Đặc San Giáo Sĩ Việt Nam

 

 

 

ĐỰƠC CHỌN GIỮA LOÀI NGƯỜI
VÀ CHO LOÀI NGƯỜI  (x. Dt, 5.1)

 

GIÁO SĨ:

Xuất phát từ giáo dân, hiện diện vì giáo dân và cậy dựa vào giáo dân

 

ĐỂ CÙNG LÀM VINH DANH THIÊN CHÚA

 

www.conggiaovietnam.net                          giaosivietnam@gmail.com

Đặc San Điện Tử    Giáo Sĩ Việt Nam    Số 144, Chúa Nhật 08.05.2011


MỤC LỤC 

Một Số Vấn Ðề Khẩn Thiết                                                                                     Vatican 2

Niềm vui và hy vọng                                                                                                      WHĐ

GIẢ NHƯ                                                                 Lm. Vinh Sơn Phạm Trung Thành, dcct.

Tầm quan trọng của LỜI CHÚA trong đời sống của những CURSILLISTAS   Lm. Trần Xuân Sang, SVD.

Phục Vụ Con Người (Dom Helder Câmara)                   Gs. Nguyễn Đăng Trúc chuyển ngữ

Vai trò đặc thù của Tín Hữu Giáo Dân trong Giáo hội và giữa Trần thế (1)       Tiến sĩ Nguyễn Học Tập

NGỤ NGÔN THỜI BẤN LOẠN (KỲ 23)                                     Gioan Lê Quang Vinh, VRNs

RÂU CỌP                                                                                                     Br. Huynhquảng

YÊU NHAU: ĐƯỜNG NÊN THÁNH CỦA VỢ CHỒNG                           Lm. Minh Anh biên tập

CÁC MỐI TƯƠNG QUAN CỦA LINH MỤC GIÁO PHẬN (tiếp theo)         Lm. Micae-Phaolô Trần Minh Huy

MẤY NGỘ NHẬN VỀ BỆNH TIM                                                            Bác sĩ Nguyễn Ý Đức

CŨNG LÀ ĐỜN ÔNG -                                                                 Chuyện phiếm của Gã Siêu


Một Số Vấn Ðề Khẩn Thiết

 

Hiến Chế Mục Vụ Về Giáo Hội Trong Thế Giới Ngày Nay

Gaudium Et Spes

 

Prepared for Internet by Vietnamese Missionaries in Asia

 

Phần Thứ Hai

Một Số Vấn Ðề Khẩn Thiết

 

46. Lời mở đầu. Sau khi trình bày về phẩm giá nhân vị cũng như về một số bổn phận cá nhân hay xã hội mà con người được gọi để chu toàn trong vũ trụ, nay Công Ðồng, với ánh sáng Phúc Âm và kinh nghiệm nhân loại, lưu ý mọi người về một số nhu cầu khẩn thiết của thời đại này, và là những nhu cầu đang ảnh hưởng rất nhiều đến nhân loại.

Giữa nhiều vấn đề làm cho mọi người ngày nay quan tâm, nên ghi nhận trước hết những điểm sau đây: hôn nhân và gia đình, văn hóa nhân loại, đời sống kinh tế xã hội và chính trị, hòa bình và sự liên đới gia đình các dân tộc. Cần phải dùng những nguyên tắc và ánh sáng bắt nguồn từ Chúa Kitô chiếu giãi từng vấn đề này, để những nguyên tắc và ánh sáng đó hướng dẫn các Kitô hữu và soi sáng mọi người trong công cuộc kiếm tìm giải pháp cho biết bao vấn đề phức tạp nêu trên.

 

Chương I

Phải Ðề Cao Phẩm Giá

Của Hôn Nhân Và Gia Ðình 51*

 

47. Hôn nhân và gia đình trong thế giới ngày nay. Sự lành mạnh của con người cũng như xã hội nhân loại và Kitô giáo liên kết chặt chẽ với tình trạng tốt đẹp của cộng đoàn hôn nhân và gia đình. Do đó, cùng với tất cả những ai tán dương các cộng đoàn hôn nhân và gia đình, người Kitô hữu thành thực vui mừng trước những trợ lực khác nhau giúp con người ngày nay tiến tới trong việc cổ võ cộng đoàn yêu thương ấy cũng như trong sự tôn trọng đời sống; những trợ lực ấy còn giúp đỡ các đôi vợ chồng và các bậc làm cha mẹ trong sứ mệnh cao cả của họ. Người Kitô hữu còn mong đợi và nỗ lực thực hiện những thành quả tốt đẹp hơn.

Nhưng phẩm giá của định chế ấy không phải ở đâu cũng sáng tỏ như nhau, vì đã bị lu mờ bởi chế độ đa thê, nạn ly dị, bởi cái mà người ta gọi là tự do luyến ái, cùng những hình thức lệch lạc khác. Hơn nữa, tình yêu hôn nhân rất thường bị hoen ố vì lòng ích kỷ, khoái lạc chủ nghĩa và những lạm dụng bất hợp pháp cản trở sự sinh sản. Ngoài ra, các hoàn cảnh hiện tại về kinh tế, xã hội, tâm lý và chính trị đang gây cho gia đình những xáo trộn trầm trọng. Sau hết, tại một vài nơi trên thế giới, người ta không khỏi lo lắng nhận thấy những vấn đề được phát hiện do sự gia tăng dân số. Tất cả những điều ấy đang làm khắc khoải lương tâm con người 52*. Tuy nhiên, có một điều chứng tỏ sức mạnh và sự bền vững của định chế hôn nhân và gia đình, đó là các biến đổi sâu xa của xã hội hiện tại, mặc dù gây ra nhiều khó khăn, nhưng vẫn rất thường bộc lộ bản chất đích thực của định chế trên bằng nhiều cách.

Bởi vậy, bằng cách làm sáng tỏ hơn một vài chủ điểm trong giáo lý của Giáo Hội, Công Ðồng muốn soi sáng và khích lệ người Kitô hữu cũng như mọi người đang cố gắng bảo toàn và cổ võ phẩm giá tự nhiên cũng như giá trị thiêng liêng cao cả của đời sống hôn nhân.

48. Sự thánh thiện của hôn nhân và gia đình. Ðấng Tạo Hóa đã thiết lập và ban những định luật riêng cho đời sống chung thân mật và cho cộng đoàn tình yêu vợ chồng. Ðời sống chung này được gầy dựng do giao ước hôn nhân, nghĩa là sự ưng thuận cá nhân không thể rút lại 53*. Như thế, bởi một hành vi nhân linh, trong đó, hai vợ chồng tự hiến cho nhau và đón nhận nhau, nhờ sự an bài của Thiên Chúa, phát sinh một định chế vững chắc có giá trị trước mặt xã hội nữa. Vì lợi ích của lứa đôi, của con cái và của xã hội, nên sợi dây liên kết thánh thiện này không lệ thuộc sở thích của con người. Chính Thiên Chúa là Ðấng tác tạo hôn nhân, phú bẩm những lợi ích và mục tiêu khác nhau 1; những điều ấy hết sức quan trọng đối với sự tiếp nối nhân loại, sự phát triển cá nhân và phần rỗi đời đời của mỗi thành phần trong gia đình, quan trọng đối với phẩm giá, sự vững chãi, an bình và thịnh vượng của chính gia đình và của toàn thể xã hội loài người. Tự bản chất, chính định chế hôn nhân và tình yêu lứa đôi qui hướng về việc sinh sản và giáo dục con cái như chóp đỉnh diễm phúc của hôn nhân. Như thế, bởi giao ước hôn nhân, người nam và người nữ "không còn là hai, nhưng là một xương thịt" (Mt 19,6), phục vụ và giúp đỡ lẫn nhau bằng sự kết hợp mật thiết trong con người và hành động của họ, cảm nghiệm và hiểu được sự hiệp nhất với nhau mỗi ngày mỗi đầy đủ hơn. Sự liên kết mật thiết vẫn là sự tự hiến của hai người cho nhau cũng như lợi ích của con cái buộc hai vợ chồng phải hoàn toàn trung tín và đòi hỏi kết hợp với nhau bất khả phân ly 2.

Chúa Kitô ban dồi dào ơn phúc cho tình yêu muôn hình ấy, một tình yêu phát xuất từ nguồn mạch tình yêu Thiên Chúa và được tác thành theo gương kết hiệp của Chúa Kitô và Giáo Hội. Thực vậy, như xưa kia Thiên Chúa đến gặp gỡ dân Ngài bằng một giao ước yêu thương và trung thành 3, ngày nay Ðấng Cứu Thế, Bạn Trăm Năm của Giáo Hội 4, cũng đến với đôi vợ chồng qua Bí Tích Hôn Phối. Người còn ở lại với họ để hai vợ chồng cũng mãi mãi trung thành yêu thương nhau bằng sự tự hiến cho nhau như Người đã yêu thương Giáo Hội và đã nộp mình vì Giáo Hội 5. Tình yêu vợ chồng đích thực được kết nhập trong tình yêu Thiên Chúa, được hướng dẫn và thêm phong phú nhờ quyền năng cứu chuộc của Chúa Kitô và hoạt động cứu rỗi của Giáo Hội, để hai vợ chồng được dẫn dắt cách hữu hiệu đến cùng Thiên Chúa, cũng như được nâng đỡ và kiện cường trong nhiệm vụ cao cả làm cha mẹ 6. Bởi đó, vợ chồng Kitô hữu được củng cố và như được thánh hiến 7 bằng một bí tích riêng để được lãnh nhận các bổn phận và phẩm giá của bậc sống họ; nhờ sức mạnh của bí tích này, họ được thấm nhuần tinh thần Chúa Kitô mà chu toàn bổn phận hôn nhân và gia đình của họ, nhờ đó tất cả đời sống của họ được thấm nhuần đức tin, cậy, mến, và càng ngày họ càng tiến gần hơn tới sự trọn lành riêng biệt của họ và sự thánh hóa lẫn nhau; và bởi đấy, cùng nhau tôn vinh Thiên Chúa 54*.

Do đó, được cha mẹ hướng dẫn bằng gương sáng và kinh nguyện gia đình, con cái và tất cả những ai sống trong khuôn khổ gia đình sẽ gặp được con đường nhân ái, cứu độ và thánh thiện dễ dàng hơn. Còn vợ chồng đã lãnh nhận phẩm giá và chức vụ làm cha mẹ sẽ chăm lo chu toàn bổn phận giáo dục, nhất là về phương diện tôn giáo vì bổn phận này liên hệ đến họ trước hết.

Con cái là những phần tử sống động trong gia đình nên cũng góp phần riêng vào việc thánh hóa cha mẹ. Thực vậy, con cái sẽ đáp lại công ơn cha mẹ với lòng biết ơn, tâm tình hiếu thảo và tin cậy, và sẽ theo đạo làm con mà phụng dưỡng cha mẹ trong nghịch cảnh cũng như trong tuổi già cô quạnh. Mọi người hãy tôn trọng đời sống góa bụa được can đảm tiếp nhận như một tiếp nối ơn gọi hôn nhân 8. Các gia đình hãy quảng đại san sẻ cho nhau những của cải thiêng liêng. Như thế, mỗi gia đình Kitô hữu xuất phát từ hôn nhân, một hôn nhân như là hình ảnh và nói lên sự tham dự giao ước yêu thương giữa Chúa Kitô và Giáo Hội 9, nên sẽ biểu hiện trước mặt mọi người sự hiện diện sống động của Ðấng Cứu Thế trong thế giới và bản chất đích thực của Giáo Hội qua tình yêu, qua niềm quảng đại chấp nhận sinh sản con cái, qua sự hiệp nhất và trung tín của hai vợ chồng cũng như qua sự hợp tác thân ái của mọi thành phần trong gia đình.

49. Tình yêu vợ chồng. Lời Chúa đã nhiều lần mời gọi những người sắp kết hôn hãy nuôi dưỡng thời kỳ đính hôn bằng một tình yêu trong sạch và những người đã thành vợ chồng hãy nâng đỡ cuộc sống lứa đôi bằng một tình yêu không chia xẻ 10. 55* Nhiều người hiện thời vốn coi trọng tình yêu đích thực giữa vợ chồng, biểu hiện bằng nhiều cách theo những tập tục lành mạnh của mỗi thời đại, mỗi dân tộc. Tình yêu ấy có đặc tính nhân linh cao cả vì từ một nhân vị hướng đến một nhân vị khác bằng một tình cảm tự ý, do đó bao gồm hạnh phúc toàn diện của con người. Nên tình vợ chồng có thể lồng vào những biểu lộ của thể xác và tâm hồn một phẩm giá đặc biệt, và khiến chúng trở nên cao quí như những yếu tố và dấu hiệu đặc thù của tình yêu đôi bạn. Bởi một ơn huệ đặc biệt của ơn sủng và của tình thương, Chúa đã đoái thương chữa trị, cải thiện và nâng cao tình yêu ấy. Một tình yêu kết hợp yếu tố nhân loại với yếu tố thần linh như thế phải thấm nhuần cả đời sống và hướng dẫn đôi vợ chồng biết tự do trao hiến cho nhau, qua những tâm tình và cử chỉ trìu mến 11. Hơn nữa, chính nhờ những hành vi quảng đại của mình mà tình yêu giữa hai người được trọn vẹn và lớn thêm. Tình yêu vợ chồng, do đó vượt xa xu hướng nhục dục thuần túy, và xu hướng này, nếu được tôn thờ một cách ích kỷ, sẽ mau chóng tan biến và kéo theo những hậu quả thảm hại 56*.

Sự âu yếm trên được biểu lộ và hoàn hảo cách đặc biệt qua những động tác riêng của hôn nhân. Bởi vậy, những hành vi thực hiện sự kết hợp thân mật và thanh khiết của đôi vợ chồng đều cao quí và chính đáng. Ðược thi hành cách thực sự nhân linh, những hành vi ấy biểu hiện và khích lệ sự trao hiến hỗ tương, nhờ đó hai người làm cho nhau thêm phong phú trong hoan lạc và biết ơn 57*. Ðược bảo đảm vì tín cẩn nhau và nhất là được chuẩn y bởi bí tích của Chúa Kitô, tình yêu ấy trung thành bất khả phân ly giữa cảnh đời thăng trầm, và do đó loại hẳn mọi hình thức ngoại tình và ly dị. Phải nhìn nhận phẩm giá cá nhân bình đẳng giữa vợ chồng trong tình tương ái trọn vẹn để nhờ đó, biểu hiện rõ ràng tính cách duy nhất của hôn nhân đã được Chúa xác nhận. Ðể kiên trì gánh vác những bổn phận của ơn gọi Kitô giáo này, cần phải có một nhân đức phi thường: vì thế, vợ chồng đã được ơn sủng củng cố để sống thánh thiện sẽ ân cần nuôi dưỡng và cầu xin cho được một tình yêu vững bền, một tâm hồn đại lượng và một tinh thần hy sinh.

Tình yêu vợ chồng chân chính sẽ được quí trọng hơn và người ta sẽ nghĩ tưởng về hôn nhân cách lành mạnh hơn, nếu các vợ chồng Kitô hữu làm chứng rõ ràng về sự trung thành và hòa hợp trong tình yêu cũng như trong niềm âu lo giáo dục con cái, nếu họ góp công hoạt động trong việc chấn hưng văn hóa, tâm lý và xã hội, một sự chấn hưng cần thiết để đề cao hôn nhân và gia đình. Phải biết hợp thời và hợp cách giáo dục thanh thiếu niên về phẩm giá, phận sự và hành vi thể hiện tình vợ chồng, tốt nhất là trong chính khung cảnh gia đình. Nhờ vậy, một khi đã được rèn luyện để giữ đức khiết tịnh, đến tuổi thích hợp, chúng có thể từ thời đính hôn đứng đắn tiến tới hôn nhân.

50. Sự sinh sản trong hôn nhân. Hôn nhân và tình yêu vợ chồng, tự bản tính qui hướng về sự sinh sản và giáo dục con cái 58*. Con cái là ơn huệ cao quí nhất của hôn nhân và là sự đóng góp lớn lao kiến tạo hạnh phúc của cha mẹ. Thiên Chúa đã phán: "Ðàn ông ở một mình không tốt" (Stk 2,18). Ngài là Ðấng "...từ buổi đầu, đã dựng nên một người nam và một người nữ" (Mt 19,4); chính Ngài muốn thông ban cho con người cộng tác một phần đặc biệt vào công việc tạo dựng của Ngài, Ngài đã chúc lành cho người nam và người nữ rồi nói: "Các ngươi hãy tăng gia, sinh sản" (Stk 1,28). Do đó, việc thể hiện đích thực tình yêu vợ chồng cũng như toàn thể tổ chức đời sống gia đình phát sinh từ việc thể hiện ấy, đều nhằm giúp đôi vợ chồng can đảm sẵn sàng cộng tác với tình yêu của Ðấng Tạo Hóa và Cứu Thế, mặc dù không loại bỏ các mục đích khác của hôn nhân. Nhờ đời sống lứa đôi, Ngài làm cho gia đình Ngài ngày càng bành trướng và phong phú hơn 59*.

Bổn phận truyền sinh và giáo dục phải được coi là sứ mệnh riêng biệt của vợ chồng. Trong khi thi hành bổn phận ấy, họ biết rằng mình cộng tác với tình yêu của Thiên Chúa Tạo Hóa và như trở thành những kẻ diễn đạt tình yêu của Ngài. Bởi vậy, họ sẽ chu toàn bổn phận mình với trách nhiệm của con người và của con người Kitô hữu 60*. Tôn trọng, tuân phục Thiên Chúa, đồng tâm hiệp lực với nhau, họ sẽ tạo được cho mình một phán đoán ngay thẳng: biết xét đến lợi ích riêng của họ cũng như của con cái đã sinh hay tiên liệu sẽ có, nhận định về các hoàn cảnh vật chất hay tinh thần của thời đại và bậc sống, sau hết biết nghĩ đến lợi ích của gia đình, của xã hội trần gian và của chính Giáo Hội. Sự phán đoán ấy, sau cùng chính đôi vợ chồng phải chọn lựa lấy trước mặt Thiên Chúa. Trong cách thế hành động, vợ chồng Kitô hữu hãy ý thức là mình không thể làm theo sở thích, nhưng phải luôn luôn tuân theo tiếng nói của một lương tâm phải được khuôn đúc theo luật Chúa, hãy vâng phục Giáo huấn của Giáo Hội, vì Giáo Hội có thẩm quyền giải thích luật Chúa dưới ánh sáng Phúc Âm.

Luật Chúa tỏ rõ ý nghĩa đầy đủ của tình vợ chồng, bảo vệ và khích lệ mối tình ấy đến mức hoàn thiện trên bình diện đích thực nhân loại. Bởi thế mà các vợ chồng Kitô hữu tôn vinh Ðấng Tạo Hóa và tiến tới sự hoàn thiện trong Chúa Kitô, trong khi tin tưởng vào Chúa Quan Phòng và trau dồi tinh thần hy sinh 12, để chu toàn bổn phận sinh sản cách quảng đại trong tinh thần trách nhiệm của con người và của con người Kitô hữu. Trong số những đôi vợ chồng theo phương thức ấy để chu toàn bổn phận Thiên Chúa trao phó, phải đặc biệt kể đến những người, sau khi suy xét khôn ngoan và đồng chấp thuận, đã can đảm nhận lãnh trách nhiệm dưỡng dục con cái cách xứng đáng, dẫu số con cái ấy khá đông 13.

Tuy nhiên, hôn nhân không phải chỉ được thiết lập để mưu sự truyền sinh mà thôi, nhưng chính đặc tính giao ước bất khả phân ly giữa hai người và lợi ích con cái đòi hỏi tình yêu hỗ tương của hai vợ chồng phải được phát biểu, thăng tiến và nẩy nở cách chính đáng. Cho nên, ngay trong trường hợp không có con như hằng tha thiết mong mỏi, hôn nhân vẫn tồn tại như một cuộc sống chung và vẫn giữ được giá trị cùng đặc tính bất khả phân ly của mình.

51. Hòa hợp tình yêu vợ chồng với việc tôn trọng sự sống con người. Công Ðồng biết rằng: muốn tổ chức đời sống vợ chồng cho thuận hòa, đôi bạn thường vấp phải một số tình trạng sinh sống khó khăn hiện đại và có thể lâm vào những hoàn cảnh khiến họ không thể gia tăng số con cái, ít là trong một thời gian; đó là lúc phải khó khăn lắm mới duy trì được tình yêu trung thành và sự chung sống trọn vẹn. Một khi đời sống thân mật vợ chồng bị gián đoạn, sự chung thủy thường bị đe dọa và lợi ích con cái có thể bị sút giảm; vì trong trường hợp này, việc giáo dục cũng như lòng can đảm sinh thêm con cái đều bị thương tổn 61*.

Có những người dám đưa ra những giải pháp bất lương để giải quyết vấn đề trên đây, họ không ngần ngại xử dụng cả những hành động sát nhân. Nhưng Giáo Hội nhắc lại rằng không thể có mâu thuẫn thực sự giữa những lề luật của Thiên Chúa liên quan đến việc truyền sinh và những luật liên quan đến việc phát triển tình yêu vợ chồng đích thực.

Thực vậy, Thiên Chúa là Chúa sự sống, đã trao cho con người nhiệm vụ cao cả là bảo tồn sự sống, và họ phải chu toàn bổn phận ấy cách xứng hợp với con người. Do đó, sự sống ngay từ lúc thụ thai phải được giữ gìn hết sức cẩn thận; phá thai và sát nhi là những tội ác ghê tởm. Dục tính cũng như khả năng sinh sản của con người trổi vượt một cách kỳ diệu hơn những gì thấy được ở những cấp sinh vật thấp hơn. Bởi vậy, chính những hành vi đặc thù của đời sống vợ chồng, được thực hiện đúng theo phẩm giá đích thực của con người, đều phải được kính cẩn tôn trọng. Vì thế, khi cần hòa hợp tình vợ chồng với việc truyền sinh trong một tinh thần trách nhiệm, phải ý thức rằng giá trị luân lý của hành động không chỉ lệ thuộc vào ý muốn thành thực và việc cân nhắc các lý do, nhưng phải được thẩm định theo những tiêu chuẩn khách quan suy diễn từ bản tính của nhân vị và của hành động nơi nhân vị; những tiêu chuẩn ấy sẽ tôn trọng ý nghĩa trọn vẹn của sự trao hiến và sinh sản con cái trong khung cảnh tình yêu đích thực. Ðó là điều không thể thực hiện được nếu không thực tâm vun trồng đức khiết tịnh trong bậc vợ chồng. Trong việc điều hòa sinh sản, con cái của Giáo Hội trung thành với những nguyên tắc vừa viện dẫn, không được dùng những phương pháp mà Giáo Huấn đã bác bỏ khi giải thích luật Thiên Chúa 14. 62*

Ngoài ra, mọi người đều phải ý thức rằng: đời sống nhân loại và bổn phận lưu truyền sự sống ấy không chỉ giới hạn ở đời này cũng như không thể hiểu và đo lường được ở đời này, nhưng luôn qui chiếu về định mệnh vĩnh cửu của con người.

52. Bổn phận của mọi người trong việc thăng tiến hôn nhân và gia đình. Gia đình là một trường học phát triển nhân tính. Nhưng để gia đình có thể sống trọn vẹn và chu toàn sứ mệnh mình, cần phải biết hòa hợp tâm hồn: vợ chồng phải cùng nhau bàn định cũng như cha mẹ phải ân cần cộng tác trong việc giáo dục con cái. Sự hiện diện tích cực của người cha giúp ích rất nhiều cho việc đào tạo con cái, nhưng cũng phải làm sao giữ được cho người mẹ vai trò chăm sóc gia đình, vì con cái, nhất là khi thơ bé, rất cần đến sự chăm sóc ấy; tuy nhiên, vẫn không được coi thường sự thăng tiến hợp lý của người phụ nữ trên bình diện xã hội. Phải giáo dục con cái thế nào để khi đến tuổi trưởng thành chúng có thể chọn bậc sống và theo ơn gọi, ngay cả ơn gọi tu trì, với ý thức trách nhiệm đầy đủ; và nếu kết hôn, chúng có thể lập gia đình riêng trong những điều kiện luân lý, xã hội và kinh tế thuận lợi. Bổn phận của cha mẹ hay người giám hộ là hướng dẫn những người trẻ khi lập gia đình, dùng lời khuyên nhủ khôn ngoan sao cho họ sẵn sàng nghe theo; tuy nhiên, phải cẩn thận, không dùng áp lực trực tiếp hay gián tiếp ép buộc họ kết hôn hay chọn bạn đường 63*.

Như thế, gia đình trở thành nền tảng của xã hội vì là nơi mà nhiều thế hệ gặp gỡ và giúp nhau nên khôn ngoan đầy đủ hơn cũng như giúp nhau hòa hợp những quyền lợi cá nhân với những đòi hỏi khác của cuộc sống xã hội. Bởi đó, tất cả những ai có ảnh hưởng trên các cộng đoàn và tập thể xã hội phải góp công hữu hiệu thăng tiến hôn nhân và gia đình. Chính quyền phải nhìn nhận, bênh vực và phát huy tính chất đích thực của hôn nhân và gia đình, phải bảo vệ nền luân lý chung và giúp cho gia đình được sung túc, vì đó là những bổn phận mà chính quyền phải coi như một sứ mệnh thiêng liêng phải chu toàn. Lại phải bảo đảm cho cha mẹ quyền sinh sản và giáo dục con cái trong khung cảnh gia đình. Phải soạn thảo được những bộ luật biết tiên liệu và đề ra được nhiều sáng kiến để bảo vệ và nâng đỡ cả những người vì rủi ro mà không có gia đình.

Người Kitô hữu biết lợi dụng thời đại 15 và phân biệt những gì trường tồn với những hình thức hay thay đổi, phải nhiệt thành đề cao những giá trị hôn nhân và gia đình bằng chứng tá của chính đời sống mình cũng như bằng hành động hợp tác với những người thiện chí. Như vậy, sau khi vượt qua các trở ngại, họ sẽ thỏa mãn được những nhu cầu của gia đình và cung cấp cho gia đình những tiện nghi hợp với thời đại mới. Muốn đạt được mục đích ấy, rất cần đến ý thức Kitô giáo của các tín hữu, lương tâm luân lý ngay thẳng của mọi người cũng như sự khôn ngoan và khả năng chuyên môn của những ai am tường các môn học đạo.

Các vị thông thạo khoa học, nhất là các khoa sinh vật học, y học, xã hội và tâm lý học, có thể giúp ích rất nhiều cho hôn nhân, gia đình cũng như sự an bình lương tâm, nếu họ hiệp lực nghiên cứu và cố gắng làm sáng tỏ hơn nữa về những điều kiện khác nhau giúp con người điều hòa sinh sản cách lương thiên.

Sau khi được học hỏi đầy đủ về các vấn đề thuộc phạm vi gia đình, các linh mục có bổn phận nâng đỡ ơn gọi của vợ chồng trong đời sống hôn nhân và gia đình bằng những phương tiện mục vụ khác nhau, như rao giảng lời Chúa, lễ nghi phụng vụ hay những trợ lực thiêng liêng khác. Các ngài cũng phải nhân hậu và nhẫn nại nâng đỡ họ trong lúc gặp khó khăn, và khích lệ họ trong tình bác ái để họ tạo nên những gia đình thực gương mẫu rạng ngời 64*.

Các tổ chức hoạt động tông đồ, nhất là những hiệp hội gia đình, phải cố gắng bằng lý thuyết và hành động nâng đỡ các thanh thiếu niên và chính các đôi vợ chồng, nhất là những đôi mới kết hôn, đồng thời huấn luyện cho họ về đời sống gia đình, xã hội và việc tông đồ.

Sau hết chính các đôi vợ chồng, được tạo thành giống hình ảnh Thiên Chúa và được an định trong cấp bực của các nhân vị, hãy kết hợp trong tình tương thân tương ai, đồng tâm hiệp ý và thánh hóa lẫn nhau 16, để trong khi theo Chúa Kitô là nguyên lý sự sống 17, giữa những nỗi vui mừng và hy sinh của ơn gọi và qua tình yêu chung thủy, họ trở nên chứng nhân của mầu nhiệm tình thương mà Chúa đã tỏ ra cho thế giới qua sự chết và sự sống lại của Người 18.

còn tiếp

 


Chú Thích:

51* 1) Giới thiệu: Gia đình là nền tảng của xã hội (số 47a), nhưng hiện nay bị nhiều vết nhơ (b), nên Công Ðồng muốn góp phần giáo lý để nâng cao gia đình và hôn nhân (c).

2) Diễn tả gia đình cách đại cương: Bản tính, khởi sự, giá trị và chiều hướng của hôn nhân (số 48a). Tính cách cao siêu của tình yêu hôn nhân (b). Ðời sống gia đình hướng về Chúa (c). Vai trò của mỗi người trong gia đình và việc tông đồ của họ (d).

3) Tình yêu hôn nhân: tính cách (số 49a), phương cách biểu lộ nó (b), phải phổ biến quan niệm đích thực về nó (c).

4) Con cái: Hôn nhân hướng về việc sinh sản con cái (số 50a). Kẻ làm cha mẹ phải có trách nhiệm (b). Sinh sản con cái không phải là mục đích duy nhất (c).

5) Những khó khăn: gặp phải khi duy trì tình yêu đồng thời phải tôn trọng sự sống (số 51a). Những giải pháp không được áp dụng (b). Những tiêu chuẩn để chọn giải pháp (c,d).

6) Mục vụ gia đình: Ở trong gia đình (số 52a), trong đại gia đình và xã hội (b). Việc tông đồ của gia đình (c). Phần đóng góp của khoa học gia chuyên môn (d), của Linh Mục (e), của đôi hôn nhân (f).

52* Hôn nhân và gia đình là tế bào đầu tiên đồng thời là nền tảng của xã hội cũng như của Giáo Hội. Công Ðồng muốn góp phần để bảo vệ hôn nhân vì ở nhiều nơi hôn nhân bị tội lỗi làm hoen ố. Công Ðồng nhắc đến chế độ đa thê, ngược lại với tính cách hợp nhất của hôn nhân (số 48a phần cuối và 49b); ly dị, trái ngược với tính bất khả phân ly; tự do luyến ái tức sống chung mà không chấp nhận liên hệ hôn nhân. Công Ðồng còn nói chung về những hình thức "lệch lạc khác": chẳng hạn hôn nhân thí nghiệm, nghĩa là khi chưa có con thì chưa thành bất khả phân ly; hôn nhân ép buộc của thanh niên thiếu nữ không ưa nhau, v.v... Hôn nhân hợp nhất và duy nhất còn có thể mất ý nghĩa cao đẹp do lòng ích kỷ của đôi bên, do khoái lạc chủ nghĩa, do những tội lỗi liên quan tới việc sinh sản.

Nhưng còn có nhiều hoàn cảnh khác cũng có thể gây nên những khó khăn và dịp tội cho hôn nhân. Công Ðồng nhắc đến hoàn cảnh kinh tế: chẳng hạn tiền lương không đủ để nuôi dưỡng và giáo dục con cái; hoàn cảnh tâm lý và xã hội: như quan niệm mới về địa vị người phụ nữ, hay là môi trường sinh sống quá chú ý đến tình dục; hoàn cảnh dân sự: như lề luật trái ngược nguyên tắc luân lý, ví dụ việc phá thai, giải phẫu để ngăn cản khả năng sinh sản, v.v...; hoàn cảnh nhân khẩu gia tăng tại nhiều nơi cũng có thể đe dọa nền kinh tế của các quốc gia đang mở mang.

Trong thông điệp Humanae Vitae, Ðức Giáo Hoàng Phaolô VI công nhận đó là những lý do đã khiến Giáo Hội xét lại lập trường (số 2-5).

53* Ðây là một định nghĩa của hôn nhân đáng cho ta lưu ý tới: a) cốt yếu là cùng một đời sống và cùng một tình yêu đặc biệt, b) tùy theo luật Chúa là Ðấng đã sáng tạo hôn nhân, c) bắt đầu do sự ưng thuận nhau của hai người nam và nữ. Ðối tượng của sự ưng thuận ấy là chính con người, hai con người tự hiến cho nhau và đón nhận nhau. Hai người: chứ không phải chỉ quyền lợi trên thân xác của mình mà thôi (như, theo Giáo Luật khoản 1081 đoạn 2, Thông điệp Casti Connubii của Ðức Piô XI đã xác nhận: x. AAS 22 (1930), 541; Dz 3701/2225). Hai bên sẽ nên một về mọi phương diện: sinh lý, tâm lý, xã hội và đạo đức. Kết quả là một tổ chức vững chắc không phải tự ý riêng của đôi bên, nhưng theo ý định của Thiên Chúa. Tổ chức này có nhiều mục đích (số 50b) và mưu ích không những cho đôi bên mà còn cho gia đình và xã hội nữa.

1 Xem T. Augustinô, De bono conjugali: PL 40, 375-376 và 394. - T. Tôma, Summa Theol., Suppl. Quaest. 49, art. 3 ad 1. - Decretum pro Armenis: Dz 702 (1327). - Piô XI, Tđ. Casti connubii: AAS 22 (1933), trg 543-555; Dz 2227-2238 (3703-3714).

2 Xem Piô XI, Tđ. Casti Connubii: AAS 22 (1930), trg 546-547; Dz 2231 (3706).

3 Xem Os 2; Gier 3,6-13; Ez 16 và 23; Is 54.

4 Xem Mt 9,15; Mc 2, 19-20; Lc 5,34-35; Gio 3,29; 2Cor 11,2; Eph 5,27; Kh 19,7-8; 21,2 và 9.

5 Xem Eph 5,25.

6 Xem CÐ Vat. II, Hiến chế tín lý về Giáo Hội Lumen gentium: AAS 57 (1965), trg 15-16; 40-41; 47.

7 Xem Piô XI, Tđ. Casti Connubii :AAS 22 (1930), trg 583.

54* Hai đoạn 48ab nhấn mạnh rằng hôn nhân là một trong những ơn kêu gọi của Chúa để con người thánh hóa bản thân. Thiên Chúa đã sáng lập hôn nhân và quyết định bản tính của nó, mục đích, tính cách chính yếu cũng như đã thánh hóa nó và nâng cao nó làm thành một bí tích giúp đôi bên làm tròn nghĩa vụ và sống đức ái (x.Hiến chế tín lý về Giáo Hội 35c; 41e; và sau này: số 52g).

Hai vợ chồng được mời gọi để thánh hóa bản thân :1) bằng cách sống tình yêu riêng biệt (số 49-50a), 2) cũng như nhờ phận vụ làm cha làm mẹ (số 50).

8 Xem 1Tm 5,3.

9 Xem Eph 5,32.

10 Xem Stk 2, 22-24; Cn 5,18-20; 31,10-31; Tob 8,4-8; Dtc 1,1-3; 2,16; 4,16-5,1; 7,8-11; 1Cor 7,3-6; Eph 5,25-33.

55* Sách Sáng Thế Ký thuật lại hai câu chuyện khác nhau về Chúa dựng nên loài người. Từ 1,1 đến 2,4 nhấn mạnh sự khác nhau của hai giống nam và nữ, cốt để hai bên phối hợp và sinh con. Từ 2,5 đến 2,25 Thánh Kinh nói rằng người nữ được dựng nên sau và bởi người nam, giống như người nam, để nhấn mạnh người nam và nữ là để bổ túc cho nhau nhờ sự phối hợp nên "một thân thể" (trong Thánh Kinh danh từ này không chỉ nói về thân xác, nhưng ám chỉ tới toàn thể con người). Nên việc hai giống hướng về nhau, cũng như tình yêu giữa người nam và người nữ và cả tính dục nữa đều do Thiên Chúa dựng nên và là tốt đẹp. Tính dục không phải là kết quả của tội tổ tông. Tội ấy chỉ gây nên sự rối loạn của một thứ tính dục không còn tùng phục lý trí (Stk 3,7-16).

Qua các chuyện về tổ phụ, Thánh Kinh nhấn mạnh phương diện sinh sản: các ngài đã chấp nhận chế độ đa thê (v.d. Stk 16,1; 29,15-30) và việc lấy vợ lẽ (30,3-12). Không sinh đẻ được, là vì Chúa phạt (15,3).

Các sách Khôn Ngoan (đặc biệt là Diễm Tình Ca) ca tụng tình yêu vợ chồng, mà không đề cập đến việc sinh sản một cách rõ ràng. Tình yêu ấy là tình yêu xác thịt (xem vd. Cn 5,15-20).

Phần các tiên tri khi các ngài so sánh giao ước giữa Thiên Chúa và dân Israel với tình yêu vợ chồng, các ngài đã mặc nhiên nêu ra lý tưởng tình yêu đối với hôn nhân.

11 Xem Piô XI, Tđ. Casti Connubii : AAS 22 (1930), trg 547-548; Dz 2232 (3707).

56* Ðức Phaolô VI (Humanae Vitae số 8-9) diễn tả tình yêu vợ chồng như sau: 1) nguồn gốc của nó là Thiên Chúa, 2) nó tốt đẹp vì trong đó hai người tự hiến cho nhau để trở nên một và trau giồi cho nhau, 3) nó tượng trưng sự phối hợp giữa Chúa Kitô và Giáo Hội, 4) nó là tình yêu nhân bản: vừa cảm giác vừa thiêng liêng, phát sinh từ ý chí tự do, chứ không chỉ do tình cảm và bản năng mà thồi, 5) nó trọn vẹn, nghĩa là khiến hai bên chia sẻ mọi sự và tìm mưu ích cho bạn hơn là cho mình, 6) nó chung thủy và duy nhất đến giờ chết, 7) và đưa tới kết quả ngoài ích lợi cho đôi bên, nghĩa là nó hướng về việc sinh sản con cái.

57* Tất cả những cử chỉ âu yếm thân xác, đến chính việc phối hợp mật thiết, đều là phương pháp riêng biệt để biểu lộ, thể hiện và cổ võ tình yêu hôn nhân. Là những hành động của con người, của con Thiên Chúa, để sống ơn gọi của mình, hành động đó không có gì là bất xứng. Không phải hôn nhân cho phép để thực hành những điều đê tiện. Hôn nhân thường thường đòi hỏi những hành động ấy, cốt như phương pháp để thể hiện ơn gọi của Chúa. Việc thú vật cũng có những tác động tương tự bên ngoài, không nên gây ra sự ngộ nhận. Dĩ nhiên đôi vợ chồng phải thực hiện những hành động đó một cách xứng hợp với con người, nghĩa là một cách hợp lý và hợp đức tin, chứ không phải chỉ vì bản năng tính dục, vì ích kỷ và bất chấp hoàn cảnh của bạn mình, của con cái, của gia đình và của xã hội.

58* Hôn nhân là để hai vợ chồng yêu nhau, hiệp nhất với nhau, bổ túc cho nhau, hay là để sinh sản con cái? Trước khi có Công Ðồng, giáo lý công giáo trả lời: mục đích thứ nhất là để sinh sản con cái. Còn việc vợ chồng giúp đỡ nhau và việc kết hiệp tính dục với nhau là mục đích thứ nhì và phụ thuộc. Trong ghi chú 1 (số 48a) Công Ðồng nhắc lại vài tài liệu phân biệt các mục đích như thế. Dĩ nhiên giáo lý đã không coi thường tình yêu vợ chồng, bởi vì ba mục đích ấy đều phải được thực hành trong bầu không khí yêu nhau. Nhưng Công Ðồng đã nhấn mạnh đến tình yêu trong khi không chỉ lưu ý đến khía cạnh pháp lý của hôn nhân, nhưng đã đề cao phương diện nhân vị. Nên, bây giờ ta phải nói rằng hôn nhân là để hai bên yêu nhau và tự hiến cho nhau, nhờ đó mà sinh sản con cái, vì chính tình yêu vợ chồng cũng như hôn nhân đều hướng về việc sinh sản. Giữa tình yêu vợ chồng và việc sinh sản con cái không có sự mâu thuẫn gì cả, trái lại nếu bỏ một trong hai, thì sẽ không thể hiểu điều kia được. Yêu nhau với tình yêu này (hôn nhân) mà lại cố gắng ngăn cản việc sinh sản con cái đấy là điều mâu thuẫn. Trái lại, muốn có con mà không chịu yêu nhau thì không xứng hợp với phẩm giá con người. Tự hiến cho nhau, nhưng cùng một lúc cố ý loại trừ khả năng cao quí nhất của mình là khả năng làm cha làm mẹ, có phải tự hiến mình trọn vẹn không? có phải yêu thật không?

59* Công Ðồng không bằng lòng phân biệt các mục đích như cũ. Chỉ nhắc lại hai mục đích quan trọng nhất là tự hiến cho nhau và sinh sản con cái. Thực ra, hai mục đích này (và nhiều mục đích khác để phát triển nhân phẩm về mọi phương diện...) đều là chính yếu, nghĩa là hôn nhân đòi hỏi quyền lợi để hai bên có thể nhờ nhau mà đạt tới những mục đích ấy. Lập khế ước hôn nhân, nhưng loại trừ quyền lợi để sinh sản con cái thật là vô lý và khế ước không thành. Vậy thì, cố ý loại trừ quyền lợi để yêu nhau và để tự hiến cho nhau, cũng là vô lý, vì khế ước này cốt để trao đổi cho nhau.

60* Ở đây Công Ðồng dạy một giáo lý mới mẻ: lập gia đình để (nhờ tình yêu nhau) làm cha và làm mẹ; nói như thế thì chưa đủ. Phải nói thêm: để làm bậc cha mẹ có trách nhiệm! Như thế có nghĩ a gì? Công Ðồng dạy: 1) sinh sản con cái là sứ mệnh của vợ chồng, 2) phải thực hành như là cộng tác viên của Chúa và là "thông ngôn viên" cho tình yêu của Chúa (nghĩa là: tình yêu Chúa luôn luôn muốn dựng nên con người mới, nhưng hai vợ chồng phải tìm hiểu ý Chúa trong hoàn cảnh thực tế của họ), 3) thực hành với lòng kính trọng Thiên Chúa, 4) và tin cậy Ngài, 5) cũng như với tinh thần hy sinh, 6) để vinh danh Chúa, 7) và thánh hóa bản thân.

Theo các nguyên tắc ấy, vợ chồng nên sinh hạ bao nhiêu con cái? Trước đây những tín hữu đạo đức có lẽ đã trả lời: "Chúa muốn bao nhiêu thì chúng con sẽ sinh ra bấy nhiêu". Nhưng câu đó không hợp với giáo lý như Công Ðồng dạy. Không khác gì với lập trường của người chỉ ham mê khoái lạc và do đó sẽ áp dụng các phương pháp để ngăn cản sự sinh sản, câu ấy có thể tỏ ra ý muốn đề cao nguyên tắc "phải thỏa mãn tính dục" trước đã! Như vậy chưa phải là có trách nhiệm. Bởi đó Công Ðồng ngợi khen những vợ chồng sẵn sàng có đông con, nhưng rồi dạy rằng họ phải quyết định số con cái có thể có theo những nguyên tắc sau đây: 1) ích lợi về mọi phương diện của hai vợ chồng (ví dụ: người mẹ có đủ sức không?) 2) ích lợi của con cái (ví dụ gia đình có đủ phương tiện để giáo dục chúng nó không?) 3) tùy theo thời gian, hoàn cảnh vật chất và tinh thần, 4) tùy theo ích lợi của đại gia đình, của xã hội và của Giáo Hội.

Chính vợ chồng phải quyết định số con, chứ không phải chỉ người chồng hay ông bà. Họ sẽ quyết định theo lương tâm của họ: một lương tâm cố gắng hiểu biết luật Chúa như Giáo Hội trình bày.

Ðức Phaolô VI (Humanae Vitae số 10) nhấn mạnh rằng chính tình yêu hôn nhân đòi hỏi trách nhiệm này. Ngài cũng cắt nghĩa trách nhiệm: 1) theo phương diện sinh lý là tôn trọng lề luật của các tiến triển sinh lý (nó cũng thuộc về nhân vị), 2) theo phương pháp chế ngự các xu hướng bản năng và dục vọng, đó là biết tự chủ theo lý trí, 3) theo phương diện hoàn cảnh vật lý, kinh tế, tâm lý, xã hội, đó là quyết định tùy theo hoàn cảnh cho phép thêm con, hay không, 4) theo phương diện luân lý, có trách nhiệm là quyết định và thực hiện quyết định đó một cách thích hợp với nhiệm vụ đối với Chúa, đối với chính mình, đối với gia đình và xã hội. Lương tâm của hai vợ chồng không tự ý tạo ra con đường tốt đẹp cho mình, nhưng nó phải khám phá ra con đường ấy nơi bản tính hôn nhân và nơi bản tính các hoạt động hôn nhân, theo như Giáo Hội cắt nghĩa.

Về phương pháp cụ thể khi vợ chồng cần hạn chế sinh sản, xin coi số 51.

12 Xem 1Cor 7,5.

13 Xem Piô XII, Huấn từ Tra le Visite, 20-1-1958: AAS 50 (1958), trg 91.

61* Vấn đề hạn chế sinh sản là vấn đề về các phương pháp. Vợ chồng muốn sống hợp với lý tưởng hôn nhân đã được trình bày ở trên, lắm lúc sẽ phải hạn chế số con. Nhưng không gần gũi nhau, hay chỉ theo chu kỳ của người vợ, có thể làm hại cho tình yêu nhau, do đó cũng làm hại cho đời sống hôn nhân và cho con cái nữa. Công Ðồng không giấu kín sự kiện này. Vậy khi cần hạn chế số con, có thể áp dụng phương pháp nào? Công Ðồng chỉ trả lời một cách đại cương mà thôi: phải loại trừ phương pháp xấu xa, như giết người (số 51b), phá thai và giết trẻ em (số 51c). Rồi Công Ðồng dạy nguyên tắc phải áp dụng trong việc chọn lựa phương pháp. Phương pháp bao giờ cũng phải 1) tôn trọng giá trị của sứ mệnh lưu truyền sự sống và tôn trọng phẩm giá con người, 2) nó không thể trái ngược lề luật của Chúa về việc lưu truyền mạng sống, 3) vợ chồng phải có ý ngay lành, nhưng chưa đủ, 4) chính phương pháp phải xứng hợp với các qui tắc khách quan về luân lý, 5) đó là những qui tắc dựa trên bản tính con người và tác động của con người, 6) nên phương pháp phải không được xâm phạm ý nghĩa tình yêu hôn nhân là tự hiến cho nhau, và tính cách nhân bản của việc sinh sản con cái, 7) bởi đó, đức trinh khiết hôn nhân là cần thiết, 8) cũng như lòng trung thành với Giáo Huấn của Giáo Hội.

14 Xem Piô XI, Tđ. Casti Connubii: AAS 22 (1930), trg 559-561 : Dz 2239-2241 (3716-3718). - Piô XII, Huấn từ cho Ðại hội Hiệp hội các Nữ Hộ Sinh Ý, 29-10-1951: AAS 43 (1951), trg 835-854. - Phaolô VI, Huấn từ cho các Nghị Phụ Hồng Y, 23-6-1964: AAS 56 (1964), trg 581-589. Theo lệnh của ÐGH, một số vấn đề cần tìm hiểu sâu xa hơn đã được trao cho một ủy ban đặc trách nghiên cứu về dân số, gia đình, tỉ số sinh sản, để sau khi cộng tác hoàn thành, ÐGH có thể thẩm định. Và với giáo huấn hiện thời của Giáo Hội, Thánh Công Ðồng không có ý cấp thời đề ra những giải pháp cụ thể.

62* Ghi chú 14 trình bày lý do tại sao Công Ðồng không phát biểu ý kiến về phương pháp cụ thể do khoa học đã khám phá ra, như thuốc viên, vòng xoắn, v.v... Ðức Giáo Hoàng Phaolô VI đã nhờ ủy ban do Ðức Gioan XXIII thiết lập nhằm học hỏi về các vấn đề gia đình, để nghiên cứu vấn đề hạn chế sinh sản. Ủy ban gồm có các nhà thần học, xã hội học, bác sĩ, các đôi vợ chồng (trên 70 hội viên) đã làm việc từ năm 1963 đến cuối năm 1967. Theo như chính Ðức Giáo Hoàng xác nhận (Humanae Vitae số 6) đa số các hội viên bênh vực lập trường chấp nhận bất cứ phương pháp nào để hạn chế sinh sản. Không nhắc đến lòng ích kỷ, ham khoái lạc, sợ trách nhiệm nặng nề trong việc sinh sản và giáo dục con cái, kể cả lập trường chống đối Giáo Hội cũng như lập trường kinh tế và chính trị của một số quốc gia, Ấn Ðộ chẳng hạn..., chính Ðức Giáo Hoàng đã chỉ nhắc lại lý do của đa số trong ủy ban: 1) Có lý do ngoại tại, nghĩa là những lý do không trực tiếp quan hệ tới vấn đề, như việc dân số gia tăng quá mau; những hoàn cảnh làm việc, nhà ở, kinh tế; quan niệm mới mẻ về nhân phẩm phụ nữ và vai trò của phụ nữ trong xã hội; việc sinh sản con cái đòi hỏi hy sinh đôi khi tới mức độ anh hùng (Humanae Vitae số 2-3). 2) Cũng có lý do nội tại như quan niệm về giá trị tình yêu hôn nhân và cử chỉ xác thịt; quyền năng của con người trên thiên nhiên và bản thân; nguyên tắc toàn diện, nghĩa là hôn nhân hướng về con cái nhưng không phải từng hoạt động vợ chồng phải trực tiếp hướng về nó; nguyên tắc phải chọn sự xấu nhẹ hơn, nghĩa là thà áp dụng phương pháp nhân tạo để hạn chế sinh sản còn hơn là mất tình yêu vợ chồng và hạnh phúc gia đình (Humanae Vitae số 2-3; 14, 16-17).

Ngày 25-7-1968 Ðức Phaolô VI "nhận sứ mệnh Chúa Kitô đã trao phó" (Humanae Vitae số 6) công bố câu trả lời về vấn đề các phương pháp cụ thể: "Cấm bất cứ hành động nào nhằm ngăn chặn sự sinh sản, dù như một mục đích hay chỉ như phương tiện, dù có hành động như vậy trước việc vợ chồng, hay là khi việc vợ chồng đang tiến tới hậu quả tự nhiên của nó" (Humanae Vitae số 14). Nghĩa là không được phép dùng thuốc viên ngăn cản thụ thai (nó có thể giết tinh trùng, giết trứng, ngăn cản trứng chín rụng, ngăn cản tinh trùng vào trong trứng), cấm dùng thuốc viên phá thai, đặt vòng xoắn vào tử cung, dùng bao cao su của đàn ông hay đồ giữ bộ phận của đàn bà, giải phẫu để cắt hay buộc các ống dẫn tinh dịch hay trứng, hoạt động như Onan (Stk 38,9: cố ý xuất tinh ở ngoài), cấm phá thai... Vì mỗi khi vợ chồng giao hợp với nhau, việc hôn nhân phải được mở ngỏ để "có thể lưu truyền mạng sống" (Humanae Vitae số 11).

Ðức Giáo Hoàng "nhận sứ mệnh Chúa Kitô đã trao phó" mà dạy con cái Giáo Hội phải bỏ ý kiến riêng (Humanae Vitae số 28) và hơn nữa phải vâng lời mặc dù có thể là rất khó (Humanae Vitae số 19-20) bởi vì phải vâng theo luật của Giáo Hội và luật của Chúa (Humanae Vitae số 18).

Ðức Giáo Hoàng đã áp dụng nguyên tắc Công Ðồng Vaticanô II lập ra và đã công nhận rằng nếu cố ý ngăn cản việc thụ thai khi vợ chồng ăn ở với nhau, hành động đó không còn giữ ý nghĩa sâu xa của tình yêu và của hôn nhân, cũng như của tác động hôn nhân như Thiên Chúa đã muốn (Humanae Vitae số 9-13).

63* Các gia đình và đại gia đình (kể cả các linh mục lo cho đôi tân hôn) nên lưu ý tới câu này của Công Ðồng. Vì ép duyên không những là tội bất công đối với thanh niên thiếu nữ có quyền lợi bất khả xâm phạm để lập gia đình và chọn người bạn, mà còn gây nên nhiều khó khăn và nhiều dịp tội lỗi, không kể trường hợp hôn nhân bất thành vì mặc dầu hai bên đã ưng thuận, nhưng chỉ vì sợ hãi quá đáng (Giáo luật, khoản 1087). Lạm dụng lòng hiếu thảo của con mình để ép duyên là điều không thích hợp với giáo lý công giáo.

15 Xem Eph 5,16; Col 4,5.

64* Công Ðồng lập lại hai nhiệm vụ chính của các linh mục lo cho đôi tân hôn là: 1) giáo dục đôi bên về ơn kêu gọi, về lý tưởng, về đời sống gia đình, về những khó khăn, v.v..., 2) nâng đỡ các cặp vợ chồng gặp khó khăn với lòng nhân từ và kiên nhẫn. Do đó việc khảo kinh hai bên sắp lập gia đình và sau đó chỉ lo việc rửa tội cho con cái và dạy giáo lý, ban bí tích cho kẻ liệt... thì chưa đủ.

Các ngài nên đặc biệt lưu ý tới tinh thần mới trong việc mục vụ (khi ngồi tòa chẳng hạn). "Trong việc này (tức việc dạy toàn bộ giáo lý, bất chấp những khó khăn sẽ gặp phải như khi đề cập tới vấn đề nghiêm cấm sự áp dụng các phương pháp hạn chế sinh sản chẳng hạn), cần phải giữ đức nhẫn nại và nhân từ như chính Chúa đã làm gương trong cách đối xử với mọi người. Chúa... đã giữ thái độ quyết liệt đối với tội lỗi, nhưng đồng thời đã tỏ lòng thương xót đối với con người. Khi gặp khó khăn, chớ gì các đôi vợ chồng luôn luôn tìm thấy nơi lời nói và nơi tâm hồn của các linh mục, tiếng vang lời nói và tình yêu của Chúa Cứu Thế" (Humanae Vitae số 29). Chúa không đuổi kẻ sa ngã vì yếu đuối...

16 Xem Sacramentarium Gregorianum : PL 78, 262.

17 Xem Rm 5,15 và 18; 6, 5-11; Gal 2,20.

18 Xem Eph 5,25-27.

 

VỀ MỤC LỤC
Niềm vui và hy vọng
 

 

Tổng hợp chuyến viếng thăm Giáo hội Công giáo Việt Nam lần đầu tiên của Đức Tổng giám mục Leopoldo Girelli, Đại diện Tòa Thánh không thường trú tại Việt Nam

WHĐ (3.05.2011) – Đức Tổng giám mục Leopoldo Girelli, vị Đại diện Tòa Thánh không thường trú tại Việt Nam – được Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI bổ nhiệm vào chức vụ này ngày 13-01-2011, đã viếng thăm Giáo hội Công giáo Việt Nam, theo lời mời của Hội đồng Giám mục Việt Nam, từ chiều 18-04-2011 đến Chúa nhật 1-05-2011.

Trong cuộc viếng thăm này, ngài đã đặt chân đến 7 giáo phận, gồm Tổng giáo phận Hà Nội, Tổng giáo phận TP.HCM và 5 giáo phận khác thuộc giáo tỉnh Sài Gòn, gặp gỡ và trao đổi với hầu hết các giám mục tại Việt Nam vì đây là dịp Hội đồng Giám mục Việt Nam họp Hội nghị thường niên, với đông đảo linh mục, chủng sinh, tu sĩ, giáo dân. Đức Tổng giám mục Leopoldo Girelli đã tham dự và cử hành Tuần Thánh tại Nhà thờ Chính tòa Hà Nội, tham dự Hội nghị thường niên của Hội đồng Giám mục, dự nghi lễ đặt viên đá đầu tiên cho Trụ sở của HĐGM VN tại Tp. HCM, dự lễ tấn phong Đức Giám mục phó Giuse Nguyễn Tấn Tước tại Nhà Chung giáo phận Phú Cường...

Chuyến viếng thăm đã diễn ra trong bầu khí thân mật, chân thành và cởi mở, lắng nghe để hiểu biết lẫn nhau. Qua các bài giảng trong thánh lễ, các bài nói chuyện và nhất là qua trả lời các câu hỏi của cử tọa, vị Đại diện đã để lại một ấn tượng tốt nơi những người có dịp gặp, nghe và trao đổi với ngài.

Xin ghi lại ở đây sơ lược một số ý tưởng và vấn đề cũng nhữ cảm nghĩ ngài đã trình bày trong các cuộc tiếp xúc với các thành phần khác nhau của Giáo hội công Giáo Việt Nam trong lần viếng thăm đầu tiên này. 

Chức vụ Đại diện

Trước tiên, trả lời câu hỏi của một chủng sinh, vị Đại diện Tòa Thánh đã có dịp giới thiệu chức vụ và công việc của ngài với người Công giáo Việt Nam:

* Sứ thần Tòa Thánh (Apostolic Nuncio): Về ngoại giao, Sứ Thần Tòa Thánh là vị đại diện Tòa Thánh xét như một quốc gia bên cạnh chính phủ nước sở tại (tương đương với đại sứ). Còn về mục vụ, ngài là vị đại diện Đức Giáo Hoàng bên cạnh Giáo hội Công giáo sở tại.

* Khâm sứ Tòa Thánh (Apostolic Delegate): Về ngoại giao, Khâm sứ Tòa Thánh không phải là đại diện Tòa Thánh bên cạnh chính phủ sở tại như các đại sứ vì chưa có quan hệ ngoại giao chính thức giữa hai bên. Còn về mục vụ, ngài là vị đại diện Đức Giáo Hoàng bên cạnh Giáo hội Công giáo sở tại. Tuy nhiên, ngài được chính phủ sở tại nhìn nhận như một pháp nhân và từ đó có đủ tư cách và thuận lợi ra vào quốc gia đó để làm việc với Giáo hội Công giáo địa phương.

* Đại diện Tòa Thánh (Apostolic Representative): Về mặt ngoại giao và mục vụ, vị Đại diện Tòa Thánh cũng có vai trò tương tự như hai chức danh ở trên. Tuy nhiên, ngài chưa được nhìn nhận hoàn toàn như một pháp nhân và chưa được rộng quyền ra vào làm việc với Giáo hội Công giáo sở tại một cách hoàn toàn tự do. Vì thế, vị Đại diện Tòa Thánh (đặc biệt ở Việt Nam) cần thông báo cho phía sở tại về ngày giờ đến, nơi đến và công việc sẽ làm với Giáo hội Công giáo địa phương. Đây là một vai trò tạm thời để chuẩn bị cho vai trò Khâm sứ Tòa Thánh và Sứ thần Tòa Thánh.

Đức Tổng giám mục Girelli cũng cho biết thêm: Hiện nay, ngài kiêm nhiệm cả ba chức vụ trên ở 5 quốc gia khác nhau: làm Sứ thần Tòa Thánh tại Singapore và Đông Timor; làm Khâm sứ Tòa Thánh tại Malaysia và Brunei; và làm Đại diện Tòa Thánh tại Việt Nam (Đức Tổng giám mục Leopoldo Girelli – Đại diện Tòa Thánh tại Việt Nam, tại Đại chủng viện thánh Giuse Hà Nội, ngày 20 tháng 04 năm 2011).

Trong cuộc gặp gỡ với các Đức giám mục Việt Nam tại Trung tâm Mục vụ Sài Gòn, sáng thứ ba 26-04, Đức cha Đại diện Tòa Thánh giải thích rõ ràng về nhiệm vụ của ngài trên cơ sở các điều khoản 362-367 của bộ Giáo luật 1983. Với tư cách Đại diện không thường trú, ngài được Chính phủ Việt Nam nhìn nhận như Đặc sứ của Đức giáo hoàng đối với Giáo hội Việt Nam, nhưng không thực thi nhiệm vụ ngoại giao (vì tiến trình thiết lập bang giao giữa Tòa Thánh Vatican và Việt Nam chưa hoàn tất) (WHĐ (27.04.2011).

Khó khăn trong sứ vụ ngoại giao

Trong cuộc viếng thăm Đan viện Cát Minh, Sàigòn, chiều 28-4, Đức Tổng giám mục L. Girelli cũng nói đến một số khó khăn ngài gặp phải trong sứ vụ ngoại giao của ngài: Như ở Indonêsia, khi ba người Công giáo bị kết án xử tử oan, ngài đã hết sức nỗ lực can thiệp nhưng cuối cùng chỉ giúp họ sống thêm được vài ngày! Hay khi những tuyên bố của Đức Thánh Cha về Hồi giáo bị hiểu lầm, Tòa Khâm sứ của ngài ở Inđônêsia bị người địa phương bao vây phản đối dữ dội. Nhưng ngài đã tiếp xúc, giải thích, giúp thấu hiểu và giải toả được những căng thẳng (WGPSG).

Qua câu trả lời câu hỏi của một nữ tu Cát Minh, chúng ta được biết vị Đại diện Tòa Thánh của chúng ta đi tu từ năm 11 tuổi, chịu chức vào năm 1978, và qua 8 năm làm cha phó, ngài đã đi học ngoại giao và làm khâm sứ ở nhiều nơi trên thế giới. (WGPSG).

Giáo hội Công giáo Việt Nam

Đáp lời Đức Tổng giám mục Phêrô, Hà Nội, trong Thánh lễ làm phép dầu tại Nhà thờ Chính tòa Hà Nội, sáng ngày 19 tháng 4,  vị Đại diện Tòa Thánh đã nói đến lòng ngưỡng mộ, trìu mến và sâu xa của Đức giáo hoàng Bênêđictô XVI đối với Giáo hội tại Việt Nam. Ngài nói: “Về phương diện lịch sử, Giáo hội Công giáo Việt Nam trong đất nước này đã đóng góp và tiếp tục đóng góp cho di sản nhân loại tôn giáo những giá trị đạo đức cũng như chia sẻ những băn khoăn đúng đắn về tương lai của Giáo hội cũng như trách nhiệm cho công ích. Chúng ta cảm ơn Chúa vì sự gia tăng về con số linh mục, chủng sinh và các tu sĩ tại Việt Nam, cũng như sự trưởng thành của giáo dân trong đời sống cộng đoàn. Nhân danh Đức Thánh Cha, tôi muốn bày tỏ lòng ngưỡng mộ sâu xa và lòng cảm ơn đối với tất cả anh chị em vì đức tin sống động và mạnh mẽ tại đất nước này, luôn trung thành với Giáo hội và Đức Thánh Cha. Tôi xin anh chị em hãy cầu nguyện cho sứ vụ của tôi để tôi có thể đóng góp phần nào vào đất nước và Giáo hội Công giáo tại Việt Nam

Tại cuộc gặp gỡ các linh mục Tổng giáo phận Tp. Hồ Chí Minh tại Trung tâm Mục vụ Sài Gòn, sáng thứ Tư 27-4-2011, được hỏi về sự khác biệt giữa Giáo hội tại Việt Nam và tại các nước ngài đang phục vụ, Đức TGM Girelli cho biết: khi đến Tòa Giám mục Sài Gòn, ngài cảm thấy như đang sống trong một Vatican thu nhỏ! Ngài nói vui rằng ngài có thể sẽ đề nghị Đức Thánh Cha đến nghỉ hè tại Việt Nam! Câu nói của vị Đại diện khiến chúng ta nhớ lại cảm nghĩ tương tự của Đức ông Parolin (nay là Tổng giám mục, Sứ thần Tòa Thánh tại Venezuela) trong phái đoàn Tòa Thánh sang trao đổi và làm việc với nhà nước Việt Nam trước đây. Đức ông Parolin khi ấy còn triển khai thêm cảm nghĩ của ngài: không như một Tòa giám mục vắng lặng, tại Tòa giám mục Sài Gòn, ngài đã được chứng kiến bầu khí sinh động với các văn phòng có nhiều người ra vào, hoạt động sôi nổi…

Tuy nhiên, Giáo hội này không phải là không có những khó khăn, hạn chế. Vị Đại diện nhận xét: Đời sống đạo ở Việt Nam đang mạnh mẽ, nhưng cũng đang có những thách đố vì những giới hạn: Giáo hội không được mở trường học (trừ Nhà trẻ), bị giới hạn trong những hoạt động từ thiện và y tế… Đề cập đến Phúc âm hoá, ngài cho rằng khi truyền giáo phải nhấn mạnh đến phẩm giá cao cả của con người: tất cả mọi người đều là con cái Thiên Chúa (WGPSG).

Và trong thánh lễ tại nhà thờ Chính tòa Mỹ Tho, ngày 30 tháng 04, Đức TGM còn bày tỏ nỗi ưu tư về những khó khăn cụ thể như việc đào tạo những thế hệ trẻ ngày càng trở nên khó khăn, vì sự chuyển biến không ngừng của xã hội. Sự di dân từ vùng quê lên các thành thị, sự suy thoái của những giá trị truyền thống tốt đẹp, sự phá thai, sự ly dị là những thách đố nghiêm trọng đối với căn tính của người Kitô hữu, và đối với công việc mục vụ trong các giáo xứ (web Giáo phận Mỹ Tho).

Giáo dục linh mục và giáo dân

Trong buổi gặp gỡ thân tình với các Đức giám mục Việt Nam vào sáng thứ ba 26/04, tại Phòng hội Phaolô Nguyễn Văn Bình của Trung tâm Mục vụ Sài Gòn, Đức Tổng giám mục Girelli Đại diện Tòa Thánh ngỏ lời cám ơn Hội thánh Việt Nam và tạ ơn Chúa, vì trong bao nhiêu năm qua công cuộc Loan báo Tin mừng vẫn được tiếp nối và phát triển mạnh mẽ, biểu lộ qua con số tín hữu và ơn gọi kitô hữu linh mục, tu sĩ, giáo dân dấn thân vẫn gia tăng và rất năng động.

Ngài nói: một trong những yếu tố quan trọng nhất góp phần cho điều đó chính là sự hiệp nhất: hiệp nhất giữa các giám mục với nhau, giữa giám mục, linh mục, tu sĩ, giáo dân với nhau, giữa Giáo hội Việt Nam với Tòa Thánh.

Tuy nhiên, ngài cũng lưu ý, Giáo hội cần quan tâm đặc biệt đến nhiệm vụ giáo dục các kitô hữu trong ơn gọi linh mục, độc thân dâng hiến, và giáo dân trưởng thành, những lãnh đạo tương lai, để trực diện với tình hình xã hội hôm nay vốn đang bị bao phủ bởi não trạng duy vật, duy thế tục và dửng dưng. Đức cha Đại diện Tòa Thánh kết thúc bài nói chuyện bằng cam kết sẵn sàng hết lòng chu toàn sứ vụ của mình trong tinh thần hiệp thông và hợp tác, và học hỏi từ các Đức cha để giúp ngài hiểu ngày một hơn Giáo hội và đất nước con người Việt Nam (WHĐ, 27.04.2011).

Linh mục

Tại Thánh lễ làm phép dầu, ngày lễ bày tỏ sự hiệp thông, mối liên kết chặt chẽ của các linh mục với Đức giám mục của mình, vị Đại diện nói: Linh mục là những người cộng tác với Đức giám mục trong nhiệm vụ phục vụ Giáo Hội địa phương. “Mỗi anh em (linh mục) có nhiệm vụ khác nhau nhưng Chúa gọi và đòi hỏi mỗi người có một tâm hồn, một trái tim trong sạch lớn lao để phục vụ Chúa và tha nhân. Điều đó đòi hỏi linh mục không sống cho chính mình nhưng sống cho người khác, như Chúa Giêsu - Đấng đã đến để phục vụ chứ không phải để được phục vụ... (Thánh lễ làm phép dầu tại Nhà thờ Chính tòa Hà Nội, sáng ngày 19 tháng 4 năm 2011).

Chủng sinh

Trong chuyến viếng thăm này, xem ra Đức Tổng giám mục Girelli đã dành cho các chủng sinh một sự ưu ái đặc biệt. Tại Hà Nội, ngài đã thăm Đại chủng viện, nói chuyện và dâng thánh lễ. Trong bài chia sẻ Tin mừng, Đức Tổng giám mục Girelli đã lấy hình ảnh Chúa Giêsu rửa chân cho các môn đệ để hướng anh em chủng sinh đến việc học hỏi nơi Vị Thầy Đáng Kính lòng khiêm nhường và tinh thần phục vụ tha nhân. Được gợi hứng từ biến cố thiết lập bí tích Thánh Thể của Chúa Giêsu, Đức Tổng giám mục đã giúp anh em chủng sinh hiểu sâu hơn về ý nghĩa và vai trò của thiên chức linh mục trong thế giới hôm nay. Từ đó, ngài mời gọi anh em chủng sinh hãy cố gắng hơn nữa trong việc tu luyện để có thể trở nên những mục tử như lòng Chúa mong ước..

Trong buổi nói chuyện với các chủng sinh của Đại chủng viện Thánh Giuse Sài Gòn sáng thứ năm ngày 28-04, đề cập đến vấn đề giáo dục và đào tạo tại Chủng viện, Đức TGM ngỏ ý muốn để lại cho các chủng sinh ba chữ: Học tập, Cầu nguyện và Kỷ luật. Học tập để biết Chúa Kitô. Cầu nguyện để gặp Chúa Kitô. Kỷ luật để nên trưởng thành như Chúa Kitô. Trưởng thành là biết làm chủ mình, điều khiển được bản thân của mình.

Được hỏi về hướng giải quyết khi có căng thẳng Đạo – Đời, Đức TGM mời gọi ngắm nhìn cách ứng xử của Đức Giêsu: “Trả cho Xêda những gì của Xêda, và trả cho Chúa những gì là của Chúa.” Chúa không làm cách mạng đánh đuổi người Rôma thì Giáo Hội cũng thế. Chúa Giêsu tôn trọng chính quyền, nhưng đồng thời Ngài cũng xác định sự tự do của Thiên Chúa. Vì thế, Giáo Hội không làm chính trị, nhưng đem Lời Chúa đến cho mọi người. Và Lời Chúa soi sáng mọi sự (WGPSG).

Tại Đại chủng viện Cần Thơ ngày 30-04, Đức TGM khuyên nhủ các chủng sinh hãy thực hiện 3 chữ: Prayer (cầu nguyện), Study (học hành) và Discipline (kỷ luật) (WGPSG).

Đời sống tu

Vào chiều thứ Ba ngày 26-4-2011, tại Trung tâm Mục vụ TGP.TPHCM đã có cuộc chào thăm và gặp gỡ trao đổi với hơn 400 tu sĩ Việt Nam và Đức TGM Girelli, vị Đại diện không thường trú của Tòa Thánh tại Việt Nam đã cầu chúc các tu sĩ luôn là chứng nhân cho cuộc hành trình đi từ Nấm Mồ đến cuộc Phục Sinh vinh hiển nhờ thực hiện ba lời khấn của mình (WGPSG).

Khi đến thăm Đan viện Cát Minh Sài Gòn vào chiều ngày 28-4, Đức Tổng Giám Mục Leopoldo đã nói Dòng Kín là một trong những cột trụ chính của Giáo hội Việt Nam. Cột trụ thứ nhất là các nhà rao giảng Tin Mừng, mang Lời Chúa chiếu soi vùng đất này. Cột trụ thứ hai là các Thánh Tử đạo Việt Nam, lấy máu mình làm chứng cho niềm tin, và là hạt giống nảy sinh các tín hữu. Cột trụ thứ ba là Dòng Kín, là trái tim của Giáo Hội với đời sống cầu nguyện chiêm niệm liên lỉ của mình (WGPSG).

Từ lo âu đến hy vọng

Chúng ta có thể xem câu trả lời của Đức Tổng giám mục Leopoldo Girelli cho câu hỏi của một giáo dân trong cuộc gặp gỡ của ngài với giáo dân tại nhà thờ Chính tòa Sài Gòn về cảm tưởng của ngài khi được Đức Thánh Cha bổ nhiệm làm Đại diện không thường trú tại Việt Nam và sau nhiều ngày tiếp xúc với Giáo Hội Việt Nam, như một kết luận cho bài tổng kết này:

“Tôi nhận được bài sai làm đại diện không thường trú của Tòa Thánh tại Việt Nam trước lễ Giáng Sinh. Tôi nghĩ chắc Chúa cũng muốn sinh ra một lần nữa ở Việt Nam. Tôi thấy một phần vui, hãnh diện và tự hào; phần còn lại thì vừa lo lắng vừa có chút sợ hãi. Vui vì đây là sự kiện quan trọng trong lịch sử của Giáo Hội, đặc biệt là đối với Việt Nam. Nó là sự thay đổi lâu dài, mặc dù là đại diện không thường trú, nhưng nó là một tương quan bình đẳng lâu dài. Sợ và lo âu, không biết có hoàn thành được sứ vụ mà Đức Thánh Cha giao cho mình hay không? Từ khi đến thăm viếng Việt Nam tới ngày hôm nay, sự tiếp đón nồng hậu, lòng tốt và sự quan tâm của anh chị em đã xóa hết tất cả những lo âu của tôi. Mặc dù tôi không được ở đây, nhưng tôi có thể nói với anh chị em là ngày hôm nay, tôi cảm thấy ở đây giống như ở nhà mình vậy. Tôi sẽ trở về Singapore cuối tuần này, nhưng tôi chắc chắn rằng tim tôi sẽ ở lại chỗ này.” 

WHĐ

VỀ MỤC LỤC
GIẢ NHƯ
 

(Lc. 24,13-25) 

“Họ đã nhận ra Chúa khi Người bẻ bánh” 

Câu chuyện hai người môn đệ trên đường Emmau để lại cho chúng ta một kinh nghiệm quí báu. 

Giả như đêm ấy, hai người môn đệ cứ phớt lờ đi người khách lạ, mặc “ông ta” muốn đi đâu thì đi, chẳng nài ép vào nhà làm gì, thì làm sao gặp được Chúa. 

Giả như đêm ấy, tránh phiền toái cho mình và người thân, hai môn đệ chia tay “ông ta” ngay tại cửa, thì làm sao gặp được Chúa. 

Giả như đêm ấy, “ông khách lạ" lếch thếch chẳng đáng quan tâm, mời vào nhà làm gì cho thêm tốn kém, thì làm sao găp được Chúa. 

Giả như đêm ấy, chẳng bận tâm về sự an toàn của người khác, chẳng lo toan về sức khỏe cần nghỉ ngơi của người khác, mời “ông ta” vào nhà làm gì, thì làm sao gặp được Chúa.

Giả như …. 

Tôi lo sợ lắm, có bao giờ mình nhẫn tâm hờ hững với anh em, với người nghèo, có bao giờ mình chẳng bận tâm về thân phận đau khổ của người khác, có bao giờ mình mặc kệ những người khốn khó, có bao giờ mình quay mặt đi với người bị bỏ rơi, bị áp bức, …Đúng lúc ấy Chúa hóa thân trong họ. Thì làm sao gặp được Chúa? 

Lm. Vinh Sơn Phạm Trung Thành, dcct.

 

VỀ MỤC LỤC
TẦM QUAN TRỌNG CỦA LỜI CHÚA TRONG ĐỜI SỐNG CỦA NHỮNG CURSILLISTAS

  

Khi chuẩn bị cho bài chia sẻ Chúa Nhật thứ III Mùa Chay Năm A, theo Tin Mừng Thánh Gio-an chương 4, 5-42 nói về Nước Hằng Sống, tôi nhớ lại cách đây không lâu tôi có tham dự buổi thuyết trình về Lectio Divina do một linh mục tiến sĩ Kinh Thánh người Colombia hướng dẫn. Với lối trình bày dí dỏm nhưng thật sâu sắc, vị diễn giả này đã đem đến cho những tham dự viên hiểu biết một cách sâu sắc khi đọc và suy niệm Lời Chúa qua cách trình bày những hình ảnh, những dụ ngôn và những biểu tượng mà các tác giả Kinh Thánh đề cập đến.

Bài Tin Mừng theo thánh Gio-an chương 4, 5-42 nói về cuộc gặp gỡ giữa Chúa Giê-su và người phụ nữ Sa-ma-ri bên bờ giếng Gia-cóp. Điều này cũng gợi cho tôi nhớ lại những cuộc gặp gỡ tương tự của các tổ phụ trong thời Cựu Ước cũng ngay bên các bờ giếng. Nếu chúng ta lần giở lại cuộc gặp gỡ giữa tổ phụ I-xa-ác và Rê-bê-ca (Xc. St 24, 10-66)  thì đôi uyên ương này nên duyên vợ chồng từ bờ giếng. Rồi đến vị giải phóng dân Ít-ra-en có tên là Mô-sê cũng nên duyên vợ chồng với con gái của thầy tư tế Ma-đi-an bên bờ giếng sau khi trốn khỏi Ai-cập (Xc. Xh 2, 11-22). Và vị Thầy của chúng ta, Đức Giê-su khả ái cũng gặp gỡ người phụ nữ Sa-ma-ri bên bờ giếng Gia-cóp, và qua cuộc gặp gỡ này, người phụ nữ cũng như những người đồng hương Sa-ma-ri của bà đã thay đổi và đã nhận ra vị Cứu Tinh không phải ở Giê-ru-sa-lem hay ở Sa-ma-ri mà chính là ở trong thần khí và sự thật (Xc Ga 4, 23-24tt).

Bài Tin Mừng quá hay và rất nhiều nghĩa cho tính đại kết nên tôi muốn dùng ‎ tưởng này như là lời mở đầu bài chia sẻ cho tờ Tiến Bước trong Năm Lời Chúa.

Trong bài chia sẻ trước, tôi có đề cập đến “Lời Chúa trong đời sống và sứ vụ của các nhà truyền giáo”. Những nhà truyền giáo, những linh mục, tu sĩ là những người rao giảng Lời Chúa thì họ cần phải học, phải chuyên sâu, phải hiểu rõ và sống Lời Chúa thì mới dám mạnh dạn rao giảng. Nếu không thì những lời rao giảng ấy trở nên rỗng tếch và vô giá trị. Còn những người khác không phải là linh mục, tu sĩ thì sao? Chẳng lẽ họ đứng ngoài cuộc và xem chuyện đọc hay suy niệm Kinh Thánh là chuyện của mấy người đi tu!!! Nhiều người còn nói nửa đùa nửa thật rằng nhiều người Công giáo có thể bỏ tiền chi tiêu mọi thứ đắt giá, nhưng một thứ vô giá mà không ai thèm mua đó là quyển Kinh Thánh. Nhiều người khác còn nói rằng có người mua Kinh Thánh rồi về nhà bao thật kỹ, cất thật kỹ nhưng không bao giờ đọc. Bởi thế họ bông đùa rằng Kinh Thánh của người Công giáo và người Tin Lành chỉ khác nhau một chỗ là Kinh Thánh của người Công giáo luôn luôn mới và đẹp vì không bao giờ mở ra đọc, còn Kinh Thánh của người Tin Lành thì cũ và xấu vì họ thường xuyên đọc. Tôi không biết chuyện đó có đúng không nhưng tôi thấy quyển Kinh Thánh của tôi vẫn còn mới và đẹp vì lúc này tôi hay đọc Kinh Thánh trên Internet.

Tôi muốn nói với những bạn đồng môn của tôi, những Cursillitas hay còn gọi là De Colores- Muôn màu, muôn sắc, về tầm quan trọng của Lời Chúa trong phong trào của chúng ta. Logo con gà trống nhiều màu sắc cất tiếng gáy phần nào nói lên ơn gọi của chúng ta, những Cursillistas. Tiếng gáy ở đây không có nghĩa là chúng ta tự cho mình là những người hiểu nhiều, biết nhiều rồi lên mặt với đời. Nhưng tiếng gáy ở đây là chúng ta biết vận dụng những gì chúng ta học được qua các khóa Cursillos, qua các cuộc tĩnh tâm, qua các sinh hoạt ngoại khóa, để biết đặt Chúa Giê-su vào trung tâm điểm của đời sống, để hiểu biết về Thiên Chúa và Giáo Hội và để khám phá thêm về ơn gọi làm nhân chứng Tin Mừng nơi các môi trường trần thế nhằm mục đích đem Chúa Ki-tô đến cho thế giới ngày nay.

 

Muốn được như thế thì những Cursillistas hữu, có thể gọi như thế cũng phải học hỏi và đào sâu Kinh Thánh để thấm nhuần giáo huấn của Thầy Chí Thánh vì “Không biết Kinh Thánh là không biết Đức Ki-tô”.

 

Những ngày ở Colombia cho khóa học đào tạo, tôi có biết đến một phong trào gọi là Alpha (có thể vào link www.alphafriends.org hay www.alphalatinoamerica.org để tìm hiểu thêm). Tôi có tham gia để biết thêm về phong trào mới này được hình thành cách đây vài chục năm tại Anh và hiện giờ phát triển khá mạnh mẽ tại các nước Mỹ Latin và nhiều nước trên thế giớ. Một trong những người khởi xướng cho phong trào này là luật sư Nicky Gumbel người Anh, hiện giờ là một nhà thần học và linh mục Anh giáo, đã có những buổi tĩnh tâm cho khóa Alpha tại nhà thờ Chúa Ba Ngôi ở Anh quốc, và hiện nay số thành viên của phong trào Alpha này đã lên đến hàng triệu người thuộc hàng trăm quốc gia trên thế giới. Sỡ dĩ  phong trào này phát triển mạnh như thế là do những người khởi xướng biết “gãi đúng chỗ ngứa” cho các tín hữu thời hiện đại khi biết đặt Chúa Giê-su làm trọng tâm và biết đưa ra những vấn nạn trong việc học hỏi và trau dồi Kinh Thánh.

 

Vậy, những Cursillistas hữu của chúng ta thì sao? Phong trào Cursillo của chúng ta đã bước qua cái tuổi gọi là thất thập cỗ lai hi rồi (vì thành lập từ thập niên 40’s ở Tây Ban Nha). Chúng ta đã đem lại bao nhiêu người đến với Chúa qua Lời Chúa và qua đời sống của chúng ta?

 

Khi còn làm việc ở một giáo xứ gồm nhiều cộng đoàn nước ngoài ở Obligado, miền Nam Paraguay, tôi có làm linh hướng cho phong trào Cursillo ở đây. Thực tình mà nói người Nam Mỹ rất thích hội họp, tiệc tùng và nhảy múa. Những Cursillistas ở đây cũng vậy. Khi họ hội họp thì thường ăn uống và ca hát. Họ cũng có những khóa hậu Cursillo nhưng họ rất ít học hỏi hay đào sâu Kinh Thánh. Như là người hướng dẫn tâm linh, tôi đã gợi lại cho họ rằng người Cursillista phải luôn gắn bó với Chúa qua Lời như cây liền cành và cần đến sự nâng đỡ cộng tác của anh chị em mình, như được thể hiện trong câu nói: ‘Một tay nắm lấy Chúa, một tay nắm lấy anh chị em mình’.

 

Trong Phần III của Tông Huấn Verbum Domini nói về Lời Chúa cho thế giới, số 114 có đề cập đến Kinh Thánh và hội nhập thế giới, Đức Thánh Cha Biển Đức XVI có viết : “Mẫu mực chân chính cho việc hội nhập văn hóa là chính cuộc Nhập Thể của Ngôi Lời: “một ‘cuộc trao đổi văn hóa’ (acculturation), hoặc ‘hội nhập văn hóa’ (inculturation), sẽ thực sự là phản ánh cuộc Nhập Thể của Ngôi Lời, khi mà một nền văn hóa, được biến đổi và tái sinh nhờ Tin Mừng, làm sản sinh khởi đi từ chính Truyền thống sống động của mình những cách thức diễn tả độc đáo sự sống, cử hành và những tư tưởng Kitô giáo”,[1] nhờ đâm chồi từ nền văn hóa địa phương, nhờ trân trọng các semina Verbi (hạt giống Lời) và tất cả những gì đang có trong nền văn hóa ấy như là điều tích cực, nhờ mở nó ra với các giá trị Tin Mừng.[2]

Anh chị em Cursillistas quí mến. Anh chị em đang sống trong một môi trường đa văn hóa, đa chủng tộc gọi là Hiệp Chủng Quốc Hoa Kỳ. Anh chị em có nhiều điều kiện thuận lợi trong việc trao đổi và hội nhập văn hóa với các dân tộc khác đang cùng chung sống với anh chị em. Hàng tháng chúng ta có những khóa mới Cursillo và hàng năm chúng ta tổng kết được biết bao nhiêu Cursillistas mới. Con số không nói lên được điều gì nếu chúng ta chỉ dừng lại để hãnh diện về nó. Chúng ta phải làm sao cho phong trào của chúng ta ‘Phúc Âm hóa’ thế giới bằng cách đem Tin Mừng đến cho nhân loại qua những môi trường sống dị biệt trong xã hội, cố gắng cải hóa lương tâm cá nhân cũng như tập thể. Như chú gà trống với nhiều màu sắc sặc sỡ, những Cursillistas cũng phải gáy lên : “The rooster sings, the rooster sings. With a cock-a-doodle, cock-a-doodle-doo.... And that is why I love. The great loves of many colors...

Chúng ta đang sống trong những tuần lễ của Mùa Chay để hướng về Mầu Nhiệm Phục Sinh. Ước mong những Cursillistas của chúng ta có một tinh thần hoán cải thật sự và biết đặt Lời Chúa làm trung tâm trong đời sống của mình. Felices Pascuas y que Dios les bendiga.

Colombia, Lễ Truyền Tin, 25-3-2011,

Lm. Antôn Trần Xuân Sang, SVD.

 

[1] Đức Gioan-Phaolô II, Diễn văn cho các Giám mục Kenya (7-5-1980), s. 6: AAS 72 (1980), tr. 496; DC s. 1787, tr. 534.

[2] X. Đại Hội Thường Niên lần thứ XII của Thượng Hội Đồng Giám Mục, Instrumentum laboris, s.56.

 
VỀ MỤC LỤC
Phục Vụ Con Người (Dom Helder Câmara) 
 

Lời người dịch: Hồng y L. J. Suenens và giám mục Helder Câmara là hai khuôn mặt lớn của Giáo hội công giáo trong thế kỷ 20. Một vị từng là nhà tư tưởng trụ cột của Công Đồng Vaticanô II, là sức bật canh tân nếp sinh hoạt giáo hội, là khâm sai của Giáo Hoàng trước Hội Đồng Liên Hiệp Quốc để trình bày với thế giới về thông điệp Hoà bình trên trái đất…Còn vị thứ hai là tiếng nói của những kẻ không có quyền có được tiếng nói, là kẻ hiên ngang làm chứng Tin Mừng giữa những kẻ nghèo khốn, bất chấp dư luận chụp cho ngài chiếc nón “giám mục đỏ”.

Họ đã phục vụ Giáo hội với hai phong cách khác nhau, nhưng họ có điểm chung là những người em, những tông đồ của Chúa Giêsu Kitô. Những trang dưới đây là chứng từ về đức tin của họ vào Đng mà họ đã gặp và đã đi theo….

(Nguyễn đăng Trúc  chuyễn ra Việt ngữ từ cuốn III, Thánh Thần hơi th sống động của Giáo hội của Hồng y L. J. Suenens)

(phần nói về Hồng y L. J. Suenens đã được trình bày trong số báo trước, phần sau xin đề cập đến giám mục Helder Câmara)

 

Dom Helder Câmara 

1.  Kitô hữu, người anh em của mọi người 

Sống thân phận làm người đương nhiên hàm ngụ chiều kích xã hội. Không ai sinh ra làm người để ở riêng một mình nơi hoang vu trống vắng. Mỗi người trong chúng ta đều do một cha một mẹ sinh ra, và cha mẹ chúng ta cũng có cha có mẹ như chúng ta. Mỗi người trong chúng ta đều sống ở một nơi một thời nào đó. Và những sự kiện đó tạo nên những quyền lợi và những bổn phận mang chiều kích xã hội liên quan đến mỗi người.

Bất hạn ai tin vào Thiên Chúa là Cha của mọi người thì đã đi vào mối tương giao huynh đệ và liên đới nhân loại. Trong thế giới ngày nay, truyền thông đại chúng giúp cho chúng ta biết đến những người anh chị em chúng ta trong các xứ xa gần, chúng ta cảm nhận cụ thể hơn tình liên đới phổ quát ràng buộc chúng ta với mọi người, và đáng buồn thay chúng ta cũng nhận ra những đối nghịch tạo bất hòa giữa các dân tộc.

Đối với kitô hữu, như thánh Phaolô gọi là ‘con người mới’, chiều kích xã hội lại còn liên kết với một đòi hỏi mới khi người ấy gặp gỡ những người anh em kitô hữu khác, đã chịu phép rửa như mình, cũng là chi thể mầu nhiệm là Giáo hội y như mình. Kitô hữu nhận ra những bổn phận mới, nhưng tình huynh đệ trong Chúa Kitô như thế không kéo kitô hữu thu mình lại, hoặc đóng khung người đó trong vòng vi những người huynh đệ kitô hữu với nhau mà thôi: trái lại, tình huynh đệ này đưa kitô hữu mở ra với thế giới bao la của mọi người, mà mỗi phần tử đều được Chúa Kitô đã đổ máu Ngài để cứu chuộc và, dẫu con người có ý thức hay không, thì Ngài đều kêu gọi mỗi người hướng về một cứu cánh chung.

Trong thông điệp đầu tiên của mình, Đấng Cứu Chuộc con người, giáo chủ Gioan Phaolô II đã nhấn mạnh sự hiện diện của Đức Kitô nơi mỗi người: “Ngài hiện diện nơi sâu kín nhất của lương tri con người, đi vào mầu nhiệm của nội tâm được diễn tả trong ngôn ngữ Thánh Kinh và ngay cả trong các lối nói ngoài Thánh Kinh, qua cách gọi là ‘tâm’ (… ), ‘hình ảnh của Thiên Chúa Đấng vô hình’ (Col.1,15). Ngài là Con Người toàn mãn, Đấng đã phục hồi nơi con cháu Adam hình ảnh của Thiên Chúa từng bị hư hỏng bởi tội nguyên tổ. Vì bản tính nhân loại nơi Ngài đã được chu toàn, chứ không phải tiêu mất đi, nên bản tính nhân loại nơi chúng ta cũng được nâng lên hàng phẩm giá vô song. Qua mầu nhiệm Nhập Thể, Con Thiên Chúa ‘đã nối kết với mọi người’. Ngài đã lao tác bằng bàn tay con người, đã suy tư bằng trí khôn con người, đã yêu thương bằng trái tim con người. Ngài được sinh ra bởi Trinh Nữ Maria, đã thật sự là một người ở giữa chúng ta, giống y như chúng ta trong mọi sự, trừ tội lỗi (Vui Mừng Và Hy Vọng, 22). Ngài là Đấng Cứu Chuộc con người!” (Số 8)

Khi nhìn thế giới với con mắt đức tin, kitô hữu có ba bổn phận phải chu toàn. Theo lối nói của Cardijn, cần phải thấy, phải suy xét, phải hành động.

Chúng ta bắt đầu với đôi mắt hướng về thế giới.  

2.  Thấy được thế giới trước mắt chúng ta 

Kitô hữu chú tâm nhìn thế giới hôm nay không thể nào không cảm thấy choáng váng và đặt cho mình muôn vàn câu hỏi.

Thế giới trước mắt chúng ta và trong đó chúng ta đang sống dường như hùng mạnh hơn bất cứ lúc nào. Những tiến bộ khoa học và kỹ thuật đang thực hiện biết bao sáng kiến lạ lùng; giả như tổ tiên chúng ta trở lại dương thế hẳn họ sẽ cho đó là điều không thể tưởng tượng hoặc chỉ là phép lạ.

Con người ngày nay có những tài nguyên kỹ thuật có khả năng bảo đảm cho toàn nhân loại một mức sống xứng hợp với nhân phẩm và yên ổn. Con người ngày nay đã chiến thắng những ôn dịch, những bịnh nan y. Người ta dường như có cả ý định chế ngự sự chết và đang muốn tạo sự sống trong các ống nghiệm. Khắc chế sông ngòi, đẩy lui sa mạc, khai thác các nguồn tài nguyên tận đáy biển cả, kiểm soát những năng lực không ngờ như nguyên tử, mặt trời, gió bão, thực hiện những biến hóa khó tưởng tượng nỗi trong kỹ thuật luyện kim, con người ngày nay phải chăng đánh giá việc chinh phục trái đất là chuyện cỏn con và đang hướng đến cao vọng chinh phục cả vũ trụ?

Tuy nhiên, ai có mắt để nhìn thì hẳn thấy rằng có những dấu chỉ hiển nhiên là thế giới bề ngoài xem hùng mạnh như vậy, nhưng kỳ thực đang hấp hối và đang chết.

Có những thành phố phình ra đến độ trở nên hị hợm, ác độc, vô nhân, không cách gì giải quyết được các vấn đề thường thức căn bản như nhà ở, nước uống, mương hào, rác rưởi, thức ăn… tương ứng với nhịp tăng gia dân số. Nạn thất nghiệp nảy sinh trộm cắp, cướp giựt. Những vụ bắt cóc, bắt làm con tin đòi hỏi phải có những biện pháp an ninh tốn kém song song với những đòi hỏi tiền chuộc càng ngày càng cao. Bầu khí, sông ngòi ô nhiễm không hít thở nổi. Giao thông đi lại bế tắc đến độ không còn cách giải quyết.

Nhân loại không có thì giờ và sự yên tĩnh cần thiết để cảm nhận và sống cuộc sống nhân tính. Con người trở thành những người máy, những con số. Cuộc sống riêng tư tiêu dần. Với những đổi thay giá trị tàn khốc và táo bạo như thế, nhiều tầng lớp dân chúng không cách gì quen thuộc được buộc lòng phải chạy đến chuyên viên phân tâm hoặc bác sĩ tâm thần.

Dấu chỉ nghiêm trọng hơn nữa về một thế giới đang băng rã và hấp hối: đó là hơn hai phần ba dân số thế giới đang sống trong tình trạng không xứng với phẩm giá mình vì nghèo đói, trong lúc các siêu cường có hơn mười lăm hoặc hai mươi lần năng lực vũ khí  để hủy diệt sự sống trên trái đất.  

3. Phán đoán với tâm hồn người kitô hữu 

Nhưng kitô hữu có bổn phận phải suy xét. Chúng ta không chấp nhận bị cái vỏ hào nhoáng về sức mạnh và tầm vóc to lớn của con ngoáo ộp khổng lồ này phỉnh gạt.

Thế giới đang bày ra trước mắt chúng ta buộc chúng ta phải tự vấn lương tâm.

Chúng ta đã làm gì với sứ điệp ‘mọi người là anh em’ của Chúa Kitô?

Làm sao chúng ta có can đảm nhìn đến Chúa Kitô một khi mang tên Ngài, nhận mình là đệ tử Ngài, chúng ta lại tiếp tay với tội ác của thế giới hôm nay: một thiểu số nhỏ nhoi lại chiếm những phương tiện sinh sống và của cải giàu có khổng lồ bên cạnh hầu như toàn thể con cái của Thiên Chúa bị đẩy vào một cuộc sống túng thiếu không xứng hợp phẩm giá con người?

Chúng ta phải nỗ lực làm điều gì trên bình diện cá nhân, cộng đồng, và trên bình diện các dân tộc? Chúng ta có dám nhìn thẳng mặt tình trạng mất thăng bằng nghiêm trọng  như thế về mặt xã hội hay không?

Bước đầu có nên truy tìm nhũng nguyên nhân của tệ trạng này, có nên nêu lên những lối sắp xếp các cơ cấu bất công đang nghiền nát hơn hai phần ba nhân loại hay không?

Tại sao ta nói đến cơ cấu ở đây? Phải chăng chúng là những cường lực đang kết hợp, đang tậïp trung, đang nới rộng khắp nơi? Những cường lực, cường quyền đó là gì? Ai chỉ huy chúng? Ai có quyền quyết định trên chúng? Người ta có cách gì làm áp lực hữu hiệu trên chúng hay không?

Làm sao xét định các cơ chế bất công này dưới ánh sáng của Phúc Âm?

Chúng có thực sự bất công hay không? Chúng liên hệ như thế nào với một nền kinh tế chỉ dựa trên việc đi tìm lợi nhuận? Phải chăng có một phong cách ích kỷ ở mức độ cá nhân, gia đình, cộng đồng, quốc gia trong đó?

Ta không thể nào tránh né những câu hỏi này.

4. Hành động

Nhưng thấy rõ, suy xét theo Phúc Âm cũng chưa đủ: tuyệt đối phải ‘hành động’…

Kitô hữu không thể đọc Kinh Thánh, nghe những gì Chúa nói qua các tiên tri để tố giác những hoàn cảnh bất công của thời các vị ấy, mà không đi đến kết luận là những lời kêu gọi như thế luôn có gia trị đối với chúng ta ngày hôm nay.

Cần tìm ra những lối thoát, khai phá những lối giải quyết, thử áp dụng và thẩm định kết quả nhằm tu chỉnh hoặc ngược lại có thể khai triển và quảng bá.

Nguyên tắc then chốt của bất cứ một nỗ lực thăng tiến xã hội nào trong các xứ gọi là kém phát triển, là làm cho dân chúng chưa đủ, phải làm với dân, cổ súy những sáng kiến, giúp cho dân tự túc. ‘Anh hãy giúp tôi không cần đến anh nữa’: đó là tiếng gọi của em bé muốn trưởng thành, và cũng là luật của mọi đường lối sư phạm.

Với nguyên tắc này, giáo dân, tu sĩ, giáo sĩ dấn thân đi vào những vùng đất khốn cùng, nghèo đói. Dẫu không có huy hiệu nào trên ngực, trên áo, người ta nhận ra họ một khi Đức Kitô ngời sáng trong họ.

Dân chúng đã có thói quen chịu đựng kẻ khác cai trị từng thế kỷ, người ta đã và còn đang hạn chế hoặc không cho họ có được quyền suy nghĩ, quyết định, hành động, nên nay họ thụ động chờ đợi kẻ khác nói cho họ điều gì họ phải làm. Khi những người thiện nguyện – giáo dân hoặc tu sĩ – đến phục vụ ở giữa những người nghèo khổ, nói với họ rằng mình không đến để suy nghĩ hoặc hành động thay cho họ, nhưng với họ, thì dân chúng lo âu sợ hãi vì nghĩ là phải tự mình đương đầu với sự đàn áp: những người nghèo không dám nói, phát biểu, hành động vì sợ bị kẻ có quyền lực đè bẹp.  

5. Một tia hy vọng: các cộng đoàn cơ sở 

Một phương cách hữu hiệu nhất để giúp họ cải tiến hoàn cảnh đó là dấy lên trong dân chúng những ‘cộng đoàn cơ sở’. Ta sẽ thấy một sức sống cộng đoàn kỳ diệu được Phúc Âm tài bồi và thấm nhuần sinh lực đến từ Đức Kitô. Những cộng đoàn cần được phát sinh, gặp gỡ và liên kết với nhau, không phải để chà đạp những quyền lợi của kẻ khác, nhưng là để tự bảo vệ không để cho kẻ khác xâm phạm quyền của mình.

Kinh nghiệm cho ta thấy cường quyền có thể nghiền nát một, năm hoặc mười người. Nhưng một cộng đoàn liên kết với nhau thì không một cường lực con người nào nghiền nát nó được, vì Thiên Chúa luôn hằng sống và lắng nghe lời kêu cầu của Dân Ngài.

Mong chờ người ngoài cải thiện cuộc sống dân chúng qua sự trợ giúp của cường quyền là mãi làm cho dân chúng liên tục ăn bánh vẽ.

Nhưng đây là khúc ca tự do vang dội từ những khối người bị áp bức trong các nước đệ tam khi nơi nơi những kẻ yếu thế, những người bị bóc lột cùng kết hợp với những người yếu thế và bị bóc lột khác…

Trong các cộng đoàn cơ bản của những xứ gọi là ‘kém phát triển’, những cộng đoàn tràn đầy đức tin, hy vọng và yêu thương nhờ một cuộc sống phụng vụ sinh động, những cộng đoàn gặp gỡ nhau trong tiệc Thánh Thể và cử hành các bí tích trong khung cảnh cộng đồng, thì mọi người, từ trẻ con,  thanh niên nam nữ đến người lớn, đều ý thức trách nhiệm của mình. Họ tham gia vào đời sống chính trị, công đoàn, các sinh hoạt văn hóa… Họ tiếp nhận và thực thi dễ dàng những phương cách diễn đạt một nếp sống dân chủ thật sự.

Nhưng phải lưu ý! Tôi xin lặp lại: hoạt động cho các cộng đoàn cơ sở tại các nước được gọi là kém phát triển, thì cần có ơn riêng, có đoàn sủng biết làm việc với dân chúng chứ không phải chỉ biết làm cho dân chúng.

Và dân chúng nhạy cảm về việc này, họ biết xét đoán ai có, ai không có đoàn sủng để làm việc ‘với’ người nghèo khó.

Chúng ta nên nói lên điều này: điều tối thiểu người ta có quyền mong đợi nơi mọi kitô hữu, mọi người thiện chí là xin họ đứng về phía những cộng đoàn cơ sở của các xứ đang khổ đau, nhân danh lòng yêu chuộng công lý, nhân danh việc bảo vệ các cộng đoàn cơ sở chống lại những lời tố cáo gian manh của những kẻ tìm mọi cách để tránh những áp lực tinh thần của các cộng đoàn này, những áp lực nhằm giải phóng phát xuất từ Thánh Thần Thiên Chúa.

Chúng ta rán xét lại xem chúng ta cần thay đổi thái độ như thế nào cho phải, và tìm cách nêu lên những gì Giáo hội cần cổ súy, đón nhận hoặc cảm hứng.  

6. Những trách vụ của chúng ta 

Trong nỗ lực đấu tranh chống lại những cơ cấu bất công càng ngày càng bóp nghẹt vô số con cái Thiên Chúa, không thiếu người cho rằng điều vừa thiết yếu vừa khẩn cấp vừa khó khăn là phải đổi thay những cơ cấu bên trong nơi con người của mình.

Hẳn nhiên chúng ta không thể quên khía cạnh hoán cải nơi cuộc sống cá nhân, và trong khuôn khổ đó chúng ta cám ơn những phong trào đoàn sủng đang khẩn cầu Thánh Thần Chúa, cổ súy việc cầu nguyện và thức tỉnh lương tâm con người.

Đừng bao giờ quên rằng con người luôn bị khống chế bởi lòng ích kỷ và những hậu quả của nếp sống này. Tội lỗi có thật, tội cá nhân cũng như tội tập thể. Sự ác trong trần gian cũng rất kỳ bí! Bên cạnh thế giới được đón nhận như công trình tạo dựng của Chúa Cha, được Chúa Cha thương mến đến độ gửi Con thân thương của Ngài đến ở cùng, thì còn có ‘thế giới’ đồng nghĩa với tội lỗi…  

7. Những nhà giáo dục tôn giáo 

Linh mục Arrupe, bề trên toàn thể các tu sĩ Dòng Tên, đã lay chuyển lương tâm người công giáo khi nêu lên tình trạng khẩn trương phải thay đổi sâu xa hướng đi của lối giáo dục của chúng ta trong một thông điệp của ngài. [1] Nỗ lực nơi các nhà giáo dục của chúng ta nhất thiết phải tìm cách đào tạo con người hướng đến người bên cạnh, đến công lý và hoạt động xã hội.

Ước chi các linh mục ý thức được sứ mạng thức tỉnh lương tâm con người! Có biết bao nhiêu bài giảng, nhất là trong các ngày nhủ nhật và các ngày lễ lớn! Hãy suy nghĩ xem, giả như không có những bài giảng rỗng tuếch, mơ hồ, nói thiên nói địa cho có nói, không nêu lên được vấn đề nào, không nhắc nhở gì chúng ta, không dám thúc đẩy chúng ta đổi thay vị trí chứ đừng mãi nằm yên, ngái ngủ… Chúng ta đâu có mong những bài giảng làm tổn thương kẻ khác chỉ vì vô cớ thích làm khổ người ta, những lối nói khiêu khích, nhục mạ hoặc ngạo mạn. Sự thật cần loan truyền càng nghiêm  trọng thì người nghe càng cảm thấy người giảng cần có lối nói của người bạn, người anh em của mình. Nếu có làm nhức nhối thì chỉ là để chữa lành bệnh như y sĩ giải phẫu. Nếu có nóng bỏng thì chỉ là để xóa đi sai lầm, tội ác, và còn hơn thế nữa là để thanh luyện mà thôi.

Trách nhiệm nặng nề biết bao nhiêu, nhất là đối với những vị giảng trong các dịp linh thao, những tuyên úy các cuộc tụ họp cầu nguyện, tĩnh tâm để gặp gỡ Thiên Chúa một cách sâu xa! Không nên và không được nêu danh Chúa Thánh Thần để cổ võ những thái độ vong thân. Thánh Kinh không từng gọi kẻ nói rằng mình kính Chúa, Đấng mà họ không thấy, đồng thời lại ghét người anh em trước mặt họ, là phường láo khoét hay sao? Chúng ta có thể làm gì được để vinh danh Chúa? Vâng, chúng ta có thể làm được, và chúng ta phải làm sao để con cái Chúa, từng được Chúa Giêsu cứu chuộc, không bị phân chia ra thành kẻ bị áp bức một bên và bên kia là kẻ áp bức.  

3. Các nữ tu, các nhà giáo 

Trong lãnh vực giáo dục, có biết bao nhiêu vườn trẻ, trường mẫu giáo, trường tiểu học, trung học, đại học do người kitô hữu điều hành! Hãy tưởng tượng toàn bộ nỗ lực mênh mông có thể đưa con người vượt thắng lòng vị kỷ một cách hết sức hiệu quả và làm lung lay những cơ cấu bất công đang nghiền nát từng triệu, từng triệu con người, anh em của chúng ta!  

9. Giới truyền thông đại chúng

Và cả những phương tiện truyền thông xã hội đầy uy thế nữa! Đúng là có tình trạng hầu như lúc nào các phương tiện này cũng nằm trong vòng kiểm soát của các nhóm quyền lực. Nhưng chúng ta có ơn Chúa và trách nhiệm để lượng định được tầm quan trọng và sự khẩn trương về nỗ lực giúp con người vượt thắng lòng tư kỷ và gây ý thức liên đới, chúng ta cần len lỏi bằng mọi cách để đưa sứ điệp ấy lên trên báo chí, truyền thanh, điện ảnh, truyền hình…

Chúng ta có thói quen cứ mãi thụ động chịu ảnh hưởng của chúng mà không hề phản ứng, không khác chi như cát chỉ biết thấm nước biển. Phải đánh thức lương tâm để phản ứng lại. Trong những xứ có tự do, cần giáo dục dư luận dân chúng ý thức bổn phận phải lên tiếng, phải biết chống đối, dấy lên những chiến dịch cải thiện truyền thông. Trong lãnh vực này chúng ta có cả một vùng đất bỏ hoang, nơi mà dân lành và đa số thầm lặng nhẫn nhịn một cách thụ động. Có một lối giáo dục về con đường đấu tranh bất bạo động mà ta cần khai thác để dấn thân cải thiện xã hội, xúc tiến những đổi thay cần thiết.

Cũng luôn nhắc lại cho nhau là đây không phải dấn thân vì tham vọng quyền bính hoặc tìm uy thế cho mình hay phe mình, nhưng là phục vụ công ích. Có những sức mạnh tiềm tàng cần huy động để tạo những áp lực tinh thần đem lại giải phóng, những áp lực có khả năng đem lại công lý và yêu thương, và đó là con đường tiến đến một nền hòa bình chân thật và bền vững. Nhưng điều thiết yếu là phải kết hợp các nỗ lực.   

10.  Kết hợp các nỗ lực 

Thử lấy một thí dụ có những con số dễ làm tính: đó là Giáo hội Châu Mỹ Latinh.

Lục địa Châu Mỹ Latinh có 170.000 tu sĩ (140.000 nữ tu sĩ và 30.000 nam tu sĩ rải khắp các nước ở Trung Mỹ cũng như Nam Mỹ).

Ở Châu Mỹ Latinh ấy, chúng ta có 800 giám mục được tổ chức thành Hội Đồng giám mục Mỹ Châu Latinh (CELAM). Và tương ứng chúng ta có những địa phận, rồi họ đạo, các cộng đoàn cơ bản, các linh mục nhất là vô số giáo dân càng ngày càng đông và nhiệt tình phục vụ. 170.000 tu sĩ toàn lục địa được qui tụ vào tổ chức gọi là Hội đồng các tu sĩ Mỹ Châu Latinh (CLAR). Ta thấy ảnh hưởng bao la mà toàn khối tổ chức như thế có thể chi phối: hơn nữa ai cũng biết người nữ tu sĩ hoặc nam tu sĩ là người hiến trọn cuộc sống cho Thiên Chúa nên cũng là kẻ phục vụ người bên cạnh.

Khi đứng riêng lẻ, giám mục, linh mục, nam hoặc nữ tu sĩ cũng như người giáo dân, nếu tố giác những bất công, ngay cả những sự kiện quá rõ, quá kinh hoàng, nếu nỗ lực dấn thân thăng tiến cuộc sống của kẻ bị áp bức, thì hẳn sẽ dễ bị lên án là làm chính trị, là xách động quần chúng, là cán bộ cộng sản. Ngược lại, nếu mọi người trong các thành phần của chúng ta kết hợp lại, xác minh mình hoạt động theo đường lối của Phúc Âm, của công đồng Vaticanô II, của Thượng hội Đồng Medellin, và nay là của tuyên cáo Puebla, thì không ai cản ngăn được và tạo điều kiện làm lung lay các cơ cấu áp bức.  

11.  Mời gọi kitô hữu hãy can cường 

Thăng tiến cuộc sống con người là phận vụ chung của chúng ta, mỗi người chúng ta. Đó là một mầu nhiệm thật sự, một sự kiện hết sức diệu kỳ: Thánh Thần Chúa đã dấy lên nơi mọi quốc gia, chủng tộc, tôn giáo hoặc nhóm người, những người nam nữ quyết tâm dấn thân cho công lý như là một đường lối xây dựng hòa bình. Trong nỗ lực ấy, Giáo hội hợp tác với những người thiện chí và phải đóng trọn vai trò riêng của mình. Giáo hội chỉ có thể chu toàn được phận vụ ấy khi biết chấp nhận những bước thanh lọc.

Muốn nêu gương sáng, muốn chứng thực sự hiện diện của Đức Kitô hằng sống giữa muôn dân và đồng hành với con người, Giáo hội phải gấp rút và dứt khoát quẳng bỏ ưu lo tạo uy thế cho mình, víu vịn giới có quyền có thế, chấp nhận sống tinh thần ngôn sứ của Thầy mình, một tinh thần có giá trị luôn mãi trong mọi thời đại: “Này Ta gửi các con đến như gửi những con chiên ở giữa bầy sói… . Các con sẽ bị kéo ra trước các tòa án ” (Mt 10,16-17).

Tại sao phải e sợ người ta nghĩ sai, xét bậy khi mình dấn thân cho công lý, một khi chính Đức Kitô đã bị gọi là người xách động, nổi loạn, kẻ thù của César? Nếu đúng là Ngài bị xử vì đã từng xưng mình là Con Thiên Chúa, thì ngay trên thập giá, bảng viết bằng ba thứ tiếng cũng thực sự có ghi là Ngài đã bị lên án tử hình vì một lý do chính trị khi đã từng tự tuyên bố mình là vua. Đây là sự khó nghèo nhưng đầy rạng rỡ mà Thiên Chúa đòi hỏi nơi Giáo hội của Con Ngài trong thời buổi hôm nay: Giáo hội ấy phải cắt đứt sự đồng lõa với các chính phủ và những kẻ quyền thế, và phải dấn thân cho kẻ khó nghèo, kẻ bị áp bức, kẻ không có chút gì trong tay, những người con Thiên Chúa sống một cuộc sống bần hàn không xứng hợp với phẩm giá làm người.

 Nếu chúng ta để cho sợ hãi và dè dặt đến hèn nhát kềm chế, chúng ta sẽ chứng kiến lớp lớp người kitô hữu nhiệt tình, đặc biệt là giới trẻ thất vọng vì thái độ ‘làm thinh cho yên’ của Giáo hội, rồi đổ dồn về phía quá khích và bạo động. Nhiều người trong họ đón nhận Chúa Kitô và Giáo hội theo tinh thần ngôn sứ của Ngài, nhưng không chấp nhận Giáo hội phẩm trật và định chế. Phải làm sao cho họ thấy được sự liên kết giữa lý thuyết và thực hành, giữa quyết tâm sống thực và giáo lý của chúng ta.

Ngày nào Giáo hội không còn sợ bị tố giác là làm chính trị bởi vì mình tuyên dương những đòi hỏi của công ích, ngày nào Giáo hội dám áp dụng nơi chính mình nội dung các bản văn cao đẹp, những thông điệp, những tài liệu công đồng Vaticanô II, thì ngày ấy có nhiều kẻ nhận mình là kitô hữu nhưng đang ở xa những sinh hoạt thông thường của Giáo hội, sẽ chạy đến để góp phần mình với Giáo hội trong nỗ lực xây dựng một thế giới công bằng và nhân đạo hơn.

Bấy giờ, và chỉ lúc bấy giờ, mới thiết lập được sự nối kết và ngay cả sự hiệp nhất hoàn toàn giữa Giáo hội ngôn sứ và Giáo hội định chế là hai khía cạnh của cùng một Giáo hội duy nhất của Chúa Kitô. Nếu chúng ta sống được như thế, thì không kitô hữu nào hoặc nhóm kitô hữu nào cảm thấy cần bỏ đi để tìm những ‘tiên tri’ khác : Họ sẽ ở trong Chúa Kitô hôm qua, hôm nay và mãi mãi vì Ngài luôn là nguồn cảm hứng và ánh sáng dẫn dắt họ.  

12. Nói vắn tắt 

Sau khi lược qua những thực tế hằng ngày của kitô hữu chúng ta, tôi xin nói vắn tắt những thâm tín của tôi về dấn thân xã hội mà tôi cảm nghiệm được suốt những năm tháng của cuộc đời tôi:  

-         Tôi không thích sự xung đột giữa thế giới giàu và thế giới nghèo.

-         Tôi tin vào sự táo bạo của những người yêu chuộng hòa bình, vào áp lực tinh thần đem lại giải phóng.

-         Tôi không thể tưởng tượng ra rằng vũ trụ được tạo dựng do yêu thương, lại chấm dứt trong thù hận.  

Tôi mong được nói lên với mọi người:

 

-         Nơi nào có con người, Giáo hộâi cần hiện diện ở đó

-         Lòng ích kỷ của những kẻ giàu tạo nên một vấn đề nghiêm trọng hơn là cộng sản.

-         Thế giới hôm nay bị đe dọa bởi bom nghèo đói.

-         Cần có những thay đổi thật sâu xa để đem lại một tình trạng công bằng chung.

-         Không có hoán cải sâu xa nơi tâm hồn, thì ta không thể trở thành dụng cụ thăng tiến thế giới.

-         Cuộc cách mạng xã hội chỉ có thể thực hiện được nơi các xứ đang phát triển khi song song có cuộc cách mạng tinh thần và xã hội trong các xứ phát triển.

-         Phải xây trên nền tảng vững chắc. Giải quyết mù chữ chưa đủ. Nỗ lực xây dựng thực sự là gây ý thức để cả khối người kia ngày nào đó trở thành một dân tộc.

-         Không phải chỉ cần giảng và sống Phúc Âm Chúa Giêsu Kitô trong nhà thờ là thay đổi được thế giới.

-         Tình trạng nghèo đói làm cho con người phẫn uất và hạ nhục nhân phẩm; nó nhận chìm hình ảnh Thiên Chúa nơi con người.

-         Chúng ta không có quyền đổ trách nhiệm cho Thiên Chúa về những gì liên quan đến tình trạng bất công; chúng ta có phận vụ phải xóa cho sạch tình trạng nầùy.

-         Cửa nhà tôi và lòng tôi rộng mở đón mọi người, tất cả mọi người.

-         Chúa Kitô đã loan báo cuộc phán xét cuối cùng sẽ diễn ra như thế nào: chúng ta sẽ được xét xử theo cách chúng ta đối xử với Ngài nơi người nghèo, người bị áp bức, người bị vùi dập.  

13. Tiếng nói của giới không có được tiếng nói

Tôi xin quay lại nhìn Chúa và chuyển lên Ngài niềm hy vọng của của giới không có được tiếng nói trong một thế giới đang vùi dập họ:

Lạy Cha,  

Làm sao không thể đưa toàn nhân loại

vào lời cầu nguyện của chúng con cho được,

khi mà Con Cha, Chúa Giêsu Kitô là anh chúng con,

đã đổ máu Ngài cho mọi người,

ở mọi nơi, mọi lúc?

Nhưng xin Chúa cho phép con

có lời nguyện riêng

dành cho thế giới của con, thế giới của những kẻ không có được tiếng nói.

Có từng ngàn, từng ngàn con người,

- trong các xứ nghèo

và trong những khu nghèo của các quốc gia giàu có-

không có được quyền lên tiếng nói,

không cách gì khiếu nại, phản đối

hầu bảo vệ những quyền

chính đáng nhất để làm người.

 

Những kẻ vô gia cư, không cơm ăn,

không áo mặc, yếu đau không hề được chăm sóc,

những kẻ không thể có được chút học vấn tối thiểu,

không việc làm, không ngày mai,

những kẻ không còn biết lấy gì để hy vọng;

họ có nguy cơ phó mặc cho số kiếp,

những kẻ chán nản ê chề, họ mất đi lời nói,

trở thành kẻ câm nín kinh niên.

 

Nếu tất cả chúng con, những kẻ tin vào Cha,

chúng con đã từng giúp những anh em giàu có,

những kẻ nhiều may mắn ở thế thượng phong,

biết mở mắt, biết thức tỉnh tâm hồn,

thì những bất công đâu có tràn lan mãi,

khoảng cách giàu nghèo

đâu đến nỗi quá cách biệt,

không những giữa các cá nhân, giữa các nhóm người,

nhưng còn giữa các quốc gia

và ngay cả giữa các lục địa.

 

Lạy Chúa, xin làm thay

những gì chúng con đã không biết làm

và những gì hiện nay chúng con không biết làm.

Làm sao vượt qua được hàng rào

 nào trợ giúp, nào tặng biếu, nào bố thí

để ý thức và thực hiện được công lý,

ôi con đường quả thực khó khăn!

Người ở thế thượng phong,

những kẻ giàu tiền lắm của sẽ nổi cáu

và nghĩ là họ bị xét đoán oan,

rồi đánh giá những cử chỉ dù dân chủ nhất,

nhân đạo nhất, kitô giáo nhất

là bạo loạn và cộng sản! 

14. Sứ điệp Puebla 

Hội nghị lần thứ ba của các giám mục Mỹ châu Latinh được đức Thánh Cha Gioan-Phaolô II chính thức triệu tập và đích thân khai mạc, đã lên tiếng rõ ràng về tình trạng này:

“Cuộc Hội Nghị các giám mục Mỹ châu Latinh lần này, trong tinh thần dấn thân cho người nghèo, lên án tình trạng nghèo khổ cùng cực đang khống chế lục địa chúng ta là tình trạng chống lại Phúc Âm.

Hội Nghị nỗ lực tìm hiểu và tố giác những lề lối gây nên tình cảnh nghèo khổ này.

Hội Nghị liên kết những cố gắng của mình với những nỗ lực của các Giáo hội khác và với tất cả những người thiện chí để bứng rễ tình cảnh nghèo khổ này và tạo nên một thế giới công bằng và huynh đệ hơn. ” [2]


[1] Thư của linh mục ARRUPE gửi các tu sĩ của Hội Dòng.

[2] Rao giảng Phúc Âm hôm nay và ngày mai ta(i Mỹ Châu Latinh ( Những Kết luận của Hội Nghị Puebla, số 924 đến 926).

VỀ MỤC LỤC
VAI TRÒ ĐẶC THÙ CỦA NGƯỜI TÍN HỮU GIÁO DÂN TRONG GIÁO HỘI VÀ GIỮA TRẦN THẾ (1).
  

 Tiến sĩ NGUYỄN HỌC TẬP

Quan niệm Giáo Hội của chúng ta như thế náo, phải chăng Giáo Hội chỉ là tổ chức cấu trúc giáo phẩm trị chăng ?

Giáo Hội của Chúa Giêsu là một cấu trúc khá rộng lớn, để có thể giang tay ôm ấp vào lòng mình cả thế giới, bởi vì đó là sứ mạng của Giáo Hội được Chúa Giêsu ủy thác cho:

   - " Vây anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Cha và Con và Thánh Thần, dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em " ( Mt 28, 20).

Giáo Hội không phải là một tổ chức, cấu trúc đóng kín, hiện diện vì mục đích cho chính mình, mà hiện diện vì Phúc Âm và cho thế giới: để đem đến sứ điệp và động tác cứu độ của Chúa Ki Tô cho cả nhân loại. 

Bởi đó, tự bản tính của mình, Giáo Hội là một cấu trúc mở rộng đón tiếp cả thế gian, để cứu thoát thế gian khỏi tội lỗi, sự chết và mọi áp bức, tha hóa và nô lệ hoá con người. Bởi lẽ

   - " con người được dựng nên giống hình ảnh Thiên Chúa, ...giống như Thiên Chúa " ( Gen 1, 26.27)

   - và con người là " con Thiên Chúa " ( Mt 6, 9).

Hiểu như vậy, một quan niệm về Giáo Hội không bao gồm cả tư tưởng có liên hệ với thế giới, là quan niệm hẹp hòi lệch lạc. 

Nhưng phải chăng đó là tư tưỏng thúc đẩy khiến cho cả người tín hữu giáo dân cũng có " danh chính ngôn thuận " để so vai sánh vế với hàng giáo phẩm, phân chia và cạnh tranh quyền lực với hàng giáo phẩm. Đó có phải là phương thức hữu hiệu để rao giảng Phúc Âm?

Và đó có phải là đường hướng canh tân Giáo Hội của Công Đồng Vatican II không?

Nói cách khác, một Giáo Hội được canh tân theo chiều hướng vừa kể, tức là Giáo Hội trong đó người tín hữu giáo dân cũng chính danh thiết thực hành xử phận vụ cá biệt của mình, là Giáo Hội tân tiến và hiệu lực để rao giảng phúc Âm ?

Có thể như vậy, nhưng không phải theo chiều hướng chen lấn cạnh tranh quyền lực giữa giáo sĩ và giáo dân.

Hỏi như vậy, có lẽ trong câu hỏi vừa kể, người đặt câu hỏi không phân biệt giữa " quyền lực " ( pouvoir ) và " phận vụ " ( rôle ).

Nói cách khác, câu hỏi vừa kể được đặt ra trong quan niệm " quyền lực " theo  hình kim tự tháp, ai càng ở đỉnh cấp bậc gần thượng đỉnh hơn, sẽ là người có uy quyền mãnh lực hơn người khác, cai trị và sai khiến người khác phục vụ mình.

Và cũng chính trong câu hỏi vừa kể cho thấy là câu hỏi không có mấy hiểu biết về các phận vụ của hàng giáo phẩm và của người tín hữu giáo dân trong Giáo Hội: chính vai trò của các giáo sĩ và vai trò của chính người tín hữu giáo dân mới là những gì được Công Đồng Vatican II nêu lên để canh tân Giáo Hội và canh tân sứ mạng của Giáo Hội.

Vai trò của hàng giáo phẩm là " vai trò thừa tác vụ " ( ministériel ) phục vụ, trước tiên là cho cộng đồng dân Chúa. Cộng đồng dân Chúa cần được Linh Mục phục vụ với tất cả thời giờ và khả năng của mình trong cuộc sống, tác động và phục vụ giữa dân Chúa bằng những phương thức mà ai cũng có thể nhận diện được.

Vị Linh Mục tỏ ra liên đới với đoàn chiên được giao phó cho mình, phục vụ theo phương thức những gì phận vụ linh mục đòi buộc, không cần phải bắt chước cách ăn thói ở theo thói đời.

Vị Linh Mục có cách ăn thói ở theo thói trần tục, chắc chắn sẽ không được các tín hữu đánh giá cao và rất thường là thái độ dễ đưa đến việc vị ấy đánh mất đi căn tính ( identité ) của mình và ý nghĩa của sứ mạng linh mục. 

   1 - Vai trò cá biệt của người tín hữu giáo dân.  

Sau Công Đồng Vatican II nhiều người muốn nhấn mạnh đến tầm quan trọng các tín hữu giáo dân tham dự vào cuộc sống ( ad intra ) và phận vụ ( ad extra ) của Giáo Hội, bằng cách xem những gì người tín hữu giáo dân có thể góp phần được trong các động tác của Giáo Hội như là " những thừa tác vụ giáo dân " ( ministériels laiques).

Trong tư tưởng đó, chúng ta thấy được khuynh hướng " giáo phẩm hoá " ( cléricalisation ) phận vụ của người tín hữu giáo dân, nhứt là trong những lãnh vực mà trước đây hoàn toàn thuộc thẩm quyền của giáo sĩ, giảng dạy giáo lý, tổ chức và chủ toạ hội đoàn, hướng dẫn hội đồng giáo xứ, hướng dẫn các buổi cầu nguyện, suy niệm lời Chúa...chẳng hạn.

Chúng ta thử đặt một vài câu hỏi để cho thấy những động tác giáo dân trợ lực giúp hàng giáo phẩm như vừa kể có phải là khuynh hướng " giáo phẩm hoá " các động tác của người tín hữu giáo dân trên, có phải là tư tưỏng quá hồ hỡi, nếu không muốn nói là " không tưởng " không?

Trong một họ đạo, bao nhiêu phần trăm các tín hữu giáo dân có thể tích cực tham dự vào các phận vụ phụng vụ, mục vụ hay quản trị ?

Từ 2 đến 5 % chăng?

Nếu vậy thì 95 % các tín hữu giáo dân còn lại làm gì, nếu họ không có được một nhiệm vụ cá biệt nào trong họ đạo?

Và rồi 5% những " con chiên " tham dự tích cực đó, họ dành được bao nhiêu thời giờ lo cho nhà thờ, lo cho họ đạo, ngoài ra cuộc sống chật vật đầu tắt mặt tối với với các lãnh vực chức nghiệp, chuyên môn, các vấn đề gia đình, xã hội trong cuộc sống thường nhật?

   - 10% chăng?

Vậy thì 90% thời giờ còn lại trong tuần lễ, nhà thờ, họ đạo ai lo?

Đảo ngược lại câu hỏi: như vậy

   - 90% thời giờ còn lại trong tuần của cuộc sống cá nhân, gia đình, xã hội không có gì quan trọng chăng?,

   - chẳng có giá trị gì đối với Giáo Hội chăng?,

   - đó là những động tác trong cuộc sống không quan trọng gì trước mặt Chúa hay sao?,

   - không có giá trị gì cho sứ mạng tông đồ của mỗi người tín hữu Chúa Ki Tô và của Giáo Hội chăng?

   - không được kể như là những động tác có liên quan đến vai trò của người tín hữu giáo dân trong Giáo Hội và giữa trần thế chăng?

Nếu vậy thì làm sao có thể " thăng tiến đời sống giáo dân ", " giáo phẩm hoá giáo dân " bằng con đường mà chỉ có một số ít người giữa họ ( 2-5%) và với thời gian eo hẹp ( 10% thời giờ ) mới có thể thực hiện được.

Những người khác với thời giờ còn lại, chừng nào mới được " thăng tiến " ? 

Như vậy, nếu vai trò của người tín hữu giáo dân không hệ tại ở việc " giáo phầm hóa giáo dân ", với những khó khăn khó có thể vượt qua như vừa kể, thì việc " thăng tiến " giáo dân phải được hiểu theo những gì Công Đồng Vatican II dạy bảo chúng ta.

Công Đồng Vatican II nói một cách thật rõ rệt trong lời giảng dạy của mình về vai trò và lãnh vực trong đó người tín hữu giáo dân phải tác động:

   - " Lãnh vực cá biệt của người tín hữu giáo dân là lãnh vực trần thế ", là thế giới mà trong đó người tín hữu giáo dân phải thánh hoá, thánh hoá chính mình và thánh hoá môi trường sống của mình.

Bởi lẽ trong mỗi người tín hữu giáo dân đều có tinh thần của Chúa Ki Tô nhập thể nơi họ, nơi các động tác trần thế của họ, do việc hiệp nhứt giữa họ và Chúa Ki Tô, khởi đầu từ ngày nhận Phép Rửa.

Hiểu như vậy, cuộc sống của người tín hữu giáo dân giữa trần thế là cuộc rao giảng Phúc Âm cho thế gian, bằng nhân chứng bởi đời sống, lời nói và việc làm trong các lãnh vực thường nhật của mình.

Người tín hữu giáo dân, bằng đời sống của mình làm cho thế giới thẩm thấu Phúc Âm của Chúa Ki Tô, Phúc Âm có khả năng giải thoát và đem lại sự sống cho con người:

   - " Bởi ơn gọi của mình, chính người tín hữu giáo dân tìm kiếm Nước Chúa bằng cách xử sự đối với các việc trần thế và xếp đặt chúng theo đồ án của Chúa " ( GS, 31). 

 Người tín hữu giáo dân

   - " bị đòi buộc phải làm cho thế giới sống động bằng tinh thần Ki Tô giáo " ( GS, 43),

   - " hãy thánh hoá thế giới từ trong lòng của thế giới " ( LG, 31),

   - " hãy làm cho trở nên sống động và hoàn hảo hoá lãnh vực thế trần bằng tinh thần Phúc Âm " ( Apostolicam actuositatem, 2; cfr. can. 225).

   - " được mời gọi một cách đặc biệt hãy làm cho Giáo Hội hiện diện và tác động ở những nơi và trong các trường hợp, trong đó Giáo Hội không thể trở thành muối đất, nếu không nhờ được họ " ( LG, 33).

   - " chính vì nhờ trạng thái tín hữu giáo dân của họ, mà họ sống giữa thế gian và trong lòng những vấn đề trần thế, họ được Chúa kêu gọi, để một khi được tràn đầy tinh thần Ki Tô giáo, như men bột, họ hãy hành xử chức vụ tông đồ của mình trong thế gian " ( Apostolicam actuositatem, 2). 

   2 - Sứ mạng tư tế, ngôn sứ và vương giả của người tín hữu giáo dân.

Sứ mạng của người tín hữu giáo dân không phải là " tham dự, chia phần, tranh giành  quyền lực với hàng giáo phẩm " , mà là tham dư vào quyền năng và sứ mạng của Chúa Ki Tô, làm cách nào để làm cho thẩm thấu tinh thần của Người vào đời sống trần thế và môi trường thế giới chung quanh mình.

Theo tinh thần của Công Đồng Vatican II, chúng ta có thể phân biệt nhiều phương thức, mà theo đó người tín hữu giáo dân tham dự vào sứ mạng của Chúa Ki Tô, nhứt là theo ba phận vụ của Người ( LG 31ss; A A 10

   a) Việc tham dự của người tín hữu giáo dân vào phận vụ tư tế ( sacerdotal ) của Chúa Ki Tô dĩ nhiên hàm chứa một đời sống đặt trọng tâm vào Phép Thánh Thể.

Nhưng sự tham dự của họ không chỉ được thể hiện bằng việc hiện diện tích cực trong Thánh Lễ, cũng không chỉ giới hạn vào các động tác phụng vụ trong thánh đường:

   - " Cả những người tín hữu giáo dân, bằng các động tác thánh thiện như là người tôn thờ Chúa, họ hiến tế cho Chúa chính thế gian " ( LG 34). 

   - " Tất cả các động tác của họ, cầu nguyện và các sáng kiến tông đồ, đời sống hôn nhân và gia đình, công việc thường ngày, niềm phấn khởi thiêng liêng và thể xác, nếu họ hành xử thực hiện trong Chúa Thánh Thần, và ngay cả những băng khoăn khó khăn trong cuộc sống, nếu họ biết nhẫn nại chịu đựng, những điều đó đều trở thành của lễ hiến tế đẹp lòng Chúa, nhờ Chúa Giêsu Ki Tô " ( ivi).  

Như vậy, nói một cách ngắn gọn,việc tham dự của người tín hữu giáo dân vào phận vụ tư tế của Chúa Ki Tô được thể hiện nhứt là và căn bản trong cố gắng thánh hoá đời sống hằng ngày, môi trường và  các động tác trần thế của mình. 

   b) Kế đến chúng ta duyệt xét đến sự tham dự của người tín hữu giáo dân vào phận vụ ngôn sứ ( prophétique) hay phận dụ huấn dạy của Chúa Ki Tô.

Công Đồng Vatican II nhấn mạnh rằng Chúa Ki Tô

   - " chu toàn phận vụ ngôn sứ của mình ( ...) không phải chỉ nhờ hàng giáo phẩm, là những Đấng Bậc giảng dạy nhân danh Người và với quyền năng của Người, mà ngay cả nhờ những tín hữu giáo dân, mà Người thiết lập nên thành những nhân chứng của Người và ban cho họ ý nghĩa của đức tin và ân sủng của lời nói, để cho quyền lực của Phúc Âm  chiếu rạng lên trong cuộc sống hằng ngày, cuộc sống gia đình và xã hội " ( LG 35).

Đối với người tín hữu giáo dân, loan báo lời Chúa trong Giáo Hội ( đọc các bài đọc trong Thánh Lễ, cắt nghĩa giáo lý cho trẻ em, suy niệm Phúc Âm trong các hội đoàn...)  không có gì phải nghi ngờ, là hành xử phận vụ ngôn sứ của mình. Điều đó hiện nay là sự kiện đã và đang được thực hiện, trong khi đó thì trong quá khứ ít khi hay chưa hề có.

Chúng ta có thể coi đó là những gì tiến triển mà Công Đồng Vatican II đã đem lại.

Nhưng nếu chúng ta chỉ hạn hẹp nhãn quang vào những gì vừa kể, nhãn quang của chúng ta sẽ đi vào ngỏ cụt.

Ơn gọi cá biệt của người tín hữu giáo dân đòi buộc việc rao giảng lời Chúa của họ không phải chỉ trong lãnh vực khuôn viên Giáo Hội, mà nơi trần thế: trong hảng xưởng, nơi bàn giấy, trong hiệp hội, trong gia đình, ngoài đường phố, giữa chợ búa cũng vậy.

Người tín hữu giáo dân được Chúa kêu gọi và bắt buột hiện thực động tác loan báo lời Chúa

   - không những bằng gương mẫu cuộc sống,

   - mà còn ở đâu có thể được bằng trực tiếp thông báo tinh thần Tin Mừng cho nhau, người trực diện với người, trong các cuộc hàn huyên, trao đổi, hội luận. Dĩ nhiên là phải lưu ý tinh thần của điều mình nói lên thực sự là ý nghĩa của lời Chúa, mà mình muốn đem đến cho anh em.

Không phải " bắt loa rao giảng giữa chợ ", tuyên bố lên bằng những " bài giảng " là chu toàn phận vụ ngôn sứ nầy. Bởi lẽ đó không phải là cách " nói chuyện " của người tín hữu giáo dân, mà là qua những cuộc trao đổi ý kiến, tư tưởng giữa các thân hữu với nhau, giữa các bạn đồng nghiệp, cho người khác hiểu đâu là lối giải quyết tốt đẹp cần phải thực hiện cho vấn đề ( theo tinh thần Ki Tô giáo, nếu cần phải xác định ).  

Vai trò ngôn sứ cũng đòi buộc không được sợ hãi nhân chứng cho lời Chúa, nếu cần ngay cả trong những trường hơp mà người khác cho là kỳ cục, " không hợp tình hợp lý ", hay có thể đưa đến những hậu quả tai hại khó lường. Người tín hữu giáo dân không được nãn chí, hay tìm cách trình bày lời Chúa " nửa úp nửa mở ", ấp úng không dám can đảm nói lên đâu là chân lý, vì sợ bị khước từ hay có thể cả bị đàn áp, như tình trạng của hạt giống bị rớt xuống trên đá sỏi trong Phúc Âm Thánh Matthêu:

   - " Còn hạt được gieo trên đá sỏi, đó là kẻ nghe Lời và liền vui vẻ đón nhận. Nhưng nó không đâm rễ , mà chỉ là kẻ nhất thời: khi gặp gian nan hay bị ngược đãi vì Lời, nó vấp ngã ngay " ( Mt 13, 20-21).

Công Đồng Vatican II nhấn mạnh rằng người tín hữu giáo dân không được che giấu đức tin và niềm hy vọng của mình, trái lại

   - " với một lòng sám hối liên tục và với sự chiến đấu " chống lại những kẻ cai quản thế giới đen tối nầy và chống lại  những thần linh quái ác " ( Eph 6, 12) họ hãy biết nói lên cả bằng  những cơ chế cấu trúc của đời sống trần thế " ( LG 35 ).  

   c) Đối với sứ mạng vương giả,

Chính trên nền tảng ân sủng và chân lý của Chúa Ki Tô, mà người tín hữu giáo dân có phận sự phải chu toàn phận vụ định hướng Ki Tô hữu của mình. Chính đây là điều thử thách cao cả đối với họ.

Chúa Ki Tô là Chúa và là Đấng Cứu Độ của mọi tạo vật, muốn phục vụ, cứu độ và cai quản thế giới, để hiến dâng thế giới lên Chúa Cha. Người thực hiện điều đó qua Giáo Hội của Người, nhờ sự can thiệp của vị thừa tác viên của Người và, bằng một cách trực tiếp hơn nữa, qua các môn đệ tín hữu giáo dân của Người.  

Phưong diện trước tiên phận vụ vương giả của người tín hữu giáo dân có liên hệ đến tầm vóc cá nhân việc làm của họ.

Chúng ta có thể diễn tả một cách đơn sơ: người tín hữu giáo dân phải vừa là " chủ nhân  " vừa là " người phục vụ" theo ý nghĩa Thánh Kinh, cai quản công việc cá nhân của mình, như Chúa Ki Tô đã là vua của công việc hàng ngày, Người thực hiện trong 30 năm đời sống ẩn dật của Người, thực hiện để phục vụ người khác.

Điều đó có nghĩa là người tín hữu giáo dân, chu toàn phận vụ vương giả của mình, phải lả người cai trị, thực hiện tốt đẹp việc làm của mình, chớ không phải để cho việc làm cai trị mình.

Người tín hữu giáo dân phải ý thức rằng việc làm của mình, mình để hết tâm trí để chu toàn, thực hiện tốt đẹp,

   - không phải chỉ là phương tiện để tạo được lợi tức hay địa vị xã hội,

   - mà còn là phục vụ theo đồ án của Thiên Chúa, góp phần làm cho thế giới trở nên tốt đẹp hơn, tạo điều kiện tốt đẹp hơn cho cuộc sống của anh em, sống xứng đáng với phẩm giá con người. 

Làm lấy có lấy rồi, chế tạo sản phẩm giả mạo, rẻ tiền hơn để sản xuất, giả mạo những sản phẩm tên tuổi, để bán được nhiều hơn, thu hoạch lợi lộc nhiều hơn và bất cần nguy hại đến sức khoẻ của người khác. Đó có phải là động tác chính đáng của người tín hữu giáo dân " phục vụ Chúa trong anh em " bằng việc làm của mình không?  

Nói cách khác, bằng việc làm của mình, việc làm tay chân hay trí óc, người tín hữu giáo dân thánh hoá thế giới, làm cho thế giới trở nên hoàn hảo hơn, thánh thiện hơn, tốt lành hơn theo đồ án của Chúa, khi Chúa dựng nên và đăt tổ phụ chúng ta trong vườn địa đàng:

   - " Chúa là Thiên Chúa đem con người vào vườn Eden, để trồng trọt và canh giữ đất đai " ( Gen 2, 15).   

 

VỀ MỤC LỤC
NGỤ NGÔN THỜI BẤN LOẠN (KỲ 23)

 

Ngụ ngôn 71

Gặp voi, thỏ nói: “Bước đi nhè nhẹ thôi. Bác làm ồn ào mỗi khi bác bước đi, không hay đâu”. Gặp cọp, thỏ bảo: “Bác ác lắm, ăn thịt hết loài này đến loài kia thì rước họa vào mình”. Gặp kẻ gian phá rừng, thỏ la: “Rừng là để cho muôn dân. Bác cứ đốt rừng lấy gỗ thì thế gian gặp nạn”. Ba gian hùng ấy đồng thanh hỏi: “Bằng chứng đâu?”

Thỏ nói mãi nên thỏ bị lên án. Voi bảo: “Mi có tội vì mi dám gặm cà rốt của voi”. Cọp nói: “Mi có tội vì mi thơ thẩn làm suối bị khuấy động” Kẻ gian phá rừng thì bảo: “Mi dám ngồi lên cỏ non”.

Thỏ hỏi: “Bằng chứng đâu?”. Voi và cọp đồng thanh la to: “Loài thỏ mà dám đòi bằng chứng à?”

 

Ngụ ngôn 72

Mặt trời vui vẻ chiếu từng tia sáng xuống thế giới. Mây bay hoài mệt lử nên nhả mưa xuống mặt đất. Không khí đuổi nhau thổi gió vào người trần. Nước biển đùa nghịch nổi sóng quanh năm.

Người và muông thú hưởng ánh nắng, hứng nước mưa, hóng gió mỗi chiều và đùa cùng những con sóng.

Thế nhưng có gia đình mèo hoang kia chẳng bao giờ cho chú mèo nào ra sân cùng gió, cùng nắng. Khi mèo chủ được hỏi sao không cho người nhà ra hưởng thú thiên nhiên Trời ban, mèo chủ bảo: “Đừng áp đặt quan điểm các ông lên chúng tôi. Gia đình chúng tôi có quan điểm riêng về thiên nhiên. Chúng tôi không cần những điều các người nói”.

Khi những chú mèo con xanh xao yếu ớt được đưa ra khỏi hang tối tăm, chúng thều thào: “Hóa ra nắng, gió, mưa và sóng của thế giới ngoài này có tốn kém gì đâu. Sao lại bảo rằng mình có quan điểm khác rồi không cho chúng tôi vui hưởng?”

Nghe thế, chú chim sâu bên cạnh giải thích: “Phải giữ bóng tối trong nhà mới nuôi được côn trùng và người ta không thấy những điều mình làm chứ!”

 

Ngụ ngôn 73

-  Con giun bị móc vào lưỡi câu nhử cá. Cá ăn giun. Cả hai đều chết. Chết mà cả hai vẫn cười vui cho rằng mình tự nguyện chết đấy thôi. Ấy là vì chúng được dạy rằng không nên có ý kiến.        

-  Con cá bị quăng vào chảo dầu, vẫn la to: “Hoan hô đầu bếp”. Ấy là vì giáo dục dạy rằng không được suy nghĩ khác.

-  Ngọn lửa thiêu con cá, nghĩ rằng mình đã sống yêu thương. Lửa được dạy rằng yêu là cứ làm theo lời ai có quyền !

Gioan Lê Quang Vinh, VRNs

 
VỀ MỤC LỤC
RÂU CỌP

 

Bạn có biết rằng thầy giáo của Thomas Edison từng cho rằng cậu ta ngu như con lừa, và cũng chính Thomas Edison đã phải thất bại 14.000 lần trước khi ông phát minh ra bóng điện không? Bạn có biết Albert Einstein đã thi hỏng môn toán không? Và bạn có biết Henry Ford đã cháy túi ở tuổi 40 không? Vâng, những vĩ nhân trên đã từng bị người đương thời cho là thất bại, nhưng không một ai trong họ tự nhận mình là thất bại. Sự khác biệt lớn nhất giữa họ và chúng ta chính là họ không để cho hình ảnh thất bại lớn lên trong tâm trí của họ, nhưng họ nhìn sự thất bại là những nấc thang đưa đến thành công.[i] 

* * *

Người Đại Hàn kể câu chuyện rằng, một chàng dũng sĩ nọ sau khi đi chinh chiến trở về, mặc dù người vợ chăm sóc cho anh ta hết sức, nhưng anh ta vẫn tỏ ra lạnh nhạt và hờ hững. Sau đôi ba tháng, người vợ buồn phiền và bắt đầu cáu gắt với chồng, “Sao anh lại đối xử với em như vậy, em đâu có làm gì sai đâu?” Nhưng dù sao, cô ta vẫn một lòng yêu chồng và tìm mọi phương cách để xây dựng gia đình đầm ấm.

Nghe mách bảo có một vị minh sư trong làng có thuốc giúp cho vợ chồng hòa hợp yên lành, cô vợ tìm đến vị minh sư xin thuốc giải cứu. Vị minh sư đáp, “Ta có thể giúp con vị thuốc này, nhưng ta cần một cọng râu của con cọp để chế thuốc. Con hãy tìm nó và đưa đến cho ta. Với vị thuốc này, con sẽ chiếm lại trái tim của chồng con.” “Làm sao con có thể có râu con cọp?” Cô vợ buồn rầu hỏi lại. Vị minh sư đáp, “Nếu con thực sư yêu anh ta, con sẽ tìm được nó.”

Sau vài hôm suy nghĩ, cô vợ ra chợ mua thịt và vào rừng. Đứng thật xa hang cọp, cô đặt thịt xuống và tìm chỗ xa ẩn núp. Một hồi lâu, con cọp xuất hiện và ăn miếng thịt. Ngày hôm sau, cô vợ tiếp tục mua thịt và làm như thế. Cứ sau mỗi ngày, cô ta tiến đến gần hang cọp hơn. Sau một thời gian dài, sự hiện diện của cô vợ và miếng thịt trở nên quen thuộc với con cọp. Từ từ, cô vợ tiến gần con cọp, cô đụng chạm và vuốt ve nó. Một hôm, cô đã giật được cọng râu của nó mà không hề hấn gì.

Cô vợ đưa cọng râu cọp đến cho vị minh sư với tất cả niềm vui sướng với hy vọng là vị minh sư sẽ chế loại thuốc thần diệu cho chồng mình. Sau khi nhận cọng râu cọp từ tay cô, ông chập rãi hỏi, “Con hãy nói cho ta biết làm cách nào mà con đã có được cọng râu này?” Cô vợ kể đầu đuôi sự việc cho vị minh sư từ buổi đầu tiên cho đến khi lấy được cọng râu với bao sự kiên nhẫn và kiên cường cô đã thực hiện. Sau khi  nghe xong, vị minh sư ném cọng râu vào bếp lửa trước sự sửng sốt của cô, ông ta chậm rãi nói, “Con hãy về và cũng hãy kiên nhẫn như vậy với chồng con. Con hãy tin rằng, phép thuật này sẽ giúp con chiếm ngự quả tim của anh ta.” Từ kinh nghiệm lấy râu cọp, cô vợ không còn la rầy trách mắng, cũng không còn đòi hỏi, yêu cầu chồng phải theo kế hoạch, ý riêng của mình nữa. Chẳng bao lâu, hai vợ chồng tìm lại hạnh phúc và cùng nhau đến gặp vị minh sư để tỏ lòng cám ơn.[ii] 

* * *

Quí bạn thân mến, điểm thú vị của câu chuyện trên chính là qua kinh nghiệm kiên nhẫn với con cọp, người vợ đã từ từ học được rằng: để chiếm lại trái tim của chồng mình, cô ta cũng phải chấp nhận đi qua quá trình này. Như thế, câu chuyện đã đề cao giá trị của đức tính kiên nhẫn mà mỗi người chúng ta cần đào sâu và thực hành. Kiên nhẫn với những người xung quanh, kiên nhẫn với hoàn cảnh cuộc sống, và kiên nhẫn với chính mình. Nhìn các màn quảng cáo trên TiVi trong thế giới hôm nay, chúng ta luôn thấy những kiểu hứa hẹn như có những “phương thuốc” giúp thành công, cho sức khỏe, và chữa lành các mối quan hệ một cách nhanh chóng mà không cần đức tính kiên nhẫn. Do ảnh hưởng không ít từ lối sống trong xã hội hiện đại, chúng ta thiếu đi khả năng hun đúc và vun trồng cho đức tính kiên nhẫn trong con người mình. Mì ăn liền, kết quả nhanh, bằng cấp tốc… đó như là những lời mời trong xã hội hôm nay. Chúng có thể giúp ta kiếm thật nhiều tiền, nhưng chưa chắc chúng có thể giúp ta hoàn thiện con người mình được. Chúng có thể giúp ta chiếm được một vị trí cao trong công ty, trong xã hội, nhưng chưa chắc chúng thể ban cho ta một sự bình an tự tại với chính mình.

Thưa bạn, trong chủ đề Kiên nhẫn – Kiên cường, mục Sống Sao Cho Đẹp mời bạn suy nghĩ một thực tế rằng, nếu ông Thomas Edison đã ngừng lại con số 14.000 lần thất bại, thì chắc một điều bóng đèn chúng ta đang sử dụng không phải thuộc quyền phát minh của ông (và có thể chúng ta cũng chưa có bóng đèn nữa!). Vậy nếu hôm nay bạn đang thực hiện một “thí nghiệm” gì đó về khoa học, về thực tập nhân đức, về các mối quan hệ, có lẽ con số lần thất bại chưa bằng Thomas Edison đâu! Hãy thử nữa đi, thành đạt đang chờ bạn ở con số 14.001.

Br. Huynhquảng

brhq@brhuynhquang.org

www.brhuynhquang.org

VỀ MỤC LỤC
YÊU NHAU: ĐƯỜNG NÊN THÁNH CỦA VỢ CHỒNG

 

Tác phẩm: Cẩm  Nang  Hạnh  Phúc Gia  Đình  Kitô - MỤC VỤ HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH

Tác giả: D. WAHRHEIT (Lm. Minh Anh, GP. Huế tổng hợp biên tập)

 

B2. YÊU NHAU: ĐƯỜNG NÊN THÁNH CỦA VỢ CHỒNG

Tu đức là con đường gồm những phương thế để sống ơn gọi Kitô hữu trong một bậc sống và một hoàn cảnh cụ thể. Nói cách khác, tu đức là con đường để nên thánh. Tất cả mọi người đã chịu phép rửa đều được mời gọi và có bổn phận nên thánh. Nhưng dĩ nhiên, vì mỗi người có một bậc sống riêng, cho nên mỗi người có một con đường riêng để nên thánh. Linh mục có con đường tu đức riêng của linh mục, tu sĩ có con đường tu đức riêng của tu sĩ, giáo dân có con đường tu đức riêng của giáo dân. Trong bậc giáo dân, những đôi vợ chồng Kitô hữu cũng có con đường tu đức riêng của mình. Con đường tu đức của vợ chồng như thế nào, đó là điều chúng tôi cố gắng trình bày sau đây.

1. trong số 48 của Hiến Chế Vui Mừng và Hy Vọng, Công Đồng đã dạy: “Các đôi vợ chồng Kitô hữu được củng cố và như thể được thánh hiến bằng một bí tích riêng để lãnh nhận các bổn phận và phẩm giá của bậc sống họ. Nhờ sức mạnh của bí tích này họ được thấm nhuần tinh thần Chúa Kitô, để chu toàn bổn phận hôn nhân và gia đình của họ. Do đó, tất cả đời sống của họ được thấm nhuần đức Tin, Cậy, Mến và càng ngày họ càng tiến gần hơn tới sự trọn lành riêng biệt của họ cũng như thánh hoá lẫn nhau và nhờ đó tôn vinh Thiên Chúa”.

Để hiểu được tinh thần của giáo huấn trên đây, thiết tưởng chúng ta phải vượt qua hai khuynh hướng đối nghịch nhau.

Trước hết, ngay cả vẫn còn nhiều người ngày nay cho rằng, nên thánh là chuyện dành riêng cho các tu sĩ và linh mục. Sống thánh giữa đời là chuyện không tưởng. Muốn nên thánh không có con đường nào khác hơn là xa lánh thế gian tội lỗi.

Đối lại với khuynh hướng trên đây, ngày nay có nhiều người chủ trương, để nên thánh, cần phải dấn thân; và để dấn thân người ta cần phải vượt qua những ranh giới của gia đình và tích cực tham gia vào các tổ chức và hoạt động của giáo xứ, giáo phận. Quả thực trong xu thế mới này hiện có không biết bao giáo dân tham gia tích cực vào các hoạt động của giáo xứ như: ca đoàn, dạy giáo lý, công giáo tiến hành.

Nói chung, những hoạt động bên ngoài gia đình như một thức tỉnh của người giáo dân quả là một điểm son trong Giáo Hội. Tuy nhiên, đàng sau những hoạt động ấy là cơn cám dỗ muốn quên đi những nghĩa vụ và sự thánh hoá trong gia đình khi nghĩ rằng, những hoạt động bên ngoài ấy là con đường duy nhất để người giáo dân được nên thánh.

2. Khuynh hướng này có lẽ bắt nguồn  từ một quan niệm cho rằng, giá trị của con người dược đo lường bằng mức độ dấn thân trong xã hội. Phong trào đấu tranh cho nữ quyền cũng được xây dựng trên quan niệm ấy. Người ta cho rằng, giải phóng người phụ nữ cũng có nghĩa là giải phóng họ khỏi những công việc nội trợ âm thầm trong gia đình. Nhiều người giáo dân đã bị giao động vì một quan niệm như thế, nhất là những người không có khả năng hay không có cơ hội tham gia vào những sinh hoạt đoàn thể của giáo xứ.

Quan niệm muốn nên thánh, cần xa lánh thế gian; hay ngược lại, chủ trương, muốn nên thánh, cần phải dấn thân hoạt động xã hội đều là những thái cực đi ngược lại tinh thần của Công Đồng. Công Đồng đề cao đời sống chiêm niệm cũng như hoạt động, nhưng đồng thời cũng nêu bật giá trị của chính nếp sống gia đình. Người Kitô hữu nên thánh bằng những xả thân hoạt động bên ngoài gia đình, nhưng cũng đạt được sự hoàn thiện bằng mối quan hệ và trong chính mối quan hệ vợ chồng.

Thực ra, hôn nhân được Chúa nâng lên hàng bí tích bởi lẽ tình yêu vợ chồng là dấu chứng của tình yêu Thiên Chúa đối với con người. Với lời thề hứa trong bí tích Hôn Phối, hai người phối ngẫu cam kết sẽ sống yêu thương nhau, chung thuỷ với nhau đến độ trở thành một dấu chứng, một bằng chứng của tình yêu Thiên Chúa đối với loài người. Yêu nhau, thuỷ chung với nhau, xây dựng tình yêu lứa đôi chính là bổn phận tiên quyết của đôi vợ chồng. Tình yêu ấy dẫn đến tình yêu và sự dưỡng dục con cái. Tình yêu ấy cũng thúc đẩy hai người hăng say hoạt động bên ngoài gia đình. Không có tình yêu ấy thì tất cả những hoạt động bên ngoài gia đình chỉ là những lẩn tránh thiếu trách nhiệm. Không thiếu những người giáo dân siêng năng việc nhà thờ nhưng lại lơ là việc gia đình; không thiếu những người giáo dân cho sự có mặt ở nhà thờ quan trọng hơn những bổn phận trong gia đình. Nhiệt thành trong công việc của Giáo Hội nhưng xao lãng bổn phận vợ chồng không thể được coi là một thái độ thánh thiện. Sự thánh thiện của đôi vợ chồng Kitô hữu trước tiên hệ tại việc xây dựng, củng cố tình yêu lứa đôi.

Người tín hữu Kitô cần có đôi mắt sâu sắc của niềm tin để nhìn tất cả mọi sự như là những biểu lộ của tình yêu bằng một cái nhìn trong sạch và thánh thiện. Trong đời sống vợ chồng, tất cả mọi biểu lộ của tình yêu đều là thánh thiện bởi đó là dấu chỉ của tình yêu Thiên Chúa đối với con người. Một ánh mắt, một âu yếm, một nụ hôn và tuyệt đỉnh của tất cả âu yếm là sự giao hợp vợ chồng đều là những hành động thánh thiện.

3. Trong một phúc âm ngụy thư, tức là sách không được Giáo Hội nhìn nhận là do linh ứng, kể lại rằng, một hôm có người hỏi Chúa Giêsu khi nào Nước Chúa đến. Người trả lời: khi nào hai người nên một.

Quả thực, sự nên một của hai người nam nữ tức tình yêu vợ chồng là dấu chỉ của Nước Chúa. Khi hai vợ chồng yêu thương nhau bằng một tình yêu quảng đại, hy sinh, chung thuỷ, khi họ cố gắng xây dựng và vun trồng tình yêu lứa đôi, thì chính là lúc họ làm chứng cho tình yêu của Chúa và tham dự vào sự thánh thiện của Ngài. Còn giá trị nào cao cả hơn tình yêu. Còn câu chuyện tình nào lãng mạn cho bằng Diễm Tình Ca, thế mà câu chuyện đó lại được Thiên Chúa mượn để nói lên tình yêu thánh thiện của Ngài đối với con người.

Sách Giảng Viên đã có một cái nhìn rất lành mạnh về tình yêu vợ chồng. Ở đoạn 9, 9, Côhelét đã khuyên người chồng như sau: “Hãy hưởng cuộc đời với người vợ ngươi yêu dấu suốt cả những ngày kiếp phù sinh của ngươi, những ngày Thiên Chúa ban cho ngươi ở dưới ánh dương”.

Yêu nhau, sống trọn cho nhau, hy sinh cho nhau, thuỷ chung với nhau. Đó là ơn gọi và đòi hỏi thiết yếu của những người sống bậc vợ chồng. Người ta không lấy nhau vì một mục đích nào khác hơn là  tình yêu và đó là con đường nên thánh đích thực của các đôi vợ chồng. Xin được mượn lời của Đức Giáo Hoàng Piô V để kết thúc câu chuyện: “Tôi sẽ phong thánh tức khắc cho người đàn bà nào mà người chồng không bao giờ phàn nàn trách móc”.

VỀ MỤC LỤC
CÁC MỐI TƯƠNG QUAN CỦA LINH MỤC GIÁO PHẬN (tiếp theo)

 

Mời thăm Blog của Lm. Trần Minh Huy http://www.chivilongchuathuongtoi.tk/

Tác phẩm: ĐÀO TẠO ỨNG SINH LINH MỤC GIÁO PHẬN

Lm. Micae-Phaolô Trần Minh Huy pss

 

CHƯƠNG BỐN

ỨNG SINH LINH MỤC GIÁO PHẬN 

TỰ ĐÀO TẠO VÀ TIẾN BƯỚC TRÊN CON ĐƯỜNG SỐNG THÁNH

(tiếp theo)

D. III. Linh mục tương quan với chính mình[51]

  “Chúng ta có một vị Thượng Tế siêu phàm đã băng qua các tầng trời, là Đức Giê-su, Con Thiên Chúa. Vậy chúng ta hãy giữ vững lời tuyên xưng đức tin. Vị Thượng Tế của chúng ta không phải là Đấng không biết cảm thương những nỗi yếu hèn của ta, vì Người đã chịu thử thách về mọi phương diện cũng như ta, nhưng không phạm tội. Bởi thế, ta hãy mạnh dạn tiến lại gần ngai Thiên Chúa là nguồn ân sủng, để được xót thương và lãnh ơn trợ giúp mỗi khi cần. Quả vậy, thượng tế nào cũng là người được chọn trong số người phàm, và được đặt lên làm đại diện cho loài người, trong các mối tương quan với Thiên Chúa, để dâng lễ phẩm cũng như tế vật đền tội. Vị ấy có khả năng cảm thông với những kẻ ngu muội và những kẻ lầm lạc, bởi vì chính người cũng đầy yếu đuối; mà vì yếu đuối, nên người phải dâng lễ đền tội cho dân thế nào, thì cũng phải dâng lễ đền tội cho chính mình như vậy. Không ai tự gán cho mình vinh dự ấy, nhưng phải được Thiên Chúa gọi, như ông A-ha-ron đã được gọi. Cũng vậy, không phải Đức Ki-tô đã tự tôn mình làm Thượng Tế, nhưng là Đấng đã nói với Người: Con là Con của Cha, ngày hôm nay Cha đã sinh ra Con, như lời Đấng ấy đã nói ở một chỗ khác: Muôn thuở, Con là Thượng Tế theo phẩm trật Men-ki-xê-đê. Khi còn sống kiếp phàm nhân, Đức Giê-su đã lớn tiếng kêu van khóc lóc mà dâng lời khẩn nguyện nài xin lên Đấng có quyền năng cứu Người khỏi chết. Người đã được nhậm lời, vì có lòng tôn kính. Dầu là Con Thiên Chúa, Người đã phải trải qua nhiều đau khổ mới học được thế nào là vâng phục; và khi chính bản thân đã tới mức thập toàn, Người trở nên nguồn ơn cứu độ vĩnh cửu cho tất cả những ai tùng phục Người, vì Người đã được Thiên Chúa tôn xưng là Thượng Tế theo phẩm trật Men-ki-xê-đê (Dt 4, 14-5,10).

D.III.1 Vài nét về linh mục triều

Trước hết, là linh mục giáo phận tương lai, các ứng sinh linh mục ngay từ những ngày bước vào Đại Chủng Viện phải luôn ý thức tìm hiểu và sống linh đạo linh mục giáo phận (quen gọi là linh mục triều)[52], nhằm biểu lộ căn tính linh mục mỗi ngày một cao độ hơn là càng ngày càng nên đồng hình đồng dạng với Chúa Kitô mục tử nhân lành.

Chủng sinh cần biết rõ về thể trạng linh mục triều hay cũng gọi là linh mục giáo phận là gì? Đa số linh mục trên thế giới là linh mục triều, sống giữa dân chúng trong thế gian và phục vụ giáo dân trong các giáo xứ. Linh mục triều không khấn giữ ba lời khuyên Phúc Âm như các linh mục Dòng hay tu sĩ, nhưng sống chúng một cách khác bằng việc hứa vâng lời Giám mục Bản quyền và sống độc thân khiết tịnh, được làm chủ và sử dụng của cải theo ý mình, trong nếp sống giản dị để việc phục vụ mọi tầng lớp dân chúng được hiệu quả. Linh mục giáo phận phải luôn trung thành sống trọn vẹn thuộc về Chúa Kitô và trọn vẹn thuộc về Giáo Hội mà mình được kêu gọi hiến dâng phục vụ với một tình yêu không chia sẻ, như hôn phu trung thành với hôn thê của mình.

Các linh mục triều nhập tịch vào một giáo phận, thuộc về giáo phận, trực tiếp ở dưới quyền và vâng lời Giám Mục giáo phận, hiệp nhất với linh mục đoàn, thi hành chức vụ linh mục và đảm nhận những công tác do Đức Giám Mục chỉ định, thường ở trong các giáo xứ thuộc giáo phận của mình.

Vì phụ trách các giáo xứ biệt lập và độc lập nên linh mục triều không có đời sống cộng đoàn, chấp nhận đời sống cô đơn, lắm khi cũng đối đầu với nhiều mối nguy hiểm của thân phận con người yếu đuối. Do đó, linh mục triều đòi hỏi phải có mức độ trưởng thành, quân bình và hài hòa cao hơn, toàn diện hơn, cả về nhân bản lẫn thiêng liêng. Tuy không bó buộc do bản chất, nhưng do thực tiễn đời sống, ngày nay một nếp sống chung và hợp tác mục vụ giữa các linh mục cùng địa hạt rất được cổ võ và khích lệ.[53]

Linh mục triều sống và hoạt động theo đường hướng chung của Hội Thánh, nhằm tôn vinh Thiên Chúa và cứu rỗi các linh hồn, trong khi cũng nhằm vinh danh Thiên Chúa và cứu rỗi các linh hồn, nhưng các linh mục Dòng và tu sĩ sống cộng đoàn và làm việc theo đặc sủng và linh đạo riêng của từng vị sáng lập, nên có người nói linh mục triều không có linh đạo riêng. Tuy nhiên, điều nhận xét này không đúng hẳn. Có thể nói linh đạo của linh mục triều là nên đồng hình đồng dạng với Chúa Kitô mục tử nhân lành, sống cao độ cho Chúa Cha, dưới tác động của Chúa Thánh Thần, để cứu rỗi các linh hồn.

Linh đạo nên thánh và tác vụ của linh mục triều mang tính cộng đồng hơn, và chính cộng đồng linh mục triều phục vụ ấy làm cho đời sống thiêng liêng của linh mục triều được lớn lên: khi linh mục giảng dạy, ngài được dạy dỗ; khi khuyên bảo, ngài được khuyên bảo; khi thăm viếng người bệnh, con bệnh là chính ngài được nâng dậy; khi an ủi người đau buồn, ngài tìm thấy sự an ủi; khi phục vụ người nghèo, sự nghèo nàn trong tâm hồn ngài tìm được nâng đỡ; khi hướng dẫn người khác, ngài tìm được sự hướng dẫn và chỉ đạo; khi chủ tọa thánh lễ, tinh thần ngài được biến đổi và canh tân; khi cầu nguyện, ngài tiếp xúc được với những hoạt động kín đáo của ân sủng Thánh Thần.[54]

Theo nghĩa này, linh đạo của linh mục giáo phận có bốn chiều hướng:

  • Chiều hướng Hội Thánh cảm thông với Hội Thánh và dấn thân làm tăng trưởng cộng đoàn Dân Chúa hầu xây dựng và kiện toàn Nước Thiên Chúa;

  • Chiều hướng nhập thể đối thoại và thúc đẩy một nhận thức tích cực về thế giới, phối hợp cái thiêng liêng và cái trần tục để biến đổi và thánh hiến thế giới cho Thiên Chúa trong Chúa Kitô;

  • Chiều hướng phục vụ xem việc phục vụ trần gian như một phần không thể thiếu của đời sống linh mục và cam kết phục vụ ngày càng trở nên sâu sắc hơn trong một Hội Thánh phục vụ;[55]

  • Chiều hướng giải phóng tìm đáp lại tiếng kêu xin cuộc sống mới dồi dào trong viễn ảnh môi trường học, qua thái độ và lối sống chia sẻ giúp người thiếu thốn vật chất lẫn tinh thần, qua cuộc chiến mang tính ngôn sứ chống lại những bất công dù là dân sự hay thuộc về Giáo hội, qua việc phát triển những thái độ tích cực và hy vọng hầu đưa ra các giải pháp mới mẻ và sáng tạo.[56]

Trong tinh thần Giáo Hội, một số linh mục Dòng được mời hợp tác đào tạo ứng sinh linh mục như dạy học, linh hướng, tĩnh tâm, linh thao... Chúng ta cần khai triển và vận dụng cách hài hòa điểm mạnh của chúng ta là vừa thừa kế những kinh nghiệm biện phân sâu sắc đời sống thiêng liêng của linh mục Dòng, vừa được trang bị những kinh nghiệm mục vụ thực tiễn của linh mục triều. Sự thống nhất đời sống nội tâm và hoạt động tông đồ là điều kiện tất yếu của một linh mục triều thành công, hạnh phúc và thánh thiện.

 

D.III.2 Căn tính linh mục theo truyền thống Giáo Hội

D.III.2a Kỷ luật độc thân linh mục

Trong xã hội tục hóa hôm nay, ảnh hưởng của tinh thần tôn sùng vật chất đang thao túng mãnh liệt. Địa vị, tiền bạc và lạc thú được đại đa số xem như là tất cả hạnh phúc của con người. Sự phóng túng tình dục và chủ nghĩa hưởng lạc cuốn hút bao trái tim và đầu óc của người trẻ.[57] Do đó, độc thân khiết tịnh, nhất là nơi giới đàn ông, bị nghi ngờ và coi là không thể.

 

Nhưng “giữa thế hệ đó, anh em hãy chiếu sáng như những vì sao trên vòm trời,[58] nên đối với Giáo Hội Công giáo Rôma, đời sống độc thân linh mục là một thực hành bắt buộc rất cựu trào, dựa vào truyền thống Tông Đồ, chẳng hạn thế kỷ IV, Công Đồng Carthage (năm 390) đã nói: “Những người phục vụ các mầu nhiệm thánh phải hoàn toàn tiết dục hầu cho những gì các Tông Đồ đã giảng dạy và người xưa gìn giữ thì nay chúng ta cũng tuân giữ nó.” Quả thế, ngay từ đầu, Chúa Giêsu và thánh Phaolô đã nêu gương chọn cuộc sống ấy. Rõ nét hơn từ Công đồng Latêranô I (1123), luật độc thân được áp dụng trong Giáo Hội Công Giáo đối với mọi linh mục theo lễ nghi La-tinh.

Thế kỷ 14-15 cho thấy bức tranh toàn cảnh lịch sử Giáo Hội của một nền luân lý suy đồi dẫn đến thời kỳ Phục Hưng nguy hiểm và kết thúc với cuộc ly khai Thệ phản. Công đồng Trentô (1543) đã đưa đến một cuộc canh tân thiêng liêng sâu xa và bền bỉ về chức linh mục và thừa tác mục vụ linh mục.

Thời đại chúng ta chứng kiến nhiều cuộc tranh luận về vấn đề kỷ luật này. Một số người đã cho rằng chẳng mấy hữu lý khi đòi buộc những người sẽ chịu chức linh mục phải sống bậc độc thân; họ vịn cớ cả Chúa Giêsu lẫn thánh Phaolô không trình bày bậc độc thân như là một thực hành bắt buộc đối với các môn đệ. Một ít người còn đi xa hơn nữa đổ lỗi cho bậc độc thân phải chịu một phần trách nhiệm về cuộc khủng hoảng ơn gọi linh mục và những gương mù giới tính đã xảy ra tại nhiều nước Bắc Mỹ và Âu Châu.[59]

Ngay cả mới đây, 144 trong số 400 nhà thần học của Đức, Áo và Thụy Sĩ cùng ký tên đưa ra một Bản Kêu Gọi “Giáo Hội 2011, một sự canh tân thiết yếu.” Họ lấy tư cách là những nhà thần học nhưng đề xuất những cái thiếu thần học như nêu nguyên tắc “cái gì liên quan đến mọi người thì phải được mọi người quyết định” để rồi đòi cho giáo dân tham gia vào việc bổ nhiệm các Giám mục và Cha xứ, hủy bỏ luật độc thân linh mục, phong chức linh mục cho phụ nữ, cho hôn nhân đồng tính và ly dị tái hôn. 

Dù vậy, qua Sắc lệnh Chức vụ và Đời sống linh mục của Công đồng Vatican II, Giáo Hội vẫn duy trì truyền thống không thay đổi, nhưng nhấn mạnh đặc biệt đến mối liên hệ chặt chẽ giữa  độc thân khiết tịnh và đức ái mục tử vì Nước Trời[60] của chức linh mục thừa tác của linh mục.

Đức Phaolô VI trong Sacerdotalis Coelibatus khẳng định: “Luật độc thân thánh, mà Giáo Hội canh giữ từ nhiều thế kỷ nay như một viên ngọc quý rạng ngời, bảo tồn toàn bộ giá trị của nó cả ở thời đại chúng ta vốn tiêu biểu bằng một sự biến đổi sâu xa các não trạng và các cơ cấu.”[61]

THĐGMTG năm 1971 khẳng định sự cần thiết phải duy trì luật độc thân linh mục trong Giáo Hội Latinh, với việc giải thích nền tảng, các động cơ và điều kiện ủng hộ nó mà linh mục thi hành với Chúa Kitô và trong Chúa Kitô.[62]

Tông huấn hậu THĐGMTG Pastores Dabo Vobis trình bày luật độc thân như một đòi hỏi căn bản trong toàn cảnh bốn chiều kích đào tạo nhân bản, thiêng liêng, tri thức và mục vụ.  

Bộ Giáo luật 1983 lặp lại: “Các Giáo sĩ buộc phải giữ tiết dục hoàn toàn và vĩnh viễn vì Nước Trời, và vì thế phải tuân giữ luật độc thân, ân sủng đặc biệt Thiên Chúa ban, nhờ đó các thừa tác viên chức thánh có thể kết hiệp dễ dàng hơn với Chúa Kitô bằng một tâm hồn không chia sẻ, tự hiến trọn vẹn và tự do hơn cho việc phục vụ Chúa và con người.[63] 

Sách Giáo lý Công giáo lặp lại: Tất cả các thừa tác viên được truyền chức linh mục trong Giáo Hội Latinh, ngoại trừ các Phó Tế Vĩnh Viễn, được chọn một cách bình thường giữa các tín hữu đang sống độc thân và có ý chí giữ luật độc thân vì Nước Trời”. 

Trong cuộc họp với lãnh đạo các Bộ của Giáo triều ngày 16.11.2008, ĐTC Biển Đức XVI đã tái khẳng định giá trị của chọn lựa đời sống độc thân của các Linh mục, hợp với truyền thống Công Giáo chưa bị gián đoạn và lập lại đòi buộc phải có một đào tạo nhân bản và Kitô giáo vững vàng, cho cả các chủng sinh lẫn các Linh mục đã chịu chức.[64]

Chỉ Nam cho thừa tác vụ và đời sống linh mục năm 1994 của Bộ Giáo sĩ khẳng định: “Xác tín vào những động cơ thần học và mục vụ sâu xa làm cơ sở cho mối tương quan giữa sự độc thân và chức linh mục, được soi sáng bằng chứng tá còn giá trị ngày hôm nay của rất nhiều cuộc đời linh mục vững mạnh về mặt thiêng liêng và Phúc Âm, mặc dầu xảy ra nhiều trường hợp đau thương, Giáo Hội đã tái xác nhận, qua Công đồng Vatican II và giáo huấn của các Giáo hoàng về sau, ‘ý muốn mãnh liệt duy trì luật đòi buộc tình trạng độc thân vĩnh viễn tự do chọn lựa cho các ứng viên linh mục theo nghi lễ Latinh[65], xác tín rằng đó là ân huệ mang lại thiện ích cho Giáo Hội và thế giới.[66]

Và mới đây nhất, trong bài diễn văn khai mạc Công Nghị Giáo Phận Rôma ngày 26/5/2009 “Mọi thành viên Giáo Hội và sự đồng trách nhiệm mục vụ”, ĐTC Biển Đức XVI khẳng định không hề có gián đoạn hay đối lập giữa Giáo Hội trước và Giáo Hội sau Công đồng Vatican II.”[67]

 

D.III.2b Ý nghĩa và bản chất độc thân linh mục

Đặc sủng sống độc thân thánh hiến giả thiết linh mục phải có một dấn thân dứt khoát dõi theo một đời sống tự chủ bản thân và khiết tịnh. Từ thời các tông đồ, Giáo Hội đã muốn bảo tồn ơn tiết dục vĩnh viễn của giáo sĩ và hướng về giải pháp chọn ứng viên chức thánh nơi những người độc thân.[68] Sự dấn thân được lựa chọn cách tự do và quảng đại là lời đáp trả hồng ân quảng đại của Thiên Chúa.[69] Vậy độc thân linh mục được ghi tạc ngay tại nội tâm của một tương quan đối thoại liên lỉ giữa Thiên Chúa và mỗi linh mục.

Qua việc cho đi chính đời sống mình được diễn tả bằng cách chọn đời sống độc thân, linh mục càng ngày càng sống cho Thiên Chúa và tha nhân hơn, qua sự lột bỏ liên lỉ, một sự “tự hủy” làm cho mình “nhỏ bé đi để cho Chúa lớn lên[70] và góp phần vào sự tăng trưởng của Giáo Hội và của từng người trong anh chị em mình.

Độc thân linh mục không thể tách rời khỏi toàn bộ đời sống kitô “không còn là tôi sống, nhưng chính Chúa Kitô sống trong tôi” trong đó linh mục cố gắng nên đồng hình dạng với Chúa Kitô Mục Tử Nhân Lành “ban sự sống mình cho đoàn chiên.[71] Chính trong khung cảnh đó mà sự tự do của linh mục không ngừng được củng cố trưởng thành bản thân sẵn sàng phục vụ Thiên Chúa qua việc phục vụ dân Ngài. Vị linh mục chấp nhận tình trạng sống ấy sẽ gặp được kho báu hàm chứa việc “mang trong thân xác sự chết của Chúa Giêsu, để sự sống của Ngài cũng được bày tỏ trong thân xác mình” hầu học biết ban phát sự sống mình cho đoàn dân được trao phó cho mình, nhờ đó được thúc đẩy loan báo Tin Mừng “lúc thuận tiện cũng như lúc không thuận tiện.[72]

Mỗi thời đại diễn tả đức tin và thực hành của Giáo Hội trong trạng huống văn hóa riêng của mình, tùy theo mức độ được đâm rễ chắc chắn trong Truyền Thống mà chúng ta sống nhờ đó. Giáo huấn của Giáo Hội cung cấp cho chúng ta những căn bản cần thiết để suy nghĩ và định hình lời trả đáp của chúng ta đối với hồng ân của Thiên Chúa trong bậc độc thân thánh hiến.

Cuộc sống độc thân khiết tịnh tự bản chất là liên hệ, liên hệ với Thiên Chúa, liên hệ với con người và thế giới. Nó định phẩm cho căn tính của linh mục là một con người của liên hệ. Nó tăng cường những liên hệ của linh mục với Giám Mục và với linh mục đoàn của giáo phận mình. Nó mời gọi linh mục nhận rõ sự bổ túc của mình với các bậc sống khác và những mối liên hệ mình phải duy trì với họ. Nó cũng cho phép linh mục thiết lập các liên hệ nhân bản, kể cả các liên hệ bạn hữu chân chính với người nam lẫn người nữ.

Chúng ta lưu ý những điểm giáo huấn nổi bật này của Giáo Hội[73]:

  • Sống độc thân thánh hiến là một cách thức yêu mến và hiện hữu với tha nhân. Nó khai mở một cuộc sống không tự đóng kín nơi chính mình, nhưng khai sáng những liên hệ và đời sống cộng đồng, tôn trọng phẩm giá những người mình gặp gỡ, kêu gọi mọi người cùng nhau tìm kiếm sự thánh thiện và làm cho Nước Chúa ngự đến.

  • Sống độc thân khiết tịnh hệ tại sự dấn thân tất cả cuộc đời: Nhờ bí tích Truyền Chức, lời hứa sống độc thân thánh hiến đâm rễ sâu xa vào chính thực thể của linh mục và phải được nhắc lại trong suốt chiều dài của đời sống linh mục, đặc biệt trong ngày lễ Truyền Dầu.

  • Đời sống độc thân thánh hiến của linh mục tìm được tất cả ý nghĩa của nó trong liên hệ với các lời khấn khác, được diễn tả ra hay hiểu ngầm trong các nghi thức truyền chức. Nó mang dấu ấn của một cuộc sống giản dị và hướng tới một đời sống cầu nguyện chuyên cần, vì đây là một hồng ân phải nhận lãnh và làm mới lại không ngừng, khuôn mình cách mật thiết với những mầu nhiệm mà linh mục cử hành.

  • Đời sống độc thân thánh hiến giả thiết một khổ hạnh, dù ngày nay ít được nhấn mạnh, nhưng vẫn là thiết yếu. Sự thận trọng, dè dặt, tỉnh thức, từ bỏ, chấp nhận mọi thánh giá trong suốt cả đời sống, và những yếu tố khác cùng loại, làm thành bấy nhiêu phương diện của một quan niệm toàn vẹn về cuộc sống độc thân khiết tịnh.[74]

  • Chọn lựa sống độc thân thánh hiến là trao hiến đời sống mình để nhắm tới một sự phong phú đặc biệt.[75] Linh mục đã chọn sống độc thân thánh hiến phải có một quan niệm lành mạnh về tình phụ tử và danh hiệu “cha” mà những người được trao phó cho mình thường gọi mình. Đời sống của ngài phải hoàn toàn quy hướng về sự tăng trưởng của họ trong đức tin, đức cậy và đức mến.

Thánh Kinh cung cấp rất nhiều phương sách để suy tư và cầu nguyện, hầu hiểu được căn bản Phúc âm của bậc độc thân thánh hiến: kỷ luật của Giáo Hội Roma không chỉ thuộc về sự gắn bó với truyền thống lâu đời không hề xa lạ với Thánh Kinh, mà còn mặc lấy một hình thức bắt buộc, cho dù một hình thức như vậy không được đặt định trong Tân Ước. Nhưng bằng nhiều cách, Tân Ước vẫn làm vang lên lời mời gọi vào bậc độc thân thánh hiến.

Đời sống độc thân hiến thánh của linh mục cũng phải tựa trên nền tảng thần học nghiêm chỉnh và sâu xa, cho phép chủng sinh và linh mục hiểu rõ ý nghĩa Kitô học, Giáo hội học, Thánh Kinh học, ý nghĩa hôn ước và tông đồ của bậc sống họ, cả trong thời gian đào tạo khởi đầu cũng như trong thời gian thi hành sứ vụ và thường huấn, đào sâu tính “thích hợp” của bậc độc thân với chức vụ linh mục mà sắc lệnh Chức vụ và đời sống linh mục nói đến.

Ngoài ra còn phải lưu ý đến tầm quan trọng của cộng đồng giáo dục như là yếu tố căn bản của việc đào tạo khởi đầu về đời sống độc thân thánh hiến, nhờ sự phân định và quân bình giữa những thời gian trao đổi và những thời gian trầm mặc, những chia sẻ giữa chủng sinh và nhà đào tạo. Nhưng đừng quên vai trò của các cộng đồng khác, là những cộng đồng tự nhiên như gia đình, hoặc cộng đồng Giáo hội như các xứ đạo.

Nhưng bậc độc thân thánh hiến phải là một chọn lựa tự do dấn thân được Giáo Hội chuẩn nhận, chứ không phải là một gánh nặng áp đặt từ bên ngoài. Và như thế, kỷ luật độc thân trở nên như một sự che chở bảo vệ và một gánh nhẹ nhàng cho linh mục.[76]

D.III.2c Linh mục trong mối hiệp thông phẩm trật

Toàn thể Giáo Hội thông phần vào chức tư tế cộng đồng của Chúa Giêsu trong Chúa Thánh Thần. Hiệp thông với Chúa Kitô như là đầu của thân thể, chức tư tế thừa tác được trao ban cho các tông đồ trước tiên, tiếp đến được hiện hữu nơi các người kế vị là các Giám mục, rồi qua việc đặt tay truyền chức, các Giám mục thông truyền cho linh mục một phần chức linh mục trọn vẹn của mình.[77]

Sắc lệnh Chức Vụ và Đới Sống Linh Mục viết: “Chúa Kitô đã sai các tông đồ như chính Người được Chúa Cha sai, và qua các tông đồ, Người đã làm cho các đấng kế vị là các giám mục cũng được tham dự việc thánh hiến và sứ vụ của chính mình Người. Tác vụ này của giám mục cũng được trao cho linh mục ở cấp độ tùy thuộc, để một khi đã gia nhập hàng linh mục, họ là những cộng sự viên của hàng giám mục, chu toàn một cách tốt đẹp sứ vụ tông đồ do Chúa Kitô trao phó.”[78] 

Như thế, nhờ việc thánh hiến, linh mục được trao ban quyền bính thiêng liêng, thông phần vào quyền bính mà Chúa Kitô điều khiển Giáo Hội nhờ Chúa Thánh Thần, nghĩa là linh mục được thông hiệp cách riêng biệt và đặc thù với Thiên Chúa Ba Ngôi. Quả thế, bản chất và sứ vụ linh mục không thể được xác định nếu không có những tương quan bắt nguồn từ Chúa Ba Ngôi, được kéo dài trong sự hiệp thông của Hội Thánh và của toàn thể nhân loại.[79]

Đời sống và sứ vụ của linh mục là sự tiếp nối đời sống và sứ vụ của Chúa Kitô. Căn tính linh mục liên quan thiết yếu với tình thương cứu độ của Chúa Cha, với sự tuyển chọn và kêu gọi đích danh của Chúa Kitô, và với ân huệ thông ban sự sống của Chúa Thánh Thần, nhờ đó linh mục tìm được sức mạnh hướng dẫn cộng đoàn đã được trao phó cho mình và gìn giữ cộng đoàn ấy trong sự hiệp nhất như Chúa muốn.[80]

Là thành phần tư tế thừa tác của Giáo Hội, Thân Thể và Hiền Thê của Chúa Kitô, Giám mục tham dự vào hôn ước của Chúa Kitô, được biểu thị qua nghi thức trao nhẫn trong lễ tấn phong Giám mục[81]. Cũng thế, được thông phần vào chức tư tế duy nhất của Chúa Kitô ở cấp độ thấp, linh mục cũng thông phần một cách nào đó vào chiều kích hôn ước đối với Giáo Hội, nên phải hết lòng yêu mến Giáo Hội bằng cách cống hiến mọi năng lực và tự hiến trong đức ái mục tử đến độ hy sinh chính cuộc sống mình mỗi ngày cho đoàn chiên được trao phó.[82]

Do bí tích truyền chức và thừa tác vụ lãnh nhận, linh mục liên kết và hiệp thông phẩm trật với Giám mục đoàn phục vụ toàn thể Giáo Hội, nên chức linh mục cũng có tính cách phổ quát, và dù nhập tịch ở một Giáo Hội địa phương, linh mục phải có con tim và não trạng thừa sai, luôn rộng mở cho mọi như cầu của Giáo Hội và thế giới.[83]

Linh mục phải luôn sống trong sự hiệp thông phẩm trật này: “Không có thừa tác vụ linh mục ở ngoài sự hiệp thông với Đức Giáo Hoàng và Giám mục đoàn, đặc biệt với Giám mục giáo phận, trong lòng tôn kính như con thảo và sự tuân phục đã hứa khi thụ phong.”[84] Sự hiệp thông được diễn tả và củng cố qua cử hành Thánh Thể, nhất là thánh lễ đồng tế do Giám mục chủ sự với linh mục đoàn; cũng như qua sự hiệp nhất phẩm trật trong việc thi hành thừa tác vụ mục vụ:[85] Linh mục không làm gì mà không có Giám mục, nhưng ngày nay nhấn mạnh nhiều về nguyên lý bổ trợ (subsidiary principle).[86]

Chúng ta có một điển hình tuyệt vời về nguyên lý bổ trợ trong Kinh Thánh: Ông Mô-sê ngồi xử kiện cho dân. Dân đứng bên ông Mô-sê từ sáng đến chiều. Nhạc phụ của ông Mô-sê thấy tất cả những gì ông đã làm cho dân thì nói: “Anh đang làm gì cho dân vậy? Tại sao chỉ có một mình anh ngồi xử, trong khi cả dân đứng chầu chực anh từ sáng đến chiều?” Ông Mô-sê nói với nhạc phụ: “Ấy là vì dân đến với con để thỉnh ý Thiên Chúa. Khi họ có việc gì, họ đến với con; con phân xử cho đôi bên và cho biết những thánh chỉ và lề luật của Thiên Chúa.”

Nhạc phụ ông Mô-sê nói với ông: “Anh làm như thế không tốt đâu! Chắc chắn anh sẽ kiệt sức, và cả dân đang ở đây với anh cũng vậy; vì công việc quá nặng đối với anh, anh không thể làm nổi một mình. Bây giờ anh hãy nghe lời tôi khuyên: Cầu chúc Thiên Chúa ở với anh! Còn anh, anh hãy đứng ra thay mặt dân trước nhan Thiên Chúa: chính anh sẽ trình các việc lên Thiên Chúa, sẽ dạy cho họ các thánh chỉ, các lề luật, và cho họ biết đường lối phải đi và cách phải xử sự. Rồi anh hãy xem trong toàn dân những ai là người có tài, biết kính sợ Thiên Chúa, đáng tin cậy, không ham của bất chính, thì đặt họ làm người chỉ huy: điều khiển một ngàn hay một trăm, năm mươi hay mười người. Họ sẽ thường trực xử kiện cho dân; việc nào lớn thì họ trình lên anh, còn việc nào nhỏ thì chính họ xử lấy: hãy làm như vậy để nhẹ gánh cho anh. Họ phải gánh việc đỡ anh. Nếu anh làm điều đó, thì Thiên Chúa sẽ chỉ bảo cho anh, anh sẽ có thể đứng vững, và hơn nữa cả đám dân này có thể về nhà bình an."

Ông Mô-sê nghe lời nhạc phụ và đã làm tất cả những điều ông ấy nói. Ông Mô-sê chọn trong toàn dân Ít-ra-en những người có tài và đặt họ làm đầu dân, điều khiển một ngàn hay một trăm, năm mươi hay mười người. Họ thường trực xử kiện cho dân: việc khó thì họ trình lên ông Mô-sê, mọi việc nhỏ thì chính họ xử lấy. Rồi ông Mô-sê tiễn chân nhạc phụ, và ông này trở về xứ mình.[87]

Mối hiệp thông của linh mục đoàn được thiết lập bởi đức ái tông đồ, thừa tác vụ và tình huynh đệ bí tích, diễn tả bằng việc đặt tay của linh mục đoàn trong nghi lễ truyền chức và việc nhập tịch/nhập vụ vào một Giáo hội địa phương.[88]

Linh mục còn sống hiệp thông với giáo dân, tu sĩ, những người sống đời thánh hiến, nỗ lực khơi dậy và phát triển sự đồng trách nhiệm trong cùng một sứ mạng cứu độ duy nhất của Giáo Hội.[89] Ngoài ra còn cố gắng tiếp tay với Chúa Thánh Thần để khơi dậy ơn gọi linh mục tiếp nối thừa tác vụ của mình.[90]

Giáo Hội là một cộng đoàn gồm những con người hiệp thông với Chúa Ba Ngôi và hiệp thông với nhau. Sự hiệp thông này mang hai chiều kích: hiệp thông hướng nội và hiệp thông hướng ngoại. Hiệp thông hướng nội bao hàm sự hiệp nhất và bổ sung cho nhau ngay trong lòng Giáo Hội với ĐTC, với các Giám mục, các linh mục, những người sống đời thánh hiến và giáo dân để trở thành “Giáo Hội tham gia”, nghĩa là mọi người đều đảm nhận ơn gọi và vai trò riêng của mình trong lòng Giáo Hội. Hiệp thông hướng ngoại là sự hiệp thông của Giáo Hội với thế giới, với mọi người thuộc mọi tôn giáo và văn hóa khác nhau nhằm rao giảng Tin Mừng.

Công cuộc đào tạo phải trang bị cho các linh mục tương lai một ý thức hiệp thông nhạy bén sâu sắc và một kinh nghiệm cá nhân sống động về việc xây dựng cộng đoàn, để họ biết cách hiệp thông với Giám mục, với Bề trên, với anh em linh mục đoàn, với các tu sĩ, với các cộng sự viên, với giáo dân trong giáo xứ, cả với những người thuộc các tôn giáo và văn hóa khác, hầu sống và làm việc trong hòa điệu và yêu thương, sẵn sàng đảm nhận những trách nhiệm và vai trò khác nhau trong cộng đoàn.

D. IV. Tương quan với môi trường thiên nhiên

            Phơn phớt trời mai đã nhuốm hồng

            Đẹp lá hoa vườn, đẹp núi sông

            Này con hớn hở vào cung thánh

            Hoan lạc tung hô Chúa cửu trùng:

            Tạo dựng càn khôn, ôi rực rỡ

            Chúa lại an bài rất khôn ngoan

            Và Thánh Thần Chúa ban hơi thở

            Muôn loài sống động khắp trần gian.

            Chim đàn ríu rít ngọn cây xanh

            Uống giọt sương mai đón hòa bình

            Líu lo ca ngợi Vua Công Chính

            Ánh Người đẹp quá ánh bình minh.

            Hoa lá trong đêm chiều e lệ

            Giờ đây bừng dậy đón Sao Mai

            Năm canh tình Chúa thầm kể lể

            Sáu khắc tung hô bóng mặt trời.

            Ôi tình thương Chúa thật nhiệm mầu

            Vượt quá trời cao, quá biển sâu

            Muôn vàn kỳ diệu, khôn diễn tả

            Chỉ nói đôi lời, hát đôi câu

            Con muốn đồng ca cùng vũ trụ

            Những mong hợp tấu với thiên thần

            Giữa hàng chư thánh, ôi vinh dự

            Muôn thuở hát mừng Chúa Từ Nhân

                        Thánh Thi Kinh Sáng thứ Bảy Tuần I TN

Cuộc sống nhân bản, thiêng liêng, tri thức và tông đồ mục vụ của linh mục cũng cần đến mối tương quan với môi trường sống thiên nhiên chung quanh mình. Trong thời đạo đức sinh học và luân lý môi trường của chúng ta hôm nay, linh mục cần thiết lập một mối tương quan lành mạnh với toàn thể thế giới được tạo thành, nơi mà Chúa Thánh Thần hằng hoạt động.

“Thiên Chúa ở trong tất cả” là lối hiểu nền tảng của mối tương quan giữa Thiên Chúa và thụ tạo: Thiên Chúa không ở cách biệt thụ tạo và Ngài tiếp tục sáng tạo, canh tân tạo vật của Ngài cho đến kiện toàn viên mãn theo kế hoạch yêu thương của Ngài và cứu chuộc nó.[91] Chúng ta được kêu gọi tham dự vào công trình sáng tạo này của Thiên Chúa[92] như một trách nhiệm tôn giáo.

Thật vậy, đời sống thiêng liêng là toàn thể cuộc sống được sống trong Thần Khí, nên khi chăm sóc thụ tạo, chúng ta cũng làm cho trách nhiệm này hoà nhập vào chính đời sống thiêng liêng của chúng ta. Trong Sứ điệp Hòa Bình Thế Giới 2010 ban hành ngày 8/12/2009,[93] ĐTC Biển Đức XVI ân cần nhắc nhở lưu ý đến tương quan giữa Tạo Hóa, con người và công trình tạo dựng và mạnh mẽ khẳng định rằng nếu muốn vun trồng Hòa Bình, hãy bảo tồn thiên nhiên:

Làm sao chúng ta có thể tỏ ra dửng dưng trước những vấn đề xuất phát từ các hiện tượng như sự thay đổi khí hậu, nạn sa mạc hóa, suy thoái và mất khả năng sản xuất của những vùng nông nghiệp rộng lớn, sự ô nhiễm sông ngòi và các mạch nước, sự mất tính chất khác biệt về môi trường sinh sống, sự gia tăng thiên tai, nạn mất rừng cây tại những vùng xích đới và nhiệt đới? Làm sao bỏ qua một hiện tượng đang lan tràn đó là ”những người tị nạn về môi sinh”: tức là những người vì môi trường sinh sống của họ bị xuống cấp, nên họ buộc lòng rời bỏ, kể cả của cải, để ra đi, đương đầu với những nguy hiểm và bao nhiêu điều bất trắc? Làm sao không phản ứng trước những cuộc xung đột hiện nay và những cuộc xung đột có thể bùng nổ vì sự tìm kiếm các nguồn tài nguyên thiên nhiên? Tất cả những vấn đề ấy có ảnh hưởng sâu đậm tới việc thực thi các quyền con người, tới lương thực, sức khỏe và sự phát triển. [94]

Để chu toàn đời sống và sứ vụ của mình, ta phải nhìn vào đời sống và giáo huấn của Chúa Giêsu liên quan tới tạo vật: hạt giống, hoa cỏ, chim trời, cá biển, cây nho, cây vả, vườn tược, cánh đồng, mùa gặt, sa mạc, núi non, nắm men, thúng bột, ngọn đèn, v.v.… Khi nhổ cỏ, ta liên tưởng đến việc nhổ tận gốc tật xấu; hoặc khi chăm cây cảnh, ta nghĩ đến việc kiên trì tập luyện nhân đức v.v...

Thật thế, qua lời giảng dạy và các dụ ngôn, Chúa Giêsu tỏ ra đầy thiện cảm và quan tâm tới thọ tạo: Người để ý tới từng chi tiết nhỏ nhặt của cuộc sống, khi nói tới bông huệ ngoài đồng ăn mặc xinh đẹp, tới bầy chim lượm những hạt lúa rơi bên vệ đường, hoặc làm tổ trên cành, hoặc bị bắt xâu lại từng xâu đem bán mấy đồng xu, tới lũ trẻ con vui chơi, cãi cọ hoặc hờn dỗi nhau, tới bà mẹ sinh con, tới người nội trợ lấy men trộn vào bột, tới người đàn bà đánh mất đồng tiền, tới người chăn lạc mất chiên... Người kể chuyện đám cưới, cô dâu, chú rể và đám rước dâu, hoặc người bạn đêm khuya đến vay bánh vì có khách tới bất ngờ... Người quan sát kỹ cuộc sống chung quanh và nhận ra ý nghĩa sâu xa của từng sự việc. Đôi mắt và cõi lòng Người mở rộng ra thế giới với những nhận xét tinh tế và lời lẽ nồng nhiệt về cuộc sống và thiên nhiên thọ tạo.

Chúa Giêsu được Thần Khí hướng dẫn và Ngài thường ra đi từ sáng sớm tinh sương hay muộn màng khi trời đã tối, ngay cả giữa đêm khuya thanh vắng, một mình vào sa mạc hay lên núi, ở đó sứ mạng và sự hiệp thông thân mật của Ngài với Chúa Cha được thử thách, khẳng định và củng cố[95] 

Ta nên tìm thư giãn trong các môi trường thiên nhiên, để nuôi dưỡng đời sống thiêng liêng và gia tăng hiệp thông thân mật với Thiên Chúa, bằng cách để cho trí óc và con tim ngưỡng mộ và thưởng thức vẻ đẹp của tạo vật. Ta có thể dành thời gian để suy ngắm và cầu nguyện ngay trên bờ biển lúc rạng đông lên hay khi hoàng hôn xuống, dưới ánh trăng sao dịu mát ban đêm giữa cánh đồng bao la bát ngát hay trong rừng sâu giữa mùa hè…. lắng nghe tiếng sóng vỗ của đại dương, tiếng reo của suối, tiếng thì thầm của cây cối, tiếng líu lo của chim chóc, tiếng xào xạc của hoa cỏ…. như là nghe thấy Chúa Thánh Thần nói trong trí khôn, trong con tim và trong linh hồn vậy.[96]

Ta sẽ cảm nhận rõ sự hiện diện thân tình của Thiên Chúa nơi thiên nhiên, đồng thời cảm nhận được sự cao cả của Chúa và sự thấp hèn của mình. Ta sẽ học thực hành sống khiêm nhường trong tương quan với Thiên Chúa, với tha nhân và với tạo thành.[97]

Thánh Lêô Cả Giáo Hoàng viết: “Hãy hưởng dùng mọi thụ tạo hữu hình cho đúng, như bạn vẫn hưởng dùng đất trời, sông biển, không khí, suối nguồn; và hãy qui về Đáng Tạo Hóa tất cả những gì là xinh đẹp, kỳ diệu mà dâng lên Người lời ca tụng tôn vinh. Hãy lấy con mắt thể xác mà tiếp nhận ánh sáng thiên nhiên, rồi đm tất cả tình yêu và tâm hồn đón nhận ánh sáng thật chiếu soi mọi người đến trong thế gian... Hãy sử dụng cho hợp lý và tiết độ tất cả mọi loài thụ tạo và tất cả vẻ đẹp của thế giới này... Chúng ta được sinh ra để hưởng những gì thuộc thế giới hiện tại, và được tái sinh để hưởng những gì thuộc thế giới tương lai, nên luôn hướng về những phúc lộc vĩnh cửu.[98]

Chúng ta cũng thực hành thư giãn thân thể nhờ nhịp độ của hơi thở: Khi hít vào, ta tưởng tượng rằng năng lực của Chúa Thánh Thần đang chuyển vào trong mình ta để chữa lành, thánh hoá và tăng thêm sức mạnh cho ta, và trong khi thở ra lại nghĩ rằng Chúa Thánh Thần đang đẩy bệnh hoạn và những điều xấu ra khỏi cuộc sống mình.

Tập thư giản bằng cách: Hít dưỡng khí vào thật sâu qua mũi cho căng đầy bụng, rồi chuyển qua huyệt đan điền, đẩy ra toàn thân tới tận chân tơ kẻ tóc / đường gân thớ thịt. Xong lại rút thán khí về qua huyệt đan điền để đẩy ra ngoài qua miệng. Trong khi đó để tâm trí kiểm soát đường đi của hơi thở. Còn ý nghĩ thì nghĩ rằng Chúa Thánh Thần đi vào để thánh hóa và rút bỏ những xấu xa quỉ quái khỏi lòng trí và thân xác ta.

Nhưng cuộc đời không luôn luôn xảy ra như lòng ta mong ước. Có những điều tích cực mong mãi không được; lại có những điều tiêu cực không chờ đợi vẫn đến, cố tránh mà vẫn phải gặp. Vận dụng hơi thở để giải trừ: Khi hít vào, ta cũng có thể nghĩ là mình đón nhận tất cả những gì là tích cực; còn thở ra là loại bỏ tất cả những gì là tiêu cực từ bất cứ đâu mà đến.

Với cách này, ta tập giữ tâm hồn ở trạng thái thanh thản, như kinh Yataka dạy ‘Con hãy giữ tâm như đất: trên đất, người ta đổ ra dầu ngọt dầu chua, dầu cay dầu đắng, dầu sạch dầu dơ, đất vẫn một mực thản nhiên, đất không giận, đất không thương.’ Ý tưởng cũng áp dụng cho nước rửa sạch, lửa tẩy luyện và gió thổi đi.

Một tinh thần lành mạnh trong một thân thể tráng kiện. Nếu chúng ta biết vun trồng và bảo vệ thiên nhiên, thì thiên nhiên sẽ bảo vệ và tăng sức lực cho chúng ta.[99] Chẳng hạn câu chuyện “cây thầu dầu với tiên tri Giôna”:

Chúa khiến một cây thầu dầu mọc lên ở phía trên ông Giôna để có bóng mát che đầu ông, hầu làm ông hết buồn bực. Ông Giôna vui, vui lắm vì cây thầu dầu. Nhưng hôm sau, khi hừng đông ló rạng, Chúa khiến một con sâu cắn cây thầu dầu và cây bị héo. Khi mặt trời mọc, Chúa cho có một cơn gió đông nóng bỏng, và mặt trời giội nắng xuống đầu ông Giôna; ông ngất xỉu và xin cho mình được chết, ông nói: ‘Thà tôi chết còn hơn là sống.’ Chúa hỏi ông Giôna: ‘Ngươi nổi giận vì cây thầu dầu, như thế có lý không?’ Ông trả lời: ‘Con có lý để nổi giận đến chết được!’ Chúa phán: ‘Ngươi, ngươi thương hại cây thầu dầu mà ngươi đã không vất vả vì nó, và không làm cho nó lớn lên; trong một đêm nó đã sinh ra, rồi trong một đêm lại chết đi. Còn Ta, chẳng lẽ Ta lại không thương hại Ninivê, thành phố lớn, trong đó có hơn một trăm hai mươi ngàn người không phân biệt được bên phải với bên trái, và lại có rất nhiều thú vật hay sao?[100]

D.V. Tương quan với “tứ chung”

Không có cái gì chắc chắn sẽ đến như cái chết; không có gì công bằng và nghiêm ngặt cho bằng cuộc phán xét chung thẩm; không có gì cay đắng và khủng khiếp cho bằng hỏa ngục; và không có gì dịu ngọt hạnh phúc cho bằng thiên đàng.

D.V.1 Cái chết: một con đường sống thánh

Thánh Augustinô nói: “Hãy để cái chết làm thầy dạy cho chúng ta.” Và thánh Phaolô xác tín: Đã đến giờ tôi phải ra đi. Tôi đã đấu trong cuộc thi đấu cao đẹp, đã chạy hết chặng đường, đã giữ vững niềm tin. Giờ đây tôi chỉ còn đợi vòng hoa dành cho người công chính. Chúa là vị Thẩm Phán chí công sẽ trao phần thưởng đó cho tôi trong Ngày ấy, và không phải chỉ cho tôi, nhưng còn cho tất cả những ai hết tình mong đợi Người xuất hiện[101]

“Nếu ngày nào ta cũng sống như thể đó là ngày tận thế của mình, đến một lúc nào đó ta sẽ thấy mình đúng.” Hãy luôn nhìn vào gương mỗi ngày để tự hỏi: “Nếu hôm nay là ngày cuối của đời mình, liệu tôi có muốn làm những việc hôm nay tôi sắp làm mà lương tâm tôi sẽ ân hận không?” Và khi nhận ra câu trả lời là “không” thì ngày này qua ngày khác, tôi biết mình cần thay đổi điều gì đó.

Ghi nhớ rằng “một ngày nào đó gần thôi mình sẽ chết đi” là một bí quyết vô cùng quan trọng giúp ta quyết định những lựa chọn lớn trong đời, bởi vì hầu hết mọi thứ - những mong đợi của người khác, lòng kiêu hãnh, nỗi lo sợ xấu hổ khi thất bại - đều phù phiếm trước cái chết, chẳng có gì quan trọng cả. Luôn nhớ rằng mình sẽ chết là cách tốt nhất để biết tránh sa vào cái bẫy suy nghĩ rằng mình không muốn mất đi cái gì đó. Lòng ta được thanh thoát, chẳng có lý gì để không đi theo tiếng gọi của Chúa: “Không ai biết được lúc nào Chúa vạch đường ranh giới chấm dứt cuộc đời mình.”

Không ai muốn chết cả. Thế mà cái chết lại là điểm đến của tất cả chúng ta. Không ai có thể trốn khỏi nó. Có lẽ đó cũng là điều hợp lẽ, bởi Cái Chết là sản phẩm tuyệt vời nhất của Cuộc Sống. Nó là yếu tố làm thay đổi cuộc sống. Nó gạt bỏ cái cũ và mở đường cho cái mới. Ngay bây giờ “cái mới” là thế hệ chúng ta, nhưng không xa nữa đâu, chúng ta sẽ trở thành cái cũ và bị loại bỏ. Xin thứ lỗi cho tôi, nói như thế là quá gay, nhưng mà đúng như vậy đấy.

Thời gian của chúng ta là có hạn, nên đừng phí phạm bằng cách sống cuộc đời của người khác. Đừng rơi vào bẫy của sự độc đoán, giáo điều của người khác. Đừng để những ý kiến ồn ào xung quanh đánh chìm tiếng nói của Chúa ở bên trong chúng ta. Và quan trọng nhất, hãy có dũng cảm để đi theo tiếng gọi của lương tâm chúng ta và lời thúc giục của Chúa Thánh Thần. Nhờ đó, chúng ta sẽ biết được cái gì thực sự là quan trọng, còn mọi thứ khác chỉ là thứ yếu thôi.

Con người là con vật duy nhất biết mình sẽ chết. Nhưng cái biết này vẫn còn là lý thuyết xa lạ, nhất là đối với người trẻ, đang khoẻ mạnh, đang yêu, đang thành công, tương lai đang hứa hẹn và cuộc đời đang mĩm cười với. Chỉ khi nào vấp phải một chứng bệnh nan trị, khi y học khiêm tốn nhìn nhận giới hạn của mình và buộc lòng phải tàn nhẫn tuyên bố bản án tử, thì khi đó sự biết mình sắp chết mới trở nên gần gũi thiết thân, hay nhức nhối đến từng làn da thớ thịt.

Trước cái biết sắp chết này, có người tuyệt vọng, buông xuôi hoặc bất mãn, căm hận, nổi loạn “trả thù đời”, để rồi chết đi khổ sở không bình an. Nhưng có người lại coi đó là một may mắn: có thời gian chuẩn bị hành trình tốt đẹp đi về vĩnh cửu.

Vì thế, các bậc thánh hiền dạy hãy năng nghĩ đến cái chết, vì nó giúp mình sống một cuộc đời tốt lành thánh thiện hơn. Thật vậy, có ai biết chốc lát nữa mình sẽ chết mà còn ham hố những sự đời này, còn gieo rắc bất công, hận thù, còn ghen ghét tranh chấp hơn thua nữa, mà không trái lại, an hòa với mọi người, tôn trọng lương tâm của kẻ khác, giao phó cho lòng nhân từ của Chúa lời phẩm bình cuối cùng và sự xét đoán chung thẩm, nỗ lực chuẩn bị tâm hồn để ra đi trong bình an về với Chúa?

Cái may mắn cho mình, cho người và cho đời là ở chỗ đó: có gì nữa để mất đâu mà sợ mất, có gì cần được nữa ở đời này đâu mà lo cho được?! Cảm nhận được điều đó đem lại cho chúng ta sự thanh thản và sức mạnh cho tâm hồn; đồng thời nỗ lực sống một cuộc sống đẹp như lời khuyên: “Ngày con sinh ra, mọi người cười (vui mừng vì con ra đời) mà con lại khóc. Con hãy sống thế nào để ngày con chết đi, con cười (mãn nguyện) mà mọi người khóc (vì thương tiếc con)”

D.V.2 Cái chết: hạnh phúc trở về[102]

Bạn hãy nhìn cái chết với lòng trông cậy

Những kẻ khác giảng về sự khủng khiếp của cái chết. Còn bạn hãy giảng về niềm vui của cái chết. “Ta sẽ đến như kẻ trộm”, Chúa đã nói như vậy không phải để làm cho bạn sợ, nhưng vì thương bạn, muốn bạn luôn luôn sẵn sàng và sống từng phút giây dường như lúc bạn phải vĩnh viễn ra đi: “Con ơi, hôm nay có thể là ngày cuối cùng rồi đó!”

Bạn hãy sống trên trần gian như người đang chờ chết, như người từ cõi bên kia trở lại. Chúa luôn có mặt bên bạn, ngay cả lúc mọi sự dường như đổ vỡ, và nhất là trong giờ chết của bạn. Bạn sẽ thấy đôi bàn tay Chúa choàng xuống trên bạn và ôm chặt bạn vào lòng. Bạn sẽ khám phá ra bạn đã làm việc, đã đau khổ cho ai.

Bạn sẽ cám ơn Chúa đã đối xử với bạn như thế, đã gìn giữ bạn khỏi bao nhiêu nguy hiểm phần hồn phần xác, đã dẫn dắt bạn trên những con đường hết sức bất ngờ, đôi khi như lạc lối nữa, nhưng đã làm cho đời sống bạn được đồng nhất trong việc phục vụ anh chị em của bạn. Lời tạ ơn của bạn sẽ không ngừng vang lên khi bạn khám phá thấy lòng thương xót của Chúa trên bạn cũng như trên thế giới.

Bạn hãy năng dâng cho Chúa cái chết của con người để họ được sống bằng sự sống của Chúa. Bạn hãy nghĩ đến cuộc gặp gỡ của chúng ta trong ánh sáng. Chính vì vậy mà bạn đã được tạo dựng, đã làm việc, đã đau khổ. Khi đến phiên bạn, Chúa sẽ hái lấy bạn. Bạn hãy năng nghĩ đến đó và dâng trước cho Chúa giờ chết của bạn hiệp nhất với cái chết của Chúa Giêsu.

Bạn cũng hãy năng nghĩ đến cái gì sẽ đến sau cái chết. Phải, bạn hãy nhìn cái chết với lòng trông cậy và hãy tận dụng chuỗi ngày cuối đời mà chuẩn bị chết với tình yêu. Bạn cũng hãy nghĩ đến cái chết của anh chị em đồng loại, ba bốn trăm ngàn người mỗi ngày vĩnh viễn ra đi. Bạn hãy cầu nguyện cho những người không hề nghĩ tới lúc phải ra đi. Đó là một cách hữu hiệu nhất làm cho Hy Tế Can-vê của Chúa Giêsu thêm giá trị và thánh lễ bạn dâng mỗi ngày thêm phong phú.

Nhiều người chẳng hề nghĩ Chúa sẽ đến gọi họ chiều nay! Bao nhiêu tai nạn, bao nhiêu thiên tai bất ngờ, còn bạn, bạn hãy ngủ yên trong vòng tay Chúa chiều nay. Bạn hãy làm mọi việc trong khi nghĩ đến lúc đó, nó sẽ giúp bạn. Chính vì yêu bạn mà Chúa Giêsu đã chấp nhận cái chết. Bạn chỉ có thể cho Chúa bằng chứng lớn lao khi chấp nhận cái chết kết hiệp với Chúa Giêsu.

Bạn hãy tiếp tục năng liên kết cái chết của bạn với cái chết của Chúa Giêsu và dâng lên Chúa Cha qua tay Mẹ Maria, dưới ảnh hưởng của Chúa Thánh Thần. Nhân danh cái chết của bạn liên kết với cái chết của Chúa Giêsu, bạn có thể xin những ơn trợ giúp cấp thời để sống tốt hơn trong hiện tại. Bạn hãy tận dụng điều đó.

Chính bằng cái chết của Chúa Giêsu mà Thiên Chúa đã làm cho thế gian được sống. Và bằng sự hiến dâng cái chết của Chúa Giêsu mà Chúa tiếp tục ban sự sống cho loài người. Bạn hãy tín nhiệm Chúa. Chúa luôn có mặt mọi lúc trong cuộc sống trần gian của bạn. Chúa sẽ có mặt lúc bạn đi vào đời sống vĩnh cửu. Và Mẹ Chúa, người đã tỏ ra quá tốt với bạn như thế, Mẹ cũng sẽ có mặt với bạn, với tất cả sự dịu dàng từ mẫu của Mẹ.

Bạn cũng hãy năng nghĩ đến anh chị em của bạn trong luyện ngục, họ không thể tự mình làm chi cho mình thêm công nghiệp. Họ cần đến công nghiệp của anh chị em còn ở trần gian giúp cho họ. Chớ gì mọi người, những ngươi già cả, ốm đau, bệnh tật biết dùng những năm tháng cuối đời để thêm ơn và công nghiệp cho các linh hồn và cho chính mình. Cái chết của họ sẽ dịu dàng hơn, vì Chúa đã hứa ban một ơn trợ giúp đặc biệt vào lúc trọng đại đó cho những ai sống cho kẻ khác trước mình. Chính đó là tình yêu. Với những hy sinh nhỏ bé, hãy dọn mình chết bằng cách yêu mến.

Chúa biết giờ chết của bạn và cách nó sẽ xảy ra. Chính Chúa đã chọn cho bạn với tất cả tình yêu. Chúa sẽ có mặt vào giờ ra đi trọng đại cuối cùng của bạn, với mọi ơn cần thiết. Chính mức độ tình yêu của bạn sẽ cho bạn dự phần cách sung mãn. Người ta chết như người ta đã sống. Nếu bạn sống trong yêu thương, cái chết sẽ đến với bạn trong tình yêu. Chính Chúa sẽ đợi bạn ở cuối đường đời, sau khi đã là bạn đồng hành của bạn suốt cả cuộc sống bạn. Còn bạn, hãy dùng cho tốt quãng thời gian còn lại.

Bạn hãy rao giảng tinh thần lạc quan cho những người ngã lòng. Chúa ở với Giáo Hội mọi ngày cho đến tận thế. Thay vì ngã lòng, họ hãy kêu đến Chúa: Lạy Chúa, xin cứu chúng con kẻo chúng bạn chết mất. Họ hãy gia tăng Đức Tin vào sự hiện diện và quyền năng của Chúa. Cách trực diện với sự chết đối với bạn phải là vấn đề Đức Tin, Đức Cậy và Đức Mến. Cái chết là một cuộc khởi hành để đến đích. Trong nhà Cha, nơi đó bạn sẽ gặp lại tất cả:     

Người ta chết như người ta đã sống.

Bạn hãy sống trong tình yêu để được chết trong tình yêu

Hôm nay, bạn hãy ngủ yên trong vòng tay Chúa.

Và chớ gì bạn sẽ ra đi như thế!

____________

[51] x. Chương Năm: Ứng sinh linh mục giáo phận học sống căn tính và sứ vụ linh mục.

[52] Linh mục Xuân Bích là linh mục giáo phận, vẫn thuộc về giáo phận mà mình đã nhập tịch. Hội Xuân Bích là một hội đời sống tông đồ thuộc quyền Giáo Hoàng, gồm các giáo sĩ giáo phận thích đời sống huynh đệ cộng đoàn, làm việc trong tinh thần liên đới tập thể, có sứ mệnh đào tạo các linh mục tương lai theo sự ủy thác của Giám mục sở tại, chứ không phải là một Dòng Tu, và như ước vọng của cha Jean-Jacque Olier, vị sáng lập, là sẽ không bao giờ trở thành Dòng Tu, dù có phát triển thế nào đi nữa..

[53] x. Sắc lệnh về Chức vụ và đời sống linh mục của Công đồng Vaticanô II.

[54] Donald B. Cozzens, “The Spirituality of the Diocesan Priest,” in Donald J. Georgen, ed., Being a Priest Today (Collegeville, Minnesota: The Liturgical Press, 1992), tr. 50-72.

[55] Gaudium et Spes số 40-44.

[56] Paul Bernier, Ministry in the Church: A Historical and Pastoral Approach (Connecticut: Twenty-Third Publications, 1992), tr. 264-268.

[57] Chúng ta không thể không xem đến những tác hại cho Giáo Hội của nạn lạm dụng tình dục bởi hàng giáo sĩ mà trong thư gửi Giáo Hội Ái Nhĩ Lan, ĐTC Biển Đức XVI đã dùng những từ rất mạnh và nặng ký: «gương mù gương xấu», «những tội ác», «những sai lầm», «những tội nặng», «nỗi đau đớn», «những câu trả lời không thích đáng», «sự hổ thẹn», «sự khổ tâm», «niềm tin tưởng bị phản bội, phẩm giá bị xâm phạm», «vấn đề làm bối rối chưng hửng». Ngài cho thấy sự «hổ thẹn» và «khổ tâm» của mình và sẵn sàng gặp gỡ các nạn nhân, xin lỗi họ, như ngài đã từng thực hiện ở Hoa Kỳ và Úc.

[58] Pl 2,15.

[59] Các nước Á châu, và ngay cả tại Việt Nam, không phải là không có đâu, nhưng không bị bạch hóa ồn ào vì tâm thức dè dặt kín đáo và tế nhị của người mình thôi.

[60] Presbyterorum Ordinis, số 16.

[61] Sacerdotalis Coelibatus số 12.

[62] Pastores Dabo Vobis số 29.

[63] x. GL 277,1.

[64] Trong thư gửi Ái Nhĩ Lan, ĐTC Biển Đức XVI đã chẩn đoán những nguồn cội của cuộc khủng hoảng ấu dâm là do: các thủ tục chọn lựa không thích đáng các linh mục tương lai; việc đào tạo không đầy đủ, kém cỏi và thiếu sót trong các chủng viện và nhà tập về nhiều lãnh vực, nhất là đào tạo luân lý đạo đức và thiêng liêng; «một khuynh hướng trong xã hội ưu đãi hàng giáo sĩ và những khuôn mặt quyền bính khác»; «một sự bận tâm không đúng chỗ cho thanh danh của Giáo Hội và để tránh những gương xấu, một ưu tư mang tính lạm dụng nhằm bảo vệ tiếng tăm của Giáo Hội khỏi những vụ tai tiếng đến độ không chịu áp dụng những hình phạt theo giáo luật cần thiết.»

[65] PDV. 29; PO. 16; Sacerdotalis Coelibatus 14; GL 277,1.

[66] Chỉ Nam 1994 số 57.

[67] Zenit.org ngày 26/5/2009.

[68] x. 2 Th 2,15; 1 Cor 7,5; Tt 1,6-8 và Chỉ Nam số 59.

[69] Bộ GDCG, Đường hướng giáo dục trong việc huấn luyện độc thân linh mục số 16.

[70] Ph 2,7; Ga 3,30.

[71] x. Gal 2,19-20; Ga 10,11.

[72] 2 Co 4,10; 2 Tim 4,2.

[73] Hội Xuân Bích, Vì Nước Trời – Những khái niệm suy tư về việc đào tạo bậc độc thân linh mục số 27.

[74] x. Bộ Giáo dục Công giáo, Huấn luyện thiêng liêng trong các chủng viện II,3 “những khổ chế thiêng liêng”; Jean-Jacques OLIER, “Con đường nên thánh là con đường thập giá”.

[75]  1 Co 4, 14-15 về tình phụ tử của thánh Phaolô đối với các tín hữu.

[76] Chỉ Nam 1994 số 58.

[77] Pastores Dabo Vobis số 79.

[78] Presbyterorum Ordinis số 2.

[79] Pastores Dabo Vobis số 12.

[80] Chỉ Nam 1994 số 4-11; PO số 6

[81] Lumen Gentium số 28.

[82] Chỉ Nam 1994 số 13.

[83] Sđd. số 14-15.

[84] PDV. 28; LG. 28; PO 7,15; GL 245,2.

[85] Chỉ Nam 1994 số 22-24.

[86] Archbishop Celestino Migliore, Vatican 6/2/2009: “Luận lý của tình liên đới và nguyên lý bổ trợ là dụng cụ rất thích hợp để vượt lên mọi vấn đề và bảo đảm sự tham gia của mọi người cho công cuộc phát triển chung của cộng đồng”; JP II, Centesimus Annus, số 48 : «Nếu tôn trọng nguyên lý bổ trợ, tổ chức cấp trên không được can thiệp vào cuộc sống nội bộ của tổ chức cấp dưới bằng cách lấy đi những khả năng chuyên môn của nó, đúng hơn phải nâng đỡ nó khi cần thiết»

[87] Xh 18,13-27; x. Dnl 1,9-18.

[88] Chỉ Nam 1994 số 25-29.

[89] Sđd. số 30-31; Công nghị giáo phận Rôma 26-29/5/2009: Mọi thành viên Giáo hội và sự đồng trách nhiệm mục vụ.”

[90] Sđd. số 32.

[91] 2 Cr 5,19; 1 Cr 8,6; Eph 1,3-14; Cl 1,15-29; Ga 1,1-3; Kh 21,5; Rm 8,19

[92] St 1, 28

[93] Sứ điệp này do ĐHY Renato Martini, nguyên Chủ tịch Hội đồng Tòa Thánh Công Lý và Hòa Bình giới thiệu trong cuộc họp báo ngày 15/12/2009 tại Rôma.

[94] ĐTC Biển Đức XVI, Sứ điệp Hòa Bình Thế giới 2010, số 4.

[95] x. Mc 6,31

[96] Ecclesia in Asia, số 15

[97] xem ý nghĩa và nội dung biến cố “Tráng sinh lên đường”

[98] Trích Bài đọc 2 Kinh Sách thứ Sáu tuần V Thường Niên.

[99] Xem Ecclesia in Asia, số 41

[100] Gio 4, 6-11

[101] 2 Tm 4,6-8.

[102] Micae-Phaolô Trần Minh Huy, Chúa Vẫn Thương, tr.114-117

 

VỀ MỤC LỤC
MẤY NGỘ NHẬN VỀ BỆNH TIM
 

Tháng Hai có ngày Tình Yêu. Ngày “Valentine Day.”

Thương yêu nhau, họ gửi cho nhau những đóa hoa, những miếng chocolat đủ mầu đủ hình dạng. Mà tình yêu đựoc biểu tượng bởi trái tim rạng rỡ. Yêu nhau họ cũng nâng niu chăm sóc trái tim của nhau. Và tháng 2 cũng là tháng mà y giới nhắc nhở mọi người tìm hiểu thêm tới các bệnh của tim, những rủi ro gây ra bệnh. Vì đây là nguyên nhân tử vong hàng đầu ở khắp mọi quốc gia, nhất là ở Hoa Kỳ, nhiều hơn là tổng số tử vong vì các loại ung thư. Theo thống kê, mỗi ngày ở đất nước này có 2200 tử vong vì bệnh tim, tức là cứ 39 giây đồng hồ là một người mang trái tim bệnh hoạn, suy nhược đi vào vùng đất lạnh với giun với dế. Và cũng mới đây thôi, ngày 9 tháng 2 năm 2011, một nhóm nhà chuyên môn tại Cơ quan Kiểm Soát Bệnh Hoa Kỳ CDC đã công bố kết quả sơ khởi về sự gia tăng của tai biến não do thiếu máu cục bộ cấp tính ở người trẻ mà nguyên do là mập phì.

Sau đây là một số ngộ nhận về bệnh tim mạch:

1- Bệnh tim là bệnh của người già

Nhiều nhà nghiên cứu đồng ý rằng ở người cao tuổi, các động mạch trở nên dày cứng nhiều hơn nhưng không phải tất cả đều sẽ bị bệnh tim.

Bác sĩ chuyên khoa tim mạch Richard Milani, New Orleans, cho hay, tắc nghẽn  động mạch vì chất béo cần thời gian để thành hình, phát triển và bắt đầu  từ tuổi trẻ. Cách đây vài chục năm, cơn suy tim (heart attack) thường  thấy ở  nam giới tuổi 60,70 hoặc 80, nữ giới trễ hơn thì bây giờ chứng bệnh này thấy ở cả nam nữ tuổi 30,40. Theo vị bác sĩ này, giới trẻ ngày nay lớn lên với fast food rồi ngồi coi TV nhiều giờ, ít vận động, tất cả đều là những rủi ro đưa tới bệnh tim mạch vì quá mập. Theo Hội Tim Mạch, hàng năm có gần 6000 em bị ngưng tim và một số đáng kề tử vong bất ngờ ở các lực sĩ thể thao trung học do bệnh tim mà ra. Vì thế, ở tuồi này nên yêu cầu bác sĩ thử cholesterol và đo huyết áp. Kết quả không bình thường là dấu hiệu báo động cần chăm sóc chữa trị ngay.

2- Dấu hiệu về cơn suy tim (heart attack) ở nam nữ giống nhau

Trong đa số các trường hợp, dấu hiệu của cơn suy tim ở cả nam lẫn nữ giới là đau ngực như có vật nặng đè lên, khó thở. Nhưng quá bán phụ nữ lại không có đau ngực mà lại thấy đau ở bụng, ở hàm ở lưng hoặc buồn nôn, khó thở và cho rằng mình chỉ bị ăn khó tiêu, mệt mỏi mà thôi chứ không nghĩ tới bệnh tim. Theo bác sĩ Mathew Devane, tác giả sách Heart Smart, 1/3 bệnh nhân chết vì cơn suy tim trước khi có dấu hiệu triệu chứng. Đôi khi thấy có dấu hiệu thì đã bị tai biến tim rồi.

Ngoài ra, còn trường hợp gọi là Thiếu Máu Cục Bộ ngắn hạn (Silent Ischaemia), trong đó mạch máu nuôi tim hoặc bị thu hẹp hoặc do máu cục, tế bào sẽ bị tạm thời thiếu oxy trong một lúc. Nếu tình trạng này liên tục xảy ra sẽ đưa tới cơn suy tim. Theo Hội Tim Mạch Hoa Kỳ, hiện nay có khoảng từ 3 tới 4 triệu người ở trong tình trạng này mà một số khá đông không có đau ngực. Silent ischaemia thường thấy ở bệnh nhân tiểu đường, cao huyết áp, hút thuốc lá, uống nhiều rượu, đã bị heart attack, béo phì.

3- Cholesterol cao là lý do chính đưa tới cơn đau tim

Sự thực là cholesterol càng cao thì rủi ro bệnh tim càng nhiều. Tuy nhiên, nên lưu ý là bệnh tim còn tùy thuộc ở loại cholesterol. Cholesterol toàn phần gồm có loại xấu LDL, loại tốt HDL, triglyceride và VLDL. Chính loại xấu LDL là thủ phạm đưa tới vữa xơ động mạch và bệnh tim. LDL có nhiều trong thực phẩm gốc động vật như da gà, thịt heo, thịt bò.

4- Đã bị cơn suy tim thì sức khỏe sẽ xuống dốc và bệnh có thể tái phát

Không đúng lắm. Trái tim bị bệnh có khả năng khá cao để trở lại bình thường. Vả lại, với tiến bộ của y khoa hiện nay, bệnh nhân có thể phục hồi dễ dàng, nếu thay đổi nếp sống, thực hành các hướng dẫn của bác sĩ và có niềm tự tin cao.

Còn chuyện tái phát sau cơn suy tim thì cũng tùy trường hợp Theo các nhà chuyên môn, 35% bệnh nhân thoát khỏi lưỡi hái tử thần thì có nhiều triển vọng không bị tái phát. Do đó, mỗi trường hợp đều cần được ước định và áp dụng các biện pháp cần thiết để tránh bệnh trở lại.

5- Cơ thể tôi mảnh mai lại nặng thể dục thì đâu có bị bệnh tim.

Không phải mập phì mới là rủi ro của bệnh tim mạch mà nhiều người mảnh mai gầy cũng có thể bị. Lý do là nhiều người gầy mà máu vẫn tràn ngập cholesterol vì tiêu thụ quá nhiều chất béo bão hòa và huyết áp vẫn cao. Còn tập thể dục cũng chỉ là một trong nhiều phương thức để phòng tránh bệnh tim. Nhiều tay thể dục chuyên nghiệp nhưng về sau vẫn bị bệnh tim vì thay đổi nếp sống. Chẳng hạn họ hút thuốc lá, gia đình bị bệnh tim mạch...

Nhân nói tới thể dục, cũng xin lưu ý rằng không cần tập cật lực mà chỉ vừa phải mỗi ngày. Chẳng hạn đi bộ khoảng 30 phút với tốc độ để hơi thở và nhịp tim nhanh hơn một chút mà ta không bị hụt hơi, vẫn nói chuyện với bạn đồng hành được. Thế là tốt lắm rồi.

6- Mỗi sáng tôi điểm tâm với 2 quả trứng tráng có được không?

Mỗi trứng có từ 200-250 mg cholesterol trong lòng đỏ, lòng trắng không có. Bạn ăn hai trái tức là đã vượt quá giới hạn mà Hội Tim Hoa Kỳ đưa ra, đó là mỗi ngày không quá 300 mg cholesterol. Ấy là chưa kể trong ngày bạn còn thưởng thức thêm một tô phở nạm gầu nước béo hoặc vài chiếc đùi gà chiên bơ.

7- Sau cơn suy tim thì đời sống tình dục coi như chấm dứt.

Đây là một hiểu lầm đáng tiếc và khá phổ thông. Đáng tiếc vì người bệnh đã bỏ qua một nhu cầu cần có của cuộc sống. Quá phổ biến vì nhiều bệnh nhân e ngại, rỉ tai nhau là sau đột quỵ, suy tim mà làm tình là bệnh dễ tái phát và đột tử có thể xẩy ra.

Theo Hội Tim Mạch Hoa Kỳ, đây là điều không đúng và ngay  sau khi hoàn toàn bình phục, không có lý do nào để bệnh nhân không trở lại sinh hoạt tình dục như trước, nếu họ thấy sẵn sàng. Năng lựơng tiêu thụ trong cuộc mây mưa chỉ tương đương với năng lượng cần để bước lên chục bậc cầu thang và đột tử ít khi xảy ra sau cuộc  làm tình. Có điều là sau tai biến, bệnh nhân thường  rơi vào tâm trạng trầm cảm, chán chường cho nên ước tình cũng giảm theo.

Nên tham khảo ý kiến bác sĩ để biết rõ sức mình. Cũng nên lựa khi nào thấy trong người thoải mái, thư giãn, vai ba giờ sau bữa ăn, nơi yên tĩnh không bị quấy rầy gián đoạn và nhớ dùng thuốc trợ tình, nếu bác sĩ cho toa.

Ngộ nhận cuối cùng đề cập hôm nay là ảnh hưởng của rượu với bệnh tim.

Về điểm này thì cả y giới lẫn thường dân cũng có nhiều ý kiến trái ngược nhau, cho nên xin nêu ra ý kiến của Hội Tim Hoa Kỳ, đại ý như sau: Uống nhiều rựou đưa tới cao huyết áp, suy tim, mập phì và rủi ro bệnh tiểu đường. Uống nhiều hơn nữa sẽ gây ra tai biến não, đột nhiên tim ngưng. Theo Hội, nếu uống thì uống vừa phải: nam giới 1 hoặc 2 drinks mỗi ngày , nữ giới 1 drink mỗi ngày. Mỗi drink là 360 cc bia, 150cc rượu vang, 50cc rượu mạnh. Hội cũng đưa ra lời khuyên là nếu chưa bao giờ uống rượu thì không nên uống.

Một số nghiên cứu cho hay rượu có thể giảm tử vong bệnh tim ở một số người. Họ gợi ý rằng lợi ích đó là do rượu vang, đặc biệt là rượu vang đỏ có chất antioxidant Flavonoid là chất có thể làm tăng cholesterol lành HDL trong máu. Hoặc chất Reservatrol giảm rủi ro máu cục. Tuy nhiên Flavonoid cũng có trong cam chanh bưởi, quít, trà, hành.. và Reservatrol trong vỏ trái nho, các loại berries.

Kết luận

Xin mựơn ý kiến của Bác sĩ Ralph Sacco, Chủ tịch Hội Tim Mạch Hoa Kỳ cho kết luận: “ Có một thiếu ý thức về thế nào là lý tưởng cho sức khỏe của hệ tim mạch. Khi được thăm dò thì 35% dân chúng nói họ khỏe mạnh. Nhưng khi hỏi tới 7 yếu tố có tác động tốt tới sức khỏe là dinh dưỡng, vận động, huyết áp, đường huyết, cholesterol, sức nặng cơ thể và hút thuốc lá thì chưa tới 1% đạt được  các tiêu chuẩn để có sức khỏe tốt. Họ cứ cho là mình khỏe mạnh hơn là sự thực, cho nên ít áp dụng các phương thức hữu hiệu để giảm rủi ro cho tim”.

Thực là điều đáng tiếc.

Bác sĩ Nguyễn Ý Đức - Texas-Hoa Kỳ

www.bsnguyenyduc.com 

 
VỀ MỤC LỤC
CŨNG LÀ ĐỜN ÔNG - Chuyện phiếm của Gã Siêu

 

Có một cô gái vào hỏi ý kiến cha sơ về người yêu của mình. Cha sở khuyên cô :

- Anh ta chỉ có cái mã bên ngoài, chứ còn tính tình thì nát bét. Nào rượu chè say xỉn, nào cờ bạc xì phé…

Thế nhưng cô gái nhất định không chịu nghe theo lời khuyên bảo vì  anh chàng này giàu có. Cô mơ tới một cuộc sống nhung lụa với nhà lầu xe hơi, ti vi tủ lạnh…Và cô ta đã trả lời với cha sở :

- Ít là con phải nhìn thấy một cái gì bảo đảm đã chứ.

Hôn lễ của họ được cử hành một cách long trọng và dềnh dang với tiệc tùng linh đình. Nhưng chỉ ba tuần lễ sau, cô ta trở lại gặp cha sở với khuôn mặt sưng vù vì bị chồng đánh trong một cơn say.

Lúc đó Cha sở mới bảo :

- Bây giờ thì mắt con đã nhìn thấy cái  gì bảo đảm rồi chứ ?

Trước khi bước vào cuộc sống lứa đôi, anh đờn ông cũng như chị đờn bà đều âm thầm đưa ra cho mình những tiêu chuẩn để chọn lấy một người bạn đời, nếu không tuyệt vời và hết ý, thì cũng phải trên mức trung bình một chút, để rồi cùng nhau dệt nên những giấc mộng vàng. Những tiêu chuẩn ấy thay đổi tuỳ nơi, tuỳ thời và cũng tuỳ người.

Chẳng hạn anh đờn ông, thấm nhiễm lời các cụ ta ngày xưa dạy bảo, thì nhất định phải chấm cái nết, bởi vì cái nết đánh chết cái đẹp. Tuy nhiên, ngày nay, nhiều anh đờn ông lại nhắm mắt chạy theo cái đẹp, bởi vì cái đẹp đè bẹp cái nết. Và còn nhiều tiêu chuẩn ăn theo khác nữa.

Riêng đối với các chị đờn bà, vấn đề xem ra có vẻ nhiêu khê và phúc tạp hơn. Trong lúc ngồi “tán hươu tán vượn” với nhau, các chị thường nhỏ to về ba tiêu chuẩn: Một là đẹp trai, hai là tốt bụng và ba là lắm tiền. Thế nhưng, hiếm thấy một đối tượng nào hội đủ cả ba tiêu chuẩn này. Hay nói theo kiểu ngày nay là “ba trong một”, nghĩa là ba tiêu chuẩn trong một con người.

Nếu chịu khó nhìn xem và suy gẫm, hẳn bàn dân thiên hạ sẽ nghiệm ra những sự thật sau đây, tuy không trúng phóc một trăm phần trăm, thì ít ra cũng được bảy mươi hai phần dầu.

Này nhé, những người đờn ông tốt bụng, thì thường không được đẹp trai. Trong khi đó, những người đờn ông đẹp trai, thì thường lại không tốt bụng. Còn những người đờn ông vừa đẹp trai, lại vừa tốt bụng, thì thường bị người khác phỗng tay trên mất rồi, nghĩa là họ đã cưới vợ, đã lập gia đình, chẳng đợi tới lượt mình.

Tiếp đến, những người đờn ông không đẹp trai cho lắm, nhưng tốt bụng, thì thường không có nhiều tiền. Trong khi đó những người đờn ông không đẹp trai cho lắm, nhưng tốt bụng và có nhiều tiền, thì lại thường nghĩ rằng đờn bà con gái theo đuổi họ chỉ vì…tiền. Còn những người đờn ông đẹp trai, nhưng không có tiền, mà theo đuổi đờn bà con gái, thường chỉ là để…”đào mỏ”!

Sau cùng, những người đờn ông hơi bị đẹp trai, nhưng không mấy tốt bụng, thì lại nghĩ rằng đờn bà con gái không phải là phái đẹp. Trong khi đó, những người đờn ông hơi bị đẹp trai và tốt bụng, đồng thời cũng luôn nghĩ rằng đờn bà con gái chính là phái đẹp, thì lại thường là những kẻ nhát gan, dị ứng với phụ nữ và chẳng bao giờ dám bước cái bước đầu tiên đi vào con đường tình yêu.

Vì vậy, dẫu có đốt đèn đi giữa ban ngày thì cũng khó mà tìm thấy một người đàn ông phù hợp với những tiêu chuẩn và đáp ứng được những đòi hỏi của mình. Chuyện đơn giản, thế mà lại hoá ra phức tạp. Thôi đành phải chọn lấy một anh chồng được xếp vào hạng “thường thường bậc trung”, và tự an ủi lấy mình:

- Chồng ta áo rách ta thương,

  Chồng người áo gấm, xông hương mặc người.

Thế nhưng, nào đã hết đâu. Sau khi đã yên bề gia thất, anh chồng thường thường bậc trung này mới để lộ ra bộ mặt thật của mình. Và bộ mặt thật ấy ấy mới khó thương làm sao. Gã xin liệt kê mấy điểm chính, vốn thường làm cho anh chồng trở nên…xấu xí. 

Điểm thứ nhất là óc gia trưởng và độc đoán 

Anh chồng luôn cho ý kiến của mình là đúng, là phải, còn ý kiến của chị vợ là sai, là trái. Nhiều anh chồng đã lên tiếng khinh bỉ và coi thường chị vợ: Ôi giời, đàn bà con gái biết chi mà nói. Bao giờ anh chồng cũng lấy cái “lý đoán” của mình mà áp đảo và buộc chị vợ  phải nhắm mắt vâng theo răm rắp, đúng với cốt cách “gia trưởng” ngày xưa: Phu xướng, phụ tùy. Chồng đã phán, thì vợ phải chấp hành nghiêm chỉnh.

Rồi những lời nói ngọt như đường cát mát như đường phèn của cái thuở ban đầu lưu luyến ấy, mặc dù không có cánh, thế mà bỗng dưng bay đi đâu mất tiêu, chỉ còn đọng lại những lời chua chát và gắt gỏng.

Nếu rước kia: Anh anh, em em, thì bây giờ lại: Mày mày, tao tao…Thậm chí còn: Con mẹ mày, con mụ nọ, cái con chết bầm kia…Rồi anh chồng cũng sẵn sàng dành cho chị vợ tất cả những món cao lương mỹ vị, bằng những tiếng chửi bới cộc cằn, lôi cả bố mẹ, ông bà và tổ tiên không biết bao nhiêu đời ra mà riếc  móc. Anh chồng cứ nghĩ rằng: Càng nói to, càng gắt gỏng thì chân lý và phần thắng sẽ thuộc về mình.

Trước kia anh chồng chiều chuộng nâng niu theo kiểu: Cưng như cưng trứng, hứng như hứng hoa. Còn bây giờ thỉnh thoảng lại cho nồi niêu xoong chảo bay ra ngoài sân, rồi thượng cẳng chân hạ cẳng tay với nhau.  

Điểm thứ hai là những thói hư tật xấu 

Đờn ông con trai hay sa đà vào những thói hư tật xấu, chẳng hạn như rượu chè, cờ bạc, trai gái…Thử tưởng tượng xem liệu có chị vợ nào chịu đựng nổi một anh chồng lúc nào cũng nồng nặc mùi rượu, hay một anh chồng, mặc dù không đến độ sáng say, chiều xỉn và tối lăn quay, nhưng lại thích tổ chức ăn nhậu triền miên khói lửa: Nay thết đãi bạn bè ở nhà, mai mời khách khứa đi ăn tiệm, mốt làm đám giỗ linh đình để bà con họp mặt…

Đối với anh ta, cuộc đời chỉ có nghĩa với những tiệc nhậu. Tôi nhậu, vậy tôi hiện hữu. Còn nhậu là còn tất cả. Hết nhậu là hết mọi sự. Chẳng cần phải nghĩ đến việc tiết kiệm và phòng xa. Chẳng cần phải cảm thông với những cực nhọc của vợ con trong việc nấu nướng, cung phụng, hầu hạ và dọn dẹp.

Chuyện rằng: Mỗi buổi chiều đi làm về, chị vợ lo chợ búa, cơm nước, còn anh chồng thì đi đón con. Khổ nỗi giờ con tan học cũng là “giờ đẹp”, “giờ vàng” để bố đi nhậu. Vì thế, anh chồng thường để con nước mắt ngắn dài đứng chờ bố trước cổng trường. Con tan học lúc 4g30, nhờ cô giáo giữ hộ tới 5g30 vì anh còn phải tranh thủ chén thù chén tạc với bè bạn một lúc.  

Điểm thứ ba là tật lười biếng  

Nhìn vào nhiều gia đình, gã thấy có những ông chồng đã sống rặp theo khuôn mẫu của Tú Xương ngày xưa, nghĩa là :

- Việc nhà phó mặc cho bu nó,

  Quắc mắt khinh đời cái bộ anh.

Hay như ca dao cũng đã diễn tả:

- Bố tôi hay tửu hay tăm,

  Hay nghiện chè tàu, hay nằm ngủ trưa.

  Ngày thì ước những ngày mưa,

  Đêm thì ước những đêm thừa trống canh.

Thảo nào mà các chị vợ vốn thường hay tâm sự:

-“Tôi suốt ngày ở chợ, công việc nhà cứ dồn ứ. Ông nhà ấy hả? Đố mà đụng tay. Có hôm 11 giờ đêm tôi vẫn còn phải cặm cụi lau nhà”.

- “Ông nhà tôi cũng có hơn gì đâu, nhà cửa bề bộn, kể cả khi thau đồ dơ chất cao tới nóc, ông cũng không thèm đụng tới. Vậy chứ có ai ới đi uống cà phê là ông lao đi ngay”.

Nếu có giúp được một tí, thì với bàn tay “hậu đậu” không hỏng trước, cũng sẽ hỏng sau, như câu chuyện vui được báo Phụ Nữ kể lại:

Ông bố kia tắm cho đứa con lên bốn. Xong việc, ông “kiêu hãnh”:

- Thấy chưa, bố hoàn toàn có thể tắm cho con đó, vậy mà mẹ con cứ chê.

Đứa con lý nhí:

- Nhưng bố ơi, lúc nào tắm cho con, mẹ cũng cởi giày ra rồi mới dội nước.

Và nếu ông bố khác biết cởi giày cho con, thì không chừng ông ta lại xát xà phòng trước khi dội nước. Đờn ông tệ quá vậy sao?

Cộng thêm vào đó là cái tật bừa bãi, bạ đâu quăng đấy, bởi vì cái trật tự của anh chồng chính là cái vô trật tự dưới mắt chị vợ. Thậm chí có anh chồng còn chân thành nguyện ước: Xin cho các bà xã đi vắng lâu lâu một chút, để bọn đờn ông không phải dọn dẹp, sắp xếp đồ đạc, nhà cửa và nhất là tối lên giường khỏi phải rửa chân. Thật là hết biết.  

Sau cùng là tật quá bận rộn 

Thái độ này hoàn toàn trái ngược với thái độ trên, đó là có những anh chồng đa đoan công việc, để rồi thường xuyên vắng mặt, không lo lắng gì cho người vợ và cũng chẳng chăm sóc gì đến đàn con. Thực vậy, có những anh chồng, khi đã đam mê một vấn đề gì đó, thì quên ăn quên ngủ, quên cả vợ lẫn con, đổ dồn mọi nỗ lực, mọi cố gắng vào vấn đề đó.

Chẳng hạn đam mê hoạt động chính trị, xông xáo hết chỗ này đến chỗ khác, ở ngoài đường nhiều hơn ở trong nhà, cả đời lăn lóc với những hoài bão chưa một lần trở thành sự thực. Một là thường xuyên vắng nhà để hoạt động thế này, thế khác. Hai là lúc nào cũng bất mãn, phản đối, tuyên bố vung vít để rồi kết thúc bằng cách nằm dài trong nhà giam, nhà tù mà bóc  lịch.

Chẳng hạn đam mê bắt mối “áp phe”, tìm tiền kiếm bạc. Đối với họ, tiền bạc là tất cả, có một thế lực vạn năng, nên suốt ngày suốt tháng, họ vội vã chạy đi kiếm tìm, nay mối này mai mối khác, không còn thời giờ nào để ngó ngàng đến vợ con, tỉ tê tâm sự và chia sẻ niềm vui cũng như nỗi buồn đối với người vợ. Về đến nhà là hùng hục ăn. Ăn xong lại lăn ra ngủ để lấy sức cho ngày mai còn mánh mung.

Những anh chồng này đã có một quan niệm sai lạc về chị vợ. Đối với họ, chị vợ chỉ là kẻ đầy tớ, con ở hay như một dụng cụ trong gia đình. Chị vợ chỉ là kẻ làm đồ nhậu để đãi bè bạn, một chiếc máy để thỏa mãn những nhu cầu sinh lý hay sản xuất ra những “tí nhau”. Họ không bao giờ nghĩ rằng: Chị vợ chính là người phụ tá, người cộng tác đắc lực, người bạn đường cùng đi với mình suốt dọc cuộc sống.

Hơn thế nữa, nơi người phụ nữ, con tim chiếm một địa vị quan trọng và chi phối toàn bộ cuộc đời của họ. Bởi vậy, họ thích được để ý, được nâng niu và chiều chuộng. Đem về cho chị vợ tiền bạc mà thôi chưa đủ, mà còn phải đem về cho họ một tình yêu thương chân thành và đậm đà.

Nếu cứ kể tội đờn ông, thì nói mãi nói hoài cũng chẳng hết. Đứng trước những điểm làm cho khuôn mặt anh chồng ra xấu xí, nhiều chị vợ đã phát biểu:

- Thà bỏ quách đi cho nhẹ nợ.

Thế nhưng, nói vậy mà không phải vậy đâu. Theo tác giả Trần Triều trên báo Phụ Nữ: Số người than phiền thì nhiều, nhưng số người “dám bỏ quách đi” thì lại rất ít. Thậm chí, miệng cứ bảo rằng “bỏ”, nhưng lỡ có ai mon men lại gần, thì liền nhảy dựng lên ngay:

- Củi mục mà để trong rương,

  Ai mà rớ tới, trầm hương của bà!

Vì vậy, phương thế vừa hợp tình lại hợp lý nhất, đó chính là học cách “sống chung với lũ”. Muốn sống chung với lũ, thì chị vợ cần phải cố gắng nhìn vào những điểm tốt của anh chồng. Lúc bấy giờ, cuộc đời sẽ nhẹ nhõm và tươi vui hơn nhiều.

Nếu anh chồng mà lúc nào cũng canh xem nhà có vết bẩn để lau, nắm rõ nhà còn bao nhiêu ký gạo, đo lọ muối, đếm củ hành củ tỏi…thì e rằng chị vợ lại càng khó mà sống.

Biết đâu, những thói xấu đó đã làm nên một người đờn ông đầy nam tính. Chẳng thế mà từ xưa ông bà mình đã “bênh” cánh đờn ông:

- Khôn ngoan cũng thể đờn bà,

  Dẫu rằng vụng dại cũng là đờn ông.

Để “túm” lại, gã xin mượn đỡ mấy vần thơ, do một anh bạn sưu tầm được và đã gửi cho gã. 

 

Thơ của Tú Xương: 

Một trà, một rượu, một đàn bà,

Ba thứ lăng nhăng nó quấy ta.

Chừa được thứ nào hay thứ ấy,

Có chăng chừa rượu với chừa trà.

 

Hoạ lại của Tú Thịt: 

Cái nhà, cái cửa, cái ông chồng,

Ba cái lôi thôi thật mất công.

Nếu phải bỏ gì trong mấy thứ,

Bỏ nhà, bỏ cửa, giữ ông chồng.

 

Vì vậy, một tác giả Khuyết Danh mới có thơ rằng:

THẾ GIỚI THIẾU ĐÀN ÔNG 

Nếu thế giới này thiếu các ông,

Khác chi vườn cảnh thiếu lao công.

Một màu ảm đạm thê lương sẽ,

Biến khắp mọi nơi cảnh vắng không.

 

Nếu thế giới này thiếu các ông,

Đêm nằm bà phải quấn chăn bông.

Chăn bông dù ấm không bằng được,

Nằm sát kề bên nách của chồng.

 

Nếu thế giới này thiếu các ông,

Ra công trang điểm để ai trông?

Đầu bù tóc rối ai chê trách?

Có điểm trang thì cũng uổng công.

 

Nếu thế giới này thiếu các ông,

Đi làm về trễ chẳng ai mong.

Chẳng ai tựa cửa mà trông ngóng,

Thui thủi nghe sao lạnh cõi lòng….

 

Nếu thế giới này thiếu các ông,

Lấy ai phục vụ chẳng đòi công?

Lấy ai sai bảo như đầy tớ?

Chẳng có ai hơn được quý ông.

 

Nếu thế giới này thiếu các ông,

Nơi đâu bà trút hết cơn khùng?

Nơi đâu hứng hết cơn hờn giận?

Chịu đựng bao lời nói tứ tung.

 

Nếu thế giới này thiếu các ông,

Quý bà mắn đẻ cũng như không.

Loài người tuyệt chủng đâu còn nữa,

Nói phét cho vui có phải không?

 

Thế thì bà cũng như ông, đều cần đến nhau, đều phải tựa vào nhau, để cùng xây dựng một cuộc đời chung. Đó phải chăng chính là quy luật của muôn đời.

Gã Siêu  gasieu@gmail.com


VỀ MỤC LỤC

- Mọi liên lạc: Ghi danh, thay đổi địa chỉ, đóng góp ý kiến, bài vở..., xin gởi về địa chỉ

giaosivietnam@gmail.com

- Những nội dung sẽ được đề cao và chú ý bao gồm:

Trao đổi, chia sẻ những kinh nghiệm thực tế trong việc mục vụ của Giáo sĩ;  Những tài liệu của Giáo hội hoặc của các Tác giả nhằm mục đích Thăng tiến đời sống Giáo sĩ; Cổ võ ơn gọi Linh mục; Người Giáo dân tham gia công việc “Trợ lực Giáo sĩ” bằng đời sống cầu nguyện và cộng tác trong mọi lãnh vực; Mỗi  Giáo dân phải là những “Linh mục” không có chức Thánh; Đối thoại trong tinh thần Bác ái giữa Giáo dân và Giáo sĩ… (Truyền giáo hay xây pháo đài?)

- Quy vị cũng có thể tham khảo những số báo đã phát hành tại

www.conggiaovietnam.net

Rất mong được sự cộng tác, hưởng ứng của tất cả Quí vị

Xin chân thành cám ơn tất cả anh chị em đã sẵn lòng cộng tác với chúng tôi bằng nhiều cách thế khác nhau.

TM. Đặc San Giáo Sĩ Việt Nam

Lm. Luca Phạm Quốc Sử  USA

 

 

Duoc chon giua loai nguoi va cho loai nguoi; GIAO SI: Xuat phat tu giao dan, hien dien vi giao dan va cay dua vao giao dan, de cung lam VINH DANH THIEN CHUA

*************