Cổ Võ Việc Phát
triển Văn Hóa |
Hiến Chế Mục Vụ
Về Giáo Hội Trong Thế Giới
Ngày Nay
Gaudium Et Spes
Prepared for
Internet by Vietnamese Missionaries in Asia
Phần Thứ Hai
Một Số Vấn Ðề Khẩn
Thiết
Cổ Võ Việc Phát
triển Văn Hóa
65*
53.
Nhập đề. Ðặc điểm của một nhân vị là chỉ đạt tới nhân tính đích
thực và trọn vẹn nhờ văn hóa, nghĩa là nhờ việc trau giồi những ưu phẩm và giá
trị của bản tính. Vì vậy, mỗi khi đề cập đến cuộc sống nhân loại, bản tính và
văn hóa liên kết với nhau hết sức chặt chẽ.
Theo nghĩa tổng quát, chữ "văn hóa"
chỉ tất cả những gì con người dùng để trao dồi và phát triển các năng khiếu đa
diện của tâm hồn và thể xác; cố gắng chế ngự cả trái đất bằng trí thức và lao
động; làm cho đời sống xã hội, đời sống gia đình cũng như đời sống chính trị trở
thành nhân đạo hơn, nhờ sự tiến bộ trong các tập tục và định chế; sau hết, diễn
tả, thông truyền và bảo tồn trong các công trình của mình, những kinh nghiệm
tinh thần và hoài bão lớn lao của các thời đại, để giúp cho nhiều người và toàn
thể nhân loại tiến bộ hơn.
Vì vậy, văn hóa nhân loại thiết yếu
mang tính cách lịch sử và xã hội, và chữ "văn hóa" thường mặc thêm một ý nghĩa
xã hội học cũng như dân chủng học. Chính vì ý nghĩa này mà người ta nói đến sự
đa tạp của các nền văn hóa. Thực vậy, có nhiều cách xử dụng sự vật, nhiều cách
làm việc và diễn tả tư tưởng, nhiều cách phụng tự và tạo nên thuần phong mỹ tục,
nhiều cách thiết lập luật lệ và định chế pháp lý, nhiều cách phát triển khoa
học, nghệ thuật và trau giồi thẩm mỹ, nên mới phát sinh nhiều cách chung sống và
nhiều hình thức hòa hợp các giá trị của cuộc sống. Như thế, từ các định chế lưu
truyền, hình thành một di sản riêng cho mỗi cộng đoàn nhân loại. Cũng do cách
thức ấy mà hình thành một môi trường lịch sử nhất định của con người, bất cứ dân
tộc nào hay thời đại nào, để từ môi trường đó con người rút ra những giá trị hầu
thăng tiến nền văn minh nhân loại.
Ðoạn 1:
Tình Trạng Văn Hóa Trong Thế Giới Ngày Nay
66*
54.
Những lối sống mới. Tình trạng sinh sống của con người hiện đại
về phương diện xã hội và văn hóa đã biến đổi sâu đậm, khiến con người có thể nói
đến một kỷ nguyên mới của lịch sử nhân loại 1.
Từ đó, mở ra những con đường mới để hoàn bị và bành trướng văn hóa rộng rãi hơn.
Những con đường này đã được khai phá nhờ sự lớn mạnh của các ngành khoa học
thiên nhiên, nhân văn và xã hội, nhờ sự phát triển kỹ thuật cũng như sự tiến bộ
trong công cuộc khám phá và khéo léo tổ chức những phương tiện giúp con người
liên lạc với nhau. Bởi đó, nền văn hóa hiện đại mang những đặc điểm này: các
khoa học mệnh danh là khoa học chính xác phát triển tối đa óc phê bình; những
nghiên cứu mới nhất về tâm lý học cắt nghĩa hoạt động của con người sâu xa hơn;
các bộ môn sử học góp phần lớn lao giúp con người nhận định sự vật dưới khía
cạnh biến đổi và tiến hóa; tập tục và cách sống ngày càng đồng nhất; hiện tượng
kỹ nghệ và đô thị hóa cộng với những nguyên nhân khác đang phát huy đời sống tập
thể tạo nên những hình thức văn hóa mới (văn hóa đại chúng), từ đó, phát sinh
những cách cảm nghĩ, hành động và giải trí mới. Ðồng thời, sự phát triển trao
đổi giữa các dân tộc và các tập thể khác nhau cũng mở rộng hơn cho mọi người và
mỗi người các kho tàng của những hình thức văn hóa khác nhau. Và cứ thế, sẽ dần
dần xuất hiện một hình thức văn hóa nhân loại đại đồng hơn, nhờ đó, nếu càng tôn
trọng những điểm của các nền văn hóa khác nhau, càng diễn đạt và tiến gần đến sự
hiệp nhất nhân loại hơn.
55. Con
người, tác giả của văn hóa. Càng ngày càng có nhiều người, nam
cũng như nữ, thuộc bất cứ tập thể hay quốc gia nào, ý thức được chính họ và
những người xây dựng và sáng tạo văn hóa của cộng đoàn mình. Trên toàn thế giới,
ngày càng gia tăng ý thức tự trị cũng như trách nhiệm. Ðó là điều rất cần để
nhân loại trưởng thành trên bình diện tinh thần và luân lý. Ðó là điều sẽ xuất
hiện rõ ràng hơn, nếu chúng ta quan tâm đến sự thống nhất thế giới và đến bổn
phận chúng ta là phải kiến tạo một thế giới tốt đẹp hơn trong chân lý và công
bằng. Do đó, chúng ta là chứng nhân của sự hình thành một nền nhân bản mới trong
đó con người được định nghĩa trước hết tùy theo trách nhiệm của mình đối với anh
em và đối với lịch sử.
56. Trở
ngại và bổn phận. Trong những hoàn cảnh ấy, không còn gì đáng
ngạc nhiên nếu con người vì cảm thức được trách nhiệm của mình trong việc phát
triển văn hóa, nên nuôi những hoài bão cao xa, đồng thời cũng lo âu nhìn đến
muôn ngàn mâu thuẫn trước mắt mình phải giải quyết:
Phải làm gì để sự trao đổi văn hóa
phồn thịnh kia tạo được sự đối thoại đích thực và kiến hiệu giữa các tập thể và
các quốc gia khác nhau mà không xáo trộn cuộc sống của các cộng đoàn, không phá
hoại sự khôn ngoan của tiền nhân cũng như không làm tổn thương những đặc tính
riêng của các dân tộc? 67*
Phải làm thế nào để phát huy sự
truyền bá và sức linh động của nền văn hóa mới, mà không hủy diệt lòng trung
thành gắn bó với di sản truyền thống? 68* Ðó
là vấn đề đặc biệt khẩn cấp khi phải dung hòa văn hóa phát sinh từ sự tiến bộ
lớn lao của khoa học và kỹ thuật với văn hóa được nuôi dưỡng bằng nền học vấn cổ
điển theo những truyền thống khác nhau.
Làm sao có thể dung hòa sự phân tán
rất nhanh chóng và ngày càng gia tăng của các bộ môn chuyên biệt với nhu cầu
tổng hợp các bộ môn ấy và nhu cầu duy trì nơi con người khả năng chiêm ngưỡng và
thán phục là những khả năng giúp con người đạt tới sự khôn ngoan?
Phải làm gì để mọi người trên thế
giới cùng được hưởng ích lợi của văn hóa trong khi kiến thức của các nhà thông
thái luôn cao siêu và phức tạp hơn?
Sau hết, phải làm sao để vừa công
nhận sự tự trị mà văn hóa đòi hỏi là chính đáng, vừa không rơi vào một nền nhân
bản trần tục thuần túy hoặc đối nghịch với tôn giáo nữa?
Ngày nay, phải phát triển văn hóa
nhân loại giữa bấy nhiêu mâu thuẫn, sao cho nhân vị được nẩy nở trọn vẹn, điều
hòa đồng thời giúp con người trong những bổn phận mà mọi người đều được kêu gọi
để chu toàn, nhất là những Kitô hữu liên kết huynh đệ trong gia đình nhân loại
duy nhất. 69*
Ðoạn 2: Một Vài
Nguyên Tắc Hướng Dẫn Việc Phát Triển Văn Hóa
57. Ðức
tin và văn hóa. Người Kitô hữu đang hành trình về quê trời phải
tìm kiếm và yêu thích những sự trên trời 2. Ðó
là điều chẳng những không bớt mà còn làm tăng bổn phận của họ là góp sức với mọi
người kiến tạo một thế giới nhân đạo hơn. Thực ra, mầu nhiệm của đức tin Kitô
giáo đã đem đến cho họ nhiều khích lệ và trợ lực quí giá để họ chu toàn bổn phận
ấy cách hăng say hơn và nhất là để họ khám phá được ý nghĩa trọn vẹn của công
việc họ làm. Nhờ đó, văn hóa nhân loại có được một địa vị cao cả trong ơn gọi
toàn diện của con người.
Thực vậy, khi cày cấy với hai bàn
tay hoặc với phương tiện kỹ thuật để trái đất nẩy sinh hoa quả và trở thành nơi
cư ngụ xứng đáng của toàn thể gia đình nhân loại, và khi tham dự cách ý thức vào
tập thể xã hội, con người đã tuân theo ý định của Thiên Chúa được tỏ bày ngay từ
thuở đầu là loài người phải chế ngự trái đất 3
và hoàn tất công cuộc tạo dựng, đồng thời con người phát triển được chính bản
thân; và cùng khi ấy con người tuân giữ giới răn quan trọng của Chúa Kitô là
hiến thân phục vụ anh em.
Hơn nữa, khi chuyên tâm học hỏi các
bộ môn triết học, sử học, toán học, vạn vật học và trau giồi nghệ thuật, con
người có thể góp phần lớn lao vào công cuộc thăng tiến gia đình nhân loại để đạt
tới những giá trị cao cả của chân, thiện, mỹ, và một phán đoán có giá trị phổ
quát. Nhờ đó, con người được soi chiếu rạng rỡ hơn, do Ðấng Khôn Ngoan kỳ diệu
đã có bên Chúa từ thuở đời đời, cùng Chúa an bài mọi sự, nô đùa trên trái đất và
vui sướng ở với con cái loài người 4.
Cũng nhờ đó mà tâm trí nhân loại
bớt nô lệ sự vật và có thể dễ dàng bay bổng để thờ phượng và chiêm ngưỡng Ðấng
Tạo Hóa. Hơn nữa, con người còn được ân sủng thúc đẩy để nhận ra Ngôi Lời Thiên
Chúa, Ðấng trước khi nên xác thể để cứu chuộc và kết thâu muôn loài nơi Người,
đã ở trong thế gian như "anh sáng thật... vốn hằng soi sáng mọi loài dương gian"
(Gio 1,9) 5.
Vì do phương pháp của chúng, khoa
học và kỹ thuật không thể xâm nhập cơ cấu sâu xa của sự vật, nên sự tiến bộ ngày
nay của chúng dĩ nhiên có thể đưa đến một thứ chủ thuyết duy hiện tượng và bất
khả tri, khi phương pháp khảo sát của những bộ môn này được đánh giá quá cao và
được coi như luật tối hậu để khám phá toàn thể chân lý. Cũng nguy hiểm hơn nữa
khi con người tin tưởng thái quá vào những phát minh hiện đại đến độ tự mãn và
không còn kiếm tìm những giá trị cao hơn 70*.
Tuy nhiên, những hậu quả tai hại ấy
không nhất thiết phát sinh từ nên văn hóa hiện đại, và chúng ta không được ỷ vào
đó mà phủ nhận những giá trị tích cực của nền văn hóa này. Trong số những giá
trị ấy phải kể đến: lòng yêu chuộng khoa học, thái độ nghiêm chỉnh trung thành
với chân lý trong các công trình nghiên cứu khoa học, nhu cầu làm việc tập thể
trong các toán chuyên viên, tình liên đới quốc tế, ý thức ngày càng mãnh liệt
nơi các nhà thông thái về trách nhiệm phải giúp đỡ và hơn nữa phải bảo vệ con
người, ý muốn đem lại cho mọi người tình trạng sinh sống thuận lợi hơn, nhất là
cho những người chịu thiệt thòi vì không được trao trách nhiệm và vì thiếu văn
hóa. Tất cả những giá trị này có thể góp phần chuẩn bị cho con người lãnh nhận
sứ điệp Phúc Âm. Và công cuộc chuẩn bị này có thể được thấm nhuần nhờ tình yêu
thần linh của Ðấng đã đến để cứu chuộc thế gian.
________
Chú thích:
65*
Văn hóa giúp con người phát triển (số 53a), vậy văn hóa là thế nào? (b). Có thể
có nhiều hình thức theo lịch sử và xã hội cũng như theo xã hội học và nhân chủng
học (c).
1) Thực trạng của văn hóa hiện tại:
Văn hóa được đổi mới và quốc tế hóa do ảnh hưởng khoa học gây nên (số 54). Ðồng
thời con người ý thức về quyền tự trị và về trách nhiệm trong lãnh vực văn hóa
(số 55).
Ðàng khác con người cũng nhận thấy
nhiều xung đột (số 56a); giữa văn hóa do ảnh hưởng khoa học gây nên (số 54).
Ðồng thời con người ý thức về quyền tự trị và về trách nhiệm trong lãnh vực văn
hóa (số 55).
Ðàng khác con người cũng nhận thấy
nhiều xung đột (số 56a); giữa văn hóa mới và nếp sống cũ của các cộng đoàn (b),
giữa sự phát triển và thông truyền (c), giữa sự học biết càng ngày càng nhiều và
quan niệm tổng quát cần thiết (d), giữa văn hóa ngày một phức tạp và việc quần
chúng phải tham dự vào văn hóa (e), giữa quyền tự trị và đòi hỏi tôn giáo (f),
dù vậy văn hóa phải giúp con người lớn lên về mọi phương diện (g).
2) Nguyên tắc để phát triển văn
hóa:
A) Ðức tin và văn hóa: Ðức tin giúp
ta phát triển văn hóa (số 57a); vì khiến ta tự hoàn thiện hóa và phục vụ đồng
loại (b), vì cổ võ sự chân, thiện, mỹ và giúp ta hiểu vũ trụ hơn (c). Văn hóa
giúp ta thờ phượng Chúa và đón nhận đức tin (d). Ðàng khác tinh thần khoa học
quá đáng có thể nguy hiểm (e). Nhưng ta không vì thế mà phủ nhận các giá trị của
khoa học (f).
B) Phúc Âm và văn hóa: Chúa đã dùng
văn hóa của dân Do thái để tự tỏ mình ra (số 58a). Giáo Hội đã dùng các nền văn
hóa khác nhau để loan truyền Phúc Âm (b), và khi tiếp xúc với tất cả các nền văn
hóa ấy thì đã mưu ích cho nó cũng như cho mình (c). Những lợi ích Phúc Âm mang
lại (d).
C) Ðiều kiện giúp văn hóa phát
triển để mưu ích cho con người biết chiêm ngưỡng và phán đoán (số 59a) là văn
hóa phải hưởng thụ tự do (b). Giáo hội xác nhận quyền tự do văn hóa (c). Tự do
nghiên cứu, tự do tư tưởng và phát biểu ý kiến, tự do thông tri (d). Vai trò của
chính quyền (e).
3) Nhiệm vụ của Kitô hữu: Mọi người
phải được hưởng thụ văn hóa (số 60a), phải có thể vào các Trường Cao Ðẳng (b).
Và mỗi người cũng có nhiệm vụ về văn hóa; để lập nên điều kiện thuận tiện cho
mọi người, để giúp phụ nữ đóng một vai trò trong xã hội (c).
4) Giáo dục là cần thiết: Phải đề
cao nhân vị (số 61a) và sứ mệnh gia đình (b). Việc sử dụng phương tiện truyền
thông xã hội cũng như việc sử dụng các giờ rảnh đều quan trọng (c). Cần phải tìm
hiểu ý nghĩa chính xác của văn hóa (d).
5) Vai trò của Giáo Hội: Có thể rất
khó khăn khi phát triển văn hóa và đồng thời gìn giữ tinh thần Kitô giáo (số
62a). Phần đóng góp của các nhà thần học (b), văn chương và mỹ thuật (c). Lập
trường của Giáo Hội đối với nhà văn và nghệ sĩ (d). Phải tìm hiểu thời đại và
điều hòa văn hóa với giáo lý (e), đó là việc riêng của các nhà thần học (f).
66*
Trong phần này Công Ðồng nói về một thứ văn hóa "Âu Mỹ", của các quốc gia tiền
tiến. Nhưng các quốc gia đang mở mang cũng hướng về thứ văn hóa giống như thế
nhờ sự kỹ nghệ hóa; đồng thời cũng nhờ người trí thức trong các quốc gia đang mở
mang hoặc đã theo học trong các học đường Âu Mỹ, hoặc đã theo học những chương
trình Tây Phương tại các Viện Ðại Học của nước mình. Bởi thế, ước gì kinh nghiệm
của những quốc gia Âu Mỹ có thể giúp đỡ các quốc gia đang mở mang để tránh được
những khuyết điểm mà văn hóa Tây Phương đã không tránh khỏi.
1
Xem Phần Nhập Ðề của Hiến Chế này, số 4-10.
67*
Giới trí thức và lãnh đạo ở các quốc gia đang mở mang có nhiệm vụ rất lớn lao và
khó nhọc về vấn đề này.
68*
Vấn đề này không chỉ có trong các quốc gia đang mở mang mà thôi. Các phong trào
chống đối bên Âu Mỹ cũng đe dọa những giá trị truyền thống.
69*
Một cách tóm tắt và thực tế, trong việc phát triển văn hóa chúng ta phải làm sao
để điều hòa mọi giá trị: để duy trì sự quân bình giữa các điều cũ và điều mới,
giữa lý trí và tình cảm, giữa trí óc khoa học và trí óc chiêm ngưỡng thiên
nhiên, thưởng thức văn chương và mỹ thuật. Phải làm sao để giúp đỡ mỗi cá nhân
và các dân tộc phát triển song song: nếu không, nhiều hình thức nô lệ mới có thể
xuất hiện: chẳng hạn sự nô lệ kinh tế và văn hóa của cả một quốc gia.
2
Xem Col 3,1-2.
3
Xem Stk 1, 28.
4
Xem Cn 8, 30-31.
5
Xem T. Ireneô, Adv Haer. III, 11, 8: x.b. Sagnard, trg 200; Xem n.v.t., 16, 6:
trg 290-292; 21, 10-22: trg 370-372; 22, 3: trg 378; v.v...
70*
Hiện tượng luận chủ trương rằng ta phải đánh giá các hiện tượng mà không cần tìm
đến những thực thể siêu việt. Ví dụ: trong cơn khủng hoảng đối với quyền bính
trong Giáo Hội hay trong xã hội, chúng ta không cần dựa trên bất cứ nguyên tắc
lý thuyết nào, mà phải chấp nhận những thực tại mới, thích hợp với các hiện
tượng xảy ra. "Bất khả tri luận" chủ trương rằng trí con người thiếu khả năng để
hiểu biết các thực tại siêu hình. Nhiều khi đó chỉ là một lập trường trong thực
tế. Khoa học có thể đưa tới chủ trương ấy, không phải vì bản tính đòi hỏi như
vậy, nhưng chỉ vì người ta muốn xét tới tất cả mọi vấn đề dựa trên những phương
pháp thí nghiệm và thực tế của khoa học.
|
VỀ MỤC LỤC |
|
MỌI NGƯỜI, MỌI VIỆC TRONG
GIÁO HỘI PHẢI HƯỚNG ĐẾN MỤC ĐÍCH TRUYỀN GIÁO
|
Huấn từ của Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI tại Đại hội của Hội Giáo
hoàng Truyền giáo
Nguồn:
http://hdgmvietnam.org/moi-nguoi-moi-viec-trong-giao-hoi-phai-huong-den-muc-dich-truyen-giao/2919.57.7.aspx
WHĐ
(16.05.2011) – Vào lúc 11g45 trưa 14-05, tại phòng Clêmentinô
thuộc Điện Tông đồ thuộc Vatican, Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI đã
tiếp kiến các đại biểu tham dự Đại hội thường niên Hội Truyền
giáo của Tòa Thánh.
Sau đây là
toàn văn huấn từ của Đức Thánh Cha trong buổi tiếp kiếp:
Lời chào
Kính thưa Đức
Hồng y, chư huynh đệ thân mến trong chức giám mục và linh mục,
quý nam nữ tu sĩ thân mến,
Trước hết tôi
gửi lời chào thân ái đến Đức Tổng Giám mục Fernando Filoni, tân
Bộ trưởng Bộ Phúc âm hóa các dân tộc và hết lòng cảm ơn Đức Tổng
đã nhân danh các đại biểu vừa có những lời phát biểu dành cho
tôi. Nhân đây tôi cũng cầu chúc Đức Tổng gặt hái nhiều thành quả
trong sứ vụ mới. Đồng thời tôi cũng bày tỏ lòng biết ơn đối với
Đức Hồng y Ivan
Dias đã nêu gương quảng đại phục vụ tại Bộ Truyền giáo và Giáo
Hội khắp nơi trong những năm qua. Xin Chúa tiếp tục dùng ánh
sáng Chúa hướng dẫn hai người thợ trung tín trong vườn nho của
Chúa. Xin chào Đức Tổng Giám mục Savio Hàn Đại Huy, Phó Tổng Thư
ký của Bộ, Đức Tổng Giám mục Piergiuseppe Vacchelli, Chủ tịch
Hội Truyền Giáo của Tòa thánh, quý cộng sự viên của Bộ và Giám
đốc Hội Truyền giáo tại các quốc gia, đã từ các Giáo Hội tại
khắp nơi quy tụ về Rôma, tham dự Đại hội thường niên của Hội
đồng Thượng cấp của Hội. Xin nồng nhiệt chào mừng tất cả anh chị
em.
Thả những
mẻ lưới Tin Mừng ở vùng biển của lịch sử để đưa con người lên
đất liền của Thiên Chúa
Các bạn
thân mến, qua hoạt động truyền giáo năng động và việc cộng tác
với Dân Chúa, các bạn đã làm nổi bật “đối
với thời đại ngày nay cần phải củng cố cam kết dấn thân missio
ad gentes - truyền giáo cho các dân tộc”
(Tông huấn
Verbum Domini,
số 95), để công bố “niềm Hy vọng lớn lao”, loan báo về
“Vị Thiên Chúa
mang gương mặt con người đã yêu thương chúng ta đến cùng – yêu
thương từng con người và cả nhân loại”
(Thông điệp
Spe Salvi,
số 31). Trong thực tế, những vấn đề mới và những hình thái nô lệ
mới đang xuất hiện trong thời đại của chúng ta tại các quốc gia
được mệnh danh là đệ nhất thế giới, tuy thịnh vượng và giàu có
nhưng tương lai vẫn không chắc chắn, và cũng xuất hiện tại các
quốc gia mới nổi lên nhờ có lợi trong quá trình toàn cầu hóa,
nhưng rồi cuối cùng phải lãnh hậu quả là ngày càng tăng thêm số
người nghèo khổ, di cư và bị áp bức, phải sống cảnh tắt dần niềm
hy vọng.
Giáo Hội phải không ngừng đổi mới
cam kết dấn thân mang Chúa Kitô đến cho mọi người, mở rộng sứ
mệnh cứu thế để Nước Chúa ngự đến, Nước của công lý, tự do, hòa
bình và tình yêu. Biến đổi thế giới theo kế hoạch của Thiên Chúa
với sức mạnh đổi mới của Phúc âm “ngõ
hầu Thiên Chúa là tất cả trong mọi sự”
(1 Cr 15, 28) là nhiệm vụ của toàn thể Dân Chúa. Do đó, cần phải
tiếp tục công cuộc truyền giáo với lòng nhiệt thành được đổi
mới, hân hoan công bố Nước Thiên Chúa đã đến trong Chúa Kitô,
trong quyền năng của Chúa Thánh Thần để dẫn đưa mọi người tiến
đến sự tự do đích thực của con cái Chúa, ngược lại với mọi hình
thức nô lệ. Cần phải thả những mẻ lưới Tin Mừng ở vùng biển của
lịch sử để đưa con người lên đất liền của Thiên Chúa.
Mọi hoạt
động trong Giáo Hội đều mang chiều kích truyền giáo
“Nhiệm vụ rao
giảng Lời Chúa là bổn phận mọi môn đệ của Chúa Giêsu Kitô, do
Phép Thánh tẩy họ đã lãnh nhận mang lại”
(Verbum
Domini, số 94). Nhưng để
mạnh mẽ dấn thân cho việc truyền giáo, bản thân mỗi Kitô hữu
cũng như các cộng đoàn phải thực sự xác tín
“Lời Chúa là
sự thật giải thoát mà mọi người thời nào cũng cần đến”
(Verbum
Domini, số 95). Nếu xác tín
này không bắt rễ sâu trong đời sống của mình, chúng ta không thể
cảm nhận được niềm say mê và vẻ đẹp được loan báo Lời Chúa.
Trong thực tế, mọi Kitô hữu cần phải khẩn cấp làm việc xây dựng
Nước Chúa. Tất cả mọi sự trong Giáo Hội đều nhằm phục vụ công
cuộc Phúc âm hóa: từng lĩnh vực hoạt động của Giáo Hội và từng
người với những chức trách khác nhau đều được kêu gọi chu toàn
phận sự của mình. Mọi người đều phải tham gia
missio ad
gentes - sứ vụ truyền giáo
cho các dân tộc. Giám mục, linh mục, nam nữ tu sĩ, giáo dân. “Không
một tín hữu nào trong Chúa Kitô lại có thể thấy mình xa lạ với
trách nhiệm này, một trách nhiệm phát xuất từ việc thuộc về Thân
Thể Chúa Kitô theo cách bí tích”
(Verbum
Domini,
số 94). Do đó chúng ta phải đặc biệt lưu ý, để mọi lĩnh vực, từ
mục vụ, dạy giáo lý đến làm việc bác ái đều mang chiều kích
truyền giáo: Giáo Hội là truyền giáo.
Chỉ những
ai lắng nghe Lời nhập thể, kết hiệp mật thiết với Chúa Kitô, mới
có thể trở thành một nhà truyền giáo
Điều kiện cơ bản cho việc loan báo Tin
Mừng là các bạn hãy để cho Chúa Kitô hoàn toàn chiếm lĩnh mình.
Người là Ngôi Lời của Thiên Chúa nhập thể. Chỉ những ai lắng
nghe Lời nhập thể, kết hiệp mật thiết với Người, mới có thể trở
thành một nhà truyền giáo (x.
Verbum Domini
số 51, 91). Người loan truyền Tin Mừng phải đặt mình sống trong
tác động của Lời Chúa và được các Bí Tích dưỡng nuôi: sự tồn tại
và sứ vụ của nhà truyền giáo tùy thuộc vào chính mạch máu là các
Bí tích và Lời Chúa. Chỉ bằng cách bắt rễ sâu trong Chúa Kitô và
Lời của Người, mới có thể không rơi vào cám dỗ biến hoạt động
truyền giáo thành những chương trình thuần túy nhân loại, mang
tính xã hội, che khuất hoặc làm mất đi chiều kích siêu việt của
ơn cứu độ được Chúa mang lại trong Đức Kitô. Phải làm chứng và
loan báo Lời Chúa một cách rõ ràng, vì nếu không được thể hiện
bằng việc làm chứng, thì Lời Chúa sẽ khó lòng hiểu được và tin
được. Mặc dù chúng ta thường thấy mình bất toàn, nghèo nàn,
thiếu khả năng, nhưng chúng ta luôn vững lòng tin vào quyền năng
của Chúa, Đấng luôn đặt kho báu của Ngài trong “những bình sành
dễ vỡ” và chính Ngài đang hành động qua trung gian là chúng ta.
Sứ vụ truyền giáo hấp dẫn nhưng cũng đầy
thử thách: sứ vụ này đòi hỏi phải có lòng yêu mến đối với công
việc loan báo và làm chứng cho Tin Mừng, một tình yêu triệt để
đến mức có thể được minh chứng bằng tử đạo. Giáo Hội không thể
trốn tránh nhiệm vụ của mình là mang ánh sáng của Chúa Kitô, rao
giảng Tin Mừng Phúc Âm, dù có thể bị bách hại vì điều đó (x.
Verbum Domini,
số 95). Hoạt động truyền giáo góp phần làm nên chính đời sống
của Giáo Hội, cũng như đã là một phần cuộc đời Chúa Giêsu. Kitô
hữu không được sợ hãi ngay cả khi
“hiện nay, các
Kitô hữu là nhóm tôn giáo bị đàn áp nhiều nhất vì niềm tin của
mình”
(Thông điệp nhân Ngày Thế giới Hòa bình năm 2011, số 1). Thánh
Phaolô quả quyết:
“Tôi
thâm tín rằng sự chết hay sự sống, dù thiên thần hay thiên phủ,
dù là hiện tại hay tương lai, hay quyền năng, dù là chiều cao
hay chiều sâu, hay bất cứ tạo vật nào khác, không gì sẽ có thể
tách chúng ta ra khỏi lòng mến của Thiên Chúa trong Ðức Kitô
Giêsu Chúa chúng ta”
(Rm 8, 38-39).
Lời cảm
ơn
Các bạn thân mến, cảm ơn các bạn đã hoạt
động và tổ chức hoạt động truyền giáo tại các Giáo Hội địa
phương của mình, với tư cách là những Giám đốc Hội Giáo hoàng
Truyền giáo tại các quốc gia. Hội Giáo hoàng Truyền giáo được
các vị tiền nhiệm của tôi cổ võ, khuyến khích (x.
Ad Gentes,
số 38) là một phương cách đặc thù về phương diện hợp tác truyền
giáo và chia sẻ một cách hữu hiệu về nhân sự và tài lực giữa các
Giáo Hội địa phương. Cũng không thể quên sự giúp đỡ của Hội Giáo
hoàng Truyền giáo dành cho các Học viện Giáo hoàng tại Roma, là
nơi đào tạo các linh mục, tu sĩ và giáo dân đã được các Giám mục
tuyển chọn và gửi đến, cũng như sự giúp đỡ của Hội đối với các
Giáo Hội địa phương tại các miền truyền giáo. Công việc của các
bạn thật giá trị đối với công cuộc xây dựng Giáo Hội thành “ngôi
nhà chung” của toàn thể nhân loại.
Xin Chúa Thánh Thần, Đấng chủ trì
công cuộc truyền giáo, dẫn dắt và nâng đỡ chúng ta luôn mãi, nhờ
lời chuyển cầu của Mẹ Maria, Ngôi sao sáng dẫn đường truyền giáo
và là Nữ Vương các Thánh Tông đồ.
Tôi thân ái ban phép lành Tòa
Thánh cho các bạn và các nhân viên của Hội”.
(Theo
Agenzia Fides)
WHĐ |
VỀ MỤC LỤC |
|
EMMAUS, CON ĐƯỜNG HY VỌNG
|
Bác sĩ Nguyễn Tiến
Cảnh,MD
Chúng ta thường
nghe nói con đường Emmaus, nhưng ít khi suy nghĩ tường tận xem
con đường đó ám chỉ những gì. Dựa vào tông thư của ĐTC Biển Đức
XVI Spe Salvi facti summus (Trong Hy Vọng, chúng ta được cứu
rỗi), chúng ta thử tìm hiểu ý nghĩa câu chuyện hai môn đệ của
Chúa Kitô trên đường Emmaus. (Luca 24: 13-35).
Chuyện kể rằng, sau
ngày Sabbath, tức ba ngày sau khi Chúa Giêsu chịu chết trên thập
giá và chịu táng trong mồ, hai môn đệ quá buồn phiền chán nản
bèn rời Jerusalem đi về một làng nhỏ gần đó tên là Emmaus.
Trên đường đi, Chúa
sống lại đã hiện ra, cùng đi và trò chuyện với hai ông, nói về
cả kinh thánh, việc Chúa Giêsu chịu chết....nhưng hai ông đã
không nhận biết ra Chúa. Tin Mừng thánh Luca thuật lại rằng,
Chúa thấy hai môn đệ buồn nản, chẳng còn lòng dạ nào nữa, than
van rằng Chúa Giêsu, thày mình đã chịu cực hình, rồi chết và trở
về trời trong vinh quang của Người. Khi tới nơi, Chúa vào nhà
cùng với hai môn đệ, ngồi xuống bàn với họ, làm phép bánh và bẻ
bánh với họ….Lúc đó nhờ cung cách bẻ bánh, các ông mới nhận ra
Chúa chính là người lữ khách đồng hành đã nói chuyện với các ông
trên đường Emmaus. Nhưng lúc đó Chúa lại biến hình khỏi tầm nhìn
của các ông. Các ông quá ngỡ ngàng và kinh ngạc về sự hiện diện
của Chúa. Cử chỉ bẻ bánh, một dấu hiệu Chúa hiện diện.
Ngay lập tức sau
đó, hai ông liền trở về lại Jerusalem và kể tất cả những gì đã
xẩy ra mắt thấy tai nghe cho các môn đệ và bạn bè…
Địa danh làng
Emmaus thì không được xác định rõ ràng nó nằm ở đâu. Mặc dù có
nhiều giả thuyết khác nhau, nhưng chắc chắn nó cho chúng ta một
suy tư chiêm nghiệm rất phong phú đầy ý nghĩa. Emmaus có thể là
bất cứ chỗ nào. Con đường dẫn đến Emmaus tức là đoạn đường tượng
trưng cho cuộc hành trình đời sống của mỗi con người nói chung,
của mỗi một người tín hữu Kitô giáo nói riêng ở trần thế này.
Xuyên suốt đoạn đường hành trình này, Chúa Kitô phục sinh luôn
luôn là người bạn đường đồng hành với chúng ta. Người đốt lửa
tâm hồn chúng ta. Người nung ấm đức TIN, đức CẬY / HY VỌNG của
chúng ta và BẺ BÁNH HẰNG SỐNG cùng chúng ta mỗi ngày.
Trong câu chuyện
đàm thoại giữa hai tông đồ và người lữ hành xa lạ, thánh Luca đã
kể rằng một trong hai môn đệ đã nói: “Lúc đó
chúng tôi đă hy vọng….” (Luca 24: 21). Như vậy
có nghĩa là lúc đó chúng tôi ĐÃ TIN, chúng tôi ĐÃ
THEO, chúng tôi ĐÃ HY VỌNG….nhưng bây giờ, hiện nay thì những
hành động, cử chỉ, ý nghĩ đó tất cả đã qua đi rồi, không còn
nữa. Ngay cả Đức Giêsu thành Nazaret là một ngôn sứ đầy quyền
năng trong hành động cũng như lời nói đối với tất cả mọi người
cũng đã thất bại và chúng tôi thất vọng.
Thảm trạng này của
các môn đệ trên đường Emmaus phản ảnh tình trạng của nhiều người
trong chúng ta hiện nay. Đôi khi chúng ta đã đánh mất đức tin
của chúng ta. Chúng ta không còn tin tưởng vào Chúa, có cảm
tưởng Chúa bỏ rơi chúng ta vì những kinh nghiệm chua chát tiêu
cực trong cuộc sống, vì những thất bại trong mưu toan dự tính
của chúng ta.
Tình trạng buồn nản
và thất vọng của hai môn đệ này cũng tượng trưng cho các môn đệ
thời nay khi họ tự mình xa rời Jerusalem, nơi Chúa bị chết treo
trên thập giá và sống lại lúc mà họ không còn tin tưởng vào
quyền năng và sự hiện diên sống động của Chúa. Vấn đề ma quỉ,
đau khồ, cực hình, vấn đề đàn áp, bất công và lạm dụng, vấn đề
sợ hãi người này người kia, những người anh em nôi bộ của mình,
những người từ ngoài đến, từ những vùng xa xôi xâm nhập nôi bộ
mình, đe dọa khủng bố mình làm mình phải kinh sợ.
Nhưng con đường dẫn
đến Emmaus này chính là con đường HY VỌNG có thể giúp chúng ta
thanh tẩy tâm hồn, tin tưởng vào Chúa một cách hăng say mạnh mẽ
và trưởng thành hơn nhờ có Chúa đồng hành với chúng ta, cũng như
hai môn đệ trên đường Emmaus, vì được gặp Chúa đồng hành hướng
dẫn nên đã từ tâm trạng mất niềm tin vào Người và vấp ngã vì
thập giá (câu 18 , 21), các ông tìm lại được niềm tin nhờ thông
hiểu lời kinh thánh (câu 25-27 và 32). Chúng ta tin tưởng hy
vọng rằng Chúa sẽ giải thoát chúng ta khỏi ác quỉ, tội lỗi, đau
khổ, cực hình, sợ hãi và bất công..
Ngày nay, mỗi khi
chúng ta cầu nguyện, chuyện vãn với Chúa, lắng nghe lời Chúa là
chúng ta đang đi trên đường Emmaus. Mỗi khi chúng ta tham dự
thánh lễ là Chúa bẻ bánh và ban cho chúng ta bánh thánh tức
chính máu và thịt Chúa đã tu sửa con mắt Đức Tin chúng ta để
chúng ta nhìn mọi sự và mọi người bằng con mắt của Chúa, dưới
ánh sáng Tình Yêu của Chúa.
Với hành động đó,
qua sự tiếp cận với Chúa Kitô phục sinh, chúng ta ngày nay có
thể có được một đức tin thực sự và sâu đậm hơn, có thể nói, được
vun trồng bởi lửa phục sinh. Đức tin này rất vững mạnh, được
nuôi dưỡng không phải bởi tâm tư ý nghĩ của con người mà chính
bởi Lời Chúa và sự Hiện Diện của Chúa trong bí tích Thánh Thể.
Đoạn Phúc Âm kỳ
diệu này đã tóm gọn toàn bộ cấu trúc của thánh lễ Misa: Phần
đầu thánh lễ là phần nghe lời Chúa qua các đoạn sách thánh; phần
hai là phần nghi thức Thánh Thể và hiệp lễ / rước mình thánh
Chúa với sự hiện diện của chính Chúa Ktô trong bí tích Thịt và
Máu thánh Chúa.
Được nuôi dưỡng tại
bàn tiệc thánh lễ có hai phần như vậy, Giáo Hội luôn luôn được
xây dựng bồi đắp và tân trang cải tiến từng ngày một trong đức
TIN, đức CẬY / HY VỌNG và đức MẾN. Qua sự cầu bầu của Đức Trinh
Nữ Maria cực thánh, chúng ta mỗi người Kito hữu, mỗi cộng đoàn,
cộng đồng hãy cầu xin Chúa giúp chúng ta làm hồi sinh lại, tái
diễn quang cảnh hai môn đệ đi trên đường Emmaus hầu làm sống lại
ân sủng đã được gặp Chúa Kitô phục sinh.
Chúa đã sống lại,
đồng hành với các môn đệ của người, đốt cháy tâm hồn họ bằng lời
Chúa đối thoại, biểu hiện ra với họ qua cung cách bẻ bánh.
Trong Chúa Giêsu,
chúng ta thấy lòng can đảm hơn khả dĩ làm cho chính ta và những
người xung quanh ta mạnh mẽ lên nhờ gương sáng của Chúa Giêsu
Kito, môt tặng phẩm của cả nhân loại
Hãy đi và làm chứng
tá ân sủng về lòng thương xót của Chúa, nguồn HY VỌNG cho mỗi
người chúng ta và cho cả thế giới. Hãy đặt Chúa Kitô vào trung
tâm điểm đời sống của chúng ta. Hãy thiết lập lầu đài thân xác
và tâm hồn của chúng ta luôn luôn hiện diện trong Người.
Chúa đã phục sinh.
Hy vọng sự sống đời đời.
NTC
|
VỀ MỤC LỤC |
|
“ĐỀ
CỬ CÁC ƠN GỌI NƠI GIÁO HỘI ĐỊA PHƯƠNG” |
CHÚA NHẬT CHÚA CHIÊN LÀNH - Đại Hội Ơn Gọi Liên Gx. KIM THÀNH
– TRUNG THÀNH
Trọng kính hai Cha Quản xứ Kim Thành và Trung Thành, Cha Quê
hương, Quý Tu Sĩ, Ban Hành Giáo, Quý Ông Bà Cố, Anh Chị Em, các
bạn Thanh niên Thiếu nữ và các cháu thiếu niên nhi đồng thân
mến,
Trước hết, tôi xin chào mừng Đại Hội Ơn Gọi liên giáo xứ Kim
Thành và Trung Thành. Hôm nay được gọi là Chúa nhật Chúa Chiên
Lành. Sứ điệp Ngày Quốc Tế Cầu nguyện cho Ơn Thiên Triệu thứ 48
năm 2011 của ĐTC Biển Đức XVI nhằm tới việc “Đề cử các ơn
gọi nơi Giáo Hội địa phương.” Như thế, Đại Hội Ơn Gọi
liên giáo xứ này thật thích hợp. Chúng ta dành ít phút cùng chia
sẻ với nhau một điều cơ bản về ơn gọi.
1. Cầu nguyện cho ơn
gọi
Trước hết, đó là lệnh truyền của Chúa Giêsu: “Lúa chín đầy
đồng mà thợ gặt đang quá ít, các con hãy xin chủ ruộng sai thợ
đến gặt lúa” (x. Mt 9, 36-38). Và chính Chúa Giêsu đã thực
thi điều đó: trước khi chọn gọi các tông đồ, Ngài đã trải qua
suốt đêm cầu nguyện và lắng nghe thánh ý của Chúa Cha (x. Lc 6,
12). Vậy việc đầu tiên chúng ta phải làm là cầu nguyện, vì ơn
gọi là điều Chúa muốn chứ không phải là điều con người muốn. ĐTC
Biển Đức XVI dạy: “Đời sống cầu nguyện là chứng tá đầu tiên
khơi dậy các ơn gọi.” Giáo Hội cầu nguyện, giáo phận cầu
nguyện, giáo xứ cầu nguyện, gia đình cầu nguyện, linh mục cầu
nguyện, các tu sĩ cầu nguyện, cha mẹ cầu nguyện, ông bà chú bác
cô dì cậu mợ cầu nguyện, anh chị em cầu nguyện… để cho con em
cháu chắt của mình được Chúa chọn gọi; nhất là chính các bạn
thanh niên thiếu nữ, các sinh viên học sinh, các cháu thiếu niên
nhi đồng cầu nguyện để chính mình được Chúa chọn gọi.
2. Bổn phận vun trồng
ơn gọi
Giáo huấn của Giáo Hội dạy: “Toàn thể cộng đồng công giáo có
bổn phận phải cổ động các ơn gọi để đáp ứng đủ những nhu cầu của
thừa tác vụ thánh trong toàn thể Giáo Hội: Bổn phận này bó buộc
cách riêng các gia đình công giáo, các nhà giáo dục, và đặc biệt
là các cha sở” (GL 233,1). Sự trợ lực của gia đình rất quan
trọng trong việc giúp ứng sinh ngày một trưởng thành hơn, về
nhân bản cũng như thiêng liêng, vì khi một người con đi tu thì
cả gia đình hầu như cũng đều phải tu. Gia đình phải tạo mọi điều
kiện thuận lợi cho ơn gọi được triển nở, phải cất đi hay tránh
xa những môi trường gây nguy hại cho ơn gọi. Điều c húng
ta phải cùng nhau tìm kiếm và cầu nguyện là ý Chúa và kế hoạch
của Chúa, vì chỉ khi đi đúng đường Chúa chọn chúng ta mới có
hạnh phúc đích thực. Xin Chúa cho các bậc cha mẹ và gia đình
được hiểu biết và ý thức cộng tác với Giáo Hội bằng cách biến
gia đình mình thành một chủng viện hay một đệ tử viện đầu tiên
trong việc vun trồng ơn gọi cho chính con cái mình.
Có nhiều nhân tố giúp ứng sinh ơn gọi lớn lên và trưởng thành
tốt đẹp: Mối liên hệ mật thiết với cha mẹ nâng cao căn tính nhân
vị của ứng sinh: sự mạnh mẽ cương nghị của ba, sự dịu dàng nhân
hậu của mẹ, mối tương quan lành mạnh với những người khác phái
trong gia đình và họ hàng sẽ giúp ứng sinh ý thức hơn về bản
thân, có được một sự ổn định tình cảm và tính dục cần thiết hầu
phát triển các mối tương quan xã hội được quân bình, hài hòa và
trưởng thành cần phải có cho đời sống và sứ vụ linh mục và tu sĩ
sau này.
Tuy nhiên, trong tâm thức xã hội Việt Nam quá trọng vọng người
tu hành, đời sống linh mục và tu sĩ có thể là một vinh dự và một
thăng tiến xã hội, không chỉ cho cá nhân linh mục và tu sĩ, mà
còn cho cả gia đình họ hàng nữa, nên gia đình có thể áp lực con
đi tu để được vinh dự ấy, hoặc ngăn cản không cho con đi tu vì
sợ tu không được phải trở về bị thiên hạ cười chê, không hiểu
rằng ơn gọi là của Chúa và Chúa thường gọi thì nhiều mà chọn thì
ít. Áp lực này là một trở ngại cho các ơn gọi đích thực: có em
có ơn gọi nhưng không dám dấn thấn, có em đã vào tu thấy mình
không có ơn gọi nhưng không dám về. Chúng
ta nên biết rằng nếu con cái có ơn gọi mà cha mẹ ngăn cản không
cho là cha mẹ có lỗi với Chúa, với Giáo Hội và với chính con cái
của mình. Trái lại, nếu con cái không có ơn gọi mà cha mẹ ép
buộc phải đi tu, hay bắt phải ở lại trong nhà Chúa là cha mẹ
cũng có lỗi với Chúa, với Giáo Hội và với chính con cái của
mình. Cần phải có một kế hoạch đồng bộ và rộng khắp để chỉnh sửa
dần cái tâm thức không đúng đắn này, không những nơi gia đình bà
con họ hàng mà cả trong cộng đồng giáo xứ nữa. Đồng thời những
người có trách nhiệm phải biện phân, thanh lọc, rèn luyện và
thăng tiến những động lực ấy, vào thời điểm thu nhận cũng như
trong tiến trình đào tạo, để chỉ giữ lại những ơn gọi đích thực
và chuyển hướng những ứng sinh không thích hợp, vì không phải cứ
hễ vào được ĐCV hay Tu viện là tất nhiên sẽ làm linh mục, tu sĩ
tất cả đâu!
May mắn thay bên cạnh đó, Chúa cũng quảng đại ban cho có rất
nhiều gia đình Công giáo dâng hiến con trai con gái mình cho
Thiên Chúa qua Hội Thánh mà không hề thèm muốn danh vọng, và
nhiều ứng sinh quảng đại đáp lại lời mời gọi của Thiên Chúa,
luôn biết nghĩ đến công lao và tình thương, cùng hoài bảo của mẹ
cha, tìm được nghị lực vượt lên mọi khó khăn thử thách để theo
đuổi ơn gọi cho đến cùng.
3. Tiến trình ơn gọi
năm bước
Để hiểu rõ hơn về ơn kêu gọi của Chúa, chúng ta chú ý tới tiến
trình ơn gọi năm bước này:
Bước thứ nhất:
Chúa gọi trực tiếp
từ trong sâu thẳm cõi lòng hay gián tiếp qua người nọ kẻ kia,
hoặc Chúa phối hợp cả hai cách để nói lên kế hoạch yêu thương
quan phòng của Chúa cho mỗi người. Ứng sinh trong giai đoạn khởi
đầu quan trọng này cần có người đồng hành cùng tìm kiếm và phân
định ý Chúa, như Thầy Cả Hêli đã dặn cậu bé Samuel, như các cậu
giúp lễ của chúng ta đây: “Nếu
con còn nghe Người gọi, con hãy nói ‘Lạy Chúa, xin hãy phán, vì
tôi tớ Chúa đang lắng tai nghe.”
Bước thứ hai:
Ứng sinh quảng đại đáp lại lời mời gọi của Chúa. Và trong sự
chọn lựa đáp trả theo Chúa này phải để ý hai yếu tố Thích
và Hợp. Thích là yếu tố chủ quan và tình cảm có thể nhất
thời, phong trào và hay thay đổi, còn Hợp là yếu tố khách quan
đòi hỏi khả năng và phẩm chất để được bền lâu cho đến cùng. Có
người thích đi tu nhưng cuộc sống không phù hợp với đời tu thì
không được. Có người tính tình tưcách xem ra hợp với đời tu
nhưng không thích thì cũng chịu thua. Cần phải có cả hai yếu tố
thích và hợp mới được. Tự mình đánh giá mình, ứng sinh có thế bị
ảo tưởng và sai lầm, nên cần có người đào tạo kinh nghiệm hướng
dẫn cho khỏi bị chọn lựa sai kế hoạch của Chúa.
Bước thư ba:
Ứng sinh cam kết đi theo chính Chúa Kitô toàn thể, nghĩa là Chúa
Kitô vinh hiển của núi Taborê cũng như Chúa Kitô khổ nạn của đồi
Golgotha, theo Chúa Kitô chứ không phải theo ai khác, dù gặp vui
hay buồn, sướng hay khổ. Nếu gặp được người tốt nâng đỡ thì con
đường đi theo Chúa được nhẹ nhàng hơn, còn nếu gặp phải người
thiếu thông cảm thì con đường thập giá theo Chúa có nặng nề hơn,
nhưng vẫn quyết tâm đi tới, không hề bỏ cuộc.
Bước thứ tư:
Ứng sinh phải dần dần biến đổi và điều chỉnh cuộc sống mình sao
cho phù hợp với đời sống tu trì nói chung, và nhất là phù hợp
với đặc sủng và linh đạo riêng biệt của cơ cấu mình muốn dấn
thân vào. Cuộc biến đổi tiệm tiến này được trợ giúp bởi một cuộc
tìm hiểu song phương, ứng sinh tìm hiểu xem mình có thích hợp
với đời sống và sứ vụ linh mục, tu sĩ hay không để dấn thân và
Bề Trên cùng các nhà đào tạo cũng tìm hiểu xem ứng sinh có thích
hợp hay không để tiếp nhận, đào tạo và cất nhắc.
Bước thứ năm: Ứng sinh kiên trì chu toàn bổn phận tự
nhiên cũng như thiêng liêng của mình, không những trong thời
gian đào tạo, mà cả trong suốt cuộc đời thi hành sứ vụ sau này
sẽ được giao phó, cho dù hoàn cảnh cuộc sống có thế nào đi nữa.
Như vậy, ta thấy Chúa có sáng kiến đi bước đầu kêu gọi từng cá
nhân, Ngài tín trung với những ai đã được kêu gọi và cung cấp
cho những ơn cần thiết để đáp trả lời kêu gọi của Ngài, như
người ta thường nói “Chúa ban khi Chúa truyền.” Mong các
bạn trẻ được trợ giúp thích hợp để có được những quyết định dấn
thân nghiêm túc, nhờ những cuộc gặp gỡ, đối thoại đủ khả năng
soi sáng và đồng hành, nhất là nhờ tính chất gương mẫu của đời
sống ơn gọi của các linh mục và tu sĩ.
Ước gì Ngày Thế Giới Ơn Thiên Triệu và Ngày Đại Hội Ơn Gọi Liên
Giáo xứ Kim Thành – Trung Thành này có thể mang lại cơ hội quý
báu cho nhiều bạn trẻ suy nghĩ và gắn bó với ơn gọi riêng của
mình với lòng đơn sơ, tin tưởng và hoàn toàn sẵn sàng đáp lại.
Nguyện xin Mẹ Maria, Mẹ của Giáo Hội, che chở mọi mầm mống ơn
gọi trong tâm hồn của những ai mà Chúa kêu gọi bước theo sát
Ngài hơn, để nó sẽ trở nên một cây cao vững vàng mang đầy hoa
trái vì lợi ích của Giáo Hội và của toàn thể nhân loại!
Xin Chúa Thánh Thần tiếp tục tác động và hướng dẫn, nâng đỡ cho
đến kiện toàn viên mãn ơn gọi linh mục và tu sĩ mà Chúa đã
thương khơi dậy nơi tâm hồn của các bạn thanh thiếu niên nam nữ
hôm nay. Xin chúc mừng các bạn, chúc mừng cha mẹ và gia đình các
bạn, chúc mừng giáo xứ và quê hương của các bạn. Chúng ta tiếp
tục cầu nguyện cho nhau. Amen.
Lm. Micae-Phaolô Trần Minh Huy pss
|
VỀ MỤC LỤC |
|
VỚI INTERNET, CHÚNG TA LOAN TIN
VUI
|
Bạn là một chàng trai hay cô gái tuổi đôi
mươi, sống với computer, làm việc và giải trí với Internet, giao
tiếp bằng các mạng xã hội. Tân tiến và trẻ trung, năng động và
tự do quá phải không? Bỗng có một cụ già trên 80 tuổi đến nói
với bạn về cách giao tiếp Internet, bạn sẽ nghĩ gì? Bạn sẽ cho
rằng cụ thuộc thế hệ xa xưa, không rành Internet và các vấn đề
của nó, đúng không bạn?
Nhưng bạn ơi, có thể bạn lầm. Có một cụ già
84 tuổi, gửi sứ điệp cho giới trẻ thế giới về truyền thông, mà
đọc lên nghe trẻ trung và gần gũi không kém bất cứ một blogger
hay facebooker nào. Đó là Đức Giáo Hoàng Benedict XVI, người Cha
già của giới trẻ Công giáo. Ngài là người Cha già với trọn vẹn ý
nghĩa của từ ngữ này, đã không có ai và sẽ không có ai để giới
trẻ Công giáo gọi Cha già với niềm trìu mến như gọi các vị Giáo
hoàng của mình.
Đoạn văn đánh động tâm hồn tôi nhất là
đây, mời bạn cùng đọc chậm rãi với tôi bạn nhé:
“Loan báo Tin Mừng qua các phương tiện
truyền thông mới không chỉ có nghĩa là diễn tả nội dung tôn giáo
trong các lãnh vực truyền thông khác nhau, nhưng còn là làm
chứng một cách kiên định, trong bản lý lịch trên mạng của mình
và theo cách thức chia sẻ những chọn lựa, những ưu tiên, những
phán đoán phù hợp hoàn toàn với Tin Mừng, ngay cả khi người ta
không nói về điều đó cách đặc biệt.”
Bạn thấy đoạn ấy rất hay không bạn? Nếu
chưa, xin mời bạn đọc lại, từng từ thôi: “truyền thông”, “Tin
Mừng”, “làm chứng”, “lý lịch trên mạng”, “chia sẻ”, “chọn lựa”,
“ưu tiên”, phán đoán” và lần nữa “Tin Mừng”.
Tuyệt vời. Bạn có nhận ra người Cha già của
chúng ta tuyệt vời chưa? Chúng ta thử sắp xếp lại lời văn của
người Cha chung xem sao: Truyền thông là loan tin, chúng ta
không loan tin cho sự chết, cho bóng tối, mà loan Tin Mừng.
Không những loan tin, chúng ta còn làm chứng cho tin ấy. Làm
chứng trước hết là bằng lý lịch trên mạng của chúng ta. Không
giấu giếm tên chung của anh em chúng ta: Yêsu. Và khi chọn Yêsu,
cho mọi người biết ta thuộc về Yêsu, ta chia sẻ những chọn lựa,
ưu tiên và phán đoán của ta.
Tiêu chí cho các chọn lựa, ưu tiên và phán
đoán ấy? Có ngay rồi: đó là Tin Mừng.
Bây giờ bạn còn cho rằng ý kiến của cụ già
80 tuổi là “thuộc thế hệ xa xưa, không rành Internet và các vấn
đề của nó” nữa hay không? Tôi đoan chắc bạn đã thay đổi hoàn
toàn rồi phải không? Vậy xin mời bạn tìm đọc “Sứ điệp của
Đức Giáo hoàng Bênêđictô XVI nhân
Ngày Thế giới Truyền thông xã hội lần thứ 45”
và bạn sẽ khám phá nhiều điều
thú vị hơn.
(Bạn
cũng có thể tham dự cuộc thảo luận về Sứ điệp này lúc 18:30,
ngày thứ năm, 02/06/2011, tại Dòng Chúa Cứu Thế, 38 Kỳ Đồng,
Quận 3, Sài Gòn).
Chúng
ta quay lại với đoạn văn trên một chút nữa bạn nhé. Khi Đức
Thánh Cha nói đến lý lịch trên mạng, là ngài nhắc đến việc chúng
ta trình bày chính mình trên mạng qua hình ảnh, avatar, nick
name, lời trích dẫn, và cả những điều chúng ta ưa thích, ý kiến
chúng ta đưa ra nữa.
Bạn
hãy vào mạng xã hội facebook chẳng hạn. Bạn có nhận xét gì?
Nhiều, rất nhiều bạn trẻ Công giáo dùng tên Thánh của mình, chọn
avatar là ảnh thánh của Chúa Giêsu, Mẹ Maria hay hình ảnh cao
đẹp khác. Các bạn hiên ngang tuyên xưng đức tin bằng những câu
trích và những comment tuyệt đẹp.
Điều
ấy nói lên rằng Chúa Yêsu thật sự làm chủ cuộc đời các bạn, thật
sự chi phối từng phút giây trong đời sống các bạn, và do đó,
Yêsu chính là điểm đến cuối cùng mà không ai, không có gì vĩ đại
hơn để thay thế.
Giữa
xã hội đầy bóng tối, muốn loại trừ Yêsu là Chúa ra khỏi tâm hồn
người trẻ, mà được nhìn thấy những con người dám hiên ngang
tuyên xưng niềm tin vào Đức Yêsu, ai cũng cảm được sức mạnh của
Đấng đã thực sự phục sinh và đang làm chủ thế giới này.
Với Internet, chúng ta cùng loan Tin Vui
như vị Cha già khả kính của chúng ta nhắc nhở. Xin đừng để tinh
thần thế tục, bóng tối thế gian và những mưu mô len vào trong
phương tiện cao quí là Internet. Cũng xin đừng lẩn tránh Đấng là
ánh sáng trong những giao tiếp của mình. Và xin đừng dùng lời lẽ
bất xứng với các thực tại thánh thiêng.
Yêsu ơi, con tuyên
xưng Người là Chúa. Yêsu ơi, con loan tin vui của Người là chủ
mọi phương tiện truyền thông. Xin cho con được lặng lẽ đánh
xuống từng chữ, từng từ đậm nét Yêsu.
Gioan Lê Quang Vinh
Mời đọc trọn bản văn Sứ diệp của ĐTC tại
đây
http://www.conggiaovietnam.net/index.php?m=home&v=detail&ia=8762 |
VỀ MỤC LỤC |
|
QUAN NIỆM VỀ PHÁI TÍNH (2)
|
BẮT
CHƯỚC PHÁI CÓ QUYỀN
Khi sự quân bình
giữa hai phái bị phá vỡ và phái bị đàn áp có cơ hội vươn lên, họ
bắt chước hành vi và phong cách của phái có quyền ngày xưa.
Chúng ta có những mẫu gương của khuynh hướng nầy trong những
cộng đoàn tiên khởi. Đó có thể là suốt thời kỳ cơ cấu mẫu hệ đi
xuống, một số hình thức đặc biệt trong cách xử sự được quan sát
mà thường được gọi là tập tục của những cộng đoàn đầu tiên: sau
khi đứa trẻ được sinh ra, người cha mang đứa trẻ vào giường và
nằm với nó nhiều ngày để chăm nom nó, trong khi người mẹ phải
làm những bổn phận trong nhà để chăm sóc người cha và đứa bé.
Dường như là đàn ông cố gắng bắt chước vai trò đàn bà. Ở đâu các
bà thống trị, những gì thuộc các bà xem ra được các ông ước
muốn. Người ta lấy làm lạ không biết các ông trong thời kỳ đó có
cố gắng nuôi con hay không?
Cũng vậy, một sự
ngưỡng mộ như thế có thể cắt nghĩa hành vi của các bà ngày hôm
nay. Trong vài mẫu mực, sự hút thuốc đã trở nên quen thuộc giữa
các bà hơn các ông và các ông phải chơi ống điếu hoặc xì gà để
giữ cái gì phân biệt. Cái thói quen lâu đời của đàn bà Mỹ hút
ống điếu có thể đã mang đặc tính thay đổi của xã hội và sự giải
phóng đàn bà suốt thời gian chinh chiến, một thời đã mang lại
cho các bà những bổn phận và quyền lợi mà họ không có trước đây.
Động lực chống lại sự không thích hút thuốc đến từ ước muốn làm
nam giới của các bà, như nó được diễn tả nơi những đứa trẻ ước
muốn mình là người lớn. Những dấu hiệu khác của thời đại chuyển
tiếp của chúng ta là các bà có khuynh hướng muốn mang dáng vẻ
hoặc để tóc tai giống như con trai. Tất cả những bắt chước nầy
không có nghĩa là bình đẳng nhưng như một cố gắng để nhấn mạnh
sự thay đổi trong trạng thái của họ.
CHỨC NĂNG CỦA HAI PHÁI
Mỗi cá nhân phát
triển quan niệm về vai trò của phái mình mà việc chấp nhận hoặc
từ khước sẽ làm thay đổi thái độ và sẽ ảnh hưởng hầu hết mọi
giai đoạn của cuộc sống. Chẳng hạn, thái độ của người đàn bà đối
với công việc nội trợ là một trắc nghiệm tốt mà bà nghĩ vai trò
của người đàn bà sẽ là. Những tranh luận chống hoặc ủng hộ không
đánh lừa chúng ta. Chúng ta có thể nghe những lý do tại sao công
việc nhà thì đáng ghét hoặc đáng yêu – đều tốt như nhau. Con số
các bà thích công việc nhà hơn công việc khác dần dần giảm.
Nhiều bà tỏ ra không thích những công việc nầy vì họ cho những
công việc đó là thấp hèn và sỉ nhục. Họ liên kết những việc làm
đó với quan niệm mất giá về vai trò người phụ nữ. Sự nối kết nầy
cũng khiến nhiều người đàn ông không thích tham gia những công
việc gia đình. Việc nhà là bổn phận gia đình trong nhiều thế kỷ.
Suốt giai đoạn hoàn
toàn bị đàn áp, các bà bị loại bỏ khỏi việc sản xuất nghệ thuật.
Những nữ nghệ sĩ hay những vũ nữ đều được xếp là vô hạng như
những thức ăn vô vị. Nhưng nhiều bà ngày hôm nay tìm chỗ đứng
của họ trong xã hội bằng cách nhấn mạnh sự thích thú vào nghệ
thuật, âm nhạc, kịch nghệ, ca vũ đến mức độ nghệ thuật trở thành
một đặc quyền của phụ nữ.
Nhiều người đàn ông
đã nhường cho các bà sự thích thú nghệ thuật. Một đứa con trai
thích thú học piano thường được coi là con gái. Các bà thường
cảm thấy khó khiến chồng họ cùng nhập cuộc đọc sách, dự những
buổi thuyết trình hoặc hòa nhạc, xem triển lãm hoặc đi xem viện
bảo tàng. Thật ra, một số bà không cố gắng cách thành thật vì họ
xem ra tự hào về sự cách biệt giữa những sở thích đáng kính
trọng của họ, trong khi các ông thích trả giá ít cho sự tiếp tục
chiếm quyềnhành của họ.
Quan niệm chung về
vai trò nam giới xem ra là công việc làm tiền. Quan niệm nầy rất
nguy hiểm. Nó đặt vào tay của quí ông quyền hành mà đồng tiền
vẫn còn thế lực. Cùng lúc, nó ngăn cản sự quí trọng văn hóa và
kiến thức chung, là những cái có thể thay đổi và làm giảm bớt
quyền hành về kinh tế của các ông. Sự nguy hiểm của việc lạm
dụng quyền hành sẽ gia tăng nếu các ông bỏ quên sự phát triển về
văn hóa. Và nếu các bà chỉ chú trọng đến những tiện nghi của
cuộc sống, các bà sẽ kéo dài sự lệ thuộc mà thôi. Khuynh hướng
phân chia những bổn phận xã hội giữa hai phái không có nền tảng
trên những yếu tố sinh vật học. Đó chỉ là những bổn phận của con
người. Trong sự phân chia công việc, một số việc được giao cho
mỗi phái là bỡi do thói quen hay phong tục. Chúng được coi là
hấp dẫn hoặc vô vị tùy theo vị thế xã hội của mỗi phái hoàn
thành chức năng đặc biệt của mình. Để giữ vững đời sống hôn
nhân, bổn phận làm việc nhà và bổn phận kiếm tiền đều quan trọng
như nhau. Nếu một người tin ở sự bình đẳng, người ta sẵn sàng
làm bất cứ cái gì vào lúc cần thiết và ít lấy làm quan trọng đối
với việc xem ra là vai trò thích hợp của phái tính. Dẫu lời nói
họ rất tử tế, ít có ông hoặc bà sẵn sàng thực thi sự bình đẳng.
Cái rắc rối hiện tại của sự thích nghi thuộc phái nam cũng như
phái nữ không thể được giải quyết bằng cách tách biệt những hoạt
động của hai phái và thiết lập cái khả năng đáng ngưỡng phục của
bất cứ phái nào trong một lãnh vực được xác định cách rõ ràng.
Sự quyết định như thế có thể làm giảm sự cạnh tranh tạm thời
nhưng nó sẽ làm đình trệ sự cộngtác giữa những người bình đẳng.
ẤN
TƯỢNG CỦA CON TRẺ VỀ PHÁI KHÁC
Thái độ cá nhân đối
với phái riêng mình tương hợp với thái độ của mình đối với phái
khác. Cả hai thái độ quyết định tư cách của người đó. Quan niệm
về phái khác được phát triển suốt thời thơ ấu. Những đáp trả
tình cảm đầu tiên dành cho một người khác phái thì có tính cách
quan trọng lâu dài. Nói chung, bố và mẹ là mẫu gương đầu tiên
của người nam và nữ chung sống với nhau. Một đứa bé với sự hiểu
biết hạn hữu không thể nhận thức ra rằng gia đình nó có những
nét đặc thù của gia đình nó, không hẳn là đại diện cho tất cả.
Đối với đứa trẻ, thật đơn giản: tình cảnh gia đình nó đại diện
cho tất cả các gia đình trên thế giới. Vì thế, tương quan giữa
bố mẹ xuất hiện như là tương quan giữa nam và nữ, trên đó đứa bé
xây dựng quan niệm của nó về đời sống hôn nhân. Nếu không nhận
ra điều đó, bố mẹ rất dễ gây ảnh hưởng đến thái độ của đứa bé
đối với hôn nhân của nó về sau. Bố mẹ của phái đối lập thường
ảnh hưởng đời sống phái tính tương lai của đứa trẻ.
Nếu đứa con trai và
bà mẹ hoặc đứa con gái và ông bố rất tận tâm cho nhau, sự liên
hệ có thể trở thành một ngăn trở cho việc kết bạn sau nầy của
đứa trẻ. Một đứa trẻ trai được chìu chuộng và làm hư hỏng bỡi bà
mẹ, không thể tưởng tượng ra rằng một người đàn bà khác cũng sẽ
tận hiến cho nó như vậy. Rất thường, sự nghi ngờ nầy ngăn cản nó
yêu và kết bạn với một người nào đó. Nó không được chuẩn bị để
gặp một người đàn bà trên căn bản của việc cho và nhận như được
đòi hỏi trong hạnh phúc hôn nhân. Và cũng thường xảy ra như vậy
trong tương quan giữa người bố và đứa con gái. Một đứa con gái
gắn liền với người bố có thể mong người chồng một sự nhẫn nại,
cảm thông, hướng dẫn, và che chở giống như vậy. Cô dễ quên rằng
không một người đàn ông nào của thế hệ cô có thể có một uy thế
tương đối như bố cô, đặc biệt từ khi các cô gái bây giờ hầu hết
có cơ hội để học hành và có sự nghiệp như con trai.
Vấn đề trên đây xem
ra rất phổ biến trong thời đại chúng ta. Các cô phản đối chống
lại việc mình thuộc phái thấp kém, nhưng trái lại, họ mơ ước một
người chồng mà họ có thể ngưỡng phục. Họ vẫn gắn liền với ý
tưởng cho rằng đàn ông phải mạnh hơn, giỏi hơn, và đáng tin cậy
hơn họ. Nhưng có được bao nhiêu người đàn ông mà cô có thể tìm
thấy vượt xa cô như bố cô đã vượt xa khi cô còn là một đứa bé.
Cô sẽ bị thất vọng vì cô khó kiếm được một người đàn ông như
thế. Ngay cả khi cô tìm được, cô cũng sẽ không chấp nhận anh ta,
vì ghét cái thế thượng tôn của chàng, nên nàng có thể rút lui
khỏi chàng hoặc tìm lỗi lầm để rồi nàng có thể coi thường chàng.
Lm Lê Văn Quảng Psy.D. |
VỀ MỤC LỤC |
|
HÃY ĐI TRONG BÌNH YÊN
|
Cho đến giờ phút
ngồi viết những giòng chữ này, tôi vẫn chưa hết nỗi bàng hoàng.
Tôi không nghĩ và không thể nghĩ nó là sự thật. Chiều nay, khi
thu xếp được công việc, tôi đã đến ngay nhà Hiệp để thăm gia
đình, từ đầu ngõ, Trang ( vợ của Hiệp ) đã thấy tôi, Trang chạy
ra ôm chầm lấy tôi, tôi không biết làm gì hơn là ôm lấy Trang mà
vỗ về. Tôi chẳng nói được gì với Trang, thật ra không biết nói
gì, phần Trang đôi mắt đỏ hoe, nhưng hình như Trang không khóc,
nét bàng hoàng ngơ ngác như không tin vào sự thật, nó nhanh và
bất ngờ đến độ không ai tin đó là sự thật.
Mẹ của Hiệp nghẹn
ngào trong nước mắt, “nó đi bỏ lại hai đứa con thơ, đau đớn quá
cha ơi”. Quan tài của Hiệp được đặt ngay giữa nhà, hình của Hiệp
rạng rỡ giữa chùm hoa nến, Hiệp nằm trong đó, không ai dám mở ra
nhìn, nhìn làm gì cho thêm đau đớn, Trang nói với tôi: “Bố biết
không, anh Hiệp mới nói với con, anh không về nhà ngay đâu, anh
đi Chợ Lớn lấy hàng, ghé bố rồi mới về”.
Anh của Hiệp có cái
hẹn với chúng tôi vào buổi sáng, nhưng rồi anh ấy không đến, một
cuộc điện thoại reo vào máy người bạn trong nhóm, anh báo không
đến được vì Hiệp vừa qua đời, theo người bạn kể lại, tiếng anh
khô khốc lạnh lùng khi báo tin: “Hiệp bị xe lửa cán chết rồi”.
Tôi hoảng loạn trước tin dữ: “Tại sao nó chết ?” Anh của Hiệp kể
lại cho tôi nghe: “Nó đi trực đêm, sáng tan ca về, ngang đường
sắt thì bị đầu máy xe lửa cán chết”. Một người bạn khác nhà ngay
gần chỗ tai nạn thẫn thờ nói: “Sáng nay con nghe tiếng còi tàu,
ngờ đâu đó là tiếng còi tiễn đưa Hiệp”.
Hiệp hiền lành,
tính tình vui vẻ. Tôi biết cả Hiệp và Trang khi hai đứa còn bé,
vì cả hai cùng làm việc với tôi nên quen nhau. Ngày trước Trang
thường hay hỏi tôi nhiều chuyện lung tung, nhất là hay khóc rồi
lại hay cười, nên tôi đặt tên là “con bé Phức Tạp”. Trước ngày
cưới, tôi “cảnh giác” Hiệp: “Hắn phức tạp lắm đấy nhé”, Hiệp
cười: “Dạ, con thương cái phức tạp”. Cưới nhau rồi, thỉnh thoảng
tôi vẫn trêu: “Có còn phức tạp không ?”, “Vẫn phức tạp bố ạ”.
Hiệp làm việc cho
Công ty Điện Lực, ngoài giờ làm việc ở công ty, Hiệp và Trang
được sự giúp đỡ của người anh nên cộng tác với chúng tôi một số
việc, hai vợ chồng chắt bóp trong 7 năm lấy nhau, được cha mẹ và
người anh nâng đỡ, hai đứa vừa mới bắt đầu xây nhà riêng, ngày
Hiệp chết là ngày bắt đầu đổ bê tông móng, mẹ của Hiệp cứ vật vã
bên hai đứa cháu nội ngây thơ, thật đau lòng.
Câu chuyện thương
tâm thật đơn giản, Hiệp băng ngang đường sắt, lúc ấy đầu máy xe
lửa trờ đến, chiếc xe hai bánh của Hiệp bị húc văng sang một
bên, còn Hiệp thì bị cuốn vào gầm đầu máy, bị lôi đi khoảng 50m
và bị cán chết ( báo Tuổi Trẻ số ra ngày thứ năm 12 tháng 5 năm
2011 ).
Đã từ lâu tôi để ý
về quãng đường sắt này. Đoạn từ chợ Bến Thành đến ga Hòa Hưng đã
được bóc lên trở thành đường nhựa giao thông, góp phần rất đáng
kể vào việc tránh kẹt xe trong thành phố, chắc chắn không còn
một tai nạn nào gây ra bởi xe lửa chạy qua, chắc chắn không còn
cảnh mỗi khi xe lửa chạy thì gây kẹt xe hàng giờ sau đó. Ga xe
lửa Sàigòn năm xưa giờ một phần là công viên, làm tăng thêm
những mảng xanh hiếm hoi trong thành phố, làm lá phổi của thành
phố bớt teo tóp, làm thành phố dễ thương hơn, rộng rãi hơn. Tại
sao quãng đường sắt từ ga Hòa Hưng đến Bình Triệu không được
giải tỏa bóc lên ?
Nếu đoạn đường sắt
từ ga Hòa Hưng đến ga Bình Triệu được bóc lên, chúng ta sẽ có
thêm một con đường giải tỏa giao thông, không những giải tỏa
giao thông mà còn rút ngắn giao thông giữa hai địa điểm Hòa Hưng
và Bình Triệu. Chắc chắn không còn cảnh kẹt xe bực bội mỗi khi
xe lửa di chuyển qua các đường giao thông, chắc chắn không bao
giờ có những tai nạn thương tâm như tai nạn đã xảy ra cho Hiệp
và đã cho bao nhiêu người khác. Không gì xấu xí cho bằng hai
hàng rào bằng sắt chạy dọc đường sắt, ngăn đôi hai khu dân cư
trong nội thành như vậy. Không hiểu ai đã có sáng kiến thật kỳ
cục và tiêu tiền vào những công trình cực kỳ xấu xí như vậy. Nếu
di chuyển ga Hòa Hưng ra ga Bình Triệu hoặc ga Sóng Thần, một
mặt ta có tất cả những lợi điểm nêu trên, một mặt ta có được
tuyến xe buýt từ ga đầu mối này vào thành phố, tăng cường thêm
phương tiện giao thông công cộng.
Tôi đã có nghe một
ý kiến nói rằng, xưởng bảo trì đầu máy xe lửa nằm ở Hòa Hưng, di
chuyển rất tốn kém và phức tạp. Có thật vậy không ? Có thật là
không thể di chuyển xưởng bảo trì đi, hay là khu đất ga Hòa Hưng
đang là khu đất vàng, cực kỳ vàng, đang từng ngày được xẻ ra dần
dần, khi nào xẻ xong hết thì việc di chuyển xưởng lại khá dễ
dàng ! Tôi đã sinh sống lâu năm ở thành phố này để thấy cái ga
Hòa Hưng rộng thênh thang lộng gió nay đang hẹp dần, những ngôi
nhà bạn bè chúng tôi bên vòng đai tường thành ga, cuối con hẻm
cụt nay trở nên khoảng giữa của một con đường, con đường bất ngờ
khiến chúng tôi kiếm không ra nhà bạn chỉ sau một thời gian
không đến.
Những người có
trách nhiệm họ quan tâm điều gì ? Những món lợi cho họ hay những
cái thiệt hại mà người khác phải chịu, họ có nghĩ đến nét đẹp
của thành phố này hay chỉ nghĩ đến túi tiền của họ, bao nhiêu
cái chết thương tâm không hề làm lay chuyển lòng họ, nếu người
chết bởi tai nạn xe lửa trong thành phố là người thân của họ, họ
nghĩ sao ? Họ có nghĩ đến bao nỗi muộn phiền của bao nhiêu nạn
nhân hàng ngày mấy lần kẹt xe qua các giao lộ ? Họ có nghĩ đến
những thiệt hại của người khác do những lần kẹt xe gây ra ?
Hiệp đã chết. Cái
chết đột ngột, sự ra đi của Hiệp làm tan nát đời người góa phụ
trẻ với hai đứa con thơ, thiệt hại tinh thần không thể bù đắp,
mạng người vô giá, cái tốn kém của việc di chuyển xưởng bảo trì
đầu máy không thể so sánh với mạng người, tôi mong những người
có trách nhiệm khẩn cấp tính toán cho công trình này sớm thực
hiện.
Giêrađô Nguyễn
Lương Hiệp, thắp cho em một nén nhang, một lời nguyện cầu,
thương Hiệp nhiều lắm, không biết Hiệp đã kinh hoàng thế nào
trong giây phút bị cuốn mình vào gầm xe, xin cho Hiệp được Bình
An trong Chúa, được yên nghỉ đời đời. Amen.
Lm. VĨNH SANG,
DCCT, 12.5.2011 (Ephata 459) |
VỀ MỤC LỤC |
|
Vai trò đặc thù của Người Tín Hữu
Giáo Dân trong Giáo hội và giữa Trần thế (2).
|
NGUYỄN HỌC TẬP
3 - Chủ nhân của thế gian.
Nhưng sứ mạng của người
tín hữu giáo dân còn rộng lớn và cao cả hơn những gì đã được đề
cập. Chúa đã giao cho con người phận vụ quản trị và phối hợp cả
tạo vật. Nhứt là đối với người tín hữu giáo dân, Chúa Ki Tô đã
giao cho họ phận vụ hành xử quyền năng nầy, nhân danh Người.
Công Đồng Vatican II
tuyên bố bằng những từ ngữ cao qúy và long trọng bổn phận nầy
của người tín hữu giáo dân: đó là bổn phận thiết lập Nước
Chúa Ki Tô giữa trần thế:
- " Thật vậy, Chúa
cũng muốn mở rộng vương quốc của Người nhờ các tín hữu giáo dân,
vương quốc của chân lý và sự sống, vương quốc thánh thiện và ân
sủng, vương quốc công chính, tình yêu và hoà bình. Và trong
vương quốc nầy, chính tạo vật cũng được giải thoát khỏi ách nô
lệ của hư mất, để tham dự vào tự do huy hoàng của con cái Thiên
Chúa " ( cfr. Rom 8, 21).
Những ngôn từ vừa kể
chắc chắn là một lời hứa hẹn trọng đại và được thốt lên với ý
nghĩa như là một giới răn đối với người tín hữu Chúa Ki Tô,
- "
thật vậy, tất cả là của anh em,
anh em là của Chúa Ki Tô " ( 1 Cor 3, 23).( ...9)
Trong việc thực hiện
phận vụ nầy trong vũ trụ, người tín hữu giáo dân ở vị trí hàng
đầu ( LG, 36).
Vai trò của người tín
hữu giáo dân không được tăng cường thêm, khi họ tìm cách hay tự
nguyện tham dự vào quyền bính và phục vụ của hàng giáo phẩm; chỉ
có một số ít người trong họ có thể hướng về phía hướng đi nầy
được. Dù sao đi nữa, đó không phải là phận vụ cá biệt của họ.
Nều tảng của việc họ
tham dự vào vương tước của Chúa Ki Tô không phải nhất thiết được
đặt trong hướng đi đó, mà lànhằm về thế giới.
- "
Phận vụ ưu tiên và trực tiếp của
người tín hữu giáo dân không phải là để thiết lập và phát triển
cấu trúc cộng đồng Giáo Hội - đó là phận vụ cá biệt của hàng
giáo phẩm - mà là thực hiện bằng động tác các khả năng Ki Tô
giáo và Phúc Âm còn chưa được biết đến, nhưng đã hiện diện và
đang tác động trong các thực tại trần thế " ( ĐTC Phaolồ VI,
Huấn Dụ Evangelii nuntiandi, n. 70).
Người tín hữu giáo dân
phải được coi không phải chỉ là " giới trẻ thơ dại " hay
" các ông từ xuất sắc ", mà là muối và ánh sáng
của Chúa Ki Tô trong lãnh vực trần thế.
Một trong những
văn bản của Công Đồng Vatican II được trích dẫn cho biết rằng ơn
gọi cá biệt của người tín hữu giáo dân không phải là chỉ để
chuyên lo về lãnh vực trần thế mà còn "
để thiết định trật tự cho chúng
theo như thánh ý Chúa " ( LG 31).
Đây là một lời nhắc nhỡ
mạnh dạn và cũng là một thử thách đối với người tín hữu Chúa Ki
Tô.
Nhấn mạnh rằng phận vụ
của họ là hành xử uy quyền của Chúa Ki Tô giữa trần thế, không
phải chỉ là nói lên cho trần thế định hướng luân lý ( bởi lẽ đó
là phận vụ cá biệt của hàng giáo phẩm), mà là
"
bằng cách tích cực thiết định và
hướng dẫn các thực tại trần thế" ,
- nghề nghiệp, kinh tế,
chính trị, công đoàn, văn hóa, giáo dục, các phương tiện truyền
thông xã hội, giải trí, đời sống xã hội và gia đình - nhờ vào sự
hiện diện đầy nghị lực và can đảm tác động của họ.
Đó là điều cho thấy đâu
là bằng cách cai quản, hướng dẫn và phục vụ, người tín hữu giáo
dân hành xử uy quyền của Chúa Ki Tô:
- " Chuyên
cần dấn thân đem tinh thần Ki Tô giáo vào tâm thức và tập quán ,
luật pháp và cấu trúc cộng đồng nơi mình đang sống, là phận vụ
và trách nhiệm bắt buộc đối với người tín hữu giáo dân, có giá
trị bắt buộc đến nỗi không bao giờ có thể được miễn chuẩn, giao
cho người khác được " ( Apostolicam actuositatem, 13).
Hiểu như vậy, phận vụ
người tín hữu giáo dân liên quan đến tham dự vương tước của Chúa
Ki Tô hệ tại ở việc làm cho thấm nhuần cả thực tại xã hội các
nguyên tắc Ki Tô giáo, để biến thể các thực tại đó thành nhân
bản hơn và xứng đáng hơn để dâng lên Thiên Chúa:
- phẩm giá và các
quyền tối thượng của con người,
- tình liên đớì xã
hội,
- tính cách thánh
thiện và bất khả phân của hôn nhân và gia đình,
- quyền tự do có
trách nhiệm,
- tình yêu chuộng
chân lý, tinh thần tôn trọng công lý ở mọi đẳng cấp,
- tinh thần phục vụ,
thực hiện sự thông cảm hiểu biết lẫn nhau và lòng bác ái huynh
đệ.
Nếu vậy, thì tại sao
người tín hữu giáo dân lại phải có ý lãnh đạo Giáo Hội, trong
khi phận vụ của họ là lãnh đạo trần thế ?
Điều thách thức của
người tín hữu giáo dân không phải là " tước quyền hàng giáo
phẩm ", mà là " chiếm đoạt thế gian ".
Nêu lên câu hỏi vừa kể
là để làm sáng tỏ vấn đề tương quan giữa hàng giáo phẩm và giáo
dân để tránh hiểu lầm, nhiều khi là những hiểu lầm trầm trọng,
có thể có nhiều người lợi dụng thái độ nâng cao căn tính người
tín hữu giáo dân của Công Đồng Vatican II để có ý gây xáo trộn
và chia rẻ, nhứt là thái độ của những kẻ không có thiện cảm với
Ki Tô giáo có thể xúi giục.
Ý nghĩa định hướng hay "
cai trị " ( gouverner ) Ki Tô giáo đối với thế
giới, không có nghĩa là hàng giáo phẩm "thống trị " hay
cơ cấu của Giáo Hội chen lấn, xen vào nội bộ của lãnh vực trần
thế. Đúng hơn là các lãnh vực trần thế được các công dân tự
nhiên của mình làm cho trở nên sống động và trong khi vẫn kính
trọng bản tính trần thế tự nhiên của các lãnh vục đó, các công
dân tự nhiên, chính đáng và công chính có thể hướng dẫn và quản
trị các lãnh vực thế giới ngày càng trở thành hoàn hảo, tốt đẹp
hơn, để cho con người có được cuộc sống xứng đáng với phẩm giá
của mình hơn, mỗi con người được triển nở hoàn hảo con người
của mình hơn " trong mọi chiều hướng, như Hiến Pháp 1947 Ý
Quốc đề cập:
- " Bổn phận
của Nền Cộng Hoà là dẹp bỏ đi những chướng ngại vật về phương
diện kinh tế và xã hội, là những chướng ngại, trong khi thực sự
giới hạn tự do và bình đẳng của con người, không cho phép mỗi cá
nhân triển nở hoàn hảo con người của mình và tham dự một cách
thiết thực vào tổ chức chính trị, kinh tế và xã hội của Xứ Sở "
8 Điều 3, đoạn 2 Hiến Pháp 1947 Ý Quốc).
Với mục đích " mỗi
người được triển nở hoàn hảo con người của mình " vừa kể
trong mọi chiều hướng, Công Đồng Vatican II nêu lên viễn ảnh như
là chiều hướng hành động của người tín hữu giáo dân giữa trần
thế:
- " Ước gì người
tín hữu giáo dân hãy hài lòng, theo gương Chúa Ki Tô, cũng đã
là một người thủ công nghệ, để thể hiện lên tất cả mọi hoạt động
trần thế của mình, bằng cách phối hợp các cố công gắng sức con
người của mình, trong tư gia, nghề nghiệp, khoa học kỷ thuật hợp
nhứt trong một động tác tổng hợp cùng chung với các tài sản tốt
lành tôn giáo, tất cả đều dưới sự hướng dẫn tối cao, để tất cả
được phối hợp làm vinh danh Thiên Chúa " ( GS 43).
Như vậy phận vụ của
người tín hữu giáo dân là
- "
soi sáng và phối hợp tất cả các
thực tại trần thế, mà họ có liên hệ chặt chẽ , để cho các thực
tại đó luôn luôn được thực hiện theo đồ án của Chúa Ki Tô, để
chúng có thể tăng triển lên và trở thành những điều tán tụng
vinh danh Đấng Tạo Hoá và Đấng Cứu Độ " ( LG 31).
-
" Canh tân Ki Tô giáo đối với thế
giới có nghĩa là một thế giới sẽ được soi sáng bằng ánh sáng
Chúa Ki Tô " ( LG 36).
Và ánh sáng đó được các
tín hữu Chúa Ki Tô nói chung và người tín hữu giáo dân nói riêng
tác động, không phải như là những " nhân viên " của
Vatican, không phải như là " cánh tay nối dài thi hành dưới
mệnh lệnh của hàng giáo phẩm " hay của một cơ chế cá biệt
nào đó của Giáo Hội, nhưng là tác động với tư cách là " công
dân có quyền và hành xử với tự do và trách nhiệm cá nhân của
mình " ( A A 7).
Dĩ nhiên, nói như vậy,
chúng ta không có ý nói hàng giáo phẩm không có sứ mạng cá biệt
trong thế giới, bởi lẽ như là thành phần Giáo Hội, các vị cũng
có phận vụ của mình đối với lãnh cực trần thế trong phương cách
của các vị ( AA 7).
Hàng giáo phẩm có bổn
phận thánh hoá thế gian bằng lời cầu nguyện và bằng các động tác
phượng tự của các vị, mà hậu quả vượt cả lên trên những gì khả
năng con người có thể nhìn thấy và định chuẩn được.
Có chăng hiệu quả phận
vụ ngôn sứ của hàng giáo phẩm đối với thế giới,chúng ta nhận ra
được một cách hiển nhiên hơn bằng hiểu biết nhân loại của chúng
ta.
Hàng giáo phẩm có bổn
phận phải rao giảng Phúc Âm " trong mọi hoàn cảnh, thuận tiện
hay không thuận tiện ",
- " ...tôi
tha thiết khuyên anh: hãy rao giảng lời Chúa, hãy lên tiếng lúc
thuận tiện, cũng như không thuận tiện; hãy biện bác, ngăm đe,
khuyên nhủ, với tất cả lòng nhẫn nại và chú tâm dạy dỗ " 2 Tim
4, 2),
bằng cách không ngừng
nghỉ tuyên bố cho thế giới các nguyên tắc bất diệt lề luật của
Chúa và đồ án của Chúa Ki Tô.
Nhưng như chúng ta biết
dân chúng thường khi không lắng nghe tiếng nói của hàng giáo
phẩm bao nhiêu, nhứt là dân chúng ngoại đạo.
Đây là một sự kiện thực
tại, không cần phải chứng minh. Theo quan niệm trần thế, người
ta thường nhìn hàng giáo phẩm ( và cả tu sĩ ) nhiều lúc như là
những người " ngoại cuộc ".
Các vị muốn đến gặp thế
giới, gặp dân chúng, để rao giảng Phúc Âm, nhưng rất thường con
đường để đến được với họ, đối với cách vị, dường như có những
rào chắn, trở ngại chắn ngang, trở ngại vật lý cũng như trở ngại
luân lý, tinh thần. Các cánh cửa của dân chúng, của hảng xưởng,
của văn phòng, của các cuộc hội thảo, của khu phố, thôn ấp,
nhiều khi cả của gia đình, bị khép kín trước mặt các vị, cũng
như lỗ tai của họ đều bị bịt lại.
Trong khi đó thì đối
người tín hữu giáo dân " trần thế là nhà cửa, môi trường, nơi
cư ngụ của họ ". Họ không cần phải đi đến đó, bởi vì họ đã ở
tại đó rồi. Họ ở trong thế gian như mọi người công dân khác,
ngang hàng với những người khác, mà trong rất nhiều trường hợp,
chỉ có họ, người tín hữu giáo dân, mới có thể rao giảng Phúc Âm
được:
- " Nhiều
người - Công Đồng Vatican II nhấn mạnh
- không thể được nghe Phúc Âm và
biết được Chúa Ki Tô, nếu không nhờ người tín hữu giáo dân, là
những người đang ở bên cạnh họ " ( AA 13).
Người tín hữu giáo dân
phải hành xử " tước vị phục vụ vương giả " của mình (
ĐTC Gioan Phaolồ II, Redemptor hominis n. 21), bằng cách đem
những người đồng hương, đồng bào ( cả đồng loại ) của mình đến
với Chúa Ki Tô.
Họ phải làm sao?
Dĩ nhiên không phải là
bằng cách gian lận, che giấu, lương lẹo. Chúa Ki Tô đòi buộc
phải thẳng thắng và trong sáng, dĩ nhiên đôi khi kể cả can đảm.
Dĩ nhiên không phải rao
giảng Phúc Âm và lôi cuốn người khác đến với Chúa Ki Tô bằng
cách can thiệp bằng võ trang, bạo lực, bởi vì Chúa Ki tô chỉ
muốn có các môn đệ tự do và tự nguyên theo Người:
-
" Kế đó,các ông đưa thuyền vào bờ, rồi bỏ hết mọi sự mà theo
Người " ( Lc 4, 11).
Nói như vậy, nhung chúng
ta cần lưu ý hai điều bắt buộc phải có đối với người tín hữu
giáo dân, để có thể thực hiện tốt đẹp sứ mạng của mình, làm cho
- "
đồ án cứu rổi của Chúa mỗi ngày có
thể đến được với mọi người, ở mọi thời đại và nơi mọi phần đất
trên thế giới " ( LG 33).
Đó là thẩm quyền chuyên
môn và khả năng giáo lý.
4 - Thẩm quyền chuyên môn và khả năng hiểu
biết giáo lý.
a)
Yếu tố tiên khởi cần thiết để người tín hữu giáo dân có thể định
hướng và hướng dẫn các thực tại trần thế của con người đó là
thẩm quyền chuyên môn trong lãnh vực nghề nghiệp và việc làm của
mình.
Quyền chiếm được vị trí
lãnh đạo trong các hoạt động trần thế phải là kết quả của công
lao, khả năng chuyên môn đối với nghề nghiệp, ai cũng thấy được,
kết quả của học vấn, của khảo cứu và phẩm chất của việc làm.
Khi trình bày sứ mạng
vương giả của người tín hữu giáo dân, Công Đồng Vatican II nhấn
mạnh những gì chúng ta vừa đề cập:
- "
Với thẩm quyền khả năng của mình
trong các lãnh vực trần thế và cùng với các động tác của họ,
được ơn Chúa Ki Tô nâng cao lên trong từ bên trong, họ hãy làm
cho các công việc của mình có được kết quả, để cho các tạo vật,
theo trật tự của Đấng Tạo Hoá và theo ánh sáng của Ngôi Lời,
được tiến triển lên nhờ việc làm của con người, nhờ kỷ thuật và
văn hoá trở thành lợi ích tuyệt đối cho tất cả mọi người " ( LG
36).
Như là điều hiển nhiên,
người tín hữu giáo dân có tâm thức chính đáng về ơn gọi Ki Tô
giáo của mình, ho có lý do chính đáng để học hỏi, nghiên cứu,
thục tập nghề nghiệp, để có được thẩm quyền đáng kể trong chuyên
môn.
Nói cho cùng, bởi vì họ
tìm kiếm sự thánh thiện trong việc làm và nhờ việc làm, lý do
chính khiến cho họ làm việc là lòng yêu thương Chúa.
Và vì đây là lý do cao
thượng hơn mọi lý do cao cả của con người và mãnh liệt hơn mọi
tham vọng ích kỷ, họ làm việc nhiều và làm tốt đẹp.
b) Một yếu tố khác mà
người tín hữu giáo dân cần có, nếu họ muốn dẫn dắt thế giới về
với Chúa Ki Tô, đó là nền tảng gíáo lý.
Công Đồng Vatican II
cũng nói lên rõ ràng về chủ đề đang đề cập. Sau khi đã nhấn mạnh
đến việc người tín hữu giáo dần " cần đảm nhận trách nhiệm
thiết lập trật tự trần thế như là bổn phân của chính minh "
, Nghị Định về sứ mạng tông đồ của người tín hữu giáo dân thêm
rằng trong động tác trực tiếp và cá biệc của mình, người tín
hữu giáo dân phải được
- "
hướng dẫn bởi ánh sáng Phúc Âm và
tư tưởng của Giáo Hội, và được thúc đẩy bằng đức bác ái Ki Tô
giáo " ( A A 7).
Rồi đến phiên Hiến
Chế Gaudium et spes cho biết rằng
- "
lương tâm người tín hữu giáo dân,
một khi đã được đào tạo chính đáng, có phận sự viết lên lề luật
Chúa vào trong thị xã trần thế " ( GS , n. 43).
Khi người tín hữu giáo
dân
- có thẩm quyền
chuyên nghiệp trong chức nghiệp của mình,
- đã hấp thụ được sứ
điệp Phúc Âm và đã hoà hợp tư tưởng mình với tư tưởng của Giáo
Hội ( nguồn mạch mà qua đó Chúa Ki Tô nói với chúng ta),
thì đó là lúc, được gợi
hứng bởi tình yêu Ki Tô giáo, người tín hữu giáo dân có đủ phẩm
chất để lãnh đạo các lãnh vực trực thuộc thế giới.
Nếu đức hiệp nhứt vào
Chúa Giêsu và tình yêu đối với Người là hai nguyên tắc của học
biết chuyên cần để có được thẩm quyền chuyên môn và hiểu biết
hấp thụ giáo lý của người tín hữu giáo dân, thì họ sẽ có được
một cuộc sống hiệp nhứt chính đáng. Bởi lẽ sống như vậy, người
tín hữu giáo dân tránh được sự cách biệt đoạn tuyệt giữa đức tin
và đời sống hằng ngày, mà Công Đồng Vatican II cho biết như là
- " một trong
những sai lầm lớn nhứt của thế giới hiện đại chúng ta " ( GS
43).
Như vậy, như chúng ta có
thể xác nhận được, vai trò của hàng giáo phẩm và của tín hữu
giáo dân là những vai trò liên đới bổ túc cho nhau, nhưng tách
biệt nhau.
Vai trò của mỗi người
tín hữu Chúa Ki Tô, trả lời cho ơn gọi mọi người đến sự thánh
thiện ( LG, c. V), đó là phận vụ phục vụ và loan báo Phúc
Âm, theo mẫu gương Chúa Ki Tô, Người Đầy Tớ và Đấng Cứu Độ cho
tất cả mọi người.
Theo gương đó,
- vai trò chính yếu
của hàng giáo phẩm phục vụ trong Giáo Hội,
- vai trò chính yếu
của người tín hữu giáo dân là phục vụ giữa trần thế.
Vị Linh Mục phải là Chúa
Ki Tô cho người tín hữu giáo dân, cũng vậy theo phương thức hành
xử thiên chức linh mục đó,người tín hữu giáo dân phải là Chúa
Ki Tô cho trần thế, sống theo cách sống giáo dân.
Chúng ta đã có dịp đề
cập và phản biện đối với lý thuyết về sự " tham dự quyền bính
", tạo nên mối cạnh tranh ganh đua giữa giáo phẩm và giáo
dân, để đạt được " ảnh hưởng " trong Giáo Hội.
Quan niệm vừa kể cho
thấy rõ một sự hiểu biết thấp kém về quyền lực và uy tín trong
Giáo Hội.
Tuy nhiên ý niệm về tham
dự vào quyền hành cũng có thể được mài giũa và diễn tả ra một
cách thích hợp hơn.
Nếu quyền lực được hiểu
như là phận vụ phục vụ, thì " tham dự vào quyền bính
" trở thành tham dự vào phận vụ phục vụ: mỗi người, cách
phục vụ theo phương thức thích đáng của chính địa vị mình, đó là
tham dự vào quyền bính của Chúa Ki Tô để cứu độ thế gian.
Mỗi người phục
vụ theo phương thức thích hợp với chính mình
, đó là chìa khoá để giải quyết vấn đề.
Bởi đó, nếu bản tính của
quyền lực Giáo Hội không thể giải thích được một cách rõ ràng ,
đồng thời cũng sẽ không cho biết rõ phận vụ bản tính các vai trò
của Giáo Hội, .
" Quyền năng "
của mỗi người tín hữu Chúa Ki Tô là quyền năng để phục vụ trong
vai trò cá biệt mà Chúa ban cho mỗi người.
Tham vọng có được
một quyền lực khác, có nghĩa là không muốn phục vụ, không chu
toàn bổn phận ơn gọi Chúa mời gọi mình. |
VỀ MỤC LỤC |
|
KHO
BÁU |
Thưa bạn,
không phải ai ai cũng dễ dàng tìm gặp kho báu trong cuộc đời.
Tất cả các kho báu như, kim cương, vàng, dầu lửa đều được tìm
thấy qua một quá trình kiếm tìm trong sự kiên nhẫn vượt bậc. Kho
báu trong mỗi con người cũng thế. Tài năng của con người cũng
cần có ai đó tìm kiếm và kiên nhẫn hun đúc, khơi gợi. Khi đã
được ai đó tìm gặp và khơi gợi tiềm năng, những người này trở
nên tỏa sáng và tài năng của họ được dùng để phục vụ cộng đồng.
Hôm nay, trong chủ đề Kiên nhẫn – Kiên cường, mục Sống Sao
Cho Đẹp nêu câu chuyện của John Mc. Knight trong tập truyện
Stone Soup for the World như
một ví dụ điển hình. Và cũng để nói lên rằng, sự kiếm tìm hun
đúc tài năng cho con người không nên nhắm vào việc thắng-bại,
nhưng nhằm vào khả năng khám phá những giá trị tiềm ẩn trong mỗi
con người, dù người đó có thể bị cho là bất tài, tật nguyền,
bệnh tật.
* * *
Một nhân viên
xã hội chuyên phụ trách việc chăm sóc và quan tấm đến những
người tàn tật tại miền Nam tiểu bang Georgia. Bà ta nghĩ rằng,
xã hội con người thường quan tâm đến những người tài năng, nổi
tiếng, trong khi những người tàn tật thì ít khi được quan tâm để
ý. Vì lẽ đó, bà quyết định dành rất nhiều thời gian để quan tâm
chú ý đến những người tàn tật, mà theo bà nơi những con người
này, họ cũng đang ẩn chứa những kho báu đang bị chôn vùi. Một
hôm, bà đến thăm một thanh niên 41 tuổi, tên Joe. Sau nhiều năm
được gởi đi vào trường giáo dục đặc biệt, Joe vẫn không tỏ ra
tiến bộ và có khả năng để làm việc bình thường được. Vì lẽ đó,
Joe bị trả về gia đình. Tại gia đình, Joe chỉ có làm hai việc
duy nhất. Thứ nhất, cho heo ăn vào buổi sáng và buổi chiều; thứ
hai, ngồi cả ngày nghe Radio. Người phụ nữ đến thăm Joe và trải
qua bốn ngày liên tiếp mà không tìm thấy được nơi Jeo một “khả
năng” gì nhằm có thể giúp anh ta. Tuy nhiên, với thái độ khám
phá chứ không theo quan điểm hơn-thua, được-mất, bà vẫn kiên
nhẫn quan sát Joe. Vào ngày thứ năm, bà quan sát và thấy Joe rất
say mê nghe Radio và có thể tường thuật những sự kiện anh vừa
nghe một cách tài tình. Sau ngày hôm ấy, bà tìm biết được rằng,
có ba vị trí mà cộng đồng phải trả tiền cho người nghe Radio.
Một là cảnh sát giao thông, hai là một nhân viên cảnh sát hình
sự, và ba là một nhân viên tại phòng cấp cứu cộng đồng. Tại
phòng cấp cứu cộng đồng, nhân viên này nghe Radio để báo cho
người trách nhiệm vài sự cố xảy ra trong cộng đồng nhỏ của mình.
Thế là Joe được mời vào làm vị trí này. Cứ mỗi cuộc họp mặt
trong cộng đồng, Joe trở nên nhân vật quan trọng cho những ai
muốn biết những gì đã xảy ra cho cộng đồng của mình trong thời
gian qua. “Joe, chuyện gì xảy ra tại ngã tư…, Joe, gia đình ông
Smith gặp sự cố gì…, Joe, em bé vào cấp cứu hôm qua như thế nào
rồi…? Joe không những trở nên “nguồn” cung cấp thông tin quí giá
cho nhiều người trong cộng đồng mình, nhưng còn cho giới săn tin
địa phương. Nhờ sự kiên nhẫn và thái độ khám phá của nhân viên
xã hội mà Joe được khám phá, và tài năng của anh ta được dùng để
giúp cho cộng đồng.
* * *
Bạn thân mến,
với cái nhìn đúng về cuộc đời và về con người, nó phần nào giúp
ta dễ dàng hơn trong việc thực hành đức tính kiên nhẫn. Kiên
nhẫn không chỉ được hiểu là hì hục làm lụng liên tục như một cái
máy, nhưng với thái độ khám phá và sẵn sàng đón nhận điều mới
mẻ, kiên nhẫn giúp ta thấy niềm vui và thêm sức mạnh để tiếp tục
hoàn thiện chính mình. Để có được cái nhìn khám phá trong cuộc
sống, ta cần loại bỏ quan niệm hơn-thua, được-mất trong cuộc
sống. Thật vậy, nếu nhân viên xã hội trong câu chuyện trên dựa
theo quan điểm được-mất, thì rõ ràng, bà đã mất nhiều thời gian,
vì nơi Joe không tìm thấy khả năng như mọi người khác. Nhưng với
cái nhìn khám phá trong mỗi con người, bà đã gạt đi những quan
niệm thất bại, thua cuộc mà nhiều người khác đã đánh giá về Joe
trước đây. Chính trong cái nhìn khám phá, bà đã tìm thấy nơi Joe
một kho báu ẩn chứa. Với cái nhìn khám phá, bà không quan trọng
việc thắng thua, được mất trong một nhiệm vụ, một công việc,
nhưng quan trọng là bà mở lòng để đón nhận mọi tiến trình. Dù có
thể là gặp thất bại trong một công việc, nhưng trong tiến trình
khám phá, bà vẫn kiên nhẫn tiến tới để hoàn thiện chính mình và
cùng giúp người khác cùng hoàn thiện.
Thưa bạn, nếu
đời ta chỉ dựa vào quan niệm thắng-thua, chắc một điều bạn sẽ
gặp thua nhiều hơn thắng; và kết cục cũng là thua. Nhưng nếu bạn
quan niệm đời mình như là một hành trình khám phá, thì dù có lúc
nào đó bạn “thua,” bạn vẫn đủ nghị lực để hoàn thiện con người
mình. Hãy kiên nhẫn với cái nhìn khám phá kho báu trong cuộc đời
và trong con người. Nó không dễ. Đúng! Nhưng nếu dễ, thì ta đâu
còn gọi nó là kho báu, phải không bạn?
Br.
Huynhquảng
brhq@brhuynhquang.org
www.brhuynhquang.org
|
VỀ MỤC LỤC |
|
ƠN
GỌI NÊN THÁNH CỦA BẬC HÔN NHÂN
|
Tác phẩm: Cẩm Nang Hạnh Phúc Gia Đình
Kitô - MỤC VỤ HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH
Tác
giả: D. WAHRHEIT (Lm. Minh Anh, GP. Huế tổng hợp biên tập)
B3.
ƠN GỌI NÊN THÁNH CỦA BẬC HÔN NHÂN
Nên thánh là ơn gọi và là nghĩa vụ của tất cả những ai đã chịu
phép rửa. Nhưng với tư cách là vợ chồng, những người tín hữu
Kitô có một cách thức riêng để sống và thực hiện ơn gọi nên
thánh. Do một thành kiến từ lâu đời, nhiều người đề cao đời sống
tận hiến trong dòng tu hoặc chức vụ linh mục, nhưng lại xem
thường đời sống gia đình. Mỗi bậc sống đều là ơn gọi của Chúa,
và ơn gọi nào cũng đều cao đẹp và có giá trị riêng của nó. Thế
nào là ơn gọi làm vợ làm chồng? Đâu là sứ mệnh của các bậc làm
cha mẹ? Tại sao gia đình là một Giáo Hội thu hẹp? Trả lời cho
những câu hỏi đó tức là chân nhận rằng, có một con đường nên
thánh dành riêng cho những người sống bậc vợ chồng.
1. Trong số 49 của Hiến Chế
Vui Mừng và Hy Vọng, Công Đồng Vaticanô II đã đề cao ơn gọi sống
đời gia đình như sau: “Để có thể kiên trì chu toàn nghĩa vụ
ơn gọi làm người Kitô hữu như thế, tức là sống đời vợ chồng, cần
phải có một nhân đức phi thường. Chính vì thế mà vợ chồng được
ơn Chúa củng cố để sống thánh thiện sẽ ân cần nuôi dưỡng và cầu
xin cho được một tình yêu kiên vững, một tâm hồn đại lượng và
tinh thần hy sinh”. Những dòng trên đây của Công Đồng xác
quyết rằng: Giáo Hội luôn đề cao và coi trọng đời sống hôn nhân.
Thánh thiện không còn là độc quyền của những người tận hiến, hôn
nhân không phải là một bậc sống thấp hèn hay chỉ là hạng hai
trong Giáo Hội. Công Đồng lại khẳng định: Cần phải có một
nhân đức phi thường, cần phải có những đức tính anh hùng mới có
thể chu toàn bổn phận đời sống vợ chồng.
Đâu là những bổn phận của đời sống vợ chồng? Đâu là những trợ
giúp của niềm tin Kitô trong việc chu toàn những bổn phận ấy?
Số 17 trong Tông Hiến Đời Sống Gia Đình do Đức Gioan Phaolô II
ban hành khoảng đầu thập niên 80 đã xác định như sau: “Gia
đình nhận lãnh trách nhiệm bảo toàn, nâng cao và thông truyền
tình yêu là một phản ảnh sống động và thông dự thực sự vào tình
yêu của Thiên Chúa đối với nhân loại”. Một cách cụ thể, gia
đình đảm nhận bốn trách vụ sau:
- Xây dựng cộng đồng tình yêu
- Phục vụ sự sống
- Tham dự vào việc phát triển xã hội
- Tham dự vào đời sống và sứ mệnh của Giáo Hội.
Cơ bản và quan trọng nhất trong 4 trách vụ trên đây chính là xây
dựng cộng đồng tình yêu. Tông Hiến giải thích: gia đình được
thiết lập và sinh động bởi tình yêu là một cộng đồng gồm những
con người: vợ chồng, cha mẹ, con cái, bà con thân thuộc.
Đức Gioan Phaolô II muốn vượt qua một mẫu gia đình khép kín, ích
kỷ, hưởng thụ mà xã hội văn minh ngày nay đề cao. Đó là mẫu gia
đình chỉ gồm có vợ chồng hoặc có một hay hai đứa con. Trong một
gia đình mà sự hiện diện của một mầm sống hay của một đứa con bị
xem như một gánh nặng, hoặc như một cản trở cho sự hưởng thụ;
trong một gia đình mà sự hiện diện của người già cả bị xem như
thừa thãi, trong một gia đình như thế hẳn không có tình yêu đích
thực.
Sự cao cả của gia đình chính là xây dựng một cồng đồng yêu
thương trước tiên trong ranh giới của chính nó. Và từ đó trải
dài tình yêu ấy đến với mọi người chung quanh. Phải tu thân,
tích đức, tề gia rồi mới có thể trị quốc và bình thiên hạ. Gia
đình là tế bào nguyên thuỷ của xã hội. Nếu tế bào ấy không được
lành mạnh; nếu gia đình chưa là một cộng đồng yêu thương, làm
sao có thể nói đến xây dựng xã hội.
Người ta không cần phải ra khỏi nhà để làm công tác xã hội từ
thiện. Không ai cần được yêu thương giúp đỡ cho bằng chính những
người thân trong gia đình. Khi gia đình trở thành một mái ấm
thực sự, khi gia đình trở thành một cộng đồng tình yêu thực sự,
hơi ấm của tình người sẽ toả lan đến những người bên ngoài gia
đình.
2. Tông Huấn của Đức Gioan
Phaolô II về đời sống hôn nhân và gia đình trong số 21 đã nói
đến việc xây dựng cộng đồng tình yêu trong gia đình như sau: “Tất
cả mọi phần tử của gia đình, mọi người tuỳ theo năng khiếu riêng
của mình đều nhận lãnh ân sủng và trách nhiệm để ngày qua ngày
xây dựng sự thông hiệp giữa nhau. Nhờ thế, họ biến gia đình
thành một trường dạy về nhân bản đầy đủ và phong phú
nhất. Điều đó được thể hiện bằng sự săn sóc hay tình thương yêu
đối với những người bé mọn, những người bệnh tật và người già
cả, bằng việc phục vụ nhau mỗi ngày, bằng sự chia sẻ cho nhau
của cải, niềm vui cũng như nỗi buồn. Một sự thông hiệp như thế
chỉ có thể duy trì và thêm hoàn hảo nhờ tinh thần hy sinh mà
thôi”.
Thực thế, để có sự thông hiệp giữa các phần tử trong gia đình,
cần phải có sự sẵn sàng và quảng đại cao độ của tất cả và của
từng người để cảm thông với nhau, khoan dung với nhau, tha thứ
cho nhau, hoà giải với nhau.
Các tu sĩ thường nói với nhau: việc đền tội nặng nề nhất đối với
tôi là đời sống chung. Thiết tưởng châm ngôn ấy càng phải áp
dụng hơn cho đời sống gia đình. Việc đền tội nặng nề nhất của
tôi là cuộc sống chung trong gia đình. Không cần một đặc sủng
phi thường, không cần một cuộc sống khắc khổ như các vị ẩn tu
trong sa mạc, cũng không cần phải là một tu sĩ mới có thể sống
những nhân đức anh hùng. Đời sống hôn nhân và gia đình cũng có
đủ những yếu tố để con người tập luyện những nhân đức anh hùng
ấy.
3. Ngay từ những trang đầu
của Kinh Thánh, chân lý về cuộc sống hôn nhân đã được hé mở với
tất cả vẻ đẹp và những đòi hỏi của nó. Thật thế, Kinh Thánh nói:
người đàn ông luyến ái với vợ mình và cả hai nên một thân xác.
Nên một mà vẫn là hai, còn gì cao đẹp bằng; nhưng cũng không gì
đòi hỏi bằng. Do đó, cuộc sống lứa đôi là một cố gắng không
ngừng để trưởng thành trong nhân cách, nghĩa là trở thành chính
mình hơn mà vẫn nên một với người khác. Hay đúng hơn, chính khi
vượt qua những dị biệt, vượt qua khỏi chính mình để nên một với
người khác mà con người đạt được sự trưởng thành.
Một tiến trình trưởng thành như thế đòi hỏi một sự hy sinh cao
độ. Nhưng người tín hữu Kitô nhờ hồng ân của phép rửa và nhất là
của bí tích Hôn Phối, sẽ đi vào tiến trình ấy với tất cả hân
hoan và yêu thương. Họ biết rằng, khi sống yêu thương là họ ở
trong Thiên Chúa.
Các tu sĩ được phong thánh không phải vì những hành động phi
thường của họ, mà chính vì đức ái họ thực thi trong đời sống
chung, hoặc cho những người khác. Cách tương tự, các đôi vợ
chồng cũng đạt được sự trọn lành trong đời sống vợ chồng của
mình nhờ những cố gắng thực thi đức ái cho nhau và cho mọi người
trong gia đình. |
VỀ MỤC LỤC |
|
SỚM KHÁM PHÁ UNG THƯ RUỘT GIÀ
|
Từ
năm 2000, tháng Ba mỗi năm đã được các tổ chức chống ung thư tại
Hoa Kỳ chọn là tháng để bà con ”đề cao cảnh giác” với bệnh ung
thư Ruột Già -Trực Tràng và nhớ yêu cầu bác sĩ làm các xét
nghiệm để sớm tìm ra bệnh.
Thống kê cho biết, năm 2008, có 139,000 người lớn tại Hoa Kỳ
được chẩn đoán bị ung thư ruột già với hơn 50.000 tử vong. Theo
Hội Ung Thư Hoa Kỳ, phân nửa số tử vong này có thể được cứu
sống nếu mọi người hiểu rõ về bệnh, phòng tránh các nguy cơ gây
ra bệnh và làm các thử nghiệm tìm bệnh đều đặn. Các thử nghiệm
sàng lọc này có thể sớm nhận diện bướu thịt (polyp) đáng ngại
hoặc u tiền ung thư để loại bỏ trước khi chúng chuyển sang bệnh
hiểm nghèo.
Vậy
thì những thử nghiệm đó là gì và được thực hiện như thế nào,
chúng ta cùng nhau tìm hiểu.
1- Khám hậu môn với ngón tay
Thử
nghiệm đầu tiên mà thầy thuốc sẽ làm là khám hậu môn. Nói tới
khám xét là ta cứ ngượng ngùng “em chã ”. Vì khi không lại phải
“vạch mông” cho người coi cái ”cửa sau”, phần thầm kín của con
người, thì cũng lạnh mình, đỏ mặt. Nhưng khi cần thì vẫn phải
làm.
Chổng mông để lương y thọc ngón tay chuối mắn - ngọc ngà vào,
ngoáy qua ngoáy lại từ trước ra sau, từ trên xuống dưới.
Để coi mặt trong ruột có trơn tru,
có cái u cái mụn nào không; rút ngón tay ra có chút máu dính vào
bao cao su. Với chiêu thức ngoáy tay, thầy thuốc cũng kiểm tra
coi cái tuyến tiền liệt của các ông xem có sưng, có gồ ghề.
Chẳng là ung thư ruột cũng “nhân nghĩa bà Tú Đễ ” thường tới
thăm chú tuyến tinh dịch này của quý lão ông lắm đấy.
Với vài giọt
hóa chất, thầy thuốc thử phân coi có vết máu.
Thử nghiệm
này rất giản dị, không đau đớn mà lại rẻ tiền nhưng hữu ích thì
“thần sầu”. Thần sầu vì có thể giúp ta sớm tìm ra những10% nan
bệnh, sớm điều trị, nâng cao kết quả, nhiều hy vọng lành bệnh.
Do đó, ta nên làm mỗi năm.
Nếu thử
nghiệm thấy có máu thì thầy thuốc sẽ tìm cách trực tiếp nhìn vào
trong ruột
2- Tìm máu ẩn trong phân
Trong điều
kiện bình thường, phẩn không có máu và đàm. Phẩn có máu là dấu
hiệu của một bệnh nào đó của ống tiêu hóa.
Máu có thề đỏ
tươi, bầm đen hoặc nâu sẫm tùy theo vị trí bệnh xa hay gần hậu
môn. Gần ( trực tràng, trĩ) thì đỏ, xa (ruột non, bao tử) thì
bầm vì đã bị vi khuẩn biến thành hóa chất hematin có mầu đen.
Máu đỏ tươi
thường là do trĩ hậu môn, trĩ mạch lươn dưới da chung quanh hậu
môn, bướu thịt hoặc ung thư ruột già, trực tràng.
Máu bầm đen
trong các bệnh loét dạ dày, đứt mạch máu ở ruột già, dùng quá
nhiều aspirin hoặc rượu, uống thuốc chống đông máu.
Số lượng máu
có thể nhiều hoặc ít như trường hợp máu ẩn (occult blood).
Máu ẩn có
rất ít trong phẩn mà mắt thường không thấy và chỉ tìm ra được
khi nhìn qua kính hiển vi hoặc thử nghiệm hóa học.
Nguồn gốc máu
ẩn có thể từ loét viêm dạ dày, viêm đường ruột, trĩ, ung thư
hoặc polyp trong ruột già.
Để thử
nghiệm, phẩn được lấy trong ba ngày liên tiếp và đựng trong hộp
đặc biệt do phòng thí nghiệm cung cấp. Giao hộp phẩn cho phòng
thí nghiệm để họ tìm máu.
Ba ngày trước
và trong thời gian lấy phẩn, bệnh nhân cần theo hướng dẫn như
sau:
- Tránh dùng
vitamin C hoặc tiêu thụ quá nhiều thực phẩm chứa sinh tố này như
chanh, cam vì sinh tố này cho kết quả dương tính sai.
- Tránh ăn
nhiều thịt đỏ có nhiều heme, thực phẩm có nhiều enzym peroxidase
như nấm, broccoli, giá đậu, cauliflower, táo, cam, chuối, dưa
canteloup, nho. Các chất này có thể làm cho kết quả thử nghiệm
dương tính sai
- Nên ăn thực
phẩm có nhiều chất xơ như đậu, rau để khối phẩn mềm lớn.
- Tránh thuốc
kích thích dạ dày, ruột gây ra xuất huyết như thuốc chống acit,
thuốc có chất steroid, thuốc chống viêm đau có chất aspirin,
rượu.
- Tránh uống
sinh tố có chất sắt.
Kiếm máu ẩn
trong phẩn có khả năng tìm ra polyp và ung thư ruột già khá sớm.
Tuy nhiên, kết quả dương tính không có nghĩa là đã bị ung thư vì
có nhiều nguyên do khác gây ra xuất huyết đường ruột. Thí dụ khi
dùng thuốc aspirin, ibuprofen, trong bệnh loét dạ dày, viêm
ruột…Đo đó, bệnh nhân có máu ẩn trong phân cần được xác định với
phương pháp nội soi, quan sát đường ruột.
Giới chức y
tế đề nghị tìm máu ẩn trong phẩn mỗi năm một lần.
3- Nội soi ruột già
Có người ví
Nội soi ruột già là tiêu chuẩn vàng (golden standard) để sàng
lọc ung thự ruột già - trực tràng.
Đây là phương
pháp khảo sát mặt trong của toàn thể trực tràng với một ống dây
quang học bằng nhựa mềm dễ uốn, có đèn sáng dẫn đường và máy
chụp hình. Đưa ống sâu vào hậu môn, điều chỉnh máy, bác sĩ có
thể làm một vòng thám hiểm bất cứ góc cạnh nào của ruột và mao
tôn cương: qua đèn, nhìn ruột rõ như ban ngày, nào là gồ ghề
bướu thịt, loét lở thành ruột, bê bết máu tươi đều thấy hết,
ngoại trừ bầy vi sinh vật lúc nhúc cộng sinh. Nhắc lại là trong
trường hợp bình thường, lòng ruột già trơn mềm như mặt trong của
má.
Hình ảnh
ruột được chiếu trên màn hình TV để phân tích và có thể lưu trữ.
Nội soi được
làm tại bệnh viện hoặc phòng nội soi ngoại chẩn, trung bình kéo
dài từ 30-60 phút và do bác sĩ chuyên ruột - bao tử thực hiện.
Bệnh nhân được cho dùng liều thuốc an thần để giảm lo âu, khó
chịu, do đó cần người lái xe đưa về nhà sau khám nghiệm.
Trước khi làm
nội soi, bệnh nhân được cho thuốc tẩy rửa ruột sạch sẽ để bác sĩ
dễ quan sát. Đây là điểm mà nhiều người e ngại vì phải uống một
lọ thuốc xổ cộng thêm cả lít nước để rồi tiêu chẩy soèn soẹt.
Hiện nay có thuốc tẩy rửa dạng viên cho nên việc sửa soạn ít khó
chịu hơn.
Một ngày
trước thử nghiệm, bệnh nhân không ăn thực phẩm mà chỉ uống nước
trong không bã.
Nếu thử
nghiệm vào buổi sáng, không ăn uống gì sau nửa đêm. Nếu là buổi
chiều thì uống thuốc tẩy xổ theo đúng hướng dẫn.
Không nên
uống aspirin hoặc thuốc chống viêm 5 ngày trước thử nghiệm để
tránh nguy cơ xuất huyết khi polyp được cắt bỏ.
Cho bác sĩ
hay nếu có vấn đề dị ứng, uống thuốc loãng máu, đang bị bệnh
tiểu đường, có thai, cho con bú sữa mẹ hoặc khó khăn chích tĩnh
mạch.
Sau thử
nghiệm, bệnh nhân cảm thấy tưng tức ở bụng, nhưng hết sau vài
giờ. Dăm giờ sau thử nghiệm, bệnh nhân có thể ăn lại như thường
lệ.
Mục đích của
nội soi gồm có:
- Đánh giá
các u bướu, loét lở, thu hẹp lòng ruột già khi chụp hình X-quang
ruột;
- Chẩn đoán
viêm ruột;
- Tìm nguyên
nhân gây ra tiêu chảy khi các thử nghiệm thông thường không
thành công;
- Tìm nguyên
nhân xuất huyết đường tiêu hóa, đặc biệt trong bệnh thiếu máu do
thiếu sắt;
- Chẩn đoán
ung thư ở người có thân nhân bị ung thư hoặc bướu thịt;
- Cắt bỏ bướu
thịt, chữa xuất huyết ruột hoặc lấy vật lạ trong ruột.
Nội soi được
áp dụng khi có một trong các bất thường như thay đổi thói quen
đại tiện, máu trong phẩn, đau bụng liên tục, người từ 50 tuổi
trở lên.
Hội Ung Thư
đề nghị những ai trên 50 tuổi nên làm nội soi ruột già mỗi 7-10
năm. Người có rủi ro ung thư ruột già cần thực hiện sàng lọc này
gần hơn, tùy theo ý kiến của bác sĩ điều trị.
Bình thường,
phương pháp rất an toàn, hãn hữu lắm mới có khó khăn như lủng
ruột.
Nếu có u
bướu, bác sĩ sẽ thực hiện sinh thiết (biopsy) để xác định tế bào
ung thư, chụp x-quang xương, CT scan…rồi điều trị.
Mặc dù nội
soi ruột là phương thức sàng lọc hữu hiệu, nhưng số người thực
hiện cũng khá khiêm nhường. Lý do là nhiều người ngại đau, ngại
phải uống thuốc tẩy sổ để làm sạch ruột và lý do quan trọng hơn
là chi phí nội soi khá cao. Nếu bảo hiểm không đài thọ thì bệnh
nhân phải bỏ tiền túi ra trang trải.
4- Nội soi trực tràng
Một dụng cụ
đơn giản hơn máy nội soi ruột già là máy nội soi ruột sigma
(sigmoidoscope) được dùng để quan sát phần dưới của ruột già và
trực tràng. Khoảng 50% ung thư hoặc bướu thịt xuất hiện ở phần
trên ruột già.
Một ống mềm
uốn cong , đầu có gắn máy thu hình nhỏ với đèn được dưa vào hậu
môn. Qua thiết bị, bác sĩ quan sát phần dưới ruột già và trực
tràng để tìm ra bất thường.
Coi vậy ta
thấy có nhiều cách để sàng lọc tìm kiếm ung thư ruột già, nhưng
căn bản chỉ có hai loại được giới chức y tế khuyên cần làm theo
định kỳ: Đó là tìm máu ẩn trong phẩn (Fecal occult blood test)
và nội soi ruột già (Colonoscopy screening).
Kết luận
Theo bác sĩ Durado D. Brooks, Giám đốc khoa ung thư nhiếp tuyến
và ruột già thuộc Hội Ung Thư Hoa Kỳ thì “Ung thư ruột già là
một trong những ung thư duy nhất có thể phòng tránh qua khám
nghiệm đều đặn”. Cơ quan Kiểm Soát Bệnh Hoa Kỳ (CDC) cũng có
cùng ý kiến.
Ngoài ra nghiên cứu cho hay, 90% người được sàng lọc khám phá ra
ung thư ruột già sớm có tỷ lệ sống sót 5 năm, trong khi đó nếu
khám phá trễ số người sống sót còn có 10%.
Do đó, các
giới chức y tế đều nhắc nhở dân chúng để ý tới dấu hiệu báo động
của bệnh, cấp kỳ thông báo cho bác sĩ và làm các thử nghiệm sẵn
có đề truy tìm “ung tặc”, càng sớm càng tốt.
Điều đáng
ngại là, theo Hội Ung thư Hoa Kỳ, chỉ có 30% người được khuyến
khích làm thử nghiệm tìm kiếm bệnh chịu thực hiện lời khuyên.
Đó là điều
dáng tiếc vậy.
Bác sĩ Nguyễn
Ý-Đức
Texas-Hoa Kỳ.
www.bsnguyenyduc.com
|
VỀ MỤC LỤC |
PHỞ VÀ CƠM THỜI H1N1 - Chuyện phiếm của Gã Siêu |
Việt Nam và thế giới đã trải qua dịch cúm gà H5N1 và đang phải
đối phó với dịch cúm lợn H1N1. Qua những gì đọc trên báo chí,
trong mỗi cơn dịch gã đã chọn lấy một bài viết mà gã cho là đắc
ý nhất, đối với riêng gã mà thôi.
Trước hết là dịch cúm H5N1, được gọi là cúm gà, hay nói đúng hơn
là cúm gia cầm, kể cả loài chim chóc sống trên rừng hay được
nuôi trong lồng. Dịch cúm này do một loại virus gây nên, rồi lây
nhiễm sang một số động vật có vú. Loại virus ấy được phát hiện
trước tiên tại Ý vào năm 1900, bắt đầu hoành hành và lây nhiễm
qua người từ năm 1997 tại Hong Kong và có nguy cơ trở thành một
đại dịch trong tương lai. Tính đến ngày 28.2.2008, trên thế giới
đã có 369 người niễm virus H5N1 và trong đó 234 người đã tử
vong.
Mấy năm trước tại Việt Nam, hễ ở đâu dịch bệnh này xuất hiện,
thì lập tức mọi gà vịt, chim chóc đều bị thu gom và đem chôn hay
đem đốt trong đường bán kính ba cây số. Chính vì thế, gã ghi
nhận được mẩu truyện “Tiếng gọi của con chim sáo” của tác giả
Bích Ngân, đăng trên báo báo “Tuổi Trẻ Chủ Nhật”, số 1065 ra
ngày 08.02.2004, đại khái như thế này:
Sau nhiều năm tháng vừa học vừa làm, hai vợ chồng trẻ dốc tất cả
vốn liếng mới thành lập được một trại gà nho nhỏ. Khi trại gà
vừa mới ra lò thì anh chồng đột ngột qua đời. Trại gà liên tục
phát triển vừa đúng một năm, thì xảy ra dịch cúm. Thế là toàn bộ
số gà nuôi trong trại đều bị cán bộ đến bắt và mang đi chôn, chỉ
còn lại một con chim sáo.
Hôm ấy, chị vợ tổ chức lễ giỗ đầy năm cho anh chồng và cũng để
nhớ tới đàn gà thân thương của mình đã bị ngỏm củ tỏi. Đang lúc
thắp nén nhang tưởng niệm, chị vợ bỗng giật mình vì nghe thấy
tiếng nói rất quen thuộc:
- Hằng ơi, anh yêu em lắm.
Đó là tiếng nói của con chim sáo. Tiếng nói ấy khiến chị vợ cảm
thấy như hồn anh chồng đã nhập vào nó. Thế nhưng cùng lúc đó,
anh cán bộ thú y xuất hiện và bảo cho chị hay:
- Cả chim sáo cũng bị hủy diệt.
Suốt đêm, chị vợ trằn trọc không tài nào ngủ nổi. Cuối cùng, chị
vợ quyết định mở lồng trả tự do cho con chim sáo. Và khi anh cán
bộ đến, chị nói:
- Đêm hôm qua, con chim sáo nhà tôi đã bị mèo vồ mất rồi.
Chị vừa dứt lời, thì một giọng nói vang lên :
- Hằng ơi, anh yêu em lắm.
Thì ra đó vẫn là giọng nói của con chim sáo. Mặc dù được tự do,
nhưng con chim sáo không nỡ rời xa chủ, nó bay vào kẹt tủ. Và
bây giờ nó lên tiếng nói. Tiếng nói của nó là như một lời tố
giác: Lạy ông tôi ở bụi này. Và anh cán bộ thú y chỉ cần thò tay
ra, chụp lấy và nhét vào bao. Còn chị vợ thì đứng nhìn. Những
giọt nước mắt nóng hổi rơi trên gò má lúc nào cũng chẳng hay
biết.
Tiếp đến là dịch cúm H1N1, được người miền Bắc gọi là cúm lợn,
người miền Nam gọi là cúm heo, còn những người thích đùa thì gọi
là “cúm Trư Bát Giới”. Đây là một loại bệnh hô hấp thường xảy ra
cho các đàn heo. Thế nhưng, virus bệnh này đã biến thể thành
dạng lây từ người sang người và hiện nay vẫn còn đang tiến mau,
tiến mạnh và tiến vững chắc trên toàn cõi địa cầu, để rồi thực
sự bùng phát thành một cơn đại dịch, khiến cho tổ chức Y tế Thế
giới nâng mức báo động lên cấp 6, tức là cấp cao nhất.
Thực vậy, dịch cúm này xuất phát từ Mễ, lây qua Mỹ, Canada và
hiện giờ đã có mặt tại nhiều nước trên thế giới. Chính phủ Mễ
cho biết hơn 60 người đã bị thiệt mạng và trên 1000 người bị
nghi là đã bị nhiễm bệnh. Riêng tại Việt Nam cũng đã có tới hơn
500 người mắc phải, nhưng hình như chưa có ai bị đi tàu suốt
sang thế giới bên kia!
Không biết tác giả nào đó đã viết bài “Phở là phương thuốc trị
cúm độc quyền của người Việt Nam”. Gã đã đọc và lấy làm thích
thú. Theo tác giả, thì thuốc điều trị bệnh cúm lợn hiện nay là
Tamiflu và thành phần chính để chế tạo Tamiflu là axit shikimic.
Axit này được chiết xuất từ bông đại hồi.
Cây đại hồi, còn được gọi là đại hồi hương, hay bát giác hồi
hương, hay chỉ đơn giản là cây hồi, một loại cây gia vị có mù
thơm, thu được từ vỏ quả hình sao. Loại cây này mọc ở bên Tàu và
ở vùng đông bắc Việt Nam, như Cao Bằng, Lạng Sơn…Quả của nó được
thu hoạch ngay trước khi chín và được dùng trong ẩm thực của
người Tàu và Việt. Chẳng hạn trong ngũ vị hương cũng có đại hồi.
Các nước Âu Mỹ không trồng được đại hồi, cho nên khi điều chế
Tamiflu, họ phải trải qua nhiều giai đoạn tong hợp mới có được
axit shikimic. Trong khi đó người Tàu chiết xuất trực tiếp từ
bông đại hồi, nên bây giờ số lượng dữ trữ Tamiflu của họ đủ để
cung ứng cho trên một tỷ dân Tàu, nếu dịch cúm này xảy ra trên
đất nước họ. Còn người Việt Nam chúng ta từ lâu đã có một cách
tổng hợp axit shikimic vừa nhanh chóng, lại vừa ngon bổ rẻ, mà
không cần tới mấy ông dược sĩ hay mấy nhà khoa học, mà chỉ cần
tới bàn tay của bà nội trợ để nấu mon…phở bò.
Sở dĩ như vậy là vì đại hồi cũng là một thành phần gia vị được
sử dụng trong việc nấu nước dùng cho món phở của người Việt Nam
chúng ta. Chính vì thế, ăn phở đã trở thành một phương thế đặc
biệt của người Viet Nam để trị liệu bệnh cúm hiện nay.
Như chúng ta đã biết: Phở là một món ăn truyền thống và đặc
trưng nhất cho ẩm thực Việt Nam. Thành phần chính của phở là
bánh phở và nước dùng hay nước lèo theo cách gọi của người miền
Nam, cùng với thịt bò hay gà cắt lát mỏng. Ngoài ra, còn kèm
theo các gia vị như tương, tiêu, chanh, ớt, nước mắm… Phở thường
là phở bò và phở gà. Tại một số nơi ở miền bắc, còn có thêm phở
lợn, phở vịt, phở ngan…nhưng xem ra không mấy ăn khách.
Nước lèo nói chung được làm bằng việc hầm xương bò hay xương gà
và gia vị bao gồm quế, hồi, gừng, thảo qua, đinh hương, hạt mùi.
Miền bắc thường sử dụng nhiều bột ngọt, còn được gọi là mì
chính…Bánh phở theo truyền thống được làm từ bột gạo, tráng
thành tấm mỏng, rồi cắt thành sợi. Phở thường được dùng làm món
điểm tâm ban sáng, hay món ăn ban tối, ít thấy nơi bán phở
thường trực suốt ngày.
Một số giả thuyết cho rằng phở có lẽ xuất hiện đầu tiên tại Nam
Định, nhưng Hà Nội mới là nơi làm cho món ăn này nổi tiếng như
ngày nay. Nhờ cuộc di cư năm 1954, phở được liên tục phát triển
ở miền Nam với nhiều khác biệt. Chẳng hạn tại nhiều nơi và nhất
là tại Saigon, thịt bò trong phở thường được bán theo năm kiểu:
tái, chín, nạm, gầu, gân tuỳ theo ý thích của khách. Ngoài ra
còn có một chén nước béo để riêng, nếu khách muốn, đồng thời còn
phải có chanh, ớt, ngò gai, húng quế và giá, đôi khi còn có cả
hành tây cắt lát mỏng. Sau này, một sốt tiệm còn thêm ngò ôm,
húng láng, hành lá dài và các loại rau thơm khác. Một số tiệm
phở nổi tiếng ở Saigon trước năm 1975 mà nay vẫn còn như phở Tàu
Bay, Phở Hoà, phở Quyền…Riêng phở gà thì đóng đô ở đường Hiền
Vương. Và hiện nay, nhờ việc định cư của người Việt tại nước
ngoài, phở đã có mặt ở nhiều nơi trên thế giới.
Có giả thuyết cho rằng phở bắt nguồn từ phương pháp nấu món thịt
hầm của Pháp, được gọi là “pot-au-feu”, đọc thành “pô tô phơ”.
Có giả thuyết cho rằng phở chịu ảnh hưởng của Tàu, vì khá giống
với món hoành thánh. Tuy nhiên bánh phở cùng với những gia vị và
rau thơm, nhất là với cách thức chế biến, phở đã mang một tính
cách đặc biệt của ẩm thực Việt Nam, nên chắc chắn phải có nguồn
gốc từ Việt Nam. Do đó gã xin nhắc lại: trong hoàn cảnh H1N1
bùng phát, thì ăn phở chính là một phương thế đặc biệt của
người Việt Nam để trị liệu bệnh cúm.
Đọc tới đây, hẳn rằng có nhiều anh chồng cười thầm trong bụng,
bởi vì chữ “phở” hiện nay vốn được bàn dân thiên hạ hiểu là bồ
nhí, còn “cơm” được hiểu là “bà xã”. Trên trang báo này, gã đã
từng bàn đến cơm và phở, chả và nem. Hôm nay, với những tài liệu
mới, gã xin trở lại đề tài này một lần nữa: Phở và cơm.
Xét về “thành phần cấu tạo”, thì cơm và phở rất giống nhau, vì
được làm chủ yếu từ gạo tẻ. Phở có thịt có hành, thì cơm cũng
có, đã vậy cơm còn an toàn hơn vì không bao giờ bị trộn hàn the
và nhất là giá rẻ hơn mà lại no lâu hơn.
Dân gian gọi vợ là cơm và bồ nhí là phở, xét theo khoa học, thì
cách gọi này chẳng xúc phạm đến ai, vì cả hai “món” vừa có thành
phần chế biến giống nhau, nhưng lại vừa có những giá trị độc lập
khác nhau, chẳng cái nào hơn cái nào.
Nhưng về phương diện thực tế, rõ ràng phở luôn tượng trưng cho
sự bay bướm, mặc dù nhiều lúc “phở” xấu hoặc già hơn cơm, nhưng
vẫn chiếm được ưu thế của mình trong chuyện tình ái lăng nhăng.
Lê Anh Vũ trên báo “Phụ nữ Chủ nhật” đã diễn tả như sau:
- Cơm khoe: tớ nhất trên đời,
Phở rằng: tớ cũng tuyệt vời đấy nha.
Cơm là từ gạo mà ra,
Phở cũng từ gạo, nhưng mà…ngon hơn.
Nói theo kiểu triết học, thì cái ngon của cơm thuộc vào “bản
thể”, còn cai ngon của phở thuộc vào “tuỳ thể”:
- Cơm nhờ hương gạo mà thơm,
Phở nhiều “nguyên liệu” nên thơm đủ mùi.
Một tác giả khác, mà gã không nhớ tên, đã đưa ra những lý do
mang tích hài hước, để giải thích vì sao do đờn ông lại thích
phở, mà vẫn không bỏ được cơm:
Lý do thứ nhất, đó là và vì đờn ông ít được ăn phở, nhất là phở
đặc biệt, thì phải có tiền có xe, trong khi cơm ngày nào cũng
được ăn và phải ăn:
- Cơm ăn hàng bữa nên quen,
Phở thì thỉnh thoảng nên thèm đương nhiên.
Lý do thứ hai, đó là vì đờn ông dùng cơm ở nhà, trong bầu khí
quen thuộc ấm áp đến độ nhàm chán, còn dùng phở ở xa nhà, trang
trí lạ mắt, đôi khi còn đẹp mắt và có cả âm nhạc phụ hoạ.
Lý do thứ ba, đó là vì khi đã no, thì rất khó ăn thêm cơm, còn
đối với phở, no tới mấy cũng có thể làm thêm vài tô:
- Cơm ăn no bụng là thôi,
Phở vừa no, lại muốn đòi ăn thêm.
Lý do thứ bốn, đó là khi ăn phở, ta có thể dễ dàng đòi thêm tí
hành, tí bánh hay tí ớt cho thêm phần đậm đà. Còn khi ăn cơm,
thì có gì xơi nấy, yêu sách lôi thôi còn bị mắng, hay bị gắt
gỏng: không ăn thì thôi.
Lý do thứ năm, đó là khi ăn phở xong, có thể đứng dậy, đi ngang
hoặc ngồi và nằm một chút. Còn khi ăn cơm xong, có nhiều khả
năng phải thu dọn và rửa chén bát.
Lý do thứ sáu, đó là phở thì không quán nào giống quán nào, thậm
chí không tô nào giống tô nao. Còn cơm thì bao nhiêu năm rồi
cũng vẫn thế, chỉ có nguội hơn mà thôi.
Lý do thứ sáu, đó là phở có thể được ăn chung với bạn bè, còn
cơm thì rất ít, phần lớn là ăn chung với…bà nấu cơm.
Lý do thứ bảy, đó là phở tuy cùng một chỗ, nhưng có thể yêu cầu
tái, chín, nạm, gầu, gân…tuỳ thực khách quyết định. Còn cơm thì
hoàn toàn do mụ nấu quyết định, không được đòi hỏi lôi thôi.
Lý do thứ tám, đó là nếu ăn phở nhiều tới mức trở thành khách
quen, thì có thể ăn…nợ, ăn ghi sổ. Chứ còn cơm, nếu không đưa
tiền lương, sẽ bị cúp ngay.
Và sau cùng lý do thứ tám, đó là bỏ tiệm phở này, ta có thể dễ
dàng tìm tiệm phở khác, chứ còn bỏ cơm, thì quả thật lôi thôi to
và phức tạp vô cùng,
Chính vì những lý do trên, mà có anh chồng thèm phở và lại cứ
muốn ăn thêm mãi, nên đã ẵm tới 10 bà vợ, như bài thơ của một
anh bạn bên Đan Mạch đã gửi về cho gã:
- Vợ một dành để nấu ăn,
Vợ hai tôi để quét sân lau nhà.
Vợ ba da dẻ nõn nà,
Nên đành cất kỹ để mà tôi…ôm.
Vợ bốn tội nghiệp ốm ròm,
Thôi thì coi sóc chăm nom vịt gà.
Vợ năm có tính thật thà,
Đi làm mang “chéc” về nhà bỏ băng.
Vợ bảy giặt giũ chiếu mền,
Đấm lưng cạo gió khi mình ốm đau.
Vợ tám xinh đẹp làm sao,
Để đi dạo phố hỏi chào bà con.
Vợ chín có tính hát đàn,
Thôi thì ca múa nhịp nhàng tôi nghe.
Vợ mười làm lụng sau hè,
Trồng rau, bửa củi chẳng nề chuyện chi.
Mười vợ tôi vẫn cười khì,
Kiếm thêm bà nữa lỡ khi tối trời,
Mười vợ sướng lắm ai ơi!
Không tin làm thử…Ối giời khoẻ re.
Gã nghĩ rằng đây chỉ là một bài thơ bỡn cợt, chứ lam sao mà có
được trong thực tế cuộc đời.
Hơn thế nữa cũng vì trọng phở khinh cơm mà có những anh chồng
đối xử thật bất công với bà xã, theo kiểu:
- Bồ là phở nóng tuyệt vời,
Vợ là cơm nguội đáy nồi hẩm hiu.
Bồ là nơi tỏ lời yêu,
Vợ là nơi trút bao nhiêu bực mình.
Bồ là rượu ngọt trong bình,
Vợ là nước ở ao đình nhạt pheo.
Nhìn bồ đôi mắt trong veo,
Vợ thì đôi mắt trong veo chẳng thèm.
Bồ tiêu thì chẳng tiếc tiền,
Vợ tieu một cắc thì liền kêu hoang.
Bồ hờn thì phải xuống thang,
Vợ hờn bị mắng, bị phang thêm liền.
Một khi túi hãy còn tiền,
Thì bồ thắm thiết kề liền bên anh.
Một mai hết sạch sành sanh,
Bồ đi, vợ đón anh về nhà ta…
Tuy nhiên, như gã vừa mới xác quyết ở trên: cái ngon của cơm
thuộc vào “bản thể”, còn cái ngon của phở thuộc vào “tuỳ thể”.
Vì thế, phở nay còn mai mất, nay xuất hiện mai biến đi, nhưng
cơm thì bền vững đến muôn ngàn đời:
- Một mai hết sạch sành sanh,
Bồ đi, vợ đón mời anh đi về.
Bồ là lều, vợ là nhà,
Gió to lều sụp, mái nhà còn kia.
Vợ là cơm nguội của ta,
Nhưng là đặc sản thằng cha láng giềng!
Nếu cơm ngon tự bản thể của nó, thì nơi người vợ cũng có nhiều
ưu điểm, nhiều cái hay và cái tốt, nhưng chỉ vì u mê tăm tối và
bị dục vọng làm mờ cặp mắt, khiến anh chồng chẳng còn nhìn thấy.
Vì thế, cần phải phục hồi giá trị cho cơm, cũng như cho chị vợ
của mình:
- Cơm chân chất, chẳng đẩy đưa,
Phở trang trí đẹp, dễ lừa mắt ai.
Cơm ngon chẳng sợ tiếng tai,
Phở tuy đẹp đẽ nhưng đầy hoài nghi.
Cơm quen chẳng ngại ngần gì,
Phở ăn dăm bữa tức thì ngán thôi.
Phụ “cơm”, chớ phụ người ơi!
Cho dù thua “phở”, nhưng thời…an tâm. (Lê Anh Vũ)
Cho nên hỡi nhưng anh chồng, chớ có dại mà đi hoang, đèo bòng bồ
nhí, thèm phở bỏ cơm, chi bằng hãy tỉnh ngộ:
- Ta về ta tắm ao ta,
Dầu trong dầu đục ao nhà vẫn hơn.
Gã Siêu
gasieu@gmail.com
|
VỀ MỤC LỤC |
|
- Mọi liên lạc: Ghi danh, thay đổi địa chỉ, đóng góp ý kiến,
bài vở..., xin gởi về địa chỉ
giaosivietnam@gmail.com
- Những nội dung sẽ được đề cao và chú ý bao gồm:
Trao đổi, chia sẻ những kinh nghiệm thực tế trong việc mục
vụ của Giáo sĩ; Những tài liệu của Giáo hội hoặc của các
Tác giả nhằm mục đích Thăng tiến đời sống Giáo sĩ; Cổ võ ơn
gọi Linh mục; Người Giáo dân tham gia công việc “Trợ lực
Giáo sĩ” bằng đời sống cầu nguyện và cộng tác trong mọi lãnh
vực; Mỗi Giáo dân phải là những “Linh mục” không có chức
Thánh; Đối thoại trong tinh thần Bác ái giữa Giáo dân và
Giáo sĩ… (Truyền giáo hay xây pháo đài?)
- Quy vị cũng có thể tham khảo những số báo đã phát hành tại
www.conggiaovietnam.net
Rất mong được sự cộng tác, hưởng ứng của tất cả Quí vị
Xin chân thành cám ơn tất cả anh chị em đã
sẵn lòng cộng tác với chúng tôi bằng nhiều cách thế khác
nhau.
TM. Đặc San Giáo Sĩ Việt Nam
Lm. Luca
Phạm Quốc Sử
USA
|
|
*************
|
|