Lời Giới Thiệu: Hiến Chế Tín Lý Về Giáo
Hội |
Thánh Công
Ðồng Chung Vaticanô II
Hiến Chế Tín Lý
Về Giáo Hội - Lumen Gentium
Prepared for
Internet by Vietnamese Missionaries in Asia
Lời Giới Thiệu
Căn cứ vào những vấn đề đã được trình bày,
ngày nay ai cũng công nhận Hiến Chế tín lý về Giáo Hội là then
chốt của cả Công Ðồng Vaticanô II. Là vì, sau thế chiến thứ
nhất, vấn đề bản tính Giáo Hội đã trở thành trọng tâm của các
cuộc tranh luận về thần học. Quả thực các Công Ðồng trước, như
lịch sử chứng minh, đã luôn cố gắng đưa ra những giải đáp thích
hợp với nhu cầu thời cuộc; nhưng vấn đề bản tính sâu xa của Giáo
Hội vẫn còn là trọng tâm cho các cuộc tranh luận và cho các
quyết định của Công Ðồng Vaticanô II.
Người ta có thể viện dẫn nhiều lý do lịch
sử, xã hội, thần học để giải thích cho sự tập trung chủ đề ấy về
Giáo Hội.
Công Ðồng Vaticanô I, do những đòi hỏi của
thời cuộc, đã khởi sự suy tư về bản tính thần học của Giáo Hội.
Tuy nhiên, chương trình quá rộng rãi và hoàn cảnh chính trị bất
lợi đã không cho phép công cuộc khẩn thiết ấy được kết thúc tốt
đẹp. Bởi vậy, những chương trình dang dở của Vaticanô I cần phải
được bổ túc cấp thời, nếu không, khoa Giáo hội học có nguy hiểm
là quá thiên về một phía, tức về quyền tối thượng của Giáo Hoàng
Rôma và các quyền bính của Ngài, dễ làm phương hại đến những giá
trị khác trong Giáo Hội.
Hơn nữa, sau thế chiến thứ nhất, một tình
trạng mới đã nảy sinh, lôi kéo theo một lối nhìn mới về Giáo Hội
và một cách thức cảm nghiệm mới về những thực tại của Giáo Hội.
Ðể có lối nhìn mới đó - ngoài những yếu tố kinh tế, văn hóa, xã
hội mà chúng ta không muốn nhắc tới ở đây - chúng ta hãy nêu lên
những động lực sau đây thuộc khoa Giáo hội học đã gây nên một
ảnh hưởng không nhỏ:
a) Phong trào Công giáo Tiến Hành hoặc
những phong trào tương tự trong giáo dân đã cổ võ một tinh
thần tông đồ mới và đồng thời làm cho họ tin tưởng cách chính
đáng là họ thuộc về Giáo Hội nhiều hơn. Sự ý thức "thuộc về" sâu
xa hơn ấy tiến triển dần dần trong cộng đoàn Giáo Hội. Giáo Hội
không được coi là một thực tại dành riêng cho các giáo sĩ nhưng
cho hết mọi người cùng sống, cùng khổ và cùng làm việc trong đó.
Như thế, khoa thần học về giáo dân được phát huy một cách đặc
biệt và sống động, nêu ra mối suy tư thần học về Giáo Hội.
b) Sự suy tư thần học này đã giúp
nhiều cho lối nhìn mới về Giáo Hội, vì đã áp dụng những tiến bộ
của các khoa Thánh Kinh, lịch sử và nhân văn. Thật vậy, thần học
phô bày ý nghĩa xã hội gắn liền với chính nhân vị. Sự liên hệ
giữa đặc tính xã hội hóa đang vươn lên và ý thức mãnh liệt về
địa vị con người không thể không bày tỏ mối suy tư thần học về
Giáo Hội. Do đó mà khoa Giáo hội học ngày nay có những khía cạnh
xã hội và nhân loại, huyền nhiệm và tượng trưng dễ đối kháng với
một khoa Giáo hội học nặng tính cách pháp lý trước đây.
c) Phong trào hiệp nhất cũng ảnh
hưởng đến sự biến đổi này. Ước nguyện hiệp nhất tạo nên những
cuộc đối thoại về thần học, trong đó các vấn đề không được thảo
luận đặt trong tình trạng tương phản biện chứng với các ý kiến
khác nhau. Nhờ thế mà những trực giác về bản tính Giáo Hội nhất
thiết phải phát hiện.
Những điều đó đặt ra cho Giáo Hội hai việc
cần thực hiện: làm sáng tỏ và tìm hiểu các vấn đề của Giáo Hội
trong toàn bộ. Ðã đến lúc Giáo Hội càng ngày càng phải nghiên
cứu, đào sâu và diễn tả chân lý về chính mình. Ngoài ra, ý thức
về chính mình cũng cần được xếp đặt cho có hệ thống theo tính
cách năng động cổ truyền.
Cần nói thêm rằng "trực giác minh bạch về
sự kiện này là: cộng đoàn Kitô giáo chắc chắn sẽ không theo kịp
bước tiến của thế giới ngày nay và phải chịu tăng triển chậm
chạp dù đã đi tiên phong về vấn đề Giáo hội học", trực giác ấy
không thể không buộc Giáo Hội suy nghĩ về những trách vụ cấp
bách của mình, cũng như không thể không buộc Giáo Hội phải làm
cho tổ chức của mình không còn bị cô lập, sự cô lập mà Giáo Hội
có thể rơi vào.
Những điều nói trên cho ta thấy một hình
ảnh khá chính xác của một khoa Giáo hội học tiền Công Ðồng:
a) Trước hết nó mang tính chất đối thoại.
Ðối thoại chân thành và cởi mở với mọi thực tại thụ tạo, trong
đó ý định cứu rỗi của Thiên Chúa được hoàn tất. Giáo Hội không
thể chỉ tự giải thích về bản chất của mình, nhưng còn cần phải
tự đả thông với người khác: với các Kitô hữu không công giáo và
với một thế giới thờ ơ với ơn cứu rỗi.
b) Tuy nhiên, cuộc đối thoại - dù cần thiết
- cũng không thể tự hạn chế vào việc thông cảm đơn thuần nhằm
mục đích hiểu biết. Nhưng Giáo Hội còn phải đi sâu vào những
nguyện vọng của mọi người. Giáo Hội phải hiện diện với mọi thực
tại và với những nỗ lực của mọi người để làm cho xã hội nên tốt
đẹp hơn. Bởi vậy, khoa Giáo hội học cũng mang tính chất nhập
thể vì Giáo Hội hiện diện sống động theo kiểu Chúa Kitô, hầu
có thể cứu chuộc thế giới.
c) Muốn thế, cần phải có sự canh tân tận
bên trong, phải cải tổ cơ cấu, phải mở rộng tới những cách thức
hiện hữu mới, mà không làm Giáo Hội mất sự canh tân và cải tổ.
Khuynh hướng cải tổ, tuy đôi khi đi đến tận căn và thái quá,
nhưng nói chung vẫn có giới hạn chính đáng, rõ ràng, theo câu
châm ngôn cổ truyền: "Giáo Hội phải được cải tổ không ngừng".
d) Khuynh hướng cải tổ trong khoa Giáo hội
học nói lên một tính chất tiêu biểu khác: tính chất hiệp
thông. Giáo Hội phải là trung tâm hiệp thông nhân loại trong
các hoạt động thế tục cũng như trong các hoạt động tôn giáo. Bởi
vậy, Giáo Hội như là bí tích tạo nên sự hiệp thông ấy.
Những đặc điểm trên của khoa Giáo hội học
ngày nay được thu thập và chấp nhận trong văn kiện mà chúng ta
sẽ giải thích sau đây. Chắc hẳn, văn kiện chúng ta hiện có không
phải chỉ được soạn thảo một lần. Trong Giáo Hội vẫn còn nhiều
chống đối với lối nhìn vấn đề theo cách thức mới mẻ này: Có hai
khuynh hướng xuất hiện trong các cuộc thảo luận ở Công Ðồng:
khuynh hướng thứ nhất ủng hộ quan niệm hiện tại mới mẻ và sống
động hơn về Giáo Hội mà yếu tính là như một sự hiệp thông với
mầu nhiệm đời sống Ba Ngôi; khunh hướng thứ hai coi Giáo Hội như
một thể chế, một xã hội hoàn hảo giữa lòng thế giới, có những
bổn phận và quyền lợi riêng. Ðấy chỉ là những vấn đề được nhấn
mạnh vì không bên nào cho quan điểm đối lập là sai. Chính vì đó
mà giai đoạn khởi đầu của văn kiện đã trở nên rất sôi nổi, lâu
dài và đôi khi bi đát. Chúng ta sẽ cố gắng rút ra những đường
nét chính từ việc soạn thảo này.
Lược đồ đầu tiên gồm một tập dầy 123 trang
đã được gửi đến các Giám Mục vào tháng 11 năm 1962. Lược đồ gần
như là một bản toát yếu các vấn đề mà trước khi họp Công Ðồng,
Ðức Gioan XXIII đã hỏi ý kiến cả thế giới. Lược đồ gồm 11 chương
và một phụ trương, trong đó không thấy có những tiêu chuẩn rõ
rệt. Ðây là những vấn đề được bàn đến: về bản tính của Giáo Hội
chiến đấu ở trần gian; về những phần tử của Giáo Hội chiến đấu
và về việc Giáo Hội cần cho ơn cứu rỗi; về chức Giám Mục chính
tòa; về các bậc sống theo đường lối hoàn hảo của Phúc Âm; về
giáo dân; về quyền giáo huấn của Giáo Hội; về uy quyền và sự
vâng phục trong Giáo Hội; về liên quan giữa Giáo Hội và chính
quyền; về sự cần thiết của Giáo Hội để loan báo Phúc Âm cho mọi
dân tộc trên khắp mặt đất; về sự hiệp nhất. Trong phần phụ
trương còn thêm lược đồ về "Ðức Trinh Nữ Maria, Mẹ Thiên Chúa và
Mẹ nhân loại".
Lược đồ đầu tiên ấy được thảo luận trong kỳ
họp thứ nhất (từ ngày 1 đến ngày 7 tháng 12 năm 1962 trong 6
phiên họp: phiên họp khoáng đại thứ 31 tới 36). Tất cả đồng
thanh dành ưu tiên cho đề tài về Giáo Hội nhưng cũng có đôi điều
chỉ trích: lược đồ thiếu liên kết và tổng hợp, không nêu ra
những đường nét chủ chốt. Người ta còn mong muốn một lược đồ có
tầm mức mục vụ hơn. Về nội dung, nhiều Nghị Phụ nhấn mạnh cần
phải lưu ý tới những viễn tượng rộng lớn hơn của khoa thần học
hiện đại, bởi vì cái gọi là "mới", thường chỉ là một ý thức sắc
bén hơn về một chân lý đã quá xa xưa. Cần nhấn mạnh khía cạnh
Giáo Hội là cộng đoàn thiêng liêng, là hiệp thông và mầu nhiệm,
hơn là khía cạnh Giáo Hội là một xã hội hoàn hảo. Một cách tiêu
cực, người ta chỉ trích lược đồ đầy vẻ phô trương thanh thế
(trình bày Giáo Hội như một thế lực đi từ chiến thắng này tơi
chiến thắng khác), quá thiên về giáo sĩ (giản lược đời sống Giáo
Hội vào hoạt động của giáo phẩm mà gạt giáo dân ra ngoài), có
tính cách pháp lý (quá nhấn mạnh những yếu tố pháp lý, vì dù có
cần thiết và chính yếu thật, chúng không phải là những yếu tố
duy nhất trong Giáo Hội). Một cách tích cực, người ta muốn lược
đồ đề nghị phải trình bày một Giáo Hội thấm nhuần tinh thần Phúc
Âm, nghĩa là một tinh thần cởi mở và phổ quát, một tinh thần
truyền giáo, một tinh thần khiêm tốn và phục vụ. Có lưu ý đến
những điều đó rồi mới thấy việc sửa chữa lại lược đồ là việc làm
không thể tránh được.
Theo sự chỉ dẫn của Công Ðồng, ủy ban thần
học bắt tay vào việc trong thời gian giữa kỳ họp nhất và kỳ họp
hai. Ủy ban lưu tâm vào phần trên của lược đồ sơ khởi: phần
dưới, ủy ban chỉ giữ lại một vài đoạn và đưa lên một trong các
chương trên. Văn thể cũng được sửa lại hết. Tất cả chỉ còn lại 4
chương và được gửi tới các Nghị Phụ vào mùa hè năm 1963. Bốn
chương đó bàn về:
I. Mầu nhiệm Giáo Hội.
II. Cơ cấu phẩm trật Giáo Hội, đặc biệt về
chức Giám Mục.
III. Dân Chúa, đặc biệt về giáo dân.
IV. Lời kêu gọi nên thánh trong Giáo Hội.
Trước kỳ họp hai, theo sự gợi ý bằng giấy
viết của nhiều Nghị Phụ, thứ tự này đã được sửa đổi. Ủy ban chấp
thuận. Và đây là thứ tự mới: các đoạn mà toàn thể có đặc điểm về
Dân Chúa đều được rút ra khỏi các chương I và III. Những yếu tố
này được đặt trong một phần khai triển mới, nằm ngay sau phần
trình bày về mầu nhiệm Giáo Hội và trước phần nói về phẩm trật.
Chương III không còn đề cập đến Dân Chúa, nhưng chỉ bàn về những
phần tử của Dân Chúa trên toàn thế giới, tức là giáo dân. Sau
cùng là tu sĩ được đề cập rõ ràng trong tựa đề của chương IV.
Trong nghị trường, các Nghị Phụ thảo luận
theo cách chia sơ khởi là bốn chương. Các thảo luận kéo dài từ
ngày 30 tháng 9 đến 31 tháng 10 năm 1963. Bản trình bày mới được
tiếp nhận nồng hậu. Hầu như toàn thể các phiếu (2,301 chống với
43) đều chấp thuận coi nó như nền tảng cho việc tranh luận.
Nhưng hai khuynh hướng thần học, như chúng ta đã nói trên, tiếp
tục biện hộ cho quan điểm của mình. Phần đông các Giám Mục hoan
hỉ và hài lòng về lối trình bày tỉ mỉ và nhận định rằng toàn bộ
từ đây đã được xây dựng vững chắc hơn. Các ngài vui mừng đón
nhận những ý kiến gợi lên việc hiệp nhất và mục vụ. Các cuộc
thảo luận trở nên gay go khi bàn về Giám Mục Ðoàn (chương II).
Người ta sợ Giám Mục Ðoàn sẽ phương hại tới quyền tối thượng của
Giáo Hoàng. Một cuộc bỏ phiếu để làm sáng tỏ đã được tổ chức
ngày 30 tháng 10 năm1963. Kết quả là đa số nghiêng về Giám Mục
Ðoàn. Tuy nhiên các cuộc thảo luận vẫn tiếp diễn và cũng nhờ có
thảo luận mà cơ ấu của lược đồ thay đổi dần dần. Một cơ cấu mới
hình thành. Chủ đề Dân Chúa làm thành chương II và tiếp theo sau
là chủ đề về Phẩm Trật. Các tu sĩ xin Công Ðồng bàn về họ trong
một chương biệt lập. Chương IV của lược đồ phân thành hai: lời
kêu gọi nên thánh (chương V) và các tu sĩ (chương VI). Sau các
cuộc thảo luận khá sôi nổi và sau một cuộc bỏ phiếu với kết quả
sát nút, Công Ðồng quyết định cho xen lược đồ về Ðức Mẹ vào Hiến
Chế về Giáo Hội (Chương VIII). Sau cùng, Công Ðồng còn thêm một
chương khác (chương VII) nói về đặc tính cánh chung của Giáo
Hội, về sự liên lạc giữa Giáo Hội dưới đất và Giáo Hội trên
trời. Ðó là diễn tiến của bản văn chung quyết như chúng ta hiện
có.
Theo cách sắp xếp hiện thời, thì cứ hai
chương một đi với nhau, theo một thứ tự hợp lý, có lẽ không ngờ
tới, nhưng dễ biện minh:
1) Hai chương đầu nói về mầu nhiệm Giáo
Hội, trước hết theo chiều hướng siêu việt, sau đó theo hình
thức lịch sử. Những đặc điểm căn bản của Giáo Hội như phương
tiện cứu rỗi đều thấy xuất hiện trong suốt cả hai chương. Cách
mô tả giản dị nhưng không một ai có thể nghi ngờ về ý tưởng
phong phú của chúng.
2) Hai chương kế tiếp mô tả cơ cấu hệ
thống của cộng đoàn được Chúa Kitô thiết lập. Các mục tử
giảng dạy, thánh hóa và cai trị. Còn giáo dân, dưới sự chỉ dẫn
của các ngài, tham gia vào một công trình cứu độ: đó là hai mặt
của một bức hình: một mặt là chương III nói về Phẩm Trật và mặt
kia là chương IV, về Giáo Dân.
3) Sau đó, lược đồ chú ý tới sứ mệnh cốt
yếu của Giáo Hội tức là việc thánh hóa mọi phần tử trong Dân
Chúa. Ðời sống tu trì gắn liền với mục đích ấy và đó là lý do
khiến Giáo Hội coi nó là quan trọng và rất lưu tâm đến. Xét trên
bình diện này, người ta không còn để ý tới sự phân biệt giữa
giáo phẩm và giáo dân. Ðức ái hoàn hảo là luật sống độc nhất cho
mỗi người, trong khi đó không phải ai cũng giữ qui luật đời tu.
Phản đối nguyên tắc này có nghĩa là không biết đến giá trị Kitô
giáo của hôn nhân và gia đình.
4) Chúng ta đi hai chương cuối cùng: chương
VII trình bày sự bành trướng cánh chung của Giáo Hội
trong huy hoàng và trong cộng đoàn các Thánh; chương VIII và
cũng là chương sau cùng, bàn về địa vị và sứ mệnh của Ðức
Trinh Nữ, Mẹ Chúa Kitô và Mẹ nhân loại, ở trong cộng đoàn có
Ngài là kiểu mẫu và là Ðấng bảo trợ. Nhờ có chung nền tảng mà
hai chương này liên kết được với nhau. Cả hai cùng hướng về cuộc
kết thúc huy hoàng, lúc đó bóng đêm của mầu nhiệm sẽ nhường chỗ
cho ánh sáng.
Sau các cuộc thảo luận gay go và nhiều lần
bỏ phiếu, người ta đã đi đến kết thúc. Nhưng một thiểu số ngoan
cố không chịu khuất phục. Ðể xoa dịu và để mọi người đồng thanh
chấp nhận một vấn đề quan trọng như thế - một sự đồng thanh cần
thiết trong tất cả các quyết định của Công Ðồng - ngày 16 tháng
11 năm 1964, Ðức Giáo Hoàng đã đề nghị với Công Ðồng để thêm một
phần "chú thích sơ khởi" cho chương III của Hiến Chế. Giáo lý
của chương III trong Hiến Chế phải được giải thích và được hiểu
theo phần chú thích này. Một số đông các Nghị Phụ bối rối về
phần chú thích, nhưng dường như không có lý do. Thật vậy, phần
đó không chứa đựng điều gì thực sự mới mẻ nhưng chỉ giải thích
rõ rệt hơn một vài ý niệm pháp lý, vì có một số Nghị Phụ dựa vào
những ý niệm này để bênh vực cho những thắc mắc của các ngài.
Cũng nên biết rằng, phần chú thích sơ khởi ấy tương ứng với phần
giải thích rất tỉ mỉ về 5 vấn đề đặt ra ngày 30 tháng 10 năm
1963, phần giải thích mà ngay cả những vị bây giờ thắc mắc với
phần chú thích cũng đã không ngần ngại bỏ phiếu chấp thuận. Lời
diễn tả ở hai phần kể là như nhau. Khi mây đen dần dần tan biến,
người ta đã xóa tan được những ngộ nhận sau cùng, nhờ xem kỹ lại
phần chú thích sơ khởi. Trong cuộc đầu phiếu ngày 19 tháng 11
năm 1964 về toàn bộ lược đồ, chỉ còn 10 phiếu chống; trong cuộc
đầu phiếu chung quyết trọng thể ngày 21 tháng 11 năm 1964, số
phiếu chống trụt xuống còn 5. Như thế kể là mọi người đã đồng
thanh chấp nhận.
Sau phần phác họa về lịch sử các biến cố,
chúng ta sang phần phân tích bản văn, đi theo thứ tự của Hiến
Chế. Mục đích mà chúng ta muốn nhằm tới là: qua những chú thích
đơn sơ vắn tắt, chúng ta sẽ trung thành hết sức có thể với điều
Công Ðồng giảng dạy. Chúng ta nhằm đến phần chính yếu, tìm cách
xác định nội dung những điều Công Ðồng quả quyết và bỏ qua những
điều giải thích sâu rộng hơn cũng như những vấn đề đang được các
thần học gia tranh luận.
|
VỀ MỤC LỤC |
|
TÔI MUỐN THẤY MỘT BÀI GIẢNG
|
* Tôi nhai
và nuốt Lời Chúa: “Vậy, những gì họ nói thì anh em hãy làm, hãy
giữ; nhưng đừng theo hành động của họ mà làm, vì họ nói mà không
làm.” (Mt 23, 3)
Một Giáo sĩ sau khi về cai
quản một Cộng đoàn được một thời gian ngắn, ông nhận được một
bức thư, nội dung như sau:
Thưa
ông Giáo sĩ, tôi muốn thấy một bài giảng, hơn là nghe một bài
giảng mỗi ngày. Tôi muốn ông cùng đi với tôi, chứ không chỉ
đường cho tôi mà thôi. Con mắt là một học trò giỏi và thông minh
hơn lỗ tai. Lời khuyên thâm thúy vẫn khó hiểu; nhưng gương mẫu
ăn ở bao giờ cũng rõ ràng. Tốt hơn hết là ông thực hành điều
mình tin đi, vì ai cũng thấy việc lành mình được thực hiện. Nếu
tôi thấy ông làm, tôi có thể tập làm theo rất nhanh chóng.
Những
bài của ông có lẽ rất khôn ngoan, xác đáng và hấp dẫn; nhưng tôi
muốn học tập đương lúc xem ông thực hành. Vì tôi có thể hiểu sai
cách giảng của ông; nhưng tôi không bao giờ hiểu sai cách làm
việc và cách cư xử của ông.
Kính chào ông. - G. Banner
* Một
phút suy tư: Những gì
Tín hữu đòi hỏi ở một người lãnh đạo là sự sống gương mẫu, mà ai
cũng mong muốn như vậy.
Hàng ngàn
bài giảng vẫn chỉ là vô ích nếu không được cụ thể hoá qua đời
sống của người giảng. Giảng Lời Chúa khác với những bài diễn
thuyết ở ngoài đời. Ở đó phải có quyền năng của Thánh Linh và
trách nhiệm bởi kinh nghiệm sống của một Ngôn sứ, nó không chỉ
là lý thuyết. Người ta sợ những kẻ nói nhiều ! Trong chức vụ
của Ngài, Chúa Giêsu phải đối diện với một hàng ngũ lãnh đạo tôn
giáo chỉ toàn là nói suông ! Lời Chúa đã quở trách họ. (x. Mt
23, 14-15)
Đức Giêsu
khuyên người dân nghe kinh sư và Pharisêu giảng dạy về đạo lý
tinh tuyền của ông Mô-sê; nhưng người dặn phải đề phòng lối sống
của họ, vì không làm theo với giáo lý của họ dạy.(c. 23-24)
Hội Thánh
sống động hay thiếu sinh khí, phần lớn tùy thuộc vào người chịu
trách nhiệm có thực thi những điều mình rao giảng hay không !
Nếu bạn đang phục vụ Lời Chúa, thì lá thư trên của G. Banner
được gởi đến cho bạn và tôi hôm nay ! (x. Mt 23, 4-36)
Phó tế GB.
Maria Nguyễn Định * johndvn@yahoo.com
|
VỀ MỤC LỤC |
|
ĐIỆU RU
BUỒN
|
Khi cha Quang
Uy ngỏ lời muốn tôi viết bài trong trang báo Ephata tuần này,
tôi đã nhận lời vì cũng muốn nối mạch với quí độc giả quí mến
của trang báo điện tử Ephata, đồng thời viết là một trong những
phương pháp giúp tôi suy tư và trải nghiệm cuộc sống, lâu ngày
không viết tôi e rằng mình sinh lười biếng chăng ?
Gần đây
tôi có thói quen vào đọc báo trên một số trang mạng, trang
Yahoovietnam là một trong những trang tôi hay vào nhất. Ngày
16.9.2011, tôi đọc được bài “Những người chở che cho gần 45.000
thai nhi”. http://vn.news.yahoo.com/nh%E1%BB%AFng-ng%C6%B0%E1%BB%9Di-ch%E1%BB%9F-che-cho-g%E1%BA%A7n-45-000-054000552.html của
tác giả Trần
An.
Khi tôi đọc bài này lúc 5g20 ngày thứ bảy
17.9.2011, đã có 273 lời bình, tuyệt đại đa số là những lời chia
sẻ và than vãn về tệ nạn phá thai, có những lời cầu nguyện tha
thiết được đăng tải.
Bài báo nói
về một vùng đất dễ thương hiền hòa xưa nay thường quyến rũ làm
say mê lòng du khách: Huế. Vùng đất tưởng lặng yên nhưng hơn 19
năm qua đã có những chứng tích dậy sóng về lòng người, về xã
hội. một nghĩa trang dành cho các thai nhi bị từ chối đã âm thầm
mọc lên, con số cứ tăng dần theo năm tháng, để rồi ngày nay trở
thành một nghĩa trang rộng 2ha, một nghĩa trang mà mỗi ngôi mộ
có thể chôn cả hai mười mấy hai chục em trong đó.
19 năm của
một nghĩa trang không có nghĩa là 19 năm xuất hiện hành vi tội
ác phá thai, hơn 19 năm là điều chắc chắn và nhiều năm trước đó
đã xảy ra hiện tượng này. Năm 1991, tôi có dịp dừng chân ở Huế,
tôi được gặp gỡ một số anh chị em thiện nguyện ở Huế, tôi đã
biết trước đó đã có những cố gắng tìm kiếm nhặt về các thai nhi
bị phá, đã có những cố gắng hình thành một ngôi nhà lá trong một
nhà xứ làm nơi đón tiếp và nuôi dưỡng các chị em bị bỏ rơi khi
mang thai. Ngày ấy trở lại Sàigòn, lòng tôi cứ băn khoăn hoài về
những sinh linh bị phá bỏ, về những mảnh đời khổ đau bị bỏ rơi.
Huế nhỏ bé,
Huế hiền hòa, Huế lặng lẽ mà còn vậy, Sàigòn, Hà Nội thì sao ?
Theo thống kê, một ngày trung bình trên cả nước có đến khoảng
10.000 ca phá thai ( khoảng 3 triệu ca 1 năm ), tập trung ở hai
thành phố lớn, còn lại rải đều cho các thành phố khác. Từ Tổng
Giáo Phận Huế ( như bài báo trên đã nói ), ngày nay không Giáo
Phận nào mà không có “Nghĩa Trang Anh Hài”, có Giáo Phận còn có
hơn một nghĩa trang, nơi công khai, nơi kín đáo, lặng lẽ với
những con người âm thầm đi chôn cất các em. Chỉ là một đầu mối
trong nhiều đầu mối, anh em Chúa Cứu Thế Sàigòn chúng tôi mỗi
ngày tiếp nhận trung bình trên 300 thai nhi bị phá bỏ.
Câu chuyện
nhức nhối đã lâu, hệ lụy khủng khiếp như thế nào chúng ta đã
biết, trên mặt báo Ephata này, nhiều lần chúng tôi đã suy nghĩ
và chia sẻ với quí độc giả. Những cố gắng hành động, những bài
báo, những bài giảng, những buổi cầu nguyện, các buổi hội thảo…
đã gây ý thức cho nhiều giáo hữu, tuy nhiên thẳng thắn mà nói,
vẫn còn rất nhiều người – Giáo Dân và cả Giáo Sĩ – thờ ơ trước
tội ác này. Chúng ta chưa cố gắng mở rộng phạm vi thông truyền
tin tức đến với quảng đại quần chúng, chúng ta chưa quyết liệt
với tội ác, chúng ta chưa có hoặc chưa đeo đuổi đến cùng những
biện pháp ngăn chặn tệ nạn mà chúng ta đã tìm kiếm và đề ra,
chúng ta chưa kiên nhẫn miệt mài cầu nguyện…
Một lần nữa
chúng tôi đề nghị:
Để đến với quảng đại quần chúng
Cần phải tiếp
tục và đẩy mạnh việc thông tin, cảnh báo, chia sẻ và vận động
qua các phương tiện truyền thông. Một cách khá hữu hiệu là chúng
ta thực hiện các tờ bướm. Cách làm việc này, chúng ta gởi đến
khắp các hang cùng ngỏ hẻm, khắp các miền đất nước, nhất là
những vùng quê, những vùng sâu vùng xa, những anh chị em nghèo,
những anh chị em thiếu hoặc không có phương tiện để tiếp cận với
Internet. Giá trị của nó giúp hiểu biết, cảnh báo, hướng dẫn
thực hành những điều tốt, giáo dục lương tâm, biết địa chỉ tìm
đến khi hữu sự.
Phòng Tham
Vấn DCCT, 38 Kỳ Đồng, Quận 3, gần đây có soạn hai bộ bướm, “Mẹ
và con gái” và “Bố và con trai” nhằm giúp cả cha mẹ lẫn con cái
các kiến thức về nhân cách sống, quí trọng thân xác và tâm lý
giáo dục trong gia đình.
Còn Trung Tâm
Mục Vụ DCCT thì đã biếu tặng cả trăm ngàn tờ bướm, mấy chục ngàn
bộ Audio CD có nội dung BVSS đến các cha và anh chị em các Giáo
Xứ của nhiều Giáo Phận trong Nam ngoài Bắc, các Dòng Tu nam nữ,
các khu nhà trọ công nhân, sinh viên và người Xa Quê…
Phải quyết liệt với tội ác và đeo đuổi đến
cùng những gì đã đề ra
Nơi địa
phương chúng ta sinh sống, nơi môi trường chúng ta làm việc, nơi
những ai chúng ta gặp gỡ tiếp xúc, chúng ta cần thẳng thắn chia
sẻ, làm cho mọi người ý thức phá thai là tội ác.
Các loại sinh
hoạt, các nơi tập họp không đứng đắn ( bia và càphê đèn mờ, ghế
đôi, càphê chuồng, “tắm tiên”, nhậu sinh thái, khách sạn giờ,
phòng trọ rẻ tiền tính giờ… ) là môi trường sinh sôi nảy nở tội
ác cần phải nghiêm chỉnh xem xét, mềm mỏng thuyết phục nhưng lại
dứt khoát tẩy chay và dẹp bỏ, không để con em chúng ta lai vãng
đến những nơi ấy.
Lượng giá,
phân tích, giáo dục và ngăn chận các thứ sách báo phim ảnh xấu,
không để chúng tràn lan trong giới trẻ…
Tôi có quen
một người kinh doanh khách sạn, chị cương quyết không nhận khách
thuê phòng theo giờ, dẫu rằng việc này mang lại lợi nhuận khá
lớn cho người kinh doanh khách sạn, nhiều người thuyết phục chị
bỏ quan điểm này, ngay cả nhân viên phục vụ cũng có ý kiến
khuyên chị nên xem lại quyết định này, vì như thế sẽ vắng khách
trọ, chị vẫn cương quyết nói không, một thời gian sau, khách sạn
của chị từ ế ẩm dần dần có khách, mà là khách “đàng hoàng tử
tế”. Bây giờ, nhiều năm trôi qua, khách sạn của chị luôn đầy
phòng, tỷ lệ khách luôn ở mức 80% trở lên, thậm chí khách thuê
dài hạn nhiều hơn khách thuê lẻ.
Tôi nghĩ
những người có trách nhiệm trong Giáo Hội ( Linh Mục, Tu Sĩ,
Giáo Lý Viên, Hội Dồng Mục Vụ Giáo Xứ… ) cần lên tiếng thật rõ
và mạnh và tích cực ngăn và ngừa thảm họa phá thai. Trong phạm
vị trách nhiệm của mình, mỗi vị cần khôn ngoan và cương quyết để
đạt kết quả.
Từ thao thức
đến cố gắng bắt tay vào việc, tổ chức các buổi nói chuyện, giáo
dục cho cộng đoàn biết tôn trọng Sự Sống, còn các bạn trẻ thì
chọn sống Khiết Tịnh trước hôn nhân, đến với các lớp Giáo Lý
chuẩn bị Hôn Nhân khi đến vừa đến tuổi trưởng thành ( không đợi
gần ngày cưới mới chạy vội đi xin học lớp “mì ăn liền” cho kịp
), gầy dựng gia đình hạnh phúc thủy chung, đồng hành nâng đỡ các
gia đình trẻ, các gia đình có trục trặc, có vấn đề…
Kiên nhẫn, miệt mài cầu nguyện
Một xác tín
cụ thể của anh chị em chúng tôi khi tham gia việc Bảo Vệ Sự
Sống, đó là hiệu lực của lời cầu nguyện, vắn tắt rằng, chúng ta
không thể làm được việc gì nếu chúng ta không cầu nguyện.
Xin được nhắc
lại lời đề nghị cũ, mỗi ngày thứ năm chúng ta dâng lễ cầu nguyện
cho công cuộc Bảo Vệ Sự Sống, mỗi ngày chúng ta đọc kinh “cầu
cho Sự Sống”. Chuỗi Mai Khôi là phương thế cầu nguyện mọi
nơi mọi lúc. Người dấn thân cho công cuộc Bảo Vệ Sự Sống không
bao giờ rời chuỗi Mai Khôi. Cứ cầu nguyện rồi Đức Mẹ sẽ làm việc
cho chúng ta. Làm tuần Cửu Nhật kính Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp. Tổ
chức các Thánh Lễ cầu nguyện cho công cuộc Bảo Vệ Sự Sống...
Chúng ta đã
được đưa vào “cuộc chiến chính nghĩa”, nếu không trang bị cho
chính mình Lời của Chúa, không thắt đai công chính, không mặc áo
giáp là lòng nhiệt thành, làm sao có thể dành được chiến thắng ?
Chiếc xe đang lao dốc, kéo theo cả tính mạng của chúng ta, sẽ
không có ai thoát ngoài vòng kềm chế của Xatan, đừng tưởng rằng
mình đứng ngoài cuộc, xin đừng thờ ơ và vô cảm.
Đừng để cứ
phải hát mãi với nhau điệu ru buồn…
Lm. VĨNH
SANG, DCCT, 17.9.2011 (Ephata 477)
|
VỀ MỤC LỤC |
|
AI ĐƯỢC MỜI GỌI PHẢI NÊN THÁNH ?
|
Trong thời
Cựu Ước, Thiên Chúa đã nói với dân Do Thái như sau:
“ …vì
Ta là Thiên Chúa, chứ không phải người phàm
ở giữa người,
Ta là
Đấng Thánh…..”( Hôsê 11:9)
Hay:
“ Thật
vậy, Ta là ĐỨC CHÚA, Đấng đã đưa các ngươi từ đất Ai Cập lên, để
Ta làm Thiên Chúa của các ngươi; vậy các ngươi
phải thánh thiện vì Ta là Đấng Thánh.”
( Levi 11: 45)
Hoặc đặc biệt
lời Thiên Chúa nói với ông Abraham, Tổ phụ Dân Do Thái sau đây:
“ …Ta
là Thiên Chúa toàn năng, người hãy bước đi trước mặt Ta và
hãy sống hoàn hảo ( thánh thiện).” (Stk:17: 1)
Khi đến trong
trần gian để rao giảng Tin Mừng Cứu Độ, Chúa Giêsu cũng đã kêu
gọi các môn đệ của Người phải sống thánh thiện, phải trở nên
hoàn hảo
“ như Cha anh em trên trời là Đấng hoàn
thiện.” ( Mt 5:48)
Tất cả những
lời Chúa trên đây không chỉ nhằm nói riêng với Dân Do Thái
xưa kia, hoặc cho riêng các Tông Đồ của Chúa Giêsu mà cũng
muốn nói với hết mọi người chúng ta ngày nay, những kẻ diễm
phúc được biết và tin có Chúa là Cha cực tốt cực lành, ”nhân
hậu và từ bi, hay nén giận, giầu nhân nghĩa và thành tín, giữ
lòng nhân nghĩa với muôn ngàn thế hệ ..”
( Xh 34: 6)
Thiên Chúa là
Đấng Thánh, trước tiên, có nghĩa là Ngài siêu vượt trên hết, hay
thoát ra khỏi mọi phạm trù của bất toàn, bất hảo, bất lương,
khuyết điểm và lầm lỗi. Nơi Ngài chỉ có sự hoàn hảo hay thánh
thiện, khôn ngoan và nhân từ tuyệt đối mà thôi.
Cho nên,
Người cũng mong muốn tất cả con cái loài người trở nên hoàn
thiện để
“ nhờ đó, anh em được thông phần bản tính
Thiên Chúa sau khi đã thoát khỏi cảnh hư đốn do dục vọng gây ra
trong trần gian này.” ( 2 Pr 1: 4)
Những điều
hư đốn do dục vọng gây ra trong trần gian này là : hận thù, ghen
ghét, bất công, nhẫn tâm làm điều độc ác như giết người, hành hạ
trẻ con, phá thai, trộm cướp, lưà đảo, gian tham, gian dâm,
khoái lạc chủ nghĩa (hedonism) thay chồng đổi vợ, ô uế, bất công
, bóc lột, tham nhũng, cờ bạc, tôn thờ vật chất và mọi vui thú
vô luân, vô đạo…tất cả đều vô cùng bất xứng với phẩm giá con
người là hình ảnh của Thiên Chúa, Đấng toàn năng, toàn thiện, và
toàn mỹ.
Trên đây là
thực trạng “hư đốn” của biết bao triệu triệu con người ở khắp
nơi và ở mọi thời đại, đặc biệt là thế giới hiện nay đang sống
với ”văn hóa sự chết” chối bỏ Thiên Chúa và chà đạp lên hay
không nhìn nhận mọi giá trí tinh thần, luân lý và đạo đức.
Trước thực
trạng này, người tín hữu Chúa Kitô đang sống niềm tin trong Giáo
Hội Công Giáo, -hơn bao giờ hết- được mời gọi sống thánh thiện
để làm chứng cho Chúa là Đấng Thánh, là Chân Thiên Mỹ tuyệt đối,
hoàn toàn tách biệt khỏi mọi bất toàn, bất công, gian ác và nhơ
uế.
Thật vậy, làm
nhân chứng cho Chúa bằng đời sống thánh thiện là cách tốt nhất,
cụ thể nhất để thuyết phục người chưa biết Chúa tin có Chúa là
Đấng Thánh. Do đó, điều kiên trước tiên để được sống thánh
thiện đòi hỏi mọi người tín hữu chúng ta phải xa tránh mọi tội
lỗi vì chỉ có tội mới làm cho chúng ta không nên giống Chúa là
Đấng trọn tốt trọn lành mà thôi. Và cũng chỉ có tội mới đẩy xa
chúng ta ra khỏi tình thương của Chúa và làm cho công nghiệp cứu
chuộc vô giá của Chúa Kitô trở nên vô ích cho những ai cứ chọn
con đường gian tà, quỉ quyệt để sống và không có thiện chí muốn
hoán cải để được tha thứ và cứu rỗi.
Nói khác đi,
sự thánh thiện đòi hỏi phải xa lìa mọi thói hư tật xấu, mọi ô
uế của trần gian phàm tục , mọi lẫn lộn giữa sự thiện và sự
dữ. Nghĩa là phải khử trừ mọi sự dữ, sự gian ác như Thiên Chúa
đã đòi hỏi dân Do Thái xưa phải thực hành để xứng đáng là dân
tộc thánh :
“ …Anh
em phải khử trừ sự gian ác, không cho tồn tại trong Israel.” (
Đnl 17: 12)
Phải khử trừ
sự gian ác vì nó xúc phạm nặng nề bản chất thánh thiện và nhân
lành của Thiên Chúa, Đấng muốn cho mọi người được nên thánh để
được tham dự vào sự sống và hạnh phúc vĩnh cửu của Người trên
Nước Trời mai sau.
Nhưng tiếc
thay, sự gian ác , độc dữ ( evils) ngày một gia tăng lộng hành
ở khắp nơi trên thế giới ngày nay. Gian ác vì giết người, giết
thai nhi, và đặc biệt, giết trẻ nữ ( infanticide), một thực
trạng rất đau lòng và ghê sợ ở Trung Hoa vì chính sách “một con
cho mỗi gia đình”. Nạn giết trẻ nữ đã tồn tại từ bao thế kỷ
trong xã hội Trung Hoa chỉ vì quan niệm trọng nam khinh nữ, một
tội ác chống lại Thiên Chúa là Đấng dựng nên con người có nam có
nữ. Đặc biệt nữa, gian ác vì các sách lược của những kẻ độc
tài, độc đảng muốn bảo vệ sự cai trị hà khắc của họ, nên đã
giết hại, thủ tiêu hay bỏ tù không thương tiếc những ai dám
chống lại họ để đòi hỏi một đời sống tự do, ấm no, công bình và
dân chủ.. Nhưng bọn độc tài, gian ác này không bao giờ biết
thương và lo cho hạnh phúc của ai ngoài hạnh phúc và sang giầu
của bọn chúng và tập đoàn thống trị của chúng.. . Tệ hại hơn
nữa, chúng còn dung dưỡng hay làm phát sinh những tệ đoan xã
hội, những băng đảng của xã hội đen, những tên trộm cướp, giết
người được mạng lưới an ninh chìm của chế độ che chở (vì đã đút
lót tiền cho bọn này) để lộng hành, đe dọa an ninh và mạng sống
của người dân lành chẳng may sống dưới ách thống trị vô nhân
đạo của bọn người gian ác này..
Do đó, những
ai muốn sống thánh thiện để nên giống Chúa là Đấng Thánh thì cần
thiết phải khử trừ sự gian ác như lời Chúa đã truyền cho dân Do
Thái trên đậy.
Sống thánh
thiện không phải là đòi hỏi riêng cho một số người nào trong
Giáo Hội mà là nhu cầu của mọi người có niềm tin nơi Chúa là
Đấng trọn tốt trọn lành. Do đó, sống thánh thiện phải là khát
vọng sâu xa nhất của lòng người để trở nên giống Chúa trong
mọi chiều kích của sự thiện hảo, sự trong sạch, sự công chính và
lòng quảng đại từ bi.
Mặt khác,
sống thánh thiện cũng đòi hỏi sự khiêm nhường và tính thần nghèo
khó của Phúc Âm mà Chúa Giêsu đã nêu gương sáng, khi Người
chọn sinh ra, lớn lên đi rao giảng và cuối cùng chết trong sự
khó nghèo tột độ để cho nhân loại được sống và hưởng giầu sang
phú quí trên Nước Trời. Đó là lý do vì sao Chúa đã nói với một
thanh niên giầu có một ngày kia như sau:
“Nếu anh
muốn nên hoàn thiện, thì hãy đi bán tài sản của anh và cho người
nghèo. Rồi hãy đến theo tôi.” (Mt 19: 21)
Như thế, nếu
khinh miệt người nghèo, người hèn kém, để chỉ làm thân, làm bạn
với người giầu sang và danh vọng chóng qua ở đời này thì làm
sao có thể làm chứng cho Chúa Kitô, Đấng đã tự nguyện sống như
kẻ vô gia cư, nghèo hèn, không được như “con chồn có hang,
chim trời có tổ, nhưng Con Người (Chúa Kitô) không có chỗ tựa
đầu. “ ( Mt 8 : 20)
Tinh thần khó
nghèo và khiêm hạ nói trên của Chúa Kitô phải là gương mẫu trước
tiên cho các Tông Đồ xưa kia và ngày nay trong Giáo Hội phải
noi theo để nên nhân chứng cho Chúa về sự khinh chê những của
cải vật chất và vinh quang phù phiếm của trần gian này.
Có thánh
thiện thực sự trong chiều kích này thì mới có sức thu hút và
thuyết phục người khác tin và sống điều mình giảng dạy cho họ.
Ngược lại, nếu cũng chậy theo tiền của, ham danh hám lợi và làm
tay sai cho thế quyền để trục lợi cho cá nhân mình, phương hại
cho sứ vụ rao giảng Tin Mừng Cứu Độ, thì sẽ trở thành nhân
chứng cho ai và thuyết phuc được ai ?
Chúa
nói: “Ai có tai
nghe thì nghe”.( Mt 13 : 43; Lc 8: 8; Mc 4: 23)
Lại nữa,
Chúa sống nghèo hèn như trên cũng để nêu gương sống khiêm nhu
và thanh bần đặc biệt cho những ai chỉ chú tâm tìm sự sang
giầu, và địa vị xã hội bằng con đường gian ác, bất lương, tham
nhũng (corruption) để được lợi lãi bất chính, chóng qua thay vì
tìm kiếm sự giầu sang, phú quí đích thực và bền vững ở trên
trời , nơi ” mối mọt không làm hư nát, nơi trộm cắp không đào
ngạch mà lấy đi được.” (Mt 6:20)
Mặt khác,
sống thánh thiện cũng đòi hỏi phải thực thi bác ái và công bằng
với người khác vì Thiên Chúa là tình thương và công bằng tuyệt
đối. Do đó, bóc lột và dửng dưng trước sự đau khổ , bệnh tật và
nghèo đói của người khác là ngoảnh mặt làm ngơ với chính Chúa
Kitô đang thực sự hiện diện nơi những người anh chị em xấu số
đó (x. Mt 25 : dụ ngôn ngay phán xét chung)
Trên đây là
những khía cạnh cụ thể hay bề nổi của đời sống thánh thiện. Ở
chiều sâu hay mặt chìm của đời sống này là lòng khát khao muốn
nên giống Chúa Kitô về mọi phương diện để có thể nói được như
Thánh Phaolô là “Tôi sống nhưng không còn phải là tôi, mà là
Đức Kitô sống trong tôi..” (Gl 2:20)
Thật vậy,
Chúa Kitô không những là hiện thân tình thương mà còn phản ánh
trung thực sự thánh thiện của Chúa Cha trong Chúa Thánh Thần,
như Phêrô đã tuyên xưng một ngày kia :
“Phần
chúng con, chúng đã con tin và nhận biết rằng chính
Thầy là Đấng Thánh của Thiên Chúa.”
( Ga 6: 69)
Vì thế, mặc
lấy Chúa Kitô là mặc lấy sự thánh thiện. sự vẹn toàn, vì Chúa
chính là hiện thân của tất cả chiều kích hoàn hảo đó, và cũng
là “con chiên không tì vết” (1 Pr 1: 19) đã tự hiến
dâng làm Hy Tế đền tội cho nhân loại đẹp lòng Chúa Cha là
Đấng Thánh. Chính nhờ hy tế Chúa Kitô đã dâng một lần trên
thập giá năm xưa, “mà vĩnh viễn làm cho những kẻ Người đã
thánh hóa được nên hoàn hảo.” ( Dt 10: 14)
Nhưng muốn
giữ vững sự hoàn hảo nhờ công nghiệp cứu chuộc của Chúa Kitô
như lời Kinh thánh trên đây, thi nhất thiết đòi hỏi chúng ta
phải có thiện chí muốn sống hoàn hảo, nghĩa là muốn nên thánh
ngay trong cuộc sống trên trần gian này. Thiện chí đó được thể
hiện qua quyết tâm xa tránh mọi gian tà và tội lỗi là những cản
trở cho sự hoàn hảo để nên thánh như Chúa mong muốn cho mỗi
người tín hữu chúng ta.
Sống giữa
những người làm điều gian ác, bất lương, vô nhân đạo, ô uế với
đam mê dâm loạn và mọi vui thú vô luân vô đạo, dành nhiều thì
giờ vào việc vui chơi, ăn uống, nhẩy nhót mất nết, người sống
thánh thiện sẽ là nhân chứng sống động cho Chúa, ví như những
vì sao chiếu sáng trên bầu trời tối đen về đêm.
Dĩ nhiên, cho
được sống khác biệt với loại người gian tà nói trên, chúng ta
phải cậy nhờ ơn thánh Chúa nâng đỡ, vì “không có Thầy anh em
không làm gì được.” (Ga 15 : 5). Thiện chí về phiá chúng ta
là cần nhưng chưa đủ. Muốn đủ phải cậy nhờ ơn thánh Chúa là động
lực chính nâng đỡ thì chắc chắn chúng ta sẽ đạt được sự hoàn
hảo để bước đi theo Chúa mỗi giây phút trong cuộc lữ hành tiến
về quê Trời, mặc dù bản chất yếu đuối con người, mưu chước của
ma quỉ và gương xấu của thế gian luôn ra sức để cản trở, kéo lui
chúng ta trên đường hoàn thiện, trở nên thánh để giống Chúa là
Đấng Thánh.
Nói rõ hơn,
muốn nên thánh, nên hoàn hảo thì phải mặc lấy Chúa Kitô, là
khuôn mẫu đích thực của sự ven toàn và thánh thiện. Nghĩa là
phải sống như Chúa đã sống, thực thi giáo huấn của Người về tình
thương, tha thứ, yêu chuộng công bình và thực thi bác ái, nhất
là xa tránh mọi tội lỗi mọi thói hư tật xấu, mọi điều gian ác
của thế gian để nên giống Chúa từ trong tâm hồn ra đến hành
động bên ngoài. Đó cũng là cách cụ thể để làm nhân chứng cho
Chúa trước mặt người đời, đặc biệt trước những người đang chối
Chúa bằng chính đời sống của họ.để làm những sự dữ như giết
người, phá thai, lừa đảo, gian manh, thay chồng đổi vợ, dâm
đãng, tôn thờ vật chất và mọi thú vui vô luân vô đạo ở khắp mọi
nơi hiện nay. Thêm vào đó là những người mang danh Kitô hữu
nhưng đời sống lại mâu thuẫn với nội dung của danh xưng này.
Tóm lại, chỉ
có đời sống thánh thiện mới cho ta hy vọng được cứu độ để được
tham dự vào sự sống của Thiên Chúa là Đấng Thánh, là nguồn duy
nhất của mọi hoan lạc, và vinh phúc vĩnh cửu. Đó là lời mời gọi
khẩn thiết cho hết mọi người chúng ta chứ không riêng cho một
thành phần nào trong Giáo Hội.
Nhưng muốn
thăng tiến trong đời sống thiêng liêng để ngày một thêm hoàn
hảo thì cần yếu phải sử dụng những phương tiện hữu hiệu là cầu
nguyện và năng lãnh nhận hai bí tích rất quan trọng là Hòa giải
và Thánh Thể, sau khi đã lãnh nhận các bí tích Rửa tội và Thêm
sức. Qua cầu nguyện chúng ta được liên kết mất thiết với Chúa ,
được tiếp cận với chính sự lành và sự thánh thiện để được lôi
cuốn tháp nhập dần dần vào sự thánh thiện đó.
Nhờ bí tích
Hòa giải, chúng ta không những được tha thứ những lỗi phạm vì
yếu đuối con người mà còn được tiếp sức để vươn lên trên đường
hoàn hảo.
Sau hết và
quan trọng hơn cả là được kết hiệp với Chúa Kitô trong bí tích
Thánh Thể, một suối nguồn của sự thánh thiện và bình an, một đảm
bảo của ơn cứu độ, căn cứ vào lời Chúa đã hứa cho: “ai
ăn thịt Ta và uống máu Ta thì được sống muôn đời và Ta sẽ cho
kẻ ấy sống lại ngày sau hết.” ( Ga 6 :
54
).
Tóm lại, nên
thánh là nhu cầu tối quan trọng và cần thiết cho mọi người có
niềm tin Thiên Chúa là Đấng Thánh. Để đạt mục đích này, chúng ta
phải tích cực sống với mọi chiều kích chìm và nổi của đời sống
thánh thiện như đã nói ở trên để thể hiện lòng khao khát muốn
thuộc về Chúa là Đấng trọn tốt trọn lành. Nghĩa là muốn xa lánh
mọi tội lỗi, muốn tách biệt khỏi mọi gian ác, và ô uế của trần
gian này. Có như thế, thì mới hy vọng được cứu rỗi về lâu về
dài. Nhưng trước mắt là làm nhân chứng cho Chúa cách cụ thể và
hữu hiệu trong một thế giới ngày một lún sâu vào hố hư mất đời
đời vì tội lỗi, vì gian ác, bất lương, vô luân vô đạo như thực
trạng con người ngày nay ở khắp nơi trên thế giới.
Lm Phanxicô
Xaviê Ngô Tôn Huấn. |
VỀ MỤC LỤC |
|
AI CÓ LÝ ?
|
Một phóng viên phỏng vấn một số khán giả
vừa xem một bộ phim nổi tiếng: “Bạn thấy bộ phim này thế nào?”
Người thứ nhất trả lời: “Phim rất hay. Tôi
sẽ xem lại lần nữa để thưởng thức hết cái tinh tế của nó.”
Người thứ hai nói: “Tôi coi được khoảng hai
mươi phút thì đã chán lắm rồi. Ráng coi cho hết vì tiền vé hơi
mắc.”
Người thứ ba đáp: “Nói chung thì cũng tạm
tạm. Nhưng tôi thích bộ phim tôi coi lần trước hơn mặc dù nó
không nổi tiếng như phim này.”
Cùng một bộ phim nhưng mỗi người mỗi cảm
nhận riêng. Ai đúng hơn ai?
++
Bé mới học được cách nấu một món ăn mới từ
bạn bè. Hôm nay bé xung phong nấu cho cả nhà. Dọn cơm ra, bé vừa
hào hứng vừa hồi hộp, chờ đợi phản ứng của mọi người.
Mẹ nếm thử. “Bé nấu ngon lắm!” Mẹ khen.
“Nhưng mà hơi nhạt.” Ông anh nếm xong nhận
xét.
Cu tí cũng tham gia: “Anh nói thế nào ấy
chứ em thấy mặn.”
Bé phân vân bối rối buồn buồn. Không biết
làm sao để làm vừa lòng mọi người. Hôm nay bố đi ăn cưới. Nếu bố
có nhà thì không biết bố sẽ nói gì.
++
Dưới phố tuần này có triển lãm tranh của
danh họa nổi tiếng thế giới Picasso. Đây là một trong những dịp
hiếm có. Nó nghe nói Picasso có những bức tranh trị giá cả triệu
mỹ kim. Cả triệu mỹ kim, một số tiền khổng lồ mà chắc cả đời nó
làm việc quần quật cũng chẳng kiếm được. Nó góp tiền với mấy đứa
bạn đi xem triển lãm nghệ thuật.
Sau nghi thức khai mạc hoành tráng. Mọi
người bắt đầu đi thưởng lãm. Mấy đứa bạn, có đứa há hốc miệng
trầm trồ khen ngợi tài năng Picasso, có đứa im lặng ngắm chẳng
nói gì, còn nó thì không thấy bức nào bắt mắt cả. Nếu bạn có mặt
ở đó mà ngắm tranh Picasso thì không biết bạn sẽ cảm thấy thế
nào nhỉ?
++
Một nhóm bạn trẻ họp mặt để lên kế hoạch
cho buổi tĩnh tâm Giáng Sinh cho giới trẻ giáo xứ. Một trong
những câu hỏi đưa ra bàn thảo là: Cầu nguyện cách nào thì đạt
hiệu quả nhất?
Một bạn lên tiếng: “Em nghĩ rằng cầu nguyện
trong thinh lặng sẽ giúp các bạn gặp gỡ Chúa dễ hơn giữa một thế
giới đã quá nhiều mệt mỏi xô bồ.”
Bạn khác góp ý: “Em không thấy cầu nguyện
thinh lặng thích hợp cho giới trẻ vì các bạn vốn năng động. Mình
nên mời tất cả đọc chung một số kinh gia đình như các bạn đã
quen đọc ở nhà.”
“Mình thì lại nghĩ khác,” một bạn nữa lên
tiếng, “giới trẻ cả năm mới có dịp ngồi lại với nhau, cách tốt
nhất là nên hát chung những bài thánh ca trẻ trung với nhau cho
đỡ nặng nề.”
Cuộc họp mỗi lúc một ồn ào, rồi căng thẳng.
Bạn muốn tham gia góp ý không?
+++++
Còn nhiều lĩnh vực khác mà việc đánh giá
đúng – sai, hay – dở, đẹp – xấu, … mang tính rất tương đối. Bởi
vì bản chất của sự việc là tương đối nên các mâu thuẫn nảy sinh
khi ai cũng cho mình là có lý nhất. Ừ, nhìn thoáng qua thì đúng
là ai cũng có cái lý riêng, nhưng xét kỹ ra thì nhiều khi những
cái lý mà họ khư khư bảo vệ cho đến cùng chỉ là …lý toét hay lý
sự cùn !
Quan sát ở đời cho thấy nhiều chuyện đổ vỡ
nghiêm trọng có khi chỉ bắt đầu từ những việc nhỏ tí tị ti. Nói
một cách khách quan, những khác biệt trong cuộc sống thường ngày
chẳng mấy khi mang tầm vóc ghê gớm của những vấn đề sống chết,
hay lựa chọn quyết liệt. Đa số chỉ là những việc thường tình,
đến rồi đi, như gió thoảng mây trôi, chẳng quan trọng gì, xong
là hết. Ấy vậy mà bao nhiêu xích mích, cãi cọ, bất bình, chê
bai, đố kỵ, thậm chí đoạn tuyệt xảy ra chỉ do não trạng “Tôi mới
là người có lý.” Cố chấp để giành phần “có lý” về mình trong khi
vấn đề chẳng quan trọng gì thật ra là đang “tự vô lý” vì cuộc
đời còn bao nhiêu điều quan trọng hơn gấp bội. Một ý kiến về
đúng – sai cho một vấn đề cỏn con đâu thể nào quan trọng hơn
việc làm vui lòng nhau. Một khẩu vị mình không thích đâu đáng để
làm mất tinh thần người đã hy sinh nấu ăn cho mình. Những khác
biệt về “gu” âm nhạc, hội họa, sở thích này nọ… đâu đáng để dẫn
đến chê bai, khích bác nhau. Một thoáng vụng về rớt ly bể chén
đâu đáng để nhiếc mắng nặng lời. Một câu nói lỡ đâu đáng để đánh
đổi sự bình an quý giá của tâm hồn. Ôi, còn nhiều, nhiều lắm
những thứ cỏn còn con gây ra những đổ vỡ đáng tiếc. Con người sợ
“thua” trong những chuyện bé tẻo tèo teo vì cái tôi quá lớn.
Nhiều người nghĩ rằng tầm vóc là phải oai vệ. Chưa chắc, vì đa
số những người tỏ ra mạnh mẽ bên ngoài thực ra khá yếu đuối bên
trong. Ít ai hiểu rằng người sống khiêm hạ đích thực là người
rất bản lãnh. Nghịch lý ở đời vẫn rõ đấy thôi: hơn là thua, thua
là hơn. Bỏ chín thì giữ được mười trong khi khăng khăng giành
cho được một thì lại mất hết.
Một người có công tạo nên bản sắc cho cả
nền văn hóa Kitô giáo Châu Âu và thế giới đã viết thế này: “Anh
em đừng làm chi vì ganh tị hay vì hư danh, nhưng hãy lấy lòng
khiêm nhường mà coi người khác hơn mình. Mỗi người đừng tìm lợi
ích cho riêng mình, nhưng hãy tìm lợi ích cho người khác. Giữa
anh em với nhau, anh em hãy có những tâm tình như chính Ðức Kitô
Giêsu.
Ðức Giêsu
Kitô
vốn dĩ là
Thiên Chúa
mà không
nghĩ phải nhất quyết duy trì
địa vị
ngang hàng với Thiên Chúa,
nhưng đã
hoàn toàn trút bỏ vinh quang
mặc lấy
thân nô lệ,
trở nên
giống phàm nhân
sống như
người trần thế.
Người lại
còn hạ mình,
vâng lời
cho đến nỗi bằng lòng chịu chết,
chết trên
cây thập tự.
Vì thế
Thiên Chúa đã tôn vinh Người
Và ban cho
Người một danh hiệu trổi vượt trên muôn ngàn danh hiệu.”
(Trích thư
của Thánh Phaolô gửi các tín hữu Phi-lip-phê, chương 2 câu 3-8)
Giuse Việt,
O.Carm. |
VỀ MỤC LỤC |
|
HUẤN DỤ XÃ HỘI CỦA GIÁO HỘI CÔNG
GIÁO - CÁC ĐỊNH CHUẢN CHÍNH YẾU.
|
NGUYỄN HỌC TẬP
1 - Lịch
sử.
Huấn Dụ Xã Hội của Giáo Hội
thường được gắn liền, ở phần khởi thủy của mình, với Thông
Điệp Rerum Novarum ( 1891) của Đức Thánh Cha Leo
XIII.
Thật ra, nếu khối nguyên
cội phần lớn được nêu lên trong Thông Điệp thời danh vừa kể và
trong các lời Huấn dạy đề cập đến các vấn đề xã hội của các
triều đại giáo hoàng, như:
- Quadragesimo Anno (
1931) của ĐTC Pio XI,
- Mater et Magistra (
1961) của ĐTC Gioan XXIII,
- Populorum
Progressio ( 1967) của ĐTC Phaolồ VI,
- Centesimus Annus ( 1991) của ĐTC
Gioan Phaolồ II,
- Caritas in Veritate ( 2009) của ĐTC
Benedictus XVI
- và một vài diễn từ của ĐTC Pio XII,
thì Huấn Dụ Xã Hội của Giáo Hội được kết thúc và hoàn hảo hóa
qua những lời huấn dạy, được chứa đựng trong phần III Sách
Giáo Lý Giáo Hội Công Giáo.
Các tài liệu của các triều đại giáo hoàng
vừa kể là kết quả không những của Lời Huấn Dạy của Giáo Hội, mà
cũng là kết quả của các cuộc bàn thảo và nghiên cứu của các Linh
Mục và các tín hữu giáo dân.
Huấn Dụ Xã Hội của Giáo Hội không phải là
những gì mới có đây, mà vẫn đã là mối ưu tư liên lỉ
- từ thời các Giáo Phụ và kế đến cả
Thởi Trung Cỗ ( ví dụ: cấm cho vay lấy lời siết cổ, cổ động
gây qủy xã hội và viện bác ái, trợ giúp giới bần cùn...)
- hay dựa theo tư tưởng của Thánh
Augustino trong De civitate Dei, nhứt là nhờ tư tưởng của
Thánh Tôma d'Aquino.
Ngoài ra các Huấn Dụ Xã Hội của Giáo Hội
không những nhằm đề cập đến các vấn đề liên quan đến kinh tế, mà
một cách tổng quát đối với những vấn đề xã hội nhìn một cách
tổng quát, trong đó kinh tế chỉ là một phần của các vấn đề ưu tư
của Giáo Hội.
Các định chuẩn chính yếu của Huấn Dụ Xã Hội
của Giáo Hội có liên quan đến
a ) Con Người.
Bởi vì con người là tạo vật của Thiên
Chúa,
- có phẩm giá được dựng nên giống
hình ảnh Thiên Chúa và giống như Thiên Chúa 8 Gen 1, 26-27)
- và là con Thiên Chúa, nhờ Chúa
Giêsu Nhập Thể ( Mt 6, 9).
Bởi đó con người ngoài ra đời sống vật
chất, còn có cả địa vị cao cả thiêng liêng, là trung tâm điểm và
ở địa vị tối thượng trong tổ chức kinh tế, chính trị, xã hội,
cùng với gia đình mình.
Con người có địa vị phải được kính trọng
trong đời sống tôn giáo, việc làm, trong gia đình, trong việc
tiêu dùng của cải vật chất, quyền tư hữu, được thù lao xứng
đáng, có quyền được tham dự vào đời sống và tổ chức cơ chế Quốc
Gia, quyền được giáo dục và tham dự vào tiến trình sản xuất của
cải giàu có cho mình, cho đồng bào mình và cho người đồng loại
mình.
b) Việc làm
phải được hiểu theo những gì Đức Thánh
Cha Gioan Phaolồ II đã nhắc nhở:
- " trong bối cảnh rộng lớn hơn theo
đồ án của Chúa " ,
- " lợi ích cho mỗi cá nhân nhằm thực
hiện được mục đích căn bản của cuộc sống mình "
- trong khi đó thì " việc chuyên cần
dùng được tất cả các nghị lực có được là bổn phận chính yếu động
tác của những ai thuộc về giới lãnh đạo, các nhà chính trị, các
nhà lãnh đạo công đoàn và các nhà đầu tư " và "các giới quyền
năng được ủy nhiệm giao phó ", " để họ bắt tay vào các
phương thức cần thiết, để bảo đảm cho người làm việc được thù
lao tương xứng và yên tâm vững chí để làm việc " ( cfr.
Centesimus Annus ).
c) Quốc Gia,
bởi vì Quốc Gia phải là một xã hội được tổ
chức, trong đó
- cuộc chung sống văn minh được bảo đảm,
- các quyền tự do chính đáng cá nhân và
xã hội cũng như công lý được bảo đảm.
Quốc Gia cũng được tổ chức để đạt được công
ích,
- cho cả cộng đồng chớ không phải cho
một phe nhóm
- và đè bẹp các nhu cầu chính đáng của
những người khác, cũng như quyền tự do tôn giáo của mọi nghi
thức phượng tự và các quyền của Giáo Hội Công Giáo phải được tôn
trọng.
Các nhu càu xã hội theo tinh thần Ki Tô
giáo vừa kể, trên khắp thế giới đã có nhiều người công giáo lên
tiếng để bênh vực, trong số đó chúng ta có Thánh Gioan Bosco,
Thánh Giuse Benedetto Cottolengo, Federico Ozanam,
Léon Hamel và còn nhiều người khác nữa.
* Trong Đại Thông Điệp I Rerum
Novarum, trong khi đề cập đến vấn đề lương bổng, Đức
Thánh Cha Leo XIII xác nhân nguyên tắc gợi hứng, hướng dẫn
cho cả vấn đề xã hội là phẩm giá bất khả xâm phạm của con
người.
Con người phải được nhìn nhận với phẩm giá
cao cả của mình, ngay cả khi phải được trả lương bổng. Như vậy,
con người phải có được một mức lương bổng để cho phép mình có
được một cuộc sống khang trang và cho cả gia đình mình.
* Sau bốn mươi năm, trong Thông Điệp
Quadragesimo Anno Đức Thánh Cha Pio XI xác định rõ
- " Tự do cạnh tranh tự mình đã hủy
hoại chính mình, thay cho tự do thị trường đã len vào đó độc
quyền kinh tế, lòng khao khát lợi nhuận kéo theo sau lòng tham
lam không đáy để thống trị, và như vậy cả nền kinh tế trở thành
khó khăn, không cách nào lay chuyển và hung bạo ".
Từ đó cần có sự can thiệp rộng rãi hơn của
Quốc Gia, hơn ở thời Đức Leo XIII, mặc dầu vẫn phải tôn
trọng nguyèn tắc cần phải bảo vệ quyền sáng kiến cá nhân. .
* Đức Thánh Cha Pio XII
thêm vào một
vài yếu tố mới cho quan niệm vừa kể. Trong lúc thế chiến thứ hai
đang tiếp diễn, ý nghĩ về việc bênh vực con người được thể hiện
dưới khá nhiều khía cạnh yếu ớt, cho thấy không có gì bảo đảm.
Như vậy, khi đề cập đến vấn để lương bổng, suy nghĩ đến ý nghĩa
con người không có gì để bảo đảm cho nhân vị của mình, cho mình
và gia đình mình có được một cuộc sống xứng đáng với phẩm giá
con người, ngài đòi buộc mức lương bổng phải thế nào để cho
con người có được một mức sống bảo đảm ,
nghĩa là lương bổng phải làm thế nào cho
phép người làm việc có khả năng mua sắm được những phẩm vật hiện
thực được cuộc sống an toàn của mình, tức là phải là lương bổng
của quyền sở hữu.
Theo Đức Thánh Cha Pio XII, quyền tư
hữu đối với gia đình như là khoảng không gian thiết yếu có khả
năng bảo đảm cho đời sống và được sống tự do.
* Thông Điệp Mater et Magistra của Đức Thánh Cha Gioan
XXIII
còn trải rộng
ra Huấn Dụ Xã Hội của Giáo Hội đến nhiều lãnh vực mới khác của
thế giới tân tiến ngày nay của chúng ta.
2 - Quan niệm công
giáo về Quốc Gia.
Đối với Huấn Dụ Xã Hội của Giáo Hội,
người công dân có trách nhiệm và bổn phận xác định, tùy
theo các hoàn cảnh thay đổi, tổ chức chính trị, kỷ thuật và cơ
chế Quốc Gia.
Nhưng dù sao đi nữa, Quốc Gia phải luôn
luôn có khả năng đáp ứng lại được một vài điều phải có:
1) Tạo điều kiện thuận tiện cho cuộc
chung sống văn minh.
2) Bảo đảm được cho công lý.
3) Có mục đích đạt được công ích cho cả
cộng đồng dân tộc, chớ không phải chỉ cho phe nhóm, làm thiệt
hại đến các nhu cầu chính đáng của những người khác.
4) Bảo vệ và bảo đảm các quyền tự do
chính đáng cá nhân và xã hội.
5) Tôn trọng quyền tự do tôn giáo và các
quyền của Giáo Hội, cũng như của các tôn giáo.
3 - Các Thông Điệp Xã Hội và tài liệu
để nghiên cứu.
*** Ngày 15 tháng 5 năm 1891: ĐTCLeo XIII, Thông
Điệp Rerum Novarum ,
- khước từ Xã Hội Chủ Nghĩa
với phương thức " đấu tranh giai cấp " của chủ
nghĩa, chắc chắn đó không phải là cách hành xử Ki Tô giáo, qua
chủ trương vô sản hóa và bần cùng hoá dân chúng.
- Thông Điệp
* chủ trương quyền tư sản để bảo đảm
cho tự do của con người và gia đình, như là một xã hội có tầm
vóc nhỏ bé;
* ủng hộ nguyên tắc " phụ túc bảo
trợ " , qua việc can thiệp vào của Quốc Gia để trợ lực cho
lãnh vực tư nhân, khi họ không có khả năng tự giải quyết được;
* đề cao quyền thành lập và gia nhập
công đoàn, quyền có được lương bổng để có thể giải quyết nuôi
dưỡng mình một cách thoả đáng.
** Ngày 15 tháng 5 năm 1931, Đức
Thánh Cha Pio XI, với Thông Điệp Quadragesimo Anno,
khước từ Cộng Sản Chủ Nghĩa như là chủ thuyết và phương
thức thực hiện trái với quan niệm Ki Tô giáo.
Ngài không lên án Dân Chủ Xã Hội như là
chương trình kinh tế hơi khác biệt với kinh tế tự do, vì chấp
nhận quyền tư hữu nhưng đặc trọng tâm vào tầm vóc xã hội của
kinh tế và việc áp dụng nguyên tắc phụ túc bảo trợ của Quốc Gia.
Ngài đánh giá cao , nhưng đồng thời cũng chỉ trích chủ trương
nghiệp hội ( corporativisme) của Đảng Phát Xít. Ngài đề nghị
mức lương bổng phải được đặt liên hệ với gia đình người làm
việc, có thể một phần cần sự trợ lực của cơ chế Quốc Gia, nếu là
gánh nặng quá mức làm tổn thương không đảm đương nổi cho hảng
xuởng.
** Ngày 19 tháng 3 năm 1937, Đức
Thánh Cha Pio XI với Thông Điệp Divini Redemptoris, đã
nói lên sự sai trái của Cộng Sản Vô Thần, chối bỏ Thiên
Chúa, linh hồn bất tử, đời sống tương lai. Ngoài ra Cộng Sản Vô
Thần còn chủ trương
- thù ghét, đấu tranh giai cấp,
- quyền tư hữu và gia đình tùy theo
định chế được Quốc Gia thiết định tùy hỷ.
* * Ngày 1 tháng 6 năm 1941, Đức
Thánh Cha Pio XII, với Diễn Văn Lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống,
tuyên bố rằng mọi người phải được dùng của cải ở trần thế.
* * Ngày 21 tháng 3 năm 1947, Đức
Thánh Cha Pio XII, với Thông Điệp Fulgens radiatur, nhân dịp
thế kỷ XIV Thánh Benedetto da Norcia đã mất đi, ngài đề cập đến
cầu nguyện và làm việc như là nền tảng của đời sống văn minh.
** Ngày 15 tháng 5 năm 1961, Đức
Thánh Cha Gioan XXIII, với Thông Điệp Mater et Magistra, đã
đề cập đến
- vấn về an sinh xã hội,
- quyền tư hữu là quyền
có tác động xã hội,
- cộng đồng xã hội ( hay
tổ chức Quốc Gia) được thiết lập cần phải tôn trọng trách nhiệm
của cá nhân và các tổ chức xã hội trung gian vì công ích.
** Ngày 11 tháng 4
năm 1963, Đức Thánh Cha Gioan XXIII, với Thông Điệp Pacem in
Terris, đã nói
- về các quyền của con
người, nam cũng như nữ;
- về quyền tư hữu có
tác động xã hội nội tại của mình;
- về đặc tính phụ túc
bảo trợ của các cơ quan công quyền; về vấn đề cộng tác chính trị
phải có của người công dân.
** Ngày 7 tháng 12 năm 1965, Đức Thánh Cha
Phaolồ VI, với Thông Điệp Concilio Vaticano II nói về Hiến Chế
Mục Vụ Gaudium et Spes.
** Ngày 26 tháng 3
năm 1967, Đức Thánh Cha Phaolồ VI, với Thông Điệp populorum
progressio,đề cập đến
- những mối mất quân
bình trên thế giới càng ngày càng lan rộng
- và các guồng máy có
trách nhiệm đang gây ra;
- quyền tư hữu là quyền
tuyệt đối;
- việc phụ túc bảo trợ
trong nhãn quang thiết định chương trình;
- các khuynh hướng duy
vật - vô thần đang tìm cách bành trướng.
** Ngày 14 tháng 7
năm 1971, Đức Thánh Cha Phaolồ VI, với Thông Điệp Octogesimo
Adveniens,phân biệt nhiều chủ thuyết Xã Hội Chủ Nghĩa;
- ước vọng một xã hội
có nền kinh tế được tổ chức công bằng hơn;
- động tác cách mạng
chính trị cần phải được bàn cải;
- tư tưởng vật chất chủ
nghĩa không thể chấp nhận được.
** Từ 27 tháng giêng
- 13 tháng 2 năm 1979, Đức Thánh Cha Gioan Phaolồ II, với
bài thuyết trình ở Thượng Hội Đồng Giám Mục Puebla, nói
về
- Giáo Hội rao giảng
Phúc Âm,
- Giáo Hội phục vụ con
người;
- Giáo Hội của mỗi
người.
** Từ ngày 1 - 12
tháng 7 năm 1980, Đức Thánh Cha Gioan Phaolồ II, với chuyến
Công Du Mục Vụ ở Brasile, nói về sự hợp tác huynh đệ;
tinh thần của các Mối Phước Thật; để giải quyết đưọc các vụ hạn
hẹp, đàn áp, bó buộc, cần có sự chuyên cần dấn thân của người
tín hữu Chúa Ki Tô.
** Ngày 19 tháng 3
năm 1981, Đức Thánh Cha Gioan Phaolồ II, trong bài giảng
ở Terni ( Ý Quốc), đề cập đến việc chiến đấu cho công lý,
chớ không phải chiến đấu chống con người.
** Ngày 14 tháng 9
năm 1981, Đức Thánh Cha Gioan Phaolồ II, với Thông Điệp Laborem
Exercens, nói về ý nghĩa việc làm của con người.
** Năm 1987, Đức
Thánh Cha Gioan Phaolồ II, với Thông Điệp Sollecitudo Rei
Socialis, được viết ra, để kỷ niêm nhân dịp 20 năm Thông
Điệp Populorum Progressio được ban hành.
** Năm 1991, Đức
Thánh Cha Gioan Phaolồ II, ban hành Thông Điệp Centesimua
Annus, để kỷ niệm giáp 100 năm Thông Điệp Rerum Novarum.
** Năm 2009,Đức Thánh Cha Benedictus XVI ban hành
Thông Điệp Caritas in veritate.
|
VỀ MỤC LỤC |
|
THA THỨ ĐỜI NÀY VÀ ĐỜI SAU
|
Suy niệm
Phúc Âm Chúa Nhật 24 thường niên A
Bác sĩ Nguyễn Tiến
Cảnh, MD
Bài Tin Mừng của thánh Mathew hôm
nay (Mat. 18: 21-35) đòi hỏi những người tự cho mình hoặc mệnh
danh là Kitô hữu / Công Giáo phải có tâm hồn ăn năn thống hối và
lòng khoan dung tha thứ. Đoạn Phúc Âm này có 2 phần chính:
- Phêrô hỏi Chúa Giêsu: “Thưa
Thầy, nếu anh em con có lỗi với con thì con phải tha thứ cho họ
mấy lần? Bảy lần? (câu 21-22).
- Chúa trả lời cho Phêro: Tha
thứ thì không có giới hạn (câu 22). Sau đó Người dùng ngụ
ngôn người đầy tớ bất nhân để đưa vào chi tiết vấn đề (câu
23-34).
Chuyện ngụ ngôn được thánh Mathew
kể có phần giống như câu chuyện trong tin mừng thánh Luca 17:4,
nhưng câu chuyện ngụ ngôn và cái kết thúc của nó thì quả là độc
đáo trong Tin Mừng thánh Mathew. Phân tích một cách khít khao
ngụ ngôn ông vua và người đầy tớ nói trong Tin Mừng thánh
Mathew, chúng ta thấy rằng, theo cách trả lời của Chúa Giêsu thì
Ngài không nhất thiết yêu cầu chúng ta phải tha thứ nhiều lần
theo như toàn thể câu hỏi của ông Phêro.
Người đây tớ đầu tiên đã trở nên
quá đáng. Hắn thực quá yếu hèn và chẳng có chút giá trị gì trước
mặt vua khi hắn cúi đầu lạy lục nhà vua xin khất nợ, trong khi
đó hắn lại dùng uy quyền của hắn buộc con nợ của hắn phải trả nợ
hắn và bỏ tù con nợ của hắn vì không thể trả được nợ. Theo cung
cách đó, hắn sẽ không từ bỏ quyền lực của hắn đối với những
người khác. Tuy nhiên nhìn tổng quát câu chuyện ngụ ngôn thì các
bạn bè của hắn đi báo cáo với vua về tư cách của bạn mình thì
cũng giống như hành động của chính tên đầy tớ này mà thôi.Tất cả
chúng đều không có lòng khoan dung tha thứ mà chỉ đòi hỏi trừng
phạt.
Phân tích và nhận xét cuối cùng,
sự tha thứ của Cha trên trời, dù đã thứ tha, sẽ rút lại trong
giờ phán xét sau cùng đối với những ai không biết noi gương, bắt
chước Chúa mà tha thứ cho tha nhân (câu 35). Chúa Giêsu cảnh cáo
rằng: Cha Ngài ở trên trời cũng sẽ đối sử với những kẻ không
có lòng khoan dung tha thứ theo cùng một cách thức như họ đã
làm, tương tự như đối với tên đầy tớ bất nhân vậy.
NHỮNG CÂU HỎI DAY DỨT
Thế nào là “tha thứ’’?
Trước tiên, tha thứ ám chỉ có một cái gì để tha
thứ. Nếu một ai đó làm điều gì trái luật hay lỗi luân lý hay một
nguyên tắc gì đó để có thể qui kết là lỗi, là tội, là sai lầm
cần phải được khoan dung tha thứ. Trong câu chuyện ngụ ngôn hôm
nay, tha thứ tiếng Hy Lạp có nghĩa là « gửi đi xa » hoặc
« để riêng rẽ ra ». Vậy tha thứ tức là « gửi đi xa » bất
cứ cái gì đã làm cho con người cách biệt nhau. Giận dữ hay oán
thù đã được gửi đi xa rồi. Nhờ tha thứ, một người không còn ở
trong vòng kìm kẹp hoặc kiểm soát của một ai hay một hành động
tội lỗi ở quá khứ đã làm cho họ phải đau khổ. Chúng ta nhận thấy
chúa Giêsu đòi hỏi các môn đệ một sự tha thứ không có giới hạn.
Tuy nhiên, tha thứ và lòng khoan dung không phải luôn luôn là
những vấn đề đơn giản.
Tha thứ không có nghĩa là người ta sẽ được điều đình, giải hòa
ngay lập tức. Nó cần một tiến trình hàn gắn từ từ để giúp dứt bỏ
những cảm giác thù hận. Không cần biết đến giáo huấn của chúa
Giêsu về sự tha thứ hẳn là một sai lầm trầm trọng cả ở đời này
lẫn đời sau. Chúng ta có thực sự tin rằng số mệnh vĩnh cửu và sự
cứu rỗi của chúng ta sẽ bị tổn thương hoặc cản trở vì chúng ta
không có lòng tha thứ khi chúng ta còn ở trên dương thế này
không ? Chúng ta có hành sử công chính, công bằng và biểu lộ
lòng thương xót tha nhân không ? Đây thực sự không phải là những
câu hỏi mà chúng ta có thể trả lời một cách dễ dàng, bởi lẽ ngày
đó chúng ta sẽ đối diện với không biết bao nhiêu là xúc động,
hồi hộp như đã được diễn tả trong câu chuyện ngụ ngôn người đây
tớ bất nhân này.
Vì vậy chúng ta cần chú ý nghe thật cẩn thận lời sách Sirach
trong bài đọc 1 hôm nay (27 :30. 28 :7) : « Giận dữ và căm
thù là những điều đáng ghét, nhưng kẻ tội lỗi lại rất thân thiết
với chúng. Kẻ oán thù sẽ làm tổn thương sự thù oán của Chúa, bởi
lẽ Ngài sẽ nhớ đến những tội lỗi của chúng từng chi tiết một.
Hãy tha thứ cho những kẻ bất công thì ngươi sẽ được đền trả lại
và chính tội lỗi của ngươi sẽ được tha thứ.»
MƯỜI NĂM VỀ TRƯỚC: Biến cố 9/11.
Chúa nhật hôm nay
là cơ hội cho chúng ta suy nghĩ thật xâu xa xem chúng ta và cả
cộng đồng Kito hữu đã đáp ứng với kẻ thù cá nhân của chúng ta,
kẻ thù trên thế giới này như thế nào, chúng ta tha thứ họ thế
nào, thương xót họ thế nào ? Mười năm về trước, thê giới đã như
ngừng lại và sự khủng bố, sợ hãi, nỗi kinh hoàng của biến cố
ngày 11-9-2001 đã đẩy chúng ta đến vực xâu thẳm huyền bí của tội
ác, nỗi đau khổ của con người, chết chóc đã tới tột đỉnh. Nhiều
người đã thốt lên câu hỏi « Chúa ở đâu rồi » giữa những
tan hoang hủy hoại của ngày 11 tháng 9. Tuy nhiên, với ân sủng
Chúa, chúng ta đã chấp nhận những hy sinh tột bực của con người
và những người anh chị em huynh đệ của chúng ta đã chứng tỏ khả
năng tình yêu anh dũng tuyệt vời không ai ngờ nổi.
Quân khủng bố tấn
công ở Washington DC, Pennsylvania và New York đã thực sự không
phải chỉ là tấn công Hiệp Chủng Quốc Hoa Kỳ, nhưng theo lời của
Đức Thánh Cha Chân Phước Gioan Phaolo II, đó là « tội chống
nhân loại ». Nạn nhân của thảm kịch này thuộc cả hàng chục
nước trên thế giới. Về kinh tế chính trị thì ảnh hưởng bao chùm
toàn thể mọi quốc gia. Người ta nghĩ rằng những kẻ gây ra cuộc
khủng bố này là do thúc đẩy bởi lòng hận thù, bất mãn với chính
sách đối ngoại của Hoa Kỳ, đặc biệt về vấn đề Trung Đông, nhưng
kế hoạch, chương trình thầm kín bên trong của họ là phản đối
kịch liệt cái nền văn hoá cũng như những cơ chế xã hội, văn hóa,
kinh tế, chính trị của Tây Phương. Đơn giản cho rằng có sự liên
kết giữa Hồi Giáo và khủng bố xem ra khó có thể chấp nhận được.
Những biến cố của ngày 9/11 hẳn phải là một thách đố đối với
Giáo Hội cũng như những chính phủ sau này là cần phải thấu triệt
một cách sâu đậm và chân tình về Hồi Giáo để mà hòa hợp liên kết
với họ.
« Kẻ thù » trong chiến tranh khủng bố quả rất khó có thể xác
định, chúng ta cần phải cẩn thận để tránh lầm tưởng rằng ai cũng
là kẻ thù cả. Tránh chiến tranh chống khủng bố bằng cách đừng
gây chiến tranh với những người chung quanh chúng ta. Một xã hội
được thiết lập vì hoảng sợ, đố kỵ, đa nghi, không còn tin tưởng
vào ai cả thì không bao giờ có thể là một xã hội hòa bình. Chỉ
khi nào mọi người cùng nhau sống chung hòa bình trong pháp luật
thực sự và công bằng, công lý cùng với lòng khoan dung tha thứ
thì lúc đó chúng ta mới cảm thấy mùi vị của chiến thắng. Bằng
không thì chẳng phe nào có thể thắng phe nào cả.
TÔN GIÁO VÀ KHỦNG BỐ
Mặc dù sứ điệp của
Chúa Giêsu và giáo huấn của Giáo Hội đã quá rõ ràng, nhưng nhiều
người có lẽ vẫn còn nổi sùng, giận dữ trước những cơn bạo động
và tội ác, nhất là biến cố 9/11. Phản ứng tự nhiên của con người
là la lên « phải báo thù », nhưng gương Chúa Giêsu trong
câu chuyện Phúc Âm hôm nay kêu gọi tất cả chúng ta nên triển
khai một thái độ mới và khác biệt, đặc thù đối với bạo động.
Khoan Dung và Tha Thứ.
Giáo Hội kêu gọi chúng ta phá bỏ bức rào cản hiện đang ngăn cách
giữa người với người, để xây dựng một mối tình liên đới tin
tưởng nhau, sẵn sàng tha thứ và hòa giải với những kẻ thù, những
người đã trở nên xa lạ, ngăn cách với chúng ta. Là đệ tử của
Chúa Giêsu, chúng ta phải là những ngôn sứ của công lý và hòa
bình, và luôn luôn cảm nhận được cái thống khổ của loài người
trong thời đại hôm nay.
CHÂN PHƯỚC GIOAN PHAOLỒ II và BIẾN CỐ 9/11
Vào ngày kỷ niệm một năm biến cố bi thảm 9/11 đã lấy đi biết bao
nhiêu mạng sống con người ở New York, Hoa Kỳ, Chân phước Giáo
Hoàng Gioan Phaolồ II đã tuyên bố trong một buổi triều yết chung
tại Rome vào ngày 11 tháng 9 năm 2002 như sau:
« Không một tình trạng bất công nào, không một cảm giác tuyệt
vọng nản chí nào, không một triết lý nào, không một tôn giáo
nào có thể biện minh cho sự sai lầm như thế này được. Ai cũng có
quyền được tôn trọng sự sống và nhân phẩm, là những tặng phẩm
Chúa ban cho, không ai có quyền xâm phạm. Thiên Chúa đã phán như
vậy, luật pháp quốc tế cũng công nhận như vậy, lương tâm con
người tự nhiên cũng nghĩ như thế và con người cùng nhau sinh tồn
cũng đòi hỏi phải có như vậy.»
THÁNH GIÁ TẠI GROUND ZERO
Mười năm trước,
lúc đó Giáo Hội Gia Nã Đại đang sửa soạn Đại Hội Giới Trẻ Thế
giới năm 2002 thì thảm trạng biến cố 9/11 xẩy ra và chiến tranh
vùng Vịnh bùng phát trên nền trời nhân loại. Chúng ta không ai
có thể quên được những nỗi đau khổ, buồn phiền và bất ổn mà biến
cố 9/11 đã bao phủ lên Đại Hội Giới Trẻ Thế Giới năm 2002 tại
Canada.
Vào giữa cuộc cung
nghinh Thánh Giá Ngày Đại Hội Giới Trẻ Thế Giới đi khắp 72 giáo
phận Canada đã được dàn xếp rất chu đáo thì vào tháng 2 năm 2002
với sự chuẩn nhận của Đức Gioan Phaolo II, Thánh Giá đã đổi
hướng quay sang Ground Zero ở New York, Hoa Kỳ là nơi không có
định trước trong chương trình hành hương.
Thánh Giá đã hiện
diện tại Ground Zero để cầu nguyện cho các nạn nhân của biến cố
kinh hoàng tại Trung Tâm Thương Mại Quốc Tế và mấy nơi khác ở
Hoa Kỳ. Cuộc viếng thăm này là dấu chỉ hy vọng sâu xa của nhân
dân Hoa Kỳ và toàn thể thế giới đã chiến đấu để tìm hiểu nỗi
kinh hoàng, bạo động và sức phấn đấu chống trả sự chết của con
người đã phải chịu đựng trong ngày 9/11. Đối với chúng ta, đó là
một thách đố cam go, bởi vì ngay giữa nơi đầy tang thương, biểu
hiện của tàn phá, hủy hoại, khủng bố và chết chóc mà chúng ta đã
dựng nên một thánh giá bằng gỗ, hình ảnh của sự chết đã được
biến đổi thành biểu tượng trung tâm điểm sự sống của người Kitô
hữu.
Buổi sáng sớm hôm
đó, trong Thánh Lễ tại thánh đường Chúa Cứu Chuộc ở Manhattan,
gần kế trụ sở liên hiệp quốc, Đức Tổng Giám Mục Renato Martino,
quan sát viên thường trực của Vatican tại LHQ đã nói với chúng
ta qua bài giảng của ngài như sau:
-« Kinh Thánh
đang nói với chúng ta vể tội lỗi và những đau khổ khôn lường mà
tất cả chúng ta cần phải cải biến chúng. Ngày hôm nay, chúng ta
sẽ thấy tận mắt những đống tro tàn, sự hủy hoại và buồn thảm của
con người, dấu vết của tội lỗi mà không có bút mực nào, ngôn từ
nào có thể diễn tả hết được.
« Hơn nữa, có
nói cũng không bao giờ nói đầy đủ hết được tất cả những hậu quả
tai hại của khủng bố và hủy hoại đã xẩy ra hoặc kể ra hết được
những kẻ đã gây ra tội ác ấy….Chúng
ta chẳng giúp được gì mà còn làm hại thêm cho những người đã
chết trong thảm cảnh này, nếu chúng ta không tìm hiểu ra được
căn nguyên của nó. Trong khi tìm hiểu những nguyên cớ này thì
những yếu tố về chính trị, kinh tế, xã hội, tôn giáo và văn hoá
lại xuất hiện lên.
« Mẫu số chung
của những yếu tố này là hận thù, nó vượt quá mọi người và mọi
nơi mọi chốn. Nó hận thù ghét bỏ cả nhân loại đến độ nó cũng tận
giệt luôn chính cả những kẻ hận thù. »
Gillian, một phụ
nữ trẻ đã tóm lược cuộc thăm viếng Ground Zero trên tờ
National Staff ở Western Canada như sau: «Bây giờ tôi mới bắt
đầu nắm bắt được và hiểu được những quang cảnh mà chúng ta đã
nhìn thấy. Tôi có thể ví Ground Zero như là một khu vực đang
được tái tạo. Tôi đã nhận ra được rằng, giữa những hủy hoại đổ
nát ấy, quả thật là quan trọng khi Ground Zero thực sự đang trở
thành khu vực tái thiết, trên đó người ta đang xây Hy Vọng, Hòa
Bình và Tha Thứ. Thánh Giá của Ngày Giới Trẻ Thế Giới chính là
đá tảng làm nền móng cho cuộc khởi công xây dựng tái tạo ấy.… »
ĐÔI LỜI KẾT:
Hoà Bình trong thế giới bạo động
Hôm nay, Chúa Nhật
và cũng là ngày kỷ niệm 10 năm biến cố 9/11, chúng ta hãy cùng
nhau đọc lời kinh mà Đức Biển Đức XVI đã soạn cho chúng ta trong
dịp thăm viếng lịch sử của ngài tại Ground Zero ngày chúa nhật
20-4-2008. Khi đọc những lời kinh này, chúng ta hãy khẩn cầu xin
Thiên Chúa biến chúng ta thành khí cụ và người chuyển giao lòng
khoan dung tha thứ và hòa giải của Ngài đến thế giới đổ nát
chung quanh chúng ta.
Lạy Thiên Chúa là
Tình Yêu hải hà,
đầy lòng
trắc ẩn, gắn hàn đau thương,
Xin đoái nhìn đàn
con của Chúa,
những
người đủ mọi niềm tin,
truyền
thống muôn phương khác biệt
Cùng nhau tụ họp
nơi đây
Quang cảnh bạo
động khôn tả muôn vàn thương đau..
Khấn xin Thiên
Chúa Từ Nhân,
Ban cho ánh sáng, bằng an muôn
đời,
Những kẻ đã chết nơi này:
Những anh hùng ứng đáp ban đầu:
Anh hùng cứu hỏa, cảnh sát vì dân,
Y khoa Cấp cứu, nhân viên Poc Ồ
Cả nam cả nữ mọi người,
Nạn nhân vô tội
trong cơn họa này.
Đơn giản chỉ bởi
việc làm và tâm phục vụ con người,
Đem thân đến chốn tơi bời, (ngày
9-11-2001)
Khấn xin Thiên Chúa, vì lòng trắc
ẩn,
Xoa dịu gắn hàn đau thương khốn
cùng,
Những kẻ hiện diện nơi này,
Mà mang thương tật ốm mòn.
Cũng xin hàn gắn đau thương gia
đình,
Tất cả những ai đã mất người mình
yêu thương,
Thêm cho sức mạnh vững vàng,
Cuộc sống hy vọng hiên ngang can
trường.
Chúng con cũng nhớ những người,
Đã mang chết chóc vết thương cả
đời
Tại lầu năm góc, tỉnh nhà
Shanksville
Chúng con hiệp nhất một lòng,
Cùng họ tha thiết trong kinh cầu
này,
Bao phủ tất cả thương đau,
Cùng mọi khốn khổ cho nhau nỗi
lòng.
Chúa hòa bình mang an bình,
Đến chốn điêu tàn bạo động:
Bình an tất cả trong tâm mọi
người,
Bình an khắp năm châu bốn phương
trời.
Xin Chúa hướng dẫn trí lòng những
người
Đang cơn hận thù ngất trời
Trở về tình yêu của Chúa muôn đời
mến yêu.
Lạy Thiên Chúa là đấng thấu hiểu,
Chúng con tràn ngập bể sầu muôn
điều tai ương.
Xin ban ánh sáng dẫn đường,
Khi con đối diện những điều gớm
ghê.
Xin Chúa chấp nhận những người
thoát chết,
Sống cuộc sống như đã chết nơi
đây,
Để thấy hiểm nguy đã thoát không
là phí uổng.
Xin hãy vỗ về an ủi chúng con,
Thêm cho Sức mạnh Cậy Trông,
Ban Khôn Ngoan sức Can Trường
Để chúng con làm việc không hề mệt
mỏi,
Cho một thế giới an bình thực sự,
Và Tình Yêu cao cả ngự trị…
Muôn nước, muôn lòng…
… tất cả chúng con.
______________________________
Fleming Island, Florida
Sept.11, 2011
NTC
“No
situation of injustice, no feeling of frustration, no
philosophy or religion can justify such an aberration.
Every person has the right to respect for life itself
and dignity, which are inviolable goods. God says it,
international law sanctions it, the human conscience
proclaims it, civil co-existence requires it” (John Paul
II)
Công ty Port Authority
Pentagon và Shanksville, Pennsylvania là hai nơi
cũng bị không tặc cùng một ngày 9/11 như tại
Trung Tâm Thương Mại quốc tế tại New York.
|
VỀ MỤC LỤC |
|
GÓP
MỘT TAY [I] |
Cả nước Mỹ
bàng hoàng khi tòa nhà liên bang Alfred Murrad tại thành phố
Oklahoma bị đánh bom ngày 19 tháng 4 năm 1995. Hậu quả là 168
người thiệt mạng; không những thế, từ nay trở đi 207 em bé là
con cái của những nạn nhân xấu số sẽ sống không có cha mẹ, và
không biết tương lai của chúng đi về đâu.
Cũng như hàng
ngàn người theo dõi tin tức trên truyền hình, Chris Gross, một
thanh niên 27 tuổi đang làm tại Santa Clara, tiểu bang
California đã xem tin tức với cái nhìn khác: Từ thảm họa đã xảy
ra, tôi có thể làm được gì cho những em bé ấy. “Những
hình ảnh tòa nhà và các em bé đang được chăm sóc tại các nhà
trẻ…tôi hình dung…nếu tôi là một trong những em ấy…” Ngay
tức thì, Chris đã nhận ra sự thật thực tế, “Chúng
sẽ mất cha mẹ chúng suốt cả cuộc đời…” Tiếp tục suy nghĩ,
Chris tự nhủ,
“Tôi nghĩ rằng, nếu những nạn nhân này có một ước nguyện cho con
cái họ trước giờ chết, thì có lẽ hầu như các cha mẹ đều mong con
mình được ăn học tới nơi tới chốn, được vào đại học…”
Các bản tin
vẫn tiếp tục thông tin về những buổi cầu nguyện, những việc làm
từ thiện để gây quĩ cứu trợ cho các nạn nhân. Riêng Chris lại
nghĩ xa hơn, “Bây
giờ hàng ngàn người đang chú tâm làm những việc từ thiện để giúp
cho các nạn nhân, liệu rằng 5 đến 10 năm tới, có còn ai chú tâm
giúp những em bé mồ côi này không?” Với suy nghĩ rất thực
tế này, Chris đã kêu gọi các bạn đồng nghiệp thành lập một số
học bổng để giúp các em này trong tương lai.
Trước hết,
Chris coi lại tài khoản của mình trong ngân hàng; anh lên kế
hoạch chi tiết về cách tiêu xài của mình hằng tuần và quyết tâm
dành một số thu nhập của mình vào việc này. Sau đó, Chris đã
chia sẻ sáng kiến của mình với ông phó giám đốc công ty và được
ông ủng hộ và tiếp tay kêu gọi. Tuần sau, Chris gởi thông điệp
này cho 18 công ty tại vùng Silicon. Sau 2 tuần, số tiền ủng hộ
cho trương trình học bổng đạt được 400,000 đôla. Sau khi báo chí
đăng tin này, nhiều người khác cũng ủng hộ thêm 300,000 đôla.
Cảm động và khâm phục trước sáng kiến của Chris, ông Keating,
thống đốc của tiểu bang Oklahoma, đã tặng thêm 3 triệu đôla vào
chương trình học bổng này. Với tất cả số tiền này, 207 em đã có
cơ hội bước vào các trường đại học sau khi kết thúc trung học.
* * *
Quí bạn thân
mến, cũng một sự kiện, cũng một bản tin, cũng một thảm họa,
Chris lại có cái nhìn mới hơn, xa hơn, và thực tế hơn. Chính vấn
nạn, “Liệu
rằng 5 đến 10 năm tới, có còn ai chú tâm giúp những em bé mồ côi
này không,” đã đánh động Chris và hàng ngàn người khác có
cái nhìn toàn diện và sâu sắc hơn trong cuộc đời. Thảm họa bị
đánh bom tại Oklahoma đã đánh động con tim của hàng ngàn người
vào việc cứu trợ, nhằm xoa dịu vết thương cho các nạn nhân xấu
số, việc đó nên làm, nhưng chưa đủ. Chúng ta hãy học cách nhìn
của Chris để thấy rằng, nếu chỉ lau những giọt nước mắt cho hôm
nay, mà không biết gieo hạt giống hy vọng cho tương lai, thì 207
em bé ấy sẽ tiếp tục là nhựng giọt nước mắt cho chính các em và
cho xã hội sau này. Không chỉ câu cá cho họ, mà quan trọng hơn
là cho họ cần câu để họ học cách câu là chỗ đó.
Mỗi một người
trong chúng ta ai ai cũng trải qua những hoàn cảnh bi thương,
thất bại tiêu cực. Chính trong hoàn cảnh bi thương tiêu cực,
chúng ta dễ ngã lòng buông xuôi theo số phận mà ít khi nỗ lực để
thử tìm những cái nhìn mới tích cực. Biết rằng nhiều lúc hoàn
cảnh xã hội đã dồn chúng ta vào thế “tù đày, chịu đựng, bất
lực,” nhưng dù trong hoàn cảnh ấy, chúng ta hãy thử cố nhìn và
tìm những điểm tích cực còn sót lại hay tiềm ẩn đâu đó trong
hoàn cảnh ta phải chịu đựng ấy, để ít nhất dù không thoát khỏi
cảnh bi thương tiêu cực ấy, ta vẫn có một tinh thần tích cực.
Chắc chắn một điều, với một tinh thần tích cực, đời ta sẽ vui
hơn, mạnh khỏe hơn, và sẽ có những sáng kiến giúp đời và giúp
người thực tế hơn.
* * *
Một trong
những giải pháp để làm sạch các dòng sông ô nhiễm, ngoài việc
nạo vét các đống rác và bùn dơ trong dòng sông, thì yếu tố quan
trọng vẫn phải là đưa nước sạch vào các dòng sông ấy. Chính dòng
nước sạch này sẽ tẩy rửa những rác rưởi của dòng sông ô nhiễm.
Chúng ta có thể làm điều tương tự như thế cho gia đình, cộng
đồng và đất nước. Tự ý thức để ngừng nói và hành động những điều
tiêu cực cho nhau, mà thay bằng những điều tích cực; một ngày
nào đó, không xa lắm đâu, hoàn cảnh gia đình và cộng đồng chúng
ta sẽ tươi sáng hơn.
Ngày hôm nay,
bạn với tôi hãy nghĩ, nói, và hành động tích cực cho mình, cho
nhau, và cho cộng đồng.
Br.
Huynhquảng
[i] Tóm
lược từ Marianne
Larned,
Stone Soup for the World,
(California: Conari Press), 38.
|
VỀ MỤC LỤC |
|
Ứng sinh Linh mục Giáo phận học và sống tương quan với gia
đình |
Mời thăm Blog của
Lm. Trần Minh Huy
http://www.chivilongchuathuongtoi.tk/
Tác phẩm: ĐÀO TẠO ỨNG SINH LINH
MỤC GIÁO PHẬN
Lm.
Micae-Phaolô Trần Minh Huy pss
CHƯƠNG
NĂM
ỨNG
SINH LINH MỤC GIÁO PHẬN
HỌC SỐNG CĂN TÍNH VÀ SỨ
VỤ LINH MỤC
D.
ỨNG SINH LINH MỤC GIÁO PHẬN HỌC VÀ SỐNG
TƯƠNG QUAN VỚI GIA ĐÌNH
(tiếp theo)
D.III. Những hỗ trợ và khó khăn gia đình có thể mang lại cho
linh mục trong thời gian gặp thử thách, đau ốm và yếu đuối.
Ngày nay, đời sống linh mục gặp rất nhiều khó khăn do khủng
hoảng căn tính linh mục, cũng như do ảnh hưởng của xã hội bị tục
hoá và hưởng thụ. Tình trạng lạm dụng tình dục đã làm ảnh hưởng
tới uy tín của Giáo hội nói chung và cách riêng hàng linh mục.
Nhóm xin trình bày những hỗ trợ và khó khăn mà gia đình, bà con
có thể mang lại cho linh mục trong thời gian thử thách, đau ốm
và yếu đuối, vì ngoài ơn Chúa nâng đỡ, gia đình và bà con anh
chị em cũng đóng một vai trò quan trọng cho đời sống và sứ vụ
của linh mục, vì lời cầu nguyện và đời sống gương mẫu của gia
đình là chỗ dựa tinh thần vững chắc cho linh mục.
D.III.1. Những hỗ trợ từ phía gia đình
D.III.1a. Khi linh mục gặp thử thách
-
Khi linh
mục gặp phải những khó khăn trong công việc mục vụ hoặc
trong tương quan với bề trên và anh em, gia đình vừa là
người ngoài cuộc có cái nhìn khách quan, vừa là người thân
cận luôn muốn điều tốt cho linh mục, sẽ có những phân tích,
nhận xét và góp ý một cách chân thành cho linh mục dễ dàng
hơn.
-
Không
người nào có thể gần gũi, hiểu biết và cảm thông với linh
mục hơn là gia đình, vì thế, linh mục cũng dễ dàng tin tưởng
và đón nhận những góp ý của gia đình mình hơn.
-
Khi bị
hiểu lầm, con người dễ cảm thấy chán nản, bị cám dỗ thoái
chí, ù lì, muốn buông xuôi. Lúc này, gia đình là nơi để linh
mục có thể giãi bày, chia sẻ để bớt căng thẳng.
-
Người thân
với những lời khuyên tích cực là nguồn động viên để linh mục
thêm can đảm và kiên nhẫn giải quyết vấn đề.
-
Đôi khi,
vì danh dự của gia đình, mà linh mục sẽ cố gắng sống tốt
hơn, vượt lên mọi khó khăn thử thách.
D.III.1b. Khi linh mục bị đau ốm
-
Khi đau
ốm, người ta thường cảm thấy yếu đuối và cần có người nâng
đỡ, ủi an. Tuy có con chiên bổn đạo chăm sóc, nhưng linh mục
cũng ngại vì giáo dân bận rộn việc gia đình, nhất là khi
mình đau ốm lâu ngày. Vậy gia đình lui tới chăm sóc và động
viên sẽ nâng đỡ linh mục rất nhiều.
-
Người nhà
đến chăm sóc và phục vụ sẽ giúp cho linh mục nhiều thuận
tiện hơn với những công việc tế nhị như vệ sinh, ăn uống,
thuốc men…
-
Ngoài ra,
sự gần gũi và tình cảm ruột thịt của gia đình cũng tạo cho
linh mục niềm tin tưởng mình không bị bỏ rơi, không bị cô
đơn.
D.III.1c. Khi linh mục yếu đuối hoặc sa ngã
-
Khi linh
mục yếu đuối sa ngã về đời sống tình cảm và khiết tịnh, đa
số người bên ngoài thường nhìn với con mắt không thiện cảm,
thậm chí còn chê trách và muốn tẩy chay. Lúc khủng hoảng
này, linh mục dễ bị chán nản bỏ cuộc nếu không có người
thông cảm, nâng đỡ và góp ý giải quyết.
-
Gia đình,
bà con, nhất là cha mẹ, với tình cảm ruột thịt, có thể có
những lời khuyên bảo tốt nhất cho linh mục quyết tâm vượt
qua những yếu đuối ấy.
-
Ngoài danh
dự và ơn gọi cá nhân, linh mục sẽ vì danh dự gia đình mà
thêm động lực vươn lên, can đảm đứng dậy khỏi vấp ngã để
tiếp tục sứ vụ của mình.
D.III.2. Những khó khăn từ phía gia đình
D.III.2a. Khi linh mục gặp thử thách
-
Nhiều khi
thay vì nhận được những lời động viên khích lệ thì linh mục
có thể phải chịu những lời trách móc chê bai từ phía gia
đình dễ làm cho bị tổn thương, thất vọng.
-
Một số gia
đình, bà con anh chị em có đời sống không tốt khiến linh mục
phải suy nghĩ, không yên tâm làm việc mục vụ được rồi dẫn
đến chán nản.
D.III.2b. Khi linh mục bị đau ốm
-
Khi đau
ốm, cô đơn và chán nản, không ai có thể gần gũi và chăm sóc
linh mục tốt bằng bằng tình máu mủ ruột thịt của cha mẹ, anh
chị em bà con. Nhưng nếu không được gia đình quan tâm động
viên thì linh mục càng cảm thấy cô đơn hơn.
-
Khi ốm
đau, bệnh tật mà gặp phải sự hờ hững lạnh nhạt, linh mục
càng khổ tâm hơn về mặt tinh thần. Có khi gia đình vì ở xa
nên không thể thường xuyên tới thăm nom và giúp đỡ linh mục
được.
-
Nhưng
người nhà của linh mục đến phục vụ, giúp đỡ trong lúc đau ốm
cũng có sự khó: bị giáo dân hiểu lầm là cha chỉ muốn người
nhà đến phục vụ thôi, và cảm thấy xa cách đối với cha xứ của
mình.
-
Khi có
giáo dân nghĩ “một người làm quan cả họ được nhờ”, sợ người
nhà đến thu quén của cải của linh mục mang về, khiến gia
đình và anh em họ hàng e ngại không muốn tới phục vụ.
-
Những linh
mục cứ phải gia đình bà con đến phục vụ mới yên tâm thì cũng
tội nghiệp cho con chiên bổn đạo phải nghĩ ngợi “khi mạnh
khỏe cha phục vụ mình, mà khi đau ốm thì mình lại bỏ mặc
cha!”
-
Khi đau
yếu, con người dễ trở nên khó tính khó nết, việc giúp đỡ của
gia đình hay bổn đạo cũng là một hy sinh và gánh nặng cho
họ.
-
Linh mục
cũng có khi tủi thân vì khi mạnh khỏe, ai cũng năng tới nhờ
cậy, mà khi gặp khó khăn, thử thách, đau ốm thì ai cũng
tránh xa, sợ vất vả liên luỵ.
D.III.2c. Khi linh mục yếu đuối hoặc sa ngã
-
Thay vì
cảm thông chia sẻ khi linh mục yếu đuối hoặc sa ngã, gia
đình bà con có thể quay ra chỉ trích làm cho linh mục càng
cảm thấy tiêu cực và chán nản hơn.
-
Gia đình,
bà con anh chị em cũng có khi phải nghĩ ngợi, buồn lòng vì
linh mục không muốn cho gia đình biết chuyện riêng của mình
sợ cha mẹ và anh em họ hàng buồn.
-
Gia đình
và bà con cũng có thể xa lánh linh mục vì sợ phải liên luỵ,
làm cho linh mục dễ thất vọng, bỏ cuộc vì sự xa cách đó.
Có thể có hai cảnh trái nghịch: gia đình là chỗ dựa tinh thần
tốt nhất cho linh mục, nhất là những khi gặp thử thách, đau ốm
hoặc yếu đuối sa ngã, nhưng gia đình cũng có
thể gây ra cho linh mục những khó khăn
riêng.
Ngoài ơn Chúa trợ giúp, linh mục cũng rất cần lời cầu nguyện, sự
cảm thông nâng đỡ và chia sẻ từ phía gia đình. Muốn được thế,
linh mục cần sống tốt mối tương quan với cha mẹ, anh chị em thân
thuộc. Mọi người phải ý thức rằng làm linh mục không phải để thu
quén cho gia đình, nhưng là để hiến thân phụng sự Chúa và phục
vụ mọi người.
Cộng đồng giáo xứ là gia đình thiêng liêng của linh mục. Nếu có
được mối tương quan hài hòa giữa hai gia đình này, gia đình máu
mủ và gia đình giáo xứ của linh mục thì tốt đẹp biết bao nhiêu
cho đời sống và sứ vụ của linh mục trong mọi cảnh ngộ.
D.IV. Những hỗ trợ và khó khăn
gia đình có thể mang lại cho linh mục trong thời gian tuổi già,
hưu dưỡng, lâm chung và sau khi đã qua đời.
Kinh Thánh nói tuổi già là khôn ngoan và đáng kính trọng, nhưng
đối với thời đại phát triển không ngừng về mọi phương diện khoa
học kỹ thuật và cả quan niệm sống, thì người già được coi như
lạc hậu và là cái thắng làm cho xã hội chậm phát triển. Linh mục
khi đến tuổi già hưu, tâm hồn có thể đạt đến mức hoàn thiện của
cuộc đời dâng hiến, nhưng thể xác thì trở nên già cổi và đang
tiến gần về với lòng đất. Lúc tuổi già và bệnh tật đau yếu bắt
đầu xuất hiện, không thể đáp ứng được cho nhu cầu phục vụ, thì
uy tín linh mục có thể bắt đầu giảm, giáo dân bắt đầu chê bai,
khiến ngài cảm thấy như dư thừa, người ta không cần mình nữa, vì
tuổi già xế bóng, đường đi dưới thế gần cùng gần hết, và
mình như đã hết thời, bị bỏ rơi, cô đơn lạc lõng trong cuộc đời,
không còn phục vụ trong cộng đoàn giáo xứ nên cũng không còn
được sự chăm sóc của cộng đoàn giáo xứ.
Cả cuộc đời dấn thân phục vụ không biết bao con người, bao nhiêu
giáo xứ, nhưng lúc về hưu thì hầu như không có ai đoái hoài tới
người đã tận tình phục vụ họ suốt bao năm. Lúc này trở về với
cuộc sống cô đơn một mình, ngài rất cần đến sự chăm sóc của mọi
người, nhưng hỏi ai có thể sẵn sàng? Khi cây đèn dầu đã cạn,
không còn đủ sức chiếu sáng, mấy ai còn muốn sử dụng? Phải chăng
chỉ còn trông vào gia đình, con cháu ?
D.IV.1. Những hỗ trợ do gia đình, bà con cho linh mục
D.IV.1a. Trong thời gian tuổi già:
·
Nếu không có nhà hưu dưỡng chung,
nơi đâu các ngài có thể đi về ngoài tổ ấm yêu thương gia đình,
để cảm nhận được an toàn và bình an? «rách lành đùm bọc dở hay
đỡ đần» để chuẩn bị cho cuộc ra đi lần cuối.
·
Linh mục tuy sống cuộc đời dâng
hiến phụng sự Thiên Chúa và tha nhân nhưng khi về già và hưu
dưỡng cũng không khỏi có những hụt hẫng và cô đơn. Chính lúc này
gia đình và những người thân nên đón nhận cha già với tấm lòng
chân thành và yêu mến, đồng hành và khích lệ ngài, để ngài tiếp
tục sứ mạng còn lại của cuộc đời dâng hiến.
·
Bệnh tật và yếu đau không thể
tránh được, nếu linh mục được gia đình tận tình chăm sóc, nâng
đỡ, sẻ chia những khó khăn và đau đớn của bệnh tật, thì ngài sẽ
yên tâm bớt đi cảm giác cô đơn và bị bỏ rơi trong tuổi già.
·
Quan tâm động viên, khích lệ, cổ
vũ, để cha già lạc quan tin tưởng tiếp tục hoàn thành tốt sứ vụ
của mình trong những năm cuối đời.
-
Giúp đỡ, hỗ trợ cả về vật chất và tinh thần,
chăm sóc, thăm hỏi, thuốc thang khi ốm đau giúp cha già vơi
đi nỗi đau thể xác cũng như tinh thần của tuổi già bệnh
tật.
-
Tổ chức các dịp kỷ niệm như mừng kim khánh,
bổn mạng... để vừa tôn vinh công trạng của các ngài vừa để
tỏ sự quan tâm, gần gũi của gia tộc.
-
Việc thăm nom của con cháu giúp cha già vơi
bớt sự tự ti vì tuổi già vô ích, vô tích sự, là gánh nặng
cho con cháu, và để cho ngài thấy được rằng ngài vẫn là chỗ
dựa tinh thần cho đời sống đức tin của con cháu.
-
Việc có người thân lo cơm nước, hoặc luôn ở
bên cạnh giai đoạn này thật là ý nghĩa, đóng vai trò như chỗ
dựa vững chắc giúp các ngài vui vẻ tuổi già.
-
Nhớ nhắc cha già viết và gửi gắm chúc thư
cho cẩn thận. Nên gửi cho Tòa Giám mục một bản.
D.IV.1b. Trong thời gian hưu dưỡng
-
Đi lại
thăm viếng, động viên, khích lệ làm cho cha già bớt cô đơn.
Thăm nom, nuôi nấng, nâng đỡ, chạy thầy chạy thuốc khi đau
ốm khiến cha già được an ủi nhiều.
-
Tổ chức kỷ
niệm những dịp lễ tết, ngân khánh, kim khánh, chúc thọ...
giúp các cha thấy tuổi già của mình còn có ích.
-
Tôn trọng
và lắng nghe ý kiến cha già, mời về dâng lễ tại gia đình
trong các dịp lễ cưới xin, giỗ chạp, và những việc lớn khác
để tạo dịp tốt cho ngài thay đổi bầu khí, giúp tuổi già được
thanh thản.
D.IV.1c. Trong thời gian lâm chung
·
Quy luật tự nhiên của cuộc đời là sinh lão bệnh
tử. Có sinh ra là có chết đi, thế nhưng đứng trước cái chết, cha
già cũng cảm thấy hãi sợ, mặc dù đã xác tín rằng chết là cửa ngõ
bước vào một đời sống mới, đời sống ngập tràn hạnh phúc cùng
Thiên Chúa, Đấng mà ngài đã từng phụng sự và đặt niềm hy vọng.
·
Trước khi chia tay giã từ cuộc đời ra đi trở về
với Đấng mà cả cuộc đời cha già đã dấn thân phụng sự, ngài cũng
thấy bàng hoàng lo âu. Chính trong lúc này, sự hiện diện của gia
đình và những người thân là nguồn động viên và khích lệ lớn lao,
làm cho tâm hồn cha già được an ủi, giúp ngài đón nhận tình yêu
và ân sủng của Chúa để ngang qua cái chết, ra đi trong an bình
của Thiên Chúa.
-
Cùng với
giáo xứ và Giáo phận, gia đình để tâm lo cho cha già được
chịu các phép sau hết sốt sắng. Có con cháu bên cạnh trong
giờ lâm chung khiến cha già được an ủi nhiều và giờ ra đi
được bình an.
-
Có những
việc muốn trăn trối lại trực tiếp cho con cháu nên sự hiện
diện của gia đình lúc này sẽ là cơ hội cho cha già ủy thác
những việc mà ngài chưa hoàn tất được khi còn sống.
-
Gia đình
và những người thân có thể cộng tác với Giáo phận và giáo xứ
cùng lo liệu tổ chức hậu sự cho cha già cách chu đáo, và còn
-
Sưu tập
những tấm ảnh hoặc tài liệu quý để phát hành và làm kỷ niệm
giúp tưởng nhớ để cầu nguyện cho ngài.
D.IV.1d. Thời gian sau khi qua đời:
-
Cùng với
giáo xứ và Giáo phận thực hiện di chúc, hoàn tất tâm nguyện
và những việc còn dang dở hay trang trải nợ nần của cha già.
-
Nhớ ngày
giỗ, xin lễ, đọc kinh cầu nguyện cho ngài.
-
Hương
khói, tảo mộ hằng năm vào dịp giỗ chạp, lễ tết.
D.IV.2. Những khó khăn do gia
đình gây ra cho linh mục
D.IV.2a. Trong thời gian tuổi già:
-
Nếu vì hòan cảnh mà phải hưu tại gia, thì
gia đình cũng có những thách đố của nó: dăm ba bữa thì được,
nhưng dài ngày thì làm sao? Thời giờ, công sức đã thế, còn
vấn đề tài chánh nữa!
-
Khi về già hưu trí, nếu cha già không có
tiền thì con cháu nghèo túng cũng khó có thể chăm sóc đầy đủ
cho cuộc sống của ngài.
-
Lúc tuổi còn trẻ, linh muc ít quan tâm tới
gia đình và những người thân, mà gần như chỉ biết quan tâm
chăm lo đến cộng đoàn giáo dân mà thôi, nên lúc tuổi già và
về hưu có thể mặc cảm với gia đình và những người thân.
-
Chính trong sự cô đơn và đau yếu, cha già
lại cảm thấy hối hận về những cư xử thiếu tế nhị với gia
đinh và những người thân của mình. Con cháu đôi khi sao lãng
việc thăm hỏi vì ở xa hoặc mải mê làm ăn, hoặc cũng có thể
vì những hoàn cảnh khó khăn về vật chất không thể chăm sóc
cho cha già được đầy đủ, khiến tuổi già càng cô đơn, buồn
tủi.
-
Gia đình và những người thân có thể nghĩ là
cha già đã dâng mình phụng sự Chúa phục vụ Giáo hội, thì
Giáo hội và cộng đoàn giáo xứ phải lo chăm sóc cho ngài khi
ngài già yếu và về hưu, nên có thể bỏ bê ngài.
-
Sự già yếu bệnh tật của cha già có thể trở
thành gánh nặng cho gia đình, khiến họ tỏ ra mệt mỏi khiến
ngài cảm giác tủi thân, buồn phiền.
-
Nếu con cháu sống đạo còn bê bối, tương quan
với người ngoài còn mâu thuẫn, thì uy tín và danh dự của cha
già sẽ ảnh hưởng. Đó là nỗi niềm và gánh nặng cha già phải
mang vì gia đình.
-
Tâm lý thấy mình như vô dụng, không giúp gì
được cho con cháu, và thái độ “kính nhi viễn chi” của con
cháu có thể gây nên khủng hoảng tinh thần cho cha già.
Thường khi còn trẻ cha không chăm lo cho gia đình thì lúc về
già khó được đón nhận.
-
Khi giải quyết các vấn đề nội bộ gia đình,
những người trong cuộc thường muốn kéo cha già đứng về phía
mình, khiến ngài cảm thấy mệt mỏi vì những bon chen thiệt
hơn.
D.IV.2b. Trong thời gian hưu dưỡng:
-
Người
thân, một phần do làm ăn, ít có thời gian, một phần do thờ
ơ, hoặc ngại ngùng mà không thăm viếng, một phần cho rằng
Giáo phận lo hết mọi sự cho cha già nên mọi việc phó thác
cho Giáo phận, tất cả gây lỗ hổng lớn về tinh thần và tình
cảm cho cha già.
-
Những đổ
vỡ, những thất bại lớn, những khó khăn trong gia đình về đời
sống tình cảm, kinh tế, đạo đức đều có thể làm cha già buồn
đau, trăn trở, khiến tuổi hưu thêm nặng nề.
-
Gia đình
đôi khi trở nên gánh nặng, nỗi niềm khó giãi bày cũng là gốc
rễ phát sinh thất vọng, chán nản cô đơn cho cha già.
-
Nơi nghỉ
hưu xa cũng là một trở ngại lớn cho con cháu khi thăm viếng,
chăm nom.
D.IV.2c. Trong thời gian lâm chung:
-
Gia đình
sống đạo còn bê bối, những tranh giành thừa kế, quyền lợi
lúc này sẽ khiến cha già đau khổ, lo lắng, trăn trở, làm cho
giờ ra đi của ngài không bình an thanh thản.
-
Giờ lâm
chung của cha già có thể là giờ gặp gỡ bình an, nhưng cũng
có thể là giờ gặp gỡ bùi ngùi sót xa vì những sự chia rẽ và
ganh tỵ, tranh dành trong gia đình và những người thân.
-
Khi cha
già nằm xuống cũng có thể là lúc anh em họ hàng và những
người thân đòi quyền lợi và gây nhiều khó khăn trong việc tổ
chức tang lễ. Sự không đồng quan điểm của gia đình với Giáo
phận và giáo xứ khi tổ chức tang lễ cũng là một nỗi buồn
phiền lớn.
D.IV.2d. Trong thời gian sau khi qua đời:
-
Dễ bị quên
lãng, nếu trước đó cha ít liên hệ hoặc không đáp ứng được
nhu cầu thực dụng của người thân.
-
Nếu con
cháu không đồng thuận, kinh tế không khá giả thì cũng khó mà
nhớ đến ngày giỗ của cha.
-
Khi cha
già đã an nghỉ không biết có còn người thân nào nhớ đến ngài
để cầu nguyện cho ngài không.
-
Mộ phần
cha ở xa cũng là điều khó khăn cho con cháu khi muốn thăm
viếng và thắp hương cầu nguyện.
-
Lo làm ăn
và những bon chen ở đời khiến con cháu ít quan tâm đến cha
già khi còn sống, thì cũng rất dễ quên khi ngài đã qua đời.
Trên đây chỉ phác họa đôi nét về cái được và cái chưa được của
cuộc đời linh mục, giúp ứng sinh có cái nhìn căn bản để biết
cách sống thế nào với gia đình và những người thân trong cuộc
đời dâng hiến đang đi; đồng thời cũng có cái nhìn đúng đắn về
vai trò của gia đình và những người thân trong đời sống dâng
hiến của mình, từ đó can đảm và an tâm tiếp bước trên con đường
dâng hiến để phụng vụ Chúa và tha nhân trong nhiệt tình và yêu
thương.
|
VỀ MỤC LỤC |
|
ĐỌC KINH THÁNH TRONG GIA ĐÌNH
|
Tác phẩm: Cẩm Nang Hạnh Phúc Gia Đình
Kitô - MỤC VỤ HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH
Tác
giả: D. WAHRHEIT (Lm. Minh Anh, GP. Huế tổng hợp biên tập)
B12. ĐỌC KINH THÁNH TRONG GIA ĐÌNH
1.
Nên thánh, hiểu một cách đơn sơ, có nghĩa là nên giống
Chúa Giêsu. Thật thế, trong Cựu Ước, Thiên Chúa đã phán bảo dân
Do Thái: “Các ngươi hãy nên thánh vì Ta là Đấng Thánh”. Chính
Chúa Giêsu cũng lặp lại mệnh lệnh đó với các môn đệ của Ngài:
“Các con hãy nên trọn lành như Cha các con trên trời là Đấng
trọn lành”. Mà bởi lẽ Chúa Giêsu là hình ảnh của Thiên Chúa, nên
con người chỉ có thể thấy được sự thánh thiện của Thiên Chúa nơi
Ngài mà thôi. Do đó, nên thánh là nên giống Chúa Giêsu, chính
Ngài là đường, là sự thật và là sự sống. Nghĩa là chỉ nhờ Ngài,
con người mới có thể đạt được cứu cánh của mình.
Nhưng như chúng ta vẫn thường nói:
vô tri bất mộ, làm sao có thể yêu mến Chúa Giêsu và nên giống
Ngài nếu chúng ta không biết Ngài. Do đó, để có thể nên thánh và
nên đồng hình đồng dạng với Chúa Giêsu, người tín hữu Kitô cần
phải biết Ngài. Sự hiểu biết theo đúng nghĩa chính là kết hợp
mật thiết với Ngài.
Chúa Giêsu không chỉ là một nhân
vật lịch sử hay chỉ là một lý tưởng để người tín hữu tìm hiểu và
mô phỏng theo, Ngài còn là một con người đang sống giữa chúng
ta. Nói như thánh Phaolô, hôm qua, hôm nay, và mãi mãi về sau
Ngài vẫn là một. Ngài đã từng sống và chia sẻ cuộc sống với
những người Do Thái cách đây hơn hai ngàn năm, và giờ này vẫn
đang tiếp tục sống giữa chúng ta và trong chúng ta.
Do đó, biết Chúa Giêsu thiết yếu
là sống kết hợp với Ngài bằng lời cầu nguyện, bằng tham dự các
bí tích, bằng cuộc sống quảng đại, hy sinh, quên mình.
Nhưng để sự kết hợp ấy được xây
dựng trên một nền tảng vững chắc, một sự hiểu biết về thân thế,
cuộc đời của Ngài là một điều tuyệt đối cần thiết. Chúng ta chỉ
có thể múc lấy sự hiểu biết ấy từ Kinh Thánh mà thôi.
Tại sao đọc Kinh Thánh trong gia
đình và phải đọc Kinh Thánh trong gia đình như thế nào? Chúng
tôi xin ôn lại đây vài nguyên tắc nền tảng của việc đọc Kinh
Thánh trong gia đình.
2.
Trong thánh lễ, sau một bài đọc trích từ Kinh Thánh, nhất là sau
bài Tin Mừng, linh mục hay người đọc sách xướng lên: Đó là lời
Chúa, và cộng đoàn đồng thanh tung hô Chúa. Với lời tung hô này
Giáo Hội muốn nhắn nhủ chúng ta rằng, Kinh Thánh chính là Lời
Chúa. Mỗi khi chúng ta đọc hay nghe đọc Kinh Thánh, chúng ta
nghe chính Thiên Chúa đang phán dạy.
Qua toàn bộ Kinh Thánh, Thiên Chúa
mặc khải những chân lý cứu rỗi cho con người. Nói cách khác, qua
Kinh Thánh, Thiên Chúa tự biểu lộ và thông ban chính mình cho
con người. Với một đường lối khôn ngoan và một khoa sư phạm có
tính tiệm tiến, từng bước, từng bước một Thiên Chúa đã kiên nhẫn
tự bộc bạch chính mình cho con người. Cựu Ước hay lịch sử dân Do
Thái chính là lời tỏ tình của Thiên Chúa.
Qua dòng lịch sử này, chúng ta
thấy Thiên Chúa đến với con người, mời gọi, nài nỉ con người hầu
kết thân với con người. Nhưng phải đợi cho tới Chúa Giêsu, khi
thời gian đã tròn đầy, Thiên Chúa mới bày tỏ trọn vẹn bí mật của
Ngài. Trong Chúa Giêsu, con người thấy được Đấng vô hình; trong
Chúa Giêsu, con người thấy được trọn vẹn chân lý về Thiên Chúa.
Thế nhưng, Chúa Giêsu không chỉ là
hình ảnh của Thiên Chúa vô hình, vì là con người, Ngài cũng
chính là mặc khải về bí ẩn của con người. Thực tế, con người vốn
là một bí ẩn đối với chính mình. Con người có thể múc cạn mọi
hiểu biết về vũ trụ và thế giới quanh nó, nhưng mãi mãi nó vẫn
là một bí ẩn đối với chính mình.
Con người bởi đâu mà ra?
con người sẽ đi
về đâu? Tự sức mình con người sẽ không bao giờ tìm được giải đáp
thoả đáng cho những câu hỏi lớn ấy. Duy chỉ trong Chúa Giêsu con
người mới tìm được giải đáp trọn vẹn. Chúa Giêsu, chính câu giải
đáp cho bí ẩn của con người. Chỉ trong Ngài, con người mới biết
được mình là ai, và sẽ đi về đâu.
Như vậy, Kinh Thánh là mặc khải
của Thiên Chúa về mầu nhiệm của Ngài và cũng là một tỏ bày cho
con người về bí ẩn của nó.
qua
suốt lịch sử của dân Do Thái trong Cựu Ước và qua Tân Ước, chúng
ta tìm biết chân lý về con người vốn được sáng tỏ trong chính
mầu nhiệm của Thiên Chúa.
3.
Nhận thức được nội dung của Kinh Thánh như trên, chúng ta
mới thấy rằng, đọc Kinh Thánh là đi tìm Thiên Chúa và tìm chính
mình. Dung mạo Chúa Giêsu được các tiên tri loan báo trong Cựu
Ước như được vẽ lại từng nét trong Tin Mừng cũng chính là lý
tưởng sống của con người. Biết Chúa Giêsu, cũng là biết chính
mình. Chỉ có một mẫu người duy nhất để khuôn rập theo, chỉ có
một lý tưởng để đeo đuổi, chỉ có một con đường để sống xứng với
phẩm giá con người, đó chính là Chúa Giêsu Kitô.
Thiên Chúa là tình yêu và Chúa
Giêsu là hiện thân sống động của tình yêu ấy.
cho nên, sống như
Chúa Giêsu là sống yêu thương.
cuộc sống yêu
thương và hiến thân trọn vẹn của Chúa Giêsu là thể hiện hoàn hảo
của ơn gọi làm người. Nên thánh trong bậc hôn nhân chính là sống
tình yêu mà Chúa Giêsu đã thể hiện trong suốt cuộc đời Ngài. Đó
cũng là nền tảng của đời sống hôn nhân và gia đình.
Con người không đi tìm và xây dựng
một giá trị nào ngoài tình yêu.
để có thể xây
dựng tình yêu ấy, các đôi vợ chồng cần phải đi lại từng bước
chân của Chúa Giêsu. Từng bước, từng bước Kinh Thánh tỏ bày cho
họ dung mạo của Chúa Giêsu và cách thế Ngài thể hiện tình yêu.
Vì Kinh Thánh là lời ngỏ của Thiên
Chúa nên người ta sẽ không đọc Kinh Thánh như đọc bất cứ một tác
phẩm nào khác. lời
của Thiên Chúa là lời hằng sống và bất diệt, nên mỗi khi ta đọc
Kinh Thánh là lúc Thiên Chúa nói với chúng ta và đó cũng là lúc
ta gặp gỡ Ngài. Do đó, đọc xong một đoạn Kinh Thánh, chúng ta
phải dừng lại để tự hỏi Chúa muốn nói với ta điều gì qua đoạn
Kinh Thánh đó? Với tư cách là vợ, là chồng, ta phải làm gì để
phù hợp với lời của Chúa?
Chắc chắn, nếu thực sự lắng nghe
tiếng Chúa trong Kinh Thánh, con người sẽ cảm nhận được những
soi sáng cho đời sống mỗi ngày, nhất là trong quan hệ vợ chồng
và đời sống gia đình.
4.
Hai vợ chồng đọc Kinh Thánh với nhau, đó là cách đọc Kinh
Thánh đặc biệt hữu ích. Khi tình yêu của hai người được củng cố
bằng Lời Chúa, họ sẽ thắng vượt được mọi khó khăn trong gia
đình. Ngoài ra, việc đọc Kinh Thánh trong gia đình, nhất là lúc
cầu nguyện chung, sẽ là chất keo nối kết mọi người lại trong
tình yêu Chúa và trong sự thông hiệp với nhau.
Nhờ thói quen nghe Lời Chúa, con
cái sẽ hiểu biết Chúa Giêsu và tìm được những giá trị đích thực
cho cuộc sống. kinh
nghiệm cho thấy, khi hai vợ chồng đọc Kinh Thánh với nhau mỗi
ngày, con đường canh tân cá nhân và gia đình sẽ mở ra cho họ. Đó
không chỉ là bí quyết nên thánh mà còn là chìa khóa của hạnh
phúc gia đình. Bởi vì lời Chúa không bao giờ xuống trong một gia
đình mà không mang lại hoa trái hạnh phúc cho gia đình đó.
|
VỀ MỤC LỤC |
|
ẢNH HƯỞNG CỦA NẮNG TRÊN CƠ THỂ
|
Nắng là ánh
sáng mang thêm sức nóng của mặt trời trực tiếp chiếu xuống. Bình
thường thì nắng bức tăng dần từ sáng tới cao độ là trưa rồi giảm
dần tới chiều và ban đêm.
Nhiệt độ
trong không khí thường thấp hơn sức nóng mà ta cảm thấy vì ảnh
hưởng của độ ẩm tương đối. Độ ẩm không khí càng cao ta càng cảm
thấy nóng khó chịu hơn.
Cơ quan khí
tượng đã lập ra một biểu đồ sức nóng (Heat Index Chart) trên đó
có ghi nhiệt độ không khí và độ ẩm tương đối. Giao điểm đường
nối của hai số này là nhiệt độ thực cảm thấy (Heat Index).
Thí dụ nhiệt
độ đo trong không khí là 90 F, độ ẩm 80 thì sức nóng thật sự cảm
thấy cao hơn, 113 độ F. Khi Heat Index dưới 90 độ F thì cơ thể
còn chịu đựng được chứ lên trên 100 độ thì nhiều tai nạn do hơi
nóng sẽ dễ dàng xảy ra.
Khi ta sống
trong không gian quá nóng thì cơ thể sẽ có một số phản ứng để
làm bớt nóng. Đó là:
Mạch máu giãn
nở, máu dồn nhiều tới da khiến nhiệt phân tán đi. Các hạch mồ
hôi hoạt động mạnh, mồ hôi tiết ra nhiều, bốc hơi làm giảm nhiệt
trong cơ thể.
Khi nhiệt độ
thay đổi mà các cơ chế trên không điều hòa thích nghi được hoặc
khi có những nguy cơ tăng, giảm nhiệt khác thì một số bệnh liên
quan tới sức nóng sẽ xảy ra. Các nguy cơ này có thể là:
* Yếu tố gây
tăng nhiệt trong cơ thể gồm có: sự vận động của bắp thịt, lên
kinh phong, nóng sốt do nhiễm trùng, vật vã cơ thể khi người
ghiền thiếu nhớ cần sa bạch phiến hoặc do tác dụng của thuốc tâm
thần.
* Yếu tố đưa
đến suy yếu sự thoát nhiệt: tuổi cao, người quá mập mỡ giữ
nhiệt, khô nước trong người, mặc quần áo bó sát, khi có bệnh
tim, bệnh ngoài da hay do tác dụng của thuốc chữa bệnh tim,
thuốc thông tiểu tiện.
Các bệnh do
nắng gắt gây ra
Các tai nạn
này thường xảy ra vào mùa hè khi khí trời vừa nóng vừa ẩm. Lý do
là sự ẩm thấp của không khí trì hoãn bốc hơi trên da.
Người già và
em bé thường hay bị hơn tuổi khác vì sức đề kháng với bệnh kém
hữu hiệu. Riêng nữ giới dường như ít gặp rủi ro này hơn nam giới
vì quý bà quý cô hiểu rõ khả năng chịu đựng cho nên sớm tránh né
trước khi lâm nguy.
Tia nắng có
thể xuyên qua lớp da không quần áo làm tổn thương cho các phân
tử DNA, nhiễm thể của tế bào da. Tia cực tím của nắng gắt vào
mùa Hè dễ làm da tổn thương, đưa tới mau già, ung thư da.
Sau đây là
một số bệnh do nắng gắt gây ra:
1- Ban đỏ da
Phơi lâu
trong nắng, da sẽ mần đỏ, ngứa. Tuyến mồ hôi bị tắc, nở to, bể
vỡ tạo ra những mụn nước nhỏ trên da. Tiếp tục phơi nắng lâu hơn
thì da sẽ bị viêm, đôi khi nhiễm độc.
Để tránh khó
chịu này, cần mặc quần áo rộng che cả thân hình, tránh nắng quá
độ.
Khi đã nổi
ban, thoa và uống thuốc chống dị ứng như Bénadryl hoặc bôi kem
Caladryl.TRước đó, nên chừom khăn lạnh trên da để giảm ngứa rát.
2- Chuột rút
Trường hợp
này xảy ra ngay sau khi hoạt động mạnh dưới trời nắng, đổ mồ hôi
nhiều mà lại không uống nước có đủ chất muối để thay thế. Các
bắp thịt lớn, như ở bắp chân, ở bụng sẽ co rút gây ra đau nhức
mà ta gọi là chuột rút (Cramp).
Để tránh
chuột rút, cần uống nước có pha muối sodium trong thời gian vận
động.
Không nên
dùng muối viên vì muối làm sót bao tử đồng thời nước vẫn chưa
được thay thế.
3- Ngất xỉu
Hơi nóng có
thể làm ngất xỉu vì mạch máu ngoại vi giãn nở, giảm lượng máu
trở lại tim và lên não bộ đồng thời đổ mồ hôi nhiều đưa đến
thiếu nước.
Để tránh rủi
ro này, không nên phơi nắng quá lâu. Khi cảm thấy có thể bị xỉu
thì di chuyển ngay vào chỗ có bóng mát và nhớ uống nhiều nước.
4- Kiệt sức
Nhiều nhà
chuyên môn tin tưởng rằng kiệt sức sẽ đưa tới trúng cảm nhiệt
(Heat stroke).
Người bị
kiệt sức không có dấu hiệu thần kinh nhưng bị nhức đầu, chóng
mặt, ói mửa, mệt mỏi, đau nhức các bắp thịt. Hơi nóng làm cơ thể
mất nước, thiếu muối vì đổ mồ hôi quá nhiều.
Lực sĩ vận
động cật lực, người lao động chân tay quá sức trong môi trường
nóng bức mà lại không uống đầy đủ nước là hay bị kiệt sức vì
nóng.
Ngoài ra, quý
lão niên đang dùng thuốc lợi tiểu để trị cao huyết áp cũng
thường hay bị rắc rối này.
Để tránh kiệt
sức vì nắng, nên uống nhiều nước có muối và rời khỏi nơi nắng
gắt ngay.
5- Trúng cảm
nhiệt
Đây là một
cấp cứu sinh tử, bệnh nhân cần được điều trị tức thì tại bệnh
viện với các phương tiện hữu hiệu. Nếu chậm trễ, nạn nhân có
thể bị thiệt mạng.
Trúng nhiệt
(heat stroke) xảy ra khi cơ thể tiếp cận với sức nóng quá lâu mà
bộ phận điều hòa thân nhiệt bị tràn ngập, không cáng đáng, thích
nghi được với sức nóng.
Sau đây là
một số yếu tố làm gia tăng nguy cơ trúng nhiệt:
a- Người cao
tuổi, người đang bệnh hoạn suy nhược, người mập béo hoặc khi
sống tĩnh tại trong căn phòng hầm hơi, nóng ẩm.
b-Trẻ em
trúng cảm nhiệt khi ngồi trong xe đợi cha mẹ dưới ánh nắng gay
gắt.
c- Khi ở
trong nắng mà uống nhiều rượu, có bệnh tim, bị khử nước
(dehydrated).
đ- Khi đang
dùng một vài dược phẩm như thuốc chống dị ứng, thuốc chữa bệnh
tâm thần, thuốc ngủ.
Dấu hiệu đầu
tiên là bệnh nhân đổ mồ hôi rất nhiều (rồi một lúc sau lại
ngưng), nhiệt độ tăng cao có khi tới 41◦ C, da nóng và khô, khó
thở, tim đập nhanh, huyết áp giảm, tính tình cáu kỉnh, gây gổ,
có ảo giác nghe nhìn các sự việc không có thật. Trường hợp nặng
có thể đưa đến tổn thương não bộ, kinh phong, liệt bán thân, hôn
mê, đôi khi chết.
Trong khi chờ
đợi xe cấp cứu đưa đi bệnh viện, việc quan trọng tức thì là phải
làm hạ nhiệt độ trong người nạn nhân:
a- Di chuyển
họ vào nằm ở chỗ mát râm, cắt bỏ quần áo để máu huyết lưu thông
và cơ thể thoáng thoát.
b- Dội hay
phủ khăn thấm nước lạnh lên cơ thể.
c- Hướng gió
quạt vào người nạn nhân, nhất là nơi máu lưu thông nhiều như
nách, háng, cổ, để phân tán hơi nóng.
đ- Nhiều
chuyên viên khuyên không nên cho nạn nhân uống nước vào lúc này.
e- Không nên
cho uống thuốc hạ nhiệt như Tylenol, Aspirin vì thuốc có thể gây
thêm tổn thương cho lá gan.
Phòng bệnh
hơn chữa bệnh
Kinh nghiệm
thường khuyên phòng bệnh hơn chữa bệnh. Các rắc rối vì hơi nóng
thường hay tái phát cho nên phòng ngừa lại càng quan trong hơn.
Sau đây là
một số dự phòng:
1- Nếu biết
là sẽ phải làm việc dưới nắng gắt thì trước đó vài ngày tiếp xúc
dần dần với nắng để cơ thể quen đi.
2- Không nên
cố gắng quá sức mình khi làm việc trong trời nắng. Khi cảm thấy
có triệu chứng rắc rối, ngưng công việc ngay và tránh vào chỗ
bóng mát nghỉ ít phút cho khỏe.
3- Uống nhiều
nước pha muối trong khi ở ngoài nắng;
4- Tránh
nhiều cà phê, rượu vì những thứ này làm đị tiểu tiện nhiều khiến
cơ thể mất nước;
5- Mặc quần
áo rộng rãi thoải mái, vải xốp, màu lạt để tránh giữ nhiệt và để
thấm mồ hôi.
Vải ka ki màu
xanh lợt là tốt vì nó phân tán chứ không hút sức nóng.
Tránh vải làm
bằng hợp chất như nylon, polyester.
Mỗi khi áo
ướt sũng mồ hôi thì thay áo khô ngay.
6- Đầu đội
nón rộng vành, mắt mang kính râm.
8- Bôi kem
chống nắng có độ bảo vệ cao (SPF 20 tới 30). Độ SPF càng cao, sự
bảo vệ da càng lâu.
9- Du di thời
khóa biểu làm việc, nhiều giờ vào buổi sáng và xế chiều; trưa
nghỉ ngơi vài giờ vừa tránh nắng vừa dưỡng sức.
10- Không để
trẻ em đợi trong xe dưới trời nắng dù đã xuống kính xe vì nhiệt
độ trong xe có thể lên tới 65◦C (150◦F)
11- Tránh tập
luyện cơ thể giữa buổi trưa vừa nóng vừa ẩm thấp.
Uống nhiều
nước trước khi, trong khi và sau khi tập, chứ đừng đợi tới khi
khát mới uống.
Khi đang bị
nóng sốt, không tập luyện vì nhiệt độ sinh ra do sự vận động cơ
bắp sẽ tăng nhiệt độ trong cơ thể.
12- Làm việc
dưới nắng bức, lâu lâu nên nghỉ tay, vào bóng râm thư giãn một
lúc, “uống ly chanh đường” uống ly nước lạnh cho “phẻ” mát rồi
hãy tiếp tục.
Bác sĩ Nguyễn Ý-Đức M.D.
Texas-Hoa Kỳ
www.bsnguyenyduc.com
|
VỀ MỤC LỤC |
NHỎ VÀ TO Chuyện phiếm của Gã Siêu |
Lâu rồi, gã có đọc một bài viết, hình như
của Bs Phạm Hồng Quang trên báo Tuổi Trẻ Cười thì phải? Bài viết
mang tựa đề “To và nhỏ”, đại khái như thế này:
“Ở một đất nước rất nhỏ, có một thủ đô
rất to.
Trong thủ đô rất to, có những con đường
rất nhỏ.
Trên những con đường rất nhỏ, có những
biệt thự rất to.
Những biệt thự rất to, toàn của các cô
vợ nhỏ.
Các cô vợ nhỏ là của các ông quan rất
to.
Các ông quan rất to, có những chiếc cặp
rất nhỏ.
Trong những chiếc cặp rất nhỏ, có các dự
án rất to.
Các dự án rất to, nhưng mang lại hiệu
quả rất nhỏ.
Hiệu quả rất nhỏ, nhưng thất thoát rất
to.
Thất thoát rất to, nhưng tìm ra rất nhỏ.
Tìm ra rất nhỏ, nhưng xử lại rất to.
Xử rất to, nhưng kết quả rất nhỏ…
Tiếp nối bài viết trên, hôm nay gã cũng
muốn tán một chút về đề tài to và nhỏ. Ngày xưa, dọc theo quãng
đường từ thác Prenn lên Đàlạt, gã thấy bên vệ đường có nhiều tấm
bảng gỗ màu xanh với những hàng chữ, đại khái như:
- Phòng cháy hơn chữa cháy.
- Lửa cháy rừng điêu tàn.
Thực vậy, chỉ cần một mẩu thuốc lá của một
du khách bất cẩn ném xuống, là có thể tạo nên một đám cháy lớn,
thiêu huỷ cả một cánh rừng, bởi vì ước vọng của tàn lửa là đốt
cháy và đốt cháy không ngừng. Một đám cháy lớn đã khởi đi từ một
tàn lửa nhỏ. Phải chăng đó cũng chính là quy luật của cuộc sống.
Phàm đã là người sống trong cuộc đời, thì
ai cũng ước mơ. Và ước mơ nào thì cũng tốt đẹp và hoành tráng.
Tuy nhiên, người ta lại thường hay quên mất rằng:
- Để ước mơ tốt đẹp và hoành tráng ấy trở
thành sự thật, cần phải được bắt đầu bằng những việc nhỏ.
Bình thường, đời người là một chuỗi những
việc nhỏ đan chen vào nhau. Nếu tấm vải tượng trưng cho cuộc
đời, thì mỗi việc nhỏ chính là một sợi chỉ vô danh đã dệt nên
tấm vải ấy. Không có những sợi chỉ, thì cũng chẳng có được tấm
vải.
Hồi còn bé, gã đã say mê đọc truyện các
thánh Tử đạo và mong ước một ngày nào đó mình sẽ đưa cổ ra cho
“bọn quân dữ” chém một nhát, hay đưa thân ra cho chúng bắn một
phát, thế là nghiễm nhiên gã có tên trong sổ bộ các vị anh hùng
tử đạo, được cả và thiên hạ mộ mến.
Thế nhưng, lớn lên một chút, gã nhận thấy
mộng ước như vậy chỉ là điều viển vông và hão huyền như đi trên
mây trên gió, bởi vì hiện nay chuyện bắt bớ cấm cách một cách
đẫm máu khó có thể xảy ra, và nếu có xảy ra, thì “bọn quân dữ”
cũng sẽ thực hiện một cách rất tinh vi và khoa học, thậm chí đến
cả quỉ thần cũng không lường nổi. Và hơn thế nữa, hành vi tử đạo
chỉ là một kết quả đương nhiên của một cuộc sống trung thành với
đức tin, bởi vì cây xiêu chiều nào sẽ đổ theo chiều ấy.
Nếu cuộc sống hôm nay đã khô khan nguội
lạnh, đã bê tha tội lỗi, thì khi gian nan thử thách xảy đến,
người ta sẽ khó lòng đứng vững trong đức tin, nếu không muốn nói
rằng người ta sẽ dễ dàng bán Chúa như Giuđa, hay sẽ dễ dàng chối
Chúa như Phêrô. Ai trung thành trong việc nhỏ, thì rồi mới sẽ
trung thành trong việc lớn. Ai liên tục phản bội trong những
việc nhỏ, thì rồi cũng sẽ phản bội trong việc lớn.
Như trên gã đã trình bày: Cuộc đời chỉ là
một chuỗi dài những chuyện nhỏ được đan chen vào nhau. Những
chuyện nhỏ này, có khi đem lại những tai hại to, nhưng cũng có
khi đem lại những thành công lớn.
Trước hết là những
chuyện nhỏ nhưng đem lại tai hại to.
Người ta thường bảo:
- Bé ăn cắp một trái trứng, thì lớn lên sẽ
ăn trộm một con bò.
Không phải chỉ trong một sớm một chiều, mà
người lương thiện bỗng trở nên kẻ tội phạm. Tiến trình phạm tội
là cả một chuỗi dài những sai lỗi nhỏ mọn, để rồi kết thúc bằng
việc sa vào vòng tội ác, huỷ diệt cả một cuộc đời.
Chẳng hạn một cậu bé học trò, lúc ban đầu
trốn học theo bè bạn đi chơi. Trốn miết thành thói quen, rồi
cuối cùng bị nhà trường đuổi và chính cậu cũng nản lòng, không
còn theo kịp chương trình, đành phải bỏ dở việc học. Và thế là
cánh cửa tương lai bị khép lại. Lối vào ngày mai của cậu bị tắc
nghẽn.
Chẳng hạn một anh chàng ghiền xì ke ma tuý,
lúc ban đầu có thể chỉ là đơn giản nghe theo lời bạn bè rủ rê và
mời mọc. Chính chàng cũng thầm nghĩ trong bụng:
- Thử một lần cho biết mùi đời.
- Hút một điếu chỉ là chuyện nhỏ.
Thế rồi chàng trở thành con nghiện lúc nào
cũng không hay.
Như viên bi rơi xuống trên một triền dốc.
Nó cứ lăn mãi lăn hoài cho tới tận cùng con dốc mới thôi. Chàng
lần lượt phạm hết tội ác này đến tội ác khác. Đã ghiền thì phải
có tiền để mua thuốc. Và để có tiền thì chàng phải dối gạt cha
mẹ, đánh đập vợ con, lừa đảo bạn bè, hay ăn trộm ăn cắp. Và rồi
trong một giây phút mù quáng nào đó, chàng cũng sẵn sàng cướp
của giết người, chỉ để kiếm tí tiền còm.
Nhất là trong lãnh vực tình yêu, chỉ vì
những chuyện nhỏ, mà niềm hạnh phúc bị tiêu tan và gia đình bị
đổ vỡ. Gã xin lươm lặt một vài kinh nghiệm nhỏ, được đăng tải
trên báo Phụ Nữ, để chứng minh cho sự thật não nùng và bi đát
trên.
Kinh nghiệm thứ nhất, tính ham nhậu của
chàng chỉ là chuyện nhỏ.
Chàng và nàng quyết định lấy nhau. Gia đình
nàng phản đối vì chàng có sở thích lớn là…nhậu. Tính ham nhậu
của chàng đã có thừ thời sinh viên, khi hai người mới yêu nhau.
Cứ cuối tuần là chàng và mấy người bạn cùng phòng ở ký túc xá
lại ra quán bia hơi bên lề đường nhâm nhi vài lít. Nàng giận lắm
vì chàng mải lai rai quên cả cái hẹn với nàng.
Thậm chí trong lần ra mắt bên nhà vợ tương
lai, chàng đã quên luôn việc cần phải tạo ra một hình ảnh chàng
rể tốt vì chàng đã nhậu “tới bến” với hai người anh của nàng,
khiến nàng phải gọi taxi đưa chàng về nhà.
Tuy nhiên, nàng vẫn hăng hái bênh vực:
- Nhân vô thập toàn. Làm người ai mà chẳng
có những khuyết điểm. Kẻ này cờ bạc. Kẻ kia đèo bòng bồ nhí,
trong khi chàng tính tình trung thực, hiếu thảo với cha mẹ và
yêu thương nàng hết lòng. Chàng chỉ có một khuyết điểm tí tẹo là
hay nhậu. Chuyện nhỏ như con thỏ. Chàng nhậu chỉ vì công việc,
chỉ vì nể nang bạn bè.
Nàng tin rằng khi đã có vợ có con, kề vai
gánh lấy trách nhiệm gia đình, chàng sẽ chia tay với ma men.
Nhưng rồi cuộc tình của nàng đã kết thúc trong đổ vỡ cũng vì
chuyện nhỏ này. Chính nàng đã phải khai trước toà án:
- Ngày nào chàng cũng say xỉn. Tiếp khách
hàng cũng nhậu. Gặp bạn bè cũng nhậu. Đến ngày cuối tuần, không
có lý do gì cũng nhậu, bằng cách gầy độ với mấy ông hàng xóm.
Tôi buồn chán, nên có lần bồng con về quê sáu tháng, chàng năn
nỉ và thề bỏ rượu, tôi đã tha thứ và gia đình đoàn tụ. Sau đó,
chàng vẫn chứng nào tật ấy và tôi không thể chịu đựng được nữa.
Chuyện nhỏ bây giờ không còn nhỏ nữa mất rồi.
Kinh nghiệm thứ hai, tính hay ghen của nàng
chỉ là chuyện nhỏ.
Chàng là nhân viên phòng kinh doanh nhà
đất. Nàng là con gái rượu của một đại gia. Họ đến với nhau quả
là môn đăng hộ đối, xứng đôi vừa lứa. Tuy nhiên, nàng chỉ có mỗi
tội là… hay ghen.
Lúc bấy giờ, chàng cho là chuyện nhỏ. Mặc
dù bực bội, nhưng đôi khi chàng lại cảm thấy hay hay, vì có yêu
chàng, thì nàng mới ghen. Thành thử, chàng chẳng hề nghĩ tới
việc chia tay, bởi vì sau mỗi lần chàng giận, nàng luôn năn nỉ
xin chàng bỏ qua. Hơn thế nữa, nàng lại xinh đẹp, giỏi nội trợ,
điều kiện gia đình quá tốt. Chàng nghĩ lấy nhau rồi nàng sẽ hiểu
rõ chàng là người sống nghiêm túc, không lăng nhăng, lúc bấy giờ
nàng sẽ không còn lý do gì để mà ghen.
Nhưng rồi cuộc hôn nhân của chàng cũng đã
vội chết yểu khi chưa kịp “mừng tuổi lên hai”, do chàng không
chịu đựng nổi sự ghen tuông đến bệnh hoạn của nàng.
Thực vậy, ngày nào đi làm về, chàng cũng bị
nàng “đánh hơi”, kiểm tra xem có mùi nước hoa, có vết son hay
sợi tóc cô nào vương trên áo chàng hay không.
Chàng cũng bị nàng kiểm tra điện toại xem
đã gọi, đã nhắn tin cho những ai. Cô nào nằm trong danh sách
“tình nghi”, liền bị nàng gọi điện thoại để điều tra và đe doạ
không được đến gần chàng.
Điều làm chàng mệt mỏi nhất, đó là nàng còn
hay bày trò tuyệt thực, đòi tự tử…mỗi khi chàng nổi cáu, mắng
nàng vì tội ghen bóng ghen gió hay về nhà trễ.
(Dựa theo bài viết của Thuỳ Dương trong báo
Phụ Nữ thứ ba, số ra ngày 19.1.2010).
Các cụ ta ngày xưa thường bảo:
- Yêu nhau củ ấu cũng tròn,
Trái bồ hòn cũng ngọt.
- Yêu nhau cau bảy bổ ba,
Ghét nhau cay bảy bổ ra làm mười.
- Yêu nhau muôn sự chẳng nề,
Một trăm chỗ lệch cũng kê cho bằng.
Khi tình yêu còn mặn nồng, nhất là vào cái
thuở ban đầu lưu luyến ấy, thì những thói hư tật xấu chỉ là
chuyện nhỏ. Thế nhưng, một khi đã bước vào hôn nhân và chung
sống với nhau, nhất là khi tình yêu đang có những triệu chứng
nhạt phai và giảm sút, thì những thói hư tật xấu ấy không còn là
chuyện nhỏ nữa, nhưng đã trở thành chuyện lớn, nguyên nhân dẫn
tới đổ vỡ, bởi vì đó chính là giọt nước cuối cùng làm tràn ly,
đó chính là cọng rơm sau hết làm gãy cả cái lưng con lạc đà!
Kinh nghiệm thứ ba, dư luận cũng chỉ là
chuyện nhỏ.
Chàng là một đại gia, goá vợ và có hai con.
Nàng là một cô gái duyên dáng, giỏi giang, được nhiều chàng trai
theo đuổi, nhưng cuối cùng nàng đã lên xe hoa để được chàng rước
về dinh.
Mặc dù những người chung quanh đã xì xào
bàn tán, nhưng nàng cho đó chỉ là chuyện nhỏ. Nàng hy vọng với
tất cả thiện chí và những việc làm tốt lành của mình, nàng sẽ
đánh tan được cái dư luận đầy ác ý ấy.
Vì thế, sau đám cưới, cả chàng lẫn nàng đều
cố gắng thu xếp ổn thoả những mối liên hệ gia đình. Tuy nhiên,
chỉ được một thời gian ngắn mà thôi, sau đó nàng bắt đầu cảm
thấy bị chao đảo, khi mà ngày nào cũng phải nghe những lời bóng
gió:
- Làm vú em đặng có kinh nghiệm để mai mốt
làm mẹ tốt hơn.
- Khỏi đau đẻ cũng có con nuôi.
- Chàng cưới nàng là để có người hầu hạ,
chứ có yêu gì nàng đâu.
Còn hai đứa con, lúc nào cũng chê bai rằng:
- Dì không bằng mẹ ngày xưa.
Lúc đầu chàng còn cố gắng phân tích thiệt
hơn cho nàng và dỗ dành con cái. Nhưng rồi sự việc cứ liên tục
xảy ra theo chiều hướng xấu, khiến chàng đành phải buông xuôi.
Có lần chàng đã nói với nàng:
- Thôi thì tuỳ em chọn lựa, muốn ở với anh
nữa thì ở, bằng không thì cứ việc ra đi.
Câu nói ấy làm cho nàng đau đớn và nghiệm
ra rằng:
- Những gì người khác nói đều chính xác.
Chàng chỉ biết có con riêng và người vợ cũ mà thôi.
(Dựa theo bài viết của Nghi Anh trong báo
Phụ Nữ thứ sáu, số ra ngày 8.1.2010).
Thiết tưởng trong hoàn cảnh này, cả hai đều
phải có can đảm gác bỏ ngoài tai những lời đàm tiếu, thậm chí
còn phải…”ngồi xổm” trên cả dư luận nữa, nếu thấy rằng những lời
đồn thổi ấy đều vô căn cứ, không đúng sự thật và chất đầy những
ý đồ đen tối. Bởi vì:
- Dư luận thì vốn thường luận dư.
- Lưỡi không xương nhiều đường lắt léo,
Miệng không vành, miệng méo tứ tung.
Vì thế chó cắn mặc chó, đôi ta vẫn cứ tay
trong tay cùng nhau sánh bước trong cuộc đời:
- Mặc người nói ngả nói nghiêng,
Ta đây vẫn vững như kiềng ba chân.
Những chuyện nhỏ chỉ hoàn thành được một
cái lỗ bé như lỗ cua đào, nhưng nếu không kịp thời vít lại, thì
khi mùa lụt đến, nó có thể làm vỡ cả một con đê. Và khi con đê
đã vỡ, hậu quả thật khó mà lường nổi. Cũng giống một tàn thuốc
lá rơi vãi có thể đốt cháy cả một khu rừng.
Tiếp đến là những chuyện
nhỏ nhưng đem lại thành công lớn.
Đứng từ xa, gã thấy sa mạc thật mênh mông,
nhưng đến gần thì cái mênh mông ấy được kết thành bởi muôn vàn
hạt cát nhỏ. Đại dương thì bao la, nhưng cái bao la ấy được tạo
nên bởi những cái gì, nếu không phải là bởi những giọt nước vô
danh tiểu tốt!
Cũng vậy, đằng sau những thành công vẻ
vang, đằng sau những cuộc đời rạng rỡ chính là những cố gắng âm
thầm, chính là những nỗ lực liên tục. Hay nói cách khác, chính
là những…chuyện nhỏ.
Chẳng hạn thánh nữ Têrêsa, một vị thánh nổi
tiếng, mà người công giáo nào cũng biết đến. Cuộc sống của ngài
chỉ kéo dài vỏn vẹn được có hai mươi bốn tuổi đời trong bốn bức
tường tu viện, không làm những phép lạ kỳ diệu, không có những
lời giảng dạy hùng hồn và cũng không hy sinh cho đến giọt máu
cuối cùng, trái lại thánh nữ chỉ âm thầm chu toàn những việc nhỏ
trong nhà dòng. Thế nhưng, chính những việc nhỏ này đã làm cho
ngài trở thành một vị thánh lớn trong Giáo Hội. Việc nhỏ nhưng
thành công lớn.
Hẳn rằng nhiều lúc chúng ta cũng đã “tâm
phục khẩu phục” những thiên tài trong lãnh vực này, hay trong
phạm vi kia. Thế nhưng, cái thiên tài ấy, phần nhỏ do trời ban,
còn phần lớn là do đã khổ công tập luyện, đã siêng năng học hỏi,
như tục ngữ cũng đã nói:
- Có công mài sắt, có ngày nên kim.
Phải chăng những tập luyện và học hỏi ấy
chỉ là những chuyện nhỏ, nhưng chúng ta lại không có đủ kiên
nhẫn để thực hiện cho đến cùng mà thôi.
Trong công việc làm ăn buôn bán cũng vậy.
Những thương gia giàu có thuộc vào hàng “nứt đố đổ vách”, những
khuôn mặt tài phiệt cỡ lớn, khả dĩ làm lũng đoạn cả thị trường
quốc tế, thế mà nhiều người trong số họ đã khởi đi từ thân phận
nghèo túng, khố rách áo ôm. Tiền bạc và gia sản của họ hôm nay,
phần nhỏ do may mắn, nhưng phần lớn là do cần kiệm và chí thú
làm ăn. Sở dĩ như vậy, vì họ luôn tâm niệm:
- Kiếm tha lâu cũng đầy tổ.
- Năng nhặt, chặt bị.
- Tích tiểu thành đại.
Họ đã phất lên, đã giàu to từ những tích
luỹ nhỏ.
Sau cùng, tình yêu và gia đình cũng không
thoát khỏi quy luật chung này. Có người cho rằng:
- Chết cho người mình yêu, thì dễ hơn là
sống với người mình yêu.
Bởi vì chết cho người mình yêu là một hy
sinh lớn, nhưng lại không dễ gì xảy ra. Trong khi ấy, sống với
người mình yêu liên tục đòi hỏi những hy sinh, tuy nhỏ nhưng lại
kéo dài bằng cả cuộc đời.
Chẳng hạn ban chiều đi làm về, thay vì ngồi
đọc báo hay xem TV chờ cơm tối, chàng vội vào bếp phụ với nàng
một tay. Việc làm tuy nhỏ, nhưng chắc chắn sẽ làm cho khuôn mặt
của nàng thêm rạng rỡ và nụ cười của nàng thêm xinh.
Chẳng hạn vào sinh nhật của chàng, nàng bèn
trổ tài nữ công gia chánh, làm một bữa cơm thịnh soạn để chúc
mừng chàng, cũng như để khoản đại mọi người trong gia đình. Việc
làm tuy nhỏ, nhưng sẽ đem lại cho chàng niềm vui lớn.
Chẳng hạn vào ngày phụ nữ quốc tế, chàng
tặng cho nàng một bông hồng. Bông hồng chẳng đáng bao nhiêu, chỉ
là chuyện nhỏ, nhưng sẽ để lại một dấu ấn kỷ niệm thật lớn,
không bao giờ quên trong trái tim nàng.
Những việc làm và những hy sinh nhỏ này sẽ
làm cho tình yêu thêm nồng thắm và được lớn lên. Với một tình
yêu nồng thắm và được lớn lên như thế, người ta lại càng sẵn
sàng chấp nhận những hy sinh cho nhau và vì nhau, đảm bảo cho
một mái ấm ngập tràn hạnh phúc.
Gã Siêu
gasieu@gmail.com
|
VỀ MỤC LỤC |
|
- Mọi liên lạc: Ghi danh, thay đổi địa chỉ, đóng góp ý kiến,
bài vở..., xin gởi về địa chỉ
giaosivietnam@gmail.com
- Những nội dung sẽ được đề cao và chú ý bao gồm:
Trao đổi, chia sẻ những kinh nghiệm thực tế trong việc mục
vụ của Giáo sĩ; Những tài liệu của Giáo hội hoặc của các
Tác giả nhằm mục đích Thăng tiến đời sống Giáo sĩ; Cổ võ ơn
gọi Linh mục; Người Giáo dân tham gia công việc “Trợ lực
Giáo sĩ” bằng đời sống cầu nguyện và cộng tác trong mọi lãnh
vực; Mỗi Giáo dân phải là những “Linh mục” không có chức
Thánh; Đối thoại trong tinh thần Bác ái giữa Giáo dân và
Giáo sĩ… (Truyền giáo hay xây pháo đài?)
- Quy vị cũng có thể tham khảo những số báo đã phát hành tại
www.conggiaovietnam.net
Rất mong được sự cộng tác, hưởng ứng của tất cả Quí vị
Xin chân thành cám ơn tất cả anh chị em đã
sẵn lòng cộng tác với chúng tôi bằng nhiều cách thế khác
nhau.
TM. Đặc San Giáo Sĩ Việt Nam
Lm. Luca
Phạm Quốc Sử
USA
|
|
*************
|
|