Đặc San Giáo Sĩ Việt Nam

 

 

 

ĐỰƠC CHỌN GIỮA LOÀI NGƯỜI
VÀ CHO LOÀI NGƯỜI  (x. Dt, 5.1)

 

GIÁO SĨ:

Xuất phát từ giáo dân, hiện diện vì giáo dân và cậy dựa vào giáo dân

 

ĐỂ CÙNG LÀM VINH DANH THIÊN CHÚA

 

www.conggiaovietnam.net                          giaosivietnam@gmail.com

Đặc San Điện Tử    Giáo Sĩ Việt Nam    Số 138, Chúa Nhật 13.02.2011


MỤC LỤC 

Lời Mở Ðầu  Gaudium Et Spes                                                                                Vatican 2

SUY NIỆM ĐẦU NĂM                                                                           Lm. Inhaxiô Trần Ngà

THƯ CHÚC TẾT TÂN MÃO CỦA CHA BẢO TỊNH, Ocist        GỞI GIA ĐÌNH LECTIO DIVINA

NHÌN NGƯỜI NỮ…, NHÌN NGƯỜI NAM…                                                       Lm. Minh Anh

NGỤ NGÔN THỜI BẤN LOẠN (KỲ 20)                                                             Gioan Lê Quang Vinh

HẠT GIỐNG SỰ THẬT                                                                                   Br. Huynhquảng  

Gíao hội Công Giáo từ sau Công đồng Vatican 2 đến chúng ta (bài 2)                Tiến sĩ Nguyễn Học Tập

CÁCH CẦU NGUYỆN Á CHÂU VÀ VIỆT NAM               Lm. Micae-Phaolô Trần Minh Huy pss

NGUYÊN NHÂN KHỦNG HOẢNG: CHƯA ĐỦ TRƯỞNG THÀNH           Lm. Minh Anh biên tập

XA QUÊ ĐÓN TẾT MỪNG XUÂN                                                     Bác sĩ Nguyễn Ý Đức M.D.

MÈO VỚI CHUỘT VÀ CHÓ                                                           Chuyện Phiếm của Gã Siêu


Lời Mở Ðầu

 

Thánh Công Ðồng Chung Vaticanô II

 

Hiến Chế Mục Vụ Về Giáo Hội Trong Thế Giới Ngày Nay

Gaudium Et Spes

 

Prepared for Internet by Vietnamese Missionaries in Asia

 

Lời Mở Ðầu

 

1. Liên quan mật thiết giữa Giáo Hội và toàn thể gia đình các dân tộc.

Vui mừng và hy vọng, ưu sầu và lo lắng của con người ngày nay, nhất là của người nghèo và những ai đau khổ, cũng là vui mừng và hy vọng, ưu sầu và lo lắng của các môn đệ Chúa Kitô, và không có gì thực sự là của con người mà lại không gieo âm hưởng trong lòng họ. Thực vậy, cộng đoàn của họ được cấu tạo bằng những con người đã được qui tụ trong Chúa Kitô, được Chúa Thánh Thần hướng dẫn trong cuộc lữ hành về Nước Cha và đã đón nhận tin mừng cứu rỗi đem tới cho mọi người. Vì thế, cộng đoàn ấy mới nhận thấy mình thực sự liên hệ mật thiết với loài người và lịch sử nhân loại 1*.

2. Công Ðồng muốn ngỏ lời với ai. Vậy, sau khi đã tìm hiểu tường tận hơn về mầu nhiệm Giáo Hội 2*, Công Ðồng Vaticanô II không còn chỉ ngỏ lời riêng với những người con của Giáo Hội và tất cả những ai kêu danh Chúa Kitô, nhưng không ngần ngại nói với tất cả mọi người. Công Ðồng ước ao trình bày cho mọi người biết mình quan niệm thế nào về sự hiện diện và hành động của Giáo Hội trong thế giới ngày nay.

Vậy thế giới trình bày ở đây là thế giới của con người, tức là toàn thể gia đình nhân loại với mọi sự thuộc môi trường sinh sống của gia đình này. Thế giới ấy là sân khấu của lịch sử nhân loại và là thế giới mang dấu tích những cố gắng, thất bại và thắng lợi của nhân loại; thế giới ấy, người Kitô hữu tin là đã được tình yêu của Ðấng Tạo Hóa tác thành và bảo trì; thế giới ấy đã rơi vào ách nô lệ tội lỗi, nhưng, nhờ Chúa Kitô chịu đóng đinh và sống lại mà bẻ gãy uy quyền Thần Dữ, đã được giải thoát để thay hình đổi dạng theo dự định của Thiên Chúa mà tiến tới sự viên mãn 3*.

Phục vụ con người. Ngày nay, tuy đã cảm phục trước những khám phá và quyền lực của mình, nhân loại vẫn thấy lo lắng thắc mắc về sự tiến hóa hiện nay của thế giới, về chỗ đứng và phận vụ con người trong vũ trụ, về ý nghĩa của những cố gắng cá nhân cũng như tập thể, và sau hết về cùng đích của con người và muôn loài. Vì thế, khi minh chứng và trình bày Ðức Tin của toàn thể dân Chúa đã được Chúa Kitô đoàn tụ, để diễn tả thật hùng hồn mối tình liên đới, sự tôn trọng và quí mến của dân Chúa đối với gia đình nhân loại mà mình là một thành phần, Công Ðồng thấy hay hơn hết là phải thiết lập cuộc đối thoại về những vấn đề ấy, phải lấy ánh sáng Phúc Âm mà soi dẫn, và phải cho nhân loại những năng lực cứu rỗi mà chính Giáo Hội đã nhận được nơi Ðấng Sáng Lập, nhờ Chúa Thánh Thần hướng dẫn. Thực vậy, việc phải làm là cứu rỗi nhân vị con người và xây dựng xã hội loài người. Do đó, con người - dĩ nhiên là con người duy nhất và toàn diện với thể xác và linh hồn, tình cảm và lương tri, trí khôn và ý chí - sẽ là then chốt tất cả phần trình bày của chúng tôi.

Vậy, khi công bố thiên chức cao cả của con người và xác nhận con người mang trong mình một mầm mống thần linh, Thánh Công Ðồng muốn đề nghị với nhân loại sự cộng tác thành thực của Giáo Hội hầu thiết lập một tình huynh đệ đại đồng phù hợp với thiên chức ấy. Không bị một tham vọng trần thế nào thúc đẩy, Giáo Hội chỉ nhắm một điều là dưới sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần, Giáo Hội tiếp tục công cuộc của chính Chúa Kitô, Ðấng đã đến thế gian để làm chứng cho chân lý 2, để cứu rỗi chứ không luận phạt, để phục vụ chứ không để được phục vụ 3.

 


Chú Thích:

1 Hiến chế Mục Vụ về "Giáo Hội trong thế giới ngày nay" tuy có hai phần rõ rệt nhưng làm thành một khối duy nhất.

Hiến Chế mệnh danh là "Mục Vụ" vì, dựa trên những nguyên tắc giáo lý, Hiến Chế nhằm trình bày thái độ của Giáo Hội với thế giới và con người ngày nay. Do đó, không phải là thiếu chủ đích mục vụ trong phần I, cũng như không thiếu chủ đích giáo lý trong phần II.

Trong phần I, Giáo Hội trình bày giáo lý của mình về con người, về thế giới con người đang sống và về thái độ của Giáo Hội đối với con người và thế giới. Trong phần II, Giáo Hội khảo sát tường tận hơn những khía cạnh khác nhau trong cuộc sống hiện nay và trong xã hội nhân loại, nhất là những thắc mắc, những vấn đề xét ra có vẻ khẩn thiết hơn trong thời đại chúng ta. Do đó, trong phần sau này, dựa trên những nguyên tắc giáo lý, nội dung không những bao hàm những yếu tố vĩnh cửu mà còn cả những yếu tố nhất thời nữa.

Vậy, phải giải thích Hiến Chế theo những nguyên tắc tổng quát của khoa chú giải thần học và đặc biệt phải lưu ý tới những hoàn cảnh thay đổi là những hoàn cảnh tự bản chất gắn liền với những vấn đề được bàn tới, nhất là trong phần thứ hai này.

1* Kitô hữu là người "bị lưu đày xa Chúa" (2 Cor 5,6) và người "không có thành trì kiên cố" ở đất này (Dth 13,14), nhưng vẫn còn thuộc về gia đình nhân loại. Mọi vấn đề của nhân loại phải làm rung động tâm hồn Kitô hữu. Chính Giáo Hội được thiết lập để đến cùng con người chứ không phải để chỉ sống cho mình mà thôi, Giáo Hội phải đối thoại với con người, đưa cho con người ánh sáng đức tin đã được trao phó cho Giáo Hội. Như thế Giáo Hội góp phần vào công việc chung nhằm cứu độ con người và cải thiện xã hội. Sứ mệnh của Giáo Hội không nhằm những tham vọng thế tục (số 3). Hiến Chế khai triển những tư tưởng này trong chương IV.

2* Trong Hiến Chế tín lý về Giáo Hội.

3* Theo thần học ta có thể quan niệm "thế giới" 1) là vũ trụ đã được Thiên Chúa tạo nên (x. Stk 1,1; Gio 1,3; Col 1,15-20); 2) Thiên Chúa đã trao phó hoàn vũ cho con người (x. Mt26,13; Gio 17,18); 3) nhân loại sa ngã chán ghét và chống đối Thiên Chúa (x. Gio 1,10; 7,7; 15,18t; 17,9; 1Gio 2,15); 4) Thiên Chúa yêu mến nhân loại đã được cứu chuộc (x. Gio 1,29; 3,13; 4,42; 2Cor 5,19). (ÐGM. Charue, phó chủ tịch Ủy Ban về tín lý, ngỏ lời trong thánh đường thánh Phêrô, ngày 24.9.1965: xem Documentation Catholique 62 (1965), 1863).

Hiến Chế Mục Vụ về Giáo Hội trong thế giới ngày nay hiểu thế giới theo nghĩa nhân chủng học (gia đình nhân loại), vũ trụ luận (tất cả thực tại chung quanh), lịch sử học (nơi diễn tiến của lịch sử), và thần học (được Thiên Chúa tạo nên vì tình yêu, v.v...).

2 Xem Gio 18,37.

3 Xem Gio 3,17; Mt 20,28; Mc 10,45.

 
VỀ MỤC LỤC
SUY NIỆM ĐẦU NĂM

 

Tăng trưởng với mùa xuân 

Theo dòng thời gian, hầu hết các vật dụng, các sản phẩm tiêu dùng hằng ngày do bàn tay con người làm ra đều được nâng cấp cực kỳ nhanh chóng.

Về nhà ở: Những căn nhà tranh vách đất cách đây mấy chục năm dần dần đã được thay thế bằng những căn nhà gạch lợp ngói, rồi những căn nhà ngói lại được thay thế bằng những biệt thự sang trọng và dần hồi những biệt thự nầy phải nhường chỗ cho những ngôi nhà nhiều tầng đầy đủ tiện nghi.   

Về phương tiện giao thông: Xưa kia, khi phải đi xa, cha ông chúng ta phải cuốc bộ suốt cả ngày trường, may lắm là được cỡi ngựa hay lừa.

Dần hồi, phương tiện đi lại được cải tiến, thay vì cỡi lừa hay ngựa, người ta đã sáng chế ra xe đạp. Sau đó xe đạp được cải tiến thành xe máy. Lên một bậc nữa, người ta chế tạo ra những chiếc xe hơi chạy bằng hơi nước đi chậm như rùa. Rồi những chiếc xe hơi cà tàng nầy phải nhường chỗ cho những chiếc xe hơi sang trọng có nhiều tiện nghi có thể đạt vận tốc tới vài trăm cây số một giờ. Ngày nay, người ta còn cải tiến xe hơi thành xe bay: loại xe nầy có thể chạy trên đường lộ với vận tốc kinh hồn, đồng thời cũng có thể cất cánh bay lên như một máy bay.

Đặc biệt là trong lĩnh vực truyền thông: Xưa kia muốn chuyển một bức thư từ Hà Nội vào Sài Gòn, các người phu trạm phải mất cả vài tuần mới chuyển tới tay người nhận; còn hôm nay, nhờ internet, muốn chuyển một bức thư và ngay cả mấy tấm hình từ Việt Nam qua Mỹ, người ta chỉ cần một vài giây. Ngoài ra, nhờ công nghệ số, một người từ bên nầy trái đất có thể đàm thoại trực tiếp với người ở phía bên kia địa cầu như thể nói chuyện với người đối diện, có thể nghe rõ tiếng và nhìn rõ mặt nhau.

Không nói đâu xa, chỉ cần nhìn lại những vật dụng tầm thường như đôi dép đi dưới chân, cái chổi quét nhà và ngay cả cái thùng rác cũng được cải tiến, nâng cấp liên tục.  

Các vật dụng do con người làm nên, giá trị chẳng đáng là bao, lại được nâng cấp liên tục, được cải tiến không ngừng, được hoàn thiện nhanh chóng.

Trong khi đó, con người là chủ nhân của tất cả những sản phẩm đó, có thực sự được cải thiện, nâng cấp không?

Thử nhìn và so sánh thực trạng xã hội hôm xưa và hiện nay xem sao.

Về mặt luân thường đạo lý: Xã hội ngày xưa không có chuyện li dị, phá thai, gian tham, trộm cắp lan tràn như ngày hôm nay. Ngày xưa không hề có chuyện trò đánh thầy như hôm nay.

Tiết hạnh của người phụ nữ, sự chung thủy trong hôn nhân, tình nghĩa thầy trò… vốn là những giá trị cao quý và rất được trân trọng trước đây, nay đang dần dần bị xem thường.

Thật đau lòng! Đang khi phẩm chất các sản phẩm do bàn tay con người tạo nên không ngừng được cải tiến và nâng cao; còn phẩm giá của con người là chủ nhân của các sản phẩm đó thì ngày càng bị suy giảm, sa sút! 

Trong lãnh vực chế tạo hàng tiêu dùng, châm ngôn của các chủ doanh nghiệp là: “Cải tiến hay là chết” – không cải tiến sản phẩm cho kịp với đà tiến công nghiệp là phải chết.

Còn trong lãnh vực tinh thần và đạo đức thì sao? Nếu phẩm chất của một con người không được cải tiến mà còn bị sa sút, thì người đó có đáng được trân trọng nữa không? 

Quyết tâm nâng cao phẩm chất con người .

Mùa xuân về, vạn vật đổi mới, cây cối khoác lá mới, các bông hoa khoe sắc mới, bầu trời cũng tươi sáng và ấm áp hơn… Cảnh vật thiên nhiên đổi mới trong mùa xuân là lời mời gọi và khích lệ loài người hãy đổi mới.

Thêm một năm, tăng một tuổi, đòi hỏi chúng ta phải gia tăng phẩm chất của mình theo đà tiến của thời gian.

Ý thức mình là Tạo Vật ưu việt do Thiên Chúa dựng nên giống hình ảnh Thiên Chúa, được làm con Thiên Chúa, được trở nên chi thể, nên thân mình Chúa Giê-su, chúng ta không thể để cho mình xuống cấp, thoái hóa, biến chất được.

Noi gương Chúa Giê-su “càng thêm tuổi, càng thêm khôn ngoan và nhân đức”, chúng ta phải làm gia tăng phẩm chất cao đẹp của mình.

Đáp Lời Chúa mời gọi: “Các con hãy nên trọn lành như Cha các con trên trời là Đấng trọn lành,” chúng ta cần cố gắng đổi mới từ ngôn từ đến hành động, từ con người cho đến nếp sống.

Nói năng sao cho có văn hóa.

Cư xử sao cho lịch sự, văn minh.

Hành động thế nào để chứng tỏ mình có phẩm chất cao đẹp.

Có như thế, chúng ta không còn hổ thẹn với những sản phẩm do bàn tay con người làm ra.

Có như thế, chúng ta mới xứng đáng là con Thiên Chúa, là thân mình Chúa Giê-su.

Nguyện xin Chúa Giê-su là Mùa Xuân Vĩnh Cửu ban nguồn sinh lực mới để đổi mới chúng ta.

 

Linh Mục Inhaxiô Trần Ngà

VỀ MỤC LỤC
THƯ CHÚC TẾT TÂN MÃO CỦA CHA BẢO TỊNH, Ocist GỞI GIA ĐÌNH LECTIO DIVINA
 

Xin giới thiệu cho nhiều người thân tham gia Gia Đình Lectio Divina Lecdiv@gmail.com  để có thể thường xuyên nhận tài liệu qua email và cùng giúp nhau thực hành "điều cần thiết nhất trong mọi điều cần thiết". Mọi thắc mắc về Lectio Divina, xin gởi email cho cha Bảo Tịnh, Ocist  Revbao@gmail.com 

Lời chúc xuân

Thưa bạn

Trong giờ Lectio đầu ngày cuối cùng của năm cũ, tôi nghĩ rất nhiều đến bạn, người ít lâu nay ghi tên vào Gia Đình Lectio divina, nhận tài liệu về Lectio divina và có lẽ say mê thực hành Lectio divina. Như lời tâm tình cho năm Tân Mão, xin gửi đến bạn số 86 trong Tông Hiến Verbum Domini”, (bản dịch chính thức của Ủy Ban Kinh Thánh trực thuộc Hội Đồng Giám Mục Việt Nam. Bạn đã có thể tìm mua sách tại các nhà sách Công Giáo, và có lẽ tại các Tòa Giám Mục).

Số 86 của Tông Huấn viết riêng về Lectio divina. Thật cô đọng, nhưng cũng thật quan trọng nói lên sự cần thiết “đọc Sách Thánh trong tư thế cầu nguyện” mà gia đình Lectio divina chúng ta đã và đang thực hành.

Mong rằng Lời Chúa sẽ luôn mãi là lương thực chúng ta dùng thường xuyên trong suốt ngày sống. Ước mong này là lời chúc xuân gửi đến bạn. Khi lời chúc được bạn tiếp nhận và thưc hiện thì bạn đã có một Mùa Xuân tuyệt vời nhất. Mùa Xuân bất tận trải dài suốt cuộc sống trần thế của bạn, trần thế nhưng thực ra đã là thiên đàng ngay tại thế này rồi.

Fr. Marie Bảo Tịnh O.Cist

 

TÔNG HUẤN VERBUM DOMINI

số 86. Đọc Sách Thánh trong tư thế cầu nguyện và “Lectio divina”

Thượng Hội Đồng nhiều lần nhấn mạnh tới việc cần phải có một cách tiếp cận bản văn thánh trong tư thế cầu nguyện, cho như là yếu tố căn bản cho đời sống thiêng của mọi tín hữu, đang dấn thân vào các thừa tác vụ và các bậc sống khác nhau, và đặc biệt nhắc tới Lectio divina (290: Đề nghị 17).

Quả thật, Lời Thiên Chúa nằm ở tại nền tảng của mọi linh đạo Kitô giáo chân chính. Như thế, các Nghị Phụ Thượng Hội Đồng đã đặt mình vào thế hoà điệu với những gì Hiến chế tín lý Dei verbum đã khẳng định: “Ước gì các tín hữu sẵn lòng đi đến với chính bản văn Kinh Thánh, hoặc nhờ phụng vụ thánh đầy dẫy Lời Thiên Chúa, hoặc nhờ việc sốt sắng đọc Kinh Thánh, hoặc nhờ những lớp học hỏi thích hợp và những phương tiện khác ngày nay đang phổ biến khắp nơi cách đáng mừng, với sự ưng thuận và chăm lo của các vị chủ chăn trong Giáo Hội. Nhưng họ nên nhớ rằng kinh nguyện phải có kèm theo việc đọc Kinh Thánh” (291: Số 25). Khi suy tư như vậy, Công Đồng muốn nhắc lại Truyền thống Giáo Phụ cổ kính vì Truyền thống này đã luôn khuyến khích người ta tiếp cận Sách Thánh trong tư thế đối thoại với Thiên Chúa. Như thánh Augustinô đã nói: “Lời cầu nguyện của bạn chính là lời bạn thưa với Thiên Chúa. Khi bạn đọc Sách Thánh, thì chính Thiên Chúa nói với bạn; khi bạn cầu nguyện, thì chính bạn nói với Thiên Chúa” (292: Enarrationes in Psalmos, 85, 7: CCL 39, 1177).   Ôrigiênê, một trong những bậc thầy của cách đọc Kinh Thánh này, chủ trương rằng muốn hiểu Kinh Thánh, còn hơn là muốn nghiên cứu Kinh Thánh, cần phải sống thân tình với Chúa Kitô và cầu nguyện. Quả thế, ngài xác tín rằng con đường ưu tiên phải theo để biết Thiên Chúa là tình yêu và người ta không đạt được một scientia Christi (sự hiểu biết Chúa Kitô) chân thật nếu không say mê Người. Trong Thư gửi cho Grêgôriô, nhà thần học trứ danh thành Alêxanria đã khuyến cáo: “Con hãy chuyên chăm đọc Sách Thánh; hãy kiên trì làm công việc này (…). Khi chuyên chăm đọc Kinh Thánh với ý hướng tin và làm vui lòng Chúa, nếu trong lectio, mà thấy có cánh cửa đóng, con hãy gõ cửa, và người canh cửa sẽ ra mở cho con, người canh cửa mà Đức Giêsu đã nói tới: ‘Người canh cổng sẽ mở cổng cho ông ta’. Khi chuyên chăm làm lectio divina (đọc Sách Thánh) như thế, với lòng ngay thẳng và niềm tín thác không lay chuyển vào Thiên Chúa, con hãy cố tìm hiểu ý nghĩa Sách Thánh, mà ý nghĩa trọn vẹn phần lớn bị che giấu. Tuy nhiên, đừng bằng lòng với việc gõ cữa và tìm kiếm: muốn hiểu sự việc của Thiên Chúa, tuyệt đối cần làm oratio (cầu nguyện). Chính là để khuyến khích chúng ta mà Đấng Cứu Thế không những đã nói: “Cứ gõ cửa cửa thì sẽ mở ra cho” và “Cứ tìm sẽ thấy”, nhưng còn nói: “Cứ xin thì sẽ được” (293: Origiênê, Epistola ad Gregorium, 3L PG 11,92).

Tuy nhiên, về điểm này, ta phải tránh nguy cơ một tiếp cận cá nhân chủ nghĩa, mà phải nhớ rằng Lời Thiên Chúa đã được ban cho chúng ta chính là để xây dựng sự hiệp thông, để nối kết chúng ta lại trong chân lý trong khi chúng ta tiến về với Thiên Chúa. Đây là một Lời ngỏ riêng tư với từng người, nhưng cũng là một Lời có sức xây dựng cộng đoàn, xây dựng Giáo Hội. Vì thế, bản văn thánh phải được luôn luôn tiếp cận trong tinh thần hiêp thông Giáo Hội. Thực thế, phải luôn luôn tiếp cận với bản văn thánh trong sự hiệp thông Giáo Hội. Quả vậy, “điều hết sức quan trọng là phải đọc trong cộng đoàn (…), bởi vì chủ thể sống động của Sách Thánh là Dân Thiên Chúa, là Giáo Hội. (…), Sách Thánh không thuộc về quá khứ, bởi vì chủ thể của Sách Thánh, là dân Thiên Chúa được chính Ngài linh hứng, vẫn là đoàn Dân ấy, do đó Lời Chúa cũng luôn sinh động nơi chủ thể sống động. Chính vì thế, điều quan trọng là phải đọc và trải nghiệm Sách Thánh trong sự hiệp thông với Giáo Hội, nghĩa là với tất cả các chứng nhân vĩ đại của Lời này, bắt đầu với các Giào Phụ đầu tiên cho tới các vị thánh thời nay, cho tới Huấn Quyền hiện nay (294: Đức Bênêđitô XVI, Diễn văn cho Đại chủng viện giáo hoàng Rôma (17-2-2007): AAS 99 (2007), tr, 254; OR bản tiếng Pháp, 27-2-2007), tr. 3).

Vì thế, muốn đọc kinh Thánh trong tư thế cầu nguyện, nơi ưu tiên là phụng vụ, nhất là Bí tích Thánh Thể, khi đó lúc ta cử hành Mình và Máu Chúa Kitô hiện diện trong Bí tích, chính Lời Chúa cũng hiện diện sống động giữa chúng ta. Theo một nghĩa nào đó, cách đọc Sách Thánh trong tư thế cầu nguyện, cá nhân cũng như cộng đoàn, phải luôn luôn được sống trong liên hệ với cử hành Thánh Thể. Cũng như việc thờ lạy Thánh Thể chuẩn bị, tháp tùng và tiếp nối việc cử hành Thánh Thể (295: X. Đức Be7nêđitô XVI, Tông Huấn hậu Thượng Hội Đồng Sacramentum Caritatis (22-2-2007). s. 66: AAS 99 (2007), tr. 155-156), thì việc đọc Sách Thánh trong tư thế cầu nguyện, cá nhân cũng như cộng đoàn, cũng chuẩn bị, tháp tùng và đào sâu những gì Giáo Hội cử hành khi công bố Lời trong khung cảnh phụng vụ. Khi đặt để Lectio và phụng vụ trong quan hệ chặt chẽ như thế, ta có thể nắm vững hơn các tiêu chuẩn phải hướng dẫn việc đọc Lời Chúa trong bối cảnh mục vụ và đời sống thiêng liêng của dân Thiên Chúa.

Trích Tông Huấn Hậu Thượng Hội Đồng Giám Mục

VERBUM DEI của ĐGH Bênêđitô VVI

về LỜI THIÊN CHÚA TRONG ĐỜI SỐNG VÀ SỨ MẠNG CỦA GIÁO HỘI

(Bản dịch của Ủy Ban Kinh Thánh trực thuộc HĐGM Việt Nam)

Nhà xuất bản Tôn Giáo - Nhà Sách Đức Bà Hòa Bình

 

Tài liệu đọc thêm trong những ngày đầu năm: 

LỜI CHÚA LÀ SUỐI NGUỒN BẤT TẬN

St. Ephrem 

Lạy Chúa, ai có thể hiểu hết được sự phong phú của những lời của Chúa?

Điều chúng con hiểu thì quá ít so với những gì chúng con bỏ qua không hiểu, như người khát đến uống ở suối nước. Những viễn tượng của lời Chúa thì nhiều vô kể,  như những ý hướng của những người học hỏi lời của Chúa.

Chúa đã tô điểm lời của Người bằng nhiều nét đẹp, để mỗi người trong số những kẻ tìm hiểu lời có thể chiêm ngưỡng những điều họ ưa thích, để mỗi người chúng ta có thể tìm gặp được sự phong phú trong những điều mình suy niệm.

Lời của Chúa là một cây sự sống, từ khắp các cành cống hiến cho bạn những trái được chúc phúc; lời Chúa như tảng đá được khơi mạch trong hoang địa để ban cho mọi người một thức uống thiêng liêng. Theo lời thánh Tông đồ, “họ đã ăn một thức ăn thiêng liêng, họ đã uống ở một suối thiêng liêng”.

Ai đã chiếm được một trong những điều phong phú này khi chia sẻ đừng lầm tưởng rằng trong lời của Chúa chỉ có điều họ tìm gặp. Ngược lại, họ phải hiểu rằng họ đã chỉ có thể khám phá được một điều trong muôn vàn điều khác. Được phong phú nhờ lãnh nhận lời, họ đừng nghĩ rằng lời đã bị nghèo đi; không thể làm cạn được lời, họ nên tạ ơn vì sự phong phú của lời.

Bạn hãy vui mừng vì bạn đã được đã khát, và đừng buồn vì những gì vượt qua bạn. Ai khát sẽ vui mừng được uống, nhưng không buồn vì mình đã không thể uống cạn được suối nước. Nếu cơn khát của bạn đã được thỏa thuê mà nguồn suối vẫn không cạn khô, bạn sẽ còn có thể uống nữa mỗi khi bạn khát. Bằng ngườc lại, nếu khi uống đã khát mà bạn làm cạn ngồn suối, sự chiến thắng của bạn sẽ biến thành điều bất hạnh cho bạn.

Hãy tạ ơn về điểu bạn đã lãnh nhận và đừng tiếc nuối về điều đã không thể dùng đến. Điều bạn đã lấy được và đem đi đó là phần của bạn. Những gì còn lại cũng là gia nghiệp của bạn. Điều bạn đã chưa có thể lãnh hội ngay vì sự yếu kém của mình, bạn sẽ nhận được vào lúc khác, nếu bạn luôn kiên trì. Vậy bạn đừng có ý nghĩ xấu là muốn đắc thủ một mạch điều không thể nhận hết được trong một lần; đừng vì trễ nải mà từ chối tiếp nhận điều bạn có thể thâu nhận ít một.

Thánh Ephrem (chú giải Phúc Âm) 

CUNG CHÚC TÂN XUÂN

VỀ MỤC LỤC
NHÌN NGƯỜI NỮ…, NHÌN NGƯỜI NAM…
 

CN VI A TN 

Sống là chọn lựa. Chọn lựa là hy sinh. Hy sinh là chết đi. Chết cho điều này để sống cho điều kia. Bài đọc thứ nhất sách Huấn Ca hôm nay nói đến việc chọn lựa, “Trước mặt con, Người đã đặt lửa và nước; con muốn gì, hãy đưa tay ra mà lấy. Trước mặt con là cửa sinh cửa tử; ai thích gì, sẽ được cái đó”. 

Tin Mừng hôm nay cũng nói đến việc chọn lựa, “Anh em đã nghe Luật dạy người xưa rằng: Chớ giết người; còn Thầy, Thầy bảo cho anh em biết, ai giận anh em mình thì đáng bị đưa ra toà”. “Anh em đã nghe Luật dạy rằng: Chớ ngoại tình; còn Thầy, Thầy bảo cho anh em biết, bất cứ ai nhìn người phụ nữ mà thèm muốn, thì trong lòng đã ngoại tình với người ấy rồi”.     

Nếu có những lối đi yên tĩnh thì cũng có những ngõ vắng xôn xao;

Nếu có những đường làng quạnh hiu thì cũng có những đại lộ rộn rã.

Tương tự như thế, trong tình yêu,

Tình yêu có cả những đại lộ thênh thang,

Cả những lối mòn chật hẹp. 

Các bạn trẻ thân mến,  

Luật cũ dạy: chớ giết người, chớ ngoại tình… đó là những đại lộ tình yêu, ai cũng thấy, ai cũng biết và dễ chấp nhận. Nhưng ai giận anh em mình, ai bảo anh em mình là “bờm”, thì đáng bị toà án luận phạt… đó là những lối hẹp tình yêu mà ai ai cũng dễ va vấp và khó chấp nhận. Cũng như, “Ai nhìn người nữ mà thèm muốn, thì trong lòng đã ngoại tình với người ấy rồi” lại là một lối mòn chật hẹp hơn. Phải chăng đây chính là điều mắt chẳng hề thấy, tai chẳng hề nghe, lòng người không hề nghĩ tới, điều Thiên Chúa đã dọn sẵn cho những ai yêu mến Người mà thánh Phaolô nói tới trong bài đọc thứ hai hôm nay?  

Có người nói, lạy Chúa, Chúa quá quắt, “Chúa đi guốc trong bụng đàn ông…”; nhưng cũng không ít người tạ ơn Chúa vì Chúa quá tế nhị, quá nhân ái khi không dám nói thêm “Ai nhìn người nam…”. 

Thưa các bạn, có lẽ đây là đoạn Tin Mừng mà mỗi khi đọc hoặc nghe nói đến là chúng ta nhăn mặt, một đoạn Tin Mừng hiếm khi được chọn để suy niệm trong các buổi chia sẻ. 

Vậy hôm nay, chúng ta thử nhìn thẳng vấn đề. Đức Giêsu muốn nói gì ở đây? Phải chăng Ngài muốn nói đến đức ái trọn hảo? Phải chăng Ngài muốn nói đến sự thanh khiết hồn nhiên của những ai theo Ngài? Hoặc Ngài muốn nói đến những đòi buộc triệt để giúp chúng ta tiến “nhanh hơn, cao hơn và xa hơn” trong đời sống làm con Chúa? Có lẽ tất cả đó đều là câu trả lời. 

Đức Giêsu, Đấng ba lần thánh, dẫu hoàn toàn vô tội… nhưng không vì thế mà những gì xảy ra nơi con người lại xa lạ với Ngài. Ngài biết đến những xung năng vật vã, biết cả những cuồng si ươn hèn, hay những cám dỗ chết người nơi thân phận bọt bèo của kiếp nhân sinh. Ngài biết nam cũng như nữ, trẻ cũng như già, khoẻ cũng như ốm, người sống đời dâng hiến cũng như kẻ ở bậc vợ chồng.  

Trong cuốn sách của mình, một bác sĩ tâm lý thổ lộ: “Tôi thiết nghĩ, trong đời sống vợ chồng, việc giữ đức khiết tịnh còn khó hơn gấp bội so với những người sống đời độc thân. Tôi không nói đến ngoại tình, nhưng tôi muốn nói đến sự kiêng khem”. Vậy thì tại sao phải kiêng khem trong bậc vợ chồng cũng như phải dè giữ ngũ quan trong đời dâng hiến? Câu trả lời hẳn phải có một mẫu số chung: tất cả chỉ vì tình yêu

Người ta sẽ không biết từ chối những điều cấm nếu đã không biết chối từ những điều được phép. Sẽ không biết yêu thương nếu người ta đã không biết hy sinh cả những gì có thể làm. Vì không phải điều ta dâng Chúa mới đáng giá, nhưng sẽ đáng giá hơn, cả những điều ta từ chối vì Người. Tất cả phải phát xuất từ tình yêu, chỉ vì tình yêu. Tất cả gỗ của muôn cánh rừng sẽ thật vô dụng nếu không có lấy một ngọn lửa, “Thầy đã đến đem lửa xuống thế gian, và Thầy những ước mong cho lửa này bùng cháy lên”. Lửa ở đây, chính là lửa yêu thương. 

Kitô hữu là những người lội ngược… mà dừng lại là thua cuộc, là trôi theo dòng đời.

Đừng ngần ngại tìm sự cô tịch cho tâm hồn ở những lối đi chật hẹp!

Đừng do dự trổ hoa giữa những sa mạc cằn khô!

Cũng đừng băn khoăn khi phải chắt chiu niềm vui nơi những lối đi gập ghềnh.  

Ngài có đó, Giêsu có đó… sẵn sàng dẫn dắt, bổ sức và chữa lành bạn; ở đó, niềm vui dâng hiến sẽ là những bông hoa hiếm hoi trổ nụ trên những que cọng tình yêu. Hãy cầu xin cho bạn đủ sáng, đủ hấp dẫn để các tâm hồn được gần Chúa hơn; cũng hãy cầu xin cho đủ lu mờ để không ai gắn bó với bạn mà xa dần Thiên Chúa. Chúc bạn mạnh mẽ để can trường đi vào những lối nhỏ yêu thương đó!  

Lm. Minh Anh (Gp.Huế)

VỀ MỤC LỤC
NGỤ NGÔN THỜI BẤN LOẠN (KỲ 20)
  

Ngụ ngôn 63

Con cáo sửa soạn bộ lông cho thật đẹp rồi từ giã rừng già để ra biển nghỉ hè. Cáo ngang nhiên đi lại trên bãi biển. Cáo nhìn trời nhìn mây, nhìn sóng nhìn cát cười vui: “Ôi đẹp quá”. Cáo ta mua cua ghẹ, tôm và nhiều thứ hải sản khác, ngồi nhai ngấu nghiến. Vừa ăn cáo vừa quăng vỏ tôm cua trên cát. Chưa hết, cáo còn gọi nhiều loại bánh trái, vừa ăn vừa ngắm cảnh tuyệt vời. Cáo cũng tiếp tục quăng đủ thứ vỏ xuống cát. Ăn xong, cáo ngủ ngon lành.

Chiều xuống, cáo tỉnh giấc nhìn chung quanh. Thấy bao nhiêu là rác, vỏ tôm cua và giấy gói la liệt, cáo hét lớn: “Biển thật không văn minh gì cả, dơ bẩn quá”. Chê bai xong, cáo phóng chạy về rừng, không cần nghỉ hè nữa.

Ngụ ngôn 64

Thỏ đi phương xa về học được hai bài học: Nói thật và Công bằng. Hổ và sư tử cấm loài  đi loan truyền loại giáo thuyết “phản động” ấy. Rừng xanh có hai thứ luật là luật của rừng và luật của thời tiết. Luật rừng là ai mạnh thì thắng, ai yếu thì biến. Luật thời tiết là mưa thì rừng ướt, nắng thì rừng khô, không loài nào được có ý kiến. Thế nhưng mỗi khi trời nắng, cọp bảo đang mưa thì mọi con thú phải đồng thanh hô: “Trời đang mưa”

Thỏ bảo: “Ở đồng bằng có đôi phần khác biệt. Mưa thì bảo mưa, nắng thì bảo nắng. Và không ai được chiếm của cải người khác”. Hổ và sư tử nói: “Làm gì có chuyện ấy!”

Để “đi thực tế”, hổ và sư tử hạ sơn, viếng miền đồng bằng. Đang phóng như lao, hai chúa sơn lâm nghe tiếng người đồng bằng hét to: “Dừng lại, nguy hiểm, dây điện giật chết đó”. Sư tử và hổ theo luật rừng không tin là con người nói thật. Sợi dây nhỏ xíu ấy mà làm chúa sơn lâm chết được ? Hai con thú ấy gầm lên, phóng thẳng tới, dùng chân quấn dây điện định bứt tung đi.

Chiều hôm ấy dân làng được một bữa ăn thịt cọp đúng nghĩa đen.

Ngụ ngôn 65

Năm hết Tết đến. Hoa mai nói với hoa đào: “Mình góp phần làm cho mùa Xuân thêm đẹp”. Hoa đào bảo: “Vậy mà sau Tết họ quăng mình đi.”

Bình hoa giả nghe vậy bật cười: “Hai chị thật quá nên bị loại là đúng rồi. Cứ giả giả như em đây thiên hạ đem chùi rửa rồi chưng hoài”.

Mùa Xuân nghe vậy ứa nước mắt.

Gioan Lê Quang Vinh

www.giaoducconggiao.net
 

VỀ MỤC LỤC
HẠT GIỐNG SỰ THẬT
 

Chuyện kể rằng, một vị vua tài đức nọ giàu đức hạnh, nhưng không có hoàng tử nối ngôi. Vị vua nghĩ tới việc chiêu mộ những người trẻ tài đức để có thể kế vị ông sau khi ông qua đời.

Một ngày kia, vua cho mời tất cả các trẻ em từ 5 đến 12 tuổi vào hoàng cung. Vị vua giải thích cho các em ý định của ông là muốn tìm người tài đức để thay ông cai quản đất nước. Ông trao cho mỗi em một hạt giống và dặn các em rằng sau 3 năm, các em hãy mang mỗi cây mà mình sẽ trồng đến trình diện tại cung điện. Sau khi nhận hạt giống, mỗi em điều nhiệt tình trồng hạt giống của mình và ngày đêm chăm sóc chúng với hy vọng là cây của mình sẽ lớn nhanh và có thể sinh hoa kết quả. Một số em nghĩ rằng, mình phải gây sự chú ý của nhà vua bằng cách làm cho cây của mình thật lớn và có hoa quả.

Đúng ngày đã hẹn, cả nước nhộn nhịp tiến vào cung điện để xem thử cây nào là cây đẹp nhất, có nhiều trái nhất, và để xem ai sẽ là vị vua tương lai cho đất nước. Quả đúng như dự tính, mỗi em đều mang đến cây mà mình đã trồng với nhiều màu hoa hương sắc. Người ta cũng thấy có những cây đã kết trái thật xum xuê. Nhà vua đi đến từng địa điểm để hỏi thăm các em, cách thức các em trồng cây. Sự hồi hộp và im lặng của đám đông càng tăng lên khi nhà vua tiến đến những cây tươi trái tốt; nơi mà nhiều người nghĩ rằng một trong số các em này sẽ được chọn là hoàng tử. Thế nhưng, nhà vua vẫn tiếp tục đi qua và bỗng dưng ông  dừng lại trước một cậu bé. Trên tay cậu bé là một chậu đất không cây. Thấy nhà vua đứng lại bên mình, cậu biểu lộ sự thất bại bằng dòng nước mắt chảy dài trên má. Nhà vua hỏi, “Tại sao con khóc?” Cậu bé thưa, “Con đã gieo hạt giống vào chậu đất này, con đã bón phân cho nó, con đã tưới nước cho nó hằng ngày, con đã che nắng cho nó và con đã làm nhiều cách để chăm sóc hạt giống của con, nhưng cuối cùng không có cây nào.” Càng nói, cậu bé càng khóc lớn tiếng. Nhà vua ôm cậu vào lòng và ra lệnh cho quân lính cáng cậu lên chỗ cao danh dự. Giờ đây, trước sự sững sốt của bao nhiêu người, và kể cả cậu bé, nhà vua bắt đầu lên tiếng. “Hôm nay, bệ hạ đã tìm được người mà bệ hạ mong đợi từ lâu. Cậu bé đây đã chân thật khi nhận sự thất bại của mình. Và thực đúng là như vậy. Vì tất cả hạt giống ta trao cho các con cách đây 3 năm, chúng đã bị luộc chính cả rồi.” Nhà vua quay qua cậu bé và nói. “Con đã biết trung thành và trung tín trong việc nhỏ, con đã không bị ngai vàng và danh lợi mê hoặc; con đã cần mẫn chu toàn công việc của con với hết khả năng của mình. Đó là điều ta mong muốn.” Nhà vua nói tiếp, “Trên tay con là chiếc chậu đất không cây, nhưng chính trong trái tim con, con đã gieo hạt giống sự thật vào lòng mọi người hôm nay.”

* * *

Bạn thân mến, câu chuyện trên như thêm khẳng định cho chúng ta rằng: giá trị của sự thật thì vĩnh cửu. Sức mạnh của sự đơn sơ và chân thật rất thầm lặng đến nổi không phải ai ai cũng có khả năng để nhận ra được, nhất là khi chúng ta đang sống trong một xã hội như yêu chuộng bề ngoài.

Biết bao nhiêu bực thánh nhân, vĩ nhân đã bị hiểu lầm và kết án chỉ vì họ sống đơn sơ chân thật. Họ nhìn thấy được giá trị siêu việt của đời người không phải ở lời ca tụng hay chê bai, thành công hay thất bại, nhưng là chân giá trị phát xuất từ ý ngay lành của họ. Msgr. John Cippel, một nhà truyền giáo và linh hướng nổi tiếng hiện đang sống tại Florida đã chia sẻ rằng: “Thách thức lớn nhất trong đời linh mục của tôi là đi vào sự thật.” Những người như Msgr. John Cippel luôn can đảm ráo rốt tìm câu trả lời xuất phát tự trong lương tâm họ: “Động cơ tối hậu của tôi là gì?”[1] Tôi có đơn sơ thi hành những phận vụ này xuất phát từ ý ngay lành của tôi hay vì một mục đích lý do nào khác?

Như thế đó, sự đơn sơ và chân thật đi luôn với nhau. Trái tim và ánh mắt của trẻ thơ dạy cho chúng ta biết sự đơn sơ chân thật. Đối với các em, ai ai cũng là bạn, ai ai cũng có thể bắt chuyện, ai ai cũng có thể chơi đùa. Nếu các em dừng lại, ngập ngừng, e sợ,… đó là lúc các em bắt đầu tiếp cận với thế giới “người lớn.” Buồn thay, thế giới ấy là thế giới cạnh tranh và nhiều mưu mô.

Đâu rồi sự đơn sơ chân thật như trẻ thơ trong mỗi người chúng ta? Hãy là trẻ thơ với nhau đi, đừng gây thêm hận thù và chia rẻ nữa!

Br. Huynhquảng  

Mời bạn ghé thăm trang  http://brhuynhquang.org/.

Email liên lạc: brhq@brhuynhquang.org

VỀ MỤC LỤC
GIÁO HỘI CÔNG GIÁO TỪ SAU CÔNG ĐỒNG VATICAN II ĐẾN CHÚNG TA (bài 2).
 

 Xin đọc phần 1 trong số báo 137 hoặc tại đây:

http://www.conggiaovietnam.net/index.php?m=module2&v=detailarticle&id=84&ia=8184

NGUYỄN HỌC TẬP

II - Đức Thánh Cha Gioan Phaolồ II.

Rất khó mà chuẩn định được chính xác về Đức Thánh Cha Gioan Phaolồ II. Chân dung cao cả  của ngài và triều đại lâu dài, nhiều thay đổi khác nhau và đầy động tác cần phải có một thời gian dài nhiều năm nữa mới có thể có được một cái nhìn đối với tất cả mọi phương diện.

Chỉ cần nhớ lại những gì tất cả đều nhắc nhớ đến lúc ngài mất đi.

Ngài là vị Giáo Hoàng thứ 3 có triều đại lâu nhứt trong lịch sử Giáo Hội, sau Thánh Phêrô, mà theo tục truyền là Vị cai quản Giáo Hội suốt 35 năm, kế đến là Đức Pio IX, làm Giáo Hoàng suốt 31 năm.

Nhờ vào triều đại lâu dài nầy, mà Đức Gioan Phaolồ II đã vượt trên tất cả các Đấng khác về nhiều phương diện:

   - các chuyến công du mục vụ,

   - các bài diễn văn đã được tuyên bố,

   - các vụ phong chân phước và phong thánh,

   - các thông điệp và các tài liệu được viết ra,

   - các buổi yết kiến chung và riêng tư,

   - các cuộc gặp gỡ và cử hành về đủ mọi phương diện ( ai trong chúng ta cũng còn nhớ Đại Năm Thánh 2000).

   a) Nhưng công đức đích thực của Đức Gioan Phaolồ II còn là một cái gì khác nữa: ngài là vị Thuyền Trưởng đã hướng dẫn Giáo Hội " ra khơi " trong cuộc hãi trình từ ngàn năm thứ hai sang ngàn năm thứ ba, như Đức Hồng Y Wyszynski đã tiên đoán khi ngài được tuyển chọn.

Đức Gioan Phaolồ II là vị Thuyền Trưởng đã hướng dẫn Giáo Hội từ Công Đồng Vatican II đến thời hậu Công Đồng nhứt là trên phương diện thần học: Ngài đã nhận lấy sứ mạng khó khăn dìu dắt Giáo Hội và nhân loại trong thời gian chuyển đổi từ ngàn năm thứ hai đến ngàn năm thứ ba, nhứt là trên lãnh vực lịch sử.

Thật vậy, Đức Gioan Phaolồ II đã lãnh nhận một thế giới và một Giáo Hội, mà sau triều đại giáo hoàng của ngài, không còn như trước nữa, mà đã thay đổi sâu đậm.

Ngài đã cùng bước đi với thế giới và Giáo Hội trong thời gian chuyển tiếp.

Năm 1978, thế giới đã bị rách nát và chia rẻ, bị phân đôi bởi hai " hành lang sắt " ( cortina di ferro ). Hoà bình được dựa trên mức cân bằng mỏng dòn và đầy doạ nạt của các hoả tiển với đầu đạn nguyên tử, phía bên nầy chỉa về phía bên kia. Chủ nghĩa cộng sản đang ngự trị trên phần lớn nhân loại lúc đó. Tiến trình loại bỏ Ki Tô giáo và cơn khủng hoảng về các giá trị đang lan tràn ngay cả ở những Quốc Gia Tây Phương được Phúc Âm hoá nhứt. 

Cơn khủng hoảng thế giới đó có ảnh hưởng sâu đậm đến đời sống trong nội bộ của Giáo Hội. Bởi đó Giáo Hội được mời gọi phải quay trở về với giá trị nội tại của chính mình, một cuộc quy hường trở lại không phải dễ dàng, không phải vượt những chướng ngại khó khăn, nhứt là phải bỏ đi những đặc ân và được kính trọng trong thời gian " Ki Tô giáo toàn diện " của thời Công Đồng Trento, để áp dụng những chỉ thị canh tân được Công Đồng Vatican II khởi xướng.

Con thuyền Giáo Hội đang phải trải qua lúc đó, dưới triều đại của Đức Gioan Phaolồ II,

   - những phong trào chống đối Giáo Hội, không những từ bên ngoài, mà còn ngay cả trong nội bộ;

   - các tín hữu không còn mấy tha thiết đi nhà thờ, đi lễ;

   - ơn kêu gọi linh mục cũng bị giảm xuống rõ rệt. 

   b) Đức Gioan Phaolồ II vác lấy Thánh Giá triều đại giáo hoàng của mình, khởi sự lập tức bằng những chuyến công du mục vụ. Ngay lúc đầu, có lẽ chính bản thân ngài cũng không thể tưởng tượng nỗi minh có thể hoàn thành đến 104 chuyến công du, viếng thăm 129 Quốc Gia và tiếp xúc với 703 các nhà lãnh đạo Quốc Gia.

Đức tin không lay chuyển là mình đang thực hiện sứ mạng của đấng thế vị Thánh Phêrô và là người rao giảng Phúc Âm, tình yêu thương nhiệt thành đối với Chúa Ki Tô và đối với con người, là nền tảng việc dấn thân mục vụ của ngài.

Điều đó giải thích được tại sao ngay từ ngày khởi đầu của triều đại giáo hoàng ngài đã luôn luôn bênh vực

   - con người trong tất cả tiến trình của cuộc sống,

   - gia đình,

   - tuổi trẻ,

   - các quyền bất khả xâm  phạm của con người và nền hoà bình, nhờ đó con người có thể có được một cuộc sống xứng đáng với phẩm giá nhân loại của mình.

Để thực hiện các mục đích vừa kể Đức Gioan Phaolồ II đã khuyến khích đối thoại giữa các nền văn hoá và giữa các tôn giáo với nhau, ở bất cứ phần đất nào trên thế giới, cũng nhờ vào việc ngài biết dùng một cách sáng suốt các phương tiện truyền thông đặc biệt, mà ngài tỏ ra là bậc thầy đáng cho mọi người chúng ta bắt chước.

Điều ai cũng lấy làm lạ là sứ mạng bênh vục con người vừa kể của Đức Gioan Phaolồ II ngay từ lúc đầu đã được đánh giá và ngưỡng mộ ngay cả đối với những thành phần của lãnh vực " thế giới ngoại đạo " ( mondo laico), mà họ đã thố lộ với Cha Bartolomeo Sorge S.J., khi có dịp giao tiếp để làm việc với bán nguyện san của các cha Dòng Tên, " LA CIVILTÀ CATTOLICA " (mà Cha B. Sorge là Giám Đốc lúc đó ).

Và đây là một ví dụ cách đánh giá cao cả của vị Tổng Thống Cộng Hoà Ý Quốc lúc đó ( năm 1979), trong một bửa cơm thân mật, mà Tổng Thống kính mời Đức Giáo Hoàng tham dự (Tổng Thống Cộng Hoà Bertini Sandro là người thuộc đảng thiên tả vô thần).

Trong lúc hai vị đang hàn huyên thân mật, thì Tổng Thống Bertini cho biết:

   - " Tôi là người vô tôn giáo, nhưng nếu có Chúa, tôi không cách xa Người bao nhiêu ".

Kế đến ông kể cho Đức Gioan Phaolồ II biết lòng đạo đức sâu xa của mẹ ông. Và ông tiếp theo:

   - " Mỗi sáng tôi tự xét lương tâm mình. Khi tôi thức dậy, tôi tự hỏi mình : " Sandro, mầy phải xin lỗi ai hôm nay ? ". Và rồi tôi lấy giấy bút và viết lên...".

Và rồi vị Tổng Thống  Bertini Sandro còn nói cho Cha Bartolomeo Sorge biết:

   - " Điều mà tôi cảm nhận được nhứt, đó là Đức Giáo Hoàng không hề tìm cách khuyên tôi trở lại đạo. Tôi nghĩ không biết ngài nghĩ sao về tôi, tôi nghĩ trong bụng như vậy... ".

Và kế đến vị Tổng Thống còn tiếp theo:

   - " Thưa Đức Thánh Cha, tôi luôn luôn nghe theo tiếng nói lương tâm của tôi ".

   - " Và Đức Gioan Phaolồ II tỏ ra tình thân thiện ôm lấy tôi và nói với tôi : " Tốt, tốt lắm ! Hãy theo tiếng nói lương tâm của mình, bởi vì luơng tâm là Đấng Tối Cao ".

   - " Cha biết không, thưa Cha, vị Tổng Thống kể tiếp với Cha Bartolomeo Sorge bằng cách nhìn thẳng vào đôi mắt Cha: " Biết bao nhiêu lần tôi đã suy niệm về những lời nói vừa kể của Đức Thánh Cha " (Bartolomeo sorge, La Traversata, Mondadori, 2010, 99).  

   c) Ấn tượng mà Đức Thánh Cha Gioan Phaolồ II đã tạo ra nơi " một người ngoại đạo " như Tổng Thống Sandro Bertini vừa kể, biết bao nhiêu lần ngài cũng đả tạo nên nơi bao nhiêu người khác, không những trong những cuộc gặp gỡ riêng tư, mà cả những cuộc gặp công cộng, khi ngài nói trước công chúng.

Bởi đó hôm nay, giữa những " học gia không có đạo" cũng cho rằng phần lớn nhờ vào sức hấp dẫn của con người và sức chuyên cần của Đức Gioan Phaolồ II mà

   - Phúc Âm được loan báo khắp thế giới,

   - chủ nghĩa cộng sản bi triệt hạ và tự do tôn giáo được thiết lập lại trên nhiều Quốc Gia,

   - tinh thần tôn giáo được đánh thức dậy trong các Quốc Gia cộng sản và duy vật,

   - Giáo Hội có được một thời điểm chấn hưng và phát triển trở lại, mặc cho còn một vài yếu tố vẫn còn dai dẵng,

   - cuộc đối thoại hiệp nhứt Ki Tô giáo và liên tôn đã có được những bước tiến triển khả quan.

Nói tóm lại, sau thời Đức Gioan Phaolồ II, mối tương quan giữa Giáo Hội và thế giới chắc chắn không còn ở tình trạng ba mươi năm trước nữa.  

Tuy vậy, không phải những gì sáng chói đều là vàng son. Làm sao chúng ta không thấy được chủ nghĩa vô thần đã ra đi, nhường chổ lại

  - cho chủ nghĩa tôn giáo dững dưng ( indifferentismo religioso ),

  - cho tình trạng trống rổng các giá trị và cho chủ thuyết " tân ngoại giáo " (neopaganismo) của phái " thời đại mới " ( new-age ) cũng nguy hiểm cho đức tin không kém?

Ai trong chúng ta cũng còn nhớ có đến gần 7 triệu người đến tham dự lễ an táng của Đức Gioan Phaolồ II ở Roma.

Nhưng khối dân chúng đó cũng chưa đủ để chống trả lại nền luân lý đang " trôi giạt lơ lửng đó đây " của ngàn năm thứ ba?

   d) Bởi đó, nếu triều đại lâu dài của Đức Gioan Phaolồ II đã cho phép ngài hoàn tất nhiều dự án canh tân mà Công Đồng Vatican II đã nêu lên và chưa được Đức Phaolồ VI thực hiện hoàn hảo, chúng ta phải nhìn nhận rằng ngoài những thành quả đã đạt được Đức Thánh Cha Gioan Phaolồ II, chết đi, còn để lại cho đấng kế vị ngài nhiều vấn đề trầm trọng hiện còn mở ngõ.

   - Về tình hình thế giới, mặc cho những gắng sức phi thường của Đức Thánh Cha Gioan Phaolồ II chống lại mọi hình thức bạo lực, hoà bình vẫn còn là mục đích xa xôi.

Nhiều người có ảo tưởng rằng sự kết thúc của chủ nghĩa cộng sản có thể xảy ra không có gì phải chấn động, đụng chạm.

Đúng, đã không xảy ra qua cuộc thế chiến III. 

Tuy nhiên, ngoài ra những cuộc đụng chạm bùng nổ trên các cựu thuộc địa của Liên Bang Sô Viết ( Caucaso, Romania, Nam Tư), còn có những cuộc chiến bùng nổ thảm khóc ở Afghanistan và Iraq, mà hiện nay chúng ta chưa có được một viễn tượng nào có thể kết thúc.

Kế đến sau khi bức tường Bá Linh sụp đổ, thì bộc phát các cuộc tấn công của quân khủng bố đó đây trên thế giới, mà ai trong chúng ta cũng nhớ đến vụ tấn công man rợ vào Hai Tháp Sinh Đôi ở New york ngày 11.09.2001 hay cuộc thảm sát ở Madrid ngày 11.03.2004.

Để thoát ra khỏi cơn lốc khủng khiếp đó đang còn hiện nay, Đức Gioan Phaolồ II đã nhấn mạnh đến việc con người ngoài ra phải trở lại

   - nhìn nhận quyền thượng đẳng của Thiên Chúa và của lương tâm luân lý,

   - cũng như việc tôn trọng công pháp quốc tế và điều cần thiết ưu tiên là giải quyết được mối tranh chấp Do Thái - Palestina đang làm đổ máu tại Thánh Địa.

Nếu trước tiên không dập tắt được đống lửa đó - ngài lập đi lập lại nhiều lần - không có hoà bình ở Giêrusalem và cũng sẽ không có hoa bình trên thế giới.  

Nhân loại đang trong tiến trình toàn cầu hóa kinh tế và văn hoá, nhưng chưa tìm được tình trạng cân bằng mới, sau mối cân bằng bấp bênh giữa Mỹ và Nga kéo dài được 50 năm. 

Chắc chắn sự thăng bằng ổn định mới không phải là thăng bằng đơn cực mà Hoa kỳ muốn áp đặt lên thế giới, bởi hiện trạng vì là cường quốc duy nhứt còn sót lại.

Hiện nay không có Quốc Gia nào, dầu giàu mạnh đến đâu cũng vậy, có thể tự mình giải quyết được hết các vấn đề đang và sẽ xảy đến. Đó là những vấn đế có tính cách toàn cầu:

   - vấn đề an sinh môi trường,

   - bảo vệ sức khỏe,

   - chống lại bè đảng lưu manh, tội phạm có tổ chức,

   - chống lại nha phiến lan tràn,

   - chống lại sự nghèo đói Miền Nam địa cầu,

   - thiết lập hoà bình.

Hoặc là chúng ta cùng nhau dấn thân thực hiện hay chúng ta sẽ bị ngã đổ, tiệu diệt tất cả.

Đức Thánh Cha Gioan Phaolồ II đã dùng hết nghị lực của mình để mong làm nảy sinh được một thế giới huynh đệ và công chính, luôn luôn hiện diện trước mắt ngài các thảm trạng của các xứ nghèo khổ của Thế Giới Đệ Tam. Bởi đó ngài lập đi lập lại không ngừng nghỉ:

   - " Cần phải toàn cầu hoá tình liên đới hổ tương ".

Ngài nhấn mạnh điều đó để lên án " tư bản chủ nghĩa man dại " cùng với lòng xác tín mà ngài đã chiến đấu chống lại công sản chủ nghĩa.

Ngài đã kêu gọi hãy giảm bớt hay tha thứ nợ ngoại quốc cho các Quốc Gia nghèo cùng với lòng thành thật mà ngài đã xin Chúa thứ tha cho những bất trung trong Giáo Hội.

Nhưng tiêng kêu gọi của ngài vẫn chỉ còn là lời mong ước !  

Ngoài ra những gắng sức vừa kể, Đức Gioan Phaolồ II còn nhấn mạnh cảnh cáo là cần phải

   - xây dựng một nền luân lý được đồng thuận ( ethos condiviso )

   - và vượt thắng được " tương đối chủ nghĩa " đang lan tràn,

để dựa vào đó nhân loại có thể trả lời được đối lại những thử thách luân lý mới, thoát xuất nhứt là từ việc áp dụng các kỷ thuật mới đối với đời sống con người.

Đức Gioan Phaolồ II đã luôn luôn mạnh mẽ tố cáo mọi cuộc mưu sát chống lại đời sống và phẩm giá con người, bằng cách để ý đến các pha trộn chế hoá các yếu tố di truyền ( manipolazioni genetiche), có khả năng tiêu hủy và bạo lực trên con người không khác gì các bạo lực và sát hại thoát xuất từ các tư tưởng độc tài của thế ký XX.

   e )  Và không phải dễ dàng, không đòi hỏi nhiều sức lực, đó là giải quyết một vài vấn đề trong nội bộ Giáo Hội, mà Đức Gioan Phaolồ II mất đi vẫn còn để mở ngỏ.

Cách chọn lựa " triều đại giáo hoàng công du " của ngài, cùng với ân sủng đặc biệt, đã giúp cho ngài thực hiện được phương thức mới để rao giảng Phúc Âm, đối thoại liên tôn và liên văn hoá, trong một thế giới " ngoại giáo " hay dững dưng đối với Ki Tô giáo. Nhưng phương thức trên không giúp cho ngài giải quyết được một vài vấn đề trong nội bộ Giáo Hội, nhứt là trong nhiều Giáo Hội địa phương.

Dĩ nhiên Đức Gioan Phaolồ II đã triệu tập nhiều lần Thượng Hội Đồng Giám Mục quốc tế, ở cấp bậc hoàn vũ cũng như cấp bực vùng hay địa lục, làm sống động lại sứ mệnh của Hội Đồng Giám Mục.

Nhưng chúng ta cũng thừa biết không thiếu những khó khăn cho mối tương quan của giữa một số các Giám Mục với Toà Thánh.

Chính với lòng can đảm ngôn sứ mà Đức Gioan Phaolồ II đã phát động chiến dịch canh tân phận vụ Phêrô của Toà thánh, nhằm mục đích phục vụ hơn là hòn đá làm cho vấp phải, cho  đến nay vẫn còn là giấc mơ, chưa thực hiện được. Giáo Hội vẫn còn phải can đảm giải quyết vấn đề trách nhiệm tập thể " cum Petro et sub Petro " ( cùng với Phêrô và dưới (tuân theo)  Phêrô), mà qua đó là giai đoạn bắt buộc phải có, để đi đến canh tân phương thức hành xử phận vụ phục vụ của Phêrô.  

Đức Gioan Phaolồ II mất đi, còn để lại những vấn đề khác nữa.

Nhưng có lẽ không chính đáng và không công bình chúng ta cứ chú tâm về những vấn đế chưa được giải quyết, trong khi đó thỉ ngài để lại cho chúng ta gia sản tích cực đáng kể và qúy giá đã được tạo ra trong triều đại giáo hoàng của ngài.

Đức Gioan Phaolồ II, ngoài ra mẫu gương mục vụ bằng phụng vụ, được nuôi dưỡng bằng đức tin sắt đá và bất lay chuyển, ngài còn để lại cho cả Giáo Hội thừa hưởng di sản hai tình yêu cao cả, bí mật lạ thường của triều đại giáo hoàng ngài. Đó là

   - tình yêu thương đối với giới trẻ, khiến cho giới trẻ luôn luôn phấn khởi theo ngài cho đến lúc ngài hấp hối và chết đi, trong khi họ tràn ngập công trường Thánh Phêrô với các biểu ngữ : " Ngài đã kêu gọi chúng con và đây chúng con đang có mặt ". 

   - tình yêu thứ hai, đó là tình yêu đối với Mẹ Maria, Mẹ Giáo Hội, mà ngài đã  luôn luôn  muốn viết lên, ngay cả trong di chúc của ngài, luôn luôn và hoàn toàn phó thác đời sống và  phận vụ tông đồ của mình, từ lúc khởi đầu cho đến giây phút cuối cùng được viết lên trên một mảnh bằng bàn tay run rẩy trên giường chết:

   - " Totus tuus " ( Con hoàn toàn là của Mẹ ).

còn tiếp

VỀ MỤC LỤC
CÁCH CẦU NGUYỆN Á CHÂU VÀ VIỆT NAM

 

LINH MỤC GIÁO PHẬN SỐNG TU ĐỨC TOÀN DIỆN

TRONG BỐI CẢNH THỰC TẾ CỦA GIÁO HỘI VÀ XÃ HỘI VIỆT NAM HÔM NAY

Lm. Micae-Phaolô Trần Minh Huy pss

CHƯƠNG BA 

Đời Sống Cầu Nguyện Và Đời Sống Nội Tâm (tiếp theo)


H. CÁCH CẦU NGUYỆN Á CHÂU VÀ VIỆT NAM

H.1 Thực tế không mong đợi

Trong cầu nguyện cộng đồng hay cá nhân, thể xác có thể trở nên căng thẳng, sự chú tâm bị phân tán và dao động, dù đã dùng Kinh Thánh, các bài hát, đọc kinh, lần chuỗi để cầu nguyện và suy gẫm. Lắm khi tương quan được tốt với Chúa, nhưng lắm khi cũng bị chia trí, đôi khi rất căng thẳng và mệt mỏi, và thường làm theo thói quen. Khi cầu nguyện cá nhân, đặc biệt lúc cầu nguyện thinh lặng và suy gẫm trong tâm trí, nhiều sự chia trí chiếm lấy đầu óc và cản trở cầu nguyện. Nhiều lúc kết thúc giờ cầu nguyện với khô khan trống rỗng, tinh thần đi đâu đâu… Để giải quyết vấn đề, người ta vận dụng toàn bộ tinh thần, thân xác để cầu nguyện, quen gọi là “lời cầu nguyện thân xác” (prayer body) như sẽ giải thích dưới đây. 

H.2 Cầu nguyện theo phong thái Á Châu

Cách thức tu sĩ Phật giáo tọa tĩnh tòa sen tụng niệm có thể giúp chúng ta tái khám phá các hình thức chiêm niệm của cầu nguyện trong truyền thống kitô giáo và hội nhập chúng, bằng cách hướng chúng ta chú ý hơn nữa tới tư thế thân xác khi chúng ta cầu nguyện, hầu khám phá sự hiện diện của Thiên Chúa hằng sống.  

Các thực hành Thiền, Zen hay Yoga, có thể được dùng để giúp ta làm quen ý thức sự hiện diện của Chúa, cảm nhận chính mình như một toàn thể tinh-thần-thân-xác trong tương quan với Chúa. Dần dần ta sẽ đắc thủ được thói quen sống sự hiện diện của Chúa, nghĩa là thường xuyên hướng chú ý của mình về sự hiện diện đầy yêu thương và sống động của Chúa ở trong chúng ta và ở chung quanh chúng ta. Thời gian thinh lặng của những ngày tĩnh tâm hay cấm phòng cống hiến những cơ hội thuận lợi để phát triển ý thức sự hiện diện này của Chúa ở một mức độ sâu hơn.   

Khởi đầu, ta bỏ ra 15 hoặc 20 phút, hay lâu hơn nếu muốn, để tạo một tư thế thư giản bằng cách kiểm soát hơi thở (hít vào và thở ra thật sâu); đồng thời tẩy bỏ khỏi đầu óc bất cứ bận rộn hay suy nghĩ nào,[1] và để chìm sâu trong sự hiện diện của Chúa ở trong ta và ở quanh ta. Tiếp đến, ta đi vào một cuộc đàm thoại đơn sơ, sâu lắng với Chúa đang hiện diện, về bất cứ cái gì đang chất chứa trong tâm hồn ta lúc đó. Có lẽ có lúc ta chẳng có gì để nói, mà chỉ thích ngồi lắng nghe Chúa. Giây phút thinh lặng này thật bình an và thoải mái. Nếu cứ tập luyện mỗi ngày, chúng ta sẽ khám phá được rằng dần dần chúng ta trở nên càng ngày càng chú tâm vào Chúa hơn, và rằng chúng ta đang lớn lên trong hiểu biết, nhẫn nại và yêu thương đối với những người chung quanh.   

Tập thư giản bằng cách hít dưỡng khí vào thật sâu qua mũi cho căng đầy bụng, rồi chuyển qua huyệt đan điền (nằm bên dưới lỗ rún hai lóng tay), đẩy ra toàn thân tới tận chân tơ kẻ tóc / đường gân thớ thịt. Xong lại rút thán khí về qua huyệt đan điền để đẩy ra ngoài qua miệng. Trong khi đó để tâm trí kiểm soát đường đi của hơi thở. Còn ý nghĩ thì cầu xin quyền năng của Chúa Thánh Thần đi vào để thánh hóa và rút bỏ những xấu xa quỉ quái khỏi lòng trí và thân xác chúng ta.   

Khi hít vào, chúng ta cũng có thể nghĩ là mình đón nhận tất cả những gì là tích cực; còn thở ra là loại bỏ tất cả những gì là tiêu cực, từ bất cứ đâu mà đến. Với cách này, chúng ta tập giữ tâm hồn ở trạng thái thanh thản, như kinh Yataka dạy ‘Con hãy giữ tâm như đất: trên đất, người ta đổ ra dầu ngọt dầu chua, dầu cay dầu đắng, dầu sạch dầu dơ, đất vẫn một mực thản nhiên, đất không giận, đất không thương.’[2] Nhiều người cũng vận dụng lối này để tự chữa bệnh bằng ý thức tính chất bồi bổ của dưỡng khí và quyền năng thần linh của Thần Khí: đang khi hít vào thì xin chuyển quyền lực thần linh cùng dưỡng khí tới chỗ đau của cơ thể để chữa lành, thở ra xin quyền lực thần linh lấy cái đau của cơ thể vất ra khỏi thân xác cùng với thán khí. Dĩ nhiên phải có sự đồng bộ của hít thở và ý thức, với niềm tin tưởng không nghi ngờ.[3]

H.3 Cầu Nguyện Tập Trung 

Các bậc thầy Thiền, Zen hay Yoga, có thể cầu nguyện (suy niệm và chiêm niệm) liên tục nhiều giờ. Họ cầu nguyện bằng tâm trí, hay chính xác hơn là bằng cách tập trung tư tưởng. Đây là một hình thức cầu nguyện rất đơn giản, thường không dùng lời nói (cầu nguyện bằng lời).  

Để đi vào cầu nguyện tập trung, ta phải để mình hoàn toàn lệ thuộc vào Chúa và để cho tình yêu của Chúa Thánh Thần chi phối. Hãy lặn xuống trong sâu thẳm cõi lòng, nơi đó Thiên Chúa đang thực hiện những điều kỳ diệu; và hãy mở lòng cho Chúa Thánh Thần đang cư ngụ trong ta. Phương pháp của cầu nguyện tập trung là: 

    Ngồi yên lặng, tư thế thoải mái và thư giãn;

    Nghỉ ngơi trong lòng khao khát Chúa;

    Hướng vào trung tâm bản ngã của mình;

    Hít thở đều đặn trong yên lặng, ý thức sự hiện diện của Chúa và bình an hấp thụ tình yêu của Ngài.  

Ngày nay, nhiều người công giáo học theo phương pháp cầu nguyện này. Nếu kiên trì tập luyện thì ngày qua ngày, cầu nguyện tập trung sẽ giúp ta đi vào hiệp thông với Chúa ở mức độ sâu thẳm nhất. Ta sẽ cảm thấy bình an hơn và càng ao ước mối tương quan yêu thương này với Chúa. Ta sẽ được thúc đẩy tìm kiếm sự kết hiệp chiêm niệm sâu xa hơn nữa, mà bất cứ người sống đời dâng hiến nào cũng đều được mời gọi.   

Nếu nguyện gẫm được mô tả như lời cầu nguyện của tâm trí tìm biến đổi con tim, thì chiêm niệm là lời cầu nguyện của con tim sẽ biến đổi tâm trí. Cầu nguyện tập trung có thể giúp những người tìm kiếm Chúa kinh nghiệm được lợi ích tuyệt vời này. Thay vì dùng nhiều lời, ta có thể bắt đầu cầu nguyện tập trung bằng cách chọn một lời thôi: một lời thánh thiêng mang một ý nghĩa đặc biệt, có thể là một danh hiệu của Chúa, hay một lời rút ra từ Thánh Kinh, mà chúng ta quen gọi là “lời nguyện tắt”.   

Sau khi đã ổn định được tư thế thoải mái và thư giãn để cầu nguyện, hãy để nhịp thở nhẹ nhàng và đều đặn, hãy nhắm mắt lại và nói lên trong thinh lặng lời nguyện tắt thánh thiêng đó, chú tâm vào sự hiện diện của Chúa và biểu lộ lòng ưng thuận cho ơn thánh Chúa hoạt động nơi bản thân mình. Khi những tư tưởng hay cảm nhận, những hình ảnh và kỷ niệm nổi lên làm chia trí, hãy nhẹ nhàng quay trở lại với lời  nguyện tắt đó bằng cách chậm rãi lặp đi lặp lại và để nó chiếm lĩnh hiện trường của ý thức. Không cần phải làm gì nhiều hơn thế. Không có gì đặc biệt để phấn đấu hay bất cứ kết quả rõ ràng nào để đạt cho được. Cứ buông mình cho tác động của Thần Khí. Khi thời giờ cầu nguyện đã hết, từ sâu thẳm cuộc đối thoại thinh lặng với Chúa, hãy từ từ trở về cùng thế giới thực tại bên ngoài và những hoạt động thường nhật của mình.   

H.4 Ích Lợi của cách cầu nguyện Á Châu

Các tôn giáo Á Châu giới thiệu nhiều cách thức đưa dẫn và thúc đẩy trọn vẹn con người vào cầu nguyện: thể xác, trí khôn, con tim, trí nhớ, trí tưởng tượng, hơi thở, tư thế thân xác và ngay cả môi trường bên ngoài đều được sử dụng cho việc cầu nguyện, và người ta gọi đó là “cầu nguyện thân xác” (body prayer).  

Phương pháp này nâng cao phẩm chất của lời cầu nguyện, cũng như phẩm chất của người cầu nguyện. Việc thực tập lắng nghe này làm ta dễ dàng đi vào tiếp xúc và hiệp thông với Chúa. Sự ý thức thụ động này giúp ta mở rộng lòng và “phó mặc” cho ơn Chúa hoạt động. Thái độ đón nhận thụ động này mang lại sự thinh lặng nội tâm cần thiết cho việc cầu nguyện, nhờ đó ta được Lời Chúa Kitô và ơn Chúa Thánh Thần đánh động và biến đổi.  

Thực hành thư giãn tạo nên bình an nội tâm và sự hài hòa làm cho tiến trình thinh lặng nội tâm hóa được dễ dàng, trong khi thực hành tập trung cao độ lại rất hữu ích cho đời sống cầu nguyện. Nhịp thở có thể giúp gia tăng sự chú ý, tập trung và ý thức, là những cái làm cho tiến trình cầu nguyện của con người được dễ dàng.  

Theo ĐHY Jean-Louis Tauran, chủ tịch Hội đồng đối thoại liên tôn của Tòa Thánh, “mỗi người duy trì căn tính thiêng liêng của mình là quan trọng và không thể nói rằng mọi tôn giáo đều ít nhiều ngang nhau, nhưng có những giá trị mà chúng ta có thể chia sẻ với người khác: các kitô hữu có thể học hỏi từ những người Hồi Giáo, cầu nguyện, ăn chay và sống từ thiện thế nào; từ những người Hinđu, cách suy niệm và chiêm niệm; từ những người Phật giáo, lòng không dính bén của cải vật chất, ý thức sâu xa về việc tôn trọng sự sống; từ Khổng giáo, lòng sùng đạo và sự tôn trọng đối với người già; từ Lão giáo, sự đơn sơ và lòng khiêm tốn…” Và từ những người Công giáo, người ta có thể học nhiều thứ, nhất là sự phong phú của một vị Thiên Chúa có khuôn mặt nhân loại, như Đức Bênêđictô XVI đã viết trong thông điệp Thiên Chúa là Tình Yêu, một vị Thiên Chúa là tình yêu và chăm lo cuộc sống của con người trong mọi hoàn cảnh”.[4] 

H.5 Vượt Qua Những Khó Khăn và Kiên Trì Trong Đời Sống Cầu Nguyện

Ta phải nhớ những thực tế này: Ta có thể gặp nhiều khó khăn trong suốt hành trình cầu nguyện.[5] Cầu nguyện không chỉ gồm toàn những kinh nghiệm vui mừng và thích thú. Khô khan và tăm tối cũng là một phần thiết yếu trong quá trình trưởng thành và biến đổi của con người nội tâm. Tự biết mình không phải luôn luôn là một kinh nghiệm vui thích, nhưng thông thường là một quá trình đau đớn của sự chấp nhận chính mình để được chữa lành. Chúng ta phải học sống khiêm nhường, siêu thoát, từ bỏ và quên mình để chiến đấu chống lại tính kiêu căng tự mãn với tất cả những sức kháng cự tiềm ẩn của nó. Chỉ với lòng khiêm tốn và sự cởi mở với ơn Chúa, chúng ta mới có thể đương đầu và chiến thắng trong cuộc chiến đấu này.   

Cách cầu nguyện Á Châu này thúc đẩy trọn vẹn con người vào trong mối tương quan với Chúa và làm biến đổi con người cách lớn lao trong mọi chiều kích (thể lý, tâm lý và thiêng liêng): Siêu nhiên không phá hủy tự nhiên, nhưng thăng tiến tự nhiên. Vậy, một khi áp dụng cách thực hành lắng nghe, thư giãn và tập trung, chúng ta càng trở nên ý thức hơn mình là ai và phải làm gì, không chỉ trong lời cầu nguyện mà còn trong đời sống hằng ngày của mình nữa. 


[1] x. 1 Pr 5,7: Hãy trao trút nỗi lòng anh em cho Chúa vì Ngài hằng chăm sóc đến anh em.

[2] Bài học hành xử với cuộc đời đề cập tới cả bốn yếu tố Đất, Nước, Lửa và Gió, đồng thời yêu cầu chúng ta cũng giữa tâm mình phản ứng như chúng.

[3] Bác sĩ Nguyễn Khắc Viện dùng phương pháp thở để tự chữa bệnh cho mình. Phương pháp thở của ông chỉ là một sự tổng hợp của khí công, thiền, yoga, dưỡng sinh... của Đông phương từ ngàn xưa, được nhìn bằng sinh lý học hô hấp hiện đại của một người thầy thuốc: Thót bụng thở ra - Phình bụng thở vào - Hai vai bất động - Chân tay thả lỏng - Êm chậm sâu đều - Tập trung theo dõi - Luồng ra luồng vào - Bình thường qua mũi - Khi gấp qua mồm - Đứng ngồi hay nằm - Ở đâu cũng được - Lúc nào cũng được! 

[4] ROME, ngày 22/8/2010 (ZENIT.org) trong THTTHTCG của Nguyễn Thế Bài.

[5] x. xem lại phần nói về các trở ngại trong việc cầu nguyện ở trên.


VỀ MỤC LỤC
NGUYÊN NHÂN KHỦNG HOẢNG: CHƯA ĐỦ TRƯỞNG THÀNH.

 

Tác phẩm: Cẩm  Nang  Hạnh  Phúc Gia  Đình  Kitô - MỤC VỤ HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH

Tác giả: D. WAHRHEIT (Lm. Minh Anh, GP. Huế tổng hợp biên tập)

 

A22. NGUYÊN NHÂN KHỦNG HOẢNG: CHƯA ĐỦ TRƯỞNG THÀNH.

Cơn khủng hoảng đầu đời hôn nhân. Đó là vấn đề mà chúng tôi xin được tiếp tục trình bày.

1. Những cơn khủng hoảng trong đời sống hôn nhân thường xảy đến trong hai thời kỳ:

- Thời kỳ thứ nhất là những năm đầu của đời sống vợ chồng.

- Thời kỳ thứ hai là những năm tháng khi hai vợ chồng bước vào tuổi trung niên. Trong thời kỳ này, người đàn ông xem ra đã nếm đủ mùi vị của cuộc sống gia đình; do đó, dễ sống hướng nội hơn. Về phía người đàn bà, sau khi đã trải qua mọi khía cạnh của đời sống hôn nhân, nếu không cảm thấy được thỏa mãn, họ dễ bị cám dỗ quay về với những ước mơ của thời niên thiếu. Ở lứa tuổi này người đàn bà dễ rơi vào những cuộc phiêu lưu mà họ không lường trước được.

Một người chồng khép kín, một người vợ mộng mơ chính là nguyên nhân đưa đến cơn khủng hoảng trong thời kỳ thứ hai của đời sống hôn nhân.

2. Trái lại, nguyên do đưa đến khủng hoảng đầu đời hôn nhân phần lớn là vì một hoặc cả hai người phối ngẫu thiếu chuẩn bị trước khi bước vào đời sống hôn nhân.

Nhiều người không hiểu rõ hoặc không được giáo dục đầy đủ về những nghĩa vụ và trách nhiệm của đời sống vợ chồng cũng như những khía cạnh tâm sinh lý và luân lý của đời sống chung. Nhiều người bước vào đời sống vợ chồng mà chưa đủ trưởng thành, do đó, cũng chưa đủ ý thức về những trách vụ mới của đời sống hôn nhân.

Hôn nhân phải là một giao ước được ký kết giữa hai người có tự do. Để có tự do thực sự, con người cần phải hiểu rõ mục đích việc làm của mình và chịu trách nhiệm về hậu quả của việc làm ấy. Có hiểu biết như thế, con người mới thực sự là người trưởng thành.

Thật ra, trưởng thành không phải là một tình trạng mà con người thủ đắc một lần cho tất cả, cũng không hẳn khi ra khỏi tuổi vị thành niên hoặc bước vào tuổi 30, con người đương nhiên đã là người trưởng thành. Lại không hẳn càng thêm tuổi, càng trưởng thành. Ai cũng có kinh nghiệm, thỉnh thoảng trong cuộc sống, mình đã cư xử như một người thiếu trưởng thành.

3. Đã hẳn cần phải là người trưởng thành, người ta mới có thể làm một quyết định hệ trọng như việc bước vào đời sống hôn nhân. Nhưng cũng chính đời sống hôn nhân làm cho con người nên trưởng thành hoặc trưởng thành hơn. Kinh Thánh xem ra đã xác định điều đó khi nói, “Con người ở một mình không tốt. Người đàn ông sẽ bỏ cha mẹ để luyến ái vợ và nên một với vợ”.

Để có thể nên một với người phối ngẫu, người ta cần phải ra khỏi chính mình. Hay nói như Chúa giêsu: quên mình, mất mạng sống mình, thí mạng sống mình vì người khác. Đó là biểu hiện của một nhân cách trưởng thành. Do đó, hôn nhân đòi hỏi hai người phối ngẫu phải không ngừng đi vào tiến trình của sự trưởng thành. Chính trong đời sống vợ chồng mà con người học hỏi và tập luyện để nên trưởng thành hơn.

4. Hiểu được sự trợ giúp của đời sống vợ chồng trong sự thành toàn nhân cách như thế, chúng ta sẽ thấy rằng, cơn khủng hoảng của đầu đời hôn nhân xem ra là một điều cần thiết. Bước từ một giai đoạn này sang một giai đoạn khác trong cuộc sống, con người phải trải qua những cơn khủng hoảng. Đó là định luật của cuộc sống.

Người ta thường gọi đó là cơn khủng hoảng của sự trưởng thành. Ngay cả trong đời sống thiêng liêng, khủng hoảng cũng là một giai đoạn cần thiết giúp con người trưởng thành hơn trong đức tin. Có trải qua thử thách và đau khổ, con người mới cảm nhận được tình yêu của Thiên Chúa, và nhờ đó đức tin được tinh luyện hơn.

Chính trong cái nhìn đó mà đôi vợ chồng trẻ nên lượng giá cơn khủng hoảng đang hoặc sẽ diễn ra trong những năm tháng đầu của cuộc sống vợ chồng. Đây là cơn khủng hoảng của sự trưởng thành, cho nên, hãy xem đó như là một điều cần thiết.

Thực ra, cần có những va chạm để hiểu nhau hơn và nhất là để hiểu được chính bản thân mình. Đôi vợ chồng trẻ sẽ thấy rằng, họ sẽ có những phản ứng, những cách cư xử mà họ chưa từng có trước kia; họ sẽ khám phá thêm một bộ mặt mới, những khía cạnh mới trong con người của họ. Và chính nhờ sự khám phá đó mà đôi vợ chồng mới tìm cách điều chỉnh lại mối quan hệ đối với nhau. Điều chỉnh lại mối quan hệ ấy chính là một cố gắng để đạt được sự trưởng thành trong nhân cách.

5. Cơn khủng hoảng trong những năm tháng đầu của đời sống vợ chồng thường bùng nổ bằng một cuộc cãi vã to tiếng. Đôi vợ chồng trẻ chợt nhận ra những phản ứng không ngờ của người phối ngẫu cũng như của chính mình. Đó là một khám phá cần thiết. Tuy nhiên, nếu họ không biết lợi dụng khám phá ấy để điều chỉnh mối quan hệ giữa hai người thì bùng nổ sẽ tiếp diễn. Lúc đó, sự cãi vã sẽ trở thành như cơm bữa và làm cho đời sống chung trở nên khó thở.

Cơn khủng hoảng của sự trưởng thành là điều cần thiết nếu người ta vượt qua nó. Đôi vợ chồng trẻ đã nhận ra được phản ứng nóng giận của mỗi người. Họ đã hiểu, lớn tiếng trong cuộc tranh luận là không muốn lắng nghe người khác. Khăng khăng bảo vệ lập trường của mình là không muốn nhìn những khía cạnh khác nhau của một vấn đề. Muốn áp đảo người khác bằng bạo động trong lời nói hay hành vi là tỏ rõ chính sự bất lực yếu đuối của mình. Một thái độ như thế cho thấy sự thiếu trưởng thành. Một người chồng cãi vã lớn tiếng với vợ và khước từ mọi giải thích của vợ để giữ lại mọi đắng cay trong tâm hồn là một người chồng chưa trưởng thành. Một người vợ cãi vã với chồng và khước từ mọi giải thích của chồng cũng là một người chưa trưởng thành.

Cuộc sống vợ chồng tựa một bản nhạc. Hát cho đúng từng nốt nhạc trong một bài hát không phải là chuyện dễ. Có người không có tai để nghe cho chính xác, có người không có giọng hát chuẩn. Có những người vợ đánh giá sai về quyền lợi của mình nhưng cũng không thiếu những người chồng không biết đáp ứng những đòi hỏi chính đáng của vợ. Nhiều người vợ có khuynh hướng phiền muộn, lo lắng hoặc gây hấn, khiến người chồng chỉ biết đáp trả bằng những lời lẽ cộc cằn thô thiển, thậm chí bằng những cử chỉ bạo lực. Cả hai, chồng cũng như vợ đều tỏ ra là những người chưa trưởng thành và chưa đóng trọn vai trò phối ngẫu của mình.

6. hôn nhân là trường đào luyện con người: Chính trong bậc hôn nhân mà con người đạt được sự trưởng thành của mình cũng như giúp cho người phối ngẫu nên người trưởng thành.

Để trưởng thành, con người cần có ý chí. Ý chí không là một ước muốn mơ hồ mà chính là luôn cố gắng chống lại sự ngoan cố, những định kiến, sự gây hấn. Có ý chí cũng có nghĩa là tập sống lạc quan, cởi mở, nhìn rộng, quảng đại, tha thứ.

Nhưng, trên tất cả mọi cố gắng của ý chí, cầu nguyện là phương thế quan trọng và cần thiết nhất trong đời sống của đôi vợ chồng trẻ. Họ phải luôn tâm niệm rằng, một gia đình cầu nguyện là một gia đình đứng vững, và sự trưởng thành nhân cách thực sự chỉ được xây dựng trên sự trưởng thành trong niềm tin mà thôi.

VỀ MỤC LỤC
XA QUÊ ĐÓN TẾT MỪNG XUÂN.

 

Đêm qua đốt đỉnh hương trầm

Khói lên nghi ngút, âm thầm nhớ quê

Ca dao  

Hàng năm, sau khi cùng dân bản xứ đón năm mới Dương lịch, thì người Việt xa quê lại cùng với gia đình, đồng hương sửa soạn đón mừng TẾT dân tộc.

Tết vẫn là ngày lễ vui nhất trong năm của mọi người dân Việt. Cho nên dù thời gian có qua đi, không gian có ngăn cách, con dân Hồng Lạc vẫn đời đời duy trì, bảo vệ những lễ nghi, phong tục, những tập quán cổ truyền của ngày Tết Nguyên Đán vào đầu Xuân.

Những ngày mới vào đất lạ, có người đã tưởng như không còn biết Xuân, biết Tết là gì. Nhưng chỉ sau vài năm vất vả hội nhập, thích nghi với nếp sống mới, văn hóa mới, người Việt đã tạo được truyền thống đón Tết, mừng Xuân trên quê người.

Có người đã nói: Đón mừng TẾT là một cái thú của nhân dân ta mà đi chợ Tết lại cũng rất hào hứng, hấp dẫn.

Trước hết là phải giải thích cho con cháu những tục lệ của ngày Tết cổ truyền. Có cháu sẽ thắc mắc là tại sao ngày mồng một Tết không được quét nhà hút bụi; nhà có bếp điện chứ đâu có dùng bếp củi than mà cúng tiễn Táo Ông Táo Bà lên trời; tại sao phải lựa mời người tới thăm nhà xông đất vào ngày đầu năm, xuất hành phải chọn hướng...Nhưng tục lệ lì xì, mừng tuổi với bao tiền đỏ chói thì các cháu hiểu rất mau và nhớ rất lâu.

 Ở khắp nơi trên đất Mỹ, nơi nào có người Việt là nơi đó có những khu chợ chuyên bán sản phẩm quê hương. Mọi mặt hàng cần thiết cho việc bếp núc đều có cả: từ chai nước mắm Phan Thiết, mắm ruốc bà giáo Thảo tới rau húng rau thơm. Muốn ăn tiết canh, lòng heo tươi ngon, xin cứ tới chợ Việt Nam. Thích thịt dai và thơm của con gà đi bộ, khúc cá thu kho, trái sầu riêng Thủ Đầu Một, chùm nhãn lồng Hưng Yên: trong chợ đều có. Chả bù với những năm đầu, ai cho một xị nước mắm Thái Lan thì như vớ được vàng; thấy trên vườn trước cửa có một khoảng trồng rau thơm thì đích thị là nhà người Việt Nam ta.

Chợ Tết bầy bán đủ thứ hàng cho TẾT. Người ta có cảm tưởng như đây là một chợ Đồng Xuân hay Bến Thành thu hẹp, nằm trên một nước Mỹ rộng lớn. Dân bản sứ mà đi vào khu Bolsa của Orange County, khu Bellaire của Houston, Eden Plaza của D.C.... thì coi như bị lạc lõng. Người ta chào hỏi nhau bằng tiếng Việt, mặc cả mua bán bằng tiếng Việt, thậm chí lớn tiếng với nhau cũng bằng tiếng Việt. Thiên hạ lũ lượt tới mua sắm, bãi đậu xe không đủ chỗ cho khách du xuân, nhất là những năm mà Tết trùng vào ngày nghỉ Thứ Bẩy, Chủ Nhật.

Trước hết phải mua mấy cặp bánh chưng. “Tết về nhớ bánh chưng xanh “ Vâng, Tết mà không có món bánh chưng thì đâu còn là Tết. Nhất là những chiếc bánh chưng gói bằng lá dong, cột bằng sợi giang, nhân thịt tươi nóng hổi khi mua, nằm trong lớp đậu xanh đãi cho sạch, và gạo nếp ngỗng trắng, thơm và dẻo.

 Bánh chưng đã có một lịch sử từ ngày lập quốc bởi Vua Hùng và có người đã ví nó như linh hồn của ngày Tết.

Những năm đầu, không có lá dong, bà con ta gói bằng lá chuối khô, bọc bên ngoài bằng những tờ giấy nhôm. Gói như vậy bánh không có vị nồng ướt của tầu lá, nhưng thôi, có còn hơn không. Đến bây giờ thì không thiếu gì lá dong từ quê hương đưa sang, nên đã có những chiếc bánh chưng luộc rất dền, rất xanh. Lại còn món giò lụa, chả quế cũng nhiều vô kể và hương vị cũng khá đậm đà.

Đừng quên mua ít mứt sầu riêng, mứt me, mứt quất, vài gói ô mai cam thảo, nửa ký hạt dưa để nhâm nhi khi có khách tới chơi. Vợ nhắc chồng mua một chậu mai tươi, một cành đào Mỹ quốc. Có năm thời tiết không đủ lạnh, hoa đào không kịp nở, ta đành mua vài cành đào giấy, đào nylon thay thế. Nếu ở quê hương, thì ta đã chạy lên Ngọc Hà hay xuống chợ hoa đường Nguyễn Huệ mang về mấy cành đào tươi, mấy cây quất chĩu trái.

Mua vài quả dưa hấu với vỏ xanh rờn, ruột đỏ chói chang để có hương vị Tết miền Nam nắng gắt.

Sắm thêm mấy thẻ nhang, mấy cuộn hương vòng để thắp cúng gia tiên, đồng thời cho thơm nhà thơm cửa.

Cũng đừng quên mấy bao giấy đỏ để đựng tiền lì xì cho bầy cháu nội ngoại. Ở đất nước tư bản, trẻ con được mừng tuổi mấy đồng đô xanh với lời chúc “nhất bản vạn lợi “ (one dollar make ten thousand dollars ) thì chúng mừng hết chỗ nói.

Trước giờ Giao Thừa, đồng bào ta, đặc biệt là thanh niên thiếu nữ, giữ tập tục đi lễ chùa, nhà thờ rất đông. Đến để xin lộc, cầu may, để gặp nhau, chúc tụng nhau mọi sự lành trong năm tới cũng như cầu nguyện thanh bình thịnh vượng cho quê hương đất tổ.

Rồi cùng về nhà xông đất, cúng gia tiên. Đó đây, một vài tiếng pháo nổ vang. Bên Mỹ, đốt pháo phải xin phép trước, vì chính quyền sợ tai nạn xẩy ra cho dân chúng. Nhiều cơ sở thương mại không đốt pháo thật, nhưng có pháo giả: cũng treo một giây pháo dài trước cửa tiệm với tiếng pháo nổ phát ra từ chiếc máy thu âm.

 Nhưng nơi gặp gỡ đầu xuân của mọi người thường thường là ở những Hội chợ, Chợ phiên. Năm nào các cộng đồng người Việt ở mọi nơi trên đất Mỹ cũng đều tổ chức những hội Tết mừng Xuân như vậy.

 Hội Xuân kéo dài hai ba ngày, có khi cả tuần. Trong hội có sân khấu để trình diễn văn nghệ quê hương dân tộc đón Tết, mừng Xuân, thi hoa hậu áo dài, thi cắm hoa, cây kiểng; có những gian hàng bán món ăn quê hương đủ loại (ngoại trừ món Cờ Tây); cũng có những gian hàng đỏ đen, bầu cua cá cọp. Nam thanh, nữ tú lượt là hẹn nhau tham dự. Con nít chạy tung tăng trong những chiếc áo dài Việt Nam cổ truyền. Giới chức chính quyền địa phương được mời tham dự để chia vui với nhóm cộng đồng còn trẻ cũng như tỏ tình đoàn kết chủng tộc.

 Hội chợ còn là cơ hội để các hội đoàn gây quỹ cho các công tác từ thiện bác ái tại địa phương hay giúp đồng bào kém may mắn ở quê nhà. Năm nay, mọi lạc quyên đều tập trung vào việc cứu trợ cho nạn nhân lũ lụt ở miền đồng bằng sông Cửu Long và miền Trung. 

Ây cứ loanh quanh như vậy mà cũng hết mấy ngày Tết. Ngày nay, đa số đồng hương ta đã lấy mấy ngày nghỉ để ăn Tết, để đi thăm bạn bè. Họ cũng đi về các thị trấn lớn có đông người Việt hơn, để thăm viếng nhau, để sưởi ấm lòng nhau, để tìm lại trong nhau những hình ảnh, những kỷ niệm của quê hương, đất tổ. Với thời gian, TẾT đã đi vào văn hóa Hiệp Chủng Quốc. Truyền thông đã dùng ba mẫu tự T-E-T để chỉ ngày hội New Year của người Việt Nam. 

Trong lịch sử nước nhà, chưa có giai đoạn nào mà người Việt hiện diện một cách thoải mái, đông đảo ở khắp năm châu bốn bể như ngày nay. Như người Trung Hoa. Như người Do Thái. Họ là một thành phần trong khối NGƯỜI VIỆT NAM trong và ngoài nước, để cùng nhau chung sức xây dựng một quốc gia VIỆT NAM hùng mạnh, có tự do, dân chủ thực sự chứ không chỉ trên giấy tờ văn bản hoặc qua lời tuyên bố chủ quan một chiều.

Bác sĩ Nguyễn Ý Đức

Texas-Hoa Kỳ  www.bsnguyenyduc.com

VỀ MỤC LỤC
MÈO VỚI CHUỘT VÀ CHÓ
 

Cách đây không lâu trên báo “Tuổi Trẻ Cười”, một độc giả đã nêu lên câu hỏi như sau:

“Tôi sinh năm 1975, mẹ tôi bảo tuổi Mẹo, cầm tinh con mèo, cha tôi thì bảo tuổi Mão, cầm tinh con thỏ. Như vậy có phải Mão là thỏ, còn Mẹo là mèo hay không? Đến nay tôi biết trong 12 con giáp không có con thỏ. Vậy năm 2011 này, gọi là Tân Mão hay Tân Mẹo, cầm tinh con thỏ hay con mèo?”

Và Cô Tú, chủ “quán Mắc Cở”, đã trả lời như sau:

“Theo cách tính của âm lịch, lịch Can-Chi, thì Tí, Sửu, Dần, Mão… là 12 chi. Người làm lịch chọn cho mỗi chi một con vật làm biểu tượng. Ví dụ: Tí biểu tượng là con chuột. Sửu biểu tượng là con trâu… Cần hiểu rằng: Theo chữ Hán, Tí không có nghĩa là chuột và Sửu cũng không có nghĩa là trâu. Tương tự như vậy, Mão không phải là mèo và cũng không phải là thỏ. Riêng từ Mẹo là tiếng Việt thì rất có thể do từ mèo mà ra.

Âm lịch của người Trung Hoa có rất sớm, khoảng đời nhà Thương (thế kỷ 16 TCN). Khi ấy nước Trung Hoa chưa có mèo thuần dưỡng, chỉ có loại mèo rừng. Hầu hết giống mèo thuần dưỡng đều có nguồn gốc từ Ai Cập. Châu Âu mãi đến thời Trung Cổ mới biết nuôi mèo. Vì chưa có mèo, nên các nhà làm lịch Can-Chi của Trung Hoa lấy con thỏ làm biểu tượng cho chi Mão.

Khi người Việt Nam biết sử dụng lịch Can-Chi, thì dân ta đã nuôi mèo, nên các nhà làm lịch người Việt bèn linh động, dùng con mèo làm biểu tượng thay thế con thỏ, vì lẽ con mèo gần gũi hơn. Hiện nay, người Hoa vẫn nói rằng tuổi mão cầm tinh chon thỏ, còn người Việt thì tuổi mão cầm tinh con mèo”.

Tác giả Lữ Khách, trên báo Kiến Thức Ngày Nay trong giai phẩm xuân Tân Mão, cũng cùng một quan điểm như trên, nhưng lại thêm một câu hỏi: Tại sao người Trung Quốc không nêu biểu tượng con mèo?

Tương truyền rằng:

Ngày xửa ngày xưa, Ngọc Hoàng tuyên triệu các loài vật lên thiên đình để được chọn lựa và thụ phong 12 con giáp. Mèo và chuột đều “quá giang” trên lưng bác trâu tốt bụng. Khi bơi qua sông Ngân Hà, chú chuột láu cá đẩy chú mèo xuống nước. Lúc chú mèo ngoi lên được, thì đã trễ, xếp thứ 13, nên phải ra rìa. Bác trâu cần cù, dẫn đầu đoàn quân, nhưng khi đến cửa thiên đình, chú chuột bèn nhảy phóc qua đầu bác trâu, thành ra được xếp thứ nhất trong 12 con giáp. Cũng từ đó, mèo thấy chuột là phải vồ bằng được cho hả giận.

Đó là truyền thuyết dân gian, còn các nhà khảo cổ thì cho rằng sở dĩ Trung Quốc vốn không dùng biểu tượng mèo là vì mèo mới chỉ được du nhập vào Trung Quốc từ đời Minh Đế (43-61) nhà Đông Hán, cách thời điểm phát minh ra 12 con giáp đã trễ gần 200 năm, nên không có chỗ đứng. Còn Mông Điểm đời Tần Thuỷ Hoàng (220-207 TCN) đã sử dụng lông thỏ làm ra bút lông, chứng tỏ giả thuyết trên là có lý.

Mèo thấy chuột, thì phải vồ cho bằng được. Vồ được rồi, thường không cắn chết hoặc xơi tái ngay, trái lại còn vờn tới vờn lui, đùa giỡn hồi lâu và cảm thấy thích thú trên sự sợ hãi và đau đớn của chuột. Tìm hiểu về mối thù truyền kiếp của mèo đối với chuột, gã ghi nhận được một vài mẩu truyện sau đây.

Mẩu truyện thứ nhất:

Ngày xửa ngày xưa, chuột vốn là một giống linh thiêng được ở trên thiên đình. Trời trao cho nó giữ chìa khóa kho lúa của Trời. Nhưng chuột không phải là loài đáng tin cẩn, nhân được giữ chìa khóa, cứ tự do đến mở kho, rủ nhau vào ăn rả rích hết bao nhiêu là lúa.

Sau Trời biết được, lấy làm giận lắm, mới không cho ở trên ấy nữa, mà đuổi xuống dưới hạ giới để giữ chìa khóa lẫm thóc của nhân gian. Nhưng chứng nào tật ấy, chuột lại rủ nhau vào lẫm thóc của người, rả rích ăn. Đến nỗi người đã phải than rằng:

- Chuột kia xưa ở nơi nào? 

  Bây giờ ăn lúa nhà tao thế này?

Người lấy làm chua xót, mới kêu với vua Bếp. Vua Bếp liền bắt chuột đem lên trả cho Trời và tâu rằng:

- Chuột này vốn ở thiên đình, sao Trời lại thả nó xuống hạ giới làm chi?

Trời nói:

- Ừ, trước kia nó ở trên này giữ chìa khoá kho thóc cho ta. Nhưng bởi nó ăn vụng lúa của ta nhiều lắm, nên ta không cho nó ở trên này nữa, mà đuổi nó xuống hạ giới, cho nó giữ kho lúa ở dưới ấy.

Vua Bếp tâu:

- Xuống dưới ấy, nó lại ăn vụng lúa hại lắm. Bẩm chúng con thiết nghĩ: lúa của Trời thì nhiều, mà lúa của người thì ít, của Trời nó ăn không hết, chớ của người nó cứ ăn mãi, thì có ngày sẽ hết, và người người đến phải chết đói mất. Vậy xin bây giờ trả lại nó cho Trời.

Trời nghe tâu, bèn phán:

- Không được. Ta đã đuổi nó đi cho xa, nên không thể lại để nó lên đây một lần nữa. Thôi bây giờ ta đã có cách: con mèo của ta, ta cho ngươi đem xuống hạ giới, để khi nào lũ chuột ăn lúa của nhân gian, thì ngươi hãy thả nó ra cho nó bắt chuột, rồi gầm gừ mà ăn chuột đi; còn khi nào nó không muốn bắt chuột, thì ngươi bảo nó cứ kêu toáng lên rằng: “Nghèo, nghèo, nghèo", ắt chuột sẽ phải sợ nó mà bỏ đi.

Vua Bếp lạy tạ, rồi lại đem cả chuột lẫn mèo xuống trần gian. Và cứ theo như lời dạy mà làm. Thành thử, hễ khi nào rình bắt được chuột, thì mèo cứ "gầm gừ, gầm gừ". Còn khi nào không bắt được chuột, thì mèo cứ vô tư kêu: "Nghèo, nghèo, nghèo!”

Những lúc ấy, mèo hồi nghĩ lại, mới lấy làm giận vua Bếp, vì tại vua Bếp mà mèo mới phải xuống dương gian. Nhưng không làm gì nổi vua Bếp, nên mèo chỉ còn cách thỉnh thoảng vào giữa đống tro trong bếp mà phóng uế.  (VietFun Story).

Mẩu truyện thứ hai:

Ngày xưa, mèo và chuột đều chung sống hòa bình và đều biết nói tiếng của loài người. Nhưng bản tính của hai loài vật này quá khác nhau, nên mâu thuẫn nảy sinh và ngày càng trầm trọng.

Hôm nọ, trong một nhà kia, chủ nhà bực bội vì mâm thức ăn mình chưa đụng đũa đến nhưng đã thấy thất thoát. Vừa nghe chủ nhà quát tháo, mèo đã uốn éo đến cạ mình vào chân ông chủ và nói:

- Ông xem thử dấu răng nham nhở trên miếng thịt kia là của ai?

Quá dễ, chủ nhà thấy ngay đó là dấu răng chuột nên bèn lôi lũ chuột ra nện cho một trận. Chuột chúa kêu oan inh ỏi:

- Ông ơi, đúng là tụi con có tội. Ông nghĩ mà xem, cả đám tụi con vì đói nên phải ăn vụng, nhưng cũng chỉ hết có chút xíu thịt. Còn lão mèo ấy à, lão giở cả lồng bàn lấy đi nguyên con cá to. Chẳng qua lão ấy khéo quá nên ông không phát hiện mà thôi!

Mèo bèn gầm gừ:

- Bằng chứng đâu mà bọn mày dám bảo ta ăn nguyên con cá to?

Bực mình với hai tên kẻ cắp, ông chủ bèn tát mỗi con một cái cực mạnh khiến cả hai mất luôn khả năng nói và hiểu tiếng người. Từ đó, mèo và chuột trở thành kẻ thù truyền kiếp của nhau. Có điều chuột thì luôn bị săn đuổi, đánh đập, còn mèo thì vẫn nhơn nhơn thân cận với con người! Nhiều lúc buồn tình đời, chuột triết lý:

- Mình phá cả đời cũng không bằng hắn xơi một quả. Vậy mà lúc nào tiếng xấu cũng thuộc về mình. Đúng là con người nói chớ có sai: Lý thuộc về kẻ mạnh!” (Bút Bi, báo Tuổi Trẻ).

Từ mối thù truyền kiếp này, hễ thấy chuột là mèo phải rình bắt cho bằng được. Bắt được rồi, thì cứ từ từ mà xơi tái. Bởi vì thịt chuộc là một món ăn bổ dưỡng, giúp cho mèo được sáng mắt. Thực vậy, theo các nhà khoa học nghiên cứu thì để duy trì sức nhìn vào ban đêm, mèo cần phải ăn thịt chuột, vì trong thịt chuột có rất nhiều chất taurine, giúp cho hoạt động của các tế bào hình nón cảm nhận được ánh sáng yếu. Và hơn thế nữa, thịt chuột còn là một món ăn khoái khẩu cho loài mèo. Một món ăn tuyệt vời, ngon ơi là ngon. Do đó mới có truyện:

Một con mèo chết đi và đưa lên thiên đường, Thượng đế hiện ra và nói:

- Con là một con mèo tốt khi còn sống. Bây giờ con mong ước gì, thì sẽ được nấy.

Con mèo nói:

- Con sống trong một gia đình nghèo khó, suốt cuộc đời phải ngủ trên sàn gỗ cứng.

Thượng đế mỉm cười:

- Sẽ không còn thế nữa.

Dứt lời, một chiếc gối nệm rất êm được mang đến. Vài ngày sau, có mấy chú chuột cũng chết và được đưa lên thiên đường. Thượng Đế cũng ban điều ước cho chúng. Lũ chuột lao nhao:

- Cả đời bọn con cứ phải chạy, chạy suốt. Bọn con bị mèo, chó và cả các quý bà với cây chổi trên tay rượt đuổi suốt thôi. Tụi con ước gì mình có được đôi giày patin để đỡ phải chạy.

Thượng đế mỉm cười:

- Như chúng con đã ước.

Thế là mỗi chú chuột đều có một đôi giày patin mới toanh. Vài tuần sau, Thượng đế đi thăm chúng sinh trên thiên đường. Ghé ngang qua chỗ mèo, ông thấy chú mèo đang ngủ ngon lành trên gối nệm. Thượng đế đến khẽ lay mèo dậy và hỏi:

- Con khoẻ chứ? Con có thấy vui không?

Chú mèo vươn vai và rên ư ử ra chiều thích thú:

- Trong đời mình con chưa bao giờ hạnh phúc như thế này. Và đặc biệt mấy bữa ăn ngài để trên bánh xe mà gửi xuống cho con, thì thật là tuyệt vời! (xaluan.com).

Trong lúc mèo mang nối thù truyền kiếp đối với chuột, thì mèo lại bị chó “ghét cay ghét đắng, ghét vào tận tâm”. Thực vậy, rất nhiều phen gã đã bị lũ chuột quấy phá. Chuột lớn thì cắn lúa ngoài ruộng, ăn thóc trong bồ, chuột nhắt thì cắn rách áo quần. Thậm chí nó còn chui vô máy vi tính và gậm nhấm từng sợi dây điện. Để diệt bớt loài chuột, đánh thuốc thì không ổn, bởi vì chuột ăn phải bả, sẽ nằm chết ở một kẹt góc nào nó, bốc mùi hôi thối không chịu nổi. Còn đánh bẫy thì chỉ được một vài con vào đêm đầu mà thôi, sau đó nó khôn ra, không chịu chui đầu vào cho bẫy sập nữa. Vì vậy, kế sách hay nhất là phải nuôi mèo.

Tuy nhiên, nuôi được một hai con mèo trong nhà không phải là chuyện dễ, nhất là khi trong nhà đã có dăm ba con chó. Có người đã từng phải đi xin hay đi mua, mèo lớn cũng có mà mèo nhỏ cũng có, thế nhưng cũng chỉ được dăm bữa nửa tháng, tất cả những con mèo đem về đều bị chó rượt đuổi tới cùng và cắn chết. Sự ghét cay ghét đắng này có nguồn gốc như sau:

Ngày xửa ngày xưa, chó và mèo gặp nhau trong rừng, chúng nhìn thấy đối phương và khá hài lòng về người bạn mới, trong đầu chúng nghĩ sẽ có một mối quan hệ tốt với "kẻ kia". Và vì thế, chó vẫy đuôi biểu hiện sự vui vẻ. Tín hiệu này thật dễ hiểu đối với người yêu chó và họ cũng biết nếu chó gầm gừ thì chúng đã sẵn sàng chiến đấu.

Nhưng mèo lại không cho là vậy. Từ nhỏ mỗi lần bú sữa mẹ, chúng phát ra tiếng gừ gừ nho nhỏ trong miệng nhằm báo cho mẹ biết mình đã nhận được sữa, đồng thời thể hiện sự thích thú. Khi lớn lên, mèo đem nguyên ký ức của mình làm thành một thói quen, và để tỏ ra thân thiện mèo đã gừ gừ.

Ôi, chó lại cứ tưởng mèo đang muốn gây sự với mình. Nhưng nếu bạn nào yêu mèo thì sẽ rõ khi sắp xung trận, mèo sẽ lắc đuôi liên tục. Hoá ra trong tình huống ấy, mèo đã nghĩ chó muốn tấn công mình. Từ đó, chó mèo không đội trời chung. Chỉ vì sự hiểu lầm đáng tiếc mà lý ra hai kẻ rất hợp làm bạn tâm giao lại trở thành kẻ thù.

Sự hiểu lầm này hoá ra chỉ vì chúng dùng những cảm giác và những tư duy của mình để suy đoán kẻ khác, mà không hề cố gắng tìm hiểu tâm hồn và những mong ước của kẻ khác loài kia. (Sưu tầm).

Cũng có truyện khác kể lại rằng:

Một ngày nọ, mèo và chó bị bắt vào ngục của Diêm vương vì đã cắn nhau một trận nảy lửa cho đến chết. Sau một thời gian thu thập nhân chứng, vật chứng đầy đủ, công tố viên, tức Mít tờ Phán quan, quyết định chuyển giao vụ việc khởi tố lên Diêm Vương. Sau đây là bài tường thuật trực tiếp buổi xét xử chó và mèo.

Diêm Vương hỏi Mèo:

- Trong cáo trạng của Mít tờ phán quan thì mèo cắn chó trước! Tức là mèo gây sự trước. Tại sao?

-Tại vì con thù nó

- Tại sao mèo thù nó?

- Tại vì nó cắn con

- Tại sao nó cắn mèo?

- Tại vì nó thù con.

- Tại sao nó thù mèo?

- Tại vì con cắn nó.

- Tại sao mèo cắn nó?

- Tại vì con thù nó.

- Thế ta hỏi tại sao mèo thù nó?

- Tại vì nó cắn con.

- Thế tại sao nó cắn mèo?

- Tại vì nó thù con.

Nghe thiên hạ đồn rằng: Kể từ lúc loài chó và loài mèo được sinh ra và vụ án được khởi tố, Diêm vương vẫn chưa xử xong. Chính vì thế mà loài mèo và loài chó vẫn còn rất ghét nhau vì không quên được mối cựu thù năm xưa mà đến nay lời giải đáp vẫn chưa được ngã ngũ.

Dĩ nhiên, cũng có những con mèo và những con chó sống chung hoà bình với nhau, như những người bạn chân thành. Neta-li Feuerstein và các cộng sự viên của ông tại Đại học Tel Aviv, Israel, đã phỏng vấn 170 gia đình nuôi chó và mèo. Phần lớn họ đều cho biết hai loài vật có thể sống thân mật với nhau. Sự dửng dưng chỉ chiếm 1/4 và tình trạng đấu đá xảy ra chưa tơi 1/10. Sự hòa hợp sẽ ở mức độ cao khi con mèo được nuôi trước con chó và khi chúng gặp nhau lúc con mèo chưa tới 7 tháng tuổi và con chó thì chưa được 1 năm tuổi. (M.T. theo Livescience).

Mối liên hệ tay ba giữa chuột mèo và chó làm cho gã nhớ tới một câu truyện trong sách Cổ Học Tinh Hoa, đại khái nhự thế này:

Vua nước Ngô muốn đem quân đi đánh nước Kinh. Đã nhiều người can ngăn, nhưng vua nhất định không nghe. Sau lại hạ lệnh rằng:

- Ai can ta đánh nước Kinh, thì sẽ bị xử tử.

Có một viên quan trẻ tuổi, muốn can ngăn mà không dám nói. Luôn ba ngày, cứ sáng sớm cầm cung tên đến đứng vườn sau nhà vua, sương ướt đẫm cả áo. Hôm thứ ba, vua gặp, mới hỏi:

- Người đến đây làm gì mà để sương xuống ướt cả áo như thế?

Viên quan thưa rằng:

- Trong vườn có một cây cổ thụ, chót vót trên ngọn cây, có con ve sầu hút gió, uống sương, rả rích kêu cả ngày, tưởng đã được yên thân lắm. Biết đâu, đằng sau có con bọ ngựa đang giơ hai càng chực bắt. Chính con bọ ngựa muốn bắt con ve sầu, lại biết đâu đằng sau có con chim sẻ nghển cổ chực mổ. Chính con chim sẻ muốn bắt con bọ ngựa, lại biết đâu dưới gốc cây có tôi cầm cung tên chực bắn. Chính tôi đây muốn bắt con chim sẻ mà không biết sương đã xuống ướt đẫm cả áo… Như thế đều chỉ vì tham cái lợi trước mắt mà quên hẳn cái hại ở ngay sau lưng vậy.

Vua nghe nói tỉnh ngộ, bèn thôi không đánh nước Kinh nữa.

Và tác giả đã thêm vào câu chuyện lời bàn như sau:

- Thế mới hay ở trên đời, ngay cả đến loài vật cũng chỉ rình hại lẫn nhau, nuốt lẫn nhau mà thôi. Nhưng biết đâu trong khi mình muốn nuốt người, lại có kẻ khác muốn nuốt mình, mình chỉ ham mê trục cái lợi trước mắt, mà không phòng bị cái hại sau lưng. Mà khi tai hại nó đã xảy đến, thì chẳng những không thấy lợi đâu, lại thiệt thân mình trước. Cho nên người khôn thấy cái lợi, thì lo cả đến cái hại, lợi bất cập hại thì không bao giờ làm.

Trước thềm năm mới, gã xin mượn lời của tiên tri Isaia mà vẽ ra một tương lai an bình thịnh vượng:

Lúc bấy giờ: Sói sẽ ở với chiên con, beo nằm bên dê nhỏ. Bò tơ và sư tử non được nuôi chung với nhau, một cậu bé sẽ chăn dắt chúng. Bò cái kết thân cùng gấu cái, con của chúng nằm chung một chỗ, sư tử cũng ăn rơm như bò. Bé thơ còn đang bú giỡn chơi bên hang rắn lục, trẻ thơ vừa cai sữa thọc tay vào ổ rắn hổ mang. (11,6-8).

Người với người sẽ không còn cấu xé lẫn nhau theo kiểu: Cá lớn nuốt cá hé. Hay theo kiểu: Anh như con chó, em như con mèo, hai con cắn nhau. Nhưng sẽ thực sự sống chung trong yêu thương và tôn trọng lẫn nhau. Và hoà bình sẽ mỉm cười với trái đất này.

Gã Siêu   gasieu@gmail.com

 

VỀ MỤC LỤC

- Mọi liên lạc: Ghi danh, thay đổi địa chỉ, đóng góp ý kiến, bài vở..., xin gởi về địa chỉ

giaosivietnam@gmail.com

- Những nội dung sẽ được đề cao và chú ý bao gồm:

Trao đổi, chia sẻ những kinh nghiệm thực tế trong việc mục vụ của Giáo sĩ;  Những tài liệu của Giáo hội hoặc của các Tác giả nhằm mục đích Thăng tiến đời sống Giáo sĩ; Cổ võ ơn gọi Linh mục; Người Giáo dân tham gia công việc “Trợ lực Giáo sĩ” bằng đời sống cầu nguyện và cộng tác trong mọi lãnh vực; Mỗi  Giáo dân phải là những “Linh mục” không có chức Thánh; Đối thoại trong tinh thần Bác ái giữa Giáo dân và Giáo sĩ… (Truyền giáo hay xây pháo đài?)

- Quy vị cũng có thể tham khảo những số báo đã phát hành tại

www.conggiaovietnam.net

Rất mong được sự cộng tác, hưởng ứng của tất cả Quí vị

Xin chân thành cám ơn tất cả anh chị em đã sẵn lòng cộng tác với chúng tôi bằng nhiều cách thế khác nhau.

TM. Đặc San Giáo Sĩ Việt Nam

Lm. Luca Phạm Quốc Sử  USA

 

 

Duoc chon giua loai nguoi va cho loai nguoi; GIAO SI: Xuat phat tu giao dan, hien dien vi giao dan va cay dua vao giao dan, de cung lam VINH DANH THIEN CHUA

*************