Xây Dựng Cộng Ðoàn Quốc Tế |
Phần Thứ Hai
Chương V
Cổ Võ Hòa Bình Và
Xây Dựng Cộng Ðoàn Các Dân
Tộc
90*
(tiếp theo)
Ðoạn 2: Xây Dựng
Cộng Ðoàn Quốc Tế
83.
Nguyên nhân bất hòa và phương dược chữa trị. Ðể xây dựng hòa
bình, trước hết cần phải tận diệt những nguyên nhân bất hòa giữa con người với
nhau, vì chính những nguyên nhân đó nuôi dưỡng chiến tranh, nhất là những bất
công. Một số không ít những nguyên nhân này bắt nguồn từ những chênh lệch thái
quá trong địa hạt kinh tế, cũng như từ sự trì hoãn những sửa đổi cần thiết. Một
số nguyên nhân khác phát sinh từ đầu óc thống trị và miệt thị con người, và nếu
tìm hiểu những lý do sâu xa hơn, thì đó là lòng tham lam, nghi kỵ, kiêu căng và
những đam mê ích kỷ khác. Vì con người không thể chịu đựng được bao nhiêu hỗn
loạn ấy, cho nên dù không có chiến tranh tàn khốc, thế giới vẫn không ngừng bị
những tranh chấp giữa con người với nhau và những bạo động làm xáo trộn. Hơn
nữa, những tệ hại này còn có mặt trong những tương quan giữa chính các quốc gia,
cho nên để chiến thắng hay ngăn ngừa những tệ hại đó và chặn đứng những bạo động
cuồng loạn, triệt để cần phải phối hiệp và tổ chức các cơ quan quốc tế một cách
tốt đẹp và vững chắc hơn. Cũng cần phải luôn luôn khuyến khích việc thành lập
những cơ quan cổ võ cho hòa bình.
84.
Cộng đoàn các dân tộc và các cơ quan quốc tế. Ngày nay mối dây
tương quan giữa các công dân và các dân tộc trên thế giới mỗi ngày một thêm chặt
chẽ. Do đó, muốn tìm công ích đại đồng một cách thích ứng và thể hiện một cách
hữu hiệu hơn, cộng đồng các dân tộc cần phải được tổ chức theo một thể thức hợp
với công cuộc hiện thời, nhất là liên quan đến rất nhiều miền cho tới nay vẫn
còn đang chịu cảnh túng thiếu cơ cực.
Ðể đạt được những mục tiêu nói
trên, các cơ quan của cộng đoàn quốc tế tùy theo phận vụ mình, phải đáp ứng
những nhu cầu muôn mặt của con người trong lãnh vực xã hội như lương thực, sức
khỏe, giáo dục, việc làm, cũng như trong một vài hoàn cảnh đặc biệt có thể gặp
tại vài nơi, chẳng hạn cần phải cổ võ sự thăng tiến tổng quát của các quốc gia
trên đường phát triển, phải trợ giúp nỗi đau khổ của những người tị nạn rải rác
trên khắp thế giới, hoặc còn phải cứu trợ những người di cư và gia đình họ.
Các cơ quan quốc tế đang có trên
toàn thế giới hay tại địa phương chắc chắn đáng được nhân loại ghi ơn nhiều.
Những tổ chức này tựa như những cố gắng đầu tiên nhằm đặt nền móng quốc tế cho
cả cộng đoàn nhân loại, để giải quyết những vấn đề trầm trọng nhất của thời đại
chúng ta, như là cổ võ sự phát triển khắp nơi và ngăn ngừa chiến tranh dưới mọi
hình thức. Trong tất cả những lãnh vực này, Giáo Hội hoan hỷ trước tinh thần
huynh đệ đích thực đang nảy nở giữa các Kitô hữu và những người ngoài Kitô giáo;
tinh thần đó nhằm giúp họ gia tăng thêm mãi mãi nỗ lực để xoa dịu nỗi thống khổ
bao la.
85.
Cộng tác quốc tế trong lãnh vực kinh tế
95*. Sự liên đới ngày nay của nhân loại cũng đòi hỏi phải thiết
lập một sự cộng tác quốc tế rộng rãi hơn trong lãnh vực kinh tế. Thật vậy, mặc
dù hầu hết mọi dân tộc đều được tự trị, tuy nhiên còn lâu họ mới thoát khỏi
những chênh lệch thái quá và mọi hình thức lệ thuộc quá đáng, cũng như tránh
được mọi nguy cơ trầm trọng từ những khó khăn bên trong.
Sự phát triển của mỗi quốc gia tùy
thuộc ở những trợ giúp về nhân sự và tài chánh. Người công dân trong mỗi nước
cần phải được chuẩn bị bằng việc giáo dục và huấn nghệ để chấp nhận những nhiệm
vụ khác nhau trong đời sống kinh tế và xã hội. Nhằm mục đích trên, cần phải có
sự giúp đỡ của những chuyên viên ngoại quốc; khi giúp đỡ, những chuyên viên này
đừng xử sự như chủ, nhưng như là những người trợ tá và cộng tác viên. Sự viện
trợ vật chất cho các quốc gia đang phát triển chỉ thực hiện được nếu người ta
thay đổi sâu rộng những đường lối thương mại hiện có trên thế giới. Hơn nữa, các
quốc gia tiến bộ phải giúp cho các quốc gia đó những viện trợ khác nhau dưới
hình thức tặng phẩm, cho vay hoặc đầu tư tài chánh. Một bên phải viện trợ cách
quảng đại, chứ không vì tham lam, cũng như bên kia phải nhận với tất cả công
minh.
Muốn xây dựng một nền kinh tế đích
thực cho thế giới cần phải dập tắt lòng ham lợi quá đáng, những tham vọng quốc
gia, những khao khát bá chủ về chính trị, mọi mưu tính về mặt quân sự cũng như
mọi mưu mô nhằm tuyên truyền và bắt phải theo một ý thức hệ. Người ta đề ra
nhiều hệ thống kinh tế và xã hội. Ước gì các nhà chuyên môn có thể dựa trên đó
mà tìm ra những căn bản chung cho một nền mậu dịch quốc tế lành mạnh. Ðiều đó dễ
đạt được nếu mỗi người từ bỏ thành kiến riêng và mau mắn đi tới đối thoại một
cách chân thành.
86. Vài
tiêu chuẩn thích hợp. Những tiêu chuẩn sau đây xem ra thích hợp
cho việc cộng tác trên:
a) Các dân tộc đang phát triển cần
phải chú tâm nhiều đến việc theo đuổi sự phát triển toàn vẹn cho người công dân;
một cách rõ ràng và cương quyết, họ phải theo đuổi việc phát triển này như mục
tiêu của sự tiến bộ. Họ phải nhớ rằng sự tiến bộ phát sinh và gia tăng trước hết
là tùy thuộc ở sự làm việc và tài nghệ của chính dân tộc mình, nghĩa là sự tiến
bộ không chỉ căn cứ vào viện trợ của ngoại bang, nhưng tiên vàn căn cứ vào việc
khai thác đầy đủ những tài nguyên của xứ sở cũng như vào việc phát triển văn hóa
và truyền thống riêng của mình. Trong vấn đề này, những ai có ảnh hưởng trên
người khác hơn cả cần phải nêu gương hơn hết.
b) Bổn phận nặng nề nhất của các
quốc gia tiến bộ là giúp đỡ các dân tộc đang phát triển chu toàn những phận vụ
nói trên. Do đó, ngay trong quốc gia mình, họ phải thích nghi về mặt tinh thần
cũng như vật chất cần thiết để thiết lập sự cộng tác đại đồng này.
Như thế, khi giao dịch với các quốc
gia nghèo yếu hơn, họ phải quan tâm đặc biệt đến lợi ích của các quốc gia này:
vì các quốc gia này sống còn là tùy ở nguồn lợi từ những sản phẩm bán ra.
c) Bổn phận của cộng đoàn quốc tế
là phối hợp và cổ võ sự phát triển, tuy nhiên tài nguyên dành cho việc phát
triển phải được phân phối hết sức hữu hiệu và hoàn toàn công bằng. Dù vẫn giữ
nguyên tắc trách nhiệm bổ trợ, cộng đoàn quốc tế cũng phải điều hòa các mối bang
giao kinh tế trên toàn thế giới, làm sao để các mối bang giao đó được thể hiện
trong các quy tắc của công bình.
Phải thiết lập những tổ chức có thể
cổ võ và điều hành những mậu dịch quốc tế nhất là với các quốc gia kém mở mang,
để bù đắp những khuyết điểm do sự chênh lệch thái quá về thế lực giữa các quốc
gia. Ðường lối tổ chức trên cùng với sự trợ giúp kỹ thuật, văn hóa và tài chánh,
sẽ giúp các quốc gia đang phát triển có những phương tiện cần thiết để có thể mở
mang kinh tế một cách thích hợp.
d) Trong nhiều trường hợp, nhu cầu
cấp bách đòi hỏi phải xét lại các cơ cấu kinh tế và xã hội. Tuy nhiên phải coi
chừng những giải pháp kỹ thuật chưa được chín mùi, nhất là những giải pháp đi
ngược lại đặc tính thiêng liêng và sự phát triển con người, mặc dù đem lại cho
con người những tiện ích vật chất: vì "con người không phải chỉ sống bằng cơm
bánh nhưng còn bằng mọi lời từ miệng Thiên Chúa phán ra" (Mt 4,4). Bất cứ thành
phần nào của gia đình nhân loại cũng đều mang trong mình và trong những truyền
thống tốt đẹp nhất của mình một phần kho tàng thiêng liêng mà Thiên Chúa đã ủy
thác cho nhân loại, dù cho nhiều người không biết nó phát xuất từ nguồn gốc nào.
87. Hợp
tác quốc tế trong vấn đề gia tăng dân số. Sự hợp tác quốc tế là
một vấn đề hết sức cần thiết, khi một số dân tộc ngày nay, không kể bao nhiêu
khó khăn khác, còn rất thường gặp phải một số khó khăn đặc biệt nữa phát sinh từ
sự gia tăng dân số quá nhanh. Nhờ sự hợp tác hoàn toàn và đắc lực của mọi quốc
gia, nhất là những nước giàu, điều khẩn trương là phải nghiên cứu làm sao để có
thể chuẩn bị và chia sẻ cho toàn thể nhân loại những gì cần thiết cho sự sống và
cho việc giáo dục thích hợp của con người. Thực thế, một số quốc gia sẽ có thể
cải thiện hoàn cảnh sinh sống của họ rất nhiều, nếu một khi được huấn luyện đầy
đủ, họ chuyển từ những phương pháp canh tác nông nghiệp cổ hủ đến những kỹ thuật
tối tân và biết áp dụng chúng vào những hoàn cảnh của họ với sự khôn khéo cần
thiết; vả lại, nếu họ biết thiết lập một trật tự xã hội tốt đẹp hơn và phân chia
đất đai một cách công bình hơn.
Trong phạm vi thẩm quyền của mình,
dĩ nhiên chính phủ có quyền và có bổn phận đối với vấn đề dân số trong quốc gia
mình: chẳng hạn vấn đề liên quan đến luật xã hội và gia đình, vấn đề di dân từ
thôn quê về thành thị, vấn đề thông tin về tình hình và nhu cầu quốc gia. Ngày
nay, người ta chú trọng rất nhiều đến vấn đề này, do đó, ước gì những người công
giáo chuyên môn trong lãnh vực này, nhất là trong các Ðại Học, hãy kiên nhẫn
theo đuổi và phát huy sâu rộng những nghiên cứu cũng như những công cuộc của họ.
Nhiều người quả quyết rằng sự gia
tăng dân số trên thế giới hay ít ra tại một vài quốc gia cần phải được giảm
thiểu hoàn toàn bằng mọi phương tiện và bằng bất cứ sự can thiệp nào của chính
quyền. Do đó, Công Ðồng khuyến cáo mọi người nên đề phòng những giải pháp đi
ngược lại luật luân lý 96* đang được đề cao
một cách công khai hay riêng tư và đôi khi có tính cách bắt buộc. Vì quyền kết
hôn và sinh sản là quyền bất khả di nhượng của con người, cho nên việc định đoạt
số con cái sẽ sinh ra tùy thuộc ở phán đoán thẳng thắn của cha mẹ chứ không thể
nào ủy thác cho sự quyết định của chính quyền. Nhưng sự phán đoán của cha mẹ giả
thiết là họ phải có một lương tâm được huấn luyện ngay thẳng, do đó điều quan
trọng là làm sao cho mọi người đạt được một trình độ trách nhiệm đứng đắn và
thật sự của một con người, một trách nhiệm biết tôn trọng luật Thiên Chúa mà vẫn
không bỏ quên hoàn cảnh và thời đại. Ðiều này còn đòi hỏi phải cải thiện khắp
nơi tình trạng giáo dục và xã hội, nhất là cần phải có một nền giáo dục tôn giáo
hay ít ra phải có một nền giáo dục đầy đủ về luân lý. Hơn nữa, dân chúng cần
phải được hiểu biết cẩn thận về những tiến bộ khoa học trong việc tìm kiếm các
phương pháp có thể giúp đôi vợ chồng điều hòa sinh sản, miễn là các phương pháp
này được chứng minh rõ ràng là chắc chắn và được nhìn nhận là phù hợp với trật
tự luân lý.
88. Bổn
phận của Kitô hữu trong việc cứu trợ. Người Kitô hữu phải sẵn
sàng và hết lòng cộng tác xây dựng trật tự quốc tế, một thứ trật tự tôn trọng
những quyền tự do hợp pháp và tình bằng hữu huynh đệ với hết mọi người. Họ càng
phải sẵn sàng thực hiện công cuộc ấy hơn nữa, vì hiện thời đại đa số nhân loại
còn đang đau khổ bần cùng đến nỗi chính Chúa Kitô hiện thân trong kẻ nghèo khổ
như đang lớn tiếng đòi hỏi các môn đệ của Người phải bác ái. Vậy phải tránh
gương mù của một số quốc gia mà đa số dân chúng thường mang danh Kitô hữu, đang
thản nhiên hưởng thụ quá nhiều của cải trong lúc nhiều quốc gia khác sống thiếu
thốn cùng cực, bị đói khát, bệnh tật và đủ mọi thứ bất hạnh dày vò. Tinh thần
khó nghèo và bác ái mới là vinh dự và dấu chứng của Giáo Hội Chúa Kitô.
Thế nên, phải khen ngợi và cổ võ
những người Kitô hữu, nhất là các bạn trẻ, tự nguyện hiến thân phục vụ tha nhân
và các quốc gia khác. Lại nữa, bổn phận của toàn thể Dân Chúa là theo gương lành
và lời giảng dạy của các Giám Mục để tùy sức xoa dịu những khốn cùng của thời
đại này, chẳng những với phần thặng dư mà còn cả phần thiết dụng của mình nữa
như Giáo Hội thời xưa quen làm.
Cách lạc quyên và phân phối viện
trợ, dù không được tổ chức chặt chẽ và đồng nhất thì ít nữa cũng phải được thực
hiện cách đứng đắn trong các giáo phận, các quốc gia và trên toàn thế giới; ở
bất cứ nơi nào xem ra thuận tiện, hoạt động của Công Giáo phải hợp tác chặt chẽ
với các anh em Kitô hữu khác. Tinh thần bác ái chẳng những không ngăn trở mà còn
đòi hỏi việc tiên liệu và tổ chức hoạt động xã hội cũng như từ thiện cho quy củ.
Vì thế, những người tình nguyện dấn thân phục vụ các quốc gia đang phát triển
cần phải được huấn luyện trong các trường chuyên môn để họ trở thành những cán
bộ thành thạo.
89. Sự
hiện diện hữu hiệu của Giáo Hội trong cộng đoàn quốc tế. Dựa vào
sứ mệnh Chúa ủy thác, Giáo Hội rao giảng Phúc Âm cho mọi người và phân phát các
kho tàng ân sủng; và ở bất cứ nơi nào trên hoàn cầu, Giáo Hội cũng góp phần củng
cố hòa bình và thiết lập nền tảng vững chắc cho sự liên đới huynh đệ của con
người và của các dân tộc: nền tảng này làm cho mọi người hiểu biết về luật Thiên
Chúa và luật tự nhiên. Vì thế, Giáo Hội nhất thiết phải có mặt ngay giữa lòng
các dân tộc để khơi động và thôi thúc sự hợp tác giữa mọi người và Giáo Hội hoạt
động được vậy là nhờ các cơ quan chính thức của mình, cũng như nhờ sự cộng tác
tận lực và chân thành của mọi Kitô hữu, chỉ theo đuổi một ước nguyện là phục vụ
tất cả mọi người.
Kết quả sẽ bảo đảm hơn, nếu chính
các tín hữu ý thức trách nhiệm làm người và làm Kitô hữu, cố gắng thúc đẩy ước
muốn sẵn sàng cộng tác với cộng đoàn quốc tế ngay trong môi trường sinh hoạt của
mình. Về vấn đề này nên đặc biệt chú tâm đào tạo các thế hệ trẻ trong khi giáo
dục tôn giáo cũng như huấn luyện công dân.
90. Vai
trò của các Kitô hữu trong những tổ chức quốc tế. Công cuộc hợp
tác cá nhân hay tập thể với chính những tổ chức hiện có hay sắp thành hình nhằm
cổ võ việc hợp tác giữa các quốc gia là một hình thức hoạt động quốc tế tuyệt
hảo của các Kitô hữu. Lại nữa, những hiệp hội công giáo quốc tế khác nhau còn có
thể góp sức bằng nhiều cách để xây dựng một cộng đoàn các dân tộc trong hòa bình
và huynh đệ. Phải củng cố các hiệp hội này bằng cách gia tăng số hội viên đã
được huấn luyện kỹ lưỡng, bằng cách giúp đỡ các phương tiện cần thiết cũng như
phối hợp chặt chẽ các năng lực. Thật vậy, thời đại chúng ta đòi hỏi sáng kiến
tập thể để hoạt động hữu hiệu và thỏa mãn nhu cầu đối thoại. Lại nữa, những hình
thức tổ chức ấy góp phần không ít vào việc gia tăng ý thức đại đồng là điều rất
hợp với người công giáo, cũng như vào việc khai sinh ý thức liên đới và trách
nhiệm quốc tế thực sự.
Sau cùng, ước mong rằng người công
giáo tìm cách hợp tác tích cực và thiết thực hoặc với các anh em ly khai cùng
tuyên xưng một tình bác ái Phúc Âm, hoặc với tất cả mọi người đang khao khát hòa
bình chân chính, để chu toàn đứng đắn nghĩa vụ của mình trong cộng đoàn quốc tế.
Ngày nay, nhìn nỗi thống khổ bao la
đang đè nặng trên đa số nhân loại và để cổ võ sự công chính, đồng thời cổ võ
tình yêu Chúa Kitô đối với người nghèo khổ ở khắp nơi, Công Ðồng cho là rất đáng
mong ước việc thiết lập một cơ quan chung cho toàn thể Giáo Hội, có nhiệm vụ
thôi thúc cộng đoàn công giáo hầu cổ võ sự phát triển trong các vùng nghèo khổ
cũng như cổ võ công bình xã hội giữa các quốc gia. 97*
_____________
Chú Thích:
94*
Xây dựng hòa bình là công việc của mọi người chúng ta, nhất là của tín hữu, bởi
vì dư luận càng ngày càng có ảnh hưởng trên các nhà cầm quyền. Theo lời chỉ dẫn
của Công Ðồng, Ðức Phaolô VI nhiều lần đã nhấn mạnh rằng ta phải đổi mới tâm
trạng bằng cách tiêu hủy tính ích kỷ, sự bạo động, sự xâm phạm quyền lợi của
người khác (8-12-1967), và bằng cách từ bỏ sự xung đột tư tưởng cũng như xu
hướng bản năng kiêu căng và vô nhân đạo (1-1-1968). Trái lại, phải tìm kiếm tinh
thần mới: đề cao nhiệm vụ và lòng tôn trọng tha nhân, tình huynh đệ, công bằng,
thương yêu, tự do về khía cạnh dân sự, văn hóa, luân lý và tôn giáo (8-12-1967).
Ðức Phaolô trông mong ở giới trẻ không biết bi quan (1-1-1968). Tất cả những ai
đã phải khổ sở cũng như đã bị tử thương vì chiến tranh, đều kêu gào và đòi hỏi
chúng ta phải có tinh thần mới đó. Và nhất là Chúa Kitô đã nhập thể và đã tuyên
bố rằng mọi người đều là anh em với nhau, đã giảng dạy giá trị thánh thiện của
mạng sống và của việc tha thứ cho nhau; Người đòi hỏi phải có tâm trạng đổi mới
ấy (1-1-1968)... Trong Thông Ðiệp Pacem in terris, Ðức Gioan XXIII đã nhấn mạnh
nền tảng hòa bình cốt tại trật tự tự nhiên do chân thật, công bằng, thương yêu
và tự do tạo nên. Bốn nhân đức ấy sẽ giúp đỡ không những cá nhân với cá nhân mà
còn cá nhân với cộng đoàn chính trị, cũng như các quốc gia với nhau và với cộng
đoàn quốc tế.
5
Xem 2Cor 6,2.
95*
Trong phần hai này, Công Ðồng nhấn mạnh nhiều nhất đến sự cộng tác với nhau
trong lãnh vực kinh tế. "Sự phát triển là danh hiệu mới của hòa bình" (Phaolô
VI, Populorum Progressio, số 87). Không phải vì khi có đầy đủ mọi sự vật chất đã
là hết tất cả các nguyên nhân (sự bất công, ích kỷ, tham lam, kiêu căng...) có
thể gây nên chiến tranh, nhưng vì trường hợp thiếu bình đẳng giữa các dân tộc là
một trong các nguyên nhân quan trọng nhất gây nên sự bất công cũng như tinh thần
đố kỵ (PP., số 55).
96*
Nếu dân số gia tăng quá mau, những nỗ lực để phát triển mức độ kinh tế có thể bị
ngăn chặn rất nhiều (PP., số 37). Công Ðồng nhắc lại một số phương pháp có thể
giúp giải quyết vấn đề đó: a) Nhờ sự cộng tác của các dân tộc, nhất là dân tộc
tiền tiến, để tìm cách sinh nhai và nâng cao mức độ học thức, b) canh tân phương
pháp trong lãnh vực nông nghiệp, c) đổi mới trật tự xã hội, d) phân chia lại
ruộng đất cách công bình hơn, e) nhờ pháp luật gia đình và xã hội, f) nhờ chính
sách di dân, g) nhờ sự truyền tin về tình hình quốc gia, h) nhờ công việc nghiên
cứu kinh tế xã hội tại các viện đại học...
Dĩ nhiên các phương pháp đó lúc đầu
đòi hỏi món tiền rất lớn. Bởi vậy các chính phủ có thể có khuynh hướng bắt buộc
công dân áp dụng phương pháp tận gốc: làm chậm sự gia tăng dân số bằng những
phương pháp vi phạm đến nhân phẩm: "Mỗi mỹ kim chúng ta cung cấp để hạn chế sinh
sản giúp chúng ta tiết kiệm được hơn, một trăm mỹ kim mà chúng ta sẽ phải chi
phí để phát triển nền kinh tế lạc hậu". Câu nói này của Tổng Thống Hoa Kỳ
Johnson, cũng như chương trình hạn chế sinh sản tại một số quốc gia như Ấn Ðộ,
Ðài Loan, v.v... khiến ta ý thức về sự hợp thời của lời cảnh cáo do Công Ðồng
tuyên bố. Riêng về nạn đói, là vấn đề đã làm cho giới trách nhiệm phải lo lắng
rất nhiều mấy năm trước đây, báo Time (3-10-1969, 22) viết: "...kỹ thuật nông
thôn đã chứng tỏ rằng sự sản xuất thực phẩm có thể lớn hơn sự gia tăng dân số".
Thực sự, nhiều lúc vấn đề không phải là vấn đề sản xuất nhưng là vấn đề chuyên
chở, phân phối, giá thị trường, và vấn đề tổ chức cũng như cộng tác giữa các
quốc gia.
97*
Ngày 7-7-1966, Ðức Phaolô VI đã chỉ định một ủy ban lâm thời với nhiệm vụ dự
thảo đường lối thực hiện ý muốn của Công Ðồng. Rồi ngày 6-1-1967, Ðức Giáo Hoàng
đã thiết lập ủy ban nghiên cứu "Công Lý và Hòa Bình" tại Vaticanô. Ủy ban chuyên
tâm khảo cứu những vấn đề thiết thực mới thành hình liên can đến thế giới.
Ðược ủy ban khuyến khích, Hội Ðồng
các Giám Mục Việt Nam họp tại Sàigòn vào đầu năm 1969 đã chỉ thị thành lập phong
trào Công Lý Hòa Bình tại Việt Nam nhằm đem Giáo Hội vào thế giới ngày nay và
góp phần vào cuộc đại cách mạng thế giới. Ðây không phải là cuộc cách mạng chính
trị, nhưng là một cuộc cách mạng nhân bản và tôn giáo: làm sao để không còn phân
biệt lối sống đạo trong nhà thờ và sinh hoạt trần thế ngoài nhà thờ nữa. Trong
cuộc cách mạng này phải có ý thức tôn giáo, ý thức công dân, ý thức cải tiến.
|
VỀ MỤC LỤC |
|
TẠI
SAO PHẢI LÀM VIỆC ĐỀN TỘI SAU KHI XƯNG TỘI? |
Hỏi:
Liên quan đến việc xưng
tội, xin Cha giải thích thêm điều này:
Sau khi đã thật lòng
xưng tội với linh mục
thì Chúa đã tha thứ hết mọi tội rồi. Vậy tại sao còn phải làm
việc “đền tội” sau đó? Như vậy có phải Chúa không tha hết hay
tha có điều kiện hay sao?
Trả lời:
Trước hết, tôi cần nói lại
một lần nữa về tội và lòng thương xót, tha thứ
của Chúa, là Cha rất nhân từ.
Người chê ghét mội tội lỗi, nhưng lại
yêu thương người có tội biết ăn năn, sám hối.
Do
hậu quả của tội Nguyên tổ (Original sin), bản chất con người
đã trở nên
yếu đuối và rất dễ sa ngã, mặc dù được
tái sinh qua phép rửa, được tha thứ một lần khỏi tội nguyên tổ
và mọi tội cá nhân khác. Nhưng sau đó, chính
vì bản chất yếu đuối nói trên cộng thêm
sự cám dỗ mãnh liệt của ma quỉ và gương xấu của thế gian, mà
con người vẫn
còn nguy cơ phạm tội cá nhân nhiều lần nữa. Nguy cơ này kéo dài
suốt cả đời người cho đến giờ hấp hối trên giường bệnh. Và chỉ
khi linh hồn ra khỏi xác, con người mới hết nguy cơ bị cám dỗ và
phạm tội mà thôi.
Vì
thế, Chúa Giêsu đã dạy các Tông Đồ rằng: “Anh em hãy canh
thức mà cầu nguyện để khỏi lâm vào cơn cám dỗ. Vì tinh thần thì
hăng hái, nhưng thể xác lại yếu đuối.” (Mt 26:41).
Thánh Phêrô cũng cảnh cáo chúng ta về nguy cơ của tội đến từ ma
quỉ như sau: “Anh em hãy sống tiết độ và tỉnh thức vì ma
quỉ, thù địch của anh em, như sư tử gầm thét rảo quanh tìm mồi
cấu xé.” ( 1Pr 5:8)
Như
thế, tội lỗi là một thực trạng của con người sống trên trần thế
này. Chính vì vậy mà Chúa Giêsu, trước khi về Trời, đã lập bí
tích Hoà Giải để giúp con người giao hoà lại với Thiên Chúa sau
khi đã lỡ phạm tội vì yếu đuối và vì
‘sa chước”
cảm dỗ. Chúa đã trao cho
các Tông Đồ và những người kế vị quyền tha tội cho mọi hối nhân
như sau: “Anh em tha tội cho ai thì người ấy được tha.
Anh em cầm giữ ai thì người ấy bị cầm giữ.” ( Ga 20:23)
Đây
là nền tảng thần học và kinh thánh của bí tích Hoà giải (xưng
tội) qua đó Chúa Kitô tiếp tục tha tội cho chúng ta qua sứ vụ
của các thừa tác viên có chức thánh là Giám Mục và Linh mục.
Theo giáo lý của Giáo Hội, tội được chia ra làm hai loại: tội
trọng (mortal sin) và tội nhẹ (venial sin). Nhưng mọi tội đều có
thể được tha, nếu thực tâm thống hối và còn tin tưởng vào lòng
thương xót của Chúa. Riêng
tội phạm đến Đức Chúa Thánh Thần, tức là tội
chối bỏ Thiên Chúa hoàn toàn thì không thể tha được, vì
kẻ đã chối Chúa, không tin có Chúa thì chạy đến với ai mà xin
tha thứ được?
(x. Mc 3:28-29).
Nhưng sau khi
được tha mọi tội qua bí tích hòa giải, hối nhân vẫn còn phải làm
một số việc lành để đền tội theo chỉ dẫn của cha giải tội. Lý do
là :
“Ơn tha tội xoá mọi tội lỗi, nhưng không sửa chữa được
những xáo trộn mà tội đã gây ra” như Thánh Công
Đồng Trentinô đã dạy. (x SGLCG, số 1459).
Nói
khác đi, khi ta thành tâm xưng tội, thì tội được tha và giúp ta
lấy lại tình thân với Chúa. Nhưng phải làm một số việc lành
tương xứng để đền bù lại.
Thí dụ, lấy của ai cái gì, thì phải trả lại người ấy cách nào
đó vì phép công bằng đòi buộc như vậy.
Giết người không thể đền mạng được,
nhưng phải làm việc gì có giá trị bảo vệ sự sống để đền bù lại.
Nghĩa là không thể đọc năm ba kinh Lậy Cha, Kính Mừng để đền tội
giết người hay làm thiệt hại danh dự và tài sản của người khác
được. Đây là việc “đền tội = penance” mà các cha giải tội đòi
hối nhân phải làm để sửa chữa những hậu quả do tội gây ra, sau
khi đã xưng và được tha qua ơn phép tha tội (absolution).
Mặt
khác, cũng theo giáo lý của Giáo Hội, thì tội mang lại hai hậu
sau đây, tùy mức phạm là nặng hay nhẹ:
Tội
trọng làm mất tức khắc sự hiệp thông (communion) với Chúa là
tình yêu; và nếu chết không kịp sám hối và được tha qua bí tích
hoà giải thì sẽ phải chịu án phạt đời đời trong nơi gọi là hoả
ngục. (x. SGLCG,số 1033-35). Tội nhẹ không cắt đứt sự hiệp thông
với Chúa nhưng cũng gây thương tổn phần nào cho sự hiệp thông
này nên cũng cần được tha thứ và thanh tẩy.
Cả
hai loại tội trọng và tội nhẹ, sau khi được tha qua bí tích hoà
giải, đều để lại hậu quả xáo trộn nhiều ít trong tâm hồn hối
nhân như Thánh Công Đồng Trentinô đã dạy trên đây.
Vì
thế, hối nhân
cần được thanh tẩy mọi hậu quả của tội
qua việc “đền tội” để xoá đi cái gọi là “hình
phạt hữu hạn = temporal punishment” sau khi tội được tha nhờ
bí tích hoà giải. Việc đền tội này, nếu không làm đầy đủ
khi còn sống thì
phải được thanh luyện sau khi chết trong nơi gọi là “Luyện tội
= Purgatory”. Và đây là lý do vì sao Giáo Hội daỵ các tín hữu
còn sống phải làm việc lành và cầu nguyện cho các linh hồn nơi
luyện tội để giúp họ mau thoát khỏi hình phạt hữu hạn nói trên
để gia nhập hàng ngũ các Thánh trên Thiên Đàng, hưởng Nhan Thánh
Chúa đời đời.
Hình phạt hữu hạn không phải là sự “trả thù” của Thiên Chúa.
Cũng không phải vì Chúa không tha thứ hoàn hoàn cho con người mà
vì hậu quả của tội gây ra cho hối nhân cần được sửa chữa mà
thôi. (x. SGLGH CG,số
1472).
Nói
cách cụ thể, ta có thể tạm
dùng hình ảnh này để minh họa cho điều vừa giải
thích trên đây: tội lỗi được ví như những cái đinh
(nails) đóng vào tường. Khi đinh được gỡ
đi thì để lại những lỗ hổng to hay nhỏ trên tường tùy đinh
to hay nhỏ. Ví thế, phải lấp các lỗ này sau khi đinh
được tháo gỡ để mặt tường được nhẵn nhụi, phẳng phiu trở
lại. Việc đền tội
cũng được ví tương tự như vậy. Sau khi được tha, tội ví như đinh
được rút ra khỏi tường nhưng lổ hổng còn để lại. Vậy phải lấp
các lỗ hổng này bằng việc đền tội để tẩy xoá đi những hậu quả do
tội để lại trong tâm hồn hối nhân.
Đó
là lý do vì sao hối nhân phải làm việc “đền tội” sau khi đã xưng
các tội nặng nhẹ với thừa
tác viên có chức thánh là Giám mục hay lịnh mục, tức những người
được quyền tha tội nhân danh Chúa Kitô (in personna Christi) như
Giáo Hội dạy.
Cũng cần nói
thêm một lần nữa là xưng tội và đề tội rồi, thì phải quyết tâm
chừa bỏ tội lỗi để luôn sống trong tình yêu của Chúa.Nghĩa là
không được lợi dụng lòng thương xót tha thứ của Chúa để cứ phạm
tội rồi lại đi xưng tội. Làm như vậy là lạm dụng lòng khoan
dung của Chúa và làm hư phép giải tội. Cha giải tội có thể từ
chối ban phép tha tội nếu biết hối nhân cứ xưng đi xưng lại một
tội nhiều lần, nghĩa là không cố gắng chừa tội.
Ước
mong giải thích này thoả mãn câu hỏi được
đặt ra.
LM Phanxicô Xaviê Ngô
Tôn Huấn
|
VỀ MỤC LỤC |
|
ĐÃ ĐẾN LÚC?
|
Ít năm về trước, ngày nó chưa gặp anh,
người ta hay nghe nó thở than: “Chán quá! Chẳng biết làm gì
cả.” Rồi bẵng đi một thời gian, không thấy mặt mũi nó đâu
cả. Bà con bắt đầu hỏi thăm nhau xem nó ra sao nhưng không
ai biết gì. Độ hai năm sau, người ta thấy nó xuất hiện ở khu
phố thân quen. Vừa quan tâm vì là tình làng nghĩa xóm mà
cũng vừa tò mò vì sự ‘biệt tăm’ của nó, bà con xúm lại hỏi:
“Sao, dạo này khỏe không? Lâu nay đi đâu mà không thấy?”
Nó vui vẻ đáp: “Dạ, đi làm nhiều thứ
lắm.”
Một đứa bạn cùng trang lứa hỏi chọc nó:
“Thế kỳ này còn hay chán như hôm xưa không?”
“Thiệt. Tớ gặp một anh bạn. Anh nói tớ
vô lý quá. Trên đời này có bao nhiêu việc mình có thể làm
cho Chúa, cho mình, cho anh em. Để cho chán nản gặm nhấm
mình thì chỉ làm mất thời gian quý báu trong quãng đời ngắn
ngủi này.”
Bà con tròn xoe mắt. Thằng này đúng là
khác xưa nhiều.
“Lúc mình không có gì làm thì có thể
nghỉ ngơi, cầu nguyện, nói chuyện với Chúa, viết thư hỏi
thăm ai đó, hay lên mạng kết nối với các bạn trẻ để đồng
hành với họ, đi sinh hoạt giáo lý, đọc sách báo cập nhật
kiến thức, hoặc tham gia các tổ chức từ thiện. À, biết đâu
trong số người thân, bạn bè có ai đó đang cần một người để
lắng nghe tâm sự. Mình có thể rủ người đó đi uống cà phê mà.
Ôi, tóm lại thì có quá nhiều điều để làm. Bây giờ tớ chẳng
còn thời gian để ngồi đó chán nữa. Đã đến lúc phải biết tận
dụng thời gian quý báu trên thế gian này để làm những việc
có ý nghĩa rồi.”
Thựa ngồi đây trong cô đơn. Đời cứ
trống vắng thế nào ấy. Giá mà có ai đó ở đây để Thựa tâm sự
những dồn nén trong lòng. Thựa thấy mình yếu quá. Thựa muốn
có một bờ vai để tựa vào.
Reng reng reng. Chuông điện thoại reo.
“Chào cậu, khoẻ không?” Đứa bạn gái
cùng lớp hỏi thăm.
“Cũng bình thường. Còn cậu thế nào? Có
gì không Toát?”
“À, nếu cậu rảnh tối nay thì rủ cậu đi
dạy học cho các trẻ em mù chữ.”
Trời, tưởng nó rủ đi ăn chè chứ. Mừng
hụt!
“Đi dạy học? Tớ đâu có khiếu sư phạm
đâu!” Thựa ngại ngùng thoái thác.
“Đừng lo. Cách đây mấy tuần tớ cũng
nghĩ y chang như cậu. Nhưng bây giờ thấy quen và thoải mái
rồi. Khi đến với các em, mình chợt nhận ra mình có rất nhiều
để cho đi. Hồi trước, như cậu biết đó, tớ hay tự ti mặc cảm,
cô đơn buồn chán và muốn tìm ai đó để nương tựa mà quên mất
rằng bản thân mình cũng có nhiều điểm mạnh độc đáo.”
“Ái chà, không gặp có một thời gian
ngắn mà triết lý dữ à nha!”
“Hì hì hì…. Cảm ơn cậu quá khen! Nhưng
tớ chợt nhận ra rằng đã đến lúc mình cần thoát khỏi việc dựa
quá nhiều vào người khác vì thật ra mình đã có đủ kiến thức
và kinh nghiệm để đứng trên đôi chân của chính mình, phải
không Thựa? Tớ phát hiện ra một cách tốt để giải toả buồn
chán: đó là mình trở thành một bờ vai cho người khác dựa chứ
không như hồi trước cứ đi tìm một bờ vai để dựa. Lúc đó, như
một phép màu, mình thấy bản thân tự nhiên mạnh mẽ hẳn lên.”
“Này chị, kỳ này sao không thấy ông xã
của chị điều khiển ca đoàn giáo xứ nữa? Bao năm nay, nhờ anh
ấy mà bầu khí Thánh Lễ sốt sắng vui tươi. Chúng tôi rất mến
mộ tài năng và sự dấn thân quảng đại của anh. Hay là có ai
làm cho chồng chị giận rồi bỏ vị trí này?”
“Dạ không, anh ấy đâu có giận ai. Anh
vẫn rất vui vẻ mà.”
“Nhưng tôi thấy cái anh ca trưởng mới
tuổi đời còn trẻ. Mấy bài hát đơn giản đôi khi còn vấp chỗ
này chỗ nọ.”
“Làm ca trưởng để phục vụ Thánh Lễ luôn
là niềm đam mê của chồng tôi từ hồi chúng tôi chưa cưới. Tôi
biết chắc rằng việc từ bỏ đam mê này là một việc khó khăn
đối với anh. Tôi cũng hỏi anh tại sao lại không tiếp tục làm
ca trưởng nữa thì anh trả lời: “Phục vụ tha nhân có nhiều
cách em ạ. Để cho người khác có cơ hội thể hiện tài năng
Chúa ban cũng là một cách phục vụ ý nghĩa lắm đấy chứ. Đã
đến lúc anh cần làm điều khó hơn này….” Bây giờ anh vui vẻ
ngồi hát chung với các anh chị em ca viên khác. Thỉnh thoảng
tôi vẫn thấy anh rủ em ca trưởng mới đi uống cà phê. Thấy
tôi có vẻ thắc mắc về việc này, anh ấy giải thích là đi để
cùng chia sẻ kinh nghiệm trong nghề với nhau. Anh em ngồi
tâm sự riêng với nhau thì tiện hơn là góp ý trước mặt đám
đông.”
“Chuyện gì xảy ra vậy con?”
“Thưa bác, con đã cố gắng làm tốt bổn
phận mà sao nhiều người cứ vẫn trách móc con. Con đã ráng
hết sức rồi mà họ vẫn chẳng hài lòng. Con đuối quá bác ơi!
Cứ bị hiểu lầm hoài à. Hu hu hu….”
“Này con, bình tĩnh nghe bác nói. Vì
hôm nay bác bận nhiều việc nên bác nói vắn tắt với con một
vài điều đơn sơ sau đây. Có thể con sẽ bị sốc nhưng bác cũng
vẫn nói. Thứ nhất, chuyện hiểu lầm là chuyện vẫn xảy ra hằng
ngày. Tại sao? Có nhiều lý do. Ví dụ: tầm nhìn con người có
lắm giới hạn; người ta lại có khuynh hướng phán đoán khá
nhanh dựa vào bề ngoài. Đó là chưa nói đến khía cạnh tâm lý
gọi là “cơ chế tự vệ” bên trong người ta. Con thử quan sát
một chút thì sẽ nhận ra hiện tượng một người tỏ ra rất mạnh
mẽ bên ngoài nhưng bên trong lại khá yếu đuối. Người ta
thường có những nỗi sợ bên trong mà bản thân họ không đủ can
đảm để đối diện nên một cách vô thức họ phóng chiếu ra bên
ngoài lên người khác. Nói cách khác, họ dùng cái mạnh (bạo
lực) bên ngoài để cân bằng cái yếu bên trong. Điều này cũng
thông thường thôi con. Chẳng có gì lạ dưới ánh mặt trời. Nếu
mà xét kỹ, họ đáng thương hơn đáng ghét, đáng buồn hơn đáng
trách, con à.”
“Dạ, con đang lắng nghe bác nói đây.”
“Thứ hai, cuộc đời mỗi người là để dành
cho hạnh phúc và chẳng ai sống thay người khác được. Đã đến
lúc con cần nhìn nhận thực tế rằng con sẽ không thể nào làm
vui lòng tất cả mọi người được. Mà đâu nhất thiết phải làm
vậy, phải không con? À, Thầy Giêsu nhà mình đâu có làm như
thế. Vậy mình cứ noi gương Thầy là sống yêu thương dưới sự
hướng dẫn của Lời Chúa, của lương tâm tốt lành, con nhé.
Người ta hiểu thế nào thì là chuyện của họ. Nếu cần thì bình
tĩnh giải thích sự việc. Họ hiểu ra và chấp nhận thì tốt.
Nếu không thì ta cần vững tâm, bình an mà tiếp tục làm những
điều tích cực. Thật là vô lý khi để khuôn mặt dễ thương của
mình nhăn nhó theo sự nhăn nhó của người khác, phải không
con? Thêm nữa, chuyện gì đã qua thì cho nó qua luôn. Chúng
ta phải cẩn thận đừng để quá khứ tiêu cực ám ảnh, cướp đi ân
sủng và niềm vui của giây phút hiện tại.”
“Chuyện gì mà có vẻ bực vậy bồ?”
“Nó đúng là đồ vô ơn, ăn cháo đá bát.
Lúc còn nghèo khổ, khó khăn thì gần gũi thân mật. Bây giờ
thì chẳng thấy hỏi han thăm viếng. Mình chẳng còn là cái thá
gì trong mắt nó. Biết vậy, mặc xác nó để giờ khỏi phải mệt
cái đầu.”
“Có cần phải khổ tâm quá vậy không bồ?
Mình cảm thông với tâm trạng của bồ nhưng xin cho mình hỏi
thật. Mình xin lỗi trước nếu có làm bồ bực tức thêm hay buồn
giận mình nha. Mình hỏi: Hồi trước việc bồ giúp đỡ nó xuất
phát từ động cơ nào? Để yêu thương phục vụ vô vị lợi hay để
được người ta mang ơn? Đã đến lúc bồ cần đặt thẳng vấn đề
này với bản thân để việc phục vụ của bồ không trở thành gánh
nặng trong tương lai. Thầy Giêsu đã chẳng truyền dạy một
cách rõ ràng: “Khi giúp đỡ kẻ khó khăn, đừng cho tay trái
biết việc tay phải làm”(Mt 6:3) đó sao? Nếu bồ không phiền
lòng, cho tớ nói thẳng suy nghĩ của mình: được phục vụ người
khác là một diễm phúc cho chính mình đó bồ.”
“Má ơi, đừng bỏ con lúc này! Hu hu hu….
Má ơi….” Con nức nở, cầm chặt tay má vì sợ mất má.
“Con yêu của má,” má thì thào, “cuộc
hành trình của má đã gần hoàn thành rồi. Đã đến lúc má cần
con giúp má đi phần kế tiếp của cuộc đời. Ngày nào đó, con
cũng sẽ trao nó lại cho con của con. “Sông có khúc, người có
lúc”, con à. Bình an nhé con yêu để má có thể đi bình an. Má
về với Chúa và má con ta sẽ gặp lại…. Chúa ơi, con đã sẵn
sàng. Xin phù hộ cho con của con! Amen.”
Khi Thiên Chúa tình yêu thấy đã đến lúc
bày tỏ hoàn toàn dung mạo của Người cho nhân loại trên hành
tinh này, nghĩa là “khi thời gian đến hồi viên mãn, Thiên
Chúa đã gửi Con mình tới”, sinh bởi cung lòng mẹ Maria để
cứu nhân loại khỏi tội lỗi. Thiên Chúa quá yêu thế gian,
ngay cả Con Yêu Dấu nhất của mình cũng sẵn sàng hy sinh.
(xem Ga-lát 4:4; Mát-thêu 1:21; Gioan 3:16)
… Khi ấy,
Ðức Giêsu ngước mắt lên trời và nói rằng: "Lạy Cha,
giờ đã đến! Xin Cha tôn vinh Con Cha để Con Cha tôn vinh
Cha. Thật vậy, Cha đã ban cho Người quyền trên mọi phàm nhân
là để Người ban sự sống đời đời cho tất cả những ai Cha đã
ban cho Người. Mà sự sống đời đời đó là họ nhận biết Cha,
Thiên Chúa duy nhất và chân thật, và nhận biết Ðấng Cha đã
sai đến, là Giêsu Kitô.” Giờ của Thầy Giêsu đã đến, đây
là giờ để tôn vinh Thiên Chúa trong tình yêu tự hiến cho con
người, ngay cả cho những kẻ ngu muội, ác độc. Giờ ấy, Thầy
Giêsu đã sống trọn vẹn yêu thương, ngay cả trong đau khổ tột
cùng của thập giá. Giờ ấy, Thiên Chúa đã trao hết những gì
quý giá nhất cho bạn và cho mình.
Bây giờ
là giờ của chúng ta. Ta đang có rất nhiều ân sủng của Chúa.
Người luôn ở bên ta để hỗ trợ. Vậy lúc này ta có cần làm gì
để cuộc đời mình đẹp hơn, vui hơn, ý nghĩa hơn không nhỉ?
A few years ago, before the day he met
a friend, people often heard him complaining: “It’s so
boring! I don’t know what to do.” Then they didn’t see him
for quite a while. They began to ask one another questions
about his absence. But no one knew anything. Two years
later, they saw him again in town. People, out of care and
also cusiosity, asked him:
“How are you? Where have you been?”
He replied with a smile: “Oh, I’ve been
doing lots of things.”
One of his peers teased him: “So, are
you still bored like before?”
“Yeah. I met a friend. He said I was
stupid. There were so many things that we could do for God,
for ourselves and for others. Sitting there letting boredom
occupy us is just a waste of the precious time we have in
this short life.”
Everyone was looking at him with eyes
wide opened. This guy was really different now.
“When we feel we don’t have anything to
do, we can always rest, pray, talk to God, or write a letter
to someone, get online to accompany other young people, take
part in the catechism program of the parish, read a book to
broaden our knowledge, or participate in charity works. Ah,
who knows one of our friend may be in need of consolation.
We can ask him out for a coffee so he can share his stories.
Anyway, there are a lot of things we can do. Now I have no
time for boredom. It’s time to take advantage of the
precious time in this life to do something meaningful.”
Libedepe is sitting in loneliness,
feeling empty inside. She wishes to have someone here so she
could share her burdens. She feels weak. She needs a
shoulder to rely on.
Ring ring ring. The telephone rings.
“Hello. It’s Libedepe speaking.”
“Hello. How are you?” one of her
classmates greets her.
“As normal. How about you? Anything
new, Fread?
“Ah, if you’re free this evening, go
teach the illiterate children with me.”
“Teaching? You know I don’t have
pedagogical skills!” Libedepe responded reluctantly.
“Don’t worry. I felt the same a few
weeks ago. But now I am used to the work and feel
comfortable. When being with them, I realize I have a lot to
give. As you know, I used to feel inferior, lonely, sad very
often. I wanted to find someone to lean on so much that I
forgot that I also had many great strengths.”
“Wow, you’ve changed quite a bit after
a short while huh!”
“He he he…. Thanks for the compliment!
But I realized that it was time to free myself from the need
to lean too much on someone because I actually had enough
knowledge and experience to stand on my own feet. I
discovered that one way to liberate myself from sadness or
loneliness is to become a shoulder for others to rely on,
and not to keep looking for one as before. Then it was like
a miracle, I felt strong and firm inside.”
“Hi there, why don’t I see your husband
conduct the parish choir anymore? Thanks to him, the Mass
has been great. We all admire his talents and generous
commitments. Did anyone make him upset or something?”
“No, he is not angry with anyone. He is
still very cheerful as usual.”
“But the new music minister is quite
young. He even makes mistakes with simple songs.”
“I know that being a music director in
the church has always been a passion of my husband, way back
to the time before our mariage. I am sure that giving up
this position is a great difficulty for him. I asked him
about it, he answered: “There are different ways to serve
others. Giving others to have an opportunity to manifest
their talents that God has given them is a meaningful way to
serve. It’s time for me to practice this more difficult
thing….” Now he is happy to sit and sing with other members
of the choir. Sometimes I saw him go with the new music
director to the coffee shop. Feeling I was a little curious
about this, he told me that they went there to exchange
their professional experiences. There are things that it’s
better to discuss in private than in front of many people.
“What happened to you, my niece?”
“Uncle, I’ve tried my best to carry out
my duty but people still complain. I’ve tried the best I
could but they are still not content. I’m so exhausted!
Always misunderstood…. [weeping]”
“Calm down and listen to me, my dear. I
am busy today so I will briefly tell you some simple things.
They may sound shocking to you but let me say it anyway.
First, misunderstanding is a popular thing. Why? There are
many reasons. For example, the human vision is quite
limited; and plus, human beings tend to judge quickly by the
appearance, not mention the so-called “defense mechanism”
inside each person. Observe what happens around you and you
will recognize a ‘phenomenon’ where a person can look rather
strong outside but in fact is quite weak inside. People
often have fears in them that they don’t have enough courage
to face, and so, unconsciously, they project them onto
others. In other words, they use external strengths to
balance internal weaknesses. This is also a common
phenomenon. There is nothing new under the sun. When we
think about this carefully, we may realize that they deserve
our compassion than our hatred, our sympathy than our
accusation.”
“Yes, I am listening, uncle.”
“Second, each person deserves happiness
and noone can live the life of someone else. It’s time for
you to realize that you cannot please everyone. It isn’t
necessary to do so, is it? Ah, our Master Jesus didn’t do so
either. Therefore, we may want to imitate Him by living a
life of love under the guidance of God’s word and a good
conscience. How people will interpret our loving way of life
and our good intentions is their business. If necessary, we
can calmly give them an explanation. If they understand and
accept it, it is great. If not, let’s continue to maintain
our inner peace and do good. It’s foolish that we let the
frown of someone’s face distort the beauty of our face,
right? Besides, let the past pass. We should be very careful
not to allow a negative experience of the past take away the
grace and joy of the present.
“What happened that you look so upset,
dear?”
“She is an ungrateful girl. When she
was poor and in difficulty, she was nice and sweet. Now, she
acts as if I didn’t even exist. I’m nobody. If I had known
this before, I wouldn’t even have cared.”
“Hey, should you be that upset? I
understand your feeling now, but my dear, allow me to say it
straightforward. I’m sorry if my words make you more upset.
OK, from what motive did you help her? To love and serve
unconditionally or to gain gratitude from her? It’s time
that you needed to get a clear answer for yourself so you
won’t be burdened by your unacknowledged service in the
future. Didn’t Jesus teach us clearly “when you give to
the needy, do not let your left hand know what your right
hand is doing” (Mt 6:3)? If you could bear with me,
please allow me to share my view as follows: Having an
opportunity to serve others is a blessing for ourselves, my
dear!
“Mom, don’t leave me now! Mom…” the
daughter is weeping heartily, holding her mother’s hand.
“My dear child,” the mother whispers
softly, “my journey is about to finish. It’s time for me to
need you to help walk the next part of the road. One day,
you will also need to hand it on to your children. “Every
day is not Saturday”, my dear. Be at peace so I can go in
peace. I am returning to God and we will see each other
again…. My God, I am ready. Please take care of my child!
Amen.”
When the loving God judged it to be the
right moment to totally reveal Himself to human beings in
this plannet, meaning “when the fullness of the time
came, God sent forth His Son,” born of Mary, to save
them from sin. “God so loved the world” that God
sacrificed even His Only Beloved Son. (see Galatians 4:4;
Matthiew 1:21; John 3:16)
… At that
time, Jesus looked toward heaven and prayed:
“Father, the time has come.
Glorify your Son, that your Son may glorify you.
For you granted him authority over all people that he might
give eternal life to all those you have given him. Now this
is eternal life: that they may know you, the only true God,
and Jesus Christ, whom you have sent.” (John 17:1-3)
The time of Jesus came, the moment to glorify God in His
love for human beings, even for the ignorant and the evil.
Jesus lived that moment of love to the full, even in the
worst suffering of the cross. That moment, God gave His very
best to you and me so that we can flourish.
Now is
our time.
We have lots of God’s grace in us. God is always there to
help. Then do we need to do something to make our life more
beautiful, joyful and meaningful?
|
VỀ MỤC LỤC |
|
CHA GIÁM TỈNH DCCT MỪNG LỄ THÁNH
TỔ AN PHONG
|
VRNs (01.08.2011) -
Sài Gòn - Lễ Thánh An
Phong năm 2011
Kính
thưa anh em,
Xin
gởi đến anh em những lời chào chúc huynh đệ trong ngày
chúng ta mừng lễ Thánh Tổ Phụ An Phong. Xin Chúa ban
nhiều ơn lành xuống trên anh em, trên các công việc tông
đồ của anh em, để anh em mang ơn cứu độ chứa chan đến
cho mọi người.
Anh
em thân mến, nhắc đến người Cha chung, Thánh An Phong,
chúng ta ý thức rằng chính ngài đã qui tụ chúng ta thành
một gia đình. Chất kết dính chúng ta với nhau là tình
huynh đệ, chính tình huynh đệ này mới là dấu chỉ làm
chứng cho sứ vụ của chúng ta. Không yêu thương nhau,
chúng ta lao nhọc chỉ tốn công vô ích.
Từ
ngày khai sinh ra Tỉnh Dòng, thừa hưởng nền giáo dục của
các thừa sai, các thế hệ cha anh, chúng ta đã sống khá
trọn vẹn cách sống “tình gia thất”. Bước vào nhà Dòng,
chúng ta là anh em ruột thịt của nhau, lấy tình thương
làm dây liên kết, lấy nhà Dòng làm gia đình, cùng nhau
chung vai sát cánh xây dựng Tỉnh Dòng. Tám mươi sáu năm
trôi qua, kể từ ngày hiện diện trên đất nước này, cha
anh chúng ta đã để lại nhiều hương thơm thánh thiện,
trang điểm cho dáng đẹp mỹ miều của Mẹ Nhà Dòng. Cho đến
nay, đi đâu chúng ta cũng nhận ra và nghe được nhiều lời
ca tụng.
Tôi
có một thời gian dài sống ở Mai Thôn, bên cạnh các Thầy
lớn tuổi. Một trong những điều tôi học được nơi các Thầy
là lòng yêu mến nhà Dòng. Bất cứ làm điều gì, nói điều
gì, câu hỏi luôn được đặt ra “Điều đó có ích cho nhà
Dòng không?”. Với những nhiệt thành thời non trẻ, đôi
khi tôi đã cảm thấy không hài lòng về những sắp xếp như
vậy của các Thầy, nhưng bình tâm suy nghĩ, tôi thấy là
hợp lý đối với một người con trong gia đình nhà Dòng.
Dẫu có phải từ bỏ ý riêng hoặc gây ra chút muộn phiền
cho mình, không yêu mến nhà Dòng, không biết hy sinh cho
nhà Dòng, chúng ta không thể tồn tại như một tu sĩ Dòng
Chúa Cứu Thế.
Hình
ảnh trong Tin Mừng của Chúa Giêsu cung cấp cho chúng ta
một sự thật. Sứ vụ được thực
hiện là sứ vụ của Hội Thánh, người thi hành sứ vụ là thi
hành trong sự liên kết với anh em. Vì thế,
không có sự thành công do năng lực cá nhân. Thật là ảo
tưởng và sai lầm khi ngỡ tưởng mình thành công do tài
năng của riêng mình, bỏ quên những đóng góp và đồng hành
của anh em. Người tu sĩ Dòng Chúa Cứu Thế thi hành sứ vụ
theo lời sai đi của cộng đoàn và thực hiện sứ vụ trong
sự liên kết với anh em.
Anh
em thân mến,
Nhân
ngày “giỗ tổ” chúng ta nói chuyện “gia đình” để nhắc nhớ
nhau về tình huynh đệ, về tinh thần gia thất, về sứ mạng
cứu thế. Nhắc lại những điều này để chúng ta củng cố lẫn
nhau, dắt dìu nhau đi trọn con đường đã được chọn. Không
còn con đường nào khác dẫn ta đến hạnh phúc đời tu nếu
chúng ta không sống tình gia thất. Tôi tin tưởng rằng,
Thánh An Phong, Đấng đã qui tụ chúng ta thành gia đình,
ngài sẽ khẩn cầu trước nhan Chúa cho sự hiệp nhất và yêu
thương của chúng ta. Tôi tin tưởng rằng, với tất cả lòng
chân thành, chúng ta chạy đến với Đức Trinh Nữ Maria Mẹ
Hằng Cứu Giúp, Mẹ không bao giờ bỏ rơi chúng ta khi
chúng ta kêu cầu cùng Mẹ.
Một
lần nữa xin chúc lễ anh em và phó thác anh em trong bàn
tay yêu thương của Thiên Chúa.
Trong
Đức Kitô Cứu Thế.
Lm. Vinh Sơn Phạm Trung
Thành, dcct.
Giám Tỉnh
|
VỀ MỤC LỤC |
|
Chiếc bánh thứ tư:
Sức
mạnh độc nhất của tôi: Phép Thánh Thể |
Quanh bàn tiệc
Thánh Thể được thực hiện và được tỏ bày sự hiệp nhất hài hòa của
Hội Thánh, mầu nhiệm hiệp thông truyền giáo, trong đó mọi người
nhận thấy mình là con Chúa và là anh chị em trong một đại gia
đình.
(Gioan Phaolô II, Sứ
điệp NQTGT XII, số 7)
“Trong tù cha có dâng
lễ được không?”, đó là câu hỏi mà bao nhiêu lần nhiều người đã
hỏi tôi. Và thực sự họ có lý, vì Thánh Thể là kinh nguyện đẹp
nhất, là đỉnh cao của cuộc đời Chúa Giêsu. Mỗi khi tôi trả lời
“có”, thì tôi đã biết ngay câu hỏi tiếp sau: “Làm sao cha kiếm
ra rượu lễ, bánh lễ?”
Lúc tôi bị bắt, tôi
phải đi ngay và đi tay không. Hôm sau tôi được phép viết về nhà
để xin đồ cần dùng nhất như áo quần, kem đánh răng, v.v... Hàng
đầu tiên, tôi viết: “Xin gửi cho tôi ít rượu thuốc trị bịnh
đường ruột”. Bên ngoài, giáo dân hiểu ngay. Hôm sau, ông
trưởng ban chấp pháp cầm đến một ve nhỏ bên ngoài có dán giấy đề
chữ “thuốc trị bịnh đường ruột” và bánh lễ xé nhỏ bỏ trong một
cái lọ chống ẩm, ông ta hỏi:
- Ông có bị bịnh đường
ruột không?
- Có.
- Đây là thuốc bên
ngoài gửi vào cho ông!
Không bao giờ tôi vui
bằng hôm đó: từ đấy mỗi ngày với ba giọt rượu và một giọt nước
trong lòng bàn tay, tôi dâng thánh lễ.
Tuy nhiên cách dâng lễ
mỗi nơi mỗi khác. Dưới hầm tàu thủy chở tôi ra miền Bắc, ban
đêm tôi ngồi giữa mấy bạn tù, bàn thờ là túi cói đựng đồ, dâng
lễ thánh Phanxicô quan thầy của tôi và cho các bạn chịu lễ. Lúc
ở trại Vĩnh Quang tôi phải dâng lễ trong góc cửa ban sáng lúc
người ta đi tắm sau giờ thể dục. Lúc đã quen với thời khóa biểu
của trại, tôi dâng lễ ban đêm, vì chúng tôi được chia thành từng
đội 50 người, ngủ chung trên một láng gỗ, mỗi người được 50 cm,
đầu đụng nhau, chân quay ra ngoài. Chúng tôi đã tự thu xếp để
năm anh em Công giáo nằm quanh tôi. Đến 9 giờ rưỡi đêm, nghe
tiếng kẻng là tắt đèn và mọi người phải nằm trong mùng muỗi cá
nhân; tôi ngồi cúi sát xuống để dâng lễ thuộc lòng. Tôi đưa tay
dưới mùng để chuyển Mình Thánh cho anh em chịu lễ. Chúng tôi
nhặt giấy nylon bọc bao thuốc hút để làm những túi nhỏ đựng Mình
Thánh. Như thế Chúa Giêsu luôn ở giữa chúng tôi.
Chúng tôi tin một sức mạnh: Thánh
Thể. Thịt Máu Chúa làm cho chúng tôi sống, “Ta đã đến là để
chúng được có sự sống, và có một cách dồi dào” (Ga
10, 10). Như manna nuôi dân Do Thái đi đường về Đất hứa, Thánh
Thể sẽ nuôi con đi cùng đường Hy vọng (Ga 6, 53).
Mỗi tuần,sáng thứ Sáu
có một buổi học tập, tất cả 250 anh em phải tham dự. Đến lúc xả
hơi, các bạn Công giáo thừa dịp đó mang các túi nylon đựng Mình
Thánh đến chia cho bốn đội kia, mỗi người thay nhau mang trong
túi áo một ngày.
Ai cũng biết có Chúa
Giêsu Thánh Thể đang ở giữa trại tù với họ. Chính Ngài an ủi,
xoa dịu những khổ đau thể xác và tinh thần; chính Ngài thêm can
đảm chịu đựng cho họ. Ban đêm, họ thay phiên nhau làm giờ
thánh. Sự hiện diện thinh lặng của phép Thánh Thể biến đổi họ
cách lạ lùng. Nhiều người Công giáo trở lại sống đạo đức hơn;
nhiều anh em không Công giáo, Phật giáo tìm hiểu Phúc âm và lãnh
phép Thánh tẩy trong trại cải tạo, hoặc sau lúc được tự do.
Không có gì cưỡng lại được tình yêu Chúa Giêsu. Đêm tối của
ngục tù trở thành ánh sáng, hạt giống đã đâm chồi dưới đất đang
lúc trời giông tố phong ba. Những ơn trọng này do Chúa Giêsu
Thánh Thể chứ không phải do sức loài người.
Trong chín năm biệt
giam, tôi dâng lễ một mình lúc 3 giờ chiều, giờ Chúa Giêsu hấp
hối trên Thánh giá. Tôi ở một mình nên có thể hát tiếng Latinh,
tiếng Việt, tiếng Pháp... Tôi luôn mang Mình Thánh trong mình
“như Cha ở trong con và con ở trong Cha”.
Đó là những thánh lễ
đẹp nhất của đời tôi. Kinh Lauda Sion, Pange Lingua, Adoro Te,
Te Deum và nhiều kinh Việt ngữ, mặc cho tiếng loa trước cửa từ 5
giờ sáng đến 11 giờ rưỡi đêm. Tôi cảm nghiệm cách đặc biệt một
sự bình an, một niềm vui trong tâm hồn vì Chúa Giêsu, Đức Mẹ và
thánh Giuse ở với tôi. Tôi hát Salve Regina, Salve Mater,
Regina Coeli, v.v... hiệp với toàn thể Hội thánh. Mặc cho
Hội thánh bị vu cáo, chống đối, tôi hát “Này con là đá... Ta
hãy nguyện xin cho Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô”...
Chúa Giêsu đã nuôi
dưỡng dân chúng theo Người trên sa mạc; trong phép Thánh Thể
Chúa Giêsu tiếp tục làm của ăn ban sự sống muôn đời.
Mỗi lúc dâng lễ, đọc
lời truyền phép, với tất cả tâm hồn, tôi làm lại lời “giao ước
mới, giao ước vĩnh cửu” với Chúa Giêsu. Không phải để sống an
nhàn, nhưng để bắt đầu một cuộc cách mạng, đổi mới nhân loại,
được máu Chúa cứu chuộc, sống xứng đáng phẩm giá con Thiên Chúa,
trong văn hóa của tình thương và sự sống.
Trong Thánh Thể chúng
tôi loan truyền sự chết của Chúa Giêsu và tuyên xưng sự sống lại
của Ngài. Có lúc buồn nản vô cùng, tôi nhìn lên Chúa Giêsu chịu
đóng đinh và bị bỏ rơi trên Thánh giá: Ngài không giảng dạy,
thăm viếng, chữa lành bệnh tật; Ngài hoàn toàn bất động. Đối
với con mắt loài người, cuộc đời Chúa Giêsu là vô ích, là thất
bại. Nhưng đối với đôi mắt Thiên Chúa, chính giây phút ấy lại
là giây phút quan trọng nhất của đời Ngài, vì trên Thánh giá
Ngài đã đổ máu mình để cứu chuộc nhân loại.
Chúa Giêsu là mẫu
gương của tình yêu tuyệt đối với Đức Chúa Cha và các linh hồn.
Ngài đã cho tất cả, yêu thương đến cùng (Ga 13, 1), cho đến lúc
trút hơi thở cuối cùng và nói lên tiếng “hoàn tất” (Ga 19, 30).
Khi nhìn thấy đoàn lũ
theo Ngài, Ngài nói: “Tôi thương xót dân này” (Mt 15, 32).
Ngài đã làm phép lạ cho bánh và cá hóa nhiều để nuôi họ. Đây là
dấu hiệu loan báo phép Thánh Thể mà Ngài sẽ thiết lập về sau.
Các bạn trẻ thân mến,
Mời các bạn nghe lời
Đức Thánh Cha:
Chúa Giêsu sống
giữa chúng ta, trong phép Thánh lễ; giữa những sự bất trắc,
những hoang mang trong cuộc đời mỗi ngày, các bạn hãy noi gương
hai môn đệ trên đường về Emmau... Hãy cầu xin Chúa Giêsu, để dọc
các nẻo đường về bao nhiêu xóm nhỏ Emmau của thời đại ta, Ngài ở
lại với các bạn. Ngài phải là sức mạnh của các bạn, là trung
tâm của các bạn, là hy vọng trường cửu của các bạn.
(Gioan Phaolô II, Sứ
điệp NQTGT XII, số 7)
Cầu Nguyện
Trong giây phút này,
Chúa Giêsu tiếp tục
Thánh Lễ.
Lạy Chúa Giêsu,
Chúa tiếp tục
Thánh Lễ
mỗi giây phút
cho đến tận thế.
Chúa sử dụng tay
của linh mục
trong phép
Thánh Thể khắp địa cầu
cách huyền
nhiệm mà thực tại.
Con dâng Thánh Lễ
đúng qui thức phụng vụ không đủ.
Ngày xưa Chúa không
theo qui luật phụng vụ ngày nay.
Nhưng Chúa dâng lễ
với những tâm tình sốt sắng nhất,
những tâm tình
trong giờ tử nạn,
nhất là trên
Thánh giá.
Đau khổ thể xác,
nhất là đau khổ tinh thần.
Yêu mến vâng phục
Chúa Cha cho đến chết,
chết sỉ nhục
trên Thánh giá,
hình phạt dành
cho nô lệ.
Chúa chịu mọi người
ruồng bỏ
kể cả Chúa
Cha: “Lạy Cha, sao Cha bỏ con!”
Xin cho chúng con
dâng lễ như Chúa.
Nếu chúng con không
dâng chính mình,
làm hy lễ toàn
thiêu;
Nếu cuộc đời chúng
con không chịu đói, chịu khát,
chịu sỉ nhục,
chịu nhổ, chịu vả vào mặt,
chịu đội mão
gai, chịu vác thánh giá,
chịu đánh đòn,
chịu trói, chịu ngã quỵ,
chịu đóng
đinh, chịu chết, chôn trong mồ người khác;
thì con phải
xét mình, phải sám hối, hoán cải;
phải biến
chuyển, lột xác;
vì con chưa tế
lễ như Chúa.
Nếu con
còn lo sợ,
con
kiếm cách tránh né thân phận Chúa,
thì
dù con có theo nghi thức nào có long trọng đến đâu
con
cũng không tế lễ với tâm tình Chúa.
PX. Nguyễn Văn Thuận
|
VỀ MỤC LỤC |
|
NGỤ NGÔN THỜI BẤN LOẠN (KỲ 28)
|
Ngụ ngôn 86
Dây điện
thoại nói với dây điện đèn: “Anh chỉ âm thầm tải điện, có nghe
ai nói gì đâu! Người ta chê anh, anh cũng chẳng biết. Còn tôi,
tôi nghe biết bao nhiêu chuyện của con người. Ai mà phê bình,
góp ý gì là tôi chặn ngay”.
Dây điện đèn
bảo: “Này anh, bây giờ người ta dùng điện thoại di động, họ
quăng anh đi từ từ vì anh nghe lóm nhiều chuyện quá. Đi đâu anh
cũng cứ như con cú vọ, lấm lét nhìn người này người nọ, làm như
sợ họ nói hết sự thật. Vài năm nữa anh sẽ thành phế liệu thôi.
Còn tôi đây, chẳng tò mò tọc mạch, chỉ lo thắp sáng cho đời nên
ai cũng cần dùng hoài”.
Ngụ ngôn 87
Rừng Nam bỗng
xôn xao vì một chú chim bồ câu bị cấm bay ra khỏi khu rừng, còn
một chú khác đã bay ra thung lũng, bây giờ lại bị cấm bay về
rừng.
Chim én là
trưởng ban truyền thông đến hỏi thẳng chúa sơn lâm tại sao có
điều bất công ấy. Chúa sơn lâm liếc xéo không trả lời. Loài cọp
ấy có quyền mà, muốn nói thì nói, muốn im thì im.
Buổi chiều
mấy lão nai vàng chống gậy đến thăm tổ én. Các cụ nai bảo:
- Các anh bồ
câu rõ ngây thơ. Người ta bảo cứ nói công lý, lẽ ra nên im. Bay
ra thung lũng mà ca hát thì bị cấm bay về là đúng rồi, lỡ về
rừng rồi còn hát bài ca thung lũng thì sao hợp với rừng. Còn ở
trong rừng mà hát bài ca về thung lũng thì dĩ nhiên không được
bay ra, ra ngoài ấy nói chuyện rừng thì thung lũng nó cười cho
ấy à?
Én nghe dài
dòng như vậy cũng chẳng hiểu được bao nhiêu. Nhưng khi én kể lại
với bồ câu, bồ câu thở dài:
- Im lặng là
vàng. Nhưng một khu rừng mà muôn loài đều câm cả thì im lặng lại
chỉ là lá vàng úa rụng thôi.
Ngụ ngôn 88
Khỉ mở lớp
dạy học. Khỉ hỏi học trò:
- Nói mà
không làm, nói một đường làm một nẻo, nói thẳng mà làm quanh,
cái nào có lợi nhất?
Học trò im
lặng. Bỗng một cánh tay đưa lên. Khỉ bảo nói. Cánh tay ấy vẫn
đưa lên nhưng không trả lời. Khỉ giận dữ quát lớn: “Nói”.
Đứa học trò
giơ tay ấy cười:
- Thưa thầy,
những kiểu nói như thầy là xưa rồi, bây giờ kiểu hay nhất là cứ
giơ tay mà không nói, ấy mới là thông minh!
Gioan LêQuangVinh VRNs |
VỀ MỤC LỤC |
|
CĂN TÍNH VÀ PHẬN VỤ NGƯỜI TÍN HỮU
GIÁO DÂN TRONG GIÁO HỘI VÀ GIỮA TRẦN THẾ (KỲ CUỐI).
|
NGUYỄN HỌC TẬP
IV- Thực
hiện sứ mạng cứu độ và giải thoát của Giáo Hội giữa trần thế.
Giáo Hội tính và đặc tính trần thế
ảnh
hưởng đến đời sống người tín hữu giáo dân cả trong những lúc họ
đứng ra cộng tác, với những đặc tính cá biệt của họ, vào việc
thực hiện sứ mạng cứu độ và giải thoát của Giáo Hội giữa trần
thế.
Để có thể hiểu được một cách rõ rệt đặc tính cá
biệt trong việc loan báo Phúc Âm của người tín hữu giáo dân,
trong mỗi lãnh vực động tác con người, chúng ta cần lưu ý đến
một vài thái độ dưới ánh sáng Công Đồng Vatican II, phải hướng
dẫn Giáo Hội và hướng dẫn người tín hữu giáo dân trong Giáo Hội
và cùng với Giáo Hội trong việc thực hiện.
Người tín hữu giáo dân thực hiện sứ mạng trong
các lãnh vực phức tạp của các động tác con người, nơi mà các
tiêu chuẩn nhiều loại động tác khác nhau, có thể dễ dàng ành
hưởng đến và làm lu mờ đi những gì phải là những tiêu chuẩn phải
hướng dẫn sứ mạng của Giáo Hội.
- Sứ mạng rao giảng Phúc Âm loại trừ mọi
hình thức của hiệu năng chủ thuyết, là chủ thuyết tự bản thể
của mình, có khuynh hướng đặt lê thuộc vào hoạt động chủ
nghĩa tự do lương tâm của con người mà sứ mạng gặp được và
mặc nhiên hay minh nhiên chứng nhân cho họ biết Chúa Ki Tô là
Đấng cứu độ và giải thoát con người.
Hiệu năng chủ nghĩa
có
thể biến con người thành dụng cụ và biện minh hoá cho bất cứ
phương tiện nào : " Mục đích biện minh cho hành động " (
Macchiavelli ).
- Sứ mạng của Giáo Hội cũng không có đặc tính
đắc thắng chủ nghĩa ( triomphamlisme).
Người tín hữu giáo dân biết rằng, theo lời hứa,
vào thời cánh chung, Chúa Ki Tô sẽ chiến thắng khải hoàn.
Nhưng họ vẫn biết rằng Giáo Hội hiện đại là
Giáo Hội đang lữ hành, chỉ có thể trình diện mình trước thế
gian như là Giáo Hội thánh thiện và cần phải hối cải. Và như
vậy, chính người tín hữu giáo dân, mặc dầu có được chân lý về
Chúa Ki Tô, cũng phải cần hiểu biết được và hội nhập vào các
thực thể trần thế như và cùng chung với những người khác.
Chúa Ki Tô chết và sống lại là Chúa Ki Tô khải
hoàn, không phải bằng các cơ chế bên ngoài và quyền lực của con
người, mà là trong nội tâm của mỗi con người và của cả nhân
loại.
Cuộc khải hoàn của người tín hữu Chúa Ki Tô
không phải là khải hoàn của lòng nhiệt thành, hân hoan phấn khởi
chiếm hữu được tức khắc.
Loan báo Phúc Âm
- là đề nghị hối cải và cứu độ,
- là sức mạnh nôi tâm lôi cuốn và dần dần làm
cho lương tâm được mở ra cho mầu nhiệm Thiên Chúa, Chúa Ki Tô và
Giáo Hội.
Người tín hữu giáo dân, trong các điều kiện
thông thường của cuộc sống và trong các biến cố thường nhật,
loan báo và nhân chứng lời đề nghị sám hối và cứu độ đó, bằng
cách hoà hợp các cố gắng của con người trong một cuộc tổng hợp
với các giá trị tôn giáo.
Điều quan trọng
- không phải là khả năng thuyết phục chiếm
hữu được,
- cho bằng sự khả tín của việc tổng hợp sống
động các thực tại vừa kể,
- không phải chỉ là hành động một lần mà là
được thể hiện ra trong các bối cảnh trong đó người tín hữu giáo
dân đang sống,
- không phải là để cho mình bị thuyết phục
rơi vào thái độ tổng hợp sáp nhập không suy tính (
sincretismo), hội nhập mọi chủ thuyết chung nhau không cần
phân biệt sai trái,
- cũng không phải là thái độ nhân nhượng (
compromissione ) đến nỗi không còn biết gì đến đặc tính
chính đáng của chính mình,
- nhưng cách thực hiện sứ mạng truyền giáo
của người tín hữu giáo dân không thể không dùng đến phương thức
đối thoại.
Công Đồng Vatican II đã khuyến khích thái độ
đối thoại đó trong việc loan báo Phúc Âm, qua các cuộc đối
thoại
- hiệp nhứt Ki Tô
giáo (Unitatis reintegratio, n. 4)
- liên tôn ( Nostra aetate),
- trong các cuộc truyền giáo ( Ad gentes),
- cả với những người không tin ( Gaudium et spes, n. 21).
Đức Thánh Cha Phaolồ VI đã giải thích sâu đậm hơn trong Thông
Điệp Ecclesiam suam của ngài.
Và Đức Thánh Cha Gioan Phaolồ II, trong Thông Điệp
Reconcilatio et Penitentia.
Đối thoại
- như là cuộc gặp gỡ giữa con người với con người,
- là phương tiện ưu tiên để trình bày cho con người hiện đại
chân lý mà trong đó với xác tín và trách nhiệm mình tin vào,
- là cách thức thực tế để cộng tác trên phương diện hành động
trong tiến trình thế tục hoá ngày nay và trong thế giới đa dạng
về luân lý văn hóa, xã hội và chính trị.
Nói tóm lại, đối thoại là con đường cần phải đi qua để chu toàn
sứ mạng của Giáo Hội.
Nhưng dĩ nhiên đối thoại đòi buộc phải có
- lương tâm biết đâu là chân lý,
- được giáo dục để suy luận và phán đoán, hành xử phân định
mục vụ và đời sống thiêng liêng. .
Liên hệ bao gồm cả các động tác và lãnh vực đó, cần phải biết
đưa ra một cách rõ ràng thế nào là căn tính Ki Tô giáo.
Căn tính đó, một khi được xác định, cần phải được đặt trong mối
liên hệ với các thực tại trần thế. Việc đặt trong mối tương giao
liên hệ đó,
- một đàng đòi buộc phải có sự hiểu biết và xác tín sâu xa về
đức tin của mình ( nhờ vào Lời Chúa và huấn dụ của Giáo Hội),
- đàng khác cần có sự học hỏi hiểu biết của con người đối với
những gì mới mẻ và có thể chấp nhận được đối với những vấn đề
nội tâm. đó là ý chí muốn thực hiện tốt đẹp, hấp thụ một cách
khôn ngoan, hành động cẩn thận và can đảm với một lương tâm ngay
chính.
Tâm thức vừa kể được Đức Thánh Cha Gioan Phaolồ II cho biết hãy
- " khám phá ra và làm cho người khác khám phá ra phẩm giá
bất khả xâm phạm của mỗi con người...đó là bổn phận chính yếu và
quy tựu sự phục vụ mà Giáo Hội và, trong Giáo Hội, các tín hữu
giáo dân được mời gọi hãy cung hiến cho gia đình nhân loại " (
Christifideles laici, n. 7).
Phẩm giá con người được Lời Huấn Dạy của Giáo Hội xác nhận
- " là tài sản qúy giá nhứt mà con người có được ",
bởi vì chính phẩm giá con người là
- " nền tảng của quyền bình đẳng của tất cả mọi người đối
với nhau " và " cũng là nền tảng của việc cộng tác và liên đới
hỗ tưong; thật vậy, đối thoại và thông hiệp nhau, nói cho cùng,
đều được đặt nền tảng trên những gì là thực thể của con người,
trước khi trên những gì con ngườ có khả năng có được " (
Christifideles laici, n. 37).
Những lời nói khởi đầu của Hiến Chế Gaudium et spes còn xác định
rõ hơn nữa:
- " Các niềm vui mừng và hy vọng, các nỗi phiền nảo và âu
lo của con người ngay nay, nhứt là của những ai nghèo khó và
những ai chiu đau khổ, cũng là những niềm vui mừng, hy vọng,
phiền nảo và âu lo của các môn đệ Chúa Ki Tô " ( Gaudium et
spes, n. 1).
Như vậy Công Đồng Vatican II đã xoá bỏ đi mọi sự nghi ngờ, không
có một hoàn cảnh nào nhân loại - những gì thuộc về nhân loại -
mà không phải được xem xét , đánh giá và phát huy bởi các tín
hữu Chúa Ki Tô như là " sứ mạng " của họ phải làm.
Công Đồng Vatican II xác quyết người tín hữu giáo dân
- phải phát huy phẩm giá con người là một điều đòi buộc có
ý nghĩa thần học, nghĩa là điều hành động tác phải có liện
hệ mật thiết với đức tin mà mình phải đón nhận và nhân chứng,
- chớ không phải chỉ là động tác lựa chọn liên quan đến tình
liên đới hỗ tương.
Như vậy, người tín hữu giáo dân phải là người giúp cho con người
khám phá ra phẩm giá của chính mình,
- trước tiên như là " tạo vật " ( tức là như là con
người mở rộng mình ra hướng về Đấng Tối Cao và chính nhờ thái độ
mở rộng đó, con người khám phá ra căn tính đích thực của mình);
- và kế đến như là " tạo vật được dựng nên giống hình ảnh
Thiên Chúa và giống như Thiên Chúa " ( tức là con người có
trong lương tâm của mình, là định điểm và khuynh hướng quan
trọng nhứt trong việc mình tìm kiếm Thiên Chúa ).
Đối với phương diện thứ hai vừa kể, có lẽ công cuộc chuyên cần
dấn thân của người tín hữu giáo dân trong việc kến tạo lương
tâm cho mình và cho người khác là phận vụ quan trọng nhứt đối
với thế giới, bởi lẽ nhờ công cuộc kiến tạo nầy, người tín
hữu giáo dân dâng hiến môt sự cộng tác nền tảng làm cho con
người trở nên vững chắc và tự do hơn, khiến cho con người có khả
năng kiến tạo lấy mình thích hợp với phẩm giá hình ảnh và giống
như Thiên Chúa.
Một khi được thăng tiến như vậy, con người được giải thoát khỏi
tình trạng bất ổn cản trở mình có được thanh thoảng, để có được
những chọn lựa can đảm, như những gì Công Đồng Vatican II nói:
- " Con người khám phá ra trong lương tâm của mình, một
đạo luật mà không phải chính mình tạo ra cho mình, nhưng mình
phải tuân theo đạo luật đó và tuân theo tiếng gọi đó, kêu gọi
mình phải luôn luôn yêu thương và làm điều thiện, xa lánh điều
ác , khi cần đạo luật đó nói với lỗ tai của con tim: hãy làm
điều nầy, xa lánh điều kia " ( Gaudium et spes, n. 16).
Phục vụ con người theo phương thức đó, người tín hữu giáo dân
- hướng dẫn con người đến gặp gỡ Thiên Chúa đang được ẩn
giấu ( Deus absconditus),
- nhưng là Thiên Chúa đang tác động và hiệu lực.
Lắng nghe Người, con người dĩ nhiên sẽ gặp được, bằng cách lắng
nghe tiếng nói của lương tâm, lời mời gọi của Người hãy yêu
thương Chúa và yêu thương người thân cận.
Đồng thời, người tín hữu giáo dân dấn thân trong lãnh vực nầy,
để đào tạo lương tâm một cách thanh thoảng và bền chí, sẽ là
dụng cụ giúp cho cá nhân hay cộng đồng luôn luôn tránh được các
quan niệm ý kiến tự do tùy hỷ và có được lương tâm chính đáng
hợp với các lề luật khách thể của luân lý.
V - Kiến tạo một cuộc
hành trình thiêng liêng thích ứng.
Thánh hoá chính mình và thánh hoá trần thế, trong lòng Giáo Hội
tính và giữa tính trần thế, không phải là một chuyện dễ dàng.
Bởi đó con đường của người môn đệ theo Chúa Giêsu đòi buộc người
tín hữu giáo dân
- " phải có mọt đời sống thiêng liêng thích hợp, cần thiết
khẩn cấp phải kiến tạo được một nền giáo dục sâu đậm và liên
tục, đối với người tín hữu giáo dân cũng như đối với tất cả
những người khác, Thánh Thể và Phép Cáo Giải là điều không thể
thiếu " ( ĐTC Gioan Phaolồ II, Omelia alla concelebrazione
conclusiva dell'Assemblea sinodale, 1987).
Đối với người tín hữu giáo dân cũng vậy, cuộc hành trình thiêng
liêng là con đường khởi sự từ việc chuyển hoá lương tâm bằng
những phương thức thông thường và chung của mọi người, để thánh
hoá cho tất cả mọi người. Đó là
- cầu nguyện và suy niệm Lời Chúa,
- Phép Bí Tích Cáo Giải và Thánh Thể,
- tìm có được một cuộc sông thiêng liêng thích hợp, không
phải để chối bỏ cá tính giáo dân của mình, mà để hành xử đặc
tính đó một cách có trách nhiệm.
Nhưng chưa hết. Tầm kích cá biệt đặc tính trần thế
của người tín hữu giáo dân là cuộc sống thông thường và hằng
ngày là cuộc sống gia đình, xã hội, chuyên môn và thuộc về Giáo
Hội.
Bởi đó cuộc sống thiêng liêng thích hợp đối với người tín hữu
giáo dân không thể chỉ là những gì được đươn kết bằng cuộc sống
thông thường và thường nhật.
Như vậy
- Phúc Âm được tuyên bố và nhân chứng trong cuộc sống,
- cuộc sống được thánh hoá và có được tầm kích thiêng liêng "
trong việc cử hành chân lý và công lý, và như vậy Lời Chúa
được loan báo, trở thành men bột, kích động và hy vọng ".
Động tác tông đồ " của người giống nhau cho người giống nhau
" , trong đó " nhân chứng bằng đời sống phụ túc cho nhân
chứng bằng lời nói " ( Apostolicam actuositatem, n. 13a) là
phần quyết định của con đường thiêng liêng của người tín hữu
giáo dân.
Thật ra một đường lối sống thiêng liêng thích hợp cho người tín
hữu giáo dân cần phải còn được nghiên cứu, nhứt là làm thế nào
đáp ứng được thoả đáng theo nguyên tắc phụ túc bảo trợ (
sussidiarietà ).
Như đã nói, nếu muốn trợ lực cho người tín hữu giáo dân
trong lịch sử cứu rổi, do tình trạng đang sống giữa trần thế của
họ, để họ có thể trung thành với Chúa và với người khác, cần
phải đặc tâm lưu ý khám phá ra đặc tính trung tâm điểm của
lương tâm.
Phẩm giá của họ,
- vị trí hàng đầu của họ giữa trần thế,
- căn tính cá nhân của họ, thuộc về Giáo Hội và là Giáo Hội
trong Chúa Ki Tô,
- khả năng phán đoán có liên hệ đến cách tác động,
- khả năng khai triển các việc lựa chọn luân lý để đưa đến
những thái độ phải có.
Nói một cách ngắn gọn, ánh sáng Chúa Ki Tô mà cộng đồng Ki Tô
giáo lãnh nhận và phổ biến trên thế giới, phải làm thế nào đến
được lương tâm người tín hữu Chúa Ki Tô.
Thượng Hội Đồng Giám Mục năm 1987 đã đưa ra một loạt các căn bản
và cấu trúc để kiến tạo thành cuộc hành trình giáo dục thường
trực cho người tín hữu Chúa Ki Tô;
- được giáo dục sâu đậm làm cho người tín hữu giáo dân càng
ngày càng hội nhập sâu đậm hơn và tốt đẹp hơn vào mầu nhiệm của
Chúa Ki Tô và Giáo Hội.
- được chuẩn bị giáo lý - thần học, trong nhãn quang liên hệ
với văn hoá sở tại,
- khai triển các tư tương và giá trị có khả năng hội nhập vào
lịch sử hiện đại các giá trị và ánh sáng Phúc Am, để cống hiến
cho nhân loại ý nghĩa đích thực và sâu xa, các mục đích cao cả
của luân lý,
- tạo được những thái độ cá nhân và động tác thoát xuất từ
một lương tâm được hoán chuyển bởi Lời Chúa và làm cho mình nhận
thức được tính cách cao cả, cũng như ý thức được những gíới hạn
của con người.
Còn nữa, việc chăm lo được giáo huấn về phương diện xã hội và
chính trị cũng là phần quan trọng trong công cuộc đào tạo lương
tâm người tín hữu giáo dân.
Trong chiều hướng và trong tinh thần mầu nhiệm Nhập Thể của Chúa
Ki Tô, người tín hữu giáo dân không thể không cùng đi với nhân
loại và với con người đương đang sống với mình.
Thượng Hội Đồng Giám Mục năm 1987 đã nhắc nhớ rằng
- " Bỏ rơi mặc con người trong trạng huống xã hội của mình
là tội chống lại Thiên Chúa. Dĩ nhiên Giáo Hội có những câu giải
đáp vượt qua bên kia lằn mức tạm thời, nhưng gặp gỡ con người
trong hoàn cảnh sống của họ ".
Và chúng ta có thể hiểu được " hoàn cảnh sống của họ
" vừa kể là những nơi chốn và hoàn cảnh
- bạo lực,
- thiếu thốn, đói khát,
- giặc giã,
- kỳ thị chủng tộc,
- trong gia đình,
- nơi làm việc,
- trong kinh tế,
- trong học đường,
- trong thế giới văn hoá và phương tiện truyền thông xã
hội,
- trong các cấu trúc tham gia xã hôi và trong cơ chế chính
trị.
Các hoàn cảnh nầy là những nơi, trong đó nhân loại hiện tại có
liên hệ đươn kết và các hình thức nầy, những phương thức mà qua
đó trật tự trần thế được thiết lập, đó chính là những nơi mà
người tín hữu giáo dân được kểu gọi " hãy thực hiện sự tổng
hợp giữa đức tin và đời sống ".
Nâng đỡ người tín hữu giáo dân trong cuộc chiến đấu đó, cần phải
có được một sự giáo huấn tỉ mỉ hơn nữa và tương xứng với các
trách nhiệm hiện tại và tương lai của họ.
Đây là bổn phận không phải dễ dàng, đúng hơn là rất khó thực
hiện.
Khó khăn đến nỗi không còn có cách gì hơn là kêu xin trong lời
cầu nguyện điều gì cần phải có hơn nữa, để có thể sắp xếp
các sự việc theo ý Chúa muốn, như một thánh nhân đã sai người
đến nói vơi vua Salomon, nếu nhà vua muốn cai trị đất nước tương
xứng với phâm vị của một nhà vua, xin nhà vua hãy xin Chúa ban
cho mình " đức khôn ngoan ", trong lời nguyện tuyệt vời
sau đây:
- " Từ trời, xin Chúa gởi các thánh xuống, xin hãy gởi từ
ngai vinh hiển của Chúa, để các vị trợ lực và ở bên cạnh con
trong công việc nặng nhọc của con và để cho con biết điều gì
Chúa thích " ( Ps 9, 10).
Tiến
sĩ Nguyễn Học Tập
|
VỀ MỤC LỤC |
|
SỢ HÃI – CĂN NGUYÊN CỦA
TỘI |
Bài mở đầu
Tội là gì?
Nguyên nhân của tội và hậu quả của nó ra sao? Tội có thật không
hay do sự tưởng tượng của thế hệ trước nhằm “đe dọa” thế hệ sau?
Tội có phải là sự ám ảnh tâm lý không? Giáo lý công giáo định
nghĩa về tội như sau, “Tội được định nghĩa như: ‘Một lời nói,
một hành vi, một ước muốn trái với lề luật vĩnh cửu”’
(GLCG,1849).
Là một tội
nhân và cũng là nạn nhân của tội. Trăn trở và cố vùng vẫy ra
khỏi tội, nhìn thấy và cảm thông nỗi quặn đau của anh em mình,
nhìn thấy bao cảnh chết chóc, bất công trong xã hội, nhìn thấy
anh em đồng loại mình bị “tròng” vào thòng lọng của một thứ ma
lực vô hình, nhìn thấy cảnh bất an chia lìa vì tội lỗi, nhìn
thấy sự chia rẽ mất đoàn kết hiệp nhất trong một gia đình và
cộng đoàn,…tôi tự hỏi: Đâu là nguyên nhân của những thế lực đen
tối ấy đã và đang hoành hành một cách ngang nhiên trong đời sống
cá nhân, cộng đoàn, và xã hội? Tại sao con người biết tội là
xấu, là chết chóc, là chia lìa thế mà con người vẫn chiều theo
hướng tội và tiếp tục phạm tội? Từ những thắc mắc và trăn trở
trên, dựa theo kinh nguyện ngày Chúa Nhật, Cải Tội Bảy Mối Có
Bảy Đức, Br. Huynhquảng xin chia sẻ những suy tư và cảm
nghiệm với một thao thức nhỏ là sống tốt hơn, sống gần Chúa hơn,
và chỉ để yêu và cảm nghiệm tình yêu Chúa nhiều hơn qua mầu
nhiệm Khổ nạn, Chết, và Phục sinh của Đức Kitô.
* * *
Trong DVD
Seven Deadly Sins, Seven Lively Virtues, Linh mục Robert
Barron đã nhắc đi nhắc lại với khán thính giả. Tận gốc rễ của
các loại tội chính là do sự sợ hãi. Sự sợ hãi là căn
nguyên và là cội rễ của tội lỗi mà con người mắc phải.
Vậy nguyên
nhân của sợ hãi đến từ đâu? Cốt lõi của sự sợ hãi chính là cảm
thấy thiếu vắng sự an toàn và thiếu hụt một điều gì đó. Các em
nhỏ sợ “ma,” sợ người lớn la mắng, sợ thi rớt, sợ bị điểm xấu.
Khôn lớn thêm một chút, các cô cậu sợ không được người khác phái
yêu, sợ diện mạo mình xấu xí, sợ không được nhìn nhận. Khi đã
trưởng thành, con người vẫn tiếp tục sợ hãi: Sợ vì yêu mà không
được yêu lại, sợ bị phản bội, sợ bệnh tật đau ốm, sợ bị bỏ rơi,
và cuối cùng là sợ chết. Sợ hãi dẫn con người đi đến khả năng tự
vệ, tức là tìm một điều gì đó để “bảo vệ” chính mình, để có thể
“che đậy” nỗi sợ hãi ấy, hoặc có thể là để lẩn trốn sự sợ hãi
ấy, và cũng có thể là để loại sự sợ hãi ấy ra khỏi con người
mình. Nói tóm lại, sự sợ hãi xuất hiện khi con người bắt đầu cảm
nhận một sự thiếu vắng gì đó, một sự không tròn đầy gì đó, một
sự hụt hẫng gì đó trong con người mình. Khi cảm nghiệm những
điều này, con người sẽ tìm cách bù trừ hoặc phủ lấp sự thiếu hụt
ấy.
Sợ hãi không
phải là tội, nhưng nếu ta không nhận thức đủ, nó có thể dẫn ta
đến tội. Ví dụ: Khi chúng ta nói xấu ám hại một ai, ta lỗi đức
công bằng. Đi sâu hơn bên trong của việc nói xấu, ta phần nào
thấy, (1): Nguyên nhân nào dẫn ta đến việc nói xấu? Do ghen
ghét? Do thấy người ta hơn mình? Do muốn hạ bệ người khác? (2):
Tại sao ta “ghét, hạ bệ” người khác? Có phải vì người ấy ảnh
hưởng đến cuộc sống, danh dự, địa vị của ta? Có phải ta sợ người
ấy “hơn” ta, thì ta “thua” họ? Có phải vì khi người ấy được
“nhìn nhận, được yêu mến, thì ta sợ bị “ít được nhìn nhận, ít
được yêu mến?” Xét như thế để giúp ta phần nào nhận thấy rằng,
ẩn núp đằng sau những hiện tượng “bề mặt,” luôn có đó bóng dáng
của sợ hãi. Tất cả những hiện tượng trên đều phản ánh sự sợ hãi
căn bản nhất, cốt lõi nhất - chính là sợ mất chính mình. Từ sự
sợ hãi bí ẩn này, ta tìm cách “bảo vệ” ta, “chống chế” cho sự
“thua thiệt” của ta, và một trong những giải pháp “chống chế” ấy
có thể dẫn ta đến phạm tội.
Căn nguyên
của tội chính là sự sợ hãi; và đúng như vậy. Tội Nguyên Tổ đã
phản ảnh điều đó khi Eva đã ăn trái cấm vì “muốn” bằng Chúa
(ngoài sự kiêu ngạo như chúng ta thường hiểu). Vì “muốn bằng,”
tức là thấy mình “chưa đủ, còn thiếu” (mà quên rằng mình chỉ là
tạo vật). Ăn trái cấm chính là do biểu hiện sự sợ hãi “thiếu,
không bằng, mất mát, thiếu an toàn.” Bà Eva tưởng rằng, ăn trái
cấm thì sẽ được như mình mong muốn, như mình tưởng tượng, như
lời của con rắn hứa – tức là “bằng” Thiên Chúa. Hóa ra không! Ăn
trái cấm là phạm tội vì bất phục tùng Thiên Chúa. Eva sợ mất
chính mình. Khi lấy mình làm trung tâm, mà không phải là Thiên
Chúa, con người bắt đầu bước vào tiến trình “sợ” và phạm tội.
Thiên Chúa
kêu gọi Moses (Ex 3: 1- 15) để thực hiện chương trình giải thoát
dân Israel ra khỏi Aicập, sứ mạng ấy làm Moses sợ hãi. Nhưng
Thiên Chúa củng cố sức mạnh cho ông để ông tiếp tục sứ mạng.
Moses đã tin vào Thiên Chúa, chứ không để sự sợ hãi chiếm ngự
lấy ông. Hay nói cách khác, mỗi con người chúng ta đều được
Thiên Chúa ủy thác một sứ mạng, và Ngài ban ơn để mỗi cá nhân
hoàn thành sứ mạng của mình – tức là nên thánh. Như thế, bởi tội
Nguyên tổ, nên ngay khi con người nhận lấy sứ mạng từ Thiên
Chúa, thì cũng chính là lúc thế lực sự dữ - ma quỉ cũng tìm mọi
cách để ngăn chặn con người hoàn thành sứ mạng của mình. Vậy tại
sao chúng ngăn cản con người nên thánh? Nếu không lý do nào khác
hơn chính là sợ con người “hơn” chúng? Vâng, chính ma quỉ cũng
sợ hãi - Sợ chúng ta hơn chúng. Ma quỉ “sợ” con người khi con
người đến gần và ở trong cung lòng Thiên Chúa. Vì ma quỉ sợ
chúng ta hơn chúng, nên không lạ gì chúng luôn tìm mọi cách để
hạ gục chúng ta, tìm mọi cách bù trừ cho sự thiếu hụt ấy. Cám dỗ
để con người phạm tội là hạ sách chúng thường dùng để nhằm đánh
gục con người. Như thế, không lạ gì, cuộc đời Kitô hữu chúng ta
gặp biết bao trở ngại khó khăn trong việc nên thánh. Chỉ sau khi
con người phạm tội, ma quỉ mới hả dạ, vì chính trong tình trạng
mất ân sủng con người trở nên “bằng” ma quỉ. Ma quỉ thấy vui,
thỏa mãn, khi con người “bằng” ma quỉ. Ngược lại, ma quỉ “sợ và
ghen ghét” con người khi họ sống trong ân sủng của Thiên Chúa.
Ma quỉ “sợ” chúng ta “hơn” chúng bằng đời sống thánh thiện của
chúng ta. Không lạ gì cuộc đời các thánh nhân thường bị cám dỗ
nhiều hơn người thường là như thế.
Tựu trung, sự
sợ hãi bắt nguồn từ sự “quên” rằng chúng ta là con Thiên Chúa.
Khi bị thế giới sự ác vỗ về vào giấc ngủ “quên mình là con Thiên
Chúa,” chúng ta tự đứng dậy và nghĩ rằng, mình phải tự lo liệu
cuộc sống và vận mệnh của mình. Đồng thời vì quên đi hồng phúc
này, ta không nhận ra tình yêu của Thiên Chúa bao phủ lấy đời
ta. Chính sự quên nguy hiểm này, làm chúng ta nhìn thấy nhiều
mối đe dọa từ nhiều hướng khác nhau trong cuộc sống dương thế.
Chính vì thế, sự sợ hãi len lỏi vào cuộc đời ta.
Các học giả
Kinh Thánh đã thống kê có 365 câu Lời Chúa “Đừng sợ hãi.” 365
câu “Đừng sợ hãi” như hằng ngày nhắc nhở chúng ta rằng, chúng ta
là con Thiên Chúa, chúng ta hãy vững tin vào Ngài. Dù những khó
khăn trước mắt, những bóng đen của tội lỗi, những thòng lọng như
muốn bóp chặt cuộc đời ta, chúng ta đừng sợ vì chúng ta có Chúa.
Để sống trong
ân sủng Thiên Chúa, chúng ta hãy thoát ra khỏi nỗi sợ hãi và đặt
trọn niềm tin vào Thiên Chúa. Những vấp ngã của thân phận con
người là có thật, nhưng tiếng gọi nên thánh cao cả và mãnh liệt
hơn sự ù lì sống trong tình trạng tội. Đừng để ma quỉ đánh lừa
ta bằng sự sợ hãi, bằng sự sợ mất chính mình, bằng sự sợ mất
tương lai đời mình. Không! Tương lai cuộc đời ta ở trong tay
Chúa, Chúa đã cứu chuộc ta bằng máu của Đức Kitô rồi, nên đừng
sợ, nhưng hãy-sống-cho-ma-quỉ-sợ-ta bằng cách đặt trọn niềm tin
vào Thiên Chúa. “Ðừng sợ hãi: có Ta ở với ngươi” (Isa 41:10).
Br.
Huynhquảng |
VỀ MỤC LỤC |
|
Tương quan với những người phục vụ trong nhà xứ, nhất là cô bếp. |
Mời thăm Blog của
Lm. Trần Minh Huy
http://www.chivilongchuathuongtoi.tk/
Tác phẩm: ĐÀO TẠO ỨNG SINH LINH
MỤC GIÁO PHẬN
CHƯƠNG
NĂM
ỨNG
SINH LINH MỤC GIÁO PHẬN
HỌC SỐNG CĂN TÍNH VÀ SỨ
VỤ LINH MỤC
C. LINH MỤC GIÁO PHẬN SỐNG SỨ VỤ
TRONG CÁC MỐI TƯƠNG QUAN
(tiếp theo)
C.17. Tương quan
với những người phục vụ trong nhà xứ, nhất là cô bếp.
C.17.a Những gì nên cư xử, nói và làm
·
Nhu cầu có người
giúp việc là điều chính đáng. Tuy nhiên,
người nữ giúp việc đừng có trẻ quá (phải
đủ tuổi luật buộc), đừng quá nhan sắc,
đừng quá
nhí nhảnh, đừng quá khoe khoang, đừng lắm
lời, đừng quá tò mò chuyện người khác, cũng đừng có tiếng xấu,
nghĩa là
đừng để nên cạm bẫy cho ta hay làm dịp cho người khác ngờ vực.
·
Đừng bao giờ
hỏi ý kiến hay tâm sự với họ về nỗi đau buồn, chán chường, hoặc
nỗi thất vọng của mình. Cây leo trước tiên bắt đầu bò từ gốc rễ,
không ngờ nó lớn lên, cao lên rồi nó vấn vít đè ngột cả những
cành cao nhất. Cây leo của ta bò tới đâu rồi?
·
Nhớ lời thánh
Cypriano dạy phải luôn nghiêm khắc đối với phụ nữ và thi hành
quyền bính nghiêm trang đứng đắn. Tại nhà xứ, quyền bính phải
được thi hành dưới hình thức quân chủ chứ không phải lối dân chủ
(bàn hỏi và theo ý kiến người giúp việc).
·
Hãy liệu để
người nữ giúp việc biết niềm nở tiếp đón các linh mục, tu sĩ,
khách khứa, người nghèo và bổn đạo.
Người nữ giúp việc càng kém
phẩm chất bao nhiêu, càng làm ta mất lòng dân và đưa ta đến thất
bại, suy sụp bấy nhiêu.
·
Phải thông
cảm với họ là họ phải cáng đáng bao nhiêu là những công việc lặt
vặt không tên trong ngày. Nên có những lời động viên khích lệ,
nhất là trong những lúc bận nhiều công việc. Có những lời khen
hoặc chê đúng lúc, đúng hoàn cảnh với ý hướng xây dựng. Nên
thông cảm và tha thứ những thiếu sót hay lỗi lầm của họ.
·
Tôn trọng giá
trị phục vụ của họ và hãy trả tiền công cho họ cách xứng đáng và
sòng phẳng. Còn họ giúp không thì cũng phải tìm cách bù đắp cho
họ một cách tương xứng. Nên tặng cho họ những món quà vật chất
nhân dịp lễ tết và thăm hỏi gia đình nhân dịp này. Cũng nên khôn
khéo và tế nhị quan tâm đến nhu cầu và ước vọng của họ, giúp đỡ
đời sống của họ và bố mẹ họ để họ nhiệt tâm giúp việc.
C.17.b Những gì không nên cư xử, nói và làm
·
Không để
người giúp việc đem chuyện thiên hạ vào nhà xứ hoặc chuyện nhà
xứ ra cho thiên hạ. Ngày nào bà trở thành tờ báo sống, nó sẽ làm
ta khó chịu và có trăm ngàn phản ứng sai lạc. Nếu vì cô bếp mà
phải bị ngờ vực tai tiếng thì hãy để cho về ngay.
·
Không làm cho
cô bếp phải khóc lóc: nước mắt đàn bà là vũ khí lợi hại của họ,
nhưng là thuốc độc và cạm bẫy khó lường cho đàn ông. Người ta
bảo rằng có người biển sâu sông rộng không chết mà lai chết đuối
ở hố trâu nằm!
·
Tự làm lấy
những công việc vệ sinh, dọn dẹp trong phòng riêng, không nên để
cô bếp suốt ngày lục sục trong phòng ta, dễ khiến người ngoài
nghi ngờ, khó chịu.
·
Không nên để
cô bếp vào phòng riêng của mình quét dọn và nói chuyện lâu giờ.
Không kêu cô bếp vào phòng ban đêm để giúp đỡ việc này việc nọ
hay vào phòng riêng của họ. Những khi đau yếu bệnh tật, nên nhờ
thêm người giúp đỡ chứ không phải chỉ mình cô bếp lo lắng cơm
cháo, xức dầu, xức thuốc... “Tối trời, nhà tranh cũng như nhà
ngói!”
·
Không quan
tâm quá mức đến họ và việc nội trợ của họ. Không nên quá pha
mình vào việc nội trợ, nên để cho người giúp việc một phần tự do
trong nhiệm vụ của họ. Không nên quá gần gũi. Phải có giới hạn
và khoảng cách cần thiết. Không quá thân mật, đùa cợt, dễ gây
hiểu lầm và tổn thương uy tín và danh dự.
·
Không nên để
họ can thiệp vào công việc mục vụ của mình. Không tâm sự với họ
về bất cứ điều gì, nhất là những nỗi đau buồn hay chuyện riêng
của mình: sự thông cảm, chia sẻ đó sẽ là một bẫy ngầm.
·
Không được
khinh dể và thiếu bác ái đối với họ, nhiều khi bác ái đối với
người ngoài nhưng lại không bác ái với người trong nhà.
·
Không để cô
bếp ăn chung, nhất là khi có khách; khách sẽ rất khó chịu vì khó
nói chuyện. Khi ăn cơm, ta có thể tiếp và trao đổi với giáo
dân.
C.18. Tương quan
với Chính Quyền
C.18.a Những gì nên cư xử, nói và làm
·
Tính nhã nhặn
là hoa thơm của phép lịch sự, nó bắt nguồn từ đức khiêm nhượng
và bác ái. Linh mục nhã nhặn hấp dẫn và xây dựng kẻ khác, đồng
thời được thêm uy tín và tín nhiệm.
·
Chấp hành
những nghĩa vụ chính đáng của một người công dân. Tôn trọng các
cấp chính quyền, bằng thái độ cởi mở và thân thiện, bình tĩnh
cùng nhau trao đổi, đối thoại và nghiên cứu giải quyết các vấn
đề liên quan giữa hai bên. Cộng tác trong vấn đề thực hiện công
ích như an sinh xã hội, phục vụ người nghèo, thăng tiến con
người, đẩy lui những tệ nạn xã hội…
·
Giữ liên lạc
thiện chí với chính quyền. Thỉnh thoảng nên viếng thăm xã giao
để tỏ lòng kính trọng họ, nhất là những dịp lễ lớn của Đất Nước
và truyền thống Dân tộc. Cũng nên mời họ tới dự những dịp lễ lớn
của mình để cảm thông và hiểu biết nhau hơn.
·
Sống giản dị
và ân cần tiếp đón mọi người, sẵn sàng lắng nghe và đừng bao giờ
để ai đến gặp mình phải bất mãn ra về. Nên tiếp xúc đối thoại để
thông cảm với nhau hơn về những vấn đề xã hội và cuộc sống của
dân chúng, hầu cộng tác lành mạnh lo cho những người nghèo trong
lãnh địa mình phục vụ, theo đường hướng của Giáo Hội.
·
Cố gắng tỏ cử
chỉ yêu thương thật lòng, cảm thông, lắng nghe, trao đổi, thảo
luận và giúp họ chu toàn bổn phận lo cho dân giàu nước mạnh, cổ
vũ và phát huy những sáng kiến mới.
·
Khi có dịp,
có thể cùng làm việc với họ trong các vấn đề xây dựng cuộc sống
của người dân, đặc biệt trong lãnh vực giáo dục, đạo đức và luân
lý, bác ái và từ thiện.
·
Tôn trọng họ
và coi họ như những người anh em của mình mà Chúa muốn cứu độ.
C.18.b Những gì không nên cư xử, nói và làm
·
Không cộng
tác trong vấn đề chính trị, nhất là chính trị đảng phái hoặc tổ
chức chính trị nghịch lại ý muốn của Hội Thánh. Không nên gieo
mình vào chính trị, nếu không muốn người ta động đến việc tôn
giáo của mình.
·
Không nóng
nảy kiêu căng, cãi cọ khi vừa bị phản đối, nhưng tìm thông cảm
với chính quyền để loại bỏ những điều nghi kỵ; khi cần nên hy
sinh và chịu đựng đôi tí để giữ bình an và hòa khí; xử sự có tư
cách và tha thứ các lỗi lầm của họ.
·
Đừng tránh
gặp chính quyền hay có gặp là chỉ để tấn công với những lời chê
trách chua chát. Trong các buổi họp, cũng như trên toà giảng,
không nói gần nói xa với hậu ý, nói ám chỉ để đả kích, bêu xấu…
nhà chức trách.
·
Không nhượng
bộ những quyền lợi chính đáng và thiêng liêng của Giáo Hội, của
cộng đoàn, của giáo dân, của con người đúng với sự thật, công
bằng và công lý. Không nôn nóng cho được việc mà hối lộ tiêu cực
hay manh động đấu tranh.
·
Phải tránh
thái độ đối kháng hay khép kín, nhưng hãy mở lòng ra để đối
thoại. Và khi giao tiếp, phải tránh những cử chỉ và lời nói
thiếu tôn trọng người đối thoại và thiếu tư cách về phía mình.
·
Khi Chính
quyền cần gặp gỡ và trao đổi với giáo dân, hãy liệu có nơi thuận
tiện, chứ tuyệt đối không đưa vào nhà thờ để chính quyền gặp gỡ
bà con giáo dân, nhất là khi nội dung đi ngược lại giáo huấn của
Hội Thánh.
·
Không chống
lại các chính sách hợp lý của Nhà Nước; không cản trở giáo dân
trong những bổn phận dân sự họ phải đóng góp; không cản trở
chính quyền trong việc bài trừ các tệ nạn, các tội phạm.
·
Tránh độc
thoại, phê phán và giảng chửi chính quyền trước mặt giáo dân
trong thánh lễ. Như thế sẽ làm cho họ gặp khó khăn trong việc
lãnh đạo và công tác, dẫn tới nghi kỵ và đối kháng lẫn nhau.
·
Không được
cộng tác với họ trong các vấn đề gây tổn thương đức tin, phong
hóa và luân lý. Không để họ gợi ý và ép buộc, điều khiển mình
theo ý hướng và mục đích của họ.
·
Nỗ lực sống
đúng thiên chức linh mục, chiến đấu để tránh rơi vào tình cảnh
mà con người yếu đuối thường mắc phải là vấn đề nhục dục giới
tính nam nữ; cảnh giác kể cả trường hợp có thể bị gài bẫy. Nếu
có lỡ mắc phải, hãy khiêm tốn chân thành trình bày xin thẩm
quyền tìm cách giải gỡ, luôn đứng về phía Chúa và Giáo Hội; càng
chấp nhận điều kiện để che đậy hầu bảo vệ thanh danh càng sa
lầy, và cuối cùng khi hết giá trị lợi dụng họ cũng bạch hóa ra
thôi.
C.19. Tương quan
với các tôn giáo bạn, nhất là các vị lãnh đạo
C.19.a Những gì nên cư xử, nói và làm
·
Phải tìm hiểu
và đẩy mạnh việc gặp gỡ, đối thoại liên tôn để các tôn giáo ngày
càng hiểu nhau hơn, cộng tác với nhau hơn vì hạnh phúc của con
người.
·
Hãy tôn trọng
các giá trị văn hoá và tâm linh của các tôn giáo bạn, không bác
bỏ những gì là chân thực, thánh thiện nơi các tôn giáo, dù có
khác biệt với Đức Tin Công Giáo.
·
Sẵn sàng hợp
tác với các vị lãnh đạo tôn giáo bạn, nhất là các vị họat động
trong cùng địa hạt, trong các hoạt động từ thiện, văn hóa, xã
hội để loại trừ bất công, áp bức, nghèo khổ và các tệ nạn xã hội
đang làm thoái hóa, biến chất con ngươi, đồng thời cổ vũ sự công
bằng, công lý, yêu thương, và thăng tiến phẩm giá con người
trong mọi tầng lớp xã hội.
·
Qua đối
thoại, ta có dịp học hỏi và hiểu biết giá trị của các tôn giáo
khác, đồng thời cũng nhận ra và chia sẻ, làm cho họ nhận biết
Tin Mừng và những giá trị thiêng liêng của Kitô giáo.
·
Không gây
chia rẽ, không phân biệt đối xử: khuyến học, cứu tế không phân
biệt lương giáo hay không tôn giáo, để qua tay, qua môi miệng
linh mục, họ cảm nhận được bàn tay ấm áp của Giáo hội Chúa Kitô.
·
Luôn có tinh
thần cởi mở, đối thoại trong tinh thần liên đới với thái độ kính
trọng, yêu thương. Nên có những buổi gặp gỡ, trao đổi, bàn hỏi
mà hai bên cùng quan tâm. Cùng tìm hiểu và đối thoại trong tinh
thần hiểu biết lẫn nhau.
·
Cố gắng hàn
gắn những hiểu lầm và chia rẽ giữa các tôn giáo với nhau. Cần
hiểu, cảm thông và tôn trọng những thao thức và tập tục tôn giáo
của họ.
C.19.b Những gì không nên cư xử, nói và làm
·
Không đố kỵ
và phân biệt tôn giáo, có thể dẫn đến mất đoàn kết. Nếu nơi giáo
dân có sự đố kỵ thì phải ngăn chặn ngay và phân tích cho họ hiểu
được rằng Thiên Chúa muốn mọi người được cứu độ, tuy không cùng
tôn giáo nhưng họ cũng thuộc về Nước Thiên Chúa.
·
Không quan
niệm chỉ có những người trong giáo xứ mới là con chiên của mình,
mà phải có trách nhiệm với mọi người chung quanh trong ranh giới
mục vụ được trao phó để quan tâm, giúp đỡ họ trong khả năng của
mình.
·
Không đề cao
Kitô giáo thái quá và hạ thấp hay khinh khi các tôn giáo khác,
cho rằng chỉ có đạo Công Giáo mới là đạo thật, còn các đạo khác
đều là tà đạo. Nhưng cũng tránh thái độ cào bằng, coi tôn giáo
nào cũng như tôn giáo nào.
·
Không nên có
những lời xúc phạm, chê bai những người lãnh đạo trong các tôn
giáo bạn, hoặc có thái độ coi thường, thiếu tôn trọng và có
những lời khích bác những người anh em đó.
C.20. Tương
quan với lương dân
C.20.a Những gì nên cư xử, nói và làm
·
Kính trọng và
thương yêu đồng bào lương dân, phát huy nơi giáo dân tinh thần
đối thoại, khuyến khích họ tương thân tương ái và hợp tác với bà
con trong mọi lãnh vực đời sống.
·
Thỉnh thoảng
đích thân lui tới thăm nom, trao đổi và sẵn sàng giúp đỡ họ, vật
chất cũng như tinh thần khi cần thiết như dịp lễ tết hay lúc gia
đình họ có chuyện vui buồn.
·
Phải ý thức
cánh đồng truyền giáo là cả thế giới và phải rao giảng Phúc âm
bằng một thứ tiếng nói mọi người đều có thể thông hiểu được, đó
là bằng chính cuộc sống chứng tá và hành động đượm nhuần Tin
Mừng.
·
Phải tích cực
đưa người chưa có đức tin về đoàn chiên Chúa. Nên sống bác ái
hơn với lương dân, nhất là những người đau yếu bệnh tật, già cả
neo đơn; thăm hỏi họ trong những dịp lễ tết dân tộc, lễ lớn của
Hội Thánh để chia sẻ niềm vui với họ, sống đoàn kết yêu thương
như với anh em đồng đạo.
·
Phải quan tâm
hội nhập văn hoá trong cốt lõi tinh thần chứ không chỉ hình thức
bên ngoài, để đồng bào dễ dàng đón nhận Tin Mừng và điều chỉnh
các giá trị văn hoá cao quí và phong phú của họ theo Tin Mừng.
Mời họ tham dự những buổi lễ lớn của mình.
·
Cần có những
cuộc gặp gỡ trao đổi với đồng bào; học hỏi và tôn trọng những
giá trị truyền thống tốt đẹp của họ và mời họ cộng tác trong các
việc bác ái xã hội…
·
Khi có tang,
cha xứ có thể lãnh đạo hội đoàn đến viếng thăm an ủi, để chia sẻ
và cảm thông với họ. Cố gắng xây dựng tình liên đới giữa giáo
dân của mình với những người không tôn giáo.
·
Luôn đối
thoại cởi mở trong sự kính trọng và tin tưởng. Hãy tôn trọng,
yêu thương, quan tâm và coi họ như những giáo dân mà mình có bổn
phận phải chăm sóc.
·
Nên hiện diện
và động viên khi họ gặp những thử thách lớn.
C.20.b Những gì không nên cư xử, nói và làm
·
Không sống tách
biệt như ốc đảo hay khép kín như pháo đài, mà mở ra với mọi
người, không sợ mở cửa cho Chúa Kitô và tha nhân. Phải ý thức về
bổn phận truyền giáo của mình để từ đó tìm đến với những tâm hồn
đang sống ngoài Giáo hội.
·
Không được dửng
dưng hay từ chối những người thiện chí tìm biết về Chúa và Giáo
hội, họ có quyền được nghe về Tin Mừng cứu độ của Chúa Kitô.
·
Không được nhạo
báng, xúc phạm nghi lễ và tâm tình tín ngưỡng tôn giáo, cũng như
các tập tục dân gian và việc thờ cúng tổ tiên, ông bà của họ.
·
Không ngăn cản
đồng bào tham dự các ngày lễ lớn của giáo xứ, tham gia các sinh
hoạt vui chơi giải trí của giáo xứ, và tham gia sinh hoạt các
đoàn thể nếu họ có khả năng.
·
Không nên
phân biệt đối xử giữa những người công giáo và những người không
công giáo. Không nên chỉ làm việc bác ái cho những người công
giáo, coi như mình không có bổn phận gì hết, thờ ơ, lãnh đạm
trước những đói khổ, bệnh tật… của anh chị em lương dân.
C.21. Tương quan
với giới giàu có
C.21.a Những gì nên cư xử, nói và làm
·
Luôn có thái
độ quân bình trong mọi mối tương quan giữa giàu nghèo để tránh
tiếng là cha chỉ chơi với người giàu có. Nên giữ mối quan hệ
thân thiện nhưng không để bị tiền của lôi kéo: không săn tìm đại
gia để đại gia coi thường lèo lái...
·
Không nên chạy đua
với những tiện nghi hiện đại của người giàu: nhà xứ sang trọng
với máy điều hoà, giàn nhạc, thiết bị cao cấp...
·
Cần cẩn thận với
những giúp đỡ của người giàu (không ai cho không cái gì cả): họ
có thể dùng của cải để sai khiến, hoặc mượn uy thế của ta để
lũng đoạn, gây ảnh hưởng và lên mặt với người khác. Cần tìm hiểu
cách thức làm ăn của họ có gì không ổn về đạo lý và luật pháp
không, rồi hãy nhận sự tài trợ của họ.
·
Nên gặp gỡ trao
đổi, cổ võ
và khơi gợi lòng quảng đại
của người giàu, kêu mời họ quảng đại
tham gia cộng tác trong việc
giúp đỡ những người nghèo khó, mồ côi, goá bụa… bằng việc giúp
đỡ vật chất và tạo công ăn việc làm… đỡ đầu cho các đoàn hội
công giáo tiến hành trong giáo xứ, tham gia hội khuyến học…
C.21.b Những gì không nên cư xử, nói và làm
·
Không phân
biệt và đối xử quá cách biệt giữa giàu nghèo: quá tôn trọng, lệ
thuộc, và đề cao người giàu, trong khi quá
quan liêu hạch sách đối với
người nghèo. Không nên lui tới, quan tâm và quỵ luỵ thái quá
người giàu có, kẻo bị người đời hiểu lầm và người nghèo buồn
tủi, bị xúc phạm.
·
Không nên chung
vốn làm ăn kinh tế với người giầu, rồi vì tiền và vị nễ mà nhẹ
tay trong việc áp dụng luật Chúa và luật Hội Thánh đối với họ.
·
Không nên đề cao
người giầu quá đáng và công khai, dành cho họ qúa nhiều ưu tiên,
thiên vị trong các dịp lễ lạy, chỉ vì
những đóng góp của họ,
khiến họ tự phụ
kiêu căng ỷ của và người nghèo phải tủi thân.
·
Không quá
năng viếng thăm người giàu có, trong khi đó lại không bao giờ
thăm những người nghèo bên cạnh, kẻo người nghèo nói rằng: “cha
chỉ chơi với người giàu, cha tham tiền.v.v.”
·
Không quị lụy
đối với những người giàu có. Không nên gần gũi quá với người
giàu mà xa cách người nghèo. Không nên để người giàu ảnh hưởng
tới việc mục vụ của mình.
C.22. Tương quan
với giới nghèo
C.22.a Những gì nên cư xử, nói và làm
·
Để gần gũi
với người nghèo, linh mục cần phải ăn mặc giản dị, sống giản dị
để qua đó phản ánh một giá trị Tin Mừng:
tự nguyện sống khó nghèo để
theo sát Đức Kitô trong mọi lãnh vực (nhà ở, phương tiện đi lại,
nghỉ ngơi…), hầu dễ gần gũi với đoàn chiên.
·
Noi gương Đức Kitô
vốn giàu có đã tự trở nên nghèo khó vì chúng ta, dành cho người
nghèo những chăm sóc tế nhị của đức ái mục tử; khiêm tốn đứng về
phía người nghèo, người bên lề xã hội, người bị áp bức;
sẵn lòng lắng nghe họ để linh mục thực sự là dấu
chỉ của tình yêu Thiên Chúa đối với họ.
·
Thương yêu người
nghèo khó, túng bần, thấp cổ bé miệng, sa cơ lỡ vận… nhưng đừng
khinh rẻ vất của bố thí, mà hãy cung kính đặt vào tay họ:
cách cho hơn của cho.
·
Đừng rẻ rúng người
nghèo, người lao động: vồn vã chào đón người giàu có mà chẳng
thèm chào hỏi họ. Trái lại, phải thực sự hướng về người nghèo và
người thiếu thốn, động viên giáo xứ dấn thân nâng đỡ người
nghèo; nhận ra hình ảnh Chúa Kitô nơi người nghèo và lắng nghe
tiếng kêu của ngài qua tiếng kêu của họ.
·
Đặc biệt quan tâm
thăm hỏi người nghèo trong những dịp lễ tết, giúp đỡ vật chất
cũng như tinh thần để họ được an ủi nâng đỡ
và hoà mình với cộng đồng.
·
Thông cảm chia sẻ
và nâng đỡ hoàn cảnh sống của những người nghèo, nhất là điều
kiện kinh tế nuôi dạy con cái. Kêu gọi cộng đoàn giáo xứ và
những người giầu có chia sẻ gánh nặng cuộc sống với họ. Nhưng
tôn trọng quyền lợi và nghĩa vụ của người nghèo trong sinh hoạt
giáo xứ.
·
Hô hào mọi người
dấn thân nâng đỡ người nghèo, các trẻ mồ côi, những người goá
bụa…, nhằm giúp cho họ biết tự giúp mình, để họ có thể làm việc
nhằm thăng tiến tình trạng của họ: “Cho một
người một con cá, người đó chỉ ăn được một bữa;
cho một cần câu và dạy y biết câu cá, người đó ăn được cả đời.”
·
Phải biết
lắng nghe tiếng nói của người nghèo, bênh vực người nghèo, biết
cảm thông và chia sẻ, thực sự cởi mở khi đối thoại,
tỏ ra là dấu chỉ chữa lành
của tình yêu Thiên Chúa đối với họ: sống vì người nghèo, cho
người nghèo và với người nghèo “cả trong lời nói và việc làm”.
·
Phải nhận ra
hình ảnh Chúa Kitô, tiếng nói của Chúa Kitô qua những người
nghèo, người bệnh tật, người tội lỗi và kể cả người không tin.
·
Ân cần đón
tiếp người nghèo khó, sẵn sàng lắng nghe nhu cầu của những người
nghèo, những người bên lề xã hội. Nếu được, nên tổ chức các lớp
dạy nghề trong giáo xứ.
·
Yêu thương
những người già cả bệnh tật, người nghèo khó, các trẻ mồ côi,
những người góa bụa bằng những việc cụ thể.
·
Nên thăm
viếng những người nghèo trong xứ, vì đó là nguồn động viên lớn
cho họ trong cuộc sống. Nên dấn thân vào nhiều hình thức khác
nhau trong công việc nâng đỡ người nghèo: thăm hỏi, động viên,
giúp đỡ họ vật chất, tinh thần, và công ăn việc làm.
C.22.b Những gì không nên cư xử, nói và làm
·
Không được quên
bổn phận và trách nhiệm Chúa giao chăm sóc từng con chiên, nhất
là những chiên nghèo, chiên lạc.
·
Không phân biệt
đối xử: người giàu được kính trọng và năng lui tới, có việc họ
mời rất dễ; còn người nghèo bị coi khinh, chẳng mấy khi lui tới,
có việc mời rất khó, thì làm sao biết được hoàn cảnh thiếu thốn
của họ!
·
Khi đối thoại
vối người nghèo và người giàu, không thiên quá về người giàu,
khinh rẻ những người đói rách. Họ sẽ cảm thấy bị rẻ rúng khi
thấy linh mục thật vui vẻ với người giàu có, nhưng lại nhăn nhó
với người nghèo.
·
Đừng quên rằng
người nghèo chỉ thiếu thốn vật chất (cơm không đủ ăn, áo mặc
không đủ ấm, thiếu tiền cho con đi học, thiếu thuốc men khi bệnh
tật…), mà còn nghèo tinh thần và thiêng liêng.
·
Không dùng những
đồ quá sang trọng, làm cho người nghèo hèn không dám lui tới.
Không bao giờ làm cho người nghèo sợ không dám đến gặp gỡ cha xứ
để trình bày, đối thoại khi họ có nhu cầu.
Không nên có những lời nói cộc cằn thô lỗ, so
sánh, kẻo người nghèo cảm thấy tủi thân và mặc cảm.
·
Không chê của
dâng của người nghèo khó, cho dù không thích hay chẳng đáng là
bao, nhưng nó tượng trưng tất cả tấm lòng và sự lao công cực
nhọc của họ.
|
VỀ MỤC LỤC |
|
Ý NGHĨA CỦA BÍ TÍCH HÔN PHỐI
|
Tác phẩm: Cẩm Nang Hạnh Phúc Gia Đình
Kitô - MỤC VỤ HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH
Tác
giả: D. WAHRHEIT (Lm. Minh Anh, GP. Huế tổng hợp biên tập)
B9. Ý NGHĨA CỦA BÍ TÍCH HÔN PHỐI
1.
Có nhiều kiểu nói trong Giáo Hội vốn dễ duy trì nơi người giáo
dân não trạng mà người ta thường gọi là não trạng tiêu thụ, đặc
biệt đối với các bí tích. Người ta thường nói, chịu các bí tích,
lãnh nhận các bí tích. Đành rằng, bí tích là những cử hành của
Giáo Hội, chỉ có Giáo Hội mới có thể ban các bí tích. Tuy nhiên,
khi nói người giáo dân chịu hay lãnh nhận các bí tích, người ta
dễ khuyến khích giáo dân rơi vào thái độ thụ động hoặc tiêu thụ
đối với các cuộc cử hành trong Giáo Hội.
Bí tích là một cuộc cử hành của
toàn thể Giáo Hội, trong đó, mọi tín hữu đều được mời gọi tham
dự, nghĩa là trở thành tác nhân tích cực. Nghĩa là người tín hữu
không chỉ đón nhận một sứ mạng mới của Giáo Hội, nhưng chính họ
phải trở thành những người thợ tích cực trong việc xây dựng Giáo
Hội.
Giáo Hội muốn làm nổi bật thái độ
tích cực đó cách đặc biệt trong bí tích Hôn Phối. Trong hầu hết
các bí tích, gương mặt nổi bật trong nghi thức là giám mục hoặc
linh mục; trái lại, trong bí tích Hôn Phối, thừa tác viên của bí
tích chính là đôi tân hôn.
Trước mặt linh mục vốn chỉ đóng
vai trò chứng giám, chính đôi tân hôn mới là thừa tác viên cử
hành bí tích. Đó chính là sự mới mẻ của bí tích Hôn Phối. Người
tín hữu không còn chịu hay lãnh bí tích nữa. Họ chính là người
cử hành bí tích.
Tính cách tân kỳ của bí tích Hôn
Phối không chỉ do sự kiện đôi tân hôn nắm phần chủ động trong
nghi thức vốn chỉ kéo dài trong khoảnh khắc, mà chính họ trở
thành bí tích. Thiên Chúa đã muốn nêu bật tầm quan trọng của hôn
phối khi Ngài mượn hình ảnh hôn phối để nói về tình yêu của Ngài
đối vơí nhân loại. Thật thế, trong suốt chiều dài lịch sử
Israel, Thiên Chúa luôn được tỏ bày như một phu nhân, quan hệ
giữa Ngài và Israel được diễn tả như một cuộc hôn nhân.
2.
Sang đến Tân Ước, thánh Phaolô như muốn diễn đạt tất cả
sự cao cả của hôn phối khi Ngài viết trong thư gửi cho giáo đoàn
Êphêsô 5, 32: “Mầu nhiệm này thật cao cả, tôi muốn nói
đến tình yêu của Chuá Giêsu đối với Giáo Hội”. Qua lời khẳng
định trên đây, thánh Phaolô muốn nói: vợ chồng phải yêu thương
nhau như chính Chúa Kitô đã yêu thương Giáo Hội. Tình yêu giữa
hai người phải trở thành dấu hiệu hữu hình của tình yêu giữa Đức
Kitô và Giáo Hội Ngài. Còn hình ảnh nào còn có thể diễn tả được
tình yêu của Đức Kitô đối với Giáo Hội cho bằng tình yêu vợ
chồng?
Nói đến tình yêu vợ chồng là nói
đến mọi diễn tả trong tình yêu đó. Từ những cử chỉ âu yếm hy
sinh cho nhau đến sự kết hiệp nên một thân xác trong hành động
giao hợp, tất cả đều là dấu chỉ, đều là bí tích của tình yêu Đức
Kitô đối với Giáo Hội. Sách Diễm Tình Ca chứa đựng không biết
bao nhiêu cảnh trữ tình lãng mạng, nhưng đã được xem như một mạc
khải về tình yêu của Thiên Chúa đối với con người.
Trong bí tích Hôn Phối tất cả mọi
sinh hoạt trong đời sống vợ chồng và gia đình đều được nâng lên
như dấu chỉ của tình yêu Thiên Chúa và công cuộc cứu rỗi của
Ngài. Dù không rao giảng, hai vợ chồng cũng là những tông đồ
sống động của tình yêu Thiên Chúa qua tình yêu và qua cuộc sống
của họ. Qua tình yêu ấy, họ trở thành dấu chỉ hữu hình của Thiên
Chúa vô hình. Họ trở thành cung thánh của Thiên Chúa tình yêu.
Họ là dấu chứng và là lời ngỏ cho mỗi người rằng, Thiên Chúa
tình yêu hiện hữu. Thiên Chúa ở đâu? Để trả lời câu hỏi ấy, có
lẽ người tín hữu nên chỉ vào một đôi vợ chồng công giáo. Nơi nào
hai vợ chồng công giáo yêu thương nhau, nơi đó có Thiên Chúa.
3.
Hôn phối giữa hai Kitô hữu là một bí tích. Đó là khẳng
định mà người ta có thể tìm thấy trong bất cứ tài liệu về hôn
phối nào của Giáo Hội. Nhưng vì não trạng thụ động và tiêu thụ
đối với các cử hành của Giáo Hội, người ta dễ đóng khung bí tích
trong khoảnh khắc của buổi cử hành, hết nghi lễ là hết bí tích.
Ra khỏi nhà thờ là giã từ bí tích. Thật ra, bí tích nào của Giáo
Hội cũng đều là một dấn thân. Người tín hữu không chịu hay lãnh
một bí tích, mà đón nhận một sứ mệnh để ra đi và trở thành bí
tích của tình yêu Thiên Chúa đối với con người.
Điều này đúng cho bí tích Hôn Phối
hơn bất cứ trường hợp nào. Qua bí tích Hôn Phối, đôi vợ chồng
Kitô hữu trở thành bí tích của tình yêu Thiên Chúa. Cả cuộc sống
của họ là một cử hành bí tích. Do đó, đôi vợ chồng Kitô hữu
không chỉ làm phép cưới một lần trong nhà thờ mà còn tiếp tục là
một bí tích bằng cả cuộc sống của họ. Được liên kết với Đức Kitô
trong bí tích Hôn Phối, họ cũng bắt chước Ngài để trở thành hình
ảnh hữu hình của Thiên Chúa vô hình. Họ được mời gọi để không
ngừng cởi bỏ con người cũ của tội lỗi để mặc lấy con người mới
trong Đức Giêsu Kitô, để ngày qua ngày họ đạt được tầm vóc viên
mãn của Ngài.
Giáo Hội được gọi là bí tích của
Đức Kitô, bởi vì Giáo Hội là thân thể nối dài và hiện thực hóa
sự hiện hữu của Ngài. Như Đức Kitô đã từng nói: “Ai thấy Ta là
thấy Chúa Cha”, Giáo Hội cũng có thể nói ai thấy Giáo Hội là
thấy Đức Kitô. Thấy Giáo Hội không như thấy bất kỳ một tổ chức
nào, mà như là một cộng đồng yêu thương. Chính tình yêu mới là
dấu hiệu biểu lộ sự hiện diện của Chúa. Bởi vì ở đâu có tình
yêu, ở đó có Thiên Chúa.
Tiếp nhận sứ mệnh của Giáo Hội,
đôi vợ chồng Kitô hữu cũng trở thành bí tích của Đức Kitô. Họ
phải sống thế nào để mọi người khi nhìn vào đều tin nhận rằng,
tình yêu đích thực hiện hữu; và nếu như ở đâu có tình yêu, ở đó
có Chúa, thì người ta cũng sẽ nhận ra chính Chúa trong chính
tình yêu của họ. |
VỀ MỤC LỤC |
|
ĐỂ
GIÀM CHẤT BÉO
|
Nhà thơ
Thụy Khanh tới thăm vợ chồng nhà văn Nhật Hoàng. Vừa mới thấy TK
thì ông Nhật Hoàng chào hỏi với mấy câu rất thân mật, vô
tư
là “hồi này nom chị có vẻ bệ
vệ quá nhỉ” .Họ ăn uống, vui chơi hết ngày rồi chia tay…
Về nhà, Thụy
Khanh cứ vẩn vưong suy nghĩ mãi về chữ “bệ vệ” mà nhà văn dùng
khi welcome mình…Bà tự hỏi, chẳng lẽ bây giờ mình quá mập rồi
chăng? Chắc là tại mấy ngày Lễ Tết vừa qua ăn quá nhiều thịt
thà, bánh ngọt…
Tiêu thụ các
loại thực phẩm chứa nhiều chất béo hiện nay là mối quan tâm lớn
đối với bà con mình vì họ đã ý thức đựoc rằng ăn như vậy sẽ đưa
tới bệnh tim mạch. Nhưng làm sao để giảm chất béo? Giảm chất béo
nào? Giảm tới mức nào?
Xin mách bà
con mấy mẹo sau đây:
Trước hết phải hiểu rõ chất béo là gì? Chất
béo từ đâu mà có? Có bao nhiêu loại chất béo?
Rồi cũng nên
nhớ rằng chất béo rất cần thiết cho cơ thể vì chúng có nhiều vai
trò quan trọng trong như là chuyên chở các vitamin tan trong dầu
mỡ, cung cấp năng lựong, cấu tạo thành tế bào, sản xuất một số
hormone, bao che cho các bộ phận nội tạng sinh tử như tim, thận,
bảo vệ cơ thể với sức lạnh bằng những lớp mỡ dưới da…Không có
chất béo con ngừơi không sống đựoc. Chất béo không xấu nếu tiêu
thụ vừa đủ. Chúng chỉ xấu nếu ta tiêu thụ quá nhiều so với nhu
cầu.
Thế nào là
nhiều?
Các nhà dinh
dưỡng đều khuyên là chỉ nên dùng không quá 30% tổng số năng
lượng mỗi ngày, tức là khoảng 600 calories/ngày. Trong tổng số
này chỉ 10% là chất béo no. Cụ thể là không quá 30gr/ngày trong
đó 4 gram do chất béo đa không no. Trên thực tế thì nhiều người
tiêu thụ vượt quá số lượng này với các loại thực phẩm như lòng
heo, tim cật động vật hoặc phở gà lại thêm vài quả trứng non
cộng thêm một thìa nước béo vàng ngậy.
Thế nào là
chất béo no hoặc không no?
Chất béo đựoc
cấu tạo bởi các nguyên tử carbon và hydrogen. Chất béo no
(saturated fat) là chất béo có đầy đủ các nguyên tử hydrogen cho
nên rất khó phân hóa trong cơ thể. Loại này có nhiều trong thịt
bò, gà, heo, lòng đỏ trứng, sữa, tôm cua sò hến, thực phẩm đã
chế biến. Cũng có trong vài loại dầu thực vật như dầu dừa, dầu
cọ, dầu cocoa. Chất béo no thường có dưới dạng đặc. Dầu dừa có
tới 92% là chất béo no.
Còn chất béo
không no (Unsaturated Fat):
Đó là các
chất béo thiếu một vài nguyên tử hydrogen trong cấu trúc. Có
trong dầu thực vật, dễ dàng bị phân tách trong cơ thể và ở dạng
lỏng trong không khí. Có hai loại:
-
CB đơn không no: thiếu một cặp nguyên tử hydrogen, như dầu
olive, đậu phụng, vừng, canola.
-
CB đa không no thiếu từ 2 nguyên tử Hydrogen trở lên như dầu
bắp, hướng dương, đậu nành, bông gòn.
Chất béo vô
hình là gì?
Đó là chất
béo trong thực phẩm chế biến như bánh ngọt, bánh bích quy trong
đó nhà sản xuất đã cho thêm nhiều loại chất béo để tăng hương vị
khiến cho món ăn hấp dẫn ngon hơn mà cũng bắt mắt quyến dũ hơn.
Đôi khi họ còn xịt một lớp dầu dừa trên bánh để bánh ròn hơn khi
ăn và ngoại hình bóng bảy mời chào.
Chè ba mầu
đẩu bánh lọc mà thêm vài thìa dầu dừa vào chắc chắn là ngon
miệng hơn nhưng ngày nào cũng ăn thì cũng hơi bị tăng rủi ro
bệnh tật cho trái tim yêu dấu đấy.
Làm
sao để cắt giảm chất béo trong thức ăn?
-
Loại bỏ hết mỡ trong thịt như da gà vịt, vân mỡ của miếng thịt
bò, thịt heo
-
Dùng các loại sữa đã giảm chất béo xuống tới 2% hoặc không có
chất béo. Với trẻ em, cần uống sữa nguyên chất cho tới 2 tuổi để
các cháu có đầu đủ chất béo cho sự tăng trưởng.
-
Giảm tiêu thụ thịt bò, heo, gà vịt, đừng uống sữa nguyên dạng.
-
Với thịt các loại, nên hấp, luộc nhiều hơn là chiên rán
-
Nấu thịt, để nguội cho chất béo đông lại rồi vớt bỏ.
-
Nhớ đọc nhãn hiệu hiệu thực phẩm trong đó có ghi rõ thành phần
các chất dinh dưỡng.
Ngoài ra,
thay vì ăn 1 quả trứng thì ăn 2 lòng trắng trứng;
-
Còn cholesterol là gì?
Cholesterol
là một dạng chất béo lưu hành trong dòng máu. Cholesterol có tự
nhiên trong một vài loại thực phẩm như lòng đỏ trứng, nội tạng
động vật nhưng đa số (90%) cholesterol là do gan và vài mô bào
khác trong cơ thể sản xuất từ các chất béo bão hòa (no) mà ta
tiêu thụ.
Mặc dù là
thành phần tự nhiên trong máu, nhưng khi quá cao, cholesterol sẽ
gây ra một số rủi ro cho sức khỏe. Những lý do đưa tới cao
cholesterol là chế độ dinh dữong sai, lạm dụng rựou bia hoặc
bệnh bẩm sinh.
Khi ta tiêu
thụ nhiều chất béo bão hòa hơn lả nhu cầu thì lựơng cholesterol
sẽ gia tăng. Chúng tràn ngập mạch máu khiến cho thành động mạch
trở nên dày, cứng và bệnh cao huyết áp sẽ xảy ra. Lâu ngày,
thành động mạch trở nên yếu, lồi ra mỏng đi và tới một lúc nào
đó sẽ rách vỡ, đưa tới cơn suy tim hoặc tai biến động mạch não.
Có 3 loại cholesterol:
a. Cholesterol tỷ trọng thấp LDL và cholesterol tỷ trọng rất
thấp VLDL. Cả hai đều có khuynh hướng là bám dính vào thành động
mạch khiến cho sự lưu thông của máu bị rối loạn và từ đó là rủi
ro đưa tới bệnh tim.
b. Cholesterol tỷ trọng cao HDL được coi như tốt vì chúng có thể
quét bỏ các chất béo khác kết dính ở thành động mạch.
Làm
cách nào để giảm cholesterol xấu và tăng cholesterol tốt?.
Thay
đổi tập quán ăn uống có thể giúp ta hạ mức độ cholestertol xấu
và nâng cao cholesterol tốt.
a. Tăng tiêu thụ rau, trái cây dù là tưoi, đông lạnh hoặc trong
hộp.
b. Ăn nhiều thực phẩm có chất xơ hòa tan trong nứoc như rau, cám
yến mạch (oat bran)
c. Tăng tiêu thụ các loại cá vì cá có nhiều chất béo omega-3 có
thể hạ cholesterol xấu, tăng cholesterol tốt.
c. Dùng dấu thực vật nhiều hơn là mỡ động vật.
e. Uống một ly nhỏ rựou vang đỏ mỗi ngày cũng giảm kết tụ
cholesterol trên thành động mạch.
Ngoài rủi ro
bệnh tim mạch, tiêu thụ quá nhiều chất béo có thể gây ra ung thư
không?
Đây là vấn đề
đang đựoc các nhà khoa học nghiên cứu và chưa có kết luận chính
xác. Tuy nhiên, một số nghiên cứu cho hay, một chế độ dinh
dưỡng nhiều chất béo có thể gây ra ung thư vú và ung thư ruột
già-trực tràng.
Bác sĩ Nguyễn
Ý Đức
Texas-Hoa Kỳ
www.bsnguyenyduc.com
|
VỀ MỤC LỤC |
CỌP CÁI - Chuyện
phiếm của Gã Siêu |
Gã xin bắt đầu mục chuyện phiếm hôm nay
bằng một mẩu tin thời sự sau đây: Vào lúc 15g30 ngày 10 tháng 9,
ba công nhân Vườn thú, thuộc khu du lịch Đại Nam, tỉnh Bình
Dương, đang trồng cây trong một chuồng nuôi cọp, bất ngờ một con
cọp từ chuồng bên cạnh nhảy qua cắn một người chết tại chỗ và
làm một người khác bị thương nặng. Theo TTXVN, nạn nhân bị chết
là anh Nguyễn Công Danh, sinh năm 1962, ngụ tại phường Hiệp An,
thị xã Thủ Dầu Một. Người bị thương là anh Nguyễn Thanh Giàu,
sinh năm 1988, bị cọp tấn công vào mặt đang cấp cứu tại Bệnh
viện đa khoa tỉnh .
Ông Dương Thành Phi, Giám đốc Vườn thú Đại
Nam, cho biết: Khoảng thời gian trên, khu nuôi cọp trong vườn
thú đang tiến hành sửa chữa, trồng cây xanh. Ba công nhân vườn
thú đang tiến hành trồng cây tại chuồng nuôi cọp trắng và số cọp
này đã được nhốt an toàn. Trong khi đó, tại chuồng nuôi cọp vàng
bên cạnh vẫn phục vụ cho du khách đến tham quan bình thường. Bất
ngờ một con cọp vàng đã nhảy qua hàng rào chắn cao khoảng 5m tấn
công ba công nhân đang trồng cây. Thấy con cọp quá hung dữ lao
vào tấn công, hai công nhân đã nhảy xuống ao tránh nạn, riêng
ông Danh không kịp phản ứng thì bị cọp lao đến cắn chết tại chỗ.
Ông Phi cho biết thêm: Các chuồng nuôi thú
dữ trong vườn thú Khu du lịch Đại Nam được thiết lập với không
gian mở để du khách thoải mái ngắm thú, nhưng các chuồng đều
được lắp đặt hệ thống xung điện để bảo vệ, có cả ao nước rộng
7-8m nhằm tạo khoảng cách an toàn giữa người xem và thú nuôi,
nên đến nay chưa có hiện tượng thú xổng chuồng. Riêng vụ cọp tấn
công hai công nhân có thể do một nhóm công nhân khác đang dùng
cần cẩu đưa cây xanh vào chuồng để trồng, khiến cọp bị kích động
nhảy qua chuồng khác gây nên sự cố nói trên (Người
lao động online).
Từ mẩu tin thời sự nói trên, gã bắt đầu tìm
hiểu về loài cọp, vốn là con vật cầm tinh cho năm Canh Dần này.
Theo gã được biết, thì hổ, cọp hay hùm…là một loài thú vừa lớn
lại vừa dữ, thuộc nhà mèo. Thân dài, cổ ngắn, đầu tròn, râu
cứng, răng nhọn. Lông màu vàng đỏ và có nhiều vằn đen. Sống
trong các khu rừng, kể cả rừng đầm lầy có lau sậy. Chúng thường
ăn thịt hươu nai, lợn rừng, thậm chí có khi bắt cả trâu bò mà
ăn. Mỗi bữa dùng tới 30, hay 50 ký lô thịt. Sau đó, có thể nhịn
trong nhiều ngày…(Từ điển Bách
khoa Việt Nam).
Như vậy, xét theo chính tông dòng họ “miêu”
thì có đủ các loại mèo, từ mèo to đến mèo nhỏ, từ mèo mun đến
mèo mướp, từ mèo nhà đến mèo rừng…Đây là những loài mèo chính
hiệu con nhà “mão”. Bên cạnh đó còn có những con tương cận, tuỳ
theo vóc dáng, và nhất là bộ lông, người ta có thể chia thành:
1- Hổ, cọp, hay hùm.
2- Báo hay beo.
3- Sư tử.
Tóm lại, cọp beo và sư tử đều có liên hệ
dây mơ rễ má với nhau, vì cùng chung một gốc gác là mèo. Chẳng
thế mà dân bợm nhậu hiện nay vốn gọi mèo là tiểu hổ. Ngoài ra,
trong dân gian người ta thường gọi hổ, cọp, hùm là…ông ba mươi.
Số là ngày xưa, hễ ai giết được một con cọp, thì sẽ được nhà
nước thưởng cho ba mươi quan tiền!
Viết đến đây, gã nhớ tới một bức thư của
một anh bạn đã gửi cho gã. Trong bức thư này, anh bạn kể lại:
Trong một chầu nhậu, khi đã bừng bừng hơi men, các chiến hữu bèn
đưa ra những câu hỏi để đố vui với nhau. Ai trả lời vừa đúng lại
vừa hay, sẽ được thưởng…một ly.
Vậy xin hỏi:
- Tại sao người ta thường gọi ông trăng,
ông trời, ông sao mà không gọi bà trăng, bà trời, bà sao?
Thưa rằng:
- Tại vì con trai thường đẹp hơn con gái và
đờn ông thường đẹp hơn đờn bà!
Câu trả lời này, gã rất lấy làm ưng ý, bởi
vì so với loài vật, con trống thường đẹp hơn con mái, như gà và
công. Chẳng thế mà người Pháp vốn gọi tính ưa làm dáng, làm đỏm
là “coquetterie”, xuất phát từ chữ “coq”, có nghĩa là anh gà
trống.
Xin hỏi tiếp:
- Tại sao có bà phù thủy mà không có ông
phù thủy?
Thưa rằng:
- Tại vì đờn bà thường độc ác hơn đờn ông!
Xin hỏi:
- Tại sao chỉ có mỹ nhân kế mà không có nam
nhân kế?
Thưa rằng:
- Tại vì con gái thường xảo quyệt hơn con
giai!
Hai câu trả lời này, gã không có tí kinh
nghiệm nào cả. Có lẽ nên hỏi mấy ông chồng, hay những anh con
giai nào đang toát mồ hôi hột, vắt vẻo đi trên nhip cầu tình ái
thì sẽ được rõ.
Xin hỏi tiếp:
- Tại sao có ông già Noel mà không có bà
già Noel?
Thưa rằng:
- Tại vì đờn ông thường nhân hậu hơn đờn
bà!
Xin hỏi:
- Tại sao có phụ nữ, mà lại không có... phụ
nam?
Thưa rằng:
- Tại vì con gái chỉ là phụ mà thôi!
Gã gật gù, hai câu trả này xem ra hơi bị
đúng.
Xin hỏi tiếp:
- Tại sao không có cậu hồn mà chỉ có cô
hồn?
Thưa rằng:
- Tại vì sau khi chết, các cậu không biến
thành "ma" mà sẽ biến thành "phật"!
Câu trả lời này còn đang trong vòng…”ngâm
kíu”, để hôm nào thử chết một phát cái đã, rồi xem mình sẽ ra
làm sao!
Trở lại với câu chuyện con cọp. Như trên
chúng ta đã thấy, cọp thường hung dữ, xơi tái trâu bò của dân
lành, thậm chí đôi lúc còn xơi luôn cả những người dân vô tội,
không đủ sức chống đỡ. Mức hung dữ của nó càng gia tăng tới độ
khủng khiếp, nhất là trong thời kỳ nuôi con. Cũng chính vì thế,
người Việt Nam thường dùng hai chữ “cọp cái” để ám chỉ những
người đờn bà hung ác. Trong khi đó, người Tàu lại dùng hình ảnh
con sư tử, như trong điển tích “Sư tử Hà Đông”.
Trần Quí Thường, quê tại tỉnh Hà Đông bên
Tàu, có một người vợ nổi tiếng hung dữ. Mỗi lần Tô Đông Pha đến
chơi, thì đều được nghe bà vợ này la hét, chửi bới thật ồn ào và
quá đáng. Thấy vậy, thi sĩ dòng họ Tô mới làm một bài thơ châm
biếm, trong đó có câu:
- Hốt văn Hà Đông sư tử hống,
Trụ tượng lạc thủ tâm mang mang.
Có nghĩa là :
- Bỗng nghe sư tử Hà Đông rống,
Tay run, gậy rớt, lòng kinh hãi.
Người đờn bà hung dữ thì thời nào và nơi
nào mà chẳng có, gã xin đưa ra một mẫu người tiêu biểu cho
trường phái của phương Tây, đó là bà vợ của Socrate.
Hẳn rằng nhiều người trong chúng ta đã biết
Socrate là một triết gia nổi tiếng của Hy Lạp cổ xưa, lý thuyết
của ông còn ảnh hưởng cho tới ngày nay, thế nhưng tai hại thay,
ông lại là nạn nhân của một bà vợ hung dữ. Bà đã khinh thường
ông, coi ông chỉ là hạng “dài lưng tốn vải”, cũng như “trói gà
không chặt”.
Có lần sau một trận xỉ vả thậm tệ, tức quá
bà liền đổ cả một chậu nước dơ lên người ông, nhưng ông vẫn thản
nhiên nói với mọi người:
- Trời đã có sấm sét, ắt hẳn sẽ đổ mưa.
Lần khác, bà đã hất tung hất té mâm cỗ ra
ngoài sân. Mâm cỗ mà ông đã cẩn thận làm để thiết đãi bạn bè.
Và thế là ông bèn
ngồi yên lặng nhặt lên cho bằng hết. Món nào còn ăn được thì ăn,
bằng không thì bỏ đi, mà chẳng than van một lời.
Dĩ nhiên, những người đờn
bà hung dữ theo kiểu cọp cái, theo kiểu sư tử Hà Đông, hay theo
kiểu bà vợ của Socrate thì rất hoạ hiếm, chỉ đếm được trên đầu
ngón tay mà thôi. Còn tuyệt đại đa số quí bà quí cô đều hiền
lành, cứ y như là…ma sơ ấy !
Tuy nhiên, theo các nhà
tướng số và tử vi, thì dần thân tỵ hợi, tứ hành xung. Bốn cái
tuổi này thường xung khắc với nhau. Chẳng hạn nàng tuổi cọp, mà
chàng tuổi lợn, thì e rằng có ngày chàng sẽ bị xơi tái. Bởi vậy,
cũng theo các nhà tướng số và tử vi, con đường tình duyên của
những cô em tuổi cọp không được phẳng phiu cho lắm, trái lại
thường gặp phải những khó khăn, ba chìm bảy nổi và chín cái lênh
đênh :
- Em gái tuổi Dần duyên
phận long đong
Miệng đời bảo: cái tuổi
này cao số
Thầy bói nhủ: cầm tinh
em, cọp cái
Quê thấy mồ, em có ăn
thịt ai đâu!
Cha mẹ sinh năm Dần, em
để vậy, biết sao
Em vẫn rộn những niềm vui
không rõ!
Em dễ khóc những nỗi buồn
vô cớ
Như sáng mai nào đang
nắng, thoắt mưa…
Em tuổi Dần, đã sợ em
chưa?
Quen, quen vậy, anh khoan
thưa bố mẹ!
Tự ái đấy khi bà cô bắt
bẻ:
“Nó tuổi Dần , không ích
tử, vượng phu…”
Nếu mai sau, mai sau nữa,
cho dù
Tờ âm lịch lỗi thời thay
đổi hết
Thì chớ tưởng gái tuổi
Dần đã thích
Con gái mà, không coi bói
đâu vui!
Em tuổi Dần nên người yêu
em ơi,
Anh phải đẹp như chàng
trai săn hổ
Lúc ấy, bên anh, em ngoan
như cô mèo nhỏ
Vuốt nanh nào thi thố với
tình yêu!
Và anh yêu, xin anh chớ
có liều,
Chớ bay bướm, đèo bòng
năm bảy mối!
Cơn ghen gái tuổi Dần
không dữ dội,
Chỉ diễn có một lần, kẻ
có tội chỉ….tan xương. (Văn
Tuyển).
Như trên gã đã trình bày:
giữa mèo, cọp và sư tử có một sợi dây liên hệ thuộc vào loại họ
hàng hang hốc với nhau. Vì thế, không phải vô cớ mà người ta đã
gọi bồ nhí là mèo, còn vợ là cọp cái hay sư tử Hà Đông. Tất
nhiên cũng có người thế này, kẻ thế khác. Đôi khi chúng ta cũng
gặp được những con cọp hiền lành, còn trong đám mèo cũng không
hiếm những con dữ dằn và ghê gớm.
Một tác giả trên trang
“Hinhtran” đã so sánh và đưa ra những nhận định như sau: Cọp và
mèo, hoặc gọi một cách chính xác hơn, là vợ và bồ nhí, tuy cùng
một họ, nghĩa là cùng một giới tính, nhưng đi vào chi tiết, sau
những cuộc thăm dò và nhiều năm "nghiên cứu", người ta đã tìm
ra mười lý do khiến đàn ông thích "mèo" hơn vợ.
1. Mèo không bao giờ cáu
gắt, quát tháo ầm ĩ hay gầm gừ như vợ, mà luôn luôn dịu dàng, âm
yếm kêu "meo meo" nghe thật êm tai và dễ chịu.
2. Mèo bao giờ cũng sạch sẽ thơm tho, trong
khi vợ nhà thì đầu bù tóc rối.
3. Mèo thích được dắt đi chơi, thường xuyên
biết nũng nịu, mơn trớn chứ không mau quên thuở mới yêu nhau như
cọp.
4. Vuốt ve mèo mang lại cảm giác mềm mại,
sung sướng trong khi ít ai có đủ can đảm vuốt ve...cọp.
5. Mèo ăn uống nhỏ nhẹ và từ tốn, tuy nhiên
đôi khi từ từ nhưng rất tốn kém, mà điều này thì lại không đáng
kể. Còn cọp lắm lúc chẳng biết giữ gìn ý tứ, lại còn ra điều
"thuyết giáo" ngay trong bữa ăn.
6. Mèo biết, hoặc tỏ ra biết vâng lời, làm
cho đàn ông có cảm tưởng mình là chuá tể sơn lâm, trong khi cọp
thì chỉ muốn thống trị.
7. Mèo không lục túi sau mỗi kỳ lương,
không càu nhàu khi đàn ông đi về trễ.
8. Mèo không chì chiết, không kể lể, không
làm mất mặt đàn ông giữa đám đông, nhất là mỗi khi có bạn đến
chơi nhà.
9. Mèo có thể dự thi hoa hậu, nhưng cọp thì
không. Trên thế giới đã có những cuộc thi hoa hậu dành cho mèo,
cho chó nhưng chưa có một cuộc thi hoa hậu nào dành cho…cọp cả !
10. Nếu một lúc nào đó chẳng may bị mèo
quào, thì cũng chỉ thêm thi vị cho cuộc sống. Còn cọp mà nhe
nanh, thì chỉ có từ chết tới bị thương mà thôi!
Thiết tưởng mười lý do kể trên cũng có thể
giúp cho các chị vợ rút ra được những kinh nghiệm cho bản thân,
trong cung cách ứng xử với anh chồng, cũng như trong việc “tề
gia nội trợ” của mình.
Cũng trong chiều hướng ấy, những tư tưởng
lớn vốn thường hay gặp nhau, nên một đấng tu mi nam tử khác đã
so sanh sự giống nhau giữa đờn bà và con cọp như thế này:
Một là cọp thì gầm, đờn bà nhiều lúc cũng
gầm.
Hai là cọp thì uyển chuyền, đờn bà đôi khi
cũng uyen chuyển.
Ba là cọp thì được gọi bằng ông ba mươi,
còn đờn bà lắm khi được gọi là…sư tử Hà Đông.
Bốn là cọp thì rất oai phong, còn đờn bà
cũng rất lẫm liệt, chẳng thế mà người xưa đã bảo nhất vợ nhì
giời, lệnh ông không bằng cồng bà.
Năm là cọp thì rất quan tâm tới móng vuốt,
còn đờn bà cũng rất quan tâm tới móng chân móng tay.
Sáu là cọp thì nổi tiếng về da, đờn bà
cũng chăm chút về làn da cùng với áo quần của mình.
Bảy là cọp thì đôi khi chỉ vồ chứ không ăn,
đờn bà đôi khi chỉ yêu mà không lấy.
(Báo Phụ Nữ Chủ Nhật, số 8 ra ngày
4.3.2007)
Để kết thúc bài viết hôm nay gã xin kể lại
ba mẩu truyện của bác Ba Phi, được đăng tải trên trang Đất Mũi.
Truyện rằng: Hai đứa con thằng Tư Mít, cha
mẹ đi làm bỏ chúng trên sàn gác, gặp cọp vô nhà chơi hoài. Chúng
nó vắt cơm cháy, thảy xuống cho cọp ăn. Ăn quen. Lần đó thằng Tư
Mít núp trên sàn gác, đốt đỏ cái ống ngoáy trầu của bà nội, rồi
thảy xuống, cọp hả họng ra hứng liền. Lần ấy, nó chạy, la vang
rừng suốt mấy bữa.
Lại có truyện rằng: Bà Tám ở xóm trên, đêm
ngủ ngoài bụi ráng, vì bữa chiều hôm trước, bà uống rượu ở đám
giỗ xóm dưới, say quá không về tới nhà. Sáng ra, bà thấy cái đầu
mình trọc lóc như trái bưởi, thì ra đêm hôm đó, bà bị một con
cọp đến liếm đầu!
Hai mẩu truyện kể trên là như hai lời cầu
chúc, xin được gửi đến bàn dân thiên hạ, cho một năm mới nhiều
niềm vui và đầy ắp tiếng cười.
Gã Siêu
gasieu@gmail.com
|
VỀ MỤC LỤC |
|
- Mọi liên lạc: Ghi danh, thay đổi địa chỉ, đóng góp ý kiến,
bài vở..., xin gởi về địa chỉ
giaosivietnam@gmail.com
- Những nội dung sẽ được đề cao và chú ý bao gồm:
Trao đổi, chia sẻ những kinh nghiệm thực tế trong việc mục
vụ của Giáo sĩ; Những tài liệu của Giáo hội hoặc của các
Tác giả nhằm mục đích Thăng tiến đời sống Giáo sĩ; Cổ võ ơn
gọi Linh mục; Người Giáo dân tham gia công việc “Trợ lực
Giáo sĩ” bằng đời sống cầu nguyện và cộng tác trong mọi lãnh
vực; Mỗi Giáo dân phải là những “Linh mục” không có chức
Thánh; Đối thoại trong tinh thần Bác ái giữa Giáo dân và
Giáo sĩ… (Truyền giáo hay xây pháo đài?)
- Quy vị cũng có thể tham khảo những số báo đã phát hành tại
www.conggiaovietnam.net
Rất mong được sự cộng tác, hưởng ứng của tất cả Quí vị
Xin chân thành cám ơn tất cả anh chị em đã
sẵn lòng cộng tác với chúng tôi bằng nhiều cách thế khác
nhau.
TM. Đặc San Giáo Sĩ Việt Nam
Lm. Luca
Phạm Quốc Sử
USA
|
|
*************
|
|