Mời thăm Blog của
Lm. Trần Minh Huy
http://www.chivilongchuathuongtoi.tk/
Tác phẩm: ĐÀO TẠO ỨNG SINH LINH
MỤC GIÁO PHẬN
CHƯƠNG
NĂM
ỨNG
SINH LINH MỤC GIÁO PHẬN
HỌC SỐNG CĂN TÍNH VÀ SỨ
VỤ LINH MỤC
C. LINH MỤC GIÁO PHẬN SỐNG SỨ VỤ
TRONG CÁC MỐI TƯƠNG QUAN
(tiếp theo)
C.11. Tương quan
với Ban Hành Giáo
C.11.a Những gì nên cư
xử, nói và làm
·
Tôn trọng tự do và thể lệ bầu ban hành giáo. Sẵn lòng vui
vẻ chấp nhận ban hành giáo do giáo dân bầu, coi họ như cánh tay
phải nối dài của mình trong công việc điều hành giáo xứ.
·
Kêu mời họ cộng tác bằng những tài năng Chúa ban và những
kinh nghiệm quý báu của họ. Hãy quan tâm đến họ, tôn trọng họ,
đồng thời lắng nghe những lời góp ý.
·
Trao quyền và tôn trọng quyền của họ, cộng tác, chỉ dẫn
chân thành. Tôn trọng và nghiên cứu áp dụng những sáng kiến cá
nhân cũng như tập thể đưa ra.
·
Thận trọng, khoan dung, nhậy cảm. Tạo bầu khí vui tươi,
cởi mở, chan hòa, dễ tiếp xúc, coi họ như người nhà, cảm thông,
tin tưởng và cả công bằng bác ái.
·
Chẳng mất gì lời nói, nhưng làm hài lòng mọi người bằng
khen thưởng, khuyến khích, động viên. Thăm hỏi, tỏ ra quan tâm
đời sống tinh thần vật chất và hoàn cảnh của gia đình họ.
·
Tạo uy tín cho Ban Hành Giáo, để họ có uy tín mà làm
việc. Họp rút ưu khuyết, thẳng thắn xây dựng, sẵn sàng lắng nghe
và tiếp thu với lòng thương mến. Khoan dung, thông cảm và quảng
đại, tha thứ cho những khiếm khuyết.
·
Xây dựng tình đoàn kết, cộng tác xây dựng Giáo xứ. Nếu có
thể, nên động viên bằng vật chất, hoặc tổ chức vui chơi thư
giãn, hay du lịch, picnic… Cùng họ hết lòng vì việc chung, chu
toàn bổn phận, xây dựng giáo xứ.
·
Nên bàn bạc với Ban Hành Giáo về công việc lớn của giáo
xứ. Những gì Ban Hành Giáo làm được, nên mời họ cộng tác và tin
tưởng họ. Nên tổ chức các cuộc họp định kỳ để rút ưu khuyết
điểm.
·
Coi trọng họ là những cộng tác viên đắc lực, là bàn tay
nối dài trong công tác phục vụ cộng đoàn, biết lắng nghe những ý
kiến, những sáng tạo của họ. Nên động viên họ vào những dịp lễ
tết.
·
Cần quan tâm đặc biệt trong công việc để kịp thời hướng
dẫn động viên về tinh thần cũng như vật chất.
C.11.b Những gì không
nên cư xử, nói và làm
·
Không nên chỉ chọn người mình ưa thích, tránh áp đặt theo
ý mình.
Không nên can thiệp vào việc bầu chọn và sắp xếp các chức vụ
theo cảm tình riêng của mình; cục bộ, bè phái, đứng về phe này
phe kia, giáo xứ sẽ bị chia rẽ, phân hóa và chống đối nhau.
·
Tránh tính bao biện, độc tài và điều khiển theo kiểu dân
chủ, vì những điều này dẫn tới giáo sĩ hoá giáo dân. Quyền bính
trong Giáo hội từ trên xuống, do đó không quá “dân chủ mị dân”.
·
Phải dùng người có trước có sau, đừng theo lối “vắt chanh
bỏ vỏ”, hễ xong việc là thôi, chẳng quan tâm đến nữa, chỉ biết
lợi dụng mà không nghĩ tới những vất vả của họ.
·
Không chê bai, khiển trách công khai, với những lời lẽ
thiếu tế nhị, thiếu văn hóa, chạm đến những nỗi đau hay tự ái
của họ hay gia đình họ.
·
Không để cho ban hành giáo tự ý về
tài sản của giáo xứ, mọi thu chi phải có ký nhận của ít là ba
người trong ban hành giáo và cha xứ. Tiền xin lễ không nên giao
cho Ban Hành Giáo nhận để tránh mọi lạm dụng.
C.12. Tương quan
với các đoàn thể
C.12.a Những gì nên cư
xử, nói và làm
·
Nên thành lập các đoàn thể như Dòng Ba, Hội Gia Trưởng,
Hiền Mẫu, Thiếu Nhi Thánh Thể, v.v... Lo cho mỗi đoàn hội có
thánh Quan Thầy và hướng dẫn họ noi gương bắt chước các nhân đức
của thánh Quan Thầy.
·
Nuôi dưỡng và phát huy các đoàn thể, vận dụng khả năng
từng đoàn thể, mời gọi họ cùng cộng tác trong những công việc
chung, để giáo xứ được phong phú, năng động.
·
Các đoàn thể tạo nên sức mạnh của giáo xứ và là nguồn lực
truyền giáo đắc lực: Nên đồng hành cùng các đoàn thể, khích lệ
làm tốt hơn phận vụ của mỗi người, ngõ hầu giáo xứ được phong
phú, năng động. Tìm những người có khả năng, hạnh kiểm tốt và
lòng nhiệt thành để cộng tác lo công việc giáo xứ. Phân chia
công việc rõ ràng cho từng người theo chức năng và quyền hạn.
·
Các hội lành giúp người ta năng chịu các phép bí tích,
truyền bá các việc đạo đức, sửa chữa các sự lạm dụng. Cần thường
xuyên huấn luyện họ qua các kỳ họp hay tĩnh tâm. Năng gặp gỡ,
khích lệ và giúp đỡ họ trong công việc chung.
·
Phải trân trọng sự đóng góp của các đoàn thể. Nâng đỡ các
đoàn thể bằng tinh thần và vật chất trong khuôn khổ cho phép.
Đồng hành với các đoàn thể, giúp đỡ họ về tinh thần cầu nguyện,
tinh thần đạo đức, tinh thần hiệp thông và đoàn kết.
·
Yêu mến, gần gũi, cởi mở, cảm thông và đồng hành. Xây
dựng tình đoàn kết, tương trợ, đối xử công bằng. Nói lời vui vẻ,
đôi khi hài ước, tạo bầu khí nhẹ nhàng, thoải mái. Động viên
khích lệ bằng những lời khen ngợi, tuyên dương.
·
Xây dựng, tổ chức, khuyến khích mọi người cùng tham gia,
cổ vũ phong trào. Thăm hỏi khi đoàn hội sinh hoạt, quan tâm, săn
sóc, dạy dỗ bảo ban, hướng dẫn. Cần vui vẻ tham gia góp ý xây
dựng chân thành.
·
Chia phiên buổi sinh hoạt, lập thời biểu rõ ràng và tôn
trọng thời khóa biểu. Nhiệt tình giảng dạy, hướng dẫn, mở các
lớp học hỏi, khám phá và chia sẻ Lời Chúa.
·
Làm gương sáng trong lời nói cử chỉ, việc làm, nhất là
các buổi phụng vụ hay cử hành Bí tích, phải tỏ ra trang nghiêm
cung kính. Cổ võ các giờ kinh khu xóm, Liên gia, Gia đình. Tham
gia các giờ kinh nguyện tại nhà thờ.
·
Đối với giới trẻ, tạo công ăn việc làm, nếu có thể, tránh
tệ nạn xã hội. Tổ chức các lớp giáo lý viên, kêu mời các bạn trẻ
tham gia truyền giáo. Sẵn sàng lắng nghe sự góp ý, hay những bày
tỏ ưu tư của cá nhân hay đoàn thể.
·
Giáo dục, cổ võ tinh thần bác ái, lá lành đùm lá rách,
không những trong xứ họ, mà còn các vùng xa xôi bị thiên tai,
bão lụt…
·
Tôn trọng, quan tâm, khích lệ, đối xử công bằng. Động
viên tinh thần và giúp đỡ vật chất. Tham gia góp ý xây dựng chân
thành, vui vẻ…
C.12.b Những gì không
nên cư xử, nói và làm
·
Không đối xử thiên lệch về một hội đoàn nào: coi trọng
đoàn thể này mà xem nhẹ đoàn thể kia, ghét bỏ đoàn thể này yêu
đoàn thể kia, quan tâm đến giới trẻ mà lại lạnh nhạt với huynh
đoàn.
·
Không áp đặt ý riêng, mà phải biết lắng nghe những đóng
góp của mọi người. Không can thiệp vào chuyên môn riêng của
người phụ trách. Không nên kéo đoàn thể nào đó về phe mình, dùng
các hội đoàn để gây uy thế cho mình.
·
Không bẳn tính, cằn nhằn khi không được vừa ý. Không
khiển trách, phê bình chỉ trích, la mắng sửa sai các đoàn thể
ngay trước cộng đoàn.
·
Không nên coi đoàn hội này hơn đoàn hội kia làm mất hòa
khí và tạo nên óc cục bộ chỉ biết đoàn thể của mình, tranh chấp
hơn thua giữa các đoàn thể.
·
Không được có thái độ “bỏ mặc” và thiếu quan tâm hoặc
thái độ “cứ vứt nó xuống nước tự nó biết bơi vào”, hoặc ngẫu
hứng, tùy tiện, thất thường.
·
Không bác bỏ ý kiến trình bày các nhận định hoặc thắc mắc
ưu tư của họ.
·
Tránh gây gương xấu, gương mù, cẩu thả, bất kính khi cử
hành phụng vụ; chỉ chú trọng hình thức mà thiếu tinh thần truyền
giáo. Chỉ co cụm nơi giáo xứ mà không có tính hiệp thông phổ
quát.
C.13. Tương quan
với những người già cả, bệnh tật và hấp hối
C.13.a Những gì nên cư
xử, nói và làm
·
Chúa Giêsu yêu dấu trẻ em, thương xót người tội lỗi, nhân
hậu cùng kẻ liệt lào đau ốm và chữa lành họ: Ngài đã gánh lấy
bệnh hoạn tật nguyền của ta (x. Mt 8,17). Linh mục cần mặc lấy
những tâm tình ấy của Chúa Giêsu để nâng đỡ an ủi đoàn chiên
mình.
·
Những người già cả, bệnh tật, hấp hối là giới dễ bị bỏ
quên trong xã hội, phải năng thăm viếng họ, giúp họ thánh hoá
bệnh hoạn đau đớn bằng cách liên kết với đau khổ của Chúa Giêsu
để thánh hoá chính họ và thế giới, sinh ơn cứu độ cho mình và
người khác.
·
Người già, bệnh tật thường hôi hám, nên xả thân, thông
cảm và gần gũi ân cần khi thăm hỏi, động viên cả tinh thần lẫn
vật chất. Kính trọng, yêu thương, vui vẻ, lắng nghe, đồng cảm,
yêu mến và nhiệt tình, tận tụy chăm sóc, khi có thể. Nói lời lạc
quan tin tưởng, cậy trông và phó thác.
·
Giúp họ thấy Chúa yêu thương họ, chờ đợi họ trên thiên
đàng, để họ sẵn sàng vâng theo Thánh Ý Chúa.
·
Quan tâm ban bí tích, nhất là đưa của ăn đàng. Khi có
bệnh nhân cần xức dầu, hãy sẵn sàng bỏ mọi việc khác, kể cả giờ
kinh hay ăn uống, lên đường ban bí tích Xức dầu cho bệnh nhân
vào bất cứ giờ nào. Nếu có thể, cố gắng hiện diện trong giờ lâm
tử của những người hấp hối.
·
Tổ chức các buổi cầu nguyện mừng thọ, thượng thọ, đại
thọ… có quà tặng để họ vui sống lạc quan hơn. Động viên con cháu
họ quan tâm chăm sóc, chiều chuộng, và hiếu thảo hơn với những
người sinh thành dưỡng dục mình.
·
Những giờ rảnh rỗi nên đi thăm những người đau ốm bệnh
tật nơi mình phụ trách, nhờ đó họ được an ủi. Nên có một chút
quà nhỏ khi đi thăm những người đau ốm bệnh tật. Giao tiếp cần
cởi mở, hài hòa để qua đó họ nhận thấy tình thương và sự bình an
của Chúa.
C.13.b Những gì không
nên cư xử, nói và làm
·
Không nên chỉ uỷ thác cho một tổ chức hay người nào, mà
chính linh mục cần đến thăm hỏi và an ủi bệnh nhân. Nhiều người
không cần đến vật chất cho bằng tấm lòng nhân ái và sự động viên
của linh mục hơn.
·
Không coi thường, bất kính, lạnh lùng, quên lãng những
người già cả, bệnh hoạn, hấp hối trong xứ. Không nói nhiều về
hình phạt, những lời bi quan, rầu rĩ.
·
Không làm cho họ quá sợ hải sự công thẳng, và không giúp
họ thấy tình yêu thương nhân hậu vô bờ của Chúa, Đấng muốn cho
mọi người được hạnh phúc cứu rỗi, nhất là trong giờ lâm chung
của họ.
·
Không tỏ thái độ kinh tởm, xa tránh, bịt mũi khiến người
bệnh phải tủi thân. Không gắt gỏng, mất nhẫn nại với những người
già, đau ốm, bệnh tật, vì do đau đớn mà họ trở nên khó tính, khó
nết.
·
Không hờ hững, thiếu quan tâm hay đồng tình với con cháu
vì phục vụ vất vả mà có thái độ chán nản, thất vọng, ơ hờ với
các cụ.
·
Không lười biếng để bỏ lỡ cơ hội ban bí tích sau cùng cho
họ (sẽ phải vô cùng ân hận khi họ chết mà không được lãnh nhận
các bí tích).
·
Không được chậm trễ hay từ chối ban các bí tích cho họ
trong giờ hấp hối, giúp họ được an bình ra đi tiến về đời sau.
Đêm đông hay giữa trưa
hè,
Kêu đâu chạy đó chở che cho người,
Biết đâu lần đó cuối
đời,
Để người chết hụt ta thời ăn
năn,
Giúp người trong lúc khó khăn,
Khi về cùng Chúa mần răng quên mình.
C.14. Tương quan
với các góa phụ, nhất là góa phụ trẻ
C.14.a Những gì nên cư
xử, nói và làm
·
Goá phụ là những người chịu thiệt
thòi về tình cảm và sinh lý nên dễ tìm sự bù đắp, không nên quá
gần gũi trong giao tiếp dẫn đến mủi lòng, trắc ẩn cảnh “mẹ
dại con thơ” mà sa ngã và gây gương xấu. Phải cư xử khôn
ngoan khi giao tiếp với các goá phụ, nhất là goá phụ trẻ.
·
Tôn trọng, thông cảm, vui tươi, nhưng mực thước, luôn
biết tạo khoảng cách an toàn. Lời nói nghiêm chỉnh, đứng đắn.
Thánh Cypriano dạy: “đối
với phụ nữ ta phải luôn nghiêm khắc, thi hành quyền bính nghiêm
trang đứng đắn. Khi tiếp đón phụ nữ, cần phải ý tứ, đề phòng lối
ăn ở cẩu thả tai hại cho nhiều linh mục. Vì thế linh mục cần bác
ái khôn ngoan, nết na, bỏ mình”.
·
Các thánh dạy rằng tên lửa tình yêu qua mắt để đâm vào
con tim, và con mắt là kẻ dụ dỗ đưa đến tội lỗi. Vậy phải rất ý
tứ khi họ đến nhà ta hay khi ta đến nhà họ: lòng trắc ẩn chăm
sóc của ta đối với “mẹ góa con côi” dễ bị họ hiểu lầm, nguy
hiểm.
·
Đừng năng đến nhà họ và cũng đừng để họ thường xuyên đến
nhà xứ. Nói chuyện với họ phải ít, ngắn gọn và nghiêm chỉnh, nơi
trống trải. Tránh những thứ gây ràng buộc dính bén là những bẫy
ngầm: thân mật quá có nguy cơ dẫn đến gương xấu và sa ngã.
·
Cần quan tâm nâng đỡ, ủi an, động viên, khích lệ họ tham
gia các đoàn hội, tạo những mối tương quan tốt, để họ nhận thấy
niềm vui, vơi đi nỗi đau thương mất mát mà đến gần với Chúa
hơn.
C.14.b Những gì không
nên cư xử, nói và làm
·
Không khinh thường xa lánh, nhưng cũng không gần gũi quá.
Không nói đùa dỡn, cợt nhả, bất nhã. Không nên nói những lời thô
tục, thiếu tế nhị, một lời hai ý.
·
Không vì giúp đỡ vật chất mà gây hiểu lầm nảy sinh tình
cảm không hay. Phải nhớ mình là người của mọi người và luôn được
mọi người quan tâm để ý.
·
Không được có những tư tưởng hay hành động bao biện, muốn
chiếm đoạt hay để họ quá cậy dựa và lệ thuộc vào mình.
·
Đừng quên lời thánh Eusêbiô dạy: “đức trinh khiết làm
cho con người bằng thiên thần, tà dục làm cho con người nên như
loài vật và tệ hơn cả loài vật”.
·
Không quên lời khuyến cáo của Chúa Giêsu: “hãy tỉnh
thức và cầu nguyện luôn kẻo sa chước cám dỗ, vì tinh thần thì
nhẹ nhành chóng vánh, nhưng xác thịt nặng nề yếu đuối" (Mc
14,38), vì linh mục vẫn không thôi là con người với những yếu
đuối nhân loại.
·
Cẩn trọng về nơi chốn, thời gian, khoảng cách và giới hạn
cần thiết trong các cuộc gặp gỡ. Không nên quá thân mật, gặp gỡ
riêng tư lâu giờ ở những nơi kín đáo, vì có thể gây nguy hiểm
cho họ và cho mình. Nhưng không nên vì sợ dị nghị mà xa lánh, họ
là những con chiên đáng được chăm sóc.
C.15. Tương quan
với giới trẻ
C.15.a Những gì nên cư
xử, nói và làm
·
Giới trẻ là mối bận tâm hàng đầu của Giáo hội. Phải quan
tâm tới đời sống đức tin và nhân bản của họ (Giáo lý, giáo dục
giới tính, ý thức gắn bó với gia đình, với giáo xứ…). Nhắc nhở
đề phòng những hiểm nguy, cám dỗ đang rình rập đầu độc lứa tuổi
thanh xuân như cờ bạc, xì ke ma tuý, sách vở, phim ảnh đồi trụy,
games sex và bạo lực, v.v…
·
Phải nên gương mẫu bằng lời nói, cách sống và hành động
cho giới trẻ, vốn là tương lai của Giáo hội và xã hội. Phải tìm
cách nâng trình độ tri thức của giới trẻ Công giáo lên ngang tầm
với thời đại.
·
Thỉnh thoảng nên tổ chức dã ngoại hay tham quan, giao lưu
với nơi khác để họ được học hỏi, mở rộng tầm nhìn và sống tình
liên đới Giáo Hội..
·
Đứng đắn trong lời nói việc làm; nên mẫu gương tốt lành
để các em tín nhiệm noi theo, giúp các em bước vào cuộc sống.
·
Cần có Thánh Lễ, lớp giáo lý, những buổi gặp gỡ sinh hoạt
lành mạnh cho giới trẻ, để tiếp tục giáo dục đời sống đức tin và
nhân bản cho các em.
·
Động viên tất cả các bạn trẻ trong xứ tham gia, nhờ đó họ
năng lãnh nhận các bí tích, tập tành nhân đức, sửa chữa sai phạm
và hình thành cho mình một hướng đi tốt.
·
Nên sống thân tình, gần gũi bằng tư tưởng, lời nói cũng
như trái tim. Nên giữ mối liên hệ đối với những bạn trẻ “di dân”
đi làm ở xa bằng thư từ, điện thoại…
·
Quan tâm tổ chức những buổi sinh hoạt, toạ đàm với giới
trẻ về đức tin và kỹ năng sống. Vận dụng các buổi gặp gỡ, các
lớp giáo lý mà giúp giới trẻ biết nhìn và đánh giá các biến cố
sự việc theo cái nhìn đức tin.
·
Nên tổ chức những buổi sinh hoạt giới trẻ, tạo cơ hội để
các bạn trẻ trình bày những khó khăn, những thao thức của mình
trong cuộc sống đạo, giúp họ tìm ra lý tưởng sống, định hướng
nghề nghiệp và các kỹ năng sống khác… Có thể tư vấn, tạo công ăn
việc làm và hướng dẫn giới trẻ chọn nghề, chọn người bạn đời
theo hai yếu tố thích và hợp.
·
Phải gần gũi với các bạn trẻ để tìm hiểu tâm tính và hoàn
cảnh của họ, hầu giúp họ trưởng thành lên trong đời sống nhân
bản, đức tin, luân lý, đạo đức và tông đồ.
C.15.b Những gì không
nên cư xử, nói và làm
·
Không nên làm ngơ trước những nhu cầu cần thiết của người
trẻ, nhất là mặt đời sống đức tin và truyền giáo. Không phó mặc
giới trẻ cho cha phó, thầy xứ, các dì xứ chịu trách nhiệm.
·
Tránh những lời nói khiếm nhã hoặc nóng nảy gắt gỏng cũng
như những việc làm thiếu đứng đắn làm mất uy tín người mục tử...
·
Không có thái độ độc tài, phân biệt đối xử giữa các thành
viên. Không quá khó khăn, quan cách khiến giới trẻ không dám
tiếp xúc cởi mở khi họ cần bàn hỏi, tư vấn việc thiêng liêng và
cả những vấn đề tế nhị trong đời sống luân lý, giới tính và tính
dục.
·
Phải thận trọng trong giao tiếp với thanh thiếu nữ, chỉ
gặp gỡ và tiếp chung, hay ít ra phải có hai người, phòng khách
mở thoáng. Không nên thân thiện quá, nhất là đối với các bạn nữ
trẻ đẹp khiến người ta dễ hiểu lầm không hay.
·
Không để cửa nửa mở nửa khép hay đóng kín mít khi tiếp
khách nữ giới, viện cớ phòng gắn máy điều hoà hoặc trời lạnh
quá: người khác nhìn vào sẽ nghi ngờ tư cách linh mục, lại nguy
hiểm nữa.
·
Không nên dùng những lời thiếu lịch sự trong đối thoại.
Lời nói “quá đời” làm giới trẻ vui lúc đó nhưng về sau họ không
kính trọng đâu. Đừng làm họ mất niềm tin vì cư xử thiếu tế nhị
của mình. Không nên lấy việc ăn nhậu làm cớ giao tiếp với giới
trẻ. Linh Mục là khuôn mẫu cho các bạn trẻ trong giáo xứ.
·
Cần tránh những cử chỉ và lời nói thiếu tôn trọng các bạn
trẻ. Hòa đồng nhưng không được đồng hóa với họ, để rồi có những
cách cư xử, phong thái không phù hợp với linh mục: uống rượu “dô
100%”, đi xe và ăn mặc theo “mốt” thời trang…
C.16. Tương quan
với giới thiếu nhi
C.16.a Những gì nên cư
xử, nói và làm
·
Thiếu nhi là tương lai của Giáo hội và đất nước, cần được
uốn nắn từ nhỏ, nên phải dạy giáo lý và đào tạo các em nên
người, nên người kitô hữu và nên người tông đồ mai sau.
·
Đầu tư thời giờ, tiền bạc, sách vở cho việc giáo dục các
em thiếu nhi về giáo lý và kiến thức xã hội. Khuyến khích các em
tham gia buổi học giáo lý theo từng lứa tuổi, với tất cả lòng
nhiệt thành yêu mến.
·
Tổ chức việc dạy và học giáo lý sao cho hiệu quả, tăng
tiến đức tin và đời sống thiêng liêng. Nên vận dụng sự hấp dẫn
của những sinh hoạt vui chơi, ca múa và phương pháp nghe nhìn.
·
Nên để các em tự do lui tới và vui chơi trong khu vực nhà
thờ, nhà xứ. Các em sẽ có ấn tượng là ngoài mái ấm gia đình thì
nhà thờ, nhà xứ được coi như gia đình thứ hai ghi khắc nhiều kỷ
niệm sống đạo đẹp đẽ của tuổi thơ các em.
·
Cần tổ chức các buổi sinh hoạt, liên hoan văn nghệ, vui
chơi tập thể như hội chợ, các trò chơi thi đua, các trò chơi vận
động để các em phát triển tính sáng tạo và sống hoà đồng với
nhau. Cũng đừng quên tổ chức những buổi hành hương, tham quan
cho thiếu nhi.
·
Cố gắng sống tinh thần trẻ trung, dí dỏm, quảng đại và
vui vẻ, để các em có thể đến gần và coi linh mục là người cha,
người thầy đáng mến và gần gũi, yêu thương.
·
Hãy vẽ vào tâm hồn trong trắng các em những dường nét đầu
tiên của Phúc âm Chúa; chúng sẽ ảnh hưởng mạnh nơi các em suốt
đời.
·
Phải có sự thống nhất đời sống và lời giảng dạy: các em
sẽ nhìn vào cách ta sống mà bắt chước hơn là nghe lời ta nói,
cho dù hay ho đến mấy đi nữa, hầu giúp các em hướng thiện.
·
Hãy tiết kiệm lời hứa, nhưng phải giữ lời hứa với mọi
người, nhất là với thiếu nhi. Luôn tỏ thái độ dịu dàng và vui
tươi với các em.
·
Hàng tuần nên có thánh lễ dành riêng cho các em, để giúp
các em tham dự với ý thức, tích cực và sống động, hầu thăng tiến
đời sống đức tin và đạo đức của các em. Cũng nên tổ chức những
buổi dành riêng cho các em cầu nguyện và chầu Thánh Thể.
·
Quan tâm tới việc giáo dục nhân bản và giáo dục đức tin
cho các em, qua việc mở các lớp học Giáo lý phù hợp theo từng
lứa tuổi của các em. Có chương trình cụ thể cho việc Xưng Tội,
Thêm Sức trong năm.
·
Trong giao tiếp nên dùng những cử chỉ gần gũi, lời nói
nhẹ nhàng thân thiện và tỏ ra hiểu nhu cầu của các em. Nên coi
các em như những người con để tận tình hướng dẫn, chỉ bảo hầu
giúp các em sống mỗi ngày một tốt hơn.
C.16.b Những gì không
nên cư xử, nói và làm
·
Không quá nghiêm khắc la hét, quát tháo hay doạ nạt, nhất
là đừng bao giờ đánh các em vì bất cứ lý do gì. Phải chấp nhận
và nhẫn nại chịu đựng tính hiếu động, thích chơi nghịch cách
thoả mái, tự do, hồn nhiên của các em. Nhưng cũng không quá dễ
dãi, đừa cợt với các em, vì như vậy không thể giáo dục được cho
các em.
·
Tuyệt đối không đánh trẻ nhỏ, không dùng hình phạt có
tính nhục mạ, xúc phạm đến nhân phẩm em nào trước mặt cộng đoàn,
trong nhà thờ, nhất là giữa thời buổi tôn trọng và đề cao cá
nhân và trẻ con như hiện nay.
·
Không bao giờ được lợi dụng sự thân thiện, đơn sơ của trẻ
để có những hành vi đồi bại làm gương xấu cho các em. Không bao
giờ gọi trẻ vào phòng riêng một mình, tránh chiều chuộng em này
hơn em khác. Hãy thận trọng và đứng đắn đối với trẻ nữ.
·
Không coi thường các em mà hứa suông bao giờ. Nếu đã hứa
gì thì đừng rút lại và phải giữ lời hứa. Không nói những lời
cũng như làm những việc thiếu lịch sự trước mặt các em. Vì chúng
như tờ giấy trắng, cần in những lời nói việc làm tốt đẹp vào tâm
hồn chúng.
·
Không nên khoán trắng thiếu nhi cho người phụ trách, để
rồi chúng như thế nào cũng không biết. Không nên phó mặc thiếu
nhi cho thầy xứ, các dì, giáo lý viên, ông bà quản… trong việc
dạy giáo lý. Đừng quá bủn xỉn trong việc đầu tư: tiền của, thời
gian… cho việc giáo dục đức tin cho các em.
Đừng bao giờ quở trách các em trong khi tham dự
phụng vụ, nếu cần hãy chỉ bảo các em cách dịu dàng. Không la
mắng khi không cần thiết, và sau khi la mắng hãy luôn làm hòa
cách vui vẻ, trung thực.
|