Thân Phận Con Người Trong Thế Giới Ngày
Nay |
Thánh Công Ðồng
Chung Vaticanô II
Hiến Chế Mục Vụ
Về Giáo Hội Trong Thế Giới
Ngày Nay
Gaudium Et Spes
Prepared for
Internet by Vietnamese Missionaries in Asia
Nhập Ðề
Thân Phận Con Người Trong Thế Giới Ngày
Nay 4*
4. Hy
vọng và lo âu. Ðể chu toàn phận vụ ấy, lúc nào Giáo Hội cũng có
bổn phận tìm hiểu tường tận những dấu chỉ của thời đại
5* và giải thích dưới ánh sáng Phúc Âm; như vậy mới có thể giải đáp
một cách thích ứng với từng thế hệ những thắc mắc muôn thuở của con người về ý
nghĩa cuộc sống hiện tại và mai hậu cũng như về mối tương quan giữa hai cuộc
sống ấy. Do đó, cần phải biết và hiểu thế giới chúng ta đang sống với những chờ
đợi, mong ước và cả tính chất thường là bi thảm của nó. Có thể phác họa một vài
nét chính yếu của thế giới ngày nay như sau:
Nhân loại ngày nay đang sống vào
một giai đoạn mới trong lịch sử của mình 6*.
Ðó là giai đoạn chất chứa những đổi thay sâu xa và mau chóng đang dần dần lan
rộng tới toàn thể hoàn cầu. Những thay đổi do óc thông minh và nổ lực sáng tạo
của con người khơi dậy, đang trở lại ảnh hưởng trên chính con người, trên những
phán đoán và ước vọng cá nhân hay tập thể con người, trên cách suy tư và hành
động đối với sự vật cũng như con người. Như vậy, chúng ta có thể nói đến sự biến
đổi đích thực về mặt xã hội cũng như văn hóa, sự biến đổi này đang lan tràn tới
cả đời sống tôn giáo.
Cũng như trong bất cứ cơn khủng
hoảng tăng trưởng nào, sự biến đổi này kéo theo những khó khăn không nhỏ. Chẳng
hạn như đang khi bành trướng quá rộng quyền lực của mình, không phải lúc nào con
người cũng có thể bắt nó phục vụ mình. Cố gắng đi sâu hơn vào thâm tâm mình, con
người nhiều khi lại tỏ ra hoang mang hơn về chính mình. Dò dẫm tìm hiểu rõ hơn
những luật lệ của đời sống xã hội, con người lại do dự không dám định đoạt hướng
đi cho mình.
Chưa bao giờ nhân loại dồi dào của
cải, khả năng và quyền lực kinh tế như ngày nay, vậy mà tới nay, một phần rất
lớn nhân loại trên thế giới đang quằn quại vì đói ăn và thiếu thốn, rồi không
biết bao nhiêu người đang chịu cảnh mù chữ. Chưa bao giờ con người ý thức mãnh
liệt được sự tự do như ngày nay, đang khi đó, lại thấy sống dậy những hình thức
nô lệ mới mẻ về mặt xã hội cũng như tâm lý. Trong lúc đang mãnh liệt cảm thấy sự
duy nhất cũng như sự kiện tất cả lệ thuộc nhau trong sự liên đới cần thiết, thì
thế giới lại bị lôi kéo kịch liệt theo những chiều hướng tương phản do những lực
lượng chống đối nhau; thực vậy vẫn còn kéo dài mãi tới ngày nay những bất đồng
trầm trọng về chính trị, xã hội, kinh tế, chủng tộc và ý thức hệ, và một cuộc
chiến diệt vong vẫn còn đe dọa. Ðang khi sự trao đổi tư tưởng phát triển, thì
những ngôn ngữ dùng để diễn tả những quan niệm có tầm mức quan trọng lại mang ý
nghĩa khác nhau tùy từng ý thức hệ riêng biệt. Sau hết, người ta nỗ lực đi tìm
một tổ chức trần thế hoàn hảo hơn, nhưng lại không lo tiến tới sự phát triển
tinh thần tương xứng.
Do những hoàn cảnh phức tạp như thế
chi phối, rất nhiều người đương thời thấy khó lòng có thể nhận chân được những
giá trị trường cửu và đồng thời cũng khó mà hòa hợp những giá trị ấy cho đúng
với những phát minh gần đây. Do đó, bị lay động giữa hy vọng và lo âu, băn khoăn
về sự xoay chuyển hiện tại của thế giới, họ cảm thấy một nỗi ưu tư. Sự xoay
chuyển của thế giới đang thách đố và thúc bách con người tìm câu giải đáp.
5.
Những hoàn cảnh biến đổi sâu rộng. Sự giao động tâm hồn hiện nay
và sự thay đổi cảnh sống gắn liền với một biến chuyển rộng lớn hơn. Trong phạm
vi trí dục, sự biến chuyển này làm cho toán học, vạn vật học và các khoa học
nhân văn càng ngày càng thêm quan trọng, còn trong phạm vi hoạt động, thì kỹ
thuật, con đẻ của khoa học, lại mỗi ngày một thêm uy thế. Tinh thần khoa học này
đang tạo ra một nền văn hóa và những lối suy tư khác với trước kia. Kỹ thuật
phát hiện đến độ thay đổi cả cục diện địa cầu và còn đang cố gắng chinh phục
không gian.
Tâm trí con người như đang nới rộng
phạm vi chế ngự trên cả thời gian: chế ngự dĩ vãng nhờ sử học, và chế ngự tương
lai nhờ dự liệu và tổ chức các kế hoạch. Những khoa học đang tiến bộ như sinh
vật học, tâm lý, xã hội, không những giúp con người hiểu biết chính mình hơn, mà
còn giúp con người biết lợi dụng những phương pháp kỹ thuật để trực tiếp ảnh
hưởng tới đời sống các xã hội. Ðồng thời nhân loại mỗi ngày mỗi lưu tâm hơn để
tìm cách tiên liệu và giải quyết vấn đề gia tăng dân số.
Chính lịch sử đang tiến bước quá
nhanh đến nỗi từng cá nhân riêng rẽ khó lòng theo kịp. Vận mạng cộng đoàn nhân
loại trở thành một mà thôi và không còn bị phân tán thành nhiều dòng lịch sử
khác nhau nữa. Như vậy từ một quan niệm tĩnh về vũ trụ, nhân loại đã bước sang
một quan niệm động và tiến hóa hơn 7*, do đó
phát sinh những vấn đề hết sức phức tạp mới mẻ đòi phải có những phân tích và
tổng hợp mới.
6.
Những biến đổi trong phạm vi xã hội. Cũng vì vậy, các cộng đoàn
cổ truyền địa phương, như gia tộc, "thị tộc", bộ lạc, xóm làng, các tập thể khác
và các liên hệ trong cộng đoàn xã hội đều thay đổi mỗi ngày mỗi sâu xa hơn.
Tổ chức xã hội theo khuôn mẫu kỹ
nghệ dần dần bành trướng, đưa một số quốc gia tới mức thịnh vượng kinh tế và
thay đổi tận gốc rễ những quan niệm và hoàn cảnh đời sống xã hội đã cố định từ
lâu đời. Sự ham chuộng theo đuổi đời sống thị thành cũng gia tăng, vì các thành
phố càng ngày càng mọc lên nhiều, dân cư càng ngày càng đông, và vì cách sống
thị thành đang lan rộng tới cả thôn quê.
Những phương tiện truyền thông mới
mẻ và mỗi ngày một thuận tiện hơn giúp con người theo dõi được các biến cố cũng
như phổ biến hết sức mau lẹ và rộng rãi những cách cảm nghĩ và suy tư, do đó
chúng gây nên nhiều âm hưởng vang dội có liên quan với nhau.
Một hiện tượng không kém quan trọng
khác: biết bao người bởi nhiều lý do phải di cư, và vì di cư đã thay đổi cả cách
sống.
Do vậy mà những liên hệ của con
người với đồng loại không ngừng tăng thêm mãi, đồng thời chính sự "xã hội hóa"
8* lại tạo thêm những liên hệ mới, tuy nhiên,
những liên hệ mới ấy không phải lúc nào cũng giúp nhân vị trưởng thành một cách
thích hợp, hoặc cổ võ những liên hệ thực sự người (nhân vị hóa).
Thực vậy, sự tiến hóa ấy phát hiện
rõ rệt hơn tại những quốc gia hưởng thụ những tiện nghi kinh tế và kỹ thuật,
nhưng sự tiến hóa ấy cũng thúc đẩy các dân tộc còn đang cố gắng tiến lên, vì họ
là những người mong mỏi cho xứ sở mình được hưởng ích lợi của nền kỹ nghệ và đô
thị hóa. Các dân tộc ấy, nhất là các dân tộc đã bám víu vào những truyền thống
cổ kính, đồng thời cảm thấy bị thúc đẩy muốn tự mình xử dụng tự do một cách
trưởng thành và hợp nhân vị hơn.
7.
Những biến đổi về tâm lý, luân lý và tôn giáo. Sự thay đổi tâm
thức và cơ cấu thường làm cho con người bất đồng ý kiến về những giá trị đã được
chấp nhận, nhất là nơi những người trẻ là lứa tuổi đôi khi thiếu nhẫn nại; hơn
nữa vì lo âu, nên họ mới nổi loạn, và vì ý thức tầm quan trọng của riêng mình
trong đời sống xã hội, nên họ mong muốn sớm được dự phần vào đời sống xã hội
hơn. Do đó, nhiều khi cha mẹ và các nhà giáo dục càng ngày càng gặp nhiều khó
khăn trong việc chu toàn bổn phận.
Các định chế, luật pháp, những lối
suy tư và cảm nghĩ của người xưa truyền lại, hình như không phải lúc nào cũng
phù hợp với tình thế hiện tại, do đó, có sự xáo trộn trầm trọng trong phương
thức và trong cả các tiêu chuẩn hành động.
Sau hết, những hoàn cảnh mới cũng
ảnh hưởng tới đời sống tôn giáo. Một phần vì khả năng phán đoán sâu sắc hơn đã
thanh lọc khỏi đời sống tôn giáo quan niệm ma thuật về thế giới
9* và những mê tín vẫn còn lan tràn tới ngày nay.
Khả năng sâu sắc ấy đòi hỏi đức tin phải được chấp nhận mỗi ngày một thêm cá
biệt và linh hoạt; bởi đó, nhiều người đạt được một ý thức sống động hơn về
Thiên Chúa. Phần khác, số người lìa xa Thiên Chúa trong cách sống thực tế càng
ngày càng đông. Khác với thời xưa, sự từ chối hoặc tránh né đề cập tới Thiên
Chúa hay tôn giáo không còn là một hành vi dị thường và có tính cách cá nhân
nữa, vì ngày nay, biết bao người coi đó như một đòi hòi của tiến bộ khoa học
10* hay của nền nhân bản mới
11*. Tại nhiều nơi, quan niệm này không những
được diễn tả trong các trường phái triết học, mà còn ảnh hưởng rất nhiều tới văn
chương, nghệ thuật, các giải thích của các khoa học nhân văn và sử học, cũng như
ảnh hưởng tới cả dân luật khiến cho nhiều người hoang mang.
8.
Những chênh lệch trong thế giới ngày nay. Sự biến chuyển quá mau
chóng và thường thiếu trật tự, hơn nữa, sự ý thức càng ngày càng bén nhạy hơn về
những sự khác biệt hiện có trong thế giới, đó là những yếu tố làm phát sinh hoặc
gia tăng nhiều mâu thuẫn và chênh lệch.
Chính nơi con người thường phát
sinh sự thiếu quân bình giữa óc thực tế hiện thời và lối suy tư thuyết lý. Lối
suy tư này không còn khả năng làm chủ và tổng hợp gọn gàng toàn thể mọi tri
thức. Cũng vậy, sự thiếu quân bình hiển hiện giữa những lo âu đạt được hiệu quả
cụ thể và những đòi hỏi của lương tâm, và nhiều lúc giữa những cảnh sống tập thể
và những điều khẩn thiết cho suy tư cá nhân và nhất là cho sự chiêm niệm. Sau
hết là sự chênh lệch giữa sự chuyên biệt hóa các sinh hoạt nhân loại và cái nhìn
phổ quát về muôn vật.
Trong gia đình cũng xuất hiện nhiều
mâu thuẫn, hoặc do những hoàn cảnh ngột ngạt về dân số, kinh tế, xã hội, hoặc do
những khó khăn phát xuất giữa những thế hệ tiếp nối nhau, hoặc do những xã giao
mới giữa người nam và nữ.
Ngoài ra còn có những sự khác biệt
lớn lao giữa các chủng tộc và kể cả giữa những giai cấp xã hội khác nhau, giữa
những quốc gia cường thịnh và những quốc gia nghèo nàn yếu kém, sau hết giữa
những tổ chức quốc tế đã được thiết lập vì sự mong mỏi hòa bình của các dân tộc
và tham vọng gieo rắc ý thức hệ riêng cùng những ham hố tập thể hiện hữu trong
các quốc gia hoặc các tập thể khác.
Từ đó, phát sinh ngờ vực và thù
nghịch nhau, xung đột và thống khổ mà chính con người là nguyên nhân và nạn
nhân.
9.
Những khát vọng phổ quát hơn của nhân loại. Trong khi đó, người
ta thêm xác tín rằng nhân loại không những có thể và phải mỗi ngày mỗi củng cố
thêm sự thống trị của mình trên tạo vật mà còn phải thiết lập một trật tự chính
trị, xã hội và kinh tế để phục vụ con người ngày đắc lực hơn, giúp mỗi cá nhân,
mỗi tập thể khẳng định và trau dồi phẩm giá riêng của mình.
Bởi đó, rất nhiều người đòi hỏi gắt
gao những của cải mà họ ý thức mãnh liệt rằng họ bị cướp mất vì bất công hay vì
phân chia không đồng đều. Các quốc gia đang trên đường phát triển cũng như các
quốc gia mới giành được chủ quyền mong muốn dự phần vào những lợi ích của nền
văn minh hiện nay không những trong phạm vi chính trị mà cả trong phạm vi kinh
tế nữa, và mong muốn tự do chu toàn vai trò của mình trong thế giới. Tuy nhiên,
trong khi ấy, càng ngày càng gia tăng sự cách biệt giữa các quốc gia này, cũng
như thường thấy gia tăng sự lệ thuộc cả về phạm vi kinh tế đối với những quốc
gia khác giàu mạnh và tiến bộ nhanh hơn. Các dân tộc bị đói khổ hoành hành đang
kêu gọi các dân tộc phồn thịnh hơn. Ở đâu nữ giới chưa được bình quyền với nam
giới đều đứng lên đòi hỏi cho mình được bình đẳng trước pháp lý và trên thực tế.
Các công nhân và nông gia cũng muốn rằng họ làm việc không những để mưu sống
nhưng còn để phát huy những tài năng của con người họ, hơn nữa họ còn muốn tham
gia vào việc tổ chức đời sống kinh tế, xã hội, chính trị và văn hóa. Ðây là lần
đầu tiên trong lịch sử nhân loại, toàn thể các dân tộc đã xác tín mình có thể và
phải thực sự phổ biến những thành quả của văn hóa tới hết mọi dân tộc.
Dưới tất cả những đòi hỏi đó tàng
ẩn một ước vọng sâu xa và đại đồng hơn: mọi cá nhân và tập thể đều khao khát một
cuộc sống đầy đủ và tự do xứng với con người; để phục vụ cho chính mình, họ muốn
chế ngự tất cả những gì thế giới ngày nay có thể cung ứng hết sức dồi dào cho
họ. Hơn nữa, các quốc gia vẫn ngày một cố gắng hơn để đạt tới một thứ cộng đoàn
đại đồng.
Như vậy, thế giới ngày nay tỏ ra
vừa mạnh vừa yếu, có khả năng thực hiện những điều tốt đẹp nhất hoặc xấu xa
nhất, đang khi ấy trước mặt nó là con đường dẫn tới tự do hoặc nô lệ, tiến bộ
hoặc thoái hóa, huynh đệ hoặc đố kỵ. Lại nữa, con người đã ý thức được chính họ
phải điều khiển cho đúng những năng lực do chính mình tạo nên và đó là những
năng lực có thể đè bẹp họ hoặc phục vụ cho họ. Do đó họ phân vân.
10.
Những vấn nạn sâu xa hơn của nhân loại. Thực vậy, những chênh
lệch dày vò thế giới ngày nay được nối liền với một chênh lệch căn bản hơn phát
xuất từ đáy lòng con người. Bởi vì, ngay chính trong con người có nhiều yếu tố
xung khắc nhau. Vì một đàng, là tạo vật, con người nhận thấy mình bị giới hạn
trong nhiều phương tiện, nhưng đàng khác, lại cảm thấy mình có những khát vọng
vô biên và còn cảm thấy được mời gọi tới một cuộc sống cao cả hơn. Bị lôi kéo
giữa nhiều quyến rũ, con người luôn bị bó buộc phải lựa chọn một số hoặc loại bỏ
một số khác. Hơn nữa, vì yếu đuối và tội lỗi, nhiều khi con người làm điều mình
không muốn và không làm được điều mình muốn làm 4.
Bởi vậy, có sự phân rẽ trong chính con người, từ đó, sinh ra bao nhiêu là bất
hòa lớn lao trong xã hội. Thực vậy rất nhiều người vì đời sống thấm nhiễm chủ
nghĩa duy vật thực hành nên đã không nhìn nhận rõ ràng thảm trạng ấy, hay ít ra
vì lối sống cơ cực đè nặng không cho phép họ nghĩ tới nữa. Ðàng khác, dựa vào mớ
lý thuyết mà họ đã tìm ra để giải thích vũ trụ, nhiều người tưởng như thế là đủ
an tâm. Còn có những người chỉ trông vào nỗ lực của con người mới đem lại cho
nhân loại sự giải phóng đích thực và trọn vẹn, và họ xác tín rằng sự thống trị
mai hậu của con người trên trái đất sẽ làm mãn nguyện mọi ước vọng của con tim
nhân loại. Cũng không thiếu những người thất vọng về ý nghĩa cuộc sống tán dương
những kẻ táo bạo nghĩ rằng sự hiện hữu của con người tự nó không mang một ý
nghĩa nào nên họ cố gắng dùng nguyên tài năng của mình để tạo nên tất cả ý nghĩa
cho sự hiện hữu ấy. Tuy nhiên, trước sự tiến hóa hiện nay của thế giới, càng
ngày càng có nhiều người hoặc đặt vấn đề hoặc nhận thức một cách sâu sắc mới mẻ
về những vấn đề hết sức căn bản như: con người là gì? Ðâu là ý nghĩa của đau
khổ, sự dữ, cái chết? Sao chúng còn tiếp tục tồn tại mặc dù đã có bao nhiêu tiến
bộ? Bao chiến thắng đạt được với một giá đắt ấy có ích gì? Con người có thể đem
lại gì cho xã hội và có thể trông đợi gì ở xã hội? Cái gì sẽ tiếp theo sau cuộc
sống trần gian này?
Giáo Hội tin rằng Chúa Kitô đã chết
và đã sống lại cho mọi người 5. Vì thế qua
Thánh Thần của Người, Người ban cho con người ánh sáng và sức mạnh để con người
có thể đáp lại thiên chức cao cả của mình. Giáo Hội cũng tin rằng dưới bầu trời
này chẳng còn danh hiệu nào khác được ban cho loài người để loài người phải nhờ
đó mà được cứu rỗi 6. Cũng thế, Giáo Hội tin
rằng đầu mối, trung tâm và cùng đích của toàn thể lịch sử nhân loại đều ở trong
Ðức Kitô là Chúa và là Thầy của Giáo Hội. Hơn nữa, Giáo Hội còn xác nhận rằng
qua mọi thay đổi, có nhiều điều vẫn không đổi thay vì nền tảng cuối cùng của
những điều không thay đổi này là Chúa Kitô, Ðấng hôm qua, hôm nay và mãi mãi
7. Vậy dưới ánh sáng Chúa Kitô, Hình Ảnh của
Thiên Chúa vô hình, Trưởng Tử giữa mọi thụ sinh 8,
Công Ðồng muốn nói với mọi người để làm sáng tỏ mầu nhiệm về con người và để
cùng nhau tìm giải đáp cho những vấn đề chính yếu của thời đại chúng ta.
Chú Thích:
4*
Công Ðồng mời gọi ta cùng tìm hiểu thế giới hiện đại (số 4a) để ta có thể đối
thoại với nó và đem ánh sáng Chúa Kitô chiếu dọi các vấn đề của nó (số 10b). Vì
thế Công Ðồng:
1) Kể lại những sự kiện tương phản
với nhau: trạng thái thừa thãi và đói khát; tiến bộ và mù chữ; khát vọng tự do
và nhiều thứ nô lệ; khát vọng hiệp nhất và vô số chia rẽ cũng như tư tưởng hỗn
độn; tiến bộ kỹ thuật, văn hóa và tinh thần không tương hợp với nhau (số 4).
2) Những thay đổi thuộc về:
a) Cơ cấu về trí óc: vì ảnh hưởng
do khoa học và kỹ thuật gây nên; vì được biết lịch sử rộng hơn, cũng như vì phép
dự liệu và thuật kế hoạch; vì nhận thấy con người bắt đầu có quyền trên đời mình
cũng như trên lịch sử. Quan niệm tĩnh ngày xưa chuyển thành quan niệm động (số
5).
b) Cơ cấu xã hội: nếp sống cổ điển
biến mất; có những hiện tượng mới như kỹ nghệ hóa, thành thị hóa, các phương
tiện truyền thông xã hội, những cuộc di cư, sự xã hội hóa (số 6).
3) Bởi đó đặt vấn đề theo cách mới:
a) Về tôn giáo: Giới thanh niên
phản đối, lạc hướng; tinh thần phê bình; lối sống bỏ đạo thực hành; tuyên xưng
vô thần (số 7).
b) Về cá nhân: vì những phán đoán
thiếu quân bình, vì những xung đột giữa lương tâm và trí óc trong việc đi tìm
kết quả thực tiễn giữa nhu cầu chuyên môn và một quan niệm tổng quát về vũ trụ.
c) Về gia đình: vì vấn đề dân số,
khó khăn kinh tế xã hội, những khác biệt giữa các thế hệ, những liên quan mới
giữa nam giới và nữ giới.
d) Về quốc gia: vì những sự khác
nhau giữa các chủng tộc, các giai cấp; giàu có và nghèo khổ; vì những lý thuyết
ảnh hưởng các phong trào hòa bình (số 8).
4) Nguyện vọng mới: vì con người ý
thức về quyền thế mình, nhận thấy rằng có thể đòi hỏi tham gia vào những thành
quả của văn minh và cảm thấy có quyền sống đầy đủ và xứng hợp với bản tính con
người.
5*
Ðức Gioan XXIII, đã dựa theo Mt 16,4 và Lc 21,7 để dùng câu này trong thông
điệp Pacem in Terris, và sau đó câu này trở thành một biểu ngữ cho việc canh tân
Giáo Hội. Trong số 11a Công Ðồng lại diễn tả thái độ dò xét thời điểm này.
6*
Ta phải chú ý rất kỹ đến câu quả quyết quan trọng này (xem lại trong số 54a).
Ðặc biệt tất cả những ai có trách nhiệm giáo dục lớp trẻ phải suy xét lại rằng:
cố gắng tiếp tục sống theo nếp cũ trong "giai đoạn mới của lịch sử" tất nhiên là
lỗi thời.
7*
Công Ðồng muốn nói rằng, thời xưa (và gần đây) người ta coi những thực tại nhân
loại là vững bền và ít thay đổi. Ví dụ các luật trong lãnh vực pháp lý, những tổ
chức gia đình, làng xóm, đô thị trong lãnh vực xã hội; những nhu cầu của dân
chúng trong lãnh vực kinh tế, v.v... Qua bốn thế kỷ vừa qua chưa có những thay
đổi trong phụng vụ Thánh Lễ!... Nhưng ngày nay thì khác hẳn. Người ta không còn
thích coi lãnh vực nào là bất di dịch nữa. Ngày nay con người dễ tỏ lòng nghi
ngờ khi người ta nại vào những nguyên tắc bất biến hay là dựa trên quan niệm cổ
điển để giải thích các vấn đề. Hiện nay người ta không còn tin như xưa rằng lịch
sử là "thầy dạy cho cuộc sống", hay ít ra cũng không phải theo cùng một quan
niệm như xưa.
8*
Thông điệp Mater et Magister của Ðức Gioan XXIII diễn tả hiện tượng "đời sống xã
hội" này và Công Ðồng (số 25b) trích lại lời đó. Dĩ nhiên đó là hiện tượng mới
trong xã hội kỹ nghệ Âu Mỹ. Trong xã hội nông thôn Á Ðông, nó đã có từ nghìn xưa
(dù dưới hình thức khác), đến nỗi nhiều khi gây ra nguy hại cho quyền tự do cá
nhân (xem Phaolô VI, Populorum progressio, số 36). Hiện tượng này không phải
đồng hóa với xã hội chủ nghĩa đã bị Giáo Hội lên án nhiều lần (đặc biệt trong
Tđ. Quadragesimo Anno của Ðức Piô XI, năm 1931). Sau đó chính xã hội chủ nghĩa
đã biến đổi không ít. Sự kiện xã hội hóa có thể sa vào những chỗ nguy hại như
Công Ðồng nhắc lại trong đoạn này, nhưng cũng có thể đem lại kết quả tốt đẹp:
ngoài sự phát triển vật chất, có thể giúp để thỏa mãn nhiều quyền lợi căn bản
của con người như về giáo dục, đào tạo nghề nghiệp, sự cứu trợ xã hội, cứu trợ y
khoa, về hoàn cảnh làm việc, nhà ở, v.v... (Xem MV 25a và 42c).
9*
Vì thiếu óc khoa học, giới bình dân tin tưởng vào những sức lực vô hình do những
quỉ thần nào đó gây nên để giải thích hiện tượng thiên nhiên. Nhờ những nghi lễ
lạ lùng vàhuyền bí cố định từ ngàn xưa truyền lại, họ tìm cách gây ảnh hưởng
trên những ma lực đó (x.33a).
Tin tưởng vào số tử vi cũng phải
được coi như một hành thức biểu thị quan niệm phù phép.
Ðây là quan niệm rất tai hại cho
đức tin, vì quyền tự do, lòng yêu mến Thiên Chúa là Ðấng hiểu biết và âu yếm
điều khiển đời ta, chẳng chiếm chỗ nào trong quan niệm đó.
10*
Những quốc gia tân tiến hơn (Hoa Kỳ, Nga Sô, Thụy Ðiển...) lại chẳng phải là
những nước bỏ đạo nhiều hơn sao! Giới trí thức, không kể giới bác học cũng không
phải như thế sao! Nhiều khi người ta nghe nói như vậy. Thực sự nhiều khi người
trí thức học sâu về khoa học trong khi lại quên phát triển những điều học hỏi về
tôn giáo lúc còn bé. Trường hợp như thế dễ mất đức tin, nhưng không được nói
rằng đó là đòi hỏi của khoa học!
11*
Trong số 9c và 10a, Công Ðồng tóm tắt ý nghĩa đại khái của những hình thức nhân
bản chủ nghĩa khác nhau: nhân bản dân chủ mong ước giải thoát con người khỏi mọi
trạng thái hỗn độn nhờ giáo dục, kỹ thuật, quyền tự do... không cần đến Thiên
Chúa, tôn giáo, và chủ trương tự sức mình, con người sẽ đạt tới hạnh phúc...
Nhân bản khoa học, một cách tương tự, chủ trương con người tìm được tất cả các
câu trả lời nơi khoa học và không cần biết đến thực tại về tội lỗi và nguồn gốc
tội lỗi nơi con người, thực tại về công cuộc cứu chuộc của Ðấng Cứu Thế, v.v...
Nhân bản Mác xít đánh giá việc làm như giá trị duy nhất của con người. Nhờ đảng
điều khiển, con người sẽ xây dựng thế giới và xã hội mới, loại trừ mọi bất công.
Tôn giáo là một dụng cụ của các chế độ tư bản dĩ nhiên sẽ biến mất. Nhân bản
Quốc gia: đã chiếm được độc lập thì phải tự trị để phát triển đầy đủ không chấp
nhận bất cứ hình thức đế quốc nào nữa, mà tôn giáo chẳng phải là một thứ đế quốc
văn hóa sao? Nhân bản hiện sinh chủ trương rằng đời sống là phi lý. Từ con số
không, con người đang đi tới con số không nữa. Chỉ cần lòng can đảm để tự tạo ý
nghĩa cho đời mình, và tạo nên một thế giới tiện nghi hơn cho con cháu (xem số
10a).
4
Xem Rm 7,14tt.
5
Xem 2Cor 5,15.
6
Xem CvTđ 4,12.
7
Xem Dth 13,8.
8
Xem Col 1,15.
|
VỀ MỤC LỤC |
|
CỨ ĐỂ MẶC CÔ ẤY LÀM…
|
Hiền Lâm
…Chà phung
phí quá ! Sao lại đi tu chứ ? Cỡ như thầy, như soeur mà lo giúp
đời thì hay biết mấy? Trong khi có bao nhiêu điều cần làm trong
lãnh vực bác ái và cả trong việc loan báo Tin Mừng, người ta có
thể làm mà không cần có những cam kết đặc biệt của đời tu…
Phải chăng là một sự phung phí năng lực mà
con người có thể thi thố và giúp ích cho Giáo Hội vừa có lợi cho
xã hội?
Thực ra vấn
nạn trên đã xưa như trái đất, thời nào cũng có người thắc mắc,
có phần tâng bốc ông thầy, lấy lòng masoeur, hoặc hiểu đời tu
cách sai lạc, hiểu và nhìn đời tu dưới lăng kính cầu lợi vật
chất. Nếu đem so sánh với Tin Mừng thánh Gioan, thì thắc mắc
trên có khác gì lời cằn nhằn đầy giả dối của Giuđa khi tỏ ra
tiếc xót bình dầu quý của cô Maria: “Phung phí quá ! nếu dùng
tiền tương đương bình dầu đó mà giúp người nghèo thì hay biết
mấy…” Và Chúa Giêsu đã trả lời :
“Cứ để mặc cô ấy làm”.
Người đời
quan niệm là như thế là do phần lớn chỉ thấy những cái lợi thực
tế bề ngoài, chứ không nhận ra được giá trị và hiệu năng của bậc
tu trì. Nhưng làm sao chứng minh được gía trị và hiệu năng ấy
cho mọi người ? Xin được trả lời qua bốn vai trò của tu sĩ là :
Hiển thị, yêu mến, trung gian và bóng mát.
1. Hiển thị:
Trong Tông
Huấn Đời Sống Thánh Hiến (25-03-1996), Đức Thánh Cha đã dùng
đoạn Thánh Kinh tường thuật việc Chúa đem ba môn đệ thân tín lên
núi Ta-bo và hiển dung trước mặt họ, để tỏ cho họ biết sự thật
cuối cùng về Đức Ki-tô. Nhưng liền sau đó ngài lại dẫn họ xuống
với mọi người đang chờ đợi các mình. Theo thiển ý của người
viết, phải chăng Đức Thánh Cha ngụ ý muốn các tu sĩ phải học đòi
Đức Ki-tô để cùng hiển dung với Người. Các môn đệ không được để
ý tưởng dựng ba cái chòi che khuất, cũng không nằm bất tỉnh dưới
đất. Vì Chúa đưa họ lên cao là để chiêm ngưỡng sự hiển dung của
Người.
Đời tu, trước
hết là một cuộc hiển dung, vì tu sĩ đã mặc lấy Đức Ki-tô và phản
chiếu ánh linh quang của Ngài cho nhân loại
Điều mà đời
tu có thể mang đến được cho con người mọi thời mọi nơi, dù dưới
hình thức nào, chính là giúp cho họ thấy và cảm nghiệm được sự
thật cuối cùng của họ: họ là con cái Thiên Chúa, đã được Đức
Giê-su giải thoát và nay được mời gọi tiếp tục vượt qua cảnh nô
lệ tối tăm để bước vào miền tự do và ánh sáng, một hành trình
khởøi đi từ dân Do-thái và đang được hoàn thành trong lịch sử
hôm nay (x. Các Bài Suy Niệm p. 125).
Sự đóng góp
của đời tu trước hết là đóng góp cho chính Giáo Hội. Bằng chính
cuộc sống triệt để của mình, tu sĩ nhắc nhở và làm hiển thị cho
Giáo Hội và các Kitô hữu thấy ơn gọi và thân phận thật của Giáo
Hội cũng như của mọi Kitô hữu chính là trở thành con cái Thiên
Chúa. Đã nhiều lúc Giáo Hội bị hoàn cảnh bên ngoài lôi kéo tới
mức quên mất hay không còn coi trọng ơn gọi căn bản ấy. Chính
trong khi làm công việc nhắc nhở và hiển thị này, đời tu được
nhìn nhận là đã diễn tả rõ ràng bản tính sâu xa của ơn gọi Kitô
Giáo “là không chỉ đóng vai trò trợ giúp và nâng đỡ Giáo Hội
như trong quá khứ trước đây, mà còn là ân huệ quý báu và cần
thiết cho hiện tại và tương lai của Dân Chúa, vì đời tu nằm
trong nếp sống, sự thánh thiện và sứ mạng của Dân Chúa một cách
rất thâm sâu” (VC 3). Thử hình dung xem Giáo Hội và các Kitô
hữu đã có thể đi lệch xa mục tiêu và bản chất thật của mình tới
mức nào, khi trong lịch sử không xuất hiện kịp thời những con
người tu trì và những đường lối tu hành thích hợp (x. Các Bài
Suy Niệm p. 126).
2. Yêu mến:
Thánh Phao-lô
từng quả quyết về sự cao trọng và trường tồn của đức mến. Tất cả
sẽ qua đi tất cả, chỉ có đức mến lưu danh muôn thuở và là tiếng
thơm cho đời. Hơn ai hết, đức mến của các tu sĩ phải vượt trên
mọi mức độ có thể định nghĩa, nghĩa là yêu như Chúa yêu, yêu đến
hy sinh cả tính mạng. Cho đi một cách nhưng không, không tính
toán và hoàn toàn vô vị lợi – “không để lòng quảng đại gặp
được lòng biết ơn”. Thiên Chúa có thể dè dặt trước mọi hành
động của con người, riêng về lòng mến thì luôn được Người đề cao
khích lệ, cho dù những việc làm về lòng mến đôi khi có phần khác
thường dưới con mắt người đời. Chúa đã từng trách Giu-đa vì ông
cằn nhằn trước hành động chan chứa yêu mến của Maria (lấy dầu
xức chân Chúa) và Chúa đã bảo: “Cứ để cô ấy làm…” – cứ để
cô tha hồ làm mưa làm gió để thỏa mãn con tim dâng tràn sự yêu
mến…và đã làm cho cả nhà nực mùi thơm (x. Ga 12,3).
“Những ai đã
bị vẻ đẹp và lòng nhân hậu của Chúa thu hút sẽ thấy việc làm mà
người đời cho là phung phí kia lại chính là một cách đáp trả
hiển nhiên cho một mối tình, là một cách bày tỏ lòng tri ân vì
đã được Chúa chọn cách đặc biệt để hiểu biết Con Chúa và chia sẻ
sứ mạng của Ngài trong thế giới” (VC 104).
3. Trung gian:
Con người
trong bất cứ thời đại nào, lúc bình an hay đau khổ, đều không
thể thiếu đời sống tâm linh, cho dù những cảm xúc về tâm linh
đối với một số người không thường xuyên, nhưng ít nhiều hay hơn
một lần họ đã từng tìm đến cầu may, bái phúc nơi cửa chùa, đất
thánh… Và mỗi lần muốn cầu xin hay tạ ơn điều gì với thần thánh
thì họ thường nhờ đến các tu sĩ (theo tín ngưỡng của họ), để họ
cầu nguyện cho. Và đương nhiên họ sẵn sàng đền công qua những lễ
vật dâng cúng. Tắt một lời, mọi người luôn quan niệm rằng, những
tu sĩ là những người ưu tuyển mới xứng đáng đàm đạo với Thiên
Chúa để cầu xin cho họ. Đó là một quan niệm đúng đắn và thực tế
đang chứng minh như vậy. Vì thế, những tu sĩ họ đã được mang
danh là trung gian chuyển cầu và trung gian tạ ơn: trung gian
Thiên Chúa ban ơn lành cho nhân loại và trung gian dâng những
lời khẩn nguyện, tạ ơn của nhân loại lên Thiên Chúa, thì các tu
sĩ phải thế nào để không bị mang tiếng là ‘hữu danh vô thực’,
không để phụ lòng kỳ vọng của mọi người.
Sách Xuất
Hành 17, 8-13 tường thuật việc dân Do-thái đánh nhau với quân
Amalekh: Cứ mỗi lần ông Môi-sê giơ tay lên cầu nguyện thì quân
của ông Giosuê chiến thắng, nhưng khi ông Môi-sê mỏi bỏ tay
xuống thì dân Do-thái bị đánh tan tác. Khi đem so sánh hình ảnh
này với các tu sĩ chuyên lo về cầu nguyện thì thấy vai trò trung
gian vaø giá trị của họ cao quý dường nào. Thật vậy, nếu một
ngày nào đó tu sĩ cảm thấy mệt mỏi không giơ tay lên để cầu
nguyện nữa thì nhân loại sẽ khốn đốn vì sự dữ.
Có người cho
rằng, chẳng có thần minh nào cả, hoặc nếu có thì cũng chẳng có
sự thưởng phạt gì. Vì kẻ ác cứ nhởn nhơ, xã hội cứ tục hóa mà
Thiên Chúa chẳng can thiệp gì, nếu có tại sao Ngài không cảnh
cáo, không can thiệp ? Họ đã lầm, vì nếu Thiên Chúa cứ theo lẽ
công thẳng mà xử trị như Đại Hồng Thủy thì liệu còn có được bao
nhiêu người còn sống ? Bởi vì như tác giả Thánh Vịnh 142,2 đã
viết:
“Xin chớ
đòi tôi tớ ra xét xử
Vì trước
Thánh Nhan Chúa
Chẳng có
người nào là công chính”
… Thành phố
lớn cỡ Sôđôm và Gômôra mà chẳng kiếm cho đủ 5 người công chính,
điều đó cho thấy số người xứng đáng trước trước mặt Thiên Chúa
rất ít, và cũng cho thấy tình thương của Chúa rất bao la. Rất
may trong mọi thơi đại (từ sau Chúa Giáng Sinh) không bao giờ
vắng bóng các tu sĩ, các linh mục… và những con người đạo đức.
Chính họ là những trung gian cầu xin sự tha thứ và xin Chúa ban
muôn ơn lành cho nhân loại. chính các tu sĩ (cách riên là các
Đan Sĩ) họ đang ngày đêm nói khó, ngày đêm mặc cả với Chúa như
Abraham trong câu chuyện thành thành Sôđôm bị phá hủy (x. St 19,
23-32). Và có lẽ trong thế giới, dù có tội lỗi đến đâu vẫn còn
có những người ngày đêm hy sinh cầu nguyện để Chúa ban bình an
cho nhân loại, dù không hoàn hảo, nhưng chắc chắn họ vẫn được
Chúa ưu ái kể họ là “người công chính”. Nếu có mười người công
chính thôi thì Chúa sẽ tha cho cả thành Sôđôm, đang khi mọi nước
trên thế giới hầu như đều có sự hiện diện của các tu sĩ, những
người được kể là ưu tuyển của Thiên Chúa và theo một cách nào đó
có thể coi là “công chính”, thì làm sao Chúa nỡ đánh phạt thế
giới khi hằng ngày vẫn có lớp lớp người giơ tay lên cầu xin sự
tha thứ cho nhân loại. Người viết dám mạnh miệng nói rằng, nước
Việt Nam vẫn mãi đứng vững vì khắp Trung, Nam, Bắc đều có những
Hội Dòng.
Như vậy, sứ
vụ đặc biệt của tu sĩ mà hầu hết mọi tín hữu đều tin tưởng và kỳ
vọng, đó là thay thế mọi nguời cách xứng đáng để dâng lên Thiên
Chúa những nhu cầu của dân. Vì thế chúng ta chẳng lạ gì việc
người ta cứ đem tiền dâng cúng để nuôi các tu sĩ và đem lễ vật
để xin các tu sĩ cầu nguyện cho.
4. Bóng mát.
Người viết
xin được đưa ra một lập luận nho nhỏ từ đoạn Tin Mừng kể về dụ
ngôn hạt cải: “Nước trời giống như hạt cải gieo xuống đất nhưng
khi mọc lên thì thành cây rau lớn và chim trời có thể rủ nhau
đến trú ẩn”. (x. Lc 13,18-19). Theo suy nghĩ của người viết, tuy
cuộc sống âm thầm nhưng các tu sĩ lại là chỗ dựa tinh thần cho
những ai muốn tìm lại sự an tĩnh trong tâm hồn.
Trong những
năm gần đây nhiều người bắt đầu cảm thấy mệt mọi với cơn lốc thị
trường, với cảnh xô bồ hối hả, với không gian ồn ào náo nhiệt.
Nhiều người cảm thấy sự trống vắng và chán nản, họ bắt đầu tìm
đến các chùa chiền và dòng tu để tìm sự an tĩnh, đặc biệt là sự
bình an cho tâm hồn. Chính vì vậy mà hơn lúc nào hết cây đại thụ
của Giáo Hội cần tỏa bóng râm để làm giảm bớt sự căng thẳng nóng
nực của thế giới, là nơi có thể làm thỏa mãn những nhu cầu tâm
linh của con người. Không có gì ngạc nhiên khi các nhà khách của
các Đan Viện quá tải vì khách đến tĩnh tâm quá đông, bởi vì khi
ra về hầu hết khách đều chân nhận rằng:
Không gian
Đan Viện làm cho tâm hồn họ lắng đọng, và đặc biệt mỗi lần tham
dự giờ kinh chung với các thầy, các soeur, lời kinh tiếng hát đã
làm cho họ cảm thấy lòng thơ thới hân hoan, cảm nhận được một
sự bình an khó tả.
Kết luận.
Có nhiều cách
phục vụ con người: chính trị gia thì vạch ra chính sách và đường
lối cai trị, nhà kinh doanh thì mua bán trao đổi, nhà sản xuất
thì làm ra hàng hóa phục vụ các nhu cầu đời sống, y bác sĩ thì
chăm lo sức khỏe, bậc phụ huynh thì nuôi nấng bảo ban, các giáo
viên thì khai tâm mở trí… còn các tu sĩ thì có thể làm tất cả
các việc ấy, nhưng trên hết vẫn là làm sao để hiển thị cho mọi
người biết chức vị làm con Thiên Chúa, cháy lửa mến yêu Chúa
trong tha nhân, luôn giơ tay lên trời để lãnh muôn ơn lành cho
thế giới và trở thành nơi đáng tin cậy cho mọi tâm hồn đến nương
nhờ. Đây không phải là một điều gì mới lạ hay là sáng kiến cá
nhân, mà chính là đường mà chính Đức Giêsu- Thầy Chí Thánh đã
đi. Các tu sĩ còn nhớ: khi giới thiệu Đức Giêsu là Con yêu dấu,
Chúa Cha lập tức ra lệnh cho các Tông Đồ phải “vâng theo Ngài”,
là phải bắt chước Ngài, phải đi cùng con đường của Ngài đã đi,
nghĩa là thực thi trọn vẹn sứ vụ của mình.
Tu sĩ không
thực hiện những sứ vụ này trong một thời gian giới hạn, hay là
dễ thì làm khó thì lui, nhưng cương quyết thực hiện từng
giây phút trong cuộc đời, biến nó thành một nếp sống vĩnh viễn
và đóng dấu xác nhận trong trái tim đầy nhiệt huyết của mình. có
như thế mới thay đổi được lối nhận thức thiển cận của nhiều
người từng ca thán: đi tu là uổng phí tài năng, mà trái lại, họ
cảm thấy an tâm và vui sướng vì có những tu sĩ tuyệt vời –
không làm gì cả nhưng lại làm tất cả…
|
VỀ MỤC LỤC |
|
TẤT CẢ THUỘC VỀ THIÊN CHÚA
|
“Tất cả đều
thuộc về anh em, mà anh em thuộc về Đức Kitô, và Đức Kitô lại
thuộc về Thiên Chúa” (1Cr3, 22-23).
Lời Chúa
khẳng định với chúng ta : Tất cả thuộc về Thiên Chúa.
Làm sao nhớ
và hiểu được điều này hỡi thân phận ươn hèn ngu xuẩn, bao nhiêu
lần cứ ngỡ tưởng mình là tất cả, mà nếu có tất cả thì vẫn là của
Chúa Kitô, mà Chúa Kitô là của Thiên Chúa.
Kiêu ngạo là
ảo tưởng về mình.
Sự thật về
mình chỉ là sự trần truồng đáng xấu hổ.
Dẫu có gom cả
thế gian này vẫn chỉ là một thứ trần truồng mà thôi.
Làm sao hiểu
được, cảm được và nhận ra được?
“Đừng ai dựa
vào phàm nhân mà tự hào” (câu 21).
Lạy Chúa, bài
học ở địa đàng năm xưa sao con chưa học thuộc?
Xin dạy con
nằm lòng và dẫn bước con đi.
Lm. Vinh Sơn
Phạm Trung Thành, dcct. |
VỀ MỤC LỤC
|
|
THÁNH THIỆN |
Làm sao để biết một người thánh thiện hay
không?
Đây là một câu hỏi phổ biến nhưng xem ra
lại khó trả lời. Có người cho rằng thánh thiện là đọc kinh
nhiều. Người khác lại cho thánh thiện là ăn ở ngăn nắp. Kẻ khác
nữa thì bảo thánh thiện là làm việc từ thiện. Còn bạn nói thánh
thiện là gì nhỉ?
Trong Cựu
Ước, khá nhiều nơi ta nghe
lời mời gọi này: “Hãy trở nên thánh thiện, vì Ta, Thiên Chúa
của ngươi, là Đấng Thánh.” Trong Tân
Ước,
Thầy Giêsu thì dạy chúng mình: “Anh chị
em hãy trở nên hoàn (thánh) thiện như Cha anh em trên trời là
Đấng Thánh.”
Những lời này
chỉ rõ cho ta một điều rằng: sự thánh thiện xuất phát từ Thiên
Chúa là “nguồn mạch mọi sự thánh thiện” (Kinh nguyện Thánh Thể
II) và ta phải lấy Thiên Chúa làm tiêu chuẩn cho mọi đánh giá về
thánh thiện. Câu hỏi tiếp theo đặt ra là: Thiên Chúa thánh thiện
như thế nào?
Có rất nhiều
lời Kinh Thánh nói về sự thánh thiện của Thiên Chúa. Xin được
mời bạn đọc ngay với mình Lời Chúa mà Hội Thánh đề nghị chúng ta
suy niệm hôm nay. Trước hết, Lời Chúa phán qua miệng ông Mô-sê:
“Các ngươi phải thánh thiện, vì Ta, Ðức Chúa, Thiên Chúa của
các ngươi, Ta là Ðấng Thánh…. Ngươi không được để lòng ghét
người anh em… Ngươi không được trả thù, không được oán hận…
ngươi phải yêu đồng loại như chính mình. Ta là Ðức Chúa.”
(Lv
19: 2, 17-18)
Rồi chính
miệng Thầy Giêsu dạy ta: “Anh em đã nghe luật dạy rằng: Hãy
yêu đồng bào và hãy ghét kẻ thù. Còn Thầy, Thầy bảo anh em:
hãy yêu kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi anh em.
Như vậy, anh em mới được trở nên con cái của Cha anh em, Đấng
ngự trên trời… Vì nếu anh em yêu thương kẻ yêu thương mình, thì
anh em nào có công chi?... Hãy nên hoàn thiện, như Cha
anh em trên trời là Đấng hoàn thiện.” (Mt 5:43-46, 48) Cùng
một dòng văn như thánh Mat-thêu, thánh Lu-ca nói một cách khác:
“Hãy nhân từ như Cha anh em là Đấng nhân từ.” (Lc
6:36)
Bạn thân mến,
tất cả 3 bản văn với 3 từ Kinh Thánh đồng nghĩa trên đều quy
hướng ta về một điểm chung: Thiên Chúa là Đấng thánh thiện qua
tình yêu vô điều kiện của Người và ta cũng phải làm như thế nếu
ta muốn làm con cái Người. Đến đây, mình có thể nói: thánh thiện
là nhìn bằng ánh mắt và yêu thương bằng trái tim của Thiên Chúa.
Nói như vậy
có lẽ vẫn còn hơi mơ hồ phải không bạn? Xin mời bạn đi sâu hơn
để cùng nhìn vào hình ảnh rõ nét và trung thực nhất về Thiên
Chúa để thấy thánh thiện trong yêu thương là thế nào. Hình ảnh
ấy là: Thầy Giêsu. Ai thấy Thầy là thấy chính Thiên Chúa
(Ga 14:9) Thầy Giêsu đã nhìn và yêu ra sao?
Câu trả lời
rất đơn giản: trong mắt Thầy Giêsu không ai là kẻ thù và
trong tim Thầy không tồn tại hận căm. Ai đến với Thầy đều
được đón nhận và hướng về yêu thương. Cung cách đối xử với tha
nhân của Thầy gói trọn vẹn trong một chữ “yêu”, “yêu cho đến
cùng”. Mặc dù xung quanh Thầy có nhiều người mang lòng ghen
ghét, ích kỷ, ác tâm, thù địch muốn tiêu diệt Thầy, Thầy vẫn
tình thương của Thầy vẫn không hề suy xuyển. Mọi người đều biết
rõ chuyện gì đã xảy ra vào buổi chiều kinh hoàng ấy: Từ thập tự
tủi nhục và đau đớn đến tột cùng, Giêsu vẫn cất lên lời cầu
nguyện cho những kẻ đang giết chết mình: “Cha ơi, xin tha cho
họ vì họ không biết việc họ làm.” (Lc 23:34)
Bạn mến, hẳn
là bây giờ tụi mình đã hiểu phần nào về sự thánh thiện mà Thiên
Chúa mời mình thông dự. Vì Thiên Chúa là Tình Yêu cho nên
“thánh” nghĩa là “yêu”, yêu người Chúa yêu ta.
Vẫn còn đó
một vấn đề khá thực tế: Liệu rằng việc trở nên thánh thiện như
Thầy Giêsu có vượt quá khả năng của con người không? Bạn thấy
thế nào?
Mời bạn cùng
nhìn vào con người thật Stêphanô: Khi chấp nhận bị người ta xử
tử bằng cách ném đá để làm chứng cho niềm tin vào Đức Giêsu,
trước lúc trút hơi thở cuối cùng, anh đã ngước mắt lên trời mà
nguyện rằng: “Lạy
Chúa, xin đừng chấp họ tội này."
(Cv 7:60) Mời bạn chiêm ngắm cô thiếu nữ Maria Goretti, sau khi
bị kẻ cuồng dâm 20 tuổi Alessandro đâm nhiều nhát dao vào người
vì chống trả, đã nói: “Vì tình yêu Chúa Giêsu, tôi tha thứ cho
anh ấy và muốn anh ấy sẽ ở trên Thiên Đàng với tôi.” Mời bạn
nhìn vào con người linh mục
Maksymilian
Kolbe đã tình nguyện chịu chết thay cho một người tù không hề
quen biết trong trại tập trung Đức Quốc Xã năm 1941. Cuối cùng,
mời bạn chứng kiến hình ảnh Gioan Phaolô II, đích thân xin nhà
cầm quyền Ý tha cho người đã ám sát mình là Mehmet Ali Agca và
vào tù thăm anh ta để nói với anh rằng: “Tôi tha thứ cho bạn.”
Bạn thấy đấy,
đây là những con người bằng xương bằng thịt như tụi mình, và họ
đã sống thánh thiện theo gương Thầy Giêsu. Hoá ra sự thánh thiện
này là yêu con người và yêu đến nỗi có thể hy sinh cho họ. Một
hành động mang hình thức yêu thương chưa chắc đã là tình yêu
thật sự phải không bạn?! Một tình yêu thật sự phải xuất phát từ
trái tim chỉ mong muốn điều tốt lành và hạnh phúc cho tha nhân.
Nếu câu hỏi mở đầu suy niệm này là “Làm sao
để biết một người thánh thiện hay không?” thì câu trả lời kết
thúc là “Người đó có yêu thương thật sự hay không?”
Joseph Viet,
O.Carm |
VỀ MỤC LỤC |
|
NGỤ NGÔN THỜI BẤN LOẠN (KỲ 21)
|
(Theo đề nghị của
cha An Thanh và anh Phêrô Công Tín trong Gia đình Truyền Thông
Chúa Cứu Thế, kể từ kỳ này, người viết xin thêm “Lời bàn” sau
mỗi ngụ ngôn cho đỡ… bấn loạn!)
Ngụ ngôn 66
Một người tiều phu
quanh năm đốn củi trong khu rừng đầy thú dữ. Một hôm có người
hòi ông: “Làm việc trong rừng vậy ông có sợ thú vồ không?” Ông
cười và đáp: “Sao lại sợ, mình có trí khôn và có cái rìu”.
Người ấy hỏi cọp:
“Mày có dám vồ ông tiều phu không?” Cọp đáp: “Sợ lắm chứ, vì ông
ấy có cái rìu”. Người ấy lại hỏi chim bồ câu: “Chú có sợ bác
tiều phu không?” Bồ câu thưa: “Dạ sợ chứ, vì bác ấy có trí
khôn”.
Lời bàn: Người
quân tử chú tâm đến trí của người khác, còn hạng tiểu nhân chỉ
nghĩ đến sức mạnh, chỉ ăn hiếp kẻ yếu thế mà thôi, còn ai có
dũng khí thì bọn tiểu nhân riu ríu. Họ chẳng biết trí là gì.
Ngụ ngôn 67
Phú ông ăn nhậu
suốt ngày không biết bằng tiền của ai, nên ngày càng “phát
tướng”. Sợ rằng sức khoẻ suy giảm, ông quyết kiêng bớt, chỉ ăn
ngày khoảng bốn bữa chính mà thôi (!). Thỉnh thoảng bước lên
cân, ông thấy kim cứ nhích lên nhích lên. Ông lo lắm, nhưng lại
nghĩ biết đâu cái cân sai, nên quăng đi và mua cái mới. Do đó mà
tiệm bán cân làm ăn khấm khá hẳn ra.
Đến cái cân thứ hai
mươi trong mùa Xuân ấy, ông vẫn thấy kim chỉ trọng lượng mình
tăng chứ không giảm, ông bèn nghiến răng đạp mạnh lên mặt cân.
Chiếc cân tan tành, sau khi cây kim quay như cối xay gió.
Cuối cùng ông bảo:
“Từ nay hễ cái cân nào vào nhà ta là ta đập cho nát ngay!”
Lời bàn: Cái cân
dùng để biết trọng lượng cũng như hàn thử biểu dùng để đo nhiệt
độ. Nhiều người không nhìn lại mình xem mình đã làm gì, cứ thấy
ai chỉ ra cái sai trái là họ đạp cho vỡ ngay như phú ông béo mập
đạp vỡ cân, như khi thấy trời nóng là đập hàn thử biểu. Như thế
biết khi nào mới điều chỉnh mọi thứ cho đâu vào đó!
Ngụ ngôn 68
Sinh nhật bác sư tử
được tổ chức dịp cuối Xuân. Quà cáp riu riu từ bìa rừng vào đến
con suối trước hang bác sư tử đang trú ngụ. Các loài thú đi sinh
nhật diện bộ lông chải chuốt, cúi rạp mình tặng quà là những bó
hoa tươi rực rỡ. Sư tử vui mừng với những bó hoa quí được gói to
và đẹp. Đến phiên chim hoạ mi, cô nàng tặng một món quà nhỏ xíu
gói trong lá cây rừng, cột sơ sài bằng sợi dây leo. Sư tử gầm
lên: “Ngươi không sợ oai ta sao?”. Nghe tiếng gầm, hoạ mi sợ hãi
bay vút lên và vẫn cất giọng hát trong trẻo.
Khi chim hoạ mi bay
đi, gói quà rơi xuống ngay trước mặt bác sư tử. Bác lấy chân đá
văng đi, bất ngờ bác rùng mình hối tiếc về sự hời hợt của mình.
Trong gói nhỏ ấy là mấy hạt giống của loài hoa mà sư tử đang mơ
ước. Đó là loài hoa chỉ nở mỗi năm một lần ở phương Nam, mang
lại sức khoẻ và trường thọ.
Lời bàn: Xã hội
vốn chú trọng hình thức bên ngoài, lắm khi bỏ quên những điều
cao quí. Khi người ta dùng quyền mà hành xử với cái đầu nhẹ như
bông, thì nhiều giá trị bị đảo lộn.
Gioan Lê Quang Vinh, VRNs
|
VỀ MỤC LỤC |
|
CUỘC BIỂU DƯƠNG TINH THẦN DÂN CHỦ
Ở AI CẬP
|
Bác sĩ Nguyễn Tiến
Cảnh, MD
Cuộc xuống đường chống độc tài
tham nhũng ở Tunisie đã thành công, TT Ben Ali phải bỏ chạy ra
nước ngoài đã ảnh hưởng trực tiếp đến cuộc nổi dậy của người dân
Ai Cập. Trong suốt hơn hai tuần lễ, dân chúng, đa số là giới
trẻ, có lúc đến cả hàng hơn mấy trăm ngàn người đã đồng loạt đổ
xô ra đường yêu cầu TT.Murabak phải từ chức, trao quyền lại cho
người dân để họ tự do quyết định thiết lập một chế độ Tự do Dân
chủ mới.
Thế giới nhìn vào hai cuộc nổi dậy
tự phát này của dân chúng như một trào lưu đòi hỏi dân chủ chung
của toàn thể nhân loại, nó có cơ ngày càng lan rộng lớn mạnh
khắp thế giới, nhất là ở các nước nghèo đói đang phát triển lại
bị áp bức. Chẳng có ai ở cái thế giới văn minh với kỹ thuật
truyền thông điện tử hiện đại ngày nay lại có thể chấp nhận bất
cứ một thể chế độc tài nào, bởi vì nó đã thực sự lỗi thời rồi.
Cộng sản quốc tế, đứng đầu là Liên Sô đã xụp đổ, kéo theo cả
khối Đông Âu. Chiến tranh lạnh đã chấm dứt. Tất cả mọi người
cùng nhau hướng về tương lai tạo dựng một trật tự mới thế giới
để mọi người đều được hưởng đầy đủ tự do dân chủ và nhân quyền.
Những nơi nào còn cố bám lấy độc tài toàn trị là cưỡng lại đà
tiến của văn minh nhân loại, đi ngược bánh xe tiến hoá của lịch
sử. Trung Cộng, Bắc Hàn, Việt Nam rồi cũng không tránh khỏi sự
đào thải tất nhiên của lịch sử, cho dù họ có muôn mưu ngàn kế để
đàn áp người dân.
Hiệu quả hiển nhiên là sau Tunisie
đến Ai Cập đã thành công, đuổi được Mubarak khỏi quyền lực thì
Yemen, Algeria, Lybia rồi Bahrain cũng đã nổi dậy đòi dân chủ.
Kết quả thế nào thì không ai biết. Hậu quả của các cuộc nổi dậy
của dân chúng sẽ đưa đất nước họ và thế giới về đâu thì hiện
cũng chưa ai đoán được. Nhưng có điều chắc chắn là sức mạnh dân
chủ đã đang phát triển và phải bùng lên để đòi lại tự do, dân
chủ, công bằng và công lý cho người dân. Cha F. Lombardi,
trưởng phòng báo chí của Vatican đã tuyên bố:
-“Những va chạm chính trị và xã
hội hiện nay ở Ai Cập và Tunisie đang là cơ hội cho phong trào
đòi dân chủ phát triển ngày càng lớn mạnh. Cả tháng trời nay thế
giới đang nhìn về Bắc Phi và Trung Đông. Trước tiên là Tunisie
rồi Ai Cập rồi các nước mà tiến trình chính trị đang trên đà
thay đổi vẫn còn mù mờ chưa rõ nét vì gặp trở ngại, nhưng trước
sau, có thể nói, chắc chắn nó cần phải có một cuộc “cách
mạng”.
Ở Tunisie các cuộc biểu tình bắt
đầu từ tháng 12 để phản đối chế độ Ben Ali tham nhũng và độc tài
áp bức suốt 23 năm trị vì. Kết quả tổng thống phải tháo chạy ra
nước ngoài để thủ tướng Mohamed Ghannouchi lên cầm quyền. Những
cuộc nổi dậy của người dân Ai Cập bắt đầu ngày 25 tháng 1, 2011
cương quyết buộc TT. Hoshi Murabak, 82 tuổi đã cầm quyền gần 30
năm, phải từ chức. Lúc đầu ông nhất định không xuống và hứa cải
tổ chính phủ, thiết lập quốc hội mới để sửa đồi hiến pháp, nhưng
dân chúng không bằng lòng. Ông lại chỉ định Omar Suleiman, giám
đốc tình báo làm phó tổng thống để ông trao quyền. Dân chúng
cũng vẫn không chịu và tiếp tục biểu tình phản đối buộc ông phải
xuống. Sau cùng, ý dân đã thắng và ngày 11-2-11 TT.Murabak đã
từ chức nhường quyền cho quân đội tạm lãnh đạo đất nước.
Trước đó cha Lombardi đã lên tiếng
hy vọng không có bạo động và ước mong tình trạng bất ổn này
không kéo dài đi quá đà bùng nổ lớn gây thiệt hại nhiều hơn cho
đất nước. Dĩ nhiên những khó khăn kinh tế, cảnh nghèo đói của đa
số dân chúng sẽ bị ảnh hưởng trực tiếp và nhiều nhất bởi những
xáo trộn này. Đức Hồng Y Antonios Naguib cho biết trong 18 ngày
biểu tình đã khiến tình trạng kinh tế Ai Cập dừng chân tại chỗ
và làm 300 người thiệt mạng.
TRÁCH NHIỆM CÔNG DÂN
Tuy nhiên, theo như những nhận xét
của các giám mục ở Bắc Phi thì điều quan trọng là tinh thần tự
do dân chủ, bác aí, công bằng, công lý và tôn trọng nhân phẩm
nơi giới trẻ phải được lưu truyền, chuyển hóa đưa vào tâm tư ước
vọng của người dân và những người có trách nhiệm. Các ngài nhấn
mạnh: Đa số người dân trong vùng là giới trẻ, nhưng chúng lại
không nhìn thấy viễn tượng tốt đẹp huy hoàng ở tương lai. Vì vây
Thượng hội đồng các Giám mục Trung Đông mấy tháng trước đây đã
đặc biệt nói về niềm “Hy Vọng” ở tương lai, kêu gọi cần phải bảo
vệ dân quyền của những người Kito hữu đang sống trong các nước
mà dân chúng đa số là người Hồi giáo. Sự chờ mong hy vọng này
cần phải được phát triển và lan truyền rông rãi trong toàn thể
dân chúng.
Nay, để cho nhân phẩm của họ đuợc
tôn trọng và khá hơn, thì toàn thể người dân-cha Lombardi nhấn
mạnh- họ phải thực hành, phải áp dụng vào cuộc sống hàng ngày
cái dân quyền ấy mà tất cả mọi người ở mọi nơi không phân biệt
giàu nghèo, kiến thức, chính kiến, tôn giáo….đều được hưởng đồng
đều như nhau. Người Kito hữu tuy là thiểu số rất nhỏ, nhưng họ
biết liên kết chặt chẽ với nhau trong mọi tình huống và hy vọng
cậy trông.
Cha Lombardi kết luận: “Nếu những
quốc gia mà đa số dân là người theo Hồi Giáo biết thành thực
chấp nhận những cuộc đối thoại mở rộng và tích cực, biết tôn
trọng quyền lợi và tự do của tất cả mọi người, biết hợp tác cùng
nhau thì hòa bình thế giới mới có thể bền vững lâu dài được. Đó
là uớc vọng đầu tiên của Giáo Hội cũng như của toàn thể mọi gia
đình trên khắp thế giới…
Đức Hồng Y Antonis Naguib, Thượng
phụ Giáo Hội công giáo Ai Cập Alexandria trong một cuộc tiếp xúc
với Zenit ngày 11-2-11 đã lên tiếng:
-“Nhân dân Ai Cập, đặc biệt người
tín hữu Kito giáo đang chờ mong, nhìn về một tương lai sáng lạng
hơn. Giáo Hội công giáo Ai Cập cũng như bất cứ một tổ chức hay
cơ quan đoàn thể nào khác, không chấp nhận bạo động, phá hoại và
tất cả những gì đưa tới xáo trộn làm tổn thương cuộc sống bình
thường hàng ngày của người dân. Giáo Hội cũng khuyến khích làm
sao để có được một bầu khí huynh đệ trong dân chúng, một cuộc
đối thoại chân thành và tích cực hầu nâng cao ý nghĩa thực sự
của hai chữ “đồng bào” giữa những công dân của quốc gia. Chúng
tôi cũng khuyến khích tinh thần tích cực hợp tác trong sinh hoạt
xã hội, nhất là bổn phận đầu phiếu và tất cả những bổn phận công
dân khác.
“ Ngoài ra, đứng trước tình trạng
hiện nay, chúng tôi khuyến khích moị người cùng nhau hợp tác với
Hội Đồng nhân dân để bảo vệ gia đình, tài sản cá nhân cũng như
các cơ quan tổ chức công và tư. Bổn phận của nhà nước là xây
dựng sợi dây liên đới hợp tác và tình nghĩa đồng bào giữa những
người dân với nhau. Hy vọng rằng chính phủ lâm thời sẽ đạt tới
những vấn đề đó để vãn hồi an ninh trật tự.
“ Dĩ nhiên, người công giáo cũng
đã tham dự ngay từ những giờ phút đầu của cuộc biểu tình cho đến
nay. Họ đã tham gia như một công dân đi tìm kiếm cái tốt cho đất
nước họ. Nhưng quan trọng là họ không nói, không làm để gây bạo
động và phá hoại. Họ cũng biết khi nào cần phải ngừng lại không
hành động hay khiêu khích nếu việc đó có lợi ích cho quốc gia
dân tộc.
“ Chúng tôi cũng nhắc lại vị thế
rõ ràng của Giáo Hội Công Giáo về các hành động chính trị. Giáo
Hội cấm giáo sĩ không được làm chính trị, nếu hành động đó
không liên quan gì đến việc bảo vệ Giáo Hội, thánh thất, tài sản
của Giáo Hội hoặc cổ động phát triển công ích. Nhưng Giáo
Hội cho phép giáo dân thi hành bổn phận công dân của mình. Do
dó, họ phải cộng tác vào hành động chính trị và xã hội, nói lên
ý kiến của mình và đi bầu phiếu chọn người đại diện cho họ, bởi
lẽ họ có quyền để hành động và nói lên những ý kiến cùng đòi hỏi
chính đáng của họ một cách hợp pháp và ôn hòa. Tất cả mọi người
đều tự do trước mặt Chúa để quyết định những điều thích hợp với
bổn phận và quyền lợi chính đáng của mình.
Trước câu hỏi của Zenit: Đức Hồng
Y nghĩ sao về lời Ayatollah Khamenei kêu gọi Ai Cập nên theo
từng bước một của cuộc cách mạng 1979 của Iran? Có gì nguy hiểm
không? Nếu điều đó xẩy ra thì thái độ của công giáo thế nào? Đức
Hồng Y trả lời:
-“Dĩ nhiên là nguy hiểm chứ. Lời
tuyên bố của người “anh em Hồi Giáo” vào đêm 4-2-11 đã được đưa
lên báo chí hôm Chúa Nhật đã xác nhận rằng “Phía họ hiện không
có một kế hoạch nào cả. Mục đích của họ là phục vụ nhân dân,
điều mà họ đang làm từ 80 năm nay. Họ hy sinh cho sự ổn định của
nhân dân và cố đạt cho đuợc những quyền lợi như là bổn phận cũng
như những cam kết hợp pháp về tự do tín ngưỡng cho tất cả mọi
tôn giáo. Họ không cầu mong người của họ là tổng thống hay nắm
giữ bất cứ một chức vụ quyền thế nào khác. Họ đặt nặng công cuộc
cải tổ tiệm tiến và hòa bình. “Chúng tôi hy vọng rằng điều đó
nói lên vị thế và định hướng thực của họ. Nếu như vậy thì đó là
chuyện bình thường, họ chỉ việc quan sát những luật lệ chung của
các đảng phái và cộng tác với mọi người qua những đại diện của
họ trong quốc hội và Hội Đồng Shura”.
Tình trạng kinh tế của Ai Cập mỗi
năm tăng trưởng 7% nhưng dân chúng lại chẳng được hưởng gì cả,
cho nên đó là lý do chính đáng cho Giáo Hội đứng về phía giới
trẻ xuống đường phản đối chính quyền Murabak.
“ Như tất cả mọi nơi trên thế
giới, nhất là ở Ai Cập, Giáo Hội phải đặc biệt phục vụ, chăm sóc
những người nghèo khó và khốn cùng nhất. Giới trẻ và những công
dân đã tham gia cuộc xuống đường không phải là những người nghèo
khổ và tuyệt vọng. Họ là những công dân ở mọi tầng lớp, từ giáo
sư đại học cho đến dân thường. Chúng tôi hy vọng rằng những đòi
hỏi căn bản của giới trẻ và của đa số trí thức, chính trị gia
được thỏa mãn đúng theo những đòi hỏi của dân quyền về công
bằng, công lý, bình đẳng và tự do dân chủ, theo như hiến pháp và
luật lệ đã qui định và phải được áp dụng trong thực tế, không
chỉ trên giấy tờ. Đó mới là nền tảng bảo đảm cho an ninh trật tự
và hòa bình cho hết mọi người, để công bằng xã hội và phân phối
tài nguyên công ích được thể hiện nơi những người cần thiết.
Để kết luận, Đức Hồng Y cho biết
còn đang chờ đợi xem những ngày tới thế nào; hy vọng nó sẽ tốt
đẹp hơn cho cả quốc gia và nhân dân Ai Cập. Tình trạng những
người Kitô hữu và Công Giáo thì cũng phụ thuộc vào tình trạng
chung của cả nước, vào trào lưu đi lên của hệ thống quản trị đất
nước và vị tổng thống tương lai.
Dù sao thì tương lai của Ai Cập,
đúng như Đức Tổng Michael Louis Fitgerald, sứ thần tòa thánh ở
Ai Cập từ năm 2006 nói với cơ quan truyền thông Zenit, là nhân
dân Ai Cập cần tìm cho được một giải pháp đúng và thích hợp cho
cuộc khủng khoảng này.
Nói gì thì nói, tương lai của mọi
quốc gia cũng như của Ai Cập đều nằm trong tay của chính người
dân của họ. Đức Tổng nhắc lại là Chúa nhật vừa qua, Đức Thánh
cha Biển Đức XVI đã đặc biệt cầu nguyện cho Ai Cập và nhân dân
Ai Cập để họ tìm ra, môt lần nữa, cho được một giải pháp “dung
hòa trong an bình”. Nếu không được như vậy –Ngài nói thêm- thì
Tòa Thánh không có gì đặc biệt để nói cả.
Tuy nhiên, ngài thêm, “giáo huấn
của học thuyết xã hội của Giáo Hội thì luôn luôn rõ ràng. Mỗi
cộng đồng đều cần phải có một cơ quan chính thức để điều hành,
nhưng cơ quan đó không thể tự cho mình là đủ tư cách luân lý mà
phải chứng tỏ mình là người có đạo đức. Họ phải hành xử vì công
ích, dùng những phương tiện hợp pháp hợp luân lý đạo đức để đạt
công ích chứ không phải dùng những thủ đoạn độc tài xảo trá.”
Đức Tổng trích sách Giáo lý Công
giáo để nói về công ích: “Công ích gồm 3 yếu tố chính: 1.tôn
trọng và thăng tiến những quyền lợi căn bản của con người;
2. sự phồn thịnh tức phát triển những lợi ích tinh
thần và trần thế của xã hội; 3.hòa bình và an ninh của cả
đoàn thể lẫn các thành viên” (Câu 1925)
“Những than phiền về chế độ hiện
tại của nhiều người trong đoàn biểu tình gần đây -Đức Tổng
Fitzgerald nhận xét- có thể cũng nằm trong những đề mục trên,
mặc dù họ không dùng cùng những ngôn từ như vậy. Đối với người
Công giáo Ai Cập, với tư cách là công dân, họ phải nhận lãnh
trách nhiệm, có bổn phận chuyển hóa cho xã hội tiến lên đến chỗ
công lý, công bằng và bình đẳng phải được thực hiện”.
Nói về đối thoại liên tôn, đức
tổng cho rằng những biến cố xẩy ra trong những tuần lễ vừa qua
cho người ta có cảm tưởng người Kito hữu và Hồi giáo đoàn kết
với nhau. Đó chính là yếu tố căn bản tốt để tăng cường đối thoại
và hợp tác trong xã hội”
KẾT LUẬN
Lý do những cuộc xuống đường ở
Tunisie, Ai Cập, Ymen, Lybia, Bahrain đều nằm dưới danh nghĩa
chống độc tài, tham nhũng, nghèo khó, cơ cực và lầm than. Nhưng
nếu để ý, ta sẽ thấy đây là những nước mà người dân đa số là
theo Hồi giáo thì phải chăng, ngoài lý do độc tài tham nhũng, ít
nhiều còn có ý nghĩa tôn giáo trong đó hay không? Nếu cách mạng
kiểu này xẩy ra ở Trung Đông theo thế domino thì chiến tranh ghê
gớm có thể xẩy ra mà hậu quả của nó không biết sẽ trầm trọng ghê
gớm thế nào? Kitô giáo, Công giáo sẽ bị liên hệ ra sao?
Dù sao, thế giới coi đây như một
phong trào đòi dân chủ, sẽ có cơ lan rộng trên khắp thế giới,
nhất là ở những nơi mà độc tài tham nhũng vẫn còn đang hoành
hành. TT.Tunisie Ben Ali nắm quyền 23 năm, Murabak cai trị Ai
Cập 30 năm đã gây phẫn nộ nơi người dân khiến họ phải vùng dậy
đạp đổ bạo quyền. Trung Cộng và Việt Nam thì chủ trưong cha
truyền con nối chỉ có một đảng duy nhất là đảng cộng sản có
quyền cai trị đất nước.. CSVN đã thống trị trên đau khổ của
người dân hơn 20 năm ở miền Bắc và toàn thể đất nước gần 40 năm,
gây biết bao nhiêu là tội ác, bất công, nghèo đói trong dân
gian. Những ai còn có chút ít ý thức về tự do, dân chủ, nhân
quyền, biết động lòng cảm thông nỗi khổ đau, nghèo đói cơ cực
lầm than của đa số người dân hẳn phải mong có những thay đôi
toàn diện hơn cho quê hương thân yêu của chúng ta.
Qua những vụ toà Khâm sứ, Thái Hà,
Đồng Chiêm, Tam Tòa, Cồn Dầu….thiết nghĩ lực lượng tôn giáo phải
là sức đẩy cho nhân quyền, tự do dân chủ, công bằng và công lý
để người dân mà đa số là dân nghèo khổ lầm than được nhờ. Tôn
giáo, các vị lãnh đạo các tôn giáo, những vị có lòng vì dân vì
nước đâu rồi, đừng thờ ơ nữa, hãy lên tiếng trước những bất
công, áp bức, tham ô, tha hóa, vô luân ...
Fleming Island, Florida
14-2-2011 / Bổ túc 17-2-11
NTC |
VỀ MỤC LỤC |
|
MUA
MỘT TẶNG HAI
|
Chuyện kể rằng, chứng kiến trước cảnh đau
thương vì sự gian trá lường gạt giữa con người với nhau, một
thiên thần ẩn dạng dưới một nhà hiền triết rao bán hàng “sự
thật.” “Mời mua sự thật, mời mua sự thật, mua một tặng hai. Mua
sự thật sẽ được tặng tự do và hạnh phúc.” Nhà hiền triết rao to
tiếng giữa phố phường, chợ búa.
Một chính trị gia dừng lại và hỏi. “Làm thế
nào để mua sự thật? Giá bao nhiêu?” Nhà hiền triết đáp, “Giá của
sự thật là sự thật; và ông sẽ được tặng thêm tự do và hạnh
phúc.” “Xin ngài cho biết cụ thể hơn?” Chính trị gia hỏi tiếp.
“Xin thưa,” nhà hiền triết trả lời, “Cứ mỗi tối trước khi đi
ngủ, ông trung thực trả lời ba câu hỏi sau: (1)Tôi đã sống đúng
với sự thật? (2) Tôi đã giám sống cho sự thật? Và (3) tôi đã
sống vì sự thật không? Giá để trả cho món hàng sự thật là ông
sống với (cảm nghiệm), sống cho (phục vụ), và sống vì (bảo vệ)
sự thật. Khi ông sống như thế, ông sẽ được sự thật, và còn được
tặng thêm tư do và hạnh phúc nữa.” Chính trị gia cầm món “sự
thật” về nhà bắt đầu thực hành với ba câu hỏi trên. Nhưng chỉ
vài hôm sau, ông đã trả món hàng ấy lại, vì hằng ngày ông thường
bàn đến chiến tranh, thế lực, phe nhóm, hơn thua. Ông thừa nhận
rằng, ông chưa đủ can đảm để lên tiếng binh vực cho nạn nhân vô
tội. Ông chưa can đảm bảo vệ sự thật cho các nước nghèo, và dân
tộc xấu số. Tiền bạc và quyền lực xem chừng như mạnh hơn sự
thật.
Một nhà tu đi ngang qua nghe ông cụ rao,
“Mời mua sự thật, mời mua sự thật. Mua một tặng hai.” Tò mò, tu
sĩ dừng lại và nói. “Tôi là người rao giảng sự thật, ông biết gì
về sự thật mà bán?” Nhà hiền triết tươi cười đáp. “Con rất mừng
và cám ơn ngài là người rao giảng sự thật. Chỉ có điều là nếu
ngài muốn có tự do và hạnh phúc thật thì xin ngài cầm lấy món
hàng “sự thật” và thử dùng xem sao.” Sau khi được giải thích về
giá cả, nhà tu đưa “sự thật” về nhà và bắt đầu thực hành. Nhưng
cũng chỉ vài hôm sau, vị tu sĩ cũng trả nó lại, vì mỗi lần đọc
kinh nguyện, tiếng kêu khóc của người nghèo, của những quả phụ,
của các em nhỏ, của nạn nhân bị áp bức bất công như nhảy múa rối
lên trong từng trang kinh. Người tu sĩ thấy rằng, mình có sống
với sự thật, nhưng mình chưa can đảm sống cho và vì sự thật. Sự
thật mời gọi mình đi ra khỏi cảnh yên hàn cửa nhà tu để đến với
những con người đang bị chà đạp phẩm giá. Ông như thấy rằng, sự
yên ổn ngại dấn thân dường như mạnh hơn sự thật mà ông đang rao
giảng, đều này làm ông trả lại “món hàng.”
Tiếng rao, “Mời mua sự thật, mời mua sự
thật, mua một tặng hai” vẫn được vang lên. Một cụ già nông dân
dừng lại và nói to. “Sự thật có cóc gì mà phải mua. Sự thật là
quà tặng. Tôi được tặng nó từ lâu rồi.” Nhà hiền triết tỏ vẽ vui
mừng và nói, “Chúc mừng bác. Thế ai tặng cho bác?” Bác nông dân
đáp. “ Tôi không biết ai đã tặng tôi, nhưng từ nhỏ ba tôi đã dạy
tôi chỉ sống từng ngày. Mỗi ngày trước khi đi ngủ, ba giúp tôi
nhìn thẳng vào lòng mình và trả lời ba câu hỏi thật nghiêm túc:
(1) Tôi có sống thật với nhân phẩm cao quí của tôi không? (2)
Tôi có sống cho những gì mà tôi yêu, tôi tin không? Và (3) tôi
có can đảm làm chứng cho sự thật không? Nhà hiền triết mĩm cười
mãn nguyện và thưa. “Bác đã có tất cả rồi. Chúc mừng bác.”
* * *
Bạn thân mến, câu chuyện tưởng tượng trên
một lần nữa đề cao giá trị của sự thật. Nói đến sự thật ai ai
cũng mong mõi và khao khát để chiếm lấy, vì nó rất trong sáng,
rất tinh tuyền, và rất mạnh mẽ. Ai dám sống với, cho, và vì sự
thật thì sẽ cảm nghiệm thế nào là tự do và hạnh phúc đích thực.
Sự thật là điểm chuẩn trong gia đình, trong
đoàn thể, và trong xã hội. Quan tòa tìm sự thật để kết tội hay
tha bỗng cho bị cáo. Sự thật có thể dẫn người ta đến hòa khí,
tha thứ nhưng khi không chấp nhận sự thật người ta có thể chia
tay nhau. Sự thật có thể giúp người ta tìm ra ánh sáng, hạnh
phúc, nhưng khi không chấp nhận sự thật, người ta có thể vì xấu
hổ, rút lui vào bóng tối của uẩn ức, hận thù.
Giá của sự thật phải được “mua” bằng sự
thật! Nếu không phải mua bằng sự thật thì điều gì có giá trị hơn
sự thật để mà đổi chác? Một tội nhận được ơn thứ tha chỉ khi anh
ta thật lòng nhìn thấy sự thật là mình đã lầm lỗi. Mối quan hệ
rạn nứt chỉ có thể hàn gắn khi nhận ra sự thật rằng mình cũng có
phần trách nhiệm trong sự việc này. Lòng mình không bình an thì
cần phải nhìn sự thật là có khi mình còn kiếm tìm và lo xây
thành đắp lũy cho cái tôi của mình.
Thưa bạn, mục Sống Sao Cho Đẹp mời bạn trở
lại thật với lòng mình, với thân phận mình để từng ngày tìm câu
trả lời cho ba câu hỏi mà vị hiền triết nêu trong câu chuyện.
(1) Bạn có sự thật trong người chưa? (2) Bạn đã sống cho sự thật
chưa? (3) Bạn đã can đảm để bảo vệ sự thật chưa?
Br. Huynhquảng
Mời bạn ghé thăm trang
http://brhuynhquang.org/.
Email liên lạc:
brhq@brhuynhquang.org
|
VỀ MỤC LỤC |
|
GIÁO HỘI CÔNG GIÁO TỪ SAU CÔNG
ĐỒNG VATICAN II ĐẾN CHÚNG TA (PHẦN 3 - HẾT)
|
Xin đọc phần 1:
http://www.conggiaovietnam.net/index.php?m=module2&v=detailarticle&id=84&ia=8184
(GSVN Số 137)
phần 2:
http://www.conggiaovietnam.net/index.php?m=module2&v=detailarticle&id=84&ia=8426
(GSVN Số 138)
NGUYỄN HỌC TẬP
III -
Đức Thánh Cha Benedictus XVI.
Đức Thánh Cha Benedictus XVI được tuyển chọn
ngày 19.04.2005, đã xác nhận ý chí tiếp tục thực hiện, với lòng
can đảm định hướng đi đã được Công Đồng Vatican II phát họa.
Đức Gioan Phaolồ II trong Di Chúc Thiêng Liêng
của ngài đã nói rằng ngài để lại cho đấng kế vị mình,
- cùng chung với tay lái con thuyền Thánh
Phêrô
- cả kim địa bàn mà ngài đã dùng trong triều
đại giáo hoàng lâu dài của ngài: đó là thực hiện Công Đồng
Vatican II ( ĐTC Gioan Phaolồ II, Testamento, in Acta
Apostolicae sedis Commentarium Officiale, vol. XCVII.
Supplementum, 17.04. 2005, Typis Vaticanis, 2005, p. 479).
Đức Benedictus đón nhận tức khắc cả hai di sản
đó: " Đúng vậy ", ngài đã thốt lên ngay ngày hôm sau khi
vừa được tuyển chọn:
- " Đức Gioan Phaolồ II đã chỉ cho thấy
Công Đồng Vatican II là " kim địa bàn ", nhờ đó có thể định
hướng đuợc trong đại dương rộng lớn của ngàn năm thứ ba. Cả
trong Lời Di Chúc Thiêng Liêng của ngài, ngài đã ghi nhận: " Tôi
xác tín rằng còn cả thời gian lâu dài các thế hệ mới vẫn còn múc
lấy được kho tàng giàu có mà Công Đồng của thế kỷ XX nầy đã rộng
tay ban phát cho ".
Tôi cũng vậy, trong khi bắt đầu lãnh lấy việc
phục vụ của chính Đấng Kế Vị Thánh Phêrô, tôi muốn xác nhận mạnh
mẽ ý chí quyết định tiếp tục thực hiện những gì Công Đồng
Vatican II đã chỉ dạy cho, theo gương các Đấng Tiền Nhiệm tôi và
trung thành với truyền thống hai ngàn năm của Giáo Hội. Chính
năm nay là dịp kỷ niệm giáp 40 năm biến cố kết thúc Thượng Hội
Công Đồng ( ngày 8 tháng 12 năm 1965). Năm thánh có qua đi, các
Tài Liệu Công Đồng vẫn không mất đi tinh cách hiện đại, trái lại
các lời dạy bảo của Công Đồng càng tỏ ra một cách đặc biệt liên
hệ đến các nhu cầu của Giáo Hội và của xã hội toàn cầu hoá hiện
tại " ( L'Osservatore romano, 21.04.2006).
Đức Thánh Cha Benedictus XVI tỏ ra rất quan tâm
đến di sản được Công Đồng Vatican II để lại, nhứt là quan tâm
đến các ý nghĩa hàm chứa cần đuợc giải thích và áp dụng.
Bởi đó trong Thông Điệp Caritas in Veritate (
2009 ) ngài xác nhận mình hoàn toàn hiệp nhứt với Công Đồng
về đường hướng, cũng như cần được đem ra thực hiện.
Dầu vậy cũng không thiếu những ý kiến chỉ trích
Đức Thánh Cha Benedictus XVI là không đánh giá đúng mức tầm quan
trọng các giá trị di san của Công Đồng, còn hơn nữa ngài còn
muốn quay lại quá khứ đối với một vài điểm thiết yếu, khởi đầu
là việc liên quan đến vấn đề canh tân phụng vụ, mà ai cũng biết
là biểu tượng canh tân của Công Đồng.
Để trả lời cho những lời tố cáo đó, điều tốt
nhứt là đặc tâm chú ý vào bài diễn văn của Đức Thánh Cha về vấn
đề giải thích Công Đồng. Ngài đã dành một đoạn dài và khúc chiết
trong bài diễn văn vừa kể ngày 22 tháng 12 năm 2005, ngay từ lúc
khởi đầu triều đại giáo hoàng của ngài, và gần đây nhứt ngài đã
lập lại chủ đề trong Thông Điệp Caritas in veritate.
Đức Thánh Cha Benedictus XVI có thái độ nào
trước Công Đồng?
Đức Thánh Cha phủ nhận rõ ràng lối giải thích
tách khúc, " gián đoạn " ( discontinuità ) đối với ý
nghĩa những gì Công Đồng muốn nói với chúng ta ( Discorso
alla Curia Romana per il Natale, 22.12.2005, in " Aggiornamenti
Sociali ", 2, 2006, p. 159-169).
Dĩ nhiên, ngài xác nhận, không thể chối bỏ được
tình trạng đứt khúc, gián đoạn theo phương thức, trong đó Công
Đồng nhận thức mối tương giao giữa đức tin và các khoa học hiện
đại, giữa Giáo Hội và tổ chức Quốc Gia hiện đại, giữa đức tin Ki
Tô giáo và các tôn giáo khác trên thế giới.
Tuy nhiên, ngài nhấn mạnh, các nguyên tắc Phúc
Âm căn bản vẫn còn là những nguyên tắc với giá trị nguyên vẹn,
chỉ đổi khác là cách áp dụng các nguyên tắc đó vào các hoàn cảnh
mới.
Như vậy, Đức Thánh Cha Benedictus XVI kết luận,
chìa khóa để mở ra hiểu được ý nghĩa là mà Công Đồng muốn để lại
cho chúng ta là " giải thích ý nghĩa canh tân " (
l'ermeneutica della riforma ", để giúp chúng ta đón nhận
được những gì mới mẻ trong nhãn quang nối tiếp.
Mặc dầu vậy, Đức thánh Cha cũng ý thức rằng
- ngoài ra những định hướng cao cả có liên
quan đến việc canh tân Giáo Hội,
-vẫn còn có những vấn đề hệ trọng mà Công
Đồng Vatican II không đề cập đến
- và những vấn đề khác được phát sinh ra cả
thời sau Công Đồng.
Điều đó giải thích được tại sao Đức Thánh Cha
muốn trở lại chủ đề trong chương 12 Thông Điệp Caritas in
veritate. Dĩ nhiên chủ đề đang đề cập chỉ là một khoản trong
ngoặc của Thông Điệp nói về sự phát triển, đề tài chính mà Thông
Điệp nhằm đến. Đó là lý do khiến cho chúng ta nên lưu ý.
Chính vì lý do đó, mà Đức Thánh Cha muốn nhân
dịp Thông Điệp được viết ra để lưu ý một lần nữa về vấn đề giải
thích chính đáng chủ tâm của Công Đồng, mà ngài rất lấy làm quan
tâm.
Khởi điểm từ đó Thông Điệp bắt đầu khai triển là
việc đặc tâm lưu ý đến
- " mối liên hệ giữa Thông Điệp Populorum
progressio và Công Đồng Vatican II không có gì cho thấy có đứt
khúc, gián đoạn giữa Huấn Dụ Xã Hội của Giáo Hội của Đức Phaolồ
VI và Huấn Dụ Xã Hội của Giáo Hội của các Đấng tiền nhiệm ngài,
bởi vì chính Công Đồng Vatican II là một biến cố tìm hiểu sâu
rộng hơn những lời huấn dạy đó trong đòi sống tiếp nối của Giáo
Hội " ( Caritas in veritate, id.).
Nói cách khác, Đức Thánh Cha Benedictus XVI áp
dụng cho sự phát triển Huấn Dụ Xã Hội của Giáo Hội cũng cùng một
tư tưởng như ý nghĩa về giải thích Công Đồng. Ngài nói:
- " Không có hai loại Huấn Dụ Xã Hội của
Giáo Hội, một trước Công Đồng và một sau Công Đồng. Các Huấn Dụ
có khác nhau, nhưng chỉ có một lời huấn dạy duy nhứt, mạch lạc
liên tục nhau, nhưng đồng thời vẫn luôn mới mẻ ". Khám phá ra
đặc tính cá biệt của một Huấn Dụ hay một Thông Điệp, lời huấn
dạy của một một Đức Giáo Hoàng hay của một vị Giáo Hoàng khác,
đó là điều chính đáng, nhưng không bao giờ được mất đi nhãn
quang xác đáng của cả nền giáo huấn. Mạch lạc không có nghĩa là
đóng khung khép kín trong một hệ thống, cho bằng trung thành
năng động với một ánh sáng đã đón nhận được. Huấn Dụ Xã Hội của
Giáo Hội soi sáng bằng một ánh sáng không thay đổi các vấn đề
mới mẻ có thể xảy đến " ( Caritas in veritate, id.).
Tuy vậy, chúng ta có thể chính đáng nói rằng "
đó là một khúc quanh " hay " một một bước nhảy vọt về
phía trước ", nói như Đức Giáo Hoàng Gioan XXIII đã nói
trong diễn văn khai mạc Công Đồng.
Con đường vẫn là con đường đó và tiếp tục không
gián đoạn, nhưng trên con đường có thể có và thực sự có "
những khúc quanh đổi chiều " hay " những bước nhảy vọt về phía
trước " , tạo ra những cuộc đổi hướng hay tiếp tục tiến
nhanh hơn về phía trước.
Điều đó cũng tương tợ như là những gì xảy ra
trong cuộc sống con người: con người trưởng thành chắc chắn cũng
là chính là chủ thể rập khuôn như lúc còn bé, nhưng biết bao
nhiều lần thay chiều đổi hướng và " nhảy vọt về phía trước".
trong cuộc sống.
Điều vừa kể chúng ta cũng có thể nói về Công
Đồng Vatican II. " Đóng kín lại, đoạn tuyệt ", không;
nhưng " khúc quanh, chuyển hướng ", có !
Nếu không làm sao chúng ta có thể nói được việc
chuyển hóa từ định nghĩa của Công Đồng Tridentino, " Giáo Hội
là một xã hội hoàn hảo " sang định nghĩa của Công Đồng
Vatican, " Giáo Hội là cộng đồng dân Chúa ", cùng với tất
cả các hệ tại giáo hội tính và mục vụ hàm chứa trong đó, mà
chúng ta đã thấy?
Làm sao có thể chối bỏ được " khúc quanh
chuyển hướng " mà Công Đồng Vatican II đã xác định trong
cách hiểu các mối tương quan
- giữa Quốc Gia dân sự và Giáo Hội,
- giữa đức tin và chính trị,
- trải qua từ quan niệm " Ki Tô giáo tính
" ( cristianità ) trước Công Đồng đến việc chấp nhận
đặc tính trần thế, ở giữa trần thế để thánh hoá trần thế
của Giáo Hội.
Làm sao chúng ta có thể chối bỏ được " khúc
quanh " mà Giáo Hội đã thực hiện trong việc đối thoại Giáo
Hội - trần thế, trong việc đối thoại hiệp nhứt Ki Tô giáo và đối
thoại liên tôn?
Trong một vài trường hợp, những sự khác biệt
giữa giữa thời kỳ tiền Công Đồng và hậu Công Đồng đã thể hiện
minh nhiên đến nỗi chúng ta có thể nói đó là những cuộc chuyển
hướng hình chữ U, với ý nghĩa là một cuộc chuyển hướng tận gốc
rễ.
Đức Thánh Cha Benedictus XVI không khước từ
những điều đó, khi ngài không chấp nhận việc " đứt khúc,
gián đoạn " giữa Giáo Hội thời kỳ tiền Công Đồng và thời
kỳ Công Đồng, cũng hậu Công Đồng Vatican II.
Như vậy con đường của cuộc hải trình đã được
Công Đồng Vatican II vẻ thành đồ án, với những đặc tính mới để
tiếp tục công cuộc hành trình, nhưng cuộc hải trình của Giáo Hội
vẫn là cuộc hành trình ra khơi, mặc dầu những cuộc bảo táp sóng
gió cũng không thiếu, nhưng Giáo Hội là Giáo Hội của Chúa Giêsu,
luôn luôn có Chúa Giêsu ở nơi mình:
- " Anh là Phêrô, nghĩa là Tảng Đá, trên
Tảng Đá nầy, thầy sẽ xây Giáo Hội của Thầy " ( Mt 16, 18).
- " Và đây, Thầy ở cùng anh em mọi ngày
cho đến tận thế " ( Mt 28, 20).
|
VỀ MỤC LỤC |
|
THINH LẶNG VÀ ĐỜI
SỐNG CẦU NGUYỆN |
LINH MỤC GIÁO PHẬN SỐNG TU ĐỨC TOÀN DIỆN
TRONG BỐI CẢNH THỰC TẾ CỦA GIÁO HỘI VÀ XÃ HỘI VIỆT NAM HÔM NAY
Lm.
Micae-Phaolô Trần Minh Huy pss
CHƯƠNG BA
Đời
Sống Cầu Nguyện Và Đời Sống Nội Tâm
(tiếp theo)
I.1 Thinh lặng cần thiết cho cầu
nguyện
Sự thinh lặng không thể bị chia tách bên
ngoài và bên trong được. Thinh lặng bên ngoài vừa là một tiến
trình đào tạo trưởng thành nhân bản, vừa là phương tiện bảo đảm
sự yên tĩnh của tâm hồn, để hồi tâm và sống thân mật với Thiên
Chúa, trong đời sống thiêng liêng và nội tâm.
Thinh lặng nội tâm là sự bình an của linh
hồn sống trong sự hiện diện của Chúa, nhờ nỗ lực kiểm soát các
đam mê, kiềm chế những tưởng tượng viễn vông, lo âu, kích động
thái quá hay những suy sụp chán nản. Thinh lặng nội tâm là thái
độ sâu xa của linh hồn tìm kiếm mọi sự từ Thiên Chúa và hoàn
toàn qui hướng về Ngài. Thinh lặng nội tâm và thinh lặng bên
ngoài cần đến nhau và nuôi dưỡng nhau. Vì thế, luật sống phải
coi thinh lặng bên ngoài như là hỗ trợ ưu tiên, vì ở đâu thinh
lặng bên ngoài không hiện hữu thì thinh lặng nội tâm cũng vắng
mặt.
Thinh lặng là bầu khí thiêng liêng và sống
còn để cảm nhận sự hiện diện của Thiên Chúa. Nhờ thinh lặng, con
người biết chỗ của mình trước mặt Chúa, đồng thời tỏ lộ lòng
khiêm tốn và khả năng lắng nghe khi Chúa nói. Nhờ thinh lặng của
thân xác, trí óc và con tim, ta mới có thể đạt tới sự hiệp nhất
và hiệp thông với Chúa: “Hãy lặng thinh và hãy biết rằng Ta
là Thiên Chúa.”
Thinh lặng này không phải là một không gian
trống rỗng, bởi vì Thiên Chúa luôn có đó để lấp đầy. Nhiệm vụ
quan trọng nhất là phải ý thức rằng chúng ta luôn ở trong sự
hiện diện thực sự và thường hằng của Chúa và không thể tách khỏi
Ngài, chứ không phải chỉ hiện diện tâm lý như nơi con người,
hiện diện hay vắng mặt tùy ở cái tâm duyên (Hữu duyên thiên
lý năng tương ngộ, vô duyên đối diện bất tương phùng).
Thinh lặng là một trong những thách đố lớn
cho con người thời nay: Người này tìm kiếm thinh lặng, kẻ khác
lại làm mọi cách để tránh nó: Cần hai năm để học nói, nhưng
cần cả đời để học thinh lặng. Nhưng thinh lặng hỗ trợ lời
nói, chuẩn bị cho lời nói và làm cho lời nói nên phong phú. Ngôi
Lời, chìm sâu trong mầu nhiệm lặng thinh của Thiên Chúa để bộc
lộ và thông truyền Thiên Chúa cho con người qua mầu nhiệm nhập
thể: Hài Đồng là Lời mà thẳm lặng!
Thinh lặng, nội tâm lẫn bên ngoài, là bầu
khí đúng đắn của việc giáo dục toàn diện: nơi đào tạo phải là
nơi của thinh lặng, là nhà cầu nguyện, nơi đó Chúa tiếp tục qui
tụ các môn đệ riêng ra chung quanh Ngài,
để họ sống cái kinh nghiệm mạnh mẽ của sự gặp gỡ và chiêm niệm.
I.2 Thinh
Lặng trong Phụng Vụ
Thinh lặng luôn là một phần thiết yếu của
việc thờ phượng. Phụng vụ cung cấp nhiều cơ hội để thinh lặng:
Ngưng nghỉ một khoảng thời gian thích hợp sau lời kêu mời tổng
nguyện “chúng ta dâng lời cầu nguyện” để người tham dự hội nhập
ý nguyện riêng của họ; ngưng nghỉ một chút sau mỗi bài đọc cho
Lời Chúa thấm vào lòng người nghe; nghỉ chốc lát để suy niệm sau
bài giảng; sau hiệp lễ, nên dành một thời gian thinh lặng cần
thiết để kết hiệp với Chúa Giêsu đang ngự trong lòng.
Phụng vụ các Giờ Kinh cũng cho ta nhiều dịp
để thinh lặng: Sau vinh tụng ca và trước điệp ca của thánh vịnh
kế tiếp, một chút ngưng nghỉ để cộng đoàn suy niệm về thánh vị
đó; sau bài đọc Lời Chúa và trước xướng đáp, một lúc thinh lặng
hợp lý để suy niệm.
Nhờ ý thức sự hiện diện bí ẩn của Thiên
Chúa, chúng ta chậm rãi đi vào thinh lặng sâu lắng. Cầu nguyện
trở thành sự kết hợp những lúc thinh lặng và lời nói trong một
thái độ chiêm niệm, và đời sống thiêng liêng được triển nở với
Chúa Kitô trong Thiên Chúa.
I.3 Thinh
Lặng Trong Nhà
Mọi người đều phải cẩn trọng để khỏi làm
xáo trộn sự thinh lặng của người khác. Radio, máy nghe băng,
Tivi, âm lượng trao đổi… phải được kiềm chế và điều chỉnh để bảo
vệ bầu khí chiêm niệm, vốn phù hợp cho đời sống cầu nguyện và
học tập. Khi cần thiết, hãy dùng headphone với âm lượng nhỏ.
Không đòi phải thinh lặng tuyệt đối, nhưng cuộc trao đổi phải
được giữ ở mức độ tối thiểu.
I.4 Thinh
Lặng Cấm Phòng hay Tĩnh Tâm
Các cuộc tĩnh tâm, bồi dưỡng thiêng liêng
là:
-
những cơ hội khả dĩ để trải
nghiệm sự thinh lặng,
-
tìm lại nguồn năng lượng cho
đời sống cầu nguyện và đức tin,
-
cũng còn là dịp để lấy lại
sức lực cho thể xác, trí khôn và linh hồn.
Người tĩnh tâm được khuyến khích loại bỏ
những mối bận tâm làm mất sự thinh lặng bề ngoài như báo chí,
truyền thanh, truyền hình… để sự thinh lặng nội tâm được phát
huy. Càng đi vào thinh lặng và thăng tiến đời sống chiêm niệm,
chúng ta càng có thể lắng nghe tiếng Chúa với những thanh âm đặc
biệt và mới lạ, vì tĩnh tâm là một cuộc gặp gỡ hàng dọc, một
liên hệ cá nhân, một cuộc đối thoại với Thầy Chí Thánh Giêsu,
một kinh nghiệm về Chúa và để Chúa đào tạo uốn nắn mình.
Thomas Merton nói rằng mức độ truyền thông
cao nhất là hiệp thông, nghĩa là trở nên một với Chúa. Thái độ
chiêm niệm này là thích hợp, phải được trải dài trong suốt cuộc
sống và sứ vụ của người sống đời thánh hiến: “Thinh lặng là
quê hương của người hùng” (đại tướng Foch).
I.5 Thinh
Lặng và Tiếng Chúa
Cho dù cá nhân con người vẫn mở ra trước
siêu việt, trước tuyệt đối, thì việc lắng nghe tiếng Chúa và
hiểu rõ giá trị của thinh lặng trong sâu thẳm lòng người, nơi họ
hiện diện một mình với Thiên Chúa, cũng là việc rất khó trong xã
hội hiện đại.
Sự thinh lặng cho phép chúng ta nhận ra sự
hiện diện của Thiên Chúa và để cho sự hiện diện này chiếm đoạt.
Linh mục phải tạo được một cảm thức về thinh lặng nội tâm thực
sự để có thể lắng nghe và hiểu sâu xa Lời Chúa, và kiên nhẫn tìm
Chúa Kitô qua chính kinh nghiệm lắng nghe tiếng Chúa trong cầu
nguyện của mình. Kinh nghiệm này giúp linh mục trở thành thầy
dạy cầu nguyện cho người khác.
Thinh lặng nội tâm tìm được nơi Chúa Kitô
suối nguồn và mục đích, là phó thác cho Chúa Cha và tùy thuộc
vào Ngài, là sự thân mật nội tâm và đối thoại thực sự với Chúa.
Thinh lặng bên trong và thinh lặng bên ngoài ảnh hưởng lẫn nhau
và nuôi dưỡng nhau. Nơi nào thinh lặng bên ngoài không hiện hữu
thì thinh lặng nội tâm cũng vắng bóng. Luật Sống tu trì phải thu
xếp ưu tiên cho sự thinh lặng chứng tá này, như ĐTC Phaolô VI
từng nói rằng thế giới hiện nay không còn tin vào sự hùng hồn
của diễn văn, nhưng tin vào sức mạnh của chứng tá thầm lặng.
|
VỀ MỤC LỤC |
|
KHỦNG HOẢNG CẦN CHO TRƯỞNG THÀNH
|
Tác phẩm: Cẩm Nang Hạnh Phúc Gia Đình
Kitô - MỤC VỤ HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH
Tác
giả: D. WAHRHEIT (Lm. Minh Anh, GP. Huế tổng hợp biên tập)
A23. KHỦNG HOẢNG CẦN CHO TRƯỞNG
THÀNH
1.
Cơn khủng hoảng đầu đời lứa đôi là một giai đoạn cần
thiết cho sự trưởng thành trong hôn nhân. Đã hẳn cần phải đủ
trưởng thành mới có thể bước vào đời sống vợ chồng, nhưng cũng
chính đời sống vợ chồng là trường đào luyện cho con người được
thêm trưởng thành và phong phú hơn. Một cuộc hôn nhân đích thực
luôn hướng đến sự phong phú. Phong phú trong việc sinh con đẻ
cái đã đành, nhưng có một sự phong phú khác cơ bản hơn, quan
trọng hơn, đó là làm cho vợ chồng được lớn lên trong tình yêu.
Hiểu được mục đích chính của hôn
nhân là giúp con người được thêm trưởng thành và phong phú hơn
trong tình yêu, chúng ta mới thấy rằng, khủng hoảng đầu đời hôn
nhân là điều cần thiết. Cơn khủng hoảng ấy cần thiết vì nó giúp
cho hai người phối ngẫu khám phá ra chính mình cũng như sự khác
biệt của người phối ngẫu. Biết mình và biết người, con người mới
có thể thích nghi hầu cư xử cho hợp lý.
Một trong những tâm lý gia nổi
tiếng đã khẳng định rằng, không có một cuộc hôn nhân hoàn hảo
nào mà lại không có sự căng thẳng giữa hai người phối ngẫu. Ông
nói như sau: “Xét trên phương diện trí não, tinh thần và thể
lý, thiên nhiên đã tạo nên một sự khác biệt to tát giữa người
đàn ông và người đàn bà. Đến độ người đàn ông luôn nhìn thấy
người đàn bà như đối thủ của mình và ngược lại. Đó chính là điều
gây nên căng thẳng giữa hai phái. Nếu người đàn ông và người đàn
bà bình đẳng với nhau thì có lẽ tất cả đều rơi vào trạng thái
tĩnh và trái đất này sẽ trở nên khô cằn”.
2.
Thế nên, một cuộc hôn phối thành công không phải là một
cuộc sống không gặp sóng gió, nghĩa là không có những căng thẳng
và cãi vã giữa hai người. Nên một trong thể xác và tinh thần
không có nghĩa là xoá bỏ những khác biệt giữa hai người. Mãi mãi
người khác vẫn là người khác với những nét cá biệt của họ. Mỗi
người đều có những nhịp sống riêng của mình. Chàng có thói quen
ăn nhanh, nàng thì trái lại ăn uống từ tốn. Chàng thì điềm nhiên
đến lạnh lùng, nàng thì luôn luôn nhiệt tình đến nóng nảy. Nàng
thích nghe nhạc, chàng lại thích thinh lặng để suy tư.
Vậy mà không gì có thể ngăn cản
không cho hai con người dù có những khác biệt như thế chung sống
hoà hợp với nhau. Trái lại, chính những khác biệt ấy sẽ giúp hai
người được phong phú hơn. Hôn nhân là một trường học, trong đó
hai người phối ngẫu không ngừng trao đổi cho nhau những gì mình
không có. Nhưng dĩ nhiên sự trao đổi và học hỏi nơi nhau chỉ có
thể thực hiện khi hai người biết đón nhận những khác biệt của
nhau như những giá trị bổ túc cho nhau.
Người ta thường đề cao sự chịu
đựng lẫn nhau giữa hai người phối ngẫu; thực ra, chịu đựng không
phải là một nhân đức. Khi hai người chịu đựng nhau thì người này
sẽ trở thành gánh nặng cho người kia, lúc đầu chỉ có sự mệt mỏi,
về lâu về dài sự chán chường sẽ xảy đến. Thay vì chịu đựng nhau,
hãy chấp nhận và tha thứ cho nhau.
Nhà giảng thuyết thời danh của
Pháp là linh mục Lacordaire đã nói như sau: “Trên thế giới
này không ai không có khuyết điểm. Tôi thích một người bạn mà
tôi tha thứ, cũng như tôi được họ tha thứ, hơn là một người bạn
mà tôi không có gì để tha thứ. Cần phải có sự hỗ tương trong tất
cả mọi sự, ngay cả trong những bất toàn”. Lời phát biểu trên
đây về tình bạn lại càng có giá trị hơn trong tình nghĩa vợ
chồng.
3.
Chấp nhận và tha thứ cho những bất toàn của nhau trong
đời sống vợ chồng cũng có nghĩa là luôn đối xử với nhau bằng tất
cả tế nhị. Hơn bất cứ quan hệ nào, tình nghĩa vợ chồng đòi hỏi
hai người phải cư xử với nhau bằng tất cả tế nhị và lịch sự.
Tình cảm càng được trân trọng thì càng lâu bền.
Người ta có thể ví đời sống vợ
chồng với sinh hoạt ngoại giao. Các nhà ngoại giao quốc tế luôn
nói với nhau bằng những lời nói ôn hoà lễ độ. Có lẽ người ta
cũng cần áp dụng những nguyên tắc ngoại giao ấy vào chính đời
sống vợ chồng. Trong chính trường cũng như trong gia đình, một
trong những bí quyết của hoà bình chính là phép lịch sự trong
lời lẽ và cung giọng.
Hôn nhân là chuyện của từng ngày,
và nếu mỗi ngày được cấu tạo bằng những việc làm nhỏ bé vô danh
thì phép lịch sự chính là chìa khoá kỳ diệu của sự thành công.
Phép lịch sự trong đời sống vợ chồng là nét đẹp của tâm hồn. Nó
làm cho con người quên đi những gai góc trong ngôi vườn để chỉ
nhìn thấy những cánh hoa.
Nhiều người trẻ khi bước vào đời
sống hôn nhân thường thắc mắc: phải sống như thế nào để thành
công trong đời sống vợ chồng?
thiết tưởng câu
trả lời đơn giản nhất chính là hãy tôn trọng nhau. Đó là giới
răn cơ bản nhất của đời sống vợ chồng. Chính vì vi phạm giới răn
này mà người ta chuốc lấy đau khổ và thất bại trong hôn nhân;
chính vì không tôn trọng nhau mà người ta mới to tiếng, ẩu đả
nhau và cuối cùng bỏ nhau. Tôn trọng nhau là không bao giờ xúc
phạm đến nhau, cả khi thấy được những lầm lỗi của nhau.
4.
Cuối cùng, có một chút khôi hài trong cuộc sống cũng là
một trong những bí quyết để bảo toàn sự quân bình và hoà khí
trong gia đình. Thật ra khôi hài cũng là một trong những nét
chính yếu trong dung mạo của một con người trưởng thành.
Ông bà ta ngày xưa có lẽ nhờ có
được óc trào lộng khôi hài mà thắng vượt được những căng thẳng
trong gia đình, hãy thử đọc lại câu ca dao sau đây để thấy được
óc khôi hài ấy:
Mũi em mười tám gánh lông,
Chồng yêu chồng bảo tơ hồng
trời cho.
Đêm nằm thì ngáy o o,
Chồng yêu chồng bảo ngáy cho
vui nhà.
Đi chợ thì hay ăn quà,
Chồng yêu chồng bảo về nhà đỡ
cơm.
Trên đầu những rác cùng rơm,
Chồng yêu chồng bảo hoa thơm
rắc đầu.
Khôi hài đích thực cũng chính là
lạc quan, lạc quan để thấy được nét tích cực và dễ thương của
con người và cuộc sống. Nhất là khôi hài cũng đồng nghĩa với
quảng đại và bình thản trước những bất toàn và thiếu sót của
người khác.
Đó là bí quyết xin được gởi đến
những đôi vợ chồng trẻ, những người đang trải qua cơn khủng
hoảng đầu đời hôn nhân. |
VỀ MỤC LỤC |
|
KHI MIỆNG HẾT THƠM
|
Cô Mộng
Hoàng tâm sự rằng người yêu của cô không vui lắm, vì khi gần
nhau thì dường như có mùi không thơm từ miệng cô toát ra. Cô đã
được nhiều bác sĩ, nha sĩ điều trị mà miệng vẫn còn phảng phất
mùi hôi hôi. Bạn cô nói tại vì cô ăn uống không giữ gìn, lại hay
ăn quà vặt luôn miệng nên bị như vậy.
Cô muốn
biết tại sao miệng lại hôi, vì chẵng những người yêu không vui
mà bản thân cô cũng buồn buồn. Và làm sao để miệng thơm trở
lại.
Chúng tôi
thông cảm với hoàn cảnh của cô và nỗi buồn của một thanh nữ đang
nhiều sức sống mãnh liệt mà rơi vào tình trạng trầm buồn. Theo
như cô tả lại thì cô bị chứng hôi miệng từ lâu và đã điều trị mà
không hết. Thực tâm mà nói, chứng bệnh này không phải chỉ mình
cô mắc phải đâu, mà còn nhiều người khác cũng vướng phải và cũng
đang ngượng ngập, buồn buồn.
Trước hết,
xin cùng với cô ôn lại về miệng và bệnh này một chút nhé.
Ở loài người,
miệng là cửa ngõ của sự tiêu hóa và hô hấp, nơi mà không khí
cũng như thực phẩm ra vào. Cấu trúc của miệng cũng khá phức tạp
với phía trước là cặp môi và hàm răng; hai bên cạnh là xương hàm
và má, phía sau thông với cuống họng. Phía trên là hàm ếch, mặt
dưới là lưỡi.
Miệng có
nhiệm vụ quan trọng trong việc tiêu hóa thực phẩm.
Răng để nhai
nhuyễn món ăn với sự trợ giúp của lưỡi. Tuyến nước miếng tiết ra
nước miếng để làm món ăn nhuyễn nhỏ đồng thời cũng để giữ gìn vệ
sinh răng miệng, giúp phát âm hoạt bát. Nước miếng còn chứa men
tiêu hóa amylase để chuyển hóa tinh bột ra đường.
Miệng còn
chứa thanh quản, một cơ quan phát âm. Không khí cũng ra vào theo
miệng mặc dù mũi là cơ quan chính sự hô hấp.
Xét vậy thì
miệng có vai trò quan trọng trong vấn đề sức khỏe, như các cụ ta
thường nói “Bệnh từ miệng mà vào, vạ từ miệng mà ra”. Ý giả các
cụ bảo là nhiều bệnh gây ra ro sự ăn uống cẩu thả mà nhiều tai
ương cũng từ cửa miệng khi phát ngôn bừa bãi mà nên chuyện.
Chẳng khác chi câu nói cổ nhân “miệng nhà sang có gang có thép”.
Miệng quan
trọng như vậy mà không khéo giữ gìn thì cũng bệnh, cũng đau. Mà
hôi miệng là một trong những bệnh.
Sanh ra em bé
miệng thơm tho sạch sẽ, ai cũng muốn “thơm” một tý. Vì em chỉ bú
sữa mẹ dễ tiêu, và cũng vì chưa có răng cho nên vi sinh vật có
hại chưa có nơi ẩn núp. Lớn lên, răng bắt đầu nhú mà kém vệ sinh
răng miệng là lúc bắt đầu có vấn đề.
Hôi miệng,
hơi thở hôi hoặc thối miệng là dấu hiệu một bệnh nào đó của cơ
thể. Ðây là một chứng bệnh rất phổ biến với nhiều nguyên nhân
phức tạp. Thậm chí danh từ chuyên môn y học gọi là Halitosis
cũng bắt nguồn từ hai ngôn ngữ khác nhau: “halitus” từ tiếng La
tinh có nghĩa là hơi thở, và suffix Hy Lạp “osis” là tình
trạng.
Thường
thường, khi nói tới hôi miệng thì nhiều người cứ cho là do bao
tử mà nên nỗi. Nhưng thực ra những 85% trường hợp hôi miệng lại
chính từ miệng, còn lại 15% đến từ nhiều lý do khác nhau, trong
đó có vấn đề dinh dưỡng, ăn uống như bạn cô nói.
Nguyên nhân
Có nhiều
nguyên nhân đưa tới hôi miệng
a- Từ miệng
Miệng được
một số khoa học gia ví như một sở thú, trong đó chen chúc sinh
sống cả dăm ba trăm loại vi sinh vật lành dữ khác nhau, đặc biệt
là ở phần sau của lưỡi. Đa số các vi khuẩn này thuộc nhóm kỵ khí
nghĩa là chúng chỉ tăng sinh trong môi trường không có oxy như
trong bựa răng, khe răng, túi nha chu nhất là ở mặt sau của
lưỡi.
Khi há miệng
soi vào gương, ta thấy lợn cợn những vệt trắng với nhiều vi
khuẩn phủ trên lưỡi. Thức ăn sót lại trong miệng hoặc ở các kẽ
răng là món ăn hấp dẫn đối với chúng và sẽ bị phân hóa tạo ra
mùi hôi.
- Nhiễm trùng
ở nướu răng cũng lại mấy cô cậu vi khuẩn bám vào các cục bựa
chất béo, calci ở chân răng mà ra. Bựa vôi đóng vào chân răng là
môi trường tốt cho vi khuẩn tác dụng vào và đưa đến hôi miệng.
- Khi miệng
khô, như ngủ ban đêm thở bằng miệng hoặc dưới tác dụng của vài
dược phẩm, hút thuốc lá khiến cho miệng khô, đóng bựa, vi khuẩn
tác dụng vào và tạo ra mùi hôi.
- Các bệnh
nấm trong miệng tạo mùi ngọt trái cây
- Răng giả
không được chùi rửa sạch sẽ.
b- Một số
thực phẩm có chất dầu gây hôi
cho hơi thở như tỏi, hành. Các thực phẩm này sau khi được tiêu
hóa, chất bay hơi của chúng đều được hấp thụ vào máu, lên phổi
và theo không khí hít thở mà bay ra cửa miệng.
Mùi rượu sau
khi uống vào cũng thoát ra như vậy trong hơi thở.
c- Một số
bệnh về bộ máy hô hấp như nhiễm
trùng phổi kinh niên, viêm xoang mãn tính, chất lỏng ở sau miệng
nhỏ giọt xuống cuống họng, ung thư phổi, viêm cuống họng, tiểu
đường với mùi trái cây hư ủng, bệnh gan mùi trứng thối, thận mùi
tanh cá ươn, rối loạn tiêu hóa cũng tạo ra hơi thở hôi. Đặc biệt
là bệnh nhân tiểu đường là hay bị bệnh nớu răng, máu lưu thông
giảm. dinh dưỡng kém, nớu mau hư.
Những bệnh về
bao tử ít gây ra hôi miệng vì van thực quản-dạ dày luôn luôn
khép kín, hơi không bốc lên được ngoại trừ khi ói mửa hoặc ợ
chua, trào ngược nước chua từ bao tử vào thực quản, thoát vị khe
thực quản (hiatal hernia) hoặc hẹp môn vị (pyloric stenosis)
Nhiễm trùng
tổng quát, bị nóng sốt làm cho miệng khô
d- Rối
loạn về sự co bóp của bao tử,
thực phẩm chậm tiêu hóa ở lâu trong dạ dầy, bị lên men cũng tạo
ra mùi hôi, nhất là khi ta ợ.
e- Một
nguyên nhân Tâm Lý là nhiều
người quá chú tâm tới dung nhan mình, có ảo tưởng là cơ thể
mình hư hao, phát tiết ra mùi khó chịu. Nhiều người mỗi khi nói
chuyện là che miệng, như thể là miệng mình hôi.
g- Trong
thời kỳ kinh nguyệt cũng hay có
mùi hôi lưu huỳnh từ miệng gây ra do thay đổi kích thích tố
trong cơ thể.
h- Dược
phẩm gây ra khô miệng cũng gián tiếp tạo mùi hôi
như thuốc chống dị ứng benadryl, trị tâm thần, trầm cảm, thuốc
lợi tiểu tiện, trị bệnh Parkinson, cao huyết áp
Phân tích mùi hôi
Đa số mùi hôi là
do chất hơi có lưu huỳnh (Sulfur), như hydrogen sulfide có mùi
hôi trứng thối, methyl mercaptan, và dimethyl disulfides. Đôi
khi, mùi hôi do những chất hơi acids béo (fatty acids) như
propionic, butyric, hay valeric acids hay những chất amin
(indole, skatole, cadaverine và putrescine).
Bình thường
các chất này được hòa tan trong nước miếng và hấp thụ vào tế bào
ở miệng. Nhưng khi có quá nhiều hoặc miệng quá khô, chúng sẽ tỏa
ra hơi thở từ miệng, khiến cho hơi thở kém thơm tho.
Chẩn đoán hôi miệng
Nhiều người
cứ tự hỏi không biết miệng mình thơm hôi ra sao nhất là khi cần
rù rì tâm sự sát với tai người khác. Sau đây là mấy phương thức:
- Tự mình tìm
hiểu bằng cách thở hoặc bôi nước miếng vào lòng bàn tay đợi vài
giây cho nước miếng khô rổi hửi xem thơm hôi ra sao.
- Khi ta bịt
mũi thở ra bằng miệng mà thấy hôi thì đa phần là mùi xuất phát
từ miệng. Ngược lại ngậm miệng thở ra bằng mũi mà hôi là do bệnh
cơ quan nội tăng. Mùi hôi ngấm vào máu, thoát lên phổi rồi thở
ra ngoài.
- Nhờ người
khác khám phá khi họ kề sát mũi vào miệng mình hửi hơi thở. Nhớ
giữ khoảng cách an toàn, tránh nước miếng văng vào mũi miệng
mình.
- Dùng máy
khám phá mùi hôi (Halimeter). Máy rất chính xác có thể đo nồng
độ cao thấp khác nhau của mùi lưu huỳnh trong hơi thở.
Xin cô thử
duyệt lại các nguyên do kể trên, xem mình ở vào trường hợp nào
rồi ta từ từ loại bỏ, chữa trị.
Điều trị
Về điều trị
thì xin đề nghị với cô các phương thức sau đây:
a- Nguyên nhân thông thường nhất của hôi
miệng là từ miệng.
Đề nghị với
cô để ý nhiều đến vấn đề vệ sinh răng miệng. Đánh răng sau khi
ăn, nhất là nếu cô có thói quen hay ăn vặt, ưa món ăn ngọt. Cô
không cần dùng kem đánh răng, mà chỉ cần trà nhẹ mặt trong mặt
ngoài của răng cho sạch hết thức ăn sót trong miệng, đặc biệt là
ở kẽ răng.
- Mua thêm
dây chỉ nylon (Dental Floss) để cà khe răng cho sạch thức ăn kẹt
ở đó.
- Cô nên khám
Nha sĩ coi có bị sâu răng, nhiễm độc nớu thì xin chữa.
- Giữ miệng
ẩm ướt bằng cách lâu lâu uống một chút nước.
- Nếu lưỡi
đóng bựa, bám nhiều vi khuẩn thì cạo cho hết, nhất là mặt sau
của lưỡi.
b- Xin bác sĩ khám nghiệm coi có các bệnh
kinh niên như tôi kể trên và điều trị.
Nhắc nhở với
cô là trước khi gặp người yêu, không nên ăn các thực phẩm có thể
gây mùi hôi ở miệng như hành tỏi, cá mú. Đồng thời có thể tạm
thời làm giảm mùi hôi với:
- Nhai kẹo
cao su không đường để tăng tiết nước miếng mà công dụng là vừa
loại các miếng bựa vừa diệt vi khuẩn trong miệng,
- Xúc miệng
với các mỹ phẩm làm thơm miệng. Các chất này chỉ có tác dụng che
đậy, làm bớt hôi miệng trong thời gian ngắn sau khi dùng, chứ
không trị dứt được hôi miệng đâu.
- Trái cây có
nhiều chất xơ như táo, cà rốt, lê khi nhai có thể làm sạch
miệng.
- Ăn một ly
sữa chua, một miếng pho mát cũng có tác dụng sạch miệng, trừ
hôi.
- Các loại
cây lá có mùi thơm như quế, gừng, rau mùi tây, bạc hà, hồi, chè
xanh …cũng tạm thời át mùi hôi ở miệng.
- Pha một
chút bột nở baking soda với nước cũng diệt vi khuẩn, giảm mùi
hôi ở miệng.
- Mạnh hơn
nếu cô pha 50% nước oxy già hydrogen peroxide với 50% nước rồi
xúc miệng. Đây là dung dịch diệt trùng rất tốt.
Nhớ đừng quá
chén, nhiều rượu hoặc cà phê nhé, vì các chất này lợi tiểu, làm
miệng mau khô, lời nói không dẻo mà vi khuẩn lại tăng sinh, hôi
miệng.
Chúc cô có
nhiều niềm vui trong hơi thở vẫn thơm, cho tăng tình yêu lứa
đôi.
Bác sĩ Nguyễn
Ý Đức M.D. Texas-Hoa Kỳ.
www.bsnguyenyduc.com
|
VỀ MỤC LỤC |
Thói Vũ Phu -
Chuyện phiếm của Gã Siêu |
Trong khi phần lớn những anh đều chồng sợ
vợ, thì cũng có không ít những anh chồng thuộc vào loại hảo hớn,
lúc nào cũng sẵn sàng nổi máu “yêng hùng” đối với chị vợ. Thái
độ của những anh chồng loại này, được tóm tắt vào mấy chữ “Đ”
như sau:
- Độc đoán, đày đọa và đánh đập…vợ mình.
Thái độ trên xuất phát từ những tư tưởng
chỉ đạo của Nho giáo. Bởi vì Khổng Mạnh vốn chủ trương trọng nam
khinh nữ: Nhất nam viết hữu, thập nữ viết vô, một mụn con trai
được kể là đã có, còn mười cô con gái cũng vẫn bị coi là không.
Vì thế, một khi đã mang thân phận đờn bà
con gái thì bắt buộc phải sống cái đạo “tam tòng”:
- Tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu
tử tòng tử. Có nghĩa là ở nhà thì phục tùng bố. Khi lập gia đình
thì phục tùng chồng. Còn khi chồng ngỏm thì phục tùng con.
Từ đó mà luôn luôn phải:
- Phu xướng phụ tùy. Có nghĩa là chồng mà
đã phán, thì vợ phải cúi đầu răm rắp vâng theo.
Ôm mớ lý thuyết này mà đi vào thực hành,
các ông chồng luôn nắm giữ vai trò “gia trưởng”, đứng đầu gia
đình, coi vợ như một đầy tớ, như một con ở, có bổn phận phải
phục dịch cho bản thân mình, đúng với tiêu chuẩn: Chồng chúa vợ
tôi.
Quan niệm này ngày nay đã bị đảy lui trước
những phong trào nổi lên như vũ bão: nào là phụ nữ đòi quyền
sống, nào là nam nữ bình quyền… Dầu vậy, đôi lúc nó vẫn còn tái
xuất giang hồ ở chỗ này hay chỗ khác, dưới hình thức nọ hay hình
thức kia.
Trước hết, về phương diện tư tưởng, các ông
chồng này luôn tỏ ra độc đoán, cho ý nghĩ của mình là đúng và
bắt mọi người phải tuân theo. Tác phong của họ là “ cả vú lấp
miệng em”. Dù bộ ngực của nhiều người trong bọn họ lép kẹp vì là
dân “hít tô phe” nghĩa là nghiện thuốc phiện, hay xì ke ma túy.
Tiếp đến, về phương diện lời nói, các ông
chồng này luôn tỏ ra gắt gỏng, cộc cằn và thô lỗ, theo kiểu “dùi
đục chấm mắm tôm”. Mở mồm ra là:
- Cái con mẹ mày…cái con mụ kia.
Trong khi đó, môi miệng của họ lại dẻo quẹo
đối với bồ nhí hay đối với người dưng nước lã, thôi thì:
- Anh anh, em em…mình ơi, mình à…
Cứ ngọt xớt như đường cát và mát như đường
phèn!
Còn về phương diện hành động, họ luôn đày
đọa và đánh đập ở mọi nơi và trong mọi lúc.
Đày đọa bằng cách bắt chị vợ phải làm hết
mọi công việc nặng nhọc, từ buôn bán ngoài đường đến bếp núc
trong nhà. Còn họ thì lúc nào cũng phải thuốc lào ngon, trà tàu
đặc…để mà bàn chuyện chính chị chính em, chuyện trên trời dưới
đất với mấy ông bạn già, rồi ngước mặt nhìn đời bằng nửa con
mắt. Tác phong của họ đã được diễn tả như sau:
- Bố tôi hay tửu hay tăm,
Hay nghiện chè tàu, hay nằm ngủ trưa.
Ngày thì ước những ngày mưa,
Đêm thì ước những đêm thừa trống canh.
Tới bữa thì phải cơm bưng nước rót. Lắm khi
nhà nghèo không đủ tiền mua gạo, thế mà vẫn phải có tí thịt…cho
ông chồng nhắm rượu. Có gia đình còn phải dành riêng cho anh
chồng một mâm riêng, khi anh ta xơi xong thì mới tới lượt vợ con
và những người trong nhà. Thiếu điều chị vợ còn phải đứng mà
quạt theo kiểu:
- Em hầu quạt…mo.
Đày đọa như thế chưa đủ, đến khi tẩu hỏa
nhập ma, cơn giận nổi lên đùng đùng, thì liền ném nồi niêu.
xoong chảo, bát đũa…ra ngoài sân. Nếu chưa hả cơn nóng, thì bèn
thượng cẳng chân hạ cẳng tay, đánh đập chị vợ một cách không
thương tiếc.
Nghĩ về thái độ “vũ phu chi cục mịch này”,
gã thấy làm như vậy quả là vô cùng dại dột. Bởi vì khi tỉnh cơn
mê, nếu nồi niêu bát đũa bị bể vỡ, lại phải bỏ tiền ra mà mua
sắm. Nếu chị vợ đánh bị phun máu đầu, lại phải bỏ tiền bạc và
thời giờ ra mà chạy chữa. Còn nếu chẳng may chị vợ…bị đi tàu
suốt sang thế giới bên kai, thì chắc chắn ông chồng này sẽ được
luật pháp sờ vào gáy, cho ngồi nhà đá mà đếm lịch. Rồi tương lai
gia đình và con cái sẽ như thế nào?
Một anh chồng đã thề quyết với bè bạn như
sau :
- Tớ hứa từ nay sẽ không bao giờ đánh vợ
nữa. Tốn kém lắm.
Mọi người đều ngạc nhiên:
- Sao lại tốn kém?
Anh chồng buồn sầu trả lời :
- Vợ tớ thích làm đẹp, tớ hoàn toàn đồng ý.
Nhưng càng ngày cô ấy càng quá đáng. Hôm trước cô ấy hỏi ý kiến
để đi xâm môi, tớ không đồng ý vì từ cha sinh mẹ đẻ đến giờ môi
vợ tớ đã thật dễ thương rồi. Mua son gì tớ cũng chịu, chứ đi xăm
nó hâm hâm tái tái, như miếng thịt trâu ôi, nhìn thấy mà ghê. Tớ
cương quyết:
- Em mà xâm môi, anh nhất quyết sẽ không
bao giờ hôn em nữa. Đồ thật còn chẳng ăn, ai lại ăn đồ giả.
Yên lặng được một thời gian, lần này cô ấy
chẳng thèm hỏi han gì, qua mặt tớ luôn. Các cậu thấy đấy, cái
mũi vợ tớ trước giờ vốn hênh hếch nhìn có duyên đáo để. Thế mà
hôm nay cô ấy đem về trình diện tớ một cái mũi dọc dừa thẳng
tưng, chóp mũi còn cao hơn cả cái trán. Tớ mở tủ xem ngân quĩ
thì thấy thiếu mất một triệu rưỡi. Khổ quá! Đang dành tiền tính
đổi cái xe đạp cà tàng cổ lỗ sắp thành sắt phế thải rồi. Cũng
phải lên đời, chuyển hệ thành xe máy chứ. Tức quá, tớ gọi cô ấy
lại, xáng cho nguyên một bạt tai. Của đáng tội, tớ đánh nhẹ thôi
chứ đâu có mạnh tay. Lần đầu tiên kể từ khi cưới nhau, tớ đánh
vợ tớ. Các cậu biết chuyện gì xảy ra không ? Cái mũi “mỹ viện”
của cô ấy lệch sang một bên, nhìn giống như cục thịt thừa. Cô ấy
soi vào gương mà cứ khóc thút thít khiến tớ ân hận quá. Nắn mãi
cũng không làm sao cho mũi ngay ngắn lại được. Đành phải chở vợ
tớ tới mỹ viện, tốn thêm một triệu rưỡi nữa để họ chỉnh cái mũi
lại như cũ. Tớ chỉ đánh vợ một lần duy nhất mà thôi, tởm tới
già. Giận quá mất khôn. Tốn một lần chưa đủ hay sao mà lại muốn
tốn thêm một lần nữa.
Kinh nghiệm sống sượng trên đây đáng cho
mọi anh chồng vũ phu suy gẫm trong cung cách cư xử với chị vợ
của mình.
Làm thân đờn ông đã khó, còn làm anh “chồng
giỏi chồng ngoan” lại càng khó hơn.
Và để kết luận, gã xin kể lại một mẩu
chuyện như sau:
Hôm đó, một nhóm các cô gái đi tới câu lạc
bộ “tìm bạn”, nơi mà người ta quảng cáo có rất nhiều chàng trai
để các cô làm quen. Khi họ đến, người hướng dẫn nói:
- Chúng tôi có năm tầng. Các cô cứ đi theo
thứ tự từ tầng một và có thể dừng lại bất cứ chỗ nào các cô thấy
thích hợp.
Họ đi vào tầng một, thấy tấm biển với hàng
chữ:
- Ở đây có những chàng trai thấp và chất
phác.
Họ liền cười ồ và tiếp tục lên tầng hai.
Tại tầng hai, họ thấy tấm biển với hàng chữ:
- Ở đây có những chàng trai thấp và đẹp.
Các cô thấy chưa đủ tiêu chuẩn, nên tiếp
tục lên tầng ba. Tại tầng ba, họ thấy tấm biển với hàng chữ
- Ở đây có những chàng trai cao và chất
phác.
Các cô muốn các chàng trai tốt hơn nên đi
tiếp. Tại tầng bốn, họ thấy tấm biển với hàng chữ:
- Ở đây có những chàng trai cao và đẹp.
Các cô rất hào hứng vì thấy càng lên cao,
tiêu chuẩn càng tăng và chất lượng càng bảo đảm. Các cô thầm
nghĩ:
- Còn một tầng nữa, tội gì mà không lên.
Vì thế, các cô tiếp tục leo lên tầng năm.
Tại tầng năm, họ thấy tấm biển với hàng chữ:
- Ở đây chẳng có chàng trai nào cả. Tầng
này được xây chỉ để chứng minh rằng: Ở trên cõi đời này, không
có cách nào làm cho phe đờn bà con gái được vừa ý cả.
Tất cả các cô đều chưng hửng, trố mắt nhìn
nhau, vừa mệt lại vừa tức. Câu lạc bộ này quả thực là…đồ đểu, đồ
tồi, đã chơi khăm các cô nàng một vố đau điếng
Đọc xong mẩu chuyện trên, gã đã phải mất
trọn một đêm không ngủ, nằm vắt chân lên trán mà suy gẫm. Rồi
sau đó, lồm cồm bò dậy, bắn một phát thuốc lào, tớp một ngụm trà
nóng, rồi vỗ bụng cười…hề hề.
Gã Siêu
gasieu@gmail.com
|
VỀ MỤC LỤC |
|
- Mọi liên lạc: Ghi danh, thay đổi địa chỉ, đóng góp ý kiến,
bài vở..., xin gởi về địa chỉ
giaosivietnam@gmail.com
- Những nội dung sẽ được đề cao và chú ý bao gồm:
Trao đổi, chia sẻ những kinh nghiệm thực tế trong việc mục
vụ của Giáo sĩ; Những tài liệu của Giáo hội hoặc của các
Tác giả nhằm mục đích Thăng tiến đời sống Giáo sĩ; Cổ võ ơn
gọi Linh mục; Người Giáo dân tham gia công việc “Trợ lực
Giáo sĩ” bằng đời sống cầu nguyện và cộng tác trong mọi lãnh
vực; Mỗi Giáo dân phải là những “Linh mục” không có chức
Thánh; Đối thoại trong tinh thần Bác ái giữa Giáo dân và
Giáo sĩ… (Truyền giáo hay xây pháo đài?)
- Quy vị cũng có thể tham khảo những số báo đã phát hành tại
www.conggiaovietnam.net
Rất mong được sự cộng tác, hưởng ứng của tất cả Quí vị
Xin chân thành cám ơn tất cả anh chị em đã
sẵn lòng cộng tác với chúng tôi bằng nhiều cách thế khác
nhau.
TM. Đặc San Giáo Sĩ Việt Nam
Lm. Luca
Phạm Quốc Sử
USA
|
|
*************
|
|