Đặc San Giáo Sĩ Việt Nam

 

 

 

ĐỰƠC CHỌN GIỮA LOÀI NGƯỜI
VÀ CHO LOÀI NGƯỜI  (x. Dt, 5.1)

 

GIÁO SĨ:

Xuất phát từ giáo dân, hiện diện vì giáo dân và cậy dựa vào giáo dân

 

ĐỂ CÙNG LÀM VINH DANH THIÊN CHÚA

 

www.conggiaovietnam.net                          giaosivietnam@gmail.com

Đặc San Điện Tử    Giáo Sĩ Việt Nam    Số 145, Chúa Nhật 22.05.2011


MỤC LỤC 

Cổ Võ Việc Phát triển Văn Hóa                                                                               Vatican 2

Mọi người, mọi việc trong Giáo hội phải hướng đến mục đích truyền giáo                   WHĐ

EMMAUS, CON ĐƯỜNG HY VỌNG                                          Bác sĩ Nguyễn Tiến Cảnh, MD.

“Đề cử các ơn gọi nơi Giáo hội địa phương”               Lm. Micae-Phaolô Trần Minh Huy pss

VỚI INTERNET, CHÚNG TA LOAN TIN VUI                                         Gioan Lê Quang Vinh

QUAN NIỆM VỀ PHÁI TÍNH (2)                                                      Lm Lê Văn Quảng Psy.D.

HÃY ĐI TRONG BÌNH YÊN                                                                 Lm. VĨNH SANG, DCCT

Vai trò đặc thù của Người Tín Hữu Giáo Dân trong Giáo hội và giữa Trần thế (2) Tiến sĩ Nguyễn Học Tập

KHO BÁU                                                                                                       Br. Huynhquảng

ƠN GỌI NÊN THÁNH CỦA BẬC HÔN NHÂN                                        Lm. Minh Anh biên tập

SỚM KHÁM PHÁ UNG THƯ RUỘT GIÀ                                           Bác sĩ Nguyễn Ý-Đức MD.

PHỞ VÀ CƠM THỜI H1N1                                                           Chuyện phiếm của Gã Siêu


Cổ Võ Việc Phát triển Văn Hóa

 

Hiến Chế Mục Vụ Về Giáo Hội Trong Thế Giới Ngày Nay

Gaudium Et Spes

 

Prepared for Internet by Vietnamese Missionaries in Asia

 

Phần Thứ Hai

Một Số Vấn Ðề Khẩn Thiết

Cổ Võ Việc Phát triển Văn Hóa 65*

 

53. Nhập đề. Ðặc điểm của một nhân vị là chỉ đạt tới nhân tính đích thực và trọn vẹn nhờ văn hóa, nghĩa là nhờ việc trau giồi những ưu phẩm và giá trị của bản tính. Vì vậy, mỗi khi đề cập đến cuộc sống nhân loại, bản tính và văn hóa liên kết với nhau hết sức chặt chẽ.

Theo nghĩa tổng quát, chữ "văn hóa" chỉ tất cả những gì con người dùng để trao dồi và phát triển các năng khiếu đa diện của tâm hồn và thể xác; cố gắng chế ngự cả trái đất bằng trí thức và lao động; làm cho đời sống xã hội, đời sống gia đình cũng như đời sống chính trị trở thành nhân đạo hơn, nhờ sự tiến bộ trong các tập tục và định chế; sau hết, diễn tả, thông truyền và bảo tồn trong các công trình của mình, những kinh nghiệm tinh thần và hoài bão lớn lao của các thời đại, để giúp cho nhiều người và toàn thể nhân loại tiến bộ hơn.

Vì vậy, văn hóa nhân loại thiết yếu mang tính cách lịch sử và xã hội, và chữ "văn hóa" thường mặc thêm một ý nghĩa xã hội học cũng như dân chủng học. Chính vì ý nghĩa này mà người ta nói đến sự đa tạp của các nền văn hóa. Thực vậy, có nhiều cách xử dụng sự vật, nhiều cách làm việc và diễn tả tư tưởng, nhiều cách phụng tự và tạo nên thuần phong mỹ tục, nhiều cách thiết lập luật lệ và định chế pháp lý, nhiều cách phát triển khoa học, nghệ thuật và trau giồi thẩm mỹ, nên mới phát sinh nhiều cách chung sống và nhiều hình thức hòa hợp các giá trị của cuộc sống. Như thế, từ các định chế lưu truyền, hình thành một di sản riêng cho mỗi cộng đoàn nhân loại. Cũng do cách thức ấy mà hình thành một môi trường lịch sử nhất định của con người, bất cứ dân tộc nào hay thời đại nào, để từ môi trường đó con người rút ra những giá trị hầu thăng tiến nền văn minh nhân loại.

Ðoạn 1: Tình Trạng Văn Hóa Trong Thế Giới Ngày Nay 66*

54. Những lối sống mới. Tình trạng sinh sống của con người hiện đại về phương diện xã hội và văn hóa đã biến đổi sâu đậm, khiến con người có thể nói đến một kỷ nguyên mới của lịch sử nhân loại 1. Từ đó, mở ra những con đường mới để hoàn bị và bành trướng văn hóa rộng rãi hơn. Những con đường này đã được khai phá nhờ sự lớn mạnh của các ngành khoa học thiên nhiên, nhân văn và xã hội, nhờ sự phát triển kỹ thuật cũng như sự tiến bộ trong công cuộc khám phá và khéo léo tổ chức những phương tiện giúp con người liên lạc với nhau. Bởi đó, nền văn hóa hiện đại mang những đặc điểm này: các khoa học mệnh danh là khoa học chính xác phát triển tối đa óc phê bình; những nghiên cứu mới nhất về tâm lý học cắt nghĩa hoạt động của con người sâu xa hơn; các bộ môn sử học góp phần lớn lao giúp con người nhận định sự vật dưới khía cạnh biến đổi và tiến hóa; tập tục và cách sống ngày càng đồng nhất; hiện tượng kỹ nghệ và đô thị hóa cộng với những nguyên nhân khác đang phát huy đời sống tập thể tạo nên những hình thức văn hóa mới (văn hóa đại chúng), từ đó, phát sinh những cách cảm nghĩ, hành động và giải trí mới. Ðồng thời, sự phát triển trao đổi giữa các dân tộc và các tập thể khác nhau cũng mở rộng hơn cho mọi người và mỗi người các kho tàng của những hình thức văn hóa khác nhau. Và cứ thế, sẽ dần dần xuất hiện một hình thức văn hóa nhân loại đại đồng hơn, nhờ đó, nếu càng tôn trọng những điểm của các nền văn hóa khác nhau, càng diễn đạt và tiến gần đến sự hiệp nhất nhân loại hơn.

55. Con người, tác giả của văn hóa. Càng ngày càng có nhiều người, nam cũng như nữ, thuộc bất cứ tập thể hay quốc gia nào, ý thức được chính họ và những người xây dựng và sáng tạo văn hóa của cộng đoàn mình. Trên toàn thế giới, ngày càng gia tăng ý thức tự trị cũng như trách nhiệm. Ðó là điều rất cần để nhân loại trưởng thành trên bình diện tinh thần và luân lý. Ðó là điều sẽ xuất hiện rõ ràng hơn, nếu chúng ta quan tâm đến sự thống nhất thế giới và đến bổn phận chúng ta là phải kiến tạo một thế giới tốt đẹp hơn trong chân lý và công bằng. Do đó, chúng ta là chứng nhân của sự hình thành một nền nhân bản mới trong đó con người được định nghĩa trước hết tùy theo trách nhiệm của mình đối với anh em và đối với lịch sử.

56. Trở ngại và bổn phận. Trong những hoàn cảnh ấy, không còn gì đáng ngạc nhiên nếu con người vì cảm thức được trách nhiệm của mình trong việc phát triển văn hóa, nên nuôi những hoài bão cao xa, đồng thời cũng lo âu nhìn đến muôn ngàn mâu thuẫn trước mắt mình phải giải quyết:

Phải làm gì để sự trao đổi văn hóa phồn thịnh kia tạo được sự đối thoại đích thực và kiến hiệu giữa các tập thể và các quốc gia khác nhau mà không xáo trộn cuộc sống của các cộng đoàn, không phá hoại sự khôn ngoan của tiền nhân cũng như không làm tổn thương những đặc tính riêng của các dân tộc? 67*

Phải làm thế nào để phát huy sự truyền bá và sức linh động của nền văn hóa mới, mà không hủy diệt lòng trung thành gắn bó với di sản truyền thống? 68* Ðó là vấn đề đặc biệt khẩn cấp khi phải dung hòa văn hóa phát sinh từ sự tiến bộ lớn lao của khoa học và kỹ thuật với văn hóa được nuôi dưỡng bằng nền học vấn cổ điển theo những truyền thống khác nhau.

Làm sao có thể dung hòa sự phân tán rất nhanh chóng và ngày càng gia tăng của các bộ môn chuyên biệt với nhu cầu tổng hợp các bộ môn ấy và nhu cầu duy trì nơi con người khả năng chiêm ngưỡng và thán phục là những khả năng giúp con người đạt tới sự khôn ngoan?

Phải làm gì để mọi người trên thế giới cùng được hưởng ích lợi của văn hóa trong khi kiến thức của các nhà thông thái luôn cao siêu và phức tạp hơn?

Sau hết, phải làm sao để vừa công nhận sự tự trị mà văn hóa đòi hỏi là chính đáng, vừa không rơi vào một nền nhân bản trần tục thuần túy hoặc đối nghịch với tôn giáo nữa?

Ngày nay, phải phát triển văn hóa nhân loại giữa bấy nhiêu mâu thuẫn, sao cho nhân vị được nẩy nở trọn vẹn, điều hòa đồng thời giúp con người trong những bổn phận mà mọi người đều được kêu gọi để chu toàn, nhất là những Kitô hữu liên kết huynh đệ trong gia đình nhân loại duy nhất. 69*

Ðoạn 2: Một Vài Nguyên Tắc Hướng Dẫn Việc Phát Triển Văn Hóa

57. Ðức tin và văn hóa. Người Kitô hữu đang hành trình về quê trời phải tìm kiếm và yêu thích những sự trên trời 2. Ðó là điều chẳng những không bớt mà còn làm tăng bổn phận của họ là góp sức với mọi người kiến tạo một thế giới nhân đạo hơn. Thực ra, mầu nhiệm của đức tin Kitô giáo đã đem đến cho họ nhiều khích lệ và trợ lực quí giá để họ chu toàn bổn phận ấy cách hăng say hơn và nhất là để họ khám phá được ý nghĩa trọn vẹn của công việc họ làm. Nhờ đó, văn hóa nhân loại có được một địa vị cao cả trong ơn gọi toàn diện của con người.

Thực vậy, khi cày cấy với hai bàn tay hoặc với phương tiện kỹ thuật để trái đất nẩy sinh hoa quả và trở thành nơi cư ngụ xứng đáng của toàn thể gia đình nhân loại, và khi tham dự cách ý thức vào tập thể xã hội, con người đã tuân theo ý định của Thiên Chúa được tỏ bày ngay từ thuở đầu là loài người phải chế ngự trái đất 3 và hoàn tất công cuộc tạo dựng, đồng thời con người phát triển được chính bản thân; và cùng khi ấy con người tuân giữ giới răn quan trọng của Chúa Kitô là hiến thân phục vụ anh em.

Hơn nữa, khi chuyên tâm học hỏi các bộ môn triết học, sử học, toán học, vạn vật học và trau giồi nghệ thuật, con người có thể góp phần lớn lao vào công cuộc thăng tiến gia đình nhân loại để đạt tới những giá trị cao cả của chân, thiện, mỹ, và một phán đoán có giá trị phổ quát. Nhờ đó, con người được soi chiếu rạng rỡ hơn, do Ðấng Khôn Ngoan kỳ diệu đã có bên Chúa từ thuở đời đời, cùng Chúa an bài mọi sự, nô đùa trên trái đất và vui sướng ở với con cái loài người 4.

Cũng nhờ đó mà tâm trí nhân loại bớt nô lệ sự vật và có thể dễ dàng bay bổng để thờ phượng và chiêm ngưỡng Ðấng Tạo Hóa. Hơn nữa, con người còn được ân sủng thúc đẩy để nhận ra Ngôi Lời Thiên Chúa, Ðấng trước khi nên xác thể để cứu chuộc và kết thâu muôn loài nơi Người, đã ở trong thế gian như "anh sáng thật... vốn hằng soi sáng mọi loài dương gian" (Gio 1,9) 5.

Vì do phương pháp của chúng, khoa học và kỹ thuật không thể xâm nhập cơ cấu sâu xa của sự vật, nên sự tiến bộ ngày nay của chúng dĩ nhiên có thể đưa đến một thứ chủ thuyết duy hiện tượng và bất khả tri, khi phương pháp khảo sát của những bộ môn này được đánh giá quá cao và được coi như luật tối hậu để khám phá toàn thể chân lý. Cũng nguy hiểm hơn nữa khi con người tin tưởng thái quá vào những phát minh hiện đại đến độ tự mãn và không còn kiếm tìm những giá trị cao hơn 70*.

Tuy nhiên, những hậu quả tai hại ấy không nhất thiết phát sinh từ nên văn hóa hiện đại, và chúng ta không được ỷ vào đó mà phủ nhận những giá trị tích cực của nền văn hóa này. Trong số những giá trị ấy phải kể đến: lòng yêu chuộng khoa học, thái độ nghiêm chỉnh trung thành với chân lý trong các công trình nghiên cứu khoa học, nhu cầu làm việc tập thể trong các toán chuyên viên, tình liên đới quốc tế, ý thức ngày càng mãnh liệt nơi các nhà thông thái về trách nhiệm phải giúp đỡ và hơn nữa phải bảo vệ con người, ý muốn đem lại cho mọi người tình trạng sinh sống thuận lợi hơn, nhất là cho những người chịu thiệt thòi vì không được trao trách nhiệm và vì thiếu văn hóa. Tất cả những giá trị này có thể góp phần chuẩn bị cho con người lãnh nhận sứ điệp Phúc Âm. Và công cuộc chuẩn bị này có thể được thấm nhuần nhờ tình yêu thần linh của Ðấng đã đến để cứu chuộc thế gian.

________

Chú thích:

 

65* Văn hóa giúp con người phát triển (số 53a), vậy văn hóa là thế nào? (b). Có thể có nhiều hình thức theo lịch sử và xã hội cũng như theo xã hội học và nhân chủng học (c).

1) Thực trạng của văn hóa hiện tại: Văn hóa được đổi mới và quốc tế hóa do ảnh hưởng khoa học gây nên (số 54). Ðồng thời con người ý thức về quyền tự trị và về trách nhiệm trong lãnh vực văn hóa (số 55).

Ðàng khác con người cũng nhận thấy nhiều xung đột (số 56a); giữa văn hóa do ảnh hưởng khoa học gây nên (số 54). Ðồng thời con người ý thức về quyền tự trị và về trách nhiệm trong lãnh vực văn hóa (số 55).

Ðàng khác con người cũng nhận thấy nhiều xung đột (số 56a); giữa văn hóa mới và nếp sống cũ của các cộng đoàn (b), giữa sự phát triển và thông truyền (c), giữa sự học biết càng ngày càng nhiều và quan niệm tổng quát cần thiết (d), giữa văn hóa ngày một phức tạp và việc quần chúng phải tham dự vào văn hóa (e), giữa quyền tự trị và đòi hỏi tôn giáo (f), dù vậy văn hóa phải giúp con người lớn lên về mọi phương diện (g).

2) Nguyên tắc để phát triển văn hóa:

A) Ðức tin và văn hóa: Ðức tin giúp ta phát triển văn hóa (số 57a); vì khiến ta tự hoàn thiện hóa và phục vụ đồng loại (b), vì cổ võ sự chân, thiện, mỹ và giúp ta hiểu vũ trụ hơn (c). Văn hóa giúp ta thờ phượng Chúa và đón nhận đức tin (d). Ðàng khác tinh thần khoa học quá đáng có thể nguy hiểm (e). Nhưng ta không vì thế mà phủ nhận các giá trị của khoa học (f).

B) Phúc Âm và văn hóa: Chúa đã dùng văn hóa của dân Do thái để tự tỏ mình ra (số 58a). Giáo Hội đã dùng các nền văn hóa khác nhau để loan truyền Phúc Âm (b), và khi tiếp xúc với tất cả các nền văn hóa ấy thì đã mưu ích cho nó cũng như cho mình (c). Những lợi ích Phúc Âm mang lại (d).

C) Ðiều kiện giúp văn hóa phát triển để mưu ích cho con người biết chiêm ngưỡng và phán đoán (số 59a) là văn hóa phải hưởng thụ tự do (b). Giáo hội xác nhận quyền tự do văn hóa (c). Tự do nghiên cứu, tự do tư tưởng và phát biểu ý kiến, tự do thông tri (d). Vai trò của chính quyền (e).

3) Nhiệm vụ của Kitô hữu: Mọi người phải được hưởng thụ văn hóa (số 60a), phải có thể vào các Trường Cao Ðẳng (b). Và mỗi người cũng có nhiệm vụ về văn hóa; để lập nên điều kiện thuận tiện cho mọi người, để giúp phụ nữ đóng một vai trò trong xã hội (c).

4) Giáo dục là cần thiết: Phải đề cao nhân vị (số 61a) và sứ mệnh gia đình (b). Việc sử dụng phương tiện truyền thông xã hội cũng như việc sử dụng các giờ rảnh đều quan trọng (c). Cần phải tìm hiểu ý nghĩa chính xác của văn hóa (d).

5) Vai trò của Giáo Hội: Có thể rất khó khăn khi phát triển văn hóa và đồng thời gìn giữ tinh thần Kitô giáo (số 62a). Phần đóng góp của các nhà thần học (b), văn chương và mỹ thuật (c). Lập trường của Giáo Hội đối với nhà văn và nghệ sĩ (d). Phải tìm hiểu thời đại và điều hòa văn hóa với giáo lý (e), đó là việc riêng của các nhà thần học (f).

66* Trong phần này Công Ðồng nói về một thứ văn hóa "Âu Mỹ", của các quốc gia tiền tiến. Nhưng các quốc gia đang mở mang cũng hướng về thứ văn hóa giống như thế nhờ sự kỹ nghệ hóa; đồng thời cũng nhờ người trí thức trong các quốc gia đang mở mang hoặc đã theo học trong các học đường Âu Mỹ, hoặc đã theo học những chương trình Tây Phương tại các Viện Ðại Học của nước mình. Bởi thế, ước gì kinh nghiệm của những quốc gia Âu Mỹ có thể giúp đỡ các quốc gia đang mở mang để tránh được những khuyết điểm mà văn hóa Tây Phương đã không tránh khỏi.

1 Xem Phần Nhập Ðề của Hiến Chế này, số 4-10.

67* Giới trí thức và lãnh đạo ở các quốc gia đang mở mang có nhiệm vụ rất lớn lao và khó nhọc về vấn đề này.

68* Vấn đề này không chỉ có trong các quốc gia đang mở mang mà thôi. Các phong trào chống đối bên Âu Mỹ cũng đe dọa những giá trị truyền thống.

69* Một cách tóm tắt và thực tế, trong việc phát triển văn hóa chúng ta phải làm sao để điều hòa mọi giá trị: để duy trì sự quân bình giữa các điều cũ và điều mới, giữa lý trí và tình cảm, giữa trí óc khoa học và trí óc chiêm ngưỡng thiên nhiên, thưởng thức văn chương và mỹ thuật. Phải làm sao để giúp đỡ mỗi cá nhân và các dân tộc phát triển song song: nếu không, nhiều hình thức nô lệ mới có thể xuất hiện: chẳng hạn sự nô lệ kinh tế và văn hóa của cả một quốc gia.

2 Xem Col 3,1-2.

3 Xem Stk 1, 28.

4 Xem Cn 8, 30-31.

5 Xem T. Ireneô, Adv Haer. III, 11, 8: x.b. Sagnard, trg 200; Xem n.v.t., 16, 6: trg 290-292; 21, 10-22: trg 370-372; 22, 3: trg 378; v.v...

70* Hiện tượng luận chủ trương rằng ta phải đánh giá các hiện tượng mà không cần tìm đến những thực thể siêu việt. Ví dụ: trong cơn khủng hoảng đối với quyền bính trong Giáo Hội hay trong xã hội, chúng ta không cần dựa trên bất cứ nguyên tắc lý thuyết nào, mà phải chấp nhận những thực tại mới, thích hợp với các hiện tượng xảy ra. "Bất khả tri luận" chủ trương rằng trí con người thiếu khả năng để hiểu biết các thực tại siêu hình. Nhiều khi đó chỉ là một lập trường trong thực tế. Khoa học có thể đưa tới chủ trương ấy, không phải vì bản tính đòi hỏi như vậy, nhưng chỉ vì người ta muốn xét tới tất cả mọi vấn đề dựa trên những phương pháp thí nghiệm và thực tế của khoa học.

 

VỀ MỤC LỤC

MỌI NGƯỜI, MỌI VIỆC TRONG GIÁO HỘI PHẢI HƯỚNG ĐẾN MỤC ĐÍCH TRUYỀN GIÁO

 

Huấn từ của Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI tại Đại hội của Hội Giáo hoàng Truyền giáo

Nguồn: http://hdgmvietnam.org/moi-nguoi-moi-viec-trong-giao-hoi-phai-huong-den-muc-dich-truyen-giao/2919.57.7.aspx

 

WHĐ (16.05.2011) – Vào lúc 11g45 trưa 14-05, tại phòng Clêmentinô thuộc Điện Tông đồ thuộc Vatican, Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI đã tiếp kiến các đại biểu tham dự Đại hội thường niên Hội Truyền giáo của Tòa Thánh.

Sau đây là toàn văn huấn từ của Đức Thánh Cha trong buổi tiếp kiếp:

Lời chào

Kính thưa Đức Hồng y, chư huynh đệ thân mến trong chức giám mục và linh mục, quý nam nữ tu sĩ thân mến,

Trước hết tôi gửi lời chào thân ái đến Đức Tổng Giám mục Fernando Filoni, tân Bộ trưởng Bộ Phúc âm hóa các dân tộc và hết lòng cảm ơn Đức Tổng đã nhân danh các đại biểu vừa có những lời phát biểu dành cho tôi. Nhân đây tôi cũng cầu chúc Đức Tổng gặt hái nhiều thành quả trong sứ vụ mới. Đồng thời tôi cũng bày tỏ lòng biết ơn đối với Đức Hồng y Ivan Dias đã nêu gương quảng đại phục vụ tại Bộ Truyền giáo và Giáo Hội khắp nơi trong những năm qua. Xin Chúa tiếp tục dùng ánh sáng Chúa hướng dẫn hai người thợ trung tín trong vườn nho của Chúa. Xin chào Đức Tổng Giám mục Savio Hàn Đại Huy, Phó Tổng Thư ký của Bộ, Đức Tổng Giám mục Piergiuseppe Vacchelli, Chủ tịch Hội Truyền Giáo của Tòa thánh, quý cộng sự viên của Bộ và Giám đốc Hội Truyền giáo tại các quốc gia, đã từ các Giáo Hội tại khắp nơi quy tụ về Rôma, tham dự Đại hội thường niên của Hội đồng Thượng cấp của Hội. Xin nồng nhiệt chào mừng tất cả anh chị em.

Thả những mẻ lưới Tin Mừng ở vùng biển của lịch sử để đưa con người lên đất liền của Thiên Chúa

Các bạn thân mến, qua hoạt động truyền giáo năng động và việc cộng tác với Dân Chúa, các bạn đã làm nổi bật “đối với thời đại ngày nay cần phải củng cố cam kết dấn thân missio ad gentes - truyền giáo cho các dân tộc” (Tông huấn Verbum Domini, số 95), để công bố “niềm Hy vọng lớn lao”, loan báo về “Vị Thiên Chúa mang gương mặt con người đã yêu thương chúng ta đến cùng – yêu thương từng con người và cả nhân loại” (Thông điệp Spe Salvi, số 31). Trong thực tế, những vấn đề mới và những hình thái nô lệ mới đang xuất hiện trong thời đại của chúng ta tại các quốc gia được mệnh danh là đệ nhất thế giới, tuy thịnh vượng và giàu có nhưng tương lai vẫn không chắc chắn, và cũng xuất hiện tại các quốc gia mới nổi lên nhờ có lợi trong quá trình toàn cầu hóa, nhưng rồi cuối cùng phải lãnh hậu quả là ngày càng tăng thêm số người nghèo khổ, di cư và bị áp bức, phải sống cảnh tắt dần niềm hy vọng. Giáo Hội phải không ngừng đổi mới cam kết dấn thân mang Chúa Kitô đến cho mọi người, mở rộng sứ mệnh cứu thế để Nước Chúa ngự đến, Nước của công lý, tự do, hòa bình và tình yêu. Biến đổi thế giới theo kế hoạch của Thiên Chúa với sức mạnh đổi mới của Phúc âm “ngõ hầu Thiên Chúa là tất cả trong mọi sự” (1 Cr 15, 28) là nhiệm vụ của toàn thể Dân Chúa. Do đó, cần phải tiếp tục công cuộc truyền giáo với lòng nhiệt thành được đổi mới, hân hoan công bố Nước Thiên Chúa đã đến trong Chúa Kitô, trong quyền năng của Chúa Thánh Thần để dẫn đưa mọi người tiến đến sự tự do đích thực của con cái Chúa, ngược lại với mọi hình thức nô lệ. Cần phải thả những mẻ lưới Tin Mừng ở vùng biển của lịch sử để đưa con người lên đất liền của Thiên Chúa.

Mọi hoạt động trong Giáo Hội đều mang chiều kích truyền giáo

“Nhiệm vụ rao giảng Lời Chúa là bổn phận mọi môn đệ của Chúa Giêsu Kitô, do Phép Thánh tẩy họ đã lãnh nhận mang lại” (Verbum Domini, số 94). Nhưng để mạnh mẽ dấn thân cho việc truyền giáo, bản thân mỗi Kitô hữu cũng như các cộng đoàn phải thực sự xác tín “Lời Chúa là sự thật giải thoát mà mọi người thời nào cũng cần đến” (Verbum Domini, số 95). Nếu xác tín này không bắt rễ sâu trong đời sống của mình, chúng ta không thể cảm nhận được niềm say mê và vẻ đẹp được loan báo Lời Chúa. Trong thực tế, mọi Kitô hữu cần phải khẩn cấp làm việc xây dựng Nước Chúa. Tất cả mọi sự trong Giáo Hội đều nhằm phục vụ công cuộc Phúc âm hóa: từng lĩnh vực hoạt động của Giáo Hội và từng người với những chức trách khác nhau đều được kêu gọi chu toàn phận sự của mình. Mọi người đều phải tham gia missio ad gentes - sứ vụ truyền giáo cho các dân tộc. Giám mục, linh mục, nam nữ tu sĩ, giáo dân. “Không một tín hữu nào trong Chúa Kitô lại có thể thấy mình xa lạ với trách nhiệm này, một trách nhiệm phát xuất từ việc thuộc về Thân Thể Chúa Kitô theo cách bí tích” (Verbum Domini, số 94). Do đó chúng ta phải đặc biệt lưu ý, để mọi lĩnh vực, từ mục vụ, dạy giáo lý đến làm việc bác ái đều mang chiều kích truyền giáo: Giáo Hội là truyền giáo. 

Chỉ những ai lắng nghe Lời nhập thể, kết hiệp mật thiết với Chúa Kitô, mới có thể trở thành một nhà truyền giáo

Điều kiện cơ bản cho việc loan báo Tin Mừng là các bạn hãy để cho Chúa Kitô hoàn toàn chiếm lĩnh mình. Người là Ngôi Lời của Thiên Chúa nhập thể. Chỉ những ai lắng nghe Lời nhập thể, kết hiệp mật thiết với Người, mới có thể trở thành một nhà truyền giáo (x. Verbum Domini số 51, 91). Người loan truyền Tin Mừng phải đặt mình sống trong tác động của Lời Chúa và được các Bí Tích dưỡng nuôi: sự tồn tại và sứ vụ của nhà truyền giáo tùy thuộc vào chính mạch máu là các Bí tích và Lời Chúa. Chỉ bằng cách bắt rễ sâu trong Chúa Kitô và Lời của Người, mới có thể không rơi vào cám dỗ biến hoạt động truyền giáo thành những chương trình thuần túy nhân loại, mang tính xã hội, che khuất hoặc làm mất đi chiều kích siêu việt của ơn cứu độ được Chúa mang lại trong Đức Kitô. Phải làm chứng và loan báo Lời Chúa một cách rõ ràng, vì nếu không được thể hiện bằng việc làm chứng, thì Lời Chúa sẽ khó lòng hiểu được và tin được. Mặc dù chúng ta thường thấy mình bất toàn, nghèo nàn, thiếu khả năng, nhưng chúng ta luôn vững lòng tin vào quyền năng của Chúa, Đấng luôn đặt kho báu của Ngài trong “những bình sành dễ vỡ” và chính Ngài đang hành động qua trung gian là chúng ta.

Sứ vụ truyền giáo hấp dẫn nhưng cũng đầy thử thách: sứ vụ này đòi hỏi phải có lòng yêu mến đối với công việc loan báo và làm chứng cho Tin Mừng, một tình yêu triệt để đến mức có thể được minh chứng bằng tử đạo. Giáo Hội không thể trốn tránh nhiệm vụ của mình là mang ánh sáng của Chúa Kitô, rao giảng Tin Mừng Phúc Âm, dù có thể bị bách hại vì điều đó (x. Verbum Domini, số 95). Hoạt động truyền giáo góp phần làm nên chính đời sống của Giáo Hội, cũng như đã là một phần cuộc đời Chúa Giêsu. Kitô hữu không được sợ hãi ngay cả khi “hiện nay, các Kitô hữu là nhóm tôn giáo bị đàn áp nhiều nhất vì niềm tin của mình” (Thông điệp nhân Ngày Thế giới Hòa bình năm 2011, số 1). Thánh Phaolô quả quyết: Tôi thâm tín rằng sự chết hay sự sống, dù thiên thần hay thiên phủ, dù là hiện tại hay tương lai, hay quyền năng, dù là chiều cao hay chiều sâu, hay bất cứ tạo vật nào khác, không gì sẽ có thể tách chúng ta ra khỏi lòng mến của Thiên Chúa trong Ðức Kitô Giêsu Chúa chúng ta” (Rm 8, 38-39).

Lời cảm ơn

Các bạn thân mến, cảm ơn các bạn đã hoạt động và tổ chức hoạt động truyền giáo tại các Giáo Hội địa phương của mình, với tư cách là những Giám đốc Hội Giáo hoàng Truyền giáo tại các quốc gia. Hội Giáo hoàng Truyền giáo được các vị tiền nhiệm của tôi cổ võ, khuyến khích (x. Ad Gentes, số 38) là một phương cách đặc thù về phương diện hợp tác truyền giáo và chia sẻ một cách hữu hiệu về nhân sự và tài lực giữa các Giáo Hội địa phương. Cũng không thể quên sự giúp đỡ của Hội Giáo hoàng Truyền giáo dành cho các Học viện Giáo hoàng tại Roma, là nơi đào tạo các linh mục, tu sĩ và giáo dân đã được các Giám mục tuyển chọn và gửi đến, cũng như sự giúp đỡ của Hội đối với các Giáo Hội địa phương tại các miền truyền giáo. Công việc của các bạn thật giá trị đối với công cuộc xây dựng Giáo Hội thành “ngôi nhà chung” của toàn thể nhân loại.

Xin Chúa Thánh Thần, Đấng chủ trì công cuộc truyền giáo, dẫn dắt và nâng đỡ chúng ta luôn mãi, nhờ lời chuyển cầu của Mẹ Maria, Ngôi sao sáng dẫn đường truyền giáo và là Nữ Vương các Thánh Tông đồ.

Tôi thân ái ban phép lành Tòa Thánh cho các bạn và các nhân viên của Hội”.
 

(Theo Agenzia Fides)

WHĐ

VỀ MỤC LỤC
EMMAUS, CON ĐƯỜNG HY VỌNG
 

Bác sĩ Nguyễn Tiến Cảnh,MD

 

Chúng ta thường nghe nói con đường Emmaus, nhưng ít khi suy nghĩ tường tận xem con đường đó ám chỉ những gì. Dựa vào tông thư của ĐTC Biển Đức XVI Spe Salvi facti summus (Trong Hy Vọng, chúng ta được cứu rỗi), chúng ta thử tìm hiểu ý nghĩa câu chuyện hai môn đệ của Chúa Kitô trên đường Emmaus. (Luca 24: 13-35).

 

Chuyện kể rằng, sau ngày Sabbath, tức ba ngày sau khi Chúa Giêsu chịu chết trên thập giá và chịu táng trong mồ, hai môn đệ quá buồn phiền chán nản bèn rời Jerusalem đi về một làng nhỏ gần đó tên là Emmaus.

 

Trên đường đi, Chúa sống lại đã hiện ra, cùng đi và trò chuyện với hai ông, nói về cả kinh thánh, việc Chúa Giêsu chịu chết....nhưng hai ông đã không nhận biết ra Chúa. Tin Mừng thánh Luca thuật lại rằng, Chúa thấy hai môn đệ buồn nản, chẳng còn lòng dạ nào nữa, than van rằng Chúa Giêsu, thày mình đã chịu cực hình, rồi chết và trở về trời trong vinh quang của Người. Khi tới nơi, Chúa vào nhà cùng với hai môn đệ, ngồi xuống bàn với họ, làm phép bánh và bẻ bánh với họ….Lúc đó nhờ cung cách bẻ bánh, các ông mới nhận ra Chúa chính là người lữ khách đồng hành đã nói chuyện với các ông trên đường Emmaus. Nhưng lúc đó Chúa lại biến hình khỏi tầm nhìn của các ông. Các ông quá ngỡ ngàng và kinh ngạc về sự hiện diện của Chúa. Cử chỉ bẻ bánh, một dấu hiệu Chúa hiện diện.

 

Ngay lập tức sau đó, hai ông liền trở về lại Jerusalem và kể tất cả những gì đã xẩy ra mắt thấy tai nghe cho các môn đệ và bạn bè…

 

Địa danh làng Emmaus thì không được xác định rõ ràng nó nằm ở đâu. Mặc dù có nhiều giả thuyết khác nhau, nhưng chắc chắn nó cho chúng ta một suy tư chiêm nghiệm rất phong phú đầy ý nghĩa. Emmaus có thể là bất cứ chỗ nào. Con đường dẫn đến Emmaus tức là đoạn đường tượng trưng cho cuộc hành trình đời sống của mỗi con người nói chung, của mỗi một người tín hữu Kitô giáo nói riêng ở trần thế này. Xuyên suốt đoạn đường hành trình này, Chúa Kitô phục sinh luôn luôn là người bạn đường đồng hành với chúng ta. Người đốt lửa tâm hồn chúng ta. Người nung ấm đức TIN, đức CẬY / HY VỌNG của chúng ta và BẺ BÁNH HẰNG SỐNG cùng chúng ta mỗi ngày.

 

Trong câu chuyện đàm thoại giữa hai tông đồ và người lữ hành xa lạ, thánh Luca đã kể rằng một trong hai môn đệ đã nói: “Lúc đó chúng tôi đă hy vọng….” (Luca 24: 21). Như vậy có nghĩa là lúc đó chúng tôi ĐÃ TIN, chúng tôi ĐÃ THEO, chúng tôi ĐÃ HY VỌNG….nhưng bây giờ, hiện nay thì những hành động, cử chỉ, ý nghĩ đó tất cả đã qua đi rồi, không còn nữa. Ngay cả Đức Giêsu thành Nazaret là một ngôn sứ đầy quyền năng trong hành động cũng như lời nói đối với tất cả mọi người cũng đã thất bại và chúng tôi thất vọng.

 

Thảm trạng này của các môn đệ trên đường Emmaus phản ảnh tình trạng của nhiều người trong chúng ta hiện nay. Đôi khi chúng ta đã đánh mất đức tin của chúng ta. Chúng ta không còn tin tưởng vào Chúa, có cảm tưởng Chúa bỏ rơi chúng ta vì những kinh nghiệm chua chát tiêu cực trong cuộc sống, vì những thất bại trong mưu toan dự tính của chúng ta.

 

Tình trạng buồn nản và thất vọng của hai môn đệ này cũng tượng trưng cho các môn đệ thời nay khi họ tự mình xa rời Jerusalem, nơi Chúa bị chết treo trên thập giá và sống lại lúc mà họ không còn tin tưởng vào quyền năng và sự hiện diên sống động của Chúa. Vấn đề ma quỉ, đau khồ, cực hình, vấn đề đàn áp, bất công và lạm dụng, vấn đề sợ hãi người này người kia, những người anh em nôi bộ của mình, những người từ ngoài đến, từ những vùng xa xôi xâm nhập nôi bộ mình, đe dọa khủng bố mình làm mình phải kinh sợ.

 

Nhưng con đường dẫn đến Emmaus này chính là con đường HY VỌNG có thể giúp chúng ta thanh tẩy tâm hồn, tin tưởng vào Chúa một cách hăng say mạnh mẽ và trưởng thành hơn nhờ có Chúa đồng hành với chúng ta, cũng như hai môn đệ trên đường Emmaus, vì được gặp Chúa đồng hành hướng dẫn nên đã từ tâm trạng mất niềm tin vào Người và vấp ngã vì thập giá (câu 18 , 21), các ông tìm lại được niềm tin nhờ thông hiểu lời kinh thánh (câu  25-27 và 32). Chúng ta tin tưởng hy vọng rằng Chúa sẽ giải thoát chúng ta khỏi ác quỉ, tội lỗi, đau khổ, cực hình, sợ hãi và bất công..

 

Ngày nay, mỗi khi chúng ta cầu nguyện, chuyện vãn với Chúa, lắng nghe lời Chúa là chúng ta đang đi trên đường Emmaus. Mỗi khi chúng ta tham dự thánh lễ là Chúa bẻ bánh và ban cho chúng ta bánh thánh tức chính máu và thịt Chúa đã tu sửa con mắt Đức Tin chúng ta để chúng ta nhìn mọi sự và mọi người bằng con mắt của Chúa, dưới ánh sáng Tình Yêu của Chúa.

 

Với hành động đó, qua sự tiếp cận với Chúa Kitô phục sinh, chúng ta ngày nay có thể có được một đức tin thực sự và sâu đậm hơn, có thể nói, được vun trồng bởi lửa phục sinh.  Đức tin này rất vững mạnh, được nuôi dưỡng không phải bởi tâm tư ý nghĩ của con người mà chính bởi Lời Chúa và sự Hiện Diện của Chúa trong bí tích Thánh Thể.

 

Đoạn Phúc Âm kỳ diệu này đã tóm gọn toàn bộ cấu trúc của thánh lễ Misa:  Phần đầu thánh lễ là phần nghe lời Chúa qua các đoạn sách thánh; phần hai là phần nghi thức Thánh Thể và hiệp lễ / rước mình thánh Chúa với sự hiện diện của chính Chúa Ktô trong bí tích Thịt và Máu thánh Chúa.

 

Được nuôi dưỡng tại bàn tiệc thánh lễ có hai phần như vậy, Giáo Hội luôn luôn được xây dựng bồi đắp và tân trang cải tiến từng ngày một trong đức TIN, đức CẬY / HY VỌNG và đức MẾN. Qua sự cầu bầu của Đức Trinh Nữ Maria cực thánh, chúng ta mỗi người Kito hữu, mỗi cộng đoàn, cộng đồng hãy cầu xin Chúa giúp chúng ta  làm hồi sinh lại, tái diễn quang cảnh hai môn đệ đi trên đường Emmaus hầu làm sống lại ân sủng đã được gặp Chúa Kitô phục sinh.

 

Chúa đã sống lại, đồng hành với các môn đệ của người, đốt cháy tâm hồn họ bằng lời Chúa đối thoại, biểu hiện  ra với họ qua cung cách bẻ bánh.

 

Trong Chúa Giêsu, chúng ta thấy lòng can đảm hơn khả dĩ làm cho chính ta và những người xung quanh ta mạnh mẽ lên nhờ gương sáng của Chúa Giêsu Kito, môt tặng phẩm của cả nhân loại

 

Hãy đi và làm chứng tá ân sủng về lòng thương xót của Chúa, nguồn HY VỌNG cho mỗi người chúng ta và cho cả thế giới. Hãy đặt Chúa Kitô vào trung tâm điểm đời sống của chúng ta. Hãy thiết lập lầu đài thân xác và tâm hồn của chúng ta luôn luôn hiện diện trong Người.

 

Chúa đã phục sinh. Hy vọng sự sống đời đời.

 

 

NTC

VỀ MỤC LỤC
“ĐỀ CỬ CÁC ƠN GỌI NƠI GIÁO HỘI ĐỊA PHƯƠNG”
 

CHÚA NHẬT CHÚA CHIÊN LÀNH - Đại Hội Ơn Gọi Liên Gx. KIM THÀNH – TRUNG THÀNH

Trọng kính hai Cha Quản xứ Kim Thành và Trung Thành, Cha Quê hương, Quý Tu Sĩ, Ban Hành Giáo, Quý Ông Bà Cố, Anh Chị Em, các bạn Thanh niên Thiếu nữ và các cháu thiếu niên nhi đồng thân mến, 

Trước hết, tôi xin chào mừng Đại Hội Ơn Gọi liên giáo xứ Kim Thành và Trung Thành. Hôm nay được gọi là Chúa nhật Chúa Chiên Lành. Sứ điệp Ngày Quốc Tế Cầu nguyện cho Ơn Thiên Triệu thứ 48 năm 2011 của ĐTC Biển Đức XVI nhằm tới việc “Đề cử các ơn gọi nơi Giáo Hội địa phương.” Như thế, Đại Hội Ơn Gọi liên giáo xứ này thật thích hợp. Chúng ta dành ít phút cùng chia sẻ với nhau một điều cơ bản về ơn gọi. 

1. Cầu nguyện cho ơn gọi

Trước hết, đó là lệnh truyền của Chúa Giêsu: “Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt đang quá ít, các con hãy xin chủ ruộng sai thợ đến gặt lúa” (x. Mt 9, 36-38). Và chính Chúa Giêsu đã thực thi điều đó: trước khi chọn gọi các tông đồ, Ngài đã trải qua suốt đêm cầu nguyện và lắng nghe thánh ý của Chúa Cha (x. Lc 6, 12). Vậy việc đầu tiên chúng ta phải làm là cầu nguyện, vì ơn gọi là điều Chúa muốn chứ không phải là điều con người muốn. ĐTC Biển Đức XVI dạy: “Đời sống cầu nguyện là chứng tá đầu tiên khơi dậy các ơn gọi.” Giáo Hội cầu nguyện, giáo phận cầu nguyện, giáo xứ cầu nguyện, gia đình cầu nguyện, linh mục cầu nguyện, các tu sĩ cầu nguyện, cha mẹ cầu nguyện, ông bà chú bác cô dì cậu mợ cầu nguyện, anh chị em cầu nguyện… để cho con em cháu chắt của mình được Chúa chọn gọi; nhất là chính các bạn thanh niên thiếu nữ, các sinh viên học sinh, các cháu thiếu niên nhi đồng cầu nguyện để chính mình được Chúa chọn gọi. 

2. Bổn phận vun trồng ơn gọi

Giáo huấn của Giáo Hội dạy: “Toàn thể cộng đồng công giáo có bổn phận phải cổ động các ơn gọi để đáp ứng đủ những nhu cầu của thừa tác vụ thánh trong toàn thể Giáo Hội: Bổn phận này bó buộc cách riêng các gia đình công giáo, các nhà giáo dục, và đặc biệt là các cha sở” (GL 233,1). Sự trợ lực của gia đình rất quan trọng trong việc giúp ứng sinh ngày một trưởng thành hơn, về nhân bản cũng như thiêng liêng, vì khi một người con đi tu thì cả gia đình hầu như cũng đều phải tu. Gia đình phải tạo mọi điều kiện thuận lợi cho ơn gọi được triển nở, phải cất đi hay tránh xa những môi trường gây nguy hại cho ơn gọi. Điều chúng ta phải cùng nhau tìm kiếm và cầu nguyện là ý Chúa và kế hoạch của Chúa, vì chỉ khi đi đúng đường Chúa chọn chúng ta mới có hạnh phúc đích thực. Xin Chúa cho các bậc cha mẹ và gia đình được hiểu biết và ý thức cộng tác với Giáo Hội bằng cách biến gia đình mình thành một chủng viện hay một đệ tử viện đầu tiên trong việc vun trồng ơn gọi cho chính con cái mình. 

Có nhiều nhân tố giúp ứng sinh ơn gọi lớn lên và trưởng thành tốt đẹp: Mối liên hệ mật thiết với cha mẹ nâng cao căn tính nhân vị của ứng sinh: sự mạnh mẽ cương nghị của ba, sự dịu dàng nhân hậu của mẹ, mối tương quan lành mạnh với những người khác phái trong gia đình và họ hàng sẽ giúp ứng sinh ý thức hơn về bản thân, có được một sự ổn định tình cảm và tính dục cần thiết hầu phát triển các mối tương quan xã hội được quân bình, hài hòa và trưởng thành cần phải có cho đời sống và sứ vụ linh mục và tu sĩ sau này. 

Tuy nhiên, trong tâm thức xã hội Việt Nam quá trọng vọng người tu hành, đời sống linh mục và tu sĩ có thể là một vinh dự và một thăng tiến xã hội, không chỉ cho cá nhân linh mục và tu sĩ, mà còn cho cả gia đình họ hàng nữa, nên gia đình có thể áp lực con đi tu để được vinh dự ấy, hoặc ngăn cản không cho con đi tu vì sợ tu không được phải trở về bị thiên hạ cười chê, không hiểu rằng ơn gọi là của Chúa và Chúa thường gọi thì nhiều mà chọn thì ít. Áp lực này là một trở ngại cho các ơn gọi đích thực: có em có ơn gọi nhưng không dám dấn thấn, có em đã vào tu thấy mình không có ơn gọi nhưng không dám về. Chúng ta nên biết rằng nếu con cái có ơn gọi mà cha mẹ ngăn cản không cho là cha mẹ có lỗi với Chúa, với Giáo Hội và với chính con cái của mình. Trái lại, nếu con cái không có ơn gọi mà cha mẹ ép buộc phải đi tu, hay bắt phải ở lại trong nhà Chúa là cha mẹ cũng có lỗi với Chúa, với Giáo Hội và với chính con cái của mình. Cần phải có một kế hoạch đồng bộ và rộng khắp để chỉnh sửa dần cái tâm thức không đúng đắn này, không những nơi gia đình bà con họ hàng mà cả trong cộng đồng giáo xứ nữa. Đồng thời những người có trách nhiệm phải biện phân, thanh lọc, rèn luyện và thăng tiến những động lực ấy, vào thời điểm thu nhận cũng như trong tiến trình đào tạo, để chỉ giữ lại những ơn gọi đích thực và chuyển hướng những ứng sinh không thích hợp, vì không phải cứ hễ vào được ĐCV hay Tu viện là tất nhiên sẽ làm linh mục, tu sĩ tất cả đâu!  

May mắn thay bên cạnh đó, Chúa cũng quảng đại ban cho có rất nhiều gia đình Công giáo dâng hiến con trai con gái mình cho Thiên Chúa qua Hội Thánh mà không hề thèm muốn danh vọng, và nhiều ứng sinh quảng đại đáp lại lời mời gọi của Thiên Chúa, luôn biết nghĩ đến công lao và tình thương, cùng hoài bảo của mẹ cha, tìm được nghị lực vượt lên mọi khó khăn thử thách để theo đuổi ơn gọi cho đến cùng. 

3. Tiến trình ơn gọi năm bước

Để hiểu rõ hơn về ơn kêu gọi của Chúa, chúng ta chú ý tới tiến trình ơn gọi năm bước này:

Bước thứ nhất: Chúa gọi trực tiếp từ trong sâu thẳm cõi lòng hay gián tiếp qua người nọ kẻ kia, hoặc Chúa phối hợp cả hai cách để nói lên kế hoạch yêu thương quan phòng của Chúa cho mỗi người. Ứng sinh trong giai đoạn khởi đầu quan trọng này cần có người đồng hành cùng tìm kiếm và phân định ý Chúa, như Thầy Cả Hêli đã dặn cậu bé Samuel, như các cậu giúp lễ của chúng ta đây: “Nếu con còn nghe Người gọi, con hãy nói ‘Lạy Chúa, xin hãy phán, vì tôi tớ Chúa đang lắng tai nghe.”[1]

Bước thứ hai: Ứng sinh quảng đại đáp lại lời mời gọi của Chúa. Và trong sự chọn lựa đáp trả theo Chúa này phải để ý hai yếu tố ThíchHợp. Thích là yếu tố chủ quan và tình cảm có thể nhất thời, phong trào và hay thay đổi, còn Hợp là yếu tố khách quan đòi hỏi khả năng và phẩm chất để được bền lâu cho đến cùng. Có người thích đi tu nhưng cuộc sống không phù hợp với đời tu thì không được. Có người tính tình tưcách xem ra hợp với đời tu nhưng không thích thì cũng chịu thua. Cần phải có cả hai yếu tố thích và hợp mới được. Tự mình đánh giá mình, ứng sinh có thế bị ảo tưởng và sai lầm, nên cần có người đào tạo kinh nghiệm hướng dẫn cho khỏi bị chọn lựa sai kế hoạch của Chúa.

Bước thư ba: Ứng sinh cam kết đi theo chính Chúa Kitô toàn thể, nghĩa là Chúa Kitô vinh hiển của núi Taborê cũng như Chúa Kitô khổ nạn của đồi Golgotha, theo Chúa Kitô chứ không phải theo ai khác, dù gặp vui hay buồn, sướng hay khổ. Nếu gặp được người tốt nâng đỡ thì con đường đi theo Chúa được nhẹ nhàng hơn, còn nếu gặp phải người thiếu thông cảm thì con đường thập giá theo Chúa có nặng nề hơn, nhưng vẫn quyết tâm đi tới, không hề bỏ cuộc. 

Bước thứ tư: Ứng sinh phải dần dần biến đổi và điều chỉnh cuộc sống mình sao cho phù hợp với đời sống tu trì nói chung, và nhất là phù hợp với đặc sủng và linh đạo riêng biệt của cơ cấu mình muốn dấn thân vào. Cuộc biến đổi tiệm tiến này được trợ giúp bởi một cuộc tìm hiểu song phương, ứng sinh tìm hiểu xem mình có thích hợp với đời sống và sứ vụ linh mục, tu sĩ hay không để dấn thân và Bề Trên cùng các nhà đào tạo cũng tìm hiểu xem ứng sinh có thích hợp hay không để tiếp nhận, đào tạo và cất nhắc. 

Bước thứ năm: Ứng sinh kiên trì chu toàn bổn phận tự nhiên cũng như thiêng liêng của mình, không những trong thời gian đào tạo, mà cả trong suốt cuộc đời thi hành sứ vụ sau này sẽ được giao phó, cho dù hoàn cảnh cuộc sống có thế nào đi nữa. 

Như vậy, ta thấy Chúa có sáng kiến đi bước đầu kêu gọi từng cá nhân, Ngài tín trung với những ai đã được kêu gọi và cung cấp cho những ơn cần thiết để đáp trả lời kêu gọi của Ngài, như người ta thường nói “Chúa ban khi Chúa truyền.” Mong các bạn trẻ được trợ giúp thích hợp để có được những quyết định dấn thân nghiêm túc, nhờ những cuộc gặp gỡ, đối thoại đủ khả năng soi sáng và đồng hành, nhất là nhờ tính chất gương mẫu của đời sống ơn gọi của các linh mục và tu sĩ.  

Ước gì Ngày Thế Giới Ơn Thiên Triệu và Ngày Đại Hội Ơn Gọi Liên Giáo xứ Kim Thành – Trung Thành này có thể mang lại cơ hội quý báu cho nhiều bạn trẻ suy nghĩ và gắn bó với ơn gọi riêng của mình với lòng đơn sơ, tin tưởng và hoàn toàn sẵn sàng đáp lại. Nguyện xin Mẹ Maria, Mẹ của Giáo Hội, che chở mọi mầm mống ơn gọi trong tâm hồn của những ai mà Chúa kêu gọi bước theo sát Ngài hơn, để nó sẽ trở nên một cây cao vững vàng mang đầy hoa trái vì lợi ích của Giáo Hội và của toàn thể nhân loại!

Xin Chúa Thánh Thần tiếp tục tác động và hướng dẫn, nâng đỡ cho đến kiện toàn viên mãn ơn gọi linh mục và tu sĩ mà Chúa đã thương khơi dậy nơi tâm hồn của các bạn thanh thiếu niên nam nữ hôm nay. Xin chúc mừng các bạn, chúc mừng cha mẹ và gia đình các bạn, chúc mừng giáo xứ và quê hương của các bạn. Chúng ta tiếp tục cầu nguyện cho nhau. Amen.

Lm. Micae-Phaolô Trần Minh Huy pss

[1] 1 Sm 3,9.

 
VỀ MỤC LỤC
VỚI INTERNET, CHÚNG TA LOAN TIN VUI
 

Bạn là một chàng trai hay cô gái tuổi đôi mươi, sống với computer, làm việc và giải trí với Internet, giao tiếp bằng các mạng xã hội. Tân tiến và trẻ trung, năng động và tự do quá phải không? Bỗng có một cụ già trên 80 tuổi đến nói với bạn về cách giao tiếp Internet, bạn sẽ nghĩ gì? Bạn sẽ cho rằng cụ thuộc thế hệ xa xưa, không rành Internet và các vấn đề của nó, đúng không bạn?

Nhưng bạn ơi, có thể bạn lầm. Có một cụ già 84 tuổi, gửi sứ điệp cho giới trẻ thế giới về truyền thông, mà đọc lên nghe trẻ trung và gần gũi không kém bất cứ một blogger hay facebooker nào. Đó là Đức Giáo Hoàng Benedict XVI, người Cha già của giới trẻ Công giáo. Ngài là người Cha già với trọn vẹn ý nghĩa của từ ngữ này, đã không có ai và sẽ không có ai để giới trẻ Công giáo gọi Cha già với niềm trìu mến như gọi các vị Giáo hoàng của mình.

 Đoạn văn đánh động tâm hồn tôi nhất là đây, mời bạn cùng đọc chậm rãi với tôi bạn nhé:

“Loan báo Tin Mừng qua các phương tiện truyền thông mới không chỉ có nghĩa là diễn tả nội dung tôn giáo trong các lãnh vực truyền thông khác nhau, nhưng còn là làm chứng một cách kiên định, trong bản lý lịch trên mạng của mình và theo cách thức chia sẻ những chọn lựa, những ưu tiên, những phán đoán phù hợp hoàn toàn với Tin Mừng, ngay cả khi người ta không nói về điều đó cách đặc biệt.”

Bạn thấy đoạn ấy rất hay không bạn? Nếu chưa, xin mời bạn đọc lại, từng từ thôi: “truyền thông”, “Tin Mừng”, “làm chứng”, “lý lịch trên mạng”, “chia sẻ”, “chọn lựa”, “ưu tiên”, phán đoán” và lần nữa “Tin Mừng”.

Tuyệt vời. Bạn có nhận ra người Cha già của chúng ta tuyệt vời chưa? Chúng ta thử sắp xếp lại lời văn của người Cha chung xem sao: Truyền thông là loan tin, chúng ta không loan tin cho sự chết, cho bóng tối, mà loan Tin Mừng. Không những loan tin, chúng ta còn làm chứng cho tin ấy. Làm chứng trước hết là bằng lý lịch trên mạng của chúng ta. Không giấu giếm tên chung của anh em chúng ta: Yêsu. Và khi chọn Yêsu, cho mọi người biết ta thuộc về Yêsu, ta chia sẻ những chọn lựa, ưu tiên và phán đoán của ta.

Tiêu chí cho các chọn lựa, ưu tiên và phán đoán ấy? Có ngay rồi: đó là Tin Mừng.

Bây giờ bạn còn cho rằng ý kiến của cụ già 80 tuổi là “thuộc thế hệ xa xưa, không rành Internet và các vấn đề của nó” nữa hay không? Tôi đoan chắc bạn đã thay đổi hoàn toàn rồi phải không? Vậy xin mời bạn tìm đọc “Sứ điệp của Đức Giáo hoàng Bênêđictô XVI nhân Ngày Thế giới Truyền thông xã hội lần thứ 45” và bạn sẽ khám phá nhiều điều thú vị hơn.  (Bạn cũng có thể tham dự cuộc thảo luận về Sứ điệp này lúc 18:30, ngày thứ năm, 02/06/2011, tại Dòng Chúa Cứu Thế, 38 Kỳ Đồng, Quận 3, Sài Gòn).

Chúng ta quay lại với đoạn văn trên một chút nữa bạn nhé. Khi Đức Thánh Cha nói đến lý lịch trên mạng, là ngài nhắc đến việc chúng ta trình bày chính mình trên mạng qua hình ảnh, avatar, nick name, lời trích dẫn, và cả những điều chúng ta ưa thích, ý kiến chúng ta đưa ra nữa.

Bạn hãy vào mạng xã hội facebook chẳng hạn. Bạn có nhận xét gì? Nhiều, rất nhiều bạn trẻ Công giáo dùng tên Thánh của mình, chọn avatar là ảnh thánh của Chúa Giêsu, Mẹ Maria hay hình ảnh cao đẹp khác. Các bạn hiên ngang tuyên xưng đức tin bằng những câu trích và những comment tuyệt đẹp.

Điều ấy nói lên rằng Chúa Yêsu thật sự làm chủ cuộc đời các bạn, thật sự chi phối từng phút giây trong đời sống các bạn, và do đó, Yêsu chính là điểm đến cuối cùng mà không ai, không có gì vĩ đại hơn để thay thế.

Giữa xã hội đầy bóng tối, muốn loại trừ Yêsu là Chúa ra khỏi tâm hồn người trẻ, mà được nhìn thấy những con người dám hiên ngang tuyên xưng niềm tin vào Đức Yêsu, ai cũng cảm được sức mạnh của Đấng đã thực sự phục sinh và đang làm chủ thế giới này.

Với Internet, chúng ta cùng loan Tin Vui như vị Cha già khả kính của chúng ta nhắc nhở. Xin đừng để tinh thần thế tục, bóng tối thế gian và những mưu mô len vào trong phương tiện cao quí là Internet. Cũng xin đừng lẩn tránh Đấng là ánh sáng trong những giao tiếp của mình. Và xin đừng dùng lời lẽ bất xứng với các thực tại thánh thiêng.

 

Yêsu ơi, con tuyên xưng Người là Chúa. Yêsu ơi, con loan tin vui của Người là chủ mọi phương tiện truyền thông. Xin cho con được lặng lẽ đánh xuống từng chữ, từng từ đậm nét Yêsu.

 

Gioan Lê Quang Vinh

Mời đọc trọn bản văn Sứ diệp của ĐTC tại đây http://www.conggiaovietnam.net/index.php?m=home&v=detail&ia=8762

VỀ MỤC LỤC
QUAN NIỆM VỀ PHÁI TÍNH (2)
   

BẮT CHƯỚC PHÁI CÓ QUYỀN 

Khi sự quân bình giữa hai phái bị phá vỡ và phái bị đàn áp có cơ hội vươn lên, họ bắt chước hành vi và phong cách của phái có quyền ngày xưa. Chúng ta có những mẫu gương của khuynh hướng nầy trong những cộng đoàn tiên khởi. Đó có thể là suốt thời kỳ cơ cấu mẫu hệ đi xuống, một số hình thức đặc biệt trong cách xử sự được quan sát mà thường được gọi là tập tục của những cộng đoàn đầu tiên: sau khi đứa trẻ được sinh ra, người cha mang đứa trẻ vào giường và nằm với nó nhiều ngày để chăm nom nó, trong khi người mẹ phải làm những bổn phận trong nhà để chăm sóc người cha và đứa bé. Dường như là đàn ông cố gắng bắt chước vai trò đàn bà. Ở đâu các bà thống trị, những gì thuộc các bà xem ra được các ông ước muốn. Người ta lấy làm lạ không biết các ông trong thời kỳ đó có cố gắng nuôi con hay không? 

Cũng vậy, một sự ngưỡng mộ như thế có thể cắt nghĩa hành vi của các bà ngày hôm nay. Trong vài mẫu mực, sự hút thuốc đã trở nên quen thuộc giữa các bà hơn các ông và các ông phải chơi ống điếu hoặc xì gà để giữ cái gì phân biệt. Cái thói quen lâu đời của đàn bà Mỹ hút ống điếu có thể đã mang đặc tính thay đổi của xã hội và sự giải phóng đàn bà suốt thời gian chinh chiến, một thời đã mang lại cho các bà những bổn phận và quyền lợi mà họ không có trước đây. Động lực chống lại sự không thích hút thuốc đến từ ước muốn làm nam giới của các bà, như nó được diễn tả nơi những đứa trẻ ước muốn mình là người lớn. Những dấu hiệu khác của thời đại chuyển tiếp của chúng ta là các bà có khuynh hướng muốn mang dáng vẻ hoặc để tóc tai giống như con trai. Tất cả những bắt chước nầy không có nghĩa là bình đẳng nhưng như một cố gắng để nhấn mạnh sự thay đổi trong trạng thái của họ. 

CHỨC NĂNG CỦA HAI PHÁI

Mỗi cá nhân phát triển quan niệm về vai trò của phái mình mà việc chấp nhận hoặc từ khước sẽ làm thay đổi thái độ và sẽ ảnh hưởng hầu hết mọi giai đoạn của cuộc sống. Chẳng hạn, thái độ của người đàn bà đối với công việc nội trợ là một trắc nghiệm tốt mà bà nghĩ vai trò của người đàn bà sẽ là. Những tranh luận chống hoặc ủng hộ không đánh lừa chúng ta. Chúng ta có thể nghe những lý do tại sao công việc nhà thì đáng ghét hoặc đáng yêu – đều tốt như nhau. Con số các bà thích công việc nhà hơn công việc khác dần dần giảm. Nhiều bà tỏ ra không thích những công việc nầy vì họ cho những công việc đó là thấp hèn và sỉ nhục. Họ liên kết những việc làm đó với quan niệm mất giá về vai trò người phụ nữ. Sự nối kết nầy cũng khiến nhiều người đàn ông không thích tham gia những công việc gia đình. Việc nhà là bổn phận gia đình trong nhiều thế kỷ. 

Suốt giai đoạn hoàn toàn bị đàn áp, các bà bị loại bỏ khỏi việc sản xuất nghệ thuật. Những nữ nghệ sĩ hay những vũ nữ đều được xếp là vô hạng như những thức ăn vô vị. Nhưng nhiều bà ngày hôm nay tìm chỗ đứng của họ trong xã hội bằng cách nhấn mạnh sự thích thú vào nghệ thuật, âm nhạc, kịch nghệ, ca vũ đến mức độ nghệ thuật trở thành một đặc quyền của phụ nữ. 

Nhiều người đàn ông đã nhường cho các bà sự thích thú nghệ thuật. Một đứa con trai thích thú học piano thường được coi là con gái. Các bà thường cảm thấy khó khiến chồng họ cùng nhập cuộc đọc sách, dự những buổi thuyết trình hoặc hòa nhạc, xem triển lãm hoặc đi xem viện bảo tàng. Thật ra, một số bà không cố gắng cách thành thật vì họ xem ra tự hào về sự cách biệt giữa những sở thích đáng kính trọng của họ, trong khi các ông thích trả giá ít cho sự tiếp tục chiếm quyềnhành của họ. 

Quan niệm chung về vai trò nam giới xem ra là công việc làm tiền. Quan niệm nầy rất nguy hiểm. Nó đặt vào tay của quí ông quyền hành mà đồng tiền vẫn còn thế lực. Cùng lúc, nó ngăn cản sự quí trọng văn hóa và kiến thức chung, là những cái có thể thay đổi và làm giảm bớt quyền hành về kinh tế của các ông. Sự nguy hiểm của việc lạm dụng quyền hành sẽ gia tăng nếu các ông bỏ quên sự phát triển về văn hóa. Và nếu các bà chỉ chú trọng đến những tiện nghi của cuộc sống, các bà sẽ kéo dài sự lệ thuộc mà thôi. Khuynh hướng phân chia những bổn phận xã hội giữa hai phái không có nền tảng trên những yếu tố sinh vật học. Đó chỉ là những bổn phận của con người. Trong sự phân chia công việc, một số việc được giao cho mỗi phái là bỡi do thói quen hay phong tục. Chúng được coi là hấp dẫn hoặc vô vị tùy theo vị thế xã hội của mỗi phái hoàn thành chức năng đặc biệt của mình. Để giữ vững đời sống hôn nhân, bổn phận làm việc nhà và bổn phận kiếm tiền đều quan trọng như nhau. Nếu một người tin ở sự bình đẳng, người ta sẵn sàng làm bất cứ cái gì vào lúc cần thiết và ít lấy làm quan trọng đối với việc xem ra là vai trò thích hợp của phái tính. Dẫu lời nói họ rất tử tế, ít có ông hoặc bà sẵn sàng thực thi sự bình đẳng. Cái rắc rối hiện tại của sự thích nghi thuộc phái nam cũng như phái nữ không thể được giải quyết bằng cách tách biệt những hoạt động của hai phái và thiết lập cái khả năng đáng ngưỡng phục của bất cứ phái nào trong một lãnh vực được xác định cách rõ ràng. Sự quyết định như thế có thể làm giảm sự cạnh tranh tạm thời nhưng nó sẽ làm đình trệ sự cộngtác giữa những người bình đẳng.

ẤN TƯỢNG CỦA CON TRẺ VỀ PHÁI KHÁC

Thái độ cá nhân đối với phái riêng mình tương hợp với thái độ của mình đối với phái khác. Cả hai thái độ quyết định tư cách của người đó. Quan niệm về phái khác được phát triển suốt thời thơ ấu. Những đáp trả tình cảm đầu tiên dành cho một người khác phái thì có tính cách quan trọng lâu dài. Nói chung, bố và mẹ là mẫu gương đầu tiên của người nam và nữ chung sống với nhau. Một đứa bé với sự hiểu biết hạn hữu không thể nhận thức ra rằng gia đình nó có những nét đặc thù của gia đình nó, không hẳn là đại diện cho tất cả. Đối với đứa trẻ, thật đơn giản: tình cảnh gia đình nó đại diện cho tất cả các gia đình trên thế giới. Vì thế, tương quan giữa bố mẹ xuất hiện như là tương quan giữa nam và nữ, trên đó đứa bé xây dựng quan niệm của nó về đời sống hôn nhân. Nếu không nhận ra điều đó, bố mẹ rất dễ gây ảnh hưởng đến thái độ của đứa bé đối với hôn nhân của nó về sau. Bố mẹ của phái đối lập thường ảnh hưởng đời sống phái tính tương lai của đứa trẻ.  

Nếu đứa con trai và bà mẹ hoặc đứa con gái và ông bố rất tận tâm cho nhau, sự liên hệ có thể trở thành một ngăn trở cho việc kết bạn sau nầy của đứa trẻ. Một đứa trẻ trai được chìu chuộng và làm hư hỏng bỡi bà mẹ, không thể tưởng tượng ra rằng một người đàn bà khác cũng sẽ tận hiến cho nó như vậy. Rất thường, sự nghi ngờ nầy ngăn cản nó yêu và kết bạn với một người nào đó. Nó không được chuẩn bị để gặp một người đàn bà trên căn bản của việc cho và nhận như được đòi hỏi trong hạnh phúc hôn nhân. Và cũng thường xảy ra như vậy trong tương quan giữa người bố và đứa con gái. Một đứa con gái gắn liền với người bố có thể mong người chồng một sự nhẫn nại, cảm thông, hướng dẫn, và che chở giống như vậy. Cô dễ quên rằng không một người đàn ông nào của thế hệ cô có thể có một uy thế tương đối như bố cô, đặc biệt từ khi các cô gái bây giờ hầu hết có cơ hội để học hành và có sự nghiệp như con trai. 

Vấn đề trên đây xem ra rất phổ biến trong thời đại chúng ta. Các cô phản đối chống lại việc mình thuộc phái thấp kém, nhưng trái lại, họ mơ ước một người chồng mà họ có thể ngưỡng phục. Họ vẫn gắn liền với ý tưởng cho rằng đàn ông phải mạnh hơn, giỏi hơn, và đáng tin cậy hơn họ. Nhưng có được bao nhiêu người đàn ông mà cô có thể tìm thấy vượt xa cô như bố cô đã vượt xa khi cô còn là một đứa bé. Cô sẽ bị thất vọng vì cô khó kiếm được một người đàn ông như thế. Ngay cả khi cô tìm được, cô cũng sẽ không chấp nhận anh ta, vì ghét cái thế thượng tôn của chàng, nên nàng có thể rút lui khỏi chàng hoặc tìm lỗi lầm để rồi nàng có thể coi thường chàng. 

Lm Lê Văn Quảng Psy.D.

VỀ MỤC LỤC
HÃY ĐI TRONG BÌNH YÊN
 

Cho đến giờ phút ngồi viết những giòng chữ này, tôi vẫn chưa hết nỗi bàng hoàng. Tôi không nghĩ và không thể nghĩ nó là sự thật. Chiều nay, khi thu xếp được công việc, tôi đã đến ngay nhà Hiệp để thăm gia đình, từ đầu ngõ, Trang ( vợ của Hiệp ) đã thấy tôi, Trang chạy ra ôm chầm lấy tôi, tôi không biết làm gì hơn là ôm lấy Trang mà vỗ về. Tôi chẳng nói được gì với Trang, thật ra không biết nói gì, phần Trang đôi mắt đỏ hoe, nhưng hình như Trang không khóc, nét bàng hoàng ngơ ngác như không tin vào sự thật, nó nhanh và bất ngờ đến độ không ai tin đó là sự thật.

Mẹ của Hiệp nghẹn ngào trong nước mắt, “nó đi bỏ lại hai đứa con thơ, đau đớn quá cha ơi”. Quan tài của Hiệp được đặt ngay giữa nhà, hình của Hiệp rạng rỡ giữa chùm hoa nến, Hiệp nằm trong đó, không ai dám mở ra nhìn, nhìn làm gì cho thêm đau đớn, Trang nói với tôi: “Bố biết không, anh Hiệp mới nói với con, anh không về nhà ngay đâu, anh đi Chợ Lớn lấy hàng, ghé bố rồi mới về”.

Anh của Hiệp có cái hẹn với chúng tôi vào buổi sáng, nhưng rồi anh ấy không đến, một cuộc điện thoại reo vào máy người bạn trong nhóm, anh báo không đến được vì Hiệp vừa qua đời, theo người bạn kể lại, tiếng anh khô khốc lạnh lùng khi báo tin: “Hiệp bị xe lửa cán chết rồi”. Tôi hoảng loạn trước tin dữ: “Tại sao nó chết ?” Anh của Hiệp kể lại cho tôi nghe: “Nó đi trực đêm, sáng tan ca về, ngang đường sắt thì bị đầu máy xe lửa cán chết”. Một người bạn khác nhà ngay gần chỗ tai nạn thẫn thờ nói: “Sáng nay con nghe tiếng còi tàu, ngờ đâu đó là tiếng còi tiễn đưa Hiệp”.

Hiệp hiền lành, tính tình vui vẻ. Tôi biết cả Hiệp và Trang khi hai đứa còn bé, vì cả hai cùng làm việc với tôi nên quen nhau. Ngày trước Trang thường hay hỏi tôi nhiều chuyện lung tung, nhất là hay khóc rồi lại hay cười, nên tôi đặt tên là “con bé Phức Tạp”. Trước ngày cưới, tôi “cảnh giác” Hiệp: “Hắn phức tạp lắm đấy nhé”, Hiệp cười: “Dạ, con thương cái phức tạp”. Cưới nhau rồi, thỉnh thoảng tôi vẫn trêu: “Có còn phức tạp không ?”, “Vẫn phức tạp bố ạ”.

Hiệp làm việc cho Công ty Điện Lực, ngoài giờ làm việc ở công ty, Hiệp và Trang được sự giúp đỡ của người anh nên cộng tác với chúng tôi một số việc, hai vợ chồng chắt bóp trong 7 năm lấy nhau, được cha mẹ và người anh nâng đỡ, hai đứa vừa mới bắt đầu xây nhà riêng, ngày Hiệp chết là ngày bắt đầu đổ bê tông móng, mẹ của Hiệp cứ vật vã bên hai đứa cháu nội ngây thơ, thật đau lòng.

Câu chuyện thương tâm thật đơn giản, Hiệp băng ngang đường sắt, lúc ấy đầu máy xe lửa trờ đến, chiếc xe hai bánh của Hiệp bị húc văng sang một bên, còn Hiệp thì bị cuốn vào gầm đầu máy, bị lôi đi khoảng 50m và bị cán chết ( báo Tuổi Trẻ số ra ngày thứ năm 12 tháng 5 năm 2011 ).

Đã từ lâu tôi để ý về quãng đường sắt này. Đoạn từ chợ Bến Thành đến ga Hòa Hưng đã được bóc lên trở thành đường nhựa giao thông, góp phần rất đáng kể vào việc tránh kẹt xe trong thành phố, chắc chắn không còn một tai nạn nào gây ra bởi xe lửa chạy qua, chắc chắn không còn cảnh mỗi khi xe lửa chạy thì gây kẹt xe hàng giờ sau đó. Ga xe lửa Sàigòn năm xưa giờ một phần là công viên, làm tăng thêm những mảng xanh hiếm hoi trong thành phố, làm lá phổi của thành phố bớt teo tóp, làm thành phố dễ thương hơn, rộng rãi hơn. Tại sao quãng đường sắt từ ga Hòa Hưng đến Bình Triệu không được giải tỏa bóc lên ?

Nếu đoạn đường sắt từ ga Hòa Hưng đến ga Bình Triệu được bóc lên, chúng ta sẽ có thêm một con đường giải tỏa giao thông, không những giải tỏa giao thông mà còn rút ngắn giao thông giữa hai địa điểm Hòa Hưng và Bình Triệu. Chắc chắn không còn cảnh kẹt xe bực bội mỗi khi xe lửa di chuyển qua các đường giao thông, chắc chắn không bao giờ có những tai nạn thương tâm như tai nạn đã xảy ra cho Hiệp và đã cho bao nhiêu người khác. Không gì xấu xí cho bằng hai hàng rào bằng sắt chạy dọc đường sắt, ngăn đôi hai khu dân cư trong nội thành như vậy. Không hiểu ai đã có sáng kiến thật kỳ cục và tiêu tiền vào những công trình cực kỳ xấu xí như vậy. Nếu di chuyển ga Hòa Hưng ra ga Bình Triệu hoặc ga Sóng Thần, một mặt ta có tất cả những lợi điểm nêu trên, một mặt ta có được tuyến xe buýt từ ga đầu mối này vào thành phố, tăng cường thêm phương tiện giao thông công cộng.

Tôi đã có nghe một ý kiến nói rằng, xưởng bảo trì đầu máy xe lửa nằm ở Hòa Hưng, di chuyển rất tốn kém và phức tạp. Có thật vậy không ? Có thật là không thể di chuyển xưởng bảo trì đi, hay là khu đất ga Hòa Hưng đang là khu đất vàng, cực kỳ vàng, đang từng ngày được xẻ ra dần dần, khi nào xẻ xong hết thì việc di chuyển xưởng lại khá dễ dàng ! Tôi đã sinh sống lâu năm ở thành phố này để thấy cái ga Hòa Hưng rộng thênh thang lộng gió nay đang hẹp dần, những ngôi nhà bạn bè chúng tôi bên vòng đai tường thành ga, cuối con hẻm cụt nay trở nên khoảng giữa của một con đường, con đường bất ngờ khiến chúng tôi kiếm không ra nhà bạn chỉ sau một thời gian không đến.

Những người có trách nhiệm họ quan tâm điều gì ? Những món lợi cho họ hay những cái thiệt hại mà người khác phải chịu, họ có nghĩ đến nét đẹp của thành phố này hay chỉ nghĩ đến túi tiền của họ, bao nhiêu cái chết thương tâm không hề làm lay chuyển lòng họ, nếu người chết bởi tai nạn xe lửa trong thành phố là người thân của họ, họ nghĩ sao ? Họ có nghĩ đến bao nỗi muộn phiền của bao nhiêu nạn nhân hàng ngày mấy lần kẹt xe qua các giao lộ ? Họ có nghĩ đến những thiệt hại của người khác do những lần kẹt xe gây ra ?

Hiệp đã chết. Cái chết đột ngột, sự ra đi của Hiệp làm tan nát đời người góa phụ trẻ với hai đứa con thơ, thiệt hại tinh thần không thể bù đắp, mạng người vô giá, cái tốn kém của việc di chuyển xưởng bảo trì đầu máy không thể so sánh với mạng người, tôi mong những người có trách nhiệm khẩn cấp tính toán cho công trình này sớm thực hiện.

Giêrađô Nguyễn Lương Hiệp, thắp cho em một nén nhang, một lời nguyện cầu, thương Hiệp nhiều lắm, không biết Hiệp đã kinh hoàng thế nào trong giây phút bị cuốn mình vào gầm xe, xin cho Hiệp được Bình An trong Chúa, được yên nghỉ đời đời. Amen.

Lm. VĨNH SANG, DCCT, 12.5.2011  (Ephata 459)

VỀ MỤC LỤC
Vai trò đặc thù của Người Tín Hữu Giáo Dân trong Giáo hội và giữa Trần thế (2).
 

NGUYỄN HỌC TẬP 

3 - Chủ nhân của thế gian.

Nhưng sứ mạng của người tín hữu giáo dân còn rộng lớn và cao cả hơn những gì đã được đề cập. Chúa đã giao cho con người phận vụ quản trị và phối hợp cả tạo vật. Nhứt là đối với người tín hữu giáo dân, Chúa Ki Tô đã giao cho họ phận vụ hành xử quyền năng nầy, nhân danh Người.

Công Đồng Vatican II tuyên bố bằng những từ ngữ cao qúy và long trọng bổn phận nầy của người tín hữu giáo dân: đó là bổn phận thiết lập Nước Chúa Ki Tô giữa trần thế:

   - " Thật vậy, Chúa cũng muốn mở rộng vương quốc của Người nhờ các tín hữu giáo dân, vương quốc của chân lý và sự sống, vương quốc thánh thiện và ân sủng, vương quốc công chính, tình yêu và hoà bình. Và trong vương quốc nầy, chính tạo vật cũng được giải thoát khỏi ách nô lệ của hư mất, để tham dự vào tự do huy hoàng của con cái Thiên Chúa " ( cfr. Rom 8, 21).  

Những ngôn từ vừa kể chắc chắn là một lời hứa hẹn trọng đại và được thốt lên với ý nghĩa như là một giới răn đối với người tín hữu Chúa Ki Tô,

   - " thật vậy, tất cả là của anh em, anh em là của Chúa Ki Tô " ( 1 Cor 3, 23).( ...9)

Trong việc thực hiện phận vụ nầy trong vũ trụ, người tín hữu giáo dân ở vị trí hàng đầu  ( LG, 36).

Vai trò của người tín hữu giáo dân không được tăng cường thêm, khi họ tìm cách hay tự nguyện tham dự vào quyền bính và phục vụ của hàng giáo phẩm; chỉ có một số ít người trong họ có thể hướng về phía hướng đi nầy được. Dù sao đi nữa, đó không phải là phận vụ cá biệt của họ.

Nều tảng của việc họ tham dự vào vương tước của Chúa Ki Tô không phải nhất thiết được đặt trong hướng đi đó, mà lànhằm về thế giới.

   - " Phận vụ ưu tiên và trực tiếp của người tín hữu giáo dân không phải là để thiết lập và phát triển cấu trúc cộng đồng Giáo Hội - đó là phận vụ cá biệt của hàng giáo phẩm - mà là thực hiện bằng động tác các khả năng Ki Tô giáo và Phúc Âm còn chưa được biết đến, nhưng đã hiện diện và đang tác động trong các thực tại trần thế " ( ĐTC Phaolồ VI, Huấn Dụ Evangelii nuntiandi, n. 70). 

Người tín hữu giáo dân phải được coi không phải chỉ là " giới trẻ thơ dại " hay " các ông từ xuất sắc ", mà là muối và ánh sáng của Chúa Ki Tô trong lãnh vực trần thế.  

Một trong những văn bản của Công Đồng Vatican II được trích dẫn cho biết rằng ơn gọi cá biệt của người tín hữu giáo dân không phải là chỉ để chuyên lo về lãnh vực trần thế mà còn " để thiết định trật tự cho chúng  theo như thánh ý Chúa " ( LG 31).

Đây là một lời nhắc nhỡ mạnh dạn và cũng là một thử thách đối với người tín hữu Chúa Ki Tô.

Nhấn mạnh rằng phận vụ của họ là hành xử uy quyền của Chúa Ki Tô giữa trần thế, không phải chỉ là nói lên cho trần thế định hướng luân lý ( bởi lẽ đó là phận vụ cá biệt của hàng giáo phẩm), mà là

" bằng cách tích cực thiết định và hướng dẫn các thực tại trần thế" ,

 - nghề nghiệp, kinh tế, chính trị, công đoàn, văn hóa, giáo dục, các phương tiện truyền thông xã hội, giải trí, đời sống xã hội và gia đình - nhờ vào sự hiện diện đầy nghị lực và can đảm tác động của họ.

Đó là điều cho thấy đâu là bằng cách cai quản, hướng dẫn và phục vụ, người tín hữu giáo dân hành xử uy quyền của Chúa Ki Tô: 

   - " Chuyên cần dấn thân đem tinh thần Ki Tô giáo vào tâm thức và tập quán , luật pháp và cấu trúc cộng đồng nơi mình đang sống, là phận vụ và trách nhiệm bắt buộc đối với người tín hữu giáo dân, có giá trị bắt buộc đến nỗi không bao giờ có thể được miễn chuẩn, giao cho người khác được " ( Apostolicam actuositatem, 13). 

Hiểu như vậy, phận vụ người tín hữu giáo dân liên quan đến tham dự vương tước của Chúa Ki Tô hệ tại ở việc làm cho thấm nhuần cả thực tại xã hội các nguyên tắc Ki Tô giáo, để biến thể các thực tại đó thành nhân bản hơn và xứng đáng hơn để dâng lên Thiên Chúa:

   - phẩm giá và các quyền tối thượng của con người,

   - tình liên đớì xã hội,

   - tính cách thánh thiện và bất khả phân của hôn nhân và gia đình,

   - quyền tự do có trách nhiệm,

   - tình yêu chuộng chân lý, tinh thần tôn trọng công lý ở mọi đẳng cấp,

   - tinh thần phục vụ, thực hiện sự thông cảm hiểu biết lẫn nhau và lòng bác ái huynh đệ. 

Nếu vậy, thì tại sao người tín hữu giáo dân lại phải có ý lãnh đạo Giáo Hội, trong khi phận vụ của họ là lãnh đạo trần thế  ?

Điều thách thức của người tín hữu giáo dân không phải là " tước quyền hàng giáo phẩm ", mà là " chiếm đoạt thế gian ".

Nêu lên câu hỏi vừa kể là để làm sáng tỏ vấn đề tương quan giữa hàng giáo phẩm và giáo dân để tránh hiểu lầm, nhiều khi là những hiểu lầm trầm trọng, có thể có nhiều người lợi dụng thái độ nâng cao căn tính người tín hữu giáo dân của Công Đồng Vatican II để có ý gây xáo trộn và chia rẻ, nhứt là thái độ của những kẻ không có thiện cảm với Ki Tô giáo có thể xúi giục.

Ý nghĩa định hướng hay " cai trị " ( gouverner ) Ki Tô giáo đối với thế giới, không có nghĩa là hàng giáo phẩm "thống trị " hay cơ cấu của Giáo Hội chen lấn, xen vào nội bộ của lãnh vực trần thế. Đúng hơn là các lãnh vực trần thế được các công dân tự nhiên của mình làm cho trở nên sống động và trong khi vẫn kính trọng bản tính trần thế tự nhiên của các lãnh vục đó, các công dân tự nhiên, chính đáng và công chính có thể hướng dẫn và quản trị các lãnh vực thế giới ngày càng trở thành hoàn hảo, tốt đẹp hơn, để cho con người có được cuộc sống xứng đáng với phẩm giá của mình hơn, mỗi con người được  triển nở hoàn hảo con người của mình hơn " trong mọi chiều hướng, như Hiến Pháp 1947 Ý Quốc đề cập: 

   - " Bổn phận của Nền Cộng Hoà là dẹp bỏ đi những chướng ngại vật về phương diện kinh tế và xã hội, là những chướng ngại, trong khi thực sự giới hạn tự do và bình đẳng của con người, không cho phép mỗi cá nhân triển nở hoàn hảo con người của mình và tham dự một cách thiết thực vào tổ chức chính trị, kinh tế và xã hội của Xứ Sở " 8 Điều 3, đoạn 2 Hiến Pháp 1947 Ý Quốc). 

Với mục đích " mỗi người được triển nở hoàn hảo con người của mình " vừa kể trong mọi chiều hướng, Công Đồng Vatican II nêu lên viễn ảnh như là chiều hướng hành động của người tín hữu giáo dân giữa trần thế: 

   - " Ước gì người tín hữu giáo dân hãy hài lòng, theo gương  Chúa Ki Tô, cũng đã là một người thủ công nghệ, để thể hiện lên tất cả mọi hoạt động trần thế của mình, bằng cách phối hợp các cố công gắng sức con người của mình, trong tư gia, nghề nghiệp, khoa học kỷ thuật hợp nhứt trong một động tác tổng hợp cùng chung với các tài sản tốt lành tôn giáo, tất cả đều dưới sự hướng dẫn tối cao, để tất cả được phối hợp làm vinh danh Thiên Chúa " ( GS 43).  

Như vậy phận vụ của người tín hữu giáo dân là

   - " soi sáng và phối hợp tất cả các thực tại trần thế, mà họ có liên hệ chặt chẽ , để cho các thực tại đó luôn luôn được thực hiện theo đồ án của Chúa Ki Tô, để chúng có thể tăng triển lên và trở thành những điều tán tụng vinh danh Đấng Tạo Hoá và Đấng Cứu Độ " ( LG 31).

   - " Canh tân Ki Tô giáo đối với thế giới có nghĩa là một thế giới sẽ được soi sáng bằng ánh sáng Chúa Ki Tô " ( LG 36).

Và ánh sáng đó được các tín hữu Chúa Ki Tô nói chung và người tín hữu giáo dân nói riêng tác động, không phải như là những " nhân viên " của Vatican, không phải như là " cánh tay nối dài thi hành dưới mệnh lệnh của hàng giáo phẩm "  hay của một cơ chế cá biệt nào đó của Giáo Hội, nhưng là tác động với tư cách là " công dân có quyền và hành xử với tự do và trách nhiệm cá nhân của mình " ( A A 7). 

Dĩ nhiên, nói như vậy, chúng ta không có ý nói hàng giáo phẩm không có sứ mạng cá biệt trong thế giới, bởi lẽ như là thành phần Giáo Hội, các vị cũng có phận vụ của mình đối với lãnh cực trần thế trong phương cách của các vị ( AA 7).

Hàng giáo phẩm có bổn phận thánh hoá thế gian bằng lời cầu nguyện và bằng các động tác phượng tự của các vị, mà hậu quả vượt cả lên trên những gì khả năng con người có thể nhìn thấy và định chuẩn được.

Có chăng hiệu quả phận vụ ngôn sứ của hàng giáo phẩm đối với thế giới,chúng ta nhận ra được một cách hiển nhiên hơn bằng hiểu biết nhân loại của chúng ta.

Hàng giáo phẩm có bổn phận phải rao giảng Phúc Âm " trong mọi hoàn cảnh, thuận tiện hay không thuận tiện ",

   - " ...tôi tha thiết khuyên anh: hãy rao giảng lời Chúa, hãy lên tiếng lúc thuận tiện, cũng như không thuận tiện; hãy biện bác, ngăm đe, khuyên nhủ, với tất cả lòng nhẫn nại và chú tâm dạy dỗ " 2 Tim 4, 2),

bằng cách không ngừng nghỉ tuyên bố cho thế giới các nguyên tắc bất diệt lề luật của Chúa và đồ án của Chúa Ki Tô. 

Nhưng như chúng ta biết dân chúng thường khi không lắng nghe tiếng nói của hàng giáo phẩm bao nhiêu, nhứt là dân chúng ngoại đạo.

Đây là một sự kiện thực tại, không cần phải chứng minh. Theo quan niệm trần thế, người ta thường nhìn hàng giáo phẩm ( và cả tu sĩ ) nhiều lúc như là những người " ngoại cuộc ".

Các vị muốn đến gặp thế giới, gặp dân chúng, để rao giảng Phúc Âm, nhưng rất thường con đường để đến được với họ, đối với cách vị, dường như có những rào chắn, trở ngại chắn ngang, trở ngại vật lý cũng như trở ngại luân lý, tinh thần. Các cánh cửa của dân chúng, của hảng xưởng, của văn phòng, của các cuộc hội thảo, của khu phố, thôn ấp, nhiều khi cả của gia đình, bị khép kín trước mặt các vị, cũng như lỗ tai của họ đều bị bịt lại. 

Trong khi đó thì đối người tín hữu giáo dân " trần thế là nhà cửa, môi trường, nơi cư ngụ của họ ". Họ không cần phải đi đến đó, bởi vì họ đã ở tại đó rồi. Họ ở trong thế gian như mọi người công dân khác, ngang hàng với những người khác, mà trong rất nhiều trường hợp, chỉ có họ, người tín hữu giáo dân, mới có thể rao giảng Phúc Âm được:

   - " Nhiều người - Công Đồng Vatican II nhấn mạnh - không thể được nghe Phúc Âm và biết được Chúa Ki Tô, nếu không nhờ người tín hữu giáo dân, là những người đang ở bên cạnh họ " ( AA 13).

Người tín hữu giáo dân phải hành xử " tước vị phục vụ vương giả " của mình ( ĐTC Gioan Phaolồ II, Redemptor hominis n. 21), bằng cách đem những người đồng hương, đồng bào ( cả đồng loại ) của mình đến với Chúa Ki Tô.

Họ phải làm sao?

Dĩ nhiên không phải là bằng cách gian lận, che giấu, lương lẹo. Chúa Ki Tô đòi buộc phải thẳng thắng và trong sáng, dĩ nhiên đôi khi kể cả can đảm.

Dĩ nhiên không phải rao giảng Phúc Âm và lôi cuốn người khác đến với Chúa Ki Tô bằng cách can thiệp bằng võ trang, bạo lực, bởi vì Chúa Ki tô chỉ muốn có các môn đệ tự do và tự nguyên theo Người:

   - " Kế đó,các ông đưa thuyền vào bờ, rồi bỏ hết mọi sự mà theo Người " ( Lc 4, 11).

Nói như vậy, nhung chúng ta cần lưu ý hai điều bắt buộc phải có đối với người tín hữu giáo dân, để có thể thực hiện tốt đẹp sứ mạng của mình, làm cho

   - " đồ án cứu rổi của Chúa mỗi ngày có thể đến được với mọi người, ở mọi thời đại và nơi mọi phần đất trên thế giới " ( LG 33).

Đó là thẩm quyền chuyên môn và khả năng giáo lý. 

 

4 - Thẩm quyền chuyên môn và khả năng hiểu biết giáo lý.

   a) Yếu tố tiên khởi cần thiết để người tín hữu giáo dân có thể định hướng và hướng dẫn các thực tại trần thế của con người đó là thẩm quyền chuyên môn trong lãnh vực nghề nghiệp và việc làm của mình.

Quyền chiếm được vị trí lãnh đạo trong các hoạt động trần thế phải là kết quả của công lao, khả năng chuyên môn đối với nghề nghiệp, ai cũng thấy được, kết quả của học vấn, của khảo cứu và phẩm chất của việc làm.

Khi trình bày sứ mạng vương giả của người tín hữu giáo dân, Công Đồng Vatican II nhấn mạnh những gì chúng ta vừa đề cập:

   - " Với thẩm quyền khả năng của mình trong các lãnh vực trần thế và cùng với các động tác của họ, được ơn Chúa Ki Tô nâng cao lên trong từ bên trong, họ hãy làm cho các công việc của mình có được kết quả, để cho các tạo vật, theo trật tự của Đấng Tạo Hoá và theo ánh sáng của Ngôi Lời, được tiến triển lên nhờ việc làm của con người, nhờ kỷ thuật và văn hoá trở thành lợi ích tuyệt đối cho tất cả mọi người " ( LG 36).

Như là điều hiển nhiên, người tín hữu giáo dân có tâm thức chính đáng về ơn gọi Ki Tô giáo của mình, ho có lý do chính đáng để học hỏi, nghiên cứu, thục tập nghề nghiệp, để có được thẩm quyền đáng kể trong chuyên môn.

Nói cho cùng, bởi vì họ tìm kiếm sự thánh thiện trong việc làm và nhờ việc làm, lý do chính khiến cho họ làm việc là lòng yêu thương Chúa.

Và vì đây là lý do cao thượng hơn mọi lý do cao cả của con người  và mãnh liệt hơn mọi tham vọng ích kỷ, họ làm việc nhiều và làm tốt đẹp. 

   b) Một yếu tố khác mà người tín hữu giáo dân cần có, nếu họ muốn dẫn dắt thế giới về với Chúa Ki Tô, đó là nền tảng gíáo lý.

Công Đồng Vatican II cũng nói lên rõ ràng về chủ đề đang đề cập. Sau khi đã nhấn mạnh đến việc người tín hữu giáo dần  " cần đảm nhận trách nhiệm thiết lập trật tự trần thế như là bổn phân của chính minh " , Nghị Định về sứ mạng  tông đồ của người tín hữu giáo dân thêm rằng  trong động tác trực tiếp và cá biệc của mình, người tín hữu giáo dân phải được

   - " hướng dẫn  bởi ánh sáng Phúc Âm và tư tưởng của Giáo Hội, và được thúc đẩy bằng đức bác ái Ki Tô giáo " ( A A  7).

Rồi đến phiên Hiến Chế Gaudium et spes cho biết rằng

   - " lương tâm người tín hữu giáo dân, một khi đã được đào tạo chính đáng, có phận sự viết lên lề luật Chúa vào trong thị xã trần thế " ( GS , n. 43). 

Khi người tín hữu giáo dân

   - có thẩm quyền chuyên nghiệp trong chức nghiệp của mình,

   - đã hấp thụ được sứ điệp Phúc Âm và đã hoà hợp tư tưởng mình với tư tưởng của Giáo Hội ( nguồn mạch mà qua đó Chúa Ki Tô nói với chúng ta),

thì đó là lúc, được gợi hứng bởi tình yêu Ki Tô giáo, người tín hữu giáo dân có đủ phẩm chất để lãnh đạo các lãnh vực trực thuộc thế giới.

Nếu đức hiệp nhứt vào Chúa Giêsu và tình yêu đối với Người là hai nguyên tắc của học biết chuyên cần để có được thẩm quyền chuyên môn và hiểu biết hấp thụ giáo lý của người tín hữu giáo dân, thì họ sẽ có được một cuộc sống hiệp nhứt chính đáng. Bởi lẽ sống như vậy, người tín hữu giáo dân tránh được sự cách biệt đoạn tuyệt giữa đức tin và đời sống hằng ngày, mà Công Đồng Vatican II cho biết như là

   - " một trong những sai lầm lớn nhứt của thế giới hiện đại chúng ta " ( GS 43). 

Như vậy, như chúng ta có thể xác nhận được, vai trò của hàng giáo phẩm và của tín hữu giáo dân là những vai trò liên đới bổ túc cho nhau, nhưng tách biệt nhau.

Vai trò của mỗi người tín hữu Chúa Ki Tô, trả lời cho ơn gọi mọi người đến sự thánh thiện ( LG, c. V), đó là phận vụ phục vụ và loan báo Phúc Âm, theo mẫu gương Chúa Ki Tô, Người Đầy Tớ và Đấng Cứu Độ cho tất cả mọi người.

Theo gương đó,

   - vai trò chính yếu của hàng giáo phẩm phục vụ trong Giáo Hội,

   - vai trò chính yếu của người tín hữu giáo dân là phục vụ giữa trần thế.

Vị Linh Mục phải là Chúa Ki Tô cho người tín hữu giáo dân, cũng vậy theo phương thức hành xử thiên chức linh mục đó,người tín hữu giáo dân  phải là Chúa Ki Tô cho trần thế, sống theo cách sống giáo dân.

Chúng ta đã có dịp đề cập và phản biện đối với lý thuyết về sự " tham dự quyền bính ", tạo nên mối cạnh tranh ganh đua giữa giáo phẩm và giáo dân, để đạt được " ảnh hưởng " trong Giáo Hội.  

Quan niệm vừa kể cho thấy rõ một sự hiểu biết thấp kém về quyền lực và uy tín trong Giáo Hội.

Tuy nhiên ý niệm về tham dự vào quyền hành cũng có thể được mài giũa và diễn tả ra một cách thích hợp hơn.

Nếu quyền lực được hiểu như là phận vụ phục vụ, thì " tham dự vào quyền bính " trở thành tham dự vào phận vụ phục vụ: mỗi người, cách phục vụ theo phương thức thích đáng của chính địa vị mình, đó là tham dự vào quyền bính của Chúa Ki Tô  để cứu độ thế gian. 

Mỗi người phục vụ theo phương thức thích hợp với chính mình , đó là chìa khoá để giải quyết vấn đề.

Bởi đó, nếu bản tính của quyền lực Giáo Hội không thể giải thích được một cách rõ ràng , đồng thời cũng sẽ không cho biết rõ phận vụ bản tính các vai trò của Giáo Hội, .

" Quyền năng " của mỗi người tín hữu Chúa Ki Tô là quyền năng để phục vụ trong vai trò cá biệt mà Chúa ban cho mỗi người.

Tham vọng có được một quyền lực khác, có nghĩa là không muốn phục vụ, không chu toàn bổn phận ơn gọi Chúa mời gọi mình. 

VỀ MỤC LỤC
KHO BÁU

 

Thưa bạn, không phải ai ai cũng dễ dàng tìm gặp kho báu trong cuộc đời. Tất cả các kho báu như, kim cương, vàng, dầu lửa đều được tìm thấy qua một quá trình kiếm tìm trong sự kiên nhẫn vượt bậc. Kho báu trong mỗi con người cũng thế. Tài năng của con người cũng cần có ai đó tìm kiếm và kiên nhẫn hun đúc, khơi gợi. Khi đã được ai đó tìm gặp và khơi gợi tiềm năng, những người này trở nên tỏa sáng và tài năng của họ được dùng để phục vụ cộng đồng. Hôm nay, trong chủ đề Kiên nhẫn – Kiên cường, mục Sống Sao Cho Đẹp nêu câu chuyện của John Mc. Knight trong tập truyện Stone Soup for the World[1] như một ví dụ điển hình. Và cũng để nói lên rằng, sự kiếm tìm hun đúc tài năng cho con người không nên nhắm vào việc thắng-bại, nhưng nhằm vào khả năng khám phá những giá trị tiềm ẩn trong mỗi con người, dù người đó có thể bị cho là bất tài, tật nguyền, bệnh tật.

* * *

Một nhân viên xã hội chuyên phụ trách việc chăm sóc và quan tấm đến những người tàn tật tại miền Nam tiểu bang Georgia. Bà ta nghĩ rằng, xã hội con người thường quan tâm đến những người tài năng, nổi tiếng, trong khi những người tàn tật thì ít khi được quan tâm để ý. Vì lẽ đó, bà quyết định dành rất nhiều thời gian để quan tâm chú ý đến những người tàn tật, mà theo bà nơi những con người này, họ cũng đang ẩn chứa những kho báu đang bị chôn vùi. Một hôm, bà đến thăm một thanh niên 41 tuổi, tên Joe. Sau nhiều năm được gởi đi vào trường giáo dục đặc biệt, Joe vẫn không tỏ ra tiến bộ và có khả năng để làm việc bình thường được. Vì lẽ đó, Joe bị trả về gia đình. Tại gia đình, Joe chỉ có làm hai việc duy nhất. Thứ nhất, cho heo ăn vào buổi sáng và buổi chiều; thứ hai, ngồi cả ngày nghe Radio. Người phụ nữ đến thăm Joe và trải qua bốn ngày liên tiếp mà không tìm thấy được nơi Jeo một “khả năng” gì nhằm có thể giúp anh ta. Tuy nhiên, với thái độ khám phá chứ không theo quan điểm hơn-thua, được-mất, bà vẫn kiên nhẫn quan sát Joe. Vào ngày thứ năm, bà quan sát và thấy Joe rất say mê nghe Radio và có thể tường thuật những sự kiện anh vừa nghe một cách tài tình. Sau ngày hôm ấy, bà tìm biết được rằng, có ba vị trí mà cộng đồng phải trả tiền cho người nghe Radio. Một là cảnh sát giao thông, hai là một nhân viên cảnh sát hình sự, và ba là một nhân viên tại phòng cấp cứu cộng đồng. Tại phòng cấp cứu cộng đồng, nhân viên này nghe Radio để báo cho người trách nhiệm vài sự cố xảy ra trong cộng đồng nhỏ của mình. Thế là Joe được mời vào làm vị trí này. Cứ mỗi cuộc họp mặt trong cộng đồng, Joe trở nên nhân vật quan trọng cho những ai muốn biết những gì đã xảy ra cho cộng đồng của mình trong thời gian qua. “Joe, chuyện gì xảy ra tại ngã tư…, Joe, gia đình ông Smith gặp sự cố gì…, Joe, em bé vào cấp cứu hôm qua như thế nào rồi…? Joe không những trở nên “nguồn” cung cấp thông tin quí giá cho nhiều người trong cộng đồng mình, nhưng còn cho giới săn tin địa phương. Nhờ sự kiên nhẫn và thái độ khám phá của nhân viên xã hội mà Joe được khám phá, và tài năng của anh ta được dùng để giúp cho cộng đồng.

* * *

Bạn thân mến, với cái nhìn đúng về cuộc đời và về con người, nó phần nào giúp ta dễ dàng hơn trong việc thực hành đức tính kiên nhẫn. Kiên nhẫn không chỉ được hiểu là hì hục làm lụng liên tục như một cái máy, nhưng với thái độ khám phá và sẵn sàng đón nhận điều mới mẻ, kiên nhẫn giúp ta thấy niềm vui và thêm sức mạnh để tiếp tục hoàn thiện chính mình. Để có được cái nhìn khám phá trong cuộc sống, ta cần loại bỏ quan niệm hơn-thua, được-mất trong cuộc sống. Thật vậy, nếu nhân viên xã hội trong câu chuyện trên dựa theo quan điểm được-mất, thì rõ ràng, bà đã mất nhiều thời gian, vì nơi Joe không tìm thấy khả năng như mọi người khác. Nhưng với cái nhìn khám phá trong mỗi con người, bà đã gạt đi những quan niệm thất bại, thua cuộc mà nhiều người khác đã đánh giá về Joe trước đây. Chính trong cái nhìn khám phá, bà đã tìm thấy nơi Joe một kho báu ẩn chứa. Với cái nhìn khám phá, bà không quan trọng việc thắng thua, được mất trong một nhiệm vụ, một công việc, nhưng quan trọng là bà mở lòng để đón nhận mọi tiến trình. Dù có thể là gặp thất bại trong một công việc, nhưng trong tiến trình khám phá, bà vẫn kiên nhẫn tiến tới để hoàn thiện chính mình và cùng giúp người khác cùng hoàn thiện.

Thưa bạn, nếu đời ta chỉ dựa vào quan niệm thắng-thua, chắc một điều bạn sẽ gặp thua nhiều hơn thắng; và kết cục cũng là thua. Nhưng nếu bạn quan niệm đời mình như là một hành trình khám phá, thì dù có lúc nào đó bạn “thua,” bạn vẫn đủ nghị lực để hoàn thiện con người mình. Hãy kiên nhẫn với cái nhìn khám phá kho báu trong cuộc đời và trong con người. Nó không dễ. Đúng! Nhưng nếu dễ, thì ta đâu còn gọi nó là kho báu, phải không bạn?  

Br. Huynhquảng

brhq@brhuynhquang.org

www.brhuynhquang.org


[1] Lược dịch từ John Mc. Knight, “Hidden Treasures” in Stone Soup for the World, ed. Marianne Larned, (California: Conari Press, 1998), 15 -16.

 
VỀ MỤC LỤC
ƠN GỌI NÊN THÁNH CỦA BẬC HÔN NHÂN

 

Tác phẩm: Cẩm  Nang  Hạnh  Phúc Gia  Đình  Kitô - MỤC VỤ HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH

Tác giả: D. WAHRHEIT (Lm. Minh Anh, GP. Huế tổng hợp biên tập)

B3. ƠN GỌI NÊN THÁNH CỦA BẬC HÔN NHÂN

Nên thánh là ơn gọi và là nghĩa vụ của tất cả những ai đã chịu phép rửa. Nhưng với tư cách là vợ chồng, những người tín hữu Kitô có một cách thức riêng để sống và thực hiện ơn gọi nên thánh. Do một thành kiến từ lâu đời, nhiều người đề cao đời sống tận hiến trong dòng tu hoặc chức vụ linh mục, nhưng lại xem thường đời sống gia đình. Mỗi bậc sống đều là ơn gọi của Chúa, và ơn gọi nào cũng đều cao đẹp và có giá trị riêng của nó. Thế nào là ơn gọi làm vợ làm chồng? Đâu là sứ mệnh của các bậc làm cha mẹ? Tại sao gia đình là một Giáo Hội thu hẹp? Trả lời cho những câu hỏi đó tức là chân nhận rằng, có một con đường nên thánh dành riêng cho những người sống bậc vợ chồng.

1. Trong số 49 của Hiến Chế Vui Mừng và Hy Vọng, Công Đồng Vaticanô II đã đề cao ơn gọi sống đời gia đình như sau: “Để có thể kiên trì chu toàn nghĩa vụ ơn gọi làm người Kitô hữu như thế, tức là sống đời vợ chồng, cần phải có một nhân đức phi thường. Chính vì thế mà vợ chồng được ơn Chúa củng cố để sống thánh thiện sẽ ân cần nuôi dưỡng và cầu xin cho được một tình yêu kiên vững, một tâm hồn đại lượng và tinh thần hy sinh”. Những dòng trên đây của Công Đồng xác quyết rằng: Giáo Hội luôn đề cao và coi trọng đời sống hôn nhân. Thánh thiện không còn là độc quyền của những người tận hiến, hôn nhân không phải là một bậc sống thấp hèn hay chỉ là hạng hai trong Giáo Hội. Công Đồng lại khẳng định: Cần phải có một nhân đức phi thường, cần phải có những đức tính anh hùng mới có thể chu toàn bổn phận đời sống vợ chồng.

Đâu là những bổn phận của đời sống vợ chồng? Đâu là những trợ giúp của niềm tin Kitô trong việc chu toàn những bổn phận ấy?

Số 17 trong Tông Hiến Đời Sống Gia Đình do Đức Gioan Phaolô II ban hành khoảng đầu thập niên 80 đã xác định như sau: “Gia đình nhận lãnh trách nhiệm bảo toàn, nâng cao và thông truyền tình yêu là một phản ảnh sống động và thông dự thực sự vào tình yêu của Thiên Chúa đối với nhân loại”. Một cách cụ thể, gia đình đảm nhận bốn trách vụ sau:

- Xây dựng cộng đồng tình yêu

- Phục vụ sự sống

- Tham dự vào việc phát triển xã hội

- Tham dự vào đời sống và sứ mệnh của Giáo Hội.

Cơ bản và quan trọng nhất trong 4 trách vụ trên đây chính là xây dựng cộng đồng tình yêu. Tông Hiến giải thích: gia đình được thiết lập và sinh động bởi tình yêu là một cộng đồng gồm những con người: vợ chồng, cha mẹ, con cái, bà con thân thuộc.

Đức Gioan Phaolô II muốn vượt qua một mẫu gia đình khép kín, ích kỷ, hưởng thụ mà xã hội văn minh ngày nay đề cao. Đó là mẫu gia đình chỉ gồm có vợ chồng hoặc có một hay hai đứa con. Trong một gia đình mà sự hiện diện của một mầm sống hay của một đứa con bị xem như một gánh nặng, hoặc như một cản trở cho sự hưởng thụ; trong một gia đình mà sự hiện diện của người già cả bị xem như thừa thãi, trong một gia đình như thế hẳn không có tình yêu đích thực.

Sự cao cả của gia đình chính là xây dựng một cồng đồng yêu thương trước tiên trong ranh giới của chính nó. Và từ đó trải dài tình yêu ấy đến với mọi người chung quanh. Phải tu thân, tích đức, tề gia rồi mới có thể trị quốc và bình thiên hạ. Gia đình là tế bào nguyên thuỷ của xã hội. Nếu tế bào ấy không được lành mạnh; nếu gia đình chưa là một cộng đồng yêu thương, làm sao có thể nói đến xây dựng xã hội.

Người ta không cần phải ra khỏi nhà để làm công tác xã hội từ thiện. Không ai cần được yêu thương giúp đỡ cho bằng chính những người thân trong gia đình. Khi gia đình trở thành một mái ấm thực sự, khi gia đình trở thành một cộng đồng tình yêu thực sự, hơi ấm của tình người sẽ toả lan đến những người bên ngoài gia đình.

2. Tông Huấn của Đức Gioan Phaolô II về đời sống hôn nhân và gia đình trong số 21 đã nói đến việc xây dựng cộng đồng tình yêu trong gia đình như sau: “Tất cả mọi phần tử của gia đình, mọi người tuỳ theo năng khiếu riêng của mình đều nhận lãnh ân sủng và trách nhiệm để ngày qua ngày xây dựng sự thông hiệp giữa nhau. Nhờ thế, họ biến gia đình thành một trường dạy về nhân bản đầy đủ và phong phú nhất. Điều đó được thể hiện bằng sự săn sóc hay tình thương yêu đối với những người bé mọn, những người bệnh tật và người già cả, bằng việc phục vụ nhau mỗi ngày, bằng sự chia sẻ cho nhau của cải, niềm vui cũng như nỗi buồn. Một sự thông hiệp như thế chỉ có thể duy trì và thêm hoàn hảo nhờ tinh thần hy sinh mà thôi”.

Thực thế, để có sự thông hiệp giữa các phần tử trong gia đình, cần phải có sự sẵn sàng và quảng đại cao độ của tất cả và của từng người để cảm thông với nhau, khoan dung với nhau, tha thứ cho nhau, hoà giải với nhau.

Các tu sĩ thường nói với nhau: việc đền tội nặng nề nhất đối với tôi là đời sống chung. Thiết tưởng châm ngôn ấy càng phải áp dụng hơn cho đời sống gia đình. Việc đền tội nặng nề nhất của tôi là cuộc sống chung trong gia đình. Không cần một đặc sủng phi thường, không cần một cuộc sống khắc khổ như các vị ẩn tu trong sa mạc, cũng không cần phải là một tu sĩ mới có thể sống những nhân đức anh hùng. Đời sống hôn nhân và gia đình cũng có đủ những yếu tố để con người tập luyện những nhân đức anh hùng ấy.

3. Ngay từ những trang đầu của Kinh Thánh, chân lý về cuộc sống hôn nhân đã được hé mở với tất cả vẻ đẹp và những đòi hỏi của nó. Thật thế, Kinh Thánh nói: người đàn ông luyến ái với vợ mình và cả hai nên một thân xác. Nên một mà vẫn là hai, còn gì cao đẹp bằng; nhưng cũng không gì đòi hỏi bằng. Do đó, cuộc sống lứa đôi là một cố gắng không ngừng để trưởng thành trong nhân cách, nghĩa là trở thành chính mình hơn mà vẫn nên một với người khác. Hay đúng hơn, chính khi vượt qua những dị biệt, vượt qua khỏi chính mình để nên một với người khác mà con người đạt được sự trưởng thành.

Một tiến trình trưởng thành như thế đòi hỏi một sự hy sinh cao độ. Nhưng người tín hữu Kitô nhờ hồng ân của phép rửa và nhất là của bí tích Hôn Phối, sẽ đi vào tiến trình ấy với tất cả hân hoan và yêu thương. Họ biết rằng, khi sống yêu thương là họ ở trong Thiên Chúa.

Các tu sĩ được phong thánh không phải vì những hành động phi thường của họ, mà chính vì đức ái họ thực thi trong đời sống chung, hoặc cho những người khác. Cách tương tự, các đôi vợ chồng cũng đạt được sự trọn lành trong đời sống vợ chồng của mình nhờ những cố gắng thực thi đức ái cho nhau và cho mọi người trong gia đình.

VỀ MỤC LỤC
SỚM KHÁM PHÁ UNG THƯ RUỘT GIÀ

 

Từ năm 2000, tháng Ba mỗi năm đã được các tổ chức chống ung thư tại Hoa Kỳ chọn là tháng để bà con ”đề cao cảnh giác” với bệnh ung thư Ruột Già -Trực Tràng và nhớ yêu cầu bác sĩ làm các xét nghiệm để sớm tìm ra bệnh.

Thống kê cho biết, năm 2008, có 139,000 người lớn tại Hoa Kỳ được chẩn đoán bị ung thư ruột già với hơn 50.000 tử vong. Theo Hội Ung Thư Hoa Kỳ,  phân nửa số tử vong này có thể được cứu sống nếu mọi người hiểu rõ về bệnh, phòng tránh các nguy cơ gây ra bệnh và làm các thử nghiệm tìm bệnh đều đặn. Các thử nghiệm sàng lọc này có thể sớm nhận diện bướu thịt (polyp) đáng ngại hoặc u tiền ung thư để loại bỏ trước khi chúng chuyển sang bệnh hiểm nghèo.

Vậy thì những thử nghiệm đó là gì và được thực hiện như thế nào, chúng ta cùng nhau tìm hiểu.

1- Khám hậu môn với ngón tay

Thử nghiệm đầu tiên mà thầy thuốc sẽ làm là khám hậu môn. Nói tới khám xét là ta cứ ngượng ngùng “em chã ”. Vì khi không lại phải “vạch mông” cho người coi cái ”cửa sau”, phần thầm kín của con người, thì cũng lạnh mình, đỏ mặt. Nhưng khi cần thì vẫn phải làm.

Chổng mông để lương y thọc ngón tay chuối mắn - ngọc ngà vào, ngoáy qua ngoáy lại từ trước ra sau, từ trên xuống dưới. Để coi mặt trong ruột có trơn tru, có cái u cái mụn nào không; rút ngón tay ra có chút máu dính vào bao cao su. Với chiêu thức ngoáy tay, thầy thuốc cũng kiểm tra coi cái tuyến tiền liệt của các ông xem có sưng, có gồ ghề. Chẳng là ung thư ruột cũng “nhân nghĩa bà Tú Đễ ” thường tới thăm chú tuyến tinh dịch này của quý lão ông lắm đấy.

Với vài giọt hóa chất, thầy thuốc thử phân coi có vết máu.

Thử nghiệm này rất giản dị, không đau đớn mà lại rẻ tiền nhưng hữu ích thì “thần sầu”.  Thần sầu vì có thể giúp ta sớm tìm ra những10% nan bệnh, sớm điều trị, nâng cao kết quả, nhiều hy vọng lành bệnh. Do đó, ta nên làm mỗi năm.

Nếu thử nghiệm thấy có máu thì thầy thuốc sẽ tìm cách trực tiếp nhìn vào trong ruột 

2- Tìm máu ẩn trong phân

 Trong điều kiện bình thường, phẩn không có máu và đàm. Phẩn có máu là dấu hiệu của một bệnh nào đó của ống tiêu hóa.

Máu có thề đỏ tươi, bầm đen hoặc nâu sẫm tùy theo vị trí bệnh xa hay gần hậu môn. Gần ( trực tràng, trĩ)  thì đỏ, xa (ruột non, bao tử) thì bầm vì đã bị vi khuẩn biến thành hóa chất hematin có mầu đen.

Máu đỏ tươi thường là do trĩ hậu môn, trĩ mạch lươn dưới da chung quanh hậu môn, bướu thịt hoặc ung thư ruột già, trực tràng.

Máu bầm đen trong các bệnh loét dạ dày, đứt mạch máu ở ruột già, dùng quá nhiều aspirin hoặc rượu, uống thuốc chống đông máu.

Số lượng máu có thể nhiều hoặc ít như trường hợp máu ẩn (occult blood).

 Máu ẩn có rất ít trong phẩn mà mắt thường không thấy và chỉ tìm ra được khi nhìn qua kính hiển vi hoặc thử nghiệm hóa học.

Nguồn gốc máu ẩn có thể từ loét viêm dạ dày, viêm đường ruột, trĩ, ung thư hoặc polyp trong ruột già. 

Để thử nghiệm, phẩn được lấy trong ba ngày liên tiếp và đựng trong hộp đặc biệt do phòng thí nghiệm cung cấp. Giao hộp phẩn cho phòng thí nghiệm để họ tìm máu.

Ba ngày trước và trong thời gian lấy phẩn, bệnh nhân cần theo hướng dẫn như sau:

- Tránh dùng vitamin C hoặc tiêu thụ quá nhiều thực phẩm chứa sinh tố này như chanh, cam vì sinh tố này cho kết quả dương tính sai.

- Tránh ăn nhiều thịt đỏ có nhiều heme, thực phẩm có nhiều enzym peroxidase như nấm, broccoli, giá đậu, cauliflower, táo, cam, chuối, dưa canteloup, nho. Các chất này có thể làm cho kết quả thử nghiệm dương tính sai

- Nên ăn thực phẩm có nhiều chất xơ như đậu, rau để khối phẩn mềm lớn.

- Tránh thuốc kích thích dạ dày, ruột gây ra xuất huyết như thuốc chống acit, thuốc có chất steroid, thuốc chống viêm đau có chất aspirin, rượu.

- Tránh uống sinh tố có chất sắt.

Kiếm máu ẩn trong phẩn có khả năng tìm ra polyp và ung thư ruột già khá sớm. Tuy nhiên, kết quả dương tính không có nghĩa là đã bị ung thư vì có nhiều nguyên do khác gây ra xuất huyết đường ruột. Thí dụ khi dùng thuốc aspirin, ibuprofen, trong bệnh loét dạ dày, viêm ruột…Đo đó, bệnh nhân có máu ẩn trong phân cần được xác định với phương pháp nội soi, quan sát đường ruột.

Giới chức y tế đề nghị tìm máu ẩn trong phẩn mỗi năm một lần.

3- Nội soi ruột già

Có người ví Nội soi ruột già là tiêu chuẩn vàng (golden standard) để sàng lọc ung thự ruột già - trực tràng.

Đây là phương pháp khảo sát mặt trong của toàn thể trực tràng với một ống dây quang học bằng nhựa mềm dễ uốn, có đèn sáng dẫn đường và máy chụp hình. Đưa ống sâu vào hậu môn, điều chỉnh máy, bác sĩ có thể làm một vòng thám hiểm bất cứ góc cạnh nào của ruột và mao tôn cương: qua đèn, nhìn ruột rõ như ban ngày, nào là  gồ ghề bướu thịt, loét lở thành ruột, bê bết máu tươi đều thấy hết, ngoại trừ bầy vi sinh vật lúc nhúc cộng sinh. Nhắc lại là trong trường hợp bình thường, lòng ruột già trơn mềm như mặt trong của má.

 Hình ảnh ruột được chiếu trên màn hình TV để phân tích và có thể lưu trữ.

Nội soi được làm tại bệnh viện hoặc phòng nội soi ngoại chẩn, trung bình kéo dài từ 30-60 phút và do bác sĩ chuyên ruột - bao tử thực hiện. Bệnh nhân được cho dùng liều thuốc an thần để giảm lo âu, khó chịu, do đó cần người lái xe đưa về nhà sau khám nghiệm.

Trước khi làm nội soi, bệnh nhân được cho thuốc tẩy rửa ruột sạch sẽ để bác sĩ dễ quan sát. Đây là điểm mà nhiều người e ngại vì phải uống một lọ thuốc xổ cộng thêm cả lít nước để rồi tiêu chẩy soèn soẹt. Hiện nay có thuốc tẩy rửa dạng viên cho nên việc sửa soạn ít khó chịu hơn.

Một ngày trước thử nghiệm, bệnh nhân không ăn thực phẩm mà chỉ uống nước trong không bã.

Nếu thử nghiệm vào buổi sáng, không ăn uống gì sau nửa đêm. Nếu là buổi chiều thì uống thuốc tẩy xổ theo đúng hướng dẫn.

Không nên uống aspirin hoặc thuốc chống viêm 5 ngày trước thử nghiệm để tránh nguy cơ xuất huyết khi polyp được cắt bỏ.

Cho bác sĩ hay nếu có vấn đề dị ứng, uống thuốc loãng máu, đang bị bệnh tiểu đường, có thai, cho con bú sữa mẹ hoặc khó khăn chích tĩnh mạch.

Sau thử nghiệm, bệnh nhân cảm thấy tưng tức ở bụng, nhưng hết sau vài giờ. Dăm giờ sau thử nghiệm, bệnh nhân có thể ăn lại như thường lệ. 

Mục đích của nội soi gồm có:

- Đánh giá các u bướu, loét lở, thu hẹp lòng ruột già khi chụp hình X-quang ruột;

- Chẩn đoán viêm ruột;

- Tìm nguyên nhân gây ra tiêu chảy khi các thử nghiệm thông thường không thành công;

- Tìm nguyên nhân xuất huyết đường tiêu hóa, đặc biệt trong bệnh thiếu máu do thiếu sắt;

- Chẩn đoán ung thư ở người có thân nhân bị ung thư hoặc bướu thịt;

- Cắt bỏ bướu thịt, chữa xuất huyết ruột hoặc lấy vật lạ trong ruột.

Nội soi được áp dụng khi có một trong các bất thường như thay đổi thói quen đại tiện, máu trong phẩn, đau bụng liên tục, người từ 50 tuổi trở lên.

Hội Ung Thư đề nghị những ai trên 50 tuổi nên làm nội soi ruột già mỗi 7-10 năm. Người có rủi ro ung thư ruột già cần thực hiện sàng lọc này gần hơn, tùy theo ý kiến của bác sĩ điều trị.

Bình thường, phương pháp rất an toàn, hãn hữu lắm mới có khó khăn như lủng ruột.

Nếu có u bướu, bác sĩ sẽ thực hiện sinh thiết (biopsy) để xác định tế bào ung thư, chụp x-quang xương, CT scan…rồi điều trị.

Mặc dù nội soi ruột là phương thức sàng lọc hữu hiệu, nhưng số người thực hiện cũng khá khiêm nhường. Lý do là nhiều người ngại đau, ngại phải uống thuốc tẩy sổ để làm sạch ruột và lý do quan trọng hơn là chi phí nội soi khá cao. Nếu bảo hiểm không đài thọ thì bệnh nhân phải bỏ tiền túi ra trang trải. 

4- Nội soi trực tràng

Một dụng cụ  đơn giản hơn máy nội soi ruột già là máy nội soi ruột sigma (sigmoidoscope)  được dùng để quan sát phần dưới của ruột già và trực tràng. Khoảng 50% ung thư hoặc bướu thịt xuất hiện ở phần trên ruột già.

Một ống mềm uốn cong , đầu có gắn máy thu hình nhỏ với đèn được dưa vào hậu môn. Qua thiết bị, bác sĩ quan sát phần dưới ruột già và trực tràng để tìm ra bất thường. 

Coi vậy ta thấy có nhiều cách để sàng lọc tìm kiếm ung thư ruột già, nhưng căn bản chỉ có hai loại được giới chức y tế khuyên cần làm theo định kỳ: Đó là tìm máu ẩn trong phẩn (Fecal occult blood test) và nội soi ruột già (Colonoscopy screening).

Kết luận           

Theo bác sĩ Durado D. Brooks, Giám đốc khoa ung thư nhiếp tuyến và ruột già thuộc Hội Ung Thư Hoa Kỳ thì “Ung thư ruột già là một trong những ung thư duy nhất có thể phòng tránh qua khám nghiệm đều đặn”. Cơ quan Kiểm Soát Bệnh Hoa Kỳ (CDC) cũng có cùng ý kiến.

Ngoài ra nghiên cứu cho hay, 90% người được sàng lọc khám phá ra ung thư ruột già sớm có tỷ lệ sống sót 5 năm, trong khi đó nếu khám phá trễ số người sống sót còn có 10%.

Do đó, các giới chức y tế đều nhắc nhở dân chúng để ý tới dấu hiệu báo động của bệnh, cấp kỳ thông báo cho bác sĩ và làm các thử nghiệm sẵn có đề truy tìm “ung tặc”, càng sớm càng tốt.

Điều đáng ngại là, theo Hội Ung thư Hoa Kỳ, chỉ có 30% người được khuyến khích làm thử nghiệm tìm kiếm bệnh chịu thực hiện lời khuyên.

Đó là điều dáng tiếc vậy.

Bác sĩ Nguyễn Ý-Đức

Texas-Hoa Kỳ.

www.bsnguyenyduc.com

VỀ MỤC LỤC
PHỞ VÀ CƠM THỜI H1N1 - Chuyện phiếm của Gã Siêu

  

Việt Nam và thế giới đã trải qua dịch cúm gà H5N1 và đang phải đối phó với dịch cúm lợn H1N1. Qua những gì đọc trên báo chí, trong mỗi cơn dịch gã đã chọn lấy một bài viết mà gã cho là đắc ý nhất, đối với riêng gã mà thôi.

Trước hết là dịch cúm H5N1, được gọi là cúm gà, hay nói đúng hơn là cúm gia cầm, kể cả loài chim chóc sống trên rừng hay được nuôi trong lồng. Dịch cúm này do một loại virus gây nên, rồi lây nhiễm sang một số động vật có vú. Loại virus ấy được phát hiện trước tiên tại Ý vào năm 1900, bắt đầu hoành hành và lây nhiễm qua người từ năm 1997 tại Hong Kong và có nguy cơ trở thành một đại dịch trong tương lai. Tính đến ngày 28.2.2008, trên thế giới đã có 369 người niễm virus H5N1 và trong đó 234 người đã tử vong.

Mấy năm trước tại Việt Nam, hễ ở đâu dịch bệnh này xuất hiện, thì lập tức mọi gà vịt, chim chóc đều bị thu gom và đem chôn hay đem đốt trong đường bán kính ba cây số. Chính vì thế, gã ghi nhận được mẩu truyện “Tiếng gọi của con chim sáo” của tác giả Bích Ngân, đăng trên báo báo “Tuổi Trẻ Chủ Nhật”, số 1065 ra ngày 08.02.2004, đại khái như thế này:

Sau nhiều năm tháng vừa học vừa làm, hai vợ chồng trẻ dốc tất cả vốn liếng mới thành lập được một trại gà nho nhỏ. Khi trại gà vừa mới ra lò thì anh chồng đột ngột qua đời. Trại gà liên tục phát triển vừa đúng một năm, thì xảy ra dịch cúm. Thế là toàn bộ số gà nuôi trong trại đều bị cán bộ đến bắt và mang đi chôn, chỉ còn lại một con chim sáo.

Hôm ấy, chị vợ tổ chức lễ giỗ đầy năm cho anh chồng và cũng để nhớ tới đàn gà thân thương của mình đã bị ngỏm củ tỏi. Đang lúc thắp nén nhang tưởng niệm, chị vợ bỗng giật mình vì nghe thấy tiếng nói rất quen thuộc:

- Hằng ơi, anh yêu em lắm.

Đó là tiếng nói của con chim sáo. Tiếng nói ấy khiến chị vợ cảm thấy như  hồn anh chồng đã nhập vào nó. Thế nhưng cùng lúc đó, anh cán bộ thú y xuất hiện và bảo cho chị hay:

- Cả chim sáo cũng bị hủy diệt.

Suốt đêm, chị vợ trằn trọc không tài nào ngủ nổi. Cuối cùng, chị vợ quyết định mở lồng trả tự do cho con chim sáo. Và khi anh cán bộ đến, chị  nói:

- Đêm hôm qua, con chim sáo nhà tôi đã bị mèo vồ mất rồi.

Chị vừa dứt lời, thì một giọng nói vang lên :

- Hằng ơi, anh yêu em lắm.

Thì ra đó vẫn là giọng nói của con chim sáo. Mặc dù được tự do, nhưng con chim sáo không nỡ rời xa chủ, nó bay vào kẹt tủ. Và bây giờ nó lên tiếng nói. Tiếng nói của nó là như một lời tố giác: Lạy ông tôi ở bụi này. Và anh cán bộ thú y chỉ cần thò tay ra, chụp lấy và nhét vào bao. Còn chị vợ thì đứng nhìn. Những giọt nước mắt nóng hổi rơi trên gò má lúc nào cũng chẳng hay biết.

Tiếp đến là dịch cúm H1N1, được người miền Bắc gọi là cúm lợn, người miền Nam gọi là cúm heo, còn những người thích đùa thì gọi là “cúm Trư Bát Giới”. Đây là một loại bệnh hô hấp thường xảy ra cho các đàn heo. Thế nhưng, virus bệnh này đã biến thể thành dạng lây từ người sang người và hiện nay vẫn còn đang tiến mau, tiến mạnh và tiến vững chắc trên toàn cõi địa cầu, để rồi thực sự bùng phát thành một cơn đại dịch, khiến cho tổ chức Y tế Thế giới nâng mức báo động lên cấp 6, tức là cấp cao nhất.

Thực vậy, dịch cúm này xuất phát từ Mễ, lây qua Mỹ, Canada và hiện giờ đã có mặt tại nhiều nước trên thế giới. Chính phủ Mễ cho biết hơn 60 người đã bị thiệt mạng và trên 1000 người bị nghi là đã bị nhiễm bệnh. Riêng tại Việt Nam cũng đã có tới hơn 500 người mắc phải, nhưng hình như chưa có ai bị đi tàu suốt sang thế giới bên kia!

Không biết tác giả nào đó đã viết bài “Phở là phương thuốc trị cúm độc quyền của người Việt Nam”. Gã đã đọc và lấy làm thích thú. Theo tác giả, thì thuốc điều trị bệnh cúm lợn hiện nay là Tamiflu và thành phần chính để chế tạo Tamiflu là axit shikimic. Axit này được chiết xuất từ bông đại hồi.

Cây đại hồi, còn được gọi là đại hồi hương, hay bát giác hồi hương, hay chỉ đơn giản là cây hồi, một loại cây gia vị có mù thơm, thu được từ vỏ quả hình sao. Loại cây này mọc ở bên Tàu và ở vùng đông bắc Việt Nam, như Cao Bằng, Lạng Sơn…Quả của nó được thu hoạch ngay trước khi chín và được dùng trong ẩm thực của người Tàu và Việt. Chẳng hạn trong ngũ vị hương cũng có đại hồi.

Các nước Âu Mỹ không trồng được đại hồi, cho nên khi điều chế Tamiflu, họ phải trải qua nhiều giai đoạn tong hợp mới có được axit shikimic. Trong khi đó người Tàu chiết xuất trực tiếp từ bông đại hồi, nên bây giờ số lượng dữ trữ Tamiflu của họ đủ để cung ứng cho trên một tỷ dân Tàu, nếu dịch cúm này xảy ra trên đất nước họ. Còn người Việt Nam chúng ta từ lâu đã có một cách tổng hợp axit shikimic vừa nhanh chóng, lại vừa ngon bổ rẻ, mà không cần tới mấy ông dược sĩ hay mấy nhà khoa học, mà chỉ cần tới bàn tay của bà nội trợ để nấu mon…phở bò.

Sở dĩ như vậy là vì đại hồi cũng là một thành phần gia vị được sử dụng trong việc nấu nước dùng cho món phở của người Việt Nam chúng ta. Chính vì thế, ăn phở đã trở thành một phương thế đặc biệt của người Viet Nam để trị liệu bệnh cúm hiện nay.

Như chúng ta đã biết: Phở là một món ăn truyền thống và đặc trưng nhất cho ẩm thực Việt Nam. Thành phần chính của phở là bánh phở và nước dùng hay nước lèo theo cách gọi của người miền Nam, cùng với thịt bò hay gà cắt lát mỏng. Ngoài ra, còn kèm theo các gia vị như tương, tiêu, chanh, ớt, nước mắm… Phở thường là phở bò và phở gà. Tại một số nơi ở miền bắc, còn có thêm phở lợn, phở vịt, phở ngan…nhưng xem ra không mấy ăn khách.

Nước lèo nói chung được làm bằng việc hầm xương bò hay xương gà và gia vị bao gồm quế, hồi, gừng, thảo qua, đinh hương, hạt mùi. Miền bắc thường sử dụng nhiều bột ngọt, còn được gọi là mì chính…Bánh phở theo truyền thống được làm từ bột gạo, tráng thành tấm mỏng, rồi cắt thành sợi. Phở thường được dùng làm món điểm tâm ban sáng, hay món ăn ban tối, ít thấy nơi bán phở thường trực suốt ngày.

Một số giả thuyết cho rằng phở có lẽ xuất hiện đầu tiên tại Nam Định, nhưng Hà Nội mới là nơi làm cho món ăn này nổi tiếng như ngày nay. Nhờ cuộc di cư năm 1954, phở được liên tục phát triển ở miền Nam với nhiều khác biệt. Chẳng hạn tại nhiều nơi và nhất là tại Saigon, thịt bò trong phở thường được bán theo năm kiểu: tái, chín, nạm, gầu, gân tuỳ theo ý thích của khách. Ngoài ra còn có một chén nước béo để riêng, nếu khách muốn, đồng thời còn phải có chanh, ớt, ngò gai, húng quế và giá, đôi khi còn có cả hành tây cắt lát mỏng. Sau này, một sốt tiệm còn thêm ngò ôm, húng láng, hành lá dài và các loại rau thơm khác. Một số tiệm phở nổi tiếng ở Saigon trước năm 1975 mà nay vẫn còn như phở Tàu Bay, Phở Hoà, phở Quyền…Riêng phở gà thì đóng đô ở đường Hiền Vương. Và hiện nay, nhờ việc định cư của người Việt tại nước ngoài, phở đã có mặt ở nhiều nơi trên thế giới.

Có giả thuyết cho rằng phở bắt nguồn từ phương pháp nấu món thịt hầm của Pháp, được gọi là “pot-au-feu”, đọc thành “pô tô phơ”. Có giả thuyết cho rằng phở chịu ảnh hưởng của Tàu, vì khá giống với món hoành thánh. Tuy nhiên bánh phở cùng với những gia vị và rau thơm, nhất là với cách thức chế biến, phở đã mang một tính cách đặc biệt của ẩm thực Việt Nam, nên chắc chắn phải có nguồn gốc từ Việt Nam. Do đó gã xin nhắc lại: trong hoàn cảnh H1N1 bùng phát,  thì ăn phở chính là một phương thế đặc biệt của người Việt Nam để trị liệu bệnh cúm.

Đọc tới đây, hẳn rằng có nhiều anh chồng cười thầm trong bụng, bởi vì chữ “phở” hiện nay vốn được bàn dân thiên hạ hiểu là bồ nhí, còn “cơm” được hiểu là “bà xã”. Trên trang báo này, gã đã từng bàn đến cơm và phở, chả và nem. Hôm nay, với những tài liệu mới, gã xin trở lại đề tài này một lần nữa: Phở và cơm.

Xét về “thành phần cấu tạo”, thì cơm và phở rất giống nhau, vì được làm chủ yếu từ gạo tẻ. Phở có thịt có hành, thì cơm cũng có, đã vậy cơm còn an toàn hơn vì không bao giờ bị trộn hàn the và nhất là giá rẻ hơn mà lại no lâu hơn.

Dân gian gọi vợ là cơm và bồ nhí là phở, xét theo khoa học, thì cách gọi này chẳng xúc phạm đến ai, vì cả hai “món” vừa có thành phần chế biến giống nhau, nhưng lại vừa có những giá trị độc lập khác nhau, chẳng cái nào hơn cái nào.

Nhưng về phương diện thực tế, rõ ràng phở luôn tượng trưng cho sự bay bướm, mặc dù nhiều lúc “phở” xấu hoặc già hơn cơm, nhưng vẫn chiếm được ưu thế của mình trong chuyện tình ái lăng nhăng. Lê Anh Vũ trên báo “Phụ nữ Chủ nhật” đã diễn tả như sau:

- Cơm khoe: tớ nhất trên đời,

  Phở rằng: tớ cũng tuyệt vời đấy nha.

  Cơm là từ gạo mà ra,

  Phở cũng từ gạo, nhưng mà…ngon hơn.

Nói theo kiểu triết học, thì cái ngon của cơm thuộc vào “bản thể”, còn cai ngon của phở thuộc vào “tuỳ thể”:

- Cơm nhờ hương gạo mà thơm,

  Phở nhiều “nguyên liệu” nên thơm đủ mùi.

Một tác giả khác, mà gã không nhớ tên, đã đưa ra những lý do mang tích hài hước, để giải thích vì sao do đờn ông lại thích phở, mà vẫn không bỏ được cơm:

Lý do thứ nhất, đó là và vì đờn ông ít được ăn phở, nhất là phở đặc biệt, thì phải có tiền có xe, trong khi cơm ngày nào cũng được ăn và phải ăn:

- Cơm ăn hàng bữa nên quen,

  Phở thì thỉnh thoảng nên thèm đương nhiên.

Lý do thứ hai, đó là vì đờn ông dùng cơm ở nhà, trong bầu khí quen thuộc ấm áp đến độ nhàm chán, còn dùng phở ở xa nhà, trang trí lạ mắt, đôi khi còn đẹp mắt và có cả âm nhạc phụ hoạ.

Lý do thứ ba, đó là vì khi đã no, thì rất khó ăn thêm cơm, còn đối với phở, no tới mấy cũng có thể làm thêm vài tô:

- Cơm ăn no bụng là thôi,

  Phở vừa no, lại muốn đòi ăn thêm.

Lý do thứ bốn, đó là khi ăn phở, ta có thể dễ dàng đòi thêm tí hành, tí bánh hay tí ớt cho thêm phần đậm đà. Còn khi ăn cơm, thì có gì xơi nấy, yêu sách lôi thôi còn bị mắng, hay bị gắt gỏng: không ăn thì thôi.

Lý do thứ năm, đó là khi ăn phở xong, có thể đứng dậy, đi ngang hoặc ngồi và nằm một chút. Còn khi ăn cơm xong, có nhiều khả năng phải thu dọn và rửa chén bát.

Lý do thứ sáu, đó là phở thì không quán nào giống quán nào, thậm chí không tô nào giống tô nao. Còn cơm thì bao nhiêu năm rồi cũng vẫn thế, chỉ có nguội hơn mà thôi.

Lý do thứ sáu, đó là phở có thể được ăn chung với bạn bè, còn cơm thì rất ít, phần lớn là ăn chung với…bà nấu cơm.

Lý do thứ bảy, đó là phở tuy cùng một chỗ, nhưng có thể yêu cầu tái, chín, nạm, gầu, gân…tuỳ thực khách quyết định. Còn cơm thì hoàn toàn do mụ nấu quyết định, không được đòi hỏi lôi thôi.

Lý do thứ tám, đó là nếu ăn phở nhiều tới mức trở thành khách quen, thì có thể ăn…nợ, ăn ghi sổ. Chứ còn cơm, nếu không đưa tiền lương, sẽ bị cúp ngay.

Và sau cùng lý do thứ tám, đó là bỏ tiệm phở này, ta có thể dễ dàng tìm tiệm phở khác, chứ còn bỏ cơm, thì quả thật lôi thôi to và phức tạp vô cùng,

Chính vì những lý do trên, mà có anh chồng thèm phở và lại cứ muốn ăn thêm mãi, nên đã ẵm tới 10 bà vợ, như bài thơ của một anh bạn bên Đan Mạch đã gửi về cho gã:

- Vợ một dành để nấu ăn,

  Vợ hai tôi để quét sân lau nhà.

  Vợ ba da dẻ nõn nà,

  Nên đành cất kỹ để mà tôi…ôm.

  Vợ bốn tội nghiệp ốm ròm,

  Thôi thì coi sóc chăm nom vịt gà.

  Vợ năm có tính thật thà,

  Đi làm mang “chéc” về nhà bỏ băng.

  Vợ bảy giặt giũ chiếu mền,

  Đấm lưng cạo gió khi mình ốm đau.

  Vợ tám xinh đẹp làm sao,

  Để đi dạo phố hỏi chào bà con.

  Vợ chín có tính hát đàn,

  Thôi thì ca múa nhịp nhàng tôi nghe.

  Vợ mười làm lụng sau hè,

  Trồng rau, bửa củi chẳng nề chuyện chi.

  Mười vợ tôi vẫn cười khì,

  Kiếm thêm bà nữa lỡ khi tối trời,

  Mười vợ sướng lắm ai ơi!

  Không tin làm thử…Ối giời khoẻ re.

Gã nghĩ rằng đây chỉ là một bài thơ bỡn cợt, chứ lam sao mà có được trong thực tế cuộc đời.

Hơn thế nữa cũng vì trọng phở khinh cơm mà có những anh chồng đối xử thật bất công với bà xã, theo kiểu:

- Bồ là phở nóng tuyệt vời,

  Vợ là cơm nguội đáy nồi hẩm hiu.

  Bồ là nơi tỏ lời yêu,

  Vợ là nơi trút bao nhiêu bực mình.

  Bồ là rượu ngọt trong bình,

  Vợ là nước ở ao đình nhạt pheo.

  Nhìn bồ đôi mắt trong veo,

  Vợ thì đôi mắt trong veo chẳng thèm.

  Bồ tiêu thì chẳng tiếc tiền,

  Vợ tieu một cắc thì liền kêu hoang.

  Bồ hờn thì phải xuống thang,

  Vợ hờn bị mắng, bị phang thêm liền.

  Một khi túi hãy còn tiền,

  Thì bồ thắm thiết kề liền bên anh.

  Một mai hết sạch sành sanh,

  Bồ đi, vợ đón anh về nhà ta…

Tuy nhiên, như gã vừa mới xác quyết ở trên: cái ngon của cơm thuộc vào “bản thể”, còn cái ngon của phở thuộc vào “tuỳ thể”. Vì thế, phở nay còn mai mất, nay xuất hiện mai biến đi, nhưng cơm thì bền vững đến muôn ngàn đời:

- Một mai hết sạch sành sanh,

  Bồ đi, vợ đón mời anh đi về.

  Bồ là lều, vợ là nhà,

  Gió to lều sụp, mái nhà còn kia.

  Vợ là cơm nguội của ta,

  Nhưng là đặc sản thằng cha láng giềng!

Nếu cơm ngon tự bản thể của nó, thì nơi người vợ cũng có nhiều ưu điểm, nhiều cái hay và cái tốt, nhưng chỉ vì u mê tăm tối và bị dục vọng làm mờ cặp mắt, khiến anh chồng chẳng còn nhìn thấy. Vì thế, cần phải phục hồi giá trị cho cơm, cũng như cho chị vợ của mình:

- Cơm chân chất, chẳng đẩy đưa,

  Phở trang trí đẹp, dễ lừa mắt ai.

  Cơm ngon chẳng sợ tiếng tai,

  Phở tuy đẹp đẽ nhưng đầy hoài nghi.

  Cơm quen chẳng ngại ngần gì,

  Phở ăn dăm bữa tức thì ngán thôi.

  Phụ “cơm”, chớ phụ người ơi!

  Cho dù thua “phở”, nhưng thời…an tâm. (Lê Anh Vũ)

Cho nên hỡi nhưng anh chồng, chớ có dại mà đi hoang, đèo bòng bồ nhí, thèm phở bỏ cơm, chi bằng hãy tỉnh ngộ:

- Ta về ta tắm ao ta,

  Dầu trong dầu đục ao nhà vẫn hơn.

Gã Siêu   gasieu@gmail.com

 

VỀ MỤC LỤC

- Mọi liên lạc: Ghi danh, thay đổi địa chỉ, đóng góp ý kiến, bài vở..., xin gởi về địa chỉ

giaosivietnam@gmail.com

- Những nội dung sẽ được đề cao và chú ý bao gồm:

Trao đổi, chia sẻ những kinh nghiệm thực tế trong việc mục vụ của Giáo sĩ;  Những tài liệu của Giáo hội hoặc của các Tác giả nhằm mục đích Thăng tiến đời sống Giáo sĩ; Cổ võ ơn gọi Linh mục; Người Giáo dân tham gia công việc “Trợ lực Giáo sĩ” bằng đời sống cầu nguyện và cộng tác trong mọi lãnh vực; Mỗi  Giáo dân phải là những “Linh mục” không có chức Thánh; Đối thoại trong tinh thần Bác ái giữa Giáo dân và Giáo sĩ… (Truyền giáo hay xây pháo đài?)

- Quy vị cũng có thể tham khảo những số báo đã phát hành tại

www.conggiaovietnam.net

Rất mong được sự cộng tác, hưởng ứng của tất cả Quí vị

Xin chân thành cám ơn tất cả anh chị em đã sẵn lòng cộng tác với chúng tôi bằng nhiều cách thế khác nhau.

TM. Đặc San Giáo Sĩ Việt Nam

Lm. Luca Phạm Quốc Sử  USA

 

 

Duoc chon giua loai nguoi va cho loai nguoi; GIAO SI: Xuat phat tu giao dan, hien dien vi giao dan va cay dua vao giao dan, de cung lam VINH DANH THIEN CHUA

*************