TÔNG HUẤN "GIÁO HỘI TẠI Á CHÂU" (tiếp theo)
|
TÔNG HUẤN "GIÁO HỘI TẠI Á CHÂU" (ECCLESIA IN ASIA)
Nguồn: http://www.simonhoadalat.com
CHƯƠNG I
BỐI CẢNH Á CHÂU (tiếp theo)
Những Thực Tại Chính Trị
8.
Giáo Hội luôn cần có một sự hiểu biết chính xác về hoàn cảnh
chính trị trong các quốc gia khác nhau, nơi mà Giáo Hội đang cố
gắng chu toàn sứ mạng mình. Ngày nay, tại Á Châu, toàn cảnh
chính trị rất phức tạp, phô bày ra một loạt những ý thức hệ, từ
những hình thức chính quyền dân chủ, cho tới những hình thức
thần quyền. Những thể chế độc tài quân sự và các ý thức hệ vô
thần, rất thường xuất hiện. Một vài quốc gia nhìn nhận một quốc
giáo chính thức, nên nhóm thiểu số và những kẻ theo các tôn giáo
khác ít được hay không được tự do tôn giáo. Có những quốc gia
khác, dù không theo hẳn thần quyền, lại quy những nhóm thiểu số
vào hạng công dân hạng hai, nên ít quan tâm bảo vệ những nhân
quyền cơ bản của họ. Trong vài nơi, người Kitô hữu không được
phép thực hành đức tin cách tự do và rao giảng Đức Giêsu Kitô
cho kẻ khác (22). Họ bị bách hại và bị khước từ chỗ đứng hợp
pháp trong xã hội. Các Nghị Phụ Thượng Hội Đồng nhắc đến cách
riêng dân tộc Trung Hoa và bày tỏ niềm hy vọng thiết tha được
thấy tất cả những anh chị em công giáo Trung Hoa, một ngày kia
có thể sống đạo trong tự do và công khai tuyên xưng sự hiệp
thông trọn vẹn của họ với Toà Thánh Phêrô (23).
Trong khi
đánh giá cao sự phát triển mà nhiều quốc gia Á Châu đang thực
hiện dưới nhiều thể chế chính quyền khác nhau, các Nghị Phụ
Thượng Hội Đồng cũng quan tâm tới sự tham nhũng đang lan rộng
khắp nơi, ở nhiều cấp bậc của cả chính quyền lẫn xã hội (24).
Rất thường xuyên, dân chúng xem ra vô phương tự vệ chống lại
những nhà chính trị, những nhân viên tư pháp, những người cầm
quyền và công chức tham nhũng. Tuy nhiên, có một ý thức đang
tăng trưởng khắp Á Châu về khả năng của người dân trong việc
thay đổi những cơ cấu bất công. Có những yêu cầu mới cho được
công bình xã hội lớn hơn, cho được tham gia nhiều hơn vào chính
quyền và đời sống kinh tế, cho được cơ may đồng đều trong giáo
dục, cho được chia sẻ công bằng hơn trong tài sản quốc gia. Dân
chúng càng ngày càng ý thức về nhân phẩm và các quyền của mình
và quyết tâm hơn để gìn giữ nó. Những nhóm thiểu số về nhân
chủng, xã hội và văn hoá, lâu nay im lìm, bây giờ đang tìm cách
trở thành tác nhân cho sự thăng tiến xã hội của chính mình. Thần
Khí Chúa trợ giúp và nâng đỡ những cố gắng của dân chúng trong
việc biến đổi xã hội, ngõ hầu khát vọng của con người về một
cuộc sống dồi dào hơn, có thể được thoả mãn như lòng Chúa mong
muốn (x. Ga 10,10).
Giáo Hội tại Á Châu: Quá Khứ và Hiện Tại
9.
Lịch sử Giáo Hội tại Á Châu cũng xưa như chính Giáo Hội, bởi vì
tại Á Châu Đức Giêsu đã thở hơi Chúa Thánh Thần trên các môn đệ
của Người và sai họ đi tới tận cùng trái đất để rao giảng Tin
Mừng và qui tụ những cộng đoàn tín hữu. "Như Cha đã sai Thầy,
Thầy cũng sai các con" (Ga 20,21; x. Mt 28,18-20; Mc 16,15-18;
Lc 24,47; Cv 1,8). Theo mệnh của Chúa, các Tông Đồ rao giảng Lời
Chúa và thiết lập những Giáo Hội. Có lẽ là điều hữu ích khi nhắc
lại một vài yếu tố của lịch sử hấp dẫn và phức tạp này.
Từ
Giêrusalem, Giáo Hội lan rộng tới Antiôkia, tới Roma và xa hơn
nữa. Giáo Hội đi tới Ethiôpia phía Nam, tới Scythia phía Bắc và
tới Ấn Độ phía Đông, vùng đất theo truyền thống, Thánh Tôma Tông
Đồ đã tới năm 52 sau Công Nguyên, và thiết lập các Giáo Hội miền
nam Ấn Độ. Tinh thần truyền giáo của cộng đoàn Đông-Syria trong
thế kỷ III và IV với trung tâm là Edessa, thật đáng kể. Những
cộng đoàn khổ tu Syria là một sức mạnh chủ yếu của việc Phúc Âm
hoá tại Á Châu từ thế kỷ III đổ về sau. Những cộng đoàn này đem
lại sinh lực thiêng liêng cho Giáo Hội, đặc biệt trong thời kỳ
bắt đạo. Vào cuối thế kỷ III, Amênia là quốc gia đầu tiên toàn
diện theo Kitô giáo, và nay đang chuẩn bị mừng kỷ niệm 1.700 năm
lãnh nhận bí tích Thánh Tẩy. Cuối thế kỷ thứ V, sứ điệp Kitô
giáo lan tới các vương quốc Ả rập, nhưng vì nhiều lý do, kể cả
những chia rẽ nội bộ người Kitô hữu, sứ điệp không đâm rễ sâu
giữa lòng các dân tộc này.
Các thương
gia Ba tư mang Tin Mừng tới Trung Hoa trong thế kỷ thứ V. Giáo
hội Kitô đầu tiên được thiết lập ở đây vào đầu thế kỷ VII. Dưới
triều đại nhà Tần (618-907 Công nguyên) Giáo Hội phồn thịnh gần
hai thế kỷ. Sự suy sụp của Giáo Hội đầy sức sống này tại Trung
Hoa, ở cuối ngàn năm thứ nhất, là một trong các chương đáng buồn
hơn cả của lịch sử Dân Chúa tại Lục địa.
Thế kỷ thứ
XIII, Tin Mừng được rao giảng cho người Mông Cổ và người Thổ, và
một lần nữa cho người Trung Hoa. Nhưng Kitô Giáo hầu như biến
khỏi các vùng này vì một số lý do, trong các lý do đó có sự nổi
dậy của Hồi Giáo, sự tách biệt về mặt địa lý, thiếu sự thích
nghi thích hợp với những văn hoá địa phương, và có lẽ hơn hết là
thiếu chuẩn bị gặp gỡ các tôn giáo lớn tại Á Châu. Cuối thế kỷ
XIV chứng kiến sự sa sút mãnh liệt của Giáo Hội tại Á Châu, trừ
ra một cộng đồng biệt lập ở Nam Ấn Độ. Giáo Hội tại Á Châu phải
chờ đợi một thời đại mới của nỗ lực truyền giáo.
Công lao
Tông Đồ của Thánh Phanxicô Xavie, sự thành lập Hội Truyền Bá
Đức Tin đời Giáo Hoàng Gregorio XV, và những chỉ dẫn cho các
vị thừa sai biết tôn trọng và đánh giá cao những văn hoá địa
phương, tất cả góp phần đạt đến những thành quả tích cực hơn
suốt thế kỷ XVI và XVII. Vào thế kỷ XIX, lại có sự hồi sinh hoạt
động tông đồ. Nhiều dòng tu hoàn toàn hiến thân cho công tác
này. Hội Truyền Bá Đức Tin được tổ chức lại. Việc thiết
lập những Giáo Hội địa phương được nhấn mạnh hơn. Những công
trình giáo dục và bác ái đi đôi với việc rao giảng Tin Mừng. Cho
nên, Tin Mừng tiếp tục đến với nhiều người hơn, đặc biệt đám
người nghèo và bị thiệt thòi, nhưng đó đây cũng được rao giảng
giữa hạng người ưu tú xã hội và trí thức. Những nỗ lực mới được
thực hiện để hội nhập hoá Tin Mừng, tuy nhiên chúng chứng tỏ là
chưa đủ. Mặc dầu hiện diện lâu đời và cố gắng làm việc tông đồ
nhiều, Giáo Hội tại nhiều nơi còn bị coi là xa lạ với Á Châu, và
quả thật, Giáo Hội thường bị gắn liền với những quyền lực thực
dân trong tâm trí quần chúng.
Đó là tình
trạng thời gian trước công đồng Vatican II, nhưng nhờ sự thúc
đẩy công đồng mang lại, một sự hiểu biết mới về việc truyền giáo
ló dạng và, cùng với nó là một niềm hy vọng lớn. Tính phổ quát
chương trình cứu rỗi của Thiên Chúa, bản tính truyền giáo của
Giáo Hội và trách nhiệm của mỗi người trong Giáo Hội đối với
công tác này, được tái khẳng định cách mạnh mẽ trong Sắc Lệnh
Công Đồng về Hoạt động Truyền Giáo của Giáo Hội Ad Gentes,
trở nên khuôn khổ của một sự dấn thân mới. Trong Hội nghị đặc
biệt, các Nghị Phụ Thượng Hội Đồng minh chứng sự lớn mạnh mới
đây của cộng đoàn Giáo Hội giữa nhiều dân tộc khác biệt trong
những miền khác nhau của Lục địa, và các Ngài kêu gọi nhiều nỗ
lực truyền giáo hơn nữa cho những năm sắp tới, cách riêng khi
xuất hiện nhiều khả năng rao giảng Tin Mừng trong vùng Siberia
và những xứ Trung Á mới dành được độc lập, như Kazakhstan,
Uzbekistan, Kyrgyzstan, Tajikistan và Turmenistan (25).
Một cái
nhìn tổng quát về các cộng đoàn Công giáo tại Á Châu cho thấy
một sự đa dạng muôn màu muôn vẻ do bởi nguồn gốc và sự phát
triển lịch sử của nó, và do những truyền thống thiêng liêng và
phụng vụ khác nhau về lễ nghi. Tuy nhiên tất cả đều hợp nhất
trong việc loan báo Tin Mừng Đức Giêsu Kitô, nhờ chứng tá Kitô
hữu, các việc bác ái và sự liên đới nhân loại. Đang khi một số
Giáo Hội địa phương thi hành sứ mạng mình trong an bình và tự
do, thì có những Giáo Hội khác gặp những hoàn cảnh bạo lực và
xung đột, hay cảm thấy mình bị đe doạ bởi các nhóm người khác vì
lý do tôn giáo hay lý do nào khác. Trong thế giới rất khác biệt
nhau về phương diện văn hoá tại Á Châu, Giáo Hội chạm chán với
nhiều thách đố về phương diện triết học, thần học và mục vụ.
Công việc của Giáo Hội càng thêm khó khăn do sự kiện Giáo Hội là
một thiểu số, chỉ trừ Phi luật tân nơi đa số là người công giáo.
Dầu gặp
hoàn cảnh nào đi nữa, Giáo Hội tại Á Châu thấy mình ở giữa những
dân tộc rất khát khao Thiên Chúa. Giáo Hội biết rằng sự khát
khao này chỉ có thể được thoả mãn hoàn toàn nhờ Đức Giêsu Kitô,
là Tin Mừng của Thiên Chúa cho mọi quốc gia. Các Nghị Phụ Thượng
Hội Đồng ước muốn thiết tha rằng Tông huấn Hậu Thượng Hội Đồng
cần lưu ý đến sự khao khát này và khuyến khích Giáo Hội tại Á
Châu hăng say rao giảng, bằng lời nói và việc làm, rằng Đức
Giêsu Kitô là Đấng Cứu Đoä.
Thần khí
Thiên Chúa, luôn luôn hành động trong lịch sử Giáo Hội tại Á
Châu, tiếp tục hướng dẫn Giáo Hội. Nhiều yếu tố tích cực gặp
được trong Giáo Hội địa phương, thường được nêu bật trong Thượng
Hội Đồng, củng cố lòng mong đợi của chúng ta về "một mùa xuân
mới của đời sống Kitô hữu" (26). Một nguyên nhân vững chắc của
niềm hy vọng là con số gia tăng của những giáo dân được đào tạo
tốt hơn, nhiệt thành và tràn đầy Thần Khí. Họ càng ngày càng ý
thức hơn về ơn gọi chuyên biệt của mình trong cộng đồng Giáo
Hội. Trong số họ, các giáo lý viên giáo dân đáng được công nhận
và tán dương cách đặc biệt (27). Những phong trào tông đồ và
đoàn sủng, cũng là một ân ban của Thần Khí, mang đến đời sống
mới và sự hăng say trong việc đào tạo những người nam nữ giáo
dân, các gia đình và giới trẻ (28). Khi dấn thân cổ võ nhân phẩm
và công bằng, những hiệp hội và những phong trào Giáo Hội làm
cho tính phổ quát của sứ điệp Tin mừng trở nên gần gũi và hữu
hình, Tin mừng đó là làm cho chúng ta nên nghĩa tử của Thiên
Chúa (x. Rm 8, 15-16).
Đồng thời,
có những Giáo Hội đang ở trong những hoàn cảnh rất khó khăn, "bị
thử thách ghê gớm trong việc thực hành đức tin của mình" (29).
Các Nghị Phụ xúc động khi nghe các báo cáo về chứng tá anh dũng,
sự kiên trì không hề lay chuyển và sự tăng trưởng vững chắc của
Giáo Hội Công Giáo tại Trung hoa, khi thấy các nỗ lực giúp đỡ
của Giáo Hội Nam Triều Tiên dành cho dân chúng Bắc Triều Tiên,
do tính kiên định khiêm tốn của cộng đoàn công giáo tại Việt
Nam, sự cách ly của những Kitô hữu tại những nơi như Lào và
Myanmar, sự sống chung đầy khó khăn với thành phần đa số trong
các quốc gia Hồi Giáo (30). Thượng Hội Đồng lưu ý cách riêng đến
hoàn cảnh Giáo Hội tại Đất Thánh và tại thành thánh Giêrusalem "trung
tâm Kitô giáo" (31), một thành phố thân yêu của mọi con cái ông
Ápraham. Các Nghị Phụ phát biểu xác tín rằng hoà bình của vùng,
và cả của thế giới nữa, phần lớn tuỳ thuộc vào hoà bình và hoà
giải mà từ lâu đã vắng bóng tại Giêrusalem (32).
Tôi không
thể kết thúc cái nhìn tổng quát vắn gọn về tình trạng Giáo Hội
tại Á Châu, mặc dầu rất thiếu sót, mà không nhắc tới các vị
thánh và các vị tử đạo tại Á Châu, cả những vị đã được nhìn nhận
lẫn những vị chỉ được Chúa biết đến mà thôi, gương sáng các Ngài
là nguồn gốc sự "giàu có thiêng liêng và là một phương tiện lớn
cho việc Phúc Âm hoá" (33). Các Ngài âm thầm nhưng cách hùng
mạnh nhất, nói về tầm quan trọng của sự thánh thiện trong đời
sống và sự saün sàng hiến mạng sống mình vì Tin Mừng. Các Ngài
là thầy dạy và đấng bảo trợ, là vinh quang của Giáo Hội tại Á
Châu trong công tác truyền giáo. Cùng toàn thể Giáo hội, tôi cầu
xin Chúa sai nhiều thợ gặt dấn thân hơn nữa để thu hoạch mùa gặt
các linh hồn mà tôi thấy đã chín mùi và phong phú (x. Mt 9,
37-38). Lúc này đây, tôi nhớ lại điều tôi đã viết trong Thông
điệp Redemptoris Missio: "Thiên Chúa đang mở ra cho Giáo
Hội những chân trời của một nhân loại đã được chuẩn bị đầy đủ
hơn cho việc rao giảng Tin Mừng" (34). Giấc mơ đó về một chân
trời mới đầy hứa hẹn, tôi thấy đang hoàn thành tại Á Châu, nơi
Đức Giêsu được sinh ra và nơi Kitô giáo bắt đầu.
còn tiếp
nhiều kỳ
|
VỀ MỤC LỤC |
|
Phê bình xong
thì sẽ làm gì tiếp theo? |
LTS.
Ngay sau khi đọc bài viết dưới đây,
chúng tôi nhớ đến một tư tưởng của Jean
Khoury trong tác phẩm "Lectio Divina
- Học Với Mẹ Maria", xin được ghi
lại để chia sẻ với Quí vị:
"Bạn muốn thay
đổi cả thế gian nhưng lại không muốn
thay đổi chính mình thì có ích gì
cho Bạn?"
Nguồn:
http://www.chuacuuthe.com/
VRNs - (02.09.2010) -
Sài Gòn - Trong tuần
Thường huấn vừa qua tại DCCT,
Đức Ông Phê-rô đã nhấn mạnh rằng
mục đích của truyền thông Công
giáo phải là xây dựng sự hiệp
nhất/thông trong Hội Thánh.
Dường như điều này càng trở nên
khẩn thiết trong bối cảnh Hội
Thánh VN hôm nay. Tuy nhiên, khi
đọc thư thứ nhất của thánh
Phao-lô gửi giáo đoàn (Hội Thánh)
Cô-rin-tô, chúng ta nhận ra sự
chia rẽ đã sớm xuất hiện trong
cộng đoàn non trẻ này và thánh
Phao-lô đã phải viết thư để sửa
dạy họ cũng như kêu gọi tái hiệp
nhất trong cộng đoàn. “Nhân danh
Đức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta,
tôi khuyên tất cả anh em hãy
nhất trí với nhau trong lời ăn
tiếng nói, và đừng để có sự chia
rẽ giữa anh em, nhưng hãy sống
hòa thuận, một lòng một ý với
nhau” (1:10).
Lý do khiến nảy sinh sự chia rẽ
và bè phái trong cộng đoàn này
là vì mỗi nhóm ủng hộ và đề cao
vị lãnh đạo tinh thần của nhóm
mình, khen lãnh đạo mình là tài
giỏi, khôn ngoan và chê bai vị
lãnh đạo của nhóm khác: “Tôi
thuộc về ông Phao-lô, tôi thuộc
về ông A-pô-lô, tôi thuộc về ông
Kê-pha, tôi thuộc về Đức Ki-tô”
(1:12).
Để sửa dạy họ và kêu gọi sự hiệp
nhất, thánh Phao-lô đã đưa ra
mẫu mực của sự khôn ngoan đích
thực đó là “Đấng Ki-tô bị đóng
đinh”, “sức mạnh và sự khôn
ngoan của Thiên Chúa,” “xuất
phát từ Thiên Chúa,” “là sự công
chính của chúng ta” (1:24.30).
Sự khôn ngoan của Thiên Chúa
trái ngược với sự khôn ngoan thế
gian (thật ra là sự ranh mãnh),
vốn chỉ gây ra chia rẽ; trong
khi đó, sự khôn ngoan đích thực
của Thiên Chúa nơi thánh giá
Chúa Ki-tô sẽ có sức hàn gắn đổ
vỡ và củng cố sự hiệp nhất trong
cộng đoàn.
Như vậy, tất cả mầu nhiệm Hội
Thánh, sự hiệp thông và đức tin
của Hội Thánh đều gắn chặt với
mầu nhiệm thập giá Chúa Ki-tô và
chỉ nơi đó mà thôi. Nhìn lại
kinh nghiệm của Hội Thánh sơ
khai, chúng ta nhận thấy rằng
Hội Thánh luôn lớn lên ngang qua
những khủng hoảng và bách hại,
nhưng chỉ với điều kiện những
hoàn cảnh đó thật sự “đẩy” người
tín hữu tiên khởi đến chỗ chiêm
ngắm sâu xa hơn và mở lòng hơn
để đón nhận mầu nhiệm thánh giá
Chúa Ki-tô.
Khi đối chiếu tình hình cộng
đoàn Cô-rin-tô với hoàn cảnh Hội
Thánh VN gần đây, tôi nghĩ có
đôi nét tương tự và bỗng thử hỏi
có bao nhiêu trong số hàng ngàn
người lên mạng đọc các bài về
tình hình Hội Thánh VN trong
thời gian qua, đặc biệt là những
người viết bài và để lại những
lời bình (comment), sau khi làm
những điều ấy, thì đã được thúc
đẩy để cầm lấy Kinh Thánh và đọc
mầu nhiệm của Thiên Chúa trong
đó? Một cuộc thống kê cho thấy
đa số người tín hữu VN không đọc
Kinh Thánh, điều này khiến tôi
cũng nghĩ có thể khá nhiều người
tín hữu VN hôm nay lên mạng viết
và đọc tin tức về tình hình Hội
Thánh VN nói chung và cá nhân
đấng bậc này kia cách riêng,
nhưng liệu có bao nhiêu người
thực sự được thúc đẩy đọc Lời
Chúa, chiêm ngắm mầu nhiệm thánh
giá Chúa Ki-tô, nguồn khôn ngoan
đích thực, xây dựng sự hiệp
thông đích thực?
Tôi nhớ Đức Ông Phê-rô nói rằng
đừng ảo tưởng muốn thay đổi tình
hình hôm nay chỉ bằng một bài
báo hay một comment đem đăng lên
mạng. Tôi xin mượn ý của Đức Ông
và nghĩ rằng đừng ảo tưởng thay
đổi tình hình mà không có sự
chiêm ngắm mầu nhiệm thánh giá
Chúa Ki-tô “sự khôn ngoan của
Thiên Chúa”, bằng không tất cả
sẽ chỉ là “khôn ngoan thế gian”
mà thôi.
Joakim M. Thích Thông
Luận
|
VỀ MỤC LỤC |
|
GIÁO HỘI CẦN THIẾT RA SAO CHO
NHỮNG AI MUỐN ĐƯỢC CỨU ĐỘ ?
|
Hỏi:
Có thể sống đức tin và được cứu độ không cần đến Giáo Hội
?
Trả lời:
Chúa Kitô đã thiết lập Giáo Hội của Người
trên nền tảng cácTông Đồ khi Chúa nói với Phêrô:
“Anh là Phêrô, nghĩa là Tảng Đá, trên
tảng đá này, Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy,và quyền lực tử thần
sẽ không thắng nỗi.” (Mt 16:18)
Chúa lập Giáo Hội như phương tiện hữu hiệu
cần thiết để chuyên chở ơn cứu độ của Người đến cho muôn dân
không phân biệt màu da, chủng tộc, ngôn ngữ và văn hóa.
Bởi vì “Thiên Chúa, Đấng cứu độ chúng
ta, Đấng muốn cho mọi người được cứu độ và nhận biết chân lý.”
(1Tm 2:4).
Lời Chúa trên đây đã diễn tả đầy đủ sứ mệnh
của Giáo Hội với tư cách là Hiền Thê và là Thân Thể Mầu Nhiệm
của Chúa Kitô ( Mystical Body) trong trần thế này. Và với tư
cách đó, Giáo Hội tiếp tục Sứ Vụ Cứu Độ của Chúa Kitô để hy
vọng mọi người nhận biết Thiên Chúa, tin Chúa Kitô và muốn được
cứu rỗi nhờ công nghiệp cứu chuộc vô giá của Người.
Chúa Kitô chỉ thiết lập một Giáo Hội duy
nhất và “Giáo Hội ấy tồn tại trong Giáo Hội Công Giáo
do Đấng kế vị Phêrô và các Giám Mục hiệp thông với Ngài điều
khiển..” ( Lumen Gentium (LG),số 8)
Giáo Hội được tuyên xưng là Duy nhất, Thánh
thiện Công giáo, và Tông truyền. Đây là bản chất của Giáo Hội
hoạt động nhân danh Chúa Kitô ( in persona Christi) trong trần
thế như phương tiện cần thiết để giúp cho con người được nhận
biết, tin, yêu Thiên Chúa và lãnh nhận ơn cứu chuộc của Chúa
Kitô qua sứ vụ rao giảng Tin Mừng Cứu Độ, thánh hóa và cai trị.
Chúa Kitô đã trao Sứ Vụ này trước tiên cho
các Tông Đồ và tiếp theo cho những người kế vị các Tông Đồ cho
đến ngày nay là các Giám Mục đang vâng phục và hiệp thông trọn
vẹn với Giám Mục Rôma tức Đức Thánh Cha là Thủ lãnh Giáo Hội
Công Giáo hoàn vũ..
Là hiện thân của Chúa Kitô, Giáo Hội là kho
chứa và ban phát ơn cứu độ của Chúa không những qua tín lý, giáo
lý và luân lý tinh tuyền phản ánh trung thực những chân lý Chúa
Kitô đã rao giảng, mà đặc biệt qua các bí tích là những phương
tiện thông ơn cứu rỗi của Chúa cho con người.
Do đó: Giáo Hội là phương tiện cứu rỗi thật
cần thiết cho những ai đã gia nhập Giáo Hội bằng phép Rửa(
baptism):
Thật vậy, qua phép Rửa, con người đươc tái
sinh trong sự sống mới, được trở nên con cái Thiên Chúa, được
nên giống Chúa Kitô, “ vì tất cả chúng ta được tẩy rửa trong
một Chúa Thánh Thần để nên một thân thể. Tất cả chúng ta được
đầy tràn một Thần Khí duy nhất”. ( 1Cor 12: 13) (LG. số 7)
Mặc dù ơn ích của Phép Rửa to lớn như vậy,
nhưng theo giáo lý của Giáo Hội Công Giáo thì “ nơi người
được rửa tội, một số những hậu quả của tội lỗi vẫn tồn
tại, như những đau khổ, bệnh tật, sự chết hoặc những yếu đuối
gắn liền với sự sống như yếu đuối về tính tình .v.v và nhất lá
sự hướng chiều về tội lỗi mà truyền thống gọi là tình dục, và
theo ẩn dụ được gọi là “lò phát sinh tội lỗi” (fomes percati)
được để lại đó cho ta phải chiến đấu với nó. Tình dục không có
khả năng gây hại cho những người không chiều theo nó mà còn
chống lại cách can đảm nhờ ân sủng của Chúa Kitô” (SGLGHCG
số 1264).
Nghĩa là, Phép Rửa , dù tẩy xóa một lần mọi
tội lỗi- tội nguyên Tổ cũng như tội cá nhân- cho người lãnh nhận
nhưng không tiêu diệt hết mọi nguy cơ của tội lỗi còn để lại
trong bản tính con người, để cho chúng ta phải chiến đấu chống
lai với sự trợ giúp hữu hiệu của ân sủng dồi dào Chúa ban cho
những ai có thiện chí và quyết tâm từ bỏ tội lỗi để sống theo
đường lối của Người hầu được cứu độ.
Nói khác đi, Phép Rửa không biên đổi nhân
tính (humanitatis, humanity) cho con người trở thành các Thánh
ngay trong cuộc sống này khiến con người không còn biết tội là
gì nữa. Ngược lại, tội vẫn còn là một nguy cơ trong mỗi người
chúng ta và ma quỉ luôn cám dỗ cho ta phạm tội như Chúa Giêsu
đã cảnh giác các Tông Đồ trong đêm Người bị nộp:
“Anh em hãy canh thức mà cầu nguyện
kẻo sa chước cám dỗ, vì tinh thần thì hăng hái, nhưng thể xác
lại yếu đuối”. (Mc 14: 38)
Tinh thần thì hăng hái muốn bước đi theo
Chúa nhưng thể xác lại yếu đuối vì bản tính con người đã bị
“băng hoại” do tội Nguyên Tổ (original sin ) mà Phép Rửa không
hàn gắn cho nguyên vẹn lai được.Vì thế, con người phải chiến
đấu mà lập công hay góp phần cá nhân của mình vào ơn cứu độ như
Chúa đòi hỏi.
Chính vì thể xác hay bản tính yếu đuối nói
trên mà Giuđa đã bán Chúa và Phêrô đã chối Thầy. Họ là những
Kitô hữu đâu tiên được Chúa mời gọi làm Tông Đồ, được thánh hóa,
sống và học hỏi bên Chúa suốt 3 năm và cuối cùng được Chúa
truyền Chức Linh Mục cho trong Bữa Tiệc Ly.
Vậy mà họ vẫn
vấp ngã vì sao?
Có phải vì ơn Chúa không hữu hiệu đủ, hay
vì con người vẫn còn tự do để chọn lựa sống theo Chúa hay theo ý
riêng của mình, tự tin ở mình hơn là cậy nhờ ơn phù trợ của
Chúa? Tiện đây, xin hỏi riêng quí vị nào quá “thông thái”
khám phả ra con người “có thiên tính” , thì các Tông Đồ trên có
“thiên tính” hay không, và nếu có thì tại sao “thiên tính” ấy
đã không giúp các ông đứng vững trong tình thân với Chúa mà lại
yếu đuối đến nỗi chối Chúa phản Thầy như vậy?
Té ra họ vẫn là con người với những yếu
đuối của nhân tính, phải không?
Và cũng vì còn yếu đuối sau khi chịu Phép
rửa, cũng như không hề có “thiên tính” trong nhân tính đã bị
băng hoại , mà Thánh Phaolô đã phải thú nhận sự yếu đuối của
mình trước thực tế là bản chất con người dễ nghiêng chiều về tội
lỗi như sau:
“Sự thiện tôi muốn thì tôi không làm,
nhưng sự ác tôi không muốn thì tôi lại cứ làm. Nếu tôi cứ làm
điều ác tôi không muốn thì không còn phải là chính tôi làm điều
đó, nhưng vì tội vẫn ở trong tôi.” (Rm 7: 19-20)
Ngài thú nhận như trên sau khi được
Kha-na-nia đặt tay và làm phép rửa cho để trở thành Tông Đồ của
dân ngoại (Cv 9: 17-18). Như thế rõ ràng cho thấy Phép Rửa và
cả Phép Truyền Chức Thánh qua việc đặt tay của Kha-na-nia đâu có
biến đổi Phaolô thành thánh tức khắc mà vì hậu quả của tội lỗi
vẫn còn nơi bản tính của ngài, nên ngài phải chiến đâu với nó
cho đến hơi thở cuối cùng trước khi được phần thưởng như ngài
đã nói sau đây:
“ Còn tôi, tôi sắp phải đổ máu ra làm
lễ tế, đã đến giờ tôi phải ra đi. Tôi đã chiến đấu trong cuộc
thi đấu cao đẹp, đã chạy hết chặng đường, đã giữ vững niềm tin.
Giờ đây tôi chỉ còn chờ đợi vòng hoa cho người công chính. Chúa
là vị Thẩm Phán chí công sẽ trao phần thưởng đó cho tôi trong
ngày ấy. (2Tm 4: 6-7)
Kinh nghiệm sống và chiến đấu của Thánh
Phaolô để được vinh quang Nước Trời cũng là kinh nghiệm và hành
trình thiêng liêng của mỗi người tín hữu chúng ta trong cuộc
sống đức tin trên trần thế này. Nhờ Phép Rửa, chúng ta được tái
sinh để trở thành tạo vật mới, được quyền gọi Chúa là Cha
(Apba), được nên giống Chúa Kitô và được là dân thánh, là
‘hàng tư tế vương giả’ cũng như được gia nhập Giáo Hội là Mẹ
để được dẫn đưa trên đường về Quê Trời.
Nhưng cho được nói như Thánh Phaolô, Người
đã chiến đấu đến cùng và chỉ còn chờ ngày được trao ‘Vòng hoa
công chính’, chúng ta phải sống và thực thi những cam kết khi
được chịu Phép Rửa.
Những cam kết đó là :
1-
Tin yêu một Thiên Chúa Ba ngôi trên hết mọi sự.
2-
Cam kết từ bỏ mọi tội lỗi, từ bỏ ma quỉ và mọi quyến rũ
của ma quỉ
3-
Tin Hội Thánh Công Giáo, tin các Thánh thông công, tin
phép tha tội
4-
Tin xác sống lại, và sự sống đời đời
Nếu không sống và thực thi những cam kết
trên đây, thì Phép Rửa sẽ vô ích cho ai đã lãnh nhận, vì ơn ích
của bí tích trọng đại này không tự động phát sinh cho người
lãnh chịu, mà không có sự cộng tác của cá nhân qua việc thi hành
những cam kết trên đây.Và nếu không sống trọn vẹn những cam kết
đó, để buông mình sống theo thế gian quay lưng lại với Thiên
Chúa, thì Chúa không thể cứu ai được, dù cho công nghiệp cứu
chuộc của Chúa Kitô là vô giá
Mặt khác, cũng vì bản chất yếu đuối dễ sa
ngã của con người sau khi được rửa tội, cho nên thật vô cùng cần
thiết cho mọi tín hữu phải sống và thực hành đức tin trong Giáo
Hội. Vì có sống trong Giáo Hội, cụ thể là gia nhập một cộng đoàn
đức tin hay một giáo xứ, thì người tín hữu mới có cơ hội nghe
lời Chúa và giáo lý của Giáo Hội được rao giảng trong các Thánh
lễ. Và quan trọng không kém là được ‘ăn, uống Mình Máu Thánh
Chúa Kitô’ khi tham dự Thánh lễ Tạ Ơn, là nguồn suối và đỉnh cao
của đời sống Giáo Hội, vì Thánh Lễ là “nguồn mạch từ đó ân
sủng tuôn tràn trong chúng ta và làm cho con người được
thánh hóa trong Chúa Kitô một cách vô cùng hữu hiệu, đồng thời
Thiên Chúa được tôn vinh.” (Hiến Chế Phụng Vụ Thánh, số 10)
Lại nữa, cũng vì bản chất dễ sa phạm tội,
nên vô cùng cần thiết phải sống trong Giáo Hội để được hưởng ơn
tha thứ của Thiên Chúa qua bí tích hòa giải (xưng tội) để nối
lại tinh thương với Chúa mỗi khi lỡ sa ngã vì yếu đuồi con
người.
Chỉ trong Giáo Hội Công Giáo (Và Chính
Thống Đông Phương) mới có hai Bi tích rất quan trọng là Thánh
Thể và Hòa giải, ngoài năm bí tích khác, để giúp con người được
thánh hóa và thăng tiến trong đức tin và đức mến, tức là lớn lên
trong tình thương yêu với Chúa và với tha nhân. Nói khác đi, đời
sống Kitô giáo không thể tăng trưởng và phong phú được nếu không
nghe lời Chúa qua Kinh Thánh và nhất là năng lãnh nhận các bí
tích Thánh Thể, và Hòa giải sau khi được tái sinh qua bí tích
Rửa tội. Nghĩa là chí có năng nghe lời Chúa trong Phúc Âm, siêng
năng xưng tội và tham dự Thánh lễ Tạ Ơn để “ăn uống Mình Máu
Thánh Chúa Kitô” thì mới có đủ sức mạnh để chống lại mọi nguy cơ
của tội lỗi do ma quỉ xúi dục và gương xấu đầy rẫy trong trần
gian làm cớ cho con người vấp phạm. Như thế, đủ cho thấy rõ sự
cần thiết phải sống và thực hành đức tin trong Giáo Hội là
phương tiện cứu rỗi hữu hiệu mà Chúa Kitô đã thiết lập và luôn ở
với Giáo Hội cho đến tận thế (Mt 28: 20).
Các Thánh Giáo Phụ ( Church Fathers) xưa đã
ví Giáo Hội như con Tàu của ông No-e trong thời Đại Hồng Thủy
khi Thiên Chúa đánh phạt những kẻ gian ác trên mặt đất trừ gia
đình ông No-e và các sinh vật ông đã đem lên tàu trước khi mưa
tuôn đổ, dâng nước lên cuốn đi mọi sự sống trên mặt đất. ( St.
6-7)
Trong thời đại ngày nay, Giáo Hội cũng là
con tàu cứu nguy cho những ai muốn thoát khỏi cơn cuồng phong,
sóng thần của “văn hóa sự chết” đang cuồn cuộn thổi ở khắp
nơi trên thế giới để cuốn đi vào tử địa những kẻ tôn thờ nó và
quay lưng lại với Thiên Chúa là Nguồn vui hạnh phúc duy nhất cho
những ai muốn tìm kiếm Người.
Vì thế,“ những ai biết rằng Giáo Hội
Công Giáo được Thiên Chúa thiết lập nhờ Chúa Giêsu Kitô, như
phương tiện cứu rỗi cần thiết mà vẫn không muốn gia nhập hoặc
không muốn kiên trì sống trong Giáo Hội này thì không thể được
cứu rỗi.
“ ( LG. số 14)
Tóm lại, không thể nói ba phải rằng đạo tại
tâm, không cần đến nhà thờ, hoặc đạo nào cũng tốt, có tội thì
xưng với Chúa không cần xưng với linh mục nào hoặc đi nghe các
giáo sĩ ngoài Công Giáo giảng và “ăn bánh uống rượu” với họ coi
như rước Minh Máu Chúa Kitô trong Thánh Lễ tạ Ơn !
Người tín hữu Công giáo không thể suy luận
và hành động như trên được , vì chỉ có Một Giáo Hội, một đức
tin, và một Phép Rửa. Và chỉ trong Giáo Hội Công Giáo mới có đầy
đủ các phương tiện thánh hóa và cứu rỗi hữu hiệu là các Bi tích,
nhất là hai bí tích Thánh Thể và Hòa Giải. Các Giáo hội Chính
Thống Đông Phương (Easter Orthodox Churches) cũng có các bí tích
này, nhưng vì họ chưa hiệp thông trọn vẹn với Giáo Hội Công Giáo
vì một vài bất đồng chưa vượt qua , nên người công giáo
chỉ được phép tham dự và lãnh các bí tích trong Giáo Hội Chính
Thông ở những nơi không có nhà thờ hay linh mục
Công Giáo hiện diện để cử hành các nghi thức phụng vụ và
bí tích.
Ngoài ra, tất cả các giáo phái ngoài Công
Giáo và Chính Thống, đa số chỉ có Phép rửa (baptism) và không có
các bí tích khác, do đó người công giáo không được tham dự các
nghi thức của họ vì thiếu căn bản bí tích và hiệp thông với Giáo
Hội Công Giáo là Giáo Hội duy nhất của Chúa Kitô trên trần gian
này.
Ước mong giải đáp trên thỏa mãn câu hỏi
được đặt ra.
LM .Phanxicô Xaviê Ngô tôn Huấn
|
VỀ MỤC LỤC |
|
NGỤ NGÔN THỜI BẤN LOẠN (KỲ 12)
|
Ngụ ngôn 39
Ông vua quen
kiểu phán là thiên hạ nghe nên nhiều khi vua phán rất ẩu. Đến
khi có máy móc ghi lại lời nói thì vua thận trọng hơn nhưng vẫn
tiếc cái thời chẳng cần phải lo, cứ nói cho thỏa thích, ai khen
thì cười, ai chê thì chối biến. Khi có máy móc ghi lại thì vua
ghi ra giấy và đọc cho chắc ăn.
Nhưng để bảo
đảm mọi lời là chân chính, nhà vua hay chép lời thánh hiền, lời
các danh nhân hay là thơ của ai đó. Bây giờ người ta nghe xong,
không còn chê hay dở nữa mà cứ phê là “Câu này của… câu kia của…”
làm nhà vua bực tức không kém.
Một hôm vua
đi ngang qua đám đông đang bình phẩm kiểu ấy, vua tức giận quát
lớn: “Chúng mày vô công rỗi nghề đi bắt lỗi ta ư? Ừ thì ta hay
nói lung tung đó, làm gì ta nào?” Một người nhìn nhà vua và khen:
“Lần này nhà vua dùng đúng lời của mình, không vay mượn nữa”.
Vua cười mãn nguyện !!!
Ngụ ngôn 40
Quạ đen đến
dự tiệc bồ câu chiêu đãi, nhóm bồ câu trắng cười khúc khích vì
bộ lông quạ đen không hợp. Quạ và chim sẻ đến dự tiệc của gia
đình công, hai chị thấy lạc lõng vì màu sắc đơn điệu giữa những
xanh vàng vui mắt. Bỗng quạ và chim sẻ chú ý đến một con vật bò
sát, màu sắc cũng sặc sỡ chẳng kém gì công. Nhìn kỹ, quạ nhận ra
con tắc kè quen thuộc.
Quạ hỏi tắc
kè: “Ông đúng là tắc kè rồi, nhưng hôm nọ đến nhà tôi, ông màu
đen mà”. Quạ vừa dứt lời, chim sẻ hỏi: “Lúc đến chỗ chúng tôi,
ông lại màu nâu nhạt”. Tắc kè cười: “Ồ, nếu vẫn là tôi thì cũng
là do sự khôn ngoan ở đời vậy thôi.”
Rồi cũng đến
lúc nhiều con thú được mời dự tiệc. Chủ tiệc chia bàn theo màu
sắc. Quạ ngồi gần gà ô. Công ngồi gần chim anh tước. Chim sẻ, én
và thằn lằn ngồi chung. Tắc kè bước vào, chẳng biết ngồi đâu, vì
hắn chưa đổi màu kịp.
Hắn đành ra
về tự than trách: “Lúc mặc áo này lúc mặc áo nọ có gì hay đâu
chứ?”
Ngụ ngôn 41
Đinh lớn được
đóng chặt vô cột. Nhiều người đứng lại nhìn. Cây đinh bảo: “Bác
cột thấy không, nhờ có tôi mà người ta đứng nhìn, chứ bác cũ kỹ
xấu xí thế kia ai mà quan tâm.” Cây cột cãi liền: “Chú nhỏ mà hồ
đồ thế. Ai thèm nhìn cái đinh chả có tí nghệ thuật nào. Người ta
quan tâm là quan tâm tôi đấy.”
Hai bên đang
cãi nhau thì một người khách bảo: “Cây cột cũ quá. Cái đinh cũng
muốn cong rồi. Ta đem bức tranh sang bên kia đi”. Bức tranh treo
vào cây đinh được mang đi. Thiên hạ kéo theo hết. Cây đinh nói
với cột: “Bác và tớ đều tưởng mình là đỉnh cao nên ai cũng ngước
nhìn. Hóa ra khi hết được che đậy bằng bức tranh đẹp thì chẳng
ai còn nhìn đến. Vậy mà lâu nay hễ có dịp là ta chèn ép bức
tranh!”
Gioan Lê Quang Vinh
Mời thăm
www.giaoducconggiao.net
|
VỀ MỤC LỤC |
|
NHỮNG TƯ TƯỞNG CÔNG GIÁO ĐỊNH
HƯỚNG XÂY DỰNG QUỐC GIA
|
NGUYỄN
HỌC TẬP
I –
Mẫu tự văn phạm.
Không có
một đồ án, một dự thảo xây dựng quốc gia nào có thể được khai
triển, càng không có thể được đem ra thực hiện hoặc biến thành
chương trình chính trị, nếu đồ án hay dự thảo đó không được đặt
trên một nền tảng văn hoá chính trị chung.
Mọi ý kiến
chính trị không thể được đồng thuận biến thành văn hóa chính trị
chung, nếu bên dưới không có một nền luân lý chung, nếu
đa số người dân trong Quốc Gia không đồng thuận nhau về một
vài nền tảng và giá trị luân lý căn bản.
Và sau
cùng, nền luân lý sẽ không có cơ đứng vững, nếu không được
nâng đỡ bằng niềm tin tôn giáo.
Triết gia
và chính trị gia người Ý, ông Benedetto Croce đã nhìn
thấy rõ mối liên hệ
- giữa
chương trình chính trị và "niềm tin luân lý ",
- giữa
sơ đồ xây dựng quốc gia và văn hóa chính trị,
- giữa
"niềm tin luân lý " và tôn giáo,
khi ông
viết:
* "
Mối liên hệ giữa các chương trình chính trị và " niềm tin
luân lý " là " niềm tin luân lý " có trước các chương trình
chính trị và sinh ra chương trình chính trị.
Một khi
thiếu " niềm tin luân lý ", dù chương trình chính trị có huy
hoàng bao nhiêu cũng vô ích: một toà nhà không có nền móng vững
chắc không ai có thể củng cố bằng các vẻ đẹp kiến trúc và trang
hoàng được. Do đó cần xác nhận xem những ai đang nỗ lực tác tạo
ra chương trình, có phải là những người do ảo tưởng thúc đẩy
nhằm đạt được từ bên ngoài những trợ lực mà họ trống rỗng bên
trong chăng. Và nếu quả thật như vậy, trước hết cần giúp họ
thoát khỏi ảo tưởng đó và thúc đẩy họ kiện toàn, nơi chính họ
cũng như người khác, " niềm tin luân lý".
Trước
hết " niềm tin luân lý ", rồi mớí đến chương trình chính trị;
trước hết tâm hồn phải sẵn sàng, kế đến cánh tay mới tung vẫy
đầy nghị lực" ( Benedetto Croce, Cultura e vita morale,
cap.XXII: Fede e Programmi, Laterza, Bari 1955, 161.166).
Và rồi
B. Croce tiếp nối cho rằng: " niềm tin luân lý " chỉ
có thể đứng vững nếu " được tôn giáo nâng đỡ ".
Đức Giáo
Hoàng Gioan XXIII cũng kết thúc thông điệp Mater et Magistra
của Ngài với một tư tưởng tương tự:
- "
Giá trị luân lý chỉ có thể đứng vững trong niềm tin nơi Thiên
Chúa: tách rời khỏi Thiên Chúa, luân lý sẽ bị phân tán.
Bởi vì
con người không phải chỉ là một cơ thể vật chất, con người còn
là một hữu thể linh thiêng, được ban cho có tư tưởng và tự do.
Do đó con người cần có một bậc thang giá trị luân lý - tôn giáo.
Hơn bất
cứ giá trị vật chất nào, bậc thang giá trị luân lý và tôn giáo
ảnh hưởng đến các chiều hướng và phương thức giải quyết những
vấn đề của cuộc sống cá nhân và cộng đồng, bên trong cộng đồng
quốc gia cũng như đối với các liên hệ giữa các quốc gia với
nhau" ( ĐGH Gioan XXIII, Thông điệp Mẹ và Thầy, Mater et
Magistra, 208).
Văn hoá
chính trị, những bậc thang giá trị cần được tôn trọng hay "
niềm tin luân lý " và " lòng tin tôn giáo " được Đức
Giáo Hoàng Gioan Phaolô II nêu lên trong bài diễn văn trước Hội
Đồng Liên Hiệp Quốc như là những "mẫu tự văn phạm"
không thể thiếu trong cuộc sống có tổ chức của con người:
- "
Chúng ta không đang sống trong một thế giới không lý trí hay vô
nghĩa. Trái lại, trong thế giới của chúng ta hiện diện một ý
thức luân lý đúng lý, soi sáng cho sự hiện hữu của con người,
làm cho người có thể đối thoại với người, quốc gia với quốc
gia...Nếu chúng ta muốn thế kỷ của áp chế nhường chỗ cho thế kỷ
của thuyết phục, chúng ta phải tìm ra con đường để bàn luận, với
những ngôn từ có thể hiểu được và đồng thuận phổ quát. Luật luân
lý phổ quát được viết trong trái tim của mỗi con người là
một loại mẫu tự văn phạm cần thiết cho thế giới con người
để bàn luận với nhau về chính tương lai của họ " ( Gioan Phaolô
II, Discorso all'ONU, 05.10.1995, n. 3, in Osservatore Romano ,
06.10.1995).
Loại
mẫu tự văn phạm cần thiết để con người bàn luận với
nhau về chính tương lai của họ được Đức Gioan Phaolô II vừa đề
cập, chúng ta sẽ cố gắng cùng nhau tìm hiểu qua các giáo huấn xã
hội của Giáo Hội Công Giáo.
II -
Những nguyên tắc định hướng.
1
- Nguyên tắc nhân vị.
Nguyên tắc
đầu tiên trên đó nền luân lý và văn hóa chính trị đặt nền tảng,
để cùng nhau xây dựng một xã hội mới, chắc chắn phải là địa
vị tối thượng của con người.
Con người
có giá trị vì con người là con người, chớ không phải con người
là sở hữu chủ của tài sản gì hay làm được gì. Đó là mẫu tự
văn phạm luân lý đầu tiên.
Nhìn nhận
nguyên tắc tiên khởi nầy, tức là nhìn nhận thuyết lý cũng như
thực tế, con người với điạ vị thượng đẳng của mình là
- "
chủ thể, trung tâm điểm và là cùng đích của mọi cuộc sống kinh
tế và xã hội " (Hiến Chế Mục
Vụ về Giáo Hội Trong Thế Giới Ngày Nay, Gaudium et
Spes, 63).
Sau nhiều
thế kỷ tương phản cùng với nhiều lối suy tư lệch lạc, chúng ta
có thể tin rằng, ngoại trừ một vài nhóm người cố chấp vì quyền
lực và lợi lộc, tâm thức của hầu hết nhân loại đều đồng thuận:
- "
Các tín hữu tôn giáo cũng như người không tôn giáo gần như đều
đồng thuận với nhau rằng mọi sự vật hiện hữu trên mặt đất nầy
đều quy hướng về con người như là trung tâm điểm và tột đỉnh của
chúng" ( Gaudium et Spes, 12).
Đều xác
tín vừa kể của những ai có lương tâm ngay chính đã được sự mặc
khải Thiên Chúa Giáo xác định :
- "
Con người được Thiên Chúa dựng nên giống hình ảnh Ngài, có khả
năng nhận biết và yêu mến Đấng Tạo Hoá đã tạo dựng ra mình và
được chính Ngài dựng nên trổi vượt hơn mọi tạo vật trần thế như
là chủ nhân của chúng, để cai trị chúng và xử dụng chúng làm
vinh danh Thiên Chúa " ( id.).
Đức
Gioan XXIII
trong
thông điệp Pacem in Terris đã diển tả một cách rõ rệt hơn
nguyên tắc địa vị tối thượng của con người vừa được đề cập:
- "
Trong cuộc chung sống trật tự và sung mãn cần phải đặt làm nền
tảng nguyên tắc mỗi con người là một nhân vị, nghĩa là được ban
cho trí khôn ngoan và ý chí tự do; và như vậy là chủ thể của các
quyền và nhiệm vụ phát xuất lập tức và đồng lúc với chính bản
tính của mình. Bởi các quyền và nhiệm vụ đó có tính cách phổ
quát, bất khả xâm phạm và bất khả nhượng" (ĐGH Gioan XXIII,
Thông điệp Hòa Bình trên thế giới, Pacem in Terris, số 9 ).
Con người
là chủ thể các quyền và nhiệm vụ đi kèm với bản tính của mình.
Điều đó có nghĩa là quyền và nhiệm vụ của con người không do
quốc gia ban phát hay xác định mới có.
Nói cách
khác, con người với điạ vị tối thượng , quyền và nhiệm vụ của
mình có trước tổ chức quốc gia.
Ở trung
tâm điểm tổ chức quốc gia có con người với quyền và nhiệm vụ của
mình, khởi đầu là quyền được sống, là nền tảng của tất cả các
quyền căn bản khác: tự do tư tưởng, tự do lương tâm, tự do giáo
dục và hội họp, cùng mọi quyền chính trị và dân sự khác.
Từ nguyên
tắc địa vị tối thượng của con người vừa kể, chúng ta có thể rút
ra được hai hệ luận:
a -Tổ
chức quốc gia cũng như các tổ chức xã hội dân sự trung gian được
thiết lập để mưu cầu ích lợi chung, phải đặt lợi ích chung đó
tùy thuộc vào việc nhằm phát huy triển nở toàn vẹn con người.
Tổ chức
quốc gia và tổ chức xã hội có thể sắp xếp điều hợp các hoạt động
của người dân để đạt đến mục đích chung, nhưng không bao
giờ được hy sinh con người, hy sinh đời sống con người cho mục
đích của tổ chức, bởi vì quyền được sống là quyền căn
bản đối với tất cả các quyền khác.
b -
Chính con người cũng không có quyền xử dụng mạng sống của mình
cách nào tùy hỷ theo ý mình muốn, mà không vi phạm lằn mức
không thể vượt qua của luân lý, vi phạm đến địa vị cao cả
trổi thượng của mình. Bởi lẽ chính đời sống của con người và điạ
vị cao cả của mình không do con người tạo nên. Con người nhận
lãnh từ tay Thiên Chúa.
2
- Nguyên tắc liên đới.
Địa vị tối
thượng của con người không có gì làm cho con người đối nghịch
với xã hội. Trái lại, chính nơi bản tính cá nhân của con
người là nền tảng xã hội tính của con người.
Xã hội và
tổ chức quốc gia có sau con người, được thiết lập vì con người,
để phục vụ con người. Xã hội phát xuất từ con người là kết quả
của con người.
Đó là
những mẫu tự văn phạm luân lý thứ hai trong tiến
trình kiến trúc quốc gia.
Con người
hiện hữu và phát triển thành đạt chính mình luôn trong tổ chức
xã hội. Con người là một thực thể cá nhân vừa cá nhân, vừa xã
hội:
- "
Từ nguyên thủy, người nam và người nữ. Thiên Chúa dựng nên và sự
hợp nhất giữa họ là hình thức thông hiệp đầu tiên giữa hai nhân
vị. Thật vậy, con người do bản tính là một thực thể xã hội.
Không liên hệ với người khác , con người không thể sống và cũng
không thể phát huy các tài năng của mình "( Gaudium et Spes,
12).
Chính dựa
trên tính cách thiết yếu của xã hội tính con người, mà nền tảng
của sự bình đẳng giữa người nam và người nữ được thiết lập.
Nam và nữ
là hai cách thức hiện thể của con người. Hình ảnh của Thiên Chúa
được mặc khải dưới hình thức cả nam lẫn nữ:
- "
Thiên chúa dựng nên con người giống hình ảnh Ngài
Giống hình ảnh Thiên Chúa, Ngài dựng nên;
Người nam và người nữ, Ngài dựng nên " (Sáng thế 1, 27).
Trong
thông điệp về địa vị người phụ nữ, Mulieris Dignitatem, Đức
Gioan Phaolô II đã bình luận về hai cách thức hiện thể nam
nữ của con người như sau:
- "
Con người là một nhân vị, bình đẳng giữa người nam và người nữ:
bởi vì họ được dựng nên giống hình ảnh Thiên Chúa và giống như
Thiên Chúa(...) Chúng ta có thể hiểu rõ hơn nữa đặc tính của con
người là gì, nhờ vào cả hai - người nam và người nữ- giống như
Thiên Chúa... Trong việc kết hợp nhau, người nam và người nữ từ
thuở đầu không những được kêu gọi, người nầy sống bên cạnh người
kia hoặc sống chung nhau, mà là sống cho nhau, người nầy sống
cho người kia" ( ĐGH Gioan Phaolô II, Tông thư
Phẩm Giá Người Phụ
Nữ Mulieris
Dignitatem, 6.7).
Đặc tính
liên đới, bổ túc cho nhau của người nam và người nữ được
Thiên Chúa dựng nên để tạo thành khuôn viên đầu tiên cho xã hội
tính của con người: gia đình.
Khuôn viên
thứ hai cho xã hội tính của con người, rộng lớn hơn, những tổ
chức xã hội dân sự trung gian ( học đường, cộng đồng, hiệp hội,
đảng phái, làng xã thôn ấp...) cũng phát sinh từ xã hội tính của
con người, không kém gì gia đình.
Tổ chức xã
hội dân sự trung gian không ở bên ngoài, cũng không đứng bên
trên con người. Và ngược lại con người không thể sống còn bên
ngoài và bên trên các tổ chức xã hội dân sự.
Các tổ
chức xã hội dân sự có đặc tính " con người " và con người
có " xã hội tính ":
- "
Do xã hội tính của con người, chúng ta nhận thấy rõ rệt rằng
việc phát huy hoàn hảo con người và mức triển nở của xã hội tùy
thuộc nhau. Thật vậy, nguồn mạch, chủ thể và cùng đích của mọi
tổ chức xã hội phải là con người, cũng như điều mà con người do
bản tính của mình cần đến là xã hội tính. Bởi vì đời sống xã hội
không phải là một cái gì ở bên ngoài con người. Con người có thể
phát huy tất cả các tài năng của mình và có thể đáp ứng lại ơn
gọi của mình trong tương giao với người khác, trong nhiệm vụ hổ
tương và trong đối thoại với anh em" ( Gaudium et Spes, 25).
Qua những
điều vừa trính bày chúng ta thấy rằng niềm tin tôn giáo kiện
toàn những gì lẽ phải xác nhận và giúp chúng ta hiểu một cách
sâu xa hơn những gì lương tâm ngay chính hướng dẫn.
Dưới ánh
sáng vừa kể, chúng ta sẽ thấy rằng
- nếu
Đức Giáo Hoàng Leo XIII đề cập đến vấn đề lương bổng
tương xứng đối với giới công nhân trong thông điệp Rerum
Novarum ( 1881)
- thì
Đức Giáo Hoàng Pio XI, bốn mươi năm sau, với thông điệp
Quadragesimo Anno, đề cầp đến xã hội tính của con người,
đến quyền tư hữu như là dụng cụ để bảo vệ quyền tự do của cá
nhân, nhưng tư hữu cũng liên hệ mật thiết với chiều hướng xã
hội. Nguyên tắc liên đới một đàng ngăn cản chúng ta rơi
vào các ý thức hệ không tưởng xã hội chủ nghĩa, kinh tế chỉ huy
và cá nhân chủ nghĩa thái cực, đàng khác hướng dẫn chúng ta điều
hòa việc xử dụng quyền tự do tư hữu và hòa hợp tự do tư hữu với
công ích (ĐGH Pio XI,
Thông điệp Năm thứ
Bốn Mươi,
Quadragesimo Anno, 54).
Như chúng
ta đã thấy địa vị tối thượng và trung tâm điểm của con người
trong tổ chức quốc gia được xác tín và hỗ trợ bằng niềm tin tôn
giáo, trong đó con người được Thiên Chúa dựng nên giống hình ảnh
Ngài, cũng vậy lương tâm tự nhiên về liên đới hổ tương cũng được
niềm tin tôn giáo biến đổi lòng nhân ái ( philanthropie)
thành đức bác ái (charité).
Đức Gioan
Phaolô II lưu ý tầm vóc quan trọng của tôn giáo trong việc xây
dựng quốc gia:
- "
Cần lưu ý tầm quan trọng việc đánh thức lương tâm tôn giáo của
mọi người và của mọi dân tộc để thiết lập một xã hội với tầm vóc
con người" (ĐGV Gioan Phaolô II, Thông điệp Liên Đới Xã Hội
Sollecitudo Rei Socialis, 39).
Và dưới
ánh sáng cao cả của niềm tin Ki Tô giáo, sự liên đới hổ tương
đã biến thành đức bác ái Ki Tô giáo: người công dân
trong một quốc gia không chỉ là con người với quyền, tự do và
bình đẳng trong xã hội mà người khác phải kính trọng, con người
trong Ki Tô giáo là con Thiên Chúa:
" ...dưới
ánh sáng của đức tin, sự liên đới hổ tương có khuynh hướng vượt
thoát lên trên chính mình, để mang lấy những chiều hướng Ki Tô
giáo được Thiên Chúa ban tặng nhưng không, mang lấy chiều hướng
khoan dung tha thứ và hoà giải.
Người
thân cận không những chỉ là con người với các quyền và bình
đẳng căn bản đối với tất cả mọi người, mà còn trở thành hình ảnh
của Thiên Chúa, được Đức Giêsu cứu chuộc bằng máu Ngài và luôn
được đặt trong ân sủng của Chúa Thánh Linh. Do đó người thân
cận là người phải được thương yêu, dẫu cho là kẻ thù, cũng bằng
chính tình thương mà Thiên Chúa yêu thương anh ta. Và cho anh
ta, nếu cần, cũng phải sẳng sàng hy sinh , ngay cả sự hy sinh
tột đỉnh: "hy sinh mạng sống mình vì anh em ". Nói vắn tắt: sự
liên đới Ki tô giáo xây dựng cộng đồng và đem đến sự " thông
hiệp" huynh đệ " ( Gioan Phaolồ II, Thông điệp Các Vấn Đề Xã Hội
Sollecitudo Rei Socialis, 39).
Như vậy
đức bác ái, một hình thức của tình thân hữu liên đới được niềm
tin tôn giáo tăng cường, thúc giục chúng ta quyết định những
chọn lựa can đảm và nhiều khi anh hùng để mưu ích cho người
khác, nhứt là đối với những kẻ thấp cổ bé họng, những con người
bị loại ra bên lề xã hội, " dân oan bị đánh đập", tù nhân
bị tra tấn, " trấn nước", " bịt miệng ", đối xử như súc
vật.
Đức bác ái
Kitô giáo không phải chỉ đòi buộc là những cảm nhận tình cảm, mà
còn đòi buộc cảm nhận tình cảm và thực hiện bằng động tác, hành
xử như người Samaritanô nhân hậu ( Lc 10, 29-37).
Đức bác ái
khiến chúng ta dấn thân tự nguyện chia sẻ những thiếu thốn, bần
cùng của anh em, trợ giúp người nghèo để biến chính họ trở thành
những chủ thể có khả năng thăng tiến đời sống của họ và từ đó
thăng tiến đời sống của người thân cận.
Một phương
diện khác của đức bác ái, tình thân hữu liên đới được niềm tin
tôn giáo tăng cường, là sự hiện hữu của đức bác ái làm cho công
lý có bộ mặt nhân bản hơn.
Đức Giáo
Hoàng Gioan Phaolồ II trong suốt hai tiểu đoạn của thông điệp
Sollecitudo Rei Socialis đã đề cập đến đức bác ái như là nền
tảng của mọi sự hoà thuận xã hội, trên bình diện quốc gia cũng
như quốc tế.
- Nếu
trong quá khứ chúng ta định nghĩa hoà bình là kết qủa của
công lý ( opus justitiae pax),
-
thì hôm
nay chúng ta có thể nói hoà bình là kết quả của tình liên đới
( opus solidarietatis pax) hay đúng hơn của đức bác ái (
Gioan Phaolồ II, Sollecitudo Rei Socialis, 39).
Áp dụng
vào tổ chức xã hội, nguyên tắc liên đới giúp cho chúng ta
một vài tiêu chuẩn để phán đoán:
- "
cần phải thực hiện những đòi buộc của công lý, để khỏi bị lầm
lẫn xem những nhiệm vụ do công lý đòi buộc thành quà tặng do
lòng bác ái,
- cần
phải loại trừ không những hậu quả của tai ác, mà cả những nguyên
nghân của nó,
- các
nguồn viện trợ giúp đỡ cần được tổ chức thế nào để những ai nhận
được trợ giúp dần dần được giải thoát khỏi phải tùy thuộc vào
người khác, trở thành chủ thể tự lập cho chính mình" (
Apostolicam Actuositatem, 8).
3
- Nguyên tắc bổ trợ ( sussidiariété ) .
Như trên
đã nói, con người có trước các tổ chức xã hội dân sự và xã hội
dân sự có trước tổ chức quốc gia. Đó là quan niệm chính yếu về
xã hội và quốc gia của tư tưởng công giáo.
Tư tưởng
đó đã được Cha Luigi Sturzo, vị sáng lập Đảng Đại
Chúng ( Partito Popolare), tiền thân của Đảng Dân Chủ
Thiên Chúa Giáo ( Democrazia Cristiana) Ý giải thích
:
"- Đối
với chúng tôi - diễn từ tại Đại Hội IV Đảng Đại Chúng,
Torino 12.04.1923- Quốc Gia là một xã hội tổ chức một cách
chính trị để đạt được những mục đích đặc biệt;
Quốc
Gia không bóp nghẽn, không tiêu hủy, không tác tạo ra các quyền
của con người, của gia đình, của xã ấp, của đoàn thể , của tôn
giáo .
Quốc gia
chỉ " nhận biết " và " bảo vệ ", phối hợp các quyền đó trong
giới hạn hoạt động của mình.
- "
Đối với chúng tôi, quốc gia không phải là nguồn mạch luân lý,
không tác tạo ra luân lý, mà chỉ diễn đạt luân lý thành luật lệ
và cung cấp cho các luật lệ đó sức mạnh xã hội,
- Đối
với chúng tôi, quốc gia không phải là tự do, quốc gia cũng không
ở trên tự do, quốc gia chỉ " nhận biết " và phối hợp, định chế
các giới hạn để ngưòi dân sử dụng tự do không làm băng hoại
thành giấy phép.
- Đối
với chúng tôi, quốc gia không phải là tôn giáo. Quốc gia kính
trọng tôn giáo, bảo đãm cho quyền thực thi tôn giáo được diễn
đạt ra bên ngoài và ở những nơi công cộng.
- Đối
với chúng tôi, quốc gia không phải là tổ chức siêu nhiên thu hút
đời sống của mọi cá nhân.
-
Quốc gia là một tập thể phức tạp, có nhiệm vụ hoạt động trong
liên đới, phát huy các động năng của mình trong cơ chế, trong đó
một quốc gia văn minh được tổ chức " (Luigi Sturzo, Il Partito
Popolare, vol II : Il Popolarismo e Fascismo (1924), Zanichelli,
Bologna 1956, 107).
Mối tương
quan năng động giữa các tổ chức xã hội dân sự và tổ chức quốc
gia được dựa trên nguyên tắc bổ trợ: các tổ chức dân sự,
tổ chức nghiệp đoàn, hiệp hội, xã ấp, quận, tỉnh, vùng là
những cấu trúc tự nhiên của xã hội.
Mỗi tổ
chức vừa kể có những đặc tính riêng, lãnh vực tự lập, lý do tồn
tại của mình mà tất cả đều phải tôn trọng. Tính cách liên đới hổ
tương năng động liên hệ giữa các tổ chức làm cho các cơ chế
quốc gia trở thành những biểu tượng thoả đáng cho các tổ chức xã
hội dân sự và cho các nhu cầu cần được thoả mãn.
Chính Đức
Giáo Hoàng Pio XI là người tiên khởi tuyên bố nguyên tắc bổ trợ:
- "
Cần ý thức một cách chắc chắn nguyên tắc tối quan trọng nầy của
triết lý xã hội: tước bỏ đi đối với cá nhân điều gì cá nhân tự
mình có thể làm được bằng sức lực và sáng kiến của mình là
hành vi bất chính, thì cũng bất chính không kém giao cho một tổ
chức xã hội lớn hơn và ở thứ bậc cao hơn điều gì các tổ chức xã
hội nhỏ hơn và ở độ thấp hơn có thể thực hiện.
Điều
vừa kể là một tai hại trầm trọng vừa là một sự xáo trộn trật tự
xã hội. Bởi vì đối tượng của bất cứ việc an thiệp nào của
chính xã hội là trợ giúp và nâng đở các thành phần của xã hội
chớ không phải tiêu diệt hoặc thu hút hấp thụ các thành phần đó
" (Pio XI, Quadragesimo Anno, 86).
Nêu lên
những điều vừa kể, Đúc Piô XI có ý lên án các ý thức hệ ỷ thế
độc tài toàn trị quy tóm mọi động tác của con người và tổ chức
xã hội dân sự dưới quyền hành lãnh đạo của tập quyền trung ương
như ý thức hệ Cộng Sản, Phát Xít và Đức Quốc Xã.
Cộng Sản,
Phát Xít và Đức Quốc Xã đều đã bị phá sản, hiện nay Giáo Hội
công giáo áp dụng nguyên tắc bổ trợ vừa nêu trên và lưu ý
chính quyền trong việc
- can
thiệp vào đời sống kinh tế trong phạm vi quốc gia( Gioan
XIII, Mater et Magistra, 51-58),
- cũng
như trong các mối tương giao quốc tế (ĐGH Gioan XXIII, Pacem
in Terris, 141).
Và sau đây
là lời huấn dụ của Công Đồng Vatican II trong hiện tại:
- "
Người công dân, với tư cách cá nhân cũng như thành viên của các
đoàn thể có quyền và nhiệm vụ tham dự một cách tích cực vào việc
công cộng. Do đó, giới hành quyền một đàng đừng cản trở các tổ
hợp gia đình, các hiệp hội xã hội hoặc văn hóa, các cơ cấu và tổ
chức trung gian, cũng đừng làm cho họ thiếu các hoạt động chính
đáng và hữu hiệu của họ; đàng khác người dân, riêng rẻ hay đảng
phái, đừng ủy thác cho chính quyền qúa nhiều quyền lực, cũng
đừng kỳ vọng ở chính quyền quá nhiều lợi lộc. Làm như vậy có thể
đưa đến việc giảm đi trách nhiệm của người dân, của gia đình và
của các đoàn thể xã hội " ( Gaudium et Spes, 75).
Nói cách
khác, lối quốc gia cứu tế của Cộng Sản, guồng máy quan liêu, lối
cai trị trung ương tập quyền bóp nghẽn các tổ chức tự trị địa
phương là hình thức bệnh hoạn và lạc hướng đối đường lối tổ
chức xã hội chính đáng, đi ngược lại nguyên tắc phụ túc bổ
trợ.
Đó là quy
luật mẫu tự văn phạm thứ ba, một quy luật không
thể vi phạm mà không lãnh lấy hậu quả tệ hại.
Mỗi khi
giao cho quốc gia, trái ngược lại với nguyên tắc bổ trợ,
những nhiệm vụ mà đáng lý ra phải để cho các tổ chức xã hội
trung gian hoặc những cơ quan hành chánh địa phương thực hiện,
chúng ta không làm điều gì khá hơn là sang bằng những khó khăn
để cho các thói hành xử lạm quyền và hối lộ có cơ sinh sôi
nẩy nở.
Lạm quyền
và hồi lộ sẽ mạnh mẽ phát triển, khi tổ chức quan liêu trở thành
to tác vượt bậc và được ủy thác cho những nhiệm vụ quá to lớn và
quá tốn kém.
Một xã hội
hợp với tầm vóc con người là một xã hội dựa trên ưu tiên của các
xã hội dân sự trung gian, khuyến khích và giao trách nhiệm cho
các hiệp hội, đoàn thể, cộng đồng, làng xóm, quận, tỉnh, vùng và
các tổ chức tự nguyện:
- "
Tổ chức xã hội ở bậc cao hơn không nên can thiệp vào đời sống
riêng tư của một tổ chức ở bậc thấp hơn, làm cho tổ chức thấp
hơn bị mất thẩm quyền. Trái lại trong trường hợp cần thiết tổ
chức ở bậc ao hơn phải trợ lực tổ chức ở bậc thấp phối hợp hoạt
động của mình với các thành phần xã hội khác, để đạt được công
ích" ( Gioan Paholồ II, Centesimus Annus, 48).
4 -
Nguyên tắc công ích .
Nguyên tắc
mẫu tự văn phạm thứ tư , nguyên tắc công ích,
là nguyên tắc được coi như là kết qủa của việc tuân giữ ba
nguyên tắc vừa được đề cập. Nguyên tắc công ích phối hợp và thực
hiện ba nguyên tắc trên .
Công ích
là gi?
Nhiều ý
thức hệ định nghĩa công ích một cách giới hạn.
- quan
niệm tự do cổ điển cho rằng công ích chỉ là vấn đề tư riêng. Mỗi
người phải tự lo lấy cho mình, thực hiện thành đạt đời sống mình
càng hoàn hảo càng tốt, tìm cách đạt được mục đích mà mình nhắm
tới. Thành đạt để tạo cho mình hạnh phúc là đủ. Vấn đề liên đới
hổ tương không nằm trong mẫu tự văn phạm của họ.
Như vậy
công ích không có gì khác hơn là tổng số các thành đạt và
hạnh phúc cá nhân gộp lại. Một đoàn cừu hạnh phúc trên đồng
cỏ, khi mỗi con cừu được tự do ăn no nê số lượng cỏ ngon tùy
thích, mỗi con tự tạo hạnh phúc cho mình. Người mục tử ( hay
quốc gia) có nhiệm vụ canh chừng để không con cừu nào bị ngăn
cấm.
Trong quan
niệm vừa kể, mọi tư tưởng liên quan đến luân lý và giá trị
thiêng liêng đều không có chỗ đứng.
Cuộc sống
cộng đồng không phải chỉ có mục đích tạo hạnh phúc cho cá nhân,
bởi vì có những lợi ích vừa cá nhân vừa là của tất cả mọi người
trong cộng đồng. Đó là những lợi ích không thể phân chia, chỉ có
thể đạt được nếu mọi người đều nổ lực góp phần : lợi ích đó vượt
lên trên lợi ích của mỗi cá nhân, nhưng đồng thời là điều kiện
không thể thiếu để thực hiện lợi ích cho cá nhân:
- "
Công ích được thể hiện trên thực tế là tập hợp những điều kiện
xã hội cho phép và trợ giúp cho mỗi người được phát triển toàn
vẹn con người của mình" ( Gioan XXIII, Mater et Magistra, 65).
Qua câu
xác định vừa kể của Đức Giáo Hoàng Gioan XXIII, chúng ta
thấy rằng quyền tối thượng của con người vẫn là yếu tố thiết yếu
trong quan niệm công ích, " trợ giúp cho mỗi người đưọc phát
triển toàn vẹn con người của mình".
Nhưng con
người đó chỉ có thể thực hiện chính mình trong môi trường xã
hội, " công ích là... tập hợp những điều kiện xã hội cho phép
và trợ giúp..." . Bởi lẽ con người là thành phần nội tại của
xã hội và vì con ngưòi là một hữu thể có xã hội tính.
Do đó xã
hội con người không thể so sánh với đàn cừu, trong đó con nầy
đứng bên cạnh con kia.
Xã hội con
người là một cộng đồng, trong đó lợi ích cá nhân liên hệ chặt
chẽ với lợi ích của những người khác. Và như vậy, mỗi khi lợi
ích của tôi tương phản với lợi ích của anh, điều đó có nghĩa là
có một cái gì đó cần được dẹp bỏ đi. Sự đụng chạm và tranh chấp
trong cuộc sống xã hội không bao giờ có thể giải quyết bằng lấn
lướt, dùng sức mạnh đè bẹp người yếu thế, mà là tìm kiếm sự đồng
thuận cho công ích.
Đức
Gioan Phaolô II
nhận xét:
- " ...những
ước vọng của xã hội nhiều khi không được cứu xét theo tiêu chuẩn
công bình và luân lý, mà theo sức mạnh của lá phiếu hoặc sức
mạnh tài chánh của những phe nhóm ủng hộ ( ...) Từ đó càng ngày
càng không có khả năng xếp đặt các lợi ích riêng tư trong cái
nhìn đúng đắn về công ích. Công ích không phải đơn sơ chỉ là
tổng số các lợi ích riêng tư, mà còn hàm chưa việc định giá trị
và cứu xét thành phần kết cấu của chúng dựa trên nền tảng của
bậc thang giá trị và nói cho cùng, dựa trên sự hiểu biết chính
xác về địa vị và các quyền của con người" ( Gioan Phaolồ II,
Centesimus Annus, 47).
- một quan
niệm giới hạn khác về công ích, đó là quan niệm tập thể
của ý thức hệ cộng sản.
Theo đó
thì công ích hoàn toàn hấp thụ tất cả mọi mục đích xã hội khác,
kể cả ích lợi của cả bản thân con người.
Thay vì
con người, quan niệm tập thể đặt quyền tối thượng cho giai
cấp, đảng phái và quốc gia. Và trong quan niệm tập thể, luân lý
và tôn giáo linh thiêng không có chổ đứng.
Công ích
đối với quan niệm tập thể cộng sản chỉ nhằm đạt đến việc gia
tăng sản xuất đến mức nhiều nhứt có thể, đến việc tạo ra thịnh
vượng kinh tế, đến việc quốc gia đứng ra cung cấp các phục vụ,
không cần biết tiến trình vừa kể có làm con người mất cá tính
và phẩm giá của mình hay không.
Người
dân trong quan niệm tập thể cộng sản chỉ còn là những con số,
bị san bằng cưỡng bách và giả tạo, không đếm xỉa gì đến năng
khiếu riêng tư, nhu cầu và khả năng sáng tạo của mỗi người.
Quan niệm
công ích của Công giáo bao hàm một cái nhìn bao quát hơn những
gì của hai quan niệm giới hạn vừa kể.
Dĩ nhiên
công ích của quan niệm Công giáo
- cũng
bao gồm tất cả những điều kiện vật chất phải có để phát triển
hoàn hảo con người,
- nhưng
đồng thời cũng mở ngỏ cho những giá trị thiết yếu khác để cho
con người có được một cuộc sống cho ra người. Đó là giá trị của
nghệ thuật, của văn hóa, giáo dục, suy niệm, chiều hướng thiêng
liêng và tôn giáo:
- "
Trong thời đại chúng ta càng ngày con người càng ý thức về địa
vị cao cả của mình, con người trổi thượng hơn mọi sự vật. Các
quyền và nhiệm vụ của con người có giá trị phổ quát và bất khả
xâm phạm. Do đó con người cần phải có được tất cả những điều
kiện cần thiết để có thể có được một cuộc sống xứng đáng là
người, như cơm nước, áo quần, nhà cửa, quyền được tự do lựa chọn
cách thức sống và quyền tự do được thành lập gia đình, giáo dục
con cái, quyền làm việc, quyền danh dự được kính trọng, quyền
được thông tin, quyền được hành động theo tiếng nói của lương
tâm ngay chính, quyền được bảo vệ mạng sống riêng tư và cả tự do
chính đáng trong lãnh vực tôn giáo" ( Gaudium et Spes, 26).
Như vậy
công ích phù hợp với phẩm chất của cuộc sống hơn là số lượng sản
phẩm được cung cấp.
Nói tóm
lại, muốn kiến tạo quốc gia để con người có được một cuộc sống
xứng đáng với nhân phẩm con người, không có con đường nào khác
hơn là đặt nền tảng quốc gia trên những nguyên tắc " mẫu
tự văn phạm" luân lý chung mà Thiên Chúa đã viết
vào tâm hồn con người, khi Ngài dựng nên con người:
- "
Ta hãy tạo dựng con người giống như Ta "
- "
Thiên Chúa dựng nên con người giống hình ảnh Thiên Chúa " ( Gen
1, 26.27).
Quốc gia
của con người cho ra người không có nền tảng nào khác hơn là nền
tảng
- trên
đó con người có quyền tối thượng , là trung tâm điểm và cùng
đích của tổ chức quốc gia,
- trên
đó tình liên đới thân hữu giữa người với người được đặt lên hàng
quốc sách,
- trên
đó nguyên tắc liên đới hổ tương và bổ trợ được cổ võ khiến cho
mọi người tham dự một cách có trách nhiệm vào việc xây dựng
công ích, công ích được hiểu theo quan niệm rộng lớn của Công
Đồng Vatican II vừa được trích dẫn ( Gaudium et Spes,
26).
|
VỀ MỤC LỤC |
|
SỰ THẬT
|
Ông Philatô
nói với Chúa Giêsu: "Sự thật là gì?"(Jn 18:38)
Ngay từ
khởi đầu khi Thiên Chúa tạo dựng con người, tổ
tiên của chúng ta là Ađam và Evà đã bị mắc bẫy
của ma quỷ cám dỗ: Rắn nói với người đàn bà:
"Có thật Thiên Chúa bảo: "Các ngươi không được
ăn hết mọi trái cây trong vườn không? Người đàn
bà nói với con rắn: " Trái trên cây ở giữa vườn,
Thiên Chúa đã bảo: "Các ngươi không được ăn,
không được động tới, kẻo phải chết."…. Bà liền
hái trái cây mà ăn, rồi đưa cho cả chồng đang ở
đó với mình; ông cũng ăn. Bấy giờ mắt hai người
mở ra, và họ thấy mình trần truồng: họ mới kết
lá vả làm khố che thân (Stk 3:1-7).
1.
Sự Thật Ở Đâu
Có mấy lần
chúng ta dám đứng lên để nói sự thật và làm
chứng cho sự thật. Người khôn ngoan là người
biết lúc nào cần nói sự thật và lúc nào cần im
lặng. Người ta thường nói: Khôn chết, dại
chết, biết thì sống. Không phải cứ sự thật
là chúng ta có quyền phát biểu hay phải tỏ lộ.
Câu truyện Tự ái vặt kể rằng trên đường
Huế-Quảng Trị, một viên đại úy cùng vợ đi xe đò
ra Quảng Trị. Đến đoạn đường mất an ninh, anh em
giải phóng vận đồ lính ra chặn xe. Không tìm
được dấu vết gì chứng tỏ ông chồng là lính nhưng
chúng có vẻ nghi ngờ điều chi đó, nên một tên lừ
đừ tiến tới bạt tai ông đại úy mấy cái và bồi
thêm mấy cú đá. Ông ta cắn răng chịu nhưng bà vợ
nổi nóng nói: Anh là đại úy mà để cho tên lính
xử nhục thế hả? Oan nghiệt thay, ông chồng lãnh
đủ tràng AK sau câu nói đó.
Sống trong
hoàn cảnh xã hội xô bồ, con người không nhiều
thì ít, bị ảnh hưởng tới sự chọn lựa và phán
đoán của mình. Đôi khi chúng ta chưa đụng chuyện
thì xem ra ai cũng có vẻ lý tưởng hóa cuộc đời.
Cuộc sống không luôn dễ dàng ứng xử trong mọi
trường hợp. Không ai có thể tự cho mình là luôn
trong sáng nơi mọi vấn đề cuộc sống. Khi thức
đêm mới biết đêm dài. Nhìn lại quá khứ trong
các trại tù tập trung, có một số người trong
chúng ta khi bị giam giữ đã phải qụy lụy người
khác, một điều thưa, hai điều dạ. Đã có những
lần chúng ta nghe những bài học giả dối mà máu ứ
lên tới cổ, nhưng không dám than một lời. Có
những lần chúng ta oằn lưng mang vác những gánh
nặng mà không dám kêu la một tiếng. Có những lần
xếp hàng cả buổi chờ đợi một nhân vật tầm thường
mà cũng không dám hé môi. Trong một vài hoàn
cảnh, không phải lúc nào chúng ta cũng có thể
nói sự thật, có thể phát biểu điều phải lẽ hay
có thể đi đứng theo ý mình.
2.
Nói Sự Thật Khi Nào
Khi nào
chúng ta cần nói sự thật? Đây là một vấn đề
không dễ phân biệt trắng đen. Trong cuộc sống
thường nhật, có phải lúc nào chúng ta cũng phải
nói đúng sự thật như trong tâm trí và ý muốn của
chúng ta không? Truyền thống xã hội có những
luật trừ, chúng ta không cần phải nói hết sự
thật. Như khi có ai mời ghé nhà chơi, chúng ta
có thể chối từ vì đang bận hay không có thời giờ
nhưng thực ra chúng ta có thời giờ. Hoặc gặp
người quen hỏi ông bà đi đâu đó? Trả lời rằng
tôi đi đàng này đàng kia. Chúng ta không buộc
phải trả lời sự thật với những người không có
trách nhiệm đòi hỏi. Vì nhiều khi người ta có
những câu hỏi để mà hỏi, họ cũng không cần nghe
câu trả lời. Người ta nói mời ông bà, anh chị ăn
cơm nhưng đâu phải mời ăn. Đôi khi đói bụng đấy
nhưng chúng ta cũng tìm cách trả lời khéo là
không đói. Đây không phải là che dấu sự thật, mà
là cách nói tế nhị trong sự giao tế thôi.
Chỉ có sự
thật sẽ giải thoát chúng ta. Tất cả mọi cách
gian trá, lừa lọc, dối gian đều đi ngược với sự
thật. Trong cuộc sống đời thường, đôi khi chúng
ta đã giả vờ, đã đóng kịch, đã dấu diếm để khỏi
bị lộ mặt nạ. Có lẽ ai trong chúng ta cũng có
một chút kinh nghiệm về sự thiếu ngay thẳng này.
Sự gian dối làm cho con người chúng ta trở thành
hèn hạ. Và vị quan án xét xử chúng ta trước hết
là tiếng nói lương tâm của chính mình. Thần của
sự gian dối sẽ không buông tha chúng ta đâu. Nói
dối này sẽ kéo theo nói dối khác, tạo thành một
giây dối trá. Như thế chúng ta sẽ xa dần sự thật
và lẽ phải. Chúa Giêsu mời gọi chúng ta cùng
bước theo Ngài vào con đường sự thật. Chúa chính
là nguồn của sự thật. Chúa Giêsu nói: "Chính
Thầy là con đường, là sự thật và là sự sống.
Không ai đến với Chúa Cha mà không qua Thầy (Jn
14:6). Sự thật của Chúa Giêsu là sự thật gì?
Sự thật của ơn cứu độ.
3.
Che Dấu Sự Thật
Có nhiều
khi chúng ta biết rõ đó là sự gian dối, nhưng
chúng ta vẫn cứ làm. Chúng ta nói gian và làm
chứng dối để được lợi cho chúng ta. Chúng ta đâu
có nghĩ rằng chúng ta đang phạm điều răn của
Chúa: Chớ làm chứng dối. Nếu lương tâm
không được ngay thẳng hoặc bị nhiễm thói đời
gian dối thì chúng ta cũng rất khó để lượng định
phải trái và thật hư. Sự gian dối có thể qua mặt
được những người khác và cả đại diện chính
quyền, nhưng không thể gian dối trước mặt Chúa.
Đã có nhiều lần chúng ta dối gian, lừa đảo nhưng
lương tâm của chúng ta không hề cắn rứt. Có lẽ
tiếng nói lương tâm không còn trong sáng và lời
của Chúa không còn tác động mạnh trong tâm hồn
của chúng ta. Chính chúng ta đã tạo cơ hội để
con cái hay chính mình làm tiền qua việc hôn
nhân giả, ly dị giả, khai báo địa chỉ giả, giấy
tờ giả… và chúng ta nghĩ rằng không hề gì, miễn
là có tiền và đạt mục đích mình mong muốn.
Con người chúng ta tham lam
thật đấy! Chúng ta muốn làm tôi tiền của gian
dối và cũng muốn được hưởng phúc thiên đàng.
Biết rằng sống là chúng ta phải tìm kiếm của ăn
để nuôi sống và hưởng thụ. Điều này dĩ nhiên rồi,
Chúa luôn ban cho chúng ta đầy đủ khả năng để
kiếm tìm những thứ này. Chúa còn ban thêm cho,
để cuộc sống càng dư dật. Con người cao quí hơn
mọi con vật. Cặp mắt của các loài vật chỉ nhìn
xuống để tìm mồi ăn. Đôi mắt của con người có
thể ngước nhìn lên cao, nhìn ngang chung quanh
và nhìn xuống đất kiếm tìm của ăn. Như thế sứ
mệnh của con người là bắt đầu từ dưới đất và
hướng lên trời cao. Ngưỡng vọng về thiên đàng là
cùng đích của cuộc đời. Thế nhưng cõi đời này
lại qúa hấp dẫn và lôi cuốn. Chúng ta cứ mải mê
cúi xuống đi tìm, lần mò trong đêm tối, càng
ngày càng lún sâu và lạc lối không biết đường ra.
Chúng ta không thể làm tôi Thiên Chúa và làm tôi
tiền của cùng một lúc. "Không
ai có thể làm tôi hai chủ, vì hoặc sẽ ghét chủ
này mà yêu chủ kia, hoặc sẽ gắn bó với chủ này
mà khinh dể chủ nọ. Anh em không thể vừa làm tôi
Thiên Chúa vừa làm tôi Tiền Của được (Mt 6:24.)
4.
Lạc Mất Sự Thật
Chúng ta
đang sống trong một xã hội thiên về giá trị vật
chất. Tiêu chuẩn sống hiện nay là thỏa mãn,
hưởng thụ và nhiều lợi nhuận được xếp hạng ưu
tiên. Con người phải chạy chọt, thi đua, phấn
đấu liên tục để mưu sinh. Cuộc chạy đua không
thể ngừng vì nhu cầu đòi hỏi càng ngày càng cao
và khẩn thiết. Trong khi khát vọng đòi thỏa mãn
của con người thì bao la. Vấn đề luân lý đạo đức
được xếp vào hàng thứ yếu. Đôi khi sự im lặng tế
nhị của chúng ta bị hiểu lầm. Hình như ngay cả
các bậc phụ huynh cũng đang bị thụt lùi trong
lãnh vực đạo đức này. Có những quan niệm sống
hời hợt và sống sao cũng được. Con cái muốn gì,
cha mẹ cứ để chúng thỏa mãn tự nhiên. Người ta
nói im lặng là đồng lõa đó. Đời sống gia
đình có nguy cơ mất dần sự quan tâm lẫn nhau.
Trong hoàn cảnh này, cha mẹ hãy chú tâm lắng
nghe con cái và chia sẻ kinh nghiệm. Thật tội
nghiệp cho những cha mẹ phải rơi vào những tình
trạng ngặt nghèo và khó xử đối với con cái.
Thương con lắm, không thể bỏ con được dù cho con
cái có ngỗ nghịch, sa đọa, lạc lối và sai lầm.
Cha mẹ vẫn cứ phải chấp nhận yêu thương ấp ủ và
tha thứ. Người ngoài cuộc khó có thể hiểu được
những khúc đoạn trường và đắng cay của cha mẹ vì
con.
Câu truyện
con chiên đi lạc. Con chiên thấy một lỗ hổng
bên bờ rào. Con chiên chui qua và mải gặm cỏ
quanh quẩn mãi không biết đường về. Rồi nó phát
hiện có một chú cho sói đang theo sau. Nó chạy
và chạy mãi, chó sói tiếp tục đuổi theo. Cho tới
khi chủ chiên tìm đến và cứu vớt nó. Cho dù
nhiều người khuyến cáo chủ chiên hãy vít lỗ hổng
nơi hàng rào. Chủ chiên vẫn từ chối. Đây là một
chọn lựa. Con cái dù có lầm lạc thế nào đi
nữa, cha mẹ cũng luôn rong ruổi tìm con. Cha mẹ
cho con một vòng tay nương tựa. Cha mẹ cũng
không thể chặn rào khóa cửa. Hãy giúp cho con
cái tìm học những kinh nghiệm trường đời và chọn
đường sống trong sự thật. Có va chạm thử thách
mới có nên người. Cho dù đôi khi đó là những
kinh nghiệm phải học bằng máu và nước mắt. Sau
cùng sự thật sẽ giải thoát chúng.
5.
Sự Thật Ở Đâu
Trong hoàn
cảnh xã hội văn minh ngày nay, qua ảnh hưởng của
các đảng phái, các nhóm tranh đấu và các phe
phái đã dùng nhiều thủ đoạn để đạt mục đích của
mình. Lời hứa thì nhiều mà thực hiện chẳng bao
nhiêu. Chính quyền nào mà không hứa bảo vệ sự
sống của người dân. Chính sách và đường lối của
các chính trị gia không luôn rõ ràng minh bạch.
Họ có rất nhiều uẩn khúc và ý đồ. Bảo vệ sự sống
nhưng không đơn giản để định nghĩa thế nào, khi
nào sự sống cần được bảo vệ. Các nhà cầm quyền
luôn luôn bảo vệ tối đa quyền sống của trẻ nhỏ
khi đã được sinh ra. Nhưng ngược lại, nhiều quốc
gia đã sai lầm hệ trọng trong sự hợp pháp hóa
việc phá các bào thai trong lòng người mẹ. Thử
hỏi giữa nhi thai 5 hoặc 6 tháng có khác gì bao
nhiêu với thai nhi 7 hay 8 tháng trong lòng mẹ.
Trẻ sơ sinh vừa ra khỏi lòng mẹ có khác chi với
thai nhi còn cưu mang trong lòng mẹ. Đây chỉ là
vấn đề thời gian. Nhưng rồi các nhà làm luật
lườn lẹo để có thể giết chết các thai nhi cho
tới 6 tháng tuổi trong cung lòng mẹ. Họ hợp pháp
hóa việc giết trẻ và còn khuyến khích các bác sĩ
làm thế. Tôi không thể nào hiểu nổi. Như thế, họ
giết đó, rồi bảo vệ đó. Đời sống luân lý đạo đức
đã bị biến dạng mất rồi. Vậy đâu là sự thật của
sự sống?
Phá Thai là giết người. Truyện kể ngày nọ có
một thiếu phụ tay ẵm một thiếu nhi bước vào
phòng mạch bác sĩ gia đình. Thưa bác sĩ, xin bác
sĩ vui lòng giải quyết khó khăn nầy: đứa nhỏ đây
mới chưa đầy một tuổi, và tôi lại mang thai nữa
rồi. Chắc bác sĩ cũng biết là tôi không muốn có
con dày như vậy. Tôi không đủ sức chịu đựng
được. Thế thì bà muốn tôi giúp gì đây? Bất cứ
điều gì có thể cất được các của nợ này. Sau một
hồi suy nghĩ, bác sĩ trả lời: Tôi có một cách
giải quyết tốt hơn để giúp bà. Nếu bà không có
hai đứa con sinh gần nhau như vậy, tốt nhất là
giết đứa con bà đang ẵm trong tay, vì đối với
tôi, giết đứa trong bụng bà hay giết đứa trong
tay bà thì cùng như nhau. Vả lại, nếu giết đứa
trong bụng thì lại còn nguy hiểm cho bà nữa. Vừa
nói xong, vị bác sĩ vươn tay lấy con dao nhỏ và
bảo người thiếu phụ đặt đứa nhỏ lên vế bà, đưa
đầu ra phía ông ta. Lúc đó người thiếu phụ tái
xanh mặt và thét lên: Đồ sát nhân. Chỉ vài lời
nói, vị bác sĩ đã thuyết phục được người thiếu
phụ trẻ hiểu ra rằng việc ông ta đề nghị giết
đứa con một tuổi của bà thì cũng chẳng tệ hại
hơn lời thỉnh cầu giết đứa bé chưa sinh trong
bụng bà. Đàng nào cũng là giết người. Chỉ có một
khác biệt là tuổi của hai đứa trẻ mà thôi.
6.
Sự Thật Giải Thoát
Sự thật trong đời sống gia
đình rất quan trọng. Vợ chồng cần phải cư xử
thật thà với nhau trong mọi khía cạnh của cuộc
sống. Hôn nhân cần có sự thật về lòng chung thủy,
sự thật về chi thu tài chánh và sự thật về tình
cảm. Đây là những mấu chốt xây dựng đời sống
hạnh phúc gia đình. Tục ngữ ca dao ghi rằng:
Sông sâu còn có kẻ dò, lòng người nham hiểm ai
đo cho cùng. Trong đời sống vợ chồng, chúng
ta không nói đến sự nham hiểm nhưng nói đến sự
sâu thẳm gian dối của lòng người. Rất khó dò tìm
đâu là sự thật, vì lẽ đó đã có không biết bao
nhiêu cuộc hôn nhân đã tan vỡ. Tan vỡ vì không
sống với sự thật. Tan vỡ vì họ phát hiện ra sự
thật phũ phàng nơi người phối ngẫu. Chúng ta
biết rằng sự thật thì phũ phàng, nhưng chỉ có sự
thật mới có thể giải thoát.
Chúa Giêsu
phán: Các ông sẽ biết sự thật, và sự thật sẽ
giải phóng các ông (Jn 8:32).
Ăn nói
quanh co là mở đường cho thần gian dối bước vào.
Chúa Giêsu dạy chúng ta: Nhưng hễ "có" thì
phải nói "có", "không" thì phải nói "không".
Thêm thắt điều gì là do ác quỷ (Mt 5:37). Sự
dữ khéo len lỏi vào mọi nơi, sự dối gian thường
xảy ra nơi bóng tối hay nơi kín đáo. Vì người ta
lo sợ bị phát hiện ra sự thật, nên cuộc sống mất
đi niềm an vui tự tại và mất sự bình an. Ai phạm
tội thì làm nô lệ cho tội (Jn 8:34). Sự thật thì
như ban ngày đối diện với ánh sáng của mặt trời.
Mãi vươn lên trong chân lý và sự thật trong sáng.
Chúa Thánh Thần chính là
Thần Chân Lý sẽ dẫn đưa chúng ta đến sự thật.
Một sự thật không gian dối, không lừa gạt và
không theo cảm tính mà là sự thật trần trọi phơi
bày. Sự thật được ví như cây tre được bóc lớp vỏ,
càng bóc bỏ đi những vướng bận, càng vươn cao và
càng thanh thoát. Sự thật tinh tuyền không do
nơi nhiều người đồng ý với nhau, mà sự thật do
từ trên cao. Một sự thật vĩnh hằng là sự thật
của ơn cứu độ. Chính Ngôi Hai, Con Thiên Chúa hạ
thế làm người để cứu độ chúng ta. Ai muốn được
vào nước hằng sống hãy trở nên như trẻ thơ. Tâm
hồn trẻ thơ là tâm hồn chân thật tinh trong.
Chúa Giêsu phán:
Thầy bảo thật anh em: Ai không đón nhận Nước
Thiên Chúa với tâm hồn một trẻ em, thì sẽ chẳng
được vào (Mk 10:15).
Nói tóm lại,
mỗi Kitô Hữu được mời gọi để nói sự thật, làm
nhân chứng cho sự thật và sống sự thật. Sống sự
thật là sống trong đường lối của Chúa. Chỉ sự
thật có thể giải thoát chúng ta khỏi những u mê
lầm lạc của thế gian. Lạy Chúa, xin đừng để
chúng con nhân danh Thần Chân Lý để thực hành
những điều giả dối và dẫn đường sai lối. Xin cho
chúng con nhận ra những giá trị đích thực của
niềm tin, niềm trông cậy và niềm yêu mến. Xin
hướng dẫn chúng con đi trong chân lý của Chúa để
chúng con tìm ra lẽ sống thật. Chúng con sẽ được
ngụp lặn trong ánh sáng tinh tuyền là nguồn của
Chân Thiện Mỹ.
Giuse Trần Việt Hùng
Bronx, New York
|
VỀ MỤC LỤC |
|
HAI MÀU ÁO
|
Thưa quí bạn,
hôm nay mục Sống Sao Cho Đẹp tiếp tục mời bạn học hỏi về
chủ đề xây dựng sự hiệp nhất qua câu chuyện sau đây.
Có hai người
bạn chơi thân với nhau từ thời niên thiếu. Khi đã trưởng thành,
hai người bạn vẫn muốn giữ tình bạn thắm thiết với nhau; nên sau
khi lập gia đình, họ quyết định sống gần nhau; họ ở đối diện
nhau giữa hai bên con đường làng.
Tình bạn của
họ thật thắm thiết cho đến một ngày kia khi một người trong làng
quyết định thử thách tình bạn của họ. Ông này may một chiếc áo
hai màu; bên phải màu đỏ, còn bên trái màu xanh. Một ngày kia,
khi thấy cả hai người bạn đang làm vườn, người đàn ông mang
chiếc áo hai màu đi qua con đường ở giữa hai người bạn. Người
đàn ông vừa đi vừa đánh trống để cố ý gây sự chú ý cho hai người
bạn để họ nhìn thấy chiếc áo của mình.
Chiều đến,
hai người bạn gặp nhau để nói chuyện như mọi ngày. Trong khi nói
chuyện, một người bạn hỏi người bạn kia: “Anh có thấy người đàn
ông mang áo đỏ đánh trống hôm nay không?” Người kia trả lời,
“Không, tôi thấy anh ta mang áo màu xanh.” “Ồ không,” người kia
đáp lại, “rõ ràng là anh ta mang áo màu đỏ, chính mắt tôi thấy
cơ mà.” “Anh lầm rồi.” người bạn kia đáp lại, “Chính tối thấy
anh ta mang áo màu xanh, vừa đi vừa đánh trống.” Người kia đáp
ngay, “Anh mù à, ông ấy mang áo màu đỏ.” Người kia tức giận phản
ứng ngay, “Mày nói ai mù, tao thấy ông ta mang áo màu xanh.” Như
thế cuộc cãi vã biến thành cuộc ẩu đả, và hai người bạn đã đánh
nhau. Tình bạn thắm thiết bao nhiêu năm giờ đây chấm hết vì
không thể vượt qua cuộc thử thách về cái tôi của mình.
Người đàn ông
tiến lại chỗ hai người với chiếc áo hai màu trên mình, bên phải
màu đỏ, bên trái màu xanh. Điều này làm cho hai người bạn sững
sờ nhìn nhau. Họ liền đổ lỗi cho người đàn ông vì chính ông ta
mà làm cho họ mất tình bạn. Người đàn ông đáp lại, “Hai anh ạ,
các anh đừng đổ lỗi cho tôi. Cả hai anh đều đúng, và cả hai đều
sai. Các anh đánh nhau vì các anh nhìn chiếc áo của tôi theo
quan điểm khác nhau của mỗi người.”
* * *
Quí bạn thân
mến, xây dựng sự hiệp nhất mời gọi chúng ta học hỏi sự khác biệt
của nhau, chấp nhận sự khác biệt của nhau, và quí trọng những sự
khác biệt ấy. Nếu chúng ta nhận biết và quí trọng sự khác biệt
của mỗi người, thì chúng ta mới thấy giá trị của một cộng đoàn
không phải là nằm ở chỗ mọi người cùng như nhau, nhưng là cùng
nhau hướng đến một mục đích. Một cộng đoàn có nội lực mạnh là
một cộng đoàn có sự khác biệt nhưng không có sự tách biệt. Sự
khác biệt làm cho cộng đoàn ấy thêm phong phú, đa dạng và đầy
sức sống. Sự tách biệt chỉ dẫn đến sự xáo trộn chia rẻ, và tan
vỡ.
Câu chuyện
hôm nay nhắc nhở chúng ta về khả năng nhìn toàn cục của vấn đề
hơn là chỉ nhìn một khía cạnh của nó. Để giải quyết một vấn đề
nào đó trong cộng đoàn, chúng ta cần có cái nhìn tổng thể hơn
chỉ là nhìn một chiều phiến diện. Mỗi đồng tiền điều có hai mặt,
thì mỗi sự việc cũng có hai mặt của nó. Quan điểm của chúng ta
có thể là đúng, nhưng còn quan điểm và ý kiến của người khác thì
sao?
Hôm nay mục
Sống Sao Cho Đẹp mời gọi bạn cẩn trọng hơn và bao dung
hơn trong cái nhìn của mình về tập thể và cộng đoàn mình, và
cũng như về những cá nhân lãnh đạo cộng đoàn mình. Trước khi góp
ý điều gì, chúng ta cần hỏi lại chính mình, ngoài màu “đỏ” mà
mình thấy trước mắt, liệu rằng mình có thấy màu “xanh” ở phía
bên kia không?
Br.
Huynhquảng
|
VỀ MỤC LỤC |
|
NHỮNG VẤN ĐỀ CỦA HÔN NHÂN
|
LTS. Đây là những bài thuyết
trình tác giả muốn dành đặc biệt cho các Cha và các Thày Thần
học để làm Counseling cho những cặp Hôn Nhân.
“Nhân Vô Thập Toàn.” “Con người
là bất toàn.” Đây cũng là chủ trương của Alfred Adler và trường
phái của ông. Con người không phải là thần thánh nên vẫn còn có
rất nhiều thiếu sót, lỗi lầm mà dẫu cho con người có muốn xa
tránh cũng không thể tránh khỏi. Vì thế, trong cuộc sống chung
của đời sống hôn nhân, con người không thể nào thoát khỏi những
xung đột rắc rối xảy ra trong đời sống gia đình.
BẢN TÍNH CỦA
NHỮNG VẤN ĐỀ CỦA CON NGƯỜI
Những trục trặc rắc rối mà chúng
ta gặp trong cuộc sống chung thì vô kể. Suốt cuộc đời chúng ta
có thể nói là để khắc phục chướng ngại. Hôn nhân thì có lợi vì
nó mang hai người đến với nhau để giúp nhau cùng chiến đấu cho
sự sống còn. Mặc dầu hôn nhân giúp chúng ta đáp ứng được những
bổn phận của cuộc sống, chính nó cũng là một bổn phận phãi được
thõa đáp. Trong hôn nhân chúng ta đối đầu không chỉ những vấn đề
thông thường của cuộc sống mà còn nhiều vấn đề đặc biệt xuất
phát từ hôn nhân. Chúng ta có thể xem những điều đó như một trắc
nghiệm về khả năng chung sống của chúng ta với người khác.
Những quan sát nầy cho thấy rằng
mỗi vấn đề đều có liên quan tới mức độ khác nhau của cá tính và
của cuộc sống. Trên bề mặt, nội dung của vấn đề xuất hiện trước.
Chúng ta ý thức về sự không thoải mái. Cảm giác chủ quan nầy
được gây ra bỡi hoàn cảnh cụ thể rõ ràng. Kinh tế, xã hội, nghề
nghiệp, hoặc những xung khắc tính dục xem ra đòi hỏi những cố
gắng đặc biệt. Nếu những cố gắng không giải quyết được, sự không
vui thích và chán nản theo sau. Ngày xưa, sự giúp đỡ và hướng
dẫn bị giới hạn đối với những qui chế đặc biệt, là những điều
cần phải được tuân giữ để bảo đảm sự cộng tác và hài hòa trong
đời sống hôn nhân. Những đề nghị được cống hiến thì thuộc về kỷ
thuật, giới thiệu những tiến trình kỷ thuật đặc biệt phải được
tuân theo để thõa đáp những hoàn cảnh cụ thể rõ ràng. Những luật
lệ được viết ra để hướng dẫn hành động con người. Ngày nay, các
nhà tâm lý tìm đằng sau bất cứ vấn đề cụ thể nào một cấu trúc
hoàn toàn khác với vấn đề hiển nhiên tự nó, là cái có thể được
xem như là một triệu chứng. Mỗi vấn đề có liên quan đến cái toàn
thể của hoàn cảnh sống, là cái được tạo nên bỡi những sức mạnh
bên ngoài và thái độ của chúng ta bị ảnh hưởng từ quá khứ như:
cách sống, sự huấn luyện, và sự chuẩn bị của chúng ta.
Bất cứ sự thảo luận có tính cách
xây dựng nào về những vấn đề đang gây sự bất đồng và sự đụng độ
đều mặc khải cho chúng ta thấy những lỗi lầm tâm lý là những cái
đã gây nên những vấn đề rắc rối hoặc đang làm cản trở những giải
quyết thõa đáng. Dẫu xem ra đối với chúng ta là: sự đối đầu của
chúng ta với cuộc sống mang lại những đụng độ cụ thể và thật sự,
là những cái đã mang lại những tổn thương, đau đớn, và ngay cả
sát hại, nhưng thật ra sự xung khắc chỉ nằm trong chính chúng ta.
Câu hỏi sự thật có hiện hữu không hoặc chỉ có trong quan niệm
chúng ta về nó, vẫn còn là một vấn đề triết lý và là một vấn đề
khó hiểu, làm chúng ta dễ bị lẫn lộn. Ở đây chúng ta đang sống
trong một thế giới tâm lý, một thế giới sẽ hoàn toàn khác biệt
khi chúng ta nhìn đằng sau bề mặt của một vấn đề. Sự phân tích
những vấn đề cụ thể cho thấy sự khác biệt căn bản giữa vẻ mặt
bên ngoài của vấn đề và những sức mạnh tạo nên nó. Mỗi vấn đề là
một biểu lộ sức mạnh của cá thể và của xã hội nằm bên dưới bề
mặt. Sự giải quyết những xung khắc đòi hỏi sự thấu hiểu những sự
việc đang nằm bên dưới cũng như những hoàn cảnh và những cá tính
có liên quan.
CHỦ QUAN VỀ
NHỮNG VẤN ĐỀ
Bao lâu còn sống, ta còn chứng
kiến: quyền lực sẽ chống đối nhau, quyền lợi sẽ choảng nhau, và
những đòi hỏi sẽ xung khắc nhau. Sự sống sẽ nhường lối cho sự
chết và sự phát triển sẽ làm sống lại sự hủy diệt. Điều đó thì
đúng cho con người, sinh vật, gia đình, quốc gia, và thế giới.
Sự xung khắc và đụng độ không có nghĩa là đau khổ, ngay cả sự
chết cũng ít khi đau đớn. Những điều không may xảy ra chịu trách
nhiệm cho một số những đau khổ cũng như những bất hạnh của chúng
ta. Thật khó tin nhưng lại đúng, đó là sự chết, bệnh tật, chiến
tranh, và nghèo khổ chỉ gây một phần nhỏ của những khốn cùng của
con người hôm nay. Khả năng thích nghi của con người vào những
hoàn cảnh bi đát nhất thì thật là lạ lùng. Đau khổ xảy ra trong
chính chúng ta. Nó đến từ thái độ chúng ta đối với sự việc. Nó
nằm trong đầu óc chúng ta. Điều đó không có nghĩa là chúng ta
không ý thức về hoàn cảnh sống, trái lại chúng ta nhận thức hơn
bao giờ hết cái tương quan giữa sự kiện và lý trí. Chúng ta biết
lý trí con người tạo nên sự kiện và hoàn cảnh, nhưng cũng chính
nó bị kích động bỡi sự kiện và cảm nghiệm. Có sự tương quan giữa
cá nhân và môi trường của nó. Nhưng bất cứ tình trạng nào dù
phấn khởi hay không phấn khởi đều tuỳ thuộc vào hoàn cảnh theo
mức độ giới hạn. Thái độ của chúng ta nói lên sự chấp nhận hay
từ khước, và chỉ sự khước từ mới được nối liền với cảm giác
không vui thích.
Thái độ chúng ta xác định ý nghĩa
của sự kiện. Sự kiện tự nó, sự sống tự nó, không tốt không xấu,
không vui không chán. Chính thái độ hay phản ứng của chúng ta
mới đáng kể. Hầu hết mọi sự đều chứa đựng những cái có thể, ngay
cả cái chết hoặc đau khổ cũng có thể chấp nhận và chào đón. Đau
đớn có thể là dấu hiệu của sự tiến triển hoặc chữa lành như sinh
con hoặc như là dấu hiệu đầu tiên của sự bình phục đối với bệnh
tê liệt; vì thế, đau đớn ở đây là một điều rất thích thú, một
nỗi vui mừng lớn lao, và là một niềm hy vọng đầy tràn nữa. Có
thể nói được rằng mình có thể rút được cái hay, cái tốt từ bất
cứ cái gì, và cái xấu cũng vậy. Hoàn cảnh nào cũng có thể tiêu
diệt hay kích động một tương lai. Sự quyết định riêng của chúng
ta, cái tiên kiến của chúng ta hướng dẫn cái nhìn của chúng ta
đối với cái đẹp hoặc cái xấu và làm chúng ta nhìn thấy sự hữu
ích hoặc tai hoạ. Thành kiến biến sự thật thành sự tưởng tượng:
chúng ta thấy điều chúng ta thích thấy và tìm được điều chúng ta
mong tìm. Chúng ta học bằng kinh nghiệm theo mức độ giới hạn vì
chúng ta thường tạo nên những kinh nghiệm, điều đó có nghĩa là
chúng ta xếp đặt chúng và cắt nghĩa chúng theo như ý chúng ta
muốn.
Sự cắt nghĩa quá lý tưởng về cuộc
sống sẽ bị tố cáo là quên mất thực tế phức tạp được sản sinh
bỡi những điều kiện bên ngoài chúng ta. Theo kinh nghiệm hàng
ngày của chúng ta, cuộc đời chúng ta dường như bị quyết định bỡi
những sức mạnh bao quanh mà so với những sức mạnh đó, sức mạnh
chúng ta xem ra nhỏ bé. Những điều kiện vệ sinh, bảo đảm kinh tế
hoặc thất nghiệp, chiến tranh hoặc sự phồn vinh có ảnh hưởng
quyết định trên giòng đời sống chúng ta. Một nhóm người bị ngược
đãi và bị đàn áp, có thể ít bao gồm hoặc sản sinh những cá nhân
hạnh phúc, và những người đói khổ ít khi lạc quan. Có phải những
sức mạnh xã hội không quan trong hơn những thái độ cá nhân không?
Những quan điểm mâu thuẫn có trách
nhiệm cho nhiều hiểu lầm trong những liên hệ cá nhân, trong sự
nghiên cứu, và trong việc hướng dẫn. Chủ nghĩa vật chất và tâm
linh đại diện cho những bộ mặt khác nhau của đời sống. Có một
khoảng thời gian rất lâu, người ta chú trọng đến con người về
phương diện kinh tế và xã hôi, điều đó thuộc chủ nghĩa vật chất;
những quan niệm về tôn giáo và triết lý trái lại thuộc chủ nghĩa
tâm linh. Tuy nhiên, ngày nay chúng ta đang hướng về một quan
niệm toàn diện về cuộc đời. Chúng ta tìm thấy trong tâm lý cũng
như trong xã hội cả hai khuynh hướng vừa thực tế vừa lý tưởng.
Những nhà tâm lý về nhân cách chỉ công nhận những ảnh hưởng cụ
thể trên cá nhân trong khi các nhà tâm lý về ngôn ngữ xem những
cách cắt nghĩa và quan niệm cá nhân như là những yếu tố quyết
định. Xem ra khó hoà nhập cả hai quan điểm. Trong cố gắng hòa
hợp hai bộ mặt nầy, cả hai xem ra đều đúng nhưng lại mâu thuẫn
nhau, chúng ta nhận được sự giúp đỡ từ khoa vật lý học hiện đại.
Các nhà vật lý cho thấy rằng cái chúng ta gọi là nguyên nhân là
qui luật của con số lớn, trong khi một phân tử xem ra không nhất
định và không thể tiên đoán trước về di chuyển và tốc độ của nó.
Áp dụng cho những vấn đề con người, quan niệm về nguyên nhân có
những hậu quả hấp dẫn.
Những yếu tố xã hội là những ảnh
hưởng vật chất quyết định số phận của đám đông. Những ảnh hưởng
như thế có tính cách quyết định cho một số lớn chứ không cho cá
nhân. Chẳng hạn, nhân số ở Mỹ thất nghiệp tùy theo điều kiện xã
hội và kinh tế mà ảnh hưởng của chúng thì rất lớn lao. Bất cứ sự
thăng tiến nào của những điều kiện nầy đều sản xuất sự gia tăng
công việc và bất cứ sự thoái hoá nào cũng đều làm giảm công việc.
Tương quan nầy là chắc chắn. Nhưng dẫu cho anh và tôi thất
nghiệp thì việc đó cũng không nhất quyết bỡi kinh tế và xã hội,
cũng không bỡi con số người thất nghiệp. Nó tùy thuộc cách chúng
ta đáp trả sự cần thiết để có cuộc sống. Nếu chúng ta cố gắng
chịu khó hơn, chúng ta có thể tìm được công việc hoặc chúng ta
có thể tạo nên công việc.
Đây là phương cách lý tưởng để
giải quyết vấn đề một cách trái ngược với chủ nghĩa quyết định
của nguyên nhân. Cả hai phương pháp có giá trị rõ rệt nếu chúng
ta phân biệt cách rõ ràng rằng cái đầu nên được dùng trong việc
xem xét những vấn đề cá nhân và cái thứ hai trong việc phán đoán
những điều kiện tổng quát. Tỉ lệ phần trăm của những người tự tử
trong cộng đồng vẫn giữ không thay đổi một cách lạ lùng từ năm
nầy qua năm khác, và có liên hệ đến điều kiện kinh tế hoặc liên
hệ đến môi trường chính trị và xã hội là những cái gây nên sự
thăng giảm trong con số. Suốt thời gian chiến tranh và cách mạng,
con số tự tử thường giảm. Nhưng cá nhân có tự tử hoặc không thì
hoàn toàn đôc lập với giá gạo và tình trạng chiến tranh.
Dầu bị lôi kéo bỡi mọi ảnh hưởng,
hành động của họ không hoàn toàn bị quyết định bỡi những ảnh
hưởng đó. Không có yếu tố nào khác quyết định, cũng không có một
quyền lực không thể thay đổi nào khác trên họ. Chính cá nhân họ
hoàn toàn tự do lập chương trình và làm theo chương trình đó.
Thái độ của họ được tạo thành trong một khoảnh khắc nhưng có nền
tảng và phù hợp với lối sống cá nhân, quyết định những bước nào
họ sẽ đi và hướng nào họ sẽ di chuyển.
Lm
Lê Văn Quảng Psy.D.
|
VỀ MỤC LỤC |
|
NHỮNG KHÁC BIỆT CỦA VỢ LÀ BỔ TÚC
CẦN THIẾT CHO CHỒNG
|
Tác phẩm: Cẩm Nang Hạnh Phúc Gia Đình
Kitô - MỤC VỤ HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH
Tác
giả: D. WAHRHEIT (Lm. Minh Anh, GP. Huế tổng hợp biên tập)
A11. NHỮNG KHÁC BIỆT CỦA VỢ LÀ BỔ
TÚC CẦN THIẾT CHO CHỒNG
Kinh Thánh đã kể lại rằng, sau khi
tạo dựng Ađam Thiên Chúa nói: “Đàn ông ở một mình không tốt”,
cho nên Ngài mới dựng nên người đàn bà. Ngài cho Ađam ngủ say và
lấy một chiếc xương sườn của ông để dựng nên người đàn bà.
Dường như dân tộc nào cũng có một
huyền thoại riêng của dân tộc mình về nguồn gốc con người. Nhưng
có lẽ không có một câu chuyện nào mang nhiều ý nghĩa thâm thúy
cho bằng tường thuật của Kinh Thánh. Hình ảnh chiếc xương sườn
mà Thiên Chúa rút ra từ Ađam để tạo dựng người đàn bà nói lên ý
nghĩa thâm sâu của tình yêu. Thật thế, chỉ có tình yêu khi có sự
khác biệt và bổ túc cho nhau. Người đàn ông giống như một tác
phẩm chưa được hoàn thành hay như một người đã đánh mất chính
mình. Do đó, họ phải không ngừng tìm kiếm những gì mình đã đánh
mất. Chỉ nơi người đàn bà, người đàn ông xem ra mới có thể tìm
gặp lại bản thân. Cái khác biệt nơi người đàn bà bổ túc cho điều
thiếu sót nơi người đàn ông.
Tình yêu lứa đôi, hạnh phúc hôn
nhân chỉ có mỗi khi có sự hài hoà giữa những khác biệt ấy. Đó là
nguyên tắc cơ bản nhất mà người chồng cần phải nắm vững để xây
dựng và bảo toàn hạnh phúc lứa đôi. Nguyên tắc ấy không cho phép
người chồng cư xử theo lối “chồng chúa vợ tôi” với vợ
mình. Nguyên tắc ấy đòi hỏi ông chồng phải biết tôn trọng những
khác biệt nơi vợ mình. Yêu thương đích thực không có nghĩa là
xóa bỏ những khác biệt của nhau, bắt người khác phải làm theo ý
mình, bắt người khác phải nên giống mình nhưng chính là biết
tiếp nhận những khác biệt của người mình yêu thương như những
giá trị bổ túc cho những thiếu sót nơi mình. Đó là điều mà một
lần nữa, chúng tôi xin được nói với những người chồng trẻ.
1.
Đa số các bà vợ than phiền rằng: họ phải chịu đựng tính
ích kỷ, sự thiếu quảng đại, thái độ hồ đồ và thiếu cảm thông của
người chồng. Nói chung, rất nhiều người vợ cảm thấy chưa nhận
được đầy đủ sự chú ý của chồng mình. Có những người đàn ông mắc
phải những chứng bệnh tâm lý, chỉ làm đủ mọi cách để hành hạ vợ
mình. Nhưng cũng có những người đàn ông vụng về và thiếu hiểu
biết đến độ hành hạ vợ mình mà không hay. Đó là hạng người không
muốn cảm thông với vợ mình.
Cảm thông với một người nào đó tức
là tự đặt mình vào địa vị và hoàn cảnh của người ấy để hiểu được
những vấn đề, những khó khăn và những nỗi khổ của người ấy.
Có biết bao ông chồng không hề
thấy được những vật vã và bao hy sinh của người vợ trong việc
nội trợ. Không ai bắt người đàn ông phải làm những công việc của
người vợ nhưng ít ra người đàn ông biết yêu thương và cảm thông
với vợ, biết nâng đỡ và trợ giúp vợ, nhất là không tạo thêm
những gánh nặng mới cho vợ mình.
2.
Người chồng thể hiện sự cảm thông với vợ bằng sự nâng đỡ trong
công việc gia đình. Nhưng quan trọng hơn cả và cơ bản hơn cả, là
có thể đi vào nếp suy nghĩ, lối lý luận của người vợ. Đây là
điều xem ra khó thực hiện nhất đối với người đàn ông. Có những
người đàn ông sẵn sàng hy sinh cho vợ, sống chết cho vợ nhưng
lại không bao giờ chịu nhượng bộ mỗi khi trao đổi hoặc tranh
luận với vợ. Những người đàn ông này quên rằng: quan hệ của
người đàn bà với người đàn ông hầu như luôn luôn xây dựng trên
cảm tính. Người đàn bà đến với người đàn ông hầu như không phải
để thông tin một hiểu biết hay để đi tìm kiếm một chân lý khách
quan, mà trước hết là để thiết lập một tương quan. Người ta vẫn
nói, người đàn bà không lý luận bằng lý trí mà bằng con tim.
Do đó, tìm cách thuyết phục người
đàn bà bằng sự lý luận không những vô ích mà còn nguy hại là
khác. Điều này luôn luôn đúng trong quan hệ giữa hai vợ chồng.
Những cuộc tranh cãi giữa hai người thường không giải quyết được
bất cứ một vấn đề nào bởi vì xem ra mỗi người đều có cái lý của
mình. Người chồng tìm được lý lẽ trong lý luận uyên bác và mạch
lạc của họ nhưng người vợ lại có lý lẽ của trái tim.
Trong đời sống vợ chồng, người ta
không thể cư xử theo lối ăn miếng trả miếng. Người chồng không
thể trả đũa một hành động xấu của vợ bằng một hành động xấu của
mình. Người chồng cũng không thể đem những lý lẽ của mình ra để
bắt bẻ người vợ. Người chồng càng cố gắng chứng tỏ sự có lý của
mình càng đẩy người vợ vào thế tự vệ và đối kháng. Chỉ có sự cảm
thông mới là khí giới hữu hiệu nhất của người đàn ông. Người ta
thường kể giai thoại của nhà hiền triết Hy Lạp Socrate để kêu
gọi sự cảm thông và nhẫn nhục của người chồng:
Socrate không may có một người
vợ tính tình nông nổi bốc đồng. Một hôm giữa lúc ông đang giảng
dạy cho các môn sinh thì bà vợ đến làm nhục ông trước mặt mọi
người. Nhưng nhà hiền triết vẫn điềm nhiên như không có chuyện
gì xảy ra. Ông mỉm cười nói với các môn sinh: “Sau cơn mưa trời
lại sáng”. Đó là cách
cư xử của một nhà hiền triết, một đấng trượng phu nhưng đó cũng
phải là khuôn vàng thước ngọc của mọi người chồng.
3.
Có người sẽ mỉm cười bảo rằng, phản ứng như vậy là sợ vợ.
Nhiều người đàn ông sợ bị chế diễu như người sợ vợ hoặc mang mặc
cảm sợ vợ. Có thể do quan niệm “chồng chúa vợ tôi” mà
nhiều người cho rằng, đàn ông phải là người làm chủ, ra lệnh
phán bảo trong gia đình, và người vợ chỉ là một người “gọi dạ
bảo vâng”. Người đàn ông có thể là chủ trong các liên hệ với
bên ngoài, nhưng trong gia đình, người đàn bà là người điều
khiển đời sống tình cảm của người đàn ông. Như thế, giữa hai
người luôn có sự bình đẳng và bổ túc cho nhau.
Nếu người vợ đi ngược lại với ý
kiến của người chồng, thì người chồng nên nhớ rằng: thường thì
người vợ chỉ làm điều đó vì lợi ích gia đình. Ý kiến ngược lại
hay đúng hơn sự khác biệt của người vợ khiến cho người chồng
phải làm sáng tỏ và đào sâu quan điểm và những quyết định của
mình.
Nói tóm lại, người chồng cần phải
luôn cảm thông với vợ bằng cách đặt mình vào địa vị và hoàn cảnh
của vợ để từ đó, đón nhận những khác biệt của vợ như là những
giá trị bổ túc cho những thiếu sót của mình.
|
VỀ MỤC LỤC |
|
TrẮc NghiỆm Tâm Lý và Phân ĐỊnh Ơn GỌI |
[BẢN THẢO]
LINH MỤC GIÁO PHẬN SỐNG TU ĐỨC TOÀN DIỆN
TRONG BỐI CẢNH THỰC TẾ CỦA GIÁO HỘI VÀ XÃ HỘI VIỆT NAM HÔM NAY
Lm.
Micae-Phaolô Trần Minh Huy pss
CHƯƠNG HAI
ỨNG SINH LINH MỤC
GIÁO PHẬN
CỦNG CỐ NHỮNG BƯỚC
ĐẦU
PHÂN ĐỊNH VÀ SỐNG
ƠN GỌI
(tiếp theo)
B.VIII.
TrẮc NghiỆm Tâm Lý và Phân ĐỊnh Ơn GỌI
B.VIII.1
Đông Lực và Những Giới Hạn
Vì ảnh hưởng của
lối sống buông thả luân lý và hưởng thụ khoái lạc, cùng những gương xấu và hậu
quả tai hại của lạm dụng tình dục, nhiều người đòi hỏi các ứng sinh ơn gọi phải
trải qua những trắc nghiệm tâm lý và tính dục.
Đối với tâm thức
của người Việt Nam vốn rất dè dặt, nhất là trong lãnh vực giới tính, việc này
rất tế nhị và có nguy cơ tai hại là làm cho người ta bị cám dỗ nói dối, và nếu
đã nói dối một lần, họ sẽ có cớ mạnh để tiếp tục nói dối nữa. Vì thế, những trắc
nghiệm tâm lý nên chỉ được sử dụng giới hạn thôi, và không được dùng để điều tra
lai lịch, moi móc những bí mật sâu kín, hầu đánh giá tính thích hợp toàn diện
của ơn gọi ứng sinh.
Tuy nhiên, trắc
nghiệm tâm lý ở những giai đoạn khác nhau của cuộc đời vẫn là hữu ích: khả năng
và thái độ của ứng sinh có thể được kiểm tra và bất cứ khuyết điểm hay yếu kém
tâm lý nào cũng có thể được chữa lành nhờ chữa trị hay tham vấn tâm lý. Nhưng
nhà chuyên môn chỉ được phép tìm kiếm và tường trình về những gì mà chính ứng
sinh không biết hay không thể diễn tả và giải thích được. Hơn thế nữa, theo Đức
Gioan Phaolô II, chúng ta phải quan tâm tới việc đào tạo các chuyên gia tâm lý:
ngoài trình độ khoa học cao, họ còn cần có sự hiểu biết đến nơi đến chốn quan
điểm Kitô giáo về chức linh mục và đời sống ơn gọi linh mục nữa, hầu cung ứng sự
trợ giúp hữu hiệu cho việc hội nhập cần thiết của các chiều kích nhân bản và
siêu nhiên.
Đồng ý với quan
điểm của Đức Thánh Cha, tiến sĩ Rick Fitzgibbons, chuyên gia tâm thần đề nghị
rằng các chuyên gia tâm lý và tâm thần dấn thân cho nhiệm vụ quan trọng đặc biệt
là đánh giá các ứng sinh linh mục phải tham dự các chương trình đào tạo trung
thành với giáo huấn của Hội Thánh về luân lý tính dục.
B.VIII.2
Tiến Trình
Cơ sở đào tạo sẽ
cung ứng cho ứng sinh việc tham vấn cá nhân với một chuyên gia tâm lý/tâm thần.
Cuộc đối thoại phải được giữ riêng tư và bí mật. Mỗi cá nhân được tự do gặp
chuyên gia tâm lý/tâm thần khi nào tùy ý muốn.
Khuôn khổ căn bản
của việc tư vấn là một mô hình trị liệu ngắn, trong đó các kỹ thuật trị liệu tập
trung vào các đề tài nổi cộm và những xung đột đã biết. Mục đích là làm cho ứng
sinh được tư vấn có khả năng gia tăng các phương tiện có sẵn của mình để hiểu rõ
và giải quyết xung đột, đồng thời giúp ứng sinh trở thành người trị liệu cho
chính mình, nghĩa là giúp đương sự hội nhập các phương diện của câu chuyện đời,
nhân cách và tâm linh của đương sự.
Thỉnh thoảng có
những thiếu cân bằng hoá học khiến các cá nhân trải nghiệm sự chán nản và những
chán nản này cần được chẩn đoán và chữa trị. Cũng tương tự như thế với một số
tình trạng băn khoăn lo lắng. Phải hiểu vai trò chuyên gia tâm lý/tâm thần là
trợ giúp ứng sinh hiểu biết toàn diện hơn về nhân cách của mình. Do đó, ứng sinh
hoàn toàn tín nhiệm chọn tư vấn với chuyên gia tâm lý/tâm thần được nhà đào tạo
đề nghị. Sự tín nhiệm này vẫn còn nguyên vẹn, ngay cả khi nhà đào tạo đề nghị
một tư vấn như thế nhằm cho ứng sinh trưởng thành ở mức độ sâu hơn.
B.VIII.3
Trắc Nghiệm Tâm Lý Trong Việc Tuyển Lựa và Đào Tạo Ứng
Sinh
Theo bà Gladys A.
Sweeney, có những ứng sinh xác tín rằng mình có ơn gọi, nhưng động lực ơn gọi ấy
đôi khi đến từ một ước muốn vô thức muốn tránh đời sống vợ chồng hoặc muốn chạy
trốn những mối tương quan liên nhân vị. Khoa
tâm lý giúp làm sáng tỏ các trở ngại này, và như thế giúp ích rất lớn, không
những cho Giáo Hội mà còn cho chính ứng sinh nữa.
Việc sử dụng các
phương tiện tâm lý và những cuộc phỏng vấn chẩn đoán làm cho người ta có thể
thấy được chướng ngại mang bản chất tâm thần, tình cảm hay cơ chế thể lý đang
ngăn cản ứng sinh tự do quyết định về ơn gọi của mình, trong khi đó ơn gọi phải
là một quyết định hoàn toàn tự do dựa trên tình yêu.
Việc đào tạo ứng
sinh là một công cuộc lâu dài đòi hỏi một mức độ tự xem xét nội tâm và kiểm tra
mạnh mẽ về chính bản thân. Trong thời kỳ đào tạo có thể xuất hiện các hiện tượng
tâm lý kiểu như nỗi thống khổ, sự lo âu, những lúc căng thẳng, và chúng sẽ được
dọn dẹp sáng sủa nhờ việc linh hướng. Cũng có những trường hợp phải kêu gọi đến
sự giúp đỡ của các khoa học tâm lý. Trong trường hợp này, việc tham khảo một
chuyên gia tâm lý có thể cứu vãn được ơn gọi.
Một chuyên gia tâm
lý có phẩm chất tốt là một nhà tâm lý học biết thấu đáo về những phát minh mới
nhất của khoa học, đồng thời phải hiểu rõ viễn ảnh toàn tiện của chiều kích siêu
nhiên của ơn gọi. Có thể rằng những thời kỳ lo âu hay chán nản không phải là
phản ánh của tình trạng rối loạn chức năng tâm lý, nhưng đó là biểu hiện của
giai đoạn nhất thời của đời sống thiêng liêng, như “đêm tối của linh hồn.” Trong
trường hợp này, một khi giai đoạn ấy kết thúc, đương sự sẽ ở trong mức độ đời
sống thiêng liêng cao hơn.
Nếu một chuyên gia
tâm lý không hiểu biết gì về những phương diện siêu nhiên của ơn gọi, mà chỉ
thấy đó là những rối loạn chức năng tâm lý, thì chuyên gia tâm lý ấy đã làm điều
xấu hơn điều tốt, vì đã cản trở sự phát triển đời sống thiêng liêng của ứng
sinh. Trái lại, nếu đó chỉ là một vấn đề tâm lý thì thật là sai lầm khi coi nó
như một vấn đề thiêng liêng. Vì thế, các chuyên gia tâm lý được đào tạo kỹ lưỡng
về trình độ tri thức và thiêng liêng có thể giúp ích rất nhiều, không những
trong việc tuyển chọn mà còn đào tạo ứng sinh linh mục nữa.
Một cái nhìn toàn
diện về con người là một cái nhìn bao gồm mọi khía cạnh: tâm lý, thiêng liêng và
luân lý. Những ai có vấn đề về tâm lý thường có khuynh hướng quyết định một cách
thiếu khôn ngoan, đi ngược với bản tính nhân loại, và đôi khi còn theo cách vô
luân nữa. Trong trường hợp này, khoa tâm lý học phải can thiệp để giải thoát ý
chí hầu ứng sinh có thể thấy được các trạng huống cách khách quan, phân biệt
cách khôn ngoan việc phải làm và làm trong đường lối luân lý và nhân đức. Bấy
giờ, khoa tâm lý phục vụ sự thật, và giúp “uốn cho ngay đường của Chúa” hầu con
người biết chọn điều thiện.
B.VIII.4
Liên Quan Đến Độc
Thân Thánh Hiến
Cần phải cẩn trọng
và khôn ngoan giải thích cách đầy đủ cho ứng sinh biết đời sống tu trì và độc
thân thánh hiến đích thực là gì, để ứng sinh hiểu được mục đích của việc đào tạo
và cộng tác cách tốt hơn với Chúa Thánh Thần qua vị linh hướng.
Ngay trước khi
chịu chức hay tuyên khấn, ứng viên đã phải hiểu đầy đủ và phát triển cách thích
hợp động lực tình cảm, tình yêu trưởng thành và nồng nhiệt cho Đức Giêsu, hy
vọng sống động vì Nước trời, và lòng nhiệt thành hăng hái giúp tha nhân vào Nước
Trời.
Ứng sinh phải tiết
dục hoàn toàn và sống đức thanh khiết cách bình an, không bị dục vọng thiêu đốt,
nhờ đó sẽ được chắc chắn về mặt luân lý trước lời hứa sống độc thân khiết tịnh
của mình.
Với một đời sống
thiêng liêng trưởng thành, ứng sinh sẽ thấy đời sống độc thân khiết tịnh là quà
tặng thiêng liêng của Chúa vì phần rỗi của loài người hơn là một gánh nặng. Do
đó, chủ đề giới tính là nhu cầu khẩn cấp trong chương trình đào tạo nhân bản và
thiêng liêng cho ứng sinh.
Theo những khám
phá mới đây của John Jay College of Criminal Justice thì cơn khủng hoảng trong
Giáo Hội là đồng tính luyến ái (phần lớn các nạn nhân không phải là trẻ em). Nỗi
cô đơn và thiếu tự tín là nguyên nhân của sự hấp dẫn đồng giới. Nhưng các hấp
dẫn này được giải quyết với sự trợ giúp của Chúa. Đức thanh khiết nên được trình
bày như một đường lối lành mạnh của cuộc sống. Hỏi ứng sinh xem họ thích người
khác giới hay đồng giới thôi thì chưa đủ. Phải giúp ứng sinh nỗ lực đối mặt và
giải quyết các xung đột tình cảm của y nhờ tâm lý trị liệu và linh hướng.
Những ứng sinh có
các hấp dẫn đồng tính phải trải qua tư vấn và trị liệu tâm lý, và chỉ những ai
đã hoàn toàn trị liệu thành công mới được phép tiếp tục. Ứng sinh ấy sẽ không
được chịu chức hay khấn cho đến khi các xung đột này được chữa lành và không còn
bị coi là đồng tính luyến ái (x. Huấn Thị của Bộ Giáo Dục Công Giáo về đồng tính
luyến ái ngày 04-11-2005).
Trong lãnh vực
này, các nhà đào tạo có một chương trình rộng lớn và thách thức để phát triển,
nhất là làm gương sáng. Gương sáng hiệu quả hơn các thuyết giảng của họ: Ở đâu
sự độc thân khiết tịnh được sống cách sung mãn và vui tươi, ở đó đời sống thiêng
liêng sẽ được sống cách cao độ. Phải dạy ứng sinh hiểu được ý nghĩa đích thực
của đời độc thânkhiết tịnh và hiểu lý do tại sao Hội Thánh đòi hỏi phải sống độc
thân khiết tịnh, đồng thời phải học tận dụng các phương tiện nhân bản và siêu
nhiên để sống cam kết này cách vui tươi.
Những mối tương
quan lành mạnh với cả hai giới làm nên một phần quan trọng trong việc giáo dục
và phân định liên quan đến đời sống độc thân khiết tịnh. Các nhà đào tạo đóng
vai trò chìa khóa trong việc đào tạo đời sống độc thânkhiết tịnh. Chính họ phải
hội nhập tốt lãnh vực giới tính và đời sống độc thân khiết tịnh. Đời sống độc
thân khiết tịnh gắn liền với các nhân đức Phúc âm khác là khó nghèo và vâng
phục. Vì thế, đào tạo sống đời độc thân khiết tịnh phải đi đôi với đào tạo sống
giản dị và vâng lời có trách nhiệm.
Chúng ta có thể
kết luận với Đức Gioan Phaolô II: “Bảo đảm tốt nhất của đời sống độc thân nằm ở
việc đào tạo đúng đắn và quân bình cho các ứng sinh. Họ được mời gọi tha thiết
nắm giữ, với vui mừng và quảng đại, một lối sống khiêm nhường, giản dị và thanh
khiết, vốn là nền tảng thực hành của đời sống độc thân khiết tịnh của Hội Thánh”
(John Paul II, On Psychology and Candidates for the Priesthood, Vatican 21/2/
2002).
B.IX. TRỞ THÀNH
ỨNG SINH LINH MỤC
B.IX.1 Con đường ơn gọi phát sinh từ một cuộc đổi đời
B.IX.1a Trở thành Ứng sinh Linh mục là:
·
Chia cắt
với cái đi trước, nghĩa là người đang trở thành ứng sinh linh mục từ bỏ một cách
sống, một cách hiểu biết đối với Thiên Chúa, với vũ trụ, với chính mình và tha
nhân, tức là con người trần thế bấy lâu nay của mình. Thánh Phaolô khuyên “quên
hẳn đàng sau, nhắm phía trước mà chạy tới.”
·
Mở ra với
những gì đang đến, nghĩa là một hiện hữu mới, một ý nghĩa độc đáo và bất ngờ đối
với cái đi trước. Như thế, sự trở thành mở đường vào cuộc sống ứng sinh linh mục
là một sự xé rách, một thứ cái chết, nhưng rách để lành, chết để sống; đó là một
thứ biến đổi một mất một còn.
(Slideshow Chuyện
chim ưng)
Dường như có một
đổ vỡ giữa người thanh niên và ứng sinh linh mục. Thật thế, khi anh đang bước
vào đời ứng sinh linh mục, anh dường như không còn sống như một thanh niên bình
thường nữa, mà sống như một con người thiêng liêng, dù vẫn còn có con người trần
tục trong chính mình. Tính lưỡng diện này vẫn tồn tại lâu dài, có khi suốt cả
cuộc đời nữa, trải qua những chiến đấu, dòn mỏng… với thành công và có khi thất
bại nữa: “Ai từng chiến thắng mà không hề chiến bại? Ai nên khôn mà chẳng dại
đôi lần? Nhưng đây chưa phải trận sau cùng chiến đấu!” (Nguyễn Thái Học).
B.IX.1b Một kinh nghiệm đổ vỡ
Ta có thể nhìn
kinh nghiệm đổ vỡ (sự chia cắt và cái chết) nầy qua hình ảnh Abraham cắt đứt mọi
mối quan hệ cộng đồng và yêu thương với gia đình, với đồng bào và thiên nhiên,
rời bỏ quê hương để đi tìm một quê hương mới, hầu được triển nở thành thủ lãnh /
cha một dân tộc. Như thế, hành trình theo ơn gọi bẻ gãy tính thuần nhất của
những gì đã nhận lãnh trong cuộc đời, ghi khắc một đổ vỡ và thay đổi các giá trị
vốn có.
Ứng sinh không sợ
nói lên kinh nghiệm bản thân để mô tả thứ thanh tẩy cần thiết hầu đi vào hành
trình thiêng liêng, chuẩn bị tiến tới chức linh mục. Muốn thế, cần có tín nhiệm
lẫn nhau thực sự trong việc linh hướng. Cái quan trọng là có nơi mỗi người một
biến cố lịch sử đánh dấu thời khắc trở thành ứng sinh linh mục, và thời khắc đó
được sống thường xuyên trong tất cả công cuộc tìm kiếm và thực thi thánh ý Chúa:
Linh mục sống căn tính linh mục suốt cả đời (x.Biến cố ngã ngựa của Saolô).
Biện chứng pháp
dẫn ta từ đối chọi tiền đề – phản đề đến một quan điểm mới (hợp đề). Cũng thế,
mỗi một đổ vỡ mở ra một khởi đầu mới: Tiền đề ↔ Phản đề → Hợp đề; Hợp đề này =
Tiền đề mới ↔ Phản đề mới → Hợp đề mới = Tiền đề mới ….
Sự kiện người đi tu xem ra hiện hữu tách biệt với người đời khiến người ta than
phiền đi tu là cắt khỏi cuộc sống (xuất thế). Nhưng một cách nào đó đời tu đòi
lại sự chia tách nầy (nhập thế) và khoảng cách giữa tu và không tu là một dữ
kiện có một ý nghĩa hữu lý: sống một cách khác hợp với chọn lựa của đời mình. Đổ
vỡ nầy đánh dấu sự khởi đầu của tất cả mọi cuộc đời.
B.IX.2 Chết cho cái cũ để sống cho cái mới
Phải chăng tu và không tu có mâu thuẫn và loại trừ lẫn nhau, và mối tương quan
được định nghĩa bằng cái chết? Có thể nói đây là một bạo lực ngọt ngào: giết
chết cái chất trần tục trong con người mình, để cuối cùng được sinh ra trong con
người tu: “Anh em hãy mặc lấy con người mới đã được Đức Kitô Phục Sinh biến
đổi.” “Phàm ai ở trong Đức Kitô đều là thọ tạo mới. Cái cũ đã qua đi và cái mới
đã có đây rồi” (2 Cr 5:17).
Trong sự thay đổi đó, tinh thần theo Chúa Kitô là chủ đạo: thay đổi con tim, tâm
thức, lối sống và cuộc sống.
Luật của sự sống và sinh trưởng là thay đổi, và mỗi chặng đường sinh trưởng của
con người đều được ghi dấu bằng những thay đổi quyết định. Và đó là tiến trình
lâu dài của một công cuộc hợp tác đào tạo và tự đào tạo, vừa thần linh vừa nhân
loại. Đời sống ơn gọi sẽ theo tiến trình năm bước này:
-
Chính Chúa cất tiếng
gọi, trực tiếp hoặc gián tiếp.
-
Ứng sinh đích thân đáp
lại.
-
Ứng sinh cam kết theo
chính Chúa Kitô toàn thể.
-
Ứng sinh biến đổi và
điều chỉnh cuộc sống mình cho phù hợp với đời sống ơn gọi linh mục.
-
Ứng sinh kiên trì dấn
thân phục vụ Chúa trong tha nhân qua việc chịu chức.
Việc biện phân
nghiêm túc sẽ dẫn tới hai kết quả này: Hoặc anh không có ơn gọi: anh nên đổi
hướng sống trong bình an, đồng thời bước theo con đường Chúa mời gọi anh đi với
can đảm và hạnh phúc; hoặc anh có ơn gọi: anh tiếp tục đi tới với niềm vui tươi,
hy vọng và hạnh phúc, mặc dù anh sẽ gặp thấy những khó khăn và đen tối trong
cuộc sống lữ hành của anh.
Tuy nhiên, mặc dù anh tự kiểm một cách nghiêm túc, anh vẫn không thể tuyệt đối
chắc chắn về ơn gọi của mình. Anh cần được sự linh hướng thích hợp. Sự chấp
thuận của Bề Trên Giáo Hội sẽ hoàn tất chọn lựa này và làm cho anh an tâm. Nói
cách khác, sự chọn lựa và quyết định với tự do nội tâm của anh (tòa trong) phải
được xác lập và công nhận bởi thẩm quyền Giáo Hội (tòa ngoài): Hội đồng Chủng
viện bỏ phiếu quyết định (biểu lộ sự kêu gọi của Chúa), có thể được trợ giúp bởi
việc tham khảo (lượng định) của Cộng đoàn Dân Chúa.
Muốn cho việc
hướng tới đời sống mới này thành công, chúng ta phải đặt mình trong tay Chúa.
(Slideshow Dụ ngôn cây viết chì)
|
VỀ MỤC LỤC |
|
NẤM
|
Nấm là những thực vật bực thấp không có hoa,
lá.
Vì không có diệp lục tố, nấm không lấy năng
lượng qua ánh sáng mặt trời được nên phải sống ký sinh trên các
cây khác hoặc trên chất mục nát. Có loại nấm sống cộng sinh lấy
chất dinh dưỡng của cây và cung cấp cho cây khoáng chất như
phospho.
Có rất nhiều loại nấm, nhưng chỉ có một số
loại ăn được, gọi chung là nấm ăn. Một số nấm có độc tố ăn vào
chết người.
Nấm là một thực phẩm ngon, được nhiều người
sành ăn ưa thích.
Các vị vua chúa Ai Cập ngày xưa coi nấm như
món ăn quý hiếm, ra lệnh cho thần dân khi kiếm được nấm phải
dâng lên để ngài ngự và hoàng gia dùng.
Dân chúng Trung Hoa, Nhật xưa coi nấm như
một thứ thuốc đại bổ, mang đến cho người ăn sức khỏe vô địch,
sống lâu và khi tới khâu Tử thì nhẹ nhàng ra đi vào cõi vĩnh
hằng.
Nấm cũng được dùng trong y học, làm chất
kích thích hoặc gây ảo giác trong các lễ nghi tôn giáo từ nhiều
ngàn năm trước.
Giá trị dinh dưỡng
Athenaeus, người sành ăn nổi tiếng của La
Mã thời cổ đại đã viết là nấm có nhiều chất dinh dưỡng, lại dễ
tiêu cho nên rất tốt cho bộ máy tiêu hóa.
Nấm có kali, calci, selen, sắt, đồng, sinh
tố C, vài loại sinh tố B như B2 (riboflavin), B3 (niacin). chất
xơ hòa tan pectin ở phần mềm ( thịt ) của nấm, và một ít chất
dẻo cellulose ở màng bọc nấm.
Vì có rất ít chất béo lại cung cấp rất ít
năng lượng (nửa ly chỉ có 10 calori) cho nên nấm rất tốt cho
người thích ăn mà không muốn bị béo phì. Đặc biệt nấm có nhiều
glutamic acid, một loại bột ngọt monosodium glutamate, vì vậy
nấm thường được nấu chung với nhiều món ăn như một gia vị để
tăng hương vị đậm đà.
Nấm tốt tươi chắc mịn như thịt nên có thể
ăn nướng, bỏ lò hoặc thay cho thịt khi nấu canh làm súp.
Nấm tươi trộn với các loại rau cũng là món
ăn ưa thích.
Khi thái nhỏ, nấm thường mau bị đen vì oxy
hóa, đồng thời cũng mất tới 60% vitamin B2. Để làm chậm sự oxy
hóa này, có thể ngâm nấm trong nước chua như chanh, giấm.
Khi nấu chín, riboflavin không bị tiêu
hao mấy vì sẽ hòa tan trong nước, làm ngọt món ăn, nhưng tai nấm
mất bớt nước, teo lại, còn cuống nấm thì cứng hơn và ròn sựt.
Nấm với Sức Khỏe
Thủy tổ nền y học phương Tây là Hippocrates
(460- 377 trước Công nguyên) đã dùng nấm trong việc ăn uống và
trị bệnh.
Cách đây trên 3000 năm, người Trung Hoa đã
coi nấm như là một loại thuốc bổ tổng quát, có khả năng tăng
tính miễn dịch của cơ thể chống lại nhiều bệnh nhiễm trùng.
Các khoa học gia Nhật Bản đã nghiên cứu
công dụng trị bệnh của nấm. Theo họ, nấm có vài hóa chất có thể
làm tăng tính miễn dịch chống lại vi khuẩn, ung thư và chữa các
bệnh phong khớp xương. Họ tìm ra chất lentinan, một loại beta
glucan tự nhiên trong nấm shiitake có đặc tính bảo vệ cơ thể,
kéo dài tuổi thọ và tránh các tác dụng phụ của hóa và xạ trị
liệu.
Các nghiên cứu khác ở Mỹ cho là nấm có
nhiều phytochemical, có thể là chất chống ung thư rất tốt cũng
như làm giảm cholesterol, làm cơ thể bớt mệt mỏi.
Viện Ung Thư Hoa kỳ đang nghiên cứu công
dụng của nấm trong việc chữa trị các bệnh nhân bị nhiễm
HIV/AIDS, cũng như tăng cường sức khỏe cho các bệnh nhân này.
Năm 1960, Tiến sĩ Kenneth Cochran, thuộc
Đại học Michigan, có nghiên cứu nhiều về loại nấm Đông cô
(Shiitake) và thấy rằng nấm này làm tăng tính miễn dịch mạnh hơn
chất interferon, một loại thuốc thường dùng trong việc chữa bệnh
do virus và ung thư.
Nhiều người còn cho là ăn nấm shiitake sẽ
làm giảm cholesterol và làm máu dễ lưu thông nên có tác dụng tốt
với tim.
Nghiên cứu ở Bắc Kinh cho hay trà nấm Zhu
Ling đuợc dùng để trị ung thư bao tử, cuống họng, ruột...
Nấm thường dùng
Có nhiều loại nấm khác nhau.Xin cùng tìm
hiểu một số nấm thường dùng.
a- Nấm hương ( Lentinus
edodes )
Đây là một loại lâm sản rất quý, thường mọc
dại trong các rừng ẩm mát ở miền núi cao. Nấm có mùi thơm, mọc
trên các cây côm, cây giẻ trong rừng.
Nấm hương hiện nay được nuôi trồng tại
nhiều quốc gia như Việt Nam, Trung Hoa, Đại Hàn.
Ngoài giá trị thực phẩm, người Việt ta còn
dùng nấm hương dễ chữa bệnh kiết lỵ.
b- Nấm linh chi (
Ganoderma lucidum ).
Nấm này còn được gọi là nấm trường thọ, cỏ
linh chi, thuốc thần tiên.
Nấm linh chi đã được dùng nhiều ở Trung Hoa
từ nhiều ngàn năm về trước như một loại thuốc quý hiếm mà chỉ
vua chúa, người giầu mới có khả năng sử dụng.
Nấm thường thấy mọc hoang dại ở các vùng
núi cao lạnh tại một vài tỉnh Trung Hoa như Tứ xuyên, Quảng
Đông, Quảng Tây.
Nấm hiện đang được trồng thử ở Việt Nam,
Nhật Bản nhưng kết quả không khả quan vì khí hậu không phù hợp
như ở Trung Hoa.
Theo các nhà khoa học Trung Hoa, nấm linh
chi làm khí huyết lưu thông, làm tăng tính miễn dịch, bổ gan,
diệt tế bào ung thư, chống dị ứng và chống viêm. Cũng ở Trung
Hoa, nấm linh chi được dùng trong việc trị các bệnh đau thắt cơ
tim, ổn định huyết áp, thấp khớp, hen suyễn, viêm gan, bệnh
đường tiêu hóa cũng như tăng cường trí nhớ.
Trong ăn uống, nấm linh chi thường được nấu
canh với thịt.
c- Nấm tai mèo
(Auricularia polytricha).
Còn được gọi là mộc nhĩ, nấm này thường
mọc hoang trên cây cành gỗ mục của các cây sung, cây duối, cây
sắn, trong rừng hay ở dưới đồng bằng.
Nấm trông giống tai mèo, mặt ngoài mầu nâu
sẫm, có lông nhỏ, mặt trong mầu nâu nhạt. Hiện nay nấm cũng được
nuôi trồng
Nấm tai mèo dùng để ăn như nấu canh miến
gà, thái nhỏ trộn với trứng làm món mộc..
Theo giáo sư Đỗ Tất Lợi, Đông y dùng nấm để
chữa bệnh kiết lỵ, táo bón, giải độc...
Bác sĩ Dale Hammerschmidt, giáo sư y khoa
Đại học Minnesota, cho rằng nấm tai mèo có tính chất chống lại
sự đông máu, công hiệu như aspirin trong việc phòng ngừa bệnh
tim và tai biến động mạch não.
đ- Nấm cúc (Truffle )
Bên Pháp và Ý, có loại nấm mọc dưới đất,
trong đám rễ cây sồi, cây phỉ (hazel)..
Nấm này rất thơm vì có chất pheromone giống
như kích thích tố sinh dục trong nước miếng con heo.
Nấm rất ngon, hương vị thơm, nhưng hiện
nay rất hiếm nên đắt giá, vì nấm mọc tự nhiên nên bị săn lùng
gần hết.
Nhiều người đã thử trồng loại này nhưng
chưa thành công.
e- Nấm Đông Trùng Hạ
Thảo.
Có ở vùng Tây Nam Trung Hoa. Nấm ký sinh
trên loại sâu giống như con bướm. Khi sâu chết thì nấm phát
triển trên đất, mọc qua mình sâu. Nấm được đào lên, phơi khô để
sử dụng.
Nấm được dùng để trị bệnh thần kinh suy
nhược, liệt dương, tăng cường sinh lực.
g- Nấm Phục Linh.
Nấm mọc ký sinh trên rễ cây thông, nặng có
thể tới cả vài kg, có nhiều ở Trung Hoa. Nấm được dùng làm thuốc
bổ, trị mất ngủ, di tinh.
h- Nấm Vân Chi.
Nấm thường mọc ký sinh trên thân cây sồi,
liễu, mận, táo và có nhiều ở những vùng có khí hậu ôn đới tại Á
châu, Bắc Mỹ. Nấm ít được phương Tây biết tới nhưng lại được
Đông y sử dụng rất nhiều trong trị bệnh và tăng cường sức khỏe.
Kết quả nhiều nghiên cứu tại Trung Hoa,
Nhật Bản cho thấy nấm Vân Chi có khả năng chống ung thư, bao tử,
ruột già, thực quản, tăng khả năng miễn dịch của cơ thể và chống
oxy hóa.
Nấm dại
Trong thiên nhiên có cả vài chục ngàn loại
nấm dại khác nhau nhưng chỉ có hai ba trăm loại là ăn được. Đa
số nấm độc thuộc hai nhóm nấm Amanita muscaria và A. phalloides.
Nấm A muscaria có chất muscarine, một độc
chất với hệ thần kinh phó giao cảm, khiến người ăn vào bị ói
mửa, chẩy nước mắt, đổ mồ hôi, tiêu chẩy, đau bụng, chóng mặt ,
lên kinh phong, bất tỉnh nhân sự... đôi khi chết người.
Chất độc phalloidine trong nấm A.
phalloides làm gan hư và có đến khoảng 50% người trúng độc bị tử
vong.
Nhiều loại nấm dại ăn vào có thể nguy hại
đến tính mạng, cho nên tốt nhất là không ăn bất cứ loại nấm nào
mà ta không biết rõ.
Nấm mọc hoang nhiều khi ăn lại ngon hơn nấm
trồng nên nhiều người ưa thích nhưng có nhiều nguy cơ ăn phải
nấm độc nên phải hết sức cẩn thận.
Mua nấm và cất giữ nấm
Khi mua nên chọn nấm còn tươi, lành lặn,
hình dáng đầy đặn, bụ bẫm, thịt chắc, mũ nấm khép kín bao che
những phiến mỏng dưới mũ.
Khi hư hỏng, nấm đổi sang mầu đen sậm, mũ
mở rộng để lộ lá mỏng, nấm khô hơn và mất bớt vị ngọt.
Để dành lâu, nấm ăn giòn vì màng bọc nấm
trở thành cứng. Nấm tươi cất giữ cẩn thận có thể ăn trong khoảng
4-5 ngày sau khi hái.
Nấm cũng được sấy hoặc phơi khô để dành,
quanh năm. Nấm khô cần được bọc kín để tránh ẩm, giữ nơi mát và
không có ánh sáng vì sinh tố B2 bị ánh mặt trời phân hủy. Nấm
khô bảo quản tốt có thể để dành được tới sáu tháng ăn vẫn ngon.
Trước khi nấu, rửa qua cho sạch bụi đất rồi
ngâm nấm khô trong nước nóng độ 15 phút. Đừng loại bỏ nước ngâm
này vì nước có hương vị thơm như nấm.
Nấm hộp có rất nhiều muối natri nhưng
riboflavin còn nguyên vẹn.
Nấm tươi nên được cất trong tủ lạnh, trong
hộp thoáng khí, tránh hơi ẩm làm nấm mau hư. Không bao giờ giữ
nấm trong túi nylon bịt kín vì hơi ẩm đọng lại làm nấm mau hư.
Nấm trồng thường được xịt nhiều phân bón
hóa học nên cần được rửa sạch trước khi ăn. Cách tốt hơn cả là
dùng giấy mềm mà lau hoặc chải bằng loại bàn chải dành riêng cho
nấm. Tránh rửa nấm trong nước quá lâu vì nấm hút rất nhiều nước.
Vài điều cần lưu ý.
Những người cai rượu thường được bác sĩ chỉ
định dùng một loại dược phẩm là disulfiram (antabuse).
Khi đang dùng chất này mà uống rượu vào
thuốc sẽ tương tác với rượu gây ra những triệu chứng rất khó
chịu như khó thở, nặng ngực, buồn ói, mặt nóng bừng, tim đập
nhanh. Một vài loại nấm cũng có chất disulfiram này nên có khả
năng gây ra các triệu chứng tương tự khi ăn nấm và uống rượu.
Mặt khác, trong thời gian ba ngày trước khi
tiến hành xét nghiệm phân để coi có máu không, phải tránh ăn nấm.
Vì trong nấm có một hóa chất làm cho thử nghiệm này cho kết quả
dương tính ngay cả khi phân không có máu!
Bác sĩ Nguyễn Ý Đức M.D. Dallas-Texas
|
VỀ MỤC LỤC |
Sốt - Chuyện phiếm của Gã Siêu |
Mấy bữa nay, ông mặt trời chiếu sáng một
cách gay gắt như đổ lửa xuống trần gian, khí hậu trở trở nên oi
bức bởi cái nắng và cái nóng của vùng nhiệt đới, khiến cho mọi
người như muốn phát khùng cả lên. Chính trong cái nắng và nóng
ấy, gã nhớ tới một câu chuyện về sự nói lái liên quan tới phạm
vi thời tiết, được Lãng Nhân ghi lại trong cuốn “Chơi Chữ”.
Theo tác giả thì: nói lái là lối lộng ngữ
rất được ưa dùng trong tiếng Việt. Nói lái tiếng nôm ra tiếng
nôm, chữ Hán ra tiếng nôm là chuyện bình thường. Thế nhưng, đôi
khi người ta lại còn nói lái được cả tiếng Pháp ra tiếng Pháp
nữa, mới thật ly kỳ.
Một bà vợ người Việt đi với một ông chồng
người Pháp, vào cửa hàng bán tranh. Thấy ông chủ tiệm nói thách
quá, bà vợ bèn rỉ tai ông chồng:
- Très chaud! Très chaud!
Ông chồng tưởng vợ mình kêu trong cửa tiệm
quá nóng bức, nên đã vội vã chọn tranh và lập cập trả tiền, để
rồi còn ra ngoài cho thoáng mát.
Đứng bên hè phố, bà vợ liền trách ông chồng:
- Đã bảo đắt quá mà cứ mua!
Ông chồng bèn cãi lại:
- Thì có thấy mình kêu đắt lúc nào đâu?
Bà vợ trả lời:
- Người ta không tiện nói ra trước mặt chủ
tiệm, sợ ông ta bảo mình là người Việt, mà lại đi dèm pha mất
một món lời, nên đã nói tránh ra là “très chaud” mà mình không
hiểu. “Très chaud” nghĩa là “trop cher” quá mắc đó mà.
Từ câu nói lái kể trên, gã xin đi vào mục
chuyện phiếm hôm nay để bàn về những cơn sốt đang tác oai tác
quái trên thị trường Việt Nam, cũng như trên thị trường thế giới.
Chữ “sốt” trong tiếng Việt và chữ “chaud”
trong tiếng Pháp có cùng một nghĩa như nhau, đó là nóng. Mà đã
nóng thì liên quan tới một chứng bệnh, mà hầu như ai cũng đều
mắc phải. Đó là sốt. Chứng bệnh này xuất hiện dưới nhiều hình
thức khác nhau, chẳng hạn sốt nóng, sốt rét, sốt thương hàn, sốt
xuất huyết…
Tuy nhiên, hiện nay có nhiều thứ cũng đang
lên cơn sốt, hay rơi vào tình trạng nóng bừng bừng, khiến cho
bàn dân thiên hạ xất bất xang bang, lo toát cả mồ hôi hột và mờ
cả hai mắt. Gã chỉ xin điểm qua một vài cơn sốt đã và đang từng
làm mưa làm gió, cùng với những hệ lụy vui buồn và đắng cay của
chúng.
Thứ nhất là sốt…vàng.
Gã không phải là một chuyên viên kinh tế,
để phân tích xem khi đồng đô la Mỹ giảm giá, thì nước Mỹ sẽ thu
về những lợi lộc nào. Hơn thế nữa, gã cũng chỉ là dân khố rách
áo ôm, chạy gạo từng ngày, nên giá vàng có lên, thì cũng chẳng
là cái thớ gì đối với gã cả. Thế nhưng, cơn sốt này là khởi điểm
làm cho vật giá leo thang. Bước chân vào chợ, từ mớ rau muống
đến mấy con tép ranh…tất cả đều ào ào lên giá…
Đau nhất là mấy anh nhà nghèo ở miền quê đi
vay nợ bằng vàng. Giá vàng tăng, khiến cho mặt mũi họ méo xẹo
theo cơn lốc xoáy từng ngày, đề rồi trở thành hốc hác lúc nào
cũng chẳng hay.
Rồi khi đồng đô la Mỹ nhích lên, nhích lên
mãi, nhiều cửa hàng, nhất là những món đồ điện tử cao cấp được
nhập về từ nước ngoài, tất cả đều được thanh toán bằng đô la,
hay qui từ đô la ra thành tiền đồng Việt Nam. Thế là đành phải
bóp bụng mà chịu vậy, chứ biết than thở cùng ai bây giờ.
Thứ hai là sốt…đất.
Do nhu cầu mở rộng thành phố, mà những vùng
đất ngày xưa vốn được liệt vào hàng ngoại ô, bỏ hoang cho lau
sậy hay cỏ dại mọc um tùm, nay được quy hoạch. Và thế là giá cả
bỗng dưng nổi lên như sóng cồn.
Do nhu cầu thiết lập những khu công nghiệp
mà những vùng đất khỉ ho cò gáy, chó ăn đá gà ăn cát, bỗng dưng
được nhiều đại gia ghé mắt nhìn đến. Và thế là giá cả bèn tăng
vùn vụt, chóng cả mặt.
Có những bác nông dân cắm dùi ở ven đô, sau
một giấc ngủ đêm dài, ban sáng thức dậy bỗng thấy mình trở thành
tỷ phú. Cũng có những bác nông dân hôm nay hồ hởi, hân hoan, hớn
hở vì tưởng rằng mình đã bán được miếng đất với giá cao, nhưng
ngày mai lại tiếc hùi hụi vì đã bị mất toi một số tiền quá lớn,
mà cả đời ky cóp có nằm mơ cũng chẳng thấy. Sở dĩ như vậy là do
bị trượt giá. Cái giá hôm qua so với cái giá hôm nay thì lại quá
bèo và quá rẻ.
Như một món quà từ trên trời rơi xuống,
những bác nông dân ấy bất đắc dĩ được nắm trong tay một món tiền
quá lớn, vượt ngoài sự tưởng tượng của mình, thành thử nhiều
người cũng đã lúng ta lúng túng trong việc chi dùng.
Bình thường, những bác ấy chia cho các con
các cháu, mỗi đứa một mớ. Mớ còn lại thì để xài riêng. Sẵn tiền
trong tay, đám con cháu ấy bắt đầu tập làm sang và học đòi những
cách thức ăn chơi của dân nhà giàu.
Đầu tiên là sắm cho mình một chiếc xe đời
mới, trang bị thêm một con dế xịn, thậm chí cả đến áo quần cũng
phải là hàng hiệu chính cống.
Rồi sau đó, bén mảng đến những khách sạn,
những nhà hàng sang trọng. Giã từ rượu đế để làm quen với rượu
tây. Tạm quên hình ảnh người vợ quê mùa và tần tảo, để bắt bồ
với những cô nàng mắt xanh môi đỏ tại những quán bia ôm, thậm
chí còn sẵn sàng tung tiền ra để đèo bòng thêm tí…bồ nhí.
Thành thử mớ tiền không phải do mồ hôi nước
mắt, hay công lao khó nhọc của mình làm ra, sẽ mau chóng đội nón
ra đi, để rồi sau những ngày tháng yến tiệc linh đình, cuối
cùng ta lại trở về với điểm xuất phát: Chó đen vẫn giữ mực, mèo
vẫn hoàn mèo, khố rách áo ôm cũng vẫn chỉ là khố rách áo ôm mà
thôi.
Người Việt Nam chúng ta thường ghép chữ
tiền với chữ bạc, bởi vì tiền sẽ làm cho bạc tình bạc nghĩa.
Thực vậy, có nhiều trường hợp đồng tiền anh dũng bước vào, thì
tình nghĩa âm thầm vỗ cánh bay đi, vì không còn chỗ cho mình cắm
dùi nữa.
Gã còn nhớ, sau ngày 30 tháng 4 năm 1975,
nhiều vị “đai gia” ở nông thôn, năn nỉ bà con họ hàng gốc thành
phố và nhất là gốc…lính, thay vì đi kinh tế mới, thì hãy về vui
thú đồng ruộng với mình. Những vị “đại gia” ấy sẵn sàng nhường
đất để mà canh tác, theo kiểu “tình cho không biếu không”. Sở dĩ
những vị “đại gia ấy” đã hành động như vậy vì tình nghĩa thì ít,
mà vì sợ bị đấu tố thì nhiều, như ngoài Bắc trong những năm
tháng cải cách đất đai.
Thế rồi sau một thời gian chẳng ai bị đấu
tố và cũng chẳng ai bị tịch thu tài sản, hoàn cảnh xem ra có vẻ
sáng sủa hơn và giá đất bắt đầu tăng lên. Các vị “đại gia ấy”
bèn thay đổi lập trường, quay phắt một trăm tám mươi độ bằng
cách nói bóng nói gió, chửi gà chửi vịt, làm khó dễ mặt này mặt
khác, với mục đích đòi lại phần đất mình đã nhường, đã cho…
Còn những gia đình kia, vì không quen với
nếp sống lam lũ tại nông thôn, nên đã khăn gói quả mướp về lại
thành phố không kèn không trống. Tới nước này, thì tình nghĩa đã
bị sứt mẻ, không còn êm đẹp và đằm thắm như thuở nào nữa.
Tương tự như vậy, những mảnh đất mà ngày
xưa có cho cũng chẳng ai thèm lấy, thế nhưng vào thời buổi tấc
đất tấc vàng này, con cái vác đơn kiện cha mẹ trước ba tòa quan
lớn chỉ vì nó, anh em ruột thịt phang nhau toạc đầu xẻ tai cũng
chỉ vì nó.
Càng suy gẫm, gã càng nhận ra được những
nhức nhối và những đớn đau do cơn sốt đất gây nên. Chúng đã tàn
phá tình nghĩa một cách khủng khiếp, chẳng khác gì những trận
bão táp hay cuồng phong
Thứ ba là sốt…xăng dầu.
Rất có thể vì công việc làm ăn mỗi ngày một
khấm khá và cuộc sống phần nào trở nên thoải mái hơn, nhưng cũng
rất có thể vì giá xe gắn máy của Trung Quốc rẻ như bèo, nên
người người mua xe và nhà nhà mua xe.
Đùng một phát, giá xăng dầu gia tăng. Cứ
vài ba tháng lại điều chỉnh một lần. Và cứ mỗi lần gia tăng lại
là một lần se thắt cả tâm can tì phế.
Đi xe gắn máy đã quen, nên bây giờ phải
ngồi lại trên chiếc xe đạp thì cảm thấy như con người mình bị
xuống cấp. Còn đi bộ, thì xem ra đôi chân muốn biểu tình phản
đối. Mới đi được vài trăm mét là mồ hôi mồ kê nhễ nhại, toát ra
như tắm và đổ xuống đất…ròng ròng. Thành thử vẫn cứ phải bóp
bụng mà mua xăng dầu.
Nếu chỉ mua một lít, thì dù có tăng năm
trăm hay một ngàn đồng, cũng chẳng xá chi. Thế nhưng, ngày nào
cũng phải mua, tháng này qua tháng khác. Tích tiểu thành đại.
Góp gió thành bão. Nước chảy đá mòn. Cuối cùng bị móc túi mà vẫn
phải mỉm cười một cách gượng ép.
Một khi giá xăng dầu đã tăng, thì giá mọi
mặt hàng khác cũng sẽ ăn theo mà tăng lên. Bởi vì muốn sản xuất
thì phải có xăng dầu. Muốn vận chuyển thì cũng phải có xăng dầu,
để rồi tất cả cùng leo thang như trong một vũ điệu khích động,
không thể nào kiểm soát được.
Gã đem chuyện này kể cho mấy tên bạn ở bên
Mỹ, họ bèn an ủi gã mà rằng:
- Ở đâu cũng vậy mà thôi. Bên Mỹ còn tệ hơn
nữa, bởi vì xe hơi ngốn xăng gấp nhiều lần xe gắn máy ấy chứ.
Và thế là…huề cả làng.
Thứ tư là sốt…gạo.
Việt Nam là nước xuất khẩu gạo, được xếp
vào hàng nhất nhì trên cả và thiên hạ, vậy mà gạo vẫn cứ lên cơn
sốt, ngay cả vùng đồng bằng sông Cửu Long, vốn được gọi là vựa
lúa của miền Nam. Thế có loạn không cơ chứ.
Đầu tiên báo chí cho hay là sẽ ngưng xuất
gạo, vì phải bảo đảm lương thực trong nước. Sau đó một hai ngày,
cũng lại báo chí bật mí vẫn cứ xuất khẩu gạo cho đủ những hợp
đồng đã ký. Rồi bỗng dưng giá gạo tăng gấp đôi, gấp ba. Gia đình
nào cũng sợ chết đói và cha mẹ nào cũng lo con cái mình không có
cái ăn.
Thế là bàn dân thiên hạ ùn ùn kéo nhau đi
đong gạo. Các đại lý gạo lợi dụng thời cơ bèn tăng giá, hay đóng
cửa không bán vì gạo đã hết, hay chờ xem con…giá cả xoay vần đến
đâu.
Rất may là cơn sốt này chỉ kéo dài có đôi
ba ngày mà thôi. Mặc dù đã hạ nhiệt nhưng giá gạo vẫn còn cao,
khiến những người nghèo hay những công nhân với số lương ba cọc
ba đồng phải lao đao vất vưởng.
Sau cùng là sốt…xi măng.
Đang sống chung với nhau trong hòa bình và
thịnh vượng, thì bỗng dưng xi măng rơi vào cơn sốt, giá cả tăng
lên vùn vụt, khiến nhiều người đang xây nhà phải khóc ròng vì
phải đi mua xi măng với giá khá…trời ơi đất hỡi.
Tác gải vũ Bình trên báo “Tuổi trẻ cười” đã
ghi nhận về cơn sốt này như sau:
“Nhiều người phải tạm dừng cả việc thi công
“ngôi nhà mơ ước” của mình vô thời hạn vì bài toán dự trù kinh
phí cất nhà coi như phá sản trong cơn “sốt” vật liệu xây dựng và
“tình hình xi măng đang căng thẳng”…
“Khổ nhất là nhiều cặp vợ chồng trẻ, cắc
củm, dành dụm mấy năm trời mới có được số tiền còm, cất được căn
nhà cấp bốn. Đâu ngờ, xi măng tăng giá, chẳng lẽ xây nửa chừng
rồi ngưng, mặt mày méo xệch đi vay mượn tiền, lo “nguồn” xi măng
toát cả mồ hôi hột. Vợ chồng xỉ vả, mắng mỏ nhau hằng ngày, chỉ
vì “bóng ma” xi măng tăng giá luôn ám ảnh”.
Thí dụ: Lúc trước cặp vợ chồng ra riêng, dự
tính xây một căn nhà lý tưởng cho cuộc sống riêng tư của mình
tốn hết một trăm triệu, thì bây giờ phải tăng lên thành một trăm
năm mươi triệu.
Đã có những cơn sốt trong dĩ vãng cũng như
trong hiện tại và sẽ còn có những cơn sốt khác nữa trong tương
lai. Nói theo kiểu chuyên viên dự đoán về khí tượng, thì diễn
biến của những cơn sốt này còn rất nhiều phức tạp, cần theo dõi
và đề phòng.
Từ hồi sau tết, nhiều tiệm buôn đóng cửa,
không thèm bán hàng vì họ đang chờ xem giá cả chuyển biến như
thế nào. Họ sợ rằng với số tiền bán món hàng ngày hôm nay sẽ
không đủ để mua lại món hàng ấy vào ngày mai. Rõ ràng là có lời
mà lại chẳng có ăn.
Tuy nhiên, tất cả những cơn sốt này đều có
một mẫu số chung, đó là cái giá của những mặt hàng nằm ở trung
tâm cơn sốt, đều tăng lên vùn vụt. Bàn dân thiên hạ đều mất ăn
mất ngủ, lo lắng đến độ hốc hác, chẳng còn hình tượng người ta
nữa.
Trong khi đó, chỉ có một số rất ít con
buôn thủ lợi, đánh hơi được thời cơ, mặc sức đầu cơ tích trữ, để
rồi tung ra thị trường với giá cắt cổ. Chỉ tội nghiệp cho những
người có thu nhập thấp với lương tháng cố định.
Chẳng hạn như bà con nông dân. Mặc dù được
báo chí chia sẻ niềm vui vì trúng mùa và trúng giá. Thế nhưng,
chỉ một số ít người được hưởng giá lúa cao mà thôi. Sở dĩ như
vậy vì hầu hết bà con nông dân đều là những con nợ của ngân hàng
và các đại lý phân bón. Gặt xong là lo bán tống bán táng đi để
trả nợ. Vì thế các thương lái thường ém, mua lúa với giá thấp.
Đến khi giá lúa tăng cao, thì chẳng còn được một hột trong nhà.
Hay như những công nhân với tiền lương cố
định. Hồi trước với số tiền hai ba triệu đồng, họ có thể sống
một cách tương đối ấm no, nhưng bây giờ với số tiến ấy, thì chỉ
còn nước cắt giảm chế độ và thắt lưng buộc bụng mà thôi, bởi vì
thịt thà cá mú, cùng mọi mặt hàng tiêu dùng cần thiết cho đời
sống đều tăng lên gấp rưỡi.
Bức tranh về kinh tế trong những tháng ngày
sắp tới có lẽ vẫn còn ảm đạm, như mùa thu chết với cảnh lá vàng
rơi. Thế nhưng, Thượng Đế đã phú ban cho người Việt Nam chúng ta
một sức chịu đựng đẻo dai và một tài chung sống.
Chúng ta đã từng vượt qua một ngàn năm nô
lệ giặc Tàu, đã từng chấm dứt một trăn năm đô hộ giặc Tây và
cũng đã từng anh dũng chiến thắng đế quốc Mỹ.
Chúng ta đã từng chung sống với lũ lụt,
cũng như đã từng chung sống với bão táp, lẽ nào lại không thể
chung sống với những cơn sốt có thể bùng lên bất cứ lúc nào hay
sao?
Gã Siêu
gasieu@gmail.com
|
VỀ MỤC LỤC |
|
- Mọi liên lạc: Ghi danh, thay đổi địa chỉ, đóng góp ý kiến,
bài vở..., xin gởi về địa chỉ
giaosivietnam@gmail.com
- Những nội dung sẽ được đề cao và chú ý bao gồm:
Trao đổi, chia sẻ những kinh nghiệm thực tế trong việc mục
vụ của Giáo sĩ; Những tài liệu của Giáo hội hoặc của các
Tác giả nhằm mục đích Thăng tiến đời sống Giáo sĩ; Cổ võ ơn
gọi Linh mục; Người Giáo dân tham gia công việc “Trợ lực
Giáo sĩ” bằng đời sống cầu nguyện và cộng tác trong mọi lãnh
vực; Mỗi Giáo dân phải là những “Linh mục” không có chức
Thánh; Đối thoại trong tinh thần Bác ái giữa Giáo dân và
Giáo sĩ… (Truyền giáo hay xây pháo đài?)
- Quy vị cũng có thể tham khảo những số báo đã phát hành tại
www.conggiaovietnam.net
Rất mong được sự cộng tác, hưởng ứng của tất cả Quí vị
Xin chân thành cám ơn tất cả anh chị em đã
sẵn lòng cộng tác với chúng tôi bằng nhiều cách thế khác
nhau.
TM. Đặc San Giáo Sĩ Việt Nam
Lm. Luca
Phạm Quốc Sử
USA
|
|
*************
|
|