Lời Mở Ðầu |
Thánh Công Ðồng
Chung Vaticanô II
Hiến Chế Mục Vụ
Về Giáo Hội Trong Thế Giới
Ngày Nay
Gaudium Et Spes
Prepared for
Internet by Vietnamese Missionaries in Asia
Lời Mở Ðầu
1. Liên quan
mật thiết giữa Giáo Hội và toàn thể gia đình các dân tộc.
Vui mừng và hy vọng, ưu sầu và lo
lắng của con người ngày nay, nhất là của người nghèo và những ai đau khổ, cũng
là vui mừng và hy vọng, ưu sầu và lo lắng của các môn đệ Chúa Kitô, và không có
gì thực sự là của con người mà lại không gieo âm hưởng trong lòng họ. Thực vậy,
cộng đoàn của họ được cấu tạo bằng những con người đã được qui tụ trong Chúa
Kitô, được Chúa Thánh Thần hướng dẫn trong cuộc lữ hành về Nước Cha và đã đón
nhận tin mừng cứu rỗi đem tới cho mọi người. Vì thế, cộng đoàn ấy mới nhận thấy
mình thực sự liên hệ mật thiết với loài người và lịch sử nhân loại
1*.
2. Công
Ðồng muốn ngỏ lời với ai. Vậy, sau khi đã tìm hiểu tường tận hơn
về mầu nhiệm Giáo Hội 2*, Công Ðồng Vaticanô
II không còn chỉ ngỏ lời riêng với những người con của Giáo Hội và tất cả những
ai kêu danh Chúa Kitô, nhưng không ngần ngại nói với tất cả mọi người. Công Ðồng
ước ao trình bày cho mọi người biết mình quan niệm thế nào về sự hiện diện và
hành động của Giáo Hội trong thế giới ngày nay.
Vậy thế giới trình bày ở đây là thế
giới của con người, tức là toàn thể gia đình nhân loại với mọi sự thuộc môi
trường sinh sống của gia đình này. Thế giới ấy là sân khấu của lịch sử nhân loại
và là thế giới mang dấu tích những cố gắng, thất bại và thắng lợi của nhân loại;
thế giới ấy, người Kitô hữu tin là đã được tình yêu của Ðấng Tạo Hóa tác thành
và bảo trì; thế giới ấy đã rơi vào ách nô lệ tội lỗi, nhưng, nhờ Chúa Kitô chịu
đóng đinh và sống lại mà bẻ gãy uy quyền Thần Dữ, đã được giải thoát để thay
hình đổi dạng theo dự định của Thiên Chúa mà tiến tới sự viên mãn
3*.
Phục vụ con người. Ngày nay, tuy đã
cảm phục trước những khám phá và quyền lực của mình, nhân loại vẫn thấy lo lắng
thắc mắc về sự tiến hóa hiện nay của thế giới, về chỗ đứng và phận vụ con người
trong vũ trụ, về ý nghĩa của những cố gắng cá nhân cũng như tập thể, và sau hết
về cùng đích của con người và muôn loài. Vì thế, khi minh chứng và trình bày Ðức
Tin của toàn thể dân Chúa đã được Chúa Kitô đoàn tụ, để diễn tả thật hùng hồn
mối tình liên đới, sự tôn trọng và quí mến của dân Chúa đối với gia đình nhân
loại mà mình là một thành phần, Công Ðồng thấy hay hơn hết là phải thiết lập
cuộc đối thoại về những vấn đề ấy, phải lấy ánh sáng Phúc Âm mà soi dẫn, và phải
cho nhân loại những năng lực cứu rỗi mà chính Giáo Hội đã nhận được nơi Ðấng
Sáng Lập, nhờ Chúa Thánh Thần hướng dẫn. Thực vậy, việc phải làm là cứu rỗi nhân
vị con người và xây dựng xã hội loài người. Do đó, con người - dĩ nhiên là con
người duy nhất và toàn diện với thể xác và linh hồn, tình cảm và lương tri, trí
khôn và ý chí - sẽ là then chốt tất cả phần trình bày của chúng tôi.
Vậy, khi công bố thiên chức cao cả
của con người và xác nhận con người mang trong mình một mầm mống thần linh,
Thánh Công Ðồng muốn đề nghị với nhân loại sự cộng tác thành thực của Giáo Hội
hầu thiết lập một tình huynh đệ đại đồng phù hợp với thiên chức ấy. Không bị một
tham vọng trần thế nào thúc đẩy, Giáo Hội chỉ nhắm một điều là dưới sự hướng dẫn
của Chúa Thánh Thần, Giáo Hội tiếp tục công cuộc của chính Chúa Kitô, Ðấng đã
đến thế gian để làm chứng cho chân lý 2, để
cứu rỗi chứ không luận phạt, để phục vụ chứ không để được phục vụ
3.
Chú Thích:
1
Hiến chế Mục Vụ về "Giáo Hội trong thế giới ngày nay" tuy có hai phần rõ rệt
nhưng làm thành một khối duy nhất.
Hiến Chế mệnh danh là "Mục Vụ" vì,
dựa trên những nguyên tắc giáo lý, Hiến Chế nhằm trình bày thái độ của Giáo Hội
với thế giới và con người ngày nay. Do đó, không phải là thiếu chủ đích mục vụ
trong phần I, cũng như không thiếu chủ đích giáo lý trong phần II.
Trong phần I, Giáo Hội trình bày
giáo lý của mình về con người, về thế giới con người đang sống và về thái độ của
Giáo Hội đối với con người và thế giới. Trong phần II, Giáo Hội khảo sát tường
tận hơn những khía cạnh khác nhau trong cuộc sống hiện nay và trong xã hội nhân
loại, nhất là những thắc mắc, những vấn đề xét ra có vẻ khẩn thiết hơn trong
thời đại chúng ta. Do đó, trong phần sau này, dựa trên những nguyên tắc giáo lý,
nội dung không những bao hàm những yếu tố vĩnh cửu mà còn cả những yếu tố nhất
thời nữa.
Vậy, phải giải thích Hiến Chế theo
những nguyên tắc tổng quát của khoa chú giải thần học và đặc biệt phải lưu ý tới
những hoàn cảnh thay đổi là những hoàn cảnh tự bản chất gắn liền với những vấn
đề được bàn tới, nhất là trong phần thứ hai này.
1*
Kitô hữu là người "bị lưu đày xa Chúa" (2 Cor 5,6) và người "không có thành trì
kiên cố" ở đất này (Dth 13,14), nhưng vẫn còn thuộc về gia đình nhân loại. Mọi
vấn đề của nhân loại phải làm rung động tâm hồn Kitô hữu. Chính Giáo Hội được
thiết lập để đến cùng con người chứ không phải để chỉ sống cho mình mà thôi,
Giáo Hội phải đối thoại với con người, đưa cho con người ánh sáng đức tin đã
được trao phó cho Giáo Hội. Như thế Giáo Hội góp phần vào công việc chung nhằm
cứu độ con người và cải thiện xã hội. Sứ mệnh của Giáo Hội không nhằm những tham
vọng thế tục (số 3). Hiến Chế khai triển những tư tưởng này trong chương IV.
2*
Trong Hiến Chế tín lý về Giáo Hội.
3*
Theo thần học ta có thể quan niệm "thế giới" 1) là vũ trụ đã được Thiên Chúa tạo
nên (x. Stk 1,1; Gio 1,3; Col 1,15-20); 2) Thiên Chúa đã trao phó hoàn vũ cho
con người (x. Mt26,13; Gio 17,18); 3) nhân loại sa ngã chán ghét và chống đối
Thiên Chúa (x. Gio 1,10; 7,7; 15,18t; 17,9; 1Gio 2,15); 4) Thiên Chúa yêu mến
nhân loại đã được cứu chuộc (x. Gio 1,29; 3,13; 4,42; 2Cor 5,19). (ÐGM. Charue,
phó chủ tịch Ủy Ban về tín lý, ngỏ lời trong thánh đường thánh Phêrô, ngày
24.9.1965: xem Documentation Catholique 62 (1965), 1863).
Hiến Chế Mục Vụ về Giáo Hội trong
thế giới ngày nay hiểu thế giới theo nghĩa nhân chủng học (gia đình nhân loại),
vũ trụ luận (tất cả thực tại chung quanh), lịch sử học (nơi diễn tiến của lịch
sử), và thần học (được Thiên Chúa tạo nên vì tình yêu, v.v...).
2
Xem Gio 18,37.
3
Xem Gio 3,17; Mt 20,28; Mc 10,45.
|
VỀ MỤC LỤC |
|
SUY NIỆM ĐẦU NĂM
|
Tăng trưởng với mùa xuân
Theo dòng
thời gian, hầu hết các vật dụng, các sản phẩm tiêu dùng hằng
ngày do bàn tay con người làm ra đều được nâng cấp cực kỳ nhanh
chóng.
Về nhà ở:
Những căn nhà tranh vách đất cách đây mấy chục năm dần dần đã
được thay thế bằng những căn nhà gạch lợp ngói, rồi những căn
nhà ngói lại được thay thế bằng những biệt thự sang trọng và dần
hồi những biệt thự nầy phải nhường chỗ cho những ngôi nhà nhiều
tầng đầy đủ tiện nghi.
Về phương
tiện giao thông: Xưa kia, khi phải đi xa, cha ông chúng ta phải
cuốc bộ suốt cả ngày trường, may lắm là được cỡi ngựa hay lừa.
Dần hồi,
phương tiện đi lại được cải tiến, thay vì cỡi lừa hay ngựa,
người ta đã sáng chế ra xe đạp. Sau đó xe đạp được cải tiến
thành xe máy. Lên một bậc nữa, người ta chế tạo ra những chiếc
xe hơi chạy bằng hơi nước đi chậm như rùa. Rồi những chiếc xe
hơi cà tàng nầy phải nhường chỗ cho những chiếc xe hơi sang
trọng có nhiều tiện nghi có thể đạt vận tốc tới vài trăm cây số
một giờ. Ngày nay, người ta còn cải tiến xe hơi thành xe bay:
loại xe nầy có thể chạy trên đường lộ với vận tốc kinh hồn, đồng
thời cũng có thể cất cánh bay lên như một máy bay.
Đặc biệt là
trong lĩnh vực truyền thông: Xưa kia muốn chuyển một bức thư từ
Hà Nội vào Sài Gòn, các người phu trạm phải mất cả vài tuần mới
chuyển tới tay người nhận; còn hôm nay, nhờ internet, muốn
chuyển một bức thư và ngay cả mấy tấm hình từ Việt Nam qua Mỹ,
người ta chỉ cần một vài giây. Ngoài ra, nhờ công nghệ số, một
người từ bên nầy trái đất có thể đàm thoại trực tiếp với người ở
phía bên kia địa cầu như thể nói chuyện với người đối diện, có
thể nghe rõ tiếng và nhìn rõ mặt nhau.
Không nói đâu
xa, chỉ cần nhìn lại những vật dụng tầm thường như đôi dép đi
dưới chân, cái chổi quét nhà và ngay cả cái thùng rác cũng được
cải tiến, nâng cấp liên tục.
Các vật dụng
do con người làm nên, giá trị chẳng đáng là bao, lại được nâng
cấp liên tục, được cải tiến không ngừng, được hoàn thiện nhanh
chóng.
Trong khi đó,
con người là chủ nhân của tất cả những sản phẩm đó, có thực sự
được cải thiện, nâng cấp không?
Thử nhìn và
so sánh thực trạng xã hội hôm xưa và hiện nay xem sao.
Về mặt luân
thường đạo lý: Xã hội ngày xưa không có chuyện li dị, phá thai,
gian tham, trộm cắp lan tràn như ngày hôm nay. Ngày xưa không hề
có chuyện trò đánh thầy như hôm nay.
Tiết hạnh của
người phụ nữ, sự chung thủy trong hôn nhân, tình nghĩa thầy trò…
vốn là những giá trị cao quý và rất được trân trọng trước đây,
nay đang dần dần bị xem thường.
Thật đau
lòng! Đang khi phẩm chất các sản phẩm do bàn tay con người tạo
nên không ngừng được cải tiến và nâng cao; còn phẩm giá của con
người là chủ nhân của các sản phẩm đó thì ngày càng bị suy giảm,
sa sút!
Trong lãnh
vực chế tạo hàng tiêu dùng, châm ngôn của các chủ doanh nghiệp
là: “Cải tiến hay là chết” – không cải tiến sản phẩm cho kịp với
đà tiến công nghiệp là phải chết.
Còn trong
lãnh vực tinh thần và đạo đức thì sao? Nếu phẩm chất của một con
người không được cải tiến mà còn bị sa sút, thì người đó có đáng
được trân trọng nữa không?
Quyết tâm nâng cao phẩm chất con
người .
Mùa xuân về,
vạn vật đổi mới, cây cối khoác lá mới, các bông hoa khoe sắc mới,
bầu trời cũng tươi sáng và ấm áp hơn… Cảnh vật thiên nhiên đổi
mới trong mùa xuân là lời mời gọi và khích lệ loài người hãy đổi
mới.
Thêm một năm,
tăng một tuổi, đòi hỏi chúng ta phải gia tăng phẩm chất của mình
theo đà tiến của thời gian.
Ý thức mình
là Tạo Vật ưu việt do Thiên Chúa dựng nên giống hình ảnh Thiên
Chúa, được làm con Thiên Chúa, được trở nên chi thể, nên thân
mình Chúa Giê-su, chúng ta không thể để cho mình xuống cấp,
thoái hóa, biến chất được.
Noi gương
Chúa Giê-su “càng thêm tuổi, càng thêm khôn ngoan và nhân đức”,
chúng ta phải làm gia tăng phẩm chất cao đẹp của mình.
Đáp Lời Chúa
mời gọi: “Các con hãy nên trọn lành như Cha các con trên trời là
Đấng trọn lành,” chúng ta cần cố gắng đổi mới từ ngôn từ đến
hành động, từ con người cho đến nếp sống.
Nói năng sao
cho có văn hóa.
Cư xử sao cho
lịch sự, văn minh.
Hành động thế
nào để chứng tỏ mình có phẩm chất cao đẹp.
Có như thế,
chúng ta không còn hổ thẹn với những sản phẩm do bàn tay con
người làm ra.
Có như thế,
chúng ta mới xứng đáng là con Thiên Chúa, là thân mình Chúa
Giê-su.
Nguyện xin
Chúa Giê-su là Mùa Xuân Vĩnh Cửu ban nguồn sinh lực mới để đổi
mới chúng ta.
Linh Mục Inhaxiô
Trần Ngà |
VỀ MỤC LỤC |
|
THƯ CHÚC TẾT TÂN MÃO CỦA CHA BẢO
TỊNH, Ocist GỞI GIA ĐÌNH LECTIO DIVINA
|
Xin giới thiệu cho nhiều người thân tham gia Gia Đình Lectio
Divina Lecdiv@gmail.com để
có thể thường xuyên nhận tài liệu qua email và cùng giúp nhau
thực hành "điều cần thiết nhất trong mọi điều cần thiết". Mọi
thắc mắc về Lectio Divina, xin gởi email cho cha Bảo Tịnh, Ocist Revbao@gmail.com
Lời chúc xuân
Thưa bạn
Trong giờ Lectio đầu ngày cuối cùng của năm cũ, tôi nghĩ rất
nhiều đến bạn, người ít lâu nay ghi tên vào Gia Đình Lectio
divina, nhận tài liệu về Lectio divina và có lẽ say mê thực hành
Lectio divina. Như lời tâm tình cho năm Tân Mão, xin gửi đến bạn
số 86 trong Tông Hiến Verbum Domini”, (bản dịch chính thức của
Ủy Ban Kinh Thánh trực thuộc Hội Đồng Giám Mục Việt Nam. Bạn đã
có thể tìm mua sách tại các nhà sách Công Giáo, và có lẽ tại các
Tòa Giám Mục).
Số 86 của Tông Huấn viết riêng về Lectio divina. Thật cô đọng,
nhưng cũng thật quan trọng nói lên sự cần thiết “đọc Sách Thánh
trong tư thế cầu nguyện” mà gia đình Lectio divina chúng ta đã
và đang thực hành.
Mong rằng Lời Chúa sẽ luôn mãi là lương thực chúng ta dùng
thường xuyên trong suốt ngày sống. Ước mong này là lời chúc xuân
gửi đến bạn. Khi lời chúc được bạn tiếp nhận và thưc hiện thì
bạn đã có một Mùa Xuân tuyệt vời nhất. Mùa Xuân bất tận trải dài
suốt cuộc sống trần thế của bạn, trần thế nhưng thực ra đã là
thiên đàng ngay tại thế này rồi.
Fr. Marie Bảo Tịnh O.Cist
TÔNG HUẤN VERBUM DOMINI
số 86. Đọc Sách Thánh trong
tư thế cầu nguyện và “Lectio divina”
Thượng Hội Đồng nhiều lần nhấn mạnh tới việc cần phải
có một cách tiếp cận bản văn thánh trong tư thế cầu
nguyện, cho như là yếu tố căn bản cho đời sống thiêng
của mọi tín hữu, đang dấn thân vào các thừa tác vụ và
các bậc sống khác nhau, và đặc biệt nhắc tới Lectio
divina (290: Đề nghị 17).
Quả thật, Lời Thiên Chúa nằm ở tại nền tảng của mọi
linh đạo Kitô giáo chân chính. Như thế, các Nghị Phụ
Thượng Hội Đồng đã đặt mình vào thế hoà điệu với
những gì Hiến chế tín lý Dei verbum đã khẳng định:
“Ước gì các tín hữu sẵn lòng đi đến với chính bản văn
Kinh Thánh, hoặc nhờ phụng vụ thánh đầy dẫy Lời Thiên
Chúa, hoặc nhờ việc sốt sắng đọc Kinh Thánh, hoặc nhờ
những lớp học hỏi thích hợp và những phương tiện khác
ngày nay đang phổ biến khắp nơi cách đáng mừng, với sự
ưng thuận và chăm lo của các vị chủ chăn trong Giáo Hội.
Nhưng họ nên nhớ rằng kinh nguyện phải có kèm theo việc
đọc Kinh Thánh” (291: Số
25). Khi suy tư như vậy, Công Đồng muốn nhắc lại
Truyền thống Giáo Phụ cổ kính vì Truyền thống này đã
luôn khuyến khích người ta tiếp cận Sách Thánh trong tư
thế đối thoại với Thiên Chúa. Như thánh Augustinô đã nói:
“Lời cầu nguyện của bạn chính là lời bạn thưa với
Thiên Chúa. Khi bạn đọc Sách Thánh, thì chính Thiên Chúa
nói với bạn; khi bạn cầu nguyện, thì chính bạn nói
với Thiên Chúa” (292:
Enarrationes in Psalmos, 85, 7: CCL 39, 1177). Ôrigiênê, một
trong những bậc thầy của cách đọc Kinh Thánh này, chủ
trương rằng muốn hiểu Kinh Thánh, còn hơn là muốn nghiên
cứu Kinh Thánh, cần phải sống thân tình với Chúa Kitô và
cầu nguyện. Quả thế, ngài xác tín rằng con đường ưu
tiên phải theo để biết Thiên Chúa là tình yêu và người
ta không đạt được một scientia Christi (sự hiểu
biết Chúa Kitô) chân thật nếu không say mê Người. Trong
Thư gửi cho Grêgôriô, nhà thần học trứ danh
thành Alêxanria đã khuyến cáo: “Con hãy chuyên chăm đọc
Sách Thánh; hãy kiên trì làm công việc này (…). Khi
chuyên chăm đọc Kinh Thánh với ý hướng tin và làm vui
lòng Chúa, nếu trong lectio, mà thấy có cánh cửa
đóng, con hãy gõ cửa, và người canh cửa sẽ ra mở cho
con, người canh cửa mà Đức Giêsu đã nói tới: ‘Người canh
cổng sẽ mở cổng cho ông ta’. Khi chuyên chăm làm lectio
divina (đọc Sách Thánh) như thế, với lòng ngay
thẳng và niềm tín thác không lay chuyển vào Thiên Chúa,
con hãy cố tìm hiểu ý nghĩa Sách Thánh, mà ý nghĩa trọn vẹn
phần lớn bị che giấu. Tuy nhiên, đừng bằng lòng với
việc gõ cữa và tìm kiếm: muốn hiểu sự việc của Thiên
Chúa, tuyệt đối cần làm oratio (cầu nguyện).
Chính là để khuyến khích chúng ta mà Đấng Cứu Thế
không những đã nói: “Cứ gõ cửa cửa thì sẽ mở ra cho” và
“Cứ tìm sẽ thấy”, nhưng còn nói: “Cứ xin thì sẽ được”
(293: Origiênê, Epistola ad Gregorium, 3L PG 11,92).
Tuy nhiên, về điểm này, ta phải tránh nguy cơ một tiếp
cận cá nhân chủ nghĩa, mà phải nhớ rằng Lời
Thiên Chúa đã được ban cho chúng ta chính là để xây dựng
sự hiệp thông, để nối kết chúng ta lại trong chân lý
trong khi chúng ta tiến về với Thiên Chúa. Đây là một
Lời ngỏ riêng tư với từng người, nhưng cũng là một Lời
có sức xây dựng cộng đoàn, xây dựng Giáo Hội. Vì thế,
bản văn thánh phải được luôn luôn tiếp cận trong tinh
thần hiêp thông Giáo Hội. Thực thế, phải luôn
luôn tiếp cận với bản văn thánh trong sự hiệp thông Giáo
Hội. Quả vậy, “điều hết sức quan trọng là phải đọc
trong cộng đoàn (…), bởi vì chủ thể sống động của Sách
Thánh là Dân Thiên Chúa, là Giáo Hội. (…), Sách Thánh
không thuộc về quá khứ, bởi vì chủ thể của Sách Thánh,
là dân Thiên Chúa được chính Ngài linh hứng, vẫn là đoàn
Dân ấy, do đó Lời Chúa cũng luôn sinh động nơi chủ thể
sống động. Chính vì thế, điều quan trọng là phải đọc
và trải nghiệm Sách Thánh trong sự hiệp thông với Giáo
Hội, nghĩa là với tất cả các chứng nhân vĩ đại của
Lời này, bắt đầu với các Giào Phụ đầu tiên cho tới các
vị thánh thời nay, cho tới Huấn Quyền hiện nay
(294: Đức Bênêđitô XVI, Diễn văn
cho Đại chủng viện giáo hoàng Rôma (17-2-2007): AAS 99 (2007),
tr, 254; OR bản tiếng Pháp, 27-2-2007), tr. 3).
Vì thế, muốn đọc kinh Thánh trong tư thế cầu nguyện,
nơi ưu tiên là phụng vụ, nhất là Bí tích
Thánh Thể, khi đó lúc ta cử hành Mình và Máu
Chúa Kitô hiện diện trong Bí tích, chính Lời Chúa cũng
hiện diện sống động giữa chúng ta. Theo một nghĩa nào
đó, cách đọc Sách Thánh trong tư thế cầu nguyện, cá
nhân cũng như cộng đoàn, phải luôn luôn được sống trong
liên hệ với cử hành Thánh Thể. Cũng như việc thờ lạy
Thánh Thể chuẩn bị, tháp tùng và tiếp nối việc cử
hành Thánh Thể (295: X. Đức Be7nêđitô XVI, Tông Huấn hậu Thượng Hội Đồng Sacramentum
Caritatis (22-2-2007). s. 66: AAS 99 (2007), tr. 155-156),
thì việc đọc Sách Thánh trong tư thế cầu nguyện,
cá nhân cũng như cộng đoàn, cũng chuẩn bị, tháp tùng và
đào sâu những gì Giáo Hội cử hành khi công bố Lời trong
khung cảnh phụng vụ. Khi đặt để Lectio và phụng
vụ trong quan hệ chặt chẽ như thế, ta có thể nắm vững
hơn các tiêu chuẩn phải hướng dẫn việc đọc Lời Chúa
trong bối cảnh mục vụ và đời sống thiêng liêng của dân
Thiên Chúa.
Trích Tông Huấn Hậu Thượng Hội
Đồng Giám Mục
VERBUM DEI của ĐGH Bênêđitô
VVI
về LỜI THIÊN CHÚA TRONG ĐỜI
SỐNG VÀ SỨ MẠNG CỦA GIÁO HỘI
(Bản dịch của Ủy Ban Kinh
Thánh trực thuộc HĐGM Việt Nam)
Nhà xuất bản Tôn Giáo - Nhà
Sách Đức Bà Hòa Bình
Tài liệu đọc thêm trong những ngày đầu năm:
LỜI CHÚA LÀ SUỐI NGUỒN BẤT TẬN
St. Ephrem
Lạy Chúa, ai có thể hiểu hết được sự phong phú của những lời của
Chúa?
Điều chúng con hiểu thì quá ít so với những gì chúng con bỏ qua
không hiểu, như người khát đến uống ở suối nước. Những viễn
tượng của lời Chúa thì nhiều vô kể, như những ý hướng của những
người học hỏi lời của Chúa.
Chúa đã tô điểm lời của Người bằng nhiều nét đẹp, để mỗi người
trong số những kẻ tìm hiểu lời có thể chiêm ngưỡng những điều họ
ưa thích, để mỗi người chúng ta có thể tìm gặp được sự phong phú
trong những điều mình suy niệm.
Lời của Chúa là một cây sự sống, từ khắp các cành cống hiến cho
bạn những trái được chúc phúc; lời Chúa như tảng đá được khơi
mạch trong hoang địa để ban cho mọi người một thức uống thiêng
liêng. Theo lời thánh Tông đồ, “họ đã ăn một thức ăn thiêng
liêng, họ đã uống ở một suối thiêng liêng”.
Ai đã chiếm được một trong những điều phong phú này khi chia sẻ
đừng lầm tưởng rằng trong lời của Chúa chỉ có điều họ tìm gặp.
Ngược lại, họ phải hiểu rằng họ đã chỉ có thể khám phá được một
điều trong muôn vàn điều khác. Được phong phú nhờ lãnh nhận lời,
họ đừng nghĩ rằng lời đã bị nghèo đi; không thể làm cạn được lời,
họ nên tạ ơn vì sự phong phú của lời.
Bạn hãy vui mừng vì bạn đã được đã khát, và đừng buồn vì những
gì vượt qua bạn. Ai khát sẽ vui mừng được uống, nhưng không buồn
vì mình đã không thể uống cạn được suối nước. Nếu cơn khát của
bạn đã được thỏa thuê mà nguồn suối vẫn không cạn khô, bạn sẽ
còn có thể uống nữa mỗi khi bạn khát. Bằng ngườc lại, nếu khi
uống đã khát mà bạn làm cạn ngồn suối, sự chiến thắng của bạn sẽ
biến thành điều bất hạnh cho bạn.
Hãy tạ ơn về điểu bạn đã lãnh nhận và đừng tiếc nuối về điều đã
không thể dùng đến. Điều bạn đã lấy được và đem đi đó là phần
của bạn. Những gì còn lại cũng là gia nghiệp của bạn. Điều bạn
đã chưa có thể lãnh hội ngay vì sự yếu kém của mình, bạn sẽ nhận
được vào lúc khác, nếu bạn luôn kiên trì. Vậy bạn đừng có ý nghĩ
xấu là muốn đắc thủ một mạch điều không thể nhận hết được trong
một lần; đừng vì trễ nải mà từ chối tiếp nhận điều bạn có thể
thâu nhận ít một.
Thánh Ephrem (chú giải Phúc Âm)
CUNG CHÚC TÂN XUÂN |
VỀ MỤC LỤC |
|
NHÌN NGƯỜI NỮ…, NHÌN NGƯỜI NAM…
|
CN VI A TN
Sống là chọn
lựa. Chọn lựa là hy sinh. Hy sinh là chết đi. Chết cho điều này
để sống cho điều kia. Bài đọc thứ nhất sách Huấn Ca hôm nay nói
đến việc chọn lựa,
“Trước mặt
con, Người đã đặt lửa và nước; con muốn gì, hãy đưa tay ra mà
lấy. Trước mặt con là cửa sinh cửa tử; ai thích gì, sẽ được cái
đó”.
Tin Mừng hôm
nay cũng nói đến việc chọn lựa,
“Anh em đã
nghe Luật dạy người xưa rằng: Chớ giết người; còn Thầy, Thầy bảo
cho anh em biết, ai giận anh em mình thì đáng bị đưa ra toà”.
“Anh em đã nghe Luật dạy rằng: Chớ ngoại tình; còn Thầy, Thầy
bảo cho anh em biết, bất cứ ai nhìn người phụ nữ mà thèm muốn,
thì trong lòng đã ngoại tình với người ấy rồi”.
Nếu có những
lối đi yên tĩnh thì cũng có những ngõ vắng xôn xao;
Nếu có những
đường làng quạnh hiu thì cũng có những đại lộ rộn rã.
Tương tự như
thế, trong tình yêu,
Tình yêu có
cả những đại lộ thênh thang,
Cả những lối
mòn chật hẹp.
Các bạn trẻ
thân mến,
Luật cũ dạy:
chớ giết người, chớ ngoại tình… đó là những đại lộ tình yêu, ai
cũng thấy, ai cũng biết và dễ chấp nhận. Nhưng ai giận anh em
mình, ai bảo anh em mình là “bờm”, thì đáng bị toà án luận phạt…
đó là những lối hẹp tình yêu mà ai ai cũng dễ va vấp và khó chấp
nhận. Cũng như, “Ai nhìn người nữ mà thèm muốn, thì trong
lòng đã ngoại tình với người ấy rồi” lại là một lối mòn chật
hẹp hơn. Phải chăng đây chính là điều mắt chẳng hề thấy, tai
chẳng hề nghe, lòng người không hề nghĩ tới, là điều
Thiên Chúa đã dọn sẵn cho những ai yêu mến Người mà thánh
Phaolô nói tới trong bài đọc thứ hai hôm nay?
Có người nói,
lạy Chúa, Chúa quá quắt, “Chúa đi guốc trong bụng đàn ông…”;
nhưng cũng không ít người tạ ơn Chúa vì Chúa quá tế nhị, quá
nhân ái khi không dám nói thêm “Ai nhìn người nam…”.
Thưa các bạn,
có lẽ đây là đoạn Tin Mừng mà mỗi khi đọc hoặc nghe nói đến là
chúng ta nhăn mặt, một đoạn Tin Mừng hiếm khi được chọn để suy
niệm trong các buổi chia sẻ.
Vậy hôm nay,
chúng ta thử nhìn thẳng vấn đề. Đức Giêsu muốn nói gì ở đây?
Phải chăng Ngài muốn nói đến đức ái trọn hảo? Phải chăng Ngài
muốn nói đến sự thanh khiết hồn nhiên của những ai theo Ngài?
Hoặc Ngài muốn nói đến những đòi buộc triệt để giúp chúng ta
tiến “nhanh hơn, cao hơn và xa hơn” trong đời sống làm con Chúa?
Có lẽ tất cả đó đều là câu trả lời.
Đức Giêsu,
Đấng ba lần thánh, dẫu hoàn toàn vô tội… nhưng không vì thế mà
những gì xảy ra nơi con người lại xa lạ với Ngài. Ngài biết đến
những xung năng vật vã, biết cả những cuồng si ươn hèn, hay
những cám dỗ chết người nơi thân phận bọt bèo của kiếp nhân
sinh. Ngài biết nam cũng như nữ, trẻ cũng như già, khoẻ cũng như
ốm, người sống đời dâng hiến cũng như kẻ ở bậc vợ chồng.
Trong cuốn
sách của mình, một bác sĩ tâm lý thổ lộ: “Tôi thiết nghĩ, trong
đời sống vợ chồng, việc giữ đức khiết tịnh còn khó hơn gấp bội
so với những người sống đời độc thân. Tôi không nói đến ngoại
tình, nhưng tôi muốn nói đến sự kiêng khem”. Vậy thì tại sao
phải kiêng khem trong bậc vợ chồng cũng như phải dè giữ ngũ quan
trong đời dâng hiến? Câu trả lời hẳn phải có một mẫu số chung:
tất cả chỉ vì tình yêu.
Người ta sẽ không biết từ chối những điều
cấm nếu đã không biết chối từ những điều được phép. Sẽ không
biết yêu thương nếu người ta đã không biết hy sinh cả những gì
có thể làm. Vì không phải điều ta dâng Chúa mới đáng giá, nhưng
sẽ đáng giá hơn, cả những điều ta từ chối vì Người. Tất cả phải
phát xuất từ tình yêu, chỉ vì tình yêu. Tất cả gỗ của muôn cánh
rừng sẽ thật vô dụng nếu không có lấy một ngọn lửa, “Thầy đã
đến đem lửa xuống thế gian, và Thầy những ước mong cho lửa này
bùng cháy lên”. Lửa ở đây, chính là lửa yêu thương.
Kitô hữu là những người lội ngược… mà dừng
lại là thua cuộc, là trôi theo dòng đời.
Đừng ngần ngại tìm sự cô tịch cho tâm hồn ở
những lối đi chật hẹp!
Đừng do dự trổ hoa giữa những sa mạc cằn
khô!
Cũng đừng băn khoăn khi phải chắt chiu niềm
vui nơi những lối đi gập ghềnh.
Ngài có đó, Giêsu có đó… sẵn sàng dẫn dắt,
bổ sức và chữa lành bạn; ở đó, niềm vui dâng hiến sẽ là những
bông hoa hiếm hoi trổ nụ trên những que cọng tình yêu. Hãy cầu
xin cho bạn đủ sáng, đủ hấp dẫn để các tâm hồn được gần Chúa hơn;
cũng hãy cầu xin cho đủ lu mờ để không ai gắn bó với bạn mà xa
dần Thiên Chúa. Chúc bạn mạnh mẽ để can trường đi vào những lối
nhỏ yêu thương đó!
Lm. Minh Anh (Gp.Huế) |
VỀ MỤC LỤC |
|
NGỤ NGÔN THỜI BẤN LOẠN (KỲ 20)
|
Ngụ ngôn 63
Con cáo sửa
soạn bộ lông cho thật đẹp rồi từ giã rừng già để ra biển nghỉ hè.
Cáo ngang nhiên đi lại trên bãi biển. Cáo nhìn trời nhìn mây,
nhìn sóng nhìn cát cười vui: “Ôi đẹp quá”. Cáo ta mua cua ghẹ,
tôm và nhiều thứ hải sản khác, ngồi nhai ngấu nghiến. Vừa ăn cáo
vừa quăng vỏ tôm cua trên cát. Chưa hết, cáo còn gọi nhiều loại
bánh trái, vừa ăn vừa ngắm cảnh tuyệt vời. Cáo cũng tiếp tục
quăng đủ thứ vỏ xuống cát. Ăn xong, cáo ngủ ngon lành.
Chiều xuống,
cáo tỉnh giấc nhìn chung quanh. Thấy bao nhiêu là rác, vỏ tôm
cua và giấy gói la liệt, cáo hét lớn: “Biển thật không văn minh
gì cả, dơ bẩn quá”. Chê bai xong, cáo phóng chạy về rừng, không
cần nghỉ hè nữa.
Ngụ ngôn 64
Thỏ đi phương
xa về học được hai bài học: Nói thật và Công bằng. Hổ và sư tử
cấm loài đi loan truyền loại giáo thuyết “phản động” ấy. Rừng
xanh có hai thứ luật là luật của rừng và luật của thời tiết.
Luật rừng là ai mạnh thì thắng, ai yếu thì biến. Luật thời tiết
là mưa thì rừng ướt, nắng thì rừng khô, không loài nào được có ý
kiến. Thế nhưng mỗi khi trời nắng, cọp bảo đang mưa thì mọi con
thú phải đồng thanh hô: “Trời đang mưa”
Thỏ bảo: “Ở
đồng bằng có đôi phần khác biệt. Mưa thì bảo mưa, nắng thì bảo
nắng. Và không ai được chiếm của cải người khác”. Hổ và sư tử
nói: “Làm gì có chuyện ấy!”
Để “đi thực
tế”, hổ và sư tử hạ sơn, viếng miền đồng bằng. Đang phóng như
lao, hai chúa sơn lâm nghe tiếng người đồng bằng hét to: “Dừng
lại, nguy hiểm, dây điện giật chết đó”. Sư tử và hổ theo luật
rừng không tin là con người nói thật. Sợi dây nhỏ xíu ấy mà làm
chúa sơn lâm chết được ? Hai con thú ấy gầm lên, phóng thẳng tới,
dùng chân quấn dây điện định bứt tung đi.
Chiều hôm ấy
dân làng được một bữa ăn thịt cọp đúng nghĩa đen.
Ngụ ngôn 65
Năm hết Tết
đến. Hoa mai nói với hoa đào: “Mình góp phần làm cho mùa Xuân
thêm đẹp”. Hoa đào bảo: “Vậy mà sau Tết họ quăng mình đi.”
Bình hoa giả
nghe vậy bật cười: “Hai chị thật quá nên bị loại là đúng rồi. Cứ
giả giả như em đây thiên hạ đem chùi rửa rồi chưng hoài”.
Mùa Xuân nghe
vậy ứa nước mắt.
Gioan Lê Quang
Vinh
www.giaoducconggiao.net
|
VỀ MỤC LỤC |
|
HẠT
GIỐNG SỰ THẬT |
Chuyện kể
rằng, một vị vua tài đức nọ giàu đức hạnh, nhưng không có hoàng
tử nối ngôi. Vị vua nghĩ tới việc chiêu mộ những người trẻ tài
đức để có thể kế vị ông sau khi ông qua đời.
Một ngày kia,
vua cho mời tất cả các trẻ em từ 5 đến 12 tuổi vào hoàng cung.
Vị vua giải thích cho các em ý định của ông là muốn tìm người
tài đức để thay ông cai quản đất nước. Ông trao cho mỗi em một
hạt giống và dặn các em rằng sau 3 năm, các em hãy mang mỗi cây
mà mình sẽ trồng đến trình diện tại cung điện. Sau khi nhận hạt
giống, mỗi em điều nhiệt tình trồng hạt giống của mình và ngày
đêm chăm sóc chúng với hy vọng là cây của mình sẽ lớn nhanh và
có thể sinh hoa kết quả. Một số em nghĩ rằng, mình phải gây sự
chú ý của nhà vua bằng cách làm cho cây của mình thật lớn và có
hoa quả.
Đúng ngày đã
hẹn, cả nước nhộn nhịp tiến vào cung điện để xem thử cây nào là
cây đẹp nhất, có nhiều trái nhất, và để xem ai sẽ là vị vua
tương lai cho đất nước. Quả đúng như dự tính, mỗi em đều mang
đến cây mà mình đã trồng với nhiều màu hoa hương sắc. Người ta
cũng thấy có những cây đã kết trái thật xum xuê. Nhà vua đi đến
từng địa điểm để hỏi thăm các em, cách thức các em trồng cây. Sự
hồi hộp và im lặng của đám đông càng tăng lên khi nhà vua tiến
đến những cây tươi trái tốt; nơi mà nhiều người nghĩ rằng một
trong số các em này sẽ được chọn là hoàng tử. Thế nhưng, nhà vua
vẫn tiếp tục đi qua và bỗng dưng ông dừng lại trước một cậu bé.
Trên tay cậu bé là một chậu đất không cây. Thấy nhà vua đứng lại
bên mình, cậu biểu lộ sự thất bại bằng dòng nước mắt chảy dài
trên má. Nhà vua hỏi, “Tại sao con khóc?” Cậu bé thưa, “Con đã
gieo hạt giống vào chậu đất này, con đã bón phân cho nó, con đã
tưới nước cho nó hằng ngày, con đã che nắng cho nó và con đã làm
nhiều cách để chăm sóc hạt giống của con, nhưng cuối cùng không
có cây nào.” Càng nói, cậu bé càng khóc lớn tiếng. Nhà vua ôm
cậu vào lòng và ra lệnh cho quân lính cáng cậu lên chỗ cao danh
dự. Giờ đây, trước sự sững sốt của bao nhiêu người, và kể cả cậu
bé, nhà vua bắt đầu lên tiếng. “Hôm nay, bệ hạ đã tìm được người
mà bệ hạ mong đợi từ lâu. Cậu bé đây đã chân thật khi nhận sự
thất bại của mình. Và thực đúng là như vậy. Vì tất cả hạt giống
ta trao cho các con cách đây 3 năm, chúng đã bị luộc chính cả
rồi.” Nhà vua quay qua cậu bé và nói. “Con đã biết trung thành
và trung tín trong việc nhỏ, con đã không bị ngai vàng và danh
lợi mê hoặc; con đã cần mẫn chu toàn công việc của con với hết
khả năng của mình. Đó là điều ta mong muốn.” Nhà vua nói tiếp,
“Trên tay con là chiếc chậu đất không cây, nhưng chính trong
trái tim con, con đã gieo hạt giống sự thật vào lòng mọi người
hôm nay.”
* * *
Bạn thân mến,
câu chuyện trên như thêm khẳng định cho chúng ta rằng: giá trị
của sự thật thì vĩnh cửu. Sức mạnh của sự đơn sơ và chân thật
rất thầm lặng đến nổi không phải ai ai cũng có khả năng để nhận
ra được, nhất là khi chúng ta đang sống trong một xã hội như yêu
chuộng bề ngoài.
Biết bao
nhiêu bực thánh nhân, vĩ nhân đã bị hiểu lầm và kết án chỉ vì họ
sống đơn sơ chân thật. Họ nhìn thấy được giá trị siêu việt của
đời người không phải ở lời ca tụng hay chê bai, thành công hay
thất bại, nhưng là chân giá trị phát xuất từ ý ngay lành của họ.
Msgr. John Cippel, một nhà truyền giáo và linh hướng nổi tiếng
hiện đang sống tại Florida đã chia sẻ rằng: “Thách thức lớn nhất
trong đời linh mục của tôi là đi vào sự thật.” Những người như
Msgr. John Cippel luôn can đảm ráo rốt tìm câu trả lời xuất phát
tự trong lương tâm họ: “Động cơ tối hậu của tôi là gì?”
Tôi có đơn sơ thi hành những phận vụ này xuất phát từ ý ngay
lành của tôi hay vì một mục đích lý do nào khác?
Như thế đó,
sự đơn sơ và chân thật đi luôn với nhau. Trái tim và ánh mắt của
trẻ thơ dạy cho chúng ta biết sự đơn sơ chân thật. Đối với các
em, ai ai cũng là bạn, ai ai cũng có thể bắt chuyện, ai ai cũng
có thể chơi đùa. Nếu các em dừng lại, ngập ngừng, e sợ,… đó là
lúc các em bắt đầu tiếp cận với thế giới “người lớn.” Buồn thay,
thế giới ấy là thế giới cạnh tranh và nhiều mưu mô.
Đâu rồi sự
đơn sơ chân thật như trẻ thơ trong mỗi người chúng ta? Hãy là
trẻ thơ với nhau đi, đừng gây thêm hận thù và chia rẻ nữa!
Br.
Huynhquảng
Mời bạn
ghé thăm trang
http://brhuynhquang.org/.
Email liên
lạc:
brhq@brhuynhquang.org |
VỀ MỤC LỤC |
|
GIÁO HỘI CÔNG GIÁO TỪ SAU CÔNG
ĐỒNG VATICAN II ĐẾN CHÚNG TA (bài 2).
|
Xin đọc phần 1 trong số báo 137 hoặc tại đây:
http://www.conggiaovietnam.net/index.php?m=module2&v=detailarticle&id=84&ia=8184
NGUYỄN HỌC TẬP
II - Đức
Thánh Cha Gioan Phaolồ II.
Rất khó mà chuẩn định được chính xác về Đức
Thánh Cha Gioan Phaolồ II. Chân dung cao cả của ngài và triều
đại lâu dài, nhiều thay đổi khác nhau và đầy động tác cần phải
có một thời gian dài nhiều năm nữa mới có thể có được một cái
nhìn đối với tất cả mọi phương diện.
Chỉ cần nhớ lại những gì tất cả đều nhắc nhớ đến
lúc ngài mất đi.
Ngài là vị Giáo Hoàng thứ 3 có triều đại lâu
nhứt trong lịch sử Giáo Hội, sau Thánh Phêrô, mà theo tục truyền
là Vị cai quản Giáo Hội suốt 35 năm, kế đến là Đức Pio IX, làm
Giáo Hoàng suốt 31 năm.
Nhờ vào triều đại lâu dài nầy, mà Đức Gioan
Phaolồ II đã vượt trên tất cả các Đấng khác về nhiều phương
diện:
- các chuyến công du mục vụ,
- các bài diễn văn đã được tuyên bố,
- các vụ phong chân
phước và phong thánh,
- các thông điệp và các tài liệu được viết ra,
- các buổi yết kiến chung và riêng tư,
- các cuộc gặp gỡ và cử hành về đủ mọi phương diện ( ai trong
chúng ta cũng còn nhớ Đại Năm Thánh 2000).
a) Nhưng công đức đích thực của Đức Gioan Phaolồ II còn là
một cái gì khác nữa: ngài là vị Thuyền Trưởng đã hướng dẫn Giáo
Hội " ra khơi " trong cuộc hãi trình từ ngàn năm thứ hai
sang ngàn năm thứ ba, như Đức Hồng Y Wyszynski đã tiên đoán khi
ngài được tuyển chọn.
Đức Gioan Phaolồ II là vị Thuyền Trưởng đã hướng dẫn Giáo
Hội từ Công Đồng Vatican II đến thời hậu Công Đồng nhứt là trên
phương diện thần học: Ngài đã nhận lấy sứ mạng khó khăn dìu dắt
Giáo Hội và nhân loại trong thời gian chuyển đổi từ ngàn năm thứ
hai đến ngàn năm thứ ba, nhứt là trên lãnh vực lịch sử.
Thật vậy, Đức Gioan Phaolồ II đã lãnh nhận một thế giới và một
Giáo Hội, mà sau triều đại giáo hoàng của ngài, không còn như
trước nữa, mà đã thay đổi sâu đậm.
Ngài đã cùng bước đi với thế giới và Giáo Hội
trong thời gian chuyển tiếp.
Năm 1978, thế giới đã bị rách nát và chia rẻ, bị
phân đôi bởi hai " hành lang sắt " ( cortina di ferro ).
Hoà bình được dựa trên mức cân bằng mỏng dòn và đầy doạ nạt của
các hoả tiển với đầu đạn nguyên tử, phía bên nầy chỉa về phía
bên kia. Chủ nghĩa cộng sản đang ngự trị trên phần lớn nhân loại
lúc đó. Tiến trình loại bỏ Ki Tô giáo và cơn khủng hoảng về các
giá trị đang lan tràn ngay cả ở những Quốc Gia Tây Phương được
Phúc Âm hoá nhứt.
Cơn khủng hoảng thế giới đó có ảnh hưởng sâu đậm
đến đời sống trong nội bộ của Giáo Hội. Bởi đó Giáo Hội được mời
gọi phải quay trở về với giá trị nội tại của chính mình, một
cuộc quy hường trở lại không phải dễ dàng, không phải vượt những
chướng ngại khó khăn, nhứt là phải bỏ đi những đặc ân và được
kính trọng trong thời gian " Ki Tô giáo toàn diện " của
thời Công Đồng Trento, để áp dụng những chỉ thị canh tân được
Công Đồng Vatican II khởi xướng.
Con thuyền Giáo Hội đang phải trải qua lúc đó,
dưới triều đại của Đức Gioan Phaolồ II,
- những phong trào chống đối Giáo Hội, không
những từ bên ngoài, mà còn ngay cả trong nội bộ;
- các tín hữu không còn mấy tha thiết đi nhà
thờ, đi lễ;
- ơn kêu gọi linh mục cũng bị giảm xuống rõ
rệt.
b) Đức Gioan Phaolồ II vác lấy Thánh Giá
triều đại giáo hoàng của mình, khởi sự lập tức bằng những chuyến
công du mục vụ. Ngay lúc đầu, có lẽ chính bản thân ngài cũng
không thể tưởng tượng nỗi minh có thể hoàn thành đến 104 chuyến
công du, viếng thăm 129 Quốc Gia và tiếp xúc với 703 các nhà
lãnh đạo Quốc Gia.
Đức tin không lay chuyển là mình đang thực hiện
sứ mạng của đấng thế vị Thánh Phêrô và là người rao giảng Phúc
Âm, tình yêu thương nhiệt thành đối với Chúa Ki Tô và đối với
con người, là nền tảng việc dấn thân mục vụ của ngài.
Điều đó giải thích được tại sao ngay từ ngày
khởi đầu của triều đại giáo hoàng ngài đã luôn luôn bênh vực
- con người trong tất cả tiến trình của cuộc
sống,
- gia đình,
- tuổi trẻ,
- các quyền bất khả xâm phạm của con người
và nền hoà bình, nhờ đó con người có thể có được một cuộc sống
xứng đáng với phẩm giá nhân loại của mình.
Để thực hiện các mục đích vừa kể Đức Gioan
Phaolồ II đã khuyến khích đối thoại giữa các nền văn hoá và giữa
các tôn giáo với nhau, ở bất cứ phần đất nào trên thế giới, cũng
nhờ vào việc ngài biết dùng một cách sáng suốt các phương tiện
truyền thông đặc biệt, mà ngài tỏ ra là bậc thầy đáng cho mọi
người chúng ta bắt chước.
Điều ai cũng lấy làm lạ là sứ mạng bênh vục con
người vừa kể của Đức Gioan Phaolồ II ngay từ lúc đầu đã được
đánh giá và ngưỡng mộ ngay cả đối với những thành phần của lãnh
vực " thế giới ngoại đạo " ( mondo laico), mà họ đã thố
lộ với Cha Bartolomeo Sorge S.J., khi có dịp giao tiếp để làm
việc với bán nguyện san của các cha Dòng Tên, " LA CIVILTÀ
CATTOLICA " (mà Cha B. Sorge là Giám Đốc lúc đó ).
Và đây là một ví dụ cách đánh giá cao cả của vị
Tổng Thống Cộng Hoà Ý Quốc lúc đó ( năm 1979), trong một bửa cơm
thân mật, mà Tổng Thống kính mời Đức Giáo Hoàng tham dự (Tổng
Thống Cộng Hoà Bertini Sandro là người thuộc đảng thiên tả vô
thần).
Trong lúc hai vị đang hàn huyên thân mật, thì
Tổng Thống Bertini cho biết:
- " Tôi là người vô tôn giáo, nhưng nếu có
Chúa, tôi không cách xa Người bao nhiêu ".
Kế đến ông kể cho Đức Gioan Phaolồ II biết lòng
đạo đức sâu xa của mẹ ông. Và ông tiếp theo:
- " Mỗi sáng tôi tự xét lương tâm mình.
Khi tôi thức dậy, tôi tự hỏi mình : " Sandro, mầy phải xin lỗi
ai hôm nay ? ". Và rồi tôi lấy giấy bút và viết lên...".
Và rồi vị Tổng Thống Bertini Sandro còn nói cho
Cha Bartolomeo Sorge biết:
- " Điều mà tôi cảm nhận được nhứt, đó là
Đức Giáo Hoàng không hề tìm cách khuyên tôi trở lại đạo. Tôi
nghĩ không biết ngài nghĩ sao về tôi, tôi nghĩ trong bụng như
vậy... ".
Và kế đến vị Tổng Thống còn tiếp theo:
- " Thưa Đức Thánh Cha, tôi luôn luôn nghe
theo tiếng nói lương tâm của tôi ".
- " Và Đức Gioan Phaolồ II tỏ ra tình thân
thiện ôm lấy tôi và nói với tôi : " Tốt, tốt lắm ! Hãy theo
tiếng nói lương tâm của mình, bởi vì luơng tâm là Đấng Tối Cao
".
- " Cha biết không, thưa Cha, vị Tổng
Thống kể tiếp với Cha Bartolomeo Sorge bằng cách nhìn thẳng vào
đôi mắt Cha: " Biết bao nhiêu lần tôi đã suy niệm về những lời
nói vừa kể của Đức Thánh Cha " (Bartolomeo sorge, La Traversata,
Mondadori, 2010, 99).
c) Ấn tượng mà Đức Thánh Cha Gioan Phaolồ II
đã tạo ra nơi " một người ngoại đạo " như Tổng Thống
Sandro Bertini vừa kể, biết bao nhiêu lần ngài cũng đả tạo nên
nơi bao nhiêu người khác, không những trong những cuộc gặp gỡ
riêng tư, mà cả những cuộc gặp công cộng, khi ngài nói trước
công chúng.
Bởi đó hôm nay, giữa những " học gia không có
đạo" cũng cho rằng phần lớn nhờ vào sức hấp dẫn của con
người và sức chuyên cần của Đức Gioan Phaolồ II mà
- Phúc Âm được loan báo khắp thế giới,
- chủ nghĩa cộng sản bi triệt hạ và tự do tôn
giáo được thiết lập lại trên nhiều Quốc Gia,
- tinh thần tôn giáo được đánh thức dậy trong
các Quốc Gia cộng sản và duy vật,
- Giáo Hội có được một thời điểm chấn hưng và
phát triển trở lại, mặc cho còn một vài yếu tố vẫn còn dai dẵng,
- cuộc đối thoại hiệp nhứt Ki Tô giáo và liên
tôn đã có được những bước tiến triển khả quan.
Nói tóm lại, sau thời Đức Gioan Phaolồ II, mối
tương quan giữa Giáo Hội và thế giới chắc chắn không còn ở tình
trạng ba mươi năm trước nữa.
Tuy vậy, không phải những gì sáng chói đều là
vàng son. Làm sao chúng ta không thấy được chủ nghĩa vô thần đã
ra đi, nhường chổ lại
- cho chủ nghĩa
tôn giáo dững dưng ( indifferentismo religioso ),
- cho tình trạng trống rổng các giá trị và cho chủ thuyết "
tân ngoại giáo " (neopaganismo) của phái " thời đại
mới " ( new-age ) cũng nguy hiểm cho đức tin không kém?
Ai trong chúng ta cũng còn nhớ có đến gần 7 triệu người đến tham
dự lễ an táng của Đức Gioan Phaolồ II ở Roma.
Nhưng khối dân chúng đó cũng chưa đủ để chống trả lại nền luân
lý đang " trôi giạt lơ lửng đó đây " của ngàn năm thứ ba?
d) Bởi đó, nếu triều đại lâu dài của Đức Gioan Phaolồ II đã
cho phép ngài hoàn tất nhiều dự án canh tân mà Công Đồng Vatican
II đã nêu lên và chưa được Đức Phaolồ VI thực hiện hoàn hảo,
chúng ta phải nhìn nhận rằng ngoài những thành quả đã đạt được
Đức Thánh Cha Gioan Phaolồ II, chết đi, còn để lại cho đấng kế
vị ngài nhiều vấn đề trầm trọng hiện còn mở ngõ.
- Về tình hình thế giới, mặc cho những gắng sức phi thường
của Đức Thánh Cha Gioan Phaolồ II chống lại mọi hình thức bạo
lực, hoà bình vẫn còn là mục đích xa xôi.
Nhiều người có ảo tưởng rằng sự kết thúc của chủ nghĩa cộng sản
có thể xảy ra không có gì phải chấn động, đụng chạm.
Đúng, đã không xảy ra qua cuộc thế chiến III.
Tuy nhiên, ngoài ra những cuộc đụng chạm bùng nổ trên các cựu
thuộc địa của Liên Bang Sô Viết ( Caucaso, Romania, Nam Tư),
còn có những cuộc chiến bùng nổ thảm khóc ở Afghanistan
và Iraq, mà hiện nay chúng ta chưa có được một viễn tượng
nào có thể kết thúc.
Kế đến sau khi bức tường Bá Linh sụp đổ, thì bộc phát các cuộc
tấn công của quân khủng bố đó đây trên thế giới, mà ai trong
chúng ta cũng nhớ đến vụ tấn công man rợ vào Hai Tháp Sinh
Đôi ở New york ngày 11.09.2001 hay cuộc thảm sát ở Madrid
ngày 11.03.2004.
Để thoát ra khỏi cơn lốc khủng khiếp đó đang còn hiện nay, Đức
Gioan Phaolồ II đã nhấn mạnh đến việc con người ngoài ra phải
trở lại
- nhìn nhận quyền thượng đẳng của Thiên Chúa và của lương tâm
luân lý,
- cũng như việc tôn trọng công pháp quốc tế và điều cần thiết
ưu tiên là giải quyết được mối tranh chấp Do Thái - Palestina
đang làm đổ máu tại Thánh Địa.
Nếu trước tiên không dập tắt được đống lửa đó - ngài lập đi lập
lại nhiều lần - không có hoà bình ở Giêrusalem và cũng sẽ không
có hoa bình trên thế giới.
Nhân loại đang trong tiến trình toàn cầu hóa kinh tế và văn hoá,
nhưng chưa tìm được tình trạng cân bằng mới, sau mối cân bằng
bấp bênh giữa Mỹ và Nga kéo dài được 50 năm.
Chắc chắn sự thăng bằng ổn định mới không phải là thăng bằng đơn
cực mà Hoa kỳ muốn áp đặt lên thế giới, bởi hiện trạng vì là
cường quốc duy nhứt còn sót lại.
Hiện nay không có Quốc Gia nào, dầu giàu mạnh đến đâu cũng vậy,
có thể tự mình giải quyết được hết các vấn đề đang và sẽ xảy
đến. Đó là những vấn đế có tính cách toàn cầu:
- vấn đề an sinh môi trường,
- bảo vệ sức khỏe,
- chống lại bè đảng lưu manh, tội phạm có tổ
chức,
- chống lại nha phiến lan tràn,
- chống lại sự nghèo đói Miền Nam địa cầu,
- thiết lập hoà bình.
Hoặc là chúng ta cùng nhau dấn thân thực hiện hay chúng ta sẽ bị
ngã đổ, tiệu diệt tất cả.
Đức Thánh Cha Gioan Phaolồ II đã dùng hết nghị lực của mình để
mong làm nảy sinh được một thế giới huynh đệ và công chính, luôn
luôn hiện diện trước mắt ngài các thảm trạng của các xứ nghèo
khổ của Thế Giới Đệ Tam. Bởi đó ngài lập đi lập lại không ngừng
nghỉ:
- " Cần phải toàn cầu hoá tình liên đới hổ tương ".
Ngài nhấn mạnh điều đó để lên án " tư bản chủ nghĩa man dại
" cùng với lòng xác tín mà ngài đã chiến đấu chống lại
công sản chủ nghĩa.
Ngài đã kêu gọi hãy giảm bớt hay tha thứ nợ ngoại quốc cho
các Quốc Gia nghèo cùng với lòng thành thật mà ngài đã xin
Chúa thứ tha cho những bất trung trong Giáo Hội.
Nhưng tiêng kêu gọi của ngài vẫn chỉ còn là lời mong ước !
Ngoài ra những gắng sức vừa kể, Đức Gioan Phaolồ II còn nhấn
mạnh cảnh cáo là cần phải
- xây dựng một nền luân lý được đồng thuận ( ethos
condiviso )
- và vượt thắng được " tương đối chủ nghĩa "
đang lan tràn,
để dựa vào đó nhân loại có thể trả lời được đối lại những thử
thách luân lý mới, thoát xuất nhứt là từ việc áp dụng các kỷ
thuật mới đối với đời sống con người.
Đức Gioan Phaolồ II đã luôn luôn mạnh mẽ tố cáo mọi cuộc mưu sát
chống lại đời sống và phẩm giá con người, bằng cách để ý đến các
pha trộn chế hoá các yếu tố di truyền ( manipolazioni
genetiche), có khả năng tiêu hủy và bạo lực trên con người
không khác gì các bạo lực và sát hại thoát xuất từ các tư tưởng
độc tài của thế ký XX.
e ) Và không phải dễ dàng, không đòi hỏi nhiều sức lực, đó
là giải quyết một vài vấn đề trong nội bộ Giáo Hội, mà Đức Gioan
Phaolồ II mất đi vẫn còn để mở ngỏ.
Cách chọn lựa " triều đại giáo hoàng công du " của ngài,
cùng với ân sủng đặc biệt, đã giúp cho ngài thực hiện được
phương thức mới để rao giảng Phúc Âm, đối thoại liên tôn và liên
văn hoá, trong một thế giới " ngoại giáo " hay dững dưng
đối với Ki Tô giáo. Nhưng phương thức trên không giúp cho ngài
giải quyết được một vài vấn đề trong nội bộ Giáo Hội, nhứt là
trong nhiều Giáo Hội địa phương.
Dĩ nhiên Đức Gioan Phaolồ II đã triệu tập nhiều lần Thượng Hội
Đồng Giám Mục quốc tế, ở cấp bậc hoàn vũ cũng như cấp bực vùng
hay địa lục, làm sống động lại sứ mệnh của Hội Đồng Giám Mục.
Nhưng chúng ta cũng thừa biết không thiếu những khó khăn cho mối
tương quan của giữa một số các Giám Mục với Toà Thánh.
Chính với lòng can đảm ngôn sứ mà Đức Gioan Phaolồ II đã phát
động chiến dịch canh tân phận vụ Phêrô của Toà thánh, nhằm
mục đích phục vụ hơn là hòn đá làm cho vấp phải, cho đến
nay vẫn còn là giấc mơ, chưa thực hiện được. Giáo Hội vẫn còn
phải can đảm giải quyết vấn đề trách nhiệm tập thể " cum
Petro et sub Petro " ( cùng với Phêrô và dưới (tuân theo) Phêrô),
mà qua đó là giai đoạn bắt buộc phải có, để đi đến canh tân
phương thức hành xử phận vụ phục vụ của Phêrô.
Đức Gioan Phaolồ II mất đi, còn để lại những vấn đề khác nữa.
Nhưng có lẽ không chính đáng và không công bình chúng ta cứ chú
tâm về những vấn đế chưa được giải quyết, trong khi đó thỉ ngài
để lại cho chúng ta gia sản tích cực đáng kể và qúy giá đã được
tạo ra trong triều đại giáo hoàng của ngài.
Đức Gioan Phaolồ II, ngoài ra mẫu gương mục vụ bằng phụng vụ,
được nuôi dưỡng bằng đức tin sắt đá và bất lay chuyển, ngài còn
để lại cho cả Giáo Hội thừa hưởng di sản hai tình yêu cao cả, bí
mật lạ thường của triều đại giáo hoàng ngài. Đó là
- tình yêu thương đối với giới trẻ, khiến cho giới trẻ luôn
luôn phấn khởi theo ngài cho đến lúc ngài hấp hối và chết đi,
trong khi họ tràn ngập công trường Thánh Phêrô với các biểu ngữ
: " Ngài đã kêu gọi chúng con và đây chúng con đang có mặt
".
- tình yêu thứ hai, đó là tình yêu đối với Mẹ Maria, Mẹ Giáo
Hội, mà ngài đã luôn luôn muốn viết lên, ngay cả trong di chúc
của ngài, luôn luôn và hoàn toàn phó thác đời sống và phận vụ
tông đồ của mình, từ lúc khởi đầu cho đến giây phút cuối cùng
được viết lên trên một mảnh bằng bàn tay run rẩy trên giường
chết:
- " Totus tuus " ( Con hoàn toàn là của Mẹ ).
còn tiếp
|
VỀ MỤC LỤC |
|
CÁCH
CẦU NGUYỆN Á CHÂU VÀ VIỆT NAM |
LINH MỤC GIÁO PHẬN SỐNG TU ĐỨC TOÀN DIỆN
TRONG BỐI CẢNH THỰC TẾ CỦA GIÁO HỘI VÀ XÃ HỘI VIỆT NAM HÔM NAY
Lm.
Micae-Phaolô Trần Minh Huy pss
CHƯƠNG BA
Đời
Sống Cầu Nguyện Và Đời Sống Nội Tâm
(tiếp theo)
H.
CÁCH CẦU NGUYỆN Á CHÂU VÀ VIỆT NAM
H.1 Thực tế
không mong đợi
Trong cầu nguyện cộng đồng hay cá nhân, thể
xác có thể trở nên căng thẳng, sự chú tâm bị phân tán và dao
động, dù đã dùng Kinh Thánh, các bài hát, đọc kinh, lần chuỗi để
cầu nguyện và suy gẫm. Lắm khi tương quan được tốt với Chúa,
nhưng lắm khi cũng bị chia trí, đôi khi rất căng thẳng và mệt
mỏi, và thường làm theo thói quen. Khi cầu nguyện cá nhân, đặc
biệt lúc cầu nguyện thinh lặng và suy gẫm trong tâm trí, nhiều
sự chia trí chiếm lấy đầu óc và cản trở cầu nguyện. Nhiều lúc
kết thúc giờ cầu nguyện với khô khan trống rỗng, tinh thần đi
đâu đâu… Để giải quyết vấn đề, người ta vận dụng toàn bộ tinh
thần, thân xác để cầu nguyện, quen gọi là “lời cầu nguyện thân
xác” (prayer body) như sẽ giải thích dưới đây.
H.2
Cầu
nguyện theo phong thái Á Châu
Cách thức tu sĩ Phật giáo tọa tĩnh tòa sen
tụng niệm có thể giúp chúng ta tái khám phá các hình thức chiêm
niệm của cầu nguyện trong truyền thống kitô giáo và hội nhập
chúng, bằng cách hướng chúng ta chú ý hơn nữa tới tư thế thân
xác khi chúng ta cầu nguyện, hầu khám phá sự hiện diện của Thiên
Chúa hằng sống.
Các thực hành Thiền, Zen hay Yoga, có thể
được dùng để giúp ta làm quen ý thức sự hiện diện của Chúa, cảm
nhận chính mình như một toàn thể tinh-thần-thân-xác trong tương
quan với Chúa. Dần dần ta sẽ đắc thủ được thói quen sống sự hiện
diện của Chúa, nghĩa là thường xuyên hướng chú ý của mình về sự
hiện diện đầy yêu thương và sống động của Chúa ở trong chúng ta
và ở chung quanh chúng ta. Thời gian thinh lặng của những ngày
tĩnh tâm hay cấm phòng cống hiến những cơ hội thuận lợi để phát
triển ý thức sự hiện diện này của Chúa ở một mức độ sâu hơn.
Khởi đầu, ta bỏ ra 15 hoặc 20 phút, hay lâu
hơn nếu muốn, để tạo một tư thế thư giản bằng cách kiểm soát hơi
thở (hít vào và thở ra thật sâu); đồng thời tẩy bỏ khỏi đầu óc
bất cứ bận rộn hay suy nghĩ nào,
và để chìm sâu trong sự hiện diện của Chúa ở trong ta và ở quanh
ta. Tiếp đến, ta đi vào một cuộc đàm thoại đơn sơ, sâu lắng với
Chúa đang hiện diện, về bất cứ cái gì đang chất chứa trong tâm
hồn ta lúc đó. Có lẽ có lúc ta chẳng có gì để nói, mà chỉ thích
ngồi lắng nghe Chúa. Giây phút thinh lặng này thật bình an và
thoải mái. Nếu cứ tập luyện mỗi ngày, chúng ta sẽ khám phá được
rằng dần dần chúng ta trở nên càng ngày càng chú tâm vào Chúa
hơn, và rằng chúng ta đang lớn lên trong hiểu biết, nhẫn nại và
yêu thương đối với những người chung quanh.
Tập thư giản bằng cách hít dưỡng khí vào
thật sâu qua mũi cho căng đầy bụng, rồi chuyển qua huyệt đan
điền (nằm bên dưới lỗ rún hai lóng tay), đẩy ra toàn thân tới
tận chân tơ kẻ tóc / đường gân thớ thịt. Xong lại rút thán khí
về qua huyệt đan điền để đẩy ra ngoài qua miệng. Trong khi đó để
tâm trí kiểm soát đường đi của hơi thở. Còn ý nghĩ thì cầu xin
quyền năng của Chúa Thánh Thần đi vào để thánh hóa và rút bỏ
những xấu xa quỉ quái khỏi lòng trí và thân xác chúng ta.
Khi hít vào, chúng ta cũng có thể nghĩ là
mình đón nhận tất cả những gì là tích cực; còn thở ra là loại bỏ
tất cả những gì là tiêu cực, từ bất cứ đâu mà đến. Với cách này,
chúng ta tập giữ tâm hồn ở trạng thái thanh thản, như kinh
Yataka dạy ‘Con hãy giữ tâm như đất: trên đất, người ta đổ ra
dầu ngọt dầu chua, dầu cay dầu đắng, dầu sạch dầu dơ, đất vẫn
một mực thản nhiên, đất không giận, đất không thương.’
Nhiều người cũng vận dụng lối này để tự chữa bệnh bằng ý thức
tính chất bồi bổ của dưỡng khí và quyền năng thần linh của Thần
Khí: đang khi hít vào thì xin chuyển quyền lực thần linh cùng
dưỡng khí tới chỗ đau của cơ thể để chữa lành, thở ra xin quyền
lực thần linh lấy cái đau của cơ thể vất ra khỏi thân xác cùng
với thán khí. Dĩ nhiên phải có sự đồng bộ của hít thở và ý thức,
với niềm tin tưởng không nghi ngờ.
H.3 Cầu
Nguyện Tập Trung
Các bậc thầy Thiền, Zen hay Yoga, có thể
cầu nguyện (suy niệm và chiêm niệm) liên tục nhiều giờ. Họ cầu
nguyện bằng tâm trí, hay chính xác hơn là bằng cách tập trung tư
tưởng. Đây là một hình thức cầu nguyện rất đơn giản, thường
không dùng lời nói (cầu nguyện bằng lời).
Để đi vào cầu nguyện tập trung, ta phải để
mình hoàn toàn lệ thuộc vào Chúa và để cho tình yêu của Chúa
Thánh Thần chi phối. Hãy lặn xuống trong sâu thẳm cõi lòng, nơi
đó Thiên Chúa đang thực hiện những điều kỳ diệu; và hãy mở lòng
cho Chúa Thánh Thần đang cư ngụ trong ta. Phương pháp của cầu
nguyện tập trung là:
•
Ngồi yên lặng, tư thế thoải
mái và thư giãn;
•
Nghỉ ngơi trong lòng khao
khát Chúa;
•
Hướng vào trung tâm bản ngã
của mình;
•
Hít thở đều đặn trong yên
lặng, ý thức sự hiện diện của Chúa và bình an hấp thụ tình yêu
của Ngài.
Ngày nay, nhiều người công giáo học theo
phương pháp cầu nguyện này. Nếu kiên trì tập luyện thì ngày qua
ngày, cầu nguyện tập trung sẽ giúp ta đi vào hiệp thông với Chúa
ở mức độ sâu thẳm nhất. Ta sẽ cảm thấy bình an hơn và càng ao
ước mối tương quan yêu thương này với Chúa. Ta sẽ được thúc đẩy
tìm kiếm sự kết hiệp chiêm niệm sâu xa hơn nữa, mà bất cứ người
sống đời dâng hiến nào cũng đều được mời gọi.
Nếu nguyện gẫm được mô tả như lời cầu
nguyện của tâm trí tìm biến đổi con tim, thì chiêm niệm là lời
cầu nguyện của con tim sẽ biến đổi tâm trí. Cầu nguyện tập trung
có thể giúp những người tìm kiếm Chúa kinh nghiệm được lợi ích
tuyệt vời này. Thay vì dùng nhiều lời, ta có thể bắt đầu cầu
nguyện tập trung bằng cách chọn một lời thôi: một lời thánh
thiêng mang một ý nghĩa đặc biệt, có thể là một danh hiệu của
Chúa, hay một lời rút ra từ Thánh Kinh, mà chúng ta quen gọi là
“lời nguyện tắt”.
Sau khi đã ổn định được tư thế thoải mái và
thư giãn để cầu nguyện, hãy để nhịp thở nhẹ nhàng và đều đặn,
hãy nhắm mắt lại và nói lên trong thinh lặng lời nguyện tắt
thánh thiêng đó, chú tâm vào sự hiện diện của Chúa và biểu lộ
lòng ưng thuận cho ơn thánh Chúa hoạt động nơi bản thân mình.
Khi những tư tưởng hay cảm nhận, những hình ảnh và kỷ niệm nổi
lên làm chia trí, hãy nhẹ nhàng quay trở lại với lời nguyện tắt
đó bằng cách chậm rãi lặp đi lặp lại và để nó chiếm lĩnh hiện
trường của ý thức. Không cần phải làm gì nhiều hơn thế. Không có
gì đặc biệt để phấn đấu hay bất cứ kết quả rõ ràng nào để đạt
cho được. Cứ buông mình cho tác động của Thần Khí. Khi thời giờ
cầu nguyện đã hết, từ sâu thẳm cuộc đối thoại thinh lặng với
Chúa, hãy từ từ trở về cùng thế giới thực tại bên ngoài và những
hoạt động thường nhật của mình.
H.4 Ích Lợi
của cách cầu nguyện Á Châu
Các tôn giáo Á Châu giới thiệu nhiều cách
thức đưa dẫn và thúc đẩy trọn vẹn con người vào cầu nguyện: thể
xác, trí khôn, con tim, trí nhớ, trí tưởng tượng, hơi thở, tư
thế thân xác và ngay cả môi trường bên ngoài đều được sử dụng
cho việc cầu nguyện, và người ta gọi đó là “cầu nguyện thân xác”
(body prayer).
Phương pháp này nâng cao phẩm chất của lời
cầu nguyện, cũng như phẩm chất của người cầu nguyện. Việc thực
tập lắng nghe này làm ta dễ dàng đi vào tiếp xúc và hiệp thông
với Chúa. Sự ý thức thụ động này giúp ta mở rộng lòng và “phó
mặc” cho ơn Chúa hoạt động. Thái độ đón nhận thụ động này mang
lại sự thinh lặng nội tâm cần thiết cho việc cầu nguyện, nhờ đó
ta được Lời Chúa Kitô và ơn Chúa Thánh Thần đánh động và biến
đổi.
Thực hành thư giãn tạo nên bình an nội tâm
và sự hài hòa làm cho tiến trình thinh lặng nội tâm hóa được dễ
dàng, trong khi thực hành tập trung cao độ lại rất hữu ích cho
đời sống cầu nguyện. Nhịp thở có thể giúp gia tăng sự chú ý, tập
trung và ý thức, là những cái làm cho tiến trình cầu nguyện của
con người được dễ dàng.
Theo ĐHY Jean-Louis Tauran, chủ tịch Hội
đồng đối thoại liên tôn của Tòa Thánh, “mỗi người duy trì căn
tính thiêng liêng của mình là quan trọng và không thể nói rằng
mọi tôn giáo đều ít nhiều ngang nhau, nhưng có những giá trị mà
chúng ta có thể chia sẻ với người khác: các kitô hữu có thể học
hỏi từ những người Hồi Giáo, cầu nguyện, ăn chay và sống từ
thiện thế nào; từ những người Hinđu, cách suy niệm và chiêm niệm;
từ những người Phật giáo, lòng không dính bén của cải vật chất,
ý thức sâu xa về việc tôn trọng sự sống; từ Khổng giáo, lòng
sùng đạo và sự tôn trọng đối với người già; từ Lão giáo, sự đơn
sơ và lòng khiêm tốn…” Và từ những người Công giáo, người ta có
thể học nhiều thứ, nhất là sự phong phú của một vị Thiên Chúa có
khuôn mặt nhân loại, như Đức Bênêđictô XVI đã viết trong thông
điệp Thiên Chúa là Tình Yêu, một vị Thiên Chúa là tình
yêu và chăm lo cuộc sống của con người trong mọi hoàn cảnh”.
H.5 Vượt Qua
Những Khó Khăn và Kiên Trì Trong Đời Sống Cầu Nguyện
Ta phải nhớ những thực tế này: Ta có thể
gặp nhiều khó khăn trong suốt hành trình cầu nguyện.
Cầu nguyện không chỉ gồm toàn những kinh nghiệm vui mừng và
thích thú. Khô khan và tăm tối cũng là một phần thiết yếu trong
quá trình trưởng thành và biến đổi của con người nội tâm. Tự
biết mình không phải luôn luôn là một kinh nghiệm vui thích,
nhưng thông thường là một quá trình đau đớn của sự chấp nhận
chính mình để được chữa lành. Chúng ta phải học sống khiêm
nhường, siêu thoát, từ bỏ và quên mình để chiến đấu chống lại
tính kiêu căng tự mãn với tất cả những sức kháng cự tiềm ẩn của
nó. Chỉ với lòng khiêm tốn và sự cởi mở với ơn Chúa, chúng ta
mới có thể đương đầu và chiến thắng trong cuộc chiến đấu này.
Cách cầu nguyện Á Châu này thúc đẩy trọn
vẹn con người vào trong mối tương quan với Chúa và làm biến đổi
con người cách lớn lao trong mọi chiều kích (thể lý, tâm lý và
thiêng liêng): Siêu nhiên không phá hủy tự nhiên, nhưng thăng
tiến tự nhiên. Vậy, một khi áp dụng cách thực hành lắng nghe,
thư giãn và tập trung, chúng ta càng trở nên ý thức hơn mình là
ai và phải làm gì, không chỉ trong lời cầu nguyện mà còn trong
đời sống hằng ngày của mình nữa.
|
VỀ MỤC LỤC |
|
NGUYÊN NHÂN KHỦNG HOẢNG: CHƯA ĐỦ
TRƯỞNG THÀNH.
|
Tác phẩm: Cẩm Nang Hạnh Phúc Gia Đình
Kitô - MỤC VỤ HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH
Tác
giả: D. WAHRHEIT (Lm. Minh Anh, GP. Huế tổng hợp biên tập)
A22. NGUYÊN NHÂN KHỦNG HOẢNG: CHƯA
ĐỦ TRƯỞNG THÀNH.
Cơn khủng hoảng đầu đời hôn nhân.
Đó là vấn đề mà chúng tôi xin được tiếp tục trình bày.
1.
Những cơn khủng hoảng trong đời sống hôn nhân thường xảy
đến trong hai thời kỳ:
- Thời kỳ thứ nhất là những năm
đầu của đời sống vợ chồng.
- Thời kỳ thứ hai là những năm
tháng khi hai vợ chồng bước vào tuổi trung niên. Trong thời kỳ
này, người đàn ông xem ra đã nếm đủ mùi vị của cuộc sống gia
đình; do đó, dễ sống hướng nội hơn. Về phía người đàn bà, sau
khi đã trải qua mọi khía cạnh của đời sống hôn nhân, nếu không
cảm thấy được thỏa mãn, họ dễ bị cám dỗ quay về với những ước mơ
của thời niên thiếu. Ở lứa tuổi này người đàn bà dễ rơi vào
những cuộc phiêu lưu mà họ không lường trước được.
Một người chồng khép kín, một
người vợ mộng mơ chính là nguyên nhân đưa đến cơn khủng hoảng
trong thời kỳ thứ hai của đời sống hôn nhân.
2.
Trái lại, nguyên do đưa đến khủng hoảng đầu đời hôn nhân phần
lớn là vì một hoặc cả hai người phối ngẫu thiếu chuẩn bị trước
khi bước vào đời sống hôn nhân.
Nhiều người không hiểu rõ hoặc
không được giáo dục đầy đủ về những nghĩa vụ và trách nhiệm của
đời sống vợ chồng cũng như những khía cạnh tâm sinh lý và luân
lý của đời sống chung. Nhiều người bước vào đời sống vợ chồng mà
chưa đủ trưởng thành, do đó, cũng chưa đủ ý thức về những trách
vụ mới của đời sống hôn nhân.
Hôn nhân phải là một giao ước được
ký kết giữa hai người có tự do. Để có tự do thực sự, con người
cần phải hiểu rõ mục đích việc làm của mình và chịu trách nhiệm
về hậu quả của việc làm ấy. Có hiểu biết như thế, con người mới
thực sự là người trưởng thành.
Thật ra, trưởng thành không phải
là một tình trạng mà con người thủ đắc một lần cho tất cả, cũng
không hẳn khi ra khỏi tuổi vị thành niên hoặc bước vào tuổi 30,
con người đương nhiên đã là người trưởng thành. Lại không hẳn
càng thêm tuổi, càng trưởng thành. Ai cũng có kinh nghiệm, thỉnh
thoảng trong cuộc sống, mình đã cư xử như một người thiếu trưởng
thành.
3.
Đã hẳn cần phải là người trưởng thành, người ta mới có
thể làm một quyết định hệ trọng như việc bước vào đời sống hôn
nhân. Nhưng cũng chính đời sống hôn nhân làm cho con người nên
trưởng thành hoặc trưởng thành hơn. Kinh Thánh xem ra đã xác
định điều đó khi nói, “Con người ở một mình không tốt. Người đàn
ông sẽ bỏ cha mẹ để luyến ái vợ và nên một với vợ”.
Để có thể nên một với người phối
ngẫu, người ta cần phải ra khỏi chính mình. Hay nói như Chúa
giêsu: quên mình,
mất mạng sống mình, thí mạng sống mình vì người khác. Đó là biểu
hiện của một nhân cách trưởng thành. Do đó, hôn nhân đòi hỏi hai
người phối ngẫu phải không ngừng đi vào tiến trình của sự trưởng
thành. Chính trong đời sống vợ chồng mà con người học hỏi và tập
luyện để nên trưởng thành hơn.
4.
Hiểu được sự trợ giúp của đời sống vợ chồng trong sự
thành toàn nhân cách như thế, chúng ta sẽ thấy rằng, cơn khủng
hoảng của đầu đời hôn nhân xem ra là một điều cần thiết. Bước từ
một giai đoạn này sang một giai đoạn khác trong cuộc sống, con
người phải trải qua những cơn khủng hoảng. Đó là định luật của
cuộc sống.
Người ta thường gọi đó là cơn
khủng hoảng của sự trưởng thành. Ngay cả trong đời sống thiêng
liêng, khủng hoảng cũng là một giai đoạn cần thiết giúp con
người trưởng thành hơn trong đức tin. Có trải qua thử thách và
đau khổ, con người mới cảm nhận được tình yêu của Thiên Chúa, và
nhờ đó đức tin được tinh luyện hơn.
Chính trong cái nhìn đó mà đôi vợ
chồng trẻ nên lượng giá cơn khủng hoảng đang hoặc sẽ diễn ra
trong những năm tháng đầu của cuộc sống vợ chồng. Đây là cơn
khủng hoảng của sự trưởng thành, cho nên, hãy xem đó như là một
điều cần thiết.
Thực ra, cần có những va chạm để
hiểu nhau hơn và nhất là để hiểu được chính bản thân mình. Đôi
vợ chồng trẻ sẽ thấy rằng, họ sẽ có những phản ứng, những cách
cư xử mà họ chưa từng có trước kia; họ sẽ khám phá thêm một bộ
mặt mới, những khía cạnh mới trong con người của họ. Và chính
nhờ sự khám phá đó mà đôi vợ chồng mới tìm cách điều chỉnh lại
mối quan hệ đối với nhau. Điều chỉnh lại mối quan hệ ấy chính là
một cố gắng để đạt được sự trưởng thành trong nhân cách.
5.
Cơn khủng hoảng trong những năm tháng đầu của đời sống vợ
chồng thường bùng nổ bằng một cuộc cãi vã to tiếng. Đôi vợ chồng
trẻ chợt nhận ra những phản ứng không ngờ của người phối ngẫu
cũng như của chính mình. Đó là một khám phá cần thiết. Tuy
nhiên, nếu họ không biết lợi dụng khám phá ấy để điều chỉnh mối
quan hệ giữa hai người thì bùng nổ sẽ tiếp diễn. Lúc đó, sự cãi
vã sẽ trở thành như cơm bữa và làm cho đời sống chung trở nên
khó thở.
Cơn khủng hoảng của sự trưởng
thành là điều cần thiết nếu người ta vượt qua nó. Đôi vợ chồng
trẻ đã nhận ra được phản ứng nóng giận của mỗi người. Họ đã
hiểu, lớn tiếng trong cuộc tranh luận là không muốn lắng nghe
người khác. Khăng khăng bảo vệ lập trường của mình là không muốn
nhìn những khía cạnh khác nhau của một vấn đề. Muốn áp đảo người
khác bằng bạo động trong lời nói hay hành vi là tỏ rõ chính sự
bất lực yếu đuối của mình. Một thái độ như thế cho thấy sự thiếu
trưởng thành. Một người chồng cãi vã lớn tiếng với vợ và khước
từ mọi giải thích của vợ để giữ lại mọi đắng cay trong tâm hồn
là một người chồng chưa trưởng thành. Một người vợ cãi vã với
chồng và khước từ mọi giải thích của chồng cũng là một người
chưa trưởng thành.
Cuộc sống vợ chồng tựa một bản
nhạc. Hát cho đúng từng nốt nhạc trong một bài hát không phải là
chuyện dễ. Có người không có tai để nghe cho chính xác, có người
không có giọng hát chuẩn. Có những người vợ đánh giá sai về
quyền lợi của mình nhưng cũng không thiếu những người chồng
không biết đáp ứng những đòi hỏi chính đáng của vợ. Nhiều người
vợ có khuynh hướng phiền muộn, lo lắng hoặc gây hấn, khiến người
chồng chỉ biết đáp trả bằng những lời lẽ cộc cằn thô thiển, thậm
chí bằng những cử chỉ bạo lực. Cả hai, chồng cũng như vợ đều tỏ
ra là những người chưa trưởng thành và chưa đóng trọn vai trò
phối ngẫu của mình.
6.
hôn nhân
là trường đào luyện con người: Chính trong bậc hôn nhân mà con
người đạt được sự trưởng thành của mình cũng như giúp cho người
phối ngẫu nên người trưởng thành.
Để trưởng thành, con người cần có
ý chí. Ý chí không là một ước muốn mơ hồ mà chính là luôn cố
gắng chống lại sự ngoan cố, những định kiến, sự gây hấn. Có ý
chí cũng có nghĩa là tập sống lạc quan, cởi mở, nhìn rộng, quảng
đại, tha thứ.
Nhưng, trên tất cả mọi cố gắng của
ý chí, cầu nguyện là phương thế quan trọng và cần thiết nhất
trong đời sống của đôi vợ chồng trẻ. Họ phải luôn tâm niệm rằng,
một gia đình cầu nguyện là một gia đình đứng vững, và sự trưởng
thành nhân cách thực sự chỉ được xây dựng trên sự trưởng thành
trong niềm tin mà thôi. |
VỀ MỤC LỤC |
|
XA QUÊ ĐÓN TẾT MỪNG XUÂN.
|
Đêm qua đốt
đỉnh hương trầm
Khói lên nghi
ngút, âm thầm nhớ quê
Ca dao
Hàng năm, sau
khi cùng dân bản xứ đón năm mới Dương lịch, thì người Việt xa
quê lại cùng với gia đình, đồng hương sửa soạn đón mừng TẾT dân
tộc.
Tết vẫn là
ngày lễ vui nhất trong năm của mọi người dân Việt. Cho nên dù
thời gian có qua đi, không gian có ngăn cách, con dân Hồng Lạc
vẫn đời đời duy trì, bảo vệ những lễ nghi, phong tục, những tập
quán cổ truyền của ngày Tết Nguyên Đán vào đầu Xuân.
Những ngày
mới vào đất lạ, có người đã tưởng như không còn biết Xuân, biết
Tết là gì. Nhưng chỉ sau vài năm vất vả hội nhập, thích nghi với
nếp sống mới, văn hóa mới, người Việt đã tạo được truyền thống
đón Tết, mừng Xuân trên quê người.
Có người đã
nói: Đón mừng TẾT là một cái thú của nhân dân ta mà đi chợ Tết
lại cũng rất hào hứng, hấp dẫn.
Trước hết là
phải giải thích cho con cháu những tục lệ của ngày Tết cổ truyền.
Có cháu sẽ thắc mắc là tại sao ngày mồng một Tết không được quét
nhà hút bụi; nhà có bếp điện chứ đâu có dùng bếp củi than mà
cúng tiễn Táo Ông Táo Bà lên trời; tại sao phải lựa mời người
tới thăm nhà xông đất vào ngày đầu năm, xuất hành phải chọn
hướng...Nhưng tục lệ lì xì, mừng tuổi với bao tiền đỏ chói thì
các cháu hiểu rất mau và nhớ rất lâu.
Ở khắp nơi
trên đất Mỹ, nơi nào có người Việt là nơi đó có những khu chợ
chuyên bán sản phẩm quê hương. Mọi mặt hàng cần thiết cho việc
bếp núc đều có cả: từ chai nước mắm Phan Thiết, mắm ruốc bà giáo
Thảo tới rau húng rau thơm. Muốn ăn tiết canh, lòng heo tươi
ngon, xin cứ tới chợ Việt Nam. Thích thịt dai và thơm của con gà
đi bộ, khúc cá thu kho, trái sầu riêng Thủ Đầu Một, chùm nhãn
lồng Hưng Yên: trong chợ đều có. Chả bù với những năm đầu, ai
cho một xị nước mắm Thái Lan thì như vớ được vàng; thấy trên
vườn trước cửa có một khoảng trồng rau thơm thì đích thị là nhà
người Việt Nam ta.
Chợ Tết bầy
bán đủ thứ hàng cho TẾT. Người ta có cảm tưởng như đây là một
chợ Đồng Xuân hay Bến Thành thu hẹp, nằm trên một nước Mỹ rộng
lớn. Dân bản sứ mà đi vào khu Bolsa của Orange County, khu
Bellaire của Houston, Eden Plaza của D.C.... thì coi như bị lạc
lõng. Người ta chào hỏi nhau bằng tiếng Việt, mặc cả mua bán
bằng tiếng Việt, thậm chí lớn tiếng với nhau cũng bằng tiếng
Việt. Thiên hạ lũ lượt tới mua sắm, bãi đậu xe không đủ chỗ cho
khách du xuân, nhất là những năm mà Tết trùng vào ngày nghỉ Thứ
Bẩy, Chủ Nhật.
Trước hết
phải mua mấy cặp bánh chưng. “Tết về nhớ bánh chưng xanh “ Vâng,
Tết mà không có món bánh chưng thì đâu còn là Tết. Nhất là những
chiếc bánh chưng gói bằng lá dong, cột bằng sợi giang, nhân thịt
tươi nóng hổi khi mua, nằm trong lớp đậu xanh đãi cho sạch, và
gạo nếp ngỗng trắng, thơm và dẻo.
Bánh chưng
đã có một lịch sử từ ngày lập quốc bởi Vua Hùng và có người đã
ví nó như linh hồn của ngày Tết.
Những năm
đầu, không có lá dong, bà con ta gói bằng lá chuối khô, bọc bên
ngoài bằng những tờ giấy nhôm. Gói như vậy bánh không có vị nồng
ướt của tầu lá, nhưng thôi, có còn hơn không. Đến bây giờ thì
không thiếu gì lá dong từ quê hương đưa sang, nên đã có những
chiếc bánh chưng luộc rất dền, rất xanh. Lại còn món giò lụa,
chả quế cũng nhiều vô kể và hương vị cũng khá đậm đà.
Đừng quên mua
ít mứt sầu riêng, mứt me, mứt quất, vài gói ô mai cam thảo, nửa
ký hạt dưa để nhâm nhi khi có khách tới chơi. Vợ nhắc chồng mua
một chậu mai tươi, một cành đào Mỹ quốc. Có năm thời tiết không
đủ lạnh, hoa đào không kịp nở, ta đành mua vài cành đào giấy,
đào nylon thay thế. Nếu ở quê hương, thì ta đã chạy lên Ngọc Hà
hay xuống chợ hoa đường Nguyễn Huệ mang về mấy cành đào tươi,
mấy cây quất chĩu trái.
Mua vài quả
dưa hấu với vỏ xanh rờn, ruột đỏ chói chang để có hương vị Tết
miền Nam nắng gắt.
Sắm thêm mấy
thẻ nhang, mấy cuộn hương vòng để thắp cúng gia tiên, đồng thời
cho thơm nhà thơm cửa.
Cũng đừng
quên mấy bao giấy đỏ để đựng tiền lì xì cho bầy cháu nội ngoại.
Ở đất nước tư bản, trẻ con được mừng tuổi mấy đồng đô xanh với
lời chúc “nhất bản vạn lợi “ (one dollar make ten thousand
dollars ) thì chúng mừng hết chỗ nói.
Trước giờ
Giao Thừa, đồng bào ta, đặc biệt là thanh niên thiếu nữ, giữ tập
tục đi lễ chùa, nhà thờ rất đông. Đến để xin lộc, cầu may, để
gặp nhau, chúc tụng nhau mọi sự lành trong năm tới cũng như cầu
nguyện thanh bình thịnh vượng cho quê hương đất tổ.
Rồi cùng về
nhà xông đất, cúng gia tiên. Đó đây, một vài tiếng pháo nổ vang.
Bên Mỹ, đốt pháo phải xin phép trước, vì chính quyền sợ tai nạn
xẩy ra cho dân chúng. Nhiều cơ sở thương mại không đốt pháo
thật, nhưng có pháo giả: cũng treo một giây pháo dài trước cửa
tiệm với tiếng pháo nổ phát ra từ chiếc máy thu âm.
Nhưng nơi
gặp gỡ đầu xuân của mọi người thường thường là ở những Hội chợ,
Chợ phiên. Năm nào các cộng đồng người Việt ở mọi nơi trên đất
Mỹ cũng đều tổ chức những hội Tết mừng Xuân như vậy.
Hội Xuân kéo
dài hai ba ngày, có khi cả tuần. Trong hội có sân khấu để trình
diễn văn nghệ quê hương dân tộc đón Tết, mừng Xuân, thi hoa hậu
áo dài, thi cắm hoa, cây kiểng; có những gian hàng bán món ăn
quê hương đủ loại (ngoại trừ món Cờ Tây); cũng có những gian
hàng đỏ đen, bầu cua cá cọp. Nam thanh, nữ tú lượt là hẹn nhau
tham dự. Con nít chạy tung tăng trong những chiếc áo dài Việt
Nam cổ truyền. Giới chức chính quyền địa phương được mời tham dự
để chia vui với nhóm cộng đồng còn trẻ cũng như tỏ tình đoàn kết
chủng tộc.
Hội chợ còn
là cơ hội để các hội đoàn gây quỹ cho các công tác từ thiện bác
ái tại địa phương hay giúp đồng bào kém may mắn ở quê nhà. Năm
nay, mọi lạc quyên đều tập trung vào việc cứu trợ cho nạn nhân
lũ lụt ở miền đồng bằng sông Cửu Long và miền Trung.
Ây cứ loanh
quanh như vậy mà cũng hết mấy ngày Tết. Ngày nay, đa số đồng
hương ta đã lấy mấy ngày nghỉ để ăn Tết, để đi thăm bạn bè. Họ
cũng đi về các thị trấn lớn có đông người Việt hơn, để thăm
viếng nhau, để sưởi ấm lòng nhau, để tìm lại trong nhau những
hình ảnh, những kỷ niệm của quê hương, đất tổ. Với thời gian,
TẾT đã đi vào văn hóa Hiệp Chủng Quốc. Truyền thông đã dùng ba
mẫu tự T-E-T để chỉ ngày hội New Year của người Việt Nam.
Trong lịch sử
nước nhà, chưa có giai đoạn nào mà người Việt hiện diện một cách
thoải mái, đông đảo ở khắp năm châu bốn bể như ngày nay. Như
người Trung Hoa. Như người Do Thái. Họ là một thành phần trong
khối NGƯỜI VIỆT NAM trong và ngoài nước, để cùng nhau chung sức
xây dựng một quốc gia VIỆT NAM hùng mạnh, có tự do, dân chủ thực
sự chứ không chỉ trên giấy tờ văn bản hoặc qua lời tuyên bố chủ
quan một chiều.
Bác sĩ Nguyễn
Ý Đức
Texas-Hoa Kỳ
www.bsnguyenyduc.com
|
VỀ MỤC LỤC |
MÈO
VỚI CHUỘT VÀ CHÓ |
Cách đây
không lâu trên báo “Tuổi Trẻ Cười”, một độc giả đã nêu lên câu
hỏi như sau:
“Tôi sinh năm
1975, mẹ tôi bảo tuổi Mẹo, cầm tinh con mèo, cha tôi thì bảo
tuổi Mão, cầm tinh con thỏ. Như vậy có phải Mão là thỏ, còn Mẹo
là mèo hay không? Đến nay tôi biết trong 12 con giáp không có
con thỏ. Vậy năm 2011 này, gọi là Tân Mão hay Tân Mẹo, cầm tinh
con thỏ hay con mèo?”
Và Cô Tú, chủ
“quán Mắc Cở”, đã trả lời như sau:
“Theo cách
tính của âm lịch, lịch Can-Chi, thì Tí, Sửu, Dần, Mão… là 12
chi. Người làm lịch chọn cho mỗi chi một con vật làm biểu tượng.
Ví dụ: Tí biểu tượng là con chuột. Sửu biểu tượng là con trâu…
Cần hiểu rằng: Theo chữ Hán, Tí không có nghĩa là chuột và Sửu
cũng không có nghĩa là trâu. Tương tự như vậy, Mão không phải là
mèo và cũng không phải là thỏ. Riêng từ Mẹo là tiếng Việt thì
rất có thể do từ mèo mà ra.
Âm lịch của
người Trung Hoa có rất sớm, khoảng đời nhà Thương (thế kỷ 16
TCN). Khi ấy nước Trung Hoa chưa có mèo thuần dưỡng, chỉ có loại
mèo rừng. Hầu hết giống mèo thuần dưỡng đều có nguồn gốc từ Ai
Cập. Châu Âu mãi đến thời Trung Cổ mới biết nuôi mèo. Vì chưa có
mèo, nên các nhà làm lịch Can-Chi của Trung Hoa lấy con thỏ làm
biểu tượng cho chi Mão.
Khi người
Việt Nam biết sử dụng lịch Can-Chi, thì dân ta đã nuôi mèo, nên
các nhà làm lịch người Việt bèn linh động, dùng con mèo làm biểu
tượng thay thế con thỏ, vì lẽ con mèo gần gũi hơn. Hiện nay,
người Hoa vẫn nói rằng tuổi mão cầm tinh chon thỏ, còn người
Việt thì tuổi mão cầm tinh con mèo”.
Tác giả Lữ
Khách, trên báo Kiến Thức Ngày Nay trong giai phẩm xuân Tân Mão,
cũng cùng một quan điểm như trên, nhưng lại thêm một câu hỏi:
Tại sao người Trung Quốc không nêu biểu tượng con mèo?
Tương truyền
rằng:
Ngày xửa ngày
xưa, Ngọc Hoàng tuyên triệu các loài vật lên thiên đình để được
chọn lựa và thụ phong 12 con giáp. Mèo và chuột đều “quá giang”
trên lưng bác trâu tốt bụng. Khi bơi qua sông Ngân Hà, chú chuột
láu cá đẩy chú mèo xuống nước. Lúc chú mèo ngoi lên được, thì đã
trễ, xếp thứ 13, nên phải ra rìa. Bác trâu cần cù, dẫn đầu đoàn
quân, nhưng khi đến cửa thiên đình, chú chuột bèn nhảy phóc qua
đầu bác trâu, thành ra được xếp thứ nhất trong 12 con giáp. Cũng
từ đó, mèo thấy chuột là phải vồ bằng được cho hả giận.
Đó là truyền
thuyết dân gian, còn các nhà khảo cổ thì cho rằng sở dĩ Trung
Quốc vốn không dùng biểu tượng mèo là vì mèo mới chỉ được du
nhập vào Trung Quốc từ đời Minh Đế (43-61) nhà Đông Hán, cách
thời điểm phát minh ra 12 con giáp đã trễ gần 200 năm, nên không
có chỗ đứng. Còn Mông Điểm đời Tần Thuỷ Hoàng (220-207 TCN) đã
sử dụng lông thỏ làm ra bút lông, chứng tỏ giả thuyết trên là có
lý.
Mèo thấy
chuột, thì phải vồ cho bằng được. Vồ được rồi, thường không cắn
chết hoặc xơi tái ngay, trái lại còn vờn tới vờn lui, đùa giỡn
hồi lâu và cảm thấy thích thú trên sự sợ hãi và đau đớn của
chuột. Tìm hiểu về mối thù truyền kiếp của mèo đối với chuột, gã
ghi nhận được một vài mẩu truyện sau đây.
Mẩu truyện
thứ nhất:
Ngày xửa ngày
xưa, chuột vốn là một giống linh thiêng được ở trên thiên đình.
Trời trao cho nó giữ chìa khóa kho lúa của Trời. Nhưng chuột
không phải là loài đáng tin cẩn, nhân được giữ chìa khóa, cứ tự
do đến mở kho, rủ nhau vào ăn rả rích hết bao nhiêu là lúa.
Sau Trời biết
được, lấy làm giận lắm, mới không cho ở trên ấy nữa, mà đuổi
xuống dưới hạ giới để giữ chìa khóa lẫm thóc của nhân gian.
Nhưng chứng nào tật ấy, chuột lại rủ nhau vào lẫm thóc của
người, rả rích ăn. Đến nỗi người đã phải than rằng:
- Chuột kia
xưa ở nơi nào?
Bây giờ ăn
lúa nhà tao thế này?
Người lấy làm
chua xót, mới kêu với vua Bếp. Vua Bếp liền bắt chuột đem lên
trả cho Trời và tâu rằng:
- Chuột này
vốn ở thiên đình, sao Trời lại thả nó xuống hạ giới làm chi?
Trời nói:
- Ừ, trước
kia nó ở trên này giữ chìa khoá kho thóc cho ta. Nhưng bởi nó ăn
vụng lúa của ta nhiều lắm, nên ta không cho nó ở trên này nữa,
mà đuổi nó xuống hạ giới, cho nó giữ kho lúa ở dưới ấy.
Vua Bếp tâu:
- Xuống dưới
ấy, nó lại ăn vụng lúa hại lắm. Bẩm chúng con thiết nghĩ: lúa
của Trời thì nhiều, mà lúa của người thì ít, của Trời nó ăn
không hết, chớ của người nó cứ ăn mãi, thì có ngày sẽ hết, và
người người đến phải chết đói mất. Vậy xin bây giờ trả lại nó
cho Trời.
Trời nghe
tâu, bèn phán:
- Không được.
Ta đã đuổi nó đi cho xa, nên không thể lại để nó lên đây một lần
nữa. Thôi bây giờ ta đã có cách: con mèo của ta, ta cho ngươi
đem xuống hạ giới, để khi nào lũ chuột ăn lúa của nhân gian, thì
ngươi hãy thả nó ra cho nó bắt chuột, rồi gầm gừ mà ăn chuột đi;
còn khi nào nó không muốn bắt chuột, thì ngươi bảo nó cứ kêu
toáng lên rằng: “Nghèo, nghèo, nghèo", ắt chuột sẽ phải sợ nó mà
bỏ đi.
Vua Bếp lạy
tạ, rồi lại đem cả chuột lẫn mèo xuống trần gian. Và cứ theo như
lời dạy mà làm. Thành thử, hễ khi nào rình bắt được chuột, thì
mèo cứ "gầm gừ, gầm gừ". Còn khi nào không bắt được chuột, thì
mèo cứ vô tư kêu: "Nghèo, nghèo, nghèo!”
Những lúc ấy,
mèo hồi nghĩ lại, mới lấy làm giận vua Bếp, vì tại vua Bếp mà
mèo mới phải xuống dương gian. Nhưng không làm gì nổi vua Bếp,
nên mèo chỉ còn cách thỉnh thoảng vào giữa đống tro trong bếp mà
phóng uế.
(VietFun Story).
Mẩu truyện
thứ hai:
Ngày xưa, mèo
và chuột đều chung sống hòa bình và đều biết nói tiếng của loài
người. Nhưng bản tính của hai loài vật này quá khác nhau, nên
mâu thuẫn nảy sinh và ngày càng trầm trọng.
Hôm nọ, trong
một nhà kia, chủ nhà bực bội vì mâm thức ăn mình chưa đụng đũa
đến nhưng đã thấy thất thoát. Vừa nghe chủ nhà quát tháo, mèo đã
uốn éo đến cạ mình vào chân ông chủ và nói:
- Ông xem thử
dấu răng nham nhở trên miếng thịt kia là của ai?
Quá dễ, chủ
nhà thấy ngay đó là dấu răng chuột nên bèn lôi lũ chuột ra nện
cho một trận. Chuột chúa kêu oan inh ỏi:
- Ông ơi,
đúng là tụi con có tội. Ông nghĩ mà xem, cả đám tụi con vì đói
nên phải ăn vụng, nhưng cũng chỉ hết có chút xíu thịt. Còn lão
mèo ấy à, lão giở cả lồng bàn lấy đi nguyên con cá to. Chẳng qua
lão ấy khéo quá nên ông không phát hiện mà thôi!
Mèo bèn gầm
gừ:
- Bằng chứng
đâu mà bọn mày dám bảo ta ăn nguyên con cá to?
Bực mình với
hai tên kẻ cắp, ông chủ bèn tát mỗi con một cái cực mạnh khiến
cả hai mất luôn khả năng nói và hiểu tiếng người. Từ đó, mèo và
chuột trở thành kẻ thù truyền kiếp của nhau. Có điều chuột thì
luôn bị săn đuổi, đánh đập, còn mèo thì vẫn nhơn nhơn thân cận
với con người! Nhiều lúc buồn tình đời, chuột triết lý:
- Mình phá cả
đời cũng không bằng hắn xơi một quả. Vậy mà lúc nào tiếng xấu
cũng thuộc về mình. Đúng là con người nói chớ có sai: Lý thuộc
về kẻ mạnh!”
(Bút Bi, báo Tuổi Trẻ).
Từ mối thù
truyền kiếp này, hễ thấy chuột là mèo phải rình bắt cho bằng
được. Bắt được rồi, thì cứ từ từ mà xơi tái. Bởi vì thịt chuộc
là một món ăn bổ dưỡng, giúp cho mèo được sáng mắt. Thực vậy,
theo các nhà khoa học nghiên cứu thì để duy trì sức nhìn vào ban
đêm, mèo cần phải ăn thịt chuột, vì trong thịt chuột có rất
nhiều chất taurine, giúp cho hoạt động của các tế bào hình nón
cảm nhận được ánh sáng yếu. Và hơn thế nữa, thịt chuột còn là
một món ăn khoái khẩu cho loài mèo. Một món ăn tuyệt vời, ngon
ơi là ngon. Do đó mới có truyện:
Một con mèo
chết đi và đưa lên thiên đường, Thượng đế hiện ra và nói:
- Con là một
con mèo tốt khi còn sống. Bây giờ con mong ước gì, thì sẽ được
nấy.
Con mèo nói:
- Con sống
trong một gia đình nghèo khó, suốt cuộc đời phải ngủ trên sàn gỗ
cứng.
Thượng đế mỉm
cười:
- Sẽ không
còn thế nữa.
Dứt lời, một
chiếc gối nệm rất êm được mang đến. Vài ngày sau, có mấy chú
chuột cũng chết và được đưa lên thiên đường. Thượng Đế cũng ban
điều ước cho chúng. Lũ chuột lao nhao:
- Cả đời bọn
con cứ phải chạy, chạy suốt. Bọn con bị mèo, chó và cả các quý
bà với cây chổi trên tay rượt đuổi suốt thôi. Tụi con ước gì
mình có được đôi giày patin để đỡ phải chạy.
Thượng đế mỉm
cười:
- Như chúng
con đã ước.
Thế là mỗi
chú chuột đều có một đôi giày patin mới toanh. Vài tuần sau,
Thượng đế đi thăm chúng sinh trên thiên đường. Ghé ngang qua chỗ
mèo, ông thấy chú mèo đang ngủ ngon lành trên gối nệm. Thượng đế
đến khẽ lay mèo dậy và hỏi:
- Con khoẻ
chứ? Con có thấy vui không?
Chú mèo vươn
vai và rên ư ử ra chiều thích thú:
- Trong đời
mình con chưa bao giờ hạnh phúc như thế này. Và đặc biệt mấy bữa
ăn ngài để trên bánh xe mà gửi xuống cho con, thì thật là tuyệt
vời!
(xaluan.com).
Trong lúc mèo
mang nối thù truyền kiếp đối với chuột, thì mèo lại bị chó “ghét
cay ghét đắng, ghét vào tận tâm”. Thực vậy, rất nhiều phen gã đã
bị lũ chuột quấy phá. Chuột lớn thì cắn lúa ngoài ruộng, ăn thóc
trong bồ, chuột nhắt thì cắn rách áo quần. Thậm chí nó còn chui
vô máy vi tính và gậm nhấm từng sợi dây điện. Để diệt bớt loài
chuột, đánh thuốc thì không ổn, bởi vì chuột ăn phải bả, sẽ nằm
chết ở một kẹt góc nào nó, bốc mùi hôi thối không chịu nổi. Còn
đánh bẫy thì chỉ được một vài con vào đêm đầu mà thôi, sau đó nó
khôn ra, không chịu chui đầu vào cho bẫy sập nữa. Vì vậy, kế
sách hay nhất là phải nuôi mèo.
Tuy nhiên,
nuôi được một hai con mèo trong nhà không phải là chuyện dễ,
nhất là khi trong nhà đã có dăm ba con chó. Có người đã từng
phải đi xin hay đi mua, mèo lớn cũng có mà mèo nhỏ cũng có, thế
nhưng cũng chỉ được dăm bữa nửa tháng, tất cả những con mèo đem
về đều bị chó rượt đuổi tới cùng và cắn chết. Sự ghét cay ghét
đắng này có nguồn gốc như sau:
Ngày xửa ngày
xưa, chó và mèo gặp nhau trong rừng, chúng nhìn thấy đối phương
và khá hài lòng về người bạn mới, trong đầu chúng nghĩ sẽ có một
mối quan hệ tốt với "kẻ kia". Và vì thế, chó vẫy đuôi biểu hiện
sự vui vẻ. Tín hiệu này thật dễ hiểu đối với người yêu chó và họ
cũng biết nếu chó gầm gừ thì chúng đã sẵn sàng chiến đấu.
Nhưng mèo lại
không cho là vậy. Từ nhỏ mỗi lần bú sữa mẹ, chúng phát ra tiếng
gừ gừ nho nhỏ trong miệng nhằm báo cho mẹ biết mình đã nhận được
sữa, đồng thời thể hiện sự thích thú. Khi lớn lên, mèo đem
nguyên ký ức của mình làm thành một thói quen, và để tỏ ra thân
thiện mèo đã gừ gừ.
Ôi, chó lại
cứ tưởng mèo đang muốn gây sự với mình. Nhưng nếu bạn nào yêu
mèo thì sẽ rõ khi sắp xung trận, mèo sẽ lắc đuôi liên tục. Hoá
ra trong tình huống ấy, mèo đã nghĩ chó muốn tấn công mình. Từ
đó, chó mèo không đội trời chung. Chỉ vì sự hiểu lầm đáng tiếc
mà lý ra hai kẻ rất hợp làm bạn tâm giao lại trở thành kẻ thù.
Sự hiểu lầm
này hoá ra chỉ vì chúng dùng những cảm giác và những tư duy của
mình để suy đoán kẻ khác, mà không hề cố gắng tìm hiểu tâm hồn
và những mong ước của kẻ khác loài kia.
(Sưu tầm).
Cũng có
truyện khác kể lại rằng:
Một ngày nọ,
mèo và chó bị bắt vào ngục của Diêm vương vì đã cắn nhau một
trận nảy lửa cho đến chết. Sau một thời gian thu thập nhân
chứng, vật chứng đầy đủ, công tố viên, tức Mít tờ Phán quan,
quyết định chuyển giao vụ việc khởi tố lên Diêm Vương. Sau đây
là bài tường thuật trực tiếp buổi xét xử chó và mèo.
Diêm Vương
hỏi Mèo:
- Trong cáo
trạng của Mít tờ phán quan thì mèo cắn chó trước! Tức là mèo gây
sự trước. Tại sao?
-Tại vì con
thù nó
- Tại sao mèo
thù nó?
- Tại vì nó
cắn con
- Tại sao nó
cắn mèo?
- Tại vì nó
thù con.
- Tại sao nó
thù mèo?
- Tại vì con
cắn nó.
- Tại sao mèo
cắn nó?
- Tại vì con
thù nó.
- Thế ta hỏi
tại sao mèo thù nó?
- Tại vì nó
cắn con.
- Thế tại sao
nó cắn mèo?
- Tại vì nó
thù con.
Nghe thiên hạ
đồn rằng: Kể từ lúc loài chó và loài mèo được sinh ra và vụ án
được khởi tố, Diêm vương vẫn chưa xử xong. Chính vì thế mà loài
mèo và loài chó vẫn còn rất ghét nhau vì không quên được mối cựu
thù năm xưa mà đến nay lời giải đáp vẫn chưa được ngã ngũ.
Dĩ nhiên,
cũng có những con mèo và những con chó sống chung hoà bình với
nhau, như những người bạn chân thành. Neta-li Feuerstein và các
cộng sự viên của ông tại Đại học Tel Aviv, Israel, đã phỏng vấn
170 gia đình nuôi chó và mèo. Phần lớn họ đều cho biết hai loài
vật có thể sống thân mật với nhau. Sự dửng dưng chỉ chiếm 1/4 và
tình trạng đấu đá xảy ra chưa tơi 1/10. Sự hòa hợp sẽ ở mức độ
cao khi con mèo được nuôi trước con chó và khi chúng gặp nhau
lúc con mèo chưa tới 7 tháng tuổi và con chó thì chưa được 1 năm
tuổi.
(M.T. theo Livescience).
Mối liên hệ
tay ba giữa chuột mèo và chó làm cho gã nhớ tới một câu truyện
trong sách Cổ Học Tinh Hoa, đại khái nhự thế này:
Vua nước Ngô
muốn đem quân đi đánh nước Kinh. Đã nhiều người can ngăn, nhưng
vua nhất định không nghe. Sau lại hạ lệnh rằng:
- Ai can ta
đánh nước Kinh, thì sẽ bị xử tử.
Có một viên
quan trẻ tuổi, muốn can ngăn mà không dám nói. Luôn ba ngày, cứ
sáng sớm cầm cung tên đến đứng vườn sau nhà vua, sương ướt đẫm
cả áo. Hôm thứ ba, vua gặp, mới hỏi:
- Người đến
đây làm gì mà để sương xuống ướt cả áo như thế?
Viên quan
thưa rằng:
- Trong vườn
có một cây cổ thụ, chót vót trên ngọn cây, có con ve sầu hút
gió, uống sương, rả rích kêu cả ngày, tưởng đã được yên thân
lắm. Biết đâu, đằng sau có con bọ ngựa đang giơ hai càng chực
bắt. Chính con bọ ngựa muốn bắt con ve sầu, lại biết đâu đằng
sau có con chim sẻ nghển cổ chực mổ. Chính con chim sẻ muốn bắt
con bọ ngựa, lại biết đâu dưới gốc cây có tôi cầm cung tên chực
bắn. Chính tôi đây muốn bắt con chim sẻ mà không biết sương đã
xuống ướt đẫm cả áo… Như thế đều chỉ vì tham cái lợi trước mắt
mà quên hẳn cái hại ở ngay sau lưng vậy.
Vua nghe nói
tỉnh ngộ, bèn thôi không đánh nước Kinh nữa.
Và tác giả đã
thêm vào câu chuyện lời bàn như sau:
- Thế mới hay
ở trên đời, ngay cả đến loài vật cũng chỉ rình hại lẫn nhau,
nuốt lẫn nhau mà thôi. Nhưng biết đâu trong khi mình muốn nuốt
người, lại có kẻ khác muốn nuốt mình, mình chỉ ham mê trục cái
lợi trước mắt, mà không phòng bị cái hại sau lưng. Mà khi tai
hại nó đã xảy đến, thì chẳng những không thấy lợi đâu, lại thiệt
thân mình trước. Cho nên người khôn thấy cái lợi, thì lo cả đến
cái hại, lợi bất cập hại thì không bao giờ làm.
Trước thềm
năm mới, gã xin mượn lời của tiên tri Isaia mà vẽ ra một tương
lai an bình thịnh vượng:
Lúc bấy giờ:
Sói sẽ ở với chiên con, beo nằm bên dê nhỏ. Bò tơ và sư tử non
được nuôi chung với nhau, một cậu bé sẽ chăn dắt chúng. Bò cái
kết thân cùng gấu cái, con của chúng nằm chung một chỗ, sư tử
cũng ăn rơm như bò. Bé thơ còn đang bú giỡn chơi bên hang rắn
lục, trẻ thơ vừa cai sữa thọc tay vào ổ rắn hổ mang. (11,6-8).
Người với
người sẽ không còn cấu xé lẫn nhau theo kiểu: Cá lớn nuốt cá hé.
Hay theo kiểu: Anh như con chó, em như con mèo, hai con cắn nhau.
Nhưng sẽ thực sự sống chung trong yêu thương và tôn trọng lẫn
nhau. Và hoà bình sẽ mỉm cười với trái đất này.
Gã Siêu
gasieu@gmail.com
|
VỀ MỤC LỤC |
|
- Mọi liên lạc: Ghi danh, thay đổi địa chỉ, đóng góp ý kiến,
bài vở..., xin gởi về địa chỉ
giaosivietnam@gmail.com
- Những nội dung sẽ được đề cao và chú ý bao gồm:
Trao đổi, chia sẻ những kinh nghiệm thực tế trong việc mục
vụ của Giáo sĩ; Những tài liệu của Giáo hội hoặc của các
Tác giả nhằm mục đích Thăng tiến đời sống Giáo sĩ; Cổ võ ơn
gọi Linh mục; Người Giáo dân tham gia công việc “Trợ lực
Giáo sĩ” bằng đời sống cầu nguyện và cộng tác trong mọi lãnh
vực; Mỗi Giáo dân phải là những “Linh mục” không có chức
Thánh; Đối thoại trong tinh thần Bác ái giữa Giáo dân và
Giáo sĩ… (Truyền giáo hay xây pháo đài?)
- Quy vị cũng có thể tham khảo những số báo đã phát hành tại
www.conggiaovietnam.net
Rất mong được sự cộng tác, hưởng ứng của tất cả Quí vị
Xin chân thành cám ơn tất cả anh chị em đã
sẵn lòng cộng tác với chúng tôi bằng nhiều cách thế khác
nhau.
TM. Đặc San Giáo Sĩ Việt Nam
Lm. Luca
Phạm Quốc Sử
USA
|
|
*************
|
|