Ðời Sống Cộng Ðoàn
Chính Trị |
Hiến Chế Mục Vụ
Về Giáo Hội Trong Thế Giới
Ngày Nay
Gaudium Et Spes
Prepared for
Internet by Vietnamese Missionaries in Asia
Phần Thứ Hai
Chương IV
Ðời Sống Cộng Ðoàn
Chính Trị
85*
73. Ðời
sống cộng đoàn ngày nay. Thời đại chúng ta đã được đánh dấu bằng
những biến đổi sâu rộng ngay trong cơ cấu và các tổ chức của các dân tộc. Những
biến đổi này chính là kết quả của tiến bộ về văn hóa, kinh tế và xã hội. Những
thay đổi này ảnh hưởng nhiều đến đời sống của cộng đoàn chính trị, nhất là trong
những vấn đề liên quan tới quyền lợi và bổn phận của mọi người trong việc hành
xử quyền tự do công dân và theo đuổi công ích, cũng như trong vấn đề điều hòa
những mối tương quan giữa các công dân với nhau cũng như với chính quyền.
Nhờ ý thức mãnh liệt hơn về phẩm
giá con người, ngày nay tại nhiều nước trên thế giới, người ta cố gắng thiết lập
một thể chế chính trị pháp lý để bảo vệ hữu hiệu hơn quyền lợi của cá nhân trong
đời sống công cộng, chẳng hạn quyền được tự do hội họp, tự do lập hội, tự do
phát biểu ý kiến và tự do tuyên xưng tín ngưỡng cách riêng tư hoặc công khai: vì
việc đảm bảo những quyền lợi của con người là điều kiện thiết yếu để người công
dân, với tư cách cá nhân hay đoàn thể, có thể tham gia cách tích cực vào đời
sống và vào guồng máy quốc gia.
Song song với tiến bộ về văn hóa,
kinh tế và xã hội, nhiều người còn khao khát mãnh liệt muốn đảm nhận một phần
lớn trách nhiệm trong việc tổ chức cộng đoàn chính trị. Nhiều người đã ý thức
được mối quan tâm mỗi ngày một lớn là phải bảo vệ quyền lợi của các dân tộc
thiểu số trong một quốc gia, nhưng không vì thế mà làm cho các thành phần thiểu
số ấy xao lãng bổn phận của họ đối với cộng đoàn chính trị. Hơn nữa, càng ngày
người ta càng tôn trọng những người có tư tưởng hay tôn giáo khác với mình. Ðồng
thời một sự cộng tác rộng rãi hơn cũng được thiết lập để mọi công dân có thể
thực sự được hưởng những quyền lợi của con người chứ không riêng gì một số người
được ưu đãi.
Trái lại, người ta lên án bất cứ
thể chế chính trị nào, như hiện có ở một vài nước, nếu nó ngăn chặn tự do công
dân hoặc tôn giáo, nếu nó làm gia tăng con số nạn nhân của tham lam và của tội
ác chính trị, nếu nó làm cho việc cai trị đi lệch đường, thay vì mưu cầu công
ích lại phục vụ cho một tập đoàn hay chính những người cầm quyền.
Ðể xây dựng một đời sống chính trị
thực sự nhân đạo, 86* không gì tốt hơn là
gây nơi thâm tâm mỗi người ý thức về công bằng, lòng nhân ái, và tinh thần phục
vụ công ích. Cũng không gì tốt đẹp hơn là củng cố nơi mọi người những xác tín
căn bản về bản chất thích thực của cộng đoàn chính trị cũng như về mục đích, về
việc thi hành đúng và về những giới hạn của công quyền.
74. Bản
chất và mục đích của cộng đoàn chính trị. Cá nhân, gia đình và
tập thể, tức là mọi thành phần của cộng đoàn công dân, đều ý thức rằng tự sức
mình không một thành phần nào có thể xây dựng được một đời sống thực sự nhân
bản, và đều nhận thấy cần phải có một cộng đoàn rộng lớn hơn, trong đó tất cả
mọi người hằng ngày hợp lực để mưu cầu công ích mỗi lúc một tốt đẹp hơn
1. Do đó họ thành lập nên cộng đoàn chính trị dưới
nhiều hình thức khác nhau. Vì thế cộng đoàn chính trị chỉ hiện hữu là vì công
ích. Chính công ích là lý do tồn tại, ý nghĩa và là căn bản pháp lý cho cộng
đoàn chính trị. Công ích nói đây bao gồm tất cả những điều kiện của đời sống xã
hội; nhờ những điều kiện này, cá nhân, gia đình và đoàn thể có thể triển nở cách
trọn vẹn và dễ dàng hơn 2.
Tuy nhiên, trong một cộng đoàn
chính trị gồm nhiều người thuộc đủ mọi thành phần, do đó họ có thể có nhiều quan
điểm khác nhau một cách chính đáng. Vì mỗi cá nhân đều bênh vực quan điểm riêng
của mình, nên để tránh cho cộng đoàn chính trị khỏi tan rã, thì cần phải có một
quyền bính để hướng dẫn nỗ lực của mọi công dân nhằm tới công ích. Không phải
hướng dẫn cách máy móc hay độc đoán, nhưng tiên vàn như một sức mạnh tinh thần
dựa trên tự do và ý thức về nghĩa vụ và trách nhiệm.
Ðã hẳn cộng đoàn chính trị và công
quyền xây nền tảng trên bản tính con người, cho nên cũng nằm trong trật tự do
Chúa an bài, nhưng việc định đoạt một thể chế chính trị hay cắt cử người cầm
quyền vẫn là quyền tự do của mọi công dân 3.
Cũng thế, việc hành xử quyền bính
chính trị trong chính cộng đoàn hoặc trong các cơ quan đại diện cho quốc gia
luôn luôn phải nằm trong giới hạn của trật tự luân lý để đem lại kết quả và mưu
cầu công ích - công ích ở đây phải hiểu cách năng động - tùy theo trật tự pháp
lý đã hoặc sẽ được thiết lập cách hợp pháp. Trong trường hợp đó mọi công dân
buộc phải theo lương tâm mà tuân phục 4.
87* Và do đó, những người lãnh đạo đương nhiên có
trách nhiệm, có thế giá và có uy quyền.
Tuy nhiên, khi công quyền vượt quá
quyền hạn của mình mà đàn áp công dân, thì lúc đó chính công dân cũng không nên
từ chối những gì khách quan xét thấy phù hợp với đòi hỏi của công ích. Nhưng họ
được phép bênh vực quyền lợi của riêng mình cũng như của đồng bào chống lại
những lạm dụng của công quyền, tuy nhiên phải tôn trọng những giới hạn của luật
tự nhiên cũng như luật Phúc Âm.
Những phương thức cụ thể mà mỗi
cộng đoàn chính trị áp dụng để tổ chức cơ cấu và phân phối quyền hành có thể
khác nhau tùy đặc tính và bước tiến lịch sử của mỗi dân tộc. Dầu sao những
phương thức này phải luôn luôn nhằm đào tạo cho con người có văn hóa, yêu chuộng
hòa bình và có lòng yêu thương đối với mọi người để giúp ích cho toàn thể gia
đình nhân loại.
75. Sự
cộng tác của mọi người trong đời sống cộng đoàn. Thiết lập những
cơ cấu chính trị pháp lý là điều phù hợp với bản tính con người, vì nhờ đó tất
cả mọi công dân, không phân biệt ai, có thể mỗi ngày một có cơ hội tham gia cách
tự do và tích cực vào việc thiết lập nền tảng pháp lý của cộng đoàn chính trị,
tham gia vào việc điều hành quốc gia và xác định mục tiêu và phạm vi của những
cơ quan khác nhau cũng như tham gia vào việc lựa chọn người cầm quyền
5. Vậy mọi công dân cần phải nhớ tới quyền lợi và
đồng thời là bổn phận của họ trong việc tự do xử dụng lá phiếu của mình để mưu
cầu công ích. Giáo Hội ca ngợi và quí trọng việc làm của những người vì lợi ích
quốc gia mà dấn thân phục vụ con người cùng nhận lãnh gánh nặng của trách nhiệm
này.
Ðể việc cộng tác của các công dân
có ý thức trách nhiệm về nhiệm vụ đem lại kết quả tốt đẹp trong đời sống chính
trị thường ngày, cần phải có một nền pháp lý thiết định. Nền pháp lý này giúp
phân phối hợp lý các nhiệm vụ và các cơ quan công quyền và đồng thời giúp bảo vệ
một cách hữu hiệu quyền lợi công dân mà không lệ thuộc vào ai. Quyền lợi của cá
nhân, gia đình và đoàn thể cũng như việc xử dụng những quyền đó phải được công
nhận, tôn trọng và cổ võ 6. Nhưng đồng thời
cũng phải chú trọng tới bổn phận công dân của họ. Nói đến bổn phận công dân, cần
phải nhắc tới nghĩa vụ phải đóng góp cho quốc gia những dịch vụ về tài lực cũng
như nhân lực mà công ích đòi hỏi. Chính quyền không nên ngăn cản những hiệp hội
có tính cách gia đình, xã hội hay văn hóa, những đoàn thể hay tổ chức trung
gian. Cũng không nên cấm chế những hoạt động hữu hiệu và chính đáng của các tổ
chức ấy, nhưng tốt hơn nên sẵn sàng cổ võ và phải có đường lối trong việc cổ võ
88*. Về phía người công dân, cá nhân hay
đoàn thể không nên trao cho chính quyền một quyền hành quá lớn, cũng đừng đòi
hỏi ở chính quyền những giúp đỡ cũng như những đặc ân quá đáng không phải lúc,
vì như thế là làm giảm trách nhiệm của cá nhân, gia đình và cả các đoàn thể xã
hội.
Ngày nay hoàn cảnh mỗi ngày một
phức tạp, buộc chính quyền nhiều lúc phải can thiệp vào các vấn đề xã hội, kinh
tế và cả lãnh vục văn hóa để tạo điều kiện thuận lợi cho các công dân cũng như
các đoàn thể được tự do phát triển toàn diện con người cách hữu hiệu hơn. Dĩ
nhiên tùy địa phương và tùy theo sự tiến hóa của mỗi dân tộc, mối tương quan
giữa việc xã hội hóa 7 và sự tự trị cùng sự
phát triển của con người có thể hiểu theo nhiều cách. Nhưng nếu vì công ích mà
phải tạm thời hạn chế việc xử dụng các quyền công dân, thì khi hoàn cảnh đã thay
đổi, cần phải tái lập tự do càng sớm càng hay. Song nếu chính quyền đi vào những
hình thức chuyên chế hoặc độc tài phạm đến quyền lợi cá nhân hay các đoàn thể
thì thật là vô nhân đạo.
Công dân phải nung nấu tinh thần ái
quốc với lòng đại lượng và trung kiên chứ không hẹp hòi, nghĩa là làm sao để
đồng thời vẫn quan tâm đến ích lợi của toàn thể gia đình nhân loại, một gia đình
được liên kết lại bằng nhiều ràng buộc giữa các nòi giống, chủng tộc và quốc
gia.
Tất cả mọi Kitô hữu phải ý thức về
sứ mệnh đặc biệt của mình trong cộng đoàn chính trị. Họ phải nêu gương sáng bằng
cách phát biểu ý thức trách nhiệm nơi chính mình và tận tâm phục vụ công ích.
Nhờ thế, qua hành động, họ cũng chứng minh cho thấy rằng làm sao dung hòa được
quyền bính với tự do, sáng kiến cá nhân với sự liên đới và những đòi hỏi của
toàn thể xã hội, dung hòa được sự hiệp nhất sinh ích với những dị biệt phong
phú. Trong việc tổ chức trần thế, họ phải nhìn nhận những quan điểm chính đáng
dầu đối chọi nhau. Họ phải tôn trọng các công dân khác hay các đoàn thể khi
những người này bênh vực quan điểm của mình cách thẳng thắn. Những đảng phái
chính trị có bổn phận cổ võ những gì họ xét thấy cần cho công ích, chứ không bao
giờ được đặt quyền lợi riêng trên công ích.
Muốn cho mọi công dân xứng đáng nắm
giữ vai trò của họ trong đời sống của cộng đoàn chính trị, cần phải hết sức quan
tâm đến việc giáo dục cả về công dân và về chính trị. Việc giáo dục này ngày nay
rất cần thiết cho mọi người nhất là cho giới trẻ. Những ai có khả năng hoặc có
thể có khả năng làm chính trị, một nghệ thuật khó khăn nhưng đồng thời rất cao
cả 8, cần phải được chuẩn bị trước và họ phải
hăng hái hoạt động và không màng tới tư lợi hay lợi lộc vật chất. Họ phải đem
đời sống thanh liêm và sự khôn ngoan chống lại bất công và áp bức, chống độc tài
và ngoan cố của một cá nhân hay một đảng phái chính trị. Họ phải đem lòng chân
thành và chính trực, hơn nữa tình thương và lòng dũng cảm phải có trong hoạt
động chính trị để tận tâm phục vụ ích lợi của mọi người.
76.
Cộng đoàn chính trị và Giáo Hội. Ðiều rất quan trọng là cần nhận
thức chính xác về mối tương quan giữa cộng đoàn chính trị và Giáo Hội, nhất là
trong một xã hội gồm nhiều thành phần. Cũng cần phải phân biệt minh bạch giữa
những hành động của các tín hữu hoặc cá nhân hoặc đoàn thể với danh nghĩa công
dân dưới sự hướng dẫn của lương tâm Kitô giáo và những hành động của các tín hữu
khi họ nhân danh Giáo Hội và hợp nhất với các vị chủ chăn của họ.
Vì lý do chức vụ và thẩm quyền của
mình, Giáo Hội không cách nào bị đồng hóa với một cộng đoàn chính trị, và cũng
không hề cấu kết với bất cứ hệ thống chính trị nào vì Giáo Hội vừa là dấu chỉ
vừa là đảm bảo cho tính cách siêu việt của con người.
Cộng đoàn chính trị và Giáo Hội,
mỗi bên với lãnh vực riêng của mình, đều độc lập và tự trị. Tuy nhiên, dầu dưới
danh hiệu khác nhau, cả hai cũng đồng phục vụ cho con người trong sứ mệnh cá
nhân và xã hội. Tùy theo hoàn cảnh và địa phương, nếu cả hai càng duy trì được
sự cộng tác lành mạnh, thì cả hai càng phục vụ lợi ích của con người một cách
hữu hiệu hơn. Bởi vì con người không phải chỉ thu hẹp trong nhãn giới trần gian.
Nhưng tuy sống trong lịch sử nhân loại, con người vẫn mang một sứ mệnh trường
cửu. Ðược thiết lập trong tình yêu của Chúa Cứu Thế, Giáo Hội có sứ mệnh làm cho
công bằng và bác ái lan tràn trong mỗi dân tộc và giữa các dân tộc. Khi rao
giảng chân lý Phúc Âm và lấy giáo lý và chứng tá của cuộc sống các Kitô hữu soi
sáng mọi lãnh vực của sinh hoạt con người, Giáo Hội cũng tôn trọng và cổ võ tự
do chính trị cũng như trách nhiệm của các công dân.
Và được sai đi để loan báo Chúa
Kitô là Ðấng Cứu Thế cho mọi người, các Tông Ðồ và các Ðấng kế vị cũng như những
cộng tác viên của các ngài đều dựa vào quyền lực của Thiên Chúa để làm việc tông
đồ; còn Thiên Chúa thường tỏ rõ sức mạnh của Phúc Âm trong chính sự yếu hèn của
các chứng nhân. Vậy bất cứ ai hiến thân phục vụ lời Chúa đều phải dùng đến đường
lối cũng như phương thế riêng của Phúc Âm. Những đường lối và phương thế này
khác biệt ở nhiều điểm với đường lối và phương thế của trần gian.
Thực thế, các thực tại trần thế và
những thực tại siêu phàm nơi con người đều liên kết mật thiết với nhau. Và chính
Giáo Hội cũng xử dụng các thực tại trần thế tùy mức độ mà sứ mệnh riêng của mình
đòi hỏi. Tuy nhiên, Giáo Hội không cậy nhờ vào những đặc ân của thế quyền
89*. Hơn thế nữa, Giáo Hội cũng sẽ từ chối việc
xử dụng một số quyền lợi đã được hưởng một cách chính đáng khi thấy rằng việc xử
dụng những quyền lợi đó làm cho người ta nghi ngờ về lòng thành thực muốn làm
chứng nhân của mình, hoặc trước những hoàn cảnh mới đòi hỏi phải xử sự cách
khác. Tuy nhiên, bất cứ ở đâu và bất cứ thời nào Giáo Hội cũng phải được tự do
rao giảng đức tin, truyền bá học thuyết xã hội của mình cũng như được dễ dàng
chu toàn sứ mệnh của mình giữa loài người. Giáo Hội cũng phải được quyền nói lên
nhận định luân lý của mình về cả những vấn đề liên quan đến lãnh vực chính trị
khi quyền lợi căn bản của con người hay phần rỗi các linh hồn đòi hỏi. Nhằm mục
đích trên, Giáo Hội xử dụng mọi phương tiện và chỉ những phương tiện nào phù hợp
với Phúc Âm và lợi ích của mọi người tùy theo thời đại và hoàn cảnh khác nhau.
Trung thành theo sát Phúc Âm và thi
hành sứ mệnh của mình trong thế giới, Giáo Hội phải cổ võ và nâng cao bất cứ
điều gì là chân, thiện, mỹ trong cộng đoàn nhân loại 9.
Làm như thế tức là Giáo Hội xây dựng hòa bình cho con người để làm vinh danh
Thiên Chúa 10.
Chú Thích:
85*
1) Ðời sống chính trị hiện nay: đang thay đổi (số 73a). Sự ý thức về nhân phẩm
khiến con người đi tìm một chế độ chính trị biết bảo đảm nhân quyền (b), bảo đảm
việc tham gia của nhiều người vào chính trị và sự tôn trọng dân tộc thiểu số
cũng như những kẻ phát biểu ý kiến khác với mình (c). Do đó con người lên án chế
độ xâm phạm quyền tự do và chỉ tìm kiếm ích lợi riêng (d). Muốn thành công phải
đổi mới tâm trạng (e).
2) Cộng đoàn chính trị: Nguyên khởi
và mục đích là công ích (số 74a). Cần thiết phải có chính quyền (b). Cộng đoàn
chính trị và chính quyền đều bởi Thiên Chúa Tạo Hóa mà có. Còn chế độ chính trị
thì trái lại phải chọn lựa cách tự do (c). Khi chính quyền tìm kiếm công ích hợp
với luân lý, thì lương tâm buộc phải vâng theo luật pháp (d). Chế độ chính trị,
dưới bất cứ hình thức nào, tùy theo đặc tính của từng dân tộc, bao giờ cũng phải
phục vụ con người và nhân loại (e).
3) Sự cộng tác vào đời sống chính
trị: thích hợp với bản tính con người: hai phương tiện cụ thể là quyền bỏ phiếu
và hoạt động chính trị (số 75a). Xã hội phải có trật tự pháp lý: công ích. Công
dân không nên nhượng quyền quá đáng cho chính quyền, đàng khác cũng không nên
đợi chờ chính quyền làm quá nhiều (b). Qui tắc về việc chính quyền can thiệp và
chế tài quyền lợi (c). Lòng yêu quê hương (d). Vai trò của tín hữu trong cộng
đoàn chính trị (e). Giáo dục chính trị (f).
4) Cộng đoàn chính trị và Giáo Hội:
Phân biệt hoạt động riêng của tín hữu và của Giáo Hội (số 76a). Giáo Hội không
chủ trương một chế độ chính trị nào (b), nhưng cả hai có lãnh vực và thẩm quyền
riêng và nên cộng tác với nhau (c). Giáo Hội không nhờ quyền thế phàm trần (d),
và dù phải xử dụng của cải trong khi thi hành sứ mệnh riêng nhưng không tìm kiếm
đặc ân; chỉ đòi hỏi tự do để rao giảng đức tin và bảo vệ nhân quyền cũng như sứ
mệnh của mình (e), do đó góp phần cho hòa bình và vinh danh Thiên Chúa (f).
86*
Muốn canh tân xã hội qua phạm vi chính trị, con người phải bắt đầu từ nội tâm: ở
đây và trong số 75d-f, Công Ðồng phác họa một chương trình căn bản về giáo dục
công dân:
1) Những đức tính chính yếu: công
bằng, lòng tử tế đối với đồng bào, ý muốn phục vụ công ích, lòng yêu quê hương,
sự ý thức về ơn gọi của tín hữu trong cộng đoàn. Tín hữu phải làm gương hoạt
động vì lương tâm, vâng lời với tinh thần tự do, có sáng kiến trong khi phải tôn
trọng đồng bào, biết cộng tác với người khác cả với những ai không đồng ý với
mình.
2) Phải hiểu rõ đặc tính cộng đoàn
chính trị; mục đích của chính quyền cũng như cách thức hành động trong những
giới hạn phải có.
3) Về hoạt động trong cộng đoàn,
phải biết chấp nhận sự kiện có người không đồng ý với mình nghĩa là tôn trọng
công dân và đảng phái có đường lối khác. Giáo dân có thể hoạt động trong những
đảng phái chính trị nào mưu ích chung. Và khi có đủ khả năng để dấn thân vào
cuộc đấu tranh chính trị, phải chuẩn bị trước (cần phải học biết lịch sử, kinh
tế, xã hội học, pháp lý, v.v...), phải từ bỏ tư lợi (kẻo dễ bị mua chuộc). Phải
trong sạch và khôn ngoan chống lại moị bất công và áp bức cũng như sự thống trị
chuyên chế và ngoan cố, bất cứ là của một cá nhân hay của một đảng phái. Chính
trị gia phải phát triển nhân đức thành thật, thanh liêm, thương yêu và can đảm
để phục vụ mọi người.
1
Xem Gioan XXIII, Tđ. Mater et Magistra: A AS 53 (1961), trg 417.
2
Xem n.t., n.v.t.
3
Xem Rm 13, 1-5.
4
Xem Rm 13, 5.
87*
Phải chăng người công giáo còn chưa ý thức đầy đủ về điều này? Vâng, tuân theo
lề luật quốc gia không phải vì sợ chính quyền, cũng không phải vì nhìn nhận rằng
muốn hưởng thụ tự do thì phải tôn trọng tự do kẻ khác. Nhưng vâng theo luật vì
lương tâm: vì biết rằng chính quyền là do Thiên Chúa muốn có và vì nhiệm vụ phải
phục vụ công ích. Dĩ nhiên các luật đó phải là luật công bằng và phục vụ cho
công ích; dĩ nhiên có trường hợp các luật lệ không bó buộc một người nào đó vì
những nguyên nhân "thác miễn" hay vì "thể ý pháp"; dĩ nhiên có nhà thần học chủ
trương rằng một số luật chỉ có tính cách hình luật thuần túy (một lập trường mà
các nhà thần học càng ngày càng từ bỏ...), nhưng nếu chúng ta chỉ biết đề cao
trường hợp luật trừ thay vì nhấn mạnh tính cách bó buộc của luật pháp, e rằng
chúng ta sẽ góp phần quá nhỏ vào việc canh tân xã hội.
5
Xem Piô XII, Sứ điệp truyền thanh 24-12-1942: AAS 35 (1943), trg 9-24; -
24-12-1944: AAS 37 (1945), trg 11-17. - Gioan XXIII, Tđ. Pacem in terris: AAS 55
(1963), trg 263, 271, 277-278.
6
Xem Piô XII, Sứ điệp truyền thanh, 1-6-1941: AAS 33 (1941), trg 200. - Gioan
XXIII, Tđ. Pacem in terris: n.v.t., trg 273-274.
88*
Ðức Piô XI (Quadragesimo anno, x. Dz 3738/2265-2266) tuyên bố nguyên tắc bổ trợ
dạy rằng, những cộng đoàn cấp trên không được giữ riêng cho mình tất cả những
việc mà các cộng đoàn cấp dưới có thể thực hiện được. Nguyên tắc có giá trị cho
quốc gia và các cộng đoàn trong quốc gia (trong Tuyên Ngôn về Giáo Dục Kitô giáo
Công Ðồng nhắc lại rằng phải áp dụng nguyên tắc trong phạm vi giáo dục, số 3b),
cho các quốc gia và xã hội quốc tế Pacem in terris, AAS 55 (1963), trg 294; và
số 86c sau này), cũng như cho các hội đoàn giáo dân và Giáo Hội (Piô XII, diễn
văn cho hội đồng các Ðức Hồng Y ngày 20-2-1946: AAS 38 (1946), trg 145). Sở dĩ
ta phải công nhận nguyên tắc trên là vì phẩm giá con người, cũng như vì bản thể
của xã hội là nhằm phục vụ công ích, chứ không phải chỉ vì lý do thực tế để
tránh xa những lạm dụng của các cộng đoàn trên.
Phải lưu ý: nguyên tắc không chỉ
cấm các cộng đoàn cấp trên, nhất là quốc gia, làm thay công việc của các cộng
đoàn cấp dưới một cách vô lý, mà còn nêu ra phương diện tích cực: trước hết là
quốc gia phải cung cấp cho công ích mọi điều các cộng đoàn cấp dưới không đủ khả
năng để làm (Populorum progressio, 33; 37; - Mater et Magistra: AAS 53 (1961),
trg 414), hơn nữa, quốc gia phải làm sao để giúp sức và phương tiện cho các cộng
đoàn cấp dưới (Mater et Magistra, n.v.t., trg 438-439).
Câu tiếp theo của Công Ðồng nhắc
lại cho chúng ta rằng sở dĩ quốc gia nhiều khi không tôn trọng nguyên tắc bổ trợ
là vì thái độ thiếu trách nhiệm của công dân.
7
Xem Gioan XXIII, Tđ. Mater et Magistra: AAS 53 (1961), trg 415-418.
8
Xem Piô XI, Huấn từ cho các vị lãnh đạo Hiệp Hội Ðại Học Công Giáo: Discorsi di
Pio XI: x.b. Bertetto, Torino, q.I (1960), trg 743.
89*
Lịch sử gần đây của nước nhà có thể nhắc lại cho chúng ta rằng thái độ ngược lại,
nghĩa là trông nhờ vào đặc ân của chính quyền, rất nguy hại cho chính sứ mệnh
của Giáo Hội. Hơn thế nữa, tìm kiếm đặc ân cho mình có thể vi phạm công bằng
phân phối. Vả lại, dù có thể không phạm lỗi gì nhưng việc tìm kiếm đặc ân đó
không thích hợp với sứ mệnh của Giáo Hội là phải phục vụ mọi người theo gương
của Chúa Giêsu, Ðấng đã không đến để được hầu hạ (Mc 10,45). Thái độ siêu thoát
và quảng đại như thế càng khó tìm thấy ở những xã hội thấm nhuần tinh thần kính
trọng các tôn giáo và các vị đại diện tôn giáo.
9
Xem CÐ Vat. II, Hiến chế tín lý về Giáo Hội Lumen gentium, số 13: AAS 57 (1965),
trg 17.
10
Xem Lc 2, 14.
|
VỀ MỤC LỤC |
|
TUYÊN NGÔN CỦA TÒA THÁNH VỀ VỤ TRUYỀN CHỨC GIÁM MỤC TẠI SÁN ĐẦU
BÊN TRUNG QUỐC |
Nguồn:
http://www.oecumene.radiovaticana.org/vie/Articolo.asp?c=505119
VATICĂNG: Đức Thánh Cha Biển Đức XVI tái khẳng định quyền của
các tín hữu công giáo Trung Quốc được tự do tuyên xưng đức tin
và đánh gía cao sự kháng cự của các Giám Mục và tín hữu đối với
một biến cố chống lại sự hiệp nhất của Giáo Hội. Ngài than phiên
về vụ truyền chức giám mục bất hợp pháp diễn ra ngày thứ năm
14-7-2011 tại Sán Đầu thuộc tỉnh Tứ Xuyên bên Trung Quốc.
Đức Thánh Cha đã bầy tỏ lập trường trên đây trong thông cáo do
Tòa Thành phổ biến sáng thứ bảy 16-7-2011. Thông cáo liên quan
tới việc truyền chức giám mục cho Linh Mục Giuse Hoàng Bích
Chương diễn ra ngày 14-7-2011 xác định như sau:
1. Linh
Mục Giuse Hoàng Bích Chương, đã được truyền chức mà không có sự
ủy nhiệm của Đức Giáo Hoàng và vì thế một cách bất hợp pháp, đã
mắc các hình phạt đề ra bởi khoản 1382 của Giáo Luật. Do đó, Tòa
Thánh không thừa nhận người như là Giám Mục của giáo phận Sán
Đầu, và người không có quyền cai quản cộng đoàn công giáo giáo
phận.
Linh Mục Hoàng Bích Chương đã được thông báo từ lâu là không thể
được Tòa Thánh chấp nhận như là ứng viên giám mục, xét vì giáo
phận Sán Đầu đã có một Giám Mục hợp pháp: nhiều lần linh mục
Hoàng được yêu cầu là đừng chấp nhận việc truyền chức giám mục.
2.
Từ nhiều nguốn tin khác nhau Tòa Thánh đã biết rằng có vài Giám
Mục, được chính quyền dân sự tiếp xúc, đã bầy tỏ ý muốn không
tham dự vào việc truyền chức bất hợp pháp, bằng các hình thức
kháng cự: mặc dầu vậy các Giám Mục vẫn bị bắt buộc tham dự.
Vì sự kháng cự của các vị nên phải ghi nhận rằng hành động đó có
công trước mặt Thiên Chúa và gợi lên sự cảm kích trong toàn Giáo
Hội. Cùng sự cảm kích ấy cũng có đối với các linh mục, các người
sống đời thánh hiến và tín hữu đã bênh vực các chủ chăn của
mình, bằng cách đồng hành với các vị trong lúc khó khăn này với
lời cầu nguyện và chia sẻ nỗi khổ đau sâu xa của các vị.
3.
Tòa Thánh tái khẳng định quyền của các tín hữu công giáo trung
quốc có thể hành động một cách tự do, theo lương tâm của mình,
trung thành với Người Kế Vị Thánh Phêrô và hiệp thông với Giáo
Hội hoàn vũ.
Đức Thánh Cha, sau khi biết được các biến cố này, một lần nữa
than phiền về việc Giáo Hội bị đối xử như thế tại Trung Quốc và
cầu mong có thể thắng vượt các khó khăn hiện nay mau chóng chừng
nào có thể.
Từ Vaticăng 16-7-2011 (SD 16-7-2011)
Linh Tiến Khải |
VỀ MỤC LỤC |
SƯỚNG – KHỔ
|
Chúa Nhật Thường Niên 15 A
Có một đề thi dành cho các thí sinh đau khổ
thuộc mọi lứa tuổi như sau: “Bạn hãy chứng minh bạn khổ.”
Thí sinh thứ nhất, một người đàn ông chừng
sáu mươi, chứng minh: Tôi lớn lên trong một gia đình nông dân
nghèo. Bố mẹ tôi quanh năm ‘bán mặt cho đất – bán lưng cho
trời’. Vì nhà nghèo nên tôi phải nghỉ học sớm để đi làm kiếm
tiền mưu sinh. Nghĩ mà tủi thân!...
Thí sinh thứ hai, một phụ nữ trẻ, dẫn
chứng: Tôi là người kém sức khoẻ. Từ nhỏ đã hay đau yếu. Mỗi lần
trái gió trở trời là tôi lại xụt xịt. Rất khó chịu!...
Thí sinh thứ ba, một thanh niên tuổi chừng
hăm mấy, viết ngay không chần chừ: Tôi chẳng có tài cán gì. Giữa
đám đông bạn bè, tôi chẳng biết ca hát. Mấy đứa bạn cứ trêu chọc
bảo tôi giọng ngang như cua bò. Bực tức và chán ghê!...
Thí sinh thứ tư toan đặt bút xuống viết thì
khựng lại. Rồi anh suy nghĩ có vẻ rất căng thẳng. Cuối cùng,
quyết định nộp giấy trắng.
Kết quả cuộc thi: Ba thí sinh đầu tiên được
1 điểm an ủi vì đã có… công viết. Còn thí sinh thứ tư thì phải
lên gặp thầy để trình bày rõ lý do tại sao lại để giấy trắng.
Trong giờ sửa bài, giáo sư nhận xét chung:
+ Các bạn không được điểm cao vì bài các
bạn không thể hiện được tư duy sâu sắc. Các bạn chỉ liệt kê
những điều không như ý xảy ra trong cuộc đời. Ai cũng làm được
như thế. Thực ra nó không đủ chứng minh rằng các bạn khổ vì góc
nhìn đó quá hẹp.
Rồi giáo sư quay sang thí sinh thứ tư và
hỏi:
+ Tại sao bạn để giấy trắng?
- Thưa giáo sư, thoạt đầu tôi cũng có
khuynh hướng vội vàng liệt kê như các bạn kia. Nhưng tôi chợt
giật mình…
+ Sao bạn lại giật mình?
- Dạ, xin cho phép tôi đứng lên trước mọi
người để trình bày được dễ dàng hơn.
Thế rồi cậu khập khiễng bước lên trên. Quay
xuống nhìn mọi người, cậu nở một nụ cười thân thiện. Người ta
thấy mặt cậu một bên bị nám đen. Cậu nói:
- Hồi tôi còn nhỏ, bố mẹ phải đi làm ngoài
đồng, chỉ có chị tôi và tôi ở nhà. Một hôm, chị đang nấu cơm thì
bị cháy nhà. Như quý vị thấy, tôi bị phỏng nặng, bây giờ vẫn còn
dấu cháy trên mặt. Năm tôi lên bảy, bố tôi qua đời. Một buổi tôi
đi học, một buổi tôi phải đi bán vé số ở khu chợ gần nhà để phụ
mẹ. Cách đây ít năm, trên đường đi nhà thờ về, có một chú kia
nhậu say lái xe tông vào tôi khiến chân tôi bị tật từ hồi đó.
Bây giờ mỗi khi trời trở lạnh, chân tôi cũng khá đau. Gần đây,
tôi thú thật là tôi yêu một người con gái, nhưng tôi thế này thì
làm sao xứng với người ta được!
Trong phòng lúc ấy có nhiều người. Giọng
cậu yếu ớt nhưng ai cũng nghe rõ vì bầu khí lặng im đến lạ
thường.
+ Nhưng sao bạn không viết những điều đau
khổ này vào bài thi?
- Dạ không, vì tôi giật mình. Tôi giật mình
khi tôi chợt nhớ lại lời của bạn tôi trong nhà thờ hôm Chúa
Nhật. Anh ấy nói với mấy người nghèo khổ rằng: “Anh em thật có
phúc.” Thế là tôi khựng lại để suy nghĩ. Rồi tôi nhận ra: để
chứng minh tôi thực sự khổ thì tôi phải chứng minh cho được rằng
tôi không có gì để hạnh phúc.
Mọi người càng chăm chú. Vị giáo sư lên
tiếng:
+ Hay! Xin lỗi bạn, tôi không phải là Kitô
hữu, vậy cho tôi hỏi anh bạn gì gì đó của bạn nói như thế nào về
việc may phúc khiến bạn thay đổi cách nhìn như thế?
- Dạ thưa giáo sư, bạn tôi tên là Giêsu.
Anh ấy nói: “Mắt anh em thật có phúc vì được thấy những điều
đang thấy, tai anh em thật có phúc vì được nghe những điều đang
nghe. Nhiều người mong mỏi được như anh em mà không được.” (Mt
13:16-17) Thưa giáo sư, lúc ấy tôi chợt nhìn thấy và nghe được
nhiều điều may mắn trong cuộc sống của tôi. Tôi có mẹ có chị.
Nhà chúng tôi tuy chẳng kín cổng cao tường nhưng đùm bọc nhau ấm
áp. Tôi có trái tim biết rung động. Tôi có lòng quảng đại. Tôi
có lương tâm. Tôi có bạn bè nói chuyện. Tôi có nhiều người cầu
nguyện cho tôi. Tôi được đi học. Tôi có trí khôn để nhận ra
trong cái xui có cái hên, tức là trong nghịch cảnh có ân sủng.
Ví dụ: Vì lớn lên trong cảnh khó khăn, tôi thấy mình biết cảm
thương với người nghèo hơn. Vì mang tật nguyền trên mình, tôi
hiểu được nỗi đau của tha nhân. Vì thấy mình giới hạn, tôi đặt
niềm tin vào Chúa nhiều hơn. À, cuối tuần nào tôi cũng được cùng
mẹ và chị đi Lễ với bà con chòm xóm để nghe Lời Chúa. Vui lắm!
Bạn thân mến, nếu bạn cùng chia sẻ cách
nhìn cuộc đời của thí sinh thứ tư này, mời bạn trở lại với lời
của Thầy Giêsu khi Thầy nói các môn đệ thật diễm phúc. Tụi mình
đây, so với các môn đệ hồi đó, không chừng còn có phúc hơn các
ngài vì tụi mình nghe và nhìn thấy nhiều điều hơn. Trong những
điều diễm phúc thí sinh này nêu lên, mình muốn dừng lại thêm một
chút ở diễm phúc được biết Chúa và nghe Lời Chúa. Tuy
tuổi đời còn non trẻ, mình đã được cơ hội nghe nhiều người, đặc
biệt những ai đã từng trải qua đau khổ, tâm sự rằng: “Không có
Chúa hiện diện, tôi không biết mình sẽ ra sao khi gặp bế tắc.
Không có Lời Người hướng dẫn, tôi không biết sẽ làm gì khi gánh
đời trĩu nặng, khi cô đơn lạc lõng, khi vất vả chán chường….
Trải qua nhiều biến cố thăng trầm, tôi nhận ra rằng điều may mắn
nhất của tôi trên đời này là được biết Chúa.”
Vâng, biết Chúa là một kho báu vô cùng quý
giá mà mình không thể nào diễn tả hết được. Bản thân mình đây,
mình chỉ có thể nói rằng mình được như hôm nay là nhờ được biết
Chúa, được Lời Chúa dẫn dắt cho dù nhiều khi mình chẳng trung
thành, chẳng vâng nghe, chẳng cộng tác với Người. Người biết hết
những tệ bạc của mình nhưng chẳng bao giờ bỏ mình cả. Một khi đã
biết Người, đã cảm nhận sự đồng hành yêu thương của Người trong
đời, mình sẽ không bao giờ dại dột bỏ Người đâu bạn ạ.
Xin được mượn những lời Kinh Thánh sau đây
như một tâm tình cầu nguyện để khép lại chia sẻ này:
“Cũng
như mưa với tuyết sa xuống từ trời
không trở về
trời nếu chưa thấm xuống đất,
chưa làm cho
đất phì nhiêu và đâm chồi nẩy lộc,
cho kẻ gieo
có hạt giống, cho người đói có bánh ăn,
11
thì lời Ta cũng vậy, một khi xuất phát từ miệng Ta,
sẽ không trở
về với Ta nếu chưa đạt kết quả,
chưa thực
hiện ý muốn của Ta,
chưa chu toàn
sứ mạng Ta giao phó.”
(Isaia 55:10-11)
Và một trong những Lời mà mình yêu thích
nhất là: "Tất cả những ai đang vất vả mang gáng nặng nề, hãy
đến cùng tôi, tôi sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng.” (Mt 11:28)
Giuse Việt, O.Carm.
Happy – Unhappy
Sunday, Ordinary Times, 15 A
There was a test for the students of
suffering, regardless their age. The question was simple: “Prove
that you are miserable.”
The first student, a man in his 60’s,
wrote: “I grew up in a poor farmer family. My parents worked
very hard in the field. Since we were poor, I had to stop going
to school to help earn a living. I feel sad when thinking about
it!...
The second student, a young lady, wrote: “I
am of poor health. I have often been sick since my childhood.
It’s easy for me to be under the weather. Very uncomfortable!
...
The third student, a man in his 20’s, wrote
without any hesitation: “I don’t have any talent. When my
friends get together, they sing but I don’t. They always tease
me since I can’t keep it in tune. So upset and discouraged! …
The fourth student was about to write when
he suddenly stopped. He then seemed very tense. Finally, he
decided to leave the paper blank.
The results of the test: The first three
all got 1 point as a reward for their…effort to write. The
fourth had to come see the professor to explain why he did not
write anything.
Then came the time for the professor’s
response. He gave a general comment:
+ You guys don’t get high marks because you
didn’t manifest your ability to think deep. You only listed the
things you didn’t like in your life. Anyone can do the same.
Your work didn’t actually prove that you were truly miserable
since your view was too narrow.
The professor then turned to the fourth
student and asked:
+ Why did you leave your paper blank?
- Mr. Professor, at first, I also had a
tendency to give a list of things I didn’t like. But I startled…
+ Why did you startle?
- Please allow me to come in front of
everyone. It’s easier for me to talk.
Then he limped over with difficulty to the
teacher’s platform. He graciously greeted everyone with a
friendly smile. People saw burnt marks on half of his face. He
began to speak:
- When I was young, my parents would work
on the farm far from home. My sister and I were home. One day my
sister was cooking when the house caught fire and was burnt to
the ground. As you see, I was badly burned and the marks are
still on my face. When I was seven, my dad passed away. So I had
to go around the local markets to sell lottery tickets (very
poor job) to help my mom earn a living. Then a few years ago, on
the way home from church, a drunk driver hit me and made me a
lame since. Now when it is cold, I feel a lot of pain in my leg.
Recently, I must confess, I have been in love with a girl, but
with my condition, how could I ever match her?
The room was crowded. His voice was quite
soft but everyone heard clearly what he was saying because a
great silence penetrated the room.
+ But why didn’t you write these down on
your paper?
- No, because I startled. I startled when I
unexpectedly recalled the words of my friend in the church last
Sunday. He told his poor friends: “Blessed are you.” This made
me stop and think. Then I realized that, in order to prove
that I am truly miserable, I must prove that I have nothing to
make me happy.
Everyone listened attentively. The
professor raised his voice:
+ Great! Sorry I am not a Christian, so
please let me ask about your some friend there. What did he
exactly say that changed your way of viewing things?
- My friend’s name is Jesus. He says: “Blessed
are your eyes because they see what they are seeing, and your
ears because they hear what they are hearing. For truly I tell
you, many people longed to see what you see but did not see it,
and to hear what you hear but did not hear it.” (Mt
13:16-17) At that moment, I began to hear and see lots of good
things in my life. I have my mom and my sister. Our home, though
not rich, is warmhearted. I have feelings. I have generosity. I
have a conscience. I have friends to talk to. I have many people
who pray for me. I have a chance to go to school. I have
intelligence to discover that good can come out of bad, meaning
there is grace in a plight. For example, since I grew up in
difficulty, I learned to sympathize more easily with the poor.
Since I am handicapped, I understand the pain of others. Since I
see that I am limited, I put more trust in God. Ah, each
weenkend, I have an opportunity to go to church with my mom and
sister and many neighbors to listen to God’s word. Fantastic!
You see, I have so much to be happy.
+++
My dear friend, if you share the view of
the fourth student, I’d like to invite you to go back to the
word of Jesus when he says that the disciples are blessed.
Compared with them, we may be even more blessed because we may
have heard and seen more. Among the blessings mentioned by this
student, I’d like to contemplate more on the blessing of
knowing God and God’s word. Although I am still ‘young’, I
have had opportunities to listen to different people who
confided in: “Without God’s presence, I don’t know how I would
be when landing in an impasse. Without God’s guidance, I don’t
know what to do when life gets heavy, when I am lonely, lost,
burdened, discouraged, etc. Having experienced many ups and
downs, I realize that the greatest blessing to me is to know
God.”
Yes, knowing God is a wonderful treasure.
As for me, I can only say that I am like today is thanks to
knowing God, being guided by God’s word although many times I am
not faithful, not listening to Him or cooperating with His
grace. He knows all my limitations and sins, but never abandons
me. Once I know Him and experience His loving company in my
life, I will never be foolish to leave Him.
I’d like to quote this following message as
a way to temporarily conclude this reflection:
“For just as
from the heavens the rain and snow come down
And do not return there till they have
watered the earth, making it fertile and fruitful,
Giving seed to him who sows and bread to
him who eats,
So shall my word be that goes forth from my
mouth;
It shall not return to me void, but shall
do my will, achieving the end for which I sent it.”
(Isaiah 55:10-11)
And, one of my favorite biblical passages
is: “Come to me, all you who labor and are burdened, and I
will give you rest.” (Mt 11:28)
Joseph Viet, O.Carm.
http://only3minutes.wordpress.com/tieng-viet/s%C6%B0%E1%BB%9Bng-%E2%80%93-kh%E1%BB%95/
http://only3minutes.wordpress.com/english/happy-%E2%80%93-unhappy/
|
VỀ MỤC LỤC |
|
Tám giám mục hiệp thông với Đức Giáo Hoàng buộc phải tham gia vụ
tấn phong bất hợp pháp tại Sán Đầu |
Đây
là vụ tấn phong đầu tiên kể từ khi giám mục bất hợp pháp tại Lạc
Sơn bị Tòa Thánh chính thức công bố vạ tuyệt thông. Khoảng 1500
người (trong số 140.000 tín hữu địa phương) đã tham gia buổi lễ.
Một số giám mục nói họ bị bắt buộc phải tham dự. Dù bị bắt buộc,
nhưng Đức Cha Pei Junmin đã có thể ở nhà, nhờ các linh mục của
ngài canh thức để bảo vệ.
Sán Đầu (AsiaNews) - Tám giám mục hiệp
thông với Đức Giáo Hoàng sáng nay đã tham gia lễ tấn phong bất
hợp pháp của LM Joseph Huang Bingzhang làm giám mục Sán Đầu
(Quảng Đông). Đây là vụ tấn phong thứ ba không có phép của giáo
hoàng tại Trung Quốc sau Thừa Đức (20 Tháng 11, 2010) và Lạc Sơn
(29 tháng 6, 2011). Đây cũng là vụ tấn phong bất hợp pháp đầu
tiên sau khi Tòa Thánh công khai tuyên bố vạ tuyệt thông trên LM
Joseph Lei Shiyin của Lạc Sơn và cảnh báo các giám mục phụ phong
về vạ tuyệt thông có thể đặt đến họ.
Ngày hôm
nay vụ tấn phong đã diễn ra tại nhà thờ St Joseph tại Sán Đầu,
đặt dưới sự chủ trì của GM Fang Xinyao (Lâm Nghi), chủ tịch Hiệp
hội Yêu nước Trung Quốc. Các giám mục phụ phong khác bao gồm GM
Shen Bin (Hải Môn), GM Liao Hongqing (Meizhou), GM Liang Jiansen
(Giang Môn), GM Gan Junqiu (Quảng Châu), GM Su Yongda (Trạm
Giang), GM Li Suguang, (GM phó Giang Tây), và GM Ông Zeqing
(Trùng Khánh).
Một linh mục có mặt tại buổi lễ nói với
AsiaNews là tất cả các giám mục đều đặt tay của mình trên LM
Huang. Tất cả tám GM đều đang hiệp thông với Đức Giáo Hoàng. Một
số nói với AsiaNews là họ đã phải tham gia vụ tấn phong. Có
khoảng 32 linh mục tham gia trong phụng vụ, bao gồm cả một số từ
giáo phận Sán Đầu.
Bảy linh mục nói tiếng Hak-ka, trong đó
có Đức Giám mục Zhuang Jianjian, đã không xuất hiện, ngài được
tấn phong giám mục bí mật với phép của Tòa Thánh Vatican năm
2006, nhưng chỉ được công nhận như là một linh mục bởi chính phủ
Trung Quốc, và đã từng bị sách nhiễu bởi Hiệp hội Công Giáo Yêu
Nước Trung Quốc.
Một linh mục từ Sán Đầu nói với AsiaNews
rằng ba phó tế, 16 nữ tu và hơn 1.500 người (tín hữu và khách
mời) tham dự buổi lễ, một ngàn trong nhà thờ và hàng trăm trong
các phòng kế bên. Con số này không cao nếu người ta biết rằng
giáo phận Sán Đầu có đến 140.000 tín hữu, 19 linh mục, 30 nữ tu
và 3 chủng sinh.
Công an tuần tra các tuyến đường dẫn vào
nhà thờ từ sáng sớm.
Sinh năm 1967, LM Hoàng Bingzhang học tại
chủng viện Vũ Xương (Vũ Hán) từ năm 1985. Thụ phong linh mục vào
năm 1991, ông phục vụ trong chức vụ linh mục giáo xứ tại nhà thờ
St Joseph. Từ năm 1998, ông đã phục vụ trong chức thành viên của
Quốc hội Nhân dân Trung Quốc trong ba nhiệm kỳ 5 năm. Ông cũng
là một trong các Phó Chủ tịch của Hiệp hội Yêu nước và Chủ tịch
Hiệp hội tại Quảng Đông của Hiệp hội Công Giáo Yêu Nước TQ.
Đức Cha Paul Pei Junmin của Liêu Ninh là
một trong các giám mục bị áp lực phải tham dự, tuy nhiên, ngài
và có lẽ một vị giám mục khác đã có thể tránh được vụ tấn phong.
Một linh mục từ Liêu Ninh nói với
AsiaNews là Đức Cha Pei và tất cả các linh mục trong giáo phận
đã đồng ý duy trì đức tin Công giáo và không tham gia vào vụ tấn
phong bất hợp pháp.
"Trong khi chúng tôi đang có một cuộc họp
của giáo phận trong các ngày 5-8 tháng bảy tại tòa giám mục, Đức
Giám mục Pei nói với chúng tôi là ngài đã được yêu cầu tham gia
sự kiện Sán Đầu. Ngài và tất cả các linh mục bày tỏ rõ ràng vị
trí của chúng tôi là không tham gia lễ tấn phong bất hợp pháp.
Vì vậy, chúng tôi đã ở lại cho đến sau khi cuộc họp xong và cho
đến ngày hôm nay, và cầu nguyện, "ông nói.
Phạm Hương Sơn tóm lược
|
VỀ MỤC LỤC |
|
LINH ĐẠO THỜI NAY (2)
|
THÁNH THIỆN VÀ TỘI LỖI
Chúng ta
thật bất ngờ với sự tương phản trong các bản văn của các Tông
Đồ, vì xem ra không có tồn tại một “vùng” nằm giữa sự thánh
thiện và tội lỗi. Phaolô, Gioan, Phêrô, Giacôbê lặp đi lặp lại
cùng một điều rằng: các môn đệ Đức Kitô được mời gọi nên thánh;
rằng mục tiêu của họ là sự thánh thiện; và rằng không có sự mặc
cả nào giữa Đấng Cứu Độ và Satan. Đây chỉ là một âm vọng của
điều Đức Kitô tuyên bố rằng chúng ta không thể đồng thời vừa
phục vụ Thiên Chúa vừa phục vụ Mammon được, “Ai không theo Ta
là chống lại Ta.” Tân Ước không có ý niệm gì về điều mà ngôn
ngữ hiện đại của chúng ta gọi là thỏa hiệp hay tương
nhượng. Tân Ước chỉ biết có hoặc trắng hoặc đen.
ĐÂU LÀ NÉT RIÊNG CỦA ĐỜI SỐNG THIÊNG LIÊNG HÔM NAY?
Câu hỏi kế
tiếp của chúng ta là: “Đâu là nét riêng của đời sống thiêng
liêng hôm nay?” Một cách căn bản, đời sống thiêng liêng thời nào
cũng vẫn vậy thôi. Thời nay nó có nghĩa không khác với thời
Thánh Phaolô, đó là: một sự nhiệt tình đáp trả Thánh Thần của
Thiên Chúa. Ai nhiệt tình đáp trả hơn thì thánh thiện hơn. Ai ít
nhiệt tình đáp trả hơn thì ít thánh thiện hơn. Và ai không nhiệt
tình đáp trả thì không thánh thiện.
Tuy nhiên,
nói vậy cũng chưa hết ý, vì thời nào cũng có những nét riêng –
và chính những nét riêng này làm cho mỗi giai đoạn lịch sử của
Giáo Hội có tính độc đáo của nó. Nhưng trước khi chúng ta đề cập
bất cứ điều gì là riêng của thời đại mình, cần phải ghi nhận một
điều quan trọng: thế giới vào bất cứ thời điểm nào cũng không
đồng nhất ở khắp mọi nơi. Dù chúng ta đang có những phương tiện
truyền thông nhanh chóng giữa các dân tộc, các quốc gia, thì
tình hình cũng không hẳn như thế tại nhiều vùng trên thế giới.
Nam Phi thì không phải là Nam Mỹ, và - như các sinh viên của tôi
nói với tôi - Hoa Kỳ thì không phải là Uganda. Trung Quốc và Nga
không giống với Canada và Tây Ban Nha, và những khác biệt không
duy chỉ ở ngôn ngữ và khí hậu. Vì thế chúng ta cần bảo đảm mình
không vồ vập khái quát hóa về thời hiện đại. Bạn phải luôn cần
tự hỏi: “Ở đâu?”
SỰ SUNG TÚC VÀ TÂM HƯỚNG XÃ HỘI
Sau khi
lưu ý những điều hiển nhiên ấy, chúng ta có thể nhận diện đặc
nét của thế giới phương tây (Âu Mỹ) trong một số điểm tổng quát
để giúp chúng ta hiểu hơn những gì nên xác lập là nét riêng của
linh đạo ngày nay. Tính tới cả những ngoại lệ, chúng ta có thể
mô tả thế giới này, thế giới hôm nay, được đặc trưng bởi sự sung
túc và bởi tâm hướng xã hội. Nói vậy tôi không có ý cho rằng mọi
người đều sung túc hay đều có tâm hướng xã hội. Nhưng hiện tượng
làm giàu và xu hướng về tính cộng đồng là những điều quá rõ
không thể chối cãi. Chúng có thể mách với chúng ta một điều gì
đó liên quan đến phẩm chất của đời sống thiêng liêng trong thế
giới hôm nay.
SỰ SUNG TÚC VÀ TÌNH TRẠNG NGHÈO ĐÓI CÓ LIÊN QUAN
Sung túc!
Có quá nhiều đoạn Thánh Kinh nói về những nguy hiểm do của cải
mà người tín hữu không thể không lưu ý. Quan trọng nhất là những
lời tuyên bố của Đức Kitô sau khi Ngài mời một thanh niên giàu
có đi theo Ngài. Và như Matthêu cho biết, khi chàng thanh niên
nghe những lời này, anh ta đã buồn rầu bỏ đi, bởi vì anh ta có
nhiều của cải. Đó là lúc mà Đấng Cứu Thế nói với các môn đệ của
Ngài: “Ta bảo thật anh em, người giàu vào Nước Trời thật khó
biết bao. Vâng, con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn một người
giàu vào Nước Trời.” Khi các môn đệ nghe như vậy, họ sửng
sốt. Họ hỏi: “Vậy thì ai có thể được cứu?” Đức Giêsu nhìn các
môn đệ và nói: “Với con người thì không thể được, nhưng đối
với Thiên Chúa thì mọi sự đều có thể.”
Rõ ràng,
hiện tượng sở hữu nhiều của cải vật chất tại các nước giàu có
hôm nay đặt ra một trách nhiệm to lớn cho bất cứ ai còn muốn đi
theo Đức Kitô (chứ không muốn buồn rầu bỏ đi như chàng thanh
niên nọ).
Chúng ta
được vây quanh bởi cơ man những điều tốt lành của thế giới này.
Chúng ta đang sống trong nền văn minh với tuổi thọ của con người
được kéo dài nhất và với nhiều phương tiện giải trí nhất so với
bất cứ thời nào khác trong lịch sử loài người. Chúng ta đang
được bao trùm bởi quá nhiều tiện nghi, quá nhiều phúc lợi, quá
nhiều thuốc giảm đau và thuốc tăng lực. Quá nhiều sự dễ chịu và
quá nhiều thú vui đang ở trong tầm tay của chúng ta. Chỉ cần
nhấn nút là chúng ta có gió mát rượi giữa mùa hè hoặc được sưởi
ấm trong mùa đông. Chúng ta có thuốc dưỡng da, thuốc dưỡng tóc,
thuốc nhuộm, nào là dạng kem, dạng bột, dạng hơi... Ở Mỹ, đám
chó và mèo của chúng ta ăn những thức ăn tốt hơn của hàng triệu
người ở Á Châu và Phi Châu. Chúng ta tiêu thụ nhiều thịt hơn,
nhiều đường hơn, nhiều rượu hơn, và chúng ta đi lại nhiều hơn
với tốc độ cao hơn so với thậm chí những gì mà cách đây một thế
kỷ người ta dám tưởng tượng. Đâu có gì phải ngạc nhiên việc các
nhà dân số học nhún nhường gọi các quốc gia khác là chưa phát
triển, bởi vì theo các tiêu chuẩn của chúng ta, họ không có được
sự sung túc như chúng ta.
Chúng ta
đừng bảo rằng tất cả những điều này đều không phù hợp với đời
sống thiêng liêng hay đều không quan trọng trong cuộc theo đuổi
sự thánh thiện. Ở đâu có nhiều của cải, ở đó cũng phải có nhiều
hơn tinh thần nghèo khó, nếu chẳng vậy thì chúng ta chỉ nói về
sự thánh thiện hay đọc về hạnh các thánh mà thực sự chúng ta
không bao giờ lớn lên trên con đường nên thánh.
Tôi xác
tín rằng trong khi thời nào thì tiền bạc cũng là gốc rễ của mọi
sự dữ, như Thánh Phaolô đã khẳng định mạnh mẽ, thì trong một số
nền văn hóa hiện đại hễ sự sung túc lan rộng bao nhiêu, việc
thực hành khó nghèo càng cần phải mở rộng bấy nhiêu. Phanxicô
Bernadone đã trở thành Phanxicô Assisi, bởi vì trong tư cách là
con trai của một thương nhân giàu có, chàng đã bỏ mọi của cải để
theo Đức Kitô. Chàng đã trở thành một “Phan sinh”, bởi vì trước
hết chàng từng là một người giàu có, bởi vì chàng đã có những
địa vị để mà bỏ, để mà hy sinh. Chúng ta cần thứ mẫu gương này
hôm nay để lay động, giúp ta tỉnh giấc mê. Khác với Phanxicô,
chúng ta có quá nhiều thứ để hy sinh hơn là ta tưởng. Phanxicô
có ơn của ngài, chúng ta cũng có ơn của chúng ta. Nhưng nếu
chúng ta không học biết chia sẻ những gì mình có dư dật, không
học biết hy sinh một điều khi nó làm suy yếu nhiệt tình của mình
đối với Đức Kitô, không từ bỏ điều gì đó để có thể đảm nhận thập
giá của Ngài, ... thì bài học của thời đại sung túc này sẽ bị
chúng ta bỏ vụt mất.
Vì thế,
nét nổi bật trước hết của linh đạo thời nay là - và phải là -
tinh thần nghèo khó. Điều này có nghĩa rằng ta phải có một tinh
thần siêu thoát thực sự đối với cơ man những thứ dễ chịu mà xã
hội sung túc đang cung ứng cho ta. Dĩ nhiên không nhất thiết
chúng ta phải trở nên nghèo nàn trong thực tế, nói cách chung,
trừ phi đó là ơn gọi riêng của mình trong đời sống. Các tu sĩ
không thể tự thỏa mãn với chỉ một “tinh thần” nghèo khó – họ
phải nghèo thực. Tinh thần nghèo khó đòi chúng ta phải biết thời
của mình đang sống là thời nào, và biết bổn phận của chúng ta là
không được thỏa hiệp với thế giới vốn đang cố lôi kéo mình.
TÂM HƯỚNG XÃ HỘI VÀ THỰC HÀNH BÁC ÁI PHỔ QUÁT
Tâm hướng
xã hội! Nếu thời của chúng ta là thời tích lũy của cải, thì đây
cũng là thời của tâm hướng xã hội. Đây có lẽ là từ ngữ tốt nhất
để mô tả cách hàm súc hàng loạt những phẩm chất vốn qui hướng
vào bản chất xã hội của con người. Con người vừa là những cá
nhân vừa là thành viên của xã hội, và không có giai đoạn nào
trong lịch sử mà hai khía cạnh này bị quên lãng. Nhưng con người
của thời hiện đại có mối quan tâm cách riêng tới chiều kích xã
hội của hiện sinh mình, hơn bất cứ thời nào trước đây, có lẽ vì
trước đây con người chưa từng có được những khả năng như thế.
Bạn có biết rằng thực tế là mọi khoa học xã hội đều chỉ mới xuất
hiện trong chỉ vài trăm năm trở lại đây thôi không?
Một số
người sẽ tìm manh mối của ý thức xã hội này ở một phản ứng chống
lại chủ nghĩa cá nhân thô kệch vốn là phó sản của cuộc cách mạng
công nghiệp. Chắc chắn chủ nghĩa Mác đã đổi tên thành chủ nghĩa
cộng sản, như một phản ứng bạo liệt trước những sự lạm dụng rõ
ràng của chủ nghĩa tư bản. Và phong trào tiến tới một xã hội tập
thể ít nhất phần nào đó được giải thích bởi sự tham lam của
những cá nhân trong chính quyền, trong giới tài chánh, kỹ
nghệ... sự tham lam mà những người theo chủ trương tập thể tuyên
bố rằng mình có khả năng đề kháng. Nhiều người khác thì sẽ nói
rằng ý thức xã hội của chúng ta là một câu trả lời cho tiếng kêu
khắp nơi hướng vọng nền hòa bình giữa các quốc gia từng trải qua
những thống khổ tận cùng của hai cuộc chiến tranh thế giới, và
vẫn còn lo sợ một cuộc thế chiến thứ ba, lần này sẽ là chiến
tranh hạt nhân, là thảm họa thực sự. Chúng ta hoặc cách nào đó
ngồi lại với nhau và dàn xếp những khác biệt của mình một cách
hữu nghị, hoặc là chúng ta sẽ tiêu diệt nhau, và như vậy trận
chiến cuối cùng sẽ mở màn. Với những tiền đề này, sự chọn lựa sẽ
hoặc là liên kết và sống còn, hoặc là đối đầu và hủy diệt toàn
thế giới.
Rõ ràng là
những yếu tố ấy đã đóng góp vào bức tranh lớn. Nhưng tôi không
nghĩ chúng là những yếu tố chủ yếu để giải thích tại sao thế
giới hiện đại của chúng ta quan tâm tới con người trong tư cách
là hữu thể có xã hội tính đến thế. Tôi tin rằng lý do
chính nằm ở sự phát triển liên lạc xuyên qua mọi hình thức
truyền thông: điện thoại và điện tín, radio và truyền hình,
radar và máy điện toán, phim ảnh và những ứng dụng của nó, và sự
liên lạc nhanh chóng của người ta trong một quốc gia và giữa các
quốc gia. Việc đề cập đến tất cả những ‘sự đời’ này trong một
thảo luận về đời sống thiêng liêng không hề là một chuyện ngớ
ngẩn; chỉ cần chúng ta đọc lại những gì Đức Phaolô VI đã nói
liên quan đến các phương tiện truyền thông xã hội. Bản văn, có
hai đoạn, cần phải được đọc toàn bộ. Tôi xin trích dẫn:
Các kênh
truyền thông xã hội, ngay cả dù chúng nhắm nói với các cá nhân,
chúng vẫn tác động đến toàn xã hội. Chúng thông tin cho một đại
chúng mênh mông về những gì đang diễn ra trên thế giới và về
những thái độ của con người đương thời, và chúng làm công việc
đó một cách tức thì.
Điều này
hoàn toàn trùng hợp với quan niệm Kitô giáo về cách mà người ta
nên sống với nhau. Những tiến bộ kỹ thuật ấy có mục đích tích
cực là đem con người lại gần nhau. Bằng cách chuyển trao những
niềm hy vọng và những nỗi ưu tư chung, chúng giúp người ta tìm
phương giải quyết. Một sự đánh giá mang tinh thần Kitô giáo về
sự đóng góp mà truyền thông mang lại cho thiện ích của nhân loại
sẽ bắt rễ trong nguyên tắc căn bản này.
Vì thế, sẽ
là sai lầm nếu không đánh giá đúng mức các phương tiện truyền
thông xã hội như một dấu chỉ của linh đạo thời nay. Linh đạo
này, ngay cả ở chiều hướng hướng nội và chiêm niệm nhất, vẫn
phải ý thức hơn bao giờ hết đến những con người khác và đồng cảm
sâu sắc với các nhu cầu của họ.
Thánh
Phaolô, với tất cả những quan tâm của ngài đối với tất cả các
giáo đoàn, sẽ nói gì về mối quan tâm mà các môn đệ Đức Kitô hôm
nay cần phải có đối với con người ngày nay, khi chúng ta ngày
này qua ngày khác được tiếp cận với những thử thách và bi kịch
của người ta trên khắp hành tinh này? Các phương tiện truyền
thông quả là một xúc tác cho việc thực hành bác ái! Là người đã
di chuyển không mệt mỏi để rao giảng Đức Kitô trong thời của
mình, Thánh Phaolô sẽ làm gì hôm nay nếu ngài nắm trong tay các
phương tiện (mà chúng ta đang có) để có thể tác động đến không
chỉ một hay một chục hay thậm chí một ngàn linh hồn, nhưng quả
thực là có thể tác động đến toàn thể các dân tộc bằng lời của
Tin Mừng và bằng gương sáng đời sống thánh thiện?
Không ai
coi nhẹ tầm quan trọng hàng đầu của sự kết hiệp với Thiên Chúa
qua cầu nguyện và việc chế ngự các đam mê của mình bằng những hy
sinh. Đời sống thiêng liêng phải cắm rễ sâu nếu cành lá của nó
muốn vươn rộng. Hay dùng một hình ảnh khác, đời sống thiêng
liêng phải nối kết với suối nguồn ân sủng thần linh nếu nó không
muốn cạn khô trong các hoạt động tông đồ. Nhưng bên cạnh những
gốc rễ hay suối nguồn đó, ngày nay đời sống thiêng liêng còn
phải có một tầm nhìn đủ rộng. Nghĩa là, ta không được bó mình
trong góc nhìn hẹp hòi, thiển cận.
Trong Sách
Linh Thao của ngài, Thánh Inhaxiô đặt vào môi miệng Chúa Kitô
những lời sau đây: “Ta muốn chinh phục toàn thể thế giới và tất
cả các kẻ thù của Ta, để đi vào trong vinh quang của Cha. Bất cứ
ai muốn đến với Ta phải làm việc với Ta, và một khi bước theo Ta
trong đau khổ thì người ấy cũng sẽ bước theo Ta trong vinh
quang.” Tiếng gọi này của Chúa Kitô Vua vốn đã từng vang lên
bằng những lời tương tự cách đây ngót hai ngàn năm. Chúng ta
được đặc ân làm cho lời kêu gọi của Ngài phát huy hiệu quả phi
thường trong thế giới tương giao và in đậm ý thức xã hội của
chúng ta hôm nay.
Điều này
có nhiều hàm ý cụ thể. Nó sẽ mở rộng quả tim chúng ta để nhìn
quá công việc mình đang làm và hướng tới bao triệu người đã được
cứu chuộc bằng chính Máu của Chúa Kitô. Không còn như những thời
trước nữa, dân chúng Á Châu và Phi Châu chẳng còn quá xa chúng
ta, vì ngày nay khoảng cách không còn đo bằng cây số, mà chỉ
bằng số giờ cần để đi đến một nơi. Với những trái tim rộng mở,
chúng ta sẽ mở rộng lời cầu nguyện của mình để bao gồm không chỉ
một ít mà là nhiều linh hồn, và chúng ta cầu xin ân sủng Chúa,
ân sủng vô hạn, tuôn đổ chan hòa trên toàn nhân loại hôm nay.
Một khi
chân trời của chúng ta mở rộng, ta tự khắc sẽ hỏi chính mình:
“Đâu là vinh quang lớn hơn nữa mà tôi có thể dâng cho Chúa trong
bất cứ điều gì mình đang làm? Bằng cách nào tôi có thể tác động
đến không chỉ một ít người tiếp xúc trực tiếp với mình, mà vượt
quá không gian nhỏ hẹp xung quanh tôi để tác động đến hàng ngàn
người khác, những người mà nếu tôi không góp phần giúp họ, họ sẽ
biết Chúa ít hơn, hay yêu Chúa ít hơn, hay phục vụ Chúa với ít
lòng quảng đại hơn?”
Tôi hiểu
rằng nói như vậy có thể nghe lạ lẫm đối với một số người và ngay
cả không thể hiểu được đối với nhiều người khác. Không sao. Với
tất cả triển vọng của thế giới nối kết hôm nay, tôi sẵn sàng hài
lòng dù chỉ một ít người chia sẻ với các thao thức của mình. Bạn
hãy xem đi, tầm nhìn của Đức Kitô về tương lai luôn mang tầm vũ
trụ đó chứ. Ngài đôn đốc các môn đệ rao giảng Tin Mừng cho mọi
loài thụ tạo. Ngài bảo họ làm chứng cho Ngài cho đến tận cùng
trái đất. Và trong Sách Khải Huyền của Thánh Gioan, Ngài đưa ra
một tiên báo đầy ấn tượng về cuộc chiến đấu để chiếm chủ quyền
trên toàn thế giới giữa một bên là các môn đệ Ngài và bên kia là
các tay chân của thần dữ. Qui mô toàn cầu này thật ngoạn mục đó
chứ, phải không? Ngày nay chúng ta được may mắn có cơ hội để mở
rộng linh đạo của mình và kích hoạt nhiệt tâm tông đồ cho đến
tận cùng thế giới, hay nói như Thánh Phaolô: “Mang hết mọi
dân nước về qui phục đức tin, vì Danh Đức Kitô”.
THIÊN
PHONG
dịch từ
“Contemporary Spirituality” của Cha John A. Hardon, S.J.
(+2000), Tôi Tớ Chúa. |
VỀ MỤC LỤC |
|
Chiếc bánh thứ hai:
Phân
biệt giữa Chúa và việc của Chúa. |
Thật đúng vậy, Chúa
Giêsu là một người bạn hay đòi hỏi, hay chỉ cho ta nhắm những
mục đích cao cả, ... Hãy đạp đổ những rào cản của nông nỗi và sợ
hãi bao vây các bạn! Hãy nhận ra mình là những “con người mới”.
(Gioan Phaolô II, Sứ
điệp NQTGT XII, số 3)
Lúc tôi còn là một
linh mục sinh viên ở Roma, có một người đã bảo tôi: “Đức tính
lớn nhất của bạn là ‘hăng say nhiệt tình’, còn tính xấu tệ nhất
là ‘hay tấn công’”. Dù thế nào đi nữa, tôi là một người ham
hoạt động: hướng đạo sinh, tuyên úy tráng đoàn Lavang, cắm trại
trên núi Bạch mã... Một tư tưởng thúc bách tôi mỗi ngày: phải
chạy đua với đồng hồ! Làm tất cả những gì có thể được để củng
cố và phát triển Giáo hội trong Giáo phận Nha Trang, trước khi
thời gian khốn khó xảy đến, khi phải sống dưới chế độ cộng sản!
Trọng tâm hoạt động
của tôi là huấn luyện nhân sự: gia tăng đại chủng sinh từ 42
đến 147 trong tám năm; gia tăng số tiểu chủng sinh từ 200 đến
500 trong bốn chủng viện; tu nghiệp các linh mục trong sáu giáo
phận của Giáo tỉnh miền Trung; phát triển và huấn luyện các
phong trào thanh niên, giáo dân, các hội đồng giáo xứ, mục
vụ... Tôi rất quí mến giáo phận đầu tiên của tôi là Nha Trang.
Giờ đây, tôi phải đi
vào Sàigòn lập tức, theo lệnh Đức Phaolô VI bổ nhiệm. Không kịp
từ biệt những ai đã từng hiệp nhất với tôi trong cùng một lý
tưởng, cùng một quyết tâm, cùng chia sẻ hân hoan và thử thách.
Đêm ấy 7-5-1975, khi
tôi ghi âm những lời tạm biệt Giáo phận Nha Trang, tôi đã khóc
nhiều, đó là một lần độc nhất tôi đã khóc nhiều, đó là một lần
độc nhất tôi đã khóc thổn thức trong tám năm ở Nha Trang - vì
thương nhớ. Nhưng tâm hồn tôi rất bình an, vì tôi vâng lời Đức
Thánh Cha.
Tiếp đến là gian khổ
thử thách tại Sàigòn, là bị bắt đưa trở lại Nha Trang, nơi mà
tôi đã bị biệt giam khắc nghiệt nhất, không xa Tòa Giám mục của
tôi. Sáng tối tôi nghe tiếng chuông nhà thờ chánh tòa như xé
nát tim tôi. Đêm đến tôi nghe tiếng sóng biển vỗ cạnh buồng
biệt giam.
Từ Nha Trang tôi bị
đưa trở lại Sàigòn, ở trại Thủ Đức, vùng Tam Hà, ngày đêm nghe
không biết bao nhiêu tiếng chuông nhà thờ. Đêm 1-12-1975, cùng
với 1500 bạn tù đói, mệt, chán nản, còng tay hai người chung một
khóa số 8, bước xuống gầm tàu “Hải Phòng” đậu tại bến Tân cảng
gần cầu Xa lộ, để chở ra trại cải tạo Vĩnh Quang, tỉnh Vĩnh Phú,
trong thung lũng núi Tam Đảo, mùa đông 1976-77 rét 2°C.
Đặc biệt nhất là nỗi
gian khổ của 9 năm biệt giam một mình với hai người gác, không
bạn bè, không có việc làm, tôi ở trong một sự trống rỗng tuyệt
đối, đến mức có thể điên đi được. Tôi đi lại suốt ngày trong
buồng giam, để vận động cơ thể kẻo nằm luôn thì tôi sẽ chết vì
thấp khớp, viêm phổi.
Nhiều lúc một mình,
tôi bị đau khổ giày vò, tại sao đang lúc mình 48 tuổi, trưởng
thành và khỏe mạnh, sau tám năm Giám mục tôi đã có nhiều kinh
nghiệm mục vụ, lại phải vào phòng biệt giam, xa giáo phận những
1700 km?
Một đêm thanh vắng,
một tiếng từ đáy lòng nhắc nhở tôi: “Tại sao con quẫn trí,
hoang mang như thế làm gì? Con phải biết phân biệt giữa Chúa
và công việc của Chúa. Những gì con đã làm và tiếp tục làm như
kinh lý giáo phận, huấn luyện nam nữ tu sĩ, giáo dân, thanh
niên, kiến thiết thánh đường, cư xá sinh viên, mở mang các thí
điểm truyền giáo... tất cả những công tác ấy đều là những việc
tốt lành, là việc của Chúa, nhưng không phải là Chúa! Nếu Chúa
muốn con trao tất cả các việc ấy trong tay Ngài, con hãy làm
ngay, và hãy tin tưởng vào Ngài. Chúa có thể làm tốt hơn con
muôn nghìn lần; Ngài có thể trao việc của Ngài cho những người
tài đức hơn con. Hãy chọn một mình Chúa thôi, chọn thánh ý
Ngài, chứ đừng chọn việc của Chúa!”
Tôi luôn luôn học tập
làm theo ý Chúa. Nhưng ánh sáng này mang lại cho tôi một sinh
lực mới, thay đổi tận gốc lối suy nghĩ của tôi, giúp tôi vượt
qua những bước gian truân mà hầu như cơ thể không chịu đựng
nổi. Từ đây tôi cảm thấy trong lòng tôi “một sự bình an mà thế
gian không cho được”.
Theo tính tự nhiên,
những lúc chương trình đang thực hiện tốt đẹp phải bỏ dở, hoạt
động đang hăng say phải bó tay, nhiệm vụ đang quan trọng phải hạ
tầng công tác! Uất ức và chán nản! Tôi tự hỏi: Chúa gọi con
“Hãy theo Thầy” hay “Hãy theo việc nọ, người kia?” Để đó, Chúa
sẽ liệu, Ngài sẽ giải quyết tốt hơn con là cái chắc.
Ở trại Phú Khánh, tôi
bị giam trong một phòng không có cửa sổ, phải đi qua 3 lớp cửa
trong một hành lang mới đến khí trời. Vào đó nóng cực kỳ, tôi
ngột ngạt và cảm thấy trí óc mất sáng suốt dần dần, cuối cùng là
mê man. Có lúc người ta để đèn sáng như ban ngày, lúc khác lại
nằm trong bóng tối. Buồng vừa nóng vừa ẩm, đến nỗi tôi xuống
nằm dưới nền, còn nấm thì mọc lên trắng cả chiếc chiếu của tôi.
Lúc nằm trong tối tăm, tôi thấy có một lỗ dưới vách, ánh sáng
lọt vào, tôi lết đến, kê mũi vào đó để thở. Lúc nào trời mưa,
nước ở ngoài ngập, những con trùng ở ngoài bò vào, có cả giun và
có lần có cả con rết dài; dù thấy vậy, nhưng tôi yếu mệt quá
không làm gì được, tôi cứ để cho chúng bò quanh, ngày nào nước
xuống, thì chúng lại bò ra. Sau này hai linh mục bị giam cách
tôi 2 lớp cửa, đã thuật lại cho tôi biết: “Một hôm cô Thanh,
cấp dưỡng, đã mỡ cửa cho chúng con ra đứng nhìn Đức Cha nằm dưới
đất và bảo: cho hai anh nhìn thấy ông Thuận, ông sắp chết!”
Nhưng trong cơn cơ cực này, Chúa đã cứu tôi!
Tôi phải chọn Chúa
chứ không phải việc của Chúa: Chính Chúa muốn cho tôi ở đây,
chứ không phải nơi khác.
Lúc tôi bị nhốt dưới
khoang tàu Hải Phòng cùng với 1500 anh em tù nhân bị đưa ra Bắc,
tôi đã thấy trên nét mặt của họ nỗi thất vọng, lòng căm thù.
Tôi chia sẻ đau khổ của họ. Nhưng tôi lại nghe tiếng: “Hãy
chọn Chúa chứ không phải việc của Chúa!” Tôi đã thưa: “Lạy
Chúa, chính đây là nhà thờ chánh tòa của con. Đây là dân Chúa
trao cho con phục vụ, con phải làm cho Chúa hiện diện giữa những
người anh em chán nản, cùng khổ này. Đây là ý Chúa, nên con
phải chọn”.
Khi tôi lên trại cải
tạo, giữa thung lũng núi Tam Đảo, tỉnh Vĩnh Phú, tôi gặp 250 anh
em cùng một chuyến đi, đa số không Công giáo, tôi vẫn nghe tiếng
ấy thúc bách: “Hãy chọn Chúa chứ không phải việc của Chúa. -
Lạy Chúa, Chúa sai con đến đây để làm cho tình thương của Chúa
hiện diện giữa các anh em con, giữa đói khát và giá lạnh, giữa
lao động cải tạo nhọc nhằn và tủi nhục bất công. Con xin chọn
Chúa, không phải chọn công việc của Chúa. Con chọn thánh ý
Chúa, giờ đây con là tông đồ truyền giáo của Chúa”.
Từ giây phút ấy, một
sự bình an mới tràn ngập tâm hồn tôi, ở với tôi suốt 13 năm tù
đày. Tôi cảm thấy thấm thía sự yếu hèn của tôi; tôi lặp lại sự
chọn lựa của tôi, lúc ấy không bao giờ Chúa để lòng tôi thiếu an
bình. Tất cả là hồng ân của Chúa. Mỗi khi tôi tuyên bố: “Vì
Chúa, vì Hội thánh”, tôi phải thinh lặng trước mặt Chúa, và
thành thật hỏi Chúa: “Chúa thấy con hành động hoàn toàn vì ai?
Con đã chọn vinh danh Chúa, sống và hành động tuyệt đối vì
Chúa? hay Chúa là lý do thứ yếu, còn lý do khác mạnh hơn, con
không tiện nói?”
Đây là một sự chọn lựa
tuyệt vời, nhưng không phải dễ dàng. Đức Gioan Phaolô II kêu
gọi các bạn :
Các bạn trẻ thân
mến, như các môn đệ thuở ban đầu, hãy theo Chúa Giêsu! Đừng sợ
lại gần Chúa ... Đừng sợ ‘cuộc sống mới’ mà Chúa muốn trao cho
các bạn vì chính Ngài cho các bạn đủ sức đón nhận và thực hiện
cuộc sống ấy, Ngài ban ân sủng của Ngài và Thánh thần của Ngài
cho các bạn.
(Gioan Phaolô II, Sứ
điệp NQTGT XII, số 3)
Đức Thánh Cha lại lấy
gương thánh nữ Têrêxa Hài đồng Giêsu để soi sáng các bạn trẻ :
Hãy cùng Têrêxa
tiến lên trên đường khiêm nhường và đơn sơ, trong tinh thần Công
giáo trưởng thành, trong trường học của Phúc âm. Hãy cùng
Têrêxa sống trong “quả tim” của Hội thánh, và triệt để chọn Đức
Kitô.
(Gioan Phaolô II, Sứ
điệp NQTGT XII, số 9)
Cậu bé trong Phúc âm
đã có sự chọn lựa triệt để ấy, cậu đã hiến dâng tất cả: Năm
chiếc bánh và hai con cá, trong tay Chúa Giêsu với lòng tin
tưởng. Thế rồi Chúa Giêsu đã làm “việc của Chúa”: với chừng
ấy, Ngài đã nuôi cả năm ngàn, cả vạn người!
Cầu Nguyện
Chúa và việc của Chúa
Vì lòng thương vô
hạn,
Chúa
gọi con theo Chúa,
làm con
Chúa, làm môn đệ Chúa.
Rồi Chúa trao cho
con một sứ mạng.
Không ai giống ai,
nhưng cùng một mục đích
làm
tông đồ, làm chứng nhân cho Chúa.
Tuy nhiên, kinh
nghiệm bản thân cho con thấy,
nhiều
lần con lẫn lộn hai điều này:
Chúa và việc của
Chúa.
Chúa trao cho con
công việc của Chúa,
cao
trọng có, khiêm tốn có,
tầm cỡ
có, bình dân có.
Con làm mục vụ giáo
xứ,
mục vụ
giới trẻ, mục vụ học đường,
mục vụ
nghệ thuật, mục vụ gia đình,
mục vụ
thanh niên, mục vụ lao động,
mục vụ
truyền thông.
Con đổ vào đó tất
cả nhiệt tình,
tất cả
những gì có thể được.
Con không tiếc một
điều gì, kể cả mạng sống con.
Giữa lúc con tận
tụy, hăng say như thế,
con gặp
thất bại ê chề.
Vì người ta vô ơn,
vì không ai chịu cộng tác,
vì bạn
bè hiểu lầm, vì bề trên không nâng đỡ,
vì bịnh
tật ốm đau, vì thiếu phương tiện...
Có lúc con đang
trên đà thành công rực rỡ,
mọi
người hân hoan ca ngợi con, quyến luyến con.
Thì đùng một cái,
con
phải thuyên chuyển,
nhận
nhiệm vụ mới.
Con choáng váng
như rơi vào đêm tối.
Sao Chúa bỏ con?
Con không muốn bỏ
dở việc Chúa,
con
phải làm cho hoàn thành việc Chúa.
Phải xây xong thánh
đường, tổ chức xong hội đoàn...
Tại sao người ta
phá việc Chúa?
Không ủng hộ việc
Chúa vô cùng chính đáng?
Nhưng trước bàn thờ
Bên
Mình Thánh Chúa,
con
nghe Chúa Giêsu bảo con:
“Con hãy theo Chúa,
chứ không phải theo việc của Chúa!”
“Nếu Chúa muốn, con
hãy trao việc Chúa lại trong tay Chúa,
Chúa sử dụng ai
tiếp tục, mặc ý Chúa.
Có Chúa lo, mà Chúa
lo thì muôn vạn lần hơn con lo.
Con hãy chọn một
mình Chúa”.
Biệt giam tại Hà Nội
ngày 11-2-1985
Lễ Đức Mẹ Vô Nhiễm
Nguyên Tội hiện ra tại Lộ Đức
PX. Nguyễn Văn Thuận
|
VỀ MỤC LỤC |
|
NGỤ NGÔN THỜI BẤN LOẠN (KỲ 26)
|
Ngụ ngôn 80
Chuột hoành
hành dữ dội nên người ta quyết định đặt bẫy diệt chuột. Cũng vì
chuột nhiều nên bẫy ngày càng tinh vi và hữu hiệu hơn. Bẫy càng
tinh vi, càng nhiều loài chuột bị bắt và bị tiêu diệt, kể cả
những con chuột nhỏ xíu. Nhưng cũng chính vì bẫy tinh vi mà loài
chuột càng tinh khôn hơn.
Rồi đến lúc
người ta phát hiện ra những con bị bẫy không phải là chuột lớn,
cũng chẳng phải chuột nhỏ, mà toàn là... thằn lằn. Sao thằn lằn
lại sa bẫy chuột? Một nghiên cứu được thực hiện và thấy có ba
nguyên nhân.
Nguyên nhân
thứ nhất là vì bẫy quá tinh vi nên chỉ cần thằn lằn bò ngang qua
là dính. Thứ hai là có những con thằn lằn dại dột, thấy mồi của
chuột cũng muốn ăn. Loại nguyên nhân thứ ba nghe ra thấy thương
cho thằn lằn. Vì chuột tinh khôn muốn chắc ăn nên trước khi xơi
các món ngon, chuột dụ thằn lằn thử trước. Thằn lằn tưởng chuột
nhân từ nên thoải mái thử. Kết quả là thế nào ai cũng đã biết.
Lời bàn:
Thế gian vốn điêu ngoa. Người ngay lành mà quá ngây thơ hay dễ
động lòng tham là chết trước. Lo đối thoại với chuột thì thằn
lằn sẽ làm thiêu thân cho chuột thôi.
Ngụ ngôn 81
Facebook nói
với Multiply: “Ông làm gì có nhiều bạn bằng tôi?” Multiply cãi
liền: “Nhiều ít chưa chắc ai hơn ai, nhưng tôi chất lượng hơn”.
Wordpress cười cười: “Chất lượng là có tôi. Tuy nhiên cái lão
Yahoo 360 mới là đông khách”. Cãi qua cãi lại, cãi tới cãi lui
mãi, chẳng ai chịu thua ai. Bỗng tất cả đều câm hết. Không tiếng
động. Không màu sắc. Không chữ nghĩa. Chẳng ai biết chuyện gì
xảy ra. Bỗng dưng có ánh sáng chói loà và trong vầng sáng ấy
hiện lên bốn chữ nhấp nháy: “Cho nói tự do”.
Facebook,
Multiply cùng các anh em đồng thanh la to: “Chết rồi! Tường
lửa!”
Ngụ ngôn 82
Mây trôi lững
lờ. Gió thổi hiu hiu. Đẹp, đẹp lắm. Nhà thơ cao hứng viết ngay:
“Mây bay về tận phương xa. Lòng anh bỗng thấy như là thần tiên”.
Nhạc sĩ nhìn mây và khúc hát ra đời: “Mây, gió thổi mây bay mãi
bay hoài làm anh nhớ những ngày có em”. Chưa hết, nhà toán học
nhìn mây cũng cao hứng giảng trong lớp: “Các em biết không, mây
là điều rất lãng mạn. Nhưng mây cũng huyền bí như một ẩn số. Hôm
nay chúng ta học về phương trình có hai ẩn số”.
Mây được ca
ngợi nên khoái chí. Hình như thời nay người ta lãng mạn hơn cái
thời Hàn Dũ ngày xưa :"Vân
hoành Tần Lĩnh gia hà tại", (Mây kéo phủ núi Tần Lĩnh, biết nhà
ta ở đâu, ý nói nhớ nhà). Ngày xưa chỉ vậy thôi. Nhưng nói chung
cũng là giống nhau.
Một ngày nọ nhạc
sĩ, nhà thơ, nhà văn, nhà toán học, hoạ sĩ cùng đi chung máy
bay. Bỗng mây đen nổi lên và gió thổi ào ào. Máy bay gặp mây và
gió nên chao đảo dữ dội. Các nhà của chúng ta lo lắng sợ hãi nên
quên hết những lãng mạn và ý nhị, chỉ còn ôm mặt khóc.
Cô tiếp viên hàng
không thấy vậy mới nói: “Các bác thấy đó. Cái cách nói một
chiều, nhìn sự vật một phía nó làm cho người ta không đủ sức
chịu đựng khi gặp cuồng phong các bạn ạ. Chứ như cháu đây, cái
gì cũng chẳng lo vì cháu luôn nhớ lời bố cháu: cứ bám khư khư
một bên lề, giữ khư khư một ý tưởng rập khuôn thì chỉ có làm
phông cho người ta chụp ảnh!”.
Gioan Lê Quang
Vinh, VRNs |
VỀ MỤC LỤC |
|
CĂN TÍNH VÀ PHẬN
VỤ NGƯỜI TÍN HỮU GIÁO DÂN TRONG GIÁO HỘI VÀ GIỮA
TRẦN THẾ (2) |
NGUYỄN HỌC TẬP
II - Đặc tính trần
thế.
Như vậy, tự bản thể của mình, người
tín hữu giáo dân sống với phẩm giá chung của tất cả
các tín hữu Chúa Ki Tô.
Nhưng phương thức nào làm cho họ khác
biệt nhưng không tách biệt khỏi hàng giáo phẩm và tu
sĩ?
Công Đồng Vatican II cho biết phương
thức đó là đặc tính trần thế ( indole secolare)
của họ.
Lời xác quyết có vẻ đơn sơ, nhưng
không phải là đơn thuần mộc mạc, bởi đó muốn hiểu
được ý nghĩa súc tích hàm chứa trong đó, cần phải
đặt tầm quan trọng thần học của " đặc tính trần
thế "
-
dưới
ánh sáng cứu độ của Chúa
và trong mầu nhiệm của Giáo Hôi.
Giáo Hội có chiều kich trần thế đích
thực, liên hệ đến bản tính và sứ mạng của mình. Bởi
lẽ Giáo Hội sống giữa trần thế và được sai đi để
tiếp tục công trình cứu độ của Chúa Ki Tô.
Mọi thành phần của Giáo Hội đều tham
dự vào chiều kích trần thế của Giáo Hội, nhưng mỗi
người một cách khác nhau tùy địa vị và phận vụ của
mình.
Nếu nền tảng thần học cho cuộc sống
và tác động đều như nhau cho Cộng Đồng Dân Chúa,
điều kiện trần thế - mặc dầu cũng chung cho cả Giáo
Hội, vì đang sống giữa trần thế - đối với người tín
hữu giáo dân ( trên một bình diện khác hơn bình diện
bản thể ) là nền tảng cho một cuộc sống tích cực cá
biệt và khác biệt với cách sống của hàng giáo phẩm
và giáo sĩ.
Công Đồng Vatican II diễn tả điều
kiện trần thế của người tín hữu giáo dân như là nơi
chốn mà Chúa gọi họ: " họ
được Chúa gọi ở đó ".
" Nơi chốn " ơn gọi của họ
không phải chỉ là một thực thể và môi trường bên
ngoài ( vật thể cũng như cuộc sống xã hội ), mà còn
là một thực thể trần thế có được nơi Chúa Giêsu ý
nghĩa hoàn hảo của mình ( có nghĩa là môi trường
trần thế với cả ý nghĩa thần học của nó ).
Một "nơi chốn tuyệt đỉnh như vậy,
bởi đó không thể bỏ qua đi ", chúng ta có được ý
nghĩa trong văn bản của A. Diogneto, được
diễn tả bằng danh từ Hy Lạp " taxis ", tức
là trận địa, nơi người binh sĩ phải chiến
đấu. Bởi đó người có bổn phận mà lìa bỏ, thoát thân,
bị ghép vào tội " đào ngũ ", phản bội.
Như vậy, nếu phải nói lên việc chuyên
cần dấn thân phải có giữa trần thế của người tín hữu
giáo dân, chúng ta phải liệt kê mọi bổn phận cá biệt
và động tác trần thế mà con người bị ràng buộc trong
cuộc sống của mình,
- từ việc làm cá nhân thường nhật
- cho đến việc dấn thân chính trị,
xã hội, kinh tế, nghệ thuật, văn hoá, truyền
thông...
Nói một cách ngắn gọn, phận vụ trần
thế là tất cả những gì con người thực hiện theo giới
răn của Chúa: " cai quản đất đai " như lúc
Người dựng nên tổ phụ chúng ta:
- "
Ta
hãy dựng nên con người theo hình ảnh Ta, giống như
chúng Ta, để con người làm bá chủ cá biển, chim
trời, gia súc, dã thú, tất cả mặt đất và mọi giống
vật bò dưới đất " ( Gen 1, 26).
Nhưng " cai quản " hay "
làm bá chủ " mặt đất có nghĩa là "
thiết định các sự vật như ý Chúa muốn
".
Và thiết định theo ý Chúa muốn
có nghĩa là cần phải lưu tâm trước tiên sự vật thế
nào theo bản thể của chúng, định chuẩn giá trị theo
bản tính của chúng cho đến điểm thích hợp nhứt, làm
cho mọi vật có được ý nghĩa hoàn hảo theo chân lý
nội tại của chúng.
Điều đó bởi vì chân lý nội tại của
các sự vật ( và cả các vật sống động) diễn tả ý muốn
của Thiên Chúa là Đấng Tối Cao.
Đi vào thực tế, nói một cách đơn sơ,
thiết định mọi sự theo ý muốn của Thiên Chúa
là
- sống và hiểu biết tính dục trong
giá trị nội tại của nó và có ý nghĩa để giải thoát
con người khỏi cảnh sống cô đơn và làm cho con người
có khả năng sinh sản ra đời sống mới;
- sống và hiểu biết xã hội tính
đến định điểm cao nhứt: đó là tình huynh đệ, sống
bạn bè với nhau;
- sống và hiểu biết việc làm như
là phương thế để hoàn hảo hoá chính mình và làm cho
xã hội trở nên tốt đẹp hơn;
- sống và hiểu biết việc học hành
như là phương tiện để đạt được đến chân lý của các
sự vật và sự việc;
- sống và hiểu biết các môn chơi,
giải trí như là phương thế và giây phút để làm cho
mình thư thả, giải thoát được các mối bận tâm, để
lấy lại sức và quân bình hóa tâm thần.
Áp dụng những gì vừa nói vào các môi
trường khác của việc dấn thân trần thế, chúng ta sẽ
thấy được khoảng không gian mênh mông được mở ra cho
đời sống người tín hữu giáo dân.
Hướng dẫn các thực tại trần thế đạt
được hoàn hảo ý nghĩa của mình làm cho trần thế được
mở rộng ra trên cả những gì là thực thể của mình và
có liên hệ đến những gì thuộc về ước vọng tối đa
mà con người đang mang nơi mình: đó là
Thiên Chúa.
Như vậy, nhờ vào sức mạnh của Phép
Rửa, người tín hữu giáo dân được Chúa kêu gọi góp
phần như là từ bên trong trần thế, tác động
- như là men bột, để thánh hoá
trần thế,
- bằng động tác của chính mình,
dưới sự hướng dẫn của tinh thần Phúc Âm
- và như vậy làm cho mọi người
thấy được Chúa Giêsu,
- nhân chứng bằng chính đời sống
mình và với ánh sáng chọi lọi của đức tin, niềm hy
vọng và đức bác ái ( Lumen gentium, n. 31)
Bởi đó, chính trong vị trí giữa trần
thế của người tín hữu giáo dân mà Thiên Chúa cho
thấy rõ đồ án của Người và tỏ cho biết ơn gọi cá
biệt, đó là
tìm kiếm Nước
Thiên Chúa bằng cách xử sự các sự việc trần thế và
xếp đặt chúng theo ý Chúa muốn.
III - Đặc tính trần thế, từ viễn ảnh
vũ trụ quang đến viễn ảnh Ki Tô Luận.
Cộng Đồng Vatican II, với các tài
liệu liên quan đến người tín hữu giáo dân, như
Lumen gentium và Gaudium et spes, Apostolicam
actuositatem, đã cung cấp cho chúng ta diện mạo
người tín hữu giáo dân không phải dưới viễn ảnh
vũ trụ quan ( cosmologica ) mà Ki tô Luận
( Christologica).
Nếu chúng ta nghĩ đến người tín hữu
giáo dân, dựa trên các tài liệu trước Công Đồng
Vatican II, chúng ta được hướng dẫn để nghĩ đến họ
là thành phần dân Chúa đang ở giữa trần thế.
Người tín hữu giáo dân được đặt vào
các động tác liên quan đến các lãnh vực trần thế, để
sống động hoá trần thế, tổ chức xã hội.
Suy nghĩ như vậy, chúng ta có chiều
hướng suy nghĩ về bối cảnh thế gian, bối cảnh vũ
trụ, trong đó người tín hữu giáo dân được ơn Chúa
gọi sống trong đó, như là môi trường sống của mình.
Đó là cái nhìn vũ trụ quan.
Tuy nhiên, sống giữa trần thế, không
phải chính là đặc tính cá biệt chỉ riêng cho người
tín hữu giáo dân, mà với tư cách là con người. Tất
cả chúng ta đều sống giữa thế gian, giáo sĩ, tu sĩ
cũng như giáo dân.
Hiểu như vậy, chúng ta thấy được
không phải vì sống giữa trần thế nói lên diện mạo
của người tín hữu giáo dân như là người tín hữu Chúa
Ki Tô, nhưng còn phải có một đặc điểm nào khác nữa,
đó là đặc tính quy hướng về Chúa Ki Tô. Bởi đó không
phải vô tình mà Thông Điệp của Đức Thánh Cha Gioan
Phaolồ II được phát biểu dưới danh hiệu
" Christifideles laici " ( Người
tín hữu giáo dân của Chúa Ki Tô ).
Quy hướng về Chúa Ki Tô, một cách nào
đó, cũng đã có trong nền thần học trước đó, nhưng là
được đề cập đến một cách
mặc nhiên ( implicite ).
Trước Công Đồng Vatican II nền thần
học không có khả năng làm sáng tỏ ( minh nhiên,
explìcite) quan niệm Ki Tô Luận nơi người tín
hữu giáo dân, bởi hai lý do ngăn cản:
a) Lý do thứ nhứt,
đó là do quan niệm xã hội tính và quản trị tính
của các thừa tác viên trong Giáo Hội.
Quan niệm xã hội tính đó là
quan niệm cho rằng các thừa tác viên được liên quan
với Giáo Hội, được hiểu như là các viên chức với
tước vị của mình trong xã hội. Bởi lẽ Giáo Hội,
được coi như là một tổ chức xã hội hoàn hảo có
- những vấn đề cơ cấu tổ chức nội
bộ
- và những vấn đề đối ngoại ( các
mối tương quan cá biệt xã hội - Giáo Hội ) với các
tổ chức xã hội trần thế.
Như vậy, khi bắt đầu nhận thức được
đặc tính cá biệt của người tín hữu giáo dân, nhận
thức đó được diễn tả theo quan niệm, theo đó thì
- hàng giáo phẩm có phận vụ trong
nội bộ xã hội Ki Tô giáo và có đầy các quyền năng,
có phận vụ năng động tích cực để xây dựng dân Ki Tô
giáo.
- Trong khi đó thì người tín hữu
giáo dân có lãnh vực cá biệt của mình trong các mối
tương quan đối ngoại, trong việc làm sống động hoá
lãnh vực trần thế.
Liên quan đến quan niệm nầy là phận
vụ tác động. Hàng giáo phẩm hay các Thừa Tác Viên,
tức là " làm những điều gì đó ",
- các Linh Mục " tác động trên
những lãnh vực thiên thánh ";
- các tín hữu giáo dân làm những
chuyện khác, các việc trần thế.
b) Lý do thứ hai cản
trở đó là quan niệm bề ngoài về sự thiện hảo Ki Tô
giáo.
Trên thực tế, hiện nay quan niệm cho
rằng sự thánh thiện là " tình trạng thiện hảo
", đã được coi như lỗi thời và thay vào đó là quan
niệm trưởng thành về mọi người đều được Chúa kêu gọi
trở nên thánh thiện ( mặc dầu còn có nhiều phân biệt
khác nhau )
Từ thời Thánh François de Sales (
1567-1622), trong " Introduction à la vie
dévote " ( Dẫn nhập vào cuộc sống mộ đạo ), ngài
đã viết:
- "
Cuộc
sống mộ đạo hay cuộc sống thánh thiện không phải chỉ
là cuộc sống của người vào sống trong tu viện, mà
còn là cuộc sống của những ai thành lập gia đình,
của ai là hoàng tử, của ai là người lính...mọi trạng
thái con người đều có thể đưa chúng ta đến sự hoàn
hảo của đời sống Ki Tô giáo ".
Lý do khiến cho nền thần học có được
một cái nhìn cởi mở về sự thánh thiện được dành cho
tất cả đó được diễn tả như sau:
ai trong trạng thái sống của mình
sống theo ý Chúa muốn, người đó đang bước đi trên
con đường thánh thiện.
Điều vừa kể có thể giải thích bằng
cái nhìn vào lý do ngoại tại ( motif exterieur)
: thánh ý Chúa mà tôi vâng nghe chính là nguyên
nhân làm cho động tác của tôi có giá trị, chớ không
phải động tác của tôi tự nó có giá trị:
- không phải sự hiện hữu của tôi
giữa trần thế hay tôi làm những việc gì đó làm cho
tôi nên thánh,
nhưng chính vì tôi đang ở đây, trên
thực tế tôi đang hành xử động tác vâng lời của tôi
đối với thánh ý Chúa, mặc dầu cho thế giới có thế
nào cũng vậy ( với các điều kiện thuận lợi hay đối
nghịch ) và việc làm của tôi trong các điều kiện
nào cũng vậy ( được nhiều thành công mỹ mãn hay có
thể bị thất baị ).
Trong nhãn quan tiền Công Đồng vừa kể
được coi như là sự dâng hiến bên ngoài : điều đó có
nghĩa là thánh ý Chúa được xem như là yếu tố trên sự
việc, khiến cho động tác của tôi có giá trị.
Động tác của tôi, tự nó không có lý
do để trở thành động tác thánh thiện.
Bởi đó cho đến khi nào chúng ta chưa
thể hiểu được rằng sự hiện diện giữa thế giới có
giá trị Ki Tô giáo, bởi vì ngay sự hiện hữu
đó tự mình đã được Chúa Ki Tô tham dự mật thiết:
như vậy,
yêu mến thế
giới cùng với Chúa Ki Tô trở thành của lễ thánh
thiện, đẹp lòng Chúa Cha.
Và chính vì sự không hiểu biết đó mà
vấn đề người tín hữu giáo dân được diễn tả như là
phía bên kia, ngược lại với hàng giáo phẩm:
- hàng giáo phẩm năng động trong
việc kiến tạo cộng đồng Ki Tô giáo,
- người tín hữu giáo dân năng động
trong việc đan kết các mối tương quan giữa cộng đồng
Ki Tô giáo và các thực thể khác, xã hội khác, các
lãnh vực trần thế khác.
Chỉ có trong tư tưởng thứ hai vừa kể,
người tín hữu giáo dân mới có thể trở thành thánh,
dường như mặc dầu họ phải đụng chạm với các sự việc
trần thế.
Giữa thế gian, người tín hữu giáo dân
trở nên thánh, không phải vì ở giữa trần thế, mà là
vì họ hành động theo thánh ý Chúa, mặc dầu sống giữa
môi trường trần thế.
Công Đồng Vatican II đã phá đổ đi bức
tường hai lý do trên, cản trở không cho người tín
hữu giáo dân thể hiện được một cách hoàn hảo, không
phải diện mạo vũ trụ quan, mà là diện mạo Ki
Tô Luận của mình:
- tín hữu giáo dân là một phương
thức ở trong Chúa Ki Tô,
- trước khi là thực thể hiện diện
giữa trần thế.
Chính mối tương quan với Chúa Ki Tô
xác định thực thể của người tín hữu giáo dân.
Và hiện diện giữa trần thế là một giá
trị Ki Tô giáo, bởi người tín hữu giáo dân ở giữa
thế gian, như Chúa Ki Tô ở giữa thế gian, mặc dầu
Người không thuộc về thế gian; và cho thế gian, mặc
dầu đôi khi Ngưòi cũng chống lại thế gian, vì những
sai trái của thế gian.
Được hội nhập vào Chúa Ki Tô không
phải là tách lìa khỏi thế gian, mà là nâng cao các
giá trị của thế gian bằng giá trị của Phúc Âm .
Cả cộng đồng dân Chúa đều hiện diện
giữa thế gian, thông hiệp với thế gian và đời sống
của người tín hữu Chúa Ki Tô liên hệ với các thực
tại trần thế.
Thật vậy, Giáo Hội
- không tách lìa khỏi trần thế
- và người tín hữu giáo dân không
phải là người trung gian của Giáo Hội.
Bởi lẽ nếu như vậy, chúng ta phải
nhìn Giáo Hội như là một tổ chức xã hội phẩm trật.
Không phải Giáo Hội có trước, kế đến
là các nhu cầu và các vấn đề của thế giới, mà Giáo
Hội phải đáp ứng.
Đúng hơn
- trước hết có con người
- và kế đến là sự cứu chuộc của
Chúa Ki Tô,
- ơn cứu chuộc đó được Giáo Hội
tiếp tục thực hiện trong thế gian ( Gaudium et
spes, n. 43).
IV - Ơn gọi nên thánh.
Chương V của Hiến Chế Lumen
gentium nói lên tính cách phổ quát lời kêu gọi
trở nên thánh thiện, bằng cách đưa ra một định nghĩa
mới.
Thánh thiện không có nghĩa là
- trạng thái hoàn hảo của những ai
thoát tục, xa lánh trần thế,
- hay la trạng thái hoàn hảo của
những ai sống giữa trần thế, bất cần điều gì có thể
xảy ra, ngay cả để thi hành thánh ý Chúa,
- mà là bác ái, tham dự vào tình
yêu của Chúa Ki Tô.
Thánh thiện là sống bác ái của Chúa
Ki Tô, bác ái của Người đối với lịch sử con người,
đối với thế giới, đối các sự vật ở trần thế nầy,
đưọc dựng nên trong Chúa KiTô, được dựng nên vì Chúa
Ki tô và chỉ có trong Người, mọi sự vật gặp được sự
thực hiện hoàn hảo của chính mình.
Và mọi tín hữu Chúa Ki Tô, không phân
biệt tước vị, lãnh vực, nói như Hiến Chế Gaudium
et spes, n. 43,
- " là
người công dân của thị xã nầy hay thị xã khác "
và họ được khuyến khích
- "
hãy
trung thành thực hiện các phận vụ trần thế của chính
mình " ,
băng cách vượt thắng lằn mức phân
chia giữa đời sống đức tin và đời sống thường nhật,
bằng cách theo gương Chúa Ki Tô, quy tựu
- "
tất
cả những cố gắng, nghị lực con người, nghề nghiệp,
khoa học và kỷ thuật vào một Tổng Hợp Sinh Động Duy
Nhứt cùng chung với các điều thiện mỹ tôn giáo, dưới
sự điều hành tối thượng tất cả những điều đó để phối
hợp nhằm vinh danh Thiên Chúa " ( Gaudium et spes,
n. 43a).
Như vậy, người tín hữu giáo dân không
phải là nhịp cầu nối kết giữa Giáo Hội và trần thế.
Theo Hiến Chế Gaudium et spes, n.
43, không có một người tín hữu Chúa ki Tô nào,
giáo sĩ, tu sĩ hay giáo dân, đều được miễn chuẩn cho
mình khỏi phải thực hiện nơi mình một sự tổng hợp
sống động giữa những phận vụ trần thế và phận vụ tôn
giáo, nhằm vinh danh Thiên Chúa.
Như vậy, ngay cả hàng giáo phẩm cũng
không thể cảm thấy mình được miễn chuẩn có một mối
tương quan xây dựng với động tác con người, giao
trách cho người khác.
Dĩ nhiên là các vị hành xử trong giới
mức những gì giáo luật cho phép, để không vượt ra
bên ngoài và có thể làm cho tiếng nói của mình không
còn là tiếng nói phổ quát chung cho mọi người, chớ
không phải là tiếng nói thiên vị phe phái (
cfr. Can. 285, 3).
Tuy nhiên, sự kính trọng đối với lãnh
vực tự lập chính đáng của các thực tại trần thế cần
phải đươc hành xử theo lưong tâm ngay chính của
mình.
Trong bối cảnh đó, chúng ta đọc được
trong Hiến Chế Gaudium et spes:
-
" Đối
với người tín hữu giáo dân bổn phận đối với các việc
dấn thân chuyên cần và động tác trần thế chính là
của họ, mặc dầu không phải chỉ là cá biệt của họ " (
Gaudium et spes, n. 43b).
Người tín hữu giáo dân được khuyến
khích
- sống đối với lãnh vực mà chính
yếu thuộc vị trí và thẩm quyền của họ,
- mặc dầu không phải chỉ là những
lãnh vực dành riêng độc quyền cho họ,
trong tinh thần tôn trọng nguyên tắc
tự lập chính đáng các thực tại trần thế.
Trong thực tế, điều đó có nghĩa là
hành động như người công dân của Quốc Gia, cần phải
học hỏi để có khả năng, thẩm quyền trong các lãnh
vực mà mình phải hành xử tác động, cộng tác với
những người khác có cùng một mục đích, xác quyết có
sáng kiến mới mẻ và đem ra thực hiện.
Dĩ nhiên người tín hữu giáo dân biết
rằng
- " lương
tâm của mình, được đào tạo thích hợp, có phận sự ghi
khắc lề luật Chúa vào đời sống của thị xã trần thế "
( Gaudium et spes, n. 43b).
Như vậy, người tín hữu giáo dân qua
động tác của mình, chiếu soi và sắp xếp các thực tại
trần thế
-
" thế
nào để các thực tại đó có thể được thực hiện theo
Chúa Ki Tô, cho chúng được phát triển và trở thành
lời ngợi khen đến Đấng Tạo Hoá và Đấng Cứu Độ " (
Lumen gentium, n. 31).
Từ đó, người tín hữu giáo dân hoàn
hảo hoá ơn gọi trở nên thánh thiện mà Chúa Cha kêu
gọi mình.
Một khi đã cứu vãn lại được
viễn ảnh Ki Tô Luận, cần phải đi thêm một
bước nữa xác nhận việc tham dự vào tình yêu mà
Chúa Cha dành cho thế giới qua Chúa Giêsu. Việc
tham dự đó có thể được sống dưới nhiều hình thức
khác nhau, bởi vì Chúa Giêsu vô cùng sung mãn và
chúng ta được mời gọi trong sức mạnh của Chúa Thánh
Thần để khai triển về phương diện nầy hay phương
diện khác thực thể của Chúa Ki Tô.
Dĩ nhiên người tín hữu Chúa Ki Tô
khai triển tất cả các chiều kích trọng đại Ki Tô
giáo:
- là người ở giữa thế gian
( ngay cả một vị nữ tu dòng kín cũng có cách
sống trần thế của mình, ngay trong tu viện),
- nhưng không thuộc về thế
gian ( cả khi con người có đôi tay đang
nhúng vào các diễn biến phức tạp của kinh tế, không
phải là con người bị kết thúc trong đó ),
- là người cho thế gian
( mỗi người phải chia xẻ số phận của thế
gian,bởi vì thế gian được Chúa yêu thương và Chúa
muốn dựng nên ),
- nhưng là con người chống
lại thế gian ( bởi vì yêu thương thế gian,
nên nhiều khi phải chống lại, khi thế gian đóng kín
đối với đồ án Thiên Chúa).
Mỗi người tín hữu Chúa Ki Tô đều được
kêu gọi thực hiện bốn chiều hướng tính cách trần thế
đó của Chúa Ki Tô, nhưng mỗi người được mời gọi nhấn
mạnh hơn về phương diện nầy hay phương diện khác.
Tù đó phát sinh ra nhiều ơn gọi khác
nhau trong việc sống giữa trần thế.
a) Hình
thức thứ nhứt của ơn gọi phân biệt người tín hữu
giáo dân.
Trong trường hợp nầy, người tin hữu
giáo dân là người được mời gọi " sống giữa trần
thế ", mặc dầu không thuộc về trần thế.
Và người tín hữu giáo dân được mời
gọi hãy tỏ ra bằng cách hành động cụ thể để phục vụ
và dấn thân như khuôn mẩu Chúa Ki Tô phục vụ ở trần
thế.
Nhưng người tín hữu giáo dân cũng
chống lại trần thế, khi trần thế đóng kín mình,
khước từ đồ án Thiên Chúa.
Ngược lại cũng vậy, cũng có thể là
người tín hữu Chúa Ki Tô bằng cách sống một cách
tổng quát đặc tính trần thế nầy. Được mời gọi tuyên
xưng mình là người tín hữu Chúa Ki Tô, có nghĩa là "
không thuộc về trần thế ", với một hình thức
tách rời, khước từ, xa lánh để nhấn mạnh môt khía
cạnh nào đó của cuộc sống mình, không phải là cả đời
sống mình.
b) Hình thức ơn gọi thứ hai
sống đặc tính trần thế Ki tô giáo, phân biệt các
người tín hữu giáo dân thành nhiều diện mạo khác
nhau.
Giữa chính các tín hữu giáo dân với
nhau cũng có những phương thức sống khác nhau để
sống chính đặc tính trần thế Ki Tô giáo, đối với
những phương thức cụ thể mà qua đó mỗi người tổ chức
các cách sống cá biệt và dựa trên việc đặc tâm chú ý
nhấn mạnh nào trong việc thực hiện bốn chiều kích
vừa kể.
|
VỀ MỤC LỤC |
|
TỘI LỖI VÀ NGỤC TÙ
|
Làm thế nào
để diễn tả về tội hay nói về tội? Chúng ta có thể định nghĩa về
tội theo giáo huấn của Giáo hội; và chúng ta cũng có thể định
nghĩa về tội theo luật lệ của xã hội con người. Còn cảm nghiệm
của mỗi cá nhân thì sao? Qua bài chia sẻ nhỏ này, Br. Huynhquảng
liên tưởng kinh nghiệm tù đày đã trải qua để diễn tả về tội, với
hy vọng rằng nó phần nào giúp bạn hiểu tội là gì, và quan trọng
hơn là thấm nhuần lòng quảng đại có thật của Thiên Chúa trong
đời sống của chúng ta.
* * *
Năm 2001 khi
bất ngờ bị bắt vào nửa đêm và bị nhốt vào phòng biệt giam; sau
một thời gian bị nhốt trong bóng đen không ánh sáng mặt trời,
thiếu thốn không khí, vắng bóng người thân, bị cơn đói dày vò,
tôi dần dần cảm thấu thân phận và nỗi đau của kiếp tù nhân. Nỗi
đau khó tả nên lời, nhưng nó hiện diện thật và rất đau.
Bị biệt giam
làm tôi nhớ nhung ray rứt người thân và bạn hữu. Nỗi nhớ lên đến
mức tôi khao khát được nghe tiếng người dù chỉ để nghe một giọng
nói cũng thấy được ấm lòng. Nỗi đau quặn xé khi những tiếng khóc
của các tù nhân giữa đêm đâu đó vọng lại, của những tiếng rên
than thở đau xót cho một phận người trớ trêu. Vâng, những tiếng
người này không đẹp, không êm tai, không xoa dịu được nỗi nhớ
nhung của người tù, nhưng chúng vẫn là tiếng người. Chúng giúp
tôi thấu chạm sự hiện diện của đồng loại trong cảnh ngục nát
tang thương.
Trong phòng
biệt giam của ngục tù. Tôi không có khả năng để tự mở cửa ra
khỏi phòng. Cửa phòng chỉ được mở khi ai đó mở cho tôi. Tôi
không được quyền đi ra khỏi “cái hộp” ấy như tôi muốn. Tôi không
được hưởng không khí trong lành tự do; tôi chỉ được cho ăn và
uống theo quy định của trại tù; tôi không được kêu gào la hét.
Nếu tôi có khóc, thì cũng chỉ được phép khóc thầm cho một mình
tôi nghe, vì lớn tiếng là vi phạm nội quy. Tôi không được phép
giữ giấy viết trong phòng; nếu tôi viết điều gì thì tôi chỉ được
viết theo ý của quản giáo mà thôi. Nói tóm lại, trong ngục tù,
tôi bị mất tự do hoàn toàn. Đúng như người quản giáo thẳng thắn
nhận định: “Từ nay trở đi, mày chỉ là thằng tù, mất quyền công
dân; tên mày sẽ được thay bằng mấy con số!”
Trong tù, dù
tôi có yêu và nhớ nhung ai đến đâu đi chăng nữa, tôi cũng không
thể gặp họ và biểu lộ tình cảm của tôi cho họ. Dù tôi có những
kế hoạch và sáng kiến vĩ đại đến đâu đi chăng nữa, tôi cũng
chẳng làm được gì ngoài chuyện ngồi bó gối hằng ngày nhìn ước mơ
và hoài bão đời mình đang chết dần mòn theo năm tháng. Ở trong
tù, dù tôi có muốn làm mới lại cuộc đời, thay đổi con người cũ
thành con người mới, quyết tâm sửa đổi những lỗi lầm, khắc phục
những hậu quả do mình gây ra… nhưng cũng không thể làm được, vì
giá cho sự sai phạm là ngục tù; và chẳng ai tin vào thằng tù cả.
Ở trong tù, qua khe cửa tôi lén nhìn ra thế giới tự do làm tim
tan nát, đớn đau; thấy bóng một ai đó lướt qua làm lòng tôi đen
lại cho tương lai mịt mù. Có những ngày cơn đói hành hạ làm cho
tôi khao khát được một nắm cơm, củ khoai, củ sắn mà cũng vô
vọng. Có những lúc quá ngột ngạt, tôi phải rón rén cúi mình
xuống khe cửa để hít thở không khí trong lành bên ngoài thế giới
tự do.
Tù nhân là
như thế đó. Mở cửa cho ra thì ra, cho tắm thì tắm, cho đi đổ rác
thì đổ, biểu đi thì đi, biểu đứng thì đứng, biểu nói thì nói,
biểu im thì phải im, biểu viết thì viết. Tù nhân phải mang áo mà
mình không ưa, phải đi chân trần, phải nằm đúng chỗ quy định.
Sống trong tù ngục là như vậy đó. Mất hết tất cả, mất đi cả
những nhu cầu cơ bản nhất của con người: Muốn nghe mà không được
nghe, muốn nói mà không được nói, muốn nhìn mà cũng không được
nhìn.
Cám ơn Chúa
đã đồng hành với tôi qua những năm tháng biệt giam cô đơn đen
tối với ngập tràn ân sủng tình yêu. Nhờ kinh nghiệm tù đày nhỏ
bé trên, tôi hiểu rõ hơn một chút về tội. Tội làm cho tôi bị
giam vào ngục tù. Vì bị giam trong ngục tội, tôi bị cách xa
Thiên Chúa, gia đình, người thân và bạn hữu. Khi tôi phạm tội và
còn ở trong tình trạng tội, tôi không thể tự giải thoát tôi. Tôi
không thể “tự” mở cửa phòng để ra đi hưởng sự tự do an bình.
Đang trong tình trạng tội, những ấp ủ yêu thương người thân, bạn
hữu chỉ vẫn là trên bình diện lý thuyết vì trong tình trạng
trong ngục tội, tôi bị cách ly và không có khả năng để giao
tiếp. Tội cách ly tôi khỏi những khả năng mà tôi vốn sở hữu: tư
do, hạnh phúc, bình an. Tội làm tôi không thấy và chiêm ngưỡng
vẻ đẹp diệu kỳ của thiên nhiên vạn vật; tội làm tôi không thể
hít thở không khí trong lành tự do; tội làm tôi đói khát lương
thực và ngăn cản tôi đón nhận Thánh Thể. Nói tóm lại, tội làm
tôi mất tất cả: Có nghe Lời Chúa thì cũng không hiểu; có nói lên
điều gì cũng không có sinh khí của chứng nhân; và có nhìn cũng
không thấy tình yêu hiến thân của Thiên Chúa và vũ trụ diệu kỳ
do Ngài tạo dựng.
* * *
Bất cứ một tù
nhân nào cũng khao khát được tự do, ra khỏi chốn lao tù càng sớm
càng tốt. Những khao khát ước mơ này được diễn tả qua ba hình
thức sau. Hy vọng mong manh là được các “ông lớn” nhìn đến và
xét duyệt cho được “ân xá” vào các dịp lễ lớn. Hy hữu hơn nữa là
được một “ai đó” can thiệp trực tiếp để mình được ra về sớm hơn
thời hạn. Cuối cùng, dù hầu như không có thật, nhưng người tù
“mơ” rằng ai đó tình nguyện ở tù thay cho mình. Với ba ước mơ
“bồng bột” trên, dù không thể xảy ra và không bao giờ xảy ra,
nhưng người tù vẫn bám vào những ước mơ, hy vọng. Hy vọng vào
điều không thể hy vọng là chỗ đó. Chính những hy vọng “bồng bột”
này giúp cho người tù sống sót. Không có hy vọng, con người sẽ
chết trong sự tuyệt vọng.
Khi tôi phạm
tội, tôi phải trả giá cho tội lỗi của tôi. Khi tôi lỗi đức công
bình, tôi phải đền trả sòng phẳng. Khi tôi xúc phạm đến ai bằng
lời nói, tôi phải nói lời xin lỗi. Nhưng khi tôi xúc phạm đến
Thiên Chúa, liệu có hình phạt nào tương xứng dành cho tôi để đền
tội? Trong đời sống xã hội, thật là phúc cho tôi nếu có ai đó
giúp tôi ra khỏi tù trong trường hợp một và hai, khi ấy tôi sẽ
mang ơn họ trong suốt cuộc đời này. Xét về trường hợp thứ ba,
liệu trong đời này có ai dám ở tù thay cho tôi? Cha mẹ, anh chị,
người yêu? Không ai, và thực tế cũng không ai tình nguyện ở tù
thay cho tôi, dù người ấy có yêu tôi đến mức nào đi chăng nữa!
Vậy mà Thiên Chúa lại chọn giải pháp thứ ba để giải thoát cho
tôi khỏi ngục tù của ma quỷ. Ngài không cần chờ đợi dịp “lễ lớn”
để ban ơn ân xá cho tôi; Ngài cũng không nhờ “ông lớn” nào đó để
can thiệp cho tôi ra khỏi tù sớm hơn thời hạn. Nhưng Ngài lại
sai Con Một của Ngài để ở tù thay cho tôi và sẵn sàng chịu án tử
- giá phải trả của riêng tôi. Thực vậy, chuyện ở tù thay nhưng
không này chỉ có Đức Kitô mới làm được mà thôi. Ngài chấp nhận ở
tù thay để cho tôi được tự do; Ngài chấp nhận gánh lấy tội của
tôi để tôi được hưởng ơn tha thứ; Ngài chấp nhận bị biệt giam
cho tôi để tôi được tự do làm con Chúa; Ngài chấp nhận chết khô
héo trên thập giá để tôi được sống đời sống mới vĩnh cửu trong
Nước Trời. Chính trong bối cảnh tù đày, tôi hiểu rõ hơn về ý
nghĩa trọn vẹn của sự Phục Sinh – đó chính là niềm vui vô bờ của
sự tự do; của một tù nhân được giải thoát. Chính sự “ở tù thay
này” mà mọi thua thiệt, bất công, đen tối, đói khát, cô đơn, sợ
hãi, tương lai vô định mà tôi đã trải nghiệm trong tù đày, từ
đây Đức Kitô sẽ gánh lấy tất cả. Bản án của tôi khoảng 20 năm,
chung thân, hoặc tử hình, nhưng Ngài lại gánh lấy án tử hình cho
tôi một cách nhưng không. Ôi, có tình yêu nào cao quý hơn tình
yêu này!!!
“Đức Kitô đã
chết cho tôi, ngay khi tôi còn là tội nhân” (Rm 5:8). Vậy còn
ngần ngại gì nữa mà không bước ra “cái hộp đen tội” ấy, mà không
hưởng sự tự do, mà không đón nhận Lương Thực hằng sống? Còn ngần
ngại gì mà không hít thở ân sủng tình yêu, mà không sống lại
phẩm giá làm con? Vâng! Tại tòa giải tội Ngài sẽ mở cửa để tự
nhốt Ngài vào “chiếc hộp” thay ta, còn ta được bước ra khỏi
“chiếc hộp đen” ấy. Tội lỗi giam ta vào ngục tối, còn tình yêu
đưa ta vào sự sáng! Ôi, Tình Yêu diệu vợi!
Br. Huynhquảng
http://brhuynhquang.org/ |
VỀ MỤC LỤC |
|
LINH MỤC GIÁO PHẬN SỐNG SỨ VỤ
TRONG CÁC MỐI TƯƠNG QUAN (tiếp theo) |
Mời thăm Blog của
Lm. Trần Minh Huy
http://www.chivilongchuathuongtoi.tk/
Tác phẩm: ĐÀO TẠO ỨNG SINH LINH
MỤC GIÁO PHẬN
CHƯƠNG
NĂM
ỨNG
SINH LINH MỤC GIÁO PHẬN
HỌC SỐNG CĂN TÍNH VÀ SỨ
VỤ LINH MỤC
C. LINH MỤC GIÁO PHẬN SỐNG SỨ VỤ
TRONG CÁC MỐI TƯƠNG QUAN
(tiếp theo)
C.6. Tương quan
với các nữ tu lớn tuổi và có trách nhiệm
C.6.a Những gì nên cư
xử, nói và làm
·
Kính trọng các nữ tu lớn tuổi và có trách nhiệm vì họ vừa
là những người lớn tuổi, vừa là người lão luyện trong đời sống
tu trì. Coi trọng họ như người chị, người mẹ.
·
Trao cho họ những công việc phù hợp. Đáp ứng các nhu cầu
của họ, khi có khả năng. Nên gặp gỡ, chia sẻ, giúp đỡ, động viên
và khích lệ họ, về đời sống tinh thần cũng như vật chất, cầu
nguyện cho họ và xin họ cầu nguyện cho ta.
·
Sống thành thật, khiêm nhường, cởi mở, tin tưởng, cảm
thông và ân cần giúp đỡ họ trong lúc thi hành sứ vụ cũng như
trong đời sống tu trì. Trong đời sống mục vụ, mời gọi họ cộng
tác, biết lắng nghe và đón nhận những lời góp ý.
·
Có trách nhiệm với những người cùng phục vụ giáo xứ: kính
trọng và giúp đỡ họ thực thi trọng trách của họ.
·
Nếu họ ốm đau bệnh tật và khó khăn vật chất, tinh thần
giảm sút, ý chí bị suy nhược, cần thăm viếng động viên và cầu
nguyện cho họ. Nâng đỡ phần hồn phần xác những người đã có công
xây dựng giáo xứ, Giáo hội địa phương đến nay phải nghỉ hưu.
Giúp đỡ tinh thần và vật chất; làm tốt và nói tốt để yên ủi tuổi
già.
C.6.b Những gì không nên
cư xử, nói và làm
·
Không chen vào nội bộ Nhà Dòng. Không kiếm cách ảnh hưởng
lên Bề trên trị bề dưới, hoặc theo phe bề dưới chống Bề trên.
Hãy đổ dầu sốt sắng vào các bánh xe, nhưng đừng đả động đến bộ
máy.
·
Không làm ra vẻ kẻ có quyền để hống hách và vội chấp
nhất, vội khiển trách, sửa sai họ trước công chúng hay bề dưới
của họ.
·
Không nói tâng bốc, khen không đúng sự thực; cũng không
nói hành nói tỏi, hay nói sai sự thật, làm mất mặt họ trước công
chúng. Tuyệt đối không đưa họ lên tòa giảng.
·
Tránh những lời nói dễ bị hiểu lầm khiến họ có cảm giác
bị xúc phạm, bị hắt hủi, bị bỏ rơi. Trái lại, phải tỏ ra tôn
trọng các nữ tu lớn tuổi và bênh vực họ khi họ gặp khó khăn
trong công việc cũng như trong cuộc sống, vì người lớn tuổi
thường hay tự ti vì tuổi tác và sự đào thải của tuổi già.
·
Tránh nói năng, cư xử thiếu lịch sự, tế nhị, tỏ thái độ
khinh thường, không tôn trọng, nói xấu, nói hành làm thiệt hại
cho họ và quyền bính của họ. Không vượt quyền, làm việc thẳng
với cấp dưới của họ, mà phải trao đổi thông qua họ.
C.7. Tương quan
với các nữ tu bằng tuổi và có trách nhiệm
C.7.a Những gì nên cư
xử, nói và làm
·
Tôn trọng họ và đời sống tu trì
của họ. Phải khôn ngoan và tỉnh thức trong tiếp xúc, gặp gỡ và
làm việc chung với họ. Phải nhớ mình là linh mục và họ là nữ tu
đều thuộc về Chúa và là của Chúa. Luôn giữ khoảng cách cần thiết
và dè dặt trong mọi lãnh vực của đời sống khiết tịnh.
·
Đừng quên lời khuyên “tỉnh thức và cầu nguyện” của Chúa
Giêsu trong Tin mừng (Mt 26,41 và Mc 14,38): là những con người
thánh hiến, nhưng chúng ta vẫn không thôi là những con người với
những yếu đuối nhân loại.
·
Dùng đúng người đúng việc, nói rõ mục đích hướng tới. Có
kế hoạch, chương trình làm việc cụ thể. Tin tưởng trao công
việc. Tôn trọng người cộng tác. Khích lệ đời sống thiêng liêng
tông đồ.
·
Cổ vũ, khen thưởng khi cần. Cần sống công bằng qua việc
động viên khích lệ và thù lao cho họ khi họ đã cộng tác với mình
trong công việc.
·
Làm và nói tốt cho nhau, đúng sự thật. Quảng đại và không
chấp vặt việc nhỏ. Không keo kiệt, cần cởi mở, vui vẻ.
·
Phải biết tôn trọng các nữ tu vì họ là những cộng tác
viên, chứ không phải là thuộc hạ hay người giúp việc; luôn sống
trong sự bổ túc hài hòa và liên đới. Biết lắng nghe những lời
góp ý, sửa lỗi của họ. Và cũng hãy chân thành làm như vậy cho
họ.
·
Phải luôn nhớ nhu cầu cầu nguyện và khổ chế. Thánh Phaolô
dạy rằng chúng ta gìn giữ kho tàng ấy trong những chiếc bình
sành dễ vỡ (x. 2 Cor 4,7), bởi vì mọi người đều mang bản tính
nhân loại và có phái tính. Khi có công việc phải trao đổi với
họ, hãy tiếp chuyện ở chỗ trống trải hay phòng khách.
·
Chia sẻ kinh nghiệm, đối thoại, hiểu biết, cảm thông,
giúp đỡ họ khi có những khó khăn trong cộng đoàn. Nên chỉ dẫn
thêm, khích lệ, hỗ trợ để họ hoàn thành công việc được giao. Cần
tôn trọng tuổi tác và trọng trách của họ.
·
Giúp nhau sống và chu toàn những điều đã cam kết trong ơn
gọi và sứ vụ của mỗi người, vì ơn gọi chung là dâng hiến trọn
đời cho Chúa.
C.7.b Những gì không nên
cư xử, nói và làm
·
Không can thiệp sâu vào đời sống cá nhân của họ, và cũng
không cho họ can thiệp sâu vào công việc của mình và việc của
giáo xứ.
·
Không nên có những lời nói, cử chỉ
hay thái độ thiếu lành mạnh, trong sáng để bảo toàn đức thanh
sạch cho họ và cho mình. Luôn nhớ họ là một nữ tu thánh hiến cho
Chúa và Giáo Hội cũng như cho các linh hồn. Không để tình cảm
của mình lấn lướt và để những yếu đuối, đam mê của mình sai
khiến và cám dỗ mình.
·
Không để họ sai khiến mình, điều khiển mình, lèo lái mình
trong bất cứ công việc gì. Vì thực tế đàn ông thường yếu mềm
trước những cử chỉ khôn khéo của phụ nữ, và hay thể hiện tính
cao thượng trước những khó khăn họ mắc phải.
·
Tránh những cuộc gặp gỡ riêng tư lâu giờ vì dễ dẫn đến nguy hiểm
cho đời độc thân thanh khiết. Không nên thân thiện quá mức,
thiếu tế nhị, hoặc nói những câu bông đùa quá trớn, một lời hai
ý, dễ dẫn đến hiểu lầm.
·
Không nên cho họ biết tất cả những gì mình muốn làm khi
công việc đó không liên quan tới họ. Không nên đi sâu vào đời tư
của họ, hoặc tâm sự đời tư của mình cho họ.
·
Không coi thường đức khôn ngoan và cảnh tỉnh khi tiếp xúc
với họ. Thánh Augustinô “chỉ đến dòng nữ khi cần và đem người đi
theo, để giữ gìn thanh danh của mình và để cho các tâm hồn đã tự
hiến cho một mình Chúa chỉ yêu một mình Chúa”.
·
Không khen người này trách người kia trước mặt ai, nhất
là giáo dân. Không bạ đâu nói đấy, kể cả trong việc giao công
tác. Không làm hay nói gì không cần thiết, nhất là trong khi
phải khiển trách.
·
Không được đối xử thiếu tế nhị với họ hoặc không để ý
nâng đỡ các nhu cầu về tinh thần cũng như vật chất của họ khi họ
cùng làm việc với mình.
·
Không can thiệp vào vấn đề kỷ luật và tổ chức nội bộ của
họ.
C.8. Tương quan
với các nữ tu trẻ
C.8.a Những gì nên cư
xử, nói và làm
·
Trong bất cứ tiếp xúc nam nữ nào cũng tiềm ẩn tính cách
phái tính. Do đó, cần thận trọng trong các mối quan hệ với nữ tu
trẻ; dè dặt trong các lần tiếp xúc, bởi vì cùng cảnh ngộ dễ đồng
cảm…
·
Phải ý thức rằng sự thân mật là nhu cầu của con người,
nhưng sự thân mật trong đời sống độc thân không cần và không
được biểu lộ bằng thể lý. Do đó, phải đứng đắn, nghiêm túc khi
giao tiếp. Sự thân mật độc thân có mức độ thích hợp của nó và sẽ
cung ứng đủ tự do để yêu thương mọi người và không vượt quá các
giới hạn.
·
Có thể khuôn đúc mối tương quan nam nữ theo gương mẫu đời
sống của Chúa Ba Ngôi và kêu xin Chúa ban ơn can đảm để thăng
tiến, vượt thắng và thánh hoá “tiếng gọi nhân loại” ngõ hầu giúp
nhau sống và chu toàn những gì đã cam kết trong ơn gọi và sứ vụ
của mỗi người.
·
Linh mục phải giao tiếp với mọi người, nên phải thiết lập
một mối tương quan trưởng thành, lành mạnh, hài hòa và quân bình
giữa hai phái.
·
Phải biết tôn trọng nơi chốn, thời gian, khoảng cách và
giới hạn cần thiết, về thể lý cũng như tâm lý, của các cuộc gặp
gỡ; luôn giữ sự kính trọng chứ không lạm dụng và suồng sã; ý
thức sự hiện diện vô hình của Chúa.
·
Phải rõ ràng và thành thật với chính mình, với người khác
và với Thiên Chúa, bởi vì sự “hẹn hò” yêu thương thường được che
giấu dưới những lý do hợp pháp và chính đáng của các công tác và
hoạt động mục vụ, nhưng “thực tế đó là những nghiêng chiều nguy
hiểm của con tim.”
·
Phải học thái độ Chúa Giêsu đối với các phụ nữ trong Phúc
Âm, xác định rằng tình yêu của Thiên Chúa là trên hết, và chỉ
Thiên Chúa mới làm thỏa mãn được con tim chúng ta, Ngài đang
hiện diện trong cuộc đời chúng ta, đồng hành bên cạnh chúng ta
để nâng đỡ và bảo vệ chúng ta.
·
Chúa Giêsu để các phụ nữ cộng tác trong kế hoạch cứu độ
bằng cách cho họ tháp tùng trong hành trình truyền giáo và dùng
họ loan báo Tin Mừng Phục sinh cho các Tông đồ.
·
Mời họ cộng tác làm việc trong giáo xứ, trao công việc cụ
thể và cho họ biết nguyên tắc làm việc. Cần có những buổi học
hỏi thêm kỹ năng làm việc; bồi dưỡng thêm đạo đức, kiến thức và
nhân bản.
·
Cần phân công công việc cho mỗi người rõ ràng. Khi trao
việc cũng cần quan tâm tin tưởng và tế nhị trả tiền chi phí cho
các công việc mà ta nhờ họ làm như mua hoa, nến, giấy hát, bài
vở, lộ phí…
·
Làm gương sáng trong đời sống cầu nguyện và việc tông đồ.
Sống vui vẻ cởi mở và quảng đại, nhiệt tình sáng tạo.
·
Tôn trọng họ là những cộng tác viên, không phải là thuộc
hạ hay người giúp việc, sống hài hòa và liên đới. Sống hòa thuận
để làm gương cho giáo dân.
·
Giúp đỡ họ về tinh thần cũng như vật chất cần thiết cho
công việc tông đồ. Mời họ cộng tác trong việc từ thiện bác ái,
dạy giáo lý.
·
Cần giữ trong đầu và tâm hồn sự lệ thuộc của họ và của
mình đối với Chúa. Cầu nguyện cho họ và cho chính mình.
·
Tương quan cởi mở, hiểu nhau, chia sẻ sứ vụ, khó khăn,
tin tưởng, cảm thông, chăm sóc, giúp đỡ nhau chu toàn sứ vụ và
cam kết ơn gọi của mỗi người.
·
Cần định hướng cho họ để họ vững vàng trong đời tận hiến.
Thái độ, cử chỉ, lời nói phải rõ ràng khi giao tiếp với họ. Thận
trọng trong mọi vấn đề; những gì họ nói, cần phải suy xét, chớ
vội tin.
·
Nên nhắc nhở khi thấy họ đi quá trớn hoặc làm những việc
không hợp với đời tu hay ảnh hưởng tới ơn gọi của họ, chẳng hạn
những cử chỉ bất nhã, thiếu lịch sự, kiểu “quen quá hoá nhờn”.
·
Cần nêu gương sáng về đời sống cầu nguyện và đời sống
thánh thiện cho họ. Phải có tâm hồn bao dung, quảng đại sẵn sàng
chỉ dẫn cho họ cách thức phục vụ nơi giáo xứ. Quan tâm tới đời
sống tinh thần và vật chất của họ nữa, theo lẽ công bằng.
C.8.b Những gì không nên
cư xử, nói và làm
·
Không đùa dỡn và chiều chuộng quá mức cần thiết. Không
liên hệ quá thân mật với các nữ tu và tiếp họ quá lâu trong nơi
kín đáo hoặc phòng riêng, nhất là các nữ tu trẻ, khiến người ta
hiểu lầm, và cũng dễ dẫn đến nguy hiểm cho đời độc thân linh
mục. Không nên bỏ qua dư luận.
·
Không nên trao đổi hay bồi dưỡng riêng, tránh sự hiểu
lầm. Tránh gặp gỡ lâu giờ, nói chuyện to nhỏ. Không nên đi sâu
vào đời tư của họ, hoặc tâm sự đời tư của mình cho họ, vì họ dễ
động lòng. Không nói cho họ biết những gì họ không có trách
nhiệm.
·
Không thân mật quá mức, bộc lộ khuynh hướng muốn chiếm
hữu, ghen tuông, muốn độc quyền. Phải có những giới hạn cần
thiết.
·
Không ép buộc họ phải làm công việc ngoài khả năng. Tránh
trao nhiều công việc một lúc, hay trao rồi lại rút lại, thay đổi
như chong chóng.
·
Không nên có cái nhìn lệch lạc, coi các nữ tu là thiếu
hiểu biết, vì ngày nay nhiều nữ tu cũng học rộng tài cao không
kém hàng linh mục.
·
Nhưng cũng không nên quá coi trọng đến độ để họ sai khiến
mình mà không biết. Không để các nữ tu tham dự sâu vào công việc
điều hành Giáo xứ. Tránh thiên vị coi người này hơn người kia,
quí các nữ tu trẻ mà coi thường các nữ tu già.
·
Không can thiệp vào chuyện riêng tư của nhà Dòng trong
việc họ đổi đi hay ở lại xứ. Không nên coi thường hay gây khó
khăn. Không nên nói xấu họ trước mặt người khác.
C.9. Tương quan
với các đệ tử và mầm non ơn gọi tu sĩ
C.9.a Những gì nên cư
xử, nói và làm
·
Giáo hội đang dần dần thiếu ơn gọi. Cần kêu gọi, khích lệ
các bậc cha mẹ quảng đại dâng con cho Chúa.
Quan tâm hướng dẫn các em
theo đuổi ơn gọi. Khám phá và làm phát triển các mầm non
ơn gọi nơi những em bé có hạnh kiểm tốt, óc phán đoán đúng, trí
nhớ tốt và ưa thích những việc đạo đức.
·
Để tâm chăm sóc các ơn gọi, xây dựng, thúc đẩy, giúp các
em tránh bạn xấu. Dạy các em đời sống nhân bản và thiêng liêng,
thận trọng trong các mối tương quan. Chính mình cũng cẩn trọng
vì các em ngày nay dậy thì sớm, nhu cầu tình cảm và tính dục
cao.
·
Tổ chức các lớp tìm hiểu ơn gọi tu sĩ trong giáo xứ. Tìm
cách tạo điều kiện tốt nhất cho các em được học tập. Bổ túc giáo
lý, tri thức, tâm lý và tình cảm. Đào tạo nhân bản và giúp các
em tập làm việc, nhất là việc thiện, việc bác ái.
·
Cổ vũ, khen thưởng khi có một kết quả tốt trong học tập
hay trong công việc. Cổ vũ ơn gọi trong cộng đoàn giáo xứ; đồng
thời động viên các em về tinh thần cũng như vật chất.
·
Giới thiệu cho các em về ơn gọi chiêm niệm và hoạt động,
cũng như đặc sủng và linh đạo của mỗi Dòng. Nên tổ chức những
dịp gặp gỡ thân thiện để các em hiểu về ơn gọi và củng cố tình
liên đới giữa các em trong giáo xứ.
·
Cần cổ võ và quan tâm một cách đặc biệt, vì tương lai của
Giáo Hội và Xã hội tùy thuộc vào họ. Cần hướng dẫn, động viên,
giúp đỡ tinh thần và vật chất, cầu nguyện, sống hài hòa liên
đới.
·
Sống cởi mở, vui tươi, làm gương sáng và động viên các em
sống các đức tính nhân bản, tinh thần cầu nguyện và tinh thần hy
sinh phục vụ, bác ái.
·
Huấn luyện các em giúp lễ, ca đoàn, cổ võ sáng kiến, phát
hiện tài năng, nhận biết thánh ý Chúa và can đảm chọn theo Đức
Kitô.
·
Lưu tâm giúp đỡ các em nghèo có thể theo đuổi việc học và
duy trì việc theo đuổi ơn gọi. Hàng tháng nên có buổi gặp gỡ để
hướng dẫn và học hỏi. Định hướng cho các em về con đường tương
lai.
C.9.b Những gì không nên
cư xử, nói và làm
·
Không được quên bổn phận tìm kiếm và vun trồng ơn gọi. Ý
thức trách nhiệm cùng với Giáo Hội ươm mầm non ơn gọi, sẵn sàng
dấn thân trong đời dâng hiến phục vụ.
·
Tránh những việc làm và lời nói tiêu cực, gây hiểu lầm
cho các em. Không trình bày đời tu quá lí tưởng, quá xa thực tế,
khiến các em ảo tưởng về đời tu; nhưng cũng không nên nói rõ hết
những tiêu cực của đời tu, khiến các em nản lòng.
·
Không nên bỏ qua việc hướng dẫn và đào tạo cơ bản ơn gọi
cho các em trong giáo xứ. Không nên chỉ nói về ơn gọi, mà lại
chẳng hề đả động đến việc giúp đỡ các mầm non ơn gọi...
·
Tránh những thờ ơ, gây gương mù gương xấu, gây khó khăn.
Tránh những bất nhất trong việc làm và lời nói, sai sự thật,
nhất là làm hay nói cho xong chuyện.
C.10. Tương quan
với giáo dân nói chung
C.10.a Những gì nên cư
xử, nói và làm
·
Được chọn từ giữa cộng đoàn và cho cộng đoàn Dân Chúa,
linh mục phải sẵn sàng trao hiến mọi sự, tình yêu, sức lực, thời
gian để lo cho đoàn chiên.
·
Để tâm lo cho toàn thể cộng đoàn và từng người, lấy chân
lý mạc khải soi sáng lương tâm họ, dùng quyền bính bảo vệ đời
sống kitô hữu theo đúng Phúc âm, sửa dạy và tha thứ các lỗi lầm,
an ủi những ai sầu khổ và thăng tiến tình huynh đệ.
·
Phải biết cảm thương những nỗi yếu hèn và bất hạnh của
tha nhân như Chúa Giêsu đã làm, và sống thế nào để mọi người đều
cảm thấy họ được đón tiếp và coi trọng, yêu thương.
·
Lòng hiếu khách phải được thể hiện trong cung cách ân cần
tiếp đón niềm nở, tôn trọng, hòa nhã, lắng nghe... Làm sao khi
tiếp xúc với linh mục, người ta không phải ngại ngùng, sợ sệt,
trái lại cảm thấy an lòng, thoải mái, dễ chịu, dễ mến, nể phục
và tín nhiệm.
·
Khi tiếp giáo dân nên chỉnh trang lại quần áo, đầu tóc,
tỏ lòng kính trọng họ. Cử chỉ, cách đối xử, lời nói của linh mục
đều được bổn đạo xem xét, cho là gương tốt hay gương mù, rồi đến
gần hay xa tránh.
·
Đối xử công bằng với hết mọi người, nhất là người nghèo
khó, già cả, bệnh tật. Sống tinh thần giản dị để thông cảm, gần
gũi, và chia sẻ.
·
Phải thực thi sự tốt bụng, lòng kiên nhẫn, tính khả ái,
nghị lực tâm hồn, lòng yêu chuộng công bình, óc quân bình, trung
thành với lời đã nói, nhất quán với cam kết đã đưa ra.
·
Phải làm chứng và biểu lộ lòng nhân hậu của Chúa: dĩ ân
báo oán, cầu nguyện cho kẻ nói xấu mình, hy sinh, viếng thăm,
khuyên bảo với lòng bác ái, tha thứ, tránh những câu nói mất
lòng...
·
Nhẫn nại, cảm thông và chia sẻ những nỗi khổ đau của tội
nhân, giúp họ trở về, noi gương vị Mục Tử Tốt Lành với con chiên
lạc.
·
Quan hệ cả với người giầu và người nghèo sao cho mọi
người thấy linh mục là của mọi người. Gần gũi và chia sẻ với họ
về những khó khăn của cuộc sống. Phục vụ hết mình, nhiệt tình
trong công việc mục vụ. Khôn khéo và thận trọng trong vấn đề
tiền bạc. Nhiệt thành giúp đỡ về đời sống thiêng liêng.
·
Cổ võ và hướng dẫn họ thực hành bác ái, hăng say truyền
giáo. Hô hào tình hiệp thông trong giáo xứ. Chỉ nói những gì
mang tình đoàn kết, mang bình an, mang lại sự hài hòa.
·
Thăm hỏi, đến từng gia đình, nhất là gia đình có hoàn
cảnh khó khăn, có bệnh nhân… Người nghèo, già cả, cô đơn là đối
tượng Cha xứ năng quan tâm giúp đỡ, đặc biệt khi có kẻ liệt cần
xức dầu bệnh nhân.
·
Tổ chức các ban ngành: khuyến học, hòa giải, bác ái xã
hội… Cổ võ việc học hành thăng tiến cho con em, thi đua khen
thưởng, tập cho họ biết chia sẻ đùm bọc, nâng đỡ lẫn nhau.
·
Tôn trọng, cổ võ truyền thống văn hóa tốt đẹp của địa
phương. Tiếp thu những gì mới mẻ hợp đức tin, định hướng cho
giáo dân biết sống đức tin và hội nhập đức tin trong các nền văn
hóa.
·
Xây dựng tổ chức các lớp giáo lý ở mọi lứa tuổi, kể cả
giáo lý hậu hôn nhân, các giờ kinh, chia sẻ Lời Chúa cho các
nhóm nhỏ…
·
Nên coi giáo dân như người thân của mình và chắc chắn
người giáo dân không bao giờ quên linh mục là người thân của họ.
·
Bàn hỏi với những người giáo dân lớn tuổi và có uy tín
trong giáo xứ trước khi làm một việc quan trọng. Phải nhìn nhận
và thăng tiến phẩm giá và sứ vụ giáo dân, sẵn sàng lắng nghe,
coi trọng những ước muốn, nhìn nhận kinh nghiệm và chuyên môn
của họ trong các hoạt động nhân loại.
C.10.b Những gì không
nên cư xử, nói và làm
·
Không áp đặt, bắt họ phải theo ý mình, quan liêu, kênh
kiệu, đòi hỏi, hách dịch, hẹp hòi; hay lôi thôi nhếch nhác, bừa
bãi, hà tiện.
·
Không có tính cục bộ, phân biệt đối xử: Nói xấu người
này, khích bác người kia, gây chia rẽ, bất đồng… Không để họ
phải thất vọng vì thái độ tiếp đón khinh mạn, ra về trong tâm
trạng bất phục, không muốn gặp lại.
·
Không trọng phú khinh bần; tỏ ra mình sang trọng quý
phái, bắt người ta phục vụ quá đáng, hay quá khả năng của họ,
đòi hỏi, cầu lợi và vòi vĩnh tiền bạc; xa cách con chiên bổn
đạo, chỉ đến với những nhà giàu có; sống xa hoa trong khi giáo
dân nghèo đói, khiến người nghèo cảm thấy bị lãng quên.
·
Không la cà nhậu nhẹt ở nhà giáo dân sẽ gây gương mù và
dễ dẫn đến nguy hiểm tai hại cho bậc sống của mình.
·
Không quá đề cập đến chuyện tiền bạc mỗi khi gặp gỡ giáo
dân, dù cần đến tài chính để lo cho những công việc giáo xứ.
Không bao giờ cho giáo dân vay tiền, vì sẽ hoặc mất tiền hoặc
mất con chiên. Tiền bạc không phân minh rất dễ dẫn đến những
đụng chạm xô sát bất hoà.
·
Không chỉ lo xây dựng vật chất mà quên tinh thần, nâng
cao trình độ giáo lý cho giáo dân, nhất là học sinh, sinh viên
và giới trẻ.
·
Không nên liên lạc mật thiết và thường xuyên với những kẻ
công khai nghịch đạo, có tiếng vô luân hay không giữ đạo, gây
gương xấu và làm nhục cho những người đạo đức trong giáo xứ.
·
Không dung túng các hủ tục, nhất là những thứ nghịch đức
tin, phi nhân bản. Không coi thường truyền thống văn hóa địa
phương, hay coi mọi thứ văn hóa mới là xấu.
·
Không rao giảng những gì ngược với đức tin truyền thống
của Hội Thánh, sống đạo hình thức, chấp nhất, thù vặt, giận cá
chém thớt. Không chửi giáo dân trên tòa giảng, trong Thánh lễ.
·
Không nên độc tài, tự mình quyết định tất cả công việc
của giáo xứ. Không nên lấy quyền để thống trị, nhưng hãy lấy
tình yêu để phục vụ. Không hách dịch, quan liêu khi gặp giáo
dân, vì làm như vậy chỉ mất người mà thôi.
|
VỀ MỤC LỤC |
|
SỰ
CAO TRỌNG CỦA ĐỜI SỐNG VỢ CHỒNG |
Tác phẩm: Cẩm Nang Hạnh Phúc Gia Đình
Kitô - MỤC VỤ HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH
Tác
giả: D. WAHRHEIT (Lm. Minh Anh, GP. Huế tổng hợp biên tập)
B7.
SỰ CAO TRỌNG CỦA ĐỜI SỐNG VỢ CHỒNG
Phải chăng ơn gọi sống đời linh
mục và tu sĩ cao trọng hơn ơn gọi sống bậc vợ chồng? Đó có thể
là câu hỏi và đồng thời cũng là mặc cảm của những người sống bậc
vợ chồng. Mặc cảm này có thể xuất phát từ những giải thích sai
lầm về một số đoạn Kinh Thánh liên quan đến tình yêu Thiên Chúa
và liên quan đến ơn gọi tu trì.
1.
Xin đọc lại một vài đoạn tiêu biểu trong Kinh Thánh liên
quan đến các bậc sống của người tín hữu Kitô và từ đó, nêu bật
sự cao trọng của ơn gọi sống đời vợ chồng.
Trong Tân Ước, có một vài đoạn ca
tụng bậc đồng trinh, tức là đời sống tu trì khiến cho nhiều
người có cảm tưởng đời sống hôn nhân bị hạ giá. Trong thư I gửi
giáo đoàn Côrintô, Thánh Phaolô viết: “Không vương vấn với
phụ nữ là điều tốt cho người đàn ông. Tuy nhiên để tránh dâm dật
thì mỗi người hãy có vợ có chồng”. Một lời lẽ như thế dễ cho
chúng ta có cảm tưởng thánh Phaolô đề cao bậc đồng trinh và hạ
giá bậc vợ chồng, như thể bậc vợ chồng là bậc sống dành cho
những người yếu đuối mà thôi.
Thực ra, chúng ta chỉ hiểu được ý
nghĩa và giá trị của giáo huấn trên đây khi đặt nó vào toàn bộ
Kinh Thánh. Có một số câu Kinh Thánh đề cao một khía cạnh, nhưng
không vì thế mà được giải thích như một phán đoán tiêu cực đối
với những khía cạnh khác. Cuộc sống hôn nhân và gia đình là một
thực tại phức tạp đến nỗi chỉ được nhìn dưới từng khía cạnh mà
thôi. Do đó, người ta không thể trích dẫn một đoạn đặc thù để
chối bỏ những khía cạnh khác.
Cũng thế, trong nhiều đoạn Kinh
Thánh, hình như Thiên Chúa được trình bày như đối nghịch và cạnh
tranh với tình yêu của con người. Đọc những đoạn Kinh Thánh ấy,
người ta có cảm tưởng như yêu thương vợ chồng và con cái là giảm
bớt tình yêu đối với Thiên Chúa.
Thiết tưởng chúng ta cần đọc lại
các sách tiên tri trong Cựu Ước để hiểu được tình yêu của Thiên
Chúa. Các tiên tri trình bày cho chúng ta một Thiên Chúa như là
hôn phu của dân Do Thái, nhiều lần dân Do Thái bị xem là ngoại
tình và thất trung vì chạy theo các thần ngoại.
Vì trình bày mối quan hệ giữa
Thiên Chúa và dân Do Thái dưới hình thức tình nghĩa vợ chồng,
các tiên tri gọi Thiên Chúa là Đấng hay ghen. Thiên Chúa là Đấng
hay ghen bởi Ngài muốn con người thuộc trọn về Ngài. Nhưng thuộc
trọn về Thiên Chúa không có nghĩa là chối bỏ tất cả những gì là
cao đẹp nơi con người. Thiên Chúa ghen tương không có nghĩa là
Ngài cảm thấy tình yêu của con người đối với Ngài bị sứt mẻ khi
con người yêu thương nhau. Thiên Chúa không thể ghen khi thấy
người chồng yêu thương vợ mình; Thiên Chúa cũng không thể ghen
khi thấy cha mẹ yêu thương con cái mình.
2.
Thiên Chúa không ghen tương với con người; Ngài chỉ ghen tương
với những thần tượng giả trá, những tình yêu giả hiệu mà thôi.
Nói như thánh Gioan tông đồ, nếu Thiên Chúa là tình yêu thì hẳn
Ngài không thể ghen tương với những người sống yêu thương. Ngài
ghen vì những gì nghịch với tình yêu và hạ phẩm giá con người.
Nói cách khác, khi Thiên Chúa bị phản bội.
Trong Cựu Ước, Thiên Chúa phán:
“Ngươi hãy yêu mến Thiên Chúa ngươi hết tâm tình, hết linh hồn,
hết sức lực ngươi”. Trong Tân Ước, Chúa Giêsu cũng đã nói: “Ai
yêu mến cha mẹ hơn Ta, không xứng là môn đệ Ta”. Những đoạn
Kinh Thánh như thế không thể hiểu như là đòi hỏi phải khước tử
những quan hệ bà con ruột thịt của con người vì tình yêu đối với
Thiên Chúa. Một Thiên Chúa hay ghen không có nghĩa là một Thiên
Chúa cạnh tranh với con người.
Những đoạn Kinh Thánh như thế cần
phải hiểu như là một đòi hỏi phải đặt Thiên Chúa vào trọng tâm
của cuộc sống con người. Phải yêu mến Thiên Chúa trên hết mọi
sự, nghĩa là phải tìm kiếm và xây dựng tình yêu đích thực trên
tất cả mọi sinh hoạt của con người. “Thiên Chúa là tình yêu
và ai sống trong tình yêu là sống trong Thiên Chúa”. Ai chạy
theo tình yêu giả hiệu, người đó cũng chối bỏ và thù ghét Thiên
Chúa.
Như vậy, xây dựng tình yêu đích
thực trong gia đình và với mọi người chính là thực thi giới răn
mến Chúa trên hết mọi sự. Đó chính là giáo huấn đích thực của
Chúa Giêsu khi Ngài liên kết hai giới răn mến Chúa và yêu người
thành một. Và chúng ta cũng hiểu rõ hơn giáo huấn của Ngài qua
lời giảng dạy của thánh Gioan. Thực tế, thánh Gioan viết trong
thư thứ I của Ngài: “Ai nói mình yêu mến Thiên Chúa mà nó
không thấy, nhưng lại không yêu mến tha nhân mà nó thấy trước
mắt, thì đó là người nói dối”. Đặt vào bối cảnh gia đình,
chúng ta có thể nói: kẻ không yêu thương người phối ngẫu và con
cái minh một cách đích thực cũng chính là kẻ không yêu mến Thiên
Chúa; người đó cũng là kẻ phản bội Thiên Chúa.
3.
Hiểu được tình yêu Thiên Chúa như thế, chúng ta sẽ loại
bỏ được nhiều thành kiến đối với đời sống hôn nhân và gia đình
cũng như thấy được giá trị con đường tu đức dành cho bậc vợ
chồng. Một người thánh thiện thực sự sẽ không bao giờ nghĩ rằng,
phương thế duy nhất để yêu mến Thiên Chúa trên hết mọi sự và hết
sức lực của mình là phải cắt đứt mọi quan hệ tình cảm với những
người thân thương ruột thịt để giam mình trong bốn bức tường của
tu viện.
Yêu mến gia đình của mình bằng một
tình yêu đích thực và khước từ mọi thứ tình cảm bất chính lệch
lạc là đang đi trên con đường nên thánh dành cho những người
sống bậc vợ chồng. Con người tận hiến cho Thiên Chúa không những
bằng cuộc sống tu trì mà còn bằng cả cuộc sống hôn nhân và gia
đình nữa.
Trên thiên đàng, chỗ cao trọng
nhất không phải đương nhiên dành cho những người sống bậc tu trì
hay suốt đời giữ độc thân, nhưng dành cho những ai đã yêu mến
nhiều mà thôi. Lòng bác ái không phải là độc quyền của một số
người ưu tuyển mà là nghĩa vụ của những ai đã chịu phép rửa.
Chúng tôi xin mượn lời thánh Gioan
trong thư I của Ngài để kết thúc: “Thiên Chúa là tình yêu, ai
sống trong tình yêu là sống trong Thiên Chúa”. Chúng ta có
thể nói: Ai sống yêu thương là đang đi trên con đường nên thánh
vậy.
|
VỀ MỤC LỤC |
|
CHĂM SÓC CHA MẸ LÚ LẪN
|
Lú Lẫn là sự suy kém về trí tuệ, hay bị
lẫn, lãng quên và không còn khả năng suy nghĩ một cách sáng suốt
như thường lệ.
Bệnh nhân ngơ ngác, mất phương hướng, không
biết mình ở đâu, trong thời gian nào.
Họ quên cách gọi thông thường về người và
sự vật. Họ cũng quên luôn cả cách tự chăm sóc hàng ngày như tắm
rửa, đánh răng, ăn cơm, mặc quần áo.
Và họ hành động giống như một em bé mới
lớn. Bỗng chốc vui, bỗng chốc buồn. Rồi cũng vô cớ giận hờn,
bướng bỉnh, gắt gỏng với người thân, người chăm sóc. Trước đám
động, họ chạy tung tăng, chọc ghẹo người này, quấy phá người
kia. Rồi nhe răng cười nói, ngô nghê. Không ai đoán được họ muốn
gì. Vì họ đã vừa lú, vừa lẫn.
Lú lẫn có thể xuất hiện bất thình lình hoặc
từ từ.
Nguyên nhân
Nguyên nhân
chính của lú lẫn sa-sút trí- tuệ là bệnh Alzheimer, 68%. Rồi đến
bệnh trầm cảm, hủy hoại não do nhiều tai biến não nhỏ, thiếu
sinh tố B12 hoặc do di truyền, virus.
Có tới 75%
trường hợp lú lẫn diễn tiến âm thầm một thời gian khá lâu trước
khi được khám phá, thường thì do thân nhân nhận ra.
Lúc đầu,
người bệnh hay kiếm cách, phủ nhận, nói lảng, đôi khi bịa rất
khéo để che dấu bất hạnh cuả mình. Thí dụ như khi hỏi họ đang
coi phim gì trên truyền hình, thì họ trả lời “đang coi chương
trình tôi thích nhất ”, mà thực ra họ không nhớ tên của chương
trình đó. Nhưng với thời gian, người bệnh không còn che đậy được
nữa, và triệu chứng lần lần xuất hiện
Chăm sóc
Chăm sóc
người lú lẫn, rối loạn trí tuệ là cả một công việc khó khăn,
nặng nhọc, với nhiều kiên nhẫn, khoan dung, chiếm gần hết số 24
giờ một ngày. Trách nhiệm người săn sóc rất căng thẳng.
Sau đây là
một số gợi ý về việc chăm sóc hỗ trợ để đáp ứng những nhu cầu
cũng như giải quyết vấn đề khó khăn của người bệnh:
1- Về ăn uống
Vì sự an
toàn, tránh để bệnh nhân can dự đến việc nấu nướng, để tránh
phỏng da, hỏa hoạn.
Nhắc nhở giờ
ăn.
Dọn từng món
ăn một để tránh trường hợp họ ngồi bối rối trước mâm cơm, không
biết lựa món nào.
Đôi khi bệnh
nhân chỉ thích ăn một món, dễ bị thiếu dinh dưỡn, Vì vậy nên xen
kẽ món ăn khác nhau.
Quên cách
dùng đũa, thìa có thể thay bằng món ăn cầm tay.
Cho ăn nhiều
bữa nhỏ trong ngày vì họ không chịu ngồi yên trong bữa ăn kéo
dài.
2- Ngủ nghỉ
Để ngủ ngon
giấc ban đêm, nên khuyến khích bệnh nhân tham dự nhiều sinh hoạt
ban ngày, tránh uống nhiều nước buổi chiều để họ khỏi thức dậy
đái đêm.
Không nên cho
uống nhiều thuốc ngủ, giới hạn ngủ ngày.
3- Thuốc men
Cất giữ dược
phẩm trong tủ khóa kỹ.
Cần trực tiếp
giúp người bệnh uống thuốc cho đúng giờ, đúng phân lượng.
Với bệnh nhân
không chịu uống thuốc, nên nghiền thuốc nhỏ, pha lẫn với chút
thức ăn, nước trái cây. Đôi khi phải dỗ như dỗ trẻ em.
4- Quần áo
Cần quần áo
rộng rãi, thoải mái khi mặc, ít cúc, móc rắc rối.
Nhiều khi họ
chỉ thích mặc một bộ nào đó, nên có sẵn hai bộ y hệt để thay đổi
mỗi ngày.
Giầy không
dây cột hoặc có vải dính, vì đôi khi họ quên cách cột dây giầy.
5- Tắm rửa
Khi tắm, họ
hay nghịch rỡn như trẻ thơ, đôi khi vùng vằng không chịu tắm, do
đó nên cần lựa ý, để họ tự tắm, tôn trọng sự riêng tư.
Coi nước nóng
lạnh vừa đủ.
Dùng ghế tắm,
tay vịn, thảm cao su dưới đáy bồn tắm để tránh té ngã.
6- Thay đổi tính tình
Với thời
gian, bệnh nặng hơn, trí nhớ hao mòn, khả năng tự chăm sóc cá
nhân giảm, niềm tự tin mất bớt, họ trở nên nghi ngờ, bẳn gắt,
bướng bỉnh, khó chịu. Đây là lúc người thân vừa đau lòng, vừa
khó xử. Nếu tỏ ra khó khăn với bệnh nhân thì lại càng làm họ bực
tức, chống đối nhiều hơn.
Nên nhẹ nhàng
thông cảm, vỗ về người bất hạnh vói lời nói ngắn, gọn, rõ ràng.
Một cái vỗ vai nhẹ, một nụ cười, một ôm hôn trên má để làm họ
thấy được thương yêu.
7- Để tránh đi lang thang, lạc lối
Thay ổ khóa
cửa mở cần chìa, gắn hệ thống báo động cửa ra vào.
Cho bệnh nhân
mang vòng tay có ghi tên họ, địa chỉ.
Nhờ hàng xóm
để ý dùm nếu họ đi ra khỏi nhà.
8- Nhà ở
Trưng bầy
hình ảnh kỷ niệm xưa ở chỗ dễ thấy để kích động trí nhớ, nhất là
những tấm hình gợi lại sự thành công trước đây của người thân,
hình sinh nhật, cưới hỏi, họp bạn.
Treo đồng hồ,
lịch chữ to để nhắc nhở ngày tháng, thời gian.
Phòng ở đầy
đủ ánh sáng, ít đồ đạc, để dễ đi lại, tránh ngã té.
Con cháu tới
thăm hỏi thường nhật, nhất là trẻ thơ vì chúng mang lợi ích cho
mọi tuổi.
Kết Luận
Cổ nhân có
câu nói “Trẻ cậy cha, già cậy con”.
Đặc biệt là
khi cha mẹ bị lú lẫn. Vì trong hoàn cảnh này, cha mẹ hoàn toàn
trông cậy, phụ thuộc ở con cháu.
Vậy hãy dành
cho cha mẹ lú lẫn một chăm sóc chân tình, chu đáo. Để khỏi rơi
vào cảnh “cha mẹ nuôi con như trời như bể, con nuôi cha mẹ con
kể từng ngày”.
Chuối chín
cây, cuống chuối teo khô, đầu chuối rữa mềm, chuối rụng lúc nào,
ai hay.
Bác sĩ Nguyễn Ý
Đức
Texas-Hoa Kỳ
www.bsnguyenyduc.com
|
VỀ MỤC LỤC |
TRÊN PHẦN ĐẤT CỦA TUỔI THƠ - Chuyện
phiếm của Gã Siêu |
Chuyện xưa kể lại rằng:
Vào năm 479 trước Tây lịch, Khổng Tử qua
đời và được mai táng trong một ngôi mộ ở Tứ Thuỷ Biên, thuộc bắc
thành nước Lỗ. Để tưởng nhớ công ơn dạy dỗ của thầy mình, Tử
Cống, vừa là một học trò, lại vừa là một doanh nhân thành đạt,
đã đề nghị với tất cả các môn sinh, là nên nhất trí cùng để tang
thầy ba năm.
Tiếp đó, Tử Cống còn tự dựng một căn lều
ngay bên cạnh phần mộ, để tiện bề nhang khói cho thầy hàng ngày.
Dần dần những người học trò khác cũng bắt chước, tất cả được hơn
một trăm người, cùng dọn đến và làm nhà quanh ngôi mộ của Khổng
Tử. Từ đó hình thành một khu dân cư sầm uất. Người đời sau đặt
tên cho nơi ấy là “Thôn Khổng”.
Sở dĩ những người học trò đã dành cho Khổng
Tử những tình cảm trân trọng nhất, là bởi vì họ đã thấm nhuần
những lời dạy bảo của Khổng Tử.
Thực vậy, theo Khổng Tử, trong xã hội có ba
hạng người chúng ta phải tỏ lòng tôn kính mến yêu, đó là
quân-sư-phụ, vua-thầy-cha. Thầy đứng sau vua, nhưng lại đứng
trước cả cha, bởi vì cha chỉ là người cho chúng ta cuộc sống,
còn thầy thì dạy cho chúng ta biết phải sống cuộc sống ấy như
thế nào.
Hơn thế nữa, thầy còn nắm giữ một vai trò
quan trọng đối với vận mạng của quê hương. Vì thế, người ta
thường bảo: Lương sư hưng quốc, có nghĩa là thầy giỏi thì đất
nước được phồn thịnh. Chính vì vậy, chúng ta có bổn phận phải
tôn sư trọng đạo, kính thầy và mến đạo. Đạo ở đây là đạo làm
người do Đức Khổng và các bậc hiền nhân truyền lại, và cho dù
thầy mới chỉ dạy chúng ta được chút xíu, thì cũng vẫn phải trọng
kính, vì: Nhất tự vi sư bán tự vi sư. Một chữ là thầy và nửa chữ
cũng là thầy.
Bởi đó, không cần phải chờ tới tháng 7 năm
1946, khi một tổ chức quốc tế các nhà giáo tiến bộ được thành
lập ở Paris, mang tên gọi là Liên Hiệp Quốc Tế các Công Đoàn
Giáo dục, đồng thời không cần phải đợi tới năm 1949, khi bản
“Hiến chương các nhà giáo” được Liên hiệp này ban hành tại một
hội nghị ở Varszawa, thủ đô Ba Lan, ngoài ra cũng không cần phải
đợi chờ đến khi Nhà nước ấn định chọn ngày 20 tháng 11 làm ngày
“Quốc tế hiến chương các nhà giáo”, hay gọi một các đơn sơ và
ngắn gọn hơn, là ngày “Các Nhà Giáo”, người Việt Nam mới tưởng
nhớ tới công ơn của thầy cô, nhưng từ ngàn năm về trước, quan
niệm của Khổng Tử cùng với Nho giáo đã bén rễ sâu trong tâm hồn
người Việt Nam, nhất là trong lãnh vực tình nghĩa thầy trò.
Thực vậy, đối với người Việt Nam, từ hàng
cùng đinh khố rách áo ôm cho tới bậc tài cao học rộng, tất cả
đều hay biết về sự quan trọng của thầy trong việc xây dựng cuộc
đời mỗi người chúng ta, bởi vì:
- Không thầy, đố mày làm nên.
Vì thế, là người học trò, là người môn
sinh, chúng ta có bổn phận phải ghi nhớ công ơn của những vị
thầy đã từng đi qua cuộc đời chúng ta:
- Một chữ nên thầy,
Một ngày nên nghĩa.
Đồng thời phải coi trọng tình cảm của mình
đối với thầy:
- Gương vàng rớt xuống hồ Tây,
Công cha cũng trọng, nghĩa thầy cũng sâu.
Nhất là phải yêu mến thầy:
- Bồng bồng mẹ cõng con sang,
Đò dọc quan cấm, đò ngang không chèo.
Muốn thì bắc cầu kiều,
Muốn con hay chữ phải yêu lấy thầy.
Tình yêu và sự quí mến đối
với thầy được biểu lộ một cách đặc biệt, nhất là vào dịp tết
nhất và giỗ chạp, bởi vì theo quan niệm của người Việt Nam thì:
- Sống tết, chết giỗ.
Vào dịp tết Nguyên đán, các
học trò xa gần náo nức rủ nhau về chúc tết, thăm hỏi sức khoẻ
gia đình thầy. Vì thế, người ta mới qui định:
- Mồng một tết cha,
Mồng hai tết chú,
Mồng ba tết thầy.
Để hiểu được tình nghĩa
thầy trò ngày xưa, gã xin trích lại nơi đây một đoạn trong cuốn
“Việt Nam phong tục” của Phan Kế Bính:
“Học trò khi mới vào học
gọi là nhập môn, phải kiếm buồng cau lạy yết kiến thầy hai lạy.
Lúc học gặp khi mồng năm, ngày tết như tết Nguyên đán, tết Thanh
minh, tết Đoan dương, tết Trung thu, mùa nào thức ấy, hoặc cặp
gà, thúng gạo, hoặc đường mứt bánh trái, hoặc dăm ba quan tiền,
tuỳ tình đa thiểu mà đem đến lễ thầy.
Khi nhà thầy có việc,
hoặc việc hiếu, hoặc việc hỉ, hoặc khi có kỵ, học trò cũng kiếm
lễ vật đến lễ và giúp đáp công việc cho nhà thầy.
Cả bao nhiêu học trò hội
lại gọi là hội đồng môn. Hội đồng môn của thầy lập ra hoặc của
học trò hội lại mà đặt ra. Thầy xem trong môn sinh ai là người
hiển đạt hơn hoặc có tuổi hơn thì bầu làm trưởng tràng để đứng
đầu mà coi sóc việc môn sinh. Lại bầu một người làm giám tráng
để hiệp trợ với trưởng tràng…
Khi cha mẹ thầy mất,
đồng môn cũng phải hội giúp thầy ít tiền và phải sửa lễ phúng
viếng đưa đón phân mình. Đến khi thầy hoặc vợ thầy mất, thì đồng
môn phải xử trọng thú hơn, mà phải phục tùng quyền huynh là
người kế tự của thầy. Phải bổ bán mỗi người dăm ba đồng bạc để
giúp cho thế huynh. Lúc đưa ma, hết thảy môn sinh phải khăn
trắng áo trắng đưa đến huyệt, lạy tạ ba bốn lạy mới trở về. Về
đến nhà, hội họp với nhau giết bò giết lợn tế thầy một tuần.
Môn sinh cũng phải để
tang thầy học ba năm, song không phải phục tang chế, gọi là tâm
tang, nghĩa là để trong bụng mà thôi…”
Và Phan Kế Bính kết luận:
“Người ta ở đời nhờ có
cha mẹ sinh ra mình, lại phải nhờ có thầy dạy cho mình thì mình
mới khôn biết việc này việc nọ, mới nên người, cho nên học trò ở
với thầy như con ở với cha mẹ, ấy cũng là một mối luân thường
của Á đông ta.”
Viết đến đây, bỗng gã lim
dim đôi mắt, mơ về tuổi thơ của gã. Hồi đó, trong thôn làng của
gã chỉ có một ngôi trường tiểu học. Trường tiểu học lúc bấy giờ
chỉ gồm có lớp mẫu giáo, rồi lớp năm, lớp tư, lớp ba, lớp nhì và
lớp nhất. Không có nhà trẻ, mầm chồi chi hết. Đi qua ngôi trường
tiểu học này, người ta thường nghe thấy tiếng học trò sang sảng
đọc bản cửu chương, được in vào bìa vở:
- Hai lần một là hai, hai
lần hai là bốn, hai lần ba là sáu, hai lần bốn là tám…
Thầy phụ trách lớp mẫu giáo
tên là Roãn, nhưng mọi người trong làng, từ già đến trẻ, tất ráo
cả nam phụ lão ấu đều gọi thầy bằng một tên gọi rất thân thương,
đó là thầy giáo…già, bởi vì thầy cũng đã mang nặng tí tuổi đời
trên đôi vai gầy của mình.
Lúc nào thầy cũng cầm trong
tay chiếc thước kẻ, mục đích là để gõ nhịp xuống bàn khi học trò
tập đọc, chứ chẳng đánh đứa nào bao giờ. Thầy chăm sóc từng học
trò như một người mẹ. Dỗ dành bằng cục kẹo khi có đứa khóc nhè,
nhẹ nhàng phân xử khi hai đứa…”uấn nhau”, thậm chí còn phải dẫn
ra cầu ao giặt giũ và tắm rửa, khi có đứa lỡ…”ị” ra quần. Bọn
học trò lớp mẫu giáo thời bấy giờ thường được diễn tả như sau:
- Học trò thò lò mũi xanh,
Cầm miếng bánh đúc chạy
quanh nhà trường.
Với những môn sinh của các
cụ đồ, bài học đầu tiên là một vài câu trong Tứ Thư hay Ngũ
Kinh, chẳng hạn:
- Nhân chi sơ tính bản
thiện.
Câu này vốn được “cải biên”
để áp dụng cho xấp nhỏ:
- Nhân chi sơ là sờ vú mẹ.
Còn học trò lơp mẫu giáo,
bài học đầu tiên là nhận mặt những chữ cái. Vì thế, chẳng biết
thầy lấy ở đâu hay tự bịa ra những câu thơ, những câu vè để cả
lớp cùng đọc cho dễ thuộc và dễ nhớ, chẳng hạn như:
- O tròn như quả trứng gà,
Ô thời có mũ,
Ơ thời thêm râu!!!
Hay:
- U - cê úc là cục mắm tôm,
A - i ai là chai nước mắm!!!
Đến khi tập viết, thầy thường cầm tay từng
đứa để nó nắn nót tô lại từng chữ thầy đã viết bằng bút chì…
Mồng ba tết, mỗi đứa được mẹ gói ba hay bốn
quả trứng trong một chiếc khăm tay để nó xách tới nhà thầy. Khi
đến nơi, những quả trứng ấy được gom vào một chiếc mâm lớn để
tết thày. Một vài đứa chẳng may làm bể trứng trên đường đi, bèn
đứng khóc đỏ cả mắt, mất công thầy phải dỗ…Một buổi sáng ở nhà
thầy sao mà vui thế. Trước khi ra về, mỗi đứa đều được thầy lì
xì cho một đồng tiền mới.
Qua bao nhiêu năm, thầy chỉ…chuyên trị lớp
mẫu giáo mà thôi. Được mời dạy lớp cao hơn, thầy luôn mỉm cười
và từ chối. Bao nhiêu lớp mẫu giáo đã qua tay thầy đào luyện. Dù
đã lên thành phố lập nghiệp, dù đã gặt hái những thành công
trong cuộc sống, thế nhưng mỗi khi có dịp về làng, những người
học trò năm xưa ấy vẫn không quên tới thăm thầy giáo già của
mình.
Ngày tháng cứ âm thầm trôi qua. Đôi vai
thầy gầy hơn. Cặp kính trên đôi mắt thầy lại dầy hơn. Rồi một
buổi sáng, cả làng đều xúc động khi nghe tin thầy mới qua đời.
Và ước vọng cuối cùng của thầy, đó là:
- Xin hãy chôn cất tôi trên phần đất của
tuổi thơ.
Số là nghĩa địa của làng gã được chia làm
hai khu vực. Khu vực bên trái dành cho những trưởng thành và già
cả. Khu vực bên phải dành cho những người còn trẻ và các em nhỏ.
Suốt mấy chục năm trời, đời thầy gắn liền
với tuổi thơ. Có thể nói: Thầy sống vì tuổi thơ và sống cho tuổi
thơ, nên bây giờ, thầy đã được yên nghỉ bên cạnh những em nhỏ
của thầy.
Gã Siêu
gasieu@gmail.com
|
VỀ MỤC LỤC |
|
- Mọi liên lạc: Ghi danh, thay đổi địa chỉ, đóng góp ý kiến,
bài vở..., xin gởi về địa chỉ
giaosivietnam@gmail.com
- Những nội dung sẽ được đề cao và chú ý bao gồm:
Trao đổi, chia sẻ những kinh nghiệm thực tế trong việc mục
vụ của Giáo sĩ; Những tài liệu của Giáo hội hoặc của các
Tác giả nhằm mục đích Thăng tiến đời sống Giáo sĩ; Cổ võ ơn
gọi Linh mục; Người Giáo dân tham gia công việc “Trợ lực
Giáo sĩ” bằng đời sống cầu nguyện và cộng tác trong mọi lãnh
vực; Mỗi Giáo dân phải là những “Linh mục” không có chức
Thánh; Đối thoại trong tinh thần Bác ái giữa Giáo dân và
Giáo sĩ… (Truyền giáo hay xây pháo đài?)
- Quy vị cũng có thể tham khảo những số báo đã phát hành tại
www.conggiaovietnam.net
Rất mong được sự cộng tác, hưởng ứng của tất cả Quí vị
Xin chân thành cám ơn tất cả anh chị em đã
sẵn lòng cộng tác với chúng tôi bằng nhiều cách thế khác
nhau.
TM. Đặc San Giáo Sĩ Việt Nam
Lm. Luca
Phạm Quốc Sử
USA
|
|
*************
|
|