Hiến Chế Mục Vụ
Về Giáo Hội Trong Thế Giới
Ngày Nay
Gaudium Et Spes
Prepared for
Internet by Vietnamese Missionaries in Asia
Phần Thứ Nhất
Giáo Hội Và Thiên
Chức Con Người 12*
11. Ðáp
ứng những thúc bách của Chúa Thánh Thần. Dân Thiên Chúa, nhờ đức
tin mà tin rằng mình được Thánh Thần Thiên Chúa là Ðấng bao phủ mặt đất hướng
dẫn, cố gắng nhận định đâu là những dấu chỉ thực về sự hiện diện hoặc ý định của
Thiên Chúa trong mọi biến cố, mọi yêu sách và ước vọng mà họ dự phần với những
người đương thời. Thực vậy, đức tin lấy ánh sáng mới
13* mà chiếu soi mọi sự và biểu lộ ý định của Thiên Chúa về thiên chức
toàn vẹn của con người và do đó hướng dẫn lý trí tới những giải quyết hoàn toàn
nhân bản.
Trước hết dưới ánh sáng này, Công
Ðồng muốn thẩm định những giá trị ngày này rất được đề cao và đưa chúng về tới
nguồn phát sinh là Thiên Chúa. Thực vậy, những giá trị này, vì phát sinh do tài
năng của con người được Thiên Chúa ban cho, nên rất tốt đẹp. Nhưng vì lòng người
đã hư hỏng nên nhiê�u khi những giá trị ấy đã bị sai lệch ngoài trật tự phải có,
bởi vậy chúng cần được thanh lọc 14*.
Vậy Giáo Hội nghĩ gì về con người?
Phải đưa ra những điểm nào để xây dựng xã hội ngày nay? Ðâu là ý nghĩa cuối cùng
của hoạt động con người trong vũ trụ? Người ta đang chờ một giải đáp cho những
câu hỏi trên đây. Như thế sẽ tỏ rõ rằng dân Chúa và nhân loại, trong đó dân Chúa
là một thành phần, phục vụ lẫn nhau đến nỗi sứ mệnh của Giáo Hội biểu lộ được
tính cách tôn giáo và chính vì thế biểu lộ được cả tính cách hoàn toàn nhân
loại.
Chương I
Phẩm Giá Con Người
15*
12. Con
người theo hình ảnh Thiên Chúa. Những kẻ tin cũng như những kẻ
không tin dường như đồng quan điểm là mọi vật trên địa cầu phải được hướng về
con người như là trung tâm và tột điểm của chúng.
Vậy con người là gì? Con người đã
và còn đang đưa ra nhiều quan niệm về chính mình, những quan niệm khác nhau và
đôi khi trái ngược nhau. Theo những quan niệm đó, thường con người tán dương
mình như một mẫu mực tuyệt đối hay lại chê bai đến độ tuyệt vọng, từ đó con
người hoài nghi và lo lắng. Thông cảm sâu xa được những khó khăn này, Giáo Hội,
vì được Thiên Chúa là Ðấng mạc khải dạy dỗ, có thể đem lại câu giải đáp cho
những khó khăn ấy, nhờ đó diễn tả được thân phận đích thực của con người, giải
bày những yếu hèn, đồng thời có thể nhìn nhận xác đáng phẩm giá và thiên chức
của con người.
Thực vậy, Thánh Kinh dạy rằng con
người đã được tạo dựng "theo hình ảnh của Thiên Chúa" có khả năng nhận biết và
yêu mến Ðấng Tạo Dựng mình, được Ngài đặt làm chủ mọi tạo vật trên trái đất
1 để cai trị và xử dụng chúng mà ngợi khen Thiên
Chúa 2. Vì "thế nhân là chi để Ngài nhớ đến?
hay con người là gì để Ngài phải bận tâm? So với thiên thần Ngài có để cho thua
mấy tí. Vinh dự huy hoàng là triều thiên Ngài ban tặng. Ngài cho thống trị các
kiệt tác tay Ngài làm, muôn sự Ngài đã đặt dưới chân" (Tv 8,5-7).
Nhưng Thiên Chúa đã không dựng nên
con người cô độc: bởi vì từ khởi thủy "Ngài đã tạo dựng có nam và có nữ" (Stk
1,2-7). Sự liên kết giữa họ đã tạo nên một thứ cộng đoàn đầu tiên giữa người với
người. Thực vậy, tự bản tính thâm sâu của mình, con người là một hữu thể có xã
hội tính và nếu không liên lạc với những người khác con người sẽ không sống và
phát triển tài năng mình.
Vì thế như ta lại đọc thấy ngay
trang đầu của Thánh Kinh: "Thiên Chúa đã thấy tất cả những gì Ngài đã làm đều
rất tốt đẹp" (Stk 1,31).
13. Tội
lỗi. Ðược Thiên Chúa thiết lập trong sự công chính, tuy nhiên
ngay từ đầu lịch sử, con người nghe theo Thần Dữ nên đã lạm dụng tự do của mình
khi nổi dậy chống lại Thiên Chúa và muốn đạt tới cứu cánh của mình ngoài Thiên
Chúa. Dù họ đã nhận biết Thiên Chúa nhưng họ đã chẳng tôn vinh Ngài như Thiên
Chúa, trái lại tâm hồn mê muội của họ đã ra tối tăm và họ đã phụng sự tạo vật
hơn là phụng sự Ðấng Tạo Hóa 3. Ðiều Thiên
Chúa mạc khải cho ta biết cũng phù hợp với kinh nghiệm của ta. Bởi vì nếu nhìn
sâu tận đáy lòng mình, con người cũng khám phá ra rằng mình đã hướng về sự dữ và
đã ngụp lặn trong muôn vàn sự dữ là những điều không thể xuất phát từ Ðấng Tạo
Hóa tốt lành của mình. Nhiều khi từ chối không nhìn nhận Thiên Chúa như nguyên
ủy của mình, con người cũng phá đổ trật tự phải có để đạt tới cùng đích của mình
và đồng thời phá vỡ mọi hòa hợp nơi chính bản thân cũng như đối với những người
khác và với mọi loài thụ tạo.
Vậy trong chính con người đã có sự
chia rẽ 16*. Vì thế tất cả cuộc sống của con
người, hoặc riêng rẽ, hoặc tập thể, đều biểu hiện như một cuộc chiến, dĩ nhiên
là bi thảm, giữa tốt và xấu, giữa ánh sáng và tối tăm. Hơn nữa, con người thấy
mình không đủ sức khi phải tự mình chiến thắng hữu hiệu những tấn công của sự dữ
đến nỗi mỗi người cảm thấy dường như bị xiềng xích trói buộc. Nhưng chính Chúa
đã đến để giải phóng con người và làm cho con người trở nên mạnh mẽ khi Ngài đổi
mới tự nội tâm họ và loại ra ngoài thủ lãnh của thế gian này (xem Gio 12,31) là
kẻ đã kìm giữ họ trong vòng nô lệ tội lỗi 4.
Tội lỗi làm suy giảm chính con người và ngăn cản không cho con người đạt tới sự
viên mãn 17*.
Dưới ánh sáng mạc khải này, thiên
chức cao cả và nỗi thống khổ sâu xa mà con người nghiệm thấy đều tìm được ý
nghĩa cuối cùng của chúng.
14. Sự
cấu tạo của con người. Con người duy nhất với xác hồn. Xét về thể
xác, con người là một tổng hợp những yếu tố thuộc thế giới vật chất. Vì thế nhờ
con người mà những yếu tố ấy đạt tới tuyệt đỉnh của chúng và tự do dâng lời ca
tụng Ðấng Tạo Hóa 5. Vậy con người không được
khinh miệt đời sống thể xác. Nhưng trái lại con người phải coi thân xác mình là
tốt đẹp và đáng tôn trọng vì thân xác ấy do Chúa tạo dựng và phải được sống lại
ngày sau hết. Tuy nhiên, mang thương tích do tội lỗi gây nên, con người cảm
nghiệm nơi chính mình những nổi loạn của thân xác. Vậy chính phẩm giá con người
đòi hỏi con người ca tụng Thiên Chúa nơi thân xác của mình
6 chứ đừng để thân xác ấy nô lệ cho những xu hướng
xấu xa của lòng mình 18*.
Thực vậy, con người không lầm lẫn
khi họ nhận biết mình cao cả hơn vũ trụ vật chất và không coi mình chỉ như một
mảnh vụn của thiên nhiên hay như một phần tử vô danh trong xã hội loài người.
Bởi vì nhờ có nội giới 19*, con người vượt
trên mọi vật. Khi con người quay về với lòng mình tức là họ trở về với nội giới
thâm sâu này, ở đó Thiên Chúa, Ðấng thấu suốt tâm hồn, đang chờ đợi họ
7, và cũng nơi đó chính con người tự định đoạt về
vận mệnh riêng của mình dưới con mắt của Thiên Chúa. Như vậy, khi nhìn nhận mình
có một linh hồn thiêng liêng, bất tử, con người không phải là bị mê hoặc bởi một
thứ ảo tưởng phát sinh do những điều kiện vật lý và xã hội. Trái lại, nhìn nhận
như thế là con người đã đạt tới chính chân lý sâu xa.
15.
Phẩm giá của trí tuệ, chân lý và sự hiểu biết. Dự phần vào ánh
sáng của trí tuệ Thiên Chúa, con người có lý để nhận định rằng nhờ trí tuệ họ
vượt trên mọi tạo vật. Qua các thời đại, nhờ chuyên cần trau dồi tài năng của
mình, chính con người đã thực sự tiến bộ trong những khoa học thực nghiệm, những
khoa kỹ thuật và nghệ thuật. Trong thời đại chúng ta, con người đã đạt được
những thành công phi thường, nhất là trong việc khám phá và chế ngự thế giới vật
chất. Tuy nhiên con người đã luôn luôn tìm kiếm và đã khám phá ra chân lý sâu xa
hơn. Thực vậy, trí khôn con người không hẳn chỉ giới hạn trong những hiện tượng
mà thôi, nhưng còn có thể thấu triệt thực tại siêu hình một cách thực sự chắc
chắn, cho dù trí tuệ phần nào đã bị mờ tối và suy nhược do hậu quả của tội lỗi.
Cuối cùng bản chất tri thức của
nhân vị được kiện toàn và phải được kiện toàn nhờ sự "hiểu biết"
20*. Chính sự hiểu biết lôi kéo một cách dịu dàng
tâm trí con người tìm kiếm và ái mộ những gì là chân, là thiện. Rồi nhờ thấm
nhuần sự hiểu biết mà con người được đưa từ thế giới hữu hình tới thế giới vô
hình.
Hơn hẳn những thế kỷ trước, thời
đại chúng ta càng cần đến sự hiểu biết để tất cả những khám phá mới của con
người mang tính chất nhân bản hơn. Bởi vì vận mệnh tương lai của thế giới sẽ lâm
nguy, nếu thế giới không phát sinh ra những bậc thông thái lỗi lạc. Hơn nữa,
phải lưu ý rằng, nhiều quốc gia tuy nghèo nàn về kinh tế, nhưng lại giàu có về
phần hiểu biết, nên vẫn có thể trợ giúp những quốc gia khác rất đắc lực.
Nhờ hồng ân của Chúa Thánh Thần,
con người, qua đức tin, tiến tới sự chiêm ngưỡng và nếm hưởng mầu nhiệm Thánh ý
Thiên Chúa 8.
16.
Phẩm giá của lương tâm 21*.
Con người khám phá ra tận đáy lương tâm một lề luật mà chính con người không đặt
ra cho mình, nhưng vẫn phải tuân theo, và tiếng nói của lương tâm luôn luôn kêu
gọi con người phải yêu mến và thi hành điều thiện cũng như tránh điều ác. Tiếng
nói ấy âm vang đúng lúc trong tâm hồn của chính con người: hãy làm điều này, hãy
tránh điều kia. Quả thật con người có lề luật được Chúa khắc ghi trong tâm hồn.
Tuân theo lề luật ấy chính là phẩm giá của con người và chính con người cũng sẽ
bị xét xử theo lề luật ấy nữa 9. Lương tâm là
tâm điểm sâu kín nhất và là cung thánh của con người, nơi đây con người chỉ hiện
diện một mình với Thiên Chúa và tiếng nói của Ngài vang dội trong thâm tâm họ
10. Nhờ lương tâm, lề luật được thực hiện
trong sự yêu mến Thiên Chúa và anh em, và được biểu lộ cách kỳ diệu
11. Trung thành với lương tâm, người Kitô giáo
liên kết với những người khác để tìm kiếm chân lý và giải quyết trong chân lý
biết bao vấn đề luân lý được đặt ra trong đời sống cá nhân cũng như trong giao
tiếp xã hội. Bởi vậy lương tâm ngay thẳng càng thắng thế thì những cá nhân và
cộng đoàn càng tránh được độc đoán mù quáng và càng nỗ lực tuân phục những tiêu
chuẩn khách quan của luân lý. Tuy nhiên, lương tâm nhiều khi lầm lạc vì vô tri
bất khả thắng, nhưng cũng không vì thế mà mất hết phẩm giá. Nhưng không thể nói
như vậy khi con người ít lo lắng tìm kiếm điều chân và điều thiện cũng như khi
vì thói quen phạm tội mà lương tâm dần dần trở nên mù quáng.
17. Sự
cao cả của tự do 22*. Nhưng
con người chỉ có thể quay về với sự thiện một cách tự do. Sự tự do ấy những
người đương thời với chúng ta rất ngưỡng mộ và hăng say theo đuổi, và họ thực có
lý. Tuy nhiên, lắm lúc họ cổ võ tự do một cách lệch lạc như có thể làm bất cứ
điều gì mình thích, cả điều xấu. Nhưng tự do đích thực là dấu chỉ cao cả nhất
của hình ảnh Thiên Chúa trong con người. Bởi vì Thiên Chúa đã muốn để con người
tự định liệu 12, hầu con người tự mình đi tìm
Ðấng Tạo Dựng và nhờ kết hợp với Ngài con người tiến tới sự hoàn thiện trọn vẹn
và hạnh phúc. Vậy phẩm giá của con người đòi họ phải hành động theo sự chọn lựa
ý thức và tự do, nghĩa là chính con người được thúc đẩy và hướng dẫn tự bên
trong, chứ không do bản năng mù quáng hay cưỡng chế hoàn toàn bên ngoài. Con
người sẽ đạt tới phẩm giá ấy một khi nhờ tự giải thoát khỏi mọi kiềm tỏa của đam
mê, con người theo đuổi cùng đích của mình trong sự tự do chọn lấy điều thiện và
khôn khéo cũng như thực sự tạo cho mình những phương tiện thích ứng. Tự do của
con người vì bị tội lỗi làm tổn thương nên chỉ nhờ ơn Chúa trợ lực mới có thể
thực hiện việc hướng về Thiên Chúa cách hoàn toàn sống động. Vậy trước tòa án
Thiên Chúa, mỗi người sẽ phải trả lẽ về đời sống của mình tùy theo chính họ đã
làm điều thiện hay điều ác 13.
18. Mầu
nhiệm sự chết. Trước cái chết, bí ẩn về thân phận con người lên
cao tới tột độ. Con người không những bị hành hạ bởi đau khổ và sự tiến dần đến
tan rã của thân xác, mà hơn thế nữa, còn bị dày vò bởi nỗi lo sợ bị tiêu diệt
đời đời. Theo bản năng của lòng mình, con người có lý để ghê sợ cũng như từ chối
sự hủy hoại hoàn toàn và sự tiêu diệt vĩnh viễn của bản thân. Mầm sống vĩnh cửu
mà con người mang trong mình không thể giản lược vào nguyên vật chất, nên nó nổi
lên chống lại sự chết. Mọi cố gắng của kỹ thuật, dù rất hữu ích, cũng không thể
làm nguôi được nỗi lo âu của con người: bởi vì đời sống sinh vật, dù có được kéo
dài thêm đi nữa, cũng không thể thỏa mãn được khát vọng một cuộc sống mai hậu đã
được in sâu trong lòng con người.
Trước cái chết, óc tưởng tượng của
con người đành bất lực. Nhưng Giáo Hội, được Mạc Khải của Thiên Chúa dạy bảo,
quả quyết rằng con người được Chúa dựng nên để đạt tới cứu cánh hạnh phúc sau
những khổ cực trần thế này. Hơn nữa, đức tin Kitô giáo còn dạy rằng giả như con
người không phạm tội, thì đã không phải chết 14;
sự chết này sẽ bị đánh bại khi Ðấng Cứu Thế toàn năng và nhân ái mang lại cho
con người sự cứu rỗi mà vì tội lỗi, họ đã đánh mất. Bởi vì Thiên Chúa đã và đang
kêu gọi con người đem toàn thân kết hợp với Ngài trong sự thông hiệp vĩnh viễn
vào sự sống bất diệt của Thiên Chúa. Chúa Kitô đã đem lại chiến thắng ấy khi
Người sống lại và nhờ cái chết của Người, Người đã giải phóng con người khỏi sự
chết 15. Vậy đức tin với những lý chứng vững
chắc đem lại giải đáp cho bất cứ ai khắc khoải ưu tư về số phận tương lai của
mình. Ðồng thời đức tin còn cho con người khả năng hiệp thông với những anh em
thân yêu đã chết trong Chúa Kitô, và làm cho họ hy vọng rằng những người ấy đã
được sống thực sự nơi Thiên Chúa.
19.
Những hình thức và nguyên nhân vô thần
23*. Ý nghĩa cao cả nhất của phẩm giá con người là con người được kêu
gọi tớì kết hiệp với Thiên Chúa. Ngay từ lúc mới sinh ra, con người đã được mời
gọi đối thoại với Thiên Chúa: thực thế, con người hiện hữu chỉ là do Thiên Chúa
đã vì yêu thương nên tạo dựng nên con người, và cũng vì yêu thương mà luôn luôn
bảo tồn con người; hơn nữa con người chỉ sống hoàn toàn theo chân lý một khi tự
ý nhìn nhận tình yêu ấy và phó thác cho Ðấng tạo dựng mình. Tuy nhiên có nhiều
người đương thời với chúng ta không nhận ra hoặc công khai gạt bỏ sự liên kết
mật thiết và sống động giữa con người với Thiên Chúa. Vì thế thuyết vô thần phải
được kể là một trong những sự kiện quan trọng nhất trong thời đại này và cần
phải được nghiên cứu kỹ càng hơn.
Danh từ vô thần chỉ những hiện
tượng rất khác nhau. Thực vậy, có người phủ nhận Thiên Chúa cách tỏ tường, có
người lại nghĩ rằng con người hoàn toàn không thể quả quyết gì về Thiên Chúa cả.
Có người muốn cứu xét vấn đề về Thiên Chúa theo một phương pháp làm cho vấn đề
đó xem ra thiếu hẳn ý nghĩa. Vượt quá phạm vi khoa học thực nghiệm một cách vô
lý, nhiều người hoặc chủ trương giải thích mọi sự chỉ bằng khoa học này, hoặc
trái lại, hoàn toàn không chấp nhận một chân lý nào là tuyệt đối. Có người lại
quá đề cao con người đến nỗi sự tin tưởng vào Thiên Chúa trở nên vô nghĩa; những
người này xem ra muốn đề cao con người hơn là muốn chối bỏ Thiên Chúa. Có người
hình dung ra cho mình một Thiên Chúa theo kiểu họ tưởng đến nỗi biểu tượng mà họ
bài xích không còn điểm nào là Thiên Chúa của Phúc Âm cả. Cả vấn đề về Thiên
Chúa cũng không hề được đặt ra bởi vì xem ra họ không cảm thấy áy náy gì về tôn
giáo cũng như không thấy tại sao lại phải bận tâm về vấn đề đó. Ngoài ra, chủ
nghĩa vô thần nhiều lúc phát sinh hoặc do sự phản kháng mãnh liệt chống lại sự
dữ trong thế gian hoặc do nhận định sai lầm cho một số giá trị của con người là
tuyệt đối đến nỗi lấy chúng thay thế cho chính Thiên Chúa. Ngay cả nền văn minh
hiện đại nhiều lúc có thể làm cho khó đến với Thiên Chúa hơn, không phải tự nó,
nhưng vì nó quá bám víu vào những thực tại trần gian.
Quả thực, những người không nghe
theo tiếng nói của lương tâm, cố tình loại trừ Thiên Chúa ra khỏi lòng mình và
tránh né những vấn đề tôn giáo, chắc chắn họ mắc lỗi. Song chính những tín hữu
nhiều lúc cũng có một phần trách nhiệm về vấn đề này. Bởi vì chủ nghĩa vô thần
nói chung không phải do một nguyên nhân duy nhất, nhưng trái lại nó phát sinh do
nhiều nguyên nhân. Trong những nguyên nhân ấy còn phải kể tới phản ứng chỉ trích
chống lại các tôn giáo, hơn nữa ở một vài nơi, còn chống lại cả Kitô giáo. Tín
hữu có thể chịu phần trách nhiệm không phải là nhỏ trong việc khai sinh vô thần,
hoặc bởi xao lãng việc giáo dục đức tin, hoặc trình bày sai lạc về giáo lý, hoặc
do những thiếu sót trong đời sống tôn giáo, luân lý và xã hội. Phải nói rằng họ
che giấu hơn là bày tỏ bộ mặt đích thực của Thiên Chúa và tôn giáo.
20. Vô
thần có hệ thống. Vô thần hiện nay nhiều khi cũng được trình bày
như một hệ thống; không kể tới những nguyên nhân khác, hệ thống này quá nhấn
mạnh đến khát vọng được tự lập của con người đến độ làm cho nó khó chấp nhận bất
cứ sự lệ thuộc nào vào Thiên Chúa. Những người chủ trương thuyết vô thần như vậy
cho rằng tự do hệ tại ở con người là chính cùng đích cho mình, là người tạo nên
và điều khiển 24* lịch sử riêng của mình. Họ
tưởng rằng quan niệm trên không thể đi đôi với sự nhìn nhận Thiên Chúa là Ðấng
tác thành và là cùng đích của mọi sự, hay ít ra quan niệm như thế thì quả quyết
có Thiên Chúa cũng bằng thừa. Chủ thuyết này có thể được cổ võ thêm vì sự tiến
triển về kỹ thuật hiện nay đem lại cho con người cảm tưởng mình đầy thế lực.
Trong số những hình thức vô thần
hiện nay, không thể bỏ qua một hình thức vô thần mong giải phóng con người, nhất
là giải phóng con người về phương diện kinh tế và xã hội. Hình thức vô thần này
cho rằng tự bản chất, tôn giáo vẫn ngăn cản sự giải phóng trên, vì khi gây cho
con người niềm hy vọng vào cuộc sống mai hậu và hão huyền, tôn giáo đã làm cho
họ xao lãng việc xây dựng xã hội dương thế này. Bởi vậy, những người chủ trương
lý thuyết ấy, một khi lên nắm chính quyền, họ kịch liệt chống lại tôn giáo, dùng
cả những biện pháp cưỡng bách của chính quyền để truyền bá thuyết vô thần nhất
là trong phạm vi giáo dục thanh thiếu niên.
21.
Thái độ của Giáo Hội đối với chủ nghĩa vô thần. Trung thành với
Thiên Chúa cũng như với con người, Giáo Hội không thể không tiếp tục lên án với
nỗi đau buồn và với tất cả sự cương quyết, như đã từng lên án
16, những chủ thuyết vô thần và những hành động
nguy hại đi ngược lại lý trí và kinh nghiệm chung của con người cũng như làm cho
con người mất đi sự cao cả bẩm sinh của mình.
Tuy nhiên Giáo Hội vẫn cố gắng tìm
hiểu những nguyên nhân chối từ Thiên Chúa tiềm ẩn trong tâm trí những người vô
thần và ý thức được tầm quan trọng của những vấn đề do vô thần khơi lên và vì
yêu thương mọi người, nên Giáo Hội thấy cần phải cứu xét những nguyên nhân ấy kỹ
lưỡng và sâu xa hơn.
Giáo Hội cho rằng nhìn nhận Thiên
Chúa không có gì nghịch lại với phẩm giá con người, vì phẩm giá ấy đặt nền tảng
và nên hoàn hảo trong chính Thiên Chúa: bởi vì con người có trí tuệ và tự do
được Thiên Chúa, Ðấng tạo dựng đặt để trong xã hội, nhưng nhất là vì con người
được gọi đến thông hiệp với chính Thiên Chúa và tham dự vào hạnh phúc của Ngài
như con cái. Ngoài ra, Giáo Hội còn dạy rằng hy vọng vào đời sống mai sau không
làm giảm tầm quan trọng những bổn phận ở trần gian này mà trái lại còn thêm
những động lực mới giúp hoàn tất những bổn phận ấy. Vả lại, nếu thiếu căn bản là
Thiên Chúa và thiếu niềm hy vọng vào đời sống trường cửu thì phẩm giá con người
sẽ bị tổn thương cách trầm trọng như thường thấy ngày nay, và những bí ẩn về sự
sống, sự chết, về tội lỗi và đau khổ vẫn không giải đáp được, như thế con người
nhiều khi rơi vào tuyệt vọng.
Trong khi đó, mỗi người vẫn còn là
một câu hỏi chưa giải đáp cho chính mình, một câu hỏi chỉ thấy lờ mờ. Bởi vì có
những lúc, nhất là trong những biến cố lớn lao của cuộc sống, không ai có thể
hoàn toàn tránh được câu hỏi nói trên. Chỉ một mình Thiên Chúa là Ðấng kêu gọi
con người suy nghĩ sâu xa hơn và tìm hiểu khiêm tốn hơn mới đem lại được câu
giải đáp hoàn toàn và hết sức chắc chắn.
Ðể đem lại phương thuốc chữa trị vô
thần, người ta phải cậy nhờ vào giáo lý được trình bày một cách thích hợp và nhờ
đó vào đời sống thanh khiết của Giáo Hội cũng như của các chi thể của Giáo Hội.
Bởi vì nhiệm vụ của Giáo Hội là làm sao cho Thiên Chúa Cha và Chúa Con nhập thể
trở nên hiện diện và như thể thấy được bằng cách chính Giáo Hội tự đổi mới và
không ngừng tinh luyện chính mình 17 dưới sự
hướng dẫn của Chúa Thánh Thần. Ðiều đó trước hết nhờ chứng tá của một đức tin
sống động và trưởng thành, nghĩa là một đức tin đã được huấn luyện để có thể
sáng suốt nhận định và thắng vượt những khó khăn ấy. Rất nhiều vị tử đạo đã và
còn đang hùng hồn làm chứng cho đức tin ấy. Ðức tin đó phải biểu lộ sự phong phú
của mình bằng cách thấm nhập vào toàn thể đời sống của các tín hữu, kể cả đời
sống thế tục, và thúc đẩy họ sống công bằng, bác ái nhất là đối với người nghèo
khổ. Sau hết, điều có thể làm chứng về sự hiện diện của Thiên Chúa hơn cả là đức
ái huynh đệ của các tín hữu như họ đồng tâm nhất trí cộng tác cho đức tin Phúc
Âm 18 và tỏ ra họ là dấu chỉ hiệp nhất.
Thực vậy, Giáo Hội dù hoàn toàn bác
bỏ thuyết vô thần, nhưng vẫn thành thực tuyên bố rằng mọi người, dù tin hay
không tin, cũng đều phải trợ lực cho việc xây dựng thế giới này được hợp lý, là
nơi họ đang chung sống: điều ấy chắc chắn không thể có được nếu thiếu cuộc đối
thoại thành thực và khôn ngoan. Bởi vậy Giáo Hội phàn nàn về sự kỳ thị giữa
những người tin và không tin do một số nhà lãnh đạo quốc gia gây ra một cách bất
công khi không nhìn nhận những quyền lợi căn bản của con người. Riêng đối với
các tín hữu, Giáo Hội đòi cho họ phải được tự do đích thực để họ có thể xây dựng
đền thờ Thiên Chúa ngay tại trần gian này. Ðối với những người vô thần, Giáo Hội
nhân ái mời gọi họ hãy nghiên cứu Phúc Âm Chúa Kitô với một tâm hồn cởi mở.
Bởi vậy, Giáo Hội đã biết rõ sứ
điệp của mình phù hợp với những khát vọng thầm kín nhất của lòng người, khi Giáo
Hội bênh vực thiên chức con người và do đó đem lại niềm hy vọng cho những ai đã
thất vọng về vận mạng cao cả của mình. Sứ điệp của Giáo Hội chẳng những không
làm suy giảm con người mà trái lại còn đổ tràn ánh sáng, sự sống và tự do để
giúp con người tiến bộ. Ngoài sứ điệp đó không còn gì khác có thể thỏa mãn được
lòng người. "Lạy Chúa, Chúa đã dựng nên chúng con để chúng con đến với Chúa, và
tâm hồn chúng con còn thao thức cho tới khi được an nghỉ trong Chúa"
19.
22.
Chúa Kitô, Con Người Mới. Thực vậy, mầu nhiệm về con người chỉ
thực sự được sáng tỏ trong mầu nhiệm Ngôi Lời nhập thể. Bởi vì Adam con người
đầu tiên đã là hình bóng của Adam sẽ đến 20,
là Chúa Kitô. Chúa Kitô, Adam mới, trong khi mạc khải về Chúa Cha và tình yêu
của Ngài, đã cho con người biết rõ về chính con người và tỏ cho họ biết thiên
chức rất cao cả của họ. Bởi vậy không lạ gì khi những chân lý đã nói ở trên đều
tìm thấy nguồn gốc của chúng và đạt tới tột điểm nơi Người.
Là "hình ảnh của Thiên Chúa vô
hình" (Col 1,15) 21, chính Người là con người
hoàn hảo đã trả lại cho con cháu của Adam hình ảnh Thiên Chúa đã bị tội nguyên
tổ làm sai lệch. Bởi vì nơi Người bản tính nhân loại đã được mặc lấy chứ không
bị tiêu diệt 22, do đó chính nơi chúng ta nữa
bản tính ấy cũng được nâng lên tới một phẩm giá siêu việt. Bởi vì, chính Con
Thiên Chúa khi nhập thể, một cách nào đó đã kết hợp với tất cả mọi người. Người
đã làm việc với bàn tay con người, đã suy nghĩ bằng trí óc con người, đã hành
động với ý chí con người 23, đã yêu mến bằng
quả tim con người. Sinh bởi trinh nữ Maria, Người đã thực sự trở nên một người
giữa chúng ta, giống chúng ta mọi sự, ngoại trừ tội lỗi
24.
Là Chiên vô tội Người tự ý đổ máu
ra để cho chúng ta được sống, và chính trong Người Thiên Chúa đã hòa giải chúng
ta với Thiên Chúa và hòa giải giữa chúng ta với nhau 25
cũng như đem chúng ta ra khỏi ách nô lệ của ma quỉ và tội lỗi, do đó mỗi người
chúng ta đều có thể nói như Thánh Tông Ðồ rằng: Con Thiên Chúa "đã yêu thương
tôi, lại hiến thân cho tôi nữa" (Gal 2,20). Chịu đau khổ cho chúng ta, không
những Người nêu gương để chúng ta theo vết chân Người
26, nhưng Người còn mở ra con đường mới để nếu chúng ta theo Người thì
sự sống và cái chết sẽ được thánh hóa và có một ý nghĩa mới.
Con người Kitô hữu khi trở nên
giống hình ảnh Chúa Con là Trưởng Tử trong đoàn anh em đông đúc
27, họ nhận được "những hoa trái đầu mùa của Thánh
Thần" (Rm 8,23), nhờ đó họ có thể chu toàn lề luật yêu thương mới
28. Nhờ Thánh Thần làm "bảo chứng cho quyền thừa
tự" (Eph 1,14), toàn thể con người được canh tân từ nội tâm cho tới khi "thân
xác được cứu rỗi" (Rm 8,23): "Nếu Thánh Thần Chúa là Ðấng đã khiến Chúa Giêsu từ
kẻ chết sống lại cư ngụ trong anh em, chính Ðấng đã khiến Chúa Giêsu Kitô từ kẻ
chết sống lại đó cũng sẽ làm sống động thân thể hay hư nát của anh em nhờ Thánh
Thần Ngài ở cùng anh em", (Rm8,11) 29. Người
Kitô hữu chắc chắn cần thiết và có bổn phận chiến đấu chống sự dữ khi phải trải
qua nhiều gian nan cũng như phải chết nữa. Nhưng vì được dự phần vào mầu nhiệm
phục sinh, 25* được đồng hóa với cái chết
của Chúa Kitô, được mạnh mẽ nhờ đức cậy, họ sẽ được sống lại
30.
Ðiều nói trên không phải chỉ có giá
trị cho các tín hữu nhưng cho tất cả những ai có thiện chí được ơn thánh hoạt
động một cách vô hình trong tâm hồn 31. Thực
vậy, vì Chúa Kitô đã chết cho mọi người 32 và
vì ơn gọi cuối cùng của con người thực ra là duy nhất, nghĩa là do Thiên Chúa,
cho nên ta phải tin chắc rằng Chúa Thánh Thần ban cho mọi người khả năng tham dự
vào mầu nhiệm Phục Sinh ấy, cách nào đó chỉ có Chúa biết thôi.
Ðó là tính chất và sự cao cả của
mầu nhiệm con người, mầu nhiệm được Mạc Khải Kitô giáo soi sáng cho các tín hữu.
Vậy nhờ Chúa Kitô và trong Chúa Kitô bí ẩn về đau khổ và sự chết được sáng tỏ,
bí ẩn đó đè bẹp chúng ta nếu chúng ta không biết đến Phúc Âm. Chúa Kitô đã sống
lại nhờ sự chết của mình. Người đã hủy diệt sự chết và Người đã ban cho ta dồi
dào sự sống 33 để là con cái trong Chúa Con
chúng ta kêu lên trong Thánh Thần: Abba, lạy Cha! 34.
Chú Thích:
12*
Trong phần thứ nhất này Công Ðồng tìm hiểu về con người dưới ánh sáng đức tin để
rồi trong phần thứ hai có thể đề cập tới một số vấn đề cụ thể. Chương I nói về
con người trong thế giới: phẩm giá của con người. Chương II: về con người theo
tính cách xã hội. Chương III: về ý nghĩa và giá trị sinh hoạt của con người.
Chương IV: con người và Giáo Hội.
13*
Sống theo đức tin không phải là quay lưng tránh né trước các vấn đề nhân loại.
Trái lại, chỉ nhờ đức tin chúng ta mới có được quan điểm toàn diện về con người
(không biết ơn kêu gọi siêu nhiên của con người làm sao có thể biết chính con
người được!). Nên, chỉ nhờ đức tin chúng ta mới có thể tìm thấy những giải đáp
thực sự có tính cách nhân loại bởi vì đức tin giúp ta coi trọng con người về mọi
phương diện. Dĩ nhiên ở đây không nói tới một đức tin trong lý thuyết, chẳng ảnh
hưởng gì đến các việc thường nhật.
14*
Các giá trị nhân bản, các nhân bản chủ nghĩa (xem chú thích về số 7) đều mang ý
nghĩa mơ hồ. Cả về khía cạnh tốt đẹp nhất của chúng, chúng vẫn chưa hoàn toàn và
không đủ để "cứu rỗi" con người - theo như ý muốn của Thiên Chúa!
15*
Phẩm giá con người rất cao cả vì con người là hình ảnh của Thiên Chúa (số 12) -
dầu bị tội lỗi làm mất vẻ trong sáng (số 13) -, vì giá trị bản tính thể xác lẫn
linh hồn của mình (số 14), đặc biệt của lý trí (số 15), của lương tâm luân lý
(số 16) của quyền tự do (số 17) và của tính bất diệt (số 18). Phẩm giá đó bị
hiện tượng vô thần làm thiệt hại không ít: Công Ðồng mô tả hiện tượng và nguyên
nhân của nó rồi nêu rõ thái độ của Giáo Hội (số 19-21). Phẩm giá của con người
được biểu lộ một cách hoàn toàn nơi Chúa Kitô (số 22).
1
Xem Stk 1,26; Kn 2,23.
2
Xem Hđ 17,3-10.
3
Xem Rm 1,21-25.
16*
Ðây là một trong những kinh nghiệm đau đớn nhất của con người. Con người không
phải chỉ là khán giả cũng không phải chỉ có vai trò tác động trong cuộc tranh
đấu giữa sự thiện và sự ác. Cuộc tranh đấu ấy ngay ở giữa tâm hồn con người.
Những sự dữ vật chất (vô tri, yếu đuối, bệnh tật...) đều đặt giớihạn bi thảm cho
lòng khát khao sự hoàn hảo và toàn vẹn. Nhất là tội ác lôi cuốn con người từ bên
trong đi ngược với nguyện vọng sâu xa về sự thiện (xem trên, số 10).
4
Xem Gio 8,34.
17*
Tội lỗi không chỉ có nghĩa là từ chối làm con Thiên Chúa và do đó ngăn cản không
cho con người phát triển trọn vẹn, nó còn làm tổn thương chính bản tính tự nhiên
của con người: trái ngược với lý trí, đe dọa ý chí, làm cho sự tự do bị sai
lạc... hình ảnh của Thiên Chúa là con người tất nhiên bị hư hỏng rất nhiều.
5
Xem Ðn 3,57-90.
6
Xem 1Cor 6,13-20.
18*
Ở đây Công Ðồng nhắc lại một số nhận xét về thân xác theo thần học công giáo:
1) Thân xác là phần bản thể của
thực tại duy nhất là con người. Con người không gồm có hai phần: xác và hồn,
nhưng con người là xác và hồn. Ta còn có thể nói con người là thân xác này: bởi
vì nếu chưa có hồn thì cũng chưa phải là thân xác này, mà chỉ là một đống vật
chất chưa thành thể.
2) Thân thể vật chất kết tụ các yếu
tố tốt của giới vô cơ, của giới thực vật và động vật. Nơi con người, tất cả các
nguyên tố đó được thêm ý thức và khả năng để ngợi khen Ðấng Tạo Hóa.
3) Ðược Thiên Chúa tạo nên, không
chỉ vì Chúa đã tạo nên vật chất sơ khai mà còn do việc cộng tác cần thiết và hệ
trọng nhất của Thiên Chúa với đôi cha mẹ (x. 2Mac 7,22-23).
4) Thân thể hay chết cuối cùng sẽ
sống lại. Sống lại vẻ vang theo ý muốn của Chúa, giống như thân thể của Chúa
Kitô Anh Cả của loài người (đặc biệt của tín hữu) (x. 1Cor 15,20-22.42-49).
5) Do đó ta phải kính trọng thân
thể.
6) Ðàng khác tội lỗi - không chỉ
nguyên tội mà còn các tội lỗi khác, nhất là tội lỗi của riêng từng người - đã
làm tổn thương nó. Các dục vọng (sự sợ hãi, sự nổi giận, tính lười biếng, sự dâm
dục, v.v...) dễ dàng thúc đẩy ngũ quan và tâm hồn tìm kiếm những đối tượng bất
chấp tính cách luân lý, hơn nữa trái ngược với lý trí. Như thế con người cảm
thấy thân xác đè nặng mình, giới hạn mình và trở nên chướng ngại vật giữa chính
mình và tha nhân... (x. Rm 7,24).
7) Việc làm sáng danh Thiên Chúa
nơi thân thể (x. 1Cor 6,20) đòi hỏi ta phải gắng sức tranh đấu với những xu
hướng xấu nơi thân xác. Phẩm giá của con người cũng đòi hỏi như vậy. "Nhờ thân
xác, con người liên lạc với vũ trụ để cải thiện nó; với tha nhân, để cảm thông
(nơi hôn nhân, thân xác đạt tới tột đỉnh của nó như khí cụ để biểu lộ và phục vụ
tình yêu); với Thiên Chúa, để trung thành phục vụ Chúa hết lòng..." (Vatican II,
Gaudium et Spes, x.b. l'Action populaire, ghi chú 28).
19*
Câu này muốn nói rằng con người cao vượt hơn và có giá trị hơn cả vũ trụ vì con
người có lý trí. Nhờ lý trí con người có thể suy luận, như quay về nội tại của
mình để tìm trong đó ý nghĩa của mọi sự và tìm cách chỉ huy không những chính
đời mình mà còn các thực tại khác nữa.
7
Xem 1V 16, 7; Gier 17,10.
20*
Sapientia bởi Sapere tức là nếm mùi có nghĩa rộng hơn và sâu xa hơn danh từ hiểu
biết. Ðó là một thứ hiểu biết của người sáng suốt, của người không phải chỉ hiểu
biết chân lý mà còn thưởng thức ý nghĩa thâm sâu của chân lý, dù chân lý đó là
những nhận xét về thiên nhiên, về bản tính con người hay về thế giới vô hình.
Người học thức chưa chắc đã có thứ hiểu biết này, trái lại kẻ vô học, mù chữ,
rất có thể lại được thứ hiểu biết đó. Ðầu óc khoa học và kỹ thuật của thời đại
ít giúp ta chiếm được thứ hiểu biết ấy.
8
Xem Hđ 17,7-8.
21*
Công Ðồng đã xác nhận chiều hướng hiện nay đang đề cao giá trị và vai trò của
lương tâm. Không lập nên một thuyết nào, nhưng Công Ðồng nhắc lại những điểm
chính trong thần học Công Giáo. Số này diễn tả lương tâm luân lý theo phương
pháp hiện tượng thuyết: 1) lương tâm như tiếng nói trong nội tâm từng người, 2)
chỉ dẫn về điều lành điều dữ, 3) và đòi hỏi phải tránh điều ác, làm điều thiện,
4) đòi hỏi như ra lệnh, 5) giống như một lề luật đã được khắc ghi vào thâm tâm,
6) không phải do chính mình lập ra.
Hiện tượng đó đầy ý nghĩa. Theo
Công Ðồng: 7) Phẩm giá con người hệ tại việc vâng theo tiếng nói đó, 8) bởi vì
đó là lề luật cuối cùng đối với từng người: theo đó con người sẽ bị xét xử, 9)
do đấy lương tâm cũng là nơi sâu kín nhất trong đó con người gặp Chúa một mình,
10) và ở đó con người tìm thấy luật sinh hoạt là luật được thực hiện trong giới
răn mến Chúa yêu người, 11) vì mọi người đều có lương tâm nên tín hữu và mọi
người khác có thể gặp nhau và hiểu nhau trong khi tìm chân lý.
Công Ðồng nói, 12) về lương tâm
ngay thẳng (của người cố gắng trung thành với tiếng nói đó) giúp ta hoạt động
theo qui tắc khách quan chứ không tự ý mù quáng. 13) Sự sai lầm không làm cho
lương tâm ấy hết giá trị: thực sự vì ngay thẳng nghĩ rằng hoạt động như thế hợp
với ý Chúa, được Chúa bằng lòng. 14) Chỉ khi nào cố ý từ bỏ chân lý và ý muốn
của Chúa, hay là khi lương tâm trở nên lu mờ vì tội lỗi, lúc ấy giá trị của nó
mới bị tổn thương.
9
Xem Rm 2,14-16.
10
Xem Piô XII, Thông điệp truyền thanh de conscientia christiana in juvenibus
recte efformando, 23-3-1952: AAS 44 (1952), trg 271.
11
Xem Mt 22,37-40; Gal 5,14.
22*
Quyền tự do là một thứ quyền đáng sợ, nhưng đồng thời là nguyên nhân khiến con
người nên cao quí thật sự. Do đó con người có thể lấy tình yêu đáp ứng lại tình
yêu Thiên Chúa, nhưng cũng có thể phản nghịch. Con người cao cả không phải vì có
thể theo sở thích, vì có thể phản nghịch hay vì có thể chiều theo những xu hướng
mù quáng của dục vọng trái với lý trí và đức tin, nhưng chính là vì có thể tự ý
đón nhận ý muốn của Thiên Chúa. Ðược tạo nên giống như hình ảnh của Thiên Chúa,
con người thật cao trọng khi tự ý cố gắng tới gần và giống như Thiên Chúa hơn.
Ðiều đó không phải là dễ dàng.
Quyền tự do bị ảnh hưởng bởi nhiều sức lực thúc đẩy, không những sức lực bên
ngoài (như giáo dục - hay là việc thiếu giáo dục - khung cảnh sống, dư luận,
hoàn cảnh xã hội v.v...) mà còn cả sức lực bên trong (như tính tình, sức khỏe,
dục vọng, mặc cảm và xu hướng tiềm thức).
Nếu con người không được đào tạo và
giáo dục để biết xử dụng quyền tự do thì con người có thể sống lâu mà ít khi
hoạt động tự do thật sự, nghĩa là ít khi đạt tới mức độ cao cả của mình theo như
ý Chúa.
Về quan niệm của Công Ðồng đối với
quyền tự do xin xem bảng phân tích.
12
Xem Hđ 15,14.
13
Xem 2Cor 5,10.
14
Xem Kn 1,13; 2,23-24; Rm 5,21; 6,23; Giac 1,15.
15
Xem 1Cor 15,56-57.
23*
Công Ðồng nhắc lại rất vắn tắt nhiều khía cạnh của hiện tượng đi ngược lại với
phẩm giá của con người hơn cả: đó là vô thần. Nhiều Nghị Phụ đã muốn lên án vô
thần một lần nữa, nhất là vô thần cộng sản. Nhưng tinh thần mới (x. lời giới
thiệu) đã thắng thế.
1) Hình thức (số 19b): Công Ðồng
nhắc lại nhiều hình thức khác nhau do một số lý do: a) vì triết thuyết (phủ nhận
Thiên Chúa; quả quyết con người không thể biết gì về Chúa; đặt vấn đề về Thiên
Chúa một cách lệch lạc vô nghĩa); b) vì đầu óc khoa học (muốn áp dụng khoa học
vào phạm vi ở ngoài phạm vi của nó; do đó không nhận chân lý tuyệt đối); c) vì
chủ nghĩa nhân bản (quá đề cao con người; Thiên Chúa không quan trọng; coi giá
trị nhân bản như tuyệt đối; hai hình thức trong số 20 cũng có tính cách nhân
bản: con người phải hoàn toàn tự trị không cần đến Chúa; hay là phải hoàn toàn
tự lập về kinh tế xã hội không bị tôn giáo ràng buộc); d) vì quan niệm sai lầm
về Chúa (từ chối một Thiên Chúa không phải là do Phúc Âm cho biết; tin nơi Thiên
Chúa để làm gì?); e) vì vấn nạn về sự dữ; f) vì đầu óc phàm trần (do văn minh
hiện đại dễ gây nên).
2) Nguyên nhân: Ngoài lý do vừa kể,
vô thần có thể có: a) do tội của cá nhân; b) nhưng một phần cũng có thể vì các
tín hữu chưa được đức tin đào tạo, vì nhiều khi trình bày đức tin cách khờ khạo,
vì đời sống không hợp với đức tin, đặc biệt là sinh hoạt xã hội (số 19c).
3) Thực tại của Giáo Hội: Vô thần
là trái với lý trí, với kinh nghiệm chung của nhân loại, với phẩm giá của con
người, a) thì Giáo Hội không thể không lên án nó; b) nhưng đàng khác Giáo Hội
muốn đối thoại với người vô thần, trình bày với họ rằng vô thần thiếu nền tảng
vững chắc (phẩm giá con người đòi hỏi phải tùng phục Thiên Chúa, và lòng tin nơi
Thiên Chúa không ngăn cản con người lo cho công việc phải làm để xây dựng thế
giới, các thắc mắc căn bản, trước hết về ý nghĩa chính con người, không giải
thích được; c) Giáo Hội muốn các tín hữu dấn thân vào công việc chung đó; d)
mong đợi người vô thần sẽ tôn trọng quyền tự do của họ và hơn nữa sẽ thành thật
tìm hiểu tinh thần Phúc Âm; e) còn tính hữu không những phải biết trình bày đức
tin, mà nhất là phải sống với đức tin sống động và với đức mến nồng nàn để mọi
người có thể nhận thấy Chúa qua Giáo Hội.
Về vô thần cộng sản, Công Ðồng chỉ
nhắc lại hai tính cách, dù chưa đủ để diễn tả nó hoàn toàn, nhưng cũng quan
trọng: a) tính cách nhân bản nhằm giải thoát con người trong lãnh vực kinh tế,
xã hội; b) tính cách độc tài và không chịu điều đình khi chiếm quyền chính trị.
Mác xít chủ nghĩa là một khái niệm
cho rằng thế giới tự nó là hoàn toàn và mang đầy đủ ý nghĩa, vì thế nó loại trừ
mọi tín ngưỡng tôn giáo. Lịch sử, con người, xã hội v.v... đều có ý nghĩa và
phát triển theo đòi hỏi biện chứng pháp. Nó mang tính cách tín ngưỡng hơn là
khoa học vì mục đích cuối cùng là giải thoát (cứu chuộc) con người khỏi các sự
mất nhân cách, cũng như vì đem lại một niềm hy vọng (thay thế đức cậy) vào sự
giải thoát đó trong tương lai.
Cũng như Giáo Hội, các tín hữu phải
loại bỏ thái độ thù hằn, tranh đấu, nghi ngờ... mà trong khi lên án vô thần (hơn
nữa chính vì thế) phải tìm hiểu tâm trạng của người vô thần để cùng nhau xây
dựng thế giới, và nếu có thể được, để đối thoại với họ. Ðối thoại một cách thành
thực và khôn ngoan, không giấu giếm đức tin mình mà trái lại, vì không thể đối
thoại thực sự khi không biết minh chứng bằng đời sống mình trước hết và bằng
việc trình bày giáo lý một cách đầy đủ và thích hợp (x. thêm số 28b).
Ðối thoại như vậy phải chăng là mới
lạ? Nhưng Công Ðồng đã nhắc cho chúng ta rằng chúng ta đang sống giai đoạn mới
(x. số 4b).
24*
Công Ðồng dùng danh từ Hy Lạp demiurgus. Một số triết gia xưa gọi demiurgus là
một thần tạo dựng vũ trụ mặc dầu không phải là Ðấng Tối Cao.
16
Xem Piô XI, Tđ. Divini Redemptoris, 19-3-1937: AAS 29 (1937), trg 65-106. - Piô
XII, Tđ. Ad Apostolorum principio, 20-6-1958: AAS 50 (1958), trg 601-614. -
Gioan XXIII, Tđ. Mater et Magistra, 15-5-1961: AAS 53 (1961), trg 451-453. -
Phaolô VI, Tđ. Ecclesiam Suam, 6-8-1964: AAS 56 (1964), trg 651-653.
17
Xem CÐ Vat. II, Hiến chế tín lý về Giáo Hội Lumen Gentium, Ch. 1, số 8: AAS
(1965), trg 12.
18
Xem Ph 1,27.
19
T. Augustinô, Confes. I, 1: PL 32,661.
20
Xem Rm 5,14. - Xem Tertullianô, De Carnis resurr. 6: "Vì vậy, bất cứ điều gì mà
bùn đất đã biểu thị đều nhắm về Chúa Kitô, Ðấng sẽ đến": PL 2,802 (848); CSEL,
47 trg 33, hàng 12-13.
21
Xem 2 Cor 4,4.
22
Xem CÐ Constantinopla II, đ.th. 7: "Ngôi Lời không biến đổi vào trong bản tính
xác thể, xác thể cũng không chuyển vào bản tính của Ngôi Lời": Dz 219 (428). -
Xem thêm CÐ Constantinopla III: "Bởi vì, cũng như thế thể xác Người hoàn toàn
thánh thiện, không tì vết và sống động, đã không bị thần hóa làm mất đi, nhưng
đã ở lại trong trạng thái và theo cách thế của Người": Dz 291 (556). - Xem CÐ
Calcedonia: "Phải nhận biết rằng trong hai bản tính không lẫn lộn, không thay
đổi, không phân chia, không tách biệt": Dz 148 (302).
23
Xem CÐ Const. I I I: "Cũng vậy, ý chí nhân loại của Người dù được thần hóa vẫn
không bị mất đi": Dz 291 (556).
24
Xem Dth 4,15.
25
Xem 2Cor 5,18-19; Col 1,20-22.
26
Xem 1P 2,21; Mt 16,24; Lc 14,27.
27
Xem Rm 8,29; Col 1,18.
28
Xem Rm 8,1-11.
29
Xem 2Cor 4,14.
25*
Tất cả mọi người có thể tham dự vào mầu nhiệm phục sinh (xem them GH 13, 16; MK
6-7, 14; TG 3, 7...).
30
Xem Ph 3,10; Rm 8,17.
31
Xem CÐ Vat II, Hiến chế tín lý về Giáo Hội Lumen gentium, ch.II, số 16: A AS 57
(1965), trg 20.
32
Xem Rm 8,32.
33
Xem Liturgia Paschalis Byzantina.
34
Xem Rm 8,15; Gal 4,6; Gio 1, 12 và 1Gio 3,1.
|