo phận yêu cầu
các cha hưu phải đóng góp bằng cách dâng lễ, nhưng chế độ chăm
sóc không rõ ràng và chu đáo, tiêu chuẩn cấp dưỡng thấp và quá
chặt chẽ. Các cha già và bệnh tật thường phải theo chế độ ăn
kiêng, hoặc do thời tiết và bệnh hoạn không ăn được những thứ
dọn ra, nhưng người phục vụ không có điều kiện để thay thế,
khiến các ngài phải chịu thiếu thốn, đói khát, tủi thân, đâm ra
tiếc nuối, hụt hẫng…, nhất là các vị lúc đương làm việc có những
điều kiện sống cao và thoải mái hơn: cực trước sướng sau thì
sướng hơn, nhưng sướng trước cực sau thì cái cực càng nặng nề!
Đây cũng là một lý do khiến các cha già ngại hưu ở nhà hưu
chung.
Tại một số giáo phận, khi một cha hưu chết,
giáo phận sẽ cho hòm chôn, còn các chi phí dịp an táng thì gia
đình phải chịu. Do đó, nếu không còn gia đình hoặc gia đình quá
nghèo, cha già phải dè sẻn dành dụm trước cho khoản này, không
dám cả ăn uống thuốc men khi còn thấy chịu đựng được. Ngược lại,
có một ít cha để dành và di chúc lại cả tiền xe cộ và ăn uống
cho các bổn đạo cũ đi đưa đám mình!
Ngoài ra, do điều kiện tuổi tác và sức
khỏe, có những vị cần được chăm sóc đặc biệt (dìu dắt, bợ đỡ,
lau chùi, đấm bóp và vệ sinh thân thể), mà nhân viên nhà hưu
dưỡng không thể đảm đang nổi. Các vị có bà con cháu chắt có điều
kiện kinh tế và thời gian thì đến ở với để chăm sóc. Các vị
không có bà con cháu chắt thì phải bỏ tiền ra thuê người đến ở
phục vụ. Nhưng gặp vị nghèo khó chẳng có gì để bồi dưỡng hay
thuê người giúp, chỉ trông vào “người đi qua kẻ đi lại” thì thật
đáng thương. Nhân viên phục vụ ít, lại nhiều công việc, nên chỉ
dành cho các vị hưu dưỡng sự phục vụ theo tiêu chuẩn chung và
theo lượt. Từ hoàn cảnh này, nhiều vị rất tội nghiệp là từ thân
thể và phòng ở của các vị xông mùi hôi hám. Có vị vì phải nằm
lâu một bề nên bị lỡ loét đau đớn lắm. Đó cũng là một lý do nữa
khiến các cha ngại về nhà hưu chung. Và đã có vị chết ở trong
phòng chẳng ai hay, và cũng chẳng biết chúc thư để ở đâu. Vì thế
Giáo Hội khôn ngoan yêu cầu mỗi linh mục phải viết và để một bản
chúc thư ở Tòa Giám Mục.
Nhưng trường hợp những vị có con cháu hay
thuê người tới ở lại chăm sóc lại nảy sinh vấn đề khác: thường
nhà hưu chỉ dành cho mỗi cha hưu một phòng khép kín với các công
trình phụ cần thiết. Nay người giúp cũng ở và làm mọi sự trong
đó, suốt ngày đêm; và nếu đó lại là người nữ thì rất bất tiện,
khó coi và có khi nguy hiểm nữa. Chúng ta đi tu, tận hiến đời
mình cho Chúa, cho Giáo Hội và các linh hồn, nhưng chúng ta vẫn
không thôi là con người. Nhiều người trêu nhau: “trâu già mà
sừng không già” hay "già chưa đều".
Do những hoàn cảnh ấy, có một số linh mục
không đủ tinh thần từ bỏ và phó thác như thân phận Chúa Giêsu
“con chim có tổ, con chồn có hang, Con Người không nơi tựa đầu”,
mà lại có đôi chút phương tiện nên phòng xa thủ lại một số tiền
hay xây dựng nhà cửa để hưu sau này. Từ đó sinh ra keo kiệt và
quá đòi hỏi giáo dân trong vấn đề lễ lạy, bí tích và phân biệt
đối xử, trọng giàu khinh nghèo! Chủ chăn mà làm khó dễ quá cho
giáo dân trong vấn đề lãnh nhận các bí tích sẽ gây nên một hậu
quả ngược lại rất tai hại, là đẩy họ ra khỏi Giáo Hội... Những
người làm như thế phải nghĩ đến lúc phải trả lẽ nặng với lương
tâm thức tỉnh của mình và với Chúa. Có những vị “dại” xây nhà
tại nơi mình phục vụ, gây nhiều phiền phức cho người kế nhiệm và
giáo dân, và cuối cùng cũng chẳng được ở! Những vị “khôn hơn”
đầu tư xây nhà cửa cho ông bà cố và dành những căn phòng tiện
nghi cho mình hưu sau này.
Qua những bất tiện đó, có những Giáo phận
đưa ra các biện pháp: Không cho hưu tại giáo xứ đã làm việc; ai
hưu tại nhà hưu dưỡng giáo phận thì giáo phận đài thọ phần lớn
và cha hưu dâng một số ý lễ; còn ai hưu tại nhà riêng thì phải
tự túc hoàn toàn. Có một giáo phận kia xin được Tòa Thánh và vận
động giáo dân trong và ngoài nước lập nên một quỷ hưu khá lớn do
một Ủy ban đặc trách làm lợi thêm. Giáo phận ấy đã đài thọ trọn
gói cho các cha hưu tại nhà hưu của giáo phận, và đài thọ hai
triệu đồng cho các cha hưu tại trụ sở của giáo phận gốc, còn tất
cả các cha đang làm mục vụ được giúp khám sức khỏe tổng quát
hằng năm, và ai bị bệnh được giúp tới mức tối đa ba mươi triệu.
Nếu tất cả các giáo phận đặc biệt quan tâm,
học hỏi lẫn nhau và giúp nhau tổ chức những nhà hưu dưỡng thật
hẳn hoi, để chăm lo tốt cho các cha sau thời gian phục vụ đầy
công lao vất vả, không những phần vật chất, mà nhất là phần tinh
thần. Các cha hưu sống thành cộng đồng huynh đệ trong vui tươi,
an bình, hạnh phúc, tin yêu, tín thác cho Chúa và Giáo Hội, nêu
gương cho đàn em, và cũng là hậu phương cầu nguyện cho đàn em
trên cánh đồng truyền giáo và dưỡng giáo. Còn các linh mục đang
làm mục vụ cũng được an tâm về tương lai tuổi già của mình,
chẳng cần suy tính phòng xa tích trử gì cả, một mực hết lòng
cống hiến cho đoàn chiên, và có thể góp phần với giáo phận trong
việc xây dựng, trang bị và bảo trì nhà hưu dưỡng chung. Được vậy
thì siêu nhiên và tốt đẹp biết bao!
Nhưng đối với các nhà hưu dưỡng chung cho
các cha như thế, xin đề nghị các vị hữu trách liệu làm sao có đủ
nhân viên phục vụ được huấn luyện thích hợp và cũng có phương
tiện cần thiết để đáp ứng kịp thời cho các vị đau yếu cần chăm
sóc đặc biệt. Có như thế, các cha sắp hưu được an tâm và vui vẻ
đi hưu, nêu gương sáng cho đàn em đi sau. Ngoài ra, trong trường
hợp không thể có đủ nhân viên phục vụ như thế, mà có những cha
thực sự cần thiết được phục vụ đặc biệt riêng, xin thiết kế thế
nào để kế cận phòng cha hưu có một phòng nhỏ với những công
trình phụ tối thiểu cho người giúp ở và sinh hoạt, chứ không ở
chung và dùng chung phòng với cha hưu.
Nhưng trong tất cả những trạng huống tế nhị
này, chớ gì chúng ta hướng về Mẹ Maria. Mẹ đã hiến dâng Con Mẹ
bằng lòng ưng thuận đầu tiên với mầu nhiệm Nhập Thể. Và trong
suốt cuộc sống, Mẹ vẫn tiếp tục hiến dâng Chúa Giêsu. Mẹ đã trao
phó Ngài trong tay ông Simêon ngày dâng Chúa vào Đền Thánh. Mẹ
đã hiến dâng khi Ngài rời bỏ gia đình để bắt đầu sứ vụ công
khai. Và trên tất cả, Mẹ đã hiến dâng Ngài trên thập giá vì phần
rỗi nhân loại. Trong khoảnh khắc đáng sợ ấy, Chúa Kitô cũng trao
ban và đặt Mẹ Ngài trong sự chăm sóc của Giáo Hội, qua con người
của người môn đệ yêu dấu.
Sau cùng, chớ gì lòng nhân hậu của Giáo Hội
còn quan tâm đặc biệt đến những người này nữa trong các viện
dưỡng lão của Giáo Hội. Đó là cha mẹ của một số linh mục gặp
hoàn cảnh già cả neo đơn, không ai chăm sóc. Các anh em linh mục
ấy có thể gửi gắm cha mẹ hầu được yên tâm phục vụ các linh hồn,
trở nên linh mục nhiệt thành hơn, hoàn toàn sống vì đoàn chiên.
Nếu được vậy thì tốt đẹp biết bao, vì bao nhiêu năm trước cha mẹ
họ đã trao họ cho Giáo Hội, và bây giờ họ lại được đặt cha mẹ
mình trong vòng tay chăm sóc của Giáo Hội. Trong lãnh vực này,
Giáo Hội cũng nên lưu tâm đến hoàn cảnh, tình cảm và những trăn
trở không thể tránh được của các linh mục là con một hay con
trai duy nhất trong gia đình. Cầu mong cho họ “một lần đã quảng
đại thì được quảng đại cho đến cùng”. Nữ Vương ban sự bình an,
xin cầu cho chúng con. Amen.
|
VỀ MỤC LỤC |
|
ĐỌC SÁCH VÀ SUY NIỆM
|
Tác phẩm: Cẩm Nang Hạnh Phúc Gia Đình
Kitô - MỤC VỤ HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH
Tác
giả: D. WAHRHEIT (Lm. Minh Anh, GP. Huế tổng hợp biên tập)
B13. ĐỌC SÁCH VÀ SUY NIỆM
1.
Có nhiều bậc sống khác nhau trong Giáo Hội, nhưng chỉ có
một ơn gọi chung cho mọi người tín hữu của Chúa Kitô. Ơn gọi đó
là đi theo Ngài, sống với Ngài và nên giống Ngài. Đó là ơn gọi
nên thánh.
Nên thánh là tham dự vào sự sống
của Thiên Chúa được thể hiện nơi Chúa Giêsu Kitô, là Con Một và
là hình ảnh của Thiên Chúa vô hình. Do đó, sự hiểu biết Chúa
Kitô là điều không thể thiếu trong cuộc đời người tín hữu, dù
thuộc cấp bậc nào trong Giáo Hội. Tất cả đều được mời gọi hiểu
biết Chúa Kitô để yêu mến Ngài, sống kết hợp với Ngài và đi theo
con đường của Ngài.
Có nhiều phương tiện giúp chúng ta
hiểu biết Chúa Kitô. Ở bài trước, chúng tôi đã nói tới việc đọc
Kinh Thánh trong gia đình, với bài này, chúng tôi xin đề cập đến
một phương tiện khác không thể thiếu trên con đường nên thánh.
Đó là đọc sách và suy niệm. Đã là phương tiện cần thiết cho việc
nên thánh thì dù là linh mục, tu sĩ hay giáo dân trong bậc vợ
chồng, ai cũng đều phải chuyên chăm thực hành.
2.
Trong các trung tâm đào tạo như chủng viện, tập viện, tu
viện… thường có những giờ dành riêng cho việc đọc sách đạo đức,
gọi là đọc sách thiêng liêng. Việc đọc sách thiêng liêng này sẽ
được tiếp tục trong đời sống của linh mục, tu sĩ dù sống cộng
đoàn hay riêng rẽ.
Một quyển sách được gọi là thiêng
liêng khi nó hướng dẫn, nâng cao đời sống thiêng liêng và làm
cho nội tâm được thêm phong phú. Truyện các thánh, cuộc đời của
những người hiến thân phục vụ Chúa và tha nhân, những sách hướng
dẫn đời sống thiêng liêng, các tạp chí đạo... là những của ăn
cần thiết cho đời sống đạo. Các văn kiện của Công Đồng, thông
điệp của Đức Thánh Cha, văn kiện tòa thánh, thư mục vụ của Giám
mục cũng là những chất bồi dưỡng đời sống tu đức của người tín
hữu.
Có ý tưởng sai lầm khi cho rằng,
đọc sách thiêng liêng là việc dành riêng cho linh mục, tu sĩ. Ý
tưởng này phát xuất từ quan niệm nên thánh chỉ là bổn phận của
bậc tu hành. Có người cũng cho rằng, các văn kiện của Giáo Hội
chỉ dành riêng cho linh mục vì họ cần biết để hướng dẫn đời sống
giáo dân. Dĩ nhiên các linh mục là những người có trách nhiệm
hướng dẫn, nhưng hiểu biết Chúa Kitô, am tường giáo huấn của
Giáo Hội là nghĩa vụ của mọi tín hữu. Bởi thế việc đọc sách
thiêng liêng cũng như tìm hiểu các văn kiện của Giáo Hội là điều
không thể thiếu trong đời sống người tín hữu.
3.
Cùng với việc đọc sách thiêng liêng, suy niệm cũng là một
đòi hỏi thiết yếu của việc nên thánh. Một lần nữa cần khẳng định
rằng, suy niệm không phải là một sinh hoạt đạo đức chỉ dành
riêng cho bậc tu trì. Suy niệm cũng không có nghĩa là phải ngồi
thing lặng hằng giờ trước nhà tạm hay trong một nơi thanh vắng.
Một cách đơn giản, suy niệm là
lắng nghe những nhủ bảo, gợi hứng của Chúa Thánh Thần.
khi đang đọc một
quyển sách thiêng liêng, hay khi đang ngồi thinh lặng một mình
thì điều quan trọng nhất lúc đó là thái độ lắng nghe. Mà để có
thể lắng nghe tiếng nói của Chúa Thánh Thần, ta phải có sự yên
tĩnh trong tâm hồn. Do đó, suy niệm là một sinh hoạt hoàn toàn
cá nhân vì không ai có thể thay thế ta để nghe tiếng nói của
Chúa trong nội tâm sâu kín lòng mình. Và Chúa cũng không nói
bằng những công thức đồng điệu trong tâm hồn của mọi người. Mỗi
người lắng nghe tiếng nói và đón nhận những soi dẫn của Chúa
theo cách thức riêng của mình.
Có một con đường tu đức dành cho
những người sống bậc hôn nhân, ở đó, hai vợ chồng dìu dắt, nâng
đỡ và trợ giúp nhau sống đức tin qua những thực tại của cuộc
sống lứa đôi và gia đình. Cả hai cùng nên thánh trong bậc vợ
chồng. Tuy nhiên không ai có thể nên thánh thay cho người khác.
Nên thánh là một ơn gọi mà mỗi người phải tự mình đáp trả. Vì
thế, lắng nghe tiếng nói của Chúa, đón nhận sự linh ứng và hướng
dẫn của Ngài là việc hoàn toàn diễn ra trong nội tâm sâu kín của
mỗi người.
4.
Chỉ trong thinh lặng nội tâm, con người mới có thể lắng
nghe được tiếng Chúa. Kinh Thánh thường dùng hình ảnh sa mạc để
nói lên sự cần thiết của thinh lặng trong tâm hồn. Bốn mươi năm
lang thang trong sa mạc là thời gian thanh tẩy đối với người Do
Thái trước khi vào Đất Hứa. Các tiên tri trong Cựu Ước cũng tuân
giữ các khoảng thời gian sa mạc để gặp gỡ Chúa và đón nhận sứ
mạng Ngài trao. Chúa Giêsu đã trải qua bốn mươi đêm ngày trong
sa mạc trước khi bắt đầu sứ mệnh công khai của mình. Và theo các
sách Tin Mừng, mỗi ngày Chúa Giêsu vẫn dành nhiều giờ thinh lặng
để cầu nguyện; chính Ngài cũng đã truyền cho các môn đệ, “Các
con hãy tìm đến một nơi thanh vắng mà nghỉ ngơi”.
Phải chăng ngày nay chúng ta cũng
cần tìm đến một nơi thanh vắng để gặp gỡ và lắng nghe Chúa. Linh
mục Carlo, thuộc dòng
tiểu đệ Chúa
Giêsu, sau mười năm sống trong sa mạc Sahara đã nói: “Chúng ta
cần phải tìm ra sa mạc ngay giữa chốn đô thị”.
Mỗi người tín hữu có thể và cần
phải tạo ra một nơi thanh vắng trong tâm hồn mình để lắng nghe
tiếng Chúa và chuyện vãn với Ngài. Họ cần phải dành ra mỗi ngày
một khoảng thời gian tối thiểu để trở về với nội tâm sâu kín của
mình. Giữa những ồn ào nhộn nhịp của cuộc sống, họ cũng có thể
trở về nội tâm lòng mình để lắng nghe Chúa và cầu nguyện bất cứ
lúc nào trong ngày.
Thiên Chúa phán bảo con người
trong từng phút giây của cuộc sống. Do đó, lắng nghe phải là
thái độ thường xuyên của con người.
5.
Suy niệm và lắng nghe Chúa nói là thái độ hoàn toàn riêng
tư, nhưng là một điều cần thiết cho cuộc sống lứa đôi. Chúa
Giêsu không lên núi cầu nguyện rồi ở mãi trên đó. Sau những giờ
phút tách biệt để cầu nguyện, Ngài trở lại với đám đông; và giữa
những tiếp xúc với người khác, Ngài vẫn không ngừng kết hợp với
Chúa Cha để luôn thi hành ý muốn của Chúa Cha.
Nên thánh chính là nên giống Chúa
Giêsu. Như Ngài, người tín hữu phải không ngừng kết hợp với
Thiên Chúa để đến với tha nhân nhiều hơn. Cách riêng, Chúa Giêsu
là mẫu mực cho những người sống bậc vợ chồng. Tình yêu của Chúa
Giêsu dành cho nhân loại qua cuộc sống và cái chết của Ngài đã
được các đôi vợ chồng cam kết trao cho nhau, và nhờ đó, họ trở
thành dấu chứng của tình yêu Thiên Chúa. Bởi đó, họ phải là
những người sống kết hợp mật thiết với Chúa Giêsu. Họ phải luôn
tự hỏi: lúc này đây, nếu ở vào địa vị của tôi, Chúa Giêsu sẽ cư
xử thế nào?
Chúng ta thường nói đến những hành
động thiếu suy nghĩ và tự chủ. Quả thực, khi không biết lắng
nghe tiếng nói của Chúa trong sâu thẳm lòng mình, con người cũng
không làm chủ được bản thân, nghĩa là đã đánh mất chính mình.
Trái lại, khi biết lắng nghe tiếng Chúa, con người sẽ hành động
phù hợp với ý muốn của Ngài.
Suy niệm là một thái độ hơn là một
vấn đề của thời giờ và nơi chốn. Thái độ ấy chính là luôn sống
kết hợp với Chúa, mặc lấy tâm tình của Chúa. Một thái độ như thế
không những thăng tiến đức tin trong đời sống vợ chồng, giúp
thắng vượt những khó khăn trong cuộc sống mà còn giúp nhau nên
thánh nữa.
|
VỀ MỤC LỤC |
|
XẢ STRESS
|
Tiền nhân ta vẫn
nói: “Đời là bể khổ”.
Khổ là hoàn
cảnh trong đó con người chịu nhiều khó khăn thiếu thốn về vật
chất hoặc bị giày vò bất an về tinh thần. Như vậy thì “Khổ” cũng
là một trong những cái stress mà con người phải sống với. Nếu
stress cứ liên tục tái diễn hoặc kéo dài sẽ đưa tới nhiều ảnh
hưởng bất lợi cho sức khỏe.
Hậu quả của stress
- Trí óc sẽ
bị tổn thương vì ảnh hưởng của quá nhiều các loại hormon
glucocorticoid sản xuất từ nang thượng thận. Khả năng nhận xét
giảm, trí nhớ rối loạn, tính tình cau có, dễ giận dữ, tâm trạng
mệt mỏi, cơ thể suy nhược, có thể rơi vào vòng trầm cảm, lo
lắng, hay khóc, mất ngủ, giảm khả năng làm việc, lạm dụng rượu,
thuốc cấm.
- Hoạt động
tim mạch rối loạn. Hormon do stress khiến cho nhịp tim nhanh,
mạch máu co hẹp, huyết áp và nhịp tim thường trực lên cao khiến
cho tim mệt mỏi, tính đàn hồi của mạch máu giảm đưa tới bệnh tim
mạch, máu cục rồi một ngày nào đó có thể bị tai biến não.
- Stress
khiến cho tình trạng bệnh hen suyễn, nghẹt phế quản trở nên trầm
trọng hơn
Tiêu hóa rối
loạn, dạ dày không có đủ máu nuôi dưỡng, niêm mạc bao tử tổn
thương, đưa nôn ói, khó tiêu, đau bụng, tiêu chảy, trào ngược
thực quản, giảm cân rồi loét dạ dày, viêm ruột già.
- Hệ miễn
dịch suy yếu, sức đề kháng với các bệnh nhiễm giảm, dễ nhiễm
trùng, cảm cúm.
- Stress
khiến cơ thể mập hơn vì chất béo được huy động để tăng năng
lượng. Chúng sẽ tập trung nhiều hơn ở vùng bụng, vùng mông, mặc
dù các vùng khác vẫn mỏng manh.
- Cơ bắp căng
đau nhất là ở vùng lưng, cổ, bả vai, da đầu
- Da khô, vẩy
nến, viêm, trứng cá, lở môi, lở miệng.
- Tóc rụng
nhưng may mắn là hết stress thì tóc mọc lại.
- Người bị
stress, đêm nằm ngủ thường hay nghiến răng sẽ đưa tới đau nhức
khớp xương hàm, không chăm sóc răng lợi chu đáo, sâu răng.
Trong trường
hợp trầm trọng, nạn nhân của stress có thể rơi vào một tâm bệnh
gọi là Hội chứng Hậu Chấn Thương (Post Traumatic Stress
Syndrome). Bệnh nhân sẽ sống trong tâm trạng bất ổn, có những ác
mộng, những hồi tưởng lại kinh nghiệm đau thương trong quá khứ,
sức khỏe tổng quát suy giảm.
Đối phó với stress
Sống không có
stress là điều khó có thể thực hiện được, nhất là trong hoàn
cảnh xã hội có nhiều biến đổi, kinh tế khó khăn, đạo đức xuống
dốc như hiện nay. Làm sao để đối phó với stress mới là điều cần
thiết. Mỗi người có những phương cách riêng để giải quyết khó
khăn của mình.
Sau đây là
một vài gợi ý:
1- Tìm hiểu
nguồn gốc của stress. Có thể là do gập ghềnh trong giao tế nhân
sự, khó khăn trong công việc làm ăn, thất thoát tài chánh, suy
yếu sức khỏe, gia đạo bất an…Biết để tìm cách xả stress.
2- Sắp đặt
lại công việc hàng ngày, theo thứ tự ưu tiên, quan trọng.
3- Đặt giới
hạn cho các tham gia, cam kết với các sinh hoạt trong đời sống,
tránh ôm đồm quá sức. Đừng cố quá để rồi thành “quá cố”.
4- Đừng coi
thường sức khỏe, lắng nghe tiếng cầu cứu của một cơ thể bị lạm
dụng lao động quá mức.
5- Cân bằng
đời sống, chia thì giờ cho việc làm, ăn uống, ngủ nghỉ.
6- Năng vận
động cơ thể. Đang căng thẳng mà làm mươi phút đi bộ, bơi lội,
hít thở thì stress cũng giảm cường độ khá nhiều.
7- Dành thì
giờ để giải trí với gia đình bạn bè.
8- Áp dụng
các phương pháp đối phó với stress như thư giãn thiền định, hít
thở xâu, thoa bóp; tạm rời công việc để “xả xú báp” và “tái nạp
bình điện”;
9- Tâm sự
chia sẻ khó khăn của mình với người đáng tin cậy để nhờ góp ý.
10- Duy trì
một tâm trạng hài hước. Cười là 10 thang thuốc bổ.
11- Đề cao
cảnh giác, nhận diện và chú ý tới các dấu hiệu báo động sự xuất
hiện của stress và sẵn sàng giải quyết.
12- Ghi nhớ
các hoàn cảnh stress xảy ra, ở đâu, vào thời điểm nào, tại sao
xảy ra. Biết để tránh.
13- Tránh
những stress nào có thể tránh được.
14- Giải
quyết stress với các khả năng hiện có. Với những stress bướng
bỉnh, không giải quyết được thì để một bên, giải quyết sau.
Kết luận
Xin ghi nhớ
là những cảm giác không vui như sợ hãi, lo âu, giận dữ, bực tức
phát xuất từ phản ứng của ta mà ra chứ không phải từ stress. Nếu
ta kiểm soát được các phản ứng này là ta đã tạo được một tâm
trạng bình an, thoải mái trong đời sống.
Bác sĩ Nguyễn Ý Đức
Texas-Hoa Kỳ
www.bsnguyenyduc.com
|
VỀ MỤC LỤC |
ĂN CHAY - Chuyện phiếm của Gã Siêu |
Ăn chay là một trong số những việc đạo đức quan trọng mà hầu như
tôn giáo nào cũng thực hiện. Tuy nhiên, cách thức giữ chay lại
khác biệt tuỳ theo chủ trương của mỗi tôn giáo.
Chẳng hạn theo Phật giáo, ăn chay là ăn và uống những thứ có
nguồn gốc từ thực vật, không được ăn thịt cá hay những thứ có
nguồn gốc từ động vật vì liên quan đến sát sinh.
Thực vậy, với quan niệm về luân hồi, sau khi chết, tuỳ theo công
phúc mình đã làm khi còn sống, mà được đầu thai làm kiếp loài
vật hay loài người, cho tới khi được lên cõi Niết Bàn.
Thời gian ăn chay được gọi là trai kỳ, nhiều hay ít tuỳ theo
lòng mộ mến của mỗi người:
* Nhị trai là ăn chay 2 ngày mỗi tháng: 1 và 15 âm lịch.
* Tứ trai là ăn chay 4 ngày mỗi tháng: 1,14,15 và 30, nếu tháng
thiếu, thì lấy ngày 29.
* Lục trai là ăn chay 6 ngày mỗi tháng: 1,8,14,15,23 và 30, nếu
tháng thiếu thì lấy ngày 29.
* Thập trai là ăn chay 10 ngày mỗi tháng:
1,8,14,15,18,23,24,28,29 và 30, nếu tháng thiếu thì lấy các ngày
27.28. và 29.
* Nhất nguyệt trai là ăn chay suốt một tháng.
* Tam nguyệt trai là ăn chay suốt ba tháng.
* Ăn chay trường là ăn chay suốt cả đời.
Phật tử được khuyến khích ăn chay vào những ngày 1,14,15 và 30
vì đó là những ngày mở cửa âm và các linh hồn được tự do!
Đối với Hồi giáo, thì có tháng “Ramadan”. Tháng này được bắt đầu
một cách thống nhất, từ ngày 13.9 cho toàn thể cộng đồng Hồi
giáo trên khắp thế giới. Nhiều người thường gọi một cách đơn
giản tháng Ramadan là “tháng nhịn ăn”, hoặc “tháng ăn chay”,
nhưng cả hai cách gọi đều không chính xác cho lắm, bởi vì các
tín đồ Hồi giáo thực sự không ăn chay và cũng không nhịn ăn, bởi
vì nếu nhịn ăn suốt cả một tháng, thì e rằng khó mà sống nổi.
Trong tháng này, tất cả các tín đồ Hồi giáo đều thực hiện nghiêm
túc qui định: Không ăn, không uống, không hút…nghĩa là không
được đưa bất cứ thứ gì vào miệng. Tuy nhiên, qui định này chỉ
được áp dụng vào ban ngày, cụ thể là từ lúc mặt trời mọc cho đến
khi mặt trời lặn mà thôi. Ngoài ra, luật cũng qui định: những
người đau ốm, phụ nữ mang thai, trẻ em dưới 5 tuổi…đều được miễn
trừ, không phải nhịn.
Việc nhịn ăn và nhịn uống như thế có mục đích tạo sự thông cảm
với những người nghèo đói, đồng thời tập luyện sự tiết chế,
chống lại những cám dỗ về vật chất. Chúng ta thử tưởng tượng
xem: Với thời tiết nóng và khô của sa mạc, thế mà suốt ngày
trong cả tháng không được động đến một giọt nước, thì đó phải là
một hy sinh to lớn.
Tuy nhiên khi mặt trời đã lặn và tiếng loa từ các giáo đường
vang lên, người ta lại được phép tổ chức tiệc tùng và ăn uống
linh đình, như kiểu xứ ta ăn tết. Theo một thống kê của Ai Cập,
thì lượng thực phẩm tiêu thụ trong tháng Ramadan thường gấp 2,
gấp 3 lần các tháng khác trong năm.
Rồi vào lúc 2 hay 3 giờ sáng, mỗi khu phố lại có một người mang
một cái trống nhỏ, tiếng rất đanh, vừa đi vừa đánh theo nhịp ngũ
liên, lại vừa hô to để đánh thức mọi người thức dậy, lo nấu
nướng cho kịp ăn uống trước khi mặt trời mọc, để bắt đầu một
ngày nhịn mới.
Còn bên Do Thái giáo, thì ăn chay, cầu nguyện và làm phúc bố thí
là ba sinh hoạt chính trong đời sống đạo đức. Người Do Thái có
một cuộc “đại chay”, nhân ngày lễ xá tội. Đây là một việc bắt
buộc mang tính cách cá nhân đối với mọi thành phần Dân Chúa.
Đồng thời họ cũng có những cuộc chay tịnh khác mang tính cách
tập thể, chẳng hạn vào các ngày quốc hận. Ngoài ra, những người
đạo đức còn ăn chay vì lòng sốt sắng, như các môn đệ của Gioan
Tẩy giả và những người Biệt Phái, họ thường ăn chay mỗi tuần hai
lần.
Sau cùng là Kitô giáo nói chung và Công giáo nói riêng. Ăn chay
là rèn luyện cho bản thân cách thức chống lại những ham muốn xác
thịt và tỏ lòng sám hối ăn năn, quay trở về cùng Thiên Chúa.
Người Công giáo phân biệt giữa “ăn chay” và “kiêng thịt”, nhưng
trong thực tế hai việc này lại thường đi đôi với nhau.
Ăn chay là giới hạn phần lương thực được tiếp nhận vào cơ thể.
Chỉ được ăn một bữa no và hai bữa đói mà thôi. Còn kiêng thịt là
không được ăn thịt những động vật máu nóng như heo, bò, gà…nhưng
lại được phép ăn cá, tôm, cua, ếch và các thứ hải sản vì chúng
thuộc vào loại máu lạnh! Tuy nhiên trứng, sữa và những chế phẩm
từ hai loại này đều không phải kiêng.
Giáo Hội luôn đề cao tinh thần của việc ăn chay, đôi khi ăn ít
hơn hay ăn đạm bạc hơn bình thường cũng được cho là một hình
thức ăn chay. Đồng thời Giáo Hội khuyến khích nên dùng số tiền
do việc hy sinh ăn uống này, để giúp cho những người nghèo túng.
Những người đạo đức sốt sắng có thể ăn chay ngày thứ sáu trong
tuần và 40 ngày trong suốt cả mùa chay. Tuy nhiên hiện nay, chỉ
buộc phải giữ hai ngày, đó là thứ tư lễ tro và thứ sáu tuần
thánh mà thôi. Mặc dầu mỗi năm chỉ có hai ngày ăn chay, thế
nhưng người ta lại hay bị “cám dỗ” để rồi mất chay, hay mất ý
nghĩa của ngày ăn chay.
Đúng thế, bên Tây phương, người ta thường cử hành lễ hội “Mardi
gras”, tức là “Thứ ba béo”, ngày cuối cùng trước khi bước vào
mùa chay. Trong ngày này, người ta tổ chức tiệc tùng linh đình,
ăn uống cho thật đã, để bù lỗ cho bốn mươi ngày khắc khổ sắp
tới. Người ta múa hát tưng bừng, nhảy nhót cho thật xả láng, để
bù lỗ cho cái bầu khí ảm đạm của mùa chay. Có những nước đã tổ
chức lễ hội này thật hoành tráng, chẳng hạn như Brasil với những
trò giả trang và vũ điệu Samba, đã thu hút được rất nhiều du
khách đến tham quan.
Tất cả những tiệc tùng và nhảy múa được kết thúc vào lúc 24 giờ
ngày thứ ba, để rồi sau đó người ta bước sang ngày thứ tư lễ
tro, khởi đầu cho mùa chay, với màu tím tê tái nơi tâm hồn, với
khuôn mặt ủ rũ như treo cờ tang, với luật buộc ăn chay và kiêng
thịt.
Còn đối với người Việt Nam, nhất là vào những năm tháng xa xưa,
khi đời sống còn thấp kém. Trong bữa cơm gia đình, quanh đi quẩn
lại, thì cũng chỉ có cà ghém mắm tôm, canh cua mồng tơi, hay rau
muống luộc...Thỉnh thoảng lắm mới có tí cá, hay tí thịt. Thành
thử, những người nghèo, cơm không đủ ăn, áo không đủ mặc, thì
hầu mỗi ngày họ đều ăn chay và kiêng thịt, cuộc đời họ vốn dĩ
đã là một mùa chay kéo dài.
Vào ban sáng, có người chỉ uống một ly cà phê, có người chỉ ăn
một chút, gọi là “điểm tâm”, rồi làm việc cho đến trưa mới dùng
bữa mà vẫn vui vẻ khoẻ mạnh. Thế nhưng trong ngày ăn chay, ban
sáng cũng vẫn theo thói quen bình thường, thế mà mới hơn 9 giờ,
đã cảm thấy đói ngấu đói nghiến. Mới nhịn
nhim nhím có tí xíu, thế mà đã cảm thấy như kiến bò bụng, đói
cồn đói cào.
Một khi bụng đã đói, thì mắt liền mờ tịt và
tay chân bỗng bủn rủn, thậm chí con ruồi đậu vào mép cũng chẳng
buồn xua. Và người lớn thường bảo:
- Đó là chước mốc ma quỉ.
Ở nông thôn, vào ngày ăn chay kiêng thịt, người ta cũng thường
kiêng luôn cả việc xác, bởi vì bụng đói thì làm sao có thể kham
nổi những công việc đồng áng nặng nhọc. Và thế là ngoài những
lúc đến nhà thờ tham dự thánh lễ hay ngắm nguyện, các cụ có tí
tuổi, thường hay tổ chức “kiệu lá”, tức là…ăn gỏi cá. Các cụ
chuẩn bị cho việc kiệu lá, cho việc ăn gỏi một cách rất công
phu.
Ngay từ ngày hôm trước, các cụ đã bảo con cháu đi chợ mua cá,
hay kéo lưới dưới ao để bắt cá. Cá dùng để ăn gỏi thường là cá
chép, cá rô, hay cá lóc…
Rồi sáng hôm ăn chay, người thì rang gạo để giã làm thính. Người
thì thái cá. Thịt cá thái xong, được đặt và gói trong những tấm
giấy bản để thấm nước cho thịt được khô. Người thì làm nước
chấm. Nước chấm được làm bằng mẻ nấu với cá băm nhuyễn. Người
thì đi kiếm rau gồm các thứ lá như: lá mơ, lá đinh lăng, lá
sung, lá tầm duộc, lá cóc…Phải chăng cũng vì thế, các cụ thường
gọi ăn gỏi là “kiệu lá”. Xem ra một bữa ăn gỏi, một lần kiệu lá
như vậy vừa hoành tráng, vừa tốn kém lại vừa vui vẻ hơn một đám
tiệc bình thường!
Còn dân bợm nhậu, thì chỉ mong sao cho ngày ăn chay và kiêng
thịt qua mau, đề rồi còn tụ lại, gầy độ và lai rai với nhau nữa
chứ. Chuyện rằng: Vào tối ngày thứ tư lễ tro, mấy ông bợm nhậu
cùng nhau mần thịt một con chó. Họ chờ cho đúng không giờ ngày
thứ năm là bắt đầu nhậu. Họ làm như đã thật lâu không gặp nhau,
đã thật lâu không được cụng ly với nhau, cũng như đã thật lâu
không đụng đũa tới món cờ tây. Ngồi chờ hút thuốc lào vặt cũng
sốt ruột, lợi dụng lúc mọi người lui hui dưới bếp, một anh bạn
vội vặn chiếc kim đồng hồ treo trên tường, vì anh ta thầm nghĩ
rằng:
- Thà một người chết cho toàn dân được nhờ, thà một kẻ chịu tội
cho bè bạn được sớm lai rai.
Người ta ăn để mà sống, đó là chuyện đời
thường, nhưng đời thường vốn có những cái nghịch lý của nó. Vì
thế, không thiếu gì những kẻ sống để mà ăn. Họ đi tìm những
khoái cảm trong việc ăn uống. Có những bữa tiệc thâu đêm suốt
sáng, kéo dài từ ngày này qua ngày khác. Ăn no uống đủ nhưng vẫn
chưa đã. Và thế là ‘’a-lê-hấp’’ móc cổ họng cho chó ăn chè để
tiếp tục nhậu nữa. Tiệc một chưa đủ, bèn rủ nhau gầy sòng làm
tiệc hai. Tăng một chữa đã, bèn mần tiếp tăng hai.
Bên cạnh những kẻ thiếu ăn, có những bàn
tiệc mâm cao cỗ đầy, thức ăn thừa mứa, mà mỗi khẩu phần trị giá
bằng cả một năm lao động cực nhọc của những kẻ khố rách áo ôm.
Đúng là tác phong ném tiền qua cửa sổ. Thánh kinh diễn tả rất
đúng về hạng người thừa tiền và rửng mỡ này, khi gọi họ là những
kẻ chỉ biết lấy cái bụng của mình làm chúa, ‘’quorum deus venter
est’’ !
Thượng Đế đã ban cho con người một cái miệng
và như chúng ta đã biết: Công dụng của cái miệng là để ăn và
nói. Rất nhiều lần chúng ta đã phải khổ sở vì những lời dèm pha
đầy ác ý. Lưỡi người còn sắc hơn cả gươm giáo và độc hơn cả nọc
ong. Số người chết vì cái lưỡi còn nhiều hơn vì những cuộc chiến
tranh tương tàn. Lời nói có thể làm cho chúng ta bị thân bại
danh liệt, tiêu tan sự nghiệp, như ca dao diễn tả:
- Lười không xương nhiều đường lắt léo,
Miệng không vành, miệng méo tứ tung.
Còn về cái khoản ăn cũng không kém phần
nhiêu khê và rắc rối. Người ta lao động quần quật cũng để tìm
kiếm của ăn đút vào miệng. Cái miệng con người đã làm cho bao
súc vật bị tuyệt chủng, bao cây cối đi đến chỗ xác xơ tiêu điều…
và đến núi cũng phải lở. Rồi những cuộc chiến tranh giữa người
với người đã xảy ra cũng chỉ vì miếng ăn. Và miếng ăn quả là
miếng nhục!
Giá như con người không phải ăn nữa thì sẽ
lợi biết bao nhiêu. Lợi được thời gian. Lợi được công sức. Lợi
được tiền bạc. Nhưng mà có lẽ lúc bấy giờ cuộc đời cũng sẽ buồn
đi rất nhiều. Vì thế, gã vẫn cứ phải chịu khó ăn để mà sống mỗi
ngày, cho dù là ăn những của đắng đót.
Gã không biết Thượng đế có bé cái lầm hay
không khi trao ban cho mỗi người chúng ta một cái miệng trong
khi đó lại có những hai con mắt, hai lỗ tai và hai lỗ mũi. Phải
chăng Ngài muốn chúng ta nghe nhiều hơn, nhìn nhiều hơn, hít thở
nhiều hơn, còn ăn và nói thì nên giảm bớt, “sì tốp” lại phần
nào.
Và theo gã nghĩ đó cũng chính là sống tinh
thần chay tịnh. Thực vậy, nếu hiểu sống tinh thần chay tịnh là
kiêng, là nhịn, là dẹp bỏ, là chấp nhận hy sinh, thì một tác giả
nào đó đã đưa ra những cách giúp chúng ta sống tinh thần chay
tinh như sau, đó là:
- Dẹp bỏ những lời nói phạm và lấp đầy cõi
lòng bằng những lời cảm thông, an ủi và khích lệ.
- Dẹp bỏ những thái độ khó chịu và lấp đầy
cõi lòng bằng những tâm tình biết ơn.
- Dẹp bỏ những hiềm khích và lấp đầy cõi
lòng bằng sự tha thứ và kiên nhẫn.
- Dẹp bỏ thái độ bi quan và lấp đầy cõi lòng
bằng niềm hy vọng và sự lạc quan.
- Dẹp bỏ những băn khoăn lo lắng và lấp đầy
cõi lòng bằng niềm tin tưởng vào Chúa trong khoảng khắc hiện
tại.
- Dẹp bỏ những chiếm hữu và lấp đầy cõi lòng
bằng những điều đơn giản của cuộc đời.
- Dẹp bỏ những ý tưởng hời hợt và lấp đầy
cõi lòng bằng những suy gẫm và những lời cầu nguyện.
- Dẹp bỏ những phê bình chỉ trích và lấp đầy
lòng bạn bằng hình ảnh Đức Kitô nơi những người chung quanh.
- Dẹp bỏ tính ích kỷ và lấp đầy lòng bạn
bằng tình cảm thương đối với người khác.
- Dẹp bỏ những hận thù oán ghét và lấp đầy
cõi lòng bằng một thái độ hoà giải.
- Dẹp bỏ thói quen nói quá nhiều và lấp đầy
cõi lòng bằng sự thinh lặng và lắng nghe người khác.
Sống tinh thần chay tịnh như thế, chắc chắn
cuộc đời chúng ta sẽ ngập tràn bình an, yêu thương và hạnh phúc.
Gã Siêu
gasieu@gmail.com
|
VỀ MỤC LỤC |
|
- Mọi liên lạc: Ghi danh, thay đổi địa chỉ, đóng góp ý kiến,
bài vở..., xin gởi về địa chỉ
giaosivietnam@gmail.com
- Những nội dung sẽ được đề cao và chú ý bao gồm:
Trao đổi, chia sẻ những kinh nghiệm thực tế trong việc mục
vụ của Giáo sĩ; Những tài liệu của Giáo hội hoặc của các
Tác giả nhằm mục đích Thăng tiến đời sống Giáo sĩ; Cổ võ ơn
gọi Linh mục; Người Giáo dân tham gia công việc “Trợ lực
Giáo sĩ” bằng đời sống cầu nguyện và cộng tác trong mọi lãnh
vực; Mỗi Giáo dân phải là những “Linh mục” không có chức
Thánh; Đối thoại trong tinh thần Bác ái giữa Giáo dân và
Giáo sĩ… (Truyền giáo hay xây pháo đài?)
- Quy vị cũng có thể tham khảo những số báo đã phát hành tại
www.conggiaovietnam.net
Rất mong được sự cộng tác, hưởng ứng của tất cả Quí vị
Xin chân thành cám ơn tất cả anh chị em đã
sẵn lòng cộng tác với chúng tôi bằng nhiều cách thế khác
nhau.
TM. Đặc San Giáo Sĩ Việt Nam
Lm. Luca
Phạm Quốc Sử
USA
|
|
*************
|
|