CHÚA THÁNH THẦN:
ĐỨC CHÚA VÀ ĐẤNG BAN SỰ SỐNG |
TÔNG HUẤN "GIÁO HỘI TẠI Á CHÂU" (ECCLESIA IN ASIA)
Nguồn: http://www.simonhoadalat.com
CHƯƠNG III
CHÚA THÁNH THẦN:
ĐỨC CHÚA VÀ ĐẤNG BAN SỰ SỐNG
Thần Khí Chúa
trong Cuộc Sáng Tạo và trong Lịch Sử
15. Nếu quả
thật ý nghĩa cứu thế của Đức Giêsu chỉ có thể hiểu được trong khung cảnh mạc
khải của Người về chương trình cứu độ của Thiên Chúa Ba Ngôi, thì như thế Chúa
Thánh Thần là một phần tuyệt đối cần thiết của mầu nhiệm Đức Giêsu và ơn cứu
rỗi mà Người mang đến. Các Nghị Phụ Thượng Hội Đồng thường xuyên quy chiếu về
vai trò Chúa Thánh Thần trong lịch sử cứu rỗi, các Ngài lưu ý rằng sự chia cách
giả tạo giữa Đấng Cứu Thế và Chúa Thánh Thần, có thể phương hại tới chân lý về
Đức Giêsu Đấng Cứu độ duy nhất của mọi người.
Theo truyền thống Kitô giáo, Chúa Thánh Thần luôn
luôn được liên kết với sự sống và việc ban sự sống. Kinh Tin Kính của Công đồng
Niceno-Constantino gọi Chúa Thánh Thần là "là Đức Chúa, Đấng ban sự
sống". Cho nên không phải là điều đáng ngạc nhiên khi nhiều chú giải về
bài tường thuật Sáng tạo trong sách Sáng Thế đã nhìn thấy Chúa Thánh Thần trong
ngọn gió mạnh lướt qua trên mặt nước (x. St 1,2). Chúa Thánh Thần hiện diện từ
giây phút đầu việc của cuộc sáng tạo -là biểu lộ đầu tiên của tình yêu của
Thiên Chúa Ba Ngôi-, và luôn hiện diện trong thế giới được xem như sức mạnh ban
sự sống của Người (52). Vì sự sáng tạo là khởi đầu lịch sử, nên Thần khí nói
được là một quyền lực ẩn giấu đang hành động trong lịch sử, hướng dẫn lịch sử
theo những con đường chân lý và điều thiện.
Mạc khải về thân thế của Chúa Thánh Thần, tình yêu
hỗ tương giữa Chúa Cha và Chúa Con, là điều riêng biệt của Tân Ước. Trong tư
tưởng Kitô giáo, Người được thấy như là nguồn mạch sự sống của mọi tạo vật.
Công cuộc sáng tạo là sự thông ban tình yêu trong tự do của Thiên Chúa, một sự
thông ban mà từ cái không, đem mọi sự vào trong hiện hữu. Không có gì đã được
tạo dựng mà không được lấp đầy bởi sự trao đổi tình yêu không ngừng, là đặc
tính của sự sống sâu thẳm của Ba Ngôi, nghĩa là tràn đầy Chúa Thánh Thần:
"Thần khí Chúa đã tràn đầy thế giới" (Kn 17). Sự hiện diện của Thần
Khí trong tạo thành phát sinh trật tự, hài hoà và lệ thuộc lẫn nhau trong tất
cả những gì hiện hữu.
Được tạo dựng nên giống hình ảnh Thiên Chúa, những
con người trở nên nơi trú ngụ của Thần Khí một cách mới mẻ, khi họ được nâng
lên tới phẩm giá làm con Thiên Chúa (x. Gl 4,5). Được tái sinh trong Bí tích
Thánh Tẩy, con người cảm nghiệm sự hiện diện và quyền lực của Thần Khí, không
chỉ là Tác giả sự sống, nhưng còn là Đấng thanh tẩy và cứu chuộc, sản sinh
những hoa quả "bác ái, hoan lạc, bình an, nhẫn nhục, nhân hậu, từ tâm,
trung tín, hiền hoà, tiết độ" (Gl 5,22-23). Những hoa quả đó của Thần Khí
là tín hiệu "Thiên Chúa đã đổ tình yêu của Người vào lòng chúng ta, nhờ
Thánh Thần mà Người ban cho chúng ta" (Rm 5,5). Khi được tiếp nhận trong
tự do, tình yêu này biến những người nam nữ thành những dụng cụ khả kiến của
hoạt động không ngừng bên trong của Thánh Thần. Trên hết tất cả, chính khả năng
cho và nhận tình yêu mới mẻ này minh chứng sự hiện diện bên trong và quyền lực
của Chúa Thánh Thần. Như là hậu quả của việc biến đổi và tái tạo dựng mà Người
thực hiện trong tâm trí dân chúng, Chúa Thánh Thần gây ảnh hưởng trên xã hội và
văn hoá nhân loại (53). "Thật vậy, Thánh Thần là nguồn gốc những lý tưởng
cao thượng và những công trình phúc lợi cho nhân loại đang hành trình qua dòng
lịch sử. "Qua việc quan phòng kỳ diệu, Thánh Thần Chúa hướng dẫn dòng chảy
thời gian và đổi mới mặt địa cầu" (54).
Theo hướng dẫn Công Đồng Vatican II, Các Nghị Phụ
Thượng Hội Đồng để ý tới vô vàn hành động đa dạng của Chúa Thánh Thần, Ngài
liên tục gieo những hạt giống chân lý giữa các dân tộc, tôn giáo, văn hoá và
triết học của họ (55). Điều này có nghĩa là những tôn giáo, những văn hoá và
triết lý đó có khả năng giúp đỡ dân chúng, cá nhân hay tập thể, chống lại sự dữ
và phục vụ sự sống cũng như tất cả những gì là thiện hảo. Các quyền lực sự chết
cô lập dân chúng, xã hội và các cộng đồng tôn giáo khác nhau, và sinh ra sự nghi
ngờ và cạnh tranh đưa tới xung đột. Ngược lại, Chúa Thánh Thần nâng đỡ dân
chúng trong việc tìm kiến sự hiểu biết và chấp nhận lẫn nhau. Do đó Chúa Thánh
Thần nâng đỡ dân chúng trong việc tìm kiến sự hiểu biết và chấp nhận lẫn nhau.
Chúa Thánh Thần và Mầu Nhiệm Ngôi Lời
Nhập thể
16.
Dưới sự
hướng dẫn của Thần Khí, lịch sử cứu độ diễn ra trên sân khấu của thế giới, và
của của vũ trụ nữa, theo chương trình đời đời của Chúa Cha. Chương trình đó, do
Thánh Thần khởi sự từ khi bắt đầu việc sáng tạo, được mạc khải trong Cựu Ước,
được hoàn thành nhờ ân sủng của Đức Giêsu Kitô, và được tiếp nối trong công
cuộc sáng tạo mới nhờ cũng một Thần Khí cho tới khi Chúa lại đến trong vinh
quang vào lúc kết thúc thời gian (56). Mầu nhiêm Nhập thể của Con Thiên Chúa là
công trình cao trọng nhất của Chúa Thánh Thần: "Sự cưu mang và sinh ra Đức
Giêsu Kitô thực tế là công trình cao cả nhất được thực hiện do Chúa Thánh Thần
trong lịch sử sáng tạo và cứu chuộc: ân sủng tuyệt diệu - "ân sủng hiệp
nhất", nguồn mạch mọi ơn khác" (57). Mầu nhiệm Nhập thể là biến cố mà
trong đó Chúa tập hợïp về với chính mình, qua sự hợp nhất mới mẻ và chung cuộc,
không những con người, mà còn toàn thể thọ tạo và tất cả lịch sử (58).
Được cưu mang trong lòng Đức Trinh Nữ Maria bởi
phép Chúa Thánh Thần (x. Lc 1,35; Mt 1,20), Đức Giêsu thành Nadareth, Đấng
Mêsia và Cứu Thế duy nhất, được đầy tràn Chúa Thánh Thần. Thần Khí xuống trên
Người khi Người chịu phép rửa (x. Mc 1,10) và dẫn đưa Người vào hoang địa để
được nên mạnh sức trước khi thi hành sứ vụ công khai của Người (Mc 1,12; Lc
4,1; Mt 4,1). Trong hội đường thành Nadareth, Người bắt đầu sứ vụ ngôn sứ của
Người, bằng cách áp dụng cho chính mình thị kiến của ngôn sứ Isaia về sự xức
dầu Thần Khí, dẫn tới việc rao giảng Tin Mừng cho người nghèo khó, tự do cho kẻ
bị giam cầm và một năm hồng ân của Thiên Chúa (x. Lc 4,18-19). Nhờ quyền năng
của Thần Khí, Đức Giêsu chữa lành bệnh nhân và xua đuổi ma quỷ, như là một tín
hiệu Nước Thiên Chúa đã đến (x. Mt 12,28). Sau khi từ kẻ chết chỗi dậy, Người
đã thông ban cho các môn đệ Chúa Thánh Thần, Đấng mà Người đã hứa đổ tràn trên
Giáo Hội khi Người trở về với Chúa Cha (x. Ga 20,22-23).
Tất cả những sự kiện đó chứng tỏ rằng sứ vụ của Đức
Giêsu mang dấu vết rõ ràng sự hiện diện của Thần Khí: sự sống, sự sống mới.
Giữa sự sai đi Chúa Con từ Chúa Cha và sự sai đi Thần Khí từ Chúa
Cha và Chúa Con, có một sự liên hệ chặt chẽ và thiết yếu (59). Hành động của
Thánh Thần trong sáng tạo và lịch sử nhân loại, đạt được một ý nghĩa hoàn toàn
mới đối với hành động của Người trong đời sống và sứ vụ của Đức Giêsu. Những
"hạt giống Lời" nhờ Thần Khí gieo xuống, chuẩn bị cho toàn thể thọ
tạo, lịch sử và con người để đạt tới sự trưởng thành viên mãn trong Đức Kitô
(60).
Các Nghị Phụ Thượng Hội Đồng đã diễn tả mối quan
tâm đối với khuynh hướng tách biệt hoạt động của Chúa Thánh Thần với hoạt động
của Đức Giêsu Cứu thế. Đáp lại quan tâm đó, tôi lặp lại ở đây những gì tôi đã
viết trong Thông Điệp Redemptoris Missio: "(Thánh Thần) không thay
thế Đức Kitô và cũng không lấp đầy một thứ chỗ trống mà đôi khi được gợi lên là
hiện hữu giữa Đức Kitô và Ngôi Lời (Logos). Bất cứ cái gì mà Thánh Thần mang
đến trong tâm hồn con người và lịch sử các dân tộc, trong các nền văn hoá và
tôn giáo, thì giúp chuẩn bị cho Tin Mừng và chỉ có thể hiểu khi quy chiếu về
Đức Kitô, Ngôi Lời đã mặc lấy thể xác nhờ quyền lực Thần Khí 'ngõ hầu đã là con
người hoàn hảo, Người cứu rỗi mọi người và qui tụ mọi sự' " (61).
Cho nên sự hiện diện phổ quát của Chúa Thánh Thần
không được dùng như lời bào chữa để khỏi công bố Đức Giêsu Kitô cách công khai
như là Đấng Cứu độ độc nhất và duy nhất. Ngược lại, sự hiện diện phổ quát của
Chúa Thánh Thần không thể tách biệt khỏi sự cứu độ phổ quát trong Đức Giêsu. Sự
hiện diện của Thần Khí trong tạo vật và lịch sử chỉ về Đức Giêsu Kitô, nhờ Người
mà tạo vật và lịch sử được cứu chuộc và thành toàn. Sự hiện diện của Thần Khí
cả trước biến cố Nhập Thể và trong cao điểm lễ Ngũ Tuần luôn chỉ về Đức Giêsu
và về sự cứu độ Người mang đến. Cũng thế, sự hiện diện phổ quát của Chúa Thánh
Thần không bao giờ có thể bị tách biệt khỏi sự hoạt động của Người trong Thân
Thể Đức Kitô, tức là Giáo Hội (62).
Chúa Thánh Thần và Thân Thể Đức Kitô
17.
Chúa
Thánh Thần gìn giữ nguyên vẹn sợi giây hiệp thông giữa Đức Giêsu và Giáo Hội
Người. Ngự trong Giáo Hội cũng như ngự trong một đền thờ (x. 1 Cr 3,16), Thần
Khí hướng dẫn Giáo Hội, trước hết để đạt đến chân lý toàn vẹn về Đức Giêsu. Sau
đó chính Thần Khí ban sức mạnh cho Giáo Hội để tiếp tục sứ vụ của Đức Giêsu,
trước nhất bằng cách làm chứng cho chính Đức Giêsu, sau đó hoàn thành điều
Người đã hứa trước lúc chết và sống lại, tức là Người sẽ sai Thần Khí đến với
các môn đệ để họ có sức làm chứng về Người (x. Ga 15,26-27). Công trình
của Thần Khí trong Giáo Hội cũng là để làm chứng rằng các tín hữu là dưỡng tử
của Thiên Chúa, những người được tiền định hưởng ơn cứu độ, được trọn vẹn hiệp
thông với Chúa Cha, như đã hứa (x. Rm 8,15-17). Khi ban cho Giáo Hội những đoàn
sủng và ân huệ khác nhau, Thần Khí làm cho Giáo Hội lớn lên trong hiệp thông,
như một thân thể gồm nhiều chi thể khác nhau (x. 1 Cr 12,4: Ep 4,11-16). Thần
Khí hợp nhất mọi dân tộc, với những tập quán, những tài nguyên và tài năng khác
nhau, biến Giáo Hội thành một dấu chỉ hiệp thông của toàn thể nhân loại dưới
quyền lãnh đạo của Đức Kitô (63). Thần Khí uốn nắn Giáo Hội thành một cộng đoàn
những chứng nhân để, nhờ quyền lực của Người, Giáo Hội làm chứng cho Đức Giêsu
Cứu Thế (x. Cv 1,8). Theo nghĩa này, Chúa Thánh Thần là tác nhân chủ yếu của
việc Phúc Âm hoá. Từ đó các Nghị Phụ Thượng Hội Đồng có thể kết luận rằng, cũng
như sứ vụ trần thế của Đức Giêsu được hoàn thành trong quyền lực Chúa Thánh
Thần, thì "cũng một Thần Khí đã được ban cho Giáo Hội bởi Chúa Cha và Chúa
Con trong ngày lễ Ngũ Tuần, để hoàn thành sứ vụ tình yêu và phục vụ của Đức
Giêsu tại Á Châu" (64).
Chương trình cứu độ con người của Chúa Cha, không
kết thúc với sự chết và phục sinh của Đức Giêsu. Nhờ ân huệ của Thần Khí Đức
Kitô, hoa quả sứ vụ cứu rỗi của Người được Giáo Hội ban tặng cho mọi dân tộc
thuộc mọi thời đại, qua sự loan truyền Tin Mừng và phục vụ yêu thương đối với
gia đình nhân loại. Như Công Đồng Vatican II nhận xét, "Chúa Thánh Thần
thúc đẩy Giáo Hội cộng tác với Người để hoàn tất trọn vẹn kế hoạch của Thiên
Chúa là Đấng đã đặt Đức Kitô làm nguồn ơn cứu độ cho cả thế giới" (65). Được
Thần Khí ban quyền thực hiện sự cứu độ của Đức Kitô trên mặt đất, Giáo Hội là
hạt giống của Nước Chúa và tha thiết mong đợi sự hình thành chung cuộc của nó.
Căn tính và sứ mạng của Giáo Hội không tách biệt khỏi Nước Chúa, Nước mà Đức
Giêsu đã loan báo và khai mào trong tất cả những gì Người đã nói và đã làm,
nhất là trong sự chết và sống lại của Người. Thần Khí nhắc Giáo Hội nhớ rằng
Giáo Hội không phải là cùng đích cho chính mình; trong tất cả những gì Giáo Hội
là và làm, thì Giáo Hội hiện hữu để phục vụ Đức Kitô và sự cứu độ thế giới.
Trong nhiệm cục cứu độ này, những công trình của Chúa Thánh Thần trong tạo vật,
trong lịch sử và trong Giáo Hội, tất cả là thành phần của một kế hoạch đời đời
của Ba Ngôi trên tất cả những gì hiện hữu.
Chúa Thánh Thần và Sứ Vụ của Giáo Hội
tại Á Châu
18. Thánh
Thần, Đấng đã hành động trên Á Châu trong thời các Tổ Phụ và ngôn sứ, và còn
mãnh liệt hơn nữa trong thời Đức Giêsu và Giáo Hội sơ khai, bây giờ vẫn tác
động giữa các người Kitô hữu Á Châu, bằng cách củng cố chứng tá đức tin của họ
giữa các dân tộc, các nền văn hoá và tôn giáo của lục địa. Cũng như cuộc đối
thoại tình yêu vĩ đại giữa Thiên Chúa và con người được Thần Khí chuẩn bị và
được thực hiện trên phần đất Á Châu qua mầu nhiệm Đức Kitô, thì ngày nay cuộc
đối thoại giữa Chúa Cứu Thế và các dân tộc trên lục địa, vẫn tiếp tục nhờ quyền
lực của cùng một Chúa Thánh Thần hoạt động trong Giáo Hội. Trong tiến trình
này, các giám mục, linh mục, tu sĩ và giáo dân nam nữ, tất cả đều có một vai
trò thiết yếu, vì nhớ lời Đức Giêsu, vừa là lời hứa và cũng là lệnh truyền:
"Anh em sẽ nhận được sức mạnh của Thánh Thần khi Người ngự xuống trên anh
em. Bấy giờ anh em sẽ là chứng nhân của Thầy tại Giêrusalem, trong khắp các
miền Giuđê, Samari và cho đến tận cùng trái đất" (Cv 1,8).
Giáo Hội xác tín rằng, sâu trong lòng dân chúng,
các nền văn hoá và tôn giáo tại Á Châu, có một cơn khát "Nước Hằng
sống" (x. Ga 4,10-15), một cơn khát chính Thần Khí đã tạo ra và chỉ mình
Đức Giêsu Cứu Thế mới có thể thoả mãn trọn vẹn. Giáo Hội trông chờ Chúa Thánh
Thần tiếp tục chuẩn bị các dân tộc Á Châu vào cuộc đối thoại cứu độ với Đấng
Cứu Thế của mọi người. Được Thần Khí hướng dẫn trong sứ vụ phục vụ và tình yêu,
Giáo Hội có thể trao tặng một cuộc gặp gỡ giữa Đức Kitô và các dân tộc tại Á
Châu khi họ đi tìm cuộc sống viên mãn. Chỉ trong cuộc gặp gỡ đó, mới gặp được
nguồn Nước Hằng Sống vọt đến sự sống đời đời, nghĩa là, sự hiểu biết một Thiên
Chúa duy nhất và Đức Giêsu Kitô mà Người đã sai đến (x. Ga 17,3).
Giáo Hội biết rõ rằng mình chỉ có thể hoàn thành sứ
vụ khi nghe theo sự thúc đẩy của Chúa Thánh Thần. Khi dấn thân làm dấu hiệu và
dụng cụ đích thực cho hoạt động của Thần Khí trong những thực tại phức tạp tại
Á Châu, Giáo Hội phải biện phân, giữa tất cả hoàn cảnh khác nhau của lục địa,
tiếng Thần Khí mời gọi làm chứng cho Đức Giêsu bằng những cung cách mới và có
hiệu quả. Chân lý trọn vẹn về Đức Giêsu và sự cứu độ mà họ đã đạt được luôn là
một ân huệ, chớ không bao giờ là thành quả của nỗ lực con người. "Chính
Thần Khí chứng thực cho thần khí chúng ta rằng chúng ta là con cái Thiên Chúa.
Vậy, đã là con, thì cũng là thừa kế, mà được Thiên Chúa cho thừa kế, thì tức là
đồng thừa kế với Đức Kitô" (Rm 8,16-17). Do đó Giáo Hội không ngừng kêu
lên: "Lạy Chúa Thánh Thần, xin hãy đến! Xin hãy tràn đầy tâm hồn các tín
hữu Chúa và đốt lên trong họ ngọn lửa tình yêu của Chúa!" Đó là ngọn lửa
mà Đức Giêsu ném trên mặt đất. Giáo Hội tại Á Châu chia sẻ niềm ước mong của
Người cho ngọn lửa đó giờ đây lại bừng cháy lên (x. Lc 1249). Với lòng ao ước
nồng cháy này, các Nghị Phụ Thượng Hội Đồng đã tìm cách biện biệt những lãnh
vực truyền giáo chính yếu cho Giáo Hội tại Á Châu, đang lúc Giáo Hội này bước
qua ngưỡng cửa ngàn năm thứ ba.
còn tiếp
|
VỀ MỤC LỤC |
|
ĐỪNG XIN CHÚA TRẢ CÔNG VÔ CÙNG BỘI
HẬU “VÌ TÔI CHỈ LÀ ĐẦY TỚ VÔ DUYÊN”. TÔI KHÔNG QUÊN NÓI TIẾNG
“CÁM ƠN”
|
SỐNG VÀ
CHIA SẺ LỜI CHÚA-CN27TN/C
Cần cho Cá
nhân-Gia đình-Nhóm-Hội đoàn-Phong trào
* Khi
suy niệm bài Tin Mừng hôm nay, tôi nhớ một câu trong bài hát của
cố nhạc sĩ Hải Linh như sau:
Lạy Chúa, con chỉ là đầy tớ vô duyên, là đầy tớ vô duyên, vô
duyên hơn tất cả…”
A- Cảm nghiệm Sống và chia sẻ với
sự thúc đẩy của Thánh Linh:
Tin Mừng:
Luca (17:5-10) Khi làm
tất cả những gì theo lệnh phải làm, thì hãy nói: chúng tôi là
những đầy tớ vô dụng… (câu 10)
1- Đừng
xin trả Chúa
trả công vô cùng bội hậu:
Ngưới Tín hữu Việt nam thường có
thói quen khi ai làm ơn cho mình thì nói lên trong nhà thờ hay
nơi công cộng là: “xin Chúa trả công vô cùng bội hậu cho ông
bà, anh chị, cho qúy vị…” Nên khi đọc câu Kinh Thánh Chúa
dạy trên: “khi làm xong việc gì anh em hãy nói, chúng tôi chỉ
là đầy tớ vô ích…”, tôi không dám nhận câu xin Chúa trả
công… mà chỉ muốn nghe : “xin Chúa chúc lành, xin thêm ơn
hay xin Chúa ban ơn hồn xác cho quý vị”, là đủ lắm rồi!
2-
Tất cả là ơn Chúa ban: Người Tín hữu nghe Lời Chúa hôm
nay, cần tự xem mình như tôi tớ, nên đổi cách suy nghĩ và nói
năng, không nên đòi trả ơn, mà cần có lòng khiêm tốn, khi làm
xong việc gì cũng không muốn ai nói: “xin Chúa trả công bội
hậu cho mình”, chỉ xin thêm ơn để tiêp tục phục vụ . Vì tôi
làm được mọi sự là bởi ơn Chúa ban. Cụm từ “đầy tớ vô ích hay
đầy tớ vô dụng” ở đây được hiểu là làm việc bổn phận,
chẳng có gì để đòi hỏi. Tôi nhớ lại những lời ca trong Kinh Hòa
bình: “Vì chính khi hiến thân là khi được nhận lãnh, chính
lúc quên mình là lúc gặp lại bản thân…”
1/ Khi ai
làm việc tốt cho tôi , tôi xin Chúa làm gì cho họ? Tại sao ?
2/ Người
phục vụ khiêm tốn, thường có thái độ và cử chỉ thế nào?
3/ Tại gia
đình và cộng đoàn thường lục đục và chia rẽ là tại đâu?
*
Công Đồng Vatican
dạy: Chúa Giêsu là Chúa; nhưng ngài không đến để được phục vụ,
nhưng để phục vụ chúng ta…Thánh Augustinô nói: “Làm Giám mục vì
anh em, tôi rất sợ; được làm Tín hữu với anh em , tôi rất yên
trí. Vì anh em, tôi là Giám mục, với anh em tôi là Tín hữu: Giám
mục là chức vụ phải làm; Tín hữu là tên có phúc. Chức vị rất
hiểm nghèo; Tín hữu là danh nghiã mang lại sự cứu rỗi. (GS #
32)
3- Không
quên nói tiếng “Cám ơn”:
Tuy không nghĩ đến việc kẻ khác
phải biết ơn mình; nhưng trên miệng tôi luôn sẵn sàng hai tiếng
“CÁM ƠN”. Hai tiếng Cám ơn không mất tiền ; nhưng kết quả thật
khó đo lường. Gia đình và xã hội sẽ sẽ êm đẹp biết bao, khi có
nhiều người biết nói tiếng “Cám Ơn”. -+++- Vậy
nếu có biết ơn hay cảm tạ, tôi hãy biết ơn và cảm tạ Chúa, vì
chỉ có mình ngài được tôn vinh. Trong phần hai của đoạn Phúc Âm
hôm nay có 10 người phong cùi được Chúa chữa lành ; nhưng chỉ có
một người trở lại tôn vinh và tạ ơn Ngài, mà người đó lại là
người ngoại Samari. Chúa đã lên tiếng hỏi:
“Không
phải cả mười người đều được sạch sao? Thế chín người kia đâu?
Sao không thấy họ trở lại tôn vinh Thiên Chúa Mà chỉ có người
ngoại bang này?.” (Lc 17, 17-18)
Đọc tới
câu này, tôi thấy xấu hổ thật, khi thấy những người ngoại giáo
chưa biết Chúa, nhưng họ ăn ở ngày lành và có lương tâm hơn mình
nhiều. Nên tôi cần giữ đạo bằng việc làm hơn là hình thức.
B- Câu Kinh Thánh thúc đẩy bạn và
tôi chọn Sống tuần này:
CHÚNG TÔI LÀ NHỮNG ĐẦY
TỚ VÔ DỤNG (Lc 17,10)
Ngay
bây giờ bạn tôi phải làm gì?
(So what am I doing? For Action)
1/ Tôi
không cậy công kể sức sau khi phục vụ Chúa và tha nhân.
2/ Bạn ẩn
mình đi sau khi phục vụ, vì không muốn ai khen tặng.
* Câu
Kinh Thánh Gioan Tiền hô nói với các môn đệ của ông: Người
phải được nổi bật lên, còn Thầy phải lu mờ đi.
(Ga 3, 30) rất cần được áp dụng trong bài Tin Mừng hôm nay cho
bạn và tôi, cho mọi lúc phục vụ ở trong Gia đình, Hội thánh hay
ngoài Xã hội. Chắc chắn sẽ rất ít xẩy ra những ghen ghét, cãi vã
và bè phái.
C- Bạn và tôi cùng cầu nguyện tự phát với Lời Chúa:
Lạy
Cha! Đức Giêsu đã dạy: “Khi đã làm xong tất cả những gì theo
lệnh phải làm, thì hãy nói chúng tôi là những đầy tớ vô dụng.”
Nhờ ơn Chúa, con không bao giờ kể công, muốn người khác khen
mình, hay người khác xin Chúa trả công bội hậu cho con. Vì mọi
việc con làm là bởi ơn Chúa ban, làm vì Chúa, làm để phục vụ anh
em mà thôi. Con noi gương Đức Maria thưa: “Tôi là tôi tớ Chúa,
xin vâng như lời thiên thần truyền.” Amen.
* Lời
hay ý đẹp: MÙA GẶT DỒI DÀO ĐÒI HỎI TRUNG THÀNH PHỤC VỤ.
/ A fruitfull harvest requires faithfull service.
CHÚA PHẢI ĐƯỢC
LỚN LÊN, CÒN TÔI NHỎ ĐI (Ga 3, 30)
Phó tế: GB
Nguyễn Văn Định * johndvn@yahoo.com |
VỀ MỤC LỤC |
|
THƯ SỐ 3 NGÀY 21.09.2010 GỞI GIA
ĐÌNH LECTIO DIVINA
|
LECTIO DIVINA -
THƯ
SỐ 3 ngày 21.09.2010
SÁCH THÁNH KINH
Thưa bạn,
Không phải là
viết cho bạn về cuốn Sách Thánh Kinh, nhưng là về sự tôn kính
cần có đối với cuốn Sách sẽ luôn đồng hành với bạn trong việc
thực hành Lectio divina.
Trước hết,
bạn cần phải có một cuốn sách Kinh Thánh. Theo chúng tôi bạn nên
có một cuốn sách Kinh Thánh toàn bộ (Cựu và Tân Ước), có những
chú giải. Bạn dễ dàng tìm thấy Sách Kinh Thánh này ở các nhà
sách công giáo.
Bạn nên có
một thái độ cung kính, yêu mến đối với Sách Kinh Thánh. Dành một
chỗ trân trọng nhất tại nơi bạn ở chứ đừng bạ đâu quăng đó hoặc
nhét vào kẹt nào đó ở kệ sách. Đối với những bạn có phòng riêng
thì việc này tương đối dễ dàng. Tuy nhiên chúng tôi nghĩ dù nơi
bạn ớ có thế nào thì bạn vẫn tìm ra được một chỗ trang trọng
dành riêng cho Sách Kinh Thánh. Chúng tôi đã từng thấy các đan
sĩ ở Âu Châu có một chỗ thật đặc biệt cho Sách Kinh Thánh: Một
chỗ ở góc phòng dành cho việc thực hành Lectio divina. Một tấm
thảm vải trên đất, một chiếc gối nhỏ đặt Sách Kinh Thánh trên
đó, bên cạnh có một cây kiểng nhỏ hay một bình nhỏ cắm hoa tươi,
một cây nến... Chúng tôi cũng đã thấy có những tu sĩ nữ trân
trọng đặt Sách Kinh Thánh trên gối ở giưòng ngủ của mình. Trông
rất thân thương. Có chị chia sẻ rằng khi thực hành Lectio
divina, chị rất thích qùy gối bên cạnh giường ngủ của chị. Dành
gối êm cho Chúa Giêsu suốt ngày, và trước khi leo lên giường để
nghỉ trưa hay ngủ đêm, chị đều dành ra ít phút đọc lại Lời đã
tiếp nhận lúc sáng sớm... Mỗi người một kiểu, một cách thế thích
hợp nhất. Góc riêng tư này là nơi Đức Kitô Lời gặp gỡ bạn.
Trong lúc
trao đổi với các học viên về Lectio divina, chúng tôi thường so
sánh Bí tích Lời và Bí tích Thánh Thể. So sánh để dẫn tới niềm
tôn kính yêu mến Lời và đồng thời tôn kính yêu mến Chúa Giêsu
Thánh Thể. Chúng tôi chỉ so sánh cách chúng ta tiếp cận Lời và
tiếp cận Thánh Thể để thấy rằng chúng ta có thể đến với Lời dễ
dàng như thế nào. Tôi hay hỏi đùa : “Các chị có cả dám khi “nhớ”
Chúa Giêsu Thánh Thể quá, mò vào nhà nguyện lúc không có ai, mở
cửa nhà tạm để “ngó” Chúa một cái cho đỡ thèm không”? Vậy mà các
chị luôn có Chúa Kitô Lời ở trong tầm tay các chị. Muốn ôm ấp,
nâng niu, hôn yêu Chúa lúc nào cũng được. Một khi dành cho Chúa
Kitô Lời cách tiếp cận đơn sơ như thế, chúng ta thật dễ dàng nhớ
đến Chúa, kết hợp mật thiết với Chúa.
Chúng ta
thường hết mình làm việc “cho” Chúa, nhưng thường thì lại ít làm
việc “với” Chúa và “trong” Chúa. Chúa muốn chúng ta hoạt động
cho Chúa, mở mang Nước Chúa, nhưng điều Chúa mong muốn hơn đó là
chúng ta sống với Chúa, trong Chúa, luôn luôn kết hiệp với Chúa.
Quyển Sách Kinh Thánh chúng ta có trong tay, trên bàn học, trong
phòng của chúng ta phải là sự hiện diện của Chúa Kitô bên cạnh
chúng ta. Do đấy đi vào thực hành Lectio divina, chúng ta phải
có thái độ tôn kính, trân trọng, yêu mến không phải chỉ đối với
Sách Kinh Thánh, nhưng là đối với chính Chúa Kitô Lời.
Người ta cũng
hay so sánh Sách Kinh Thánh là một thứ Nhà Tạm. Điều này đúng,
nhưng Nhà Tạm Sách Kinh Thánh chứa đựng Chúa Kitô Lời gần gũi
chúng ta hơn. Đối với Nhà Tạm Thánh Thể, chúng ta phải tiếp cận
trọn vẹn bằng đức tin và cung kính từ xa. Còn đối với Nhà Tạm
Sách Kinh Thánh, đức tin vẫn cần thiết, tuy nhiên do được tiếp
nhận trực tiếp, chúng ta cảm được sự gần gũi thân thương hơn
nhiều và có thể gặp gỡ thường xuyên.
Đi vào thực
hành Lectio divina, chúng ta đến gặp gỡ Chúa Kitô Lời để lắng
nghe và để trò truyện với Người. Người sẽ dẫn đưa chúng ta vào
kết hiệp mật thiết với Người. Gặp gỡ Chúa Kitô qua việc cầm đọc
Sách Kinh Thánh, chúng ta cũng cần phải có tâm tình yêu mến,
kính trọng như gặp gỡ chính Chúa Kitô. Thái độ tôn kính này sẽ
giúp chúng ta sống giờ Lectio divina thật ý nghĩa.
Ngày
21.09.2010, Kính Thánh Matthêu Tông Đồ, tác giả Sách Tin Mừng.
Fr. M. Bảo Tịnh Ocist.
Xin tiếp tục cố võ, giới thiệu cho nhiều
người thân ghi danh gia nhập Gia Đình Lectio Divina tại địa chỉ
lecdiv@gmail.com
hoặc conggiaovietnam@gmail.com
.
Xin chân thành cám ơn. |
VỀ MỤC LỤC |
|
THÁNH TỐNG VIẾT BƯỜNG
|
Quan thị vệ:
Tống Viết
Bường.
Chứng nhân tử
đạo,
Trung dũng
can trường!
Sách ghi:
Làng Phủ Cam
năm nhâm dần, thân xác hạ sinh cõi thế, (*)
Họ Thợ Đúc
giáp quý tỵ, hồn thiêng trực chỉ Thiên đường .(**)
Thánh hiệu
Phao Lô - danh gia chính chính,
Gia đình công
giáo - thế tộc đường đường.
Sống đạo chăm
chăm câu tín thác!
Việc đời canh
cánh chữ cương thường.
Một thưở
chiến bào khiên giáp,
Nửa đời cung
tiễn súng gươm.
Chí trung
quân - viên đội cai tận lòng giúp nước,
Lòng ái quốc
- người thị vệ hết dạ phò vương.
Ngoài chiến
địa sa trường xông xáo,
Chốn triều ca
phép tắc kỷ cương .
Ngờ đâu:
Hồn thần tử
Viết Bường tận trung khôn xiết,
Dạ hôn quân
Minh Mệnh bất nghĩa khó lường.
Điều tra gốc
gác tộc dòng, xưng danh Công giáo liền đeo mang ách họa,
Kê biên ngọn
nguồn danh tánh, tín hữu Gia tô phải gánh chịu tai ương.
Hạ binh phù
quân tịch,
Xóa tước lộc
huy chương.
Côn trượng
tám mươi hèo nát thịt ,
Cùm gông hai
khúc xiết bầm xương.
Nơi ngục thất
kiên trung khẳng khái,
Chốn lao lung
anh dũng ngoan cường.
Khuyên nhủ ủi
an đồng phạm,
Ân cần giúp
đỡ nêu gương.
Ngày tháng
lao tù, nài quản ngục xích xiềng thêm nặng!
Khắc giờ tra
khảo, xin lý hình roi vọt chớ nương!
Án trảm quyết
dùng dằng công bố,
Lệnh bêu đầu
tức khắc loan trương.
An ủi hiền tế
nội gia tín thác,
Vỗ về thông
ngôn ngoại quốc kiên cường.
Biệt giã anh
em: Vui – Mang – Quân chí vững tin chính trực,
Hẹn hò đồng
đạo: Hang – Minh – Phú lòng trông cậy tròn vuông.
Đường tử đạo:
Liêu xiêu
bóng gươm chiều tắt!
Lập lòe ánh
đuốc tàn dương.
Vội vã quân
binh cuồng chân nơi hành quyết,
Thong dong tử
tội dạo gót chốn pháp trường.
Sông sâu chắn
lối…
Cầu gẫy ngăn
đường!
Dừng bước lý
hình ngần ngại,
Theo chân ái
nữ thảm thương.
Mặt ngước
trời phó linh hồn Chân Chúa!
Đầu cúi đất
trao thân xác tà vương .
Chẳng mõ
trống, án quan tần ngần tuyên trảm,
Không chiêng
cồng, đao phủ vội vã vung gươm.
Hồn nhân
chứng bay lên trời bao vinh phúc,
Máu thánh
nhân đổ xuống đất ngát kỳ hương.
Nhận tử thi
một tối đau lòng tìn hữu,
Bêu thủ cấp
ba ngày hả dạ ma vương.
Năm mươi năm
trung hiếu vẹn toàn, bia trượng phu khắc sâu khí tiết,
Nưa thế kỷ
cậy tin son sắt, gương tín hữu rạng tỏa thiên lương.
Năm tân sửu,
Đấng cha thánh Lê-ô thập tam vinh phong chân phước,
Năm mậu thìn,
Đức Giáo tông Phao-lô đệ lục tấn sắc thánh nhân.
Danh lưu vạn
cổ!
Tiếng vọng
muôn phương.
Hậu sinh
ngưỡng mộ!
Thánh Tống
viết Bường.
Bùi Nghiệp
(nguồn: BT
Hiệp Thông số 59)
(*) và (**):
Thánh nhân có thể (?) sinh năm 1782 (nhâm dần)và tử vì đạo
23.10.1833 (quý tỵ) |
VỀ MỤC LỤC |
|
MỐI THÂN TÌNH VỚI CHÚA ĐƯỢC NUÔI
DƯỠNG BẰNG CẦU NGUYỆN VÀ THÁNH LỄ
|
Tại cuộc tiếp
kiến chung ở Quảng Trường Thánh Phêrô sáng thứ Tư, 29-9-2010,
Đức Bênêđictô XVI đã giới thiệu khuôn mặt của Thánh nữ Matilde
Hackeborn, nhà thần bí và nữ tu sĩ của đan viện Helfta vào thế
kỷ 13. Đức Thánh Cha mời gọi mọi người “thắt chặt mối thân tình
với Chúa, nhất là qua việc cầu nguyện hằng ngày và việc trung
thành tham dự Thánh Lễ cách ý thức và năng động.”
Matilda là
người phụ nữ với những phẩm chất tự nhiên và thiêng liêng rất
cao quí. Trước sự hiện diện của khoảng 30 ngàn tín hữu, Đức
Thánh Cha ghi nhận rằng vị thánh nữ này được mệnh danh là “chim
sơn ca của Thiên Chúa” bởi nét êm dịu tuyệt vời trong tiếng nói
của ngài khi trình bày Lời Chúa hay khi điều khiển ca đoàn của
tu viện. Được ơn soi sáng của Thiên Chúa nhờ chiêm niệm thần bí,
Matilde đã đúc kết thành rất nhiều lời cầu nguyện. Là bậc thầy
trong niềm trung thành với giáo thuyết và trong lòng khiêm
nhường sâu thẳm, ngài chỉ bảo, khích lệ, và hướng dẫn biện phân
cho các chị em nữ tu của mình.
Đức Thánh Cha
cũng ghi nhận rằng rất nhiều người - không chỉ trong tu viện, mà
cả ở tận nước ngoài, tu sĩ cũng như người đời, đã đến với
Matilda. Họ làm chứng rằng người trinh nữ thánh thiện này đã
giúp giải phóng họ khỏi bao nỗi ưu phiền lo lắng, và rằng chưa
bao giờ họ nhận được nhiều an ủi như thế.
Cầu nguyện và
chiêm niệm là nhiên liệu sống của cuộc đời vị thánh nữ - Đức
Thánh Cha nói tiếp. Tất cả những mạc khải, những sự chỉ dạy,
những việc phục vụ tha nhân, và con đường tin yêu của ngài đều
cắm rễ trong cầu nguyện và chiêm niệm.
Chịu nhiều
khổ sở trong những năm cuối đời do các đau đớn thể lý, Matilde
đã trải qua giai đoạn “khủng hoảng tinh thần nghiêm trọng” ấy mà
không hề rời bỏ con đường chiêm niệm của mình.
Bằng cách đặt
mình trong sự hướng dẫn của Lời Chúa và được nuôi dưỡng bởi
Thánh Thể, Matilde đã đạt được sự kết hiệp thâm sâu với Chúa, và
luôn luôn trung thành trọn vẹn với Giáo Hội - Đức Thánh Cha nhấn
mạnh.
Cuối cùng,
Đức Thánh Cha kết luận rằng hình ảnh của Thánh nữ Matilde là một
lời mời gọi, thúc giục chúng ta thắt chặt mối thân tình với
Chúa, nhất là qua cầu nguyện hằng ngày và qua việc trung thành
tham dự Thánh Lễ cách ý thức và năng động. Phụng vụ quả thực là
một trường linh đạo lớn.
THIÊN
PHONG
theo
“Il
Papa: l'amicizia con il Signore si alimenta con preghiera e
Messa” trong
zenit.org, 29.9.2010
|
VỀ MỤC LỤC |
|
CHUỖI MÂN CÔI, HẠNH PHÚC GIA ĐÌNH
|
Năm 1993,
trước khi cha tôi vào cơn hấp hối 56 ngày đêm, cha tôi cầm tay
Mẹ tôi nói lời từ biệt. Cha nói chỉ mấy câu. “Cảm ơn Bà, 51
năm chung sống. Vui lên. Tạ ơn Chúa. Đây, Chuỗi Mân Côi hồi mới
cưới. Quà chia tay đó. Nhớ giữ, sau nầy làm quà cho con”.
Nghe Mẹ kể mà
anh em chúng tôi ứa lệ. Tôi ghi lại kỷ niệm ấy trong bài thơ Di
Sản:
Ông già
nói với bà già
Bà ơi tôi
sắp phải xa bà rồi
Con thì
mỗi đứa một nơi
Nhà thời
vắng vẻ mình tôi với bà
Tôi đi bà
ở lại nhà
Vui lên!
Cứ nghĩ như là có tôi
Ai rồi
cũng một kiếp người
Tôi thời
cũng vậy, bà cười lên đi
Biết rằng
tử biệt sinh ly …
Cho tôi
nói nhỏ lời tri ân bà
Một đời
lăn lóc bôn ba
Tôi dành
một chút làm quà chia tay
Bà cầm
tràng chuỗi nầy đây
Tôi hằng
nguyện giữ từ ngày cưới nhau
Năm mươi
hạt ngọc trân châu
Xin làm di
sản tôi trao tặng bà
……
Mai kia bà có đi xa
Bà ơi gởi lại làm quà cho con
Tôi
lại nhớ, Mẹ vẫn ngồi một góc trên chiếc giường tử biệt của Cha,
một mình lần chuỗi Mân Côi hồi mới cưới. Mẹ cầu nguyện cho con
cho cháu. Năm 2002, 27 tết, mẹ gọi anh em về vì những cơn nhồi
máu cơ tim đã bắt đầu giục giã. Về sum họp với Mẹ, tưởng là sẽ
chia tay Mẹ, nhưng không, Mẹ khỏe lại để cùng ăn một cái tết sum
họp với anh em từ sau ngày Cha mất.
Mùng 3 tết, cháu Hữu mang bệnh Tim Bẩm Sinh Tứ Chứng Fallot,
chào Bà Nội để nhập viện Phan Thiết, rồi Nhi Đồng Sài Gòn vì
đang bị viêm Tim và abces Gan. Hữu sốt cao liên tục 112 ngày tại
BV nhi đồng, đồng nghĩa với việc bà nội ở nhà đã lần 224, hay
336 chuỗi Mân côi gì đó để cầu nguyện cho cháu. Vừa hết sốt, chỉ
có vài ngày, Hữu được về thăm nội. Bà nội mừng rơn, nước mắt
dâng trào : “Bà đã dâng con cho Đức Mẹ, Đức Mẹ đã nhậm lời
cầu xin”. Bên mộ Bà nội, Hữu nói “Bà nội bịnh lâu rồi,
nhưng bà còn phải lần chuỗi cho con và chờ con về, mười ngày sau
mới chết. Con cảm ơn bà Nội”
Mỗi
năm, cứ đến tháng mười, nỗi nhớ càng da diết thêm.
Nhìn lại nhiều biến cố trong đời tôi, trong đời bạn, trong đời
các gia đình công giáo chắc hẳn chúng ta sẽ có những chứng từ
sống động về hiệu quả của việc lần hạt Mân côi trong gia đình.
Và hơn thế nữa, phép lạ Mân côi trong gia đình chính là Gia đình
được Hạnh phúc.
Nhớ
năm nào đó, tôi được tham dự buổi sinh hoạt với lớp dự bị Hôn
Nhân tại Giáo Xứ Đồng Hộ Nha Trang. Lúc ấy Cha GB. Trần Tấn Linh
mới đổi về. Cha giới thiệu một người bạn của Cha, tu xuất, có
gia đình bảy tám đứa con gì đó, cuộc sống khó khăn nhưng vẫn
luôn nhiệt tình với các công tác giáo hội. Ông ấy chia sẻ với
lớp rằng : “Tôi rất vinh dự, và sung sướng vì được vợ tôi
luôn cầu nguyện cho tôi. Một ngày của nàng thường lần ba chuỗi
Mân côi. Chuỗi thứ nhất cầu nguyện cho Gia đình. Chuỗi thứ hai
dành riêng cho tôi, chồng nàng. Và chuỗi thứ ba cầu cho Giáo
Xứ.
Khi được hỏi tại sao đã cầu nguyện chung cho gia đình rồi, còn
dành riêng một chuỗi cho tôi, thì nàng trả lời chí lý rằng:
-“Ai mà giữ anh nỗi, xin Đức Mẹ giữ, chắc ăn. Mỗi ngày mất có
mươi lăm phút, mà được cho anh và cho cả nhà suốt đời ”.
-“Anh có gì mà phải giữ ? ”
-“Có, chứ sao lại không hầy ! Giữ anh khỏi tội lỗi, khỏi mất
linh hồn nè ! Giữ anh khỏi đi lạc đường nè, khỏi tan nạn, khỏi
bị hiểu lầm, khỏi tính kiêu căng, khỏi đủ thứ chuyện nè ! Trong
đó, có cả việc xin Đức Mẹ giữ anh khỏi bị cô nào bỏ bùa yêu nữa
nè ! ”
Qua những năm tháng cuộc đời, Tôi mới hiểu ra, Đức Mẹ đã giữ gìn
tôi theo lời yêu cầu của nàng ”.
Được hỏi tại sao dành riêng cho Giáo xứ một chuỗi mối ngày, tôi
bất ngờ nghe câu trả lời :
-“Cầu cho GX ai cũng sống đạo tốt lành, tốt lành để làm gương
cho mình, thì mình cũng khỏe lắm anh à. Lỡ mà vợ chồng mình có
điều gì đáng trách thì họ cũng bỏ qua cho, gặp nghèo khổ hoạn
nạn thì họ cũng thương tình mà giúp đỡ, và nhất là được sống
trong một Giáo Xứ của những người thánh thiện thì còn gì vui
bằng. Lần chuỗi Mân côi cầu cho GX là đã cầu nguyện cho Cha sở.
Cha phó, quí thầy quí xơ nữa rồi đó nghen. Đức Mẹ mà can thiệp
vào thì Cha sở toàn là được chứ không mất gì cả. Cha sở mà được
uy tín, được tin tưởng, được yêu mến, được thánh thiện thì trở
nên máng thông ơn cho mình. Không cầu nguyện cho các Ngài mà
trách cái máng lủng là đòi gặt nơi không gieo đó, là bất công đó
”….
Ông
ấy kể lại chứng từ Mân Côi trong gia đình của ông, đặc biệt nơi
người vợ, và các anh chị dự bị hôn nhân bị cuốn hút bởi ai cũng
muốn cho mình có được một tương lai gia đình hạnh phúc. Tuy
nhiên, một vài anh chị đã ngỡ ngàng đối với một việc đạo đức
bình dân : “lần chuỗ iMân Côi là thế nào ? ”.
Tôi
xin nhường phần giải thích việc Tôn Sùng Đức Mẹ qua việc Lần
chuỗi Mân côi cho những bài chú giải và suy niệm của những người
khác. Tôi xin nhường lại phần trả lời cho những người có trách
nhiệm.
Phần tôi, nhớ lần gặp một cụ già đang lần chuỗi trước đài Đức Mẹ
Gia Yên, tôi hỏi cụ : Cụ đọc kinh gì vậy ? « Cụ đọc kinh Kính
Mừng. Đọc với cụ nhé : Kính mừng Maria đầy ơn phước, Đức Chúa
Trời ở cùng Bà, Bà có phước lạ hơn mọi người nữ, và Giêsu con
lòng Bà gồm phúc lạ. Thế là ta tuyên xưng đức tin rằng : chỉ
có Đức Chúa trời trong nhà ta, như Đức Chúa Trời ở cùng Bà, nhà
ta mới được hạnh phúc….Đức Chúa Trời ở cùng nhà ta, trong nhà ta
qua Chúa Giêsu »
Rồi
cụ bảo tôi, tiếp nhé :
« Thánh Maria Đức Mẹ Chúa Trời cầu cho chúng con là kẻ có tội
khi nầy, và trong giờ lâm tử. A men. Một ngày biết bao tội. Ai
mà không tội. Trong nhà có tội trong nhà. Ngoài đường có tội
ngoài đường. Lúc nào cũng có tội. Nhưng, lúc nào cũng có thể
chết. Xin gửi gắm cho Đức Mẹ cả nhà mình, hy vọng tốt hơn, may
ra được Chúa cứu »
Tôi
bất ngờ cách giải thích hùng hồn của cụ. Cụ giải thích như cụ đã
sống. Tôi nghĩ, người nầy đã xây dựng được bình an hạnh phúc nơi
nhà mình qua chuỗi Mân côi.
Một
lớp trẻ đang xa lạ với chuỗi mân côi là tín hiệu sẽ xuất hiện
những gia đình mất nền tảng, sẽ xuất hiện một xã hội đầy dẫy
những băng hoại.
Có
thể chúng ta chưa giới thiệu chuỗi Mân côi cho thế hệ trẻ hoặc
có thể là thế hệ trẻ đang bị đầu độc để có thái độ dị ứng với
những việc đạo đức bình dân. Cả hai việc ấy đều phải khắc phục
trong gia đình ngay lúc nầy, nếu không muốn thấy có bóng dáng
những lạc giáo, những ly giáo, những hỗn độn trong gia đình,
trong Giáo Hội và xã hội tương lai.
Xin
các gia đình đã quen lần chuỗi với nhau trong giờ kinh tối, đã
quen lần chuỗi liên kết với nhau trong ngày, và đã quen sống
tinh thần kinh kính mừng hãy kể cho chúng tôi, hãy kể cho giới
trẻ niềm vui bình an hạnh phúc mà quí vị nhận được qua chuỗi Mân
côi.
Lạy
Mẹ Maria, chúng con tin rằng Chuỗi Mân Côi là di sản đức tin Cha
ông đã để lại cho gia đình chúng con thắng vượt những thử thách
cuộc đời, là bảo đảm phần rỗi cho mỗi thành viên trong gia đình
chúng con, và mang lại bình an hạnh phúc thực tại cho gia đình
chúng con tại thế gian nầy. Xin cho chúng con biết yêu mến Mẹ,
và siêng năng lần Chuỗi Mân Côi.
PM.
Cao Huy Hoàng |
VỀ MỤC LỤC |
|
ĐÂU LÀ CỐT LÕI CỦA ĐỨC TIN KITÔ
GIÁO ? ĐỌC ĐỨC TIN KITÔ GIÁO HÔM QUA VÀ HÔM NAY
|
Đỗ Mạnh Tri
Đâu là nội dung và tư tưởng cốt
lõi của niềm tin Kitô giáo ? Câu trả lời đương nhiên là Kinh Tin
Kính, hay Tín Biểu các Tông đồ. Người ngoài Kitô giáo muốn tìm
hiểu đức tin kitô giáo, người kitô giáo muốn ý thức và đào sâu
niềm tin của mình cần suy gẫm Kinh Tin Kính. Cuốn
Đức Tin
Kitô Giáo Hôm qua và Hôm nay
(ĐTKTGHQVHN) của Biển Đức 16, một trong những công trình thần
học quan trọng nhất của thế kỷ 20, giúp ta thực hiện điều
đó, đồng thời cho thấy đức tin không chỉ là khiêm tốn và đón
nhận mà còn đòi hỏi nhiều cố gắng trên bình diện lý trí.
Chung quanh cuốn sách.
ĐTKGHQVHN, nguyên là một giáo
trình của Biển Đức 16 về Kinh Tin Kính, khi ngài còn là giáo sư
trẻ tuổi tại đại học Tübingen, năm 1967. Lời tựa của ấn bản đầu
tiên (1968) cho biết vì có sự thúc đẩy kiên nhẫn của tiến sĩ
Heinrich Will nên tác giả mới "dám liều lĩnh cho in". Hẳn
ông H. Will đã nhận ra tầm quan trọng của giảng khóa. Vì chỉ
trong vòng một năm cuốn sách đã được tái bản mười lần.
Trong Lời tựa cho lần tái bản thứ mười (1969), tác giả viết:"Khi
cuốn sách này lần đầu tiên xuất hiện cách đây một năm, tôi đã
không nghĩ nó sẽ tạo ra được tiếng vang lạ lùng như thế. Tôi vô
cùng sung sướng và cám ơn vì tác phẩm đã vượt biên giới và mang
lại ơn ích cho không những tín hữu ở Tây mà cả ở Đông Đức, không
những cho tín hữu công giáo mà cả tín hữu tin lành".
Lúc đó Joseph Ratzinger chưa thành
một nhân vật nổi tiếng như sau này. Vậy tiếng vang lạ lùng từ cả
hai phía Tin Lành và Công giáo, chỉ có thể đến từ nội dung của
tác phẩm. Trong lời tựa ấn bản đầu tiên, năm 1968, tác giả mở
đầu bằng một câu hỏi: "Đâu là nội dung và tư tưởng cốt lõi
của đức tin kitô giáo ?" Và trả lời bằng một khẳng định táo
bạo, khá bất ngờ: "Chưa bao giờ trong lịch sử câu hỏi này bị
mây mù che phủ như hôm nay". Nói cách khác, câu hỏi nền
tảng, thiết thân của người kitô hữu đang bị cho ra rìa một cách
nào đó vì bị khỏa lấp bởi mây mù. Mà thủ phạm đầu tiên chính là
thần học: "Không thể chối cãi là hiện đang có một khuynh
hướng phổ biến muốn đổi vàng lấy đá". Vì cảm thấy đức tin là
gánh nặng nên thần học có khuynh hướng lược bỏ những gì bị coi
là phụ thuộc để chỉ giữ lại phần tinh túy của Đạo, nhưng rồi lần
hồi từng bước, mỗi đợt một ít, tiến trình lược bỏ không còn biết
đâu là cốt lõi, rốt cuộc, cái gọi là cốt lõi biến thành câu
chuyện tầm phào. Tuy nhiên, theo ý tác giả, ta cũng
"không thể cản ngăn được khuynh
hướng này bằng cách cứ nhắm mắt bám trụ vào những công thức của
quá khứ, tuy vẫn óng ánh như vàng mà thật ra là những miếng sắt:
Chúng quả là gánh nặng, chứ không mở ra tự do, thoải mái cho
đức tin".
Tác giả công nhận có gánh nặng trong quá khứ và không phủ định
việc cần tước bỏ. Vấn đề là tước bỏ chỗ nào? Nếu đổi vàng lấy đá
thì rồi cũng vất luôn cả đá, vì đá cũng nặng không kém vàng. Vậy
trước khi tước bỏ, cần phân định đâu là phần tinh túy của Đạo,
đâu là cốt lõi của đức tin kitô giáo: "Và đây là chủ đích của
cuốn sách: nó muốn giúp cho người theo Chúa trong thời đại ngày
nay hiểu một cách mới rằng, đức tin là một cách thế giúp
cho con người trở thành người đích thực; cuốn sách muốn
diễn giải đức tin một cách mới mà không biến ra câu
chuyện tầm phào, rút cuộc trở thành vô nghĩa".
Tác giả rất ý thức về tính cách
'mới' của mình trong cách tiếp cận vấn đề. Người đọc tất nhiên
tự hỏi thế nào là diễn giải đức tin một cách mới, tại sao
đức tin là một cách thế giúp cho con người trở thành người
đích thực ? Và thế nào là người đích thực ? Không có
đức tin kitô giáo có trở thành người đích thực được không
? Nhưng tự vấn như thế tức là được mời đọc.
Lời
mời gọi ấy, mấy chục năm sau xem ra còn cấp bách hơn. Sau hai
biến cố 1968 "đánh dấu sự vùng dậy của một thế hệ mới" và
1989 " đánh dấu sự sụp đổ đáng kinh ngạc của các chế độ xã
hội chủ nghĩa ở Tây phương", thế giới đã biến chuyển vùn vụt
với bao nhiêu kinh nghiệm và những vấn nạn mới, nhưng trong lời
tựa cho ấn bản năm 2000, tác giả viết: "xét về hướng đi căn
bản thì tôi tin mình đã không lầm". Hơn ba chục năm sau ấn
bản đầu tiên, hành trình thần học của Hồng y Ratzinger, về căn
bản không khác giáo sư thần học Joseph Ratzinger. Và những ai đã
đọc Diễn văn tại Ratisbone, và 3 Thông điệp quan trọng
của Biển Đức 16: Deus Caritas est, Spe Salvi, Caritas in
veritate, cũng dễ dàng nhận ra căn bản thần học đã chứa đựng
trong giáo trình của năm 1967.
Nội
dung chủ yếu của ĐTKTGHQVHN.
Tập
sách của Biển Đức 16 nên đọc từ từ. Không dễ hiểu. Nhiều chỗ khó
hiểu. Khuôn khổ lý luận chặt chẽ và ngôn ngữ triết học, thần học
mang tính chuyên môn giúp người đọc ý thức về niềm tin của mình
và luôn thể nhìn ra tầm quan trọng của liên hệ sâu xa giữa trí
tuệ và đức tin mà Gioan Phaolô 2 cũng như Biển Đức 16 rất quan
tâm.
ĐTKGHQVHN đặt vấn đề tin, đi vào chi tiết của Thiên Chúa luận,
Kitô học, Giáo hội học, trên bình diện khoa học, triết học, thần
học trải dài 20 thế kỷ với những tranh luận cũ, mới. Nội dung ấy
phức tạp, hàm súc. Thay vì một bản tóm tắt chỉ có thể hời hợt,
người viết xin đề cập đến điểm mà chính tác giả coi là tâm điểm
của đức tin kitô giáo, cũng là trọng tâm của tác phẩm: việc
tuyên xưng Chúa Giêsu Kitô.
Sự hình thành của kinh Tin Kính.
Mục đích cuốn sách là "dựa vào kinh Tin Kính các Tông Đồ như
kim chỉ nam giúp đi sâu và nội dung cụ thể của đức tin"
(tr.93). Cội nguồn kinh Tin Kinh trong Tin Mừng Mathêô "Anh em
hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ
nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần" (Mt 28, 19). Từ
đó, xuất phát ba câu hỏi được đặt ra cho người tân tòng thời
Giáo hội sơ khai tại Rôma: " Con có tin vào Thiên Chúa là Cha
toàn năng không? Con có tin vào Đức Giêsu-Kitô Con Thiên Chúa
không? Con có tin vào vào Chúa Thánh Thần.. không?" Từ tuyên
xưng đức tin cách cô đọng này đã dần dà hình thành kinh Tin Kính
vào khoảng thế kỷ thứ IV. Do vị thế của Giáo hội Rôma và những
biến chuyển chính trị, bản kinh này lan truyền mau chóng và trở
thành bản chính thức cho Tây phương. Tại Đông phương, vì không
có một giáo hội địa phương nào nổi bật như giáo hội Rôma bên Tây
phương, nên không có một kinh Tin Kinh thống nhất. Thành ra Đông
phương "vẫn giữ được tính đa dạng của kinh Tin Kính và hướng
thần học cũng hơi khác so với Symbolum của Rôma. Kinh Tin Kính
của Rôma (mà cũng là của chung cho phương Tây) nghiêng nhiều hơn
về lịch sử cứu độ với trọng tâm là đức Kitô. Có thể nói nó
dừng lại ở thực tại lịch sử của mầu nhiệm Đức Kitô, nghĩa là
đơn giản đón sự thể Thiên Chúa đã làm người để cứu độ chúng ta
chứ không đi sâu vào mối liên hệ của nó với toàn thể thực tại.
Ngược lại, Đông phương hiểu đức tin kitô theo chiều kích vũ
trụ và siêu hình nhiều hơn. Điều này có thể thấy rõ qua việc
- trong các kinh đó - Kitô học được nối kết với mầu nhiệm Tạo
Dựng. Nói khác đi, họ đã nối kết chiều kích đặc thù, duy nhất
của lịch sử Đức Kitô với chiều kích thường hằng, bao trùm của
Tạo Dựng" (tr. 95). Điều không được bộc lộ rõ ràng trong
kinh Tin Kính của Tây phương là mối quan hệ giữa đức tin và toàn
thể thực tại hữu hình cũng như vô hình. Tuy nhiên đã hàm chứa
trong thực tại lịch sử của mầu nhiệm Đức Kitô, Thiên Chúa làm
người. Và đây chính là điều được diễn giài minh bạch trong
ĐTKGHQVHN qua việc tuyên xưng Đức Kitô Giêsu.
Tâm điểm của kinh Tin Kính.
Khoản 2 của kinh Tin Kính tuyên xưng:
"Tôi tin kính Đức Chúa Giêsu Kitô,
là con một Đức Chúa Cha, cùng là Chúa chúng tôi".
"Lời tuyên xưng Đức Giêsu, một cá nhân cụ thể, bị hành quyết
khoảng năm 30 ở Palestina, là Đấng "Kitô" (Đấng được xức dầu,
được tuyển chọn) của Thiên Chúa, thậm chí là Con đích thực của
Thiên Chúa, là tâm điểm mang ý nghĩa quyết định đối với tất
cả lịch sử nhân loại. Quả là táo bạo và điên rồ khi
coi một khuôn mặt hoàn toàn đặc thù, hơn nữa, ngày càng chìm mất
trong mây mù quá khứ, như là quy chiếu tối hậu của tất cả lịch
sử"
(tr. 237-238). Niềm tin ấy
"là
sự nối kết giữa Logos và sarx,
giữa Lời và xác phàm, giữa đức tin và lịch sử. Giêsu, con người
lịch sử, là Con Thiên Chúa, và Con Thiên Chúa chính là con người
Giêsu lịch sử đó. Thiên Chúa xuất hiện vì con người xuyên qua
những con người. Hay nói cách cụ thể hơn: Chính qua Con Người đó
mà ý nghĩa sâu xa nhất của phận người được tỏ lộ […]
Tin như thế thì có khác nào rơi vào một chủ trương "thực
chứng" quái gở? Có nên bám vào một biến cố cỏn con trong thời
gian như thế hay không? Trên đại dương mênh mông của lịch sử,
liệu chúng ta có dám liều đặt tất cả đời mình, thậm chí cả lịch
sử lên một chút biến cố, chẳng khác gì cọng rơm hay không?"
(tr. 239).
Như
vậy, cốt lõi của Kitô giáo không phải tin vào Giêsu, cũng không
phải tin vào Kitô, mà là tin vào Giêsu Kitô. Nếu Giêsu chỉ là
Giêsu, thì lời rao giảng của Ngài dù có ảnh hưởng to lớn mấy đi
nữa, Ngài cũng chỉ là một trong những vĩ nhân của lịch sử, thuộc
hàng một Socrate, một Khổng Tử, Lão Tử, Zarathoustra, Thích Ca.
Và hôm nay, ta vẫn có thể tâm phục những lời giảng dạy của Ngài
qua các bản Phúc Âm, như sứ điệp quý báu của một bậc linh sư vĩ
đại, mà chẳng cần phải là kitô hữu, thậm chí chẳng cần tin vào
Thiên Chúa. Rất nhiều người ngoài Kitô giáo thán phục những lời
rao giảng của Chúa Giêsu. Ý tưởng Giêsu chỉ là Giêsu dễ được
chấp nhận, nhưng như thế, hết Kitô giáo. Người kitô hữu tin rằng
Giêsu, con người 'cọng rơm', bé bỏng, bị nhục hình thập giá, là
Kitô, là Con Thiên Chúa, và là Ngôi Hai Thiên Chúa, tâm điểm
mang ý nghĩa quyết định đối với tất cả lịch sử nhân loại.
Có cần thêm rằng, vì Giêsu và Kitô là một, nên chỉ có Giêsu là
Kitô, cũng như chỉ có Thiên Chúa là Thiên Chúa. Ơn cứu độ, vì
thế, chỉ có qua Giêsu Kitô. Tất cả lịch sử nhân loại là… tất cả
lịch sử nhân loại. Tức nhân loại xưa kia, hiện nay và mai sau lệ
thuộc vào Giêsu Kitô. Đó là điên rồ của đức tin.
Sự
điên rồ này lại khởi đi từ Thập giá. Vì chính trên Thập giá mà
Giêsu được tuyên xưng là Kitô. "Philatô đã nhượng bộ đòi hỏi
lên án của người Do Thái và dùng chính lời kết án của họ để khắc
lên tấm bảng treo cao trên thập giá. Bản án được viết bằng các
ngôn ngữ chính của thời bấy giờ và trình bày Đức Giêsu như vị
Vua (Mêsia) của dân do thái bị tử hình. Nghịch lý thay, chính
lời tuyên án, chính bản án lịch sử đó, lại trở thành "lời tuyên
xưng đức tin", trở thành khởi điểm đích thực và căn nguyên sâu
xa của niềm tin kitô: Chính trong tư cách là Đấng bị đóng
đinh mà Đức Giêsu là Đấng Kitô, là Vua. Bị đóng đinh, đó
là cách thức làm Vua của Ngài. Thật vậy, đối với Ngài, làm
vua có nghĩa là tự hiến chính mình cho nhân loại, và
chính trong hành vi trao hiến mình mà Lời, Sứ vụ và Hiện hữu
của Ngài nên một với nhau. Vì thế, hiện hữu của Ngài cũng là
lời Ngài. Ngài là Lời, bởi Ngài là tình yêu" (tr.255). Vậy
đức tin kitô giáo không phải chỉ tin vào lời rao giảng của
Giêsu, hoặc chỉ tin vào Ngài như một Đấng được sai đến. Lời rao
giảng của Giêsu là lời của Lời, Ngôi Hai Thiên Chúa; Ngài không
chỉ là người được Thiên Chúa sai đi như một vị tiên tri, vì Ngài
chính là Thiên Chúa Tình yêu. Lời, Sứ vụ và sự Hiện hữu của Ngài
là một. Đức tin kitô giáo tin vào một Con người-Thiên Chúa:
Giêsu-Kitô.
Tình yêu, Sự Thật và Đức Tin.
Chúa Giêsu Kitô, Đấng tự hiến mình cho nhân loại, không sống cho
riêng mình, Ngài "sống trọn vẹn vì Cha và trọn vẹn cho con
người. Bản thân Ngài là sự đồng nhất giữa Logos (Chân Lý) và
Tình Yêu, và vì thế làm cho Tình Yêu trở thành Logos, trở thành
Sự Thật của con người" (tr. 259). Vậy tin vào Đức Giêsu
Kitô, tất nhiên phải thực hiện tình yêu rộng mở vô điều kiện và
trong sự thật.
Để
tóm tắt một lời về "Bản chất của Kitô giáo", Joseph
Ratzinger viết: "Nói cách mộc mạc, dù có thể gây hiểu lầm:
Kitô hữu đích thực không phải là thành viên của một giáo phái,
nhưng là kẻ, xuyên qua cách sống kitô hữu mà trở thành con người
đầy chất người. Kitô hữu đích thực không phải là kẻ chỉ biết
cắm cúi tuân theo một hệ thông phép tắc cách nô lệ, chỉ biết lo
cho riêng mình, nhưng là kẻ đã nên tự do với tấm lòng rộng mở,
sẵn sàng sống vì tha nhân. Nguyên lý tình yêu (đức mến) đích
thực luôn bao hàm đức tin. Chỉ như thế đức tin mới chân thật,
đúng nghĩa. Bởi lẽ, như chúng ta thấy, đức tin nói lên đòi hỏi
căn bản của con người là lãnh nhận, nói lên tính bất túc của tất
cả những gì con người có thể tạo ra. Nếu không bao hàm đức tin
như thế, đức mến sẽ trở thành một hành vi tùy ý, theo sức riêng.
Nó sẽ tự nâng mình lên và cho mình có thể đạt tới công chính.
Đức tin và đức mến tùy thuộc và đòi hỏi lẫn nhau. Cũng vậy,
nguyên lý tình yêu cũng đồng thời bao hàm nguyên lý hy vọng,
nguyên lý siêu vượt khoảnh khắc hiện tại cùng với tính đặc thù
của nó để hướng đến Toàn Thể. Như thế, dòng suy tư của chúng ta
cuối cùng dẫn đến ba điều mà thánh Phaolô coi là trụ cột nền
tảng của Kitô giáo: "Hiện nay đức tin, đức cậy, đức mến, cả
ba đều tồn tại, nhưng cao trọng hơn cả là đức mến" (1Cr 13,13).
Một
vài phê bình.
Từ
cách nhìn cốt lõi của đức tin, tác giả phê bình một số nhà thần
học hiện đại. Tác giả phê phán Harnac vào đầu thế kỷ 20, chủ
trương trở về với Giêsu lịch sử và ngoảnh mặt với Kitô đức tin
(tr. 245-247); ủng hộ Kart Barth, người không tách rời Giêsu và
Kitô (tr. 252-254)… Ở đây xin nhắc tới lời phê bình thánh Anselm
liên hệ tới hình ảnh về Chúa Cha và lời bàn về kinh Tin Kính
liên hệ tới Chúa Thánh Thần và đời sống Giáo hội.
Thuyết đền bù của Thánh Anselm ở Canterbury.
Anselm (khoảng 1033-1109) " cố gắng chứng minh rằng, công
trình của Đức Kitô có những lý do tất yếu của nó
(rationibus necessariis), và qua đó chứng tỏ cho thấy công trình
đó tất yếu phải xảy ra như thế " (tr. 291). Lý do tất yếu là
con người đã xúc phạm đến Thiên Chúa, mà mức độ xúc phạm nặng
nhẹ tùy thuộc ở kẻ bị xúc phạm. Ám sát một người ăn mày không
nặng bằng ám sát một ông vua. Thiên Chúa là Đấng vô cùng. Lỗi
phạm của con người vì thế cũng vô cùng. Muốn đền bù cũng phải vô
hạn, điều mà con người hữu hạn không thể làm được. Vì thế, phải
chính Thiên Chúa làm người mới đền bù được sự xúc phạm. Với tư
cách là người, Ngài thuộc về dòng giống những kẻ xúc phạm. Với
tư cách là Thiên Chúa "Ngài có thể thực hiện điều mà không
một phàm nhân nào làm được, đó là đền bù tất cả những gì mà tội
lỗi gây ra" (tr.293).
Không phải quan điểm này không có mặt tích cực của nó. Thánh
Anselm cho thấy Thiên Chúa là Đấng sống cho tất cả chúng ta, tất
cả là hồng ân Thiên Chúa, vì thế chúng ta cũng chỉ sống trong
chừng mực chúng ta quên mình, biết sống cho tha nhân. Nhưng, lối
lý giải logích, mang tính pháp lý lạnh lùng, đưa ra một
hình ảnh đáng sợ về Thiên Chúa. Và quan điểm của Anselm đã ảnh
hưởng sâu đậm lên tâm thức kitô hữu Tây phương suốt thiên
niên kỷ thứ hai: " Đối với rất nhiều kitô hữu, nhất là
những người chỉ hiểu biết qua loa về đức tin thì Thập Giá nằm
trong một thứ cơ chế pháp lý, nghĩa là, khi một quyền bị xúc
phạm thì phải tái lập quyền đó. Vì vậy, khi công lý của Thiên
chúa bị xúc phạm cách vô cùng thì chỉ có sự đền bù vô hạn mới
tái lập được. Do đó, trước mắt con người, Thập Giá chỉ còn nói
lên thái độ của một Thiên Chúa hà khắc". (tr. 360). Hơn nữa,
một số văn bản suy niệm về đạo đức cũng "hàm chứa quan niệm
về một Thiên Chúa nghiệt ngã, công lý của Ngài không biết đến
bao dung, và vì thế đòi hỏi phải sát tế con người, sát tế chính
Con của mình. Công lý theo nghĩa như thế tất nhiên khiến người
ta phải kinh hãi quay mặt đi, thứ công lý đấy sát khí khiến cho
sứ điệp về tình yêu trở thành không thể tin nổi"(tr.361).
Và
J. Ratzinger không ngần ngại: "Một quan điểm như thế càng
lan truyền bao nhiêu càng sai bấy nhiêu" (tr. 361). Vì
đối với tác giả, chúng ta không thể quan niệm một Thiên Chúa
thịnh nộ đến nỗi phải sát tế chính Con mình. Không, Thiên Chúa
là tình yêu, là trao hiến. Đặc biệt trong Tân ước chúng ta thấy
một Thiên Chúa hạ mình làm người và "chính trong sự nhỏ bé
tột cùng, contineri a minimo – bị vây phủ, dồn ép bởi điều khốn
hèn nhất, mà Ngài trở thành Đấng khơi nguồn "siêu bội", và điều
đó minh chứng Ngài là Thiên Chúa. Thập Giá là mạc khải. Không
phải mạc khải về điều gì đó nhưng là về Thiên Chúa và về con
người. Thập Giá tỏ cho thấy Thiên Chúa là ai và thế nào là
người" (tr. 374).
Một
điều bất ngờ và khá lạ lùng được tác giả nhắc tới: 400 năm trước
Thiên Chúa giáng sinh, Platon đã linh cảm Thập Giá: " Theo
Platon, người công chính thực sự trong thế giới này, phải mang
thân phận của kẻ bị hiểu lầm và bị bách hại. Ông không ngần ngại
viết: " Rồi họ sẽ nói rằng, trong hoàn cảnh đó người công chính
sẽ bị đánh đập, tra tấn, bị trói chặt, rằng người đó sẽ bị đốt
mù cả đôi mắt, và sau khi chịu đủ thứ cực hình thì sẽ bị đóng
đinh…" (tr. 375). Suy tư triết học sâu xa linh cảm rằng con
người công chính toàn hảo, nếu xuất hiện, sẽ bị nhục hình thập
giá. Chúa Kitô Giêsu, Thiên Chúa làm người, Thiên Chúa làm một
với con người trong tận cùng hố thẳm của con người trần trụi,
nhưng "chính trong hố thẳm thất bại của con người mà một hố
thẳm còn thẳm sâu hơn nữa được tỏ hiện, hố thẳm của Tình yêu
Thiên Chúa. Như vậy, Thập Giá quả là tâm điểm của mạc khải,
nhưng không theo nghĩa hé lộ cho ta vài điều gì đó mà cho đến
nay ta chưa được biết, nhưng là mạc khải về chính con người
chúng ta, vạch trần con người thật của chúng ta trước Thiên
Chúa và vạch rõ hiện diện của Thiên Chúa giữa lòng cuộc sống
chúng ta" (tr. 377).
Chúa Thánh Thần và Giáo hội.
Sự
hình thành của kinh Tin Kính không phải không có vấn đề. Ba câu
hỏi trong phép rửa, nguồn gốc của kinh Tin Kính tuyên xưng Thiên
Chúa Ba Ngôi, Cha, Con và Thánh Thần. Nhưng Thánh Thần, trong
bản văn của kinh, kể như phụ thuộc vào phần chính, phần về Chúa
Con từ lúc thụ thai cho đến khi Ngài lại đến. "Thánh Thần ở
đây không được hiểu là một Ngôi Vị Thiên Chúa cho bằng quyền
năng của Thiên chúa trong lịch sử mà sự phục sinh của Đức Kitô
đã khai mào" (tr. 427). Từ đó, Giáo hội không được nhìn từ
chiều kích thần khí cho bằng từ chiều kích nhập thể, có khi
"theo nghĩa hết sức trần thế, và cuối cùng thì hoàn toàn có thể
giải thích bằng những phạm trù của quyền lực theo quan niệm thế
gian" (tr. 428). Giáo lý về Thánh Thần không còn chỗ đứng và
vì thế, giáo lý về Thiên Chúa Ba Ngôi cũng trở thành suy lý,
trừu tượng.
Từ
sự kiện trên, tác giả chỉ ra một nhiệm vụ thiết thực: Thần học
về Giáo hội cần tìm lại khởi điểm của nó trong thần học về Chúa
Thánh Thần và những ân sủng của Ngài. Vì Chúa Kitô hiện diện
trong Giáo hội, nhưng Người hiện diện trong Chúa Thánh Thần,
"một hiện diện hết sức rộng mở và rất mực tự do, hiện
diện đó chẳng những không loại trừ hình thái thể chế mà còn giúp
cho hình thái đó biết đâu là giới hạn của mình cũng như
không để cho nó bị đồng hóa với các thể chế thế gian"
(tr.429).
Câu
chuyện dịch thuật.
Độc
giả Việt Nam có thêm một lý do khác để đón đọc tác phẩm thần học
này. Số là, dịch ra tiếng Việt một tác phẩm như thế khá vất vả.
Có những từ ngữ và khái niệm không có trong tiếng Việt; dịch lúc
đó thành diễn dịch và dễ bị hiểu lầm. Thêm vào đó, kiểu lý luận
chặt chẽ và khúc chiết nhiều khi rất trừu tượng khó chuyển thành
tiếng Việt vốn ít trừu tượng. Nhưng cũng chính vì thế mà chúng
ta biết ơn các dịch giả ra sức làm công việc khai phá để góp
phần làm giàu cho ngôn ngữ và suy tư triết thần của người Việt.
Sau
đây, tạm trưng ra một ví dụ minh họa cho sự khó khăn trong vấn
đề dịch thuật, đồng thời cho thấy lối lý luận hàm súc của tác
phẩm.
Trích một đoạn ngắn ở trang 179. Đoạn này nằm trong Chương Bốn,
bàn về Con Người Thời Đại và việc tuyên xưng Niềm tin vào
Thiên Chúa. Để hiểu rõ đoạn trích, cần nói là trước đó tác
giả đã bàn về niềm tin. Con người ta ai cũng tin, kể cả người
khẳng định rằng mình không tin. Vì ai cũng sống/chết và dù muốn
dù không cũng phải tự đặt những câu hỏi, đại loại tôi từ đâu mà
đến, đến để đi đâu…? Hoặc đời có nghĩa hay không có nghĩa…? Có
chăng một Thượng Đế ? Một Thiên Chúa ? Với nhiều cách trả lời.
Chẳng hạn hữu thần, vô thần, đa thần. Người hữu thần tin rằng có
Thiên Chúa. Người vô thần tin rằng không có Thiên Chúa. Mà người
hữu thần nhiều khi cũng bị vô thần ám ảnh. Người vô thần đôi lúc
cũng nghi ngờ về xác tín của mình. Thế mới nói là tin. Chứ nếu
biết như 2+2=4 thì chẳng còn vấn đề. Vì vậy, tin là một chọn lựa
với những hệ quả quyết định:
"Niềm tin kitô giáo vào Thiên Chúa trước hết nhìn nhận vị trí
hàng đầu của Logos (logos) trên vật chất đơn thuần. Lời
tuyên xưng "Tôi tin có Thiên Chúa" đã hàm chứa một lựa chọn căn
bản, theo đó Logos, tức là Tư Tưởng, là Tự Do, là Tình Yêu, có
ngay từ khởi thủy chứ không phải chỉ ở cùng tận; Logos là sức
mạnh sáng tạo và bao trùm mọi hữu thể. Nói khác đi, tin có nghĩa
là nhìn nhận rằng, Tư Tưởng và Ý Nghĩa (tư tưởng và ý nghĩa)
không phải chỉ là phó phẩm tình cờ của hữu thể, ngược lại mọi
hữu thể đều là sản phẩm của tư tưởng (Tư Tưởng), thậm chí
cấu tạo sâu xa nhất của hữu thể là tư tưởng.
Như thế, theo một nghĩa đặc biệt, tin là chọn đứng về phía sự
thật, bởi lẽ đối với niềm tin, chính hữu thể là thật, là khả tri
và có ý nghĩa. Tất cả những điều đó không phải là sản phẩm phụ
của hữu thể, bởi lẽ chính hữu thể, dù xuất hiện ở đâu, thì cũng
phải có một ý nghĩa và một mối liên hệ thực sự với toàn bộ thực
tại.
Khi tin nhận cấu trúc khả niệm của hữu thể, nghĩa là nhìn nhận ý
nghĩa và tư tưởng như là căn nguyên của hữu thể thì sự nhìn nhận
đó cũng đã bao hàm niềm tin tạo dựng. Bởi lẽ nói cho cùng, đó
cũng là niềm xác tín rằng, "Tinh Thần (tinh thần) khách
thể" (objektiver Geist) mà chúng ta khám phá nơi mọi sự vật cũng
như nhờ đó mà chúng ta ngày càng hiểu rõ hơn về sự vật, "Tinh
Thần (tinh thần) khách thể" đó là dấu ấn và là biểu lộ
của "Tinh Thần chủ thể" (subjektiver Geist), và cấu trúc khả
niệm của hữu thể là biểu lộ của Tư Tưởng sáng tạo, của "Sáng
kiến về " (Vor – denken) hữu thể, trong khi tư tưởng của chúng
ta chỉ là sự "suy tư về" (Nach – denken) hữu thể nhờ cấu trúc
khả niệm đó."
Thiết tưởng dịch giả đã dịch sát
nghĩa, nhưng nội dung đã khó hiểu lại thành khó hiểu hơn vì ba
lý do. 1) Việc dùng chữ hoa và chữ con, rất quan trọng, chưa
được minh bạch. Ví dụ: Tư Tưởng, Tinh Thần chữ
hoa, chỉ Thiên Chúa. Khi dùng chữ con, nói vể tư tưởng và tinh
thần nơi con người hay sự vật. 2) Ta không có những từ logos,
être, sein là những từ rất quan trọng. Những từ này lại bao
hàm những ý niệm nền tảng của tư tưởng tây phương. Từ être,
tùy theo văn cảnh có thể có nghĩa là : là, có, hiện hữu, hữu
thể, bản thể, sự vật, một vật, một người… , từ logos
trong tiếng hy lạp có nghĩa là lời, lý trí, trong
Tân ước còn có nghĩa là Lời chữ hoa, tức Ngôi Hai Thiên
Chúa. Câu đầu của Tin Mừng Gioan : Khởi đầu đã có Ngôi Lời
nhắc tới sách Sáng Thế và Lời Thiên Chúa Tạo Dựng. Khẳng định
"vị trí hàng đầu của logos chữ con) trên vật chất đơn thuần"
là khẳng định thế thượng phong của lý trí, của trí tuệ, chống
lại duy vật. 3) Phương Tây có những lối suy tư hay diễn giải
tương đối quen thuộc với độc giả tây phương nhưng xa lạ đối với
ta. Nếu nói: Thiên Chúa đã tạo dựng nên trời đất muôn vật thì ai
cũng hiểu. Vậy trời đất muôn vật, tức tất cả mọi hữu thể là do
Chúa dựng nên. Chúa là Tư Tưởng, là Ý nghĩa chữ hoa, vậy trời
đất muôn vật do Chúa dựng nên đều mang dấu ấn của Chúa. Nói cách
khác, trong mọi sự vật đều có tư tưởng, ý nghĩa. Vì thế, tư
tưởng và ý nghĩa (chữ con chứ không phải chữ hoa như trong bản
dịch) không phải tình cờ mà có, hay do con người tưởng tượng ra,
mà là sản phẩm của Tư Tưởng (chữ hoa chứ không phải chữ con),
tức của Chúa, của Logos Tạo Dựng. Nói cách cụ thể hơn, ngày nay
nhờ khoa học, con người đã hiểu biết rất nhiều về vũ trụ, về con
người. Vì giữa ta và vụ trụ có một cấu trúc chung. Ta và vũ trụ
đều là "tinh thần khách thể". Vì ta và vũ trụ có đấy (tức khách
thể) như Tinh Thần (tức Thiên Chúa) đã thành tạo vật. Tương tự
như ngôi nhà, một khách thể, là ý tưởng trong đầu óc kiến trúc
sư thành sự vật. Có điều từ ý tưởng của kiến trúc sư đến ngôi
nhà là cả một tiến trình lao động.. Còn Chúa, Chúa phán thì mọi
sự trở thành. Vũ trụ này là một khách thể, tức một ý
tưởng được suy tưởng bởi Đấng là Logos, Tình Yêu và Tư Tưởng
sáng tạo.
Đứng từ quan điểm của đức tin Kitô giáo, lý trí (logos) con
người hiểu được là vì cấu trúc tạo thành của trời đất muôn vật
đến từ Logos. Trong viễn tượng này, khoa học biết nhưng không
biết tại sao mình biết. Đức tin cho phép hiểu. Dĩ nhiên, đức tin
là một bước nhảy vượt qua vực thẳm, nhưng có đón nhận đức tin,
lý trí mới đạt được hết kích thước của mình và mở ra thực tại
vượt tầm lý trí. Trong một ý nghĩa thẳm sâu, hiểu là đón nhận từ
một Đấng luôn luôn cho đi và nhận ra Đấng ấy nơi tạo vật.
Thay
lời kết: học thuyết mácxít.
Lời tựa cho ấn bản năm 2000 khá
dài (23 trang) nhắc tới "hai niên biểu đã tạo nên khúc quanh
đặc biệt trong những thập niên cuối của thiên niên kỷ thứ hai:
1968 và 1989" (tr. 9). Năm 1968, một thế hệ mới vùng dậy.
Người viết những dòng này có phần nào sống những biến cố năm
1968 tại Ba lê. Điều hiển nhiên nhất là tự do lúc đó như tràn
vào lịch sử và theo thiển ý, đánh dấu một khúc ngoặt vẫn còn kéo
dài cho tới ngày nay. Tổng Thống Pháp lúc đó, Tướng De Gaulle
nói: la CGT oui, le Chienlit non! Ý ông nói: công đoàn CGT, cánh
tay của Đảng Cộng sản Pháp (lúc đó còn mạnh) ông chấp nhận,
nhưng tự do rối loạn như đám sinh viên, ông không cho, nhưng tự
do đã tràn lan ra khắp nước đến nỗi De Gaulle phải chạy trốn mấy
tuần. Còn JP Sartre, người từng nói đồ chống cộng là đồ chó, thì
tuyên bố trước Đại học Sorbonne :
"La dictature
du prolétariat n’est que la dictature sur le prolétariat"/
"Chuyên chính vô sản chỉ là chuyên chính trên lớp người vô sản".
Tóm lại, người ta chống độc tài
cộng sản. Nhưng theo Hồng y Ratzinger : " Thế hệ mới muốn bắt
tay xây dựng lại một thế giới tự do, bình đẳng và công bằng hơn,
và đồng thời nghĩ rằng mình đã tìm thấy con đường để thực hiện
điều đó: con đường của tư tưởng mácxít" (tr.9). Năm 1989,
chế độ xã hội chủ nghĩa sụp đổ bên Tây phương, nhưng : "Trên
căn bản, học thuyết cứu độ mácxít, được ứng dụng dĩ nhiên dưới
nhiều hình thái khác nhau, đã được coi như học thuyết duy
nhất có khả năng vạch đường cho tương lai, bởi lẽ thế giới
quan của nó vừa mang động lực đạo đức, vừa phù hợp với tính khoa
học. Do đó, dù bị cú sốc năm 1989, nó vẫn không dễ bị đẩy ra dìa
lịch sử" (tr.10).
Trích dẫn trên có lẽ khiến nhiều người bỡ ngỡ. Nhất là được viết
năm 2000. Dĩ nhiên, HY Ratzinger quá biết sự tàn phá khủng khiếp
của chế độ cộng sản. Nhưng học thuyết mácxít có hai phần, phần
hoạt động và phần lý luận. Cụ thể hơn, có hai ông Mác, ông Mác
triết gia và ông Mác cách mạng. Mác cách mạng chủ trương dùng
bạo lực nhằm tiêu diệt kẻ thù giai cấp. Mác này không biết hoài
nghi là gì. Nhưng còn ông Mác triết gia nữa. Đã là triết gia,
tất có hoài nghi, có khoảng cách. Khoảng cách với chính mình và
những suy tư lý luận của mình. Trước hết, J. Ratzinger chỉ ra
cái phần có vẻ tốt đẹp này của học thuyết Mácxít. Vì thế
ngài mới viết Học thuyết cứu độ Mácxít, công nhận
rằng thế giới quan của nó vừa mang động lực đạo đức, vừa phù
hợp với tính khoa học. Đến nỗi, theo ngài, đối với nhiều
người "Vai trò của ông chẳng khác gì vai trò của Aristote vào
thế kỷ 13, khi mà triết lý "tiền kitô" (nghĩa là triết lý "ngoại
giáo") cần phải được rửa tội hầu thiết lập mối quan hệ đúng đắn
giữa đức tin và lý trí" (tr.13).
Nhưng sau đó, ngài chỉ ra mối họa không tránh nổi trên bình diện
thực tiễn và nhất là trên bình diện lý thuyết. Khi đã cho một
ngón tay vào bánh xe răng cưa, nó sẽ lôi cả người mình. "Ai
đón nhận Mác (dù dưới hình thái tân mác xít nào đi nữa) như là
đại diện cho "lý trí thời đại", thì kẻ đó không đơn giản đón
nhận một triết lý hay một viễn kiến về cội nguồn và ý nghĩa cuộc
sống, nhưng chủ yếu đón nhận một phương thức hành động. Quả vậy,
căn bản của "triết lý" này là "hành động", và hành động tạo
ra sự thật chứ không đặt nền trên sự thật có trước" (tr.
13).
Học
thuyết Macxít cũng nhằm thiết lập công lý và cứu vớt con người
khỏi bóc lột, đàn áp. Như vậy, động lực của nó đạo đức. Nó lại
mang tính khoa học, nghĩa là đi từ phân tách thực tại (nơi Mác
là thực tại chính trị và kinh tế) để tìm ra những quy luật điều
hành thực và dựa vào những quy luật đó để làm thay đổi thực tại.
(Chẳng hạn Mác đã phân tách sâu sắc chế độ tư sản và chỉ ra vai
trò cách mạng như chưa từng có của nó). Điểm cần lưu ý nhất là
"hành động tạo ra sự thật chứ không đặt nền trên sự thật".
(Và đây cũng là điểm cốt yếu của cái mà Biển Đức 16 gọi là
Thời Mới (Modernité), cái thời bắt đầu từ thời Phục Hưng, khi mà
khoa học hứa hẹn giải thoát con người bằng cách làm chủ thiên
nhiên. Vườn địa đàng đã mất, sẽ được thiết lập bởi khoa học kỹ
thuật. Tiến bộ khoa học sẽ đem lại cho con người Chân với
Thiện).
Học
thuyết mácxít, hiểu như thế là một học thuyết cứu độ. Một thứ
Kitô giáo lộn ngược. Tâm điểm mang ý nghĩa quyết định đối với
tất cả lịch sử nhân loại không phải Giêsu Kitô, Thiên Chúa làm
người, mà là chính con người dùng bàn tay và khối óc của mình để
tự cứu mình.
Thuyết Mácxít đáng được coi là lạc giáo (hérésie) cuối cùng của
Kitô giáo. Phải chăng vì thế mà có nhiều kitô hữu bị Mác quyến
rũ?
Đỗ Mạnh Tri 15.9.2010
Bản dịch tiếng Việt của Lm Nguyễn Quốc Lâm và Phạm Hồng
Lam, Phong Trào Giáo Dân Việt Nam Hải Ngoại xuất bản
tháng 10.2009. Sách dày 464 trang, khổ 21/15, bìa cứng.
Ấn phí 20€.
Sarx/xác phàm. Người do thái không phân biệt hồn và xác.
Họ không có từ nào để chỉ xác thịt. Và từ basar
chỉ toàn thể con người, được dịch thành sarx
trong tiếng hy lạp. Khi phải chỉ xác, tiếng hy lạp dùng
từ soma. Sau này sarx được dịch là caro,
nghĩa là xác, xác thịt trong tiếng latinh,
thành lạc nghĩa. Tin Mừng Gioan dùng từ sarx để
nói lên mầu nhiệm Thiên Chúa nhập thể, Ngôi hai làm
người. Trong các Thư của Thánh Phaolô, sarx
thường có nghĩa xấu. (chiếu theo Wikipèdia).
|
VỀ MỤC LỤC |
|
GIÂY
PHÚT HIỆN TẠI
|
Kính thưa quí
bạn, cuộc sống con người vốn ngắn ngủi nhưng thật nhiều biến
động thay đổi. Sự sống của mỗi con người chỉ kéo dài nhiều nhất
khoảng chừng 100 năm; đa số con người chỉ sống được 70 năm là
hết. Nhưng dù sự sống con người vắn vỏi như vậy, nhưng khát vọng
của họ thì vô cùng. Ai ai cũng trải qua những năm tháng khắc
khoải kiếm tìm cái gọi là “hạnh phúc, bình an, êm đềm.” Dù những
tên gọi có thể khác nhau, nhưng xem chừng như bao lâu trái tim
con người còn đập, thì khát vọng mong được lấp đầy, mong được no
thỏa vẫn là một điều gì đó mà con người luôn mong ước, hoài
vọng.
Vậy thời gian
nào là thời gian hạnh phúc nhất của một đời người? Có người cho
là tuổi thơ là thời đẹp nhất của đời người. Có người cho là thời
thanh niên khi biết yêu, hẹn hò là thời gian đẹp nhất, hạnh phúc
nhất. Và cũng nhiều người cho là khi người ta bắt đầu nghỉ hưu
nhìn con cháu xum họp vây quanh mình thì đó là lúc bình an đẹp
nhất. Vậy theo bạn, lúc nào là đẹp nhất, hạnh phúc nhất, hoàn mỹ
nhất trong đời bạn?
Hôm nay, mục
Sống Sao Cho Đẹp kính mời quí bạn chuyển qua một đề tài
mới, Sống Hiện Tại, một đề tài xem chừng như khô khan,
không hấp dẫn, nhưng nó thực sự thiết thực và hữu ích cho cái mà
chúng ta dành cả đời mình để kiếm tìm và lấp đầy. Thực ra cái mà
chúng ta khát vọng mong được lấp đầy không gì khác hơn chính là
“hạnh phúc, bình an” cho cuộc đời của mình.
* * *
Anthony de
Mello kể rằng, có hai người làm nghề đánh cá. Một người làm việc
rất cực nhọc cả ngày đêm; anh mong ước kiếp thật nhiều tiền để
có một cuộc sống sung sướng và thoải mái. Ngược lại, người kia
làm việc chăm chỉ, nhưng chừng mực; anh hy vọng việc đánh bắt cá
sẽ giúp anh có một cuộc sống ổn định và bình an.
Một ngày nọ,
người mong kiếm được nhiều tiền qua việc đánh bắt cá thấy người
kia đang nằm ung dung hút xì-gà trên bến thuyền, anh ta liền
hỏi: “Này bạn, sao bạn không lo đánh cá mà nằm thoái mái như
vậy?” Anh hút thuốc trả lời, “Đánh bắt cá nhiều để làm gì?”
Người kia đáp, “Để có thêm nhiều tiền.” Người hút thuốc hỏi
tiếp, “Thêm nhiều tiền để làm gì?” “Để tôi mua thêm tàu lớn.”
Anh làm việc vất vả trả lời. Nhưng người hút thuốc hỏi tiếp,
“Anh mua thêm tàu lớn để làm gi?” Người kia đáp, “Thì tôi sẽ đi
xa bờ và đánh bắt thêm nhiều cá.” Anh hút thuốc tiếp tục, “Sau
khi bắt được nhiều cá anh làm gì?” “Thì tôi sẽ có thêm tiền.”
“Rồi anh sẽ làm gì với số tiền ấy?” Anh hút thuốc hỏi. Người kia
đáp, “Sau khi có nhiều tiền tôi sẽ nghỉ ngơi thoái mái.” Người
hút thuốc với điếu xì gà trên tay phì phà nói, “Cần gì phải đợi
đến lúc đó. Những gì mà anh đang mệt nhoài để mong thưc hiện
được trong tương lai thì tôi đang làm một cách dễ dàng ngay bây
giờ.”
* * *
Quí bạn thân
mến, câu chuyện trên minh họa cho chúng ta thấy rằng giá trị của
giây phút hiện tại thật cao quí. Hiện tại mới quyết định giá trị
đời người và khả năng làm người của chúng ta chứ không phải
tương lai hay quá khứ. Thật buồn thay, những toan tính, âu lo
cho tương là một căn bịnh của nhiều người trong thời đại chúng
ta. Con người thời đại văn minh ngày nay xem chừng như biểu lộ
sự “chao đảo, lo lắng” cho tương lai hơn là thời đại trước.
Những gia đình sống tại Việt Nam chỉ là những nông dân cày cấy
chỉ đủ miếng ăn, nhưng xem chừng như tinh thần họ mạnh mẽ hơn
những người có bảo hiểm sức khỏe, bảo hiểm nhân thọ tại Âu Mỹ.
Như vậy, chúng ta có thể thấy rằng, có tiền chưa chắc đã là “ổn
định, bình an, hạnh phúc.” Hóa ra, mối nguy hiểm không phải là ở
chỗ có tiền hay không có tiền, nhưng mối nguy hiểm nằm ở chỗ lo
sợ về cuộc đời của mình đang ở phía trước. Lo cho sự an toàn, ổn
định là nổi lo đáng sợ nhất của con người thời nay. Cái “ngày
mai ấy, nắm tới ấy, tuổi già ấy” trở thành một thứ ám ảnh và lo
âu cho nhiều người vốn đã có đầy đủ bảo hiểm. Cũng vì tương lai
mà hôm nay tôi phải “cày” hai ba việc; chỉ vì tương lai mà tôi
phải làm cả ngày Chúa nhật. Chỉ vì tương lai mà tôi làm việc đến
nổi tôi quên mất những người thân, gia đình và bạn hữu của tôi.
Quí bạn thân
mến, ai sẽ bảo đảm là những vun đắp thiếu trách nhiệm của bạn
hôm nay sẽ cho bạn một tương lai ổn định? Nếu hôm nay bạn không
sống đủ trách nhiệm cho sức khỏe mình, cho gia đình mình, cho
người thân mình, thì liệu rằng trong tương lai bạn sẽ sống có
trách nhiệm cho mình và cho họ?
Br. Huynhquảng
Mời bạn
ghé thăm trang
http://brhuynhquang.org/.
Email liên
lạc:
brhq@brhuynhquang.org
|
VỀ MỤC LỤC |
|
NHỮNG VẤN ĐỀ CỦA HÔN NHÂN (3)
|
TÌNH YÊU CẦN SỰ
DÀI LÂU
Người chồng cũng như người vợ một
khi ý thức về vấn đề nầy sẽ cố gắng kích thích tình cảm, cố gắng
có được sự đáp trả thay vì quan tâm đến quyền lợi riêng mình.
Rất nhiều người không bao lâu sau khi kết hôn quên đi khả năng
quyến rủ và lôi cuốn của họ. Họ tin rằng giấy chứng nhận hôn
phối cho phép họ có quyền hưởng thụ. Và khi những mong đợi của
họ không đạt được, họ đòi hỏi nhiều hơn thay vì tìm cách để thu
hút hơn. Nhiều bà đã phải khổ sở để làm cho mình có sức hấp dẫn
hơn khi họ đi ra ngoài hoặc đi thăm bạn bè nhưng lại quên chăm
sóc cho sự thân mật trong đời sống gia đình. Họ đón nhận tình
yêu của người chồng được trao ban thay vì chiếm được sự ngưỡng
mộ và tình cảm mới mẻ của ông. Một khi đã kết hôn rồi, họ không
còn lo lắng: họ có còn hấp dẫn để khêu gợi được cảm giác cũng
như cảm xúc của người bạn mình nữa không, và họ quên mất phương
cách tế nhị mà họ đã dùng một cách thành công để tóm gọn được
chàng. Họ có thể xem những cố gắng như thế là nhục mạ. Không,
chúng phải được yêu quí như chúng đáng yêu. Không có người đàn
bà nào quá trẻ và quá đẹp đến nỗi không cần những điều đó, và
cũng không có ai già và xấu quá đến nỗ không thể tìm những
phương cách khéo léo để giữ cảm xúc của ông chồng luôn sống
động.
Nhiều người đàn ông cũng cư xử
trong cách thế đó. Sau khi kết hôn hoặc ít nhất sau những ngày
trăng mật, họ quên mất đi sự ngọt ngào là cái đã mang đến sự
phấn khởi. Ít ra trong những dịp sinh hoạt có tính cách xã hội,
họ nên tỏ cho thấy sự tận hiến của mình trước mặt những người
khác. Họ không nhận ra rằng người đàn bà đòi hỏi những dấu hiệu
của tình yêu và không thể lấy gì biểu lộ mình yêu nếu điều đó
không được lập đi lập lại. Sau đám cưới, các ông thường không
tăng không giảm trong việc tìm cách thuyết phục một người đàn
bà. Xem ra các ông không được huấn luyện để làm điều đó. Họ xem
các bà như bị bó buộc vào bổn phận hôn nhân và đòi hỏi sự thõa
mãn trong việc tình ái như là một sự đương nhiên. Nhiều người
trong họ nghĩ rằng chỉ có sự ham muốn của các ông mới là quan
trọng và các bà phải chấp nhận điều đó mỗi khi họ muốn. Họ tin
rằng các bà nên luôn sẵn sàng nhưng không bao giờ nên đòi hỏi.
Niềm tin vào sự ưu thế của phái
nam của họ cổ vũ cho quan niệm sai lầm nầy và thường thì rất khó
thay đổi. Họ không học biết rằng sự đáp trả đối với vấn đề làm
chuyện tình ái là bổn phận của cả hai, và bất cứ một bất hòa nào
trong sự liên hệ tình ái phải được xem là một vấn đề chung và
chỉ có thể giải quyết nếu cả hai bên cùng nhau cố gắng cho bổn
phận chung đó.
MỌI TRỤC TRẶC LÀ
BỔN PHẬN CHUNG
Thật là hữu ích cho sự hạnh phúc
hôn nhân nếu nhận biết rằng bất cứ một trục trặc nào trong hôn
nhân đều là bổn phận chung cần đến sự giúp đỡ và cùng nhau giải
quyết. Tình trạng nan giải có thể xảy đến không hẳn làm nguy
hiểm sự hợp nhất, trái lại thường làm họ gắn chặt nhau hơn. Mọi
sự chỉ tùy thuộc khả năng hai người gắn bó vào nhau khi phải đối
đầu với công việc khó khăn. Có cùng quan điểm và cùng nhau thiết
lập những giá trị chung sẽ làm tăng thêm sức kháng cự đối với
bất cứ một chiều hướng đối nghịch nào. Một niềm tin tôn giáo
mạnh mẽ, một quan niệm triết lý về nhân sinh vững vàng được chia
xẻ bỡi cả hai, mang lại cho hôn nhân một sự vững bền. Điều đó
không có nghĩa là sự khác biệt tôn giáo và niềm tin xung khắc là
một bệnh hoạn. Những khác biệt như thế đòi hỏi một sự hiểu biết
rộng rãi, sự cảm thông, và sức chịu đựng được phát triển một
cách tốt đẹp.
CẢ BÊN VỢ LẪN
BÊN CHỒNG ĐỀU LÀ BỔN PHẬN CHUNG
Một trong những đe dọa nguy hiểm
và gần như phổ thông đối với sự hài hòa hôn nhân là sự phân biệt
bên chồng, bên vợ. Không phải bất cứ một sự nan giải nào phát
xuất từ đây đều khó giải quyết hơn những cái khác. Nhưng trong
trường hợp nầy, sự cám dỗ thì rất mạnh để đổ lỗi cho người bạn
mình và gia đình họ cho những xung đột xảy ra. Mẹ chồng và gia
đình thì thường trục trặc hơn. Trong lúc bà mẹ vợ rất hân hoan
chào đón chàng rể vào trong gia đình, bà mẹ chồng thường không
xem cô gái nào tốt đủ để họ quí trọng. Di nhiên, có nhiều luật
trừ cho điều lệ nầy, nhưng kinh nghiệm cho thấy có chút lợi điểm
thiên về phía mẹ vợ. Chính sự phân biệt sẽ dẫn đến sự đụng độ và
chán nản ngoại trừ cả hai bên cùng quyết định xem mọi trục trặc
như là một bổn phận chung. Nếu không, người nầy đổ lỗi cho người
kia là phe phái và không hiểu gì cả.
Một khi sự chống đối đã được thiết
lập, sự giải quyết thõa đáng bị cản trở. Việc cố gắng để thuyết
phục đối phương là sai, thì điều đó không giúp ích gì và cũng
không làm hiểu nhau hơn. Cô nàng dễ dàng quên mất đi sự khó xử
của người chồng bỡi sự giằng co giữa bổn phận của một người
chồng và bổn phận của một người con phải bảo vệ mẹ mình trước
những tố cáo của vợ. Nhận ra sự xung khắc của người mẹ đáng kính
và người vợ đáng yêu, người đàn bà thông minh sẽ giúp chồng giải
quyết vấn đề bằng cách không làm chồng giận bỡi những lời phàn
nàn của nàng. Không khó để tìm ra một câu trả lời hữu hiệu cho
một tình thế mà nhiều người cho là không giải quyết được, nếu
chúng ta biết xử dụng óc tưởng tượng chúng ta và sự thông minh
của chúng ta trong chiều hướng đúng. Những khác biệt quá nhiều
về lợi ích giữa những phần tử khác nhau của gia đình có thể
không thể nào xóa hết được ít nhất là trong lúc nầy, nhưng sự
hài hòa trong hôn nhân không nhất thiết đau khổ.
Không phải mọi xung đột bên chồng
cũng như bên vợ có thể được giải quyết một cách dễ dàng. Cần
phải chịu đựng và kiên nhẫn hơn đối với những người xem ra không
muốn chấp nhận sự hiện diện của nàng trong gia đình. Nhưng bao
lâu nàng không để bất cứ ai có thể tách rời nàng ra khỏi chàng,
bao lâu nàng còn quyết tâm yêu chàng, khích lệ chàng, nâng đỡ
chàng, và giúp chàng thắng vượt mọi xung khắc trong chàng, chắc
chắn không gì có thể tiêu hủy sợi giây liên hệ của họ. Sau cùng,
nàng sẽ thắng được bà mẹ chồng là người cuối cùng cũng phải nhận
thấy rằng bà phải chấp nhận đứa con dâu của bà vì không cách nào
lấy nàng ra khỏi trái tim của đứa con mình.
Lối giải quyết nầy xem ra không
thể ở lúc đầu, nhưng rồi biến thành có thể bỡi những người xem
ra biết tế nhị và có sự quyết tâm, là những người tuy đau khổ
nhưng vẫn biết cảm thông đối với những khổ đau của những con
người muốn mạ lỵ và làm tổn thương mình. Tuy nhiên, trong một
vài trường hợp có thể không thành công, nàng có thể thuyết phục
chồng rằng quả thật không còn cách nào để giúp bà mẹ cho dẫu
chúng mình có cố gắng tìm hết mọi cách tốt đẹp nhất. Bấy giờ,
chàng sẽ nhận thấy nàng như một người bạn chân thành và tuyệt
vời, chàng sẽ tin tưởng vào nàng và lấy sức mạnh qua nàng, chàng
có thể tiến đến việc thiết lập một sự độc lập khỏi bà mẹ, một sự
độc lập mà những người đàn ông may mắn có được dưới những trường
hợp ít bi đát và ít đau khổ. Trong mọi trường hợp, cách cư xử
thích hợp của người vợ, người không nhường cũng không chống,
nhưng biết cảm thông và giúp đỡ, có thể khôi phục được sự quân
bình giữa mẹ và con, và như thế sẽ không còn làm hôn nhân của họ
nguy hiểm nữa.
Dĩ nhiên, tình trạng như thế nầy
cũng có thể xảy ra đối với những người phía bên vợ như vậy. Có
nhiều cặp hôn nhân và nhất là đối với những cặp mà hai gia đinh
không được “môn đăng hộ đối” hay hoàn cảnh kinh tế gia đình cách
biệt quá xa, chàng có thể bị khước từ hay bị coi thường bỡi
những người bên vợ. Nếu chàng tin rằng chàng có thể đòi hỏi sự
phục tùng của nàng và nếu chàng xem đó như là một bổn phận của
một cô gái đã lấy chồng, chàng sẽ tỏ ra không cần sự cảm thông
đối với những qui luật nhân bản dành cho nàng. Chàng có thể ép
buộc nàng phục tùng, nhưng rồi chàng sẽ gặt sự thù ghét mà chàng
đã gieo. Những yêu sách, đòi hỏi như một phương cách để giải
quyết những khó khăn thì chẳng có ích gì nếu người chồng nghĩ họ
có quyền làm như vậy. Thật không may, bản tính của đàn ông
thường không sẵn sàng để mang lại cho những bà vợ sự khích lệ và
sự dễ dàng trong những trường hợp khó khăn, cách riêng trong
những lúc có sự xung đột. Dường như cái quan niệm dành cho phái
nam một sự ưu thế đã khiến cho các ông mất sự cảm thông và thiện
cảm. Sự nhạy cảm đối với thể diện của họ rất dễ dàng được khơi
dậy và xem ra vì thế giá của họ, họ phải đòi hỏi và cưỡng bách
sự phục tùng đó. Dầu sự trục trặc xem ra là do bên vợ, thật ra
nó đã được tạo ra bỡi cách cư xử thống trị và hay đòi hỏi của
người chồng.
Lm
Lê Văn Quảng Psy.D. |
VỀ MỤC LỤC |
|
NGHỆ THUẬT LÀM CHỒNG
|
Tác phẩm: Cẩm Nang Hạnh Phúc Gia Đình
Kitô - MỤC VỤ HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH
Tác
giả: D. WAHRHEIT (Lm. Minh Anh, GP. Huế tổng hợp biên tập)
A13. NGHỆ THUẬT LÀM CHỒNG
Có lẽ không có ai lập gia đình mà
lại nghĩ đến chuyện ly dị và có lẽ cũng không ai bước vào đời
sống hôn nhân mà không nghĩ đến hạnh phúc. Thế nhưng tại sao đổ
vỡ lại xảy ra như cơm bữa trong các gia đình? Câu trả lời duy
nhất chỉ có thể là: Người ta không nắm vững được nghệ thuật làm
vợ, làm chồng. Người ta chưa biết yêu. Chính vì không nắm vững
được nghệ thuật ấy, cách vô tình, người ta làm khổ nhau.
Với những người chồng trẻ mới chập
chững bước vào đời sống hôn nhân, một lần nữa chúng tôi xin được
góp thêm một vài ý kiến về nghệ thuật làm chồng.
1.
Một tạp chí về đời sống gia đình đã nêu ra bảy đức tính
của một người chồng lý tưởng như sau:
1) Sự dịu dàng. Đây chắc chắn phải
là đức tính mà người đàn bà quí trọng nhất nơi người đàn ông mà
họ yêu thương. Có biết bao nhiêu người đàn bà than phiền rằng:
chồng họ không bao giờ biết nói với họ một lời dịu dàng. Có
những người chồng hễ mở miệng ra là nói những lời cộc lốc thiếu
tế nhị. Dĩ nhiên, sự dịu dàng không đồng nghĩa với yếu nhược.
Người đàn bà yêu sự dịu dàng nơi người đàn ông, nhưng lại muốn
chồng họ phải là con người cứng rắn. Một người đàn ông lý tưởng
đối với một người đàn bà phải là một con người can đảm có ý chí
khi giải quyết các vấn đề, nhưng lại dịu dàng và âu yếm đối với
người mình yêu.
2) Đức tính thứ hai của một người
chồng lý tưởng là lịch sự. Nhiều người đàn bà than phiền như
sau: “Ước gì chồng tôi cũng nói năng và cư xử lịch sự với tôi
như khi giao thiệp với người ngoài”; hoặc “Khi ở một mình
với tôi, chồng tôi quên hết cung cách của một người có giáo dục”.
Quả thực, có những người đàn ông nghĩ rằng, lịch sự đồng nghĩa
với xã giao và như vậy phép lịch sự chỉ có giá trị đối với người
ngoài mà thôi. Thực ra như người ta vẫn nói: lịch sự là hoa quả
của bác ái, mà bác ái không có luật trừ, thiết tưởng những người
thân cận nhất của chúng ta cũng phải là những con người cần được
đối xử một cách lịch sự hơn ai hết. Điều này lại càng đúng với
người vợ.
3) Đức tính thứ ba của một người
chồng như tạp chí nói trên đã đề ra là xã hội tính. Xã hội tính
ở đây được hiểu như khả năng có thể ra khỏi chính mình để biết
quan tâm đến người khác. Nhiều người đàn bà than phiền rằng:
chồng mình là người không biết nói chuyện. Có những người đàn
ông sau một ngày làm việc chỉ muốn giam mình trong một thứ thinh
lặng khó thở đối với những người chung quanh, nhất là đối với vợ
mình.
4) Đức tính thứ tư của một người
chồng lý tưởng là sự cảm thông. Người vợ sẽ hạnh phúc biết bao
khi người chồng luôn đoán trước những ước muốn của mình, biết
ghi nhớ những kỷ niệm quan trọng trong đời sống vợ chồng, biết
một cách chính xác sở thích của vợ. Một người chồng tinh tế là
một người đàn ông biết chạm đến phần nhạy cảm trong tâm hồn
người vợ. Người đàn bà chỉ cảm phục người đàn ông nào biết nhìn
nhận nữ tính của họ và hiểu được tính khí của họ. Đức tính cơ
bản nhất mà một người vợ luôn chờ đợi là người chồng của mình ý
thức về sự bình đẳng đối với vợ. Có biết bao nhiêu người chồng
đối xử với vợ như những thụ tạo thấp kém hơn mình. Sức mạnh của
đôi tay và lý trí khiến người chồng không xem vợ mình là một
người bạn đường bình đẳng mà chỉ như một người giúp việc, một
người nội trợ.
5) Đức tính thứ năm của người
chồng lý tưởng là biết tôn trọng vợ trong mọi sự và mọi trường
hợp. Điều làm cho người đàn bà cảm thấy đau khổ nhất, là khi họ
cảm thấy bị người chồng đối xử như một phương tiện. Tình yêu và
lòng tin tưởng chỉ có khi người chồng biết nhìn nhận vợ mình như
chính mình.
2. Chiếc xương sườn mà Thiên Chúa
đã rút ra từ Ađam để tạo dựng Eva là hình ảnh tuyệt vời của sự
nên một giữa vợ chồng. Người đàn ông chỉ tìm gặp được chính mình
trong người vợ. Người chồng phải luôn tự nhủ, phần cao quí nhất
của mình chỉ có thể được tìm thấy nơi vợ mình mà thôi. Cuối
cùng, sự thành thật của người chồng là đức tính mà người vợ quí
trọng nhất.
Khi người vợ khám phá chồng mình
che giấu sự thật, họ sẽ không còn cảm thấy an tâm nữa. Khi chồng
nói dối, người vợ sẽ tự hỏi, chồng mình làm gì? Chồng mình đi
đâu? Chồng mình đi với ai? Điều làm cho người vợ nghi ngờ và sợ
hãi nhất, là chồng mình có đi với một người đàn bà khác không?
Tình yêu vợ chồng chỉ có thể được xây dựng trên sự thành thực hỗ
tương mà thôi. Một người chồng lý tưởng là người biết sống như
thế nào để không có gì phải giấu diếm vợ mình.
3.
Nói đến nghệ thuật là nói đến tinh tế, làm chồng hẳn là
một nghệ thuật nhiều tinh tế, bởi vì không gì khúc mắc cho bằng
tâm hồn người đàn bà. Nhiều người đàn ông vẫn còn giữ quan niệm
dạy vợ, sửa trị vợ, răn bảo vợ, như thể mình có khả năng dẹp
được tính xấu và những khuyết điểm của vợ. Thay vì chú tâm vào
các khuyết điểm của vợ, có lẽ người chồng nên phát triển những
đức tính tốt của vợ. Cũng như phương pháp chủng ngừa trong y
học, người ta dùng vi trùng để tiêu diệt vi trùng, thì việc phát
triển những đức tính tốt giúp chiến thắng những khuyết điểm.
Người đàn bà nào cũng thích được
khen tặng. Khi người vợ mặc một chiếc áo đẹp, đừng nói với vợ “anh
yêu em” mà hãy nói “anh rất thích chiếc áo này”.
Người chồng nên nhớ, vợ ăn mặc đẹp trước tiên là vì chồng. Khi
vừa ra khỏi nhà, được chồng khen cách ăn mặc và nếu đó là lời
khen duy nhất trong ngày, người vợ sẽ nghĩ: “Tôi đã lấy được
người đàn ông duy nhất hiểu được tôi”. Nếu vợ mình đẹp, đừng
khen vợ đẹp mà hãy bảo nàng thông minh, bởi vì nàng thừa biết
mình đẹp, còn thông minh thì nàng đang chờ đợi được khen tặng.
Dĩ nhiên nếu nàng ít đẹp mà khen nàng đẹp thì nàng sẽ nghĩ thầm:
“Tôi đã lấy được một người chồng nghệ sĩ”. Khi đi xa nhà,
cho dẫu có tìm được niềm vui chính đáng, người chồng không nên
biên thư về cho vợ để kể lại niềm vui đó, mà hãy nói “anh
đang nghĩ đến em, anh nhớ em”. Người chồng nên nhớ, người vợ
không chấp nhận sự kiện chồng mình hạnh phúc mà không có mình.
Họ không chấp nhận cho chồng hạnh phúc vì một điều gì khác ngoài
họ ra.
Trong nghệ thuật làm chồng, có lẽ
người chồng nên lấy những lời sau đây của một văn sĩ Pháp để tâm
niệm: “Người đàn bà vốn yếu đuối khi lấy chồng, nên khi người
vợ đã hy sinh hoàn toàn ý muốn của mình cho chồng, thì người
chồng nên đáp lại bằng cách hy sinh chính sự ích kỷ của mình đi.
Những sai lỗi của người vợ là những lời tố cáo về tính ích kỷ,
sự cố chấp và tính vô tích sự của người chồng”.
còn tiếp
|
VỀ MỤC LỤC |
|
MỘT VÀI LY RƯỢU VỚI SỨC KHỎE
|
Trong mấy
ngày vừa qua, y giới cũng như công chúng lại có dịp bàn tán về
ảnh hưởng của rượu đối với sức khỏe. Đó là sau khi có kết quả
một nghiên cứu tại Na Uy cho hay: uống rượu vừa phải giúp khả
năng nhận thức tốt hơn, đặc biệt là ở nữ giới.
Thực ra, ảnh
hưởng của rượu với sức khỏe đã được nghiên cứu từ mấy thập niên
vừa qua.
Trong New
England Journal of Medicine ngày 9 tháng Giêng năm 2003, bác sĩ
Kenneth J. Mukamal và Ira Goldber của Ðại Học Harvard công bố
kết quả nghiên cứu của họ về liên hệ giữa rượu và bệnh tim. Họ
theo dõi 38.000 người đàn ông trong 12 năm và thấy những ai uống
la de, wine hoặc rượu mạnh đều đặn và vừa phải mỗi ngày có thể
giảm nguy cơ heart attack tới 37%. Nghiên cứu được National
Institute of Health tài trợ.”
Vào năm 2001,
trên Tạp San của Hội Y Khoa Hoa Kỳ, các bác sĩ Jerome L Abramson
và Harlan M Krumholz của Ðại Học Atlanta cho hay “ Uống nhiều
rượu sẽ đưa tới Suy Tim nhưng nếu uống vừa phải thì người cao
tuổi sẽ giảm được nguy cơ của bệnh này”.
Bác sĩ Arthur
Klasky, chuyên gia về Tim ở Oakland, California, là một trong
những người đầu tiên để ý tới tác dụng tốt của rượu với tim.
Cách đây gần 30 năm, khi so sánh hồ sơ bệnh lý của trên 100.000
bệnh nhân, ông ta thấy những người không uống rượu đều bị nhồi
máu cơ tim nhiều hơn những người uống vừa phải.
Khi theo dõi
85.000 nữ điều dưỡng tuổi từ 34 đến 59 trong thời gian 12 năm,
các nhà khoa học của Ðại Học Harvard cũng đi đến kết luận tương
tự. Tiến sĩ Eric Rimm của đại học này đã quan sát 44.000 nam
nhân viên y tế trong vòng 2 năm và thấy là những ai uống hai
drinks mỗi ngày thì có tới 30% ít bị nguy cơ đau tim hơn người
uống nửa drink.
Các dữ kiện
do viện Ung Thư Hoa Kỳ quan sát trên một triệu người Mỹ tại 25
tiểu bang cho thấy uống một drink mỗi ngày thì nguy cơ bị cơn
suy tim ít hơn người không uống tới 25%.
British
Medical Journal số ngày 22-2-22005 có đăng kết quả nghiên cứu
bên Thụy Ðiển theo đó phụ nữ uống rượu vang vừa phải thì nhịp
tim đập sẽ tốt hơn.
Giáo sư
Emanuel Rubin và các nhà nghiên cứu của đại Học Y khoa Thomas
Jefferson, Philadelphia, cho hay uống vang đỏ giúp giảm thiểu
các chất gây viêm ở động mạch, nhờ đó tránh được bệnh tim và tai
biến não.
Ðể giải thích
tại sao có ích lợi này thì các khoa học gia tại bệnh viện Queen
Mary, Luân Ðôn cho hay vang đỏ chứa mấy chất có thể ngăn ngừa
chứng thoái hóa động mạch vì mỡ béo đọng lại.
Trong tạp san
của Hôi Y Học Hoa Kỳ số tháng 10 năm 1995, Tiến sĩ Robert M.
Hackman, Ðại học Davis ở California cho rằng rượu vang đỏ có
chất flavonoids. Ðây là một loại chống oxy hóa rất mạnh có thể
ngăn ngừa tác dụng xấu của các gốc tự do vào các bệnh thoái hóa,
vài loại ung thư, sự lão hóa. Chất Chống Oxy hóa là những chất
có thể bảo vệ tế bào trước phản ứng oxy hóa của các phần tử gốc
tự do free radicals. Flavonoids giảm sự dính với nhau của tiểu
cầu, máu lưu thông dễ dàng do đó giảm thiểu nguy cơ cơn Suy Tim
và Tai Biến Mạch Máu Não.
Bác sĩ
Bagrachi của Ðại học Creighton Omaha Nevada cho hay flavonoids
mạnh hơn các chất chống oxy hóa khác như sinh tố C, E và beta
caroten tới bẩy lần.
Kết quả
nghiên cứu tại hai Ðại Học Y Khoa London và Queen Mary bên Anh
cho hay là trong vỏ nho, trà có các chất Flavonoid, Polyphenol,
Reservatrol, Quercetin. Tạp San Sinh Hoạc Hoa Kỳ số cuối năm
2004 cho hay reservatrol giúp các cơ thịt của tim hoạt động hữu
hiệu hơn, nhất là khi cơ thể có căng thẳng.
Theo một số
nghiên cứu, rượu vang đỏ mới có các chất này vì vỏ nho được giữ
lại khi làm rượu, còn khi làm vang trắng thì người ta bỏ vỏ nho
đi.Vì thế các nghiên cứu gia của viện thí nghiệm Aviram bên Do
Thái đã công bố phương thức để tăng cường tính chống oxy hóa của
vang trắng tương đương với vang đỏ.
Nhưng cũng có
ý kiến lại cho là, người uống rượu vang thường ở giai cấp khá
giả, ít hút thuốc và ăn uống chừng mực, đầy đủ dinh dưỡng hơn,
nên ít bệnh tim mạch..
Trước những
kết quả nghiên cứu được công bố khắp nơi, Bộ Y tế Hoa Kỳ và Tim
Mạch Hoa Kỳ cũng phải thừa nhận là uống một chút rượu vang có
thể có tác dụng tốt cho trái tim.
Còn quan điểm
của Hội Y Sĩ Hoa Kỳ là các chất mà nghiên cứu nói có trong rượu
thì cũng có trong thực phẩm như nho và nước nho. Vì thế hội này
không khuyến khích người chưa uống vang bao giờ lại bắt đầu uống
để hy vọng có ích lợi cho sức khỏe. Theo hội, nếu đã uống rồi
thì nên điều độ với 350cc la de, 50 cc rượu vang, 5 cc rượu 80°
mỗi ngày hai lần cho người nam, một lần cho người nữ.
Dè dặt về số
lượng này thì trong Tân Ước đã nhắc nhở: “Nếu con uống rượu điều
độ thì rượu sẽ làm con sống vui tươi hơn; trái lại nếu uống quá
độ thì tâm hồn trở nên cay đắng, thân xác hung hãn”.
Cũng như
trên mỗi chai rượu đều có ghi “Consumption of alcoholic
beverages impairs your ability to drive a car or operate
machinery, and may cause health problems”. Uống Rượu gây làm suy
yếu khả năng lái xe và đưa tới nhiều vấn đề xấu cho sức khỏe”.
Và Cụ Lãn Ông
thường ân cần khuyên nhủ “nhất dạ tam bôi tửu” thôi, bà con nhé.
Bôi của các cụ nhỏ xíu à.
Ngoài ra
khi dùng vừa phải, Rượu cũng có một số tác dụng tốt khác cho
sức khỏe như:
a- Kích thích ăn
ngon miệng.
Ta thường nói
uống chút rượu khai vị với mục đích là nhâm nhi tý rượu trước
bữa ăn để kích thích khẩu vị. Thường thường rượu mạnh được dùng
trong tiến trình này, nhưng rượu bia , rượu vang cũng tốt. Mà
bia chỉ một lon, rượu mạnh một ly thật nhỏ thôi.
Thiên hạ nhấm
nháp ướt miệng như là để khơi động những nụ vị giác trên lưỡi,
để tăng hoạt động của hạch nước miếng cũng như để bao tử tiết
thêm dịch vị cho sự tiêu hóa bữa ăn thịnh soạn sắp có. Ðồng thời
rượu cũng làm tăng cảm giác đói nên trong các bữa tiệc có rượu,
ta thường ăn nhiều hơn.
Trong nghành
y, các vị thầy thuốc thường khuyên người cao tuổi, người mới
bình phục sau cơn bệnh nặng, những người không bị bệnh bao tử
uống một chút rượu trước bữa cơm để vừa dễ tiêu hóa vừa ngon
miệng hơn.
Nhưng một
chút thôi đấy, chứ không phải dăm lon la de, vài cốc wisky, một
chai vang, nhiều lần trong ngày.
b- Giảm
cholesterol.
Tháng Chín
năm 2003, tiến sĩ Andrew Waterhouse tại Ðại học Davis-California
đã tường trình tại hội nghị các hóa học gia Hoa Kỳ rằng trong
vang đỏ có chất Saponins có khả năng giảm cholesterol trong
máu.
Bác sĩ Peter
Cremer của Đại học Gottingen bên Đức có cùng kết luận nhưng thêm
rằng rượu chỉ tốt với người có mức độ cholesterol trung bình,
chứ cao trên 230 mg/dl thì ít phúc lợi. Các chất này tăng HDL và
giảm LDL trong máu, ngăn ngừa sự oxy hóa LDL nhờ đó các mảnh bựa
chất béo ít thành hình.
c- Giảm nguy cơ
tai biến động mạch não.
Tháng Giêng
năm 1999, nghiên cứu tại Bệnh viện New York Presbyterian công bố
kết quả về việc quan sát 677 người uống lượng rượu trung bình
mỗi ngày: họ đều có ít nguy cơ tai biến não gây ra do đóng máu
cục trong thành động mạch não.
Bằng cách nào
mà rượu có ảnh hưởng tốt này, thì chưa được giải đáp, nhưng điều
chắc chắn là những người uống nhiều rượu sẽ dễ bị tai biến não
hơn.
Và nếu ai
đang uống nhiều, bây giờ giảm xuống thì cũng có cùng phúc lợi.
d- Rượu và trí tuệ.
Kết quả
nghiên cứu của Institution Nationale de Sante’ bên Pháp cho thấy
nữ giới cao tuổi mà uống một suất vừa phải rượu mỗi ngày thì các
chức năng của não coi bộ khá hơn: họ ít nguy cơ bị sa sút trí
tuệ.
Trong đại hội
Quốc tế năm 2000 về bệnh Alzheimer tại thủ đô Washington D.C.,
bác sĩ Lindsay A. Farrer có trình bày là những ai uống một hoặc
hai ly vang mỗi ngày thì có thể giảm nguy cơ mắc bệnh này tới
30%. Theo ông ta thì rượu làm tăng máu lưu hành lên não và rượu
cũng có những antioxidant giúp tế bào não tốt lành hơn.
Mới đây, tập
san y học uy tín Lancet đăng kết quả một nghiên cứu bên Hòa Lan
về rượu với Sa Sút Trí Tuệ. Theo báo này thì một hai drink rượu
mỗi ngày có thể ngăn ngừa bệnh Alzheimer.
Kết quả
nghiên cứu của Giáo sư Jean-Francois Dartigues bên Pháp: theo
dõi hơn 4000 người trên 65 tuổi trong mấy năm liền, thấy người
uống từ ¼ tới ½ lít vang một ngày dường như tinh tường tỉnh táo
hơn người không uống.
Lý do được
giải thích là một chút rượu làm máu loãng hơn, làm giảm
cholesterol, máu lưu thông không trở ngại.
Một giải
thích khác là rượu vừa phải kích thích não tiết thêm hóa chất
acetylcholine, một chất giúp học hiểu và ghi nhớ tốt hơn.
e- Ảnh hưởng tâm
thần.
Một ly rượu
có thể làm êm dịu người đang bồn chồn, lo lắng hoặc tạo một cảm
giác thân thiện giữa con người với con người. Cho nên trong
những bữa ăn giao tế, đưa đà một chút rượu là vật xúc tác tốt
cho thảo luận công kia việc nọ. Như ca dao ta có câu: “Xưa kia
ai biết ai đâu; Vì chung chén rượu mở đầu làm quen”.
Khác chi
“Miếng trầu là đầu câu chuyện” của các bà mẹ Việt Nam mình xưa
nay.
Nhưng cũng
nên nhớ “ Rượu lạt uống lắm cũng say; Người khôn nói lắm, dẫu
hay cũng nhàm”
Kết luận
Tác dụng tốt
xấu của rượu vừa phải vẫn chưa được giải quyết thỏa đáng và cần
nhiều nghiên cứu nữa để xác định vai trò của “một bôi rượu” với
sức khỏe. Có phải tác dụng tốt là do thành phần hóa chất của
rượu, số lượng tiêu thụ hoặc cách tiêu thụ.
Trong khi chờ
đợi thì ta cứ từ từ cẩn tắc vô ưu, cân nhắc phúc họa của rượu.
Vì rượu được biết tới từ nhiều chục ngàn năm. Người uống cũng
nhiều mà người không cũng chẳng ít. Hậu quả tốt cũng có, mà xấu
đếm cũng chẳng xuể.
Hơn nữa, rượu
không phải là thần dược cho mọi bệnh và không phải thích hợp với
mọi người.
Vậy thì cũng
chẳng nên uống khi đang có rối loạn tâm can tỳ phế, hoang tưởng
tâm thần; chẳng uống khi có thai, nuôi con sữa mẹ; chẳng tập
tành tiêu thụ khi chưa hề uống bao giờ.
Ðành rằng
một suất vang mỗi ngày giúp giảm thiểu nguy cơ bệnh tim và tai
biến não nhưng quá nhiều thì tim lại dễ suy, huyết áp lên cao,
ung thư xuất hiện, nội tiết bất thường.
Cho nên nếu
biết lấy lẽ vừa phải, lấy điều độ làm kim chỉ nam, thì chắc rượu
sẽ mang lại phúc nhiều hơn họa và cuộc sống chắc sẽ nhiều vui ít
buồn.
Ðể rồi cùng
nhau theo chân Tam Nguyên Nguyễn Khuyến mà:
“Lúc hứng,
đánh thêm ba chén rượu,
Khi buồn,
ngâm láo một câu thơ” .
Cho đời thêm
thi vị.
Bác sĩ Nguyễn Ý-Ðức
Texas- Hoa Kỳ
|
VỀ MỤC LỤC |
CÔ ĐƠN - Chuyện phiếm của Gã
Siêu |
Thánh Kinh kể lại rằng: Thuở ban
đầu, sau khi dựng nên muôn loài trong vũ trụ, từ những vì tinh
tú trên bàu trời cho đến những sinh vật sống trên mặt địa cầu,
Thiên Chúa mới dựng nên con người.
Ngài lấy bùn đất mà nặn lên hình
tượng người ta, rồi thổi sinh khí vào lỗ mũi, tức là phú bẩm cho
một linh hồn. Thế là tượng đất bỗng chốc trở thành một con
người sống động. Và con người sống động đầu tiên này được gọi là
Adong.
Vào một buổi sáng đẹp trời, Thiên
Chúa đi dạo trong vườn địa đàng và nhận ra mọi sự hết sức tốt
đẹp. Những tiếng chim hót véo von trên cành cây, những cánh bướm
nhởn nhơ bay lượn trên những bông hồng tươi xinh…
Nhưng rồi bất chợt Ngài nhìn thấy
Adong đang thui thủi, cu ky chỉ có một mình. Ngài thầm nghĩ:
- Người đờn ông ở một mình không
tốt, Ta hãy dựng nên cho nó một người nội trợ để nâng đỡ nó.
Cũng vì cám cảnh trước tình trạng
cô đơn ấy, Ngài bèn chờ cho tới lúc Adong ngủ say, rồi lấy một
chiếc xương sườn của ông mà dựng nên người nữ.
Sau đó, Ngài dẫn người nữ đến
trình diện Adong. Vừa nhìn thấy nàng, cặp mắt Adong bỗng sáng
lên, còn miệng thì nói lớn:
- Này đây xương bởi xương tôi và
thịt bởi thịt tôi. Nàng sẽ được gọi là Evà, vì nàng là mẹ của
chúng sinh.
Tư tưởng này, nếu được diễn tả
bằng tiếng Việt Nam, thì hẳn Adong chỉ cần kêu lên hai tiếng
“mình ơi” thật ngọt như đường cát, thật mát như đường phèn và
cũng thật là tình tứ, lâm ly và bi đát!
Kể từ giây phút bốn mắt nhìn nhau
“long còng cọc” ấy, Adong không còn cô đơn, mà đã tìm thấy một
người bạn đường, hiểu biết, thông cảm và nâng đỡ cho mình.
Tuy nhiên, trở lại với những giây
phút đầu tiên, xuất phát từ lòng bàn tay Thiên Chúa, Adong đã là
một con người cô đơn, một sự cô đơn rất đậm đặc, bởi vì lúc bấy
giờ chẳng có một ai để trò chuyện, chẳng có một ai để chia sẻ
những niềm vui và những nỗi buồn, cũng như chẳng có một ai để
gánh bớt những lo âu phiền muộn.
Đi ra thì chỉ một mình ta, mà đi
vào thì cũng chỉ ta một mình. Có chăng chỉ là những khoảng khắc
ta ngắm nhìn chiếc bóng của ta in trên cát, hay hình ảnh của ta
in trên dòng nước mà thôi. Từ đó, sự cô đơn vẫn cứ đeo đuổi và
dính chặt vào thân phận con người.
Tất cả những ý tưởng trên làm cho
gã nhớ tới câu chuyện về một ông già cô đơn như sau:
Ngày kia, bàn dân thiên hạ xúm
lại hỏi một ông già:
- Tại sao lại không lập gia đình?
Ông ta bèn kể lể về cuộc đời ba
chìm bảy nổi chín cái lênh đênh của mình:
- Tôi đã dành trọn thời gian của
tuổi thanh xuân để tìm kiếm một người đờn bà hoàn hảo. Tại
Cairô, thủ đô nước Ai Cập, tôi đã gặp một người đờn bà vừa trẻ
đẹp lại vừa thông minh, nhưng rất tiếc người đờn bà này chẳng có
được một chút dịu hiền, nàng hung dữ như con cọp cái.
Tôi đành bỏ Cairô mà tìm đến
Bagdah, thủ đô nước Irak, với hy vọng tìm ra người đờn bà lý
tưởng của lòng mình. Tại đây, tôi đã gặp một người đờn bà đúng
như lòng mong ước. Nàng vừa trẻ đẹp lại vừa thông minh, vừa
quảng đại lại vừa dịu hiền. Chỉ kẹt một nỗi, đó là hai đứa chúng
tôi chẳng bao giờ nhất trí được với nhau về bất cứ chuyện gì. Hễ
ngồi tâm sự với nhau là bắt đầu cãi vã, ông nói gà bà nói vịt,
trống đánh xuôi kèn thổi ngược. Vì thế, tôi đành phải chào thua.
Và như vậy, hết người đờn bà nọ
tới người đờn bà kia. Kẻ được điều này, người mất điều khác. Tôi
như kẻ đốt đuốc đi tìm người yêu lý tuởng, mà dường như chẳng
bao giờ thấy.
Thế rồi một hôm tôi gặp được
nàng, người đờn bà của mơ uớc. Nàng đã kết hợp được tất cả những
đức tính mà tôi thầm vẽ ra trong đầu óc. Vừa trẻ đẹp lại vừa
thông minh, vừa quảng đại lại vừa dịu hiền, vừa tế nhị lại vừa
ăn ý với tôi ngay cả trong những điều nhỏ mọn nhất. Nhưng cuối
cùng, tôi vẫn cứ phải gân cổ lên mà ca solo, cam chịu cảnh chăn
đơn gối chiếc suốt đời. Các bạn có biết tại sao không?
Trong lúc mọi người suy nghĩ, ông
già cô đơn đáng thương khẽ kéo một hơi thuốc lá, rồi kể tiếp:
- Sở dĩ như vậy là vì người đờn
bà ấy cũng đang đi tìm một người đờn ông lý tưởng. Và thật chẳng
may cho tôi, bởi vì dưới mắt nàng, tôi chỉ là một thằng đờn ông
tồi với biết bao nhiêu thói hư tật xấu.
Rồi ông già cô đơn đã khuyên nhủ
cánh trẻ với một cung giọng hơi bị cay cú :
- Đi tìm một người yêu lý tưởng,
một người tình hoàn hảo chỉ là một việc làm hão huyền và vô ích
mà thôi, bởi vì người yêu lý tưởng và người tình hoàn hảo ấy làm
gì tồn tại được trên trái đất này. Nhân vô thập toàn. Đã mang
lấy thân phận con người, ai mà chẳng có những sai lỗi và khuyết
điểm.
Vậy thế nào là cô đơn?
Cô đơn trước hết nghĩa là chỉ một
mình.
Có một nhà thám hiểm lênh đênh
trên sóng nước, trong những ngày tháng cô đơn ấy, anh ta rất
thèm được liên hệ với thế giới bên ngoài.
Thế nhưng, chỉ có một chú chim
nhỏ, sáng nào cũng đến đậu trên chiếc bè của anh ta. Rồi một
ngày kia, chú chim nhỏ không đến nữa và anh ta cảm thấy buồn khổ
như mất đi một người bạn thân thương nhất của mình.
Không phải chỉ những nhà thám
hiểm sống trong những hoàn cảnh đặc biệt như vậy, mà hơn thế nữa
tất cả chúng ta, từ già cho đến trẻ, từ trai cho đến gái, đều
cảm thấy lo sợ trước sự cô đơn, bởi vì cô đơn là một nỗi khổ đau
của tâm hồn. Nó đằng đẵng, nó day dứt mà chỉ người nào sống
trong cuộc mới cảm nghiệm được mà thôi, như Nguyễn Du đã từng
xác quyết:
- Đoạn trường ai có qua cầu mới
hay.
Tuy nhiên, cô đơn không phải chỉ
là chẳng có một ai, nhưng còn là sự thiếu vắng những gì thân
thương nhất, những gì hiểu biết và thông cảm với mình nhất.
Kinh nghiệm cho thấy:
- Không phải cứ ở bên nhau mà đã
gần nhau. Không phải cứ gần nhau mà đã quen nhau. Không phải cứ
quen nhau mà đã thân nhau. Không phải cứ thân nhau mà đã thương
nhau. Không phải cứ thương nhau mà đã hiệp nhất, nên một với
nhau.
Hay như ca dao đã diễn tả:
- Mình với ta tuy hai
mà một,
Ta với mình tuy một
mà hai.
Đúng thế, nhiều khi đi
giữa phố chợ đông người mà ta vẫn cứ phải đếm từng bước chân âm
thầm, vì không tìm thấy được một người hiểu ta. Có khi sống giữa
con cháu, mà ta vẫn cảm thấy trống vắng vì nghĩ tới tương lai
già yếu mà tủi phận.
Không phải chỉ con
người, mà ngay cả những sự vật chung quanh chúng ta cũng không
thể tồn tại trong cảnh lẻ loi, như ca dao tục ngữ đã diễn tả:
- Ngựa chạy có bày,
chim bay có bạn.
- Muốn cho có đó có
đây,
Sơn lâm chưa dễ một
cây nên rừng.
Thế nhưng, có một
chứng bệnh mỗi ngày một trở nên trầm trọng trong xã hội ngày
nay, đó là chứng bệnh cô đơn. Thực vậy, giữa thời buổi kinh tế
thị trường, người ta đổ xô về thành phố. Thế nhưng, dân số thành
phố càng gia tăng thì chứng bệnh cô đơn lại càng trầm trọng.
Người ta sống cách
nhau chỉ một bức tường mà không hề biết đến tên tuổi của nhau.
Trong một chung cư, kẻ ở lầu trên, ra vào cùng một lối mà chẳng
biết đến kẻ ở lầu dưới. Mỗi người trở thành như một hòn đảo, một
pháo đài biệt lập.
Đời sống càng xô bồ
chen chúc, thì con người lại càng cảm thấy cô đơn. Mặt trời
dường như mỗi ngày một thêm nóng bức và oi ả, mà lòng người thì
mỗi ngày một thêm lạnh lùng và băng giá. Thiên hạ đối xử với
nhau ngày càng thêm hờ hững và xa lạ.
Trong khi đó, kinh
nghiệm cho thấy chúng ta không thể nào sống cô độc lẻ loi như
một hòn đảo giữa biển khơi, hay như một pháo đài biệt lập. Trái
lại, chúng ta sống là sống với người khác, trong một cộng đoàn
hay trong một tổ chức nào đó, mà đơn vị căn bản nhất chính là
gia đình.
Tuy nhiên, để cho cuộc
sống của gia đình cũng như của cộng đoàn được liên tục phát
triển và đứng vững, thì những yếu tố quan trọng cần phải có, đó
là sự hiểu biết, cảm thông và nâng đỡ.
Tuy nhiên theo gã
nghĩ, sự hiểu biết sâu xa nhất, sự cảm thông chân thành nhất và
sự nâng đỡ tận tình nhất, thường chỉ tìm thấy được trong tình
yêu vợ chồng. Vì thế, không lạ gì trước sự cô đơn của tuổi già,
người xưa đã từng bảo:
- Con nuôi cha không
bằng bà nuôi ông.
Nhiều người nghĩ rằng
cứ lấy chồng lấy vợ, cứ lập gia đình với nhau, thì sẽ không còn
cô đơn nữa, bởi vì lúc nào cũng có một người bên cạnh. Đúng thế,
sự cô đơn sẽ không còn nữa, nếu người ta thực sự hiểu biết nhau,
cảm thông với nhau và nâng đỡ lẫn nhau.
Thế nhưng, nếu thiếu
vắng ba yếu tố căn bản này, chắc chắn họ sẽ rơi vào một tình
trạng cô đơn, đôi lúc tệ hại hơn cả khi còn độc thân và cu ky
một mình.
Ngày nay, do áp lực
kinh tế nặng nề, cũng như do vấn đề cơm áo gạo tiền thúc bách,
khiến cho cả anh chồng lẫn chị vợ đều phải nai lưng đi làm. Con
cái thì đến trường hay được gửi vào nhà trẻ. Gia đình nhiều khi
không còn là một mái ấm, mà chỉ là một quán trọ, để họ tìm về
nghỉ ngơi sau một ngày lao động cực nhọc. Rồi sáng hôm sau, cái
điệp khúc ấy vẫn cứ được tái diễn và lặp đi lặp lại. Nỗi cô đơn
rình rập họ ở mọi nơi và trong mọi lúc vì họ không còn thời giờ
để mà hiểu biết, cảm thông và nâng đỡ lẫn nhau.
Tuy nhiên, ngay cả
những cặp vợ chồng thành đạt, nếu không thực sự quan tâm đến
nhau, cũng sẽ dễ dàng trở thành những người cô đơn và lạc
lõng. Vợ chồng sống với nhau giống như hai cục đá, giống như
hai hạt cát nằm bên nhau, mà chẳng có được một sự hiểu biết, cảm
thông và nâng đỡ. Cuối cùng, họ rơi vào nỗi cô đơn lúc nào cũng
chẳng hay.
Gã xin đưa ra hai
trường hợp, được trích từ một bài viết của tác giả Phu Chu trên
báo “Tuổi Trẻ Cười”.
Trường hợp thứ nhất,
chị vợ là một nữ doanh nhân thành đạt khá nổi tiếng, ngoại hình
cao ráo và bắt mắt…Chị sắm cho chồng con một ngôi biệt thự to
“vật vã” và cảm thấy thật hài lòng và yên tâm.
Ông xã chị, công tác
trong ngành giáo dục, xách cặp đi làm cho vui, chứ chẳng cần bận
tâm tới tiền lương. Mỗi lần ông đi làm về, liền có người dọn sẵn
cơm nước, nhưng đó là bà giúp việc. Hai đứa con ông sống tự do
như Tây. Mỗi đứa về nhà rúc vào phòng của mình. Muốn gặp nhau
cũng khó.
Căn nhà rộng rãi nhưng
buồn thiu, khiến ông lân la sang nhà chị hàng xóm ngồi tán dóc.
Hóa ra chị cũng từng là nhà giáo, chồng chị đã mất, con gái chị
đang học ở nước ngoài.
Dần dần ông xã cảm
thấy ở nhà chị hàng xóm vui hơn ở nhà mình. Khi chị vợ phát hiện
ra, ông xã đã lỡ trao trái tim cho chị hàng xóm và tặng cho bà
xã một nỗi cô đơn bao la.
Trường hợp thứ hai,
chị vợ là một giám đốc công ty quảng cáo khá thành công qua con
số khách hàng mỗi ngày một gia tăng.
Ông xã chị hết sức
ngưỡng mộ vợ, coi vợ như thần tượng, khiến chị càng yên lòng yên
chí lao vào công việc. Vậy mà, một lần ông xã chị ấp úng thông
báo cho chị một tin…vui: Ông sắp có con với một người phụ nữ
trẻ. Ông không muốn dối gian với người vợ yêu dấu của mình.
Người đàn bà cứng rắn,
mạnh mẽ cảm thấy trời đất quay cuồng, như muốn sụp đổ. Ông chồng
tiếp tục thổ lộ rằng lúc ban đầu chỉ quen với cô ta cho vui, để
có người trò chuyện, nhưng rồi thấy cô ta…tội nghiệp, nên ông
mới thương. Chị vợ rụng rời khi ông xã bồi hồi quyết định:
- Em là người tài
giỏi, không có anh, em vẫn tồn tại một cách kiêu hãnh và thành
công. Còn cô ta là kẻ yếu đuối, anh mà bỏ, cô ta sẽ chết mất,
nên anh không dám chia tay…
Tác giả bài viết đã
kết luận như sau:
Phía sau người đàn ông
thành đạt là bóng dáng một người đàn bà. Còn phía sau người đàn
bà thành đạt là cái gì?
Hình như đàn ông sinh
ra không phải để làm hậu phương cho các bà vợ xông xáo. Ông nào
cũng mê ra trận ra mạc, vì thế sau lưng các bà vợ chinh chiến…ít
thấy ông xã nào ngoan ngoãn nhận nhiệm vụ coi nhà, hay là chịu ở
nhà.
Các ông phải “quậy”
lên, để bà xã bề bộn công việc phải chú ý đến mình. Các nhà tâm
lý học gọi đây là hội chứng “hai người cùng trên đỉnh cô đơn”.
Đàn ông to xác, nhưng
lại kém chịu đựng, dễ tủi thân khi bà vợ về đến nhà mà đầu óc
còn vương vần công việc, coi chồng chẳng là cái đinh gì cả!
Vì thế, tại trung tâm
giáo dục các giá trị cuộc sống, có một bài học dành cho các bà
vợ, đó là trên đoạn đường về nhà, hãy để hết mọi việc làm và suy
nghĩ tại công ty hay cơ quan…
Và khi vào nhà, hãy
dành năm phút để nhập vai làm mẹ, làm vợ một cách trọn vẹn, có
thế may ra ông chồng mới không cảm thấy mình bị mất vợ từ từ.
Trong hai trường hợp
kể trên, người ta đã đẩy nhau vào tình trạng cô đơn, có thể vì
chị vợ không hiểu được “bản lãnh đàn ông” của anh chồng. Còn anh
chồng lại không cảm thông được trước những công việc bề bộn của
chị vợ. Cả hai đều không nâng đỡ lẫn nhau để vượt qua những khó
khăn.
Cuộc sống của người
Việt Nam hiện nay, nhất là tại các thành phố lớn, ngày càng
giống với cuộc sống của người phương Tây. Cha mẹ có phòng riêng
của cha mẹ. Con cái có phòng riêng của con cái và mỗi đứa một
phòng. Có muốn gặp nhau cũng khó.
Một chị vợ đã tâm sự
như sau:
Hồi đang xây nhà, đi ở nhà thuê
chung một phòng, gia đình bốn người thật là đầm ấm. Các con gặp
chuyện gì khó giải quyết cũng gọi ba mẹ. Bây giờ mỗi người một
phòng sang trọng, rộng rãi nhưng cứ như ở trong ốc đảo.
Hôm trước, tôi gõ cửa phòng đứa
con trai lớn, nó thò đầu ra và nói:
- Con còn đang bận việc riêng.
Điều không ai có thể lường trước
được chuyện gì sẽ xảy ra, khi trong nhà không còn tiếng cười,
tiếng nói…Để lập lại trật tự, chị ta đã bắt mọi thành viên phải
có mặt trong giờ cơm, ít nhất là giờ cơm tối, nếu ai không thực
thi, sẽ bị “cắt trợ cấp”, để gia đình có được những giây phút
thực sự bên nhau.
Ấy là gã chưa nói tới những hoàn
cảnh mỗi người phải làm một công việc và mỗi công việc lại ở
vào những giờ giấc khác nhau. Chị vợ đi làm ban ngày, còn anh
chồng lại đi làm vào ban đêm. Chị vợ vừa về tới nhà, cũng là lúc
anh chồng khăn gói quả mướp lên đường tới xí nghiệp. Cha mẹ, con
cái chỉ gặp được nhau vào những ngày nghỉ cuối tuần.
Để kết luận, gã xin ghi lại nơi
đây một câu danh ngôn của người Nga:
- Nếu chỉ có một mình, thì dù
được ở trên thiên đàng, cũng sẽ không thể nào sống nổi.
Gã Siêu
gasieu@gmail.com
|
VỀ MỤC LỤC |
|
- Mọi liên lạc: Ghi danh, thay đổi địa chỉ, đóng góp ý kiến,
bài vở..., xin gởi về địa chỉ
giaosivietnam@gmail.com
- Những nội dung sẽ được đề cao và chú ý bao gồm:
Trao đổi, chia sẻ những kinh nghiệm thực tế trong việc mục
vụ của Giáo sĩ; Những tài liệu của Giáo hội hoặc của các
Tác giả nhằm mục đích Thăng tiến đời sống Giáo sĩ; Cổ võ ơn
gọi Linh mục; Người Giáo dân tham gia công việc “Trợ lực
Giáo sĩ” bằng đời sống cầu nguyện và cộng tác trong mọi lãnh
vực; Mỗi Giáo dân phải là những “Linh mục” không có chức
Thánh; Đối thoại trong tinh thần Bác ái giữa Giáo dân và
Giáo sĩ… (Truyền giáo hay xây pháo đài?)
- Quy vị cũng có thể tham khảo những số báo đã phát hành tại
www.conggiaovietnam.net
Rất mong được sự cộng tác, hưởng ứng của tất cả Quí vị
Xin chân thành cám ơn tất cả anh chị em đã
sẵn lòng cộng tác với chúng tôi bằng nhiều cách thế khác
nhau.
TM. Đặc San Giáo Sĩ Việt Nam
Lm. Luca
Phạm Quốc Sử
USA
|
|
*************
|
|