Một Số Vấn Ðề Khẩn
Thiết |
Hiến Chế Mục Vụ
Về Giáo Hội Trong Thế Giới
Ngày Nay
Gaudium Et Spes
Prepared for
Internet by Vietnamese Missionaries in Asia
Phần Thứ Hai
Một Số Vấn Ðề Khẩn
Thiết
46. Lời
mở đầu. Sau khi trình bày về phẩm giá nhân vị cũng như về một số
bổn phận cá nhân hay xã hội mà con người được gọi để chu toàn trong vũ trụ, nay
Công Ðồng, với ánh sáng Phúc Âm và kinh nghiệm nhân loại, lưu ý mọi người về một
số nhu cầu khẩn thiết của thời đại này, và là những nhu cầu đang ảnh hưởng rất
nhiều đến nhân loại.
Giữa nhiều vấn đề làm cho mọi người
ngày nay quan tâm, nên ghi nhận trước hết những điểm sau đây: hôn nhân và gia
đình, văn hóa nhân loại, đời sống kinh tế xã hội và chính trị, hòa bình và sự
liên đới gia đình các dân tộc. Cần phải dùng những nguyên tắc và ánh sáng bắt
nguồn từ Chúa Kitô chiếu giãi từng vấn đề này, để những nguyên tắc và ánh sáng
đó hướng dẫn các Kitô hữu và soi sáng mọi người trong công cuộc kiếm tìm giải
pháp cho biết bao vấn đề phức tạp nêu trên.
Chương I
Phải Ðề Cao Phẩm
Giá
Của Hôn Nhân
Và Gia Ðình 51*
47. Hôn
nhân và gia đình trong thế giới ngày nay. Sự lành mạnh của con
người cũng như xã hội nhân loại và Kitô giáo liên kết chặt chẽ với tình trạng
tốt đẹp của cộng đoàn hôn nhân và gia đình. Do đó, cùng với tất cả những ai tán
dương các cộng đoàn hôn nhân và gia đình, người Kitô hữu thành thực vui mừng
trước những trợ lực khác nhau giúp con người ngày nay tiến tới trong việc cổ võ
cộng đoàn yêu thương ấy cũng như trong sự tôn trọng đời sống; những trợ lực ấy
còn giúp đỡ các đôi vợ chồng và các bậc làm cha mẹ trong sứ mệnh cao cả của họ.
Người Kitô hữu còn mong đợi và nỗ lực thực hiện những thành quả tốt đẹp hơn.
Nhưng phẩm giá của định chế ấy
không phải ở đâu cũng sáng tỏ như nhau, vì đã bị lu mờ bởi chế độ đa thê, nạn ly
dị, bởi cái mà người ta gọi là tự do luyến ái, cùng những hình thức lệch lạc
khác. Hơn nữa, tình yêu hôn nhân rất thường bị hoen ố vì lòng ích kỷ, khoái lạc
chủ nghĩa và những lạm dụng bất hợp pháp cản trở sự sinh sản. Ngoài ra, các hoàn
cảnh hiện tại về kinh tế, xã hội, tâm lý và chính trị đang gây cho gia đình
những xáo trộn trầm trọng. Sau hết, tại một vài nơi trên thế giới, người ta
không khỏi lo lắng nhận thấy những vấn đề được phát hiện do sự gia tăng dân số.
Tất cả những điều ấy đang làm khắc khoải lương tâm con người
52*. Tuy nhiên, có một điều chứng tỏ sức mạnh và
sự bền vững của định chế hôn nhân và gia đình, đó là các biến đổi sâu xa của xã
hội hiện tại, mặc dù gây ra nhiều khó khăn, nhưng vẫn rất thường bộc lộ bản chất
đích thực của định chế trên bằng nhiều cách.
Bởi vậy, bằng cách làm sáng tỏ hơn
một vài chủ điểm trong giáo lý của Giáo Hội, Công Ðồng muốn soi sáng và khích lệ
người Kitô hữu cũng như mọi người đang cố gắng bảo toàn và cổ võ phẩm giá tự
nhiên cũng như giá trị thiêng liêng cao cả của đời sống hôn nhân.
48. Sự
thánh thiện của hôn nhân và gia đình. Ðấng Tạo Hóa đã thiết lập
và ban những định luật riêng cho đời sống chung thân mật và cho cộng đoàn tình
yêu vợ chồng. Ðời sống chung này được gầy dựng do giao ước hôn nhân, nghĩa là sự
ưng thuận cá nhân không thể rút lại 53*. Như
thế, bởi một hành vi nhân linh, trong đó, hai vợ chồng tự hiến cho nhau và đón
nhận nhau, nhờ sự an bài của Thiên Chúa, phát sinh một định chế vững chắc có giá
trị trước mặt xã hội nữa. Vì lợi ích của lứa đôi, của con cái và của xã hội, nên
sợi dây liên kết thánh thiện này không lệ thuộc sở thích của con người. Chính
Thiên Chúa là Ðấng tác tạo hôn nhân, phú bẩm những lợi ích và mục tiêu khác nhau
1; những điều ấy hết sức quan trọng đối với sự
tiếp nối nhân loại, sự phát triển cá nhân và phần rỗi đời đời của mỗi thành phần
trong gia đình, quan trọng đối với phẩm giá, sự vững chãi, an bình và thịnh
vượng của chính gia đình và của toàn thể xã hội loài người. Tự bản chất, chính
định chế hôn nhân và tình yêu lứa đôi qui hướng về việc sinh sản và giáo dục con
cái như chóp đỉnh diễm phúc của hôn nhân. Như thế, bởi giao ước hôn nhân, người
nam và người nữ "không còn là hai, nhưng là một xương thịt" (Mt 19,6), phục vụ
và giúp đỡ lẫn nhau bằng sự kết hợp mật thiết trong con người và hành động của
họ, cảm nghiệm và hiểu được sự hiệp nhất với nhau mỗi ngày mỗi đầy đủ hơn. Sự
liên kết mật thiết vẫn là sự tự hiến của hai người cho nhau cũng như lợi ích của
con cái buộc hai vợ chồng phải hoàn toàn trung tín và đòi hỏi kết hợp với nhau
bất khả phân ly 2.
Chúa Kitô ban dồi dào ơn phúc cho
tình yêu muôn hình ấy, một tình yêu phát xuất từ nguồn mạch tình yêu Thiên Chúa
và được tác thành theo gương kết hiệp của Chúa Kitô và Giáo Hội. Thực vậy, như
xưa kia Thiên Chúa đến gặp gỡ dân Ngài bằng một giao ước yêu thương và trung
thành 3, ngày nay Ðấng Cứu Thế, Bạn Trăm Năm
của Giáo Hội 4, cũng đến với đôi vợ chồng qua
Bí Tích Hôn Phối. Người còn ở lại với họ để hai vợ chồng cũng mãi mãi trung
thành yêu thương nhau bằng sự tự hiến cho nhau như Người đã yêu thương Giáo Hội
và đã nộp mình vì Giáo Hội 5. Tình yêu vợ
chồng đích thực được kết nhập trong tình yêu Thiên Chúa, được hướng dẫn và thêm
phong phú nhờ quyền năng cứu chuộc của Chúa Kitô và hoạt động cứu rỗi của Giáo
Hội, để hai vợ chồng được dẫn dắt cách hữu hiệu đến cùng Thiên Chúa, cũng như
được nâng đỡ và kiện cường trong nhiệm vụ cao cả làm cha mẹ
6. Bởi đó, vợ chồng Kitô hữu được củng cố và như
được thánh hiến 7 bằng một bí tích riêng để
được lãnh nhận các bổn phận và phẩm giá của bậc sống họ; nhờ sức mạnh của bí
tích này, họ được thấm nhuần tinh thần Chúa Kitô mà chu toàn bổn phận hôn nhân
và gia đình của họ, nhờ đó tất cả đời sống của họ được thấm nhuần đức tin, cậy,
mến, và càng ngày họ càng tiến gần hơn tới sự trọn lành riêng biệt của họ và sự
thánh hóa lẫn nhau; và bởi đấy, cùng nhau tôn vinh Thiên Chúa
54*.
Do đó, được cha mẹ hướng dẫn bằng
gương sáng và kinh nguyện gia đình, con cái và tất cả những ai sống trong khuôn
khổ gia đình sẽ gặp được con đường nhân ái, cứu độ và thánh thiện dễ dàng hơn.
Còn vợ chồng đã lãnh nhận phẩm giá và chức vụ làm cha mẹ sẽ chăm lo chu toàn bổn
phận giáo dục, nhất là về phương diện tôn giáo vì bổn phận này liên hệ đến họ
trước hết.
Con cái là những phần tử sống động
trong gia đình nên cũng góp phần riêng vào việc thánh hóa cha mẹ. Thực vậy, con
cái sẽ đáp lại công ơn cha mẹ với lòng biết ơn, tâm tình hiếu thảo và tin cậy,
và sẽ theo đạo làm con mà phụng dưỡng cha mẹ trong nghịch cảnh cũng như trong
tuổi già cô quạnh. Mọi người hãy tôn trọng đời sống góa bụa được can đảm tiếp
nhận như một tiếp nối ơn gọi hôn nhân 8. Các
gia đình hãy quảng đại san sẻ cho nhau những của cải thiêng liêng. Như thế, mỗi
gia đình Kitô hữu xuất phát từ hôn nhân, một hôn nhân như là hình ảnh và nói lên
sự tham dự giao ước yêu thương giữa Chúa Kitô và Giáo Hội
9, nên sẽ biểu hiện trước mặt mọi người sự hiện
diện sống động của Ðấng Cứu Thế trong thế giới và bản chất đích thực của Giáo
Hội qua tình yêu, qua niềm quảng đại chấp nhận sinh sản con cái, qua sự hiệp
nhất và trung tín của hai vợ chồng cũng như qua sự hợp tác thân ái của mọi thành
phần trong gia đình.
49.
Tình yêu vợ chồng. Lời Chúa đã nhiều lần mời gọi những người sắp
kết hôn hãy nuôi dưỡng thời kỳ đính hôn bằng một tình yêu trong sạch và những
người đã thành vợ chồng hãy nâng đỡ cuộc sống lứa đôi bằng một tình yêu không
chia xẻ 10. 55*
Nhiều người hiện thời vốn coi trọng tình yêu đích thực giữa vợ chồng, biểu hiện
bằng nhiều cách theo những tập tục lành mạnh của mỗi thời đại, mỗi dân tộc. Tình
yêu ấy có đặc tính nhân linh cao cả vì từ một nhân vị hướng đến một nhân vị khác
bằng một tình cảm tự ý, do đó bao gồm hạnh phúc toàn diện của con người. Nên
tình vợ chồng có thể lồng vào những biểu lộ của thể xác và tâm hồn một phẩm giá
đặc biệt, và khiến chúng trở nên cao quí như những yếu tố và dấu hiệu đặc thù
của tình yêu đôi bạn. Bởi một ơn huệ đặc biệt của ơn sủng và của tình thương,
Chúa đã đoái thương chữa trị, cải thiện và nâng cao tình yêu ấy. Một tình yêu
kết hợp yếu tố nhân loại với yếu tố thần linh như thế phải thấm nhuần cả đời
sống và hướng dẫn đôi vợ chồng biết tự do trao hiến cho nhau, qua những tâm tình
và cử chỉ trìu mến 11. Hơn nữa, chính nhờ
những hành vi quảng đại của mình mà tình yêu giữa hai người được trọn vẹn và lớn
thêm. Tình yêu vợ chồng, do đó vượt xa xu hướng nhục dục thuần túy, và xu hướng
này, nếu được tôn thờ một cách ích kỷ, sẽ mau chóng tan biến và kéo theo những
hậu quả thảm hại 56*.
Sự âu yếm trên được biểu lộ và hoàn
hảo cách đặc biệt qua những động tác riêng của hôn nhân. Bởi vậy, những hành vi
thực hiện sự kết hợp thân mật và thanh khiết của đôi vợ chồng đều cao quí và
chính đáng. Ðược thi hành cách thực sự nhân linh, những hành vi ấy biểu hiện và
khích lệ sự trao hiến hỗ tương, nhờ đó hai người làm cho nhau thêm phong phú
trong hoan lạc và biết ơn 57*. Ðược bảo đảm
vì tín cẩn nhau và nhất là được chuẩn y bởi bí tích của Chúa Kitô, tình yêu ấy
trung thành bất khả phân ly giữa cảnh đời thăng trầm, và do đó loại hẳn mọi hình
thức ngoại tình và ly dị. Phải nhìn nhận phẩm giá cá nhân bình đẳng giữa vợ
chồng trong tình tương ái trọn vẹn để nhờ đó, biểu hiện rõ ràng tính cách duy
nhất của hôn nhân đã được Chúa xác nhận. Ðể kiên trì gánh vác những bổn phận của
ơn gọi Kitô giáo này, cần phải có một nhân đức phi thường: vì thế, vợ chồng đã
được ơn sủng củng cố để sống thánh thiện sẽ ân cần nuôi dưỡng và cầu xin cho
được một tình yêu vững bền, một tâm hồn đại lượng và một tinh thần hy sinh.
Tình yêu vợ chồng chân chính sẽ
được quí trọng hơn và người ta sẽ nghĩ tưởng về hôn nhân cách lành mạnh hơn, nếu
các vợ chồng Kitô hữu làm chứng rõ ràng về sự trung thành và hòa hợp trong tình
yêu cũng như trong niềm âu lo giáo dục con cái, nếu họ góp công hoạt động trong
việc chấn hưng văn hóa, tâm lý và xã hội, một sự chấn hưng cần thiết để đề cao
hôn nhân và gia đình. Phải biết hợp thời và hợp cách giáo dục thanh thiếu niên
về phẩm giá, phận sự và hành vi thể hiện tình vợ chồng, tốt nhất là trong chính
khung cảnh gia đình. Nhờ vậy, một khi đã được rèn luyện để giữ đức khiết tịnh,
đến tuổi thích hợp, chúng có thể từ thời đính hôn đứng đắn tiến tới hôn nhân.
50. Sự
sinh sản trong hôn nhân. Hôn nhân và tình yêu vợ chồng, tự bản
tính qui hướng về sự sinh sản và giáo dục con cái 58*.
Con cái là ơn huệ cao quí nhất của hôn nhân và là sự đóng góp lớn lao kiến tạo
hạnh phúc của cha mẹ. Thiên Chúa đã phán: "Ðàn ông ở một mình không tốt" (Stk
2,18). Ngài là Ðấng "...từ buổi đầu, đã dựng nên một người nam và một người nữ"
(Mt 19,4); chính Ngài muốn thông ban cho con người cộng tác một phần đặc biệt
vào công việc tạo dựng của Ngài, Ngài đã chúc lành cho người nam và người nữ rồi
nói: "Các ngươi hãy tăng gia, sinh sản" (Stk 1,28). Do đó, việc thể hiện đích
thực tình yêu vợ chồng cũng như toàn thể tổ chức đời sống gia đình phát sinh từ
việc thể hiện ấy, đều nhằm giúp đôi vợ chồng can đảm sẵn sàng cộng tác với tình
yêu của Ðấng Tạo Hóa và Cứu Thế, mặc dù không loại bỏ các mục đích khác của hôn
nhân. Nhờ đời sống lứa đôi, Ngài làm cho gia đình Ngài ngày càng bành trướng và
phong phú hơn 59*.
Bổn phận truyền sinh và giáo dục
phải được coi là sứ mệnh riêng biệt của vợ chồng. Trong khi thi hành bổn phận
ấy, họ biết rằng mình cộng tác với tình yêu của Thiên Chúa Tạo Hóa và như trở
thành những kẻ diễn đạt tình yêu của Ngài. Bởi vậy, họ sẽ chu toàn bổn phận mình
với trách nhiệm của con người và của con người Kitô hữu
60*. Tôn trọng, tuân phục Thiên Chúa, đồng tâm
hiệp lực với nhau, họ sẽ tạo được cho mình một phán đoán ngay thẳng: biết xét
đến lợi ích riêng của họ cũng như của con cái đã sinh hay tiên liệu sẽ có, nhận
định về các hoàn cảnh vật chất hay tinh thần của thời đại và bậc sống, sau hết
biết nghĩ đến lợi ích của gia đình, của xã hội trần gian và của chính Giáo Hội.
Sự phán đoán ấy, sau cùng chính đôi vợ chồng phải chọn lựa lấy trước mặt Thiên
Chúa. Trong cách thế hành động, vợ chồng Kitô hữu hãy ý thức là mình không thể
làm theo sở thích, nhưng phải luôn luôn tuân theo tiếng nói của một lương tâm
phải được khuôn đúc theo luật Chúa, hãy vâng phục Giáo huấn của Giáo Hội, vì
Giáo Hội có thẩm quyền giải thích luật Chúa dưới ánh sáng Phúc Âm.
Luật Chúa tỏ rõ ý nghĩa đầy đủ của
tình vợ chồng, bảo vệ và khích lệ mối tình ấy đến mức hoàn thiện trên bình diện
đích thực nhân loại. Bởi thế mà các vợ chồng Kitô hữu tôn vinh Ðấng Tạo Hóa và
tiến tới sự hoàn thiện trong Chúa Kitô, trong khi tin tưởng vào Chúa Quan Phòng
và trau dồi tinh thần hy sinh 12, để chu toàn
bổn phận sinh sản cách quảng đại trong tinh thần trách nhiệm của con người và
của con người Kitô hữu. Trong số những đôi vợ chồng theo phương thức ấy để chu
toàn bổn phận Thiên Chúa trao phó, phải đặc biệt kể đến những người, sau khi suy
xét khôn ngoan và đồng chấp thuận, đã can đảm nhận lãnh trách nhiệm dưỡng dục
con cái cách xứng đáng, dẫu số con cái ấy khá đông 13.
Tuy nhiên, hôn nhân không phải chỉ
được thiết lập để mưu sự truyền sinh mà thôi, nhưng chính đặc tính giao ước bất
khả phân ly giữa hai người và lợi ích con cái đòi hỏi tình yêu hỗ tương của hai
vợ chồng phải được phát biểu, thăng tiến và nẩy nở cách chính đáng. Cho nên,
ngay trong trường hợp không có con như hằng tha thiết mong mỏi, hôn nhân vẫn tồn
tại như một cuộc sống chung và vẫn giữ được giá trị cùng đặc tính bất khả phân
ly của mình.
51. Hòa
hợp tình yêu vợ chồng với việc tôn trọng sự sống con người. Công
Ðồng biết rằng: muốn tổ chức đời sống vợ chồng cho thuận hòa, đôi bạn thường vấp
phải một số tình trạng sinh sống khó khăn hiện đại và có thể lâm vào những hoàn
cảnh khiến họ không thể gia tăng số con cái, ít là trong một thời gian; đó là
lúc phải khó khăn lắm mới duy trì được tình yêu trung thành và sự chung sống
trọn vẹn. Một khi đời sống thân mật vợ chồng bị gián đoạn, sự chung thủy thường
bị đe dọa và lợi ích con cái có thể bị sút giảm; vì trong trường hợp này, việc
giáo dục cũng như lòng can đảm sinh thêm con cái đều bị thương tổn
61*.
Có những người dám đưa ra những
giải pháp bất lương để giải quyết vấn đề trên đây, họ không ngần ngại xử dụng cả
những hành động sát nhân. Nhưng Giáo Hội nhắc lại rằng không thể có mâu thuẫn
thực sự giữa những lề luật của Thiên Chúa liên quan đến việc truyền sinh và
những luật liên quan đến việc phát triển tình yêu vợ chồng đích thực.
Thực vậy, Thiên Chúa là Chúa sự
sống, đã trao cho con người nhiệm vụ cao cả là bảo tồn sự sống, và họ phải chu
toàn bổn phận ấy cách xứng hợp với con người. Do đó, sự sống ngay từ lúc thụ
thai phải được giữ gìn hết sức cẩn thận; phá thai và sát nhi là những tội ác ghê
tởm. Dục tính cũng như khả năng sinh sản của con người trổi vượt một cách kỳ
diệu hơn những gì thấy được ở những cấp sinh vật thấp hơn. Bởi vậy, chính những
hành vi đặc thù của đời sống vợ chồng, được thực hiện đúng theo phẩm giá đích
thực của con người, đều phải được kính cẩn tôn trọng. Vì thế, khi cần hòa hợp
tình vợ chồng với việc truyền sinh trong một tinh thần trách nhiệm, phải ý thức
rằng giá trị luân lý của hành động không chỉ lệ thuộc vào ý muốn thành thực và
việc cân nhắc các lý do, nhưng phải được thẩm định theo những tiêu chuẩn khách
quan suy diễn từ bản tính của nhân vị và của hành động nơi nhân vị; những tiêu
chuẩn ấy sẽ tôn trọng ý nghĩa trọn vẹn của sự trao hiến và sinh sản con cái
trong khung cảnh tình yêu đích thực. Ðó là điều không thể thực hiện được nếu
không thực tâm vun trồng đức khiết tịnh trong bậc vợ chồng. Trong việc điều hòa
sinh sản, con cái của Giáo Hội trung thành với những nguyên tắc vừa viện dẫn,
không được dùng những phương pháp mà Giáo Huấn đã bác bỏ khi giải thích luật
Thiên Chúa 14. 62*
Ngoài ra, mọi người đều phải ý thức
rằng: đời sống nhân loại và bổn phận lưu truyền sự sống ấy không chỉ giới hạn ở
đời này cũng như không thể hiểu và đo lường được ở đời này, nhưng luôn qui chiếu
về định mệnh vĩnh cửu của con người.
52. Bổn
phận của mọi người trong việc thăng tiến hôn nhân và gia đình.
Gia đình là một trường học phát triển nhân tính. Nhưng để gia đình có thể sống
trọn vẹn và chu toàn sứ mệnh mình, cần phải biết hòa hợp tâm hồn: vợ chồng phải
cùng nhau bàn định cũng như cha mẹ phải ân cần cộng tác trong việc giáo dục con
cái. Sự hiện diện tích cực của người cha giúp ích rất nhiều cho việc đào tạo con
cái, nhưng cũng phải làm sao giữ được cho người mẹ vai trò chăm sóc gia đình, vì
con cái, nhất là khi thơ bé, rất cần đến sự chăm sóc ấy; tuy nhiên, vẫn không
được coi thường sự thăng tiến hợp lý của người phụ nữ trên bình diện xã hội.
Phải giáo dục con cái thế nào để khi đến tuổi trưởng thành chúng có thể chọn bậc
sống và theo ơn gọi, ngay cả ơn gọi tu trì, với ý thức trách nhiệm đầy đủ; và
nếu kết hôn, chúng có thể lập gia đình riêng trong những điều kiện luân lý, xã
hội và kinh tế thuận lợi. Bổn phận của cha mẹ hay người giám hộ là hướng dẫn
những người trẻ khi lập gia đình, dùng lời khuyên nhủ khôn ngoan sao cho họ sẵn
sàng nghe theo; tuy nhiên, phải cẩn thận, không dùng áp lực trực tiếp hay gián
tiếp ép buộc họ kết hôn hay chọn bạn đường 63*.
Như thế, gia đình trở thành nền
tảng của xã hội vì là nơi mà nhiều thế hệ gặp gỡ và giúp nhau nên khôn ngoan đầy
đủ hơn cũng như giúp nhau hòa hợp những quyền lợi cá nhân với những đòi hỏi khác
của cuộc sống xã hội. Bởi đó, tất cả những ai có ảnh hưởng trên các cộng đoàn và
tập thể xã hội phải góp công hữu hiệu thăng tiến hôn nhân và gia đình. Chính
quyền phải nhìn nhận, bênh vực và phát huy tính chất đích thực của hôn nhân và
gia đình, phải bảo vệ nền luân lý chung và giúp cho gia đình được sung túc, vì
đó là những bổn phận mà chính quyền phải coi như một sứ mệnh thiêng liêng phải
chu toàn. Lại phải bảo đảm cho cha mẹ quyền sinh sản và giáo dục con cái trong
khung cảnh gia đình. Phải soạn thảo được những bộ luật biết tiên liệu và đề ra
được nhiều sáng kiến để bảo vệ và nâng đỡ cả những người vì rủi ro mà không có
gia đình.
Người Kitô hữu biết lợi dụng thời
đại 15 và phân biệt những gì trường tồn với
những hình thức hay thay đổi, phải nhiệt thành đề cao những giá trị hôn nhân và
gia đình bằng chứng tá của chính đời sống mình cũng như bằng hành động hợp tác
với những người thiện chí. Như vậy, sau khi vượt qua các trở ngại, họ sẽ thỏa
mãn được những nhu cầu của gia đình và cung cấp cho gia đình những tiện nghi hợp
với thời đại mới. Muốn đạt được mục đích ấy, rất cần đến ý thức Kitô giáo của
các tín hữu, lương tâm luân lý ngay thẳng của mọi người cũng như sự khôn ngoan
và khả năng chuyên môn của những ai am tường các môn học đạo.
Các vị thông thạo khoa học, nhất là
các khoa sinh vật học, y học, xã hội và tâm lý học, có thể giúp ích rất nhiều
cho hôn nhân, gia đình cũng như sự an bình lương tâm, nếu họ hiệp lực nghiên cứu
và cố gắng làm sáng tỏ hơn nữa về những điều kiện khác nhau giúp con người điều
hòa sinh sản cách lương thiên.
Sau khi được học hỏi đầy đủ về các
vấn đề thuộc phạm vi gia đình, các linh mục có bổn phận nâng đỡ ơn gọi của vợ
chồng trong đời sống hôn nhân và gia đình bằng những phương tiện mục vụ khác
nhau, như rao giảng lời Chúa, lễ nghi phụng vụ hay những trợ lực thiêng liêng
khác. Các ngài cũng phải nhân hậu và nhẫn nại nâng đỡ họ trong lúc gặp khó khăn,
và khích lệ họ trong tình bác ái để họ tạo nên những gia đình thực gương mẫu
rạng ngời 64*.
Các tổ chức hoạt động tông đồ, nhất
là những hiệp hội gia đình, phải cố gắng bằng lý thuyết và hành động nâng đỡ các
thanh thiếu niên và chính các đôi vợ chồng, nhất là những đôi mới kết hôn, đồng
thời huấn luyện cho họ về đời sống gia đình, xã hội và việc tông đồ.
Sau hết chính các đôi vợ chồng,
được tạo thành giống hình ảnh Thiên Chúa và được an định trong cấp bực của các
nhân vị, hãy kết hợp trong tình tương thân tương ai, đồng tâm hiệp ý và thánh
hóa lẫn nhau 16, để trong khi theo Chúa Kitô
là nguyên lý sự sống 17, giữa những nỗi vui
mừng và hy sinh của ơn gọi và qua tình yêu chung thủy, họ trở nên chứng nhân của
mầu nhiệm tình thương mà Chúa đã tỏ ra cho thế giới qua sự chết và sự sống lại
của Người 18.
còn tiếp
Chú Thích:
51*
1) Giới thiệu: Gia đình là nền tảng của xã hội (số 47a), nhưng hiện nay bị nhiều
vết nhơ (b), nên Công Ðồng muốn góp phần giáo lý để nâng cao gia đình và hôn
nhân (c).
2) Diễn tả gia đình cách đại cương:
Bản tính, khởi sự, giá trị và chiều hướng của hôn nhân (số 48a). Tính cách cao
siêu của tình yêu hôn nhân (b). Ðời sống gia đình hướng về Chúa (c). Vai trò của
mỗi người trong gia đình và việc tông đồ của họ (d).
3) Tình yêu hôn nhân: tính cách (số
49a), phương cách biểu lộ nó (b), phải phổ biến quan niệm đích thực về nó (c).
4) Con cái: Hôn nhân hướng về việc
sinh sản con cái (số 50a). Kẻ làm cha mẹ phải có trách nhiệm (b). Sinh sản con
cái không phải là mục đích duy nhất (c).
5) Những khó khăn: gặp phải khi duy
trì tình yêu đồng thời phải tôn trọng sự sống (số 51a). Những giải pháp không
được áp dụng (b). Những tiêu chuẩn để chọn giải pháp (c,d).
6) Mục vụ gia đình: Ở trong gia
đình (số 52a), trong đại gia đình và xã hội (b). Việc tông đồ của gia đình (c).
Phần đóng góp của khoa học gia chuyên môn (d), của Linh Mục (e), của đôi hôn
nhân (f).
52*
Hôn nhân và gia đình là tế bào đầu tiên đồng thời là nền tảng của xã hội cũng
như của Giáo Hội. Công Ðồng muốn góp phần để bảo vệ hôn nhân vì ở nhiều nơi hôn
nhân bị tội lỗi làm hoen ố. Công Ðồng nhắc đến chế độ đa thê, ngược lại với tính
cách hợp nhất của hôn nhân (số 48a phần cuối và 49b); ly dị, trái ngược với tính
bất khả phân ly; tự do luyến ái tức sống chung mà không chấp nhận liên hệ hôn
nhân. Công Ðồng còn nói chung về những hình thức "lệch lạc khác": chẳng hạn hôn
nhân thí nghiệm, nghĩa là khi chưa có con thì chưa thành bất khả phân ly; hôn
nhân ép buộc của thanh niên thiếu nữ không ưa nhau, v.v... Hôn nhân hợp nhất và
duy nhất còn có thể mất ý nghĩa cao đẹp do lòng ích kỷ của đôi bên, do khoái lạc
chủ nghĩa, do những tội lỗi liên quan tới việc sinh sản.
Nhưng còn có nhiều hoàn cảnh khác
cũng có thể gây nên những khó khăn và dịp tội cho hôn nhân. Công Ðồng nhắc đến
hoàn cảnh kinh tế: chẳng hạn tiền lương không đủ để nuôi dưỡng và giáo dục con
cái; hoàn cảnh tâm lý và xã hội: như quan niệm mới về địa vị người phụ nữ, hay
là môi trường sinh sống quá chú ý đến tình dục; hoàn cảnh dân sự: như lề luật
trái ngược nguyên tắc luân lý, ví dụ việc phá thai, giải phẫu để ngăn cản khả
năng sinh sản, v.v...; hoàn cảnh nhân khẩu gia tăng tại nhiều nơi cũng có thể đe
dọa nền kinh tế của các quốc gia đang mở mang.
Trong thông điệp Humanae Vitae, Ðức
Giáo Hoàng Phaolô VI công nhận đó là những lý do đã khiến Giáo Hội xét lại lập
trường (số 2-5).
53*
Ðây là một định nghĩa của hôn nhân đáng cho ta lưu ý tới: a) cốt yếu là cùng một
đời sống và cùng một tình yêu đặc biệt, b) tùy theo luật Chúa là Ðấng đã sáng
tạo hôn nhân, c) bắt đầu do sự ưng thuận nhau của hai người nam và nữ. Ðối tượng
của sự ưng thuận ấy là chính con người, hai con người tự hiến cho nhau và đón
nhận nhau. Hai người: chứ không phải chỉ quyền lợi trên thân xác của mình mà
thôi (như, theo Giáo Luật khoản 1081 đoạn 2, Thông điệp Casti Connubii của Ðức
Piô XI đã xác nhận: x. AAS 22 (1930), 541; Dz 3701/2225). Hai bên sẽ nên một về
mọi phương diện: sinh lý, tâm lý, xã hội và đạo đức. Kết quả là một tổ chức vững
chắc không phải tự ý riêng của đôi bên, nhưng theo ý định của Thiên Chúa. Tổ
chức này có nhiều mục đích (số 50b) và mưu ích không những cho đôi bên mà còn
cho gia đình và xã hội nữa.
1
Xem T. Augustinô, De bono conjugali: PL 40, 375-376 và 394. - T. Tôma, Summa
Theol., Suppl. Quaest. 49, art. 3 ad 1. - Decretum pro Armenis: Dz 702 (1327). -
Piô XI, Tđ. Casti connubii: AAS 22 (1933), trg 543-555; Dz 2227-2238
(3703-3714).
2
Xem Piô XI, Tđ. Casti Connubii: AAS 22 (1930), trg 546-547; Dz 2231 (3706).
3
Xem Os 2; Gier 3,6-13; Ez 16 và 23; Is 54.
4
Xem Mt 9,15; Mc 2, 19-20; Lc 5,34-35; Gio 3,29; 2Cor 11,2; Eph 5,27; Kh 19,7-8;
21,2 và 9.
5
Xem Eph 5,25.
6
Xem CÐ Vat. II, Hiến chế tín lý về Giáo Hội Lumen gentium: AAS 57 (1965), trg
15-16; 40-41; 47.
7
Xem Piô XI, Tđ. Casti Connubii :AAS 22 (1930), trg 583.
54*
Hai đoạn 48ab nhấn mạnh rằng hôn nhân là một trong những ơn kêu gọi của Chúa để
con người thánh hóa bản thân. Thiên Chúa đã sáng lập hôn nhân và quyết định bản
tính của nó, mục đích, tính cách chính yếu cũng như đã thánh hóa nó và nâng cao
nó làm thành một bí tích giúp đôi bên làm tròn nghĩa vụ và sống đức ái (x.Hiến
chế tín lý về Giáo Hội 35c; 41e; và sau này: số 52g).
Hai vợ chồng được mời gọi để thánh
hóa bản thân :1) bằng cách sống tình yêu riêng biệt (số 49-50a), 2) cũng như nhờ
phận vụ làm cha làm mẹ (số 50).
8
Xem 1Tm 5,3.
9
Xem Eph 5,32.
10
Xem Stk 2, 22-24; Cn 5,18-20; 31,10-31; Tob 8,4-8; Dtc 1,1-3; 2,16; 4,16-5,1;
7,8-11; 1Cor 7,3-6; Eph 5,25-33.
55*
Sách Sáng Thế Ký thuật lại hai câu chuyện khác nhau về Chúa dựng nên loài người.
Từ 1,1 đến 2,4 nhấn mạnh sự khác nhau của hai giống nam và nữ, cốt để hai bên
phối hợp và sinh con. Từ 2,5 đến 2,25 Thánh Kinh nói rằng người nữ được dựng nên
sau và bởi người nam, giống như người nam, để nhấn mạnh người nam và nữ là để bổ
túc cho nhau nhờ sự phối hợp nên "một thân thể" (trong Thánh Kinh danh từ này
không chỉ nói về thân xác, nhưng ám chỉ tới toàn thể con người). Nên việc hai
giống hướng về nhau, cũng như tình yêu giữa người nam và người nữ và cả tính dục
nữa đều do Thiên Chúa dựng nên và là tốt đẹp. Tính dục không phải là kết quả của
tội tổ tông. Tội ấy chỉ gây nên sự rối loạn của một thứ tính dục không còn tùng
phục lý trí (Stk 3,7-16).
Qua các chuyện về tổ phụ, Thánh
Kinh nhấn mạnh phương diện sinh sản: các ngài đã chấp nhận chế độ đa thê (v.d.
Stk 16,1; 29,15-30) và việc lấy vợ lẽ (30,3-12). Không sinh đẻ được, là vì Chúa
phạt (15,3).
Các sách Khôn Ngoan (đặc biệt là
Diễm Tình Ca) ca tụng tình yêu vợ chồng, mà không đề cập đến việc sinh sản một
cách rõ ràng. Tình yêu ấy là tình yêu xác thịt (xem vd. Cn 5,15-20).
Phần các tiên tri khi các ngài so
sánh giao ước giữa Thiên Chúa và dân Israel với tình yêu vợ chồng, các ngài đã
mặc nhiên nêu ra lý tưởng tình yêu đối với hôn nhân.
11
Xem Piô XI, Tđ. Casti Connubii : AAS 22 (1930), trg 547-548; Dz 2232 (3707).
56*
Ðức Phaolô VI (Humanae Vitae số 8-9) diễn tả tình yêu vợ chồng như sau: 1) nguồn
gốc của nó là Thiên Chúa, 2) nó tốt đẹp vì trong đó hai người tự hiến cho nhau
để trở nên một và trau giồi cho nhau, 3) nó tượng trưng sự phối hợp giữa Chúa
Kitô và Giáo Hội, 4) nó là tình yêu nhân bản: vừa cảm giác vừa thiêng liêng,
phát sinh từ ý chí tự do, chứ không chỉ do tình cảm và bản năng mà thồi, 5) nó
trọn vẹn, nghĩa là khiến hai bên chia sẻ mọi sự và tìm mưu ích cho bạn hơn là
cho mình, 6) nó chung thủy và duy nhất đến giờ chết, 7) và đưa tới kết quả ngoài
ích lợi cho đôi bên, nghĩa là nó hướng về việc sinh sản con cái.
57*
Tất cả những cử chỉ âu yếm thân xác, đến chính việc phối hợp mật thiết, đều là
phương pháp riêng biệt để biểu lộ, thể hiện và cổ võ tình yêu hôn nhân. Là những
hành động của con người, của con Thiên Chúa, để sống ơn gọi của mình, hành động
đó không có gì là bất xứng. Không phải hôn nhân cho phép để thực hành những điều
đê tiện. Hôn nhân thường thường đòi hỏi những hành động ấy, cốt như phương pháp
để thể hiện ơn gọi của Chúa. Việc thú vật cũng có những tác động tương tự bên
ngoài, không nên gây ra sự ngộ nhận. Dĩ nhiên đôi vợ chồng phải thực hiện những
hành động đó một cách xứng hợp với con người, nghĩa là một cách hợp lý và hợp
đức tin, chứ không phải chỉ vì bản năng tính dục, vì ích kỷ và bất chấp hoàn
cảnh của bạn mình, của con cái, của gia đình và của xã hội.
58*
Hôn nhân là để hai vợ chồng yêu nhau, hiệp nhất với nhau, bổ túc cho nhau, hay
là để sinh sản con cái? Trước khi có Công Ðồng, giáo lý công giáo trả lời: mục
đích thứ nhất là để sinh sản con cái. Còn việc vợ chồng giúp đỡ nhau và việc kết
hiệp tính dục với nhau là mục đích thứ nhì và phụ thuộc. Trong ghi chú 1 (số
48a) Công Ðồng nhắc lại vài tài liệu phân biệt các mục đích như thế. Dĩ nhiên
giáo lý đã không coi thường tình yêu vợ chồng, bởi vì ba mục đích ấy đều phải
được thực hành trong bầu không khí yêu nhau. Nhưng Công Ðồng đã nhấn mạnh đến
tình yêu trong khi không chỉ lưu ý đến khía cạnh pháp lý của hôn nhân, nhưng đã
đề cao phương diện nhân vị. Nên, bây giờ ta phải nói rằng hôn nhân là để hai bên
yêu nhau và tự hiến cho nhau, nhờ đó mà sinh sản con cái, vì chính tình yêu vợ
chồng cũng như hôn nhân đều hướng về việc sinh sản. Giữa tình yêu vợ chồng và
việc sinh sản con cái không có sự mâu thuẫn gì cả, trái lại nếu bỏ một trong
hai, thì sẽ không thể hiểu điều kia được. Yêu nhau với tình yêu này (hôn nhân)
mà lại cố gắng ngăn cản việc sinh sản con cái đấy là điều mâu thuẫn. Trái lại,
muốn có con mà không chịu yêu nhau thì không xứng hợp với phẩm giá con người. Tự
hiến cho nhau, nhưng cùng một lúc cố ý loại trừ khả năng cao quí nhất của mình
là khả năng làm cha làm mẹ, có phải tự hiến mình trọn vẹn không? có phải yêu
thật không?
59*
Công Ðồng không bằng lòng phân biệt các mục đích như cũ. Chỉ nhắc lại hai mục
đích quan trọng nhất là tự hiến cho nhau và sinh sản con cái. Thực ra, hai mục
đích này (và nhiều mục đích khác để phát triển nhân phẩm về mọi phương diện...)
đều là chính yếu, nghĩa là hôn nhân đòi hỏi quyền lợi để hai bên có thể nhờ nhau
mà đạt tới những mục đích ấy. Lập khế ước hôn nhân, nhưng loại trừ quyền lợi để
sinh sản con cái thật là vô lý và khế ước không thành. Vậy thì, cố ý loại trừ
quyền lợi để yêu nhau và để tự hiến cho nhau, cũng là vô lý, vì khế ước này cốt
để trao đổi cho nhau.
60*
Ở đây Công Ðồng dạy một giáo lý mới mẻ: lập gia đình để (nhờ tình yêu nhau) làm
cha và làm mẹ; nói như thế thì chưa đủ. Phải nói thêm: để làm bậc cha mẹ có
trách nhiệm! Như thế có nghĩ a gì? Công Ðồng dạy: 1) sinh sản con cái là sứ mệnh
của vợ chồng, 2) phải thực hành như là cộng tác viên của Chúa và là "thông ngôn
viên" cho tình yêu của Chúa (nghĩa là: tình yêu Chúa luôn luôn muốn dựng nên con
người mới, nhưng hai vợ chồng phải tìm hiểu ý Chúa trong hoàn cảnh thực tế của
họ), 3) thực hành với lòng kính trọng Thiên Chúa, 4) và tin cậy Ngài, 5) cũng
như với tinh thần hy sinh, 6) để vinh danh Chúa, 7) và thánh hóa bản thân.
Theo các nguyên tắc ấy, vợ chồng
nên sinh hạ bao nhiêu con cái? Trước đây những tín hữu đạo đức có lẽ đã trả lời:
"Chúa muốn bao nhiêu thì chúng con sẽ sinh ra bấy nhiêu". Nhưng câu đó không hợp
với giáo lý như Công Ðồng dạy. Không khác gì với lập trường của người chỉ ham mê
khoái lạc và do đó sẽ áp dụng các phương pháp để ngăn cản sự sinh sản, câu ấy có
thể tỏ ra ý muốn đề cao nguyên tắc "phải thỏa mãn tính dục" trước đã! Như vậy
chưa phải là có trách nhiệm. Bởi đó Công Ðồng ngợi khen những vợ chồng sẵn sàng
có đông con, nhưng rồi dạy rằng họ phải quyết định số con cái có thể có theo
những nguyên tắc sau đây: 1) ích lợi về mọi phương diện của hai vợ chồng (ví dụ:
người mẹ có đủ sức không?) 2) ích lợi của con cái (ví dụ gia đình có đủ phương
tiện để giáo dục chúng nó không?) 3) tùy theo thời gian, hoàn cảnh vật chất và
tinh thần, 4) tùy theo ích lợi của đại gia đình, của xã hội và của Giáo Hội.
Chính vợ chồng phải quyết định số
con, chứ không phải chỉ người chồng hay ông bà. Họ sẽ quyết định theo lương tâm
của họ: một lương tâm cố gắng hiểu biết luật Chúa như Giáo Hội trình bày.
Ðức Phaolô VI (Humanae Vitae số 10)
nhấn mạnh rằng chính tình yêu hôn nhân đòi hỏi trách nhiệm này. Ngài cũng cắt
nghĩa trách nhiệm: 1) theo phương diện sinh lý là tôn trọng lề luật của các tiến
triển sinh lý (nó cũng thuộc về nhân vị), 2) theo phương pháp chế ngự các xu
hướng bản năng và dục vọng, đó là biết tự chủ theo lý trí, 3) theo phương diện
hoàn cảnh vật lý, kinh tế, tâm lý, xã hội, đó là quyết định tùy theo hoàn cảnh
cho phép thêm con, hay không, 4) theo phương diện luân lý, có trách nhiệm là
quyết định và thực hiện quyết định đó một cách thích hợp với nhiệm vụ đối với
Chúa, đối với chính mình, đối với gia đình và xã hội. Lương tâm của hai vợ chồng
không tự ý tạo ra con đường tốt đẹp cho mình, nhưng nó phải khám phá ra con
đường ấy nơi bản tính hôn nhân và nơi bản tính các hoạt động hôn nhân, theo như
Giáo Hội cắt nghĩa.
Về phương pháp cụ thể khi vợ chồng
cần hạn chế sinh sản, xin coi số 51.
12
Xem 1Cor 7,5.
13
Xem Piô XII, Huấn từ Tra le Visite, 20-1-1958: AAS 50 (1958), trg 91.
61*
Vấn đề hạn chế sinh sản là vấn đề về các phương pháp. Vợ chồng muốn sống hợp với
lý tưởng hôn nhân đã được trình bày ở trên, lắm lúc sẽ phải hạn chế số con.
Nhưng không gần gũi nhau, hay chỉ theo chu kỳ của người vợ, có thể làm hại cho
tình yêu nhau, do đó cũng làm hại cho đời sống hôn nhân và cho con cái nữa. Công
Ðồng không giấu kín sự kiện này. Vậy khi cần hạn chế số con, có thể áp dụng
phương pháp nào? Công Ðồng chỉ trả lời một cách đại cương mà thôi: phải loại trừ
phương pháp xấu xa, như giết người (số 51b), phá thai và giết trẻ em (số 51c).
Rồi Công Ðồng dạy nguyên tắc phải áp dụng trong việc chọn lựa phương pháp.
Phương pháp bao giờ cũng phải 1) tôn trọng giá trị của sứ mệnh lưu truyền sự
sống và tôn trọng phẩm giá con người, 2) nó không thể trái ngược lề luật của
Chúa về việc lưu truyền mạng sống, 3) vợ chồng phải có ý ngay lành, nhưng chưa
đủ, 4) chính phương pháp phải xứng hợp với các qui tắc khách quan về luân lý, 5)
đó là những qui tắc dựa trên bản tính con người và tác động của con người, 6)
nên phương pháp phải không được xâm phạm ý nghĩa tình yêu hôn nhân là tự hiến
cho nhau, và tính cách nhân bản của việc sinh sản con cái, 7) bởi đó, đức trinh
khiết hôn nhân là cần thiết, 8) cũng như lòng trung thành với Giáo Huấn của Giáo
Hội.
14
Xem Piô XI, Tđ. Casti Connubii: AAS 22 (1930), trg 559-561 : Dz 2239-2241
(3716-3718). - Piô XII, Huấn từ cho Ðại hội Hiệp hội các Nữ Hộ Sinh Ý,
29-10-1951: AAS 43 (1951), trg 835-854. - Phaolô VI, Huấn từ cho các Nghị Phụ
Hồng Y, 23-6-1964: AAS 56 (1964), trg 581-589. Theo lệnh của ÐGH, một số vấn đề
cần tìm hiểu sâu xa hơn đã được trao cho một ủy ban đặc trách nghiên cứu về dân
số, gia đình, tỉ số sinh sản, để sau khi cộng tác hoàn thành, ÐGH có thể thẩm
định. Và với giáo huấn hiện thời của Giáo Hội, Thánh Công Ðồng không có ý cấp
thời đề ra những giải pháp cụ thể.
62*
Ghi chú 14 trình bày lý do tại sao Công Ðồng không phát biểu ý kiến về phương
pháp cụ thể do khoa học đã khám phá ra, như thuốc viên, vòng xoắn, v.v... Ðức
Giáo Hoàng Phaolô VI đã nhờ ủy ban do Ðức Gioan XXIII thiết lập nhằm học hỏi về
các vấn đề gia đình, để nghiên cứu vấn đề hạn chế sinh sản. Ủy ban gồm có các
nhà thần học, xã hội học, bác sĩ, các đôi vợ chồng (trên 70 hội viên) đã làm
việc từ năm 1963 đến cuối năm 1967. Theo như chính Ðức Giáo Hoàng xác nhận
(Humanae Vitae số 6) đa số các hội viên bênh vực lập trường chấp nhận bất cứ
phương pháp nào để hạn chế sinh sản. Không nhắc đến lòng ích kỷ, ham khoái lạc,
sợ trách nhiệm nặng nề trong việc sinh sản và giáo dục con cái, kể cả lập trường
chống đối Giáo Hội cũng như lập trường kinh tế và chính trị của một số quốc gia,
Ấn Ðộ chẳng hạn..., chính Ðức Giáo Hoàng đã chỉ nhắc lại lý do của đa số trong
ủy ban: 1) Có lý do ngoại tại, nghĩa là những lý do không trực tiếp quan hệ tới
vấn đề, như việc dân số gia tăng quá mau; những hoàn cảnh làm việc, nhà ở, kinh
tế; quan niệm mới mẻ về nhân phẩm phụ nữ và vai trò của phụ nữ trong xã hội;
việc sinh sản con cái đòi hỏi hy sinh đôi khi tới mức độ anh hùng (Humanae Vitae
số 2-3). 2) Cũng có lý do nội tại như quan niệm về giá trị tình yêu hôn nhân và
cử chỉ xác thịt; quyền năng của con người trên thiên nhiên và bản thân; nguyên
tắc toàn diện, nghĩa là hôn nhân hướng về con cái nhưng không phải từng hoạt
động vợ chồng phải trực tiếp hướng về nó; nguyên tắc phải chọn sự xấu nhẹ hơn,
nghĩa là thà áp dụng phương pháp nhân tạo để hạn chế sinh sản còn hơn là mất
tình yêu vợ chồng và hạnh phúc gia đình (Humanae Vitae số 2-3; 14, 16-17).
Ngày 25-7-1968 Ðức Phaolô VI "nhận
sứ mệnh Chúa Kitô đã trao phó" (Humanae Vitae số 6) công bố câu trả lời về vấn
đề các phương pháp cụ thể: "Cấm bất cứ hành động nào nhằm ngăn chặn sự sinh sản,
dù như một mục đích hay chỉ như phương tiện, dù có hành động như vậy trước việc
vợ chồng, hay là khi việc vợ chồng đang tiến tới hậu quả tự nhiên của nó"
(Humanae Vitae số 14). Nghĩa là không được phép dùng thuốc viên ngăn cản thụ
thai (nó có thể giết tinh trùng, giết trứng, ngăn cản trứng chín rụng, ngăn cản
tinh trùng vào trong trứng), cấm dùng thuốc viên phá thai, đặt vòng xoắn vào tử
cung, dùng bao cao su của đàn ông hay đồ giữ bộ phận của đàn bà, giải phẫu để
cắt hay buộc các ống dẫn tinh dịch hay trứng, hoạt động như Onan (Stk 38,9: cố ý
xuất tinh ở ngoài), cấm phá thai... Vì mỗi khi vợ chồng giao hợp với nhau, việc
hôn nhân phải được mở ngỏ để "có thể lưu truyền mạng sống" (Humanae Vitae số
11).
Ðức Giáo Hoàng "nhận sứ mệnh Chúa
Kitô đã trao phó" mà dạy con cái Giáo Hội phải bỏ ý kiến riêng (Humanae Vitae số
28) và hơn nữa phải vâng lời mặc dù có thể là rất khó (Humanae Vitae số 19-20)
bởi vì phải vâng theo luật của Giáo Hội và luật của Chúa (Humanae Vitae số 18).
Ðức Giáo Hoàng đã áp dụng nguyên
tắc Công Ðồng Vaticanô II lập ra và đã công nhận rằng nếu cố ý ngăn cản việc thụ
thai khi vợ chồng ăn ở với nhau, hành động đó không còn giữ ý nghĩa sâu xa của
tình yêu và của hôn nhân, cũng như của tác động hôn nhân như Thiên Chúa đã muốn
(Humanae Vitae số 9-13).
63*
Các gia đình và đại gia đình (kể cả các linh mục lo cho đôi tân hôn) nên lưu ý
tới câu này của Công Ðồng. Vì ép duyên không những là tội bất công đối với thanh
niên thiếu nữ có quyền lợi bất khả xâm phạm để lập gia đình và chọn người bạn,
mà còn gây nên nhiều khó khăn và nhiều dịp tội lỗi, không kể trường hợp hôn nhân
bất thành vì mặc dầu hai bên đã ưng thuận, nhưng chỉ vì sợ hãi quá đáng (Giáo
luật, khoản 1087). Lạm dụng lòng hiếu thảo của con mình để ép duyên là điều
không thích hợp với giáo lý công giáo.
15
Xem Eph 5,16; Col 4,5.
64*
Công Ðồng lập lại hai nhiệm vụ chính của các linh mục lo cho đôi tân hôn là: 1)
giáo dục đôi bên về ơn kêu gọi, về lý tưởng, về đời sống gia đình, về những khó
khăn, v.v..., 2) nâng đỡ các cặp vợ chồng gặp khó khăn với lòng nhân từ và kiên
nhẫn. Do đó việc khảo kinh hai bên sắp lập gia đình và sau đó chỉ lo việc rửa
tội cho con cái và dạy giáo lý, ban bí tích cho kẻ liệt... thì chưa đủ.
Các ngài nên đặc biệt lưu ý tới
tinh thần mới trong việc mục vụ (khi ngồi tòa chẳng hạn). "Trong việc này (tức
việc dạy toàn bộ giáo lý, bất chấp những khó khăn sẽ gặp phải như khi đề cập tới
vấn đề nghiêm cấm sự áp dụng các phương pháp hạn chế sinh sản chẳng hạn), cần
phải giữ đức nhẫn nại và nhân từ như chính Chúa đã làm gương trong cách đối xử
với mọi người. Chúa... đã giữ thái độ quyết liệt đối với tội lỗi, nhưng đồng
thời đã tỏ lòng thương xót đối với con người. Khi gặp khó khăn, chớ gì các đôi
vợ chồng luôn luôn tìm thấy nơi lời nói và nơi tâm hồn của các linh mục, tiếng
vang lời nói và tình yêu của Chúa Cứu Thế" (Humanae Vitae số 29). Chúa không
đuổi kẻ sa ngã vì yếu đuối...
16
Xem Sacramentarium Gregorianum : PL 78, 262.
17
Xem Rm 5,15 và 18; 6, 5-11; Gal 2,20.
18
Xem Eph 5,25-27.
|
VỀ MỤC LỤC |
|
Niềm vui và
hy vọng |
Tổng hợp chuyến viếng thăm Giáo hội Công giáo Việt Nam lần đầu
tiên của Đức Tổng giám mục Leopoldo Girelli, Đại diện Tòa Thánh
không thường trú tại Việt Nam
WHĐ (3.05.2011) – Đức Tổng giám
mục Leopoldo Girelli, vị Đại diện Tòa Thánh không thường trú tại
Việt Nam – được Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI bổ nhiệm vào chức vụ
này ngày 13-01-2011, đã viếng thăm Giáo hội Công giáo Việt Nam,
theo lời mời của Hội đồng Giám mục Việt Nam, từ chiều 18-04-2011
đến Chúa nhật 1-05-2011.
Trong cuộc viếng thăm này, ngài đã
đặt chân đến 7 giáo phận, gồm Tổng giáo phận Hà Nội, Tổng giáo
phận TP.HCM và 5 giáo phận khác thuộc giáo tỉnh Sài Gòn, gặp gỡ
và trao đổi với hầu hết các giám mục tại Việt Nam vì đây là dịp
Hội đồng Giám mục Việt Nam họp Hội nghị thường niên, với đông
đảo linh mục, chủng sinh, tu sĩ, giáo dân. Đức Tổng giám mục
Leopoldo Girelli đã tham dự và cử hành Tuần Thánh tại Nhà thờ
Chính tòa Hà Nội, tham dự Hội nghị thường niên của Hội đồng Giám
mục, dự nghi lễ đặt viên đá đầu tiên cho Trụ sở của HĐGM VN tại
Tp. HCM, dự lễ tấn phong Đức Giám mục phó Giuse Nguyễn Tấn Tước
tại Nhà Chung giáo phận Phú Cường...
Chuyến viếng thăm đã diễn ra trong
bầu khí thân mật, chân thành và cởi mở, lắng nghe để hiểu biết
lẫn nhau. Qua các bài giảng trong thánh lễ, các bài nói chuyện
và nhất là qua trả lời các câu hỏi của cử tọa, vị Đại diện đã để
lại một ấn tượng tốt nơi những người có dịp gặp, nghe và trao
đổi với ngài.
Xin ghi lại ở đây sơ lược một số ý
tưởng và vấn đề cũng nhữ cảm nghĩ ngài đã trình bày trong các
cuộc tiếp xúc với các thành phần khác nhau của Giáo hội công
Giáo Việt Nam trong lần viếng thăm đầu tiên này.
Chức vụ Đại
diện
Trước tiên, trả lời câu hỏi của
một chủng sinh, vị Đại diện Tòa Thánh đã có dịp giới thiệu chức
vụ và công việc của ngài với người Công giáo Việt Nam:
* Sứ thần Tòa Thánh (Apostolic
Nuncio): Về ngoại giao, Sứ Thần Tòa Thánh là vị đại diện Tòa
Thánh xét như một quốc gia bên cạnh chính phủ nước sở tại (tương
đương với đại sứ). Còn về mục vụ, ngài là vị đại diện Đức Giáo
Hoàng bên cạnh Giáo hội Công giáo sở tại.
* Khâm sứ Tòa Thánh (Apostolic
Delegate): Về ngoại giao, Khâm sứ Tòa Thánh không phải là đại
diện Tòa Thánh bên cạnh chính phủ sở tại như các đại sứ vì chưa
có quan hệ ngoại giao chính thức giữa hai bên. Còn về mục vụ,
ngài là vị đại diện Đức Giáo Hoàng bên cạnh Giáo hội Công giáo
sở tại. Tuy nhiên, ngài được chính phủ sở tại nhìn nhận như một
pháp nhân và từ đó có đủ tư cách và thuận lợi ra vào quốc gia đó
để làm việc với Giáo hội Công giáo địa phương.
* Đại diện Tòa Thánh (Apostolic
Representative): Về mặt ngoại giao và mục vụ, vị Đại diện Tòa
Thánh cũng có vai trò tương tự như hai chức danh ở trên. Tuy
nhiên, ngài chưa được nhìn nhận hoàn toàn như một pháp nhân và
chưa được rộng quyền ra vào làm việc với Giáo hội Công giáo sở
tại một cách hoàn toàn tự do. Vì thế, vị Đại diện Tòa Thánh (đặc
biệt ở Việt Nam) cần thông báo cho phía sở tại về ngày giờ đến,
nơi đến và công việc sẽ làm với Giáo hội Công giáo địa phương.
Đây là một vai trò tạm thời để chuẩn bị cho vai trò Khâm sứ Tòa
Thánh và Sứ thần Tòa Thánh.
Đức Tổng giám mục Girelli cũng cho
biết thêm: Hiện nay, ngài kiêm nhiệm cả ba chức vụ trên ở 5 quốc
gia khác nhau: làm Sứ thần Tòa Thánh tại Singapore và Đông
Timor; làm Khâm sứ Tòa Thánh tại Malaysia và Brunei; và làm Đại
diện Tòa Thánh tại Việt Nam (Đức
Tổng giám mục Leopoldo Girelli – Đại diện Tòa Thánh tại Việt
Nam, tại
Đại
chủng viện thánh Giuse Hà Nội, ngày 20 tháng 04 năm 2011).
Trong cuộc gặp gỡ với các Đức giám
mục Việt Nam tại Trung tâm Mục vụ Sài Gòn, sáng thứ ba 26-04,
Đức cha Đại diện Tòa Thánh giải thích rõ ràng về nhiệm vụ của
ngài trên cơ sở các điều khoản 362-367 của bộ Giáo luật 1983.
Với tư cách Đại diện không thường trú, ngài được Chính phủ Việt
Nam nhìn nhận như Đặc sứ của Đức giáo hoàng đối với Giáo hội
Việt Nam, nhưng không thực thi nhiệm vụ ngoại giao (vì tiến
trình thiết lập bang giao giữa Tòa Thánh Vatican và Việt Nam
chưa hoàn tất)
(WHĐ
(27.04.2011).
Khó khăn trong
sứ vụ ngoại giao
Trong cuộc
viếng thăm
Đan viện Cát
Minh, Sàigòn, chiều 28-4, Đức Tổng giám mục L. Girelli
cũng nói đến một số
khó khăn ngài gặp phải trong sứ vụ ngoại giao của ngài: Như ở
Indonêsia, khi ba người Công giáo bị kết án xử tử oan, ngài đã
hết sức nỗ lực can thiệp nhưng cuối cùng chỉ giúp họ sống thêm
được vài ngày! Hay khi những tuyên bố của Đức Thánh Cha về Hồi
giáo bị hiểu lầm, Tòa Khâm sứ của ngài ở Inđônêsia bị người địa
phương bao vây phản đối dữ dội. Nhưng ngài đã tiếp xúc, giải
thích, giúp thấu hiểu và giải toả được những căng thẳng
(WGPSG).
Qua câu trả
lời câu hỏi của một nữ tu Cát Minh, chúng ta được biết vị Đại
diện Tòa Thánh của chúng ta đi tu từ năm 11 tuổi, chịu chức vào
năm 1978, và qua 8 năm làm cha phó, ngài đã đi học ngoại giao và
làm khâm sứ ở nhiều nơi trên thế giới.
(WGPSG).
Giáo hội Công
giáo Việt Nam
Đáp lời Đức Tổng giám mục Phêrô,
Hà Nội, trong
Thánh lễ làm
phép dầu tại Nhà thờ Chính tòa Hà Nội,
sáng
ngày 19 tháng 4, vị Đại diện Tòa Thánh đã nói đến lòng
ngưỡng mộ, trìu mến và sâu xa của Đức giáo hoàng Bênêđictô XVI
đối với Giáo hội tại Việt Nam. Ngài nói: “Về phương diện lịch
sử, Giáo hội Công giáo Việt Nam trong đất nước này đã đóng góp
và tiếp tục đóng góp cho di sản nhân loại tôn giáo những giá trị
đạo đức cũng như chia sẻ những băn khoăn đúng đắn về tương lai
của Giáo hội cũng như trách nhiệm cho công ích. Chúng ta cảm ơn
Chúa vì sự gia tăng về con số linh mục, chủng sinh và các tu sĩ
tại Việt Nam, cũng như sự trưởng thành của giáo dân trong đời
sống cộng đoàn. Nhân danh Đức Thánh Cha, tôi muốn bày tỏ lòng
ngưỡng mộ sâu xa và lòng cảm ơn đối với tất cả anh chị em vì đức
tin sống động và mạnh mẽ tại đất nước này, luôn trung thành với
Giáo hội và Đức Thánh Cha. Tôi xin anh chị em hãy cầu nguyện cho
sứ vụ của tôi để tôi có thể đóng góp phần nào vào đất nước và
Giáo hội Công giáo tại Việt Nam
Tại cuộc gặp gỡ các linh mục Tổng
giáo phận Tp. Hồ Chí Minh tại Trung tâm Mục vụ Sài Gòn, sáng thứ
Tư 27-4-2011,
được hỏi về sự khác biệt
giữa Giáo hội tại Việt Nam và tại các nước ngài đang phục vụ,
Đức TGM Girelli cho biết: khi đến Tòa Giám mục Sài Gòn, ngài cảm
thấy như đang sống trong một Vatican thu nhỏ! Ngài nói vui rằng
ngài có thể sẽ đề nghị Đức Thánh Cha đến nghỉ hè tại Việt Nam!
Câu nói của vị Đại diện khiến chúng ta nhớ lại cảm nghĩ tương tự
của Đức ông Parolin (nay là Tổng giám mục, Sứ thần Tòa Thánh tại
Venezuela) trong phái đoàn Tòa Thánh sang trao đổi và làm việc
với nhà nước Việt Nam trước đây. Đức ông Parolin khi ấy còn
triển khai thêm cảm nghĩ của ngài: không như một Tòa giám mục
vắng lặng, tại Tòa giám mục Sài Gòn, ngài đã được chứng kiến bầu
khí sinh động với các văn phòng có nhiều người ra vào, hoạt động
sôi nổi…
Tuy nhiên, Giáo hội này không phải
là không có những khó khăn, hạn chế. Vị Đại diện nhận xét: Đời
sống đạo ở Việt Nam đang mạnh mẽ, nhưng cũng đang có những thách
đố vì những giới hạn: Giáo hội không được mở trường học (trừ Nhà
trẻ), bị giới hạn trong những hoạt động từ thiện và y tế… Đề cập
đến Phúc âm hoá, ngài cho rằng khi truyền giáo phải nhấn mạnh
đến phẩm giá cao cả của con người: tất cả mọi người đều là con
cái Thiên Chúa (WGPSG).
Và trong thánh lễ tại nhà thờ
Chính tòa Mỹ Tho, ngày 30 tháng 04, Đức TGM còn bày tỏ nỗi ưu tư
về những khó khăn cụ thể như việc đào tạo những thế hệ trẻ ngày
càng trở nên khó khăn, vì sự chuyển biến không ngừng của xã hội.
Sự di dân từ vùng quê lên các thành thị, sự suy thoái của những
giá trị truyền thống tốt đẹp, sự phá thai, sự ly dị là những
thách đố nghiêm trọng đối với căn tính của người Kitô hữu, và
đối với công việc mục vụ trong các giáo xứ
(web Giáo phận
Mỹ Tho).
Giáo dục linh
mục và giáo dân
Trong buổi gặp gỡ thân tình với
các Đức giám mục Việt Nam vào sáng thứ ba 26/04, tại Phòng hội
Phaolô Nguyễn Văn Bình của Trung tâm Mục vụ Sài Gòn, Đức Tổng
giám mục Girelli Đại diện Tòa Thánh ngỏ lời cám ơn Hội thánh
Việt Nam và tạ ơn Chúa, vì trong bao nhiêu năm qua công cuộc
Loan báo Tin mừng vẫn được tiếp nối và phát triển mạnh mẽ, biểu
lộ qua con số tín hữu và ơn gọi kitô hữu linh mục, tu sĩ, giáo
dân dấn thân vẫn gia tăng và rất năng động.
Ngài nói: một trong những yếu tố
quan trọng nhất góp phần cho điều đó chính là sự
hiệp nhất:
hiệp nhất giữa các giám mục với nhau, giữa giám mục, linh mục,
tu sĩ, giáo dân với nhau, giữa Giáo hội Việt Nam với Tòa Thánh.
Tuy nhiên, ngài cũng lưu ý, Giáo
hội cần quan tâm đặc biệt đến nhiệm vụ giáo dục các kitô hữu
trong ơn gọi linh mục, độc thân dâng hiến, và giáo dân trưởng
thành, những lãnh đạo tương lai, để trực diện với tình hình xã
hội hôm nay vốn đang bị bao phủ bởi não trạng duy vật, duy thế
tục và dửng dưng. Đức cha Đại diện Tòa Thánh kết thúc bài nói
chuyện bằng cam kết sẵn sàng hết lòng chu toàn sứ vụ của mình
trong tinh thần hiệp thông và hợp tác, và học hỏi từ các Đức cha
để giúp ngài hiểu ngày một hơn Giáo hội và đất nước con người
Việt Nam
(WHĐ, 27.04.2011).
Linh mục
Tại Thánh lễ làm phép dầu, ngày lễ
bày tỏ sự hiệp thông, mối liên kết chặt chẽ của các linh mục với
Đức giám mục của mình, vị Đại diện nói: Linh mục là những người
cộng tác với Đức giám mục trong nhiệm vụ phục vụ Giáo Hội địa
phương. “Mỗi anh em (linh mục) có nhiệm vụ khác nhau nhưng Chúa
gọi và đòi hỏi mỗi người có một tâm hồn, một trái tim trong sạch
lớn lao để phục vụ Chúa và tha nhân. Điều đó đòi hỏi linh mục
không sống cho chính mình nhưng sống cho người khác, như Chúa
Giêsu - Đấng đã đến để phục vụ chứ không phải để được phục vụ...
(Thánh
lễ làm phép dầu tại Nhà thờ Chính tòa Hà Nội, sáng ngày 19 tháng
4 năm 2011).
Chủng sinh
Trong chuyến viếng thăm này, xem
ra Đức Tổng giám mục Girelli đã dành cho các chủng sinh một sự
ưu ái đặc biệt. Tại Hà Nội, ngài đã thăm Đại chủng viện, nói
chuyện và dâng thánh lễ. Trong bài chia sẻ Tin mừng, Đức Tổng
giám mục Girelli đã lấy hình ảnh Chúa Giêsu rửa chân cho các môn
đệ để hướng anh em chủng sinh đến việc học hỏi nơi Vị Thầy Đáng
Kính lòng khiêm nhường và tinh thần phục vụ tha nhân. Được gợi
hứng từ biến cố thiết lập bí tích Thánh Thể của Chúa Giêsu, Đức
Tổng giám mục đã giúp anh em chủng sinh hiểu sâu hơn về ý nghĩa
và vai trò của thiên chức linh mục trong thế giới hôm nay. Từ
đó, ngài mời gọi anh em chủng sinh hãy cố gắng hơn nữa trong
việc tu luyện để có thể trở nên những mục tử như lòng Chúa mong
ước..
Trong buổi nói chuyện với các
chủng sinh của Đại chủng viện Thánh Giuse Sài Gòn sáng thứ năm
ngày 28-04, đề cập đến vấn đề giáo dục và đào tạo tại Chủng
viện, Đức TGM ngỏ ý muốn để lại cho các chủng sinh ba chữ: Học
tập, Cầu nguyện và Kỷ luật. Học tập để biết Chúa Kitô. Cầu
nguyện để gặp Chúa Kitô. Kỷ luật để nên trưởng thành như Chúa
Kitô. Trưởng thành là biết làm chủ mình, điều khiển được bản
thân của mình.
Được hỏi về hướng giải quyết khi
có căng thẳng Đạo – Đời, Đức TGM mời gọi ngắm nhìn cách ứng xử
của Đức Giêsu: “Trả cho Xêda những gì của Xêda, và trả cho Chúa
những gì là của Chúa.” Chúa không làm cách mạng đánh đuổi người
Rôma thì Giáo Hội cũng thế. Chúa Giêsu tôn trọng chính quyền,
nhưng đồng thời Ngài cũng xác định sự tự do của Thiên Chúa. Vì
thế, Giáo Hội không làm chính trị, nhưng đem Lời Chúa đến cho
mọi người. Và Lời Chúa soi sáng mọi sự
(WGPSG).
Tại Đại chủng viện Cần Thơ ngày
30-04, Đức TGM khuyên nhủ các chủng sinh hãy thực hiện 3 chữ:
Prayer (cầu nguyện), Study (học hành) và Discipline (kỷ luật)
(WGPSG).
Đời sống tu
Vào chiều thứ Ba ngày 26-4-2011,
tại Trung tâm Mục vụ TGP.TPHCM đã có cuộc chào thăm và gặp gỡ
trao đổi với hơn 400 tu sĩ Việt Nam và Đức TGM Girelli, vị Đại
diện không thường trú của Tòa Thánh tại Việt Nam đã cầu chúc các
tu sĩ luôn là chứng nhân cho cuộc hành trình đi từ Nấm Mồ đến
cuộc Phục Sinh vinh hiển nhờ thực hiện ba lời khấn của mình
(WGPSG).
Khi đến thăm Đan viện Cát Minh Sài
Gòn vào chiều ngày 28-4, Đức Tổng Giám Mục Leopoldo đã
nói Dòng Kín là một trong
những cột trụ chính của Giáo hội Việt Nam. Cột trụ thứ nhất là
các nhà rao giảng Tin Mừng, mang Lời Chúa chiếu soi vùng đất
này. Cột trụ thứ hai là các Thánh Tử đạo Việt Nam, lấy máu mình
làm chứng cho niềm tin, và là hạt giống nảy sinh các tín hữu.
Cột trụ thứ ba là Dòng Kín, là trái tim của Giáo Hội với đời
sống cầu nguyện chiêm niệm liên lỉ của mình
(WGPSG).
Từ lo âu đến hy vọng
Chúng ta có thể xem câu trả lời
của Đức Tổng giám mục Leopoldo Girelli cho câu hỏi của một giáo
dân trong cuộc gặp gỡ của ngài với giáo dân tại nhà thờ Chính
tòa Sài Gòn về cảm tưởng của ngài khi được Đức Thánh Cha bổ
nhiệm làm Đại diện không thường trú tại Việt Nam và sau nhiều
ngày tiếp xúc với Giáo Hội Việt Nam, như một kết luận cho bài
tổng kết này:
“Tôi nhận được bài sai làm đại
diện không thường trú của Tòa Thánh tại Việt Nam trước lễ Giáng
Sinh. Tôi nghĩ chắc Chúa cũng muốn sinh ra một lần nữa ở Việt
Nam. Tôi thấy một phần vui, hãnh diện và tự hào; phần còn lại
thì vừa lo lắng vừa có chút sợ hãi. Vui vì đây là sự kiện quan
trọng trong lịch sử của Giáo Hội, đặc biệt là đối với Việt Nam.
Nó là sự thay đổi lâu dài, mặc dù là đại diện không thường trú,
nhưng nó là một tương quan bình đẳng lâu dài. Sợ và lo âu, không
biết có hoàn thành được sứ vụ mà Đức Thánh Cha giao cho mình hay
không? Từ khi đến thăm viếng Việt Nam tới ngày hôm nay, sự tiếp
đón nồng hậu, lòng tốt và sự quan tâm của anh chị em đã xóa hết
tất cả những lo âu của tôi. Mặc dù tôi không được ở đây, nhưng
tôi có thể nói với anh chị em là ngày hôm nay, tôi cảm thấy ở
đây giống như ở nhà mình vậy. Tôi sẽ trở về Singapore cuối tuần
này, nhưng tôi chắc chắn rằng tim tôi sẽ ở lại chỗ này.”
|
VỀ MỤC LỤC |
|
GIẢ NHƯ |
(Lc. 24,13-25)
“Họ đã nhận ra Chúa khi Người bẻ bánh”
Câu chuyện hai người môn đệ trên đường
Emmau để lại cho chúng ta một kinh nghiệm quí báu.
Giả như đêm ấy, hai người môn đệ cứ phớt lờ
đi người khách lạ, mặc “ông ta” muốn đi đâu thì đi, chẳng nài ép
vào nhà làm gì, thì làm sao gặp được Chúa.
Giả như đêm ấy, tránh phiền toái cho mình
và người thân, hai môn đệ chia tay “ông ta” ngay tại cửa, thì
làm sao gặp được Chúa.
Giả như đêm ấy, “ông khách lạ" lếch thếch
chẳng đáng quan tâm, mời vào nhà làm gì cho thêm tốn kém, thì
làm sao găp được Chúa.
Giả như đêm ấy, chẳng bận tâm về sự an toàn
của người khác, chẳng lo toan về sức khỏe cần nghỉ ngơi của
người khác, mời “ông ta” vào nhà làm gì, thì làm sao gặp được
Chúa.
Giả như ….
Tôi lo sợ lắm, có bao giờ mình nhẫn tâm hờ
hững với anh em, với người nghèo, có bao giờ mình chẳng bận tâm
về thân phận đau khổ của người khác, có bao giờ mình mặc kệ
những người khốn khó, có bao giờ mình quay mặt đi với người bị
bỏ rơi, bị áp bức, …Đúng lúc ấy Chúa hóa thân trong họ. Thì làm
sao gặp được Chúa?
Lm. Vinh Sơn Phạm Trung Thành, dcct.
|
VỀ MỤC LỤC |
|
TẦM QUAN TRỌNG CỦA LỜI CHÚA TRONG
ĐỜI SỐNG CỦA NHỮNG CURSILLISTAS
|
Khi chuẩn bị cho
bài chia sẻ Chúa Nhật thứ III Mùa Chay Năm A, theo Tin Mừng
Thánh Gio-an chương 4, 5-42 nói về Nước Hằng Sống, tôi nhớ lại
cách đây không lâu tôi có tham dự buổi thuyết trình về Lectio
Divina do một linh mục tiến sĩ Kinh Thánh người Colombia hướng
dẫn. Với lối trình bày dí dỏm nhưng thật sâu sắc, vị diễn giả
này đã đem đến cho những tham dự viên hiểu biết một cách sâu sắc
khi đọc và suy niệm Lời Chúa qua cách trình bày những hình ảnh,
những dụ ngôn và những biểu tượng mà các tác giả Kinh Thánh đề
cập đến.
Bài Tin Mừng theo
thánh Gio-an chương 4, 5-42 nói về cuộc gặp gỡ giữa Chúa Giê-su
và người phụ nữ Sa-ma-ri bên bờ giếng Gia-cóp. Điều này cũng gợi
cho tôi nhớ lại những cuộc gặp gỡ tương tự của các tổ phụ trong
thời Cựu Ước cũng ngay bên các bờ giếng. Nếu chúng ta lần giở
lại cuộc gặp gỡ giữa tổ phụ I-xa-ác và Rê-bê-ca (Xc. St 24,
10-66) thì đôi uyên ương này nên duyên vợ chồng từ bờ giếng.
Rồi đến vị giải phóng dân Ít-ra-en có tên là Mô-sê cũng nên
duyên vợ chồng với con gái của thầy tư tế Ma-đi-an bên bờ giếng
sau khi trốn khỏi Ai-cập (Xc. Xh 2, 11-22). Và vị Thầy của chúng
ta, Đức Giê-su khả ái cũng gặp gỡ người phụ nữ Sa-ma-ri bên bờ
giếng Gia-cóp, và qua cuộc gặp gỡ này, người phụ nữ cũng như
những người đồng hương Sa-ma-ri của bà đã thay đổi và đã nhận ra
vị Cứu Tinh không phải ở Giê-ru-sa-lem hay ở Sa-ma-ri mà chính
là ở trong thần khí và sự thật (Xc Ga 4, 23-24tt).
Bài Tin Mừng quá
hay và rất nhiều nghĩa cho tính đại kết nên tôi muốn dùng
tưởng này như là lời mở đầu bài chia sẻ cho tờ Tiến Bước trong
Năm Lời Chúa.
Trong bài chia sẻ
trước, tôi có đề cập đến “Lời Chúa trong đời sống và sứ vụ của
các nhà truyền giáo”. Những nhà truyền giáo, những linh mục, tu
sĩ là những người rao giảng Lời Chúa thì họ cần phải học, phải
chuyên sâu, phải hiểu rõ và sống Lời Chúa thì mới dám mạnh dạn
rao giảng. Nếu không thì những lời rao giảng ấy trở nên rỗng
tếch và vô giá trị. Còn những người khác không phải là linh mục,
tu sĩ thì sao? Chẳng lẽ họ đứng ngoài cuộc và xem chuyện đọc hay
suy niệm Kinh Thánh là chuyện của mấy người đi tu!!! Nhiều người
còn nói nửa đùa nửa thật rằng nhiều người Công giáo có thể bỏ
tiền chi tiêu mọi thứ đắt giá, nhưng một thứ vô giá mà không ai
thèm mua đó là quyển Kinh Thánh. Nhiều người khác còn nói rằng
có người mua Kinh Thánh rồi về nhà bao thật kỹ, cất thật kỹ
nhưng không bao giờ đọc. Bởi thế họ bông đùa rằng Kinh Thánh của
người Công giáo và người Tin Lành chỉ khác nhau một chỗ là Kinh
Thánh của người Công giáo luôn luôn mới và đẹp vì không bao giờ
mở ra đọc, còn Kinh Thánh của người Tin Lành thì cũ và xấu vì họ
thường xuyên đọc. Tôi không biết chuyện đó có đúng không nhưng
tôi thấy quyển Kinh Thánh của tôi vẫn còn mới và đẹp vì lúc này
tôi hay đọc Kinh Thánh trên Internet.
Tôi muốn nói với
những bạn đồng môn của tôi, những Cursillitas hay còn gọi là
De Colores- Muôn màu, muôn sắc, về tầm quan trọng của
Lời Chúa trong phong trào của chúng ta. Logo con gà trống nhiều
màu sắc cất tiếng gáy phần nào nói lên ơn gọi của chúng ta,
những Cursillistas. Tiếng gáy ở đây không có nghĩa là chúng ta
tự cho mình là những người hiểu nhiều, biết nhiều rồi lên mặt
với đời. Nhưng tiếng gáy ở đây là chúng ta biết vận dụng những
gì chúng ta học được qua các khóa Cursillos, qua các cuộc tĩnh
tâm, qua các sinh hoạt ngoại khóa, để
biết đặt Chúa Giê-su vào trung tâm điểm của đời sống, để
hiểu biết về Thiên Chúa và Giáo Hội
và để khám phá thêm về ơn gọi làm nhân chứng Tin Mừng nơi các
môi trường trần thế nhằm mục đích đem Chúa Ki-tô đến cho
thế giới ngày nay.
Muốn được như thế
thì những Cursillistas hữu, có thể gọi như thế cũng phải học hỏi
và đào sâu Kinh Thánh để thấm nhuần giáo huấn của Thầy Chí Thánh
vì “Không biết Kinh Thánh là không biết Đức Ki-tô”.
Những ngày ở
Colombia cho khóa học đào tạo, tôi có biết đến một phong trào
gọi là Alpha (có thể vào link
www.alphafriends.org hay
www.alphalatinoamerica.org để tìm hiểu thêm). Tôi có tham
gia để biết thêm về phong trào mới này được hình thành cách đây
vài chục năm tại Anh và hiện giờ phát triển khá mạnh mẽ tại các
nước Mỹ Latin và nhiều nước trên thế giớ. Một trong những người
khởi xướng cho phong trào này là luật sư Nicky Gumbel người Anh,
hiện giờ là một nhà thần học và linh mục Anh giáo, đã có những
buổi tĩnh tâm cho khóa Alpha tại nhà thờ Chúa Ba Ngôi ở Anh
quốc, và hiện nay số thành viên của phong trào Alpha này đã lên
đến hàng triệu người thuộc hàng trăm quốc gia trên thế giới. Sỡ
dĩ phong trào này phát triển mạnh như thế là do những người
khởi xướng biết “gãi đúng chỗ ngứa” cho các tín hữu thời hiện
đại khi biết đặt Chúa Giê-su làm trọng tâm và biết đưa ra những
vấn nạn trong việc học hỏi và trau dồi Kinh Thánh.
Vậy, những
Cursillistas hữu của chúng ta thì sao? Phong trào Cursillo của
chúng ta đã bước qua cái tuổi gọi là thất thập cỗ lai hi rồi (vì
thành lập từ thập niên 40’s ở Tây Ban Nha). Chúng ta đã đem lại
bao nhiêu người đến với Chúa qua Lời Chúa và qua đời sống của
chúng ta?
Khi còn làm việc ở
một giáo xứ gồm nhiều cộng đoàn nước ngoài ở Obligado, miền Nam
Paraguay, tôi có làm linh hướng cho phong trào Cursillo ở đây.
Thực tình mà nói người Nam Mỹ rất thích hội họp, tiệc tùng và
nhảy múa. Những Cursillistas ở đây cũng vậy. Khi họ hội họp thì
thường ăn uống và ca hát. Họ cũng có những khóa hậu Cursillo
nhưng họ rất ít học hỏi hay đào sâu Kinh Thánh. Như là người
hướng dẫn tâm linh, tôi đã gợi lại cho họ rằng người Cursillista
phải luôn gắn bó với Chúa qua Lời như cây liền cành và cần đến
sự nâng đỡ cộng tác của anh chị em mình, như được thể hiện trong
câu nói: ‘Một tay nắm lấy Chúa, một tay nắm lấy anh chị em
mình’.
Trong Phần III của
Tông Huấn Verbum Domini nói về Lời Chúa cho thế giới, số 114 có
đề cập đến Kinh Thánh và hội nhập thế giới, Đức Thánh Cha Biển
Đức XVI có viết : “Mẫu mực chân chính cho việc hội nhập văn hóa
là chính cuộc Nhập Thể của Ngôi Lời: “một ‘cuộc trao đổi văn
hóa’ (acculturation), hoặc ‘hội nhập văn hóa’ (inculturation),
sẽ thực sự là phản ánh cuộc Nhập Thể của Ngôi Lời, khi mà một
nền văn hóa, được biến đổi và tái sinh nhờ Tin Mừng, làm sản
sinh khởi đi từ chính Truyền thống sống động của mình những cách
thức diễn tả độc đáo sự sống, cử hành và những tư tưởng Kitô
giáo”, nhờ
đâm chồi từ nền văn hóa địa phương, nhờ trân trọng các semina
Verbi (hạt giống Lời) và tất cả những gì đang có trong nền
văn hóa ấy như là điều tích cực, nhờ mở nó ra với các giá trị
Tin Mừng.”
Anh chị em Cursillistas quí mến. Anh chị em đang sống trong một
môi trường đa văn hóa, đa chủng tộc gọi là Hiệp Chủng Quốc Hoa
Kỳ. Anh chị em có nhiều điều kiện thuận lợi trong việc trao đổi
và hội nhập văn hóa với các dân tộc khác đang cùng chung sống
với anh chị em. Hàng tháng chúng ta có những khóa mới Cursillo
và hàng năm chúng ta tổng kết được biết bao nhiêu Cursillistas
mới. Con số không nói lên được điều gì nếu chúng ta chỉ dừng lại
để hãnh diện về nó. Chúng ta phải làm sao cho phong trào của
chúng ta ‘Phúc Âm hóa’ thế giới bằng cách đem Tin Mừng đến cho
nhân loại qua những môi trường sống dị biệt trong xã hội, cố
gắng cải hóa lương tâm cá nhân cũng như tập thể. Như chú gà
trống với nhiều màu sắc sặc sỡ, những Cursillistas cũng phải gáy
lên : “The rooster sings, the rooster sings.
With a cock-a-doodle, cock-a-doodle-doo.... And that is why I
love. The great loves of many colors...”
Chúng ta đang sống
trong những tuần lễ của Mùa Chay để hướng về Mầu Nhiệm Phục
Sinh. Ước mong những Cursillistas của chúng ta có một tinh thần
hoán cải thật sự và biết đặt Lời Chúa làm trung tâm trong đời
sống của mình. Felices Pascuas y que Dios les bendiga.
Colombia, Lễ
Truyền Tin, 25-3-2011,
Lm. Antôn Trần
Xuân Sang, SVD.
Đức Gioan-Phaolô II, Diễn văn cho các Giám mục Kenya
(7-5-1980), s. 6: AAS 72 (1980), tr. 496; DC
s. 1787, tr. 534.
X. Đại Hội Thường Niên lần thứ XII của Thượng Hội Đồng
Giám Mục, Instrumentum laboris, s.56.
|
VỀ MỤC LỤC |
|
Phục Vụ Con
Người (Dom Helder Câmara) |
Lời
người dịch:
Hồng
y L. J. Suenens và giám mục Helder Câmara
là hai khuôn mặt lớn của Giáo hội công giáo trong thế kỷ 20. Một
vị từng là nhà tư tưởng trụ cột của Công Đồng Vaticanô II, là
sức bật canh tân nếp sinh hoạt giáo hội, là khâm sai của Giáo
Hoàng trước Hội Đồng Liên Hiệp Quốc để trình bày với thế giới về
thông điệp Hoà bình trên trái đất…Còn vị thứ hai là tiếng
nói của những kẻ không có quyền có được tiếng nói, là kẻ hiên
ngang làm chứng Tin Mừng giữa những kẻ nghèo khốn, bất chấp dư
luận chụp cho ngài chiếc nón “giám mục đỏ”.
Họ đã phục vụ Giáo hội với hai phong cách khác nhau, nhưng họ có
điểm chung là những người em, những tông đồ của Chúa Giêsu Kitô.
Những trang dưới đây là chứng từ về đức tin của họ vào Đấng
mà họ đã gặp và đã đi theo….
(Nguyễn đăng Trúc
chuyễn ra Việt
ngữ từ cuốn
III, Thánh Thần hơi thở
sống động của Giáo hội
của Hồng y L. J. Suenens)
(phần nói về
Hồng
y L. J. Suenens đã được trình bày trong số báo trước, phần sau
xin đề cập đến
giám
mục Helder Câmara)
Dom Helder
Câmara
1. Kitô
hữu, người anh em của mọi người
Sống thân
phận làm người đương nhiên hàm ngụ chiều kích xã hội. Không ai
sinh ra làm người để ở riêng một mình nơi hoang vu trống vắng.
Mỗi người trong chúng ta đều do một cha một mẹ sinh ra, và cha
mẹ chúng ta cũng có cha có mẹ như chúng ta. Mỗi người trong
chúng ta đều sống ở một nơi một thời nào đó. Và những sự kiện đó
tạo nên những quyền lợi và những bổn phận mang chiều kích xã hội
liên quan đến mỗi người.
Bất hạn ai
tin vào Thiên Chúa là Cha của mọi người thì đã đi vào mối tương
giao huynh đệ và liên đới nhân loại. Trong thế giới ngày nay,
truyền thông đại chúng giúp cho chúng ta biết đến những người
anh chị em chúng ta trong các xứ xa gần, chúng ta cảm nhận cụ
thể hơn tình liên đới phổ quát ràng buộc chúng ta với mọi người,
và đáng buồn thay chúng ta cũng nhận ra những đối nghịch tạo bất
hòa giữa các dân tộc.
Đối với kitô
hữu, như thánh Phaolô gọi là ‘con người mới’, chiều kích xã hội
lại còn liên kết với một đòi hỏi mới khi người ấy gặp gỡ những
người anh em kitô hữu khác, đã chịu phép rửa như mình, cũng là
chi thể mầu nhiệm là Giáo hội y như mình. Kitô hữu nhận ra những
bổn phận mới, nhưng tình huynh đệ trong Chúa Kitô như thế không
kéo kitô hữu thu mình lại, hoặc đóng khung người đó trong vòng
vi những người huynh đệ kitô hữu với nhau mà thôi: trái lại,
tình huynh đệ này đưa kitô hữu mở ra với thế giới bao la của mọi
người, mà mỗi phần tử đều được Chúa Kitô đã đổ máu Ngài để cứu
chuộc và, dẫu con người có ý thức hay không, thì Ngài đều kêu
gọi mỗi người hướng về một cứu cánh chung.
Trong thông
điệp đầu tiên của mình, Đấng Cứu Chuộc con người, giáo
chủ Gioan Phaolô II đã nhấn mạnh sự hiện diện của Đức Kitô nơi
mỗi người: “Ngài hiện diện nơi sâu kín nhất của lương tri con
người, đi vào mầu nhiệm của nội tâm được diễn tả trong ngôn ngữ
Thánh Kinh và ngay cả trong các lối nói ngoài Thánh Kinh, qua
cách gọi là ‘tâm’ (… ), ‘hình ảnh của Thiên Chúa Đấng vô hình’
(Col.1,15).
Ngài là Con
Người toàn mãn, Đấng đã phục hồi nơi con cháu Adam hình ảnh của
Thiên Chúa từng bị hư hỏng bởi tội nguyên tổ. Vì bản tính nhân
loại nơi Ngài đã được chu toàn, chứ không phải tiêu mất đi, nên
bản tính nhân loại nơi chúng ta cũng được nâng lên hàng phẩm giá
vô song. Qua mầu nhiệm Nhập Thể, Con Thiên Chúa ‘đã nối kết với
mọi người’. Ngài đã lao tác bằng bàn tay con người, đã suy tư
bằng trí khôn con người, đã yêu thương bằng trái tim con người.
Ngài được sinh ra bởi Trinh Nữ Maria, đã thật sự là một người ở
giữa chúng ta, giống y như chúng ta trong mọi sự, trừ tội lỗi
(Vui Mừng Và Hy Vọng, 22).
Ngài là Đấng
Cứu Chuộc con người!”
(Số 8)
Khi nhìn thế
giới với con mắt đức tin, kitô hữu có ba bổn phận phải chu toàn.
Theo lối nói của Cardijn, cần phải thấy, phải suy xét, phải hành
động.
Chúng ta bắt
đầu với đôi mắt hướng về thế giới.
2. Thấy
được thế giới trước mắt chúng ta
Kitô hữu chú
tâm nhìn thế giới hôm nay không thể nào không cảm thấy choáng
váng và đặt cho mình muôn vàn câu hỏi.
Thế giới
trước mắt chúng ta và trong đó chúng ta đang sống dường như hùng
mạnh hơn bất cứ lúc nào. Những tiến bộ khoa học và kỹ thuật đang
thực hiện biết bao sáng kiến lạ lùng; giả như tổ tiên chúng ta
trở lại dương thế hẳn họ sẽ cho đó là điều không thể tưởng tượng
hoặc chỉ là phép lạ.
Con người
ngày nay có những tài nguyên kỹ thuật có khả năng bảo đảm cho
toàn nhân loại một mức sống xứng hợp với nhân phẩm và yên ổn.
Con người ngày nay đã chiến thắng những ôn dịch, những bịnh nan
y. Người ta dường như có cả ý định chế ngự sự chết và đang muốn
tạo sự sống trong các ống nghiệm. Khắc chế sông ngòi, đẩy lui sa
mạc, khai thác các nguồn tài nguyên tận đáy biển cả, kiểm soát
những năng lực không ngờ như nguyên tử, mặt trời, gió bão, thực
hiện những biến hóa khó tưởng tượng nỗi trong kỹ thuật luyện
kim, con người ngày nay phải chăng đánh giá việc chinh phục trái
đất là chuyện cỏn con và đang hướng đến cao vọng chinh phục cả
vũ trụ?
Tuy nhiên,
ai có mắt để nhìn thì hẳn thấy rằng có những dấu chỉ hiển nhiên
là thế giới bề ngoài xem hùng mạnh như vậy, nhưng kỳ thực đang
hấp hối và đang chết.
Có những
thành phố phình ra đến độ trở nên hị hợm, ác độc, vô nhân, không
cách gì giải quyết được các vấn đề thường thức căn bản như nhà
ở, nước uống, mương hào, rác rưởi, thức ăn… tương ứng với nhịp
tăng gia dân số. Nạn thất nghiệp nảy sinh trộm cắp, cướp giựt.
Những vụ bắt cóc, bắt làm con tin đòi hỏi phải có những biện
pháp an ninh tốn kém song song với những đòi hỏi tiền chuộc càng
ngày càng cao. Bầu khí, sông ngòi ô nhiễm không hít thở nổi.
Giao thông đi lại bế tắc đến độ không còn cách giải quyết.
Nhân loại
không có thì giờ và sự yên tĩnh cần thiết để cảm nhận và sống
cuộc sống nhân tính. Con người trở thành những người máy, những
con số. Cuộc sống riêng tư tiêu dần. Với những đổi thay giá trị
tàn khốc và táo bạo như thế, nhiều tầng lớp dân chúng không cách
gì quen thuộc được buộc lòng phải chạy đến chuyên viên phân tâm
hoặc bác sĩ tâm thần.
Dấu chỉ
nghiêm trọng hơn nữa về một thế giới đang băng rã và hấp hối: đó
là hơn hai phần ba dân số thế giới đang sống trong tình trạng
không xứng với phẩm giá mình vì nghèo đói, trong lúc các siêu
cường có hơn mười lăm hoặc hai mươi lần năng lực vũ khí để hủy
diệt sự sống trên trái đất.
3. Phán đoán
với tâm hồn người kitô hữu
Nhưng kitô
hữu có bổn phận phải suy xét. Chúng ta không chấp nhận bị cái vỏ
hào nhoáng về sức mạnh và tầm vóc to lớn của con ngoáo ộp khổng
lồ này phỉnh gạt.
Thế giới
đang bày ra trước mắt chúng ta buộc chúng ta phải tự vấn lương
tâm.
Chúng ta đã
làm gì với sứ điệp ‘mọi người là anh em’ của Chúa Kitô?
Làm sao
chúng ta có can đảm nhìn đến Chúa Kitô một khi mang tên Ngài,
nhận mình là đệ tử Ngài, chúng ta lại tiếp tay với tội ác của
thế giới hôm nay: một thiểu số nhỏ nhoi lại chiếm những phương
tiện sinh sống và của cải giàu có khổng lồ bên cạnh hầu như toàn
thể con cái của Thiên Chúa bị đẩy vào một cuộc sống túng thiếu
không xứng hợp phẩm giá con người?
Chúng ta
phải nỗ lực làm điều gì trên bình diện cá nhân, cộng đồng, và
trên bình diện các dân tộc? Chúng ta có dám nhìn thẳng mặt tình
trạng mất thăng bằng nghiêm trọng như thế về mặt xã hội hay
không?
Bước đầu có
nên truy tìm nhũng nguyên nhân của tệ trạng này, có nên nêu lên
những lối sắp xếp các cơ cấu bất công đang nghiền nát hơn hai
phần ba nhân loại hay không?
Tại sao ta
nói đến cơ cấu ở đây? Phải chăng chúng là những cường lực đang
kết hợp, đang tậïp trung, đang nới rộng khắp nơi? Những cường
lực, cường quyền đó là gì? Ai chỉ huy chúng? Ai có quyền quyết
định trên chúng? Người ta có cách gì làm áp lực hữu hiệu trên
chúng hay không?
Làm sao xét
định các cơ chế bất công này dưới ánh sáng của Phúc Âm?
Chúng có
thực sự bất công hay không? Chúng liên hệ như thế nào với một
nền kinh tế chỉ dựa trên việc đi tìm lợi nhuận? Phải chăng có
một phong cách ích kỷ ở mức độ cá nhân, gia đình, cộng đồng,
quốc gia trong đó?
Ta không thể
nào tránh né những câu hỏi này.
4. Hành động
Nhưng thấy
rõ, suy xét theo Phúc Âm cũng chưa đủ: tuyệt đối phải ‘hành
động’…
Kitô hữu
không thể đọc Kinh Thánh, nghe những gì Chúa nói qua các tiên
tri để tố giác những hoàn cảnh bất công của thời các vị ấy, mà
không đi đến kết luận là những lời kêu gọi như thế luôn có gia
trị đối với chúng ta ngày hôm nay.
Cần tìm ra
những lối thoát, khai phá những lối giải quyết, thử áp dụng và
thẩm định kết quả nhằm tu chỉnh hoặc ngược lại có thể khai triển
và quảng bá.
Nguyên tắc
then chốt của bất cứ một nỗ lực thăng tiến xã hội nào trong các
xứ gọi là kém phát triển, là làm cho dân chúng
chưa đủ, phải làm với dân, cổ súy những sáng kiến,
giúp cho dân tự túc. ‘Anh hãy giúp tôi không cần đến anh nữa’:
đó là tiếng gọi của em bé muốn trưởng thành, và cũng là luật của
mọi đường lối sư phạm.
Với nguyên
tắc này, giáo dân, tu sĩ, giáo sĩ dấn thân đi vào những vùng đất
khốn cùng, nghèo đói. Dẫu không có huy hiệu nào trên ngực, trên
áo, người ta nhận ra họ một khi Đức Kitô ngời sáng trong họ.
Dân chúng đã
có thói quen chịu đựng kẻ khác cai trị từng thế kỷ, người ta đã
và còn đang hạn chế hoặc không cho họ có được quyền suy nghĩ,
quyết định, hành động, nên nay họ thụ động chờ đợi kẻ khác nói
cho họ điều gì họ phải làm. Khi những người thiện nguyện – giáo
dân hoặc tu sĩ – đến phục vụ ở giữa những người nghèo khổ, nói
với họ rằng mình không đến để suy nghĩ hoặc hành động thay cho
họ, nhưng với họ, thì dân chúng lo âu sợ hãi vì nghĩ là phải tự
mình đương đầu với sự đàn áp: những người nghèo không dám nói,
phát biểu, hành động vì sợ bị kẻ có quyền lực đè bẹp.
5. Một tia
hy vọng: các cộng đoàn cơ sở
Một phương
cách hữu hiệu nhất để giúp họ cải tiến hoàn cảnh đó là dấy lên
trong dân chúng những ‘cộng đoàn cơ sở’. Ta sẽ thấy một sức sống
cộng đoàn kỳ diệu được Phúc Âm tài bồi và thấm nhuần sinh lực
đến từ Đức Kitô. Những cộng đoàn cần được phát sinh, gặp gỡ và
liên kết với nhau, không phải để chà đạp những quyền lợi của kẻ
khác, nhưng là để tự bảo vệ không để cho kẻ khác xâm phạm quyền
của mình.
Kinh nghiệm
cho ta thấy cường quyền có thể nghiền nát một, năm hoặc mười
người. Nhưng một cộng đoàn liên kết với nhau thì không một cường
lực con người nào nghiền nát nó được, vì Thiên Chúa luôn hằng
sống và lắng nghe lời kêu cầu của Dân Ngài.
Mong chờ
người ngoài cải thiện cuộc sống dân chúng qua sự trợ giúp của
cường quyền là mãi làm cho dân chúng liên tục ăn bánh vẽ.
Nhưng đây là
khúc ca tự do vang dội từ những khối người bị áp bức trong các
nước đệ tam khi nơi nơi những kẻ yếu thế, những người bị bóc lột
cùng kết hợp với những người yếu thế và bị bóc lột khác…
Trong các
cộng đoàn cơ bản của những xứ gọi là ‘kém phát triển’, những
cộng đoàn tràn đầy đức tin, hy vọng và yêu thương nhờ một cuộc
sống phụng vụ sinh động, những cộng đoàn gặp gỡ nhau trong tiệc
Thánh Thể và cử hành các bí tích trong khung cảnh cộng đồng, thì
mọi người, từ trẻ con, thanh niên nam nữ đến người lớn, đều ý
thức trách nhiệm của mình. Họ tham gia vào đời sống chính trị,
công đoàn, các sinh hoạt văn hóa… Họ tiếp nhận và thực thi dễ
dàng những phương cách diễn đạt một nếp sống dân chủ thật sự.
Nhưng phải
lưu ý! Tôi xin lặp lại: hoạt động cho các cộng đoàn cơ sở tại
các nước được gọi là kém phát triển, thì cần có ơn riêng, có
đoàn sủng biết làm việc với dân chúng chứ không phải chỉ
biết làm cho dân chúng.
Và dân chúng
nhạy cảm về việc này, họ biết xét đoán ai có, ai không có đoàn
sủng để làm việc ‘với’ người nghèo khó.
Chúng ta nên
nói lên điều này: điều tối thiểu người ta có quyền mong đợi nơi
mọi kitô hữu, mọi người thiện chí là xin họ đứng về phía những
cộng đoàn cơ sở của các xứ đang khổ đau, nhân danh lòng yêu
chuộng công lý, nhân danh việc bảo vệ các cộng đoàn cơ sở chống
lại những lời tố cáo gian manh của những kẻ tìm mọi cách để
tránh những áp lực tinh thần của các cộng đoàn này, những áp lực
nhằm giải phóng phát xuất từ Thánh Thần Thiên Chúa.
Chúng ta rán
xét lại xem chúng ta cần thay đổi thái độ như thế nào cho phải,
và tìm cách nêu lên những gì Giáo hội cần cổ súy, đón nhận hoặc
cảm hứng.
6. Những
trách vụ của chúng ta
Trong nỗ lực
đấu tranh chống lại những cơ cấu bất công càng ngày càng bóp
nghẹt vô số con cái Thiên Chúa, không thiếu người cho rằng điều
vừa thiết yếu vừa khẩn cấp vừa khó khăn là phải đổi thay những
cơ cấu bên trong nơi con người của mình.
Hẳn nhiên
chúng ta không thể quên khía cạnh hoán cải nơi cuộc sống cá
nhân, và trong khuôn khổ đó chúng ta cám ơn những phong trào
đoàn sủng đang khẩn cầu Thánh Thần Chúa, cổ súy việc cầu nguyện
và thức tỉnh lương tâm con người.
Đừng bao giờ
quên rằng con người luôn bị khống chế bởi lòng ích kỷ và những
hậu quả của nếp sống này. Tội lỗi có thật, tội cá nhân cũng như
tội tập thể. Sự ác trong trần gian cũng rất kỳ bí! Bên cạnh thế
giới được đón nhận như công trình tạo dựng của Chúa Cha, được
Chúa Cha thương mến đến độ gửi Con thân thương của Ngài đến ở
cùng, thì còn có ‘thế giới’ đồng nghĩa với tội lỗi…
7. Những nhà
giáo dục tôn giáo
Linh mục
Arrupe, bề trên toàn thể các tu sĩ Dòng Tên, đã lay chuyển lương
tâm người công giáo khi nêu lên tình trạng khẩn trương phải thay
đổi sâu xa hướng đi của lối giáo dục của chúng ta trong một
thông điệp của ngài.
Nỗ lực nơi các
nhà giáo dục của chúng ta nhất thiết phải tìm cách đào tạo con
người hướng đến người bên cạnh, đến công lý và hoạt động xã hội.
Ước chi các
linh mục ý thức được sứ mạng thức tỉnh lương tâm con người! Có
biết bao nhiêu bài giảng, nhất là trong các ngày nhủ nhật và các
ngày lễ lớn! Hãy suy nghĩ xem, giả như không có những bài giảng
rỗng tuếch, mơ hồ, nói thiên nói địa cho có nói, không nêu lên
được vấn đề nào, không nhắc nhở gì chúng ta, không dám thúc đẩy
chúng ta đổi thay vị trí chứ đừng mãi nằm yên, ngái ngủ… Chúng
ta đâu có mong những bài giảng làm tổn thương kẻ khác chỉ vì vô
cớ thích làm khổ người ta, những lối nói khiêu khích, nhục mạ
hoặc ngạo mạn. Sự thật cần loan truyền càng nghiêm trọng thì
người nghe càng cảm thấy người giảng cần có lối nói của người
bạn, người anh em của mình. Nếu có làm nhức nhối thì chỉ là để
chữa lành bệnh như y sĩ giải phẫu. Nếu có nóng bỏng thì chỉ là
để xóa đi sai lầm, tội ác, và còn hơn thế nữa là để thanh luyện
mà thôi.
Trách nhiệm
nặng nề biết bao nhiêu, nhất là đối với những vị giảng trong các
dịp linh thao, những tuyên úy các cuộc tụ họp cầu nguyện, tĩnh
tâm để gặp gỡ Thiên Chúa một cách sâu xa! Không nên và không
được nêu danh Chúa Thánh Thần để cổ võ những thái độ vong thân.
Thánh Kinh không từng gọi kẻ nói rằng mình kính Chúa, Đấng mà họ
không thấy, đồng thời lại ghét người anh em trước mặt họ, là
phường láo khoét hay sao? Chúng ta có thể làm gì được để vinh
danh Chúa? Vâng, chúng ta có thể làm được, và chúng ta phải làm
sao để con cái Chúa, từng được Chúa Giêsu cứu chuộc, không bị
phân chia ra thành kẻ bị áp bức một bên và bên kia là kẻ áp bức.
3. Các
nữ tu, các nhà giáo
Trong lãnh
vực giáo dục, có biết bao nhiêu vườn trẻ, trường mẫu giáo,
trường tiểu học, trung học, đại học do người kitô hữu điều hành!
Hãy tưởng tượng toàn bộ nỗ lực mênh mông có thể đưa con người
vượt thắng lòng vị kỷ một cách hết sức hiệu quả và làm lung lay
những cơ cấu bất công đang nghiền nát từng triệu, từng triệu con
người, anh em của chúng ta!
9. Giới
truyền thông đại chúng
Và cả những
phương tiện truyền thông xã hội đầy uy thế nữa! Đúng là có tình
trạng hầu như lúc nào các phương tiện này cũng nằm trong vòng
kiểm soát của các nhóm quyền lực. Nhưng chúng ta có ơn Chúa và
trách nhiệm để lượng định được tầm quan trọng và sự khẩn trương
về nỗ lực giúp con người vượt thắng lòng tư kỷ và gây ý thức
liên đới, chúng ta cần len lỏi bằng mọi cách để đưa sứ điệp ấy
lên trên báo chí, truyền thanh, điện ảnh, truyền hình…
Chúng ta có
thói quen cứ mãi thụ động chịu ảnh hưởng của chúng mà không hề
phản ứng, không khác chi như cát chỉ biết thấm nước biển. Phải
đánh thức lương tâm để phản ứng lại. Trong những xứ có tự do,
cần giáo dục dư luận dân chúng ý thức bổn phận phải lên tiếng,
phải biết chống đối, dấy lên những chiến dịch cải thiện truyền
thông. Trong lãnh vực này chúng ta có cả một vùng đất bỏ hoang,
nơi mà dân lành và đa số thầm lặng nhẫn nhịn một cách thụ động.
Có một lối giáo dục về con đường đấu tranh bất bạo động mà ta
cần khai thác để dấn thân cải thiện xã hội, xúc tiến những đổi
thay cần thiết.
Cũng luôn
nhắc lại cho nhau là đây không phải dấn thân vì tham vọng quyền
bính hoặc tìm uy thế cho mình hay phe mình, nhưng là phục vụ
công ích. Có những sức mạnh tiềm tàng cần huy động để tạo những
áp lực tinh thần đem lại giải phóng, những áp lực có khả năng
đem lại công lý và yêu thương, và đó là con đường tiến đến một
nền hòa bình chân thật và bền vững. Nhưng điều thiết yếu là phải
kết hợp các nỗ lực.
10. Kết
hợp các nỗ lực
Thử lấy một
thí dụ có những con số dễ làm tính: đó là Giáo hội Châu Mỹ
Latinh.
Lục địa Châu
Mỹ Latinh có 170.000 tu sĩ (140.000 nữ tu sĩ và 30.000 nam tu sĩ
rải khắp các nước ở Trung Mỹ cũng như Nam Mỹ).
Ở Châu Mỹ
Latinh ấy, chúng ta có 800 giám mục được tổ chức thành Hội Đồng
giám mục Mỹ Châu Latinh (CELAM). Và tương ứng chúng ta có những
địa phận, rồi họ đạo, các cộng đoàn cơ bản, các linh mục nhất là
vô số giáo dân càng ngày càng đông và nhiệt tình phục vụ.
170.000 tu sĩ toàn lục địa được qui tụ vào tổ chức gọi là Hội
đồng các tu sĩ Mỹ Châu Latinh (CLAR). Ta thấy ảnh hưởng bao la
mà toàn khối tổ chức như thế có thể chi phối: hơn nữa ai cũng
biết người nữ tu sĩ hoặc nam tu sĩ là người hiến trọn cuộc sống
cho Thiên Chúa nên cũng là kẻ phục vụ người bên cạnh.
Khi đứng
riêng lẻ, giám mục, linh mục, nam hoặc nữ tu sĩ cũng như người
giáo dân, nếu tố giác những bất công, ngay cả những sự kiện quá
rõ, quá kinh hoàng, nếu nỗ lực dấn thân thăng tiến cuộc sống của
kẻ bị áp bức, thì hẳn sẽ dễ bị lên án là làm chính trị, là xách
động quần chúng, là cán bộ cộng sản. Ngược lại, nếu mọi người
trong các thành phần của chúng ta kết hợp lại, xác minh mình
hoạt động theo đường lối của Phúc Âm, của công đồng Vaticanô II,
của Thượng hội Đồng Medellin, và nay là của tuyên cáo Puebla,
thì không ai cản ngăn được và tạo điều kiện làm lung lay các cơ
cấu áp bức.
11. Mời
gọi kitô hữu hãy can cường
Thăng tiến
cuộc sống con người là phận vụ chung của chúng ta, mỗi người
chúng ta. Đó là một mầu nhiệm thật sự, một sự kiện hết sức diệu
kỳ: Thánh Thần Chúa đã dấy lên nơi mọi quốc gia, chủng tộc, tôn
giáo hoặc nhóm người, những người nam nữ quyết tâm dấn thân cho
công lý như là một đường lối xây dựng hòa bình. Trong nỗ lực ấy,
Giáo hội hợp tác với những người thiện chí và phải đóng trọn vai
trò riêng của mình. Giáo hội chỉ có thể chu toàn được phận vụ ấy
khi biết chấp nhận những bước thanh lọc.
Muốn nêu
gương sáng, muốn chứng thực sự hiện diện của Đức Kitô hằng sống
giữa muôn dân và đồng hành với con người, Giáo hội phải gấp rút
và dứt khoát quẳng bỏ ưu lo tạo uy thế cho mình, víu vịn giới có
quyền có thế, chấp nhận sống tinh thần ngôn sứ của Thầy mình,
một tinh thần có giá trị luôn mãi trong mọi thời đại: “Này Ta
gửi các con đến như gửi những con chiên ở giữa bầy sói… . Các
con sẽ bị kéo ra trước các tòa án ” (Mt 10,16-17).
Tại sao phải
e sợ người ta nghĩ sai, xét bậy khi mình dấn thân cho công lý,
một khi chính Đức Kitô đã bị gọi là người xách động, nổi loạn,
kẻ thù của César? Nếu đúng là Ngài bị xử vì đã từng xưng mình là
Con Thiên Chúa, thì ngay trên thập giá, bảng viết bằng ba thứ
tiếng cũng thực sự có ghi là Ngài đã bị lên án tử hình vì một lý
do chính trị khi đã từng tự tuyên bố mình là vua. Đây là sự khó
nghèo nhưng đầy rạng rỡ mà Thiên Chúa đòi hỏi nơi Giáo hội của
Con Ngài trong thời buổi hôm nay: Giáo hội ấy phải cắt đứt sự
đồng lõa với các chính phủ và những kẻ quyền thế, và phải dấn
thân cho kẻ khó nghèo, kẻ bị áp bức, kẻ không có chút gì trong
tay, những người con Thiên Chúa sống một cuộc sống bần hàn không
xứng hợp với phẩm giá làm người.
Nếu chúng
ta để cho sợ hãi và dè dặt đến hèn nhát kềm chế, chúng ta sẽ
chứng kiến lớp lớp người kitô hữu nhiệt tình, đặc biệt là giới
trẻ thất vọng vì thái độ ‘làm thinh cho yên’ của Giáo hội, rồi
đổ dồn về phía quá khích và bạo động. Nhiều người trong họ đón
nhận Chúa Kitô và Giáo hội theo tinh thần ngôn sứ của Ngài,
nhưng không chấp nhận Giáo hội phẩm trật và định chế. Phải làm
sao cho họ thấy được sự liên kết giữa lý thuyết và thực hành,
giữa quyết tâm sống thực và giáo lý của chúng ta.
Ngày nào
Giáo hội không còn sợ bị tố giác là làm chính trị bởi vì mình
tuyên dương những đòi hỏi của công ích, ngày nào Giáo hội dám áp
dụng nơi chính mình nội dung các bản văn cao đẹp, những thông
điệp, những tài liệu công đồng Vaticanô II, thì ngày ấy có nhiều
kẻ nhận mình là kitô hữu nhưng đang ở xa những sinh hoạt thông
thường của Giáo hội, sẽ chạy đến để góp phần mình với Giáo hội
trong nỗ lực xây dựng một thế giới công bằng và nhân đạo hơn.
Bấy giờ, và
chỉ lúc bấy giờ, mới thiết lập được sự nối kết và ngay cả sự
hiệp nhất hoàn toàn giữa Giáo hội ngôn sứ và Giáo hội định chế
là hai khía cạnh của cùng một Giáo hội duy nhất của Chúa Kitô.
Nếu chúng ta sống được như thế, thì không kitô hữu nào hoặc nhóm
kitô hữu nào cảm thấy cần bỏ đi để tìm những ‘tiên tri’ khác :
Họ sẽ ở trong Chúa Kitô hôm qua, hôm nay và mãi mãi vì Ngài luôn
là nguồn cảm hứng và ánh sáng dẫn dắt họ.
12. Nói vắn
tắt
Sau khi lược
qua những thực tế hằng ngày của kitô hữu chúng ta, tôi xin nói
vắn tắt những thâm tín của tôi về dấn thân xã hội mà tôi cảm
nghiệm được suốt những năm tháng của cuộc đời tôi:
-
Tôi không
thích sự xung đột giữa thế giới giàu và thế giới nghèo.
-
Tôi tin vào
sự táo bạo của những người yêu chuộng hòa bình, vào áp lực tinh
thần đem lại giải phóng.
-
Tôi không
thể tưởng tượng ra rằng vũ trụ được tạo dựng do yêu thương, lại
chấm dứt trong thù hận.
Tôi mong
được nói lên với mọi người:
-
Nơi nào có
con người, Giáo hộâi cần hiện diện ở đó
-
Lòng ích kỷ
của những kẻ giàu tạo nên một vấn đề nghiêm trọng hơn là cộng
sản.
-
Thế giới hôm
nay bị đe dọa bởi bom nghèo đói.
-
Cần có những
thay đổi thật sâu xa để đem lại một tình trạng công bằng chung.
-
Không có
hoán cải sâu xa nơi tâm hồn, thì ta không thể trở thành dụng cụ
thăng tiến thế giới.
-
Cuộc cách
mạng xã hội chỉ có thể thực hiện được nơi các xứ đang phát triển
khi song song có cuộc cách mạng tinh thần và xã hội trong các xứ
phát triển.
-
Phải xây
trên nền tảng vững chắc. Giải quyết mù chữ chưa đủ. Nỗ lực xây
dựng thực sự là gây ý thức để cả khối người kia ngày nào đó trở
thành một dân tộc.
-
Không phải
chỉ cần giảng và sống Phúc Âm Chúa Giêsu Kitô trong nhà thờ là
thay đổi được thế giới.
-
Tình trạng
nghèo đói làm cho con người phẫn uất và hạ nhục nhân phẩm; nó
nhận chìm hình ảnh Thiên Chúa nơi con người.
-
Chúng ta
không có quyền đổ trách nhiệm cho Thiên Chúa về những gì liên
quan đến tình trạng bất công; chúng ta có phận vụ phải xóa cho
sạch tình trạng nầùy.
-
Cửa nhà tôi
và lòng tôi rộng mở đón mọi người, tất cả mọi người.
-
Chúa Kitô đã
loan báo cuộc phán xét cuối cùng sẽ diễn ra như thế nào: chúng
ta sẽ được xét xử theo cách chúng ta đối xử với Ngài nơi người
nghèo, người bị áp bức, người bị vùi dập.
13. Tiếng
nói của giới không có được tiếng nói
Tôi xin quay
lại nhìn Chúa và chuyển lên Ngài niềm hy vọng của của giới không
có được tiếng nói trong một thế giới đang vùi dập họ:
Lạy Cha,
Làm sao
không thể đưa toàn nhân loại
vào lời
cầu nguyện của chúng con cho được,
khi mà
Con Cha, Chúa Giêsu Kitô là anh chúng con,
đã đổ máu
Ngài cho mọi người,
ở mọi
nơi, mọi lúc?
Nhưng xin
Chúa cho phép con
có lời
nguyện riêng
dành cho
thế giới của con, thế giới của những kẻ không có được tiếng nói.
Có từng
ngàn, từng ngàn con người,
- trong
các xứ nghèo
và trong
những khu nghèo của các quốc gia giàu có-
không có
được quyền lên tiếng nói,
không
cách gì khiếu nại, phản đối
hầu bảo
vệ những quyền
chính
đáng nhất để làm người.
Những kẻ
vô gia cư, không cơm ăn,
không áo
mặc, yếu đau không hề được chăm sóc,
những kẻ
không thể có được chút học vấn tối thiểu,
không
việc làm, không ngày mai,
những kẻ
không còn biết lấy gì để hy vọng;
họ có
nguy cơ phó mặc cho số kiếp,
những kẻ
chán nản ê chề, họ mất đi lời nói,
trở thành
kẻ câm nín kinh niên.
Nếu tất
cả chúng con, những kẻ tin vào Cha,
chúng con
đã từng giúp những anh em giàu có,
những kẻ
nhiều may mắn ở thế thượng phong,
biết mở
mắt, biết thức tỉnh tâm hồn,
thì những
bất công đâu có tràn lan mãi,
khoảng
cách giàu nghèo
đâu đến
nỗi quá cách biệt,
không
những giữa các cá nhân, giữa các nhóm người,
nhưng còn
giữa các quốc gia
và ngay
cả giữa các lục địa.
Lạy Chúa,
xin làm thay
những gì
chúng con đã không biết làm
và những
gì hiện nay chúng con không biết làm.
Làm sao
vượt qua được hàng rào
nào trợ
giúp, nào tặng biếu, nào bố thí
để ý thức
và thực hiện được công lý,
ôi con
đường quả thực khó khăn!
Người ở
thế thượng phong,
những kẻ
giàu tiền lắm của sẽ nổi cáu
và nghĩ
là họ bị xét đoán oan,
rồi đánh
giá những cử chỉ dù dân chủ nhất,
nhân đạo
nhất, kitô giáo nhất
là bạo
loạn và cộng sản!
14. Sứ điệp
Puebla
Hội nghị lần
thứ ba của các giám mục Mỹ châu Latinh được đức Thánh Cha
Gioan-Phaolô II chính thức triệu tập và đích thân khai mạc, đã
lên tiếng rõ ràng về tình trạng này:
“Cuộc Hội
Nghị các giám mục Mỹ châu Latinh lần này, trong tinh thần dấn
thân cho người nghèo, lên án tình trạng nghèo khổ cùng cực đang
khống chế lục địa chúng ta là tình trạng chống lại Phúc Âm.
Hội Nghị
nỗ lực tìm hiểu và tố giác những lề lối gây nên tình cảnh nghèo
khổ này.
Hội Nghị
liên kết những cố gắng của mình với những nỗ lực của các Giáo
hội khác và với tất cả những người thiện chí để bứng rễ tình
cảnh nghèo khổ này và tạo nên một thế giới công bằng và huynh đệ
hơn. ”
|
VỀ MỤC LỤC |
|
VAI TRÒ ĐẶC THÙ CỦA NGƯỜI TÍN HỮU
GIÁO DÂN TRONG GIÁO HỘI VÀ GIỮA TRẦN THẾ (1).
|
Tiến sĩ NGUYỄN HỌC TẬP
Quan niệm Giáo Hội của chúng ta như thế náo,
phải chăng Giáo Hội chỉ là tổ chức cấu trúc giáo phẩm trị chăng
?
Giáo Hội của Chúa Giêsu là một cấu trúc khá rộng
lớn, để có thể giang tay ôm ấp vào lòng mình cả thế giới, bởi vì
đó là sứ mạng của Giáo Hội được Chúa Giêsu ủy thác cho:
- " Vây anh em hãy đi và làm cho muôn dân
trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Cha và Con và
Thánh Thần, dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh
em " ( Mt 28, 20).
Giáo Hội không phải là một tổ chức, cấu trúc
đóng kín, hiện diện vì mục đích cho chính mình, mà hiện diện vì
Phúc Âm và cho thế giới: để đem đến sứ điệp và động tác cứu độ
của Chúa Ki Tô cho cả nhân loại.
Bởi đó, tự bản tính của mình, Giáo Hội là một
cấu trúc mở rộng đón tiếp cả thế gian, để cứu thoát thế gian
khỏi tội lỗi, sự chết và mọi áp bức, tha hóa và nô lệ hoá con
người. Bởi lẽ
- " con người được dựng nên giống hình ảnh
Thiên Chúa, ...giống như Thiên Chúa " ( Gen 1, 26.27)
- và con người là " con Thiên Chúa " ( Mt
6, 9).
Hiểu như vậy, một quan niệm về Giáo Hội không
bao gồm cả tư tưởng có liên hệ với thế giới, là quan niệm hẹp
hòi lệch lạc.
Nhưng phải chăng đó là tư tưỏng thúc đẩy khiến
cho cả người tín hữu giáo dân cũng có " danh chính ngôn thuận
" để so vai sánh vế với hàng giáo phẩm, phân chia và cạnh
tranh quyền lực với hàng giáo phẩm. Đó có phải là phương thức
hữu hiệu để rao giảng Phúc Âm?
Và đó có phải là đường hướng canh tân Giáo
Hội của Công Đồng Vatican II không?
Nói cách khác, một Giáo Hội được canh tân theo
chiều hướng vừa kể, tức là Giáo Hội trong đó người tín hữu giáo
dân cũng chính danh thiết thực hành xử phận vụ cá biệt của mình,
là Giáo Hội tân tiến và hiệu lực để rao giảng phúc Âm ?
Có thể như vậy, nhưng không phải theo chiều
hướng chen lấn cạnh tranh quyền lực giữa giáo sĩ và giáo dân.
Hỏi như vậy, có lẽ trong câu hỏi vừa kể, người
đặt câu hỏi không phân biệt giữa " quyền lực " ( pouvoir
) và " phận vụ " ( rôle ).
Nói cách khác, câu hỏi vừa kể được đặt ra trong
quan niệm " quyền lực " theo hình kim tự tháp, ai càng ở
đỉnh cấp bậc gần thượng đỉnh hơn, sẽ là người có uy quyền mãnh
lực hơn người khác, cai trị và sai khiến người khác phục vụ
mình.
Và cũng chính trong câu hỏi vừa kể cho thấy là
câu hỏi không có mấy hiểu biết về các phận vụ của hàng giáo phẩm
và của người tín hữu giáo dân trong Giáo Hội: chính vai trò
của các giáo sĩ và vai trò của chính người tín hữu giáo dân
mới là những gì được Công Đồng Vatican II nêu lên để canh tân
Giáo Hội và canh tân sứ mạng của Giáo Hội.
Vai trò của hàng giáo phẩm là " vai trò thừa
tác vụ " ( ministériel ) phục vụ, trước tiên là cho cộng
đồng dân Chúa. Cộng đồng dân Chúa cần được Linh Mục phục vụ với
tất cả thời giờ và khả năng của mình trong cuộc sống, tác động
và phục vụ giữa dân Chúa bằng những phương thức mà ai cũng có
thể nhận diện được.
Vị Linh Mục tỏ ra liên đới với đoàn chiên được
giao phó cho mình, phục vụ theo phương thức những gì phận vụ
linh mục đòi buộc, không cần phải bắt chước cách ăn thói ở theo
thói đời.
Vị Linh Mục có cách ăn thói ở theo thói trần
tục, chắc chắn sẽ không được các tín hữu đánh giá cao và rất
thường là thái độ dễ đưa đến việc vị ấy đánh mất đi căn tính
( identité ) của mình và ý nghĩa của sứ mạng linh mục.
1 -
Vai trò cá biệt của người tín hữu giáo dân.
Sau Công Đồng Vatican II nhiều người muốn nhấn
mạnh đến tầm quan trọng các tín hữu giáo dân tham dự vào cuộc
sống ( ad intra ) và phận vụ ( ad extra ) của Giáo
Hội, bằng cách xem những gì người tín hữu giáo dân có thể góp
phần được trong các động tác của Giáo Hội như là " những thừa
tác vụ giáo dân " ( ministériels laiques).
Trong tư tưởng đó, chúng ta thấy được khuynh
hướng " giáo phẩm hoá " ( cléricalisation ) phận vụ của
người tín hữu giáo dân, nhứt là trong những lãnh vực mà trước
đây hoàn toàn thuộc thẩm quyền của giáo sĩ, giảng dạy giáo lý,
tổ chức và chủ toạ hội đoàn, hướng dẫn hội đồng giáo xứ, hướng
dẫn các buổi cầu nguyện, suy niệm lời Chúa...chẳng hạn.
Chúng ta thử đặt một vài câu hỏi để cho thấy
những động tác giáo dân trợ lực giúp hàng giáo phẩm như vừa kể
có phải là khuynh hướng " giáo phẩm hoá " các động tác
của người tín hữu giáo dân trên, có phải là tư tưỏng quá hồ hỡi,
nếu không muốn nói là " không tưởng " không?
Trong một họ đạo, bao nhiêu phần trăm các tín
hữu giáo dân có thể tích cực tham dự vào các phận vụ phụng vụ,
mục vụ hay quản trị ?
Từ 2 đến 5 % chăng?
Nếu vậy thì 95 % các tín hữu giáo dân còn lại
làm gì, nếu họ không có được một nhiệm vụ cá biệt nào trong họ
đạo?
Và rồi 5% những " con chiên " tham dự
tích cực đó, họ dành được bao nhiêu thời giờ lo cho nhà thờ, lo
cho họ đạo, ngoài ra cuộc sống chật vật đầu tắt mặt tối với với
các lãnh vực chức nghiệp, chuyên môn, các vấn đề gia đình, xã
hội trong cuộc sống thường nhật?
- 10% chăng?
Vậy thì 90% thời giờ còn lại trong tuần lễ, nhà
thờ, họ đạo ai lo?
Đảo ngược lại câu hỏi: như vậy
- 90% thời giờ còn lại trong tuần của cuộc
sống cá nhân, gia đình, xã hội không có gì quan trọng chăng?,
- chẳng có giá trị gì đối với Giáo Hội
chăng?,
- đó là những động tác trong cuộc sống không
quan trọng gì trước mặt Chúa hay sao?,
- không có giá trị gì cho sứ mạng tông đồ của
mỗi người tín hữu Chúa Ki Tô và của Giáo Hội chăng?
- không được kể như là những động tác có liên
quan đến vai trò của người tín hữu giáo dân trong Giáo Hội và
giữa trần thế chăng?
Nếu vậy thì làm sao có thể " thăng tiến đời
sống giáo dân ", " giáo phẩm hoá giáo dân " bằng con đường
mà chỉ có một số ít người giữa họ ( 2-5%) và với thời gian eo
hẹp ( 10% thời giờ ) mới có thể thực hiện được.
Những người khác với thời giờ còn lại, chừng nào
mới được " thăng tiến " ?
Như vậy, nếu vai trò của người tín hữu giáo dân
không hệ tại ở việc " giáo phầm hóa giáo dân ", với những
khó khăn khó có thể vượt qua như vừa kể, thì việc " thăng
tiến " giáo dân phải được hiểu theo những gì Công Đồng
Vatican II dạy bảo chúng ta.
Công Đồng Vatican II nói một cách thật rõ rệt
trong lời giảng dạy của mình về vai trò và lãnh vực trong đó
người tín hữu giáo dân phải tác động:
- " Lãnh vực cá biệt của người tín hữu
giáo dân là lãnh vực trần thế ", là thế giới mà trong đó
người tín hữu giáo dân phải thánh hoá, thánh hoá chính mình và
thánh hoá môi trường sống của mình.
Bởi lẽ trong mỗi người tín hữu giáo dân đều có
tinh thần của Chúa Ki Tô nhập thể nơi họ, nơi các động tác trần
thế của họ, do việc hiệp nhứt giữa họ và Chúa Ki Tô, khởi đầu
từ ngày nhận Phép Rửa.
Hiểu như vậy, cuộc sống của người tín hữu giáo
dân giữa trần thế là cuộc rao giảng Phúc Âm cho thế gian, bằng
nhân chứng bởi đời sống, lời nói và việc làm trong các
lãnh vực thường nhật của mình.
Người tín hữu giáo dân, bằng đời sống của mình
làm cho thế giới thẩm thấu Phúc Âm của Chúa Ki Tô, Phúc Âm có
khả năng giải thoát và đem lại sự sống cho con người:
- " Bởi ơn gọi của mình, chính người tín
hữu giáo dân tìm kiếm Nước Chúa bằng cách xử sự đối với các việc
trần thế và xếp đặt chúng theo đồ án của Chúa " ( GS, 31).
Người tín hữu giáo dân
- " bị đòi buộc phải làm cho thế giới sống
động bằng tinh thần Ki Tô giáo " ( GS, 43),
- " hãy thánh hoá thế giới từ trong lòng
của thế giới " ( LG, 31),
- " hãy làm cho trở nên sống động và hoàn
hảo hoá lãnh vực thế trần bằng tinh thần Phúc Âm " ( Apostolicam
actuositatem, 2; cfr. can. 225).
- " được mời gọi một cách đặc biệt hãy làm
cho Giáo Hội hiện diện và tác động ở những nơi và trong các
trường hợp, trong đó Giáo Hội không thể trở thành muối đất, nếu
không nhờ được họ " ( LG, 33).
- " chính vì nhờ trạng thái tín hữu giáo
dân của họ, mà họ sống giữa thế gian và trong lòng những vấn đề
trần thế, họ được Chúa kêu gọi, để một khi được tràn đầy tinh
thần Ki Tô giáo, như men bột, họ hãy hành xử chức vụ tông đồ của
mình trong thế gian " ( Apostolicam actuositatem, 2).
2 -
Sứ mạng tư tế, ngôn sứ và vương giả của người tín hữu giáo dân.
Sứ mạng của người tín hữu giáo dân không phải là
" tham dự, chia phần, tranh giành quyền lực với hàng giáo
phẩm " , mà là tham dư vào quyền năng và sứ mạng của Chúa Ki
Tô, làm cách nào để làm cho thẩm thấu tinh thần của Người vào
đời sống trần thế và môi trường thế giới chung quanh mình.
Theo tinh thần của Công Đồng Vatican II, chúng
ta có thể phân biệt nhiều phương thức, mà theo đó người tín hữu
giáo dân tham dự vào sứ mạng của Chúa Ki Tô, nhứt là theo ba
phận vụ của Người ( LG 31ss; A A 10)
a) Việc tham dự của người tín hữu giáo dân
vào phận vụ tư tế ( sacerdotal ) của Chúa Ki Tô dĩ
nhiên hàm chứa một đời sống đặt trọng tâm vào Phép Thánh Thể.
Nhưng sự tham dự của họ không chỉ được thể hiện
bằng việc hiện diện tích cực trong Thánh Lễ, cũng không chỉ giới
hạn vào các động tác phụng vụ trong thánh đường:
- " Cả những người tín hữu giáo dân, bằng
các động tác thánh thiện như là người tôn thờ Chúa, họ hiến tế
cho Chúa chính thế gian " ( LG 34).
- " Tất cả các động tác của họ, cầu nguyện
và các sáng kiến tông đồ, đời sống hôn nhân và gia đình, công
việc thường ngày, niềm phấn khởi thiêng liêng và thể xác, nếu họ
hành xử thực hiện trong Chúa Thánh Thần, và ngay cả những băng
khoăn khó khăn trong cuộc sống, nếu họ biết nhẫn nại chịu đựng,
những điều đó đều trở thành của lễ hiến tế đẹp lòng Chúa, nhờ
Chúa Giêsu Ki Tô " ( ivi).
Như vậy, nói một cách ngắn gọn,việc tham dự của
người tín hữu giáo dân vào phận vụ tư tế của Chúa Ki Tô
được thể hiện nhứt là và căn bản trong cố gắng thánh hoá đời
sống hằng ngày, môi trường và các động tác trần thế của mình.
b) Kế đến chúng ta duyệt xét đến sự tham dự
của người tín hữu giáo dân vào phận vụ ngôn sứ (
prophétique) hay phận dụ huấn dạy
của Chúa Ki Tô.
Công Đồng Vatican II nhấn mạnh rằng Chúa Ki Tô
- " chu toàn phận vụ ngôn sứ của mình (
...) không phải chỉ nhờ hàng giáo phẩm, là những Đấng Bậc giảng
dạy nhân danh Người và với quyền năng của Người, mà ngay cả nhờ
những tín hữu giáo dân, mà Người thiết lập nên thành những nhân
chứng của Người và ban cho họ ý nghĩa của đức tin và ân sủng của
lời nói, để cho quyền lực của Phúc Âm chiếu rạng lên trong cuộc
sống hằng ngày, cuộc sống gia đình và xã hội " ( LG 35).
Đối với người tín hữu giáo dân, loan báo lời
Chúa trong Giáo Hội ( đọc các bài đọc trong Thánh Lễ, cắt nghĩa
giáo lý cho trẻ em, suy niệm Phúc Âm trong các hội đoàn...)
không có gì phải nghi ngờ, là hành xử phận vụ ngôn sứ của mình.
Điều đó hiện nay là sự kiện đã và đang được thực hiện, trong khi
đó thì trong quá khứ ít khi hay chưa hề có.
Chúng ta có thể coi đó là những gì tiến triển mà
Công Đồng Vatican II đã đem lại.
Nhưng nếu chúng ta chỉ hạn hẹp nhãn quang vào
những gì vừa kể, nhãn quang của chúng ta sẽ đi vào ngỏ cụt.
Ơn gọi cá biệt của người tín hữu giáo dân đòi
buộc việc rao giảng lời Chúa của họ không phải chỉ trong lãnh
vực khuôn viên Giáo Hội, mà nơi trần thế: trong hảng xưởng,
nơi bàn giấy, trong hiệp hội, trong gia đình, ngoài đường phố,
giữa chợ búa cũng vậy.
Người tín hữu giáo dân được Chúa kêu gọi và bắt
buột hiện thực động tác loan báo lời Chúa
- không những bằng gương mẫu cuộc sống,
- mà còn ở đâu có thể được bằng trực tiếp
thông báo tinh thần Tin Mừng cho nhau, người trực diện với
người, trong các cuộc hàn huyên, trao đổi, hội luận. Dĩ nhiên là
phải lưu ý tinh thần của điều mình nói lên thực sự là ý nghĩa
của lời Chúa, mà mình muốn đem đến cho anh em.
Không phải " bắt loa rao giảng giữa chợ
", tuyên bố lên bằng những " bài giảng " là chu toàn phận
vụ ngôn sứ nầy. Bởi lẽ đó không phải là cách " nói chuyện
" của người tín hữu giáo dân, mà là qua những cuộc trao đổi ý
kiến, tư tưởng giữa các thân hữu với nhau, giữa các bạn đồng
nghiệp, cho người khác hiểu đâu là lối giải quyết tốt đẹp cần
phải thực hiện cho vấn đề ( theo tinh thần Ki Tô giáo, nếu cần
phải xác định ).
Vai trò ngôn sứ cũng đòi buộc không được sợ
hãi nhân chứng cho lời Chúa, nếu cần ngay cả trong những
trường hơp mà người khác cho là kỳ cục, " không hợp tình hợp
lý ", hay có thể đưa đến những hậu quả tai hại khó lường.
Người tín hữu giáo dân không được nãn chí, hay tìm cách trình
bày lời Chúa " nửa úp nửa mở ", ấp úng không dám can đảm
nói lên đâu là chân lý, vì sợ bị khước từ hay có thể cả bị đàn
áp, như tình trạng của hạt giống bị rớt xuống trên đá sỏi trong
Phúc Âm Thánh Matthêu:
- " Còn hạt được gieo trên đá sỏi, đó là
kẻ nghe Lời và liền vui vẻ đón nhận. Nhưng nó không đâm rễ , mà
chỉ là kẻ nhất thời: khi gặp gian nan hay bị ngược đãi vì Lời,
nó vấp ngã ngay " ( Mt 13, 20-21).
Công Đồng Vatican II nhấn mạnh rằng người tín
hữu giáo dân không được che giấu đức tin và niềm hy vọng của
mình, trái lại
- " với một lòng sám hối liên tục và với
sự chiến đấu " chống lại những kẻ cai quản thế giới đen tối nầy
và chống lại những thần linh quái ác " ( Eph 6, 12) họ hãy biết
nói lên cả bằng những cơ chế cấu trúc của đời sống trần thế " (
LG 35 ).
c) Đối với sứ mạng vương giả,
Chính trên nền tảng ân sủng và chân lý của Chúa
Ki Tô, mà người tín hữu giáo dân có phận sự phải chu toàn
phận vụ định hướng Ki Tô hữu của mình. Chính đây là điều thử
thách cao cả đối với họ.
Chúa Ki Tô là Chúa và là Đấng Cứu Độ của mọi tạo
vật, muốn phục vụ, cứu độ và cai quản thế giới, để hiến dâng thế
giới lên Chúa Cha. Người thực hiện điều đó qua Giáo Hội của
Người, nhờ sự can thiệp của vị thừa tác viên của Người và, bằng
một cách trực tiếp hơn nữa, qua các môn đệ tín hữu giáo dân của
Người.
Phưong diện trước tiên phận vụ vương giả của
người tín hữu giáo dân có liên hệ đến tầm vóc cá nhân việc làm
của họ.
Chúng ta có thể diễn tả một cách đơn sơ: người
tín hữu giáo dân phải vừa là " chủ nhân " vừa là "
người phục vụ" theo ý nghĩa Thánh Kinh, cai quản công
việc cá nhân của mình, như Chúa Ki Tô đã là vua của công việc
hàng ngày, Người thực hiện trong 30 năm đời sống ẩn dật của
Người, thực hiện để phục vụ người khác.
Điều đó có nghĩa là người tín hữu giáo dân, chu
toàn phận vụ vương giả của mình, phải lả người cai trị, thực
hiện tốt đẹp việc làm của mình, chớ không phải để cho việc làm
cai trị mình.
Người tín hữu giáo dân phải ý thức rằng việc làm
của mình, mình để hết tâm trí để chu toàn, thực hiện tốt đẹp,
- không phải chỉ là phương tiện để tạo được
lợi tức hay địa vị xã hội,
- mà còn là phục vụ theo đồ án của Thiên
Chúa, góp phần làm cho thế giới trở nên tốt đẹp hơn, tạo điều
kiện tốt đẹp hơn cho cuộc sống của anh em, sống xứng đáng với
phẩm giá con người.
Làm lấy có lấy rồi, chế tạo sản phẩm giả mạo, rẻ
tiền hơn để sản xuất, giả mạo những sản phẩm tên tuổi, để bán
được nhiều hơn, thu hoạch lợi lộc nhiều hơn và bất cần nguy hại
đến sức khoẻ của người khác. Đó có phải là động tác chính đáng
của người tín hữu giáo dân " phục vụ Chúa trong anh em " bằng
việc làm của mình không?
Nói cách khác, bằng việc làm của mình, việc làm
tay chân hay trí óc, người tín hữu giáo dân thánh hoá thế
giới, làm cho thế giới trở nên hoàn hảo hơn, thánh thiện
hơn, tốt lành hơn theo đồ án của Chúa, khi Chúa dựng nên và đăt
tổ phụ chúng ta trong vườn địa đàng:
- " Chúa là Thiên Chúa đem con người vào
vườn Eden, để trồng trọt và canh giữ đất đai " ( Gen 2, 15).
|
VỀ MỤC LỤC |
|
NGỤ NGÔN THỜI BẤN LOẠN (KỲ 23)
|
Ngụ ngôn 71
Gặp voi, thỏ nói: “Bước đi nhè nhẹ thôi. Bác làm ồn ào mỗi khi
bác bước đi, không hay đâu”. Gặp cọp, thỏ bảo: “Bác ác lắm, ăn
thịt hết loài này đến loài kia thì rước họa vào mình”. Gặp kẻ
gian phá rừng, thỏ la: “Rừng là để cho muôn dân. Bác cứ đốt rừng
lấy gỗ thì thế gian gặp nạn”. Ba gian hùng ấy đồng thanh hỏi:
“Bằng chứng đâu?”
Thỏ nói mãi nên thỏ bị lên án. Voi bảo: “Mi có tội vì mi dám gặm
cà rốt của voi”. Cọp nói: “Mi có tội vì mi thơ thẩn làm suối bị
khuấy động” Kẻ gian phá rừng thì bảo: “Mi dám ngồi lên cỏ non”.
Thỏ hỏi: “Bằng chứng đâu?”. Voi và cọp đồng thanh la to: “Loài
thỏ mà dám đòi bằng chứng à?”
Ngụ ngôn 72
Mặt trời vui vẻ chiếu từng tia sáng xuống thế giới. Mây bay hoài
mệt lử nên nhả mưa xuống mặt đất. Không khí đuổi nhau thổi gió
vào người trần. Nước biển đùa nghịch nổi sóng quanh năm.
Người và muông thú hưởng ánh nắng, hứng nước mưa, hóng gió mỗi
chiều và đùa cùng những con sóng.
Thế nhưng có gia đình mèo hoang kia chẳng bao giờ cho chú mèo
nào ra sân cùng gió, cùng nắng. Khi mèo chủ được hỏi sao không
cho người nhà ra hưởng thú thiên nhiên Trời ban, mèo chủ bảo:
“Đừng áp đặt quan điểm các ông lên chúng tôi. Gia đình chúng tôi
có quan điểm riêng về thiên nhiên. Chúng tôi không cần những
điều các người nói”.
Khi những chú mèo con xanh xao yếu ớt được đưa ra khỏi hang tối
tăm, chúng thều thào: “Hóa ra nắng, gió, mưa và sóng của thế
giới ngoài này có tốn kém gì đâu. Sao lại bảo rằng mình có quan
điểm khác rồi không cho chúng tôi vui hưởng?”
Nghe thế, chú chim sâu bên cạnh giải thích: “Phải giữ bóng tối
trong nhà mới nuôi được côn trùng và người ta không thấy những
điều mình làm chứ!”
Ngụ ngôn 73
- Con
giun bị móc vào lưỡi câu nhử cá. Cá ăn giun. Cả hai đều chết.
Chết mà cả hai vẫn cười vui cho rằng mình tự nguyện chết đấy
thôi. Ấy là vì chúng được dạy rằng không nên có ý kiến.
- Con
cá bị quăng vào chảo dầu, vẫn la to: “Hoan hô đầu bếp”. Ấy là vì
giáo dục dạy rằng không được suy nghĩ khác.
- Ngọn
lửa thiêu con cá, nghĩ rằng mình đã sống yêu thương. Lửa được
dạy rằng yêu là cứ làm theo lời ai có quyền !
Gioan Lê Quang Vinh, VRNs
|
VỀ MỤC LỤC |
|
RÂU CỌP
|
Bạn có biết
rằng thầy giáo của Thomas Edison từng cho
rằng cậu ta ngu như con lừa, và
cũng chính Thomas Edison đã phải thất bại 14.000 lần trước khi
ông phát minh ra bóng điện không? Bạn có biết Albert Einstein đã
thi hỏng môn toán không? Và bạn có biết Henry Ford đã cháy túi ở
tuổi 40 không? Vâng, những vĩ nhân trên đã từng bị người đương
thời cho là thất bại, nhưng không một ai trong họ tự nhận mình
là thất bại. Sự khác biệt lớn nhất giữa họ và chúng ta chính là
họ không để cho hình ảnh thất bại lớn lên trong tâm trí của họ,
nhưng họ nhìn sự thất bại là những nấc thang đưa đến thành công. [i]
* * *
Người Đại Hàn
kể câu chuyện rằng, một chàng dũng sĩ nọ sau khi đi chinh chiến
trở về, mặc dù người vợ chăm sóc cho anh ta hết sức, nhưng anh
ta vẫn tỏ ra lạnh nhạt và hờ hững. Sau đôi ba tháng, người vợ
buồn phiền và bắt đầu cáu gắt với chồng, “Sao anh lại đối xử với
em như vậy, em đâu có làm gì sai đâu?” Nhưng dù sao, cô ta vẫn
một lòng yêu chồng và tìm mọi phương cách để xây dựng gia đình
đầm ấm.
Nghe mách bảo
có một vị minh sư trong làng có thuốc giúp cho vợ chồng hòa hợp
yên lành, cô vợ tìm đến vị minh sư xin thuốc giải cứu. Vị minh
sư đáp, “Ta có thể giúp con vị thuốc này, nhưng ta cần một cọng
râu của con cọp để chế thuốc.
Con hãy tìm nó và đưa đến cho ta. Với vị thuốc này, con sẽ chiếm
lại trái tim của chồng con.” “Làm sao con có thể có râu con
cọp?” Cô vợ buồn rầu hỏi lại. Vị minh sư đáp, “Nếu con thực sư
yêu anh ta, con sẽ tìm được nó.”
Sau vài hôm
suy nghĩ, cô vợ ra chợ mua thịt và vào rừng. Đứng thật xa hang
cọp, cô đặt thịt xuống và tìm chỗ xa ẩn núp. Một hồi lâu, con
cọp xuất hiện và ăn miếng thịt. Ngày hôm sau, cô vợ tiếp tục mua
thịt và làm như thế. Cứ sau mỗi ngày, cô ta tiến đến gần hang
cọp hơn. Sau một thời gian dài, sự hiện diện của cô vợ và miếng
thịt trở nên quen thuộc với con cọp. Từ từ, cô vợ tiến gần con
cọp, cô đụng chạm và vuốt ve nó. Một hôm, cô đã giật được cọng
râu của nó mà không hề hấn gì.
Cô vợ đưa
cọng râu cọp đến cho vị minh sư với tất cả niềm vui sướng với hy
vọng là vị minh sư sẽ chế loại thuốc thần diệu cho chồng mình.
Sau khi nhận cọng râu cọp từ tay cô, ông chập rãi hỏi, “Con hãy
nói cho ta biết làm cách nào mà con đã có được cọng râu này?” Cô
vợ kể đầu đuôi sự việc cho vị minh sư từ buổi đầu tiên cho đến
khi lấy được cọng râu với bao sự kiên nhẫn và kiên cường cô đã
thực hiện. Sau khi nghe xong, vị minh sư ném cọng râu vào bếp
lửa trước sự sửng sốt của cô,
ông ta chậm rãi nói, “Con hãy về và cũng hãy kiên nhẫn như vậy
với chồng con. Con hãy tin rằng, phép thuật này sẽ giúp con
chiếm ngự quả tim của anh ta.” Từ kinh nghiệm lấy râu cọp, cô vợ
không còn la rầy trách mắng, cũng không còn đòi hỏi,
yêu cầu chồng phải theo kế hoạch,
ý riêng của mình nữa. Chẳng bao
lâu, hai vợ chồng tìm lại hạnh phúc và cùng nhau đến gặp vị minh
sư để tỏ lòng cám ơn. [ii]
* * *
Quí bạn thân
mến, điểm thú vị của câu chuyện trên chính là qua kinh nghiệm
kiên nhẫn với con cọp, người vợ đã từ từ học được rằng: để chiếm
lại trái tim của chồng mình, cô ta cũng phải chấp nhận đi qua
quá trình này. Như thế, câu chuyện đã đề cao giá trị của đức
tính kiên nhẫn mà mỗi người chúng ta cần đào sâu và thực hành.
Kiên nhẫn với những người xung quanh, kiên nhẫn với hoàn cảnh
cuộc sống, và kiên nhẫn với chính mình. Nhìn các màn quảng cáo
trên TiVi trong thế giới hôm nay, chúng ta luôn thấy những kiểu
hứa hẹn như có những “phương thuốc” giúp thành công, cho sức
khỏe, và chữa lành các mối quan hệ một cách nhanh chóng mà không
cần đức tính kiên nhẫn. Do ảnh hưởng không ít từ lối sống trong
xã hội hiện đại, chúng ta thiếu đi khả năng hun đúc và vun trồng
cho đức tính kiên nhẫn trong con người mình. Mì ăn liền, kết quả
nhanh, bằng cấp tốc… đó như là những lời mời trong xã hội hôm
nay. Chúng có thể giúp ta kiếm thật nhiều tiền, nhưng chưa chắc
chúng có thể giúp ta hoàn thiện con người mình được. Chúng có
thể giúp ta chiếm được một vị trí cao trong công ty, trong xã
hội, nhưng chưa chắc chúng có
thể ban cho ta một sự bình an tự tại với chính mình.
Thưa bạn,
trong chủ đề Kiên nhẫn – Kiên cường, mục Sống Sao Cho Đẹp
mời bạn suy nghĩ một thực tế rằng, nếu ông Thomas Edison đã
ngừng lại con số 14.000 lần thất bại, thì chắc một điều bóng đèn
chúng ta đang sử dụng không phải thuộc quyền phát minh của ông
(và có thể chúng ta cũng chưa có bóng đèn nữa!). Vậy nếu hôm nay
bạn đang thực hiện một “thí nghiệm” gì đó về khoa học, về thực
tập nhân đức, về các mối quan hệ, có lẽ con số lần thất bại chưa
bằng Thomas Edison đâu! Hãy thử nữa đi, thành đạt đang chờ bạn ở
con số 14.001.
Br. Huynhquảng
brhq@brhuynhquang.org
www.brhuynhquang.org
|
VỀ MỤC LỤC |
|
YÊU NHAU: ĐƯỜNG NÊN THÁNH CỦA VỢ
CHỒNG
|
Tác phẩm: Cẩm Nang Hạnh Phúc Gia Đình
Kitô - MỤC VỤ HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH
Tác
giả: D. WAHRHEIT (Lm. Minh Anh, GP. Huế tổng hợp biên tập)
B2. YÊU NHAU: ĐƯỜNG NÊN THÁNH CỦA
VỢ CHỒNG
Tu đức là con đường gồm những
phương thế để sống ơn gọi Kitô hữu trong một bậc sống và một
hoàn cảnh cụ thể. Nói cách khác, tu đức là con đường để nên
thánh. Tất cả mọi người đã chịu phép rửa đều được mời gọi và có
bổn phận nên thánh. Nhưng dĩ nhiên, vì mỗi người có một bậc sống
riêng, cho nên mỗi người có một con đường riêng để nên thánh.
Linh mục có con đường tu đức riêng của linh mục, tu sĩ có con
đường tu đức riêng của tu sĩ, giáo dân có con đường tu đức riêng
của giáo dân. Trong bậc giáo dân, những đôi vợ chồng Kitô hữu
cũng có con đường tu đức riêng của mình. Con đường tu đức của vợ
chồng như thế nào, đó là điều chúng tôi cố gắng trình bày sau
đây.
1.
trong số
48 của Hiến Chế Vui Mừng và Hy Vọng, Công Đồng đã dạy: “Các
đôi vợ chồng Kitô hữu được củng cố và như thể được thánh hiến
bằng một bí tích riêng để lãnh nhận các bổn phận và phẩm giá của
bậc sống họ. Nhờ sức mạnh của bí tích này họ được thấm
nhuần tinh thần Chúa Kitô, để chu toàn bổn phận hôn nhân và gia
đình của họ. Do đó, tất cả đời sống của họ được thấm nhuần đức
Tin, Cậy, Mến và càng ngày họ càng tiến gần hơn tới sự trọn lành
riêng biệt của họ cũng như thánh hoá lẫn nhau và nhờ đó tôn vinh
Thiên Chúa”.
Để hiểu được tinh thần của giáo
huấn trên đây, thiết tưởng chúng ta phải vượt qua hai khuynh
hướng đối nghịch nhau.
Trước hết, ngay cả vẫn còn nhiều
người ngày nay cho rằng, nên thánh là chuyện dành riêng cho các
tu sĩ và linh mục. Sống thánh giữa đời là chuyện không tưởng.
Muốn nên thánh không có con đường nào khác hơn là xa lánh thế
gian tội lỗi.
Đối lại với khuynh hướng trên đây,
ngày nay có nhiều người chủ trương, để nên thánh, cần phải dấn
thân; và để dấn thân người ta cần phải vượt qua những ranh giới
của gia đình và tích cực tham gia vào các tổ chức và hoạt động
của giáo xứ, giáo phận. Quả thực trong xu thế mới này hiện có
không biết bao giáo dân tham gia tích cực vào các hoạt động của
giáo xứ như: ca đoàn, dạy giáo lý, công giáo tiến hành.
Nói chung, những hoạt động bên
ngoài gia đình như một thức tỉnh của người giáo dân quả là một
điểm son trong Giáo Hội. Tuy nhiên, đàng sau những hoạt động ấy
là cơn cám dỗ muốn quên đi những nghĩa vụ và sự thánh hoá trong
gia đình khi nghĩ rằng, những hoạt động bên ngoài ấy là con
đường duy nhất để người giáo dân được nên thánh.
2.
Khuynh hướng này có lẽ bắt nguồn từ một quan niệm cho
rằng, giá trị của con người dược đo lường bằng mức độ dấn thân
trong xã hội. Phong trào đấu tranh cho nữ quyền cũng được xây
dựng trên quan niệm ấy. Người ta cho rằng, giải phóng người phụ
nữ cũng có nghĩa là giải phóng họ khỏi những công việc nội trợ
âm thầm trong gia đình. Nhiều người giáo dân đã bị giao động vì
một quan niệm như thế, nhất là những người không có khả năng hay
không có cơ hội tham gia vào những sinh hoạt đoàn thể của giáo
xứ.
Quan niệm muốn nên thánh, cần xa
lánh thế gian; hay ngược lại, chủ trương, muốn nên thánh, cần
phải dấn thân hoạt động xã hội đều là những thái cực đi ngược
lại tinh thần của Công Đồng. Công Đồng đề cao đời sống chiêm
niệm cũng như hoạt động, nhưng đồng thời cũng nêu bật giá trị
của chính nếp sống gia đình. Người Kitô hữu nên thánh bằng những
xả thân hoạt động bên ngoài gia đình, nhưng cũng đạt được sự
hoàn thiện bằng mối quan hệ và trong chính mối quan hệ vợ chồng.
Thực ra, hôn nhân được Chúa nâng
lên hàng bí tích bởi lẽ tình yêu vợ chồng là dấu chứng của tình
yêu Thiên Chúa đối với con người. Với lời thề hứa trong bí tích
Hôn Phối, hai người phối ngẫu cam kết sẽ sống yêu thương nhau,
chung thuỷ với nhau đến độ trở thành một dấu chứng, một bằng
chứng của tình yêu Thiên Chúa đối với loài người. Yêu nhau, thuỷ
chung với nhau, xây dựng tình yêu lứa đôi chính là bổn phận tiên
quyết của đôi vợ chồng. Tình yêu ấy dẫn đến tình yêu và sự dưỡng
dục con cái. Tình yêu ấy cũng thúc đẩy hai người hăng say hoạt
động bên ngoài gia đình. Không có tình yêu ấy thì tất cả những
hoạt động bên ngoài gia đình chỉ là những lẩn tránh thiếu trách
nhiệm. Không thiếu những người giáo dân siêng năng việc nhà thờ
nhưng lại lơ là việc gia đình; không thiếu những người giáo dân
cho sự có mặt ở nhà thờ quan trọng hơn những bổn phận trong gia
đình. Nhiệt thành trong công việc của Giáo Hội nhưng xao lãng
bổn phận vợ chồng không thể được coi là một thái độ thánh thiện.
Sự thánh thiện của đôi vợ chồng Kitô hữu trước tiên hệ tại việc
xây dựng, củng cố tình yêu lứa đôi.
Người tín hữu Kitô cần có đôi mắt
sâu sắc của niềm tin để nhìn tất cả mọi sự như là những biểu lộ
của tình yêu bằng một cái nhìn trong sạch và thánh thiện. Trong
đời sống vợ chồng, tất cả mọi biểu lộ của tình yêu đều là thánh
thiện bởi đó là dấu chỉ của tình yêu Thiên Chúa đối với con
người. Một ánh mắt, một âu yếm, một nụ hôn và tuyệt đỉnh của tất
cả âu yếm là sự giao hợp vợ chồng đều là những hành động thánh
thiện.
3.
Trong một phúc âm ngụy thư, tức là sách không được Giáo
Hội nhìn nhận là do linh ứng, kể lại rằng, một hôm có người hỏi
Chúa Giêsu khi nào Nước Chúa đến. Người trả lời: khi nào hai
người nên một.
Quả thực, sự nên một của hai người
nam nữ tức tình yêu vợ chồng là dấu chỉ của Nước Chúa. Khi hai
vợ chồng yêu thương nhau bằng một tình yêu quảng đại, hy sinh,
chung thuỷ, khi họ cố gắng xây dựng và vun trồng tình yêu lứa
đôi, thì chính là lúc họ làm chứng cho tình yêu của Chúa và tham
dự vào sự thánh thiện của Ngài. Còn giá trị nào cao cả hơn tình
yêu. Còn câu chuyện tình nào lãng mạn cho bằng Diễm Tình Ca, thế
mà câu chuyện đó lại được Thiên Chúa mượn để nói lên tình yêu
thánh thiện của Ngài đối với con người.
Sách Giảng Viên đã có một cái nhìn
rất lành mạnh về tình yêu vợ chồng. Ở đoạn 9, 9, Côhelét đã
khuyên người chồng như sau: “Hãy hưởng cuộc đời với người vợ
ngươi yêu dấu suốt cả những ngày kiếp phù sinh của ngươi, những
ngày Thiên Chúa ban cho ngươi ở dưới ánh dương”.
Yêu nhau, sống trọn cho nhau, hy
sinh cho nhau, thuỷ chung với nhau. Đó là ơn gọi và đòi hỏi
thiết yếu của những người sống bậc vợ chồng. Người ta không lấy
nhau vì một mục đích nào khác hơn là tình yêu và đó là con
đường nên thánh đích thực của các đôi vợ chồng. Xin được mượn
lời của Đức Giáo Hoàng Piô V để kết thúc câu chuyện: “Tôi sẽ
phong thánh tức khắc cho người đàn bà nào mà người chồng không
bao giờ phàn nàn trách móc”.
|
VỀ MỤC LỤC |
|
CÁC MỐI
TƯƠNG QUAN CỦA LINH MỤC GIÁO PHẬN (tiếp theo) |
Mời thăm Blog của
Lm. Trần Minh Huy
http://www.chivilongchuathuongtoi.tk/
Tác phẩm: ĐÀO TẠO ỨNG SINH LINH
MỤC GIÁO PHẬN
ỨNG SINH LINH MỤC GIÁO PHẬN
TỰ ĐÀO TẠO VÀ
TIẾN BƯỚC TRÊN CON ĐƯỜNG SỐNG THÁNH
(tiếp theo)
D. III. Linh mục tương
quan với chính mình
“Chúng
ta có một vị Thượng Tế siêu phàm đã băng qua các tầng trời,
là Đức Giê-su, Con Thiên Chúa. Vậy chúng ta hãy giữ vững lời
tuyên xưng đức tin. Vị Thượng Tế của chúng ta không phải là
Đấng không biết cảm thương những nỗi yếu hèn của ta, vì
Người đã chịu thử thách về mọi phương diện cũng như ta,
nhưng không phạm tội. Bởi thế, ta hãy mạnh dạn tiến lại gần
ngai Thiên Chúa là nguồn ân sủng, để được xót thương và lãnh
ơn trợ giúp mỗi khi cần. Quả vậy, thượng tế nào cũng là
người được chọn trong số người phàm, và được đặt lên làm đại
diện cho loài người, trong các mối tương quan với Thiên
Chúa, để dâng lễ phẩm cũng như tế vật đền tội. Vị ấy có khả
năng cảm thông với những kẻ ngu muội và những kẻ lầm lạc,
bởi vì chính người cũng đầy yếu đuối; mà vì yếu đuối, nên
người phải dâng lễ đền tội cho dân thế nào, thì cũng phải
dâng lễ đền tội cho chính mình như vậy. Không ai tự gán cho
mình vinh dự ấy, nhưng phải được Thiên Chúa gọi, như ông
A-ha-ron đã được gọi. Cũng vậy, không phải Đức Ki-tô đã tự
tôn mình làm Thượng Tế, nhưng là Đấng đã nói với Người: Con
là Con của Cha, ngày hôm nay Cha đã sinh ra Con, như lời
Đấng ấy đã nói ở một chỗ khác: Muôn thuở, Con là Thượng Tế
theo phẩm trật Men-ki-xê-đê. Khi còn sống kiếp phàm nhân,
Đức Giê-su đã lớn tiếng kêu van khóc lóc mà dâng lời khẩn
nguyện nài xin lên Đấng có quyền năng cứu Người khỏi chết.
Người đã được nhậm lời, vì có lòng tôn kính. Dầu là Con
Thiên Chúa, Người đã phải trải qua nhiều đau khổ mới học
được thế nào là vâng phục; và khi chính bản thân đã tới mức
thập toàn, Người trở nên nguồn ơn cứu độ vĩnh cửu cho tất cả
những ai tùng phục Người, vì Người đã được Thiên Chúa tôn
xưng là Thượng Tế theo phẩm trật Men-ki-xê-đê (Dt 4,
14-5,10).
D.III.1 Vài nét về linh
mục triều
Trước hết, là linh
mục giáo phận tương lai, các ứng sinh linh mục ngay từ những
ngày bước vào Đại Chủng Viện phải luôn ý thức tìm hiểu và
sống linh đạo linh mục giáo phận (quen gọi là linh mục
triều),
nhằm biểu lộ căn tính linh mục mỗi ngày một cao độ hơn là
càng ngày càng nên đồng hình đồng dạng với Chúa Kitô mục tử
nhân lành.
Chủng sinh cần biết
rõ về thể trạng linh mục triều hay cũng gọi là linh mục giáo
phận là gì? Đa số linh mục trên thế giới là linh mục triều,
sống giữa dân chúng trong thế gian và phục vụ giáo dân trong
các giáo xứ. Linh mục triều không khấn giữ ba lời khuyên
Phúc Âm như các linh mục Dòng hay tu sĩ, nhưng sống chúng
một cách khác bằng việc hứa vâng lời Giám mục Bản quyền và
sống độc thân khiết tịnh, được làm chủ và sử dụng của cải
theo ý mình, trong nếp sống giản dị để việc phục vụ mọi tầng
lớp dân chúng được hiệu quả. Linh mục giáo phận phải luôn
trung thành sống trọn vẹn thuộc về Chúa Kitô và trọn vẹn
thuộc về Giáo Hội mà mình được kêu gọi hiến dâng phục vụ với
một tình yêu không chia sẻ, như hôn phu trung thành với hôn
thê của mình.
Các linh mục triều
nhập tịch vào một giáo phận, thuộc về giáo phận, trực tiếp ở
dưới quyền và vâng lời Giám Mục giáo phận, hiệp nhất với
linh mục đoàn, thi hành chức vụ linh mục và đảm nhận những
công tác do Đức Giám Mục chỉ định, thường ở trong các giáo
xứ thuộc giáo phận của mình.
Vì phụ trách các
giáo xứ biệt lập và độc lập nên linh mục triều không có đời
sống cộng đoàn, chấp nhận đời sống cô đơn, lắm khi cũng đối
đầu với nhiều mối nguy hiểm của thân phận con người yếu
đuối. Do đó, linh mục triều đòi hỏi phải có mức độ trưởng
thành, quân bình và hài hòa cao hơn, toàn diện hơn, cả về
nhân bản lẫn thiêng liêng. Tuy không bó buộc do bản chất,
nhưng do thực tiễn đời sống, ngày nay một nếp sống chung và
hợp tác mục vụ giữa các linh mục cùng địa hạt rất được cổ võ
và khích lệ.
Linh mục triều sống
và hoạt động theo đường hướng chung của Hội Thánh, nhằm tôn
vinh Thiên Chúa và cứu rỗi các linh hồn, trong khi cũng nhằm
vinh danh Thiên Chúa và cứu rỗi các linh hồn, nhưng các linh
mục Dòng và tu sĩ sống cộng đoàn và làm việc theo đặc sủng
và linh đạo riêng của từng vị sáng lập, nên có người nói
linh mục triều không có linh đạo riêng. Tuy nhiên, điều nhận
xét này không đúng hẳn. Có thể nói linh đạo của linh mục
triều là nên đồng hình đồng dạng với Chúa Kitô mục tử nhân
lành, sống cao độ cho Chúa Cha, dưới tác động của Chúa Thánh
Thần, để cứu rỗi các linh hồn.
Linh đạo nên thánh
và tác vụ của linh mục triều mang tính cộng đồng hơn, và
chính cộng đồng linh mục triều phục vụ ấy làm cho đời sống
thiêng liêng của linh mục triều được lớn lên: khi linh mục
giảng dạy, ngài được dạy dỗ; khi khuyên bảo, ngài được
khuyên bảo; khi thăm viếng người bệnh, con bệnh là chính
ngài được nâng dậy; khi an ủi người đau buồn, ngài tìm thấy
sự an ủi; khi phục vụ người nghèo, sự nghèo nàn trong tâm
hồn ngài tìm được nâng đỡ; khi hướng dẫn người khác, ngài
tìm được sự hướng dẫn và chỉ đạo; khi chủ tọa thánh lễ, tinh
thần ngài được biến đổi và canh tân; khi cầu nguyện, ngài
tiếp xúc được với những hoạt động kín đáo của ân sủng Thánh
Thần.
Theo nghĩa này, linh
đạo của linh mục giáo phận có bốn chiều hướng:
-
Chiều hướng Hội Thánh
cảm thông với Hội Thánh và dấn thân làm tăng
trưởng cộng đoàn Dân Chúa hầu xây dựng và kiện toàn Nước
Thiên Chúa;
-
Chiều hướng nhập thể
đối thoại và thúc đẩy một nhận thức tích cực về thế giới,
phối hợp cái thiêng liêng và cái trần tục để biến đổi và
thánh hiến thế giới cho Thiên Chúa trong Chúa Kitô;
-
Chiều hướng phục vụ
xem việc phục vụ trần gian như một phần không thể thiếu của
đời sống linh mục và cam kết phục vụ ngày càng trở nên sâu
sắc hơn trong một Hội Thánh phục vụ;
-
Chiều hướng giải phóng
tìm đáp lại tiếng kêu xin cuộc sống mới dồi dào trong viễn
ảnh môi trường học, qua thái độ và lối sống chia sẻ giúp
người thiếu thốn vật chất lẫn tinh thần, qua cuộc chiến mang
tính ngôn sứ chống lại những bất công dù là dân sự hay thuộc
về Giáo hội, qua việc phát triển những thái độ tích cực và
hy vọng hầu đưa ra các giải pháp mới mẻ và sáng tạo.
Trong tinh thần Giáo
Hội, một số linh mục Dòng được mời hợp tác đào tạo ứng sinh
linh mục như dạy học, linh hướng, tĩnh tâm, linh thao...
Chúng ta cần khai triển và vận dụng cách hài hòa điểm mạnh
của chúng ta là vừa thừa kế những kinh nghiệm biện phân sâu
sắc đời sống thiêng liêng của linh mục Dòng, vừa được trang
bị những kinh nghiệm mục vụ thực tiễn của linh mục triều. Sự
thống nhất đời sống nội tâm và hoạt động tông đồ là điều
kiện tất yếu của một linh mục triều thành công, hạnh phúc và
thánh thiện.
D.III.2 Căn tính linh
mục theo truyền thống Giáo Hội
D.III.2a Kỷ luật độc thân linh mục
Trong xã hội tục hóa
hôm nay, ảnh hưởng của tinh thần tôn sùng vật chất đang thao
túng mãnh liệt. Địa vị, tiền bạc và lạc thú được đại đa số
xem như là tất cả hạnh phúc của con người. Sự phóng túng
tình dục và chủ nghĩa hưởng lạc cuốn hút bao trái tim và đầu
óc của người trẻ.
Do đó, độc thân khiết tịnh, nhất là nơi giới đàn ông, bị
nghi ngờ và coi là không thể.
Nhưng “giữa thế hệ đó, anh
em hãy chiếu sáng như những vì sao trên vòm trời,
nên đối với Giáo Hội Công giáo Rôma, đời sống độc thân linh
mục là một thực hành bắt buộc rất cựu trào, dựa vào truyền
thống Tông Đồ, chẳng hạn thế kỷ IV, Công Đồng Carthage (năm
390) đã nói: “Những người phục vụ các mầu nhiệm thánh
phải hoàn toàn tiết dục hầu cho những gì các Tông Đồ đã
giảng dạy và người xưa gìn giữ thì nay chúng ta cũng tuân
giữ nó.” Quả thế, ngay từ đầu, Chúa Giêsu và thánh
Phaolô đã nêu gương chọn cuộc sống ấy. Rõ nét hơn từ Công
đồng Latêranô I (1123), luật độc thân được áp dụng trong
Giáo Hội Công Giáo đối với mọi linh mục theo lễ nghi
La-tinh.
Thế kỷ 14-15 cho
thấy bức tranh toàn cảnh lịch sử Giáo Hội của một nền luân
lý suy đồi dẫn đến thời kỳ Phục Hưng nguy hiểm và kết thúc
với cuộc ly khai Thệ phản. Công đồng Trentô (1543) đã đưa
đến một cuộc canh tân thiêng liêng sâu xa và bền bỉ về chức
linh mục và thừa tác mục vụ linh mục.
Thời đại chúng ta chứng kiến
nhiều cuộc tranh luận về vấn đề kỷ luật này. Một số người đã
cho rằng chẳng mấy hữu lý khi đòi buộc những người sẽ chịu
chức linh mục phải sống bậc độc thân; họ vịn cớ cả Chúa
Giêsu lẫn thánh Phaolô không trình bày bậc độc thân như là
một thực hành bắt buộc đối với các môn đệ. Một ít người còn
đi xa hơn nữa đổ lỗi cho bậc độc thân phải chịu một phần
trách nhiệm về cuộc khủng hoảng ơn gọi linh mục và những
gương mù giới tính đã xảy ra tại nhiều nước Bắc Mỹ và Âu
Châu.
Ngay cả mới đây, 144 trong
số 400 nhà thần học của Đức, Áo và Thụy Sĩ cùng ký tên
đưa ra một Bản Kêu Gọi “Giáo Hội 2011, một sự canh tân
thiết yếu.” Họ lấy tư cách là những nhà thần học nhưng
đề xuất những cái thiếu thần học như nêu nguyên tắc “cái
gì liên quan đến mọi người thì phải được mọi người quyết
định” để rồi đòi cho giáo dân tham gia vào việc bổ nhiệm
các Giám mục và Cha xứ, hủy bỏ luật độc thân linh mục,
phong chức linh mục cho phụ nữ, cho hôn nhân đồng tính
và ly dị tái hôn.
Dù vậy, qua Sắc lệnh Chức
vụ và Đời sống linh mục của Công đồng Vatican II, Giáo
Hội vẫn duy trì truyền thống không thay đổi, nhưng nhấn mạnh
đặc biệt đến mối liên hệ chặt chẽ giữa độc thân khiết tịnh
và đức ái mục tử vì Nước Trời
của chức linh mục thừa tác của linh mục.
Đức Phaolô VI trong Sacerdotalis
Coelibatus khẳng định: “Luật độc thân thánh, mà Giáo
Hội canh giữ từ nhiều thế kỷ nay như một viên ngọc quý rạng
ngời, bảo tồn toàn bộ giá trị của nó cả ở thời đại chúng ta
vốn tiêu biểu bằng một sự biến đổi sâu xa các não trạng và
các cơ cấu.”
THĐGMTG năm 1971
khẳng định sự cần
thiết phải duy trì luật độc thân linh mục trong Giáo Hội
Latinh, với việc giải thích nền tảng, các động cơ và điều
kiện ủng hộ nó mà linh mục thi hành với Chúa Kitô và
trong Chúa Kitô.
Tông huấn hậu THĐGMTG Pastores Dabo Vobis
trình bày luật độc thân như một đòi hỏi căn bản trong
toàn cảnh bốn chiều kích đào tạo nhân bản, thiêng liêng, tri
thức và mục vụ.
Bộ Giáo luật
1983 lặp lại: “Các Giáo sĩ buộc phải giữ tiết dục hoàn
toàn và vĩnh viễn vì Nước Trời, và vì thế phải tuân giữ luật
độc thân, ân sủng đặc biệt Thiên Chúa ban, nhờ đó các thừa
tác viên chức thánh có thể kết hiệp dễ dàng hơn với Chúa
Kitô bằng một tâm hồn không chia sẻ, tự hiến trọn vẹn và tự
do hơn cho việc phục vụ Chúa và con người.”
Sách Giáo lý Công giáo lặp lại:
“Tất cả các thừa
tác viên được truyền chức linh mục trong Giáo Hội Latinh,
ngoại trừ các Phó Tế Vĩnh Viễn, được chọn một cách bình
thường giữa các tín hữu đang sống độc thân và có ý chí giữ
luật độc thân vì Nước Trời”.
Trong cuộc
họp với lãnh đạo các Bộ của Giáo triều ngày 16.11.2008, ĐTC
Biển Đức XVI đã tái khẳng định giá
trị của chọn lựa đời sống độc thân của các Linh mục, hợp với
truyền thống Công Giáo chưa bị gián đoạn và lập lại đòi buộc
phải có một đào tạo nhân bản và Kitô giáo vững vàng, cho cả
các chủng sinh lẫn các Linh mục đã chịu chức.
Chỉ Nam cho thừa tác vụ và đời sống linh
mục năm 1994 của Bộ Giáo sĩ khẳng
định: “Xác tín vào những động cơ thần học và mục vụ sâu
xa làm cơ sở cho mối tương quan giữa sự độc thân và chức
linh mục, được soi sáng bằng chứng tá còn giá trị ngày hôm
nay của rất nhiều cuộc đời linh mục vững mạnh về mặt thiêng
liêng và Phúc Âm, mặc dầu xảy ra nhiều trường hợp đau
thương, Giáo Hội đã tái xác nhận, qua Công đồng Vatican II
và giáo huấn của các Giáo hoàng về sau, ‘ý muốn mãnh liệt
duy trì luật đòi buộc tình trạng độc thân vĩnh viễn tự do
chọn lựa cho các ứng viên linh mục theo nghi lễ Latinh’,
xác tín rằng đó là ân huệ mang lại thiện ích cho Giáo Hội
và thế giới.”
Và mới đây nhất, trong bài diễn văn khai mạc
Công Nghị Giáo Phận Rôma ngày 26/5/2009 “Mọi thành
viên Giáo Hội và sự đồng trách nhiệm mục vụ”, ĐTC
Biển Đức XVI khẳng định không hề có gián đoạn hay đối lập
giữa Giáo Hội trước và Giáo Hội sau Công đồng Vatican II.”
D.III.2b Ý nghĩa và bản chất độc thân linh mục
Đặc sủng sống độc thân thánh
hiến giả thiết linh mục phải có một dấn thân dứt khoát dõi
theo một đời sống tự chủ bản thân và khiết tịnh. Từ thời các
tông đồ, Giáo Hội đã muốn bảo tồn ơn tiết dục vĩnh viễn của
giáo sĩ và hướng về giải pháp chọn ứng viên chức thánh nơi
những người độc thân.
Sự dấn thân được lựa chọn cách tự do và quảng đại là lời đáp
trả hồng ân quảng đại của Thiên Chúa.
Vậy độc thân linh mục được ghi tạc ngay tại nội tâm của một
tương quan đối thoại liên lỉ giữa Thiên Chúa và mỗi linh
mục.
Qua việc cho đi chính đời sống
mình được diễn tả bằng cách chọn đời sống độc thân, linh mục
càng ngày càng sống cho Thiên Chúa và tha nhân hơn, qua sự
lột bỏ liên lỉ, một sự “tự hủy” làm cho mình “nhỏ
bé đi để cho Chúa lớn lên”
và góp phần vào sự tăng trưởng của Giáo Hội và của từng
người trong anh chị em mình.
Độc thân linh mục không thể
tách rời khỏi toàn bộ đời sống kitô “không còn là tôi
sống, nhưng chính Chúa Kitô sống trong tôi” trong đó
linh mục cố gắng nên đồng hình dạng với Chúa Kitô Mục Tử
Nhân Lành “ban sự sống mình cho đoàn chiên.”
Chính trong khung cảnh đó mà sự tự do của linh mục không
ngừng được củng cố trưởng thành bản thân sẵn sàng phục vụ
Thiên Chúa qua việc phục vụ dân Ngài. Vị linh mục chấp nhận
tình trạng sống ấy sẽ gặp được kho báu hàm chứa việc “mang
trong thân xác sự chết của Chúa Giêsu, để sự sống của Ngài
cũng được bày tỏ trong thân xác mình” hầu học biết ban
phát sự sống mình cho đoàn dân được trao phó cho mình, nhờ
đó được thúc đẩy loan báo Tin Mừng “lúc thuận tiện cũng
như lúc không thuận tiện.”
Mỗi thời đại diễn tả
đức tin và thực hành của Giáo Hội trong trạng huống văn hóa
riêng của mình, tùy theo mức độ được đâm rễ chắc chắn trong
Truyền Thống mà chúng ta sống nhờ đó. Giáo huấn của Giáo Hội
cung cấp cho chúng ta những căn bản cần thiết để suy nghĩ và
định hình lời trả đáp của chúng ta đối với hồng ân của Thiên
Chúa trong bậc độc thân thánh hiến.
Cuộc sống độc thân
khiết tịnh tự bản chất là liên hệ, liên hệ với Thiên Chúa,
liên hệ với con người và thế giới. Nó định phẩm cho căn tính
của linh mục là một con người của liên hệ. Nó tăng cường
những liên hệ của linh mục với Giám Mục và với linh mục đoàn
của giáo phận mình. Nó mời gọi linh mục nhận rõ sự bổ túc
của mình với các bậc sống khác và những mối liên hệ mình
phải duy trì với họ. Nó cũng cho phép linh mục thiết lập các
liên hệ nhân bản, kể cả các liên hệ bạn hữu chân chính với
người nam lẫn người nữ.
Chúng ta lưu ý những điểm giáo
huấn nổi bật này của Giáo Hội:
-
Sống độc thân thánh hiến là một cách
thức yêu mến và hiện hữu với tha nhân. Nó khai mở một cuộc
sống không tự đóng kín nơi chính mình, nhưng khai sáng những
liên hệ và đời sống cộng đồng, tôn trọng phẩm giá những
người mình gặp gỡ, kêu gọi mọi người cùng nhau tìm kiếm sự
thánh thiện và làm cho Nước Chúa ngự đến.
-
Sống độc thân khiết tịnh hệ tại sự dấn thân
tất cả cuộc đời: Nhờ bí tích Truyền Chức, lời hứa sống độc
thân thánh hiến đâm rễ sâu xa vào chính thực thể của linh
mục và phải được nhắc lại trong suốt chiều dài của đời sống
linh mục, đặc biệt trong ngày lễ Truyền Dầu.
-
Đời sống độc thân thánh hiến của linh mục
tìm được tất cả ý nghĩa của nó trong liên hệ với các lời
khấn khác, được diễn tả ra hay hiểu ngầm trong các nghi thức
truyền chức. Nó mang dấu ấn của một cuộc sống
giản dị và hướng tới một đời sống cầu nguyện chuyên cần, vì
đây là một hồng ân phải nhận lãnh và làm mới lại không
ngừng, khuôn mình cách mật thiết với những mầu nhiệm mà linh
mục cử hành.
-
Đời sống độc thân thánh hiến giả thiết một
khổ hạnh, dù ngày nay ít được nhấn mạnh, nhưng vẫn là thiết
yếu. Sự thận trọng, dè dặt, tỉnh thức, từ bỏ, chấp nhận mọi
thánh giá trong suốt cả đời sống, và những yếu tố khác cùng
loại, làm thành bấy nhiêu phương diện của một quan niệm toàn
vẹn về cuộc sống độc thân khiết tịnh.
-
Chọn lựa sống độc thân thánh hiến là trao
hiến đời sống mình để nhắm tới một sự phong phú đặc biệt.
Linh mục đã chọn sống độc thân thánh hiến phải có
một quan niệm lành mạnh về tình phụ tử và danh hiệu “cha” mà
những người được trao phó cho mình thường gọi mình. Đời sống
của ngài phải hoàn toàn quy hướng về sự tăng trưởng của họ
trong đức tin, đức cậy và đức mến.
Thánh Kinh cung cấp
rất nhiều phương sách để suy tư và cầu nguyện, hầu hiểu được
căn bản Phúc âm của bậc độc thân thánh hiến: kỷ luật của
Giáo Hội Roma không chỉ thuộc về sự gắn bó với truyền thống
lâu đời không hề xa lạ với Thánh Kinh, mà còn mặc lấy một
hình thức bắt buộc, cho dù một hình thức như vậy không được
đặt định trong Tân Ước. Nhưng bằng nhiều cách, Tân Ước vẫn
làm vang lên lời mời gọi vào bậc độc thân thánh hiến.
Đời sống độc thân
hiến thánh của linh mục cũng phải tựa trên nền tảng thần học
nghiêm chỉnh và sâu xa, cho phép chủng sinh và linh mục hiểu
rõ ý nghĩa Kitô học, Giáo hội học, Thánh Kinh học, ý nghĩa
hôn ước và tông đồ của bậc sống họ, cả trong thời gian đào
tạo khởi đầu cũng như trong thời gian thi hành sứ vụ và
thường huấn, đào sâu tính “thích hợp” của bậc độc thân với
chức vụ linh mục mà sắc lệnh Chức vụ và đời sống linh mục
nói đến.
Ngoài ra còn phải
lưu ý đến tầm quan trọng của cộng đồng giáo dục như là yếu
tố căn bản của việc đào tạo khởi đầu về đời sống độc thân
thánh hiến, nhờ sự phân định và quân bình giữa những thời
gian trao đổi và những thời gian trầm mặc, những chia sẻ
giữa chủng sinh và nhà đào tạo. Nhưng đừng quên vai trò của
các cộng đồng khác, là những cộng đồng tự nhiên như gia
đình, hoặc cộng đồng Giáo hội như các xứ đạo.
Nhưng bậc độc thân thánh hiến
phải là một chọn lựa tự do dấn thân được Giáo Hội chuẩn
nhận, chứ không phải là một gánh nặng áp đặt từ bên ngoài.
Và như thế, kỷ luật độc thân trở nên như một sự che chở bảo
vệ và một gánh nhẹ nhàng cho linh mục.
D.III.2c Linh mục trong mối hiệp thông phẩm trật
Toàn thể Giáo Hội thông phần
vào chức tư tế cộng đồng của Chúa Giêsu trong Chúa Thánh
Thần. Hiệp thông với Chúa Kitô như là đầu của thân thể, chức
tư tế thừa tác được trao ban cho các tông đồ trước tiên,
tiếp đến được hiện hữu nơi các người kế vị là các Giám mục,
rồi qua việc đặt tay truyền chức, các Giám mục thông truyền
cho linh mục một phần chức linh mục trọn vẹn của mình.
Sắc lệnh Chức Vụ và
Đới Sống Linh Mục viết: “Chúa
Kitô đã sai các tông đồ như chính Người được Chúa Cha sai,
và qua các tông đồ, Người đã làm cho các đấng kế vị là các
giám mục cũng được tham dự việc thánh hiến và sứ vụ của
chính mình Người. Tác vụ này của giám mục cũng được trao cho
linh mục ở cấp độ tùy thuộc, để một khi đã gia nhập hàng
linh mục, họ là những cộng sự viên của hàng giám mục, chu
toàn một cách tốt đẹp sứ vụ tông đồ do Chúa Kitô trao phó.”
Như thế, nhờ việc thánh hiến,
linh mục được trao ban quyền bính thiêng liêng, thông phần
vào quyền bính mà Chúa Kitô điều khiển Giáo Hội nhờ Chúa
Thánh Thần, nghĩa là linh mục được thông hiệp cách riêng
biệt và đặc thù với Thiên Chúa Ba Ngôi. Quả thế, bản chất và
sứ vụ linh mục không thể được xác định nếu không có những
tương quan bắt nguồn từ Chúa Ba Ngôi, được kéo dài trong sự
hiệp thông của Hội Thánh và của toàn thể nhân loại.
Đời sống và sứ vụ của linh mục
là sự tiếp nối đời sống và sứ vụ của Chúa Kitô. Căn tính
linh mục liên quan thiết yếu với tình thương cứu độ của Chúa
Cha, với sự tuyển chọn và kêu gọi đích danh của Chúa Kitô,
và với ân huệ thông ban sự sống của Chúa Thánh Thần, nhờ đó
linh mục tìm được sức mạnh hướng dẫn cộng đoàn đã được trao
phó cho mình và gìn giữ cộng đoàn ấy trong sự hiệp nhất như
Chúa muốn.
Là thành phần tư tế thừa tác
của Giáo Hội, Thân Thể và Hiền Thê của Chúa Kitô, Giám mục
tham dự vào hôn ước của Chúa Kitô, được biểu thị qua nghi
thức trao nhẫn trong lễ tấn phong Giám mục.
Cũng thế, được thông phần vào chức tư tế duy nhất của Chúa
Kitô ở cấp độ thấp, linh mục cũng thông phần một cách nào đó
vào chiều kích hôn ước đối với Giáo Hội, nên phải hết lòng
yêu mến Giáo Hội bằng cách cống hiến mọi năng lực và tự hiến
trong đức ái mục tử đến độ hy sinh chính cuộc sống mình mỗi
ngày cho đoàn chiên được trao phó.
Do bí tích truyền chức và thừa
tác vụ lãnh nhận, linh mục liên kết và hiệp thông phẩm trật
với Giám mục đoàn phục vụ toàn thể Giáo Hội, nên chức linh
mục cũng có tính cách phổ quát, và dù nhập tịch ở một Giáo
Hội địa phương, linh mục phải có con tim và não trạng thừa
sai, luôn rộng mở cho mọi như cầu của Giáo Hội và thế giới.
Linh mục phải luôn sống trong
sự hiệp thông phẩm trật này: “Không có thừa tác vụ linh
mục ở ngoài sự hiệp thông với Đức Giáo Hoàng và Giám mục
đoàn, đặc biệt với Giám mục giáo phận, trong lòng tôn kính
như con thảo và sự tuân phục đã hứa khi thụ phong.”
Sự hiệp thông được diễn tả và củng cố qua cử hành Thánh Thể,
nhất là thánh lễ đồng tế do Giám mục chủ sự với linh mục
đoàn; cũng như qua sự hiệp nhất phẩm trật trong việc thi
hành thừa tác vụ mục vụ:
Linh mục không làm gì mà không có Giám mục, nhưng ngày nay
nhấn mạnh nhiều về nguyên lý bổ trợ (subsidiary principle).
Chúng ta có một điển
hình tuyệt vời về nguyên lý bổ trợ trong Kinh Thánh: Ông
Mô-sê ngồi xử kiện cho dân. Dân đứng bên ông Mô-sê từ sáng
đến chiều. Nhạc phụ của ông Mô-sê thấy tất cả những gì ông
đã làm cho dân thì nói: “Anh đang làm gì cho dân vậy? Tại
sao chỉ có một mình anh ngồi xử, trong khi cả dân đứng chầu
chực anh từ sáng đến chiều?” Ông Mô-sê nói với nhạc phụ: “Ấy
là vì dân đến với con để thỉnh ý Thiên Chúa. Khi họ có việc
gì, họ đến với con; con phân xử cho đôi bên và cho biết
những thánh chỉ và lề luật của Thiên Chúa.”
Nhạc phụ ông Mô-sê
nói với ông: “Anh làm như thế không tốt đâu! Chắc chắn anh
sẽ kiệt sức, và cả dân đang ở đây với anh cũng vậy; vì công
việc quá nặng đối với anh, anh không thể làm nổi một mình.
Bây giờ anh hãy nghe lời tôi khuyên: Cầu chúc Thiên Chúa ở
với anh! Còn anh, anh hãy đứng ra thay mặt dân trước nhan
Thiên Chúa: chính anh sẽ trình các việc lên Thiên Chúa, sẽ
dạy cho họ các thánh chỉ, các lề luật, và cho họ biết đường
lối phải đi và cách phải xử sự. Rồi anh hãy xem trong toàn
dân những ai là người có tài, biết kính sợ Thiên Chúa, đáng
tin cậy, không ham của bất chính, thì đặt họ làm người chỉ
huy: điều khiển một ngàn hay một trăm, năm mươi hay mười
người. Họ sẽ thường trực xử kiện cho dân; việc nào lớn thì
họ trình lên anh, còn việc nào nhỏ thì chính họ xử lấy: hãy
làm như vậy để nhẹ gánh cho anh. Họ phải gánh việc đỡ anh.
Nếu anh làm điều đó, thì Thiên Chúa sẽ chỉ bảo cho anh, anh
sẽ có thể đứng vững, và hơn nữa cả đám dân này có thể về nhà
bình an."
Ông Mô-sê nghe lời nhạc phụ và
đã làm tất cả những điều ông ấy nói. Ông Mô-sê chọn trong
toàn dân Ít-ra-en những người có tài và đặt họ làm đầu dân,
điều khiển một ngàn hay một trăm, năm mươi hay mười người.
Họ thường trực xử kiện cho dân: việc khó thì họ trình lên
ông Mô-sê, mọi việc nhỏ thì chính họ xử lấy. Rồi ông Mô-sê
tiễn chân nhạc phụ, và ông này trở về xứ mình.
Mối hiệp thông của linh mục
đoàn được thiết lập bởi đức ái tông đồ, thừa tác vụ và tình
huynh đệ bí tích, diễn tả bằng việc đặt tay của linh mục
đoàn trong nghi lễ truyền chức và việc nhập tịch/nhập vụ vào
một Giáo hội địa phương.
Linh mục còn sống hiệp thông
với giáo dân, tu sĩ, những người sống đời thánh hiến, nỗ lực
khơi dậy và phát triển sự đồng trách nhiệm trong cùng một sứ
mạng cứu độ duy nhất của Giáo Hội.
Ngoài ra còn cố gắng tiếp tay với Chúa Thánh Thần để khơi
dậy ơn gọi linh mục tiếp nối thừa tác vụ của mình.
Giáo Hội là một cộng
đoàn gồm những con người hiệp thông với Chúa Ba Ngôi và hiệp
thông với nhau. Sự hiệp thông này mang hai chiều kích: hiệp
thông hướng nội và hiệp thông hướng ngoại. Hiệp thông hướng
nội bao hàm sự hiệp nhất và bổ sung cho nhau ngay trong lòng
Giáo Hội với ĐTC, với các Giám mục, các linh mục, những
người sống đời thánh hiến và giáo dân để trở thành “Giáo
Hội tham gia”, nghĩa là mọi người đều đảm nhận ơn gọi và
vai trò riêng của mình trong lòng Giáo Hội. Hiệp thông hướng
ngoại là sự hiệp thông của Giáo Hội với thế giới, với mọi
người thuộc mọi tôn giáo và văn hóa khác nhau nhằm rao giảng
Tin Mừng.
Công cuộc đào tạo
phải trang bị cho các linh mục tương lai một ý thức hiệp
thông nhạy bén sâu sắc và một kinh nghiệm cá nhân sống động
về việc xây dựng cộng đoàn, để họ biết cách hiệp thông với
Giám mục, với Bề trên, với anh em linh mục đoàn, với các tu
sĩ, với các cộng sự viên, với giáo dân trong giáo xứ, cả với
những người thuộc các tôn giáo và văn hóa khác, hầu sống và
làm việc trong hòa điệu và yêu thương, sẵn sàng đảm nhận
những trách nhiệm và vai trò khác nhau trong cộng đoàn.
D. IV. Tương quan với
môi trường thiên nhiên
Phơn phớt trời mai đã nhuốm
hồng
Đẹp
lá hoa vườn, đẹp núi sông
Này
con hớn hở vào cung thánh
Hoan
lạc tung hô Chúa cửu trùng:
Tạo
dựng càn khôn, ôi rực rỡ
Chúa
lại an bài rất khôn ngoan
Và
Thánh Thần Chúa ban hơi thở
Muôn
loài sống động khắp trần gian.
Chim
đàn ríu rít ngọn cây xanh
Uống
giọt sương mai đón hòa bình
Líu lo ca
ngợi Vua Công Chính
Ánh
Người đẹp quá ánh bình minh.
Hoa lá
trong đêm chiều e lệ
Giờ đây bừng dậy đón Sao Mai
Năm canh tình Chúa thầm kể lể
Sáu khắc tung hô bóng mặt trời.
Ôi
tình thương Chúa thật nhiệm mầu
Vượt quá trời cao, quá biển sâu
Muôn vàn kỳ diệu, khôn diễn tả
Chỉ nói đôi lời, hát đôi câu
Con muốn đồng ca cùng vũ trụ
Những mong hợp tấu với thiên thần
Giữa hàng chư thánh, ôi vinh dự
Muôn thuở hát mừng Chúa Từ Nhân
Thánh Thi Kinh Sáng thứ Bảy Tuần I
TN
Cuộc sống nhân
bản, thiêng liêng, tri thức và tông đồ mục vụ của linh mục
cũng cần đến mối tương quan với môi trường sống thiên nhiên
chung quanh mình.
Trong thời đạo đức
sinh học và luân lý môi trường của chúng ta hôm nay, linh
mục cần thiết lập một mối tương quan lành mạnh với toàn thể
thế giới được tạo thành, nơi mà Chúa Thánh Thần hằng hoạt
động.
“Thiên Chúa ở trong tất cả” là
lối hiểu nền tảng của mối tương quan giữa Thiên Chúa và thụ
tạo: Thiên Chúa không ở cách biệt
thụ tạo và Ngài tiếp tục sáng tạo, canh tân tạo vật của Ngài
cho đến kiện toàn viên mãn theo kế hoạch yêu thương của Ngài
và cứu chuộc nó.
Chúng ta được kêu gọi tham dự vào công trình sáng tạo này
của Thiên Chúa
như một trách nhiệm tôn giáo.
Thật vậy, đời sống thiêng
liêng là toàn thể cuộc sống được sống trong Thần Khí, nên
khi chăm sóc thụ tạo, chúng ta cũng làm cho trách nhiệm này
hoà nhập vào chính đời sống thiêng liêng của chúng ta. Trong
Sứ điệp Hòa Bình Thế Giới 2010 ban hành ngày 8/12/2009,
ĐTC Biển Đức XVI ân cần nhắc nhở lưu ý đến tương quan giữa
Tạo Hóa, con người và công trình tạo dựng và mạnh mẽ khẳng
định rằng nếu muốn vun trồng Hòa Bình, hãy bảo tồn
thiên nhiên:
“Làm sao chúng ta có thể tỏ
ra dửng dưng trước những vấn đề xuất phát từ các hiện tượng
như sự thay đổi khí hậu, nạn sa mạc hóa, suy thoái và mất
khả năng sản xuất của những vùng nông nghiệp rộng lớn, sự ô
nhiễm sông ngòi và các mạch nước, sự mất tính chất khác biệt
về môi trường sinh sống, sự gia tăng thiên tai, nạn mất rừng
cây tại những vùng xích đới và nhiệt đới? Làm sao bỏ qua một
hiện tượng đang lan tràn đó là ”những người tị nạn về môi
sinh”: tức là những người vì môi trường sinh sống của họ bị
xuống cấp, nên họ buộc lòng rời bỏ, kể cả của cải, để ra đi,
đương đầu với những nguy hiểm và bao nhiêu điều bất trắc?
Làm sao không phản ứng trước những cuộc xung đột hiện nay và
những cuộc xung đột có thể bùng nổ vì sự tìm kiếm các nguồn
tài nguyên thiên nhiên? Tất cả những vấn đề ấy có ảnh hưởng
sâu đậm tới việc thực thi các quyền con người, tới lương
thực, sức khỏe và sự phát triển.”
Để chu toàn đời sống và sứ vụ của mình, ta
phải nhìn vào đời sống và giáo huấn của Chúa Giêsu liên quan
tới tạo vật: hạt giống, hoa cỏ, chim trời, cá biển, cây nho,
cây vả, vườn tược, cánh đồng, mùa gặt, sa mạc, núi non, nắm
men, thúng bột, ngọn đèn, v.v.… Khi nhổ cỏ, ta liên tưởng
đến việc nhổ tận gốc tật xấu; hoặc khi chăm cây cảnh, ta
nghĩ đến việc kiên trì tập luyện nhân đức v.v...
Thật thế, qua lời giảng dạy và các dụ ngôn,
Chúa Giêsu tỏ ra đầy thiện cảm và quan tâm tới thọ tạo:
Người để ý tới từng chi tiết nhỏ nhặt của cuộc sống, khi nói
tới bông huệ ngoài đồng ăn mặc xinh đẹp, tới bầy chim lượm
những hạt lúa rơi bên vệ đường, hoặc làm tổ trên cành, hoặc
bị bắt xâu lại từng xâu đem bán mấy đồng xu, tới lũ trẻ con
vui chơi, cãi cọ hoặc hờn dỗi nhau, tới bà mẹ sinh con, tới
người nội trợ lấy men trộn vào bột, tới người đàn bà đánh
mất đồng tiền, tới người chăn lạc mất chiên... Người kể
chuyện đám cưới, cô dâu, chú rể và đám rước dâu, hoặc người
bạn đêm khuya đến vay bánh vì có khách tới bất ngờ... Người
quan sát kỹ cuộc sống chung quanh và nhận ra ý nghĩa sâu xa
của từng sự việc. Đôi mắt và cõi lòng Người mở rộng ra thế
giới với những nhận xét tinh tế và lời lẽ nồng nhiệt về cuộc
sống và thiên nhiên thọ tạo.
Chúa Giêsu được Thần Khí hướng
dẫn và Ngài thường ra đi từ sáng sớm tinh sương hay muộn
màng khi trời đã tối, ngay cả giữa đêm khuya thanh vắng, một
mình vào sa mạc hay lên núi, ở đó sứ mạng và sự hiệp thông
thân mật của Ngài với Chúa Cha được thử thách, khẳng định và
củng cố
Ta nên tìm thư giãn trong các
môi trường thiên nhiên, để nuôi dưỡng đời sống thiêng liêng
và gia tăng hiệp thông thân mật với Thiên Chúa, bằng cách để
cho trí óc và con tim ngưỡng mộ và thưởng thức vẻ đẹp của
tạo vật. Ta có thể dành thời gian để suy ngắm và cầu nguyện
ngay trên bờ biển lúc rạng đông lên hay khi hoàng hôn xuống,
dưới ánh trăng sao dịu mát ban đêm giữa cánh đồng bao la bát
ngát hay trong rừng sâu giữa mùa hè…. lắng nghe tiếng sóng
vỗ của đại dương, tiếng reo của suối, tiếng thì thầm của cây
cối, tiếng líu lo của chim chóc, tiếng xào xạc của hoa cỏ….
như là nghe thấy Chúa Thánh Thần nói trong trí khôn, trong
con tim và trong linh hồn vậy.
Ta sẽ cảm nhận rõ sự hiện diện
thân tình của Thiên Chúa nơi thiên nhiên, đồng thời cảm nhận
được sự cao cả của Chúa và sự thấp hèn của mình. Ta sẽ học
thực hành sống khiêm nhường trong tương quan với Thiên Chúa,
với tha nhân và với tạo thành.
Thánh Lêô Cả Giáo Hoàng viết:
“Hãy hưởng dùng mọi thụ tạo hữu hình cho đúng, như bạn
vẫn hưởng dùng đất trời, sông biển, không khí, suối nguồn;
và hãy qui về Đáng Tạo Hóa tất cả những gì là xinh đẹp, kỳ
diệu mà dâng lên Người lời ca tụng tôn vinh. Hãy lấy con mắt
thể xác mà tiếp nhận ánh sáng thiên nhiên, rồi đm tất cả
tình yêu và tâm hồn đón nhận ánh sáng thật chiếu soi mọi
người đến trong thế gian... Hãy sử dụng cho hợp lý và tiết
độ tất cả mọi loài thụ tạo và tất cả vẻ đẹp của thế giới
này... Chúng ta được sinh ra để hưởng những gì thuộc thế
giới hiện tại, và được tái sinh để hưởng những gì thuộc thế
giới tương lai, nên luôn hướng về những phúc lộc vĩnh cửu.”
Chúng ta cũng thực
hành thư giãn thân thể nhờ nhịp độ của hơi thở: Khi hít vào,
ta tưởng tượng rằng năng lực của Chúa Thánh Thần đang chuyển
vào trong mình ta để chữa lành, thánh hoá và tăng thêm sức
mạnh cho ta, và trong khi thở ra lại nghĩ rằng Chúa Thánh
Thần đang đẩy bệnh hoạn và những điều xấu ra khỏi cuộc sống
mình.
Tập thư giản bằng
cách: Hít dưỡng khí vào thật sâu qua mũi cho căng đầy bụng,
rồi chuyển qua huyệt đan điền, đẩy ra toàn thân tới tận chân
tơ kẻ tóc / đường gân thớ thịt. Xong lại rút thán khí về qua
huyệt đan điền để đẩy ra ngoài qua miệng. Trong khi đó để
tâm trí kiểm soát đường đi của hơi thở. Còn ý nghĩ thì nghĩ
rằng Chúa Thánh Thần đi vào để thánh hóa và rút bỏ những xấu
xa quỉ quái khỏi lòng trí và thân xác ta.
Nhưng cuộc đời không
luôn luôn xảy ra như lòng ta mong ước. Có những điều tích
cực mong mãi không được; lại có những điều tiêu cực không
chờ đợi vẫn đến, cố tránh mà vẫn phải gặp. Vận dụng hơi thở
để giải trừ: Khi hít vào, ta cũng có thể nghĩ là mình đón
nhận tất cả những gì là tích cực; còn thở ra là loại bỏ tất
cả những gì là tiêu cực từ bất cứ đâu mà đến.
Với cách này, ta tập
giữ tâm hồn ở trạng thái thanh thản, như kinh Yataka dạy
‘Con hãy giữ tâm như đất: trên đất, người ta đổ ra dầu ngọt
dầu chua, dầu cay dầu đắng, dầu sạch dầu dơ, đất vẫn một mực
thản nhiên, đất không giận, đất không thương.’ Ý tưởng cũng
áp dụng cho nước rửa sạch, lửa tẩy luyện và gió thổi đi.
Một tinh thần lành mạnh trong
một thân thể tráng kiện. Nếu chúng ta biết vun trồng và bảo
vệ thiên nhiên, thì thiên nhiên sẽ bảo vệ và tăng sức lực
cho chúng ta.
Chẳng hạn câu chuyện “cây thầu dầu với tiên tri Giôna”:
“Chúa khiến một cây thầu
dầu mọc lên ở phía trên ông Giôna để có bóng mát che đầu
ông, hầu làm ông hết buồn bực. Ông Giôna vui, vui lắm vì cây
thầu dầu. Nhưng hôm sau, khi hừng đông ló rạng, Chúa khiến
một con sâu cắn cây thầu dầu và cây bị héo. Khi mặt trời
mọc, Chúa cho có một cơn gió đông nóng bỏng, và mặt trời
giội nắng xuống đầu ông Giôna; ông ngất xỉu và xin cho mình
được chết, ông nói: ‘Thà tôi chết còn hơn là sống.’ Chúa hỏi
ông Giôna: ‘Ngươi nổi giận vì cây thầu dầu, như thế có lý
không?’ Ông trả lời: ‘Con có lý để nổi giận đến chết được!’
Chúa phán: ‘Ngươi, ngươi thương hại cây thầu dầu mà ngươi đã
không vất vả vì nó, và không làm cho nó lớn lên; trong một
đêm nó đã sinh ra, rồi trong một đêm lại chết đi. Còn Ta,
chẳng lẽ Ta lại không thương hại Ninivê, thành phố lớn,
trong đó có hơn một trăm hai mươi ngàn người không phân biệt
được bên phải với bên trái, và lại có rất nhiều thú vật hay
sao?”
D.V. Tương quan với “tứ
chung”
Không có cái gì
chắc chắn sẽ đến như cái chết; không có gì công bằng và
nghiêm ngặt cho bằng cuộc phán xét chung thẩm; không có gì
cay đắng và khủng khiếp cho bằng hỏa ngục; và không có gì
dịu ngọt hạnh phúc cho bằng thiên đàng.
D.V.1
Cái chết: một con đường sống thánh
Thánh Augustinô nói: “Hãy
để cái chết làm thầy dạy cho chúng ta.” Và thánh Phaolô
xác tín: “Đã đến giờ tôi phải ra đi. Tôi đã đấu
trong cuộc thi đấu cao đẹp, đã chạy hết chặng đường, đã giữ
vững niềm tin. Giờ đây tôi chỉ còn đợi vòng hoa dành cho
người công chính. Chúa là vị Thẩm Phán chí công sẽ trao phần
thưởng đó cho tôi trong Ngày ấy, và không phải chỉ cho tôi,
nhưng còn cho tất cả những ai hết tình mong đợi Người xuất
hiện”
“Nếu ngày nào ta
cũng sống như thể đó là ngày tận thế của mình, đến một lúc
nào đó ta sẽ thấy mình đúng.” Hãy luôn nhìn vào gương mỗi
ngày để tự hỏi: “Nếu hôm nay là ngày cuối của đời mình, liệu
tôi có muốn làm những việc hôm nay tôi sắp làm mà lương tâm
tôi sẽ ân hận không?” Và khi nhận ra câu trả lời là “không”
thì ngày này qua ngày khác, tôi biết mình cần thay đổi điều
gì đó.
Ghi nhớ rằng “một
ngày nào đó gần thôi mình sẽ chết đi” là một bí quyết vô
cùng quan trọng giúp ta quyết định những lựa chọn lớn trong
đời, bởi vì hầu hết mọi thứ - những mong đợi của người khác,
lòng kiêu hãnh, nỗi lo sợ xấu hổ khi thất bại - đều phù
phiếm trước cái chết, chẳng có gì quan trọng cả. Luôn nhớ
rằng mình sẽ chết là cách tốt nhất để biết tránh sa vào cái
bẫy suy nghĩ rằng mình không muốn mất đi cái gì đó. Lòng ta
được thanh thoát, chẳng có lý gì để không đi theo tiếng gọi
của Chúa: “Không ai biết được lúc nào Chúa vạch đường ranh
giới chấm dứt cuộc đời mình.”
Không ai muốn chết
cả. Thế mà cái chết lại là điểm đến của tất cả chúng ta.
Không ai có thể trốn khỏi nó. Có lẽ đó cũng là điều hợp lẽ,
bởi Cái Chết là sản phẩm tuyệt vời nhất của Cuộc Sống. Nó là
yếu tố làm thay đổi cuộc sống. Nó gạt bỏ cái cũ và mở đường
cho cái mới. Ngay bây giờ “cái mới” là thế hệ chúng ta,
nhưng không xa nữa đâu, chúng ta sẽ trở thành cái cũ và bị
loại bỏ. Xin thứ lỗi cho tôi, nói như thế là quá gay, nhưng
mà đúng như vậy đấy.
Thời gian của chúng
ta là có hạn, nên đừng phí phạm bằng cách sống cuộc đời của
người khác. Đừng rơi vào bẫy của sự độc đoán, giáo điều của
người khác. Đừng để những ý kiến ồn ào xung quanh đánh chìm
tiếng nói của Chúa ở bên trong chúng ta. Và quan trọng nhất,
hãy có dũng cảm để đi theo tiếng gọi của lương tâm chúng ta
và lời thúc giục của Chúa Thánh Thần. Nhờ đó, chúng ta sẽ
biết được cái gì thực sự là quan trọng, còn mọi thứ khác chỉ
là thứ yếu thôi.
Con người là con vật
duy nhất biết mình sẽ chết. Nhưng cái biết này vẫn còn là lý
thuyết xa lạ, nhất là đối với người trẻ, đang khoẻ mạnh,
đang yêu, đang thành công, tương lai đang hứa hẹn và cuộc
đời đang mĩm cười với. Chỉ khi nào vấp phải một chứng bệnh
nan trị, khi y học khiêm tốn nhìn nhận giới hạn của mình và
buộc lòng phải tàn nhẫn tuyên bố bản án tử, thì khi đó sự
biết mình sắp chết mới trở nên gần gũi thiết thân, hay nhức
nhối đến từng làn da thớ thịt.
Trước cái biết sắp
chết này, có người tuyệt vọng, buông xuôi hoặc bất mãn, căm
hận, nổi loạn “trả thù đời”, để rồi chết đi khổ sở không
bình an. Nhưng có người lại coi đó là một may mắn: có thời
gian chuẩn bị hành trình tốt đẹp đi về vĩnh cửu.
Vì thế, các bậc
thánh hiền dạy hãy năng nghĩ đến cái chết, vì nó giúp mình
sống một cuộc đời tốt lành thánh thiện hơn. Thật vậy, có ai
biết chốc lát nữa mình sẽ chết mà còn ham hố những sự đời
này, còn gieo rắc bất công, hận thù, còn ghen ghét tranh
chấp hơn thua nữa, mà không trái lại, an hòa với mọi người,
tôn trọng lương tâm của kẻ khác, giao phó cho lòng nhân từ
của Chúa lời phẩm bình cuối cùng và sự xét đoán chung thẩm,
nỗ lực chuẩn bị tâm hồn để ra đi trong bình an về với Chúa?
Cái may mắn cho
mình, cho người và cho đời là ở chỗ đó: có gì nữa để mất đâu
mà sợ mất, có gì cần được nữa ở đời này đâu mà lo cho được?!
Cảm nhận được điều đó đem lại cho chúng ta sự thanh thản và
sức mạnh cho tâm hồn; đồng thời nỗ lực sống một cuộc sống
đẹp như lời khuyên: “Ngày con sinh ra, mọi người cười (vui
mừng vì con ra đời) mà con lại khóc. Con hãy sống thế nào để
ngày con chết đi, con cười (mãn nguyện) mà mọi người khóc
(vì thương tiếc con)”
D.V.2 Cái chết: hạnh
phúc trở về
Bạn hãy nhìn
cái chết với lòng trông cậy
Những kẻ khác
giảng về sự khủng khiếp của cái chết. Còn bạn hãy giảng về
niềm vui của cái chết. “Ta sẽ đến như kẻ trộm”, Chúa đã nói
như vậy không phải để làm cho bạn sợ, nhưng vì thương bạn,
muốn bạn luôn luôn sẵn sàng và sống từng phút giây dường như
lúc bạn phải vĩnh viễn ra đi: “Con
ơi, hôm nay có thể là ngày cuối cùng rồi đó!”
Bạn hãy sống trên
trần gian như người đang chờ chết, như người từ cõi bên kia
trở lại. Chúa luôn có mặt bên bạn, ngay cả lúc mọi sự dường
như đổ vỡ, và nhất là trong giờ chết của bạn. Bạn sẽ thấy
đôi bàn tay Chúa choàng xuống trên bạn và ôm chặt bạn vào
lòng. Bạn sẽ khám phá ra bạn đã làm việc, đã đau khổ cho ai.
Bạn sẽ cám ơn Chúa
đã đối xử với bạn như thế, đã gìn giữ bạn khỏi bao nhiêu
nguy hiểm phần hồn phần xác, đã dẫn dắt bạn trên những con
đường hết sức bất ngờ, đôi khi như lạc lối nữa, nhưng đã làm
cho đời sống bạn được đồng nhất trong việc phục vụ anh chị
em của bạn. Lời tạ ơn của bạn sẽ không ngừng vang lên khi
bạn khám phá thấy lòng thương xót của Chúa trên bạn cũng như
trên thế giới.
Bạn hãy năng dâng
cho Chúa cái chết của con người để họ được sống bằng sự sống
của Chúa. Bạn hãy nghĩ đến cuộc gặp gỡ của chúng ta trong
ánh sáng. Chính vì vậy mà bạn đã được tạo dựng, đã làm việc,
đã đau khổ. Khi đến phiên bạn, Chúa sẽ hái lấy bạn. Bạn hãy
năng nghĩ đến đó và dâng trước cho Chúa giờ chết của bạn
hiệp nhất với cái chết của Chúa Giêsu.
Bạn cũng hãy năng
nghĩ đến cái gì sẽ đến sau cái chết. Phải, bạn hãy nhìn cái
chết với lòng trông cậy và hãy tận dụng chuỗi ngày cuối đời
mà chuẩn bị chết với tình yêu. Bạn cũng hãy nghĩ đến cái
chết của anh chị em đồng loại, ba bốn trăm ngàn người mỗi
ngày vĩnh viễn ra đi. Bạn hãy cầu nguyện cho những người
không hề nghĩ tới lúc phải ra đi. Đó là một cách hữu hiệu
nhất làm cho Hy Tế Can-vê của Chúa Giêsu thêm giá trị và
thánh lễ bạn dâng mỗi ngày thêm phong phú.
Nhiều người chẳng hề
nghĩ Chúa sẽ đến gọi họ chiều nay! Bao nhiêu tai nạn, bao
nhiêu thiên tai bất ngờ, còn bạn, bạn hãy ngủ yên trong vòng
tay Chúa chiều nay. Bạn hãy làm mọi việc trong khi nghĩ đến
lúc đó, nó sẽ giúp bạn. Chính vì yêu bạn mà Chúa Giêsu đã
chấp nhận cái chết. Bạn chỉ có thể cho Chúa bằng chứng lớn
lao khi chấp nhận cái chết kết hiệp với Chúa Giêsu.
Bạn hãy tiếp tục
năng liên kết cái chết của bạn với cái chết của Chúa Giêsu
và dâng lên Chúa Cha qua tay Mẹ Maria, dưới ảnh hưởng của
Chúa Thánh Thần. Nhân danh cái chết của bạn liên kết với cái
chết của Chúa Giêsu, bạn có thể xin những ơn trợ giúp cấp
thời để sống tốt hơn trong hiện tại. Bạn hãy tận dụng điều
đó.
Chính bằng cái chết
của Chúa Giêsu mà Thiên Chúa đã làm cho thế gian được sống.
Và bằng sự hiến dâng cái chết của Chúa Giêsu mà Chúa tiếp
tục ban sự sống cho loài người. Bạn hãy tín nhiệm Chúa. Chúa
luôn có mặt mọi lúc trong cuộc sống trần gian của bạn. Chúa
sẽ có mặt lúc bạn đi vào đời sống vĩnh cửu. Và Mẹ Chúa,
người đã tỏ ra quá tốt với bạn như thế, Mẹ cũng sẽ có mặt
với bạn, với tất cả sự dịu dàng từ mẫu của Mẹ.
Bạn cũng hãy năng
nghĩ đến anh chị em của bạn trong luyện ngục, họ không thể
tự mình làm chi cho mình thêm công nghiệp. Họ cần đến công
nghiệp của anh chị em còn ở trần gian giúp cho họ. Chớ gì
mọi người, những ngươi già cả, ốm đau, bệnh tật biết dùng
những năm tháng cuối đời để thêm ơn và công nghiệp cho các
linh hồn và cho chính mình. Cái chết của họ sẽ dịu dàng hơn,
vì Chúa đã hứa ban một ơn trợ giúp đặc biệt vào lúc trọng
đại đó cho những ai sống cho kẻ khác trước mình. Chính đó là
tình yêu. Với những hy sinh nhỏ bé, hãy dọn mình chết bằng
cách yêu mến.
Chúa biết giờ chết
của bạn và cách nó sẽ xảy ra. Chính Chúa đã chọn cho bạn với
tất cả tình yêu. Chúa sẽ có mặt vào giờ ra đi trọng đại cuối
cùng của bạn, với mọi ơn cần thiết. Chính mức độ tình yêu
của bạn sẽ cho bạn dự phần cách sung mãn. Người ta chết như
người ta đã sống. Nếu bạn sống trong yêu thương, cái chết sẽ
đến với bạn trong tình yêu. Chính Chúa sẽ đợi bạn ở cuối
đường đời, sau khi đã là bạn đồng hành của bạn suốt cả cuộc
sống bạn. Còn bạn, hãy dùng cho tốt quãng thời gian còn lại.
Bạn hãy rao giảng
tinh thần lạc quan cho những người ngã lòng. Chúa ở với Giáo
Hội mọi ngày cho đến tận thế. Thay vì ngã lòng, họ hãy kêu
đến Chúa: Lạy Chúa, xin cứu chúng con kẻo chúng bạn chết
mất. Họ hãy gia tăng Đức Tin vào sự hiện diện và quyền
năng của Chúa. Cách trực diện với sự chết đối với bạn phải
là vấn đề Đức Tin, Đức Cậy và Đức Mến. Cái chết là một cuộc
khởi hành để đến đích. Trong nhà Cha, nơi đó bạn sẽ gặp lại
tất cả:
Người ta chết như
người ta đã sống.
Bạn hãy sống trong
tình yêu để được chết trong tình yêu
Hôm nay, bạn hãy ngủ
yên trong vòng tay Chúa.
Và chớ gì bạn sẽ ra
đi như thế!
____________
|
VỀ MỤC LỤC |
|
MẤY NGỘ NHẬN VỀ BỆNH TIM
|
Tháng Hai có ngày Tình Yêu. Ngày “Valentine
Day.”
Thương yêu nhau, họ gửi cho nhau những đóa
hoa, những miếng chocolat đủ mầu đủ hình dạng. Mà tình yêu đựoc
biểu tượng bởi trái tim rạng rỡ. Yêu nhau họ cũng nâng niu chăm
sóc trái tim của nhau. Và tháng 2 cũng là tháng mà y giới nhắc
nhở mọi người tìm hiểu thêm tới các bệnh của tim, những rủi ro
gây ra bệnh. Vì đây là nguyên nhân tử vong hàng đầu ở khắp mọi
quốc gia, nhất là ở Hoa Kỳ, nhiều hơn là tổng số tử vong vì các
loại ung thư. Theo thống kê, mỗi ngày ở đất nước này có 2200 tử
vong vì bệnh tim, tức là cứ 39 giây đồng hồ là một người mang
trái tim bệnh hoạn, suy nhược đi vào vùng đất lạnh với giun với
dế. Và cũng mới đây thôi, ngày 9 tháng 2 năm 2011, một nhóm nhà
chuyên môn tại Cơ quan Kiểm Soát Bệnh Hoa Kỳ CDC đã công bố kết
quả sơ khởi về sự gia tăng của tai biến não do thiếu máu cục bộ
cấp tính ở người trẻ mà nguyên do là mập phì.
Sau đây là một số ngộ nhận về bệnh tim
mạch:
1- Bệnh tim là
bệnh của người già
Nhiều nhà nghiên cứu đồng ý rằng ở người
cao tuổi, các động mạch trở nên dày cứng nhiều hơn nhưng không
phải tất cả đều sẽ bị bệnh tim.
Bác sĩ chuyên khoa tim mạch Richard Milani,
New Orleans, cho hay, tắc nghẽn động mạch vì chất béo cần thời
gian để thành hình, phát triển và bắt đầu từ tuổi trẻ. Cách đây
vài chục năm, cơn suy tim (heart attack) thường thấy ở nam
giới tuổi 60,70 hoặc 80, nữ giới trễ hơn thì bây giờ chứng bệnh
này thấy ở cả nam nữ tuổi 30,40. Theo vị bác sĩ này, giới trẻ
ngày nay lớn lên với fast food rồi ngồi coi TV nhiều giờ, ít vận
động, tất cả đều là những rủi ro đưa tới bệnh tim mạch vì quá
mập. Theo Hội Tim Mạch, hàng năm có gần 6000 em bị ngưng tim và
một số đáng kề tử vong bất ngờ ở các lực sĩ thể thao trung học
do bệnh tim mà ra. Vì thế, ở tuồi này nên yêu cầu bác sĩ thử
cholesterol và đo huyết áp. Kết quả không bình thường là dấu
hiệu báo động cần chăm sóc chữa trị ngay.
2- Dấu hiệu về
cơn suy tim (heart attack) ở nam nữ giống nhau
Trong đa số các trường hợp, dấu hiệu của
cơn suy tim ở cả nam lẫn nữ giới là đau ngực như có vật nặng đè
lên, khó thở. Nhưng quá bán phụ nữ lại không có đau ngực mà lại
thấy đau ở bụng, ở hàm ở lưng hoặc buồn nôn, khó thở và cho rằng
mình chỉ bị ăn khó tiêu, mệt mỏi mà thôi chứ không nghĩ tới bệnh
tim. Theo bác sĩ Mathew Devane, tác giả sách Heart Smart, 1/3
bệnh nhân chết vì cơn suy tim trước khi có dấu hiệu triệu chứng.
Đôi khi thấy có dấu hiệu thì đã bị tai biến tim rồi.
Ngoài ra, còn trường hợp gọi là Thiếu Máu
Cục Bộ ngắn hạn (Silent Ischaemia), trong đó mạch máu nuôi tim
hoặc bị thu hẹp hoặc do máu cục, tế bào sẽ bị tạm thời thiếu oxy
trong một lúc. Nếu tình trạng này liên tục xảy ra sẽ đưa tới cơn
suy tim. Theo Hội Tim Mạch Hoa Kỳ, hiện nay có khoảng từ 3 tới 4
triệu người ở trong tình trạng này mà một số khá đông không có
đau ngực. Silent ischaemia thường thấy ở bệnh nhân tiểu đường,
cao huyết áp, hút thuốc lá, uống nhiều rượu, đã bị heart attack,
béo phì.
3- Cholesterol
cao là lý do chính đưa tới cơn đau tim
Sự thực là cholesterol càng cao thì rủi ro
bệnh tim càng nhiều. Tuy nhiên, nên lưu ý là bệnh tim còn tùy
thuộc ở loại cholesterol. Cholesterol toàn phần gồm có loại xấu
LDL, loại tốt HDL, triglyceride và VLDL. Chính loại xấu LDL là
thủ phạm đưa tới vữa xơ động mạch và bệnh tim. LDL có nhiều
trong thực phẩm gốc động vật như da gà, thịt heo, thịt bò.
4- Đã bị cơn suy
tim thì sức khỏe sẽ xuống dốc và bệnh có thể tái phát
Không đúng lắm. Trái tim bị bệnh có khả
năng khá cao để trở lại bình thường. Vả lại, với tiến bộ của y
khoa hiện nay, bệnh nhân có thể phục hồi dễ dàng, nếu thay đổi
nếp sống, thực hành các hướng dẫn của bác sĩ và có niềm tự tin
cao.
Còn chuyện tái phát sau cơn suy tim thì
cũng tùy trường hợp Theo các nhà chuyên môn, 35% bệnh nhân thoát
khỏi lưỡi hái tử thần thì có nhiều triển vọng không bị tái phát.
Do đó, mỗi trường hợp đều cần được ước định và áp dụng các biện
pháp cần thiết để tránh bệnh trở lại.
5- Cơ thể tôi
mảnh mai lại nặng thể dục thì đâu có bị bệnh tim.
Không phải mập phì mới là rủi ro của bệnh
tim mạch mà nhiều người mảnh mai gầy cũng có thể bị. Lý do là
nhiều người gầy mà máu vẫn tràn ngập cholesterol vì tiêu thụ quá
nhiều chất béo bão hòa và huyết áp vẫn cao. Còn tập thể dục cũng
chỉ là một trong nhiều phương thức để phòng tránh bệnh tim.
Nhiều tay thể dục chuyên nghiệp nhưng về sau vẫn bị bệnh tim vì
thay đổi nếp sống. Chẳng hạn họ hút thuốc lá, gia đình bị bệnh
tim mạch...
Nhân nói tới thể dục, cũng xin lưu ý rằng
không cần tập cật lực mà chỉ vừa phải mỗi ngày. Chẳng hạn đi bộ
khoảng 30 phút với tốc độ để hơi thở và nhịp tim nhanh hơn một
chút mà ta không bị hụt hơi, vẫn nói chuyện với bạn đồng hành
được. Thế là tốt lắm rồi.
6- Mỗi sáng tôi
điểm tâm với 2 quả trứng tráng có được không?
Mỗi trứng có từ 200-250 mg cholesterol
trong lòng đỏ, lòng trắng không có. Bạn ăn hai trái tức là đã
vượt quá giới hạn mà Hội Tim Hoa Kỳ đưa ra, đó là mỗi ngày không
quá 300 mg cholesterol. Ấy là chưa kể trong ngày bạn còn thưởng
thức thêm một tô phở nạm gầu nước béo hoặc vài chiếc đùi gà
chiên bơ.
7- Sau cơn suy
tim thì đời sống tình dục coi như chấm dứt.
Đây là một hiểu lầm đáng tiếc và khá phổ
thông. Đáng tiếc vì người bệnh đã bỏ qua một nhu cầu cần có của
cuộc sống. Quá phổ biến vì nhiều bệnh nhân e ngại, rỉ tai nhau
là sau đột quỵ, suy tim mà làm tình là bệnh dễ tái phát và đột
tử có thể xẩy ra.
Theo Hội Tim Mạch Hoa Kỳ, đây là điều không
đúng và ngay sau khi hoàn toàn bình phục, không có lý do nào để
bệnh nhân không trở lại sinh hoạt tình dục như trước, nếu họ
thấy sẵn sàng. Năng lựơng tiêu thụ trong cuộc mây mưa chỉ tương
đương với năng lượng cần để bước lên chục bậc cầu thang và đột
tử ít khi xảy ra sau cuộc làm tình. Có điều là sau tai biến,
bệnh nhân thường rơi vào tâm trạng trầm cảm, chán chường cho
nên ước tình cũng giảm theo.
Nên tham khảo ý kiến bác sĩ để biết rõ sức
mình. Cũng nên lựa khi nào thấy trong người thoải mái, thư giãn,
vai ba giờ sau bữa ăn, nơi yên tĩnh không bị quấy rầy gián đoạn
và nhớ dùng thuốc trợ tình, nếu bác sĩ cho toa.
Ngộ nhận cuối cùng đề cập hôm nay là ảnh
hưởng của rượu với bệnh tim.
Về điểm này thì cả y giới lẫn thường dân
cũng có nhiều ý kiến trái ngược nhau, cho nên xin nêu ra ý kiến
của Hội Tim Hoa Kỳ, đại ý như sau: Uống nhiều rựou đưa tới cao
huyết áp, suy tim, mập phì và rủi ro bệnh tiểu đường. Uống nhiều
hơn nữa sẽ gây ra tai biến não, đột nhiên tim ngưng. Theo Hội,
nếu uống thì uống vừa phải: nam giới 1 hoặc 2 drinks mỗi ngày ,
nữ giới 1 drink mỗi ngày. Mỗi drink là 360 cc bia, 150cc rượu
vang, 50cc rượu mạnh. Hội cũng đưa ra lời khuyên là nếu chưa bao
giờ uống rượu thì không nên uống.
Một số nghiên cứu cho hay rượu có thể giảm
tử vong bệnh tim ở một số người. Họ gợi ý rằng lợi
ích đó là do rượu vang, đặc biệt là rượu vang đỏ có chất
antioxidant Flavonoid là chất có thể làm tăng cholesterol lành
HDL trong máu. Hoặc chất Reservatrol giảm rủi ro máu cục. Tuy
nhiên Flavonoid cũng có trong cam chanh bưởi, quít, trà, hành..
và Reservatrol trong vỏ trái nho, các loại berries.
Kết luận
Xin mựơn ý kiến của Bác sĩ Ralph Sacco, Chủ
tịch Hội Tim Mạch Hoa Kỳ cho kết luận: “ Có một thiếu ý thức về
thế nào là lý tưởng cho sức khỏe của hệ tim mạch. Khi được thăm
dò thì 35% dân chúng nói họ khỏe mạnh. Nhưng khi hỏi tới 7 yếu
tố có tác động tốt tới sức khỏe là dinh dưỡng, vận động, huyết
áp, đường huyết, cholesterol, sức nặng cơ thể và hút thuốc lá
thì chưa tới 1% đạt được các tiêu chuẩn để có sức khỏe tốt. Họ
cứ cho là mình khỏe mạnh hơn là sự thực, cho nên ít áp dụng các
phương thức hữu hiệu để giảm rủi ro cho tim”.
Thực là điều đáng tiếc.
Bác sĩ Nguyễn Ý Đức - Texas-Hoa Kỳ
www.bsnguyenyduc.com
|
VỀ MỤC LỤC |
CŨNG LÀ ĐỜN ÔNG - Chuyện phiếm của Gã Siêu |
Có một cô gái vào hỏi ý kiến cha sơ về
người yêu của mình. Cha sở khuyên cô :
- Anh ta chỉ có cái mã bên ngoài, chứ còn
tính tình thì nát bét. Nào rượu chè say xỉn, nào cờ bạc xì phé…
Thế nhưng cô gái nhất định không chịu nghe
theo lời khuyên bảo vì anh chàng này giàu có. Cô mơ tới một
cuộc sống nhung lụa với nhà lầu xe hơi, ti vi tủ lạnh…Và cô ta
đã trả lời với cha sở :
- Ít là con phải nhìn thấy một cái gì bảo
đảm đã chứ.
Hôn lễ của họ được cử hành một cách long
trọng và dềnh dang với tiệc tùng linh đình. Nhưng chỉ ba tuần lễ
sau, cô ta trở lại gặp cha sở với khuôn mặt sưng vù vì bị chồng
đánh trong một cơn say.
Lúc đó Cha sở mới bảo :
- Bây giờ thì mắt con đã nhìn thấy cái gì
bảo đảm rồi chứ ?
Trước khi bước vào cuộc sống lứa đôi, anh
đờn ông cũng như chị đờn bà đều âm thầm đưa ra cho mình những
tiêu chuẩn để chọn lấy một người bạn đời, nếu không tuyệt vời và
hết ý, thì cũng phải trên mức trung bình một chút, để rồi cùng
nhau dệt nên những giấc mộng vàng. Những tiêu chuẩn ấy thay đổi
tuỳ nơi, tuỳ thời và cũng tuỳ người.
Chẳng hạn anh đờn ông, thấm nhiễm lời các
cụ ta ngày xưa dạy bảo, thì nhất định phải chấm cái nết, bởi vì
cái nết đánh chết cái đẹp. Tuy nhiên, ngày nay, nhiều anh đờn
ông lại nhắm mắt chạy theo cái đẹp, bởi vì cái đẹp đè bẹp cái
nết. Và còn nhiều tiêu chuẩn ăn theo khác nữa.
Riêng đối với các chị đờn bà, vấn đề xem ra
có vẻ nhiêu khê và phúc tạp hơn. Trong lúc ngồi “tán hươu tán
vượn” với nhau, các chị thường nhỏ to về ba tiêu chuẩn: Một là
đẹp trai, hai là tốt bụng và ba là lắm tiền. Thế nhưng, hiếm
thấy một đối tượng nào hội đủ cả ba tiêu chuẩn này. Hay nói theo
kiểu ngày nay là “ba trong một”, nghĩa là ba tiêu chuẩn trong
một con người.
Nếu chịu khó nhìn xem và suy gẫm, hẳn bàn
dân thiên hạ sẽ nghiệm ra những sự thật sau đây, tuy không trúng
phóc một trăm phần trăm, thì ít ra cũng được bảy mươi hai phần
dầu.
Này nhé, những người đờn ông tốt bụng, thì
thường không được đẹp trai. Trong khi đó, những người đờn ông
đẹp trai, thì thường lại không tốt bụng. Còn những người đờn ông
vừa đẹp trai, lại vừa tốt bụng, thì thường bị người khác phỗng
tay trên mất rồi, nghĩa là họ đã cưới vợ, đã lập gia đình, chẳng
đợi tới lượt mình.
Tiếp đến, những người đờn ông không đẹp
trai cho lắm, nhưng tốt bụng, thì thường không có nhiều tiền.
Trong khi đó những người đờn ông không đẹp trai cho lắm, nhưng
tốt bụng và có nhiều tiền, thì lại thường nghĩ rằng đờn bà con
gái theo đuổi họ chỉ vì…tiền. Còn những người đờn ông đẹp trai,
nhưng không có tiền, mà theo đuổi đờn bà con gái, thường chỉ là
để…”đào mỏ”!
Sau cùng, những người đờn ông hơi bị đẹp
trai, nhưng không mấy tốt bụng, thì lại nghĩ rằng đờn bà con gái
không phải là phái đẹp. Trong khi đó, những người đờn ông hơi bị
đẹp trai và tốt bụng, đồng thời cũng luôn nghĩ rằng đờn bà con
gái chính là phái đẹp, thì lại thường là những kẻ nhát gan, dị
ứng với phụ nữ và chẳng bao giờ dám bước cái bước đầu tiên đi
vào con đường tình yêu.
Vì vậy, dẫu có đốt đèn đi giữa ban ngày thì
cũng khó mà tìm thấy một người đàn ông phù hợp với những tiêu
chuẩn và đáp ứng được những đòi hỏi của mình. Chuyện đơn giản,
thế mà lại hoá ra phức tạp. Thôi đành phải chọn lấy một anh
chồng được xếp vào hạng “thường thường bậc trung”, và tự an ủi
lấy mình:
- Chồng ta áo rách ta thương,
Chồng người áo gấm, xông hương mặc người.
Thế nhưng, nào đã hết đâu. Sau khi đã yên
bề gia thất, anh chồng thường thường bậc trung này mới để lộ ra
bộ mặt thật của mình. Và bộ mặt thật ấy ấy mới khó thương làm
sao. Gã xin liệt kê mấy điểm chính, vốn thường làm cho anh chồng
trở nên…xấu xí.
Điểm thứ nhất là óc gia
trưởng và độc đoán
Anh chồng luôn cho ý kiến của mình là đúng,
là phải, còn ý kiến của chị vợ là sai, là trái. Nhiều anh chồng
đã lên tiếng khinh bỉ và coi thường chị vợ: Ôi giời, đàn bà con
gái biết chi mà nói. Bao giờ anh chồng cũng lấy cái “lý
đoán” của mình mà áp đảo và buộc chị vợ phải nhắm mắt vâng theo
răm rắp, đúng với cốt cách “gia trưởng” ngày xưa: Phu xướng, phụ
tùy. Chồng đã phán, thì vợ phải chấp hành nghiêm chỉnh.
Rồi những lời nói ngọt như đường cát mát
như đường phèn của cái thuở ban đầu lưu luyến ấy, mặc dù không
có cánh, thế mà bỗng dưng bay đi đâu mất tiêu, chỉ còn đọng lại
những lời chua chát và gắt gỏng.
Nếu rước kia: Anh anh, em em, thì bây giờ
lại: Mày mày, tao tao…Thậm chí còn: Con mẹ mày, con mụ nọ, cái
con chết bầm kia…Rồi anh chồng cũng sẵn sàng dành cho chị vợ tất
cả những món cao lương mỹ vị, bằng những tiếng chửi bới cộc cằn,
lôi cả bố mẹ, ông bà và tổ tiên không biết bao nhiêu đời ra mà
riếc móc. Anh chồng cứ nghĩ rằng: Càng nói to, càng gắt gỏng
thì chân lý và phần thắng sẽ thuộc về mình.
Trước kia anh chồng chiều chuộng nâng niu
theo kiểu: Cưng như cưng trứng, hứng như hứng hoa. Còn bây giờ
thỉnh thoảng lại cho nồi niêu xoong chảo bay ra ngoài sân, rồi
thượng cẳng chân hạ cẳng tay với nhau.
Điểm thứ hai là những
thói hư tật xấu
Đờn ông con trai hay sa đà vào những thói
hư tật xấu, chẳng hạn như rượu chè, cờ bạc, trai gái…Thử tưởng
tượng xem liệu có chị vợ nào chịu đựng nổi một anh chồng lúc nào
cũng nồng nặc mùi rượu, hay một anh chồng, mặc dù không đến độ
sáng say, chiều xỉn và tối lăn quay, nhưng lại thích tổ chức ăn
nhậu triền miên khói lửa: Nay thết đãi bạn bè ở nhà, mai mời
khách khứa đi ăn tiệm, mốt làm đám giỗ linh đình để bà con họp
mặt…
Đối với anh ta, cuộc đời chỉ có nghĩa với
những tiệc nhậu. Tôi nhậu, vậy tôi hiện hữu. Còn nhậu là còn tất
cả. Hết nhậu là hết mọi sự. Chẳng cần phải nghĩ đến việc tiết
kiệm và phòng xa. Chẳng cần phải cảm thông với những cực nhọc
của vợ con trong việc nấu nướng, cung phụng, hầu hạ và dọn dẹp.
Chuyện rằng: Mỗi buổi chiều đi làm về, chị
vợ lo chợ búa, cơm nước, còn anh chồng thì đi đón con. Khổ nỗi
giờ con tan học cũng là “giờ đẹp”, “giờ vàng” để bố đi nhậu. Vì
thế, anh chồng thường để con nước mắt ngắn dài đứng chờ bố trước
cổng trường. Con tan học lúc 4g30, nhờ cô giáo giữ hộ tới 5g30
vì anh còn phải tranh thủ chén thù chén tạc với bè bạn một lúc.
Điểm thứ ba là tật lười
biếng
Nhìn vào nhiều gia đình, gã thấy có những
ông chồng đã sống rặp theo khuôn mẫu của Tú Xương ngày xưa,
nghĩa là :
- Việc nhà phó mặc cho bu nó,
Quắc mắt khinh đời cái bộ anh.
Hay như ca dao cũng đã diễn tả:
- Bố tôi hay tửu hay tăm,
Hay nghiện chè tàu, hay nằm ngủ trưa.
Ngày thì ước những ngày mưa,
Đêm thì ước những đêm thừa trống canh.
Thảo nào mà các chị vợ vốn thường hay tâm
sự:
-“Tôi suốt ngày ở chợ, công việc nhà cứ dồn
ứ. Ông nhà ấy hả? Đố mà đụng tay. Có hôm 11 giờ đêm tôi vẫn còn
phải cặm cụi lau nhà”.
- “Ông nhà tôi cũng có hơn gì đâu, nhà cửa
bề bộn, kể cả khi thau đồ dơ chất cao tới nóc, ông cũng không
thèm đụng tới. Vậy chứ có ai ới đi uống cà phê là ông lao đi
ngay”.
Nếu có giúp được một tí, thì với bàn tay
“hậu đậu” không hỏng trước, cũng sẽ hỏng sau, như câu chuyện vui
được báo Phụ Nữ kể lại:
Ông bố kia tắm cho đứa con lên bốn. Xong
việc, ông “kiêu hãnh”:
- Thấy chưa, bố hoàn toàn có thể tắm cho
con đó, vậy mà mẹ con cứ chê.
Đứa con lý nhí:
- Nhưng bố ơi, lúc nào tắm cho con, mẹ cũng
cởi giày ra rồi mới dội nước.
Và nếu ông bố khác biết cởi giày cho con,
thì không chừng ông ta lại xát xà phòng trước khi dội nước. Đờn
ông tệ quá vậy sao?
Cộng thêm vào đó là cái tật bừa bãi, bạ đâu
quăng đấy, bởi vì cái trật tự của anh chồng chính là cái vô trật
tự dưới mắt chị vợ. Thậm chí có anh chồng còn chân thành nguyện
ước: Xin cho các bà xã đi vắng lâu lâu một chút, để bọn đờn ông
không phải dọn dẹp, sắp xếp đồ đạc, nhà cửa và nhất là tối lên
giường khỏi phải rửa chân. Thật là hết biết.
Sau cùng là tật
quá bận rộn
Thái độ này hoàn toàn trái ngược với thái
độ trên, đó là có những anh chồng đa đoan công việc, để rồi
thường xuyên vắng mặt, không lo lắng gì cho người vợ và cũng
chẳng chăm sóc gì đến đàn con. Thực vậy, có những anh chồng, khi
đã đam mê một vấn đề gì đó, thì quên ăn quên ngủ, quên cả vợ lẫn
con, đổ dồn mọi nỗ lực, mọi cố gắng vào vấn đề đó.
Chẳng hạn đam mê hoạt động chính trị, xông
xáo hết chỗ này đến chỗ khác, ở ngoài đường nhiều hơn ở trong
nhà, cả đời lăn lóc với những hoài bão chưa một lần trở thành sự
thực. Một là thường xuyên vắng nhà để hoạt động thế này, thế
khác. Hai là lúc nào cũng bất mãn, phản đối, tuyên bố vung vít
để rồi kết thúc bằng cách nằm dài trong nhà giam, nhà tù mà bóc
lịch.
Chẳng hạn đam mê bắt mối “áp phe”, tìm tiền
kiếm bạc. Đối với họ, tiền bạc là tất cả, có một thế lực vạn
năng, nên suốt ngày suốt tháng, họ vội vã chạy đi kiếm tìm, nay
mối này mai mối khác, không còn thời giờ nào để ngó ngàng đến vợ
con, tỉ tê tâm sự và chia sẻ niềm vui cũng như nỗi buồn đối với
người vợ. Về đến nhà là hùng hục ăn. Ăn xong lại lăn ra ngủ để
lấy sức cho ngày mai còn mánh mung.
Những anh chồng này đã có một quan niệm sai
lạc về chị vợ. Đối với họ, chị vợ chỉ là kẻ đầy tớ, con ở hay
như một dụng cụ trong gia đình. Chị vợ chỉ là kẻ làm đồ nhậu để
đãi bè bạn, một chiếc máy để thỏa mãn những nhu cầu sinh lý hay
sản xuất ra những “tí nhau”. Họ không bao giờ nghĩ rằng: Chị vợ
chính là người phụ tá, người cộng tác đắc lực, người bạn đường
cùng đi với mình suốt dọc cuộc sống.
Hơn thế nữa, nơi người phụ nữ, con tim
chiếm một địa vị quan trọng và chi phối toàn bộ cuộc đời của họ.
Bởi vậy, họ thích được để ý, được nâng niu và chiều chuộng. Đem
về cho chị vợ tiền bạc mà thôi chưa đủ, mà còn phải đem về cho
họ một tình yêu thương chân thành và đậm đà.
Nếu cứ kể tội đờn ông, thì nói mãi nói hoài
cũng chẳng hết. Đứng trước những điểm làm cho khuôn mặt anh
chồng ra xấu xí, nhiều chị vợ đã phát biểu:
- Thà bỏ quách đi cho nhẹ nợ.
Thế nhưng, nói vậy mà không phải vậy đâu.
Theo tác giả Trần Triều trên báo Phụ Nữ: Số người than phiền thì
nhiều, nhưng số người “dám bỏ quách đi” thì lại rất ít. Thậm
chí, miệng cứ bảo rằng “bỏ”, nhưng lỡ có ai mon men lại gần, thì
liền nhảy dựng lên ngay:
- Củi mục mà để trong rương,
Ai mà rớ tới, trầm hương của bà!
Vì vậy, phương thế vừa hợp tình lại hợp lý
nhất, đó chính là học cách “sống chung với lũ”. Muốn sống chung
với lũ, thì chị vợ cần phải cố gắng nhìn vào những điểm tốt của
anh chồng. Lúc bấy giờ, cuộc đời sẽ nhẹ nhõm và tươi vui hơn
nhiều.
Nếu anh chồng mà lúc nào cũng canh xem nhà
có vết bẩn để lau, nắm rõ nhà còn bao nhiêu ký gạo, đo lọ muối,
đếm củ hành củ tỏi…thì e rằng chị vợ lại càng khó mà sống.
Biết đâu, những thói xấu đó đã làm nên một
người đờn ông đầy nam tính. Chẳng thế mà từ xưa ông bà mình đã
“bênh” cánh đờn ông:
- Khôn ngoan cũng thể đờn bà,
Dẫu rằng vụng dại cũng là đờn ông.
Để “túm” lại, gã xin mượn đỡ mấy vần thơ,
do một anh bạn sưu tầm được và đã gửi cho gã.
Thơ của Tú Xương:
Một trà, một rượu, một đàn bà,
Ba thứ lăng nhăng nó quấy ta.
Chừa được thứ nào hay thứ ấy,
Có chăng chừa rượu với chừa trà.
Hoạ lại của Tú
Thịt:
Cái nhà, cái cửa, cái ông chồng,
Ba cái lôi thôi thật mất công.
Nếu phải bỏ gì trong mấy thứ,
Bỏ nhà, bỏ cửa, giữ ông chồng.
Vì vậy, một tác giả
Khuyết Danh mới có thơ rằng:
THẾ GIỚI THIẾU ĐÀN
ÔNG
Nếu thế giới này thiếu các ông,
Khác chi vườn cảnh thiếu lao công.
Một màu ảm đạm thê lương sẽ,
Biến khắp mọi nơi cảnh vắng không.
Nếu thế giới này thiếu các ông,
Đêm nằm bà phải quấn chăn bông.
Chăn bông dù ấm không bằng được,
Nằm sát kề bên nách của chồng.
Nếu thế giới này thiếu các ông,
Ra công trang điểm để ai trông?
Đầu bù tóc rối ai chê trách?
Có điểm trang thì cũng uổng công.
Nếu thế giới này thiếu các ông,
Đi làm về trễ chẳng ai mong.
Chẳng ai tựa cửa mà trông ngóng,
Thui thủi nghe sao lạnh cõi lòng….
Nếu thế giới này thiếu các ông,
Lấy ai phục vụ chẳng đòi công?
Lấy ai sai bảo như đầy tớ?
Chẳng có ai hơn được quý ông.
Nếu thế giới này thiếu các ông,
Nơi đâu bà trút hết cơn khùng?
Nơi đâu hứng hết cơn hờn giận?
Chịu đựng bao lời nói tứ tung.
Nếu thế giới này thiếu các ông,
Quý bà mắn đẻ cũng như không.
Loài người tuyệt chủng đâu còn nữa,
Nói phét cho vui có phải không?
Thế thì bà cũng như ông, đều cần đến nhau,
đều phải tựa vào nhau, để cùng xây dựng một cuộc đời chung. Đó
phải chăng chính là quy luật của muôn đời.
Gã Siêu gasieu@gmail.com
|
VỀ MỤC LỤC |
|
- Mọi liên lạc: Ghi danh, thay đổi địa chỉ, đóng góp ý kiến,
bài vở..., xin gởi về địa chỉ
giaosivietnam@gmail.com
- Những nội dung sẽ được đề cao và chú ý bao gồm:
Trao đổi, chia sẻ những kinh nghiệm thực tế trong việc mục
vụ của Giáo sĩ; Những tài liệu của Giáo hội hoặc của các
Tác giả nhằm mục đích Thăng tiến đời sống Giáo sĩ; Cổ võ ơn
gọi Linh mục; Người Giáo dân tham gia công việc “Trợ lực
Giáo sĩ” bằng đời sống cầu nguyện và cộng tác trong mọi lãnh
vực; Mỗi Giáo dân phải là những “Linh mục” không có chức
Thánh; Đối thoại trong tinh thần Bác ái giữa Giáo dân và
Giáo sĩ… (Truyền giáo hay xây pháo đài?)
- Quy vị cũng có thể tham khảo những số báo đã phát hành tại
www.conggiaovietnam.net
Rất mong được sự cộng tác, hưởng ứng của tất cả Quí vị
Xin chân thành cám ơn tất cả anh chị em đã
sẵn lòng cộng tác với chúng tôi bằng nhiều cách thế khác
nhau.
TM. Đặc San Giáo Sĩ Việt Nam
Lm. Luca
Phạm Quốc Sử
USA
|
|
*************
|
|