Đặc San Giáo Sĩ Việt Nam

 

 

 

ĐỰƠC CHỌN GIỮA LOÀI NGƯỜI
VÀ CHO LOÀI NGƯỜI  (x. Dt, 5.1)

 

GIÁO SĨ:

Xuất phát từ giáo dân, hiện diện vì giáo dân và cậy dựa vào giáo dân

 

ĐỂ CÙNG LÀM VINH DANH THIÊN CHÚA

 

www.conggiaovietnam.net                          giaosivietnam@gmail.com

Đặc San Điện Tử    Giáo Sĩ Việt Nam    Số 137, Chúa Nhật 30.01.2011


MỤC LỤC 

Hiến Chế Mục Vụ Về Giáo Hội Trong Thế Giới Ngày Nay                                      Vatican 2

Sứ điệp của Đức Thánh Cha nhân ngày Truyền Thông Xã Hội lần thứ 45       Lm. G.Trần Đức Anh OP.

NGHÈO LÀ PHÚC ?                                                Lm. Vinh Sơn Phạm Trung Thành, dcct.

RỘN RÀNG TẾT                                                                                    PM. Cao Huy Hoàng

Ý NGHĨA KITÔ GIÁO TRONG TẾ NAM GIAO CỦA NGƯỜI VIỆT                          Hiền Lâm

NGỤ NGÔN THỜI BẤN LOẠN (KỲ 19)                                    Gioan Lê Quang Vinh, VRNs

THOMAS MORE                                                                                                               Br. Huynhquảng  

GIÁO HỘI CÔNG GIÁO TỪ SAU CÔNG ĐỒNG VATICAN II ĐẾN CHÚNG TA (1)    Tiến sĩ Nguyễn Học Tập

NHỮNG VẤN ĐỀ CỦA HÔN NHÂN (7)                                           Lm Lê Văn Quảng Psy.D.

CÁC HÌNH THỨC CẦU NGUYỆN                               Lm. Micae Phaolô Trần Minh Huy, pss.

KHI THỬ THÁCH CHỚM NỞ HÃY NHỚ LỜI THỀ THỦY CHUNG     Lm. Minh Anh, tổng hợp

CÔNG DỤNG CỦA CHẤT XƠ.                                                                     Bác sĩ Nguyễn Ý Đức M.D.

MÈO                                                                                           Chuyện Phiếm của Gã Siêu


Hiến Chế Mục Vụ Về Giáo Hội Trong Thế Giới Ngày Nay

 

Thánh Công Ðồng Chung Vaticanô II

 

Hiến Chế Mục Vụ Về Giáo Hội Trong Thế Giới Ngày Nay

Gaudium Et Spes

 

Prepared for Internet by Vietnamese Missionaries in Asia


 

Lời Giới Thiệu

 

Hiến Chế Mục Vụ về Giáo Hội trong thế giới ngày nay có mục đích chính là "trình bày sự hiện diện và sinh hoạt của Giáo Hội trong thế giới" (số 2, đoạn I).

Nhờ Hiến Chế tín lý về Giáo Hội, Công Ðồng đã trình bày mầu nhiệm Giáo Hội: giai đoạn khởi đầu, sứ mệnh, cơ cấu, đời sống nội tại... để canh tân Giáo Hội.

Trong Hiến Chế Mục Vụ về Giáo Hội trong thế giới ngày nay "có lẽ chư bao giờ Giáo Hội đã nhận thấy cần phải tìm hiểu xã hội loài người chung quanh như hiện nay để tới gần nó, tôn trọng nó một cách chính đáng, nhập vào nó, phục vụ và trao cho nó sứ điệp Phúc Âm. Hơn nữa, dường như Giáo Hội ưa thích và chiều chuộng nó một phần nào đó, trong khi nó vẫn đang thay đổi mau chóng và không ngừng". 1

Công Ðồng cảm thấy rằng đó là việc khẩn cấp trong thời đại chúng ta.

Chủ đề chính

1. Trước hết Công Ðồng đề cập đến con người dưới mọi khía cạnh (số 3, đoạn I). Con người có phẩm giá rất thiêng liêng nhưng bị tội lỗi làm tổn thương, có cùng đích cao siêu nhưng phải vượt qua nhiều ngăn trở, đã nỗ lực để xây dựng văn minh tốt đẹp nhưng một phần lớn vẫn còn chủ trương vô thần. "Giáo Hội một phần nào đó đã tự xưng là tôi tớ của loài người" 2, bởi vì chúng ta "có thể quả quyết rằng chúng ta phải biết con người nếu muốn biết Thiên Chúa" 3.

2. Hiến Chế nói về thế giới, một thế giới phải được con người xây dựng. Thế giới tức là thực tại thế tục có giá trị và những qui luật riêng biệt của nó. Ðàng khác mọi giá trị và qui luật ấy đều phải phục dịch chính con người toàn diện, do đó phải thích hợp với luân lý và tôn giáo. Chính lịch sử do con người tạo nên, nhưng lịch sử hướng về Chúa Kitô là trung tâm điểm và là cùng đích!

3. Hiến Chế cũng trình bày sinh hoạt thế tục theo quan điểm của Giáo Hội.

A) Về việc làm: a) cắt nghĩa việc làm theo thần học, b) giá trị của nó, c) tính cách nhân phẩm, d) công hiệu của việc làm đối với nền văn minh.

B) Về sinh hoạt xã hội phải theo nguyên tắc riêng của từng lãnh vực một (ví dụ: kinh tế, khoa học, văn hóa...) và phải thích hợp với bản tính con người cũng như với đức tin và đức mến.

4. Sau cùng Hiến Chế dạy về hoạt động của Giáo Hội trong thế giới giúp chúng ta hiểu thêm về sứ mệnh và bản tính của Giáo Hội.

Hiến Chế Mục Vụ

Vì danh từ "Hiến Chế" mang ý nghĩa một mệnh lệnh và có vẻ không thích hợp với ý muốn của Công Ðồng là đối thoại với mọi người bất chấp tín ngưỡng, nên một số Nghị Phụ thích danh từ "Tuyên Ngôn" hơn. Nhưng Công Ðồng đã giữ lại danh từ "Hiến Chế" để nhấn mạnh tính cách quan trọng của văn kiện cả về phương diện giáo lý nữa.

Thêm tĩnh từ "Mục Vụ" để nhắc lại tính cách thực tế của giáo lý đó.

Danh từ "Giáo Hội" phải được hiểu như đã được trình bày trong Hiến Chế tín lý về Giáo Hội với sứ mệnh cứu độ.

Còn "Thế Giới" như vừa nói trên, là toàn thể thực tại do Thiên Chúa tạo nên, trong đó nhân loại là trung tâm điểm và có nhiệm vụ phát triển thế giới.

Vài nét lịch sử

Ngày 25-12-1961, khi triệu tập Công Ðồng, Ðức Gioan XXIII đã nói đến những mối lo lắng của Giáo Hội trước những thắc mắc của nhân loại. Giáo Hội có bổn phận phải bàn về các vấn đề đó, vì nó ảnh hưởng đến phần rỗi siêu nhiên 4.

Ngày 11-10-1962, nhân dịp khai mạc Công Ðồng, Ðức Gioan XXIII đã nói vạch rõ tinh thần mới cho Công Ðồng, tinh thần thương xót và thông cảm hơn là lên án 5. Chín ngày sau đó Công Ðồng gởi cho Thế Giới sứ điệp hòa bình và thương yêu cũng như sự quyết tâm phục vụ nhân loại, đặc biệt là người nghèo 6.

Tuy nhiên, trong số 70 lược đồ do các Ủy Ban đã soạn thảo, chưa có tài liệu nào dành riêng cho các vấn đề thế giới. Ðến cuối kỳ họp thứ nhất của Công Ðồng (12-1962) các lược đồ thu gọn lại thành lược đồ 17, có đầu đề: "Về những nguyên tắc và sinh hoạt của Giáo Hội để xúc tiến hạnh phúc của xã hội".

Vào đầu năm 1963 Ủy Ban hỗn hợp, gồm có chuyên viên của hai Ủy Ban về Tín Lý và Tông Ðồ Giáo Dân được bổ nhiệm soạn thảo lược đồ này. Ðầu đề mới là: "Về sự hiện diện của Giáo Hội trong thế giới ngày nay". Cũng có văn kiện khác do Ðức Hồng Y Suenens (Bỉ) đề nghị. Văn kiện này đã được gọi "Lược đồ Malines hay Louvain". Ủy Ban đã lập ra một tiểu ban do Ðức Cha Guano (Ý) làm chủ tịch và Cha Haering CssR (Ðức) làm thư ký để xét lại những đề nghị ấy.

Vào mùa hè năm 1964, các Nghị Phụ mới chấp nhận văn kiện, bấy giờ được gọi là lược đồ 13, cũng được gọi "Lược đồ Zurich", vì tiểu ban đã họp tại đó. Trong kỳ họp thứ ba (tháng 10-11) các ngài đề nghị phải sửa lại nhiều chỗ. Ủy Ban hỗn hợp soạn thảo một lược đồ mới (lược đồ Ariccia-Roma) theo địa danh làm việc.

Trong giai đoạn cuối cùng các Nghị Phụ bỏ phiếu nhiều lần: trước hết đã chấp nhận lược đồ cách đại cương rồi bỏ phiếu từng đoạn một. Sau nhiều sửa đổi theo những đề nghị của các Nghị Phụ, các ngài lại bỏ phiếu từng 12 đoạn và ngày 6-12-1965, 1,860 Nghị Phụ chấp nhận toàn bộ lược đồ, với 251 phiếu chống và 11 phiếu bất hợp lệ. Ngày hôm sau, trước khi Ðức Giáo Hoàng Phaolô VI công bố Hiến Chế, các Nghị Phụ lại bỏ phiếu một cách long trọng: lúc ấy vẫn còn 75 phiếu chống.

"Không ai có thể quả quyết rằng đạo Công Giáo là vô ích, khi nhận thấy rằng Giáo Hội, nhân dịp tự ý thức về mình nhiều nhất và có hiệu lực lớn nhất, tức là khi tập họp lại trong Công Ðồng, đã biểu thị rõ ràng Giáo Hội chỉ vì con người mà có..." 7.

"Ðối với người Việt Nam chúng ta, nhiều vấn đề có lẽ còn quá mới mẻ. Nhưng hướng đi của Công Ðồng là hướng đi của lịch sử hiện đại. Hiến Chế Mục Vụ nếu được hiểu và áp dụng cho đúng mức sẽ giúp chúng ta tiết kiệm được rất nhiều thì giờ và sức lực" 8.

 


Chú Thích:

1 Phaolô VI, Diễn văn nhân dịp lễ bế mạc Công Ðồng, 8-12-1965: AAS 58 (1966), 54.

2 N.v.t. trg 57.

3 N.v.t. trg 59.

4 Tông hiến Humanae Saluis, 25-12-1961: AAS 54 (1962), 5-13.

5 Diễn văn, AAS 54 (1962), 792.

6 AAS 54 (1962), 822-824.

7 Phaolô VI, Diễn văn nhân dịp lễ bế mạc Công Ðồng, 8-12-1965: AAS 58 (1966), 58.

8 Ðức Hồng Y Phaxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận, Giáo Hội trong Thế Giới hôm nay, Thanh Lao Công 1969, Lời giới thiệu (không mang số trang).

VỀ MỤC LỤC
SỨ ĐIỆP CỦA ĐỨC THÁNH CHA NHÂN NGÀY TRUYỀN THÔNG XÃ HỘI LẦN THỨ 45

Nguồn: http://www.radiovaticana.org/vie/Articolo.asp?c=456700  

VATICAN. Hôm 24-1-2011, lễ thánh Phanxicô đệ Salê, bổn mạng các ký giả Công Giáo, Sứ điệp của ĐTC Biển Đức 16 nhân ngày thế giới truyền thông xã hội lần thứ 45 đã được công bố với chủ đề: ”Sự thật, việc loan báo và đời sống chân chính trong thời đại kỹ thuật số (digital)”.

Ngày Thế giới truyền thông xã hội sẽ được cử hành vào chúa nhật 5-6-2011.

Trong sứ điệp, ĐTC phân tích những điểm tích cực và những rủi ro, nguy hiểm cũng như những thái độ cần tránh trong thời đại thông tin kỹ thuật số, đặc biệt là đối với những người sử dụng mạng xã hội (Social Network). Sự truyền thông qua các phương tiện tối tân này đang có xu hướng không phải chỉ là sự trao đổi dữ kiện, nhưng ngày càng trở thành một sự chia sẻ. Trong sự thông tin ấy, có một số giới hạn, đó là tính chất không khách quan giữa sự giao tác, xu hướng chỉ thông truyền một số khía cạnh trong thế giới nội tâm của mình, nguy cơ rơi vào một loại kiến tạo hình ảnh bản thân có thể đưa tới sự tự mãn nguyện”.

Trong bối cảnh đó, ”người trẻ ngày nay sống sự thay đổi truyền thông với tất cả những lo âu, những mâu thuẫn và sự sáng tạo vốn là một đặc điểm của những người hăng hái và tò mò cởi mở đối với những kinh nghiệm mới trong cuộc sống”.

Sứ điệp của ĐTC có đoạn viết: ”Sự hiện diện trong các môi trường tiềm thể của các mạng xã hội có thể là một dấu chỉ sự tìm kiếm thành thực những cuộc gặp gỡ giữa bản thân với tha nhân, nếu ta quan tâm tránh những nguy hiểm, những người trốn chạy trong một thứ thế giới song song, hoặc nghiện ngập thế giới tiềm thể”.

ĐTC ghi nhận rằng kỹ thuật mới làm cho con người gặp nhau vượt lên trên những ranh giới của không gian và văn hóa, khơi mào một thế giới hoàn toàn mới mẻ của những tình bạn tiềm thể.. Nhưng cơ may lớn này cũng bao gồm một sự ý thức về những rủi ro có thể xảy ra. Ai là tha nhân của tôi trong thế giới mới như thế? Phải chăng có nguy cơ bớt hiện diện với những người chúng ta gặp gỡ trong đời sống hằng ngày của ta? Phải chăng có nguy cơ lãng trí hơn, vì sự chú ý của chúng ta bị phân tán và bị thu hút vào một thế giới ”khác” với thế giới chúng ta đang sống?”

ĐTC nhắc nhở rằng ”Cả trong thời đại kỹ thuật số, mỗi người được đặt trước sự cần thiết phải là một chân thành và suy tư.. có một cách thức hiện diện theo tinh thần Kitô cả trong thế giới kỹ thuật số: lối sống ấy được cụ thể hóa trong sự thông truyền lương thiện và cởi mở, có tinh thần trách nhiệm và tôn trọng tha nhân. Thông truyền Tin Mừng qua các phương tiện truyền thông mới có nghĩa là không những đưa các nội dung tôn giáo rõ ràng vào trong các diễn đàn của các phương tiện khác nhau, nhưng còn có nghĩa là làm chứng tá phù hợp với cuộc sống, với căn tính của mình trên mạng, và trong cách thức thông truyền, chọn lựa, những sở thích ưu tiên, những phán đoán hoàn toàn phù hợp với Tin Mừng, cả khi người ta không nói về Tin Mừng một cách minh nhiên”.

Trong việc làm chứng tá Tin Mừng trên Internet, ĐTC nhắc nhở: ”Trước tiên chúng ta phải ý thức rằng chân lý mà chúng ta tìm cách chia sẻ không kín múc giá trị từ sự ”nổi tiếng” hoặc từ số lượng sự chú ý nó thu hút được. Chúng ta phải phổ biến chân lý trọn vẹn, toàn diện, thay vì làm cho nó được người ta chấp nhận bằng cách “bọc đường” cho nó. Chân lý phải trở thành lương thực hằng ngày chứ không phải chỉ là một sự thu hút nhất thời. Chân lý Tin Mừng không phải là điều có thể trở thành đồ vật tiêu thụ, hoặc một sự vui hưởng hời hợt, nhưng là một hồng ân đòi phải có sự tự nguyện đáp trả.” (SD 24-1-2011)

Lm. G.Trần Đức Anh OP.

VỀ MỤC LỤC

NGHÈO LÀ PHÚC ?

 

Lạy Chúa, những ngày này,

bao nhiêu người vất vả để tìm được một chuyến xe về quê,

có bao nhiêu chuyến xe đón đưa đến nơi đến chốn,

có bao nhiêu chuyến xe sang khách dọc đường?

Có bao nhiêu chuyến xe phục vụ một chỗ ngồi chính đáng,

Có bao nhiêu chuyến xe nhồi nhét đọa đày?

Có bao nhiêu chuyến xe an bình tới bến,

Có bao nhiêu chuyến xe vạ gió tai bay?

Bao nhiêu anh chị em con đánh mất cuộc đời trong chuyến đi bão táp!

 

Lạy Chúa, những ngày đầu xuân này,

Bao nhiêu gia đình được đoàn tụ.

Có bao nhiêu bếp hồng sôi sục tấm bánh xuân,

Có bao nhiêu góc bếp khô khan lạnh lẽo?

Có bao nhiêu mân dưa hành củ kiệu,

Có bao nhiêu nồi cơm ăn chẳng đủ no?

Anh chị em con còn khổ đến bao giờ!

 

Lạy Chúa, làm sao để anh chị em con nhìn ra mối phúc ?

Làm sao để anh chị em con sở hữu nước trời,

Ai sẽ cho anh chị em con được thấy,

Một chút thôi, ánh sáng giữa cuộc đời tối tăm!

 

Lm. Vinh Sơn Phạm Trung Thành, dcct.

 

VỀ MỤC LỤC
RỘN RÀNG TẾT

 

Chỉ còn có mấy ngày nữa là đến Tết. Rộn Ràng Tết. Rộn Ràng Xuân. Những rộn ràng đã bắt đầu xôn xao từ đầu tháng chạp, và nóng dần lên, rồi cuối cùng là nóng cực độ trong những ngày giáp Tết.

Tết, như một cái mốc thời gian, như một điểm hẹn, như một thời hạn.. mà trước đó, người ta phải rộn ràng tổng kết, rộn ràng thanh thỏa, rộn ràng vay trả trả vay, rộn ràng tân trang, rộn ràng sum họp, rộn ràng lễ bái… cũng không quên những rộn ràng của toan tính gian tà ma thuật cho chìm xuồng những thất thoát công, tư…

Các tín hữu công giáo cũng không tránh khỏi những rộn ràng ấy trong chuyện đời thường.  

Ở chỗ tôi sống, đa số là người nghèo khổ, nên rộn ràng nhất vẫn luôn là rộn ràng nợ nần, rộn ràng vay trả!

Chị L bán bánh canh mượn đầu heo nấu cháo, vay nóng 2 triệu lãi 10 phân. Sáu tháng chưa tính lãi, vì được đồng lãi nào cũng phải gửi vào Sài gòn cho con kịp đóng tiền nhà trọ hằng tháng, tiền ăn học… Bà chủ nợ làm hung dữ, chị đành khóc lóc đưa cái sổ đỏ nhà mình.

Ông T bệnh nuôi vợ bệnh triền miên mượn bà V một chỉ vàng từ hồi giá vàng còn chưa tới hai triệu một chỉ. Cuối năm, bà V tổng kết lại còn bao nhiêu lượng trong cái kho tàng của mình. Ngày nào bà cũng tới thăm ông bà T bệnh. Những giọt nước mắt lăn dài của bà T trên giường bệnh…

Năm ngoái tôi còn được chứng kiến cảnh rùng rợn hơn: vợ chồng anh H làm mướn cả năm, chẳng may, chị bị tai nạn, một mình anh cáng đáng nuôi vợ nằm một chỗ và hai con nhỏ. Anh nợ chị L chỉ 200 ngàn đồng thôi. 28 tết, Chị L đến hỏi tiền, không có, xiết luôn thùng mì tôm với túi gạo mười ký mà Cha sở và Giáo xứ mới cho người nghèo ăn tết: “đủ rồi nhé!”, ngoắt cái, ra về.

Ai cũng phải làm cho có kinh tế để nuôi sống gia đình, nên cũng phải tổng kết  thu chi vốn lời thắng thua được mất, là chuyện thường. Nhưng có phải chỉ người nghèo là đau khổ đâu. Người giàu cũng có khi tan tác.

Nửa đầu năm công ty cô Đ thắng 2 tỷ buôn bán Thanh Long sang Trung Quốc, chỉ sau một cơn bệnh, nửa cuối năm cô lại thua 4 tỷ, và hiện cô còn mắc nợ của những người buôn nhỏ, từ người đôi ba chục triệu đến người đôi ba trăm triệu. Nhìn cái công ty cuối năm của cô mà phát rầu… đôi ba chục người đang đòi nợ. Khi thịnh vượng thì “cô cô chủ chủ”, lúc suy vong thì “cái mặt con mẹ đó đoản hậu” mới ghê!

Chuyện lớn của những người làm kinh tế to sinh ra chuyện rộn ràng đau to. Còn chuyện nợ nần tưởng nho nhỏ, nhưng cũng rộn ràng đau  nhói trong lòng biết bao người nghèo. Mà nhất là người bệnh.

Ông H thất nghiệp cả hơn 2 năm nay, vì tim ông có vấn đề. Sau lần cấp cứu vì nhồi máu cơ tim, ông đang ở giai đoạn chuẩn bị mổ tim, nông vành, ngày nào cũng phải chiến đấu với nỗi buồn của nhịp thở lúc được lúc mất. Những ngày cuối năm ông còn phải đối diện với ít là ba chủ nợ với số tiền chưa đến 20 triệu trong khi cảnh nhà trống hươ trống hoác từ trước ra sau, chẳng thấy gì là tết! Đã mấy lần ông tự làm nghi thức cấp cứu! 

Ngược đời, trong khi những người nghèo ngay ngáy lo thanh thỏa những món nợ nần, thì những người có của ăn của để lại rộn ràng chuyện tân trang: tân trang nhà cửa, tân trang xe cộ, tân trang y phục, tân trang lỗ mũi, con mắt, tân trang cả người, tân trang luôn cả cái quan hệ xã hội: mời mấy ông cán bộ, mấy nhà giàu có tất niên ở nhà mình cho rôm rả, cho khí thế, cho có cảnh Đại Lai trọng vọng…

Có những chuyện đáng tân trang cho nó mới mẻ, đàng hoàng, nhưng cũng không thiếu những chuyện tân trang lãng phí. Lãng phí thật chứ không phải vì người nghèo thấy lãng phí.

Chuyện rộn ràng tân trang, kéo theo rộn ràng chuyện sum họp lễ bái cho tưng bừng cho hoành tráng. Phải chuẩn bị cho sẵn vài chai rượu ngoại, năm bảy thùng bia Heneiken, sẵn vài ký mực khô, năm bảy con mực một nắng, để còn bạn bè của bố, bạn bè của con, bạn bè của Mẹ nữa sum họp cho ra trống ra trò. Rộn ràng sum họp cái tết chỉ đôi ba chục triệu, trăm triệu, thôi mà!           

Trong khi, có những chuyện rộn ràng sum họp ở những nhà nghèo thật đáng trân trọng. Chị N nuôi được năm bảy con gà, dẫu có túng tiền tiêu tết cũng không dám bán, quyết để dành cho mấy đứa con học ở Sài Gòn về ăn một cái Tết đơn sơ với Mẹ: Gà Mẹ nuôi lúc nào cũng ngon hơn gà mua ngoài chợ, rau Mẹ trồng thơm nồng hơn bởi được tưới tắm bằng những giọt mồ hôi, bánh tét mẹ gói thoang thoảng hương lạ lùng, hương yêu từ lòng Mẹ, bánh in mẹ làm in cả hình dáng Mẹ gầy còm tiều tụy , in cả bóng trăng mờ le lói. Biết vậy, nên Mẹ chắt chiu. Biết vậy nên Mẹ thắt lưng buột bụng để không nhất thiết phải sắm sửa tân trang gì thêm mà hoang lãng. Ra giêng ra hai còn phải lo chuyện học phí đầu năm cho các con!

Còn bao nhiêu chuyện rộn ràng khác….rộn ràng tính chuyện du xuân, người rộn ràng thử tài thử vận, người rộn ràng chờ cơ hội đánh lận con đen có thêm lợi nhuận mới. 

Quả thật, trước một thềm Xuân, có quá nhiều chuyện rộn ràng cho một cái Tết, đã cuốn hút người tín hữu của Chúa vào dòng xoáy của một trào lưu duy vật chất, khiến cho mảng sống tâm linh con người ta nghẹt thở, nếu không nói là đã tắt thở trong một vài trường hợp tuyệt vọng.

Nếu đã quá chú tâm đến việc thanh thỏa nợ nần và đôi khi phải quì, phải lạy chủ nợ để xin khất nợ, thì sao không có một phút lắng lòng trước mặt Thiên Chúa rằng con đã vung tay tiêu xài của Chúa bao nhiêu hồng ân miễn phí. Con đã xử bất công với Chúa biết dường nào! Chúa không đòi nợ con sao? Vì Chúa không cho mượn, không cho vay, nhưng đã ban tặng tất cả.

Sao không tính đến chuyện rộn ràng Tạ ơn Chúa, vì những hồng ân năm qua, và rộn ràng tạ lỗi với Chúa vì những ơ hờ thiếu sót. Tôi còn nhớ, có một thánh lễ tạ ơn cuối năm ở Giáo Xứ tôi, mà cha cố Phêrô tỏ ra buồn sầu đến nóng giận. Vài chục người đi lễ. Thưa thớt, trể tràng. Trong bài giảng Ngài nói: “Sao có ít người đến tạ ơn Chúa quá vậy? Những chuyện rộn ràng đón tết quan trọng như vậy sao? Nếu không còn sống đến ngày cuối năm thì ai lo tết?” Sáng mùng một tết, thánh lễ minh niên quá đông.  Vào thánh lễ, Cha cố Phêrô kêu gọi: “Năm nào, anh chị em đi lễ minh niên cũng rất đông, chắc chắn là để dâng năm mới cho Chúa, để xin ơn Chúa. Nhưng lễ tạ ơn cuối năm có mấy chục người. Xin mọi người hãy tạ lỗi vô ơn với Chúa”.

…..

Phải nhờ con mắt Đức Tin mới nhìn thấy được những ơn lành Chúa ban trong cảnh nghèo khổ, trong khi túng thiếu, trong lúc bệnh tật. Trong khi chúng ta vẫn dùng con mắt duy vật để thẩm định ơn Chúa thì vừa mất lòng Chúa vừa mất ơn ích thiêng liêng.

Cũng phải nhìn lại tội đỗ thừa cho Chúa những tai họa, mà không nhận ra lầm lỗi do chính mình: Chúa ban tặng sức khỏe quí hơn vàng, còn con, làm tiêu hao sức khỏe không thương tiếc. Những cuộc vui say mèm làm mất trí, mất nhân cách, mất thời gian, mất công việc. Những cơn nghiện hút chích dày vò thân thể đến tàn tạ. Những cuộc vui chơi vô bổ lây nhiễm bao hiểm họa tận diệt chính cuộc đời mình. Những thương tật và cái chết lãng xẹt vì những cuộc đua xe cho thỏa chí anh hùng một thoáng. Những chán nản thất vọng không tìm được lối thoát chính đáng để có niềm cậy trông, tự làm cho xác thân tiều tụy đến bạc nhược. Thân xác không còn là đền thờ để Chúa Thánh Thần ngự trị, mà là một bãi hỗn độn những rác rưởi  nhớp nhơ.

Tưởng phải rộn ràng chuyện khất nợ với Thiên Chúa vì những hồng ân đã không sinh lãi sinh lời mà còn hao hụt thạm tệ. Phải rộn ràng chuyện lắng lòng một chút cuối năm để thấy một năm qua đi đầy những hững hờ, đầy những vô tình đối với một Ân Nhân không tận tay trao tiền trao bạc trao vàng, nhưng trao ban ân sủng thiêng liêng, sức khỏe, ý chí, nghị lực và cả những cơ hội thuận tiện để thăng tiến đời sông cá nhân và gia đình.          

Chỉ còn mấy ngày nữa để rộn ràng…đón tết.          

Xin cho chúng con rộn ràng niềm vui tạ ơn, vì có Chúa luôn đồng hành với chúng con trong năm qua. Chúa biết tất cả khi con đứng, lúc con ngồi.. Chúa biết cả trong tâm tư… Và Chúa vẫn can thiệp vào đời sống chúng con bằng cách yêu thương khôn ngoan của Chúa.

Xin cho chúng con biết rộn ràng tạ lỗi với Chúa. Tội lớn nhất của chúng con là loại trừ Chúa ra khỏi cuộc sống chúng con. Tâm hồn, thân xác và tâm trí của chúng con không chấp nhận để Chúa ngự trị.

Và xin cho chúng con biết rộn ràng một quyết tâm mời Chúa vào lòng, mời Chúa đến nhà, và giữ Chúa ở lại với cuộc đời chúng con trong năm mới này.

A men. 

PM. Cao Huy Hoàng 28-1-2011

VỀ MỤC LỤC
Ý NGHĨA KITÔ GIÁO TRONG TẾ NAM GIAO CỦA NGƯỜI VIỆT
 

Hiền Lâm

Dẫn nhập

Đất nước Việt Nam có một bề dày lịch sử với bao thăng trầm trong việc dựng nước và giữ nước, bắt đầu từ những tộc người thiểu số đến việc phát triển thành một đất nước độc lập…Song song với việc phát triển lãnh thổ và vật chất, đời sống tinh thần và tâm linh cũng phát triển theo; niềm tin tôn giáo từ sự bộc phát mộc mạc thời sơ khai, đến việc ảnh hưởng của tôn giáo du nhập và trải qua bao thăng trầm tôi luyện, người Việt đã có được một niềm xác tín vào sự hiện diện của ông Trời vừa siêu việt vừa gần gũi với cuộc sống của họ. Thế nhưng, niềm tin của người Việt lại mang tính đại đồng, vừa sẵn sàng tiếp thu mọi ảnh hưởng của các tôn giáo lại vừa giữ cho mình những nét rất riêng, vì thế, tự nó tạo nên một nền thần học rất phong phú. Chính điều này thật không dễ dàng khi nghiên cứu một nền thần học Việt Nam, cách riêng về ngôi vị độc nhất của Trời… trong giới hạn bài này, chỉ xin tập chú vào tìm hiểu những nét thần học chính yếu qua Tế Nam Giao mà thôi.

I. SƠ LƯỢC VỀ LỊCH SỬ TẾ ĐÀN NAM GIAO

Con người là một hữu thể tôn giáo nghĩa là đời sống tinh thần của họ luôn gắn liền với ý niệm niềm tin và lời cầu nguyện. Niềm tin tiềm ẩn trong tâm thức mỗi người và thường được biểu lộ ra bằng lời cầu nguyện. Lời cầu nguyện này có thể là âm thầm và mang tính cá nhân, nhưng cũng có những lúc lời cầu nguyện mang tính tập thể có nghi thức và tổ chức long trọng như nghi lễ cầu mùa, lễ cầu an… Một trong những hình thức cầu nguyện mang tính tập thể có quy mô lớn và long trọng, trong niềm tin của người Đông Phương, đó là lễ tế Nam Giao.

Vậy lễ tế Nam Giao là gì ? Nó có nguồn gốc từ đâu? Cách thức lễ tế như thế nào?...

1. Từ ý: Nam Giao được kết từ hai chữ “Nam” và “Giao”.

Nam: Nghĩa là phía Nam, theo quan niệm địa lý của phương Đông, phía nam là hướng ánh sáng, nơi có ông Trời ngự, ngược với hướng Bắc là tối tăm[1]. Riêng đối với người Việt, Nam còn được hiểu là Nước Nam (phần lớn các triều đại trong lịch sử nước ta chọn quốc hiệu có chữ Nam như (Nước Nam, Đại Nam, Nam Việt, An Nam, Việt Nam).

Giao: nghĩa là giao hòa, gặp gỡ.

Như vậy, Nam Giao là nơi vua chúa và thần dân hướng về phía nam (nơi có Trời ngự), để gặp gỡ giao hòa với Trời qua việc dâng lễ vật å tỏ lòng hiếu kính, dâng sớ để trình tấu việc đất nước và cầu Trời ban phước lành[1].

2. Nguồn gốc:

Tế Nam Giao là một nghi lễ có từ rất xa xưa từ Trung Quốc du nhập vào Việt Nam:

Trung Quốc: các nhà nghiên cứu lịch sử và văn hóa cho rằng: Tục tế Trời Đất có từ thời vua Phục Hy (2852-2737 tcn). Tương truyền rằng vua Phục Hy thấy bức Hà Đồ do một con rùa từ dưới sông Hoàng Hà đội lên, vua nhìn đó và vạch ra Aâm Dương- Bát Quái, trong đó có quẻ Thiên (Trời), ứng với phía Nam, với ánh sáng…Trong thời này, có tế đàn Nam Giao nói lên một nước độc lập và có cơ cấu tổ chức. Việc tế Nam Giao chỉ có mục đích cầu an.

Đến cuối đời nhà Chu (1050-770 tcn) bắt đầu loạn lạc, các nước thay nhau “ tranh bá xưng hùng”, Nước nào là chủ mới được xây Đàn Nam Giao và vua nước đó được gọi là Thiên Tử có quyền tế Trời, còn các vua chư hầu chỉ được gọi là Vương Công. Từ đó Tế Nam Giao có thêm ý nghĩa mang màu sắc chính trị.

Tuy nhiên, theo quan niệm Phương Đông: “ Trời sinh ra muôn vật, điều khiển mọi sự và chủ trì vận mệnh mọi người”[1]. Vì thế, tế Trời phải cử hành ở nơi trang trọng nhất để nói lên thái độ kính cẩn và tôn trọng của con người đối với Trời là vị chủ tế tác thành và điều khiển vũ trụ càn khôn[1]. Có lẽ từ quan niệm đó mới sinh ra việc chọn hướng, chọn nơi trang trọng để tế lễ Trời Đất. Lễ Tế Nam Giao được hình thành và phát triển có quy mô lớn vào thời Nho Giáo (Trung Quốc) khoảng thế kỷ VI trước công nguyên.[1]

Việt Nam: Thế kỷ XI khi Lý Công Uẩn (Lý Thái Tổ) xây được một nền độc lập chính thức cho đất nước, nhà Lý cho xây dựng Nam Giao, như một cánh để tạ ơn Trời, đồng thời khẳng định với phương Bắc về chủ quyền của nước Nam. Tế Đàn Nam Giao được xây dựng đầu tiên ở phía Nam Thăng Long và mỗi năm tế một lần vào ngày đầu năm, nhà vua thay dân tế Trời để tạ ơn và cầu xin cho được quốc thái dân an.

Thời Trịnh Nguyễn phân tranh, vừa có vua vừa có chúa chẳng rõ ai là Thiên Tử để tế Trời, và hình như thời này không còn tế Nam Giao.

Khi Nguyễn Aùnh chiếm được Thăng Long, lên ngôi vua lấy hiệu là Gia Long. Năm 1802, vua đặt kinh đô ở Phú Xuân (Huế). Vào 1803 vua cho xây dựng đàn Nam Giao tại làng An Ninh (Huế), đến 1806 đàn Nam Giao được dời về phía Nam của kinh thành, đặt trên một quả đồi lớn thuộc làng Trường An thành phố Huế.

3. Kiến trúc:

Khởi đầu tế đàn rất đơn giản, chỉ là một gò đất cao ở phía nam, trên đó là một bàn thờ lộ thiên là nơi để vua thay dân tế Trời vào đầu năm để cầu bình an cho dân nước, xin cho được mưa thuận gió hoà, mùa màng tươi tốt… Nhưng dần dần trải qua các triều đại, xã hội phát triển đời sống kinh tế và văn hoá dân nước được nâng cao thì tế đàn cũng được xây dựng một cách có quy mô, có ý nghĩa mang tính tôn giáo và triết lý hơn.

Đến thời vua Gia Long, tế đàn Nam Giao được xây dựng rất công phu và có quy mô lớn: Đàn gồm 3 tầng xây chồng lên nhau, tượng trưng cho “Tam Tài”: Thiên- Địa-Nhân. Xung quanh được bó gạch xếp chắc chắn. Nền đàn có kích thước 340 x265m.

Tầng trên cùng : Hình tròn gọi là viên đàn, tượng trưng cho Trời, xung quanh có lan can quét vôi màu xanh, có đường kính 40,5m, cao 2,8m. trên nền  viền đàn có lót những viên đá có thanh lớn được khoét lỗ tròn, đến kỳ tế lễ những lỗ này được dùng để cắm cột dựng lều vải màu xanh, có hình nón gọi là thanh Oác.

Tầng dưới cùng: Hình vuông có lan can quét vôi màu đỏ, tượngtrưng cho con người, có kích thước 165m x165m, nền cao 0,85m. cả 3 tầng đều trổ cửa và bậc cấp ở 4 mặt Đông- Tây-Nam-Bắc. Ngoài bàn thờ Trời-Đất, hai bên còn có hương án thờ Tiên Đế và bên cạnh còn có 8 hương án phụ thờ thần Mặt Trời- Mặt Trăng, các Tinh Tú, thần Mây, Mưa, Gió,Sấm; Thần Núi, Thần Sông, Thần Biển…

Xung quanh đó còn có các công trình phụ như: Trai cung, là nơi dành cho vua nghỉ ngơi, trai tịnh vài ngày trước khi cử hành lễ tế. Thần trụ,  tức là nhà bếp nơi chuẩn bị các con vật chuẩn bị cúng tế.[1] Thần khố, tức là nhà kho chứa đồ cúng tế.

4. Nghi lễ:

Nghi lễ là trọng tâm, là cao điểm nên phải được chuẩn bị rất kỹ càng từ đồ trang trí đến lễ vật và cả những người sẽ trực tiếp cử hành nghi lễ.

Ba ngày trước hôm đại lễ, vua ngự giá từ Đại Nội đến ở trai cung, để trai giới trong ba ngày. Trong thời gian này các cơ quan trợ tế ở tạm tại các nhà tranh dựng xung quanh sân. Có một buổi tập do một vị đại thần đóng vai chủ tế thay vua.

Chính lễ: Bắt đầu đúng giờ Tý, vì vua là Thiên Tử nên chỉ có vua mời thay dân để chủ tế, cúng tế Trời, cầu bình an cho dân nước, xin cho mưa thuận gió hoà mùa màng tươi tốt. Vì vậy, nhà vua phải mặc áo bào, đội mũ vào để quỳ lạy, dân chúng thì tham dự một cách nhiệt tình và sốt sắng.[1] Khi việc tế lễ đã hoàn tất nhà vua đã trở lại trai cung để báo về các nghi lễ đã được thực hiện đầy đủ trang nghiêm và kính cẩn. Xong lễ vua xa giá vào cung vào đầu giờ thìn (khoảng 8 giờ sáng). Dọc đường dân chúng đã đón chờ sẵn để chào mừng.[1]

Nghi lễ này vào thời gian đầu được cử hành mỗi năm một lần vào đầu mùa xuân. Nhưng đến thời vua Thành Thái (1907) thì đổi lại 3 năm một lần.[1]

 

II. Ý NGHĨA THẦN HỌC TRONG TẾ ĐÀN NAM GIAO

Tế Nam Giao là một nghi lễ tế tự mang tính cộng đồng (cấp quốc gia) lớn nhất của Việt Nam thời phong kiến, vì thế được chuẩn bị rất công phu từ việc thiết kế tế đàn, lễ vật đến cách cử hành…Tất cả đều mang ý nghĩa rất đặc biệt có tính tôn giáo. Dưới đây xin được khai triển những nét thần học xuyên qua từng mục: Từ ý, kiến trúc tế đàn, niềm tin và nghi lễ:

1.Ý nghĩa của danh từ tế đàn Nam Giao

Như đã nói ở trên, Nam Giao nghĩa là nơi hướng về phía Nam để gặp gỡ Trời. Phía Nam là phía ánh sáng, ta rút ra được ý nghĩa mang tính thần học khi quan niệm Trời ngự trong ánh sáng,  nơi phát xuất mọi chúc lành làm cho mọi sự tốt tươi[1]. Điều này rất giống v?i ni?m tin Kitơ giáo ???c th? hi?n trong th?n h?c Gioan: “Thiên Chúa hằng ngự trong ánh sáng…” (1Ga 1.5-7)[1]

2. Ý nghĩa từ mô hình tế đàn Nam Giao

Qua kiến trúc tế đàn, chúng ta đặc biệt chú ý đến bàn thờ thiên, dù thô sơ hay cầu kỳ theo từng thời đại vua chúa, thì cũng đều được đặt trung tâm nhất, cao nhất và lộ thiên, không có tượng ảnh gì trên tế đàn và các bàn thờ khác chỉ đặt bao quanh phía dưới mà thôi. Điều này cho thấy niềm tin của người Việt rất tiến bộ, nghĩa là:

- Dầu có mang dáng dấp đa thần, nhưng Trời vẫn là Chúa Tể Càn Khôn, Đấng cao cả vượt trên hết chư thần. Đây cũng là niềm tin của Do Thái Giáo, như trong Kinh Thánh: “ Thiên Chúa chúng ta vượt trên hết chư thần” (Tv134,5)

- Bàn thờ lộ thiên và không có ngẫu tượng. Đây là cách bày trí rất gần với cách mà các tổ phụ đã làm trong Kinh Thánh Cựu Ước, cũng như cách cắt nghĩa của Phaolô. “Thiên Chúa, Đấng tạo thành vũ trụ, không ngự trong những điều do tay người phàm làm nên” (Cv17, 14-15)

3. Ý nghĩa nghi lễ Nam Giao

Đây được xem là nghi thức có tính Thiên Chúa Giáo nhất. Từ  việc quan niệm vua là “Thiên Tử” (con Trời) đến việc vua phải trai giới để bước vào tế Trời, và chỉ có mình “Thiên Tử” mới được tế Trời mà thôi, cho thấy nhiều nét thần học cơ bản sau đây:

-   Kinh Thánh Cựu Ước nói nhiều đến  việc các vị đại diện cho dân đến gặp gỡ Thiên Chúa luôn luôn phải thanh tẩy mình (x. Xh 18, 10-15; Đn l8, 21; 2Sm  13,20…). Về sau trong Kitô giáo việc này được thay thế bằng việc chuẩn bị tâm hồn khi bước vào nghi lễ phụng vụ.

-   Chỉ có một mình “Thiên Tử” mới được tế Trời, cũng giống như trong Do Thái Giáo, nơi cực thánh chỉ duy một mình Thượng Tế mới được vào mới thay lễ cho dân. Chính quan niệm “ Thiên Tử” của người Việt cho ta thấy nét thần học gần với Kitô học của Kitô Giáo:

a, Kitô học về Con Thiên Chúa

Như thời nhà Chu (Trung Quốc), hai chữ “ Thiên Tử” được dành cho vua của một nước độc lập. Cũng thế, mỗi khi có chủ quyền các vua Việt được coi là “Thiên Tử” (nhưng chỉ là trong nghi thức tế tự Nam Giao mới được xưng danh rõ này). Thiên Tử nghĩa là con của Trời, như thế mặc nhiên gọi Ông Trời là CHA. Dù từ “ Cha” ở đây không được hiểu theo tử hệ (đản sinh) nhưng là Cha theo tương quan tạo thành, nghĩa là không theo tương quan Đức Kitô và Chúa Cha trong Kitô Giáo, nhưng ít ra khi gọi ông Trời là Cha đã là một bước tiến lớn, thậm chí hơn cả Do Thái Giáo và phần nào gần với mặc khải Đức Kitô về Thiên Chúa là Cha.

b, Kitô học về Đấng Trung Gian

Hình ảnh thần dân tụ tập ở tế dàn Nam Giao, và một mình “ Thiên Tử” bước lên tế Trời và cầu phước cho dân, cho thấy vua đóng vai trò như vị Thượng Tế vào “Nơi Cực Thánh” để chuyển cầu cho dân trong “Do Thái Giáo”. Chỉ một mình vua mới có đủ tư cách làm “trung gian” chuyển cầu cho dân, đủ khả năng gặp gỡ Trời và thay Trời hành đạo. Hình ảnh này thật đẹp và gần với hình ảnh Đức Kitô-Đấng Trung Gian Duy Nhất- Đấng đại diện Chúa Cha để ban ban phúc cho nhân loại, đại diện nhân loại dâng lên Chúa Cha mọi của lễ và mọi lời chuyển cầu của con người.

c, Ý nghĩa cứu độ học

Lật lại lịch sử Nam Giao, ta thấy chỉ một nước có đủ chủ quyền tự do hoàn toàn thì vua mới được gọi là “Thiên Tử” và cũng đương nhiên mới có quyền tế Trời. Chẳng hạn thời Khổng Tử nhà Chu có rất đông các nước chư hầu, nhưng chỉ có một vương quyền nhà Chu mới là Thiên Tử còn tất cả các nước chư hầu vua chỉ được gọi là Vương Công và không có quyền tế Nam Giao. Điều này cho thấy, một khi  vua nước Nam xây dựng tế đàn Nam Giao, thì cũng đồng nghĩa với việc khẳng định chủ quyền độc lập của mình. Thiên Tử và độc lập gắn liền với nhau. Vì mất chủ quyền độc lập thì “Thiên Tử” cũng không còn và ngược lại.

Đọc lại Kinh Thánh Cựu Ước, lúc dân Israel nô lệ cho Ai cập thì không còn được lập bàn thờ kính Yavê và đồng thời cũng không người dẫn dắt. Đến lúc lưu lạc trong sa mạc nay đây mai đó họ cũng không có đền thờ cố định để kính Chúa, cho tới khi hoàn toàn độc lập, có vua thì bắt đầu xây dựng Gierusalem làm nơi tế tự và là nơi gặp gỡ Thiên Chúa. Điều này gợi cho chúng ta một gì na ná giống nhau giữa đền thờ Giêrusalem và tế đàn Nam Giao vậy.

Vượt trên những thực tại trần thế, xuyên qua tế Nam Giao, chúng ta có thể sánh ví Tế Đàn Nam Giao như là “hình ảnh’’ Đức Kitô, là đền thờ, là nơi gặp gỡ là nơi giao hoà, giao ước với Trời và với nhau. Đồng thời, cũng như qua tế Nam Giao, nước Nam khẳng định quyền độc lập tự do, thì nơi Đức Kitô người kitô hữu cũng tự hào về quyền tự do làm con Thiên Chúa trong vương quốc của “Thiên Tử” vậy.

4. Niềm tin vào ông Trời thể hiện qua tế Nam Giao

Tế tự chính là cách biểu lộ niềm tin, từ những lời cầu nguyện riêng tư đến cách tế tự có tính cách cộng động. Tế Nam Giao là một cách thể hiện niềm tin vào sự hiện hữu của Trời có tính cách cộng đồng quy mô nhất cấp quốc gia.

Niềm tin vào Trời đã ăn sâu vào tâm thức người Việt có từ rất xa xưa với nhiều quan niệm khác nhau, phần lớn quan niệm Trời phù hợp với cuộc sống và các hiện tượng. Riêng trong tế Nam Giao lại cho thấy bản tính siêu việt và chức năng của Trời: là Đấng sáng tạo càn khôn, quan phòng mọi sự và phân xử công minh cầm cân nảy mực.

a, Ông Trời là Đấng sáng tạo càn khôn

Như những người con mỗi dịp xuân về tụ họp quanh bố mẹ để chúc tuổi, lắng nghe lời nhắn nhủ của đấng sinh thành, vua là thần dân nước Nam mỗi dịp đầu năm mới cũng đến Nam Giao để thắp hương dâng của lễ cho Trời là Đấng Tạo Thành và xin được bình an thịnh vượng.

Niềm tin vào Trời tác tạo được diễn tả rất nhiều trong dân gian; ở Nam Giao được thể hiện rất cụ thể qua cách xây dựng tế đàn và nghi lễ tế tự:

+ Teá ñaøn ñöôïc thieát keá hoäi tuï moïi bieåu töôïng vuõ truï vaïn vaät, nhöng coù Trôøi laø chuû teå caøn khoân ngöï treân taát caû, yù noùi Trôøi laø Ñaáng Taïo Döïng vaïn vaät.

+ Caùc leã vaät noùi leân loøng hieáu kính maø Thieân Töû ñaïi dieän daâng leân Ñaáng Sinh Thaønh.

b, Ông Trời là Đấng Quan Phòng

“Trời che chở, Trời sinh voi Trời sinh cỏ, lạy Trời mưa xuống…”  Ý niệm về Trời không chỉ là Đấng Tác Tạo mà còn quan phòng che chở biểu lộ khá rõ trong Tế Nam Giao qua việc Thiên Tử và thần dân đến cầu xin mưa thuận gió hoà, năm mới an khang thịnh vượng…

c, Ông Trời là Đấng xét xử công minh

Như trong “bản tuyên ngôn” chính thức đầu tiên mà Lý Thường Kiệt tuyên bố với giặc Tàu:

“ Nam Quốc sơn hà Nam đế cư

Tiệt nhiên định phận tại thiên thư…

Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm

Như õđẳng hành khan thủ bại hư”

Cho thấy rõ ràng niềm tin: mọi sự do Trời phân định, đã được ghi rõ trong “thiên thư” (sách Trời) và ai chống lại sự phân định ấy sẽ tự chuốc lấy thất bại. Trời ngự chốn cao xanh, nhìn thấy tất cả, thấu suốt cả tâm can… Nơi xét xử của người xưa,ai cũng nại đến sự công minh của Trời và xin Trời chứng giám khi nói: “Đèn Trời soi xét”.

Như vậy: phải chăng người Việt đã được mặc khải về bản tính sáng tạo, quan phòng và thẩm phán công minh của Chúa Trời? Thật ra, niềm tin này là do những cảm nghiệm và trực quan một cách mãnh liệt đến nỗi người Việt xác tín rằng “Không có Trời ai ở được với ai?”. Sự hiện hữu của Trời đã ăn sâu trong tâm thức mọi người, nên không một học thuyết nào có thể phủ nhận được.

Niềm tin vào Ông Trời là Đấng Sáng Tạo, Quan Phòng và Công Minh xét xử rất gần với thần học Thiên Chúa Giáo. Nhiều chỗ trong Kinh Thánh, chính Thiên Chúa đã tự mặc khải Ngài là Đấng Sáng Tạo, Quan Phòng và Công Minh. Chính Người cũng thực hiện chức năng đó trong lịch sử nhân loại và lịch sử cứu độ và đó cũng là niềm tin căn bản của mọi tôn giáo lớn trên thế giới.

 

III. ẢNH HƯỞNG CỦA LẾ TẾ NAM GIAO TRONG ĐỜI SỐNG TÂM LINH NGƯỜI VIỆT NAM

Khi đặt niềm tin vào một điều gì hay một ai đó, thì chính điều mình tin sẽ chi phối trên mọi suy nghĩ và sinh hoạt của mình, đặc biệt là tin vào những gì có tính tâm linh tôn giáo. Khi người Việt đặt niềm tin vào Trời với quan niệm về phẩm tính của Ngài là siêu việt, sáng tạo, quan phòng và xét xử, thì chính niềm tin đó ảnh hưởng trên tâm thức và mọi hoạt động của họ. Người Việt tin Trời ngự ở Nam Giao để họ đến gặp gỡ, hiện diện khắp nơi và thấy hết mọi tư tưởng và hành động của mọi người. Tin Trời quan phòng ban phát mọi ơn lành nên lập bàn thờ Thiên trước nhà mình để cầu khẩn và tạ ơn Trời…

1. Ý thức sự hiện diện của Trời

Từ việc hằng năm phải tế Nam Giao, cho thấy từ vua tới dân đều ý thức sự hiện hữu và sự quan phòng của Trời đến nỗi không thể không tế Trời để tỏ lòng hiếu kính. Đặc biệt chọn tế vào giờ Tý (giờ đầu tiên) của năm mới, như mong muốn chính Trời là vị đầu tiên “xông nhà” đất Việt, để cả năm nước Việt được an hoà[1].

Ý thức về sự hiện diện và quan phòng của Trời, nên người Việt luôn tin tưởng, phó thác, cậy trông vào Trời. “Đi đâu cho thoát lưới Trời, ở đâu cho hạp mệnh Trời  mới êm; Ai bảo Trời không có mắt?...” Nhưng ông Trời đó không phải là một nguyên lý hay một ý tưởng mông lung mơ hồ, huyền hoặc mà là một Đấng Siêu Phàm, vượt trên muôn loài, muôn sự; Đấng ấy làm Chủ vũ trụ càn khôn. Nên người Việt Nam thuộc mọi tầng lớp xã hội, tri thức hay bình dân đều gắn bó mật thiết với Trời.

Do đó, để việc “hội nhập văn hoá” cũng như để đẩy mạnh việc truyền giáo, thiết tưởng không thể bỏ qua việc tìm hiểu niềm tin vào ông Trời của người Việt Nam, vốn đã ăn sâu trong tâm khảm của người Việt Nam ngay từ khi còn sống như một bộ lạc và cho đến ngày nay[1]

Linh mục Cadière một trong những người nước ngoài khi đến truyền giáo tại Việt Nam đã nhận ra điều thiết yếu đó, ngài đã ghi lại những lời sau đây có thể nói là “chìa khoá” để mở cánh cửa tâm linh của người Việt Nam.

“Hình như những ý nghĩa chính chúng ta thấy gán cho chữ Trời thuộc về cái rốn triết học riêng của dân tộc Việt Nam, vì ý niệm Trời đã ăn sâu vào trông tâm hồn người Việt Nam. Trời coi như các nguyên lý các hiện tượng thời tiết và nhân cách hoá, Trời coi như một Đấng Toàn Năng có ảnh hưởng vào vận mệnh của loài người. Người ta có thể thừa nhận như tôi tưởng, là cái ý nghĩa một Đấng Toàn Năng đã được trau dồi phát triển với ảnh hưởng các tư tưởng Trung Hoa, nhưng ngay từ khởi thuỷ trong ý thức Việt Nam đã sẵn có mầm sống của ý niệm ấy rồi. Bằng chứng như tôi đã nói, là cái ý niệm ấy đã thấm nhuần quá sâu vào tâm hồn người Việt Nam, và đã biểu hiện quá phổ thông trong ngôn ngữ bình dân dễ cho người ta nhìn thấy ở đây chỉ là một cống hiến ngoại lai. Những ý tưởng Phật giáo, những ý tưởng Nho giáo, theo quan điểm lịch sử chắc chắn từ Trung Hoa du nhập, đã không thấm nhuần vào đời sống tâm hồn, vào ngôn ngữ bình dân tới mức độ ấy được.”[1]

Nhận định của linh mục Cadière trên đây rất đúng và rất sâu sắc, vì điều đó biểu lộ rất tự nhiên trong tâm thức của người Việt Nam. Cụ thể là người Việt Nam không chỉ thờ  Ông Trời mà còn tôn trọng cả người được coi là Trời ở trần gian.

2. Kính trọng Thiên Tử

Trong việc ứng nhân xử thế hằng ngày của người Việt Nam có câu: “Kính trên nhường dưới”. Đối với người trên thì phải kính trọng, đối với người dưới thì phải nhường nhịn, yêu thương. Do đó, chúng ta không ngạc nhiên khi người Việt Nam kính trọng vị vua cai trị nước; hơn nữa, họ tin rằng vị vua chính là thiên tử (con Trời), là người đại diện cho Trời để điều khiển dân theo lệnh của Trời. Qua tế Nam Giao cho thấy vai trò của Thiên Tử là sẽ truyền đạt cho dân ý muốn của Trời, để dân biết mệnh Trời mà làm theo, đồng thời vị thiên tử cũng chính là người đại diện cho dân để dâng lễ tế Trời, và tâu trình những công việc cùng những ước nguyện của dân lên với Trời.

Bởi đó vận mệnh của đất nước được hưng thịnh hay suy vong là do đời sống đức độ và sự khôn ngoan của vị thiên tử. Đức độ để nghe được mệnh Trời, khôn ngoan để thực hiện mệnh Trời, bên cạnh đó để hướng dẫn dân chúng làm đúng mệnh Trời. Đây là điều thiết yếu mà dân chúng luôn tỏ lòng tôn kính vị thiên tử cũng như những người có trách nhiệm coi sóc mình.

3. Tin vào mệnh Trời

Chữ “mệnh” hiểu theo nghĩa truyền thống Nho Giáo, tức Thiên Mệnh, Thiên Ý, nghĩa là ý Trời đã sắp đặt, điều khiển an bài mọi sự xảy ra trong vũ trụ. Do đó, trong cuộc sống người Việt luôn tin vào mệnh Trời, tức số mệnh hay hoàn cảnh, thời thế cảnh ngộ… bao gồm cả những hiện tượng thiên nhiên.

Sự sống sự chết đều ở trong quyền phép của Trời. Mệnh Trời đã sắp đặt và luôn hộ phù cho mọi công việc của con người, có khi là thuận lợi, có khi là nghịch cảnh, tai ương vượt quá khả năng ước đoán, ý muốn của con người.

Đứng trước mệnh Trời, người bi quan yếm thế, thiếu ý chí, nghị lực để chiến đấu với những khó khăn thì đâm ra thất vọng, buông xuôi than trách Trời: “Trời ơi, Trời ở chẳng cân, kẻ ăn không hết người lần không ra”, “Trời ghen ghét đầy đọa con người…”  Trái lại, người có ý chí tự do mạnh mẽ thành tâm thiện chí thì cố gắng hết sức để thực hiện mệnh Trời; những nghịch cảnh chẳng qua là những cơ hội, những thử thách Oâng Trời muốn dùng để tôi luyện ý chí và lòngdũng cảm của những tấm lòng kiên trung.

Người việt luôn tin vào mệnh Trời sắp đặt tất cả, và mọi sự do Trời mà có: “Trời sinh, Trời dưỡng; Trời sinh voi, Trời sinh cỏ; Trời cho ai nấy được; Trời gọi ai nấy dạ…”. Ngay bản tính con người cũng do Trời định: “Cha mẹ sinh con, Trời sinh tính”. Việc duyên tình cũng do Trời xe định: “Anh đi lục tỉnh giáp vòng, tới đây Trời định cho lòng thương em”.

Số mệnh mỗi người đã được Trời sắp đặt và ban ơn. Tuy nhiên, mỗi người cũng phải cố gắng hết khả năng để thực hiện mệnh Trời, chứ không thể thụ động như cánh lục bình nổi trôi giữa dòng nước. Muốn thực hiện trước mệnh Trời mỗi người cần phải khiêm tốn sống đúng hàng ngũ của mình: “Ngẫm thay muôn sự tại Trời, Trời kia đã bắt làm người có thân, bắt phong trần phải phong trần phải phong trần, cho thanh cao mới được phần thanh cao”.[1]

Người Việt tin tưởng vào mệnh Trời, và cũng luôn tỏ lòng biết ơn đối với Trời, nên hầu hết các gia đình Việt Nam đều có bàn thờ để “tế Trời” ở trước nhà.

4. Bàn thờ Ông Thiên

Lòng tôn kính Trời  là Chủ vũ trụ bao la của người Việt không chỉ biểu lộ vào mỗi dịp đầu năm, khi vị thiên tử đại diện cho toàn dân tế lễ cho Trời, mà hầu hết các gia đình đều có một bàn thờ Ông Thiên ở trước nhà. Bàn thờ rất đơn giản: chỉ có một tấm ván đặt trên một cột gỗ, hay một tấm đan đặt trên một cột đúc. Lễ vật cũng rất đơn sơ, nhà nghèo mấy cũng có thể sắm được. Chỉ cần một bình bông, một bát nhang, một chén nước lã. Bình bông xinh tươi nhưng cũng rất mỏng manh như nói lên thân phận mỏng dòn yếu đuối của kiếp người cần sự che chở của Trời; nhang tỏa hương thơm ngát như những lời nguyện xin của con người dâng lên Đấng Chủ Tế càn khôn; nước lã như tấm lòng thanh khiết của con dâng trao cho Đấng làm chủ vận mạng đời mình.

Thông thường người gia trưởng đại diện gia đình đứng trước bàn thờ Ông Thiên thắp nhang, rồi vái tứ phương, miệng thầm thĩ những lời khấn xin cho gia đình, cho tổ quốc, cho thế giới…

Một nghi thức thật giản đơn, nhưng rất nhịp nhàng đều đặn theo thời gian, nghi thức này đã khắc sâu trong tâm hồn người Việt Nam. Nơi bàn thờ Oâng Thiên con người nối kết với ông Trời và liên kết với mọi người.

Qua đây, chúng ta thấy nghi thức này cũng rất gần với niềm tin Kitô giáo. Mỗi ngày chúng ta cũng đọc kinh ít là khi ban mai thức dậy để nguyện xin Chúa thánh hóa ngày mới, và khi bóng chiều đã ngả để dâng lời tạ ơn một ngày đã trôi qua, đồng thời xin Chúa thứ tha những thiếu sót và gìn giữ cho giấc ngủ an lành trong sự quan phòng của Chúa.

Khi hiểu được điều này, chúng ta sẽ tích cực hơn trong tiến trình “đối thoại liên tôn, hội nhập văn hóa” mà không sợ đụng chạm đến niềm tin sẵn có của người Việt, đồng thời không đánh mất căn tính Kitô giáo của mình.

Kết luận

Mọi sự đều sẽ qua đi theo thời gian. Nhưng điều gì là chân lý đều tồn tại mãi mãi. Đất nước Việt Nam đều trải qua bao thăng trầm, và rồi các triều đại, các chế độ, các hệ tư tưởng, các chủ nghĩa cứ lần lượt qua đi, nhưng niềm tinvào Trời là một chân lý mãi tồn tại trong tâm thức, ý thức và cả trong tiềm thức đến nỗi trở thành phản xạ tự nhiên của người Việt[1]. Thật vậy, tự bản chất không thể không tin có sự hiện hữu của Trời, cho dù chủ nghĩa vô thần tìm cách chống lại: một giáo viên trung tìm cách dùng thuyết tiến hóa của Darwin để phủ nhận Trời tác tạo, nhưng sau đó lại nói “Trời mưa to quá” một viên chức cộng sản thường lấy Trời để nguyền rủa nhau “mày ở ác Trời trả cho mày’; một cán bộ vô thần khi bị kết án oan cũng kêu Trời chứng giám “mong đèn Trời soi xét”. Như thế dù muốn, dù không thì Trời vẫn luôn hiện diện bên con người. Tỉ như vua Gia Long đặt đàn Nam Giao ở Trường An[1], nhằm nhắc nhở cho dân biết Trời sẽ luôn ở với dân và ban phước cho họ. Như thế, Trời hay Thiên Chúa, một chân lý mãi mãi vững bền.

Hiền Lâm

VỀ MỤC LỤC
NGỤ NGÔN THỜI BẤN LOẠN (KỲ 19)
  

Ngụ ngôn 60

Con gà giới thiệu con công: “Em nó đã thành công, xin chúc mừng”. Mọi con thú tán thưởng nồng nhiệt. Nhưng chị công già lắc đầu: “Con gà này láo”. Ai cũng ngạc nhiên hỏi: “Gà chúc mừng cháu, sao gọi là láo?” Chị công bảo: “Gà kia ranh lắm. Nó bảo cháu tôi đã thành công, nghĩa là trước kia cháu nó là gà, bây giờ mới thành con công đấy. Gà nghĩ ai cũng là loại chuyên mổ trộm thóc như nó!”

Muông thú ồ lên một tiếng. Ở đời lắm kẻ coi mọi người đều nhỏ nhen như mình.

 

Ngụ ngôn 61

Máy ảnh bỏ túi dùng phim mini nheo mắt nhìn máy ảnh chuyên nghiệp: “Ông to như thế thì được cái gì? Tôi nhỏ gọn đi đâu cũng được, chỉ cần nhét phim vào là vi vu khắp nơi”. Máy to phản pháo: “Loại nhỏ như nhà ngươi chỉ chụp ảnh kỷ niệm. Ta đây mới cho ảnh nghệ thuật. Phim gì cho vào ta đây cũng đều thành ảnh chất lượng cao!”

Cãi nhau được vài ba năm, cả hai buồn bã ôm nhau khóc và bảo: “Sao mình cùng loại mà không thương nhau. Bây giờ máy ảnh kỹ thuật số nó hất cả hai chúng ta ra khỏi cuộc chơi rồi!”

 

Ngụ ngôn 62

Xe đạp chở chồn đi chơi, chồn vui thích cám ơn xa đạp rối rít: “Anh quả là tốt bụng, suốt đời tôi nhớ đến anh”. Vài hôm sau mùa mưa bắt đầu. Chồn sợ ướt nên chỉ đi chơi với ô dù. Ô che cho chồn khỏi ướt, dù đi bộ cũng vui. Chồn bảo xe đạp: “Đi với anh nhanh mà ướt thì cũng như không!”

Nhưng rồi mưa lâu đường ngập, đi có ô dù cũng bị ướt như thường. Chồn làm quen với xe xích lô. Xe xích lô chở chồn đi chơi, khỏi lo ngập nước mà lại đi nhanh. Xích lô có mái che an toàn. Chồn bảo: “Xe đạp chở tôi, ô dù che tôi, chỉ có xích lô là che chở (vừa che vừa chở) tôi. Xích lô muôn năm!”

Rồi xe hơi ra đời. Chồn bỏ xích lô leo lên xe hơi. Xe hơi đuổi chồn xuống và nói: “Không dám chở mày đâu. Mai mốt có máy bay mày lại chê ta mất công lắm.”

Thế là chồn lủi thủi đi bộ, chẳng ai che mà cũng không ai chở.

 

Gioan Lê Quang Vinh, VRNs

VỀ MỤC LỤC
THOMAS MORE
 

Thưa quí bạn, chúng ta đã lần lượt suy gẫm về ba đề tài: Tha thứ, Hiệp nhất, và Sống hiện tại. Thực ra, sống  giây phút hiện tại không gì khác hơn chính là sống thật với con người mình như mình là. Sống hiện tại luôn luôn níu kéo chúng ta trở lại với hiện tại, với bản chất con người thật của mình. Vì lý do đó, mục Sống Sao Cho Đẹp hân hạnh giới thiệu đến quí bạn đề tài mới: Đơn sơ – Chân thật chỉ với hy vọng là phần nào góp thêm chất liệu màu sắc để bạn và tôi cùng nhau hoàn thiện bức tranh của chính mình.

* * *

Cổ nhân dạy rằng, “Nhân chi sơ, tính bổn thiện.” Con người sinh ra vốn mang lấy bản chất thiện trong con người mình. Hay nói một cách khác, ai ai cũng có dòng máu thiện. Bản chất thiện, đơn sơ, chân thật hiển hiện rõ nhất trong mỗi trẻ thơ. Nơi các em, chúng ta không tìm thấy bất kỳ sự tính toán hơn thua, lo âu, gian dối. Có thể nói rằng chính sự đơn sơ chân thật của trẻ em là điểm thu hút mãnh liệt nhất làm cho ai ai cũng yêu mến và thích gần gũi trẻ thơ. Và sự đơn sơ chật thật này cũng chính là sức mạnh siêu việt cho những ai sống đức tính này. Thực vậy, đơn sơ là dấu ấn của đời sống tự do đích thực.

* * * 

St. Thomas More là một đại thần dưới triều đại vua Henry VIII (1509 -1547). Ông rất được vua và các quan nể phục và kính trọng không chỉ tài năng của ông, nhưng đặc biệt là sự trung thực. Henry VIII, tuy là một vị vua của một nước, nhưng ông đã không trở nên một mẫu gương cho dân thần noi theo. Ông muốn phế truất hoàng hậu Catherine để cưới Ann Boleyn với lý do là ông muốn có một người con trai. Tất cả các quan trong triều đình điều ủng hộ Henry, duy chỉ Thomas More là người không ủng hộ sự việc này. Đối với Thomas More, dù là vua cũng không thể đi trái luật tự nhiên và của Giáo hội. Cuộc đối thoại sau đây nói lên bản lĩnh của Thomas More.

Thomas More: Tâu hoàng thượng, tại sao ngài lại tìm sự ủng hộ của hạ thần?

Henry: Bởi vì khanh là người chân thật. Không có gì quí hơn là sự chân thật trong con người của khanh… Đối với những người như Norlk, Cromwell họ theo trẫm là vì vương niệm và ngai vàng của trẫm. Họ chỉ hùa theo đám đông, còn khanh thì khác.[1]

Thật buồn thay, dù Henry rất quí trọng và nể phục Thomas More, nhưng ông đã không thể vượt qua cái tôi ích kỷ của mình để ôm lấy chân lý. Cuối cùng, Thomas More đã bị giết vì dám nói lên sự thật; Thomas More đã để lại cho đời một mẫu gương can đảm dám sống cho và vì sự thật.

* * *

Thưa bạn, sự thật vốn rất đơ sơ như thể nó là – không cầu kỳ, không tính toán, không mưu mô. Sự thật là Henry VIII  không được phép cưới thêm một người vợ nữa thì Thomas More chỉ đơn giản hiểu và nói đúng như thế thôi. Thomas More không cần phải suy nghĩ tính toán theo kiểu lợi mất được thua. Kiểu tính toán lợi mất được thua trong các mối quan hệ là nguyên nhân chủ yếu phá hư đi tình bạn, tình yêu, gia đình, và các mối quan hệ xã hội khác. Khi tính toán lợi mất được thua, thì sự đơ sơ chân thật bị biến dạng và hậu quả là tìm mọi cách để che đậy sự biến dạng ấy – càng che đậy bao nhiêu, thì sự đơn sơ chân thật càng bị bóp méo bấy nhiêu.

Cầm một món hàng trên tay, dù dưới nhãn hiệu gì đi chăng nữa chúng ta cũng không thể biết chắc 100% nó là hàng thật. Không ai muốn mua hàng giả, và cũng không ai muốn mình bị lừa. Mua một món hàng cần phải là hàng thật thì chẳng lẽ con người đến với nhau mà lòng không thật hay sao? Chúng ta mong đợi một món hàng phải là thật bao nhiêu thì người bạn của chúng ta cũng mong đợi sự chân thật bấy nhiêu khi mình đến với nhau.

Thưa bạn, đơn sơ chân thật là một đức tính cao quí và giá của nó cũng rất cao. Sống sự thật có thể dẫn bạn đến sự cô đơn, ngược dòng, và bị loại bỏ. Có khi vì sự thật mà bạn phải nhận những cái nhìn lạnh lùng tê tái. Nhưng hãy là bạn như bạn đang sống với sự thật và cho sự thật. Như thế, thật đơn sơ làm sao!

Br. Huynhquảng  

Mời bạn ghé thăm trang  http://brhuynhquang.org/.

Email liên lạc: brhq@brhuynhquang.org
 

VỀ MỤC LỤC
GIÁO HỘI CÔNG GIÁO TỪ SAU CÔNG ĐỒNG VATICAN II ĐẾN CHÚNG TA (1)

 

NGUYỄN HỌC TẬP 

(Viết theo tài liệu của Cha Bartolomeo Sorge S.J., Giám Đốc bán nguyệt san  CIVILTÀ CATTOLICA ( 1973-1985); Cựu Viện Trưởng Học Viện Istituto di formazione Politica PEDRO ARRUPE ). 

" Duc in altum " ( Lc 5, 4)," Hãy ra khơi ",  Giáo Hội được  mời gọi " hãy ra khơi ", mới bắt được nhiều cá đem về cho Chúa.

Đó là những gì lý tưởng canh tân mà Công Đồng Vatican II để lại cho Giáo Hội sau khi đã kết thúc, từ năm 1965.

Từ đó đến nay, Giáo Hội đã và đang thực hiện cuộc hành trình ra khơi đánh cá, rao giảng Phúc Âm. Nhưng cuộc " hải trình " không phải lúc nào cũng là chuyến đi trực tuyến, bởi lẽ các cơn bảo táp và trở ngại cũng không thiếu.

Dưới đây chúng ta thử cùng hội nhập vào con thuyền của Giáo Hội, cùng " ra khơi " với Giáo Hội, đặt mình vào hoàn cảnh mà Giáo Hội đang lữ hành trên chuyến đi thực hiện sứ mạng của mình, dưới sự hướng dẫn của các vị " Thuyền Trưởng ", đó là  

   - Đức Thánh Cha Phaolồ VI,

   - Đức Thánh Cha Gioan Phaolồ II, và

   - Đức Thánh Cha Benedictus XVI. 

I - Đức Thánh Cha Phaolồ VI.

Chúng ta có thể nói chương trình "ra khơi " đánh cá cho Chúa Ki Tô của Đức Thánh Cha Phaolồ VI đưọc phát hoạ dưới hình thức ba vòng tròn đồng tâm trong tinh thần đối thoại của ngài: đó là đối thoại a) trong nội bộ Giáo Hội, b) với các Giáo Hội chị em và với các tôn giáo khác và c) với thế giới.

   1 - Trong Giáo Hội.

Mối quan tâm đầu tiên của Đức Phaolồ VI là tìm cách khởi xướng và phát huy sự thông hiệp nội tại trong Giáo hội ( Ecclesia ad intra), bằng cách chú y đến công cụ đối thoại như là phương tiện được Công Đồng Vatican II đặc tâm lưu ý đến.

Canh tân hoá phương thức mục vụ và các cấu trúc của Giáo Hội, qua việc đối thoại và sự tham dự có trách nhiệm của các tín hữu. Đó là mục đích cố định và trường kỳ của Đức Phaolồ VI, cũng còn được gọi là Đức Thánh Cha Montini ( do tên họ của ngài, như thói quen người Ý thường gọi nhau bằng họ, hơn là bằng tên riêng ).

Hôm nay trên 30 năm sau triều đại giáo hoàng của ngài ( Phaolồ VI, 1965-1978), chúng ta có thể đánh giá lịch sử một cách chính xác hơn - có thể nói là động tác của ngài là động tác cách mạng - việc Đức Phaolồ VI dùng phương tiện đối thoại trong nội bộ của Giáo Hội, để thực hiện chỉ thị của Công Đồng Vatican II,

   - được khởi đầu bằng cách  thiết lập Thượng Hội Đồng Giám Mục ( 1965): trong triều đại giáo hoàng của ngài có đến 5 Thượng Hội Đồng Giám Mục được triệu tập ( 4 lần là những cuộc Đại Hội thường nhiệm, 1967, 1971, 1974 và 1977; và 1 lần Đại Hội bất thường 1969). Ngoài ra những vấn đề mà Thượng Hội Đồng phải đối phó, bàn cải và giải quyết, công đức lợi ích đáng chú ý đó là nhờ vào các dịp gặp gỡ nhau, các Giám Mục hiểu biết nhau hơn, hiểu biết những vấn đề của Giáo Hội nhiều hơn và vì đó tăng cường hơn tinh thần trách nhiệm và làm việc tập thể hơn, chỉ bảo cho nhau phương thức định chuẩn giá trị một cách thoả đáng hơn các đóng góp từ các Giáo Hội địa phương, cũng như nhận biết và cám ơn các ơn sủng của Chúa Thánh Thần được ban cho và trở nên động lực thúc đẩy từ nền tảng cộng đồng dân Chúa.

   - cũng cùng trong một ý nghĩa đó, chúng ta có thể chuẩn định được giá trị việc thiết lập Hội Đồng Giám Mục Quốc Gia, làm cho vai trò của các Giáo Hội địa phương trở nên sống động tích cực hơn trong cộng cuộc rao giảng Phúc Âm, cũng như làm cho cộng đồng dân Chúa địa phương ý thức hơn, tham dự một cách có ý thức và trách niệm hợn vào đời sống của Giáo Hội hoàn vũ.

   - nhhưng điều đáng nói hơn nữa, đó là việc nới rộng cho sự tham dự của các tín hữu giáo dân nam nữ, vào các cơ cấu mục vụ không những địa phương, mà còn cả vào các cấu trúc mục vụ của Giáo Hội  hoàn vũ, được thiết lập năm 1976, qua việc thiết lập Thánh Bộ Giáo Dân và Thánh Bộ Công Lý và Hoà Bình.  

Nhưng sức cố gắng phi thường để cập nhật hoá các cấu trúc của Giáo Hội và chuyên cần mở rộng thêm các lãnh vực đối thoại mới trong nội bộ Giáo Hội, trong triều đại giáo hoàng Đức Phaolồ VI, không bao giờ tách rời khỏi mối chăm  lo ưu tiên cho công cuộc canh tân chính đáng và thích đáng nội tâm, mà ngài nghĩ rằng đó là linh hồn chỉ thị canh tân của Công Đồng Vatican II.

Chúng ta không thể hiểu được thái độ luôn luôn nhấn mạnh đến việc đối thoại của Đức Phaolồ VI, nếu chúng ra bỏ qua xác tín bất di dịch của ngài. Đó là các việc canh tân bên ngoại phải cùng đi song hành với cuộc cải hoá nội tâm, nghĩa là cùng với việc các tín hữu được triển nở thêm trong đức tin và bác ái.   

Nếu ngài nhìn thấy trong đối thoại là phương tiện cần phải dùng và ưu tiên để canh tân Giáo Hội, thì không thể chối cải được mục đích mà ngài nhằm đến trước tiên là sự thông hiệp trong Giáo Hội,

   * phải được kiến tạo bên cạnh Phép Thánh Thể

   * và bên cạnh Lời Chúa,

dưới sự hướng dẫn của những ai mà Chúa Thánh Thần đã thiết lập thành mục tử.

Từ đó chúng ta hiểu được tại sao Đức Phaolaồ VI nhấn mạnh dường như trong mỗi bài diễn văn của ngài về đặc tính ưu tiên của " sự thông hiệp gia đình " trong Giáo Hội, nghĩa là

   * giữa các tín hữu với Chúa,

   * giữa họ với nhau

   * và giữa họ với các mục tử.

Đó là sự thông hiệp được xây dựng trong đức tin, cấu trúc trong bác ái, được nuôi dưỡng bằng lời cầu nguyện, được làm dậy men qua cuộc đối thoại thân hữu:

   - " Chúng ta ao ước biết bao hưởng được việc đối thoại gia đình nầy của đức tin, đức bác ái và bằng các động tác . Chúng ta ao ước biết bao có được cuộc đối thoại đó đầy tâm huyết và trong tâm tình gia đình ! Cuộc đối thoại đầy cảm nhận biết bao đối với tất cả cácc chân lý, các nhân đức, các thực tại của gia tài tín lý và thiêng liêng của chúng ta. Cuộc đối thoại thành thật và đầy cảm động biết bao trong lãnh vực thiêng liêng đích thực " ( ĐGH Phaolồ VI, Ecclesiam suam, 1964, in Enchiridion Vaticanum, vol. II, EDB, Bologna 1976, n. 208, p. 295). 

Qua ý nghĩa vừa kể, đối thoại  quan niệm đối thoại của Đức Phaolồ VI, đối thoại không có nghĩa là nhượng bộ, yếu hèn hay nhường bước, cúi đầu vâng dạ đối với thái độ giải thích kém trung thực hơn hay kém sáng sủa hơn sứ điệp Phúc Âm và Quyền Huấn Dụ của Giáo Hội. Đối thoại là thái độ bàn thảo cởi mở, tôn kính nhau, nhưng lúc nào cũng  nhằm đi đến chân lý, sự thật và công bình và lợi ích chính đáng.

Có nhiều người, trong thời gian tiên khởi hậu Công Đồng, ngã sa vào chước cám dỗ cho rằng, để cho cuộc đối thoại trở nên dễ dàng, cần phải " làm êm dịu bớt " hay " ám khói bớt đi " Phúc Âm và lời giảng dạy của Giáo Hội, ngay cả đối với những điểm không phải là thứ yếu, tốt hơn là đừng nhấn mạnh đến uy quyền tín lý của hàng giáo phẩm.  

Trước các cuộc sinh sôi nẩy nở các trường hợp " phản kháng " trong Giáo Hội, " Đức Giáo Hoàng đối thoại Phaolồ VI "  cảm thấy cần phải dành Năm Thánh 1975 cho chủ đề hoà giải trong Giáo Hội, bằng cách mãnh liệt tố cáo mối nguy hiểm của " phong trào phân cực ly khai " (polarizzazione di dissenso ) ( ĐGH Phaolồ VI, Paterna cum benevolentia, 1974, in Enchiridion Vaticanum, vol. V, EDB, Bologna 1976, n. 838, p. 545).

Ngài nhấn mạnh đến một điểm, mà chúng tôi nghĩ rằng đó là điểm thiết yếu :  việc đối thoại trong Giáo Hội không thể nào được xảy ra gây thiệt hại cho sự kính trọng phải có đối với uy quyền được Chúa Ki Tô thiết định: 

   - " Lòng ao ước xây dựng  liên quan đến các mối tương quan nội bô trong Giáo Hội qua tinh thần đối thoại giữa các thành phần trong cộng đồng, trong đó có đức bác ái và nguyên tắc cấu trúc, không cất đi việc thực hành nhân đức vâng lời nơi đâu phận vụ của chính uy quyền một bên, phận vụ của đức vâng lời phía bên kia, được phát biểu lên do thứ bậc phải có cho mỗi tổ chức xã hội, nhứt là được nói lên do cấu trúc phẩm trật của Giáo Hội " ( ĐGH Phaolồ VI, Ecclesiam suam, id. n. 209, p. 295).    

Chính Đức Phaolồ VI không hề ngần ngại thách thức với quan niệm cho rằng thiếu tính cách đại chúng, mỗi khi ngài thấy cần phi can thiệp với uy quyền để bênh vực sự toàn vẹn của đức tin và nền luân lý Phúc Âm.

Thái độ đó  khiến cho Đức Thánh Cha phải có thái độ anh dũng mỗi khi ngài phải can thiệp bằng quyền năng của mình. Cách hành xử đó càng làm cho ngài gặp khó khăn hơn nữa, đối với một người có trí khôn sắc bén và cởi mở, một con người có cảm nhận tân tiến với văn hoá và tâm lý tế nhị, làm cho đôi khi khiến cho ngài có vẻ lưỡng lự.  

Chúng tôi nghĩ rằng chứng cứ cho thấy sự tự do nội tâm và lòng trung thành với sứ mạng  được giao phó, mà trong đó Đức Phaolồ VI đã phải đối diện và phát động phương thức đối thoại trong nội bô Giáo Hội, đó là những gì còn được ghi lại trong lời kết thúc Năm Thánh 1967-1968, " il Credo del Popolo di Dio " , trong đó ngài tuyên xưng đức tin của mình, mà ngài vẫn thường lập lại và giữ cho đến chết ( 1978).

   2 - Đối thoại hiệp nhứt Ki Tô giáo và liên tôn.

Đối thoại hiệp nhứt Ki To giáo và liên tôn là vòng đồng tâm thứ hai mà Đức Giáo Hoàng Phaolồ VI hằng dùng hết tâm lực để thực hiện. Công Đồng Vatican II với Đức Gioan XXIII đã bắt một cây cầu hướng về phia các anh em ly khai và về hướng các tôn giáo nhất  thần lớn (monothéiste).

Nhưng cuộc " đối thoại bác ái " đó của Công Đồng và của Đức Gioan XXIII đã trở thành cuộc " đối thoại chân lý " khi đến lược Đức Phaolồ VI lên ngôi giáo hoàng.

Nhờ Đức Phaolồ VI mà Giáo Hội đã bước qua từ những cuộc xoá bỏ đi những nghị quyết " dứt phép thông công ",

   * từ cuộc ôm hôn Đức Giáo Phụ Atenagora ở Giêrusalem,

   * từ cuộc hôn chân Đức Thượng Phụ Melitone đến viếng Roma,

   * đến các thỏa ước cho các nhóm hổn hợp nghiên cứu về các chủ đề thần học quan trọng như Phép Thánh Thể và các Phép Bí Tích,

   * tiếp theo cuộc đối thoại hiệp nhứt Ki Tô giáo về những chủ đề tế nhị hơn, là nguốn gốc của sự ly tán các Giáo Hội. 

Đức Phaolồ VI cũng đặc tâm lưu ý đến việc đối thoại liên tôn, ở tầm mức nghiên cứu về tín lý và thần học, cũng như ở mức độ những động tác có ý nghĩa và chọn lựa can đảm.

Điều đó cho thấy năm 1967, ngài xác nhận muốn giữ tồn tại Thánh Bộ Hiệp Nhứt Ki Tô Hữu, được Đức Gioan XXIII thiết lập năm 1960, đồng thời ngài cũng nới rộng thẩm quyền của Bộ đang bàn liên hệ cả đến Do Thái giáo, và năm 1967, ngài thiết lập một Ủy Ban đặc trách chuyên lo về các mối liên hệ tôn giáo với Do Thái giáo.

Ngoài ra, ngay trong thông Điệp Ecclesiam suam, Đức Phaolồ VI đã tỏ ra

   - " lòng kính trọng thương yêu " không những đối với các con cái của dân Do Thái, mà còn đối với tất cả những ai " thờ phượng Thiên Chúa theo quan niệm của tôn giáo nhất thần, nhứt là của Hồi giáo, đáng được ngưỡng mộ, bởi vì trong phượng tự của họ có những điều chính đáng và tốt lành, và cả đối với những tín đố các tôn giáo Á Châu và Phi Châu " (ĐGH Phaolồ VI, Ecclesiam suam, Enchiridion Vaticanum, vol. II, EDB, Bologna 1976, n. 205 p. 289). 

Bởi đó không có gì lạ, ngày Đức Phaolồ VI mất đi, bao nhiêu lời tuyên bố biết ơn ngài đã được gởi đến tứ khắp nơi, bởi những nhân vật có thẩm quyền về hiệp nhứt Ki Tô giáo.

Giáo Phụ Constantinopoli, Dimotrios I, không ngần ngại tuyên bố rằng

   - "  ngài là Đức Giáo Hoàng của sự canh tân Giáo Hội Công Giáo Roma, của niềm hoà giải giữa các Ki Tô hữu, của sự cảm thông và cộng tác giữa tất cả các tôn giáo... Đức Phaolồ VI là người đã góp công cá nhân lớn lao vào công cuộc đối thoại giữa các Giáo Hội Chính Thống Giáo và Giáo Hội Công Giáo Roma, và người đã có công chuyển từ cuộc đối thoại vì bác ái sang trạng thái đối thoại thần học " ( L'Osservatore romano, 13.08.1978). 

Đến phiên Đại Hội Thế Giới các Giáo Hội, trong bản Tuyên Ngôn ngày 08.08.1978 đã xác nhận rằng

   - " 15 năm triều đại giáo hoàng của Đức Phaolồ VI sẽ được nhắc đến như là khoảng thời gian then chốt cho đời sống đời sống Giáo Hội Công Giáo và cũng như của đời sống các Giáo Hội Ki Tô giáo khác. Trong các năm đó, các nền tảng cho một niềm thông hiệp mới mẽ  và lâu dài giữa tất cả các Giáo Hội đã được đặt xuống " (ibid.). 

Tuy vậy, mặc cho những bước tiến khả quan, Đức Phaolồ VI vẫn ý thức về chính mình, nếu bầu không khí có cảm tình thân thiện nhau, được phát sinh do " cuộc đối thoại bác ái " thương yêu , đã được dùng để làm tan đi các tiền kiến, xoá bỏ đi các mối bất tin tưởng nhau, và tạo điều kiện thuân lợi để hiểu biết và tôn trọng nhau hơn, thì phần cam go hơn trong cuộc hành trình vẫn còn phải được thực hiện, trước khi đạt đến niềm hoà giải đang mong ước trên phương diện giáo lý, tín lý và thần học.

   - " Mối suy tư về vấn đề được đề cập, làm cho chúng ta còn lo buồn ".

Và Đức  Phaolồ VI khiêm nhường thú nhận

    - " đó là làm cho chúng ta thấy được chính chúng ta, những ngưới chủ trương hoà giải, chúng ta lại là, bị các anh em ly khai lại cho là trở ngại của mục đích đó, vì quyền thượng đẳng ở đia vị danh dự và pháp lý, mà Chúa Ki Tô đã ban cho Tông Đồ Phêrô, và chúng ta là những người thừa kế của ngài ". 

Kế đến sau khi đã nhấn mạnh rằng quyền thượng đẳng đó không phải là cản trờ cho việc hiệp nhứt, mà là nền tảng và bảo đảm thì đúng hơn, ngài kết luận, bằng cách nói lên việc đối thoại cần phải được tiếp tục và được nuôi dưỡng bằng lời cầu nguyện: 

   - " Trên bình diện đó cuộc đối thoại của chúng ta đang được làm cho thức tỉnh, là cuộc đối thoại trước khi diễn biến trong những cuộc đàm thoại huynh đệ, là cuộc đối thoại được thể hiện ra bằng cuộc hầu chuyện tâm tình với Cha trên trời, chìm ngập trong lời câu nguyện và trong hy vọng " ( ĐGH Phaolồ VI, Ecclesiam suam, id., n. 206, p. 293). 

3 - Đối thoại với thế giới.

Sau cùng Đức Giáo Hoàng Phaolồ VI là " Đức Giáo Hoàng đối thoại với thế giới hiện đại ".

Đó là vòng đồng tâm thứ ba, được ngài nói lên trong Thông Điệp Ecclesiam suam . Nói đùng hơn, đối thoại với thế giới chiếm phần thứ nhứt trong Thông Điệp, bởi vì ngài quan niệm rằng việc đối thoại hiệp nhứt Ki Tô giáo phải nhằm thực hiện với mục đích quy về đối thoại với thế giới nói chung ( và nhứt là với các lãnh vực trần thế nói riêng ) và đối thoại trong nội bô của Giáo Hôi: 

   - " Giáo Hội phải đối thoại với thế giới trong đó mình đang sống. Giáo Hội thể hiện mình là Giáo Hội bằng lời nói; Giáo Hội lthể hiện mình là Giáo Hội bằng sứ điệp;  Giáo Hội thể hiện mình là Giáo Hội bằng thảo luận " ( ĐGH Phaolồ VI, Ecclesiam suam, id..n. 192, p. 259). 

Thông Điệp rút lấy đặc tính ưu tiên của của đối thoại giữa Giáo Hội và thế giới từ chính ý định của Thiên Chúa:

   - " Mạc khải, tức là mối tương quan siêu nhiên mà Thiên Chúa đã có sáng kiến thiết lập với loài người, có thể được biểu tượng như là trong một cuộc đối thoại, trong đó Ngôi Lời đã diễn tả mình ra trong biến cố Nhập Thể  và như vậy trong Phúc Âm...Chúng ta cần phải luôn luôn đặc tâm chú ý đến mối tương quan đối thoại không thể lu mờ và rất thiết thực nầy...để hhiểu được mối liên hệ nào chúng ta, nghĩa là Giáo Hội, phải tìm cách thiết lập và phát huy với nhân loại " ( ĐGH Phaolồ VI, Ecclesiam suam, id. n. 193-194, p. 263). 

Mọi can thiệp quan trọng của triều đại giáo hoàng Phaolồ VI không có gì khác hơn là diễn tả thành thực tế mục vụ quan niệm thần học nầy về việc đối thoại giữa Giáo Hội và thế giới.

Chắc chắn không thể nào chúng ta có thể nhớ hết được.

Các lần can thiệp đó, khởi đầu từ Thông Điệp Populorum progressio, để đáp ứng lại những nhu cầu mới của một thế giới đang chuyển mình ( 1971); từ diễn từ tại Liên Hiệp Quốc chống lại chiến tranh ( 1965), 

   * đến việc bênh vực lực lượng campesinos trong diễn từ đầy mãnh lực ở Đại Hội Thánh Thể ở Bogotà ( 1968),

   * đến thái độ liên đới với các công nhân, được nói lên ở Genèvre, tại Trụ Sở Quốc Tế Làm Việc ( Bureau International de Travail ) ( 1969),

   * đến việc Toà Thánh ký kết các Thoả Ước Helsinki về an ninh và hợp tác ở Âu Châu ( 1973),

   * đến nhiều lần can thiệp cho hoà bình ở Việt Nam, Nigeria, Pakistan, Trung Đông,

   * đến việc thiết lập " ngày hoà bình " cần phải được cử hành mỗi năm vào ngày 01.01,

   * đến các chuyến đại công du mục vụ ở Châu Mỹ La Tinh, Phi Châu, Ấn Độ và Cận Đông.  

Nhưng chúng ta có thể nói bước đường quan trọng nhứt được Giáo Hội thực hiện về chủ đề các mối tương quan với thế giới,  đó là nhờ động lực  Quyền Huấn Dạy và triều đại giáo hoàng Phaolồ VI, hệ tại ở tâm thức mới về mối tương quan nội tại chặt chẽ nối kết rao giảng Phúc Âm với việc thăng tiến con người.

Đức Phaolồ VI là một mẫu gưong sống động cho thấy rao giảng Phúc Âm và sự cứu chuộc của Chúa Ki Tô không phải là những gi xa lạ, ngoại cuộc đối với các nhu cầu và vấn đề, các đồ án, các mối lo âu và hy vọng trong cuộc sống con người.

Đúng hơn, tất cả những gì vừa kể có thể được thực hiện hoàn hảo trong việc giải thoát con người khỏi tội lỗi và các điều bất hạnh của xã hội, là những gì phát xuất từ đó làm cản trở hay trì trệ việc thăng tiến đích thực con người.

Đức Phaolaò VI nhấn mạnh:

   - " Chúng ta không thể cứu lấy thế giới đứng ở bên ngoài, cần phải, như Ngôi Lời Thiên Chúa đã nhập thể làm người, đồng hoá mình với thế giới, trong một cách nào đó, trong cách sống của của những người mà chúng ta muốn đem sứ điệp của Chúa Ki Tô đến cho; chúng ta cần phải chia xẻ, mà không đặt khoản cách đặc ân hay lằn mức ngăn chận với ngôn từ không thể hiểu được " ( ĐGH Phaolồ VI, Ecclesiam suam, id., n. 198, p.273).  

Chúng tôi nghĩ rằng đây là gia sản qúy báu nhứt là Đức Thánh Cha Phaolồ VI, " ĐTC của đối thoại ",  để lại cho chúng ta: ý thức mà ngài chuyển lại cho Giao Hội  đó là muốn được trung thành với sứ điệp tôn giáo của ơn cứu rổi mà Chúa Ki Tô ủy thác cho Giáo Hội,Giáo Hội được mời gọi hãy tiếp tục như Người, đảm nhận lấy các vấn đề và hy vọng của con người. 

còn tiếp

VỀ MỤC LỤC
NHỮNG VẤN ĐỀ CỦA HÔN NHÂN (7)
 

TÌM CÁCH GIẢI QUYẾT

Chúng ta phải chú trọng: những lời tường thuật nầy thì không là lý thuyết nhưng có hiệu quả rất thực tế. Chúng ta có thể thay đổi toàn thể cuộc đời chúng ta và thái độ của những người chung quanh chúng ta bằng cách thay đổi chính chúng ta. Sự thay đổi thì không dễ. Sự thăng tiến thì có thể chỉ khi sự khởi đầu nơi chính mình được nhận thấy và được chấp nhận. Có quá nhiều người cố gắng giáo dục và thay đổi người bạn mình. Có biết bao người đi đến hôn nhân với ý nghĩ sẽ thay đổi được người bạn. Trong cuộc sống chung, chúng ta ảnh hưởng và thay đổi lẫn nhau không phải bằng cách chú trọng trên sự thay đổi người bạn mình. Chỉ bằng hành vi của riêng chúng ta, chúng ta có thể ảnh hưởng được những người chúng ta cùng chung sống. 

Bất cứ điều gì xảy ra trong liên hệ hôn nhân đều cho thấy tương quan của cả hai người phối ngẫu. Thay vì đòi hỏi chung chung: “Nếu bạn tôi thay đổi, tôi cũng vui vẻ thay đổi”. Chúng ta nên nhận thấy sự thật nầy là: “Nếu tôi thay đổi hành vi thái độ của tôi, người bạn mình không thể tiếp tục lối xử sự của họ”. Ngay cả những thay đổi nho nhỏ trong thái độ của người nầy cũng được phản ảnh ngay lập tức trong thái độ của người kia. Không nhận ra được điều đó, chúng ta không thể hiểu được sức mạnh đáng kể của tương giao hài hòa. 

Thật bất hạnh cho chúng ta là chúng ta biết nhiều về cách thế để giao chiến nhau, để giết hại nhau, để đâm chém nhau hơn là cách thế để làm vui lòng nhau, để yêu nhau, để cảm thông tha thứ, hay để mang lại hạnh phúc cho nhau. Vì thế, chúng ta thường thành công trong việc đâm chém nhau hơn là đi tìm hòa bình. Chúng ta thường tốn phí quá nhiều thì giờ và tiền bạc để tìm những mánh khoé, những mưu mô, những thủ đoạn bất chính để làm hại người khác nhất là khi cuộc chiến đã bùng nổ. Trong mối tương quan vợ chồng cũng vậy, chắc chắn cũng đã có những cuộc chiến cũng như những tranh chấp đã từng xảy ra trong quá khứ, nên rất cần có thời gian để thiết lập lại một bầu khí kính trọng và tin tưởng nhau.  

Nên biết rằng không phải mọi người đều hoàn toàn xấu hay hoàn toàn tốt cả đâu. Cái khả năng có thể trở nên tốt hay xấu đều hiện hữu trong mỗi con người chúng ta. Chính người chồng cũng như người vợ đều có khả năng để làm cho cái tốt hoặc cái xấu của người bạn mình chổi dậy. Nhưng họ biết gì về người bạn của mình? 

Dẫu cho họ sống chung với nhau trong cùng một căn phòng, ăn cùng một bàn, ngủ cùng một giường, nhưng họ biết về nhau được bao nhiêu? Cứ sự thường, họ chỉ biết về những thói xấu của nhau như thích nắm quyền, thích phàn nàn, thích tiêu tiền, thích rượu chè, không thích làm việc. Nhưng họ không biết được nguyên nhân nào đã làm cho bạn mình có thái độ sống như vậy. Và một khi họ thấy chán chường, họ chỉ muốn loại bỏ những chứng bệnh đó mà không muốn thõa đáng những nhu cầu tâm linh cần thiết giữa họ với nhau. Tuy nhiên, khi hai người có dịp sống xa cách nhau thì lại là dịp họ sẽ hiểu nhau nhiều hơn lúc trước. Chính những tranh quyền tranh lợi đã làm cho đầu óc họ ra tối tăm. Mỗi khi đổ lỗi cho nhau, họ cố gắng bào chữa những sai lầm của mình. 

Chính việc không biết đến những quyền lợi căn bản của người khác đã làm cho họ cứ tiếp tục tranh đấu cho quyền lợi cá nhân của riêng mình. Điều mà họ nói về người khác thì thường là đúng, dầu những tường thuật giữa họ xem ra là mâu thuẫn với nhau. Nhưng điều quan trọng không phải là ai sai ai đúng, vì mỗi người đều đúng dưới cái nhìn của riêng mình nhưng sai dưới cái nhìn của đối phương. Nếu chúng ta yêu một người nào, chúng ta sẽ không hỏi người đó đúng hay sai. Đó là lý do tại sao người ta thường nói “yêu là mù quáng”. Nhưng tình yêu thì không nhất thiết mù quáng. Chúng ta thường nói “anh yêu em dẫu em có bất toàn”, anh yêu em và chấp nhận em như em hiện là. Điều đó có nghĩa là dẫu em đẹp hay em không đẹp, em tốt hay em xấu, anh vẫn yêu em. Nhưng sau đó, khi quyền lợi của chúng ta bị đe dọa, chúng ta sẽ không chấp nhận nhau như trước nữa. Trái lại, để tranh đấu cho ưu thế của chúng ta, chúng ta thường đi tìm những lỗi lầm nơi người bạn chúng ta và dùng chúng như những lý do chính đáng để chấm dứt sự cộng tác của chúng ta. Hãy nhớ rằng đối với sự hạnh phúc của chúng ta, câu hỏi sai hay đúng không phải là quan trọng, nhưng biết chấp nhận cái xấu cũng như cái tốt của người khác mới là quan trọng. 

Chúng ta cần nhớ rõ điều đó khi có sự bất đồng ý kiến hoặc sự chán nản đe dọa đời sống hôn nhân của chúng ta. Bước đầu tiên cũng như điều kiện trước tiên cho mọi cuộc thăng tiến là chấp nhận tình trạng hiện đang có. Cần phải đối diện vấn đề một cách can đảm là điều kiện thiết yếu cần có trước nhất để có một lối thoát cho vấn đề đang gặp phải. Điều đó dĩ nhiên không phải là dễ. Nhưng chạy trốn thực tại thì không phải là cách thế thực tế. Không có vấn đề nào được giải quyết bằng cách thế đó. Một khi chúng ta đã quyết định đối diện vấn đề là chúng ta đang đi đúng đường. Sau khi loại bỏ được ảo giác cho rằng chúng ta có thể thành công bằng các giao chiến và áp lực vấn đề, khuất phục được cảm giác không phù hợp trong con người chúng ta, và nhận ra rằng đối phương cũng đau khổ như chính mình là chúng ta đã tìm ra những giải quyết. Tuy chậm và cũng có thể là không thích hợp ở lúc đầu, nhưng với sự can đảm gia tăng, chính sự tự tin sẽ làm chúng ta ít bị thương tổn và giúp chúng ta ngày càng đạt được kết quả tốt đẹp hơn. 

Mẫu chuyện sau đây sẽ giúp chúng ta có ít nhiều kinh nghiệm trong việc đối đầu với những lủng củng của chúng ta trong đời sống hôn nhân. Những lủng củng đó có thể được lọai bỏ hoặc giải quyết một cách dễ dàng nếu cả hai người phối ngẫu hiểu được những động lực sâu xa đang tiềm ẩn đàng sau những biến chứng đang xảy ra. Một khi họ nhận thức được tất cả những nguyên nhân đó, họ sẽ không còn giận dữ và lên án nhau nữa. Trái lại, họ cố gắng đi tìm những cách thế để thay đổi tình huống một cách tốt đẹp. 

Chị Nguyễn thị Kim Dung là một người đàn bà trẻ trung, thùy mỵ, và dễ thương. Chị có một vấn đề xem ra không có gì quan trọng, nhưng đang đe dọa đời sống hôn nhân của chị. Chị lấy chồng được một năm và xem ra rất hòa hợp trong đời sống vợ chồng cũng như trên bình diện xã hội. Nói chung, vợ chồng chị sống vui vẻ với nhau ngoại trừ một vấn đề bất ổn dần dần đã làm cho cuộc hôn nhân của họ mất đi hòa khí và trở thành nặng nề.  

Chị ta cho biết rằng dầu chị đã cố gắng hết sức, chị cũng không thể làm cách nào để chồng chị trao tiền cho chị mua thức ăn cũng như trang trải những chi phí khác đúng thời gian. Chị ta cứ phải hỏi tiền mỗi tuần nhiều lần. Nếu chị ta không hỏi, anh ta quên đưa tiền cho chị cho tới khi tuần đó qua đi. Chị có đem chuyện đó ra nói với anh ta, rồi còn năn nỉ và hăm dọa anh ta nữa, nhưng tất cả đều vô ích. Họ càng gây lộn với nhau thì anh ta càng ít đưa tiền cho chị. Vậy chị ta có thể làm được gì? Bây giờ thì anh ta bắt đầu tố cáo chị tiêu tiền quá nhiều. Chị ta phải làm gì để tránh chiến tranh bùng nổ?  

Tôi có thể hiểu được tình cảnh khó khăn của chị. Chị không thể nào dự trù được ngân sách của chị ngay cả đến những bữa ăn. Chị ta phải đi mượn tiền, phải đi vay nợ, đó là những điều mà chi rất ghét. Nhưng chị ta cũng không thể làm gì khác hơn là năn nỉ hay đe dọa. 

Thật rõ ràng là thái độ phi lý của người chồng. Người chồng xem ra là kỳ cục nếu chỉ nhìn trên bình diện lý trí. Anh ta không có quyền cũng như không có lý do chính đáng để hành động như thế. Nhưng tình huống có thể là khác hẳn nếu được nhìn dưới nhãn quan tâm lý. Anh ta yêu vợ và hy sinh cho vợ rất nhiều đến nỗi chị ta có thể thuyết phục anh ta làm bất cứ điều gì chị ta muốn. Chị đã làm như thế, ngoại trừ trong vấn đề nầy, bỡi lẽ chỉ còn một lãnh vực duy nhất mà anh ta cảm thấy có thể còn giữ được uy thế, còn giữ được thế thượng phong, đó là vai trò cung cấp. Anh ta muốn lợi dụng vai trò nầy để giữ được uy quyền của mình trên người vợ, nhưng anh ta hoàn toàn không ý thức gì về chuyện đó. Anh muốn được hỏi và được xin. Nếu anh ta trao cho chị số tiền ngay vào đầu tuần, uy quyền của anh sẽ không còn. Nhưng anh ta không thể cắt nghĩa điều đó cho chị ta được vì anh ta hoàn toàn vô ý thức về vấn đề nầy. Anh ta hoàn toàn vô thức về động lực tâm lý của mình. Vì thế, khi chị ta tố cáo anh, anh ta phải đi tìm những lý do loanh quanh để cắt nghĩa. Nhưng những lý do loanh quanh đó chỉ làm cho chị ta thêm tức giận mà thôi. Do đó, họ đã đi đến chỗ bế tắc trong cuộc chiến tranh lạnh và cũng rất có thể làm cho cuộc hôn nhân của họ đi đến chỗ tan vỡ. 

Sau khi giúp chi ta hiểu được lý do tại sao chồng chị đã làm như thế, chị ta không còn tức giận nữa. Chị đã tìm ra cách thế dễ dàng để giải quyết vấn đề của chị. Trước hết, chị ta không còn khó chịu nữa, nhưng rất vui vẻ hỏi anh ta điều chị cần đến. Thứ đến, chị muốn anh ta cũng được vui vẻ. Và nếu đó là cách làm cho anh ta vui vẻ, tại sao chị lại không làm? Chị có thể lấy một trăm đô la như chỉ lấy hai mươi đô la nếu chị chịu hỏi anh ta nhiều lần. Quả thật, anh ta rất rộng rãi với chị. Vì thế, sau đó nhiều lần chị ta đã lấy không những một vài trăm mà ngay cả một vài ngàn một cách dễ dàng để chi trong những việc cần thiết mà không có gì rắc rối. 

Điều mà chị ta học được từ kinh nghiệm nầy là: làm một cái gì khác hơn là giải quyết vấn đề tiền bạc. Chị đã khám phá ra rằng cái nguy hiểm thật của họ nằm trong chỗ tranh chấp quyền hành lẫn nhau, và rằng anh ta thật sự sợ chị nắm quyền trên anh ta. Nhờ tâm lý, chị ta đã hiểu được cái gì là động lực sâu xa, đâu là lý do tại sao đã khiến anh ta hành động như vậy? Sau khi đã khám phá ra được điều đó, chị đã có thể tìm được một phương cách để giải quyết vấn đề của chị một cách thành công và dễ dàng.

 Lm Lê Văn Quảng Psy.D.

VỀ MỤC LỤC
CÁC HÌNH THỨC CẦU NGUYỆN

 

LINH MỤC GIÁO PHẬN SỐNG TU ĐỨC TOÀN DIỆN

TRONG BỐI CẢNH THỰC TẾ CỦA GIÁO HỘI VÀ XÃ HỘI VIỆT NAM HÔM NAY

Lm. Micae-Phaolô Trần Minh Huy pss

CHƯƠNG BA 

Đời Sống Cầu Nguyện Và Đời Sống Nội Tâm (tiếp theo)

G. CÁC HÌNH THỨC CẦU NGUYỆN 

G.I Liên quan đến Lời Chúa

G.I.1 lời Chúa

Sách Thánh có thể dạy anh nên người khôn ngoan để được ơn cứu độ, nhờ lòng tin vào Đức Ki-tô Giê-su. Tất cả những gì viết trong Sách Thánh đều do Thiên Chúa linh hứng, và có ích cho việc giảng dạy, biện bác, sửa dạy, giáo dục để trở nên công chính. Nhờ vậy, người của Thiên Chúa nên thập toàn và được trang bị đầy đủ để làm mọi việc lành[1]  

Thánh Gioan đã nói: Ai giữ Lời Chúa Giêsu thì sống trong Chúa Giêsu và tình yêu của Chúa Giêsu được trọn hảo nơi người ấy và người ấy sẽ an toàn đi trên chính lộ đến cùng Chúa Cha.[2] Vì thế mà Hiến chế Dei Verbum nhắc lại lời thánh Jérôme: “Không biết Kinh Thánh là không biết Chúa Giêsu.[3]  

Lương thực đầu tiên nuôi dưỡng đời sống thiêng liêng là Lời Chúa. Lời Chúa ban sự sống đời đời; đổi mới cái nhìn của chúng ta về mọi sự.[4] Lời Chúa soi sáng trí khôn, mời gọi tới đức tin, mở lớn niềm hy vọng, thức tỉnh và đổi mới tình yêu. “Lời Thiên Chúa là lời sống động, hữu hiệu và sắc bén hơn cả gươm hai lưỡi: xuyên thấu chỗ phân cách tâm với linh, cốt với tuỷ; lời đó phê phán tâm tình cũng như tư tưởng của lòng người[5]   

Suy niệm, sống và rao truyền Lời Chúa là bổn phận và sứ vụ của mọi tín hữu. Chính Lời Chúa làm cho đời sống và sứ vụ linh mục được triển nở và sinh hoa kết trái dồi dào trong chương trình cứu độ của thánh ý Chúa.[6] Linh mục phải đào sâu các văn kiện của THĐGMTG 2008 về Lời Chúa trong đời sống và sứ vụ của Giáo Hội và phải hết sức đi vào trong tính năng động của Lời Chúa, khẳng định địa vị trung tâm của Lời Chúa trong kinh nghiệm đức tin và các hoạt động mục vụ của mình: lấy Lời Chúa soi sáng đời sống rồi phải điều chỉnh cuộc sống đúng với Lời Chúa. 

Lời Chúa khám phá ra điều bí ẩn trong linh hồn, chất vấn, sửa chữa, hoán cải, đổi mới và thánh hoá con người, với “một tâm hồn mới và một tinh thần mới”[7], bằng cách làm cho đời sống và hành động của con người được thấm nhuần những giá trị Phúc Âm. Ai nói rằng mình ở lại trong Người, thì phải đi trên con đường Đức Giêsu đã đi. Không có loài thọ tạo nào mà không hiện rõ trước Lời Chúa, nhưng tất cả đều trần trụi và phơi bày trước mặt Đấng có quyền đòi chúng ta trả lẽ.[8]   

G.I.2 LECTIO DIVINA

Lectio Divina là việc đọc đều đặn và cầu nguyện Thánh Kinh. Việc đọc và suy gẫm Lời Chúa hàng ngày hay hàng tuần đem lại nguồn lương thực nuôi dưỡng đời sống thiêng. Lectio Divina và Khoa chú giải Thánh Kinh là hai bước biệt lập:

-   Chú giải Thánh Kinh giúp làm sao để thực sự đọc một bản văn với sự chú ý và khách quan (nhằm sự hiểu biết chính xác)

-   Lectio Divina gợi lên lòng khao khát đọc toàn bộ Kinh Thánh để khám phá và sống mỗi ngày một hơn sự phong phú bất tận của Lời Chúa (nhằm sự biến đổi đời sống) 

Đặt cuộc sống mình dưới sức mạnh của Lời Chúa là bộc lộ thái độ của người môn đệ lắng nghe, của người tôi tớ vâng lời, của Người Con đến để thi hành thánh ý của Cha.[9]

Tiến trình LECTIO DIVINA:

·        Chuẩn bị (chọn bản văn)

·        Đọc bản văn

·        Suy niệm

·        Cầu nguyện

·        Chiêm ngắm

·        Biện phân

·        Chia sẻ với kẻ khác

·        Hành động (đáp trả) 

G.I.3 Phụng Vụ Các Giờ Kinh

Phụng Vụ Các Giờ Kinh là lời cầu nguyện của Hội Thánh. Nhịp điệu và cấu trúc của nó không ngừng hướng con tim và ý tưởng chúng ta về Chúa, Đấng là nguồn mọi thiện hảo.   

Chúng ta không chỉ coi Phụng vụ các Giờ Kinh như là một bổn phận bó buộc quan trọng, mà còn là một niềm vui và vinh dự tiếp chuyện với Chúa, thay cho cả Giáo Hội và thế giới. 

Ngày nay chúng ta được mời gọi cử hành PVCGK cách cộng đồng cùng với các thành phần khác của Dân Chúa. Hãy liệu làm sao cho mọi người được tham gia cách ý thức, tích cực và sống động, nội tâm hóa lời kinh chứ không phải đọc cách máy móc hời hợt.  

Bỏ cầu nguyện là đánh mất mối dây liên lạc thân tình với Chúa Kitô. Mối dây liên lạc nhân quả giữa cầu nguyện và nhân đức, hay giữa sự khô khan của tâm hồn, thói xấu và những tương quan cá nhân sai lạc. Và sớm hay muộn, thì sự đánh mất tình thân thiết với Chúa cũng dẫn đến thảm họa: sụp đổ căn tính tông đồ và rời bỏ đời tu.   

G.I.4 Nguyện Gẫm   

Nguyện gẫm là chiêm ngắm, suy nghĩ và nói chuyện thân mật với Chúa. Chúa luôn giữ vai chủ động trong việc tỏ mình ra với chúng ta lúc nào và thế nào tùy Ngài muốn. Còn chúng ta có thể chủ động khi dùng mọi quan năng dẹp bỏ trở ngại để đón tiếp Chúa, hoặc thụ động khi buông mình đi theo sự dẫn dắt của Chúa Thánh Thần, quen gọi là nhiệm hiệp.  

Nguyện gẫm là phương tiện rất cần thiết giúp ta nên thánh. Công đồng Vaticanô II cũng như Giáo luật dạy phải dành thời giờ hằng ngày cho việc nguyện ngắm.[10] Nguyện gẫm cá nhân hằng ngày là một thực hành cổ điển để chúng ta được lớn lên trong đời sống thiêng liêng: chiêm ngắm Chúa để rồi sống như Ngài, suy nghĩ với đầu óc của Chúa, nhìn thấy với con mắt Chúa, yêu thương với trái tim Chúa, hành động bằng sức Chúa. 

Trong nhiều phương pháp nguyện gẫm của nhiều trường phái linh đạo khác nhau, chúng ta có thể đi sâu vào một phương pháp thích hợp; khám phá và hình thành cách thức riêng của mình để nguyện gẫm cho có hiệu quả.[11]  

Hình thức cầu nguyện bằng trí khôn này là một cuộc tìm kiếm đầy đủ và sâu xa sự hiện diện và hoạt động của Thiên Chúa, như được mạc khải nơi các bản văn ta đọc. Ta đem hết trí tưởng tượng, tình cảm, trí khôn và ý muốn để chiêm ngắm những lời nói và việc làm của Chúa Giêsu trong Tin Mừng.  

Những khám phá như thế dẫn tới những biến đổi trong thái độ nội tâm và các động lực, ảnh hưởng đến cách ứng xử và làm phong phú mối tương quan của ta với Chúa.[12] Nhờ vào bầu khí lắng nghe, trao đổi và khích lệ của các buổi gặp linh hướng, ta có thể chia sẻ và đánh giá những niềm vui và những khó khăn gặp phải, nhịp độ và những khám phá đã thực hiện. 

Nguyện gẫm phải là thời gian và nơi chốn không gì có thể thay thế. Nó là một niềm vui và một trắc nghiệm lòng trung thành với Chúa, trong sự hiện diện đầy yêu thương của Ngài.  

Sự khô khan không thể tránh khỏi và sa mạc là những cuộc tập luyện tốt để khỏi dính bén các ảo tưởng cho rằng mình trực tiếp nắm bắt được Chúa. Tuy nhiên, để giờ nguyện gẫm được tập trung sinh hoa kết quả thiêng liêng, chúng ta có thể kết hợp nhiều hoạt động: chiêm ngắm, đọc một đoạn Phúc Âm, ghi chép…  

Sau cùng, nguyện gẫm là nơi tiếp nhận và tái khám phá Thiên Chúa, Đấng không ngừng tự hiến mình cho những ai hằng tìm kiếm Ngài. Nhờ việc nguyện gẫm hằng ngày, ta hiệp thông với Chúa và kín múc được nghị lực phục vụ tha nhân.  

G.I.5 Sách Thiêng Liêng    

Cùng với Lectio Divina, phải kể đến thực hành đọc đều đặn sách thiêng liêng của các Giáo phụ, cũng như của các tác giả tu đức, cả cổ thời lẫn hiện đại, để có thể làm quen trong đức tin sứ điệp Tin Mừng được các chứng nhân sống động phiên dịch ra bằng chính cuộc sống và chuyển tải đến chúng ta.  

Sách thiêng liêng được coi là suối nguồn rất giá trị giúp ta lớn lên trong tương quan với Thiên Chúa. Nó là một con đường đức tin được chia sẻ trong kinh nghiệm của người khác. Điều quan trọng là sống làm sao những gì mình đã đọc. Tốt hơn là đọc ít đoạn rồi dừng lại để suy gẫm, thay vì đọc nhiều trang mà không để cho những điều đã đọc giúp mình tương quan thân mật với Chúa.  

Các sách thiêng liêng cổ thời hay hiện đại đều có thể giúp ta lớn lên trong đời sống thiêng liêng mỗi ngày. Điều quan trọng không phải là đọc một bản văn, nhưng là tìm ra từ bản văn ấy cái giúp phát triển các mối tương quan của con người với Thiên Chúa, với chính mình, với tha nhân và với môi trường sống thiên nhiên nữa. Có người nói rằng một ngày không đọc sách như chưa rửa mặt. Sau khi đọc xong một cuốn sách, người đọc sẽ trở nên khác trước, hoặc tốt hơn hoặc xấu hơn. 

G.II Mầu Nhiệm & Nghi Thức 

G.II.1 Bí Tích Thánh Thể

Thánh Thể là nguồn suối và chóp đỉnh của đời sống Giáo Hội,[13] và cũng là trung tâm đời sống và sứ vụ linh mục. Nhờ Thánh Lễ, ta cử hành và tham dự vào lời cầu nguyện hiến tế của Chúa Kitô.  

Thánh Lễ không chỉ là một lời đáp trả cá nhân đối với tình yêu của Chúa Cha, nhưng là đại dương vô tận của những lời cầu khẩn, ca khen và dâng hiến của Chúa Kitô. “Thánh Thể nối kết trời với đất, ôm lấy và thấm nhuần tất cả tạo thành.” Chúa Kitô được tôn thờ dù dưới dấu chỉ khiêm tốn của miếng bánh vẫn là Đấng đã tự hiến chính mình vĩnh cửu cho Chúa Cha và đã trở nên lương thực ban sức mạnh cho tín hữu (x. Câu chuyện về Vua Tự Đức thời bắt đạo).[14] Dâng lễ sẽ được trọn vẹn với hiệp lễ.[15]  

Có nhiều hình thức khác nhau của việc tôn thờ này: Thánh Lễ, viếng Mình Thánh Chúa ngắn ngủi, thờ phượng thường xuyên, đêm thờ phượng, Giờ Thánh, chầu Thánh Thể liên tục… Việc tôn thờ Thánh Thể thường xuyên giúp canh tân và xây dựng các cộng đoàn Giáo Hội trên khắp thế giới. Việc tôn thờ này mang lại nhiều nghị lực và hăng say cho các nhà truyền giáo, vì Thánh Thể là dấu chỉ thường xuyên của tình yêu Thiên Chúa.

G.II.2a Bí Tích Sám hối   

Việc cử hành Bí Tích Hối Sám luôn là một cử hành phụng vụ, ngay cả với hình thức riêng tư của nó. Thực hành bí tích sám hối là một yếu tố trong đời sống cầu nguyện của cả hai người, người xưng thú lẫn người nghe xưng thú.  

Linh mục là thừa tác viên thường xuyên của Bí tích Giải Tội. Ngài không chỉ đều đặn thực hành bí tích này, mà còn cố gắng hiểu biết tốt hơn và cử hành nghiêm túc, vì bí tích này cũng là một tập luyện tuyệt vời về nhân đức, đền tội…,  là trường tu đức không thể thay thế, là một sự trợ giúp thực sự trên con đường đổi mới và thánh hóa.   

Bí tích Hòa giải là một quà tặng, một khí cụ quan trọng:

-         cho sự tái định hướng, thánh hoá và tăng trưởng thiêng liêng,

-         đặc biệt nếu việc xưng tội không chỉ được coi là một nghi thức,

-         mà đúng hơn là một cơ hội không chỉ để xưng tội, mà còn để trao đổi với một cha giải tội và linh hướng có kinh nghiệm, nhờ đó đạt tới một kinh nghiệm chữa lành và vui sống.  

Việc linh hướng đều đặn là một bảo đảm khác cho việc tái định hướng, tăng trưởng và phát triển đời sống thiêng liêng trưởng thành của ứng sinh. Chủng sinh thường xưng tội với cha linh hướng của mình, nhưng cũng có thể xưng tội với các linh mục khác. Song cha linh hướng sẽ không chịu trách nhiệm tòa trong của việc linh hướng liên quan đến các tội không được xưng thú với ngài đó.

Thường chỉ xưng tội thôi không đủ, hối nhân cũng cần được trao đổi giải quyết và như thế thấy được các gốc rễ sâu xa hơn của lỗi phạm, cùng là cơ hội mở ra các viễn ảnh tương lai. Lối xưng tội chia sẻ và đối thoại như thế cũng mang lại một sự cởi mở lớn hơn trên cả chiều kích nhân bản và thiêng liêng. Chính vị linh mục cũng được khích lệ rất nhiều trong một kinh nghiệm như thế, nhờ đó ngài có khả năng giúp đỡ những người khác trong cùng một đường lối hoặc tương tự. Linh mục giải tội và linh hướng có thể vận dụng những kinh nghiệm này vì lợi ích đào tạo mà không lỗi ấn tòa giải tội hay bí mật tòa trong khi không nêu danh tánh hay các dữ kiện cụ thể. Nếu có đúng vào trường hợp của mình, đương sự nên quảng đại cho phép việc vận dụng ấy vì lợi ích của các linh hồn khác và cứ thản nhiên, đừng dại dột phản ứng kiểu “thưa ông tôi ở bụi này.” 

Bí tích hòa giải là một trong những quà tặng đặc biệt của linh mục cho kẻ khác trong thừa tác vụ bí tích của ngài, nhưng đồng thời nó cũng là khí cụ cho linh mục tăng trưởng trong đời sống thiêng liêng và bác ái mục tử.

G.II.2b Giá trị của việc xưng tội cá nhân 

Cuộc đối thoại giữa hối nhân và cha giải tội làm cho việc cử hành bí tích đáp ứng sít sao hơn với từng tình huống cụ thể của hối nhân, với các lý do khác nhau sau đây của hối nhân: 

-   Nhu cầu hòa giải cá nhân và tái nhập vào tình bằng hữu với Chúa nhờ nhận lại được những ơn đã mất do tội;

-   Nhu cầu tìm kiếm sự tiến bộ thiêng liêng: “Ta biết các việc ngươi làm, nỗi vất vả và lòng kiên nhẫn của ngươi… vì danh Ta. Nhưng Ta trách ngươi điều này: ngươi đã để mất tình yêu thuở ban đầu. Vậy hãy nhớ lại xem ngươi đã từ đâu rơi xuống, hãy hối cải và làm những việc ngươi đã làm thuở ban đầu. Bằng không, Ta đến với ngươi, và Ta sẽ đem cây đèn của ngươi ra khỏi chỗ của nó, nếu ngươi không hối cải.”[16] 

-   Đôi khi cần một sự biện phân thích đáng hơn về ơn gọi.

-   Trong nhiều trường hợp, không những cần mà còn khao khát thoát khỏi tình trạng hờ hững thiêng liêng và khủng hoảng đời tu, hầu có một lối giải quyết, một lối đi mới trong chính hoàn cảnh cụ thể đang phải sống. 

Trong cuộc đối thoại này phải tránh đề cập trực tiếp đến đệ tam nhân. Phải rất cẩn thận và tế nhị trong các câu hỏi để làm sáng tỏ hầu có biện pháp và lời khuyên thích ứng, giúp hối nhân thay đổi lật sang một trang mới của cuộc đời. Có ba thứ tội tối kỵ đối với linh mục kèm theo vạ tiền kết dành riêng cho Tòa Thánh: Lỗi ấn tòa giải tội, khuyến dâm trong tòa và giải tội cho đồng phạm.  

Tương quan linh hướng là một tương quan khép kín tay ba (Chúa Thánh Thần, người thụ hướng và vị linh hướng): Điều mà vị linh hướng khám phá về người thụ hướng ở toà trong sẽ không được tiết lộ ra ở toà ngoài. Dữ kiện này có cùng một qui chế như ấn toà giải tội. Điều này không chỉ để bảo vệ người thụ hướng, mà còn cống hiến cho họ sự tín nhiệm và tin tưởng rằng điều gì họ đã bộc lộ ở tòa trong vẫn được giữ bí mật.[17] Chính niềm tín nhiệm và bảo đảm này mang lại sự chữa lành tận gốc các căn bệnh.  

G.II.2 Sùng Kính Mẹ Maria  

Mỗi người đều tự phát có lòng sùng kính sâu xa Đức Trinh Nữ Maria với con tim chân thành. Lòng tôn sùng đích thực được đặc trưng qua thái độ sống đơn sơ và khiêm tốn theo gương của Mẹ, phát sinh từ việc chiêm ngắm mầu nhiệm Ngôi Lời Nhập Thể.   

Mẹ hướng dẫn chúng ta tới Chúa Giêsu, Đấng đưa chúng ta đến với Chúa Cha. Mẹ chỉ cho chúng ta con đường hiệp thông trọn vẹn với Thiên Chúa, bởi vì Mẹ là người phụ nữ được Thiên Chúa tuyển chọn để thực hiện chương trình cứu độ của Ngài với tư cách là người đồng tham dự vào những biến cố tột đỉnh của lịch sử cứu độ [Đức Mẹ Đồng Công].  

Mẹ được kêu cầu là Mẹ của Hội Thánh và Mẹ của mỗi người, nhất là đối với linh mục, vì khi trên thập giá, vào lúc tột đỉnh của sứ mạng cứu độ nhân loại, Chúa Giêsu đã trao phó Mẹ mình cho Gioan và ký thác Gioan cho Mẹ.[18] Chúng ta cũng hãy đón nhận Mẹ Maria vào trong nhà nội tâm và đời sống linh mục của chúng ta. 

Được sự che chở và hướng dẫn từ mẫu của Mẹ nâng đỡ và tăng sức mạnh, chúng ta có thể nhìn thấy mọi mối tương quan nhân loại và những nhu cầu tự nhiên của con người trong các giai đoạn đời sống và sứ vụ linh mục của mình, bằng đôi mắt mới, bằng trái tim và trí não mới, và luôn bước đi trên con đường thánh thiện cần thiết.

Là linh mục, chúng ta cần tăng cường lòng sùng kính Đức Mẹ. Sự hiện diện từ mẫu của Mẹ luôn là sự nâng đỡ cho chúng ta. Mẹ đã luôn theo sát Chúa Giêsu Con Mẹ trong suốt cuộc đời trần thế của Ngài cho đến dưới chân thập giá, và bây giờ Mẹ vẫn tiếp tục đồng hành cùng chúng ta, nhất là trong những lúc gặp thử thách đau khổ:

Mẹ ơi, Mẹ đã nêu gương,            

Giúp con theo Chúa đau thương chớ rời ! 

Chúng ta hãy luôn nuôi dưỡng lớn mạnh thêm mỗi ngày lòng sùng kính con thảo đối với Mẹ. Mẹ luôn đồng hành với chúng ta và liên lỉ che chở chúng ta. Chúng ta hãy vào trường Maria để học biết yêu thương và bước theo Đức Kitô trên hết mọi sự. Trong trường của Mẹ Maria, chúng ta học biết đặt Chúa Kitô vào chỗ nhất trong cuộc đời chúng ta, và học để hướng tư tưởng cùng hành động của chúng ta theo Ngài: “Người bảo gì thì hãy làm theo.” 

Đúng vậy, nơi trường của Mẹ, chúng ta học biết thinh lặng, biết lắng nghe và phục vụ khiêm tốn, đó là những điểm mấu chốt của đời sống người môn đệ. Mẹ Maria sẽ giúp chúng ta tiến sâu vào mối tương quan nhân vị và đích thực hơn với Chúa Giêsu, để chúng ta yêu mến Ngài và làm cho Ngài được yêu mến. Qua việc chiêm ngắm và lắng nghe Mẹ Maria, chúng ta sẽ hiểu hơn sức mạnh nâng đỡ và biến đổi của ơn thánh Chúa. 

Liên quan đến đời sống độc thân khiết tịnh của linh mục đang “bị thế giới của thời đại chúng ta nghi ngờ giá trị và cho là không thể giữ được”, Đức Phaolô VI cậy dựa vào lòng sùng kính nồng nhiệt và tỏa sáng đối với Mẹ Maria.[19] Vâng, chọn lựa độc thân linh mục của chúng ta cần được đặt nơi trái tim Mẹ Maria. Chúng ta hãy chạy đến cùng Mẹ, khi gặp khó khăn trên con đường đã chọn. Là trinh nữ và là mẹ, Mẹ Maria hiểu rất rõ trái tim chúng ta cần gì, và Mẹ biết làm thế nào để giữ cho chúng ta được trung thành với lời cam kết linh mục của mình. 

Chúng ta sẽ tìm được ẩn náu an toàn nơi người Mẹ trên trời của chúng ta. Mẹ sẽ giúp chúng ta thăng hoa trái tim và con mắt, để nhìn thấy Chúa ở trong và qua những người chị em chung quanh chúng ta. Chúng ta kêu xin Mẹ bảo vệ và biến đổi chúng ta và những ai thân thiết với chúng ta. Chúng ta sẽ không bao giờ thiếu sự chở che, nâng đỡ của Mẹ. Nhờ lời chuyển cầu của Mẹ, Chúa Thánh Thần sẽ gìn giữ sự độc thân thánh thiện của chúng ta như Ngài đã làm cho Mẹ và Thánh Giuse.   

Vì thế, hãy hướng con mắt và trái tim, với niềm tín thác được đổi mới và lòng cậy trông con thảo, về Mẹ rất yêu dấu của Chúa Giêsu và Mẹ của Hội Thánh, và hãy kêu xin sự cầu bầu vạn năng và hiền mẫu của Mẹ cho mọi anh em linh mục chúng ta. ĐTC Phaolô VI đã khuyên nhủ: “Anh em hãy hướng con mắt và trái tim, với niềm tín thác được đổi mới và lòng cậy trông con thảo, về Mẹ rất yêu dấu của Chúa Giêsu và Mẹ của Hội Thánh, hãy kêu xin sự cầu bầu vạn năng và hiền mẫu của Mẹ cho chức linh mục Công giáo.”[20]  

Có một việc thật đơn giản nhưng rất quan trọng của lòng sùng kính Mẹ Maria là lần chuỗi Mân côi, một bản Phúc Âm tóm tắt.[21] Cầu nguyện chuỗi Mân Côi là tham dự vào đời sống và sứ vụ của Chúa Cứu Thế và của Đức Mẹ, Đấng đã trở nên mẹ của mỗi linh mục cách đặc biệt. Mẹ dẫn dắt mọi người đến với Chúa Giêsu và Chúa Giêsu sẽ đưa họ tới Chúa Cha. Đây hẳn là hành trình đức tin bảo đảm chắc chắn nhất theo gương Đức Trinh Nữ Maria. Hãy khuyến khích nhau giữ thói quen lần chuỗi, lần chuỗi một mình hoặc lần chuỗi chung với người khác, vì chuỗi mân côi sẽ đốt nóng và làm mạnh thêm mối giây ràng buộc giữa các con cái Chúa với nhau và với Mẹ. Lời cầu nguyện này sẽ giúp chúng ta được mạnh mẽ hơn trong đức tin, bền vững hơn trong đức ái, được niềm vui và kiên trì hơn trong niềm hy vọng.  

Theo gương mẫu và kinh nghiệm của Đức Gioan Phaolô II, chúng ta nên tận hiến cho Mẹ với lòng tin tưởng yêu mến, tìm trú ẩn nơi sự che chở thần thế của Mẹ, biết rằng trong lúc khó khăn chúng ta cũng không bị bỏ rơi cô đơn, vì Mẹ sẽ nâng đỡ ủi an chúng ta bằng sự dịu dàng từ mẫu của Mẹ. Ngài chia sẻ: “Suốt cuộc đời tôi, “Totus Tuus - Tất cả bản thân con là của Mẹ,” tôi đã cảm nghiệm rõ sự hiện diện đầy yêu thương của Mẹ. Mẹ Maria đồng hành với tôi mọi ngày để giúp tôi chu toàn sứ vụ là người kế vị Thánh Phêrô.[22]  

Tôi đã mất mẹ sớm nên cũng cảm nhận và kinh nghiệm được sự an ủi, che chở và đồng hành đầy yêu thương của Mẹ Maria Lavang cho đời linh mục của mình:

Má mất nay được Mẹ thay,

Chuỗi đời côi cút bớt cay bớt buồn,

Nhất là đêm lạnh mưa tuôn,

Mưa tuôn ngoài phố mưa buồn trong tim.  

Một người mẹ an ủi con rằng “Dù con lớn bao nhiêu tuổi, con vẫn là con của mẹ; dù con có đi tới cùng trời cuối đất thì lòng mẹ vẫn hằng theo con.” Mẹ Maria còn làm hơn biết bao nhiêu cho các con linh mục của Mẹ, nhất là trong những lúc gian nan khốn khó phần hồn phần xác:

Mẹ ơi, con Mẹ ngồi đây

Nỗi niềm tâm sự tỏ bày thân thưa

Mẹ hiền đã thấu cho chưa

Thử thách cay đắng liệu vừa sức con.

 

Hỏi rằng sao trả quá đắt?

Đồi cao thánh giá ai dắt ai dìu?

Dẫu rằng phải trả quá đắt,

Đồi cao thánh giá Mẹ dắt Mẹ dìu.

 

[1] 2 Tm 3, 15-17

[2] x. 1Ga 2,5-6; Ga 14,6

[3] Dei Verbum số 25.

[4] x. Mt 4,4; Ga 6, 68

[5] Dt 4,12

[6] x. 1 Cr 9, 16; Is 55,10-11

[7] x. Ez 18,31

[8] x.1 Ga 2,6; Dt. 4, 13

[9] “Cũng như mưa với tuyết sa xuống từ trời không trở về trời nếu chưa thấm xuống đất, chưa làm cho đất phì nhiêu và đâm chồi nẩy lộc, cho kẻ gieo có hạt giống, cho người đói có bánh ăn, thì lời Ta cũng vậy, một khi xuất phát từ miệng Ta, sẽ không trở về với Ta nếu chưa đạt kết quả, chưa thực hiện ý muốn của Ta, chưa chu toàn sứ mạng Ta giao phó” (Is 55,10-11)

[10] Các Sắc lệnh về Đào tạo linh mục số 4.8; về Đời sống tu sĩ số 6; về Đời sống linh mục số 18; Giáo luật 246§3; 276§2, 50; 577; 663,§3; 673.

[11] x. Phương pháp nguyện gẫm Xuân Bích đơn giản với ba thì: Đặt Chúa Giêsu trước mắt (thờ lạy), nghĩa là chăm nhìn Chúa trong Phúc Âm, xem việc Chúa làm, lời Chúa giảng dạy, thái độ và tâm tình của Chúa; Đặt Chúa Giêsu trong tim (hiệp thông) nghĩa là yêu mến Chúa và yêu mến như Chúa Giêsu yêu mến, hòa cùng một nhịp tim với Chúa Giêsu; Đặt Chúa Giêsu trên bàn tay (hợp tác), nghĩa là hành động bằng một lời dóc lòng cụ thể khả thi để kiểm chứng lại khi xét mình, nỗ lực đem Chúa Giêsu đến cho những người mình gặp gỡ.

[12] x. Lc 24,32

[13] Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo, 1324.

[14] Một lời truyền khẩu của người Việt nam Công giáo nói rằng trong thời kỳ bắt đạo, Vua Tự Đức đã ra lệnh cho lính cai ngục nghiêm cấm các người Công giáo mang vào tù cho các đồng đạo của họ những miếng bánh trắng trắng, tròn tròn, nho nhỏ (đó là Mình Thánh Chúa), vì những miếng bánh đó làm cho họ không sợ tù đày, tra tấn, đau khổ, ngay cả cái chết, và luôn trung thành với đức tin  vào Thiên Chúa của họ

[15] x. Câu chuyện một gia đình đi du lịch sợ không dám ăn đồ ăn thịnh soạn người ta dọn ra, chỉ ăn lương thực thanh đạm mang theo và ngồi nhìn thèm tiệc người ta ăn, sau mới biết các bữa ăn đó đều đã được tính trong vé du lịch, tiếc thì đã muộn!

[16] Kh 2,2-5

[17] x. GL 220

[18] Ga 19, 26-27

[19] x. Paul VI, Sacerdotalis Caelibatus, số 1

[20] Sacerdotalis Caelibatus số 98ª.

[21] x. Paul VI, Marialis Cultus: The Angelus and the Rosary

[22] John Paul II, “Behold, Your Mother: Message for 18th World Youth Day” - Vatican City, March 19,2003.

 
VỀ MỤC LỤC
KHI THỬ THÁCH CHỚM NỞ HÃY NHỚ LỜI THỀ THỦY CHUNG

 

Tác phẩm: Cẩm  Nang  Hạnh  Phúc Gia  Đình  Kitô - MỤC VỤ HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH

Tác giả: D. WAHRHEIT (Lm. Minh Anh, GP. Huế tổng hợp biên tập)

 

A21. KHI THỬ THÁCH CHỚM NỞ HÃY NHỚ LỜI THỀ THỦY CHUNG

Nhân dịp kỷ niệm 50 năm thành hôn của nhà tỷ phú Mỹ, Henry Ford, có người hỏi ông đâu là công thức để thành công trong đời sống hôn nhân. Ông trả lời: “Cũng chính là công thức đã giúp tôi thành công trong kỹ nghệ chế tạo xe hơi. Công thức đó là: Trung thành với một mẫu duy nhất”.

Sự thủy chung luôn luôn là chìa khóa của sự thành công trong bất cứ địa hạt ngành nghề nào của cuộc sống. Sự thủy chung ở đây dĩ nhiên phải gợi lên cho chúng ta trước tiên sự kiên trì nhẫn nại trong việc đeo đuổi mục đích mà mình đã đề ra.

Công thức trên đây phải được ưu tiên áp dụng cho đời sống vợ chồng. Khi bắt đầu một ngành nghề, người ta không buộc phải thề thốt trung thành với công việc đã chọn. Nhưng trong bậc hôn nhân, đời sống vợ chồng phải đặt nền tảng trên lời thề hứa thủy chung của hai người phối ngẫu. Giao ước mà hai người ký kết với nhau chính là lời hứa thủy chung.

Với những đôi vợ chồng trẻ đang bắt đầu  chạm chán với những khó khăn trong cuộc sống hôn nhân. Chúng tôi xin được nhắc lại với họ công thức trên đây: Thủy chung và thủy chung đến cùng.

Lời thề hứa và tâm niệm ấy sẽ giúp họ vượt qua được những thử thách trong cuộc sống và giúp họ xây dựng được một cuộc hôn nhân thành công.

1. Người ta thường nói đến những thử thách đầu đời của hôn nhân, những thử thách đó có thể đến ngay sau khi đôi tân hôn vừa chấm dứt tuần trăng mật. Sau khi thành hôn, cặp vợ chồng trẻ nào cũng mong được gần gũi quấn quít bên nhau suốt ngày, nhưng thực tế không cho phép họ tiếp tục mộng mơ. Cuộc sống hàng ngày với bao tranh đấu đang chờ đợi họ. Và giờ đây, cả hai đều hiện nguyên hình nguyên dạng với đầy đủ ưu khuyết điểm của mỗi người.

Trong suốt thời kỳ quen biết hẹn hò với nhau, người thanh niên nghĩ rằng, người vợ tương lai của mình là một người đàn bà lý tưởng, nàng không có những khuyết điểm mà chàng đã nhận thấy nơi những thiếu nữ khác. Chàng nghĩ rằng, nàng sẽ thành công ở những điểm mà người khác đã thất bại, và cuộc sống chung với nàng sẽ là một bài ca vô tận.

Nhưng chỉ sau tuần trăng mật, khi chạm với thực tế mỗi ngày, chàng đã bắt đầu nhận thấy nàng có những tính nết không phù hợp với lý tưởng mà chàng đã ôm ấp trước kia.

Dĩ nhiên, về phía người vợ trẻ, nàng cũng có những nhận xét tương tự về chàng. Chàng không còn giống như người thanh niên hào hoa đức độ mà nàng đã quen biết, và cũng không bao giờ là người đàn ông mà nàng ước mơ.

Trong cố gắng giúp nhau, hai người sẽ nhận xét cho nhau về những khuyết điểm của nhau. Nhưng mới chập chững bước vào đời sống vợ chồng, không ai có thể tránh được những vụng về. Những lời nhận xét ban đầu không mấy chốc biến thành một cuộc ăn miếng trả miếng. Thế là những cuộc cãi cọ to tiếng đầu tiên đã xảy ra. Và như loài thú nhai lại, mỗi người sẽ tìm một chỗ thinh lặng nào đó để gặm nhấm nỗi đắng cay đầu đời hôn nhân.

Trong đầu óc mỗi người, những nghi ngờ có thể sẽ dấy lên: “Tôi có lầm lẫn khi bước vào cuộc hôn nhân này không? Phải chăng tôi đã không chọn lầm người? Phải chi tôi đã dành nhiều thời giờ hơn để suy nghĩ trước khi quyết định lập gia đình!”. Sự khám phá ra nhau có thể đưa đôi vợ chồng trẻ đến tâm trạng chán chường ấy.

2. Với những đôi vợ chồng trẻ đang bắt đầu sống trong tâm trạng ấy, chúng tôi xin được khẳng định rằng: Đó là một giai đoạn cần thiết cho đời sống vợ chồng. Va chạm nào cũng đau đớn, nhưng va chạm nào cũng cần thiết để giúp con người hiểu nhau hơn. Một chiến thắng không khó khăn thường không phải là một chiến thắng vinh quang.

Cũng thế, một cuộc sống hôn nhân không có những va chạm, gây gổ, cãi cọ, chưa hẳn là một cuộc sống hôn nhân hạnh phúc. Hầu hết các cặp vợ chồng đều thỉnh thoảng gây gổ nhau, nhưng điều đó không nhất thiết có nghĩa là họ không hạnh phúc. Có những người chồng hãnh diện tuyên bố rằng: Sau bốn, năm năm chung sống với nhau, hai người không bao giờ có lời qua tiếng lại. Thật ra, xét cho cùng, sở dĩ hai người hoàn toàn đồng ý với nhau trong tất cả mọi sự có lẽ chỉ vì người vợ không dám lên tiếng phản đối ý kiến của ông chồng mà thôi. Thành ra, không cãi cọ, gây lộn với nhau chưa hẳn đã có nghĩa là hoàn toàn hạnh phúc bên nhau.

Những đôi vợ chồng mới cưới thường coi lần cãi cọ đầu tiên là một điều xấu. Thật ra, điều đó chỉ có nghĩa là hai cá tính khác nhau, chưa hoà hợp với nhau mà thôi. Đúng hơn, hai người chưa biết cách hoặc chưa tập luyện để chịu đựng nhau trong những thử thách và nghịch cảnh. Lần cãi cọ đầu tiên không hề ảnh hưởng đến lâu đài hạnh phúc của vợ chồng; trái lại, nó giúp hai người biết nhau hơn.

Đối với hôn nhân cũng như những giai đoạn khác trong đời người, những kết quả cuối cùng ra sao là tuỳ ở trí khôn ngoan và sự cố gắng của con người. Khi hai người phối ngẫu quyết tâm không bỏ qua điều gì khả dĩ đem lại sự êm ấm trong gia đình, họ sẽ ít thất vọng. Tuy nhiên, cần phải nhận thức rằng, tình trạng êm ấm ấy không phải ngẫu nhiên mà có nhưng đòi hỏi nỗ lực không ngừng của cả hai người.

Người thanh niên nào cũng muốn hết sức cố gắng để được kết duyên với người mình yêu. Vậy thì một khi đã lập gia đình, tại sao người đó không cố gắng thêm nữa để bảo đảm hạnh phúc lâu bền?

3. Một trong những nguyên tắc cơ bản nhất để bảo đảm hạnh phúc ấy, chính là lòng chân thành với nhau. Gia đình nào cũng có thể gặp sóng gió. Nếu không biết xử lý khôn khéo, người ta dễ gây hiểu lầm cho nhau. Nhưng không gì sai lầm bằng khi nghĩ rằng, người ta có thể tránh được khủng hoảng bằng cách lừa dối nhau. Khi sự lừa dối lộ diện thì niềm tin giữa hai người sẽ ngã đổ. Về chuyện gia đình, chỉ có lòng chân thành mới giúp cho hai người tôn trọng nhau, và sự tôn trọng nhau chính là nền tảng của sự hoà thuận trong gia đình.

Vì hôn nhân là một sự kết hợp trong đó mọi người có quyền ngang nhau, cho nên không thể có hạnh phúc nếu mỗi người không duy trì cá tính của mình. Tuy nhiên, điều đó không có nghĩa là mỗi người không nên nhìn nhận những sai sót và khuyết điểm của mình. Nếu cần, hai người hãy thành thật xin lỗi nhau. Như vậy, chắc chắn họ sẽ được tôn trọng hơn là cố tâm bỏ qua một sự bất công.

Người Tây phương thường nói: vợ chồng không nên đi ngủ với mối đố kỵ trong lòng. Thật thế, những đố kỵ dù nhỏ bé đến đâu, nếu cứ dồn ép lại, sẽ dễ trở thành những mối thù ghét mà sự ly dị cũng không dập tắt được.

Sự kết hôn không những không thay đổi đột ngột những cá tính của đôi vợ chồng nhưng lại làm nổi bật khuyết điểm của mỗi người. Nhưng đôi vợ chồng trẻ nên nhớ: Cá tính là điều có thể uốn nắn, cải thiện; đồng thời, có thể kết hợp thành một mối hài hoà.

4. Cuối cùng, đôi vợ chồng trẻ nên nhớ, chính trước mặt Chúa và Giáo Hội của Ngài mà họ đã thề hứa chung thủy với nhau. Lòng chung thủy, do đó, không chỉ là một chuỗi những cố gắng duy trì xây dựng của con người, nhưng còn là một thể hiện của lòng tin. Nghĩa là sự thuỷ chung không chỉ là một cố gắng của con người thể hiện cho nhau, mà còn là một cách sống niềm tin nơi Thiên Chúa.

Chúng ta hãy xem Đức Piô XII mô tả một gia đình Kitô kiểu mẫu như sau:

Các bạn sẽ thấy mọi người trong gia đình ấy quan tâm chu toàn bổn phận của mình một cách hữu hiệu và ý thức. Mỗi người tìm cách làm vừa lòng mọi người. Mọi người đều tìm cách thực thi công bình, lòng thành thực, sự hiền lành, sự quên mình với nụ cười trên môi và trong tâm hồn. Họ kiên nhẫn chịu đựng nhau, tha thứ cho nhau và thể hiện sức mạnh trong giờ phút thử thách. Các bạn sẽ thấy các bậc cha mẹ giáo dục con cái trong yêu thương và rèn luyện các nhân đức.

Trong một gia đình như thế, Thiên Chúa được tôn vinh và phục vụ một cách trung thành, tha nhân được đối xử một cách tử tế. Các bạn có thể tìm thấy một nơi nào đẹp đẽ và xây dựng hơn không?”.

 

VỀ MỤC LỤC
CÔNG DỤNG CỦA CHẤT XƠ.
 

Chất xơ là một hỗn hợp carbohydrates nằm trong màng tế bào của thực vật.

Có 2 loại chất xơ:

- Loại không hòa tan trong nước có trong các loại hạt nguyên trạng, vỏ các loại hạt, rau, trái cây. Các chất này hút rất nhiều nước.

- Loại hòa tan trong nước có trong rau trái, gạo đỏ, yến mạch oats, lúa mạch (barley).

Nói chung, chất xơ có nhiều trong:

- Lá xanh của các loại rau. Cuống lá có nhiều xơ hơn rễ và củ;

- Thực vật tươi, không chế biến

- Vỏ các loại hột và vỏ rau trái cây;

- Hạt nẩy mầm ( giá đậu).

Các chất này đều không được tiêu hóa và có rất ít giá trị dinh dưỡng. Tuy nhiên khi ăn vào thì chất xơ có một số tác dụng tốt được nhiều người tin theo và khoa học thực nghiệm cũng phần nào đồng ý.

1- Chất xơ với táo bón.

Vì không hòa tan trong nước và khi được ăn với nhiều nước, chất xơ có thể là môn thuốc an toàn và hữu hiệu để phòng tránh bệnh táo bón. Nó làm mềm và tăng lượng phân để bộ tiêu hóa dễ dàng thải ra khỏi cơ thể. Ngoài ra, khi vào đến ruột già, nó được vi sinh vật tranh nhau ăn, tạo ra nhiều hóa chất có hơi (gas) . Các hơi này kích thích ruột già làm người ta mót “đi cầu”. Một nhận xét cụ thể là trâu bò ăn cỏ, rơm rất nhiều chất xơ nên phẩn rất to và mềm.

2- Chất xơ với bệnh viêm túi ruột già:

Trên vách ruột già thường nổi lên những túi nhỏ tý tẹo, mà theo bác sĩ Lauren V. Ackerman của đại học Nữu Ước thì hầu như người lớn nào cũng có. Mỗi khi thức ăn bị ngưng đọng trong những túi đó thì gây ra tình trạng viêm túi ruột già (diverticulosis).

Vì không hòa tan trong nước, chất xơ có thể ngăn ngừa sự thành hình các túi nhỏ đó bằng cách giảm thiểu sự táo bón và giảm sự căng phồng của ruột già trong việc tống khứ chất phế thải.

Tại Western General Hospital bên Ái Nhĩ Lan, người ta có thể ngăn ngừa sự tái phát ở bệnh nhân mới giải phẫu bệnh viêm túi ruột bằng cách cho ăn nhiều chất xơ.

3- Chất xơ với ung thư ruột già:

Ung thư ruột già hiện giờ đứng hạng thứ nhì trong các loại ung thư ở Mỹ và gây tử vong cho nhiều chục ngàn người mỗi năm. Dinh dưỡng đã được nhắc nhở đến như một cách để phòng ngừa bệnh này.

Viện Ung thư Quốc gia Hoa Kỳ và nhiều tổ chức y tế công tư khác chủ trương và khuyến khích bằng cách giảm tiêu thụ chất béo và tăng thực phẩm có chất xơ. Các khuyến cáo này được kết quả của nhiều nghiên cứu khoa học hỗ trợ.

Có hàng chục cuộc khảo sát đã chứng minh chất xơ có khả năng phòng ngừa bệnh ung thư ruột già. Một cuộc nghiên cứu ở bệnh viện Nữu Ước năm 1989 cho thấy là chất xơ ngăn chận sự xuất hiện của các mụn thịt thừa (polyp) ở ruột già và hậu môn. Những mụn này có khuynh hướng phát triển thành bướu ung thư.

Năm 1992, tờ công báo của Viện Ung Thư Quốc Gia Hoa Kỳ cũng thông báo kết quả một cuộc khảo sát rộng lớn cho thấy chất xơ giúp ngăn chận sự sinh trưởng của các mụn tiền ung thư (precancerous polyp).

Viện Ung thư Quốc Gia Hoa Kỳ, Hội Ung Thư Hoa kỳ khuyên nên dùng từ 25- 30 gr chất xơ mỗi ngày.

4- Chất xơ với bệnh tim mạch:          

Bác sĩ James Anderson của Đại Học Y khoa Kentucky, Hoa Kỳ đã dành nhiều chục năm nghiên cứu công dụng chất xơ với bệnh tim mạch và tiểu đường.Theo ông ta, chất xơ nhất là từ lúa mạch, giảm cholesterol bằng cách làm gan bớt chế tạo mỡ béo LDL và tăng HDL.

Nghiên cứu của bác sĩ Hugh Trowell, Anh quốc, thấy là bệnh tim mạch ở quốc gia này tăng đều cho tới năm 1939 rồi giảm trong thời kỳ chiến tranh, khi mà vì hạn chế thực phẩm dân ăn nhiều lúa mỳ có nhiều chất xơ. Sau thế chiến bệnh tim mạch lại gia tăng.

Một nghiên cứu khác cho người tình nguyện ăn nhiều bơ thì cholesterol lên rất cao, nhưng khi thêm chất xơ vào khẩu phần thì cholesterol giảm xuống tới 20%. Cholesterol cao trong máu đã được coi như nguyên nhân gây một số bệnh tim mạch và là đề tài của nhiều nghiên cứu khoa học cũng như câu chuyện để nói khi mọi người gặp gỡ.

5- Chất xơ với bệnh tiểu đường

Tiểu đường là một nhóm bệnh trong đó đường glucose ở máu lên cao. Bệnh này do hoặc thiếu Insulin hoặc giảm tác dụng của Insulin trong cơ thể. Bệnh rất phổ biến và đưa đến nhiều điệu không tốt cho sức khỏe, khả năng làm việc, phẩm chất đời sống con người. Nó cũng ảnh hưởng tới nền kinh tế quốc gia vì số bệnh ngày càng gia tăng, người bệnh hoạn nhiều, rất tốn kém cho sự chăm sóc lâu dài.

Ngoài dược phẩm, hướng dẫn dinh dưỡng và thay đổi nếp sống có thể giúp giữ bình thường đường glucose trong máu. Dinh dưỡng rất công hiệu lại rẻ tiền, an toàn.

Theo kết quả các nghiên cứu của các bác sĩ James W. Anderson, thực phẩm có chất xơ có nhiều khả năng bình thường hóa đường trong máu, giảm đường sau bữa ăn, tăng công hiệu của Insulin. Theo ông ta, loại chất xơ hòa tan trong nước rất công hiệu vì nó tạo ra một lớp keo (gel) lỏng ngăn không cho đường hấp thụ vào ruột và có thể làm giảm đường trong máu tới 30%.

Người mắc bệnh tiểu đường cũng hay bị chứng vữa xơ động mạch vì triglyceride lên cao. Bác sĩ Anderson cho hay chất xơ có thể làm giảm loại mỡ này và mỡ xấu LDL và làm tăng mỡ lành HDL.

Người bị phì mập thường vì ăn nhiều, nhất là chất mỡ, mà lại không sử dụng, nên năng lượng dư thừa tích tụ trong cơ thể. Tiết chế ăn uống là điều cần thiết để giảm ký.

Phần nhiều thực phẩm giàu chất xơ đều nghèo chất béo, không có chất dinh dưỡng cho nên là món ăn lý tưởng cho những người muốn xuống cân.

Ngoài ra, thực phẩm giàu chất xơ cần thời gian lâu hơn để ăn nhai, không được tiêu hóa và hấp thụ ở bao tử, thường làm người ta no mau và no lâu, do đó giảm nhu cầu ăn nhiều, một điều kiện để khỏi mập phì.

Chất xơ thiên nhiên có công hiệu hơn viên chất xơ.

7- Chất xơ với bệnh ung thư vú

 Một nghiên cứu mới đây của Hội Sức Khỏe Mỹ Quốc (American Health Foundation) ở thành phố Nữu Ước cho thấy là cám lúa mì (wheat bran) rất giàu chất xơ không hòa tan trong nước, có khả năng giảm thiểu lượng estrogen trong máu. Từ đó người ta suy đoán rằng chất xơ trong cám lúa mì có thể giảm thiểu nguy cơ mắc bệnh ung thư vú. Các  khảo sát về vấn đề này đang còn tiếp diễn

Kết luận

Mặc dù chất xơ được coi như món quà thiên nhiên mà Thượng Đế tặng cho loài người để tăng cường sức khỏe, như lời bác sĩ Denis Burkitt nói cách đây từ hơn  30 năm, nhưng hầu như chúng ta không tận dụng món quà đó.

Theo các nhà chuyên môn, mỗi ngày nam giới nên tiêu thụ 30gr, nữ ít hơn: 21gr chất xơ. Tuy nhiên nhiều người chỉ ăn rất ít. Có lẽ nhiều người thấy rằng sự ích lợi của chất xơ mới chỉ được biết tới qua kết quả quan sát cách ăn uống của dân chúng, trên các thử nghiệm chứ chưa được khoa học chứng minh.

Trong khi đó, theo thống kê, quý vị lão trượng dường như biết tới công dụng của chất xơ cho sức khỏe nên rất năng dùng. Đó là nhờ ở kinh nghiệm của tuổi già. Cho nên các vị này dùng nhiều rau, trái cây để có nhiều chất xơ ngõ hầu sức khỏe được tốt lành hơn.

Mấy điều nên nhớ khi định dùng thêm chất xơ:

- Coi xem mình cần ăn bao nhiêu mỗi ngày rồi tăng dần dần chứ không nên ăn quá nhiều ngay từ lúc ban đầu.

- Nhớ uống thêm nước vì chất xơ hút nước rất mạnh.

- Dùng vừa đủ với nhu cầu.

- Nên ăn nhiều loại chất xơ khác nhau. 

Bác sĩ Nguyễn Ý Đức M.D. Texas-Hoa Kỳ

www.bsnguyenyduc.com

 
VỀ MỤC LỤC
MÈO

 

Có một câu truyện vui nước ngoài với tựa đề “Nghỉ học vì con mèo tham ăn”, nội dung như sau:

Để tăng tốc trong kỳ thi cuối cấp, thầy giáo đã đưa ra một qui định: Không ai được ra ngoài vì việc riêng, trừ việc đi vệ sinh mà thôi. Qui định được ban bố và thi hành trong một tuần, ai nấy đều nghiêm chỉnh chấp hành. Thế rồi một hôm, trong tiết của thầy giáo, một cậu bé học sinh đứng lên và xin phép:

- Thưa thầy, xin cho em ra ngoài ạ!

- Em ra ngoài có việc gì không?

- Thưa thầy, em xin ra ngoài để về nhốt con mèo nhà em lại.

- Việc đó có quan trọng bằng việc học của em không?

- Thưa thầy, nếu em không nhốt nó lại, chắc chắn em sẽ phải nghỉ học!

- Sao lại có chuyện như thế? Em hãy giải thích tại sao lại phải nghỉ học?

- Thưa thầy, nếu em không về nhốt con mèo nhà em lại, thì nó sẽ ăn hết thức ăn mà mẹ đã nấu cho bố trưa nay. Nếu bố em về mà không thấy gì, thì sẽ trách mẹ ở nhà không chu đáo. Mẹ chắc chắn sẽ cãi lại. Bố sẽ bỏ đi vì chán nản, còn mẹ thì sẽ buồn bã. Sau đó, bố và mẹ sẽ ly dị. Cuối cùng thì em sẽ bơ vơ, nên phải nghỉ học ạ.

Thầy giáo, nghe xong lập luận của cậu bé học trò, cũng toát hết cả mồ hôi hột, nên đành phải cho cậu bé ra ngoài. (St).

Điểm qua tình hình hiện hay, gã nhận thấy “dân số” dòng họ nhà mèo ngày càng bị giảm đi một cách thê thảm và không chừng sẽ dẫn tới một cuộc khủng hoảng trầm trọng, nhất là từ khi người ta quảng cáo rùm beng cho món “tiểu hổ”. Tệ trạng bắt mèo đã có từ lâu, nhưng bây giờ mới thực sự phát triển bằng những bước nhảy vọt khổng lồ. Đoàn quân bắt mèo lùng sục khắp các hang cùng ngõ hẻm để mua bán, đổi chác và…bắt trộm.

Toan Ánh, trong cuốn “Ăn trộm và nghệ thuật bắt trộm”, đã kể lại chuyện bắt mèo ngày xưa như sau:

“Bắt mèo ở đây có nghĩa đen, tức là bắt trộm mèo của người khác. Kể ra thì người ta bắt mèo làm gì? Ở nhà quê mèo vào nhà người ta còn cho là một điềm xấu, nên mới có câu: Mèo đến nhà thì khó, chó đến nhà thì giàu.

Mèo hoang ở nhà quê nhiều lắm và có khi ở tỉnh cũng nhiều. Nhà nào có nuôi mèo, cũng chỉ nuôi một hai con cho nó bắt chuột là nhiều. Nếu chẳng may có con mèo cái đẻ, người ta gọi cho bạn bè, hoặc cũng có khi người ta mang ra chợ bán rẻ được đồng nào hay đồng ấy.

Ai đã có dịp đi xe đò mà gặp một hành khách mang mèo, chắc cũng phải nhận thấy là xe đò không chịu chở mèo vì sợ xúi quẩy.

Vậy mà có kẻ đi bắt mèo, chúng bắt để làm gì? Xin thưa: Nguyên do là mấy năm chiến tranh thực phẩm khan, các hiệu cơm tây lại thường phải cung ứng cho khách ăn các món thỏ si-vê, mà thỏ thì kiếm không ra, khách ăn lại cứ đòi ăn. Các ông chủ hiệu đành phải làm phép biến hoá để có thể cho khách xơi. Các ông khách sành ăn, xơi thịt mèo, lại cứ cho là thịt thỏ, thấy nó vẫn ngon thơm, có khi thịt lại thấy bùi hơn món thỏ các ngài vẫn xơi ở nhà. Các ngài cho là đầu bếp ở hiệu nấu khéo và các ngài đã xơi thịt thỏ chính cống rồi.

Cũng vì các ngài khách sành ăn này mà các hiệu ăn phải đi kiếm mèo nhiều để có thịt thỏ bán cho khách. Chỉ oan cho lũ mèo! Và cũng do đó có nạn ăn trộm mèo ở nhà quê và ở cả tỉnh nữa.

Ngay tại Saigon, trước đây đã có bọn đi bắt mèo để bán cho các hiệu ăn, và các ngài sành ăn ở Saigon chắc chắn cũng đã xơi nhiều món thỏ chính cống nấu bằng thịt mèo rồi.

Muốn bắt mèo, bọn ăn trộm mèo lấy thức ăn mà dử. Trong khi mèo mải ăn, chúng chụp cho vào bị, hoặc cũng có khi chúng rật thòng lọng cho vào lồng.

Bắt mèo không nguy hiểm, vì thường những chủ nuôi mèo cũng ít khi để ý tới mèo. Người nuôi mèo không thấy mèo về, cho là nó đã đi đâu mất, không ai ngờ nó bị bắt trộm. Không có con mèo này thì nuôi con mèo khác, xin đâu chẳng được mèo con.

Bọn đi bắt mèo chỉ bắt những con mèo lớn vì các hiệu ăn cũng chỉ dùng những con mèo lớn để nấu giả làm thịt thỏ.

Chiến tranh xong, thỏ dễ mua, nhưng bọn đi bắt mèo vẫn không bỏ nghề, vì giá thỏ đắt hơn giá mèo, mà khách sành ăn xơi thịt mèo lại vẫn cứ khen ngon, thì các hiệu ăn vẫn cần mua mèo.

Mèo chết thay thỏ và bọn bắt mèo vẫn sống!”

Còn tác giả Lữ Khách trên “Giai phẩm xuân Tân Mão 2011” của báo Kiến Thức Ngày Nay đã viết về món “tiểu hổ” ngày nay như sau:

“Vùng quê tôi có câu: “Dê núi Ninh Bình, cầy tơ Nam Định, tiểu hổ Thái Bình”. Chẳng biết từ bao giờ, quê lúa Thái Bình đã trở thành trung tâm của thịt mèo, cũng chẳng biết căn cứ vào sách vở nào, thịt “tiểu hổ”, (thịt mèo) luôn được quí ông khẩu truyền và tâm đắc như một món ăn quí, có tác dụng “bổ âm bổ dương, bổ giường bỏ chiếu”.

Các quan nhậu ở trung tâm thành phố Thái Bình không cần treo biển hiệu rầm rộ, chỉ cần nhốt vài con mèo ngoài cửa, rồi làm thịt ngay trên vỉa hè là khách nhậu ùn ùn kéo tới. Giá “tiểu hổ” gấp đôi món cầy tơ, nên các chủ quán sẵn sàng bỏ nghề cũ, mỗi đêm chỉ cần thịt chừng mươi chú mèo là sống khoẻ re…

Ăn thịt mèo chưa đủ, còn phải uống rượu mật mèo với giá 10.000đ/xị mới bảo đảm thành “đại sự”. Nghe đâu mật mèo cũng chẳng kém gì mật gấu, mật bò tót. Chủ quán đon đả với thực khách: “Mật gấu bây giờ là mật gấu nuôi nên lạt nhách. Bò tót thì tuyệt chủng hết rồi, nên phải dùng mật bò nhà làm giả. Bởi vậy, chỉ có mật mèo là nguyên chất nhất. Mà uống mật nó thì có khác gì mật hổ đâu, nó là tiểu hổ mà”. Ai cũng gật gù tán thưởng.

Nếu muốn tác dụng nhanh chóng và hiệu quả rõ ràng hơn, tốt nhất là uống rượu có ngâm bào thai mèo. Đắt giá nhất là “cao tiểu hổ” với giá 700-800 ngàn đồng/lạng, ngâm theo công thức 2 lít rượu/100g cao. “Tiểu hổ” là sư phụ của “Đại hổ, nên rượu “tiểu hổ cốt” uống vô là “bách bệnh tiêu tán, vạn bệnh tiêu trừ!?”…

“Tiểu hổ” cũng đã theo chân người miền Bắc tha phương tới miền Nam. Tôi đi trên đường Lê Hồng Phong, thành phố Nha Trang, thấy đã có nhiều quán treo biển “tiểu hổ 9 món”, “meo…meo”… Ở Saigon, món đặc sản này cũng đã cắm dùi ở Gò Vấp và nhiều nơi khác.

Có cầu ắt có cung, để bảo đảm “hậu cần” cho hàng chục ngàn quán nhậu lớn nhỏ, đã hình thành mạng lưới thu mua, vận chuyển, đại lý hoàn chỉnh. Có những đoàn quân đông đảo do lực lượng chuyên rong mua chó “kiêm nhiệm”, đi khắp các xóm làng hẻo lánh với câu rao: “Ai có mèo đực theo cái, mèo gái theo trai…bán – mua”. Miền Bắc cạn nguồn, đoàn quân này “Nam tiến”, từ mua bán đến đổi xoong nhôm, kể cả bắt trộm. Chưa ai thống kê được mỗi ngày có bao nhiêu chú mèo lên bàn nhậu, nhưng cứ nhìn số lượng mèo bị giết ở những hàng quán tại các tỉnh, thành phố lớn, có thể ước tính cứ 24 giờ trôi qua, cả ngàn kiếp mèo được giải thoát để phục vụ cho “mục đích cao cả” của quí ông.

Thịt mèo ngon bổ đâu chưa biết, nhưng có lẽ cần đưa thêm chút thông tin sau: Một chuột đồng trong vòng 1 năm có thể sinh 80 chuột con, và cứ 2 tháng lại có 1 thế hệ chuột tham gia sinh sản. Mỗi năm, một đôi chuột có thể trực tiếp và gián tiếp cho “ra lò” 2.160 con chuột. Và nếu cánh đồng có 1.000 con chuột, thì mỗi ngày sẽ đẻ thêm 6.000 con. Vắng bóng mèo, chuột sẽ hoành hành”. Lúc bấy giờ đại hoạ sẽ xảy ra cho bàn dân thiên hạ”.

Khoa học cũng như lịch sử đã cho thấy sự thực là như vậy. Một nhà sinh vật học nổi tiếng người Anh, khi nghiên cứu nguyên nhân mất mùa của cây cải dầu, đã kết luận là do số mèo giảm theo cơ chế như sau: Mèo giảm, thì chuột tăng; chuột tăng sẽ phá tổ ong làm cho ong giảm; ong giảm thì việc thụ phấn cho hoa cải dầu cũng giảm, và thế là dẫn tới mất mùa.

Vào thời Trung cổ, ở châu Âu đã từng xảy ra dịch hạch lớn, cướp đi 20 triệu mạng sống, tương đương với 60% dân số lúc bấy giờ. Nguyên nhân là do người châu Âu lúc đó cho rằng mèo là tay chân của phù thuỷ, nên phải tận diệt, nên tạo cơ hội cho giống chuột châu Phi hoành hành, mang lại thảm hoạ cho loài người. Chính vì vậy mà mèo dần dần được phục hồi danh dự.

Đối với người Việt Nam, mèo không phải chỉ là con vật thân thương và gần gũi với con người, được nuôi trong nhà để bắt chuột, mà hơn thế nữa mèo còn là một trong số rất ít những con vật được dùng làm hình ảnh tượng trưng cho con người, thậm chí còn được đồng hoá với con người. Gã xin được kể ra như sau: 

Trước hết, mèo được dùng làm hình ảnh tượng trưng cho con gái.

Sở dĩ như vậy là vì giữa con gái và con mèo có nhiều điểm rất giống nhau. Thực vậy, trong một cuộc hội thảo bàn tròn chung quanh vấn đề này, những anh con giai đã nhao nhao phát biểu ý kiến.

Anh thì bảo:

- Con gái bình thường rất ư là hiền lành, thậm chí còn nhõng nhẽo với mình bằng đôi mắt nai long lanh. Nhưng khi bức tức ấy hả? Con gái cũng giống như con mèo: gầm gừ, xù lông, không chừng còn nhe răng, làm cho mình, như chú chuột nhắt, hết sức sợ hãi, chỉ thầm mong sao thoát khỏi móng vuốt của nàng mà thôi. Cãi lời là bị lườm nguýt thấu đến tận tim gan phèo phổi. Lơ mơ là còn bị ăn đòn nữa chứ!

Anh thì nói:

- Con gái cũng giống như con mèo, khi kêu meo meo thì thật dễ thương, nhưng động vào là nó cào cho chết luôn. Và khi bị con gái cào thì chẳng khác chi bị mèo cào vậy!

Anh thì xác quyết:

- Con mèo rất hay ăn vụng và con gái cũng rứa. Hễ nhìn thấy cái gì ăn được, thì thế nào cững phải đưa tay bốc.

Anh thì cho rằng:

- Con mèo là chúa lười và hay ngủ dạy muộn. Con gái cũng giống như vậy.

Sau cùng một anh đã nhận xét:

- Con mèo và con gái đều hay nói “meo”. Chẳng hạn khi kiến bò bụng thì con gái thường nói với con trai: Tớ đói meo rồi đó. Có phải vì vậy mà con mèo bắt chước con gái, cứ suốt ngày kêu meo meo! 

Tiến đến, mèo được đồng hoá với bồ nhí. 

Có lần gã đã hỏi một ông thầy người Pháp:

- Tiếng Việt đối với ngài dễ hay là khó?

Ngài bèn trả lời:

- Tôi là người Pháp, nếu học tiếng Ý, hay tiếng Tây Ban Nha thì chỉ mất có ba bốn tháng. Nếu học tiếng Anh thì chỉ mất sáu bảy tháng. Nếu học tiếng Đức thì chỉ mất hơn một năm. Nếu học tiếng Do Thái thì chỉ mất hai năm. Nếu học tiếng Tàu thì chỉ mất ba năm. Còn học tiếng Việt ấy hả. Đã mất bốn năm rồi mà vẫn chưa ăn thua gì. Thậm chí đã viết ra giấy, thế mà khi đọc lên, thiên hạ vẫn cứ cười ồ!

Cũng vì thế mà ngày xưa, các vị cố Tây qua Việt Nam để truyền đạo, tiếng Việt của các ngài không được thông thạo cho lắm, nên nhiều khi đã gây ra những hiểu lầm, buồn cũng có mà vui cũng có, thậm chí còn cười ra cả nước mắt cũng có. Đặc biệt là câu chuyện mà tôi thường được nghe kể sau đây:

Có một chàng thanh niên, khi vào xưng tội với vị cố Tây, anh ta đã nói rằng:

- Thưa cha, con đã có một vợ và hai đứa con thơ, con rất thương vợ và thương các con của con, nhưng mà con đã phạm một tội nặng lắm cha ạ!

Vị cố Tây bèn an ủi:

- Chúa nhân từ, con cứ việc xưng.

Chàng thanh niên lắp bắp:

- Dạ thưa cha, con đã có vợ mà lại còn có mèo nữa ạ!

Vị cố Tây bèn ôn tồn nói:

- Có mèo thì sao? Cha cũng có mèo mà!

Cái rắc rối mà vị cố Tây này không “ngộ” ra được: Mèo có khi chỉ là một con vật, có khi lại là một con người, và nó được đồng hoá với “bồ nhí”. Vậy thế nào là bồ nhí?

Trước hết bồ có nghĩa là phe cánh, chẳng hạn như khi đánh bạc, người ta thường cặp bồ, hay bắt bồ mí nhau. Còn trong ngôn ngữ dân gian, thì bồ có nghĩa là bạn thân. Riêng trong mối liên hệ giữa đờn ông và đờn bà, giữa con giai và con gái, bồ còn có nghĩa là người tình hay người yêu.

Tiếp đến là chữ nhí. Nếu gã không lầm thì chữ nhí, dưới một góc cạnh nào đó, cũng đồng nghĩa với chữ nhỏ. Lê văn Đức trong “Việt Nam Tự điển” còn chua thêm một nghĩa nữa cho chữ nhí, đó là lẳng lơ và liến xáo, chẳng hạn như nhí nhảnh

Tuy nhiên, có bồ, có người tình hay có người yêu thì khác với có mèo hay có bồ nhí. Bởi vì loại có trên thường là công khai, hợp pháp và mang nhãn hiệu trình tòa hẳn hoi, còn loại có dưới, thì bao giờ cũng thầm lén, vụng trộm, chui lủi và bất hợp pháp.

Theo các nhà tâm lý, thì đối với một số những người đờn ông đã lập gia đình, thì thích “có mèo” hay có “bồ nhí” là một khuynh hướng bẩm sinh, khó mà cưỡng lại được. Ngay cả những ông chồng “siêu tốt” cũng phải trầy da tróc vẩy, thế mà chưa chắc đạt được điểm cao cho môn đạo đức hôn nhân. Một công ty thám tử tư, sau nhiều dịch vụ rình mò, đã hùng hồn công bố kết quả của họ là 99% đàn ông đã kết hôn vẫn có hay vẫn thích có bồ nhí. Đàn ông 18 tuổi, thì tìm kiếm một cô gái cùng trang lứa, năm 40 tuổi các chú này vẫn yêu cô gái 18, và cho đến năm 60 hay 70 các cụ này vẫn không thay đổi lập trường, trước sau như một, vẫn chọn cô gái 18 nếu có thể. Đàn ông là như thế. Họ khó chung thuỷ với bà xã, nhưng luôn chung thuỷ với bản thân mình. (Đẹp).

Vậy tại sao các ông chồng lại thích có mèo, hay ưa có bồ nhí? Xin thưa chỉ vì bồ nhí thì giống mèo và mèo thì cũng giống bồ nhí. Gã xin đưa ra một vài điểm của sự giống nhau ấy.

1- Mèo ít khi gầm gừ, nhe răng hay dương móng vuốt, trái lại luôn dịu dàng kêu meo meo nghe thật êm tai. Bồ nhí cũng vậy, ít khi cáu gắt hay quát tháo ầm ĩ, nhưng luôn âu yếm, thật êm dịu và dễ chịu.

2- Mèo bao giờ cũng sạch sẽ. Bồ nhí cũng vậy, lúc nào cũng thơm tho.

3- Mèo thích được mơn trớn. Bồ nhí cũng vậy, ưa được vuốt ve và thường xuyên nũng nịu.

4- Mơn trớn mèo mang lại cảm giác mềm mại. Bồ nhí cũng vậy, vuốt ve bồ nhí làm cho sung sướng.

5- Mèo ăn uống nhỏ nhẹ. Bồ nhí cũng vậy, ăn uống rất từ tốn, có nghĩa là bồ nhí nhiều khi ăn rất từ từ, nhưng lại vô cùng tốn kém, thế mà ông xã vẫn cứ cho là chuyển nhỏ, không đáng kể.

6- Mèo biết tỏ ra vâng lời. Bồ nhí cũng vậy, luôn cưng chiều khiến ông xã tưởng mình là chúa tể sơn lâm.

7- Nếu chẳng may bị mèo cào, thì chỉ xót xa tí chút. Cũng vậy, nếu chẳng may bị bồ nhí giận hờn, thì cũng chỉ thêm thi vị cho cuộc sống mà thôi.

Càng suy nghĩ, chúng ta càng tìm ra được nhiều điểm giống nhau giữa mèo và bồ nhí. Cũng chính vì vậy mà các ông chồng, vợ con đàng hoàng, thế mà vẫn cứ thích có mèo, vẫn ưa đèo bòng bồ nhí. Đối với các chuyên gia trong lãnh vực gỡ rối tơ lòng, thì đây chỉ là chuyện thường ngày ở huyện, nhưng đối với các bà xã, thì đây quả là một hung tin, bởi vì khi dựng nên người đàn bà, Thượng đế đã cài đặt sẵn trong tâm can tì phế của họ một chương trình ghen và đánh ghen, như Hoạn Thư đã từng phân bua:

- Rằng tôi cũng thể đàn bà,

  Ghen tuông thì cũng người ta thường tình.

Cac bà vợ bị phản bội luôn cần đến một quân sư quạt mo, giúp họ những phương thế “trị mèo”, nhưng tại các trung tâm tư vấn, họ chỉ nhận được những lời khuyên chung chung, chẳng hạn như phải bình tĩnh và sáng suốt, phải biết tự trọng và cư xử cho có văn hoá. Nhưng làm sao có thể đàng hoàng với những kẻ đã không đàng hoàng với mình bây giờ đây?

Tuy nhiên, sự quyết định của các bà vợ, hành động mà các bà định làm, sự ra tay hay xuất chiêu của các bà mới thực sự quan trọng, ảnh hướng sâu xa tới kết quả: Một là sẽ đưa các ông chồng “trở về mái nhà xưa” cách an toàn, hai là vợ chồng sẽ ca bản đường ai người ấy đi vì tình nghĩa đôi ta chỉ có thế mà thôi.

Làm sao trị được mèo bây giờ đây?

Gã Siêu  gasieu@gmail.com

VỀ MỤC LỤC

- Mọi liên lạc: Ghi danh, thay đổi địa chỉ, đóng góp ý kiến, bài vở..., xin gởi về địa chỉ

giaosivietnam@gmail.com

- Những nội dung sẽ được đề cao và chú ý bao gồm:

Trao đổi, chia sẻ những kinh nghiệm thực tế trong việc mục vụ của Giáo sĩ;  Những tài liệu của Giáo hội hoặc của các Tác giả nhằm mục đích Thăng tiến đời sống Giáo sĩ; Cổ võ ơn gọi Linh mục; Người Giáo dân tham gia công việc “Trợ lực Giáo sĩ” bằng đời sống cầu nguyện và cộng tác trong mọi lãnh vực; Mỗi  Giáo dân phải là những “Linh mục” không có chức Thánh; Đối thoại trong tinh thần Bác ái giữa Giáo dân và Giáo sĩ… (Truyền giáo hay xây pháo đài?)

- Quy vị cũng có thể tham khảo những số báo đã phát hành tại

www.conggiaovietnam.net

Rất mong được sự cộng tác, hưởng ứng của tất cả Quí vị

Xin chân thành cám ơn tất cả anh chị em đã sẵn lòng cộng tác với chúng tôi bằng nhiều cách thế khác nhau.

TM. Đặc San Giáo Sĩ Việt Nam

Lm. Luca Phạm Quốc Sử  USA

 

 

Duoc chon giua loai nguoi va cho loai nguoi; GIAO SI: Xuat phat tu giao dan, hien dien vi giao dan va cay dua vao giao dan, de cung lam VINH DANH THIEN CHUA

*************