(Chuyển biến và tác động của nó trong đời sống Ki-tô hữu ở châu
Âu)
GS. Trần Văn Toàn
Bài đăng ở tập san Định Hướng
Trong lịch sử giáo hội công giáo thì Công đồng Vaticanô quan
trọng vào bậc nhất. Vì đây là lần đầu tiên người ta thấy được
tính cách phổ biến toàn cầu của giáo hội. Công đồng bắt đầu ngày
8/12/1962 và bế mạc ngày 8/12/1965. Có chừng 2400 vị hữu trách
công giáo khắp địa cầu, như giám mục và các bề trên các dòng,
mỗi vị đem theo một số chuyên gia về thần học làm cố vấn, lại có
31 quan sát viên thuộc các giáo hội Tin lành, Chính thống, v.v.
và 42 giáo dân công giáo.
Quan trọng hơn nữa là vì công đồng đã thảo luận và quyết nghị về
những vấn đề then chốt. Về nội bộ thì xác định lại lý thuyết về
giáo hội là « dân Chúa », vai trò của giáo dân, tính đồng liêu
của hàng giám mục, nghĩa là hàng giáo sĩ, từ trên xuống dưới, đã
được lập để phục vụ cho dân Chúa, chứ không phải là đế vương trị
dân. Lại xác định về Lời Chúa trong Thánh Kinh, và cải cách nghi
lễ (ví dụ dùng tiếng nói thông thường của giáo dân) để cho giáo
dân trực tiếp tham gia vào lễ nghi phụng tự. Đối với bên ngoài
thì công đồng mở rộng tay đón mời các giáo hội khác của đạo
Ki-tô, và các tôn giáo khác, cũng như những người vô tôn giáo,
đến gặp gỡ, đối thoại, trong tinh thần tự do tôn giáo, đồng thời
đối với xã hội thì chủ trương hoạt động cho văn hóa, hòa bình và
công bình trong thế giới.
Cái khẩu hiệu tiếng Ý đã được đưa ra để nói lên mục đích của
công đồng là Aggiornamento, người muốn nói chữ kiểu mới
thì dịch là cập nhật hóa, muốn nói cho dễ hiểu thì là để
thích thời. Nhưng vì sao lại phải cập nhật hóa ? Chân lý
là vĩnh viễn kia mà, cớ sao lại phải tùy gió phất cờ, như thiên
hạ quen làm ?
Như Giáo tông Gio-an thứ XXIII đã
tuyên bố, công đồng này hạn hẹp vào mục đích là mục vụ hay là
« tư giáo »,
tức là tìm đường lối thích thời để dẫn dắt giáo hữu hành đạo,
chứ không nhằm xác định thêm một lần nữa về phần giáo lý, như
hầu hết các công đồng trước đó đã làm. Cho nên dĩ nhiên là công
đồng phải có tác độâng vào suy tư thần học và nhất là vào đời
sống giáo dân.
Cái đề tài nêu ra trên đây, ai
cũng thừa hiểu là quá mênh mông và phải hạn hẹp nó lại rất
nhiều, vì trong phạm vi bài này không thể nói tỉ mỉ về những
điều suy tư lý thuyết mà các vị học giả chuyên môn đã viết ra
trong gần nửa thế kỷ, với những pho sách khá nặng đồng cân. Về
mặt thực hành thì tôi chỉ quan sát được một vài biến chuyển quan
trọng và tác động của công đồng trong đời sống tôn giáo ở châu
Aâu, nói đúng ra là ở Pháp và ở Bỉ, và nói đúng hơn nữa là ở mấy
xứ đạo và mấy phong trào, trong đó tôi có tham gia và đảm nhiệm
một vài công tác nhỏ mọn.
Sau khi hạn định phạm vi như thế, tôi xin đưa ra, trong phần
đầu, mấy lý do để giải thích vì sao công đồng Vaticano II đã
được triệu tập. Sau đó tôi sẽ xin nói qua về sự chuyển hướng
trong thần học cũng như trong dư luận của giáo dân. Và sau cùng
thì xin trình bầy một ít tác động trong đời sống tôn giáo.
1 – Mục đích hội nhập văn hóa
1.1 – Tôn giáo và văn hóa
Con người ta sống một cách chủ động trong trời đất, chứ không
phải chỉ là do ngoại giới định hình theo luật nhân quả, như các
vật vô tri. Những cái không phải tự nhiên như thế, nhưng do con
người làm ra, rồi dậy lại cho nhau, từ đời này sang đời khác, đó
là văn hóa. Văn hóa gồm những cách làm ăn (kỹ thuật), phép vệ
sinh, lối cư xử với nhau cho phải đạo (luân lý, chính trị),
những điều cấm kỹ, những điều hiểu biết được về vũ trụ, những
nhân sinh quan hay tôn giáo nói lên quan niệm về vị trí và mục
đích của đời người. Thường thì các yếu tố đó làm thành một khối,
lẫn lộn với nhau. Cũng phải lâu lắm người ta mới dần dần phân
biệt được ra thánh nhiều phạm vi : tri thức, chính trị, luân lý,
tôn giáo, và tìm ra cho mỗi phạm vi một lề lối hoạt động riêng.
Đoàn thể nào cũng có văn hóa, nhưng văn hóa không phải là một
dữ kiện tự nhiên và bất biến, nhưng thay đổi nhờ vào kinh
nghiệm, suy luận càng ngày càng giầu thêm, vì có giao lưu văn
hóa với các đoàn thể khác. Khi biến chuyển thì có những yếu tố
đã quá thời bị sa thải, lại có những yếu tố mới mẻ được thêm
vào. Tất cả những yếu tố văn hóa đó được định hình và truyền đạt
qua ngôn ngữ và ngôn tự. Biết thêm một ngôn ngữ là có thêm văn
hóa, thay đổi hẳn ngôn ngữ là thay đổi văn hóa.
Nói chung thì không có tôn giáo nào biệt lập ra ngoài văn hóa
cả, vì ý hướng tôn giáo chỉ có thực khi nó được cụ thể hóa trong
tư tưởng và hành vi. Nhưng nói riêng thì một tôn giáo có thể ở
trong văn hóa này, mà không ở trong văn hóa kia. Đó là trường
hợp những đoàn thể chi tộc hay quốc gia : tôn giáo đồng nhất hẳn
với văn hóa, mà không phân biêït : tôn giáo cũng là quốc giáo,
hay là đạo riêng của chi tộc. Thường thì khi các đế quốc bành
trướng, các dân tộc bị chiếm cũng dần dần đồng hóa, và thay đổi
cả văn hóa lẫn tôn giáo. Ví dụ dân Ai cập thời Thượng cổ đã có
ngôn ngữ riêng, họ đã để lại bao nhiêu là kim tự tháp với những
tượng khổng lồ, thế mà ngày nay, trừ mươi triệu người theo đạo
Ki-tô ra còn đa số, sau hơn nghìn năm bị người A-rập chiếm đóng
và đồng hóa, thì chỉ còn nói tiếng A-rập, theo Hồi giáo và văn
hóa của người A-rập chiến thắng, thậm chí còn tự xưng mình là
người A-rập nữa. Như thế đã rõ là tôn giáo cũng được truyền bá
theo một lối như văn hóa vậy.
Khi một tôn giáo thành ra tôn giáo cho cả loài người, chứ không
riêng cho một chi tộc hay dân tộc nào, thì có thể ở trong tất cả
các văn hóa, nhưng không đồng nhất với văn hóa riêng nào cả. Vì
thế khi người ta lấy tôn giáo phổ biến làm quốc giáo, đồng nhất
tôn giáo với dân tộc, thì làm sai lạc ý hướng đại đồng của tôïn
giáo.
Đạo Ki-tô là một trong những tôn giáo phổ biến, cho nên mới đặt
vấn đề đi vào, hay là ra ngoài một văn hóa nhất định.
1.2 – Lúc đi vào văn hóa
Trong Lá thư về việc hội nhập
văn hóa, cha Pedro Arrupe, bề trên cả Dòng Tên đã đưa ra một
định nghĩa đầu tiên : « Hội nhập văn hóa là đem nếp sống và tin
mừng của đạo Chúa vào một khu vực văn hóa cụ thể. Mục đích là để
cho kinh nghiệm của đạo ấy, không những được biểu diễn bằng
những yếu tố của văn hóa đó (nhưng như thế cũng mới chỉ là thích
nghi một cách hời hợt bên ngoài), mà còn trở thành một nguyên lý
có sức linh ứng, vừa là kim chỉ nam, vừa là khí lực làm cho văn
hóa đó đổi lốt và được thống nhất lại, nghĩa là tác tạo lại cho
nó thành một thực tại mới ».
Cụm từ hội nhập văn hóa
(inculturation) mới được dùng trong giáo hội công giáo từ mấy
chục năm nay. Mục đích là để nói lên cái chương trình đã có ngay
từ khi đạo Chúa Ki-tô phát sinh : đó là đưa đạo vào đời
hay là vào lòng dân tộc. Về phía giáo hội Tin lành thì
thường dùng chữ « contextualisation », nó có nghĩa như kiểu ta
nói « đáo giang tùy khúc, nhập gia tùy tục ». Thiết tưởng chữ
đó, cũng như trước đây chữ « adaptation » là « thích nghi »,
cũng chỉ mới nói lên được cái ý định mặc cho đạo Chúa một cái áo
ngoài có vẻ khả quan hơn, chứ chưa nói lên hết cái ý định đi sâu
về phần nội dung, vào
trong văn hóa.
Tôn giáo và văn hóa liên kết với nhau theo hai chiều : một đàng
thì ý hướng tôn giáo định hình lại cho các yếu tố văn hóa của
người ta, đem lại cho nó một ý nghĩa mới ; đàng khác thì văn hóa
cũng làm cho ý hướng tôn giáo xuất hiện được trong những hình
thức cụ thể thích hợp với truyền thống sẵn có.
Đạo Ki-tô đưa ý hướng nào vào văn hóa ?
Đạo Chúa Ki-tô thừa tự được của đạo Do thái, đó là do chủ trương
thế tục hóa vũ trụ mà ra, nghĩa là không có vật gì trong vũ trụ
này được coi là vị tuyệt đối .
Thực vậy, theo như thường lề thì trong các tôn giáo người ta
quan niệm rằng trong vũ trụ này cái gì, ở chỗ nào, cũng đầy dẫy
các thần linh, như thần cây, thần núi, thần sông, thổ thần, táo
thần. Có nhiều dân tộc coi mặt trời, mặt trăng, tinh tú, cây
cối, loài động vật, v.v. đều là thần cả. Ở Việt Nam thì những
người quá cố cũng có thể thành thần. Nói thế khác, các thần linh
tuy có phép thần thông linh dị, nhưng đều ở cùng trong một vũ
trụ và ở lẫn với các vật khác.
Đạo Do-thái và đạo Ki-tô chủ trương thế tục hóa vũ trụ trong ba
phạm vi : 1) không có vật gì trong thiên nhiên là thần thiêng
cả, 2) không có người nào là thần thiêng cả, 3) cái sức phồn
thực làm cho có sống động, có nảy nở, cũng không phải là thần
thiêng. Cho nên vị thiên địa chân chủ, gọi tắt là
Thiên Chúa, không xuất hiện nơi vật nào trong vũ trụ này
cả ; nhưng người ta phải nhìn vào vận mệnh và lịch sử của dân
tộc – riêng của dân tộc Do-thái – hay của cá nhân, có lúc thăng
lúc trầm, mới hiểu và nhận ra là có vị Thiên Chúa hướng dẫn
người ta trên con đường đưa tới nhân đạo và đồng thời cũng tới
thiên đạo nữa.
Nói thế khác, Thiên Chúa không
phải là một yếu tố trong thiên nhiên, cũng không phải là toàn
khối thiên nhiên lù lù ra đó, với sức mạnh có thể đè bẹp con
người trong luật nhân quả khắt khe. Nhưng Thiên Chúa xuất hiện
như là Lời nói
,
nói lên ý nghĩa và cứu cánh
cuộc đời, và mời gọi lên đường theo ý nghĩa đó, màø lời nói thì
không có chủ ý cưỡng bách.
Thêm vào đó đạo Ki-tôø phân biệt
hẳn hai phạm vi tôn giáo và chính trị.
Đó là điểm khó thực hiện, vì theo thường lề trong các văn hóa
thì tôn giáo và chính trị vịn vào nhau : người ta hay dùng cái
nọ để làm phương tiện cho cái kia.
Ngay từ buổi đầu đạo Ki-tô đã phải ra ngoài một văn hóa
và đi vào một văn hóa. Phải ra ngoài , vì
bao giờ tôn giáo cũng ở sẵn trong một văn hóa, và chỉ đi ra
ngoài khi người ta ý thức được rằng nó là một thái độ vượt ra
ngoài phạm vi chật hẹp của một văn hóa. Đạo Ki-tô đã phải vượt
ra ngoài văn hóa gốc là văn hóa Do-thái, vì cho dù Đức Giê-su
Ki-tô vốn xuất thân từ đạo Do-thái, nhưng đường lối và chủ
trương có nhiều yếu tố mới, nhằm về toàn thể nhân loại, chứ
không hạn hẹp vào trong một dân tộc Do-thái nữa, thêm vào đó thì
vào khoảng năm 70 sau Tây lịch kỷ nguyên, chính các vị tư giáo
Do-thái dần dần nhận ra như thế cho nên đã trục xuất đồ đệ của
ngài ra khỏi giáo đường của họ.
Đi vào
là đem Tin mừng, đem Phúc âm vào văn hóa Hi-lạp và Rô-ma, là văn
hóa chung cho đế quốc Rô-ma vào thời đó, nghĩa là đi vào lòng
một số người vốn có văn hóa Hi-lạp và Rô-ma, nhưng có cảm tình
với đạo Ki-tô, đã được cảm hóa và tin theo. Những người này đã
bị truy nã và bách hại trong gần ba thế kỷ. Lý do là vì họ đã bỏ
không còn tôn thờ thần linh của các dân tộc được công nhận trong
đế quốc, vốn chỉ là những vât tự nhiên hay là chỉ tượng trưng
cho dục vọng hay ước vọng của con người ; và nhất là vì tuy vẫn
biết tôn kính hoàng đế, nhưng họ không tôn thờ vị hoàng đế đã tự
tôn mình lên làm thần linh.
Trong trường hợp như thế việc phân biệt tôn giáo với chính trị
càng là một việc hiển nhiên đối với người theo đạo Ki-tô.
Cũng nên nhắc qua rằng niềm tin vào vị Thiên Chúa sáng tạo vũ
trụ đã làm cho triết học Hi-lạp, nhất là trong học phái Platôn,
đặt vấn đề về nguyên lý tối cao của vũ tru.ï
Dần dần tuy có bị bách hại nặng nề, nhưng số người theo đạo vì
niềm thân tín cũng tăng lên. Đến năm 312 thì hoàng đế
Constantinô cải giáo theo đạo Ki-tô, và đạo Ki-tô được đưa lên
làm đạo của nhà nước. Việc cải giáo là vấn đề thuộc về niềm thâm
tín cá nhân, nhưng việc đưa một tôn giáo lên làm quốc giáo thì
rất có thể là có dụng ý chính trị : dùng một tôn giáo duy nhất
để thống nhất quốc gia, và để trị dân cho dễ. Nhà cầm quyền giúp
đỡ cho tôn giáo bành trướng, ban phát đặc ân cho giáo sĩ cấp
trên vào làm công việc nhà nước và làm tôi cho hoàng đế. Cũng
như xưa kia Phật giáo được chính quyền hết lòng phò trợ thời
hoàng đế Asoka bên Ấn độ, hay vào thời các triều Lý Trần ở Việt
Nam vậy. Cái bất lợi cho tôn giáo là trong hoàn cảnh như thế,
dân chúng theo đạo khi mà dân trí chưa cao, có thể là vì niềm
thâm tín ít nhiều, nhưng chắc chắn một điều là làm theo như vua
chúa thì vừa được yên thân, vừa có lợi là khác.
Cử chỉ của hoàng đế Constantinô đã
làm cho đạo Ki-tô lại lẫn lộn tôn giáo với chính trị, như trong
các văn hóa khác. Vướng vào đó, hàng giáo sĩ cao cấp được nhiều
ân huệ, nhưng phải nhúng tay vào trong những việc trị nước. Cũng
phải lâu lắm mới gỡ ra được, sau bao nhiêu cuộc giằng co giữa
chính quyền và giáo quyền, và sau nhiều công cuộc cái cách trong
nội bộ giáo hội ? Vì thấy rằng trong tình trạng lẫn lộn đạo đời
thì khó mà sống cho hợp với Phúc âm, cho nên có một số người bỏ
chốn đô thị mà đi tu hành trong sa mạc.
Và cũng từ đó các dòng tu, các dòng khổ tu, trong suốt lịch sử
giáo hội, thường lên tiếng cảnh tỉnh, đòi phải cải cách, phải
trở về nếp sống thanh bạch.
Như thế là từ Constantinô việc hội nhập văn hóa bắt đầu có điều
thiếu sót.
Văn hóa Hi-lạp và Rô-ma định hình cho đạo Ki-tô như thế nào ?
Chính vì đã thành công trong viêc đi vào văn hóa của đế
quốc Rô-ma như thế, cho nên đạo Ki-tô đã phát triển theo ba hình
thức đặc biệt, mà sau này người ta gọi là hình thức Aâu châu.
Một là chú
trọng về mặt lý luận theo như văn hóa Hi lạp, muốn tìm
cho ra cái Lý trong trời đất, làm cho sự vật ăn khớp với nhau,
thành một khối có mạch lạc và không mâu thuẫn. Vẫn biết văn hóa
nào cũng biết đến cái Lý, nhưng cái đặc biệt của người Hi lạp là
họ quan niệm cái Lý không phải là của riêng của những bậc thượng
trí, nhưng là của mọi người và chỉ có thể đạt được khi người ta
bình đẳng đối thoại với nhau.
Khi người Hi lạp theo đạo, thì vốn đã quen lý luận và đối thoại
theo truyền thống lý luận và phê bình trong triết học của
họ từ bốn thế kỷ, cho nên dĩ nhiên là họ suy nghĩ và trình bầy
tôn giáo mới theo đường lối tư tưởng đã quen như thế. Kết quả là
đạo Ki-tô đã phát sinh ra nhiều hệ thống lý thuyết đồ sộ về thần
học. Cũng nên nói thêm là : đạo Ki-tô cũng áp dụng phép tu-từ
(rhétorique) của văn hóa Hi lạp và Rô-ma vào việc giảng thuyết,
để làm cho người nghe cảm phục.
Hai là chú
trọng vào việc tổ chức cộng đồng theo như tinh thần pháp lý
của người Rô-ma. Kết quả là đạo Ki-tô, nhất là trong giáo
hội công giáo Rô-ma, đã có những bộ luật để tập trung và tổ chức
cộng đồng cho có qui củ, có hệ thống chặt chẽ, theo nguyên tắc
pháp lý. Cái ưu điểm ấy đã hạn chế được cái nạn trăm bè bẩy mối,
như ta thấy trong môn phái Tin lành bên Hoa Kỳ ngày nay : không
ai cấm được ai tự tiện đứng ra thành lập một giáo hội, và cho
rằng mình mới thật là chính tông !
Ba là
nghi lễ tôn giáo, tuy là do nguồn gốc Do-thái, nhưng đã theo như
nghi lễ trong triều đình của hoàng đế mà phát triển ra những
hình thức thật long trọng. Như thế cũng không phải là hoàn toàn
vô lý, vì lẽ rằng Thiên Chúa là vị cao sang hơn hoàng đế bội
phần, cho nên nghi lễ phụng tự cũng phải long trọng không kém.
Ba hình thức đó gắn liền với nhau, và thêm vào đó thì giáo hội
công giáo Rô-ma lại chủ trương dùng tiếng La-tinh là ngôn ngữ
chung để thống nhất tư tưởng, tổ chức và lễ nghi. Có thể nói là
trong việc hội nhập văn hóa thì đó là một thành công vừa lớn lại
vừa lâu bền. Vì sau khi đế quốc Rô-ma sụp đổ ở Tây-Aâu, thì các
chi tộc lên tranh dành đế quốc, mà từ vua đến dân đều thiếu văn
hóa, không có chữ viết, cho nên muốn có văn hóa thì phải đi học
chữ La-tinh là ngôn ngữ dùng trong giáo hội. Vì thế mà vai trò
của giáo hội đã trở thành quan trọng, Mater et Magistra,
vừa là mẹ vừa là thầy, dậy cho các dân tộc, dậy cho họ biết đọc
biết viết và thâu nhận di sản tôn giáo và di sản văn hóa thế tục
cổ điển của người Hi-lạp và Rô-ma. Từ đó đạo Ki-tô đã thấm nhuần
di sản văn hóa Aâu châu trong hơn một nghìn năm : nghệ thuật,
như hội họa, kiến trúc, điêu khắc, văn chương, âm nhạc, ca kịch,
v.v., đều mang dấu vết đạo Ki-tô. Cho đến nỗi ngưới ta cứ tưởng
đó là đạo của riêng người Aâu châu.
Điều thiếu sót vừa nói trên đây là
giáo hội liên kết với nhà cầm quyền, trước thì là vì hoàn cảnh,
sau thì quen đi, mà quên đi rằng đó là điều không nên. Kết quả
không ngờ là : khi đạo Ki-tô nảy ra nhiều tông phái, mỗi tông
phái lại bị chính quyền chi phối.
Rồi khi các nước đánh nhau, người ta gọi ngay là chiến tranh tôn
giáo. Để tránh cái nạn đó, lý thuyết gia về nhân quyền là
Grotius (Hugo de Groot, 1583-1645), người Hòa-lan, đã chủ trương
rằng từ nay vấn đề chính trị về nhân quyền phải được giải quyết
etsi Deus non daretur, nghĩa là : như thể là không có
Thiên Chúa, hay là : cho dù không có Thiên Chúa. Thế
là lại trở về lập trường giáo tổ đạo Ki-tô, là phải tách rời
tôn giáo với chính trị.
Ngoài ra, lối hội nhập văn hóa
này còn có một nhược điểm quan trọng : nó là hình thức dùng
trong giới giáo sĩ và tu sĩ có ăn học, chứ dân chúng thiếu học
và không biết tiếng La-tinh, thì không thể nào hiểu được những
lý thuyết cao siêu về Thiên Chúa, những giới luật và những nghi
lễ rườm rà.
Biết vậy cho nên, song song với giáo lý và lễ nghi chính thức,
giáo hội công giáo đã đặt ra cho dân chúng một lối sùng đạo có
tính cách bình dân, dễ hiểu, dễ thực hành, ví dụ như : đọc kinh
lần hạt bằng tiếng nói thông thường, rước kiệu, hành hương,
chung quanh việc tôn sùng Đức Bà Maria và các thánh. Tất cả được
ghi vào các cuốn Sách Kinh, còn về giáo lý thì tóm tắt
trong cuốn Sách Bổn. Khi đạo được truyền vào nước Việt
Nam thì hai cuốn sách Thánh giáo kinh nguyện và Thánh giáo
yếu lý đã được soạn ra bằng chữ Nôm tiếng Việt rất sớm. Thêm
và đó còn có các sách truyện các thánh và các sách ngắm, giúp
suy niệm về niềm tin và lối hành đạo. Có lẽ người công giáo Việt
Nam là những người Việt Nam đầu tiên được dùng các sách về đạo
lý, viết ra bằng tiếng Việt (cả Nôm lẫn quốc ngữ) một cách có hệ
thống.
Sau cùng thì tuy đã thành công trong việc đi vào văn hóa
đế quốc Rô-ma, nhưng đạo Ki-tô vẫn không đồng hóa với văn hóa
đó. Đàng khác, chính cái thành công đó cũng lại là cái trở ngại
khi cần phải đi ra ngoài văn hóa đó, để đi vào một
văn hóa mới.
1.3 – Lúc ra ngoài văn hóa
Có hai trường hợp làm cho ta thấy cần phải ra ngoài, để
lại có thể đi vào. Một là khi các dân tộc ở Aâu châu, như
Ý, Đức, Pháp, Anh, v.v., đã học đượïc văn hóa cổ điển Rô-ma, đã
trưởng thành, đã thành lập văn hóa riêng và viết ra ngôn ngữ của
mình, nhất là từ thế kỷ XV. Hai là khi muốn truyền đạo
sang các nước ở ngoài Aâu châu, như Aán độ, Nhật bản, Trung hoa,
Việt Nam, v.v. Thế nhưng vẫn chưa hết. Chính ở Âu châu cũng có
biến đổi rất quan trọng về văn hóa : đó là từ thế kỷ XVI trở đi,
cá nhân đã dần dần ý thức được về lý tính và tự do, cho nên
không còn muốn cho quyền bính tôn giáo nào chi phối đời sống thế
tục, như chính trị, khoa học, triết học, luân thường đạo lý nữa.
Và đó là lúc bắt đầu phong trào thế tục hóa (sécularisation), đi
từ lớp trí thức rồi dần dần đi xuống tới lớp bình dân.
Cách Mạng Pháp (1789) đã đánh đổ chế độ quân chủ, giáo hội công
giáo cũng bị vạ lây. Do đó có phong trào bách hại tôn giáo. Vì
đã quen với nề nếp đã có từ nghìn năm, nên giáo hội công giáo
không thể thích nghi vào văn hóa mới đang bài xích tôn giáo ngay
được. Đầu thế kỷ XX thì nhà nước và giáo hội tách rời nhau.
Ngược lại, người ta không thấy tôn giáo dưới hình thức cũ còn là
cần và thích thời, cho nên trí thức cũng như bình dân, có khá
đông người đi ra ngoài đạo Ki-tô. Mà chính vì có phân
biệt chính quyền với giáo quyền, cho nên có bỏ đạo cũng không sợ
bị áp lực hay bị truy tố, như ngày nay ta còn thấy ở nhiều
nước. Dần dần đi tới hiện tượng mà, như đã nói trên đây, nhà xã
hội học Hervieu-Léger gọi là exculturation du catholicisme :
đạo công giáo đi ra ngoài văn hóa Aâu châu.
Hiện tượng đó, không phải là không có nhiều người trong giáo
hội, ngay từ thế kỷ XIX, đã tiên đoán và đánh trống báo động.
Nhưng thường thì họ không ở trong địa vị lãnh đạo, cho nên phần
thì họ được ít người theo, phần thì họ bị cấp trên nghi kỵ và
ngăn cấm. Thiết tưởng chỉ cần nhắc qua đến phong trào canh tân
(modernisme) vào đầu thế kỷ XX, phong trào các linh mục làm công
nhân ở Pháp, và đến một vài nhà tư tưởng và thần học, riêng ở
nước Pháp thì có Pierre Teilhard de Chardin, Henri de Lubac,
Yves Congar, v.v. là những người trong một thời gian khá lâu đã
bị cấp trên làm khó dễ, cấm không cho phát biểu ý kiến. Nhưng
những ý kiến mà họ cưu mang đã có kết quả : chính nhưng vị như
thế đã được cử làm chuyên viên trong công đồng Vaticanô II.
Công đồng này được triệu tập chính vì giáo hội công giáo đã
quyết định xét lại toàn bộ các vấn đề phải cập nhật hóa, sao cho
thích thời, theo đúng như khẩu hiệu : giáo hội thời nào cũng
phải cải cách (ecclesia semper reformanda). Vì rằng
đạo bất viễn nhân , nhân chi vi đạo, đạo có gần gũi với
nếp sinh hoạt và văn hóa của con người, thì mới có thể làm con
đường cho người ta đi.
2
– Chuyển biến và tác động của Công đồng trong đời sống Ki-tô hữu
ở châu Âu
Bây giờ xin nói qua về việc thi hành Công đồng và về sự chuyển
hướng trong suy tư thần học, sau đó về mặt thực hành sẽ trình
bầy một hướng đi đang thành hình.
2.1– Việc thi hành các quyết nghị của Công đồng
Việc cải cách bao giờ cũng gặp trở ngại do thói quen đã có từ
nghìn năm. Muốn thi hành tinh thần đồng liêu trong ban giám mục,
thì va chạm vào cái thói quen tập trung quyền hành về tín lý,
lập pháp và lễ nghi ở trong tay một vị giáo tông là giám mục
thành Rô-ma. Muốn đưa đạo vào đời, vào văn hóa, là việc phải lẽ,
nhưng có người lại sợ rằng bỏ lối cũ đã quen thì có thể đi lạc
đường. Ngoài ra các nhà chuyên môn nghiên cứu và suy tư về thần
học, thường là ở bậc giáo sư đại học, cũng thường gặp trở ngại
về phía một số giám mục tuy không chuyên môn nhưng lại có quyền
kiểm duyệt. Về điểm này, chỉ xin nhắc đến tên một vài vị đã bị
giáo triều Rô-ma làm khó dễ : Hans Kueng, Edward Schillebeeckx,
Bernhard Haering, Gustavo Gutierrez, Leonardo Boff, v.v. Riêng
cha Tissa Balasuriya, người đảo Sri-Lanka (Tích-lan), đi tu dòng
Đức Bà Vô Nhiễm, thì vào ngày 2/1/1997 đã bị án loại ra khỏi
giáo hôi công giáo, vì viết một cuốn sách về Đức Bà (Mary and
Human Liberation, 1990) : cũng may là sau một năm thì được xét
lại và được phá án.
Nói chung thì đức giáo tông Phao-lô thứ VI (1963-1978), là người
đã kết thúc Công đồng, tuy có nghi ngại về những biến chuyển sau
Công đồng, nhưng đã cố gắng thi hành các quyết nghị, nhất là đã
cho hoàn thành Sách Lễ và Sách Các Phép mới. Còn
đức giáo tông Gio-an Phao-lô thứ II (1978-2005), thì tuy không
tiếc lời ca tụng Công đồng, nhưng lại tổ chức tập trung quyền
bính trong một tay mình cả. Dưới triều đại của ngài thì đã hoàn
thành được bộ Giáo Luật mới (1983) và Sách Bổn (Giáo
lý) của Giáo hội Công giáo (1992). Nhưng cũng dưới triều đại
này thì giám mục Marcel Lefèbvre bị loại ra khỏi giáo hội, vì
không chấp nhận Công đồng, còn giám mục Jacques Gaillot thì bị
cách chức (1995), vì đường lối mục vụ không được chấp nhận.
2.2 – Một vài phương hướng thần học
Sau Công đồng thì các nhà thần học suy tư và nghiên cứu tự do
hơn về các đề tài đã được nêu ra : về tổ chức và phẩm trật giáo
hội, về đối thoại và gặp gỡ các giáo hội và tôn giáo khác, v.v.
Ở đây tôi chỉ nhắc qua tên một vài nhà thần học mà tôi đã được
đọc bằng tiếng Pháp, và thấy là đọc được, vì giúp cho giáo dân
thay đổi được lối nhìn cho hợp Phúc âm hơn, đồng thời vạch ra
được trong mấy nước nói tiếng Pháp một lối sống đạo và truyền
đạo thích thời.
Trước hết cũng nên nhắc đến tên mấy nhà thần học đã bị khó dễ
trước Công đồng, nhưng từ Công đồng trở đi thì đã được hồi phục,
như : Henri de Lubac, Yves Congar, Pierre Teilhard de Chardin.
Tôi không có ý nói đến những nhà
thần học đã điều chỉnh lại quan niệm lệch lạc về Thiên Chúa và
về đạo Chúa, vì có khá nhiều người, và vì tôi cũng không biết
hết.
Tuy nhiên, ngày nay ai theo dõi một chút cũng thấy rằng đạo công
giáo không quan niệm Thiên Chúa như là một « ông ba bị », chỉ
biết lấy phép thần thông để ra oai, chỉ biết xét nét và sẵn sàng
ra tay trừng phạt, nhưng ngược lại, đã tìm cách chia sẻ thân
phận làm người, gần gũi với loài người. Như thế là đi sát với
những sự tích về người cha nhân từ kể trong Phúc âm. Trái hẳn
lại với những điều suy luận trừu tượng không có liên hệ đến đời
sống, và với những quan niệm chịu ảnh hưởng của tôn giáo cổ sơ,
đã đưa đến một thứ tôn giáo căn cứ vào thái độ sợ sệt (pastorale
de la peur), làm cho người ta tuy có nghe nói đến Tin mừng cứu
độ, nhưng vẫn mang nặng cái mặc cảm tội lỗi, sợ bị trừng trị
trong địa ngục, cũng như đó đây người ta đã sợ thập điện Diêm
vương vậy.
Tôi để ý riêng về vấn đề giáo hội, vì những biến chuyển trong
đời sống giáo hữõu Aâu châu đều tùy vào đó cả. Dĩ nhiên những
tác giả mà tôi nêu ra đây chỉ là một số nhỏ, nhưng họ có thể làm
tiêu biểu cho phương hướng mới.
Những nhà thần học như : Hans
Kueng (Tuebingen), Edward Schillebeeckx (Nijmegen), Jean Rigal
(Toulouse), Henri Denis
(Lyon), v.v. đã xuất bản nhiều sách về giáo hội. Họ căn cứ vào
lịch sử để nói lên vì những lý do gì và trong những hoàn cảnh
nào mà giáo hội đã biến chuyển, đi từ quan niệm là dân Chúa, cho
đến lúc hàng giáo phẩm được lập ra để phục vụ cho dân Chúa, thế
mà đã dần dần chuyển thành ra như là một loại công chức của giáo
triều Rô-ma,
làm cho không những giáo dân mất quyền ăn nói, mà cả hàng giám
mục, linh mục cũng thành ra như chư hầu của vị giáo tông.
Ý thức được luồng gió mới, giáo
dân Aâu châu rất lấy làm phấn khởi, và đã đứng ra thành lập các
hiệp hội để tham gia thảo luận, trao đổi ý kiến, để cùng định
hướng cho đời sống của cộng đồng giáo hội. Có lẽ hiệp hội lớn
nhất và có qui củ nhất là Ủy ban trung ương của giáo dân công
giáo Đức (Zentralkomitee der deutschen Katholiken, Bonn).
Ngoài ra còn có một vài phong trào muốn đi xa hơn như
Integrierte Gemeinde, và Wir sind Kirche (chúng tôi là
giáo hội). Ở Pháp thì từ Hội trường các cộng đồng đạo
Ki-tô (Forum des communautés chrétiennes), thì đã nảy ra một
nhóm riêng, có ra một tạp chí liên lạc và trao đổi Croyants
en liberté (17 số, 1990-1994), sau đó lại lập ra một tổ chức
liên hiệp gần 50 tổ chức, có tạp chí thông tin và trao đổi gọi
là Les réseaux des Parvis. Chrétiens en liberté pour d’autres
visages d’Eùglise, Paris, 1998.
Đấy là nói về những hiệp hội có tên tuổi, thường lên tiếng trong
các cơ quan ngôn luận, chứ thực ra thì còn có nhiều hiệp hội đi
sâu vào đời sống nội tâm để tu đức ; ngoài ra giáo dân tham gia
rất nhiều trong các xứ đạo, và đảm đang việc dậy giáo lý cho nhi
đồng cũng như cho người lớn muốn tòng giáo, tổ chức tang lễ,
v.v. Thế rồi lại có một số khá đông giáo dân đi học và lấy bằng
cấp thần học. Chẳng hạn như ở Lyon và ở Lille thì khoa trưởng
khoa thần học là giáo dân, còn ở khoa thần học Angers thì có một
nữ tu dòng Đa-minh làm khoa trưởng. Viện trưởng viện đại học
công giáo Lille hiện nay là một bà trạc độ hơn 50 tuổi.
Hoàn cảnh rất thuận tiện là vì số
linh mục ngày càng sút xuống. Các giám mục phải tổ chức lại cơ
cấu « tư giáo », giao cho các linh mục trách nhiệm càng ngày
càng nặng, mỗi vị phải coi hai, ba, hay mươi, mười lăm xứ đạo,
mà chưa nghĩ ngay đến việc giao trách nhiệm cho giáo dân. Đôi
khi cũng có làm, nhưng về phía giáo quyền vẫn còn nhiều vị cứ
coi là cực chẳng đã mới phải làm như thế. Ví dụ văn kiện Rô-ma
ngày 15/8/1997 về Việc cộng tác giữa giáo dân và các linh mục,
đã dậy rằng « tư giáo » là công tác của những vị đã có chức
thánh, giáo dân phải có ủy quyền mới được làm.
Văn kiện này bị khá nhiều giám mục ở Đức và ở Aùo và nhiều nhà
thần học phản đối, vì lý do là chưa chắc đã hợp với tín lý, đồng
thời lại không xét gì đến thực trạng các xứ đạo ở Aâu châu. Ngày
nay không ai nói đến văn kiện đó nữa.
Hiện nay các xứ đạo thường không còn do một cha chính xứ có toàn
quyền sai bảo, nhưng do một ủy ban « tư giáo » (équipe
d’animation pastorale) đảm nhiệm, mỗi ủy ban gồm có một linh mục
và bốn giáo dân cộng tác với linh mục, hai nam hai nữ, được giám
mục ủy nhiệm trong hai năm.
2.3 – Những hoàn cảnh mới mà Công đồng chưa biết tới
Công đồng bế mạc được ba năm thì ở Âu Mỹ có cuộc cách mệnh văn
hóa : năm 1968, thanh niên, nhất là trong giới sinh viên, đứng
lên phản đối các thứ uy quyền.
Vẫn biết là uy quyền của giáo hội ở Pháp thì đã mất dần từ khi
có Cách Mệnh Pháp năm 1789. Xã hội dân sự thì thành ra thế tục
hóa, và đến năm 1905 thì nhà nước và giáo hội được tách rời ra
như hai thực tế biệt lập : ở Pháp cũng như ở nhiều nước Aâu
châu thì không còn có quốc giáo, như hiện có trong nhiều nước
khác, nhất là trong các nước theo Hồi giáo, hay là như có một số
người đó đây vẫn đang mơ ước.
Nhưng nay thì cả uy quyền của nhà nước cũng bị sút giá, lớp
người làm thầy dậy học, kể cả ở cấp đại học, cũng mất uy quyền.
Tất cả các uy quyền đều phải hạ bệ, các định chế thì bị nghi kỵ
là áp chế tự do cá nhân. Cho đến nay xã hội Aân châu vẫn còn tìm
tiêu chuẩn pháp lý và đạo đức rõ rệt để người ta có thể chung
sống với nhau. Đó là một kinh nghiệm đã đánh mạnh vào tâm tư vị
giáo sư Joseph Ratzinger, hiện nay là giáo tông Biển Đức thứ
XVI. Mất uy quyền rồi thì từ nay ai nấy phải tìm gây lại uy tín
nhờ vào sở trường và vào cách ăn ở của mình mà thôi.
Thêm vào đó thì công giáo lại bị khủng hoảng nội bộ : một số khá
đông linh mục cũng hồi tục. Từ nay số chủng sinh học tập làm
linh mục, số người vào nhà tập của các nhà dòng nam nữ, cũng đều
xuống dốc. Do đó các chủng viện và nhà tập để trống đã được đổi
thành những trung tâm tổ chức những khóa hội thảo, những lớp
huấn luyện thích thời (hợp với hoàn cảnh kinh tế, xã hội và văn
hóa) về Thánh Kinh, giáo lý, về việc đối thoại giữa các tôn
giáo. Những trung tâm đó ngày nay do giáo dân đảm nhiệm, có linh
mục hay thầy dòng làm cố vấn về tôn giáo, và hoạt động có kết
quả, thu hút được nhiều người đến học hỏi.
Từ mấy chục năm nay ở Pháp, tôi nhận thấy rằng đại đa số các
chủng sinh đều vào nhà trường muộn, sau khi họ đã có nghề nghiệp
làm ăn, hay là đã có bằng cấp đại học. Họ muốn làm linh mục
không phải là vì ở ngoài đời họ không làm được nghề ngỗng gì.
Tôi biết có người đã làm kỹ sư có lương cao, khi nghe tiếng Chúa
gọi, họ biết rõ là họ sẽ chỉ sống bằng đồng lương tối thiểu, do
một thiểu số người công giáo đóng góp cung cấp mà thôi, nhưng họ
vẫn quyết định. Trong hoàn cảnh như thế, những người có chí thì
càng có ý thức hơn.
Từ nay những người có ăn học, biết tự lập và ý thức được tự do
như thế, không phải là hạng người bảo sao nghe vậy, không phải
là đầy tớ để sai vặt. Muốn bảo được giáo dân, hàng giáo sĩ phải
có uy tín, muốn bảo được các linh mục thời nay, hàng giám mục
cũng phải có uy tín. Có uy tín mới thuyết phục được những con
người tự do. Vì thế việc truyền đạo đang chuyển sang hướng mới.
2.4 – Hướng đi đang thành hình
Hướng đi mới đã manh nha từ lâu,
do sáng kiến của nhiều người có lòng ưu tư về đạo Chúa. Từ hơn
mười năm nay nhiều giáo phận, như Tournai (Bỉ), Poitiers (Pháp),
v.v. đã thí nghiệm hướng đi mới. Ở trong cùng một hoàn cảnh,
cùng có một tinh thần phục vụ, lại cùng do một thần khí của Chúa
hướng dẫn, cho nên những sáng kiến song song với nhau, dần dần
sát cánh nhau và vạch ra một lối đi chung. Lối đi chung này mới
được trình bầy trong hai cuốn sách bằng Pháp văn, viết tập thể,
gồm nhiều tác giả người Bỉ, Pháp và Canada, do Philippe Bacq và
Christoph Theobald chủ trương, dưới một cụm từ còn mới mẻ là
« pastorale d’engendrement ».
Trong công việc này các cha dòng Tên (Jésuites) đóng vai trò
quan trọng, vì một là có liên hệ chặt chẽ với Viện nghiên cứu về
phương pháp dậy giáo lý Lumen vitae (Bruxelles, Bỉ) của
dòng Tên, hai là cha dòng Tên, Christoph Theobald, mới cho xuất
bản về hướng đi mới một cuốn sách lý thuyết gồm hai tập.
Lối đi này vừa là hội nhập văn hóa, đi vào văn hóa mới, lại vừa
là trở về nguồn đã có trong Phúc âm. Tôi xin giới thiệu, nhưng
không thể trình bầy tỉ mỉ về hướng đi này, chỉ xin tóm tắt mấy
điểm chủ chốt.
Một là : Nhận định lại tình thế.
Thoạt nhìn vào đạo công giáo ngày
nay ở Aâu châu, thì thấy không có vẻ gì là khả quan. Sau Cách
Mệnh Pháp và sau khi tách rời tôn giáo với chính trị, người ta
không cần bám vào tôn giáo mới làm ăn nên, mới lên thang trong
xã hội. Mà ngược lại thì có. Cho nên uy quyền của giáo hội đã
mất, số người giữ đạo cũng bớt đi nhiều. Trong khi đó thì thấy
nhiều tôn giáo hay giáo hội khác đang ồ ạt lôi cuốn quần chúng,
có vẻ là rất thịnh hành, căn cứ vào một vài khẩu hiệu đơn sơ,
theo phương pháp chiêu hàng ngày nay. Có điều dị biệt thật là
quan trọng, nhưng ít ai để ý trong khi so sánh, là người Aâu
châu đã ý thức được tự do cá nhân, tự do tôn giáo : ngày nay
người ta theo đạo Ki-tô không còn phải là vì thói quen, vì áp
lực xã hội,
hay là vì quyền lợi, vì danh lợi, như trường hợp ở nhiều xã hội
xưa nay. Hiện nay có nhiều người biết rõ như thế, nhưng vẫn xin
tòng giáo, và nhẫn nại học tập hai năm, cho nên lễ nhập đạo của
họ có ý nghĩa sâu xa, chứ không còn phải như kiểu « nước đổ đầu
vịt » nữa. Như vậy cũng đủ thấy giáo hội công giáo không phải là
không còn uy tín.
Những người chủ trương lối đi mới thì nhận định rằng đây là
« một cơ hội mới cho Phúc âm », vì nó hợp với quyền tự do tôn
giáo : tôn giáo không còn phải là một yếu tố mà nhà nước hay xã
hội bắt buộc người ta phải theo, như các định chế hay tập quán
thế tục khác. Cũng là hợp với ý của đức Giê-su chủ trương tách
rời tôn giáo với chính trị. Và cũng đúng như quan niệm của vị
giáo phụ Tertullianô (thế kỷ II-III) : « người ta là môn đồ của
đức Ki-tô không phải là do bẩm sinh, nhưng là vì đã trở thành
như thế (Christiani non nascuntur, fiunt) ». Cho nên việc theo
đạo là do niềm thâm tín của cá nhân, và việc truyền giáo là việc
thuyết phục từng người, chứ không phải là tuyên truyền ầm ĩ như
chiêu hàng, để lôi cuốn từng loạt quần chúng.
Có mấy điều có vẻ đáng lo ngại, là : đạo công giáo, tuy trước
đây đã định hình sâu đậm cho văn hóa Aâu châu, nhưng nay cả
người ngoại cuộc lẫn người trong cuộc (sécularisation interne)
đều kể như là đạo đã ra ngoài văn hóa đó. Nhưng cũng phải nhận
rằng những lối hội nhập trước đây đã thích thời trong văn hóa
cũ, thì chưa hẳn là bây giờ còn thích thời. Vấn đề không phải là
chú trọng vào những bản thống kê hiện nay về tình hình tôn giáo,
theo một số tiêu chuẩn bề ngoài như xưa, rồi thất vọng trong
tinh thần hoài cổ, mà không xét đến những hình thức sống đạo sâu
xa của giáo dân đang nảy nở. Cho nên nay có cơ hội mới để trở về
nguồn là Phúc âm, và dùng lối mới để đưa Phúc âm vào văn hóa
mới, đang đề cao con người cá nhân biết suy nghĩ, biết phê bình
và định đoạt lấy cho mình.
Hai là : Xét lại con đường đã đi .
Cần phải nhận định ngay là những hình thức sống đạo và truyền
đạo trước đây là những nỗ lực hội nhập văn hóa đã thành công ở
Aâu châu.
« Gặp thời thế thế thì phải thế ». Thực vậy, từ thế kỷ V trở đi,
đạo và đời hợp nhất ở Aâu châu, tôn giáo không tách rời ra khỏi
chính trị và văn hóa chung, cho nên người ta truyền đạt văn hóa
theo lối « encadrement », là tập cho ai nấy « vào khuôn vào
phép » bề ngoài. Trong tổ chức « tư giáo », thì khuôn phép của
đạo Ki-tô gồm có ba yếu tố : a) một số tín điều cần phải biết,
tóm tắt trong Kinh Tin Kính, và trong Sách Bổn ; b) một số điều
luật phải giữ trong đời sống cá nhân và trong tổ chức
giáo hội ; c) một số nghi lễ phụng tự phải cử hành cho
phải phép, cho thành phép. Tất cả đều tựa vào Phúc âm, chứ không
phải do ai tự tiện đặt ra. Điều thiều sót là ít ai để ý đến
kinh nghiệm và niềm thâm tín của cá nhân. Tuy nhiên, cũng như
trong các xã hội khác, khi đa số dân chúng còn nghèo đói và
thiếu học, thì dễ tin theo tôn giáo của những người lãnh đạo,
hoặc là vì họ có uy tín, hoặc là vì họ có uy quyền hay võ lực
bắt buộc phải theo, cho nên người ta « vào khuôn vào phép » đã
có sẵn một cách rất tự nhiên.
Khi dân trí tới mức độ cao hơn, khi cá nhân có học thức, biết
suy luận và tự do định đoạt lấy cho mình, thì tất nhiên phải
trình bầy tôn giáo sao cho hợp lý hợp tình. Loại văn « minh
giáo » (apologétique) đã được phát triển ngay từ khi đạo được
truyền vào xã hội Hi-lạp, thì lại càng thích thời. Từ Cách Mệnh
Pháp trở đi, thì đạo công giáo đã phải nghĩ đến những đường lối
mới để truyền đạo, nhất là để ý đến việc giáo dục thanh thiếu
niên, và việc bênh vực cho lớp công nhân trong chế độ tư bản
đang lên.
Sau Thế Chiến thứ II, thì đường lối « tư giáo » là đón tiếp
(accueil) : là phải gần gũi với người ta, tìm hiểu lối suy luận,
ước vọng bên trong của những cá nhân tự do, mà không ai lấy
khuôn phép bên ngoài mà bắt buộc được. Có một đường lối khiêm
tốn hơn, mà tôi thấy các linh mục làm công nhân, cũng như hội
dòng tiểu đệ và tiểu muội theo tinh thần Charles de Foucauld, đã
dùng, là chôn vùi (enfouissement), nghĩa là làm chứng
nhân sống đạo ở giữa lớp dân nghèo, một cách âm thầm như hạt
giống chôn vùi trong đồng ruộng, như đức Giê-su đã sống ở
Nazareth (30 năm ở cùng Đức Mẹ), chờ ngày Chúa cho đâm hoa kết
quả.
Vào năm 1996 thì Hội đồng Giám mục
Pháp viết một lá thư cho giáo hữu
trong đó có đưa ra phương pháp « tư giáo » mới, là đề nghị
(proposition). Đề nghị tức là muốn lên tiếng, chứ không im
lặng nữa. Cũng là hợp lẽ, vì không nói ra thì ai biết mình muốn
gì, nhưng đối với người có tự do, thì mình chỉ có thể đề nghị
niềm tin của mình mà thôi. Thế nhưng các tác giả theo hướng đi
mới thì lại cho rằng như thế vẫn còn là bất cập, vì với thái độ
đó, mình vẫn còn vô tình cho rằng mình ở vị trí cao hơn, có
những điều muốn chia sẻ với những người không biết, mình không
hỏi han đối thoại, mà đã biết sẵn câu trả lời rồi !
Ngoài ra trong thư vừa nhắc tới còn đưa ra một phương pháp nữa
là đưa đường (initiation) : làm sao cho xứ đạo có một nếp
sống cộng đồng trong tình anh em, rồi đưa đường cho người ta
tham gia vào đó, cũng như vào các lễ nghi, để dần dần kinh
nghiệm được thế nào là nếp sống của đồ đệ của đức Giê-su (Xem
trong thư, trang 99-100).
Vấn đề bây giờ không phải là lôi cuốn người ta vào khuôn vào
phép của tổ chức giáo hội, như là những hội viên vô danh, nhưng
là làm cho người ta phát huy được cá tính trong khi đối
thoại, trao đổi với người khác, và cùng sinh lại thành người mới.
Vì thế những người chủ trương hướng đi mới muốn là phải đi ngược
qua những yếu tố « khuôn phép », để trở về nguồn, trở về những
câu truyện được kể lại trong tin mừng Phúc Aâm, có thể đem lại
sinh khí cho đời người.
Ba là : Hướng đi mới .
Như ai ấy đều biết, cái tình trạng mới của xã hội Aâu châu bây
giờ là : Tổ chức xã hội đã thế tục hóa, cho nên không còn phải
là tay vịn cho tôn giáo nào cả, vì cá nhân đã tự lập, suy nghĩ
và tự do định đoạt lấy cho mình về niềm tin tưởng. Trong tình
trạng đa nguyên trong phạm vi tin tưởng, việc « tư giáo » không
còn phải là sản xuất một loạt tín đồ giống nhau như cùng đúc
theo một cái khuôn đã có sẵn.
Lối « tư giáo » theo hướng đi mới
này gọi là « pastorale d’engendrement ». Chính từ ngữ tiếng Pháp
dùng đây, tự nó cũng chưa rõ nghĩa. Dự định muốn đưa ra là :
đối thoại, trao đổi với người khác, và cùng sinh lại thành người
mới, trong niềm tin mới. Thoạt nhìn thì nó gợi cho ta hai
chữ « born again »
của một nhóm giáo hội Tin lành phát nguồn từ miền Nam Hoa Kỳ và
lan sang Nam-Mỹù và Phi-châu. Nhưng về đạo lý và về phương pháp
thì khác xa, người Aâu châu lấy làm nghi ngại, vì như đã nói
trên đây, có nhiều mục sư, mỗi ông có thể tự tiện đứng ra lập
ra một giáo hội, truyền giáo ầm ĩ như trong hội chợ, theo kiểu
chiêu hàng và kinh tài lối Mỹ, và lại còn hay dùng tôn giáo để
làm chính trị nữa.
Tư tưởng làm nền tảng cho hướng đi
mới ở đây là : phải căn cứ vào niềm tin tưởng tự nhiên mà ai
sống ở đời cũng đã sẵn có, rồi mới cùng đào sâu thêm, làm cho
người ta khám phá ra tin mừng Phúc âm như là đã có mầm mống
trong hướng mình ước vọng. Vì lẽ rằng : nếu tự nhiên mà đã
không tin được những người chứng nhân mà mình trông thấy, thì
làm sao có thể tin được vị Thiên Chúa mà chưa ai thấy bao giờ
, nhưng chỉ
nghe qua những chứng nhân mà thôi.
2.5 – Ba tiêu chuẩn trong hướng đi đang thành hình
Hướng đi này được thành hình, khi người ta lấy quan điểm Phúc âm
mà nhìn vào xã hội. Vì thế có ba tiêu chuẩn cần phải liên kết
với nhau : tin mừng Phúc âm là tiêu chuẩn chính, giáo hội là
chứng nhân loan báo tin mừng, và xã hội là môi trường hành
động.
Thứ nhất : Tin mừng Phúc âm.
Tin mừng mà Thiên Chúa muốn thông
báo cho mọi người đó là gì ? Đó là tin rằng : xét cho cùng
thì đối với mọi người cuộc đời là tốt đẹp.
Thực vậy,
đọc Thánh Kinh thì ta thấy là từ đầu đến cuối đều có cái nhìn
lạc quan về cuộc đời. Từ đầu trong Sách Sáng Thế, ta đã thấy
rằng tất cả các vật được tác tạo nên, thì Thiên Chúa đều bảo là
tốt cả. Lịch sử dân Chúa có lúc thăng lúc trầm, nhưng bao giờ
cũng có hi vọng tìm ra giải pháp tốt đẹp. Có lạc quan, có hi
vọng, mới sống được.
Cuộc đời là tốt đẹp ? Thực ra cái đó xem chừng không có gì là
hiển nhiên cả : người ta có nhiều lý do để không tin như thế. Có
điều là một việc xẩy ra một cách tự nhiên hay tất nhiên, thì
không ai nghĩ là đáng đưa tin, ví dụ : nước A-rập vừa bầu một
người A-rập làm quốc trưởng. Trái lại nếu nước A-rập vừa bầu một
người Do-thái làm quốc trưởng, thì đó là một việc rất đáng đưa
tin. Kinh nghiệm của ta cho thấy là ở đời ta gặp nhiều cái không
tốt, và nhà Phật, như ta biết, cũng đã tổng quát hóa kinh nghiệm
hạn hẹp của tất cả chúng ta trong câu : vạn sự khổ, đời
là bể khổ. Hiển nhiên quá. Nhưng xét cho cùng nếu mà cuộc
đời đối với mọi ngưòi là tốt đẹp, thì đó thực là một tin đáng
mừng, đáng thông báo. Có điều là khi phải chạm trán với thực
tại, thì lại thấy rằng cái tin mừng đó rất là mong manh, rất khó
tin ! Lấy gì, lấy ai, mà bảo đảm được ?
Tuy vậy nếu không có niềm tin, niềm hi vọng phổ thông lạc quan
như thế, thì làm sao trong cõi người ta lại có những cố gắng để
sống, để đối phó với bao nhiêu trở ngại ? Nói thế khác, sống tức
là tín cẩn vào cuộc sống, tuy biết là nó chưa hoàn hảo, vì từ
khi sinh ra ta đã tín cẩn vào người khác rồi. Nếu không tin được
vào ai, thì làm sao sống được, nếu không có hi vọng gì thì lấy
đâu làm lẽ sống ? Thà đi ra ngoài cuộc đời còn hơn.
Niềm tin này là niềm tin tự nhiên cần phải có để sống, nhưng
chưa tất nhiên đã là niềm tin tôn giáo.
Thứ hai : cộng đồng giáo hội.
Nói đến tin mừng, thì cũng phải nói có ai đưa tin. Vấn đề bao
giờ cũng là : người đưa tin có đáng tin hay không ?
Người đưa tin đầu tiên là đức
Giê-su Ki-tô. Nếu cho đến nay đạo của người còn được truyền bá,
thì là vì đã có những người thấy là đáng tin, rồi truyền lại
tiếp đi cho người khác. Ngoài cái nội dung tin mừng có thể làm
cho người ta sống có ý nghĩa, thì còn có ba lý do đã làm cho
người ta tín cẩn vào Người. Một là : Người có uy tín, vì
nói sao làm vậy, mà không sợ lụy đến thân .
Hai là : Người biết chờ cho người khác dần dần nhận ra
mình là ai, vì Người thường hỏi : thiên hạ nghĩ tôi là ai ? các
anh nghĩ tôi là ai ? Ba là : niềm tin vào đức Giê-su
không phải là từ ngoài ép vào, nhưng từ trong thâm tâm tự do của
người ta mà phát ra, sau khi đã nghe báo tin mừng ; nói thế
khác, Người không tấn công từ ngoài vào để bó buộc người đuối lý
phải chịu phục, nhưng đánh thức niềm tin đã có sẵn bên trong,
đang mặc nhiên hướng ra ngoài về ai khác (Thiên Chúa).
Nhưng cái niềm tin ấy cũng rất là mong manh. Vì khi Người còn
bình sinh, thì chỉ có một thiểu số tín cẩn vào Người, còn đa số
những chức sắc về phần đạo đều không tin, lại còn cho rằng Người
đáng tội tử hình. Thế rồi cái thiểu số tin như thế cũng không có
bề thế vững chãi : họ không phải là chức sắc có uy tín trong đạo
Do-thái, cũng không phải là vương tướng có uy quyền trong đế
quốc Rô-ma, lại còn gặp nhiều trở ngại. Tin là dám tin, dáùm hi
vọng.
Nhưng chính cái mong manh đó là bảo đảm cho tính cách tự do của
niềm tin.
Cái chuỗi người cho đến nay đã kế tiếp nhau làm chứng nhân cho
cái tin mừng rất mong manh mà Người giảng giải, trong những hoàn
cảnh lúc thuận, lúc nghịch, đó là giáo hội của Người. Khi người
ta đọc Kinh Tin Kính thì nói lên là mình tin giáo hội, tin hội
thánh, là thân thể Chúa Ki-tô, tức là nơi Chúa Ki-tô hiện hình
và loan báo tin mừng của Người. Tuy được Chúa hứa là sẽ cho giáo
hội được trường tồn, nhưng giáo hội không phải là một pháo đài
cố định. Thực ra giáo hội gồm những chứng nhân sống trong cái
thân phận mong manh, có nhiều quyến rũ, cho nên chỉ là hình thức
lịch sử chưa hoàn thành, nhưng đang cố gắng mang sứ mệnh là
truyền bá cái tin mừng, có thể gây ra cho mọi người một nếp sống
có ý nghĩa, có hi vọng. Thế nghĩa là tin mừng đã tồn tại, qua
nhân chứng của những con người mà nhiều khi « lực bất tòng
tâm », nhưng muốn chia sẻ với người khác một lối nhìn và một lối
sống trong các hình thức văn hóa khác nhau.
Thứ ba : xã hội.
Xã hội là môi trường sống, gồm tất cả tư tưởng, hành vi, ước
vọng của người ta. Phải biết môi trường ấy là thế nào mới có thể
đưa tin mừng cho thích hợp.
Như ta vừa thấy trước đây, trừ đức Giê-su là người đầu tiên đưa
tin mừng, thì những người đưa tin tiếp theo (giáo hội) không
hoàn toàn vững tâm, vì chính cái tin mừng đó cũng khó tin. Chỉ
biết một điều là nó hợp với hi vọng của người muốn đạt thân
trong đời, vì nếu không tin, không tín cẩn được vào đâu, không
hi vọng rằng dù sao đi nữa đời người cũng vẫn là tốt đẹp, thì
khó mà tìm ra lý do để có can đảm đối phó với các trở ngại trong
đời, nghĩa là trong cái xã hội biến chuyển mà không ai đoán
trước được.
Người ta mong muốn một xã hội đại đồng, trong đó con người hòa
hợp được với thiên nhiên và với người khác,
nhưng cái mong muốn ấy vừa khó tin, vừa gặp nhiều trở ngại. Ví
dụ nước Pháp đã nêu ra từ hơn hai thế kỷ cái khẩu hiệu « Tự do,
Bình đẳng, Huynh đệ », nhưng vẫn chưa thực hiện được nhiều, vì
ai nấy đều có tính ích kỷ. Cái tin mừng mà đồ đệ đức Giê-su cố
gắng giới thiệu là : cái ước vọng đó có thể thực hiện được, vì
cuộc đời là tốt đẹp, đồng thời cũng giới thiệu quan điểm có thể
giúp thực hiện, là coi mọi người là anh em, vì cùng là con của
một cha chung. Vì lẽ rằng nếu không có cha chung thì cũng không
có anh em. Cái hi vọng đó tự nó vẫn là mong manh, khó tin, nhưng
nó không phải là ảo vọng vì có những người đáng tin đã dám tin
và làm như thế.
2.6 – Đi vào thực hành
Đi theo hướng mới không phải là phế bỏ tất cả ba yếu tố của
khuôn phép cũ, nhưng là tương đối hóa, để trở về nguồn là Thánh
kinh nói chung và Phúc âm nói riêng. Tương đối hóa là chấp nhận
rằng có nhiều thể thức sống đạo. Những yếu tố thần học và lễ
nghi nào đã thích hợp với văn hóa cũ, nhưng không hợp với tâm
thức người bây giờ, thì sẽ dần dần nhường chỗ cho những sáng
kiến mới, làm cho người ta sống đạo một cách thích thời hơn.
Có điều nên chú ý là : khi đi truyền đạo thì các giáo sĩ Tin
lành thường đưa sách Phúc âm ra giảng ngay từ đầu. Ngược lại,
các giáo sĩ công giáo thì mang khuôn phép đã có sẵn ra dậy, là :
Sách Bổn, Sánh Kinh, Sách các phép, và ít sách nguyện gẫm. Đó là
cái khuôn do người Âu châu sáng tạo ra trong văn hóa riêng của
họ. Thành ra người công giáo Việt Nam trong mấy thế kỷ đã bị
thiệt thòi, vì không được đọc thẳng lời Phúc âm. Cho nên đạo
công giáo ở bên ta khó tránh được một ít hình thức Tây phương.
Dù sao thì trong cuộc giao lưu văn hóa, không có tôn giáo nào mà
không nhận ảnh hưởng của văn hóa khác để làm giầu cho mình. Cho
nên cái hình thức Aâu châu, tuy là tương đối, nhưng cũng không
phải là vô ích, vì nó thêm kinh nghiệm cho ta, tránh cho ta cái
đầu óc hẹp hòi, làm cho ta ý thức được tính cách phổ biến của
đạo Chúa.
Nếu ta nhìn vào giáo hội buổi sơ khai thì theo như Sách Công Vụ
Tông Đồ ta thấy là sau khi đức Giê-su khuất đi thì các đồ đệ đọc
và suy gẫm Thánh Kinh, nhớ lại nếp sống của Người và được Thần
Khí của Chúa giúp sức, nhưng họ phải tùy theo các biến cố bất
ngờ trong xã hội chung quanh mà tìm ra đường lối hoạt động.
Đọc Thánh Kinh, đọc Phúc âm không phải là đóng cửa đọc một mình,
chờ Thánh Thần hay Thần Khí của Chúa soi sáng riêng cho mình.
Như thế có cái nguy hiểm là mỗi người đọc một « phách », rồi
không ai chịu nghe ai, và người ngoại cuộc sẽ có thể nghĩ rằng
tôn giáo chỉ là do mỗi người tự tạo ra cho mình. Đọc ở đây là
đọc trong giáo hội (en Église), là cùng đọc với nhiều người khác
(tính cách cộng đồng), và đặt lời Tin mừng vào trong hoàn cảnh
cụ thể của mỗi người. Có thế mới nhận thức được cái âm vang của
Tin mừng trong lòng mình và trong lòng người khác. Có thế, những
điều ta nói lên mới thực là do niềm thâm tín của ta, chứ không
còn phải là bài học thuộc lòng mà thiên hạ tới tấp nhồi sọ cho
nhau. Rồi sau đó ta phản ứng bằng lời nguyện và bằng hành động
thích hợp. Có thế ta mới thực là chứng nhân, là người làm chứng
cho tin mừng. Vì người làm chứng không phải là người nhắc lại
điều đã nghe, nhưng chứng thực về điều mình đã chứng kiến hay là
tin chắc.
Dĩ nhiên là có nhiều ý kiến, nhưng có trao đổi với nhau mới
tương đối hóa được cái nhìn chủ quan của mình. Đồng thời cũng
phải so sánh với cái nhìn và hành động của những người trong
giáo hội đã sống trong hoàn cảnh văn hóa khác ta (tính cách lịch
sử). Trao đổi về những hình ảnh và quan niệm về Thiên Chúa, về
nhân sinh, và về truyền thống, làm cho ta học lẫn nhau, kèm cho
nhau, để giúp nhau tự nhận ra đường lối, giúp nhau sinh lại
thành người mới theo tinh thần Phúc âm. Đó là lối « tư
giáo » gọi là « engendrement ». Tôi xin đề nghị tạm phiên dịch
là « tương sinh ».
Có lẽ chính vì đã quá quen với lối « tư giáo » cũ, mà ta thường
muốn người khác cũng tin và làm y như ta, và như thế ta truyền
bá đức tin theo kiểu « đúc theo khuôn » hay là đòi phải bắt
chước ta. Cần phải nhìn nhận một cách khiêm tốn là khi đi kèm
cho người xin tòng giáo thì ta đánh thức niềm tin vào cuộc đời
đã sẵn có, nhưng không biết trước được cái kết quả của sự cộng
tác giữa Thần Khí có sức sáng tạo của Chúa và quyết định tự do
của người ấy.
« Tư giáo » theo lối « tương
sinh » này bắt đầu được áp dụng đó đây, không những trong khi
gặp gỡ những người xin tòng giáo, mà cả trong sinh hoạt của xứ
đạo nữa. Giám mục Albert Rouet, giáo phận Poitiers, đã trình bầy
mười năm kinh nghiệm mới trong cuốn sách
Một bộ mặt mới của Giáo hội. Kinh
nghiệm các cộng đoàn địa phương tại Poitiers.
Một ví dụ khác mà tôi biết, là sau hội nghị năùm 2001 của lớp
người trẻ, thì tổng giáo phận Lille đã thành lập một hiệp hội
gọi là Fraternités Diocésaines des Parvis, huấn luyện cho
các thành phần, để cùng sống đạo theo lối « tư giáo » này. Cho
đến nay đã có 5 nhóm, mỗi nhóm gồm có một linh mục và dăm
sáu người nam nữ, có ngưòi độc thân, có người có gia đình, mỗi
nhóm được tòa giám mục chính thức giao cho trách nhiệm hoạt động
« tư giáo » trong một xóm có nhà thờ. Lễ ngày chủ nhật thường
lâu chừng một giờ rưỡi, vì có để ra thì giờ suy gẫm và trao đổi
kinh nghiệm và ý kiến. Hiệp hội bắt đầu lan ra mấy giáo phận
chung quanh.
Hiện nay có một việc rất đáng chú ý, đó là hội đồøng các giám
mục tại Rô-ma trong tháng 10 năm 2008, để bàn về đề tài « Lời
Chúa ». Các vấn đề đã được đề cập là : chỗ đứng của các chuyên
gia về Thánh Kinh, việc phiên dịch Thánh Kinh, các bài giảng
trong thánh lễ. Hội đồng cũng tiếp tay với đức giáo tông để nhấn
mạnh vào ba nền tảng không thể rời nhau của đời sống của đồ đễ
Chúa Giê-su, là : Lời Chúa, Lễ Đại-tạ (Eucharistia) và các việc
bác ái. Hội đồng này rất quan trọng, vì nó sẽ có ảnh hưởng nhiều
lên đời sống người công giáo toàn cầu.
Tiếng Pháp là « pastorale » (chăn dắt), tiếng Đức là
« Seelsorge » (lo việc về phần linh hồn). Người công
giáo Việt Nam dùng chữ « mục vụ » là dịch sát nghĩa
tiếng Pháp. Tôi thấy nó làm sao ấy, vì lẽ rằng ta « dẫn
dắt » người khác, chứ không có « chăn » ai cả. Vậy tôi
xin tạm dùng chữ « tư giáo ».
Sách viết về công đồng này thì rất nhiều. Chỉ xin đan cử
một bộ sách về lịch sử công đồng do Giuseppe Alberigo
(Istituto per le scienze religiose, Bologna, Italia)
đứng ra chủ trương, gồm 5 cuốn, do 26 tác giả chuyên môn
cùng soạn. Bản Pháp văn của bộ sách đó thì do Etienne
Fouilloux (Trung tâm nghiên cứu lịch sử tôn giáo, Lyon,
Pháp) đảm nhiệm, cũng gồm 5 cuốn, in tại Paris, NXB
Cerf, từ 1997 đến 2005, tất cả hơn 3600 trang. Sách sẽ
được dịch ra nhiều thứ tiếng.
Xem : Philippe Chanson, « Inculturation », trong
Dictionnaire oecuménique de missiologie. Cent mots pour
la mission (sous la direction de Ion Bria, Philippe
Chanson, Jacques Gadille, Marc Spindler), Paris, Cerf –
Genève, Labor et Fodes – Yaoundé, CLE, 2003, tr
165-170 . Đoạn văn trích dẫn là ở tr 165.
Xem : Trần Văn Toàn, “Đó là lời Chúa”, Định Hướng,
số 48, Mùa Đông 2006, tr 112-132.
Xem : Tin mừng theo thánh Mát-thêu 22,21 : « Bấy
giờ Người bảo họ : Thế thì của Xê-da (= hoàng đế), trả
về Xê-da ; của Thiên Chúa, trả về Thiên Chúa ».
Số là các thần linh được công nhận trong đế quốc thường
chỉ là thần của riêng một dân tộc, chứ không có thần nào
là thần của cả đế quốc. Vì thế hoàng đế Rô-ma là Augustô
có quyền công nhận các thần linh, đã tự tôn chính mình
lên hàng thần linh. Cũng như trong hoàn cảnh tương tự
vua Minh Mạng đã tuyên bố : trẫm là chúa các thần.
Thầy tu hành trong sa mạc gọi là ermite (eremita),
là do tiếng hi-lạp eremos có nghĩa là sa mạc.
Triết học của Platon xuất hiện dưới hình thức những bài
đối thoại.
Ví du các tông phái Tin lành thì bám vào nhà cầm quyền
địa phương theo nguyên tắc : đất nào đạo ấy. Đó
chính là lúc vua nước Anh là Henri VIII đã tự phong cho
mình làm giáo chủ đạo Ki-tô ở nước Anh.
Sau Thế Chiến thứ hai, các lễ nghi tuy vẫn cử hành bằng
tiếng La-tinh, nhưng giáo quyền đã bắt đầu cho phiên
dịch ra tiếng nói của giáo dân, để họ cho thể theo dõi
và tham gia.
Tôi chỉ xin giới thiệu một bộ sách của Adolphe Gesché
(1926-2005), giáo sư thần học ở đại học công giáo
Louvain (Bỉ). Bộ sách tên là DIEU POUR PENSER,
viết ra với mục đích là lấy cái ý niệm « Thiên Chúa »
làm cơ hội để suy tư cho đáo lý về các vấn đề nhân sinh.
Sách gồm 7 cuốn in tại NXB Cerf , Paris (1- Le Mal,
1993 ; 2- L’Homme, 1993 ; 3- Dieu, 1994 ; 4- Le Cosmos,
1994 ; 5- La Destinée, 1995 ; 6- Lr Christ, 2001 ; 7- Le
Sens, 2003) . Tác giả mất trước khi soạn xong cuốn
thứ 8- La Foi.
Sáng lập viên hiệp hội Jonas, căn cứ vào tình
trạng « tư giáo » hiện thời, để đưa ra những đề nghị
thiết thực, nhằm thực thi các quyết nghị của Công đồng.
Xem : sách L’Avenir en face (Réflexions sur la
crédibilité de la foi chrétienne et sur le ministère de
l’Eùglise), Paris, Desclée de Brouwer, 2002, 241
tr.
Cuốn sách đã làm cho Eugen Drewermann không còn được làm
giáo sư thần học công giáo ở đại học Paderborn (Đức) có
nhan đề là Kleriker (= Hàng giáo sĩ), Olten,
Walter-Verlag, 1989 , thì người Pháp căn cứ vào nội dung
mà dịch là Fonctionnaires de Dieu (= Công chức của
Chúa), Paris, Albin Michel, 1993, 758 trang.
Ví dụ số 12 trong văn kiện dậy rằng trong tang lễ phải
có linh mục hay thầy phó tế « để cầu nguyện hẳn hoi cho
người quá cố» : vì giáo dân không có chức thánh chỉ được
làm khi thiếu người có chức thánh.
Đó là : Une nouvelle chance pour l’Évangile (Một cơ
hội may mắn mới cho Phúc âm ). Vers une pastorale
d’engendrement, trong tủ sách Théologies
Pratiques, NXB : Lumen vitae – NOVALIS – Éd. de
l’Atelier, 2004, 203 trang ; và : Passeurs
d’Eùvangile (Những người truyền đạt Phúc âm). Autour
d’une pastorale d’engendrement, Cũng các NXB trên
đây, 2008, 231 trang.
Theobald là người Đức, đi tu dòng Tên ở Pháp. Sách mới
xuất bản là : Le christianisme comme style (Đạo Ki-tô
xét như là một lối sống), Paris, Tủ sách
Cogitatio Fidei, số 260 và 261, Paris, NXB Cerf,
2007, tất cả là 1110 trang.
Hiện nay có nhiều nơi có quốc giáo, người ta kỳ thị
những người theo đạo khác, và xử tử hình những ai dám
cải giáo.
Xem : Philippe Bacq, « Vers une pastorale
d’engendrement », trong sách Une nouvelle chance pour
l’Eùvangile, 2004, trang 7-28.
Proposer la foi dans la société actuelle / Lettre
aux catholiques de France (Le rapport rédigé par Mgr
Claude Dagens et adopté par l’assemblée plénière des
évêques), Paris, Cerf, 1966, 130 trang.
Xem : Christoph Theobald, « L’Eùvangile et l’Eùglise »,
trong sách Passeurs d’Évangile, 2008, trang
17-40. – Và : Jean-Marie Donegani, « Inculturation et
Engendrement du croire », trong sách Une nouvelle
chance pour l’Eùvangile, 2004, trang 29-45.
Ýù kiến này lấy từ lời Chúa dậy ông Ni-cô-đê-mô :
« Không ai có thể thấy nước Thiên Chúa, nếu không được
sinh lại bởi ơn trên » (Gio-an 3, 3).
Ở đây là tôi bàn rộng ra câu nói của thánh Gio-an : « Ai
không yêu thương người anh em mà họ trông thấy, thì
không thể yêu mến Thiên Chúa mà họ không trông thấy » (
Lá thư I của Gio-an, 5, 20).
Xem : Theobald, Sđd , trang 20-22.
Về lý do thứ nhất, A. Gesché giải thích: « Vị Thiên Chúa
mà đức Giê-su giới thiệu, thì không phải là vị thần mà
chúng ta nghĩ, vị thần mà chúng ta bầy vẽ ra theo như
những mơ ước trẻ con, vị thần mà các triết gia gọi là
coi được » (trang 141). Vị Thiên Chúa đó không phải là
tầm thường : vì như một người cha nhân từ, ngài phục hồi
nhân phẩm cho những người mà thiên hạ coi là tội phạm,
ngài lại cho rằng muốn làm điều thiện thì có khi phải
gác ra một bên các điều cấm kỵ trong tôn giáo, v.v. Và
ông thêm rằng : Vì có nhiều người không tin, cho nên
niềm tin của ông thật là tự do, và niềm tin như thế đã
làm cho ông tín cẩn hơn vào con người và được thêm can
đảm để sống.
Xem A. Gesché , « Pourquoi
je crois en Dieu », trong sách Dieu pour penser,
tập III, tr 125-151.
Thầy Khổng nói : nhân giả, nhân dã : chữ nhân
(lòng nhân, hợp với nhân đạo) gồm có chữ nhị (là
hai) và chữ nhân (là người) ; Cũng xem : Karl
Marx, « Entfremdete Arbeit (lao động bị vong thân) »
(M.E.G.A., , I / 2 , tr 363-375).
Un nouveau visage d’Eglise. L’expérience des
communautés locales de Poitiers, Paris, Bayard,
2004.