[BẢN THẢO]

 

LINH MỤC GIÁO PHẬN SỐNG TU ĐỨC TOÀN DIỆN

TRONG BỐI CẢNH THỰC TẾ  CỦA GIÁO HỘI VÀ XĂ HỘI VIỆT NAM HÔM NAY

 

 

CHƯƠNG NĂM

 

ỨNG SINH LINH MỤC GIÁO PHẬN HỌC SỐNG CĂN TÍNH VÀ SỨ VỤ LINH MỤC

  

A. LINH MỤC ĐÍCH THỰC SẼ NHƯ THẾ NÀO?

 

Tây phương có câu ngạn ngữ “trong khi rèn, người ta trở thành thợ rèn.” Cũng thế, càng sống đời chủng sinh càng trở nên chủng sinh hơn, và càng sống đời linh mục càng trở nên linh mục hơn. Nhưng công cuộc được đào tạo và tự đào tạo c̣n nhiều gian nan, cần ơn Chúa và cố gắng bản thân, cùng sự giúp đỡ tận t́nh của những người có trách nhiệm. Chúng ta sẽ cố gắng mô tả một số nét của mẫu người linh mục đích thực như ḷng Chúa và Giáo Hội mong muốn.

 

A.1. Linh mục là người được Chúa Thánh Thần tác động, chiếm hữu và hướng dẫn[1]

 

A.1.a Mẹ Maria đầy Chúa Thánh Thần: Mẹ Maria là mẹ và kiểu mẫu mọi thời cho linh mục để ḿnh được Chúa Thánh Thần tác động, chiếm hữu và hướng dẫn. Tŕnh thuật truyền tin tô đậm nét cho xác quyết này:

 

            Nhờ quyền năng Chúa Thánh Thần, Mẹ Maria mang thai Chúa Giêsu. Nhờ Mẹ mang Chúa đến thăm, bà Elizabeth được đầy Chúa Thánh Thần: “Bà Êlisabét vừa nghe tiếng bà Maria chào, th́ đứa con trong bụng nhảy lên, và bà được đầy tràn Thánh Thần”[2]

 

A.1.b Một số nhân vật Phúc Âm được đầy Chúa Thánh Thần

-         Được Isaia báo trước: “Thần khí của Đức Chúa là Chúa Thượng ngự trên tôi, v́ Đức Chúa đă xức dầu tấn phong tôi, sai đi báo tin mừng cho kẻ nghèo hèn, băng bó những tấm ḷng tan nát, công bố lệnh ân xá cho kẻ bị giam cầm, ngày phóng thích cho những tù nhân, công bố một năm hồng ân của Đức Chúa, một ngày báo phục của Thiên Chúa chúng ta; Người sai tôi đi yên ủi mọi kẻ khóc than…”[7]

-         Chính Chúa Giêsu khẳng định về ḿnh ở Hội đường Nazareth: “Thần Khí Chúa ngự trên tôi, v́ Chúa đă xức dầu tấn phong tôi, để tôi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn. Người đă sai tôi đi công bố cho kẻ bị giam cầm biết họ được tha, cho người mù biết họ được sáng mắt, trả lại tự do cho người bị áp bức, công bố một năm hồng ân của Chúa… Hôm nay đă ứng nghiệm lời Kinh Thánh quư vị vừa nghe”[8]

 

A.1.c Linh mục với Chúa Thánh Thần: Cũng như mọi người, linh mục đă lănh nhận Chúa Thánh Thần và trở nên đền thờ Ngài ngự khi chịu bí tích Rửa tội; và c̣n nhận lănh Thánh Thần đầy đủ hơn trong Bí tích Thêm sức và Truyền chức linh mục (với quyền tha tội). Vài đoạn Kinh Thánh nói rơ điều đó:

 

             Hơn ai hết linh mục phải để Chúa Thánh Thần hướng dẫn, như đă làm với chính Chúa Giêsu:

 

            Chúa Thánh Thần giúp kiện toàn đời sống và sứ vụ bằng 7 ơn của Ngài: Khôn ngoan, tri thức, thấu hiểu, sức mạnh, lo liệu, đạo đức và kính sợ Chúa.

           

            Chúa Thánh Thần đă ngự xuống trên các tông đồ dưới h́nh những lưỡi lửa, cho họ nói các thứ tiếng khác nhau, biến đổi họ nên can đảm rao giảng Chúa Kitô Phục Sinh và hôm ấy có khoảng ba ngàn người theo Đạo[9]

 

            Chúng ta phải trung thành và ngoan ngoăn nghe theo ơn soi sáng của Chúa Thánh Thần, hầu mang lại hoa trái: Bác ái, vui mừng, b́nh an, nhẫn nại, tế nhị, tốt bụng, quảng đại, ḥa nhă, trung tín, khiêm tốn, tự chủ và thanh khiết.

 

            Xin Chúa Thánh Thần dùng môi miệng của ta mà nói điều Chúa muốn nói; xin Ngài soi sáng trong trí khôn cho ta viết lại; Ngài cũng có thể cầm tay ta giúp ta viết lên điều Ngài muốn; xin Ngài viết ra trên vách cho ta xem mà chép lại, như trường hợp Danien giải thích cho vua Bensatsa:[10] “Thiên Chúa đă cho bàn tay đến viết hàng chữ kia: MƠ-NÊ, TƠ-KÊN, PƠ-RẾT. Và đây là lời giải thích những chữ đă được viết ra:

 

A. 2. Linh mục là người của siêu nhiên và cầu nguyện

            Linh mục phải thực sự là một con người của đạo đức và cầu nguyện, nghĩa là có đời sống thông hiệp cá nhân sâu xa với Chúa Ba Ngôi. Hơn là chỉ nói với Thiên Chúa, cầu nguyện là mở rộng cơi ḷng và trí óc chúng ta ra cho Ngài, để Ngài hành động ở trong chúng ta và qua chúng ta. Cầu nguyện là đi vào cuộc sống của Chúa Kitô và trở nên một với Ngài. Điều ấy được biểu lộ rơ nét trong mối tương quan với tha nhân: linh mục sẽ suy nghĩ với tinh thần của Chúa, nh́n thấy với con mắt của Chúa, và yêu thương với con tim của Chúa, hoạt động với sức mạnh của Chúa… 

 

            Đời sống cầu nguyện làm cho linh mục có khả năng ư thức về chính ḿnh và sự lệ thuộc đời sống ơn gọi của ḿnh vào Thiên Chúa. Linh mục luôn ư thức sự hiện diện và hoạt động của Chúa trong cuộc sống hằng ngày của ḿnh bằng sự trao hiến trọn vẹn chính ḿnh và lụy phục hoàn toàn nơi Chúa, noi gương Chúa Giêsu Kitô, v́ cầu nguyện làm cho linh mục trở nên trọn vẹn thuộc về Chúa Kitô và trọn vẹn thuộc về Giáo Hội.

 

            Đời sống cầu nguyện giúp linh mục t́m thấy Chúa Giêsu nơi tha nhân, đặc biệt nơi những người đau khổ, bệnh tật, nghèo hèn, ở bên lề, bị áp bức, và thấp cổ bé miệng,… ngơ hầu yêu thương và phục vụ họ, như Chúa Giêsu đă dạy và đă làm gương.

 

            Linh mục phải là người sống cao độ hai chiều kích của cầu nguyện: cầu nguyện độc hữu và cầu nguyện liên lỉ. Chớ ǵ khi giáo dân cần t́m linh mục th́ đều t́m thấy ngài đang cầu nguyện ở nhà thờ, trước Thánh Thể hay đang đàm đạo cùng với hối nhân nơi ṭa giải tội. Nhưng sứ vụ mục vụ của linh mục triều c̣n đẩy ngài ra giữa ḷng đời với những hoạt động truyền giáo và dưỡng giáo đa dạng, nên ngài phải thấm nhuần chiều kích cầu nguyện liên lỉ, cầu nguyện bất cứ ở đâu và bất cứ lúc nào, để ngài và Chúa Giêsu luôn hành động cùng nhau.

 

            Dân chúng mong đợi nh́n thấy linh mục là người của Chúa, sống mật thiết với Chúa, có kinh nghiệm cầu nguyện và dạy cho họ biết làm thế nào để cầu nguyện, v́ cầu nguyện là lẽ sống của người tín hữu. Cầu nguyện là cả cuộc sống con người đối với Thiên Chúa: thờ phượng, yêu mến, ca ngợi, cảm tạ, đền tạ và xin ơn, mà ơn trọng nhất là Chúa Thánh Thần (x. Lc 11,13).

 

            Trong đời sống cầu nguyện này, chúng ta phải đặc biệt lưu ư đến Phụng vụ, v́ hành động phụng vụ là sự biến đổi lời cầu nguyện và ḷng đạo đức cá nhân thành sự thờ phượng chung của cộng đoàn Giáo hội dâng lên Chúa. Hành động phụng vụ đ̣i hỏi chúng ta phải có một thái độ sẵn sàng đối với Chúa, một ư thức nội tâm thống nhất toàn bộ con người, thân xác và linh hồn, cùng hợp với thân ḿnh thiêng liêng của Hội Thánh, trên thiên quốc và tại trần gian.

 

A.3. Linh mục là người của linh thánh

            Linh mục phải nên đồng h́nh đồng dạng với Chúa Giêsu, tiếp tục sứ vụ của Chúa Giêsu, Đấng đă được Chúa Cha thánh hóa và sai đến trong trần gian để cứu độ trần gian,[11] nghĩa là phải qua những thực tại trần thế này mà biểu lộ những thực tại thần thiêng. Nhưng càng ngày chúng ta càng phải đối diện với những tiến bộ khoa học kỹ thuật. Nền văn hóa chúng ta sống ngày càng bị thống trị bởi thế giới quan khoa học và vật chất, đánh giá cái thật và cái đúng dựa trên những ǵ thấy được, sờ được và xác minh được thông qua nghiên cứu và thực nghiệm.

           

Điều đó càng đ̣i hỏi ứng sinh linh mục phải để ḿnh được đào tạo và tự đào tạo trở thành con người của linh thánh, bởi v́ linh mục là “người của Chúa, thuộc về Chúa và làm cho dân chúng nghĩ tới Chúa, đồng thời giúp dân chúng trở về với Chúa và đạt tới Chúa[12] 

 

            Yếu tố linh thánh này rất quan trọng trong các tôn giáo truyền thống Á Châu. Nó có khả năng trợ giúp sứ mệnh khơi dậy niềm tin tại Việt Nam được canh tân và tràn đầy sức sống. Tông huấn Ecclesia in Asia nhấn mạnh rằng dân chúng Á Châu cần nh́n thấy nhà tu là “những con người mà tâm trí luôn hướng về những sự cao siêu của Thánh Thần.”[13]

 

            Các sư săi và ni cô Phật giáo có một kỹ luật tu đức nhấn mạnh đến tự chế, bỏ ḿnh và thanh thoát khỏi thế trần, hầu chiến đấu chống lại các cám dỗ và say mê t́m kiếm giải thoát. Sự kiện này thách thức người công giáo chúng ta đào sâu tu đức của ḿnh; nếu không, chứng tá của chúng ta trong xă hội Việt Nam sẽ giảm bớt khả năng thuyết phục.

 

            Chúng ta cần học hỏi ở họ lối sống như cửa mở vào cơi thiêng và phương tiện hiệp thông với linh thánh, đồng thời củng cố đời sống nội tâm tông đồ truyền giáo của chúng ta. Nếu chúng ta thực sự sống cách vui tươi, hạnh phúc và trung thành nếp sống Phúc Âm và các nhân đức kitô giáo (đặc biệt vâng lời, khó nghèo, thanh khiết), chứng tá và sứ vụ của chúng ta sẽ rất hữu hiệu.

 

Điều đó rất đúng với bối cảnh Á Châu, nơi mà dân chúng cảm thấy được thuyết phục bởi đời sống thánh thiện hơn là bởi những tri thức lư sự.[14]  Đức Phaolô VI bảo rằng thời đại này tin vào các chứng nhân hơn là thầy dạy, và nếu họ có tin vào các thầy dạy th́ bởi v́ các thầy dạy đó là những chứng nhân.

 

            Ở trong Giáo Hội, chúng ta có đủ mọi phương tiện thích hợp, tự nhiên cũng như siêu nhiên, để trở nên con người của linh thánh. Việc quan trọng nhất là chúng ta kiên tŕ thực hành các phương thế ấy trong cuộc sống hằng ngày, đặc biệt là đời sống đức tin và việc phượng tự: chúng ta tuyên xưng linh hồn và thể xác được gặp gỡ các thực tại thần linh, được ca hát với các thiên thần và các thánh trên trời, được đón nhận Ḿnh thật và Máu thật của Chúa Giêsu, Đấng đă chết và sống lại, và hằng ở cùng chúng ta mọi ngày cho đến tận thế. 

 

A.4. Linh mục là người có nền tảng Kinh Thánh vững chắc

            Sống trong thế gian nhưng không thuộc về thế gian, linh mục được mời gọi biến đổi thế gian, chứ không phải để bị thế gian biến đổi. Linh mục kín múc được sức mạnh biến đổi thế giới đó từ Lời Chúa và Thánh Thể Chúa.

 

            Ma quỉ đă dùng lời Kinh Thánh để cám dỗ Chúa Giêsu trong sa mạc, Chúa Giêsu cũng đă dùng Lời Chúa mà chiến thắng và xua đuổi ma quỉ. ĐTC Biển Đức XVI đă nói rằng “câu trả lời tốt nhất cho sự chống phá Giáo Hội hiện nay là sự trung tín lớn lao với Lời Chúa.”[15] Chính đức tin tín trung của chúng ta vào Chúa khởi động quyền năng vô biên của Ngài.[16] Đức tin là điều kiện để được Chúa Giêsu làm phép lạ cho [đức tin nhỏ bé của con người khởi động và làm giải tỏa quyền năng vô biên của Thiên Chúa], nhưng phép lạ [do quyền năng vô biên của Thiên Chúa] lại gia tăng và củng cố đức tin c̣n yếu kém của con người. Do đó, hơn ai hết, linh mục phải là một con người đức tin, được đức tin tác động mănh liệt, với một nền tảng Thánh Kinh vững chắc, v́ mọi cuộc khủng hoảng đều do thiếu đức tin mà ra. Thánh Kinh là một trong bốn cột trụ chống đỡ đời sống tu tŕ (Chúa Giêsu, Phúc Âm, T́nh huynh đệ cộng đoàn, Kiên tŕ chu toàn sứ vụ).

 

            Tuy nhiên, linh mục cũng có thể bị ảnh hưởng bởi các yếu tố văn hóa và tâm thức xă hội, chính trị, kinh tế (tinh thần tục hóa, hưởng thụ, bất công, thiếu bác ái, không có sự thật và công lư…). V́ thế, việc đào tạo và tự đào tạo hôm nay cần ghi nhớ các yếu tố này trong khi nỗ lực xây dựng và phát triển sức mạnh siêu nhiên hầu thăng tiến và hoàn thiện tự nhiên.

 

            Ngoài ra cũng phải ư thức về tŕnh độ trưởng thành nhân bản và thiêng liêng của từng người, để sống và đào tạo thích hợp như thánh Phaolô nói: “Tôi cho anh em ăn sữa chứ không phải thức ăn cứng, v́ anh em chưa đủ sức, và cho đến nay anh em vẫn chưa thể”[17]

 

            Chúa Giêsu cũng nhắc các tông đồ tương tự: “Thầy c̣n nhiều điều phải nói với anh em, nhưng bây giờ, anh em không có sức chịu nổi. Khi nào Thần Khí sự thật đến, Người sẽ dẫn anh em tới sự thật toàn vẹn”[18] 

 

            Với nền tảng Thánh Kinh vững chắc, linh mục sẽ vượt lên được những thách đố và chiến đấu trăn trở về tự do và phục tùng với bộ ba “quyền phục, lư phục và tâm phục hay tâm bất phục” hoặc “bằng mặt mà không bằng ḷng” và “vâng mà không phục” để sống đức vâng lời trọn vẹn trong đức tin và tinh thần siêu nhiên. Vâng lời chính là lắng nghe: “Cá không ăn muối cá ươn, con cưỡng cha mẹ trăm đường con hư.” Sự vâng lời sẽ dễ dàng và tốt đẹp khi mọi người giúp nhau cùng lắng nghe Chúa, cùng t́m ư Chúa và tuân phục ư Chúa.[19]

 

            Quả thế, với đức tin mạnh mẽ và đâm rễ sâu trên nền tảng Thánh Kinh vững chắc, đặt trọng tâm vào Chúa Giêsu, vào Phúc Âm, vào Giáo Hội, v́ các linh hồn, cầu nguyện và biện phân dưới sự dẫn dắt của Chúa Thánh Thần, linh mục sẽ giữ lời hứa vâng phục khi chịu chức cách sẵn ḷng và siêu nhiên đối với các vị lănh đạo và cơ cấu của Giáo Hội, không phải như những con người và cơ cấu nhân loại, nhưng là Ư Chúa ở trong và qua những con người và cơ cấu này.

 

A.5. Linh mục là người mở ra với hiệp thông

            Hiệp thông và hiệp nhất là lời cầu nguyện tha thiết của Chúa Cứu Thế cho các môn đệ của Ngài. Mối hiệp thông này bắt rễ trong Chúa Ba Ngôi và từ Chúa Ba Ngôi: sự hiệp thông và trao đổi t́nh yêu vĩnh cửu giữa ba ngôi vị trong chiều kích hướng nội (ad intra); ba ngôi hoạt động riêng biệt nhưng trong một thể thống nhất cho con người và mọi loài thụ tạo theo chiều kích hướng ngoại (ad extra).

 

            Linh mục phải sống mối hiệp thông trọn vẹn của Hội Thánh phổ quát trong tâm t́nh vâng phục thảo hiếu, để xây dựng nhiệm thể toàn vẹn của Chúa Kitô.[20] Thánh Phaolô nói đến các yếu tố đa dạng xây dựng nên thân ḿnh Chúa Kitô là Hội thánh, mà trước hết là các ân sủng;[21] tiếp đến là các bộ phân trong một thân thể, sánh ví với các loại người và các chức năng trong Hội Thánh, tuy nhiều nhưng hiệp thông với nhau nên một duy nhất,[22] và sự hiệp thông cao nhất và trọn vẹn nhất trong bí tích Thánh Thể: ngàn hạt lúa miến làm thành tấm bánh và muôn hạt nho ép thành chén rượu, các tín hữu hiệp thông với nhau trong đức ái kết dệt nên một Hội Thánh duy nhất.

 

            Theo tinh thần Tông huấn Giáo Hội tại Á Châu số 43, linh mục c̣n phải sống và làm việc trong tinh thần hiệp thông và cộng tác để làm chứng cho t́nh yêu Thiên Chúa, góp phần xây dựng mối hiệp thông của toàn thể nhân loại và thế giới được tạo thành vẫn hằng ngóng chờ ngày được giải thoát.[23]

            Đối với sứ vụ của Giáo Hội, hiệp thông và truyền giáo luôn song hành và kết nối không thể tách ĺa nhau,[24] bởi v́ trước khi nói về Chúa, th́ phải sống hiệp thông mật thiết với Chúa, nói với Chúa và nghe Chúa nói đă: không ai có thể cho cái ḿnh không có !

 

            Nhưng sự hiệp thông đó ngày nay đang bị đe dọa, chúng ta phải nỗ lực xây dựng và bảo vệ nó. Cha Lombardi, phát ngôn viên Ṭa Thánh, nói rằng đối với ĐTC Biển Đức XVI th́ sự hiệp thông trong Hội Thánh là ưu tiên hàng đầu. Ngài đă đích thân và với hết sức lực dấn thân vào việc khử độc và lành mạnh hoá các căng thẳng v́ không hiểu biết và cảm thông đang làm cho cộng đồng lo lắng đau khổ. Những nguy hiểm và các cám dỗ nghiêm trọng nhất với Hội Thánh ở ngay trong ḷng Hội Thánh. Trong những thời kỳ khó khăn như những thời kỳ chúng ta đang trải qua, th́ những căng thẳng từ bên ngoài đưa vào tạo điều kiện cho những căng thẳng bên trong nỗi lên, góp phần vào việc gieo rắc thêm hỗn loạn và bất ổn. Ngài nhấn mạnh rằng trong giai đoạn xung khắc và ngờ vực nầy, thế giới đang chờ đợi nơi các Kitô hữu một chứng từ về sự hoà thuận nẩy sinh từ cuộc gặp gỡ của họ với Chúa Kitô phục sinh, là căn nguyên sự tương trợ của họ, để xă hội nầy cũng t́m thấy được con đường đúng đắn của nó cho tương lai.[25]

 

            Chính trong chiều hướng đó mà ĐTC chọn chủ đề cho Ngày Truyền Giáo 2010 “Xây dựng sự hiệp thông Giáo Hội là ch́a khóa của việc truyền giáo.”[26]

 

A.6. Linh mục là người hăng say truyền giáo

            Chúa Giêsu là nhà truyền giáo được Chúa Cha sai đi đầu tiên. Và Đức Mẹ thực hiện sứ mệnh truyền giáo khi mang Chúa Giêsu đến thăm bà Elizabeth.

 

            Công Đồng Vaticanô II giúp Giáo Hội tái khám phá căn tính truyền giáo của ḿnh. Truyền giáo là bản chất, là cảm thức và lẽ sống, là ư nghĩa, là nguồn gốc và mục đích của Giáo Hội.[27]

 

            Do đó, linh mục là nhà truyền giáo tự bản chất và phải luôn hăng say truyền giáo. Nếu không thế, linh mục sẽ không c̣n là linh mục nữa và đánh mất căn tính của ḿnh: “Vô phúc cho tôi, nếu tôi không rao giảng Phúc Âm”[28]

 

            Đấng Cứu Thế đă sinh ra ở Á Châu, nhưng Kitô giáo ở Á châu ngày nay vẫn c̣n là một thiểu số tuyệt đối ở cái lục địa rộng lớn nhất địa cầu này, với gần hai phần ba dân số thế giới. Vậy chúng ta phải có trong trí óc và con tim lời kêu gọi khẩn thiết tiếp tục sứ vụ của Chúa Giêsu cho đồng bào ḿnh, với ước vọng nồng cháy làm cho Ngài được nhận biết và yêu mến. Trong nỗ lực này, lời khuyên của thánh Phaolô cho Timôthêô vẫn c̣n là thời sự và nặng ư nghĩa cho chúng ta hôm nay: “Anh hăy rao giảng lời Chúa, hăy lên tiếng, lúc thuận tiện cũng như lúc không thuận tiện; hăy biện bác, ngăm đe, khuyên nhủ, với tất cả ḷng nhẫn nại và chủ tâm dạy dỗ. Thật vậy, sẽ đến thời người ta không c̣n chịu nghe giáo lư lành mạnh, nhưng theo những dục vọng của ḿnh mà kiếm hết thầy này đến thầy nọ, bởi ngứa tai muốn nghe. Họ sẽ ngoảnh tai đi không nghe chân lư, nhưng hướng về những chuyện hoang đường.”[29]

 

            Vatican II mở rộng tầm nh́n của chúng ta ra với Nước Thiên Chúa (lớn hơn là Giáo Hội mà chúng ta thường quan niệm) và thúc đẩy chúng ta truyền giáo, tin tưởng rằng Chúa Thánh Thần đă khơi dậy một tinh thần truyền giáo thực sự nơi con tim của nhiều người.

            Có một tương tác chặt chẽ giữa phụng vụ đích thực và truyền giáo. Đỉnh cao của Phụng vụ là Thánh Thể.[30] Chúng ta truyền giáo là để đưa mọi người vào hiệp thông với Thiên Chúa hằng sống trong phụng vụ Thánh Thể. Và chính kinh nghiệm hiệp thông với Thiên Chúa sẽ thúc đẩy chúng ta truyền giáo. Phụng vụ mang lại cho chúng ta ḷng nhiệt thành truyền giáo và thánh hóa thế giới. Việc dùng ngôn ngữ địa phương trong phụng đă khuyến khích người giáo dân tham dự cách năng động và sáng tạo, không chỉ trong phụng vụ mà c̣n trong mọi khía cạnh của sứ vụ của Giáo Hội. Phụng vụ Thánh Thể c̣n được kết thúc bằng dấu chỉ truyền giáo: chúng ta được sai đi, được trao sứ vụ chia sẻ với tất cả mọi người kho tàng chúng ta đă khám phá trong thánh lễ qua hai bàn tiệc Lời Chúa và Thánh Thể.[31]

 

A.7. Linh mục là người của đối thoại

Thượng Hội Đồng Giám Mục Á Châu và Liên Hiệp Các Hội Đồng Giám Mục Á Châu đă chỉ rơ con đường hiện diện mới của Giáo Hội với ba chiều kích đối thoại: đối thoại với các nền văn hóa, đối thoại với các tôn giáo khác, và đối thoại với người nghèo.

 

            Con đường đối thoại bắt rễ trong Thiên Chúa và bắt đầu từ Thiên Chúa, Đấng luôn duy tŕ cuộc đối thoại với nhân loại, đặc biệt với người nghèo, người bị áp bức, người bị bỏ rơi… Là chứng tá của Tin Mừng, linh mục phải là một con người của đối thoại, với cả bên ngoài lẫn bên trong Giáo Hội. Đáng buồn là lắm khi cuộc đối thoại bên trong Giáo Hội và cộng đoàn không mấy dễ dàng!

 

            Đối với Á Châu, cái nôi của nhiều truyền thống văn hóa, tôn giáo lớn và đại đa số người nghèo của thế giới, sứ mệnh đối thoại và truyền giáo lại c̣n thích hợp và cấp bách hơn. Do đó, ứng sinh linh mục cần được đào tạo và tự đào tạo tốt các kỹ năng đối thoại. Điều tiên quyết là phải nắm vững đạo lư của ḿnh trong tinh thần phục thiện khiêm tốn nhưng cương quyết: nh́n nhận cái chủ quan thiếu sót của ḿnh mà sửa chữa và thừa nhận cái khách quan đúng của người mà học hỏi, hầu đi tới chỗ gặp gỡ được nhau, đồng thời đưa ra và cố gắng thuyết phục người ta đón nhận cái chủ quan đúng và chân lư của ḿnh. Phải không ngừng phát triển và thăng tiến cuộc đối thoại theo mô h́nh biện chứng pháp tiến lên để đôi bên ngày càng hiểu nhau hơn (chính đề tương phản với phản đề làm phát sinh ra một hợp đề; hợp đề này trở thành một chính đề mới và bộ ba biện chứng mới lại bắt đầu; rồi cứ như thế mà tiến triển không ngừng).

 

            Chúng ta cần, không chỉ đối thoại ba chiều như đường lối hiện hữu và truyền giáo mới của Giáo Hội, nhất là tại Á Châu; nhưng trong bối cảnh đặc biệt của Việt Nam, chúng ta c̣n cần đến chiều kích đối thoại thứ tư, đối thoại với người Cộng Sản.[32] Đối thoại với con người hơn là đối thoại với chủ nghĩa ư thức hệ, một cuộc đối thoại được mô tả là cuộc đối thoại giữa hai người điếc.

 

            Cuộc đối thoại này bao gồm hai khía cạnh:

 

            Nhưng trước hết, chúng ta phải bắt đầu, bắt đầu lại, và luôn tiếp tục cuộc đối thoại đại kết bên trong ḷng Giáo Hội[33] v́ lắm khi cuộc đối thoại với bên trong ḷng Giáo Hội c̣n khó khăn hơn cuộc đối thoại với bên ngoài! Nếu trong nhà có được hiểu nhau, yêu thương và hợp nhất với nhau th́ nội lực mạnh mẽ đó sẽ đem lại thành công trong đối thoại hay bất cứ một hoạt động nào đối với bên ngoài.

 

A.8. Linh mục là người của truyền thông xă hội

            Ngày nay, không ai phủ nhận vai tṛ quan trọng và ảnh hưởng vạn năng của truyền thông đại chúng, với những lợi ích và những tác hại của nó, trong đời sống của con người, “đặc biệt cuộc sống của thế hệ trẻ được sinh ra và lớn lên trong một thế giới bị điều kiện bởi truyền thông đại chúng[34]

 

            Linh mục ngày nay phải biết sử dụng các phương tiện tân tiến của Truyền thông xă hội, như những dụng cụ hữu hiệu để sống mối hiệp thông con tim và khối óc của toàn thể Giáo Hội, để cập nhật các hiểu biết về thần học và mục vụ, cũng như những giáo huấn về xă hội và luân lư của Giáo Hội, để truyền thông sứ điệp Phúc Âm, và để thăng tiến đời sống thiêng liêng của ḿnh.

 

            Linh mục trong thời đại chúng ta phải học cách sử dụng hợp pháp các phương tiện truyền thông, tuy không thành thạo như các chuyên gia nghề nghiệp thuộc lănh vực này, ngơ hầu sử dụng và hướng dẫn kẻ khác, nhất là giới trẻ, làm sao sử dụng cách đúng đắn các phương tiện truyền thông trong cuộc sống hằng ngày, nghĩa là dạy cho biết cách làm chủ đối với truyền thông, biết cách nh́n thấy cái ǵ đằng sau khúc phim hay tấm h́nh, biết cách đọc được ư nghĩa của các ḍng chữ: người truyền thông tin phải chân thật, đúng sự kiện, đúng ư nghĩa và mục đích, công bằng và bác ái; người nhận thông tin phải biện phân đúng sai, thật giả với sự ḥai nghi trí thức “sao lại thế? Có thể như thế thật ư?..” và t́m cách kiểm chứng chính xác rồi mới thông tin lại cho người khác.

 

            Chính v́ thế mà ĐGH Gioan Phaolô II khuyên rằng giáo dục truyền thông cần phải là một phần không ngừng gia tăng trong công cuộc đào tạo linh mục, chủng sinh, tu sĩ, giáo lư viên, giáo dân chuyên nghiệp, sinh viên… theo những chỉ dẫn mục vụ của Aetatis Novae, với sự lưu tâm thích hợp tới những hoàn cảnh hiện hành ở Á Châu và Việt Nam.[35]

 

A.9. Linh mục là người nhạy bén với các thay đổi xă hội

 

            Mọi sự đang thay đổi và tiếp tục thay đổi đến chóng mặt. Linh mục phải là những người bắt nhịp hài ḥa với t́nh h́nh hiện nay của một thế giới đang thay đổi; phải luôn sẵn sàng và bén nhạy để đọc được các thời triệu, chấp nhận các mới mẻ của những đổi thay, và can đảm thích nghi chính ḿnh cách khôn ngoan sáng suốt với những bước chân của Chúa Thánh Thần, Đấng hằng làm cho mọi sự nên mới.[36] 

 

            Sự nhạy cảm này giúp chúng ta hiểu rơ hơn các nhu cầu của dân chúng, nhận thức được những vấn nạn không lời của họ, đáp ứng các thỉnh nguyện, chia sẻ những hy vọng, những trông đợi, những niềm vui và những gánh nặng của họ.[37]

 

            V́ vậy, Công Đồng Vaticanô II thúc bách không ngừng hoàn thiện các hiểu biết về những sự của Thiên Chúa và những sự của con người, ngơ hầu đi vào đối thoại cách thích đáng với những người đương thời.

            Sự nhạy bén này sẽ gợi ư và hướng dẫn những đổi thay trí năo và con tim hướng tới cuộc trở lại liên lỉ với Chúa và với tha nhân, bằng việc “để cho qua đi và để cho Chúa liệu” v́ Ngài thay đổi công việc chứ không thay đổi ư định. Đặt Chúa vào giữa th́ mọi sự sẽ đến cùng nhau, với cái nh́n tích cực (thấy khía cạnh tốt của những ǵ xảy đến), với ḷng cảm thông (Chúa có kế hoạch của Ngài, tha nhân không muốn thế, nhưng Chúa bắt phải làm thế) và biết ơn Chúa và tha nhân (nhờ đó mà ta được biến đổi và lớn lên).

 

            Chúa luôn đổi mới lời mời gọi của Ngài, xuyên qua Phúc Âm, các dấu chỉ thời đại, các biến cố thăng trầm của cuộc sống mỗi ngày, th́ chúng ta, là những người theo Chúa Giêsu, cũng phải đổi mới sự đáp trả của ḿnh cho tương xứng.

           

            Mọi việc Chúa Kitô làm đều mang dấu ấn của thay đổi, thay đổi từ cũ sang mới, từ điều được trông đợi đến điều bất ngờ: Ngài ngồi ăn với người những tội lỗi, nói chuyện với người Xamari, vượt quá luật ngày Xabát, yêu thương kẻ thù, và Ngài hy sinh mạng sống v́ người khác. Mọi hành động ấy đều là những thay đổi. Qua những thay đổi ấy, Hội Thánh được sinh ra, và hôm nay, cũng qua những thay đổi như thế mà Hội Thánh c̣n tồn tại và tiếp tục sống động.

 

            Luật của sự sống và sinh trưởng là thay đổi, và mỗi chặng đường sinh trưởng của con người đều được ghi dấu bằng những thay đổi quyết định, từ lúc được sinh ra cho đến lúc chết đi, trải qua tích cực cũng như tiêu cực: “Mai nam, trưa nắng, chiều nồm; trời c̣n luân chuyển huống mồm thế gian.”

 

            Trong chiều hướng này, linh mục được mời gọi trở thành những con người phục vụ khiêm tốn trong bất cứ cái ǵ, bất cứ ở đâu, bất cứ lúc nào, và bất cứ thế nào, mà dân chúng cần đến.

 

 

 

A.10. Linh mục là người của sứ vụ tiên tri

            Với chức linh mục thừa tác, linh mục bị thúc bách sống sứ vụ tiên tri, một trong ba chúc năng (tư tế, tiên tri và vương đế) của Chúa Kitô.

 

            Để thực hiện sứ vụ tiên tri của ḿnh, Chúa Giêsu đă nói đến Bát Phúc, người con hoang đàng, người Samaritanô tốt bụng… Ngài đă đến với người tội lỗi, gái điếm, ngoại t́nh, bị bỏ rơi, nghèo hèn, ở bên lề và bị loại trừ, dù Ngài bị chỉ trích là điên khùng, phản động, phạm thượng, đi lại và ăn uống với phường thu thuế và tội lỗi.

 

            Linh mục phải thực thi sứ vụ tiên tri của ḿnh, với tất cả con tim, với tất cả linh hồn, và với tất cả sức mạnh của ḿnh, trong hai khía cạnh:

·        Loan báo và sống t́nh yêu nồng cháy của Chúa Giêsu đối với Thiên Chúa, Nước Chúa, và đối với dân chúng.

·        Tố cáo thói giả h́nh, bất công, áp bức,… dù phải trả với giá đắt của thập giá và cái chết: Giám mục Oscar Romero[38] và Mục sư Martin Luther King[39] là những chứng tá hùng hồn hiện đại cho sứ vụ tiên tri này.

 

            Linh mục luôn có cơ hội để tuyên bố và tŕnh bày cho thế giới và Dân Chúa sứ điệp yêu thương của Chúa, tại đây và lúc này. Đồng thời linh mục cũng phải nhắc nhở dân chúng về mối liên hệ giao ước của họ với Thiên Chúa.

 

            Tuy sứ vụ tiên tri là một nhiệm vụ khó khăn và nguy hiểm, nhưng v́ “kiến nghĩa bất vi bất nghĩa,” linh mục phải đóng vai tṛ chỉnh sửa ở trong Giáo Hội cũng như ở ngoài Xă Hội, khi có quá nhiều áp bức bất công xă hội, chính trị, kinh tế và tôn giáo cực đoan, ư thức rằng chân lư không luôn luôn thuộc về số đông và kẻ có quyền.

 

            Hơn nữa phải theo nguyên tắc của Phêrô: “Các ông nghĩ thế nào cho phải lẽ trước mặt Chúa, vâng lời các ông hay là vâng lời Chúa hơn;”Phải vâng lời Thiên Chúa hơn là vâng lời con người”[40]

 

            Dĩ nhiên chỉ khi nào linh mục sống được cái đức dũng này: “Phú quí bất năng dâm, bần tiện bất năng di, uy vũ bất năng khuất” nghĩa là giàu sang không ham, bần hèn không thay đổi ḷng, và bạo lực không khuất phục được, v́ đă có Chúa làm gia nghiệp. 

 

  

 

B. LINH MỤC GIÁO PHẬN  ĐẶT CHÚA KITÔ LÀM TRỌNG TÂM  ĐỜI SỐNG VÀ SỨ VỤ LINH MỤC CỦA M̀NH 

 

“Khi c̣n sống kiếp phàm nhân, Đức Giêsu đă lớn tiếng kêu van khóc lóc mà dâng lời khẩn nguyện nài xin lên Đấng có quyền năng cứu Người khỏi chết. Người đă được nhậm lời, v́ có ḷng tôn kính. Dầu là Con Thiên Chúa, Người đă phải trải qua nhiều đau khổ mới học được thế nào là vâng phục; và khi chính bản thân đă tới mức thập toàn, Người trở nên nguồn ơn cứu độ vĩnh cửu cho tất cả những ai tùng phục Người.”[41]

Chúng ta sẽ tŕnh bày Đời sống và sứ vụ linh mục lần lượt theo các mẫu tự làm nên danh hiệu Chúa Kitô: C H R I S T[42] 

B.1. C Thập Giá (CROSS).   

Chức linh mục cắm rễ sâu nơi Thập Giá. Chúa Giêsu đă minh định rất rơ rằng chỉ có một con đường duy nhất để đi theo Ngài. Đó là con đường Thập Giá: “Ai muốn theo Ta, hăy từ bỏ ḿnh, vác thập giá ḿnh mà theo Ta.”[43]

Không có con đường nào khác để bước theo Thầy. Tất cả những cái gọi là con đường tắt cuối cùng đều sẽ chẳng dẫn đến đâu cả, bởi v́ người môn đệ đích thực phải là người bước đi trên con đường Thập Giá và theo Thầy cho đến đồi Canvê. Thập Giá gắn kết không rời với Chúa Giêsu, ngay cả sau khi Ngài sống lại vinh quang th́ các dấu đinh từ cuộc khổ nạn của Ngài vẫn không bị xóa nḥa. 

Do đó, linh mục không tránh né Thập Giá, cũng không được t́m cách che chắn Thập Giá: “Nếu Đức Kitô mà chúng ta mường tượng không phải là ‘Đức Kitô Khổ Nạn’, th́ đấy là chúng ta đang mường tượng một ai đó khác, chứ không phải là Đức Kitô thực”[44]

Thập Giá có nghĩa là bỏ ḿnh và trần trụi, Thập Giá gắn liền với hy sinh và giũ bỏ ư riêng, Thập Giá đ̣i phải chấp nhận Thánh Ư Chúa Cha dù phải trả bằng giá nào đi nữa, Thập Giá đ̣i phải sẵn sàng uống cạn chén đắng đến giọt cuối cùng, Thập Giá có nghĩa là vâng phục cho đến chết. Người linh mục không thể đi con đường nào khác hơn là con đường của Chúa Kitô, Đấng đă vâng phục cho đến chết trên Thập Giá. 

Chúng ta dễ có nguy cơ nuôi dưỡng một ‘tinh thần hảo ngọt’ mà kết quả là t́m kiếm chính ḿnh nơi Thiên Chúa, chứ không phải t́m kiếm Thiên Chúa nơi chính ḿnh! Không được xem Thập Giá như một gánh nặng phải vác trong cuộc hành tŕnh, mà đúng hơn phải xem đó là “một chiếc gậy giúp ḿnh bước đi dễ dàng hơn và nhẹ nhàng hơn bội phần.”[45] Có những lúc Thập Giá như phủ trùm bóng tối trên chúng ta th́ phải hiểu rằng đó là bóng bàn tay Chúa Giêsu ân cần đưa ra che chở chúng ta. 

Cám dỗ thường xuyên của con người là kiếm t́m một Chúa Giêsu không Thập Giá, là muốn một ‘thứ Kitô giáo’ dễ dăi nào đó, là khát khao một ‘thứ Tin Mừng’ không nhuốm nước mắt và đau khổ. Cũng giống như Phêrô, chúng ta muốn kéo Chúa Giêsu ra ngoài và can ngăn về chuyện Ngài tuyên bố quá rơ ràng về Thập Giá, về chuyện Ngài lên đường đi Giêrusalem. Và có lẽ chúng ta cũng đáng bị những lời quở trách “Satan, hăy xéo đi!” bởi v́ chúng ta không ủng hộ ư muốn của Thiên Chúa mà đang ủng hộ ư muốn của loài người.[46]

Tin Mừng của Chúa Giêsu là một thứ Tin Mừng khổ lụy, không những phải được rao giảng mà c̣n phải được thực thi. Nếu chúng ta cố t́m một Chúa Giêsu không có Thập Giá, chúng ta sẽ gặp thập giá mà không có Chúa Giêsu! Thập Giá là một trong những nghịch lư lạ lùng của Kitô giáo. Sự khôn ngoan và sức mạnh của Thập Giá chỉ được hiểu một khi ta đảm nhận nó và trực tiếp kinh nghiệm nó: Liều đánh mất mạng sống chính là để đạt được sự sống, đành chịu bất lực chính là để trở nên mạnh mẽ. Thập Giá không phải là kết điểm của con đường, mà là cánh cổng dẫn vào sự sống: thất bại chuyển hóa thành chiến thắng, chính chỗ sự sống bị tước đoạt lại trở thành nơi sự sống được phục hồi. 

Giáo Hội không bao giờ che giấu Thập Giá, trái lại biểu dương và suy tôn Thập Giá: “Nếu hạt lúa ḿ rơi xuống đất mà không thối đi, th́ nó chỉ trơ trọi một ḿnh; nhưng nếu nó thối đi, nó sẽ trổ sinh nhiều bông hạt.”[47] Đời sống linh mục càng cắm rễ sâu trong Thập Giá càng trổ sinh hoa trái nhiều hơn. Chính khi đi đến cùng con đường tự hủy, trút bỏ đến trở thành trống không, là lúc mà công cuộc của Chúa Giêsu đạt đến mức tuyệt đỉnh: cứu vớt chúng ta khỏi tội lỗi và giải ḥa chúng ta với Thiên Chúa. 

Đời linh mục được sắc nét khi tựa vào Thập Giá, bởi v́ chức linh mục thừa tác là chức phận của hy tế của Đấng “đă tự thể hiện ḿnh là tư tế, là bàn thờ, và là con chiên bị sát tế” và nhờ “việc chấp nhận chết, Ngài đă tiêu diệt sự chết nơi chúng ta, và nhờ sống lại, Ngài đă phục hồi sự sống cho chúng ta.”[48]

Hằng ngày linh mục nhân danh Chúa Kitô cử hành Lễ Tạ Ơn là chính trung tâm cuộc sống và sứ vụ của ḿnh, và trở thành chính điều mà ḿnh cử hành, như nghi thức truyền chức căn dặn: “Con hăy nhận lấy lễ phẩm của dân thánh, hiểu biết những điều con làm… và hăy làm cho cuộc sống con nên tương hợp với mầu nhiệm Thập Giá của Chúa.”  

Việc cử hành Thánh Thể là một sự lặp lại hy tế Canvê, thể hiện và đào sâu sự đồng hóa linh mục với Chúa Kitô trong hy tế Thập Giá, qua đó linh mục được thách đố trao ban chính thân thể ḿnh, chính máu thịt ḿnh. 

Nhiều người trong chúng ta cũng đă, hay sẽ trèo lên con đường dốc đứng đó, dưới nhiều h́nh thức và mức độ khác nhau. Con đường thập giá của Giáo Hội và của chúng ta vẫn kéo dài măi. Những người bách hại c̣n đó hay đă qua đi, hoặc đă thay đổi, nhưng thập giá vẫn không thay đổi và vẫn c̣n đè nặng trên vai chúng ta. 

Ngày xưa ông Simon đă giúp Chúa Giêsu vác thập giá, th́ ngày nay chính Chúa Giêsu chịu đóng đinh và sống lại đang giúp chúng ta vác thập giá của chúng ta. Đau khổ của chúng ta là đau khổ của Ngài, hy tế của chúng ta là hy tế của Ngài. Chúa Giêsu thấu hiểu những yếu đuối của chúng ta, những thất bại của chúng ta, những cảm giác ngă ḷng, những lo sợ và cô đơn của chúng ta, v́ chính Ngài cũng đă trải nghiệm những khó khăn này. 

Đường thập giá là trường dạy chúng ta sống. Chúa Giêsu ngă xuống rồi lại chỗi dậy. Ngài chịu đựng nỗi cô đơn. Ngài chịu hành hạ và lăng nhục, nhưng Ngài luôn tha thứ. 

Đường thập giá là trường dạy sống thánh theo gương Mẹ Maria. Mẹ bước đi theo Con Mẹ trong thinh lặng. Cái nh́n của hai Mẹ Con bắt gặp nhau; hai Mẹ Con nh́n nhau tận trong sâu thẳm tâm hồn. Mẹ và Con kết hiệp với nhau bởi t́nh yêu bao la, sâu thẳm và trong trắng. T́nh yêu này sẽ làm thế giới thay đổi. 

Chúng ta trèo lên con đường thập giá đến tận đỉnh đồi Golgotha, đến tận một Chúa Kitô toàn thể, vừa với thập giá và măo gai trên đồi Golgotha, vừa với vinh quang trên núi Tabôrê và chiến thắng phục sinh vinh hiển. Sứ mạng linh mục của chúng ta là hướng dẫn những con người phải đau khổ v́ đối nghịch và hận thù để họ không quay lưng lại với nhau, nhưng nh́n vào mắt nhau trong sự cảm thông tương hổ. 

Mẹ Maria đă theo Chúa Giêsu trên đường núi Sọ, xin Mẹ luôn đồng hành với chúng ta. Một người mẹ đă nói với con ḿnh rằng: “Dù con lớn bao nhiêu tuổi, con vẫn là con của Mẹ; dù con có đi tới cùng trời cuối đất, th́ ḷng Mẹ vẫn hằng theo con.” Chớ ǵ chúng ta luôn cảm nhận sâu sắc Mẹ Maria luôn đồng hành với chúng ta, luôn đứng bên thập giá của chúng ta và che chở chúng ta. 

B.2. H Nhân Ái (HUMANITY). 

Khi đọc và suy gẫm Tin Mừng, chúng ta dễ có ấn tượng sâu đậm về ḷng nhân ái của Chúa Giêsu. Ngài bồng ẵm các em bé vào ḷng, chúc lành cho chúng, nhắc nhớ rằng Nuớc Thiên Chúa thuộc về những người giống như chúng.[49] Ngài có các bạn hữu ở Bêtania mà Ngài yêu mến và năng ghé thăm, Ngài có một tương giao thân t́nh nồng nhiệt với họ. Ngài đă cảm thương bạn hữu ḿnh đến độ sa nước mắt, như điều đă xảy ra bên mồ Ladarô.[50] Ngài cũng nếm cảm nỗi đói, khát, cô đơn và buồn sầu. Ngài là Thiên Chúa và là con người trọn vẹn, và thần tính của Ngài không hề làm nhân tính Ngài bị sút giảm đi chút nào. Ḷng nhân ái của Chúa Kitô được nh́n thấy rơ rệt nhất nơi tấm ḷng trắc ẩn của Ngài. 

“Trắc ẩn” không chỉ có nghĩa là thương hại người ta, mà đúng hơn, trắc ẩn là cảm nếm nỗi đau khổ nơi người ta, cùng chịu đau khổ với người ta. Chúa Giêsu đă cảm nhận cơn đói mệt của đám đông đi theo Ngài trong hoang địa.[51] Trái tim trắc ẩn của Ngài đă hoàn toàn đồng cảm với và mang lấy gánh buồn đau của người góa phụ đang khóc thuơng v́ mất đứa con trai duy nhất của ḿnh.[52] Người góa phụ này đă không xin Chúa Giêsu làm phép lạ. Chính Ngài quyết định làm thế. Phải chăng Ngài nh́n thấy trước nơi người góa phụ ấy h́nh ảnh chính Mẹ yêu dấu của Ngài, khi Mẹ sẽ đón nhận vào ṿng tay ḿnh tấm thi thể tan nát của chính Ngài sau này? Ngài cảm nhận được ḷng thống hối của người đàn bà tội lỗi đang sa nước mắt rửa chân Ngài và lấy tóc nàng mà lau chân Ngài, như dấu chứng của một trái tim chứa chan ḷng mến. Ḷng trắc ẩn của Ngài đă thúc đẩy Ngài đi đến gặp gỡ và ngay cả đụng chạm đến những người phung hủi mà xă hội liệt vào hạng ô uế và không thể đụng chạm đến được.[53]

Ḷng nhân ái của Chúa Giêsu đă làm cho Ngài có thể đi vào trong mối quan hệ cá nhân với tất cả mọi người: những người đau ốm và những người khốn khổ, những người nghèo hèn và những người bị áp bức, những người tội lỗi và những người thánh thiện. 

Mặc dù Ngài tiếp xúc với đám đông quần chúng, Ngài vẫn không bao giờ quên các cá nhân và nhu cầu của họ. Ngài dừng lại với anh chàng ăn xin mù Bartimê.[54] Cả một đám đông chen lấn xô đẩy Ngài, nhưng Ngài vẫn cảm nhận được đức tin của người phụ nữ đang cố kín đáo chạm đến mép áo Ngài để được chữa lành chứng bệnh băng huyết của chị.[55] Ngài đă cảm kích bởi ḷng quảng đại của bà góa nghèo dâng cúng hai đồng bạc, tức trọn số tiền mà bà đang có để sống, vào ḥm tiền của Đền Thờ.[56]

Để nên giống Chúa Kitô, linh mục phải có ḷng nhân ái và trắc ẩn như Ngài, phải biết cảm xúc với người ta, v́ người ta, và trong người ta, nhất là những người đau khổ trong thân xác cũng như trong tâm hồn, phải cảm nhận “những vui mừng và hy vọng, những ưu sầu và lo lắng của con người ngày nay, nhất là những người nghèo và những người đau khổ…”[57]

Linh mục không thể vô cảm, vô can, hay lănh đạm đối với bao nỗi đau buồn và bao nỗ lực đấu tranh của những người mà ḿnh có bổn phận phục vụ. Niềm vui và nỗi khổ của họ phải có một âm vang trong cơi ḷng linh mục. Linh mục được gọi nên giống Chúa Kitô để trở thành người Samaritanô Nhân Hậu, bởi v́ “dụ ngôn người Samaritanô nhân hậu thuộc về Tin Mừng khổ lụy. Quả thật, dụ ngôn này vạch cho chúng ta thấy mối tương quan giữa chúng ta và những anh chị em đau khổ xung quanh đời ḿnh phải như thế nào”[58]

Nhờ cuộc sống độc thân, linh mục hoàn toàn có tự do để yêu thương, quan tâm và chăm sóc mọi người. Linh mục là của mọi người, bởi v́ mọi người có quyền đ̣i hỏi linh mục không thuộc về riêng một ai cả: “Linh mục được mời gọi bắt chước gương Chúa Kitô và mang trọn tấm ḷng đồng cảm của Ngài đến cho những người ốm đau tật nguyền… Linh mục không giống với Chúa Kitô ở chỗ linh mục không có quyền năng để chữa trị các anh chị em đau yếu, tuy nhiên, linh mục có thể đem lại cho họ sự an ủi về mặt luân lư và tâm linh, nâng đỡ họ trong cơn thử thách và ngay cả có thể giúp họ mau chóng b́nh phục hơn”[59]

Có thể linh mục không xóa tan được nỗi thống khổ của người ta, nhưng chính sự hiện diện của linh mục trong nỗi thống khổ của họ sẽ đem lại cho họ niềm hy vọng và sự chữa trị.

Linh mục không chỉ thực thi sứ vụ phục vụ những người bệnh tật và đau khổ, mà ngược lại linh mục đồng thời cũng nhận được sự nâng đỡ lớn lao từ nơi họ; linh mục không chỉ hướng dẫn và chăm sóc họ mà c̣n được họ chăm sóc và hướng dẫn: Sự hy sinh và kiên nhẫn chịu đựng của họ là một nguồn nghị lực nâng đỡ linh mục; sứ vụ đối với những người bệnh tật, đau khổ, nghèo túng… có sức khích lệ tinh thần linh mục và làm cho linh mục giàu tính người hơn và nên giống Chúa Kitô hơn.

B. 3. R Ḥa Giải (RECONCILIATION) 

“V́ thế, từ đây chúng tôi không c̣n biết một ai theo quan điểm loài người. Và cho dù chúng tôi đă được biết Đức Kitô theo quan điểm loài người, th́ giờ đây chúng tôi không c̣n biết Người như vậy nữa. Cho nên, phàm ai ở trong Đức Kitô đều là thọ tạo mới. Cái cũ đă qua, và cái mới đă có đây rồi. Mọi sự ấy đều do bởi Thiên Chúa là Đấng đă nhờ Đức Kitô mà cho chúng ta được hoà giải với Người, và trao cho chúng tôi chức vụ hoà giải. Thật vậy, trong Đức Kitô, Thiên Chúa đă cho thế gian được hoà giải với Người. Người không c̣n chấp tội nhân loại nữa, và giao cho chúng tôi công bố lời hoà giải”[60]

Chúa Kitô đă đến để giải ḥa con người với nhau và với Chúa Cha. Ngài là sự giao ḥa và là sự b́nh an, v́ “trong Đức Kitô, Thiên Chúa đă giao ḥa thế gian với chính Ngài…”[61] Ngài đă hàn gắn tất cả những ǵ đổ vỡ, qui tụ tất cả những ǵ tản mác, hiệp nhất những ǵ phân rẽ. Ngài đă chịu chết để thu họp tất cả các con cái Thiên Chúa đang tan tác khắp nơi.[62] Ngài đă mang lấy gánh nặng lỗi lầm của chúng ta và trở thành giống như chúng ta mọi đàng, ngoại trừ tội lỗi.[63] Là nhà ḥa giải, Chúa Giêsu là Pontifex thượng đẳng, là nhịp cầu nối kết không chỉ các cá nhân đang chia rẽ nhau, mà nhất là hiệp nhất lại những ǵ đă phân rẽ ở bên trong mỗi con người.

Tin Mừng cho thấy h́nh ảnh một Chúa Giêsu không ngừng t́m kiếm và cứu vớt những ǵ lạc mất, đến độ Ngài tự nguyện đến dùng bữa tại nhà Zakêu. Thật vậy, Ngài bị tiếng là thường giao du với những người tội lỗi và những người thu thuế.[64] Ngay cả trong cơn đau quằn quại trên Thập Giá, Ngài cũng đă giao ḥa người trộm lành qua việc bảo đảm thiên đàng cho anh ta.[65]

Cái ǵ gây phân rẽ ở ngay bên trong mỗi người? Cái ǵ gây phân rẽ ở giữa người với nhau? Đó không phải là ǵ khác ngoài tội lỗi và sự dữ. Tội lỗi chia cắt và làm con người tan ră. Trong tội lỗi, người ta không chỉ đoạn tuyệt ḿnh khỏi Thiên Chúa, mà c̣n đoạn tuyệt ḿnh khỏi người khác, và c̣n đoạn tuyệt ḿnh với chính ḿnh nữa. Sự xung đột giữa người với người chỉ chấm dứt khi mà sự xung đột bên trong bản thân mỗi người chấm dứt. 

Từ kinh nghiệm bản thân, chúng ta biết rằng cơi ḷng ḿnh là một băi chiến trường của những xung đột cam go này. Chúng ta muốn tránh sự dữ, thế nhưng chúng ta lại sa vào làm mồi cho sự dữ. Chúng ta muốn làm điều tốt, nhưng chúng ta lại bị kéo lôi bởi điều xấu. Quả thật chúng ta có thể thốt lên như Thánh Phaolô rằng: “Khốn cho tôi! Ai sẽ kéo tôi ra khỏi tấm thân hay chết này? Xin tạ ơn Thiên Chúa nhờ Đức Giêsu Kitô Chúa chúng ta!”[66]

Linh mục vẫn thường nói về những cơ chế của tội lỗi trên thế giới, những cơ chế của bất công, của sự phân biệt đối xử… Nhưng những cơ chế ấy phát xuất từ đâu? Chúng ta dễ quên những cơ sở hạ tầng của tội lỗi bên trong chính ḿnh. Những cơ chế bên ngoài của tội lỗi sẽ chỉ biến mất nếu những cơ chế tội lỗi đồn trú bên trong bản thân mỗi người bị giải thể. 

Có lẽ tội lớn nhất của thế giới chính là việc con người đánh mất cảm thức về tội lỗi. Đây là căn bệnh mà chúng ta cần được giúp đỡ và chữa trị. Chúa Giêsu cung ứng cho chúng ta sự chữa trị đó khi Ngài giải ḥa chúng ta với chính ḿnh, với nhau, và với Thiên Chúa. Linh mục là thừa tác viên và là sứ giả của sự ḥa giải này, để nối lại các nhịp cầu và kiến tạo ḥa b́nh. Linh mục cũng cần biết nh́n nhận rằng trong sâu thẳm con người ḿnh, linh mục vẫn mang những mầm mống của tội lỗi và ích kỷ, rằng linh mục cần được ḥa giải ngay cả khi linh mục đem lại sự ḥa giải cho người khác. 

Mẹ Giáo Hội cung cấp cho chúng ta một phương thế để đón nhận sự ḥa giải và niềm b́nh an ấy: đó là Bí Tích Ḥa Giải. Chúng ta phải nh́n nhận tội lỗi và sự dữ ở bên trong chúng ta và đặt ḿnh qui phục ḷng thương xót và sự thiện hảo của Thiên Chúa. Đó là lư do tại sao Giáo Hội hết sức nhấn mạnh tầm quan trọng của Bí Tích Ḥa Giải. Nhờ bí tích này, chúng ta nhận lănh không chỉ sự thứ tha tội lỗi mà c̣n nhận lănh sức mạnh của ơn Chúa để có thể phá tan những cơ chế tội lỗi bên trong chính ḿnh.  

Linh mục không những phải thực thi vai tṛ thừa tác viên của Bí Tích Ḥa Giải, mà c̣n phải là người ân cần và đều đặn lănh nhận bí tích này, để chính linh mục trở nên chứng nhân của ḷng thương xót mà Thiên Chúa dành cho tội nhân. V́ thế, chúng ta phải thành thật nh́n nhận thân phận tội lỗi của ḿnh và mở ḷng ra đón nhận ḷng thương xót của Thiên Chúa, Đấng luôn sẵn sàng tha thứ. Phải là một hối nhân mẫu mực th́ mới có thể làm một cha giải tội mẫu mực được.

Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II, trong Tông Huấn Hậu Thuợng Hội Đồng “Reconciliatio et Penitentia”, đă tŕnh bày một cách sắc bén như sau: "Đời sống tu đức và mục vụ của linh mục muốn thực sự có chất lượng và sinh động, cần phải là một đời sống lănh nhận Bí Tích Ḥa Giải thường xuyên và đầy ư thức. Việc cử hành Bí Tích Thánh Thể của linh mục và vai tṛ của ngài trong các bí tích khác, nhiệt tâm mục vụ của ngài, mối quan hệ của ngài đối với các tín hữu, mối hiệp thông của ngài đối với các anh em linh mục khác, sự cộng tác của ngài với Giám mục, đời sống cầu nguyện của ngài - nói tắt một lời: tất cả cuộc sống linh mục của ngài – sẽ lụn bại thảm khốc, nếu do cẩu thả hay do một lư do nào khác mà ngài không lănh nhận Bí Tích Ḥa Giải một cách đều đặn với ḷng tin và ḷng sốt mến chân thành. Nếu một linh mục không c̣n bước đến ṭa giải tội nữa hay không c̣n xưng thú tội lỗi của ḿnh một cách nghiêm túc nữa, th́ con người linh mục và sứ vụ linh mục của ngài chẳng mấy chốc sẽ gánh lấy hậu quả thê thảm, và hậu quả này sẽ tác động rơ ràng trên chính cộng đoàn mà ngài phụ trách.”[67]

B.4. I Đời Sống Nội Tâm (INTERIORITY). 

Các tŕnh thuật Tin Mừng khắc họa Chúa Giêsu là con người cầu nguyện. Ngài là con người của đám đông, nhưng cũng là con người ‘lên núi’ nữa. Ngài gắn bó với dân chúng, nhưng cũng trải qua những khoảng thời gian một ḿnh cầu nguyện lâu giờ và hiệp thông với Chúa Cha. Sự gắn bó của Ngài với dân chúng là một cái ǵ trào ra từ sự hiệp thông của Ngài với Chúa Cha. Và khi Ngài nhận thấy các tông đồ quá bận rộn đến đỗi thậm chí không có thời giờ để ăn, Ngài đă truyền cho các ông tách khỏi đám đông, lên thuyền và ra đi đến một nơi thanh vắng mà nghỉ ngơi đôi chút.[68]

Chúa Giêsu đă dạy các môn đệ cầu nguyện bằng chính gương mẫu của Ngài. Trông thấy Ngài cầu nguyện, họ xin: “Thưa Thầy, xin Thầy dạy chúng con cầu nguyện.”[69] Ngài cầu nguyện khi Ngài được dân chúng nồng nhiệt ngưỡng mộ, như sau biến cố hóa bánh ra nhiều,[70] và khi Ngài vui mừng đón bảy mươi hai môn đệ trở về,[71] Ngài cầu nguyện khi Ngài buồn sầu và cô đơn ở vườn Giếtsêmani,[72] Ngài cầu nguyện trên Thập Giá tại đồi Canvê,[73] Ngài cầu nguyện cả khi Ngài trút hơi thở cuối cùng, phó thác chính ḿnh trong tay Cha.[74]

Là linh mục triều phải sống giữa thế gian nhưng không thuộc về thế gian, chúng ta phải vun xới đời sống nội tâm, vun xới một cuộc sống cầu nguyện, vun xới một khả năng chiêm niệm trong hành động: yêu mến cầu nguyện, dành ưu tiên cho giờ cầu nguyện hằng ngày, sắp xếp ngày sống sao cho có thể dành cho Chúa một thời gian chất luợng.

Chính đời sống cầu nguyện sẽ làm cho linh mục luôn ở lại trong Chúa Giêsu như cành nho ở lại trong thân nho.[75] Sự ở lại này là bí quyết giúp cho linh mục sống một đời sống tâm linh sinh động và phong phú. Hơn nữa, sự ở lại này không bao giờ chấm dứt. Chính nhờ đời sống cầu nguyện này mà linh mục trở nên nhạy cảm hơn đối với Chúa Thánh Thần, trở nên ngoan ngoăn hơn trước những gợi ư và thúc đẩy của Ngài, đồng thời qui phục hoàn toàn con người ḿnh theo Thánh Ư Thiên Chúa.    

Nhiều giáo dân ngày nay rất trông mong linh mục cung cấp cho họ sự hướng dẫn tinh thần, dẫn dắt họ bước đi trên nẻo đường của cầu nguyện và của Thánh Thần. Đây cũng là một nhu cầu mục vụ thiết yếu. Linh mục phải đáp ứng cơn đói khát thiêng liêng này của giáo dân, nếu không muốn họ bị kéo lôi đến một chỗ khác để kiếm t́m sự hướng dẫn: "Chỉ có người mục tử cầu nguyện mới có thể chỉ bảo cho người ta biết cách cầu nguyện, và mới có thể đem ơn Chúa xuống cho những người mà ḿnh chịu trách nhiệm săn sóc mục vụ….. Chỉ có linh mục biết sống hằng ngày kinh nghiệm hoán cải và biết quan hệ thân mật với Chúa Kitô mới có thể thúc đẩy những bước tiến đáng kể trong công cuộc Phúc âm hóa đích thực và mới mẻ.”[76]

“Linh mục không thể lănh đạo và hướng dẫn người khác nếu chính bản thân linh mục lại xa lạ với những nẻo đường và những cách làm việc của Chúa Thánh Thần. Và nếu bản thân linh mục là người thiếu năng lực biện phân, th́ ngài phá hỏng công cuộc của Chúa Thánh Thần nơi những tâm hồn mà linh mục dẫn dắt.”[77]

B.5. S Tinh Thần Phục Vụ (SERVANTHOOD). 

Linh mục không thể không khao khát nên giống Thầy ḿnh, Đấng “đă đến không phải để được phục vụ nhưng là để phục vụ và hiến mạng sống ḿnh làm giá chuộc cho nhiều người.”[78] Ở Á Châu và nhất là tại Việt Nam, linh mục vẫn c̣n được dân chúng khá trọng vọng và vẫn c̣n có một số uy lực nào đó. Xă hội cũng thường dành cho linh mục một sự nể nang. Giáo dân nói chung thường cung phụng linh mục. V́ vậy, linh mục cần điều chỉnh và sửa đổi nhăn quan của ḿnh trong khía cạnh này.

Thánh Bộ Giáo Sĩ nhắc nhở: “Linh mục có một uy thế giữa các tín hữu, và tại vài nơi, linh mục c̣n có những thẩm quyền dân sự nữa. Tuy nhiên, linh mục cần ư thức rằng uy thế đó phải gắn liền với ḷng khiêm nhường và phải được sử dụng đúng đắn để thúc đẩy công cuộc cưú rỗi các linh hồn, trong khi không ngừng xác tín rằng chính Đức Kitô mới là thủ lĩnh đích thực của dân Thiên Chúa.”[79]

Giống Chúa Giêsu, linh mục là người chăn chiên tốt lành sẵn sàng thí mạng sống ḿnh v́ đàn chiên.[80] Và sau khi đă chu toàn tất cả những ǵ được kỳ vọng nơi ḿnh, linh mục phải biết tự nhận chính ḿnh như một “tôi tớ vô dụng” chỉ làm những ǵ có bổn phận phải làm.[81] Linh mục được trao tác vụ không phải cho chính bản thân linh mục, nhưng cho cộng đoàn tín hữu, nhất là linh mục giáo phận. Linh mục được trao tác vụ không phải để làm ông chủ sai khiến cộng đoàn, nhưng là để cống hiến cho cộng đoàn sự phục vụ vô vị lợi: “T́m gặp Đức Kitô nơi người khác… trong t́nh yêu ưu tiên đối với ‘người nghèo’, nơi họ, con mắt đức tin của chúng ta khám phá ra Chúa Giêsu và khám phá ra một t́nh yêu bao dung đối với tội nhân.”[82]

Tinh thần phục vụ của người tôi tớ sẽ làm cho linh mục biết vui tươi chấp nhận và dốc sức chu toàn những công việc bổn phận được trao cho ḿnh, dù đó là những công việc vinh dự hay thấp hèn đến đâu đi nữa, dù đó là những công việc gắn liền với tên tuổi hay chỉ âm thầm trong bóng tối và không được ai biết đến ḿnh. Tinh thần phục vụ của người tôi tớ sẽ cắt xén khỏi linh mục những dấu vết bội phản thuộc căn chứng sùng bái sự nghiệp phổ biến trong giới giáo sĩ trẻ ngày nay, một căn chứng có thể làm lệch lạc và thậm chí phá hỏng sứ vụ của ḿnh: nhiều công tŕnh giá trị của tiền nhân bị phá bỏ để xây dựng cái mới, có khi kém hơn, cả về chất lượng cả về giá trị văn hóa và mỹ thuật, chỉ v́ muốn để lại dấu tích sự nghiệp của ḿnh. Thật đáng tiếc! 

Tại một trong những học viện dành cho các sinh viên linh mục ở Rôma, chân dung của các cựu sinh viên đă trở thành Giám mục và Hồng y được treo nhan nhăn dọc các hành lang và cầu thang của ṭa nhà. Gần nay, các vị hữu trách đă quyết định tháo gỡ các khung ảnh ấy, bởi v́ theo báo cáo cho biết, nhiều linh mục sinh viên mới vào trường đă có cảm nghĩ mănh liệt rằng ḿnh cũng phải phấn đấu để đạt đến những “tầm cao” ấy! "Các sinh viên phải hiểu rơ rằng tiêu điểm phấn đấu cho cuộc sống ḿnh không phải là đạt quyền cao chức trọng và thu vén danh dự, nhưng là tận hiến chính ḿnh cho Thiên Chúa và cho sứ vụ mục vụ. Các sinh viên phải được đào tạo cách riêng về tinh thần vâng phục của linh mục, về tinh thần khó nghèo và từ bỏ, để họ có thể đảm nhận một cuộc sống theo khuôn mẫu của Đức Kitô Khổ Nạn, để họ có thể sẵn sàng từ bỏ cả những ǵ ḿnh đáng được hưởng, nhưng tự xét thấy là không phù hợp" 

B. 6.  T Thầy Dạy (TEACHER) 

Linh mục là Thầy dạy Lời Chúa, nhân danh Chúa Kitô và nhân danh Giáo Hội. Ngài sẽ không dạy những cao trào hay lư thuyết tạm bợ và chóng qua nào đó. Sứ mạng và sứ điệp là của Chúa Kitô, linh mục chỉ là sứ giả của Ngài. Giáo Hội đặt Lời cứu độ trên môi người rao giảng Tin Mừng, giải thích cho họ sứ điệp mà chính Giáo Hội là cơ quan ǵn giữ. Giáo Hội trao cho họ bài sai mà chính Giáo Hội đă nhận lănh từ Chúa Kitô. Linh mục sẽ không rao giảng về chính ḿnh hay về những ư tưởng riêng của ḿnh, nhưng là rao giảng một Tin Mừng mà cả linh mục lẫn Giáo Hội đều không phải là chủ nhân tuyệt đối và do đó không thể uốn ép Tin Mừng ấy tùy theo ư muốn của ḿnh, và phải chuyển giao Tin Mừng ấy một cách tuyệt đối trung thành.[83]

Thật vậy, việc rao giảng Lời Chúa là bổn phận trọng yếu của linh mục. “Trong tư cách là những cộng tác viên của Giám mục, bổn phận đầu tiên của linh mục là rao giảng Tin Mừng của Thiên Chúa cho mọi người …[để có thể] xây dựng và phát triển Dân Thiên Chúa.”[84] Nhưng muốn cho việc rao giảng này có tác dụng, th́ nó phải đặt điểm tựa trên đời sống cầu nguyện, và linh mục tiên vàn phải là con người cầu nguyện trước khi là con người rao giảng: Phải nói với Chúa đă, rồi mới có thể nói về Chúa, v́ không ai có thể cho cái ḿnh không có.

Linh mục không phải là chủ nhân, nhưng là tôi tớ của Lời Chúa, không đọc Lời cách máy móc nhưng là lắng nghe Lời. Thật vậy, “tâm nguyện, lắng nghe và đáp trả, là h́nh thức cao nhất của cuộc tương phùng giữa Lời Chúa và cuộc sống mỗi người.” Không thể phủ nhận sự kiện rằng “có một mối tương quan thiết yếu giữa đời sống cầu nguyện cá nhân và việc rao giảng… Việc rao giảng hữu hiệu là một hoa trái khác của việc cầu nguyện cá nhân.”[85]

Đức Thánh Cha Phaolô VI đă diễn tả một cách sắc bén như sau: “Con người thời nay thích lắng nghe các chứng nhân hơn là nghe những thầy dạy, và nếu họ lắng nghe những thầy dạy th́ đấy bởi v́ những thầy dạy ấy là các chứng nhân.” Bộ Giáo dục Công giáo cũng khẳng định: “Nhà giáo dục sống đời sống đức tin sống động sẽ dạy bằng chính con người ḿnh nhiều hơn là bằng những ǵ ḿnh nói.” Quả đúng như Ca dao chúng ta dạy: “Lời nói lung lay, gương lành lôi kéo.”

            Tóm lại, một khi đă có bản vẽ, đă có mô h́nh, đă có mẫu thiết kế, chúng ta sẽ bắt tay vào thực hiện công tŕnh. Cầu mong mỗi người chúng ta đều cố gắng h́nh thành cho ḿnh một mẫu linh mục thích hợp, và nỗ lực xây dựng đời sống ơn gọi của ḿnh theo cái mẫu đó, trong sự cộng tác tích cực và hữu hiệu giữa được đào tạo và tự đào tạo, theo đường lối của Giáo Hội, dưới sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần. Với sức con người lắm khi rất khó, nhưng với Chúa th́ mọi sự luôn đều là có thể.

 

 

 

 

C. LINH MỤC GIÁO PHẬN SỐNG SỨ VỤ TRong các MỐi tương quan

  

Các nhà tu đức nói rằng linh mục không lên thiên đàng hay xuống hỏa ngục một ḿnh, mà c̣n kéo theo nhiều người khác nữa, nhất là những người được trao phó cho sự chăm sóc mục vụ của linh mục. Linh mục không sống trong ốc đảo, mà sống với, sống v́ và sống cho các linh hồn. V́ thế đời sống thánh thiện hay không của linh mục được thể hiện trong các mối tương quan, nhờ các mối tương quan hay do các mối tương quan, nhất là đối với linh mục triều: nên thánh bằng các thừa tác vụ của ḿnh. 

 

Ngày nay người ta nhấn mạnh nhiều về Giáo Hội tham gia, Nguyên lư bổ trợ và Thần học mục vụ dấn thân, cũng như sự cộng tác và vai tṛ của giáo dân trong hoạt động dưỡng giáo và truyền giáo của Giáo Hội, nhằm giúp linh mục thực thi sứ vụ cách tốt đẹp trong ḷng Giáo Hội và Xă Hội Việt Nam đang biến đổi từng ngày, mà mỗi người phải biết thay đổi chính ḿnh cho thích hợp và hiệu quả, không đợi đến lúc bị bó buộc phải thay đổi, sợ e đă quá muộn chăng!

 

Chính trong định hướng mục vụ này, chúng ta sẽ xét đến đề tài “Linh mục giáo phận sống sứ vụ của ḿnh trong các mối tương quan.” Thật ra đây là đúc kết các bài làm nhóm có hướng dẫn, được cập nhật và hiệu đính sau mấy khóa học của các lớp Thần học Đại chủng viện thánh Giuse Hà Nội và lớp Thần học Bổ túc Bùi Chu. Sự hợp tác giữa giáo viên và học viên này vừa áp dụng phương pháp sư phạm Kích Biện Pháp vừa sử dụng Phương Pháp Luận Sáng Tạo. Nỗ lực để tăng cường, củng cố và cải thiện các mối tương quan tốt lẽ ra phải có sự tương tác đối xứng về cả hai phía, nhưng ở đây nhấn mạnh hơn về phía các linh mục giáo phận tương lai v́ mục đích đào tạo và tự đào tạo của họ.

 

C.1. Tương quan với Giám Mục Bản Quyền

C.1.a Những ǵ nên cư xử, nói và làm

·        Thái độ của linh mục đối với Giám mục Bản quyền là hợp tác, vâng lời, t́nh bạn; nh́n thấy nơi Ngài một người cha thực sự và vâng phục Ngài với tất cả ḷng kính trọng, thương yêu, thảo hiếu. Sự vâng lời càng đến từ con tim th́ mối tương quan giữa Giám Mục và linh mục càng trở nên gần gũi và tốt đẹp.

·        Thánh Giêrônimô dạy “hăy vâng phục và đón nhận Giám mục như Đấng sinh thành linh hồn ta”. Thánh Ignaxiô th́ nói “hăy theo Giám Mục như Chúa Giêsu theo Chúa Cha”. C̣n thánh Augustinô căn dặn “Người dưới cần vâng phục người trên như chính ḿnh muốn những người dưới ḿnh vâng phục ḿnh. Hăy giữ tôn ti trật tự, hăy t́m sự an b́nh.”

·        Quảng đại cam kết trung thành tuân giữ tất cả và từng quy luật, tránh mọi h́nh thức tuân giữ từng phần theo tiêu chuẩn chủ quan, gây chia rẽ ảnh hưởng đến giáo dân và dư luận công cộng, thiệt hại nặng nề về mục vụ.

·        Cởi mở trong đối thoại và hiệp thông trong t́nh yêu thương chân thành, cùng linh mục đoàn hiệp nhất chung quanh ngài.

·        Báo cáo hiện t́nh giáo xứ. Tŕnh bày những khó khăn của ḿnh (những vấn đề cá nhân cũng như khi thi hành sứ vụ); tŕnh bày chương tŕnh, kế hoạch của giáo xứ.

·        Sẵn sàng hợp tác và thi hành nhiệm vụ được Đấng Bản Quyền trao; sẵn sàng rời bỏ nhiệm vụ và nhiệm sở khi ngài cần. Vâng lời trong trạng thái nội tâm và sẵn sàng làm theo ư ngài.

·        Thánh Phaolô đă nói về Chúa Giêsu “đă vâng lời đến chết và chết trên thập giá”, v́ thế cần vâng lời triệt để. Thánh nhân c̣n dạy: “Chúa Giêsu đă học biết thế nào là vâng lời nhờ các đau khổ của Người[86]

·        Vâng lời, kính trọng, hợp tác với Giám mục trong tất cả công việc của giáo phận. Sống t́nh bạn, gần gũi, yêu mến, nâng đỡ Ngài bằng lời cầu nguyện hằng ngày để giúp ngài chu toàn trách nhiệm nặng nề mà ngài phải gánh vác. Thông cảm với Giám mục, v́ ngài cũng có thể có yếu đuối, thiếu sót và bất toàn của con người như chúng ta.

·        Tóm lại, sự vâng phục chẳng làm mất giá trị của linh mục, nhưng đề cao giá trị trách nhiệm Chúa trao cho; vâng lời với tất cả ḷng kính trọng và vâng phục đến từ con tim chứ không phải bởi quyền lực và lư lẽ.

 

C.1.b Những ǵ không nên cư xử, nói và làm

·        Không vận động xin được bổ nhiệm chức vụ; không tự ư xin nhiệm sở, hay đến một nơi nào; không từ chối đến nơi nào khi được Bản quyền yêu cầu.

·        Không lạm dụng ḷng khoan dung, nhân từ, rộng lượng, cởi mở của ngài mà cầu vinh, “a dua, xu nịnh”

·        Làm mọi việc theo ư Đấng đă sai ḿnh, chứ không phải là làm theo ư kiến cá nhân của ḿnh.

·        Không bao giờ làm ǵ ngoại lệ tại giáo xứ ḿnh được trao phó mà không được phép của Đấng Bản Quyền.

·        Để giữ sự ḥa hợp trong giáo xứ, không tùy tiện làm theo ư riêng hay ư của một người hay nhóm nào đó trong giáo xứ, mà phải làm theo qui định chung của Giáo Phận.

·        Không vào bè phái, phe nhóm, gây áp lực, khó dễ, hay nói với giáo dân và những người khác những điều không cần thiết về Giám mục của ḿnh.

·        Tránh lối tùng phục “bằng mặt mà không bằng ḷng” hay “quyền phục, lư phục mà tâm không phục”.

·        Không nên vội vàng và nông nổi phê b́nh, chỉ trích, chống đối, xa lánh Giám mục khi ngài có những quan điểm và cách làm không giống ta; không nói hành, nói xấu, than phiền về ngài với anh em như “đổ dầu vào lửa” dẫn đến t́nh trạng bất hợp tác, kính nhi viễn chi.

·        Trong những chuyện gay cấn và xung đột, không được giấu diếm hay dối trá với Giám Mục. Phải thành thực tŕnh bày rơ ràng đúng thực tế, không che đậy hay phóng đại. Nêu rơ các phải trái, lỗi lầm của ḿnh và của đối phương, để giúp Giám mục sáng suốt phân định cách xử trí đúng đắn. Không t́m gây ảnh hưởng trên Giám mục và lừa dối Ngài để kéo Ngài về phe ḿnh và công nhận việc ḿnh làm, trái với sự thật và công bằng.

 

 

 

 

C.2. Tương quan với các linh mục đàn anh,  nhất là đối với cha sở của ḿnh

C.2.a Những ǵ nên cư xử, nói và làm

·        Kính trọng các linh mục đàn anh v́ họ là người đi trước, nhiều kinh nghiệm, nhiều hy sinh và nhiều cống hiến cho Giáo Hội. Yêu mến trong t́nh huynh đệ bí tích; hợp tác trong công việc; hiệp nhất trong linh mục đoàn.

·        Tỏ ḷng biết ơn và luôn giữ mối tương quan trong t́nh tương thân tương ái với các linh mục đàn anh, hiểu hoàn cảnh cụ thể của các ngài.

·        Cầu nguyện cho các ngài để các ngài bền vững trong ơn gọi linh mục của ḿnh, v́ dẫu là linh mục của Chúa đă nhiều năm nhưng vẫn c̣n đó sự yếu đuối của con người và sự mỏi mệt của trách nhiệm, tuổi tác và bệnh tật.

·        Cảm thông với người lầm lỗi; trung dung trong các tranh căi; khiêm tốn học hỏi kinh nghiệm. T́m dịp thuận tiện để thăm viếng, an ủi các đấng ốm đau, bệnh tật.

·        Cần học hỏi kinh nghiệm, đời sống thiêng liêng, và đời sống tông đồ của các ngài. Nhiệt thành làm những ǵ cha xứ phân chia, để làm việc tôn vinh Thiên Chúa và cứu rỗi các linh hồn, theo đúng lư tưởng, ơn gọi và thiên chức linh mục.

·        Luôn đặt cha xứ ở vị trí ưu tiên, nghĩa là nh́n nhận ngài là người có trách nhiệm trong mọi hoạt động và đời sống của giáo xứ. Bàn hỏi, xin ư kiến và sự hướng dẫn của các ngài, cũng như chia sẻ kinh nghiệm mục vụ và thiêng liêng để đời sống và công việc đạt được kết quả tốt.

·        Năng lui tới và sống hiệp thông với các vị trong hạt. Luôn giữ mối liên lạc với các linh mục trong cùng một địa bàn hay cùng hạt mà ḿnh phục vụ.

·        Đích thân và cổ vũ anh em năng đến thăm các vị đă nghỉ hưu. Có thể nhờ các ngài giải tội và linh hướng.

·        Kính trọng tuổi tác và kinh nghiệm của các linh mục đàn anh, kể cả các linh mục “đàn anh ít tuổi hơn” v́ chịu chức trước. Bàn hỏi, học tập kinh nghiệm mục vụ, cộng tác với các ngài trong việc chăm sóc các linh hồn. Giúp đỡ và cảm thông khi các ngài gặp khó khăn, chia sẻ của cải, nhất là đối với các vị đau yếu, phiền muộn, cô đơn, bị hiểu lầm, bách hại.

 

C.2.b Những ǵ không nên cư xử, nói và làm

·        Không xem thường những vị già nua, tuổi tác; không tự cao, tự đại v́ kiến thức mới mẻ, v́ sức khoẻ hơn người.

·        Không tách ḿnh ra xa, cục bộ; không bè phái, chia rẽ.   Không chê trách, chỉ trích, nói xấu, công kích khi có bất đồng hoặc a dua cùng những người chống đối để hạ giá uy tín của các ngài, ham dành phần thắng và so đo tính toán thiệt hơn. 

·        Không làm việc vượt quá giới hạn cho phép của ḿnh, hay qua mặt các ngài, phớt lờ các ngài, khi  liên quan đến việc chung của giáo xứ. Không làm việc ǵ liên quan đến giáo xứ mà không bàn hỏi, xin ư kiến, và sự giúp đỡ của các ngài.

·        Không nên tỏ thái độ bất hợp tác với cha xứ trong một số công việc mà ḿnh cảm thấy không hợp lư hay không vừa ư.

·        Không chê bỏ vị tiền nhiệm đă làm việc nơi giáo xứ mà nay ḿnh đang phục vụ. Không bài xích vị tiền nhiệm dựa vào câu nói “tân quan tân chế”, không phá đổ hay vội chỉnh sửa những công tŕnh, vật chất cũng như tinh thần, của vị tiền nhiệm, kẻo chuốc lấy sự chống đối của những người ủng hộ ngài.

·        Không phê b́nh hay đ̣i họ phải làm giống như thế hệ của ḿnh. Không t́m “khẳng định ḿnh” mà vùi người lầm lỗi xuống hố.

·        Không bỏ rơi các ngài, khi các ngài gặp khó khăn thử thách về tuổi cao sức yếu, t́nh cảm, tính nết, nỗi cô đơn, hay sự chê trách chống đối của giáo dân.

·        Không phê b́nh, chỉ trích những thiếu sót, những lỗi lầm của các linh mục đàn anh, đặc biệt đối với cha xứ, v́ đó có thể là những lỗi lầm của ḿnh trong tương lai, nếu Chúa không giữ ǵn.

·        Không coi thường hay thiếu kính trọng, chê bai các ngài lạc hậu không cập nhật với thời đại, khó tính, không hiểu và thông cảm với linh mục trẻ. Hăy tự hỏi ḿnh đă làm được ǵ cho các ngài?

 

 

C.3. Tương quan với các linh mục đàn em, nhất là đối với cha phó của ḿnh

C.3.a Những ǵ nên cư xử, nói và làm

·        Yêu thương huynh đệ, gần gũi, cởi mở chia sẻ; sẵn sàng trao đổi kinh nghiệm và kiến thức. Ân cần, khiêm tốn, tận t́nh khi được yêu cầu góp ư, xây dựng.

·        Hợp tác trong công việc; hợp nhất, nâng đỡ, động viên người gặp khó khăn. Cảm thông với người lầm lỗi. Trung dung trong các tranh căi; mau giải hoà những bất đồng.

·        Cần lo liệu cho các linh mục trẻ, nhất là cha phó của ḿnh, trong những năm đầu mới chịu chức có những điều kiện dễ dàng về đời sống và công việc mục vụ.

·        Cầu nguyện cho các linh mục đàn em c̣n trẻ trong sứ mạng mới, đón nhận họ như những người em thực sự và giúp đỡ họ trong những công tác và gánh nặng đầu tiên của sứ vụ linh mục.

·        Luôn t́m cách giúp đỡ, đề bạt và cộng tác làm việc với các linh mục trẻ trong địa hạt của ḿnh. Thông cảm và tạo điều kiện cho linh mục đàn em làm việc mục vụ tốt hơn ḿnh càng tốt.

·        Tôn trọng những ư kiến và sáng kiến của các ngài trong đời sống thiêng liêng và mục vụ. Đồng thời phải biết lắng nghe các ngài sửa lỗi, góp ư và xây dựng cho đời sống linh mục của ḿnh.

·        Cố gắng hiểu tâm trạng của họ, dù khác với tâm trạng ḿnh, và quan tâm đến các dự tính của họ với ḷng nhân hậu. Chia sẻ những kinh nghiệm mục vụ cho họ, v́ chắc chắn họ c̣n rất bỡ ngỡ, nhất là những kinh nghiệm ḿnh đă trải qua, những bài học ḿnh đă học được. Nêu gương sáng về đời sống thiêng liêng và nhân bản, và sống xứng đáng như những người anh thực sự.

·        Đón nhận họ như những người em, giúp đỡ họ trong những công tác đầu tiên của sứ vụ linh mục, hiểu tâm trạng, các dự tính của họ cách thiện chí. Tạo điều kiện để họ làm việc mục vụ cũng như phát triển nhân cách và nhân đức.

·        Quan tâm đời sống tinh thần, vật chất, chia sẻ kinh nghiệm mục vụ, cách ứng xử trong giao tiếp với các hội đoàn cũng như mọi thành phần trong xă hội.

·        Chia sẻ công việc và quyền điều hành, tiền bạc rơ ràng, công bằng, đối thoại cởi mở, sống vui tươi hiệp nhất, sửa lỗi cho nhau trong t́nh huynh đệ. Giúp nhau trong đời sống thiêng liêng, tri thức, vật chất.

 

C.3.b Những ǵ không nên cư xử, nói và làm

·        Không nói hành, nói xấu. Không hống hách, trưởng giả, tự cao, tự đại. Không cục bộ; chỉ trích, công kích khi có bất đồng. Không bè phái, chia rẽ, đố kỵ. Không sống bất hoà cho dù có những bất đồng.

·        Không ham dành phần thắng, so đo tính toán thiệt hơn. Không t́m “khẳng định ḿnh” bằng cách vùi đàn em lầm lỗi xuống hố.

·        Không phê b́nh, nhưng t́m mọi cách nâng đỡ đàn em, v́ những khó khăn và thử thách ban đầu của đời sống thực tế rất khác với những ǵ đă học trong Chủng Viện.

·        Không để linh mục trẻ nghĩ ḿnh đă học đầy đủ hết mà không tự đào tạo bản thân để trưởng thành hơn và thích nghi với môi trường phục vụ.

·        Không nên thử sức nhau về kiến thức, trắc nghiệm nhau về những vấn đề ngoài phạm vi sứ vụ để đánh giá nhau. Không phân ranh giới và để mặc đàn em phải tự xoay sở một ḿnh hoặc “khoán trắng” và nhắm mắt làm ngơ trước những công việc họ được giao phó. 

·        Không bảo thủ, độc đoán, thành kiến, coi thường những sáng kiến mới và cách làm việc mới cũng như suy nghĩ mới của họ. Không chê bai những bỡ ngỡ, thiếu sót của họ mà cố gắng động viên để họ làm tốt hơn.

·        Không sợ linh mục trẻ giỏi hơn ḿnh rồi t́m cách chê bai trẻ tuổi, thiếu kinh nghiệm, đối xử như người giúp việc, có khi c̣n nói tiếng nặng, tiếng nhẹ... cậy ḿnh là đàn anh để coi thường và dùng quyền lấn át.

·        Không tranh chấp, dành giật với các linh mục đàn em, nói xấu, kể chuyện của họ với giáo dân và người khác, nhưng phải có sự quan tâm nâng đỡ, góp ư chân thành trong tinh thần tương trợ lẫn nhau. Anh em Linh mục nâng đỡ nhau là một thành tŕ vững chắc cho cả hai.

 

 

C.4. Tương quan với các chủng sinh, dự tu và các mầm non ơn gọi giáo sĩ

C.4.a Những ǵ nên cư xử, nói và làm

·        Yêu thương, khích lệ, nâng đỡ tinh thần và vật chất cho các chủng sinh, dự tu và mầm non ơn gọi giáo sĩ, nhất là các em trong giáo xứ của ḿnh, v́ Giáo hội không thể tồn tại nếu không có các thừa tác viên nối tiếp sứ vụ Chúa Giêsu.

·        Các linh mục tương lai và mầm non ơn gọi giáo sĩ là những người tiếp nối ta trong việc loan báo Tin Mừng. Luôn mang trong ḿnh thao thức t́m những ơn gọi tương lai cho Chúa và Giáo Hội, v́ t́m ơn gọi và nuôi dưỡng ơn gọi linh mục tương lai là bổn phận và trách nhiệm đặc biệt của các cha xứ.

·        Hăy nuôi dưỡng, động viên, khích lệ, giúp đỡ vật lực cho các mầm non ơn gọi đó. Tạo môi trường thuận lợi cho các mầm non ơn gọi sinh hoạt định kỳ, tạo sự gần gũi với các em. Hướng dẫn việc học tập cho các em, giáo huấn, rèn luyện các em về những kiến thức nhân bản và tu đức.

·        Kêu gọi các em tham gia các hoạt động trong các hội đoàn của giáo xứ như: giúp lễ, giáo lư viên, giới trẻ, ca đoàn... Nhờ việc tham gia vào các hội đoàn này, các em gần gũi với Chúa, hăng say việc tông đồ, hun đúc tinh thần tu tŕ và tinh thần sống cộng đoàn, gần gũi với nhiều người, dễ cảm thông với con người, chia sẻ những khó khăn mà họ gặp.

·        Giúp cho các em yêu mến Chúa, yêu mến đời sống cầu nguyện, giúp các em năng lănh nhận bí tích Hoà Giải, bí tích Thánh Thể, viếng Thánh Thể, lần chuỗi Mân côi...

·        Cung cấp sách thiêng liêng, hạnh các thánh, sách đào tạo linh mục và những sách liên quan đến ơn gọi tu tŕ hầu giúp cho các em có được ư thức tích cực về đời sống thánh hiến.

·        Giúp các em hiểu biết dần về ơn gọi linh mục-tu sĩ, mở ra cho các em cái nh́n về ơn gọi linh mục và tu tŕ, giúp các em tập sống đời tu ngay trong môi trường các em sinh sống như gia đ́nh, trường học cũng như các nơi sinh hoạt khác.

·        Tạo điều kiện thuận lợi cho các em gặp gỡ nhau, sinh hoạt với nhau định kỳ. Qua đó, giúp các em yêu thương nhau, giúp đỡ lẫn nhau, hy sinh cho nhau, chia sẻ đời sống cho nhau.

·        Giúp cho các em nhiệt tâm trong ơn gọi đang vươn tới, giúp các em có trách nhiệm về ơn gọi của ḿnh và của người khác. Giúp các em có đời sống vui tươi, cởi mở, sẵng sàng tiếp đón và nâng đỡ những người cần đến các em.

·        Nhất là giúp các em tiếp xúc và làm quen với Lời Chúa qua việc đọc, suy ngẫm, tâm niệm Lời Chúa hằng ngày và lấy Lời Chúa làm châm ngôn để sống trong ngày. Tập các em yêu mến Mẹ Maria và các thánh, đọc sách hạnh các thánh, noi gương các thánh, tập sống các nhân đức của các ngài, đặc biệt gương Mẹ Maria.

·        Để tâm giải thích cho các em sự cao quư và cần thiết của chức linh mục, qua lời giảng dạy và chính đời sống phục vụ vô vị lợi của ḿnh. Cổ vũ ơn kêu gọi cho giáo phận trong các giáo xứ mà ḿnh có trách nhiệm, qua các bài giảng, các giờ giáo lư và nhu cầu của Giáo Hội địa phương.

·        Khuyến khích lập Hội Cổ Vơ và Bảo Trợ Ơn Gọi, và tích cực tham gia. Lập Gia Đ́nh Ơn Gọi trong giáo xứ (gồm tất cả những người đang tu, đang t́m hiểu ơn gọi, và có ư hướng đi tu), sinh hoạt mỗi năm một lần vào dịp Tết (liên hoan, tặng quà).

·        Giúp các Ơn Gọi trong giáo xứ sinh hoạt học hỏi hàng tuần. Quan tâm t́m biết hoàn cảnh của từng em để có thể giúp đỡ cách thích hợp và hiệu quả.

·        Đón nhận tất cả các em muốn đi tu. Tạo điều kiện để các em có thể phục vụ Bàn Thánh (giúp lễ). Lấy t́nh cha con chăm sóc các ơn gọi và chủng sinh nối tiếp ḿnh; hướng dẫn cho họ sống ơn gọi của ḿnh. Trao cho họ vài công việc vừa sức họ, để huấn luyện họ.

·        Kêu gọi, cầu nguyện, khích lệ, động viên, nâng đỡ các ơn gọi. Lo cho giáo lư ơn gọi, huấn luyện các em giúp lễ, tiếp xúc với từng em để phát hiện những tài năng và ư Chúa nơi các em, giúp các em can đảm lựa chọn.

·        Sống trong sáng, vui tươi và nhiệt thành hợp tác với chủng viện trong việc đào tạo linh mục tương lai. Cha xứ cố gắng tạo cơ hội để biết, làm việc với các chủng sinh và trở nên một phần trong việc đào tạo họ, mà một ngày kia họ sẽ hội nhập với ḿnh trong sứ vụ linh mục.

·        Vai tṛ và sự đóng góp của cha xứ rất quan trọng trong việc đào tạo ứng sinh: Cung ứng cho chủng sinh nhiều cơ hội thuận lợi để anh được kinh nghiệm và tham dự vào sứ vụ giáo xứ; phát triển đời sống cầu nguyện của anh ngay trong bối cảnh đời sống giáo xứ, v́ đó sẽ là cuộc sống thực sự của anh sau này; học hỏi với cha xứ mà anh đang sống với ngài như người tập sự; được làm quen với nhiều giáo xứ khác nhau trong Giáo phận; đem những ǵ đă học trong chủng viện vào hành động, trong những hoàn cảnh thực tế; kinh nghiệm được cuộc sống nhà xứ; qua việc phục vụ và cộng tác với giáo dân, chủng sinh có thể học được nơi họ rất nhiều điều, đó là một chuẩn bị tuyệt vời cho sứ vụ của anh sau này. Sự hiện diện hữu h́nh của các chủng sinh ở trong giáo xứ sẽ thăng tiến việc thúc đẩy và phát triển các ơn gọi linh mục và tu sĩ.

 

C.4.b Những ǵ không nên cư xử, nói và làm

·        Không dửng dưng, vô trách nhiệm, hoặc xa lánh việc kêu gọi những người có thiện chí dấn thân phục vụ Chúa, phục vụ Giáo Hội và các linh hồn trong đời sống tu tŕ. Không từ chối những ơn gọi đến với ḿnh, v́ sợ mất thời gian hoặc tốn kém tiền của.

·        Không làm vơi đi ḷng nhiệt tâm của các em đang có thiện chí dấn thân phục vụ Chúa, Giáo Hội và các linh hồn. Không kể khổ, hay đưa ra những khó khăn như muốn thử thách mức chịu đựng của các mầm non ơn gọi.

·        Không nên có thái độ nhăn nhó khó chịu hay gây khó khăn cho một ơn gọi nào đó muốn t́m đến với đời sống này. Trái lại phải hết sức nâng đỡ về của cải vật chất, chỉ dạy về đời sống tâm linh và động viên về đời sống tinh thần để mầm non này có thể triển nở.

·        Không nên coi việc đào tạo chủng sinh là trách nhiệm riêng của Chủng viện và Giám mục giáo phận, v́ nó là trách nhiệm của toàn thể Hội thánh, nhất là hàng giáo sĩ.

·        Không được nói cũng như làm những ǵ gây ấn tượng xấu trước các chủng sinh đàn em trong t́nh cảm, cách sống, cách cư xử hay trong cung cách làm mục vụ của ḿnh.

·        Không nên nói nhiều đến mặt trái cuộc đời của con người linh mục. Không gây gương mù để có thể làm cho những mầm non ơn gọi này “vỡ mộng”.

·        Không lợi dụng, khai thác họ như người giúp việc cho ḿnh. Không trao cho họ công việc quá sức mà họ không thể làm được.

·        Không tránh né, thờ ơ lănh đạm với việc cầu nguyện, kêu gọi, khích lệ động viên, giáo dục, hướng dẫn, để cung cấp những ơn gọi cho Giáo hội.

·        Không sống ngược với điều ḿnh dậy bảo và làm gương xấu cho mầm non ơn gọi.

  

 

C.5. Tương quan với các tu sĩ nam nữ

C.5.a Những ǵ nên cư xử, nói và làm

·        Các nam nữ tu sĩ là những người có cùng một lư tưởng như ta: hiến dâng cuộc đời để phục vụ Chúa và các linh hồn. Họ khấn giữ ba lời khuyên Phúc âm để bước theo sát Chúa Kitô hơn, theo Hiến pháp, đặc sủng và linh đạo của Đấng sáng lập, nhằm gia tăng sự thánh thiện trong Hội thánh. V́ thế ta phải kính trọng họ và tôn trọng những tài sản thiêng liêng đó của họ.

·        Luôn yêu thương, quan tâm giúp đỡ tu sĩ nói chung, nhất là những người đang cộng tác với ḿnh trong xứ. Cởi mở đón nhận họ như anh chị em; cho họ biết đường hướng mục vụ giáo xứ; đồng hành với họ trong công việc mục vu; bàn hỏi và trao đổi trước mỗi công việc và tin tưởng họ khi trao công việc. Rút ưu khuyết điểm sau mỗi công việc lớn; khích lệ đời sống thiêng liêng và tông đồ; quảng đại, bác ái và làm gương sáng.

·        Lư tưởng chung giữa linh mục và tu sĩ nam nữ đều là dâng hiến trọn vẹn cho Chúa và Dân của Ngài. Biết rằng đi tu nhưng vẫn không thôi là con người, nên phải luôn giữ mối liên hệ thánh thiện để thăng tiến và thánh hóa “tiếng gọi nhân loại” ngơ hầu giúp nhau sống sứ vụ tốt hơn (x. Tv 132, 1).

·        Tôn trọng, yêu thương chân thành, vui vẻ, cộng tác và thăng tiến những đặc sủng của họ. Sống trong sự bổ túc, hài hoà và liên đới, quan tâm các cộng đoàn Tu sĩ, cung cấp cho họ giáo lư và tu đức, giúp đỡ và khích lệ họ sống trung thành với ơn gọi theo đường lối riêng của mỗi Hội Ḍng.

·        Hăy cầu nguyện cho nhau để cùng bước trên đường trọn lành, v́ cầu nguyện là hơi thở, là nguồn sống cho đời sống tu tŕ của mỗi chúng ta.

·        Cần phải biết lắng nghe nhau, sửa lỗi cho nhau, giúp đỡ nhau, tha thứ và góp ư cho nhau, để xây dựng cho nhau có một đời sống dâng hiến cho Chúa và các linh hồn mỗi ngày mỗi tốt hơn.

·        Phải coi các tu sĩ như là những cộng tác viên chứ không phải là những người cấp dưới hay người giúp việc, nhất là đối với các nữ tu. Phải có tinh thần cởi mở và tạo điều kiện tốt nhất để họ làm việc, và đối xử với họ theo đức công bằng.

 

C.5.b Những ǵ không nên cư xử, nói và làm

·        Không làm gương mù gương xấu, bè phái và phân biệt giữa các ḍng. Không can thiệp vào việc nội bộ của hội ḍng. Không nói hành nói xấu, làm mất danh dự, tiếng tốt của họ khi vắng mặt. Không làm hay nói lời tiêu cực phá sự hiệp nhất. Không kết án hay xét đoán vội vàng.

·        Không t́m ảnh hưởng hay uy tín cho cá nhân ḿnh. Không đi sâu vào đời sống cá nhân, nhất là đối với nữ tu, nhưng phải tôn trọng và thăng tiến, cộng tác và nâng đỡ khi họ cần giúp đỡ về tinh thần.

·        Không cục bộ và đánh mănh: Việc ḿnh ḿnh làm, việc người người làm; nhất là khi có nhiều ḍng tu cùng hoạt động mà lại không cùng cộng tác với nhau để làm cho giáo xứ tốt hơn.

·        Không coi thường họ như những người giúp việc hay thuộc hạ, mà phải nh́n nhận và biết ơn họ là những cộng tác viên rất đắc lực cho hàng giáo sĩ trong các hoạt động mục vụ như giáo lư, ca hát, đàn nhạc…

 

 

C.6. Tương quan với các nữ tu lớn tuổi và có trách nhiệm

C.6.a Những ǵ nên cư xử, nói và làm

·        Kính trọng các nữ tu lớn tuổi và có trách nhiệm v́ họ vừa là những người lớn tuổi, vừa là người lăo luyện trong đời sống tu tŕ. Coi trọng họ như người chị, người mẹ.

·        Trao cho họ những công việc phù hợp. Đáp ứng các nhu cầu của họ, khi có khả năng. Nên gặp gỡ, chia sẻ, giúp đỡ, động viên và khích lệ họ, về đời sống tinh thần cũng như vật chất, cầu nguyện cho họ và xin họ cầu nguyện cho ta.

·        Sống thành thật, khiêm nhường, cởi mở, tin tưởng, cảm thông và ân cần giúp đỡ họ trong lúc thi hành sứ vụ cũng như trong đời sống tu tŕ. Trong đời sống mục vụ, mời gọi họ cộng tác, biết lắng nghe và đón nhận những lời góp ư.

·        Có trách nhiệm với những người cùng phục vụ giáo xứ: kính trọng và giúp đỡ họ thực thi trọng trách của họ.

·        Nếu họ ốm đau bệnh tật và khó khăn vật chất, tinh thần giảm sút, ư chí bị suy nhược, cần thăm viếng động viên và cầu nguyện cho họ. Nâng đỡ phần hồn phần xác những người đă có công xây dựng giáo xứ, Giáo hội địa phương đến nay phải nghỉ hưu. Giúp đỡ tinh thần và vật chất; làm tốt và nói tốt để yên ủi tuổi già.

 

C.6.b Những ǵ không nên cư xử, nói và làm

·        Không chen vào nội bộ Nhà Ḍng. Không kiếm cách ảnh hưởng lên Bề trên trị bề dưới, hoặc theo phe bề dưới chống Bề trên. Hăy đổ dầu sốt sắng vào các bánh xe, nhưng đừng đả động đến bộ máy.

·        Không làm ra vẻ kẻ có quyền để hống hách và vội chấp nhất, vội khiển trách, sửa sai họ trước công chúng hay bề dưới của họ.

·        Không nói tâng bốc, khen không đúng sự thực; cũng không nói hành nói tỏi, hay nói sai sự thật, làm mất mặt họ trước công chúng. Tuyệt đối không đưa họ lên ṭa giảng.

·        Tránh những lời nói dễ bị hiểu lầm khiến họ có cảm giác bị xúc phạm, bị hắt hủi, bị bỏ rơi. Trái lại, phải tỏ ra tôn trọng các nữ tu lớn tuổi và bênh vực họ khi họ gặp khó khăn trong công việc cũng như trong cuộc sống, v́ người lớn tuổi thường hay tự ti v́ tuổi tác và sự đào thải của tuổi già.

·        Tránh nói năng, cư xử thiếu lịch sự, tế nhị, tỏ thái độ khinh thường, không tôn trọng, nói xấu, nói hành làm thiệt hại cho họ và quyền bính của họ. Không vượt quyền, làm việc thẳng với cấp dưới của họ, mà phải trao đổi thông qua họ.

 

 

C.7. Tương quan với các nữ tu bằng tuổi và có trách nhiệm

C.7.a Những ǵ nên cư xử, nói và làm

·        Tôn trọng họ và đời sống tu tŕ của họ. Phải khôn ngoan và tỉnh thức trong tiếp xúc, gặp gỡ và làm việc chung với họ. Phải nhớ ḿnh là linh mục và họ là nữ tu đều thuộc về Chúa và là của Chúa. Luôn giữ khoảng cách cần thiết và dè dặt trong mọi lănh vực của đời sống khiết tịnh.

·        Đừng quên lời khuyên “tỉnh thức và cầu nguyện” của Chúa Giêsu trong Tin mừng (Mt 26,41 và Mc 14,38): là những con người thánh hiến, nhưng chúng ta vẫn không thôi là những con người với những yếu đuối nhân loại.

·        Dùng đúng người đúng việc, nói rơ mục đích hướng tới. Có kế hoạch, chương tŕnh làm việc cụ thể. Tin tưởng trao công việc. Tôn trọng người cộng tác. Khích lệ đời sống thiêng liêng tông đồ.

·        Cổ vũ, khen thưởng khi cần. Cần sống công bằng qua việc động viên khích lệ và thù lao cho họ khi họ đă cộng tác với ḿnh trong công việc.

·        Làm và nói tốt cho nhau, đúng sự thật. Quảng đại và không chấp vặt việc nhỏ. Không keo kiệt, cần cởi mở, vui vẻ.

·        Phải biết tôn trọng các nữ tu v́ họ là những cộng tác viên, chứ không phải là thuộc hạ hay người giúp việc; luôn sống trong sự bổ túc hài ḥa và liên đới. Biết lắng nghe những lời góp ư, sửa lỗi của họ. Và cũng hăy chân thành làm như vậy cho họ.

·        Phải luôn nhớ nhu cầu cầu nguyện và khổ chế. Thánh Phaolô dạy rằng chúng ta ǵn giữ kho tàng ấy trong những chiếc b́nh sành dễ vỡ (x. 2 Cor 4,7), bởi v́ mọi người đều mang bản tính nhân loại và có phái tính. Khi có công việc phải trao đổi với họ, hăy tiếp chuyện ở chỗ trống trải hay pḥng khách.

·        Chia sẻ kinh nghiệm, đối thoại, hiểu biết, cảm thông, giúp đỡ họ khi có những khó khăn trong cộng đoàn. Nên chỉ dẫn thêm, khích lệ, hỗ trợ để họ hoàn thành công việc được giao. Cần tôn trọng tuổi tác và trọng trách của họ.

·        Giúp nhau sống và chu toàn những điều đă cam kết trong ơn gọi và sứ vụ của mỗi người, v́ ơn gọi chung là dâng hiến trọn đời cho Chúa.

 

C.7.b Những ǵ không nên cư xử, nói và làm

·        Không can thiệp sâu vào đời sống cá nhân của họ, và cũng không cho họ can thiệp sâu vào công việc của ḿnh và việc của giáo xứ.

·                 Không nên có những lời nói, cử chỉ hay thái độ thiếu lành mạnh, trong sáng để bảo toàn đức thanh sạch cho họ và cho ḿnh. Luôn nhớ họ là một nữ tu thánh hiến cho Chúa và Giáo Hội cũng như cho các linh hồn. Không để t́nh cảm của ḿnh lấn lướt và để những yếu đuối, đam mê của ḿnh sai khiến và cám dỗ ḿnh.

·        Không để họ sai khiến ḿnh, điều khiển ḿnh, lèo lái ḿnh trong bất cứ công việc ǵ. V́ thực tế đàn ông thường yếu mềm trước những cử chỉ khôn khéo của phụ nữ, và hay thể hiện tính cao thượng trước những khó khăn họ mắc phải.

·        Tránh những cuộc gặp gỡ riêng tư lâu giờ v́ dễ dẫn đến nguy hiểm cho đời độc thân thanh khiết. Không nên thân thiện quá mức, thiếu tế nhị, hoặc nói những câu bông đùa quá trớn, một lời hai ư, dễ dẫn đến hiểu lầm.

·        Không nên cho họ biết tất cả những ǵ ḿnh muốn làm khi công việc đó không liên quan tới họ. Không nên đi sâu vào đời tư của họ, hoặc tâm sự đời tư của ḿnh cho họ.

·        Không coi thường đức khôn ngoan và cảnh tỉnh khi tiếp xúc với họ. Thánh Augustinô “chỉ đến ḍng nữ khi cần và đem người đi theo, để giữ ǵn danh tiếng của ḿnh và để cho các tâm hồn đă tự hiến cho một ḿnh Chúa chỉ yêu một ḿnh Chúa”.

·        Không khen người này trách người kia trước mặt ai, nhất là giáo dân. Không bạ đâu nói đấy, kể cả trong việc giao công tác. Không làm hay nói ǵ không cần thiết, nhất là trong khi phải khiển trách.

·        Không được đối xử thiếu tế nhị với họ hoặc không để ư nâng đỡ các nhu cầu về tinh thần cũng như vật chất của họ khi họ cùng làm việc với ḿnh.

·        Không can thiệp vào vấn đề kỷ luật và tổ chức nội bộ của họ.

 

 

C.8. Tương quan với các nữ tu trẻ

C.8.a Những ǵ nên cư xử, nói và làm

·        Trong bất cứ tiếp xúc nam nữ nào cũng tiềm ẩn tính cách phái tính. Do đó, cần thận trọng trong các mối quan hệ với nữ tu trẻ; dè dặt trong các lần tiếp xúc, bởi v́ cùng cảnh ngộ dễ đồng cảm…

·        Phải ư thức rằng sự thân mật là nhu cầu của con người, nhưng sự thân mật trong đời sống độc thân không cần và không được biểu lộ bằng thể lư. Do đó, phải đứng đắn, nghiêm túc khi giao tiếp. Sự thân mật độc thân có mức độ thích hợp của nó và sẽ cung ứng đủ tự do để yêu thương mọi người và không vượt qua các giới hạn.

·        Có thể khuôn đúc mối tương quan nam nữ theo gương mẫu đời sống của Chúa Ba Ngôi và kêu xin Chúa ban ơn can đảm để thăng tiến, vượt thắng và thánh hoá “tiếng gọi nhân loại” ngơ hầu giúp nhau sống và chu toàn những ǵ đă cam kết trong ơn gọi và sứ vụ của mỗi người.

·        Linh mục phải giao tiếp với mọi người, nên phải thiết lập một mối tương quan trưởng thành, lành mạnh, hài ḥa và quân b́nh giữa hai phái.

·        Phải biết tôn trọng nơi chốn, thời gian, khoảng cách và giới hạn cần thiết, về thể lư cũng như tâm lư, của các cuộc gặp gỡ; luôn giữ sự kính trọng chứ không lạm dụng và suồng să.

·        Phải rơ ràng và thành thật với chính ḿnh, với người khác và với Thiên Chúa, bởi v́ sự “hẹn ḥ” yêu thương thường được che giấu dưới những lư do hợp pháp và chính đáng của các công tác và hoạt động mục vụ, nhưng “thực tế đó là những nghiêng chiều nguy hiểm của con tim.”

·        Phải học thái độ Chúa Giêsu đối với các phụ nữ trong Phúc Âm, xác định rằng t́nh yêu của Thiên Chúa là trên hết, và chỉ Thiên Chúa mới làm thỏa măn được con tim chúng ta, Ngài đang hiện diện trong cuộc đời chúng ta, đồng hành bên cạnh chúng ta để nâng đỡ và bảo vệ chúng ta.

·        Chúa Giêsu để các phụ nữ cộng tác trong kế hoạch cứu độ bằng cách cho họ tháp tùng trong hành tŕnh truyền giáo và dùng họ loan báo Tin Mừng Phục sinh cho các Tông đồ.

·        Mời họ cộng tác làm việc trong giáo xứ, trao công việc cụ thể và cho họ biết nguyên tắc làm việc. Cần có những buổi học hỏi thêm kỹ năng làm việc; bồi dưỡng thêm đạo đức, kiến thức và nhân bản.

·        Cần phân công công việc cho mỗi người rơ ràng. Khi trao việc cũng cần quan tâm tin tưởng và tế nhị trả tiền chi phí cho các công việc mà ta nhờ họ làm như mua hoa, nến, giấy hát, bài vở, lộ phí…

·        Làm gương sáng trong đời sống cầu nguyện và việc tông đồ. Sống vui vẻ cởi mở và quảng đại, nhiệt t́nh sáng tạo.

·        Tôn trọng họ là những cộng tác viên, không phải là thuộc hạ hay người giúp việc, sống hài ḥa và liên đới. Sống ḥa thuận để làm gương cho giáo dân.

·        Giúp đỡ họ về tinh thần cũng như vật chất cần thiết cho công việc tông đồ. Mời họ cộng tác trong việc từ thiện bác ái, dạy giáo lư.

·        Cần giữ trong đầu và tâm hồn sự lệ thuộc của họ và của ḿnh đối với Chúa. Cầu nguyện cho họ và cho chính ḿnh.

·        Tương quan cởi mở, hiểu nhau, chia sẻ sứ vụ, khó khăn, tin tưởng, cảm thông, chăm sóc, giúp đỡ nhau chu toàn sứ vụ và cam kết ơn gọi của mỗi người.

·        Cần định hướng cho họ để họ vững vàng trong đời tận hiến. Thái độ, cử chỉ, lời nói phải rơ ràng khi giao tiếp với họ. Thận trọng trong mọi vấn đề; những ǵ họ nói, cần phải suy xét, chớ vội tin.

·        Nên nhắc nhở khi thấy họ đi quá trớn hoặc làm những việc không hợp với đời tu hay ảnh hưởng tới ơn gọi của họ, chẳng hạn những cử chỉ bất nhă, thiếu lịch sự, kiểu “quen quá hoá nhờn”.

·        Cần nêu gương sáng về đời sống cầu nguyện và đời sống thánh thiện cho họ. Phải có tâm hồn bao dung, quảng đại sẵn sàng chỉ dẫn cho họ cách thức phục vụ nơi giáo xứ. Quan tâm tới đời sống tinh thần và vật chất của họ nữa, theo lẽ công bằng.

 

C.8.b Những ǵ không nên cư xử, nói và làm

·        Không đùa dỡn và chiều chuộng quá mức cần thiết. Không liên hệ quá thân mật với các nữ tu và tiếp họ quá lâu trong nơi kín đáo hoặc pḥng riêng, nhất là các nữ tu trẻ, khiến người ta hiểu lầm, và cũng dễ dẫn đến nguy hiểm cho đời độc thân linh mục. Không nên bỏ qua dư luận.

·        Không nên trao đổi hay bồi dưỡng riêng, tránh sự hiểu lầm. Tránh gặp gỡ lâu giờ, nói chuyện to nhỏ. Không nên đi sâu vào đời tư của họ, hoặc tâm sự đời tư của ḿnh cho họ, v́ họ dễ động ḷng. Không nói cho họ biết những ǵ họ không có trách nhiệm.

·        Không thân mật quá mức, bộc lộ khuynh hướng muốn chiếm hữu, ghen tuông, muốn độc quyền. Phải có những giới hạn cần thiết.

·        Không ép buộc họ phải làm công việc ngoài khả năng. Tránh trao nhiều công việc một lúc, hay trao rồi lại rút lại, thay đổi như chong chóng.

·        Không nên có cái nh́n lệch lạc, coi các nữ tu là thiếu hiểu biết, v́ ngày nay nhiều nữ tu cũng học rộng tài cao không kém hàng linh mục.

·        Nhưng cũng không nên quá coi trọng đến độ để họ sai khiến ḿnh mà không biết. Không để các nữ tu tham dự sâu vào công việc điều hành Giáo xứ. Tránh thiên vị coi người này hơn người kia, quí các nữ tu trẻ mà coi thường các nữ tu già.

·        Không can thiệp vào chuyện riêng tư của nhà Ḍng trong việc họ đổi đi hay ở lại xứ. Không nên coi thường hay gây khó khăn. Không nên nói xấu họ trước mặt người khác.

 

 

C.9. Tương quan với các đệ tử và mầm non ơn gọi tu sĩ

C.9.a Những ǵ nên cư xử, nói và làm

·        Giáo hội đang dần dần thiếu ơn gọi. Cần kêu gọi, khích lệ các bậc cha mẹ quảng đại dâng con cho Chúa. Quan tâm hướng dẫn các em theo đuổi ơn gọi. Khám phá và làm phát triển các mầm non ơn gọi nơi những em bé có hạnh kiểm tốt, óc phán đoán đúng, trí nhớ tốt và ưa thích những việc đạo đức.

·        Để tâm chăm sóc các ơn gọi, xây dựng, thúc đẩy, giúp các em tránh bạn xấu. Dạy các em đời sống nhân bản và thiêng liêng, thận trọng trong các mối tương quan. Chính ḿnh cũng cẩn trọng v́ các em ngày nay dậy th́ sớm, nhu cầu t́nh cảm và tính dục cao.

·        Tổ chức các lớp t́m hiểu ơn gọi tu sĩ trong giáo xứ. T́m cách tạo điều kiện tốt nhất cho các em được học tập. Bổ túc giáo lư, tri thức, tâm lư và t́nh cảm. Đào tạo nhân bản và giúp các em tập làm việc, nhất là việc thiện, việc bác ái.

·        Cổ vũ, khen thưởng khi có một kết quả tốt trong học tập hay trong công việc. Cổ vũ ơn gọi trong cộng đoàn giáo xứ; đồng thời động viên các em về tinh thần cũng như vật chất.

·        Giới thiệu cho các em về ơn gọi chiêm niệm và hoạt động, cũng như đặc sủng và linh đạo của mỗi Ḍng. Nên tổ chức những dịp gặp gỡ thân thiện để các em hiểu về ơn gọi và củng cố t́nh liên đới giữa các em trong giáo xứ.

·        Cần cổ vơ và quan tâm một cách đặc biệt, v́ tương lai của Giáo Hội và Xă hội tùy thuộc vào họ. Cần hướng dẫn, động viên, giúp đỡ tinh thần và vật chất, cầu nguyện, sống hài ḥa liên đới.

·        Sống cởi mở, vui tươi, làm gương sáng và động viên các em sống các đức tính nhân bản, tinh thần cầu nguyện và tinh thần hy sinh phục vụ, bác ái.

·        Huấn luyện các em giúp lễ, ca đoàn, cổ vơ sáng kiến, phát hiện tài năng, nhận biết thánh ư Chúa và can đảm chọn theo Đức Kitô.

·        Lưu tâm giúp đỡ các em nghèo có thể theo đuổi việc học và duy tŕ việc theo đuổi ơn gọi. Hàng tháng nên có buổi gặp gỡ để hướng dẫn và học hỏi. Định hướng cho các em về con đường tương lai.

 

C.9.b Những ǵ không nên cư xử, nói và làm

·        Không được quên bổn phận t́m kiếm và vun trồng ơn gọi. Ư thức trách nhiệm cùng với Giáo Hội ươm mầm non ơn gọi, sẵn sàng dấn thân trong đời dâng hiến phục vụ.

·        Tránh những việc làm và lời nói tiêu cực, gây hiểu lầm cho các em. Không tŕnh bày đời tu quá lí tưởng, quá xa thực tế, khiến các em ảo tưởng về đời tu; nhưng cũng không nên nói rơ hết những tiêu cực của đời tu, khiến các em nản ḷng.

·        Không nên bỏ qua việc hướng dẫn và đào tạo cơ bản ơn gọi cho các em trong giáo xứ. Không nên chỉ nói về ơn gọi, mà lại chẳng hề đả động đến việc giúp đỡ các mầm non ơn gọi...

·        Tránh những thờ ơ, gây gương mù gương xấu, gây khó khăn. Tránh những bất nhất trong việc làm và lời nói, sai sự thật, nhất là làm hay nói cho xong chuyện.

 

 

C.10. Tương quan với giáo dân nói chung

C.10.a Những ǵ nên cư xử, nói và làm

·        Được chọn từ giữa cộng đoàn và cho cộng đoàn Dân Chúa, linh mục phải sẵn sàng trao hiến mọi sự, t́nh yêu, sức lực, thời gian để lo cho đoàn chiên.

·        Để tâm lo cho toàn thể cộng đoàn và từng người, lấy chân lư mạc khải soi sáng lương tâm họ, dùng quyền bính bảo vệ đời sống kitô hữu theo đúng Phúc âm, sửa dạy và tha thứ các lỗi lầm, an ủi những ai sầu khổ và thăng tiến t́nh huynh đệ.

·        Phải biết cảm thương những nỗi yếu hèn và bất hạnh của tha nhân như Chúa Giêsu đă làm, và sống thế nào để mọi người đều cảm thấy họ được đón tiếp và coi trọng, yêu thương.

·        Ḷng hiếu khách phải được thể hiện trong cung cách ân cần tiếp đón niềm nở, tôn trọng, ḥa nhă, lắng nghe... Làm sao khi tiếp xúc với linh mục, người ta không phải ngại ngùng, sợ sệt, trái lại cảm thấy an ḷng, thoải mái, dễ chịu, dễ mến, nể phục và tín nhiệm.

·        Khi tiếp giáo dân nên chỉnh trang lại quần áo, đầu tóc, tỏ ḷng kính trọng họ. Cử chỉ, cách đối xử, lời nói của linh mục đều được bổn đạo xem xét, cho là gương tốt hay gương mù, rồi đến gần hay xa tránh.

·        Đối xử công bằng với hết mọi người, nhất là người nghèo khó, già cả, bệnh tật. Sống tinh thần giản dị để thông cảm, gần gũi, và chia sẻ.

·        Phải thực thi sự tốt bụng, ḷng kiên nhẫn, tính khả ái, nghị lực tâm hồn, ḷng yêu chuộng công b́nh, óc quân b́nh, trung thành với lời đă nói, nhất quán với cam kết đă đưa ra.

·        Phải làm chứng và biểu lộ ḷng nhân hậu của Chúa: dĩ ân báo oán, cầu nguyện cho kẻ nói xấu ḿnh, hy sinh, viếng thăm, khuyên bảo với ḷng bác ái, tha thứ, tránh những câu nói mất ḷng...

·        Nhẫn nại, cảm thông và chia sẻ những nỗi khổ đau của tội nhân, giúp họ trở về, noi gương vị Mục Tử Tốt Lành với con chiên lạc.

·        Quan hệ cả với người giầu và người nghèo sao cho mọi người thấy linh mục là của mọi người. Gần gũi và chia sẻ với họ về những khó khăn của cuộc sống. Phục vụ hết ḿnh, nhiệt t́nh trong công việc mục vụ. Khôn khéo và thận trọng trong vấn đề tiền bạc. Nhiệt thành giúp đỡ về đời sống thiêng liêng.

·        Cổ vơ và hướng dẫn họ thực hành bác ái, hăng say truyền giáo. Hô hào t́nh hiệp thông trong giáo xứ. Chỉ nói những ǵ mang t́nh đoàn kết, mang b́nh an, mang lại sự hài ḥa.

·        Thăm hỏi, đến từng gia đ́nh, nhất là gia đ́nh có hoàn cảnh khó khăn, có bệnh nhân… Người nghèo, già cả, cô đơn là đối tượng Cha xứ năng quan tâm giúp đỡ, đặc biệt khi có kẻ liệt cần xức dầu bệnh nhân.

·        Tổ chức các ban ngành: khuyến học, ḥa giải, bác ái xă hội… Cổ vơ việc học hành thăng tiến cho con em, thi đua khen thưởng, tập cho họ biết chia sẻ đùm bọc, nâng đỡ lẫn nhau.

·        Tôn trọng, cổ vơ truyền thống văn hóa tốt đẹp của địa phương. Tiếp thu những ǵ mới mẻ hợp đức tin, định hướng cho giáo dân biết sống đức tin và hội nhập đức tin trong các nền văn hóa.

·        Xây dựng tổ chức các lớp giáo lư ở mọi lứa tuổi, kể cả giáo lư hậu hôn nhân, các giờ kinh, chia sẻ Lời Chúa cho các nhóm nhỏ…

·        Nên coi giáo dân như người thân của ḿnh và chắc chắn người giáo dân không bao giờ quên linh mục là người thân của họ.

·        Bàn hỏi với những người giáo dân lớn tuổi và có uy tín trong giáo xứ trước khi làm một việc quan trọng. Phải nh́n nhận và thăng tiến phẩm giá và sứ vụ giáo dân, sẵn sàng lắng nghe, coi trọng những ước muốn, nh́n nhận kinh nghiệm và chuyên môn của họ trong các hoạt động nhân loại.

 

C.10.b Những ǵ không nên cư xử, nói và làm

·        Không áp đặt, bắt họ phải theo ư ḿnh, quan liêu, kênh kiệu, đ̣i hỏi, hách dịch, hẹp ḥi; hay lôi thôi nhếch nhác, bừa băi, hà tiện.

·        Không có tính cục bộ, phân biệt đối xử: Nói xấu người này, khích bác người kia, gây chia rẽ, bất đồng… Không để họ phải thất vọng v́ thái độ tiếp đón khinh mạn, ra về trong tâm trạng bất phục, không muốn gặp lại.

·        Không trọng phú khinh bần; tỏ ra ḿnh sang trọng quư phái, bắt người ta phục vụ quá đáng, hay quá khả năng của họ, đ̣i hỏi, cầu lợi và ṿi vĩnh tiền bạc; xa cách con chiên bổn đạo, chỉ đến với những nhà giàu có; sống xa hoa trong khi giáo dân nghèo đói, khiến người nghèo cảm thấy bị lăng quên.

·        Không la cà nhậu nhẹt ở nhà giáo dân sẽ gây gương mù và dễ dẫn đến nguy hiểm tai hại cho bậc sống của ḿnh.

·        Không quá đề cập đến chuyện tiền bạc mỗi khi gặp gỡ giáo dân, dù cần đến tài chính để lo cho những công việc giáo xứ. Không bao giờ cho giáo dân vay tiền, v́ sẽ hoặc mất tiền hoặc mất con chiên. Tiền bạc không phân minh rất dễ dẫn đến những đụng chạm xô sát bất hoà.

·        Không chỉ lo xây dựng vật chất mà quên tinh thần, nâng cao tŕnh độ giáo lư cho giáo dân, nhất là học sinh, sinh viên và giới trẻ.

·        Không nên liên lạc mật thiết và thường xuyên với những kẻ công khai nghịch đạo, có tiếng vô luân hay không giữ đạo, gây gương xấu và làm nhục cho những người đạo đức trong giáo xứ.

·        Không dung túng các hủ tục, nhất là những thứ nghịch đức tin, phi nhân bản. Không coi thường truyền thống văn hóa địa phương, hay coi mọi thứ văn hóa mới là xấu.

·        Không rao giảng những ǵ ngược với đức tin truyền thống của Hội Thánh, sống đạo h́nh thức, chấp nhất, thù vặt, giận cá chém thớt. Không chửi giáo dân trên ṭa giảng, trong Thánh lễ.

·        Không nên độc tài, tự ḿnh quyết định tất cả công việc của giáo xứ. Không nên lấy quyền để thống trị, nhưng hăy lấy t́nh yêu để phục vụ. Không hách dịch, quan liêu khi gặp giáo dân, v́ làm như vậy chỉ mất người mà thôi.

 

 

C.11. Tương quan với Ban Hành Giáo

C.11.a Những ǵ nên cư xử, nói và làm

·        Tôn trọng tự do và thể lệ bầu ban hành giáo. Sẵn ḷng vui vẻ chấp nhận ban hành giáo do giáo dân bầu, coi họ như cánh tay phải nối dài của ḿnh trong công việc điều hành giáo xứ.

·        Kêu mời họ cộng tác bằng những tài năng Chúa ban và những kinh nghiệm quư báu của họ. Hăy quan tâm đến họ, tôn trọng họ, đồng thời lắng nghe những lời góp ư.

·        Trao quyền và tôn trọng quyền của họ, cộng tác, chỉ dẫn chân thành. Tôn trọng và nghiên cứu áp dụng những sáng kiến cá nhân cũng như tập thể đưa ra.

·        Thận trọng, khoan dung, nhậy cảm. Tạo bầu khí vui tươi, cởi mở, chan ḥa, dễ tiếp xúc, coi họ như người nhà, cảm thông, tin tưởng và cả công bằng bác ái.

·        Chẳng mất ǵ lời nói, nhưng làm hài ḷng mọi người bằng khen thưởng, khuyến khích, động viên. Thăm hỏi, tỏ ra quan tâm đời sống tinh thần vật chất và hoàn cảnh của gia đ́nh họ.

·        Tạo uy tín cho Ban Hành Giáo, để họ có uy tín mà làm việc. Họp rút ưu khuyết, thẳng thắn xây dựng, sẵn sàng lắng nghe và tiếp thu với ḷng thương mến. Khoan dung, thông cảm và quảng đại, tha thứ cho những khiếm khuyết.

·        Xây dựng t́nh đoàn kết, cộng tác xây dựng Giáo xứ. Nếu có thể, nên động viên bằng vật chất, hoặc tổ chức vui chơi thư giăn, hay du lịch, picnic… Cùng họ hết ḷng v́ việc chung, chu toàn bổn phận, xây dựng giáo xứ.

·        Nên bàn bạc với Ban Hành Giáo về công việc lớn của giáo xứ. Những ǵ Ban Hành Giáo làm được, nên mời họ cộng tác và tin tưởng họ. Nên tổ chức các cuộc họp định kỳ để rút ưu khuyết điểm.

·        Coi trọng họ là những cộng tác viên đắc lực, là bàn tay nối dài trong công tác phục vụ cộng đoàn, biết lắng nghe những ư kiến, những sáng tạo của họ. Nên động viên họ vào những dịp lễ tết.

·        Cần quan tâm đặc biệt trong công việc để kịp thời hướng dẫn động viên về tinh thần cũng như vật chất.

 

C.11.b Những ǵ không nên cư xử, nói và làm

·        Không nên chỉ chọn người ḿnh ưa thích, tránh áp đặt theo ư ḿnh. Không nên can thiệp vào việc bầu chọn và sắp xếp các chức vụ theo cảm t́nh riêng của ḿnh; cục bộ, bè phái, đứng về phe này phe kia, giáo xứ sẽ bị chia rẽ, phân hóa và chống đối nhau.

·        Tránh tính bao biện, độc tài và điều khiển theo kiểu dân chủ, v́ những điều này dẫn tới giáo sĩ hoá giáo dân. Quyền bính trong Giáo hội từ trên xuống, do đó không quá “dân chủ mị dân”.

·        Phải dùng người có trước có sau, đừng theo lối “vắt chanh bỏ vỏ”, hễ xong việc là thôi, chẳng quan tâm đến nữa, chỉ biết lợi dụng mà không nghĩ tới những vất vả của họ.

·        Không chê bai, khiển trách công khai, với những lời lẽ thiếu tế nhị, thiếu văn hóa, chạm đến những nỗi đau hay tự ái của họ hay gia đ́nh họ.

·        Không để cho ban hành giáo tự ư về tài sản của giáo xứ, mọi thu chi phải có kư nhận của ít là ba người trong ban hành giáo và cha xứ. Tiền xin lễ không nên giao cho Ban Hành Giáo nhận để tránh mọi lạm dụng.

 

 

C.12. Tương quan với các đoàn thể

C.12.a Những ǵ nên cư xử, nói và làm

·        Nên thành lập các đoàn thể như Ḍng Ba, Hội Gia Trưởng, Hiền Mẫu, Thiếu Nhi Thánh Thể, v.v... Lo cho mỗi đoàn hội có thánh Quan Thầy và hướng dẫn họ noi gương bắt chước các nhân đức của thánh Quan Thầy.

·        Nuôi dưỡng và phát huy các đoàn thể, vận dụng khả năng từng đoàn thể, mời gọi họ cùng cộng tác trong những công việc chung, để giáo xứ được phong phú, năng động.

·        Các đoàn thể tạo nên sức mạnh của giáo xứ và là nguồn lực truyền giáo đắc lực: Nên đồng hành cùng các đoàn thể, khích lệ làm tốt hơn phận vụ của mỗi người, ngơ hầu giáo xứ được phong phú, năng động. T́m những người có khả năng, hạnh kiểm tốt và ḷng nhiệt thành để cộng tác lo công việc giáo xứ. Phân chia công việc rơ ràng cho từng người theo chức năng và quyền hạn.

·        Các hội lành giúp người ta năng chịu các phép bí tích, truyền bá các việc đạo đức, sửa chữa các sự lạm dụng. Cần thường xuyên huấn luyện họ qua các kỳ họp hay tĩnh tâm. Năng gặp gỡ, khích lệ và giúp đỡ họ trong công việc chung.

·        Phải trân trọng sự đóng góp của các đoàn thể. Nâng đỡ các đoàn thể bằng tinh thần và vật chất trong khuôn khổ cho phép. Đồng hành với các đoàn thể, giúp đỡ họ về tinh thần cầu nguyện, tinh thần đạo đức, tinh thần hiệp thông và đoàn kết.

·        Yêu mến, gần gũi, cởi mở, cảm thông và đồng hành. Xây dựng t́nh đoàn kết, tương trợ, đối xử công bằng. Nói lời vui vẻ, đôi khi hài ước, tạo bầu khí nhẹ nhàng, thoải mái. Động viên khích lệ bằng những lời khen ngợi, tuyên dương.

·        Xây dựng, tổ chức, khuyến khích mọi người cùng tham gia, cổ vũ phong trào. Thăm hỏi khi đoàn hội sinh hoạt, quan tâm, săn sóc, dạy dỗ bảo ban, hướng dẫn. Cần vui vẻ tham gia góp ư xây dựng chân thành.

·        Chia phiên buổi sinh hoạt, lập thời biểu rơ ràng và tôn trọng thời khóa biểu. Nhiệt t́nh giảng dạy, hướng dẫn, mở các lớp học hỏi, khám phá và chia sẻ Lời Chúa.

·        Làm gương sáng trong lời nói cử chỉ, việc làm, nhất là các buổi phụng vụ hay cử hành Bí tích, phải tỏ ra trang nghiêm cung kính. Cổ vơ các giờ kinh khu xóm, Liên gia, Gia đ́nh. Tham gia các giờ kinh nguyện tại nhà thờ.

·        Đối với giới trẻ, tạo công ăn việc làm, nếu có thể, tránh tệ nạn xă hội. Tổ chức các lớp giáo lư viên, kêu mời các bạn trẻ tham gia truyền giáo. Sẵn sàng lắng nghe sự góp ư, hay những bày tỏ ưu tư của cá nhân hay đoàn thể.

·        Giáo dục, cổ vơ tinh thần bác ái, lá lành đùm lá rách, không những trong xứ họ, mà c̣n các vùng xa xôi bị thiên tai, băo lụt…

·        Tôn trọng, quan tâm, khích lệ, đối xử công bằng. Động viên tinh thần và giúp đỡ vật chất. Tham gia góp ư xây dựng chân thành, vui vẻ…

 

C.12.b Những ǵ không nên cư xử, nói và làm

·        Không đối xử thiên lệch về một hội đoàn nào: coi trọng đoàn thể này mà xem nhẹ đoàn thể kia, ghét bỏ đoàn thể này yêu đoàn thể kia, quan tâm đến giới trẻ mà lại lạnh nhạt với huynh đoàn.

·        Không áp đặt ư riêng, mà phải biết lắng nghe những đóng góp của mọi người. Không can thiệp vào chuyên môn riêng của người phụ trách. Không nên kéo đoàn thể nào đó về phe ḿnh, dùng các hội đoàn để gây uy thế cho ḿnh.

·        Không bẳn tính, cằn nhằn khi không được vừa ư. Không khiển trách, phê b́nh chỉ trích, la mắng sửa sai các đoàn thể ngay trước cộng đoàn.

·        Không nên coi đoàn hội này hơn đoàn hội kia làm mất ḥa khí và tạo nên óc cục bộ chỉ biết đoàn thể của ḿnh, tranh chấp hơn thua giữa các đoàn thể.

·        Không được có thái độ “bỏ mặc” và thiếu quan tâm hoặc thái độ “cứ vứt nó xuống nước tự nó biết bơi vào”, hoặc ngẫu hứng, tùy tiện, thất thường.

·        Không bác bỏ ư kiến tŕnh bày các nhận định hoặc thắc mắc ưu tư của họ.

·        Tránh gây gương xấu, gương mù, cẩu thả, bất kính khi cử hành phụng vụ; chỉ chú trọng h́nh thức mà thiếu tinh thần truyền giáo. Chỉ co cụm nơi giáo xứ mà không có tính hiệp thông phổ quát. 

 

 

C.13. Tương quan với những người già cả, bệnh tật và hấp hối

C.13.a Những ǵ nên cư xử, nói và làm

·        Chúa Giêsu yêu dấu trẻ em, thương xót người tội lỗi, nhân hậu cùng kẻ liệt lào đau ốm và chữa lành họ: Ngài đă gánh lấy bệnh hoạn tật nguyền của ta (x. Mt 8,17). Linh mục cần mặc lấy những tâm t́nh ấy của Chúa Giêsu để nâng đỡ an ủi đoàn chiên ḿnh.

·        Những người già cả, bệnh tật, hấp hối là giới dễ bị bỏ quên trong xă hội, phải năng thăm viếng họ, giúp họ thánh hoá bệnh hoạn đau đớn bằng cách liên kết với đau khổ của Chúa Giêsu để thánh hoá chính họ và thế giới, sinh ơn cứu độ cho ḿnh và người khác.

·        Người già, bệnh tật thường hôi hám, nên xả thân, thông cảm và gần gũi ân cần khi thăm hỏi, động viên cả tinh thần lẫn vật chất. Kính trọng, yêu thương, vui vẻ, lắng nghe, đồng cảm, yêu mến và nhiệt t́nh, tận tụy chăm sóc, khi có thể. Nói lời lạc quan tin tưởng, cậy trông và phó thác.

·        Giúp họ thấy Chúa yêu thương họ, chờ đợi họ trên thiên đàng, để họ sẵn sàng vâng theo Thánh Ư Chúa.

·        Quan tâm ban bí tích, nhất là đưa của ăn đàng. Khi có bệnh nhân cần xức dầu, hăy sẵn sàng bỏ mọi việc khác, kể cả giờ kinh hay ăn uống, lên đường ban bí tích Xức dầu cho bệnh nhân vào bất cứ giờ nào. Nếu có thể, cố gắng hiện diện trong giờ lâm tử của những người hấp hối.

·        Tổ chức các buổi cầu nguyện mừng thọ, thượng thọ, đại thọ… có quà tặng để họ vui sống lạc quan hơn. Động viên con cháu họ quan tâm chăm sóc, chiều chuộng, và hiếu thảo hơn với những người sinh thành dưỡng dục ḿnh.

·        Những giờ rảnh rỗi nên đi thăm những người đau ốm bệnh tật nơi ḿnh phụ trách, nhờ đó họ được an ủi. Nên có một chút quà nhỏ khi đi thăm những người đau ốm bệnh tật. Giao tiếp cần cởi mở, hài ḥa để qua đó họ nhận thấy t́nh thương và sự b́nh an của Chúa.

 

 

C.13.b Những ǵ không nên cư xử, nói và làm

·        Không nên chỉ uỷ thác cho một tổ chức hay người nào, mà chính linh mục cần đến thăm hỏi và an ủi bệnh nhân. Nhiều người không cần đến vật chất cho bằng tấm ḷng nhân ái và sự động viên của linh mục hơn.

·        Không coi thường, bất kính, lạnh lùng, quên lăng những người già cả, bệnh hoạn, hấp hối trong xứ. Không nói nhiều về h́nh phạt, những lời bi quan, rầu rĩ.

·        Không làm cho họ quá sợ hải sự công thẳng, và không giúp họ thấy t́nh yêu thương nhân hậu vô bờ của Chúa, Đấng muốn cho mọi người được hạnh phúc cứu rỗi, nhất là trong giờ lâm chung của họ.

·        Không tỏ thái độ kinh tởm, xa tránh, bịt mũi khiến người bệnh phải tủi thân. Không gắt gỏng, mất nhẫn nại với những người già, đau ốm, bệnh tật, v́ do đau đớn mà họ trở nên khó tính, khó nết.

·        Không hờ hững, thiếu quan tâm hay đồng t́nh với con cháu v́ phục vụ vất vả mà có thái độ chán nản, thất vọng, ơ hờ với các cụ.

·        Không lười biếng để bỏ lỡ cơ hội ban bí tích sau cùng cho họ (sẽ phải vô cùng ân hận khi họ chết mà không được lănh nhận các bí tích).

·        Không được chậm trễ hay từ chối ban các bí tích cho họ trong giờ hấp hối, giúp họ được an b́nh ra đi tiến về đời sau.

Đêm đông hay giữa trưa hè,                          

   Kêu đâu chạy đó chở che cho người,

   Biết đâu lần đó cuối đời,                                   

   Để người chết hụt ta thời ăn năn,                  

   Giúp người trong lúc khó khăn,

   Khi về cùng Chúa mần răng quên ḿnh.

  

 

C.14. Tương quan với các góa phụ, nhất là góa phụ trẻ

C.14.a Những ǵ nên cư xử, nói và làm

·        Goá phụ là những người chịu thiệt tḥi về t́nh cảm và sinh lư nên dễ t́m sự bù đắp, không nên quá gần gũi trong giao tiếp dẫn đến mủi ḷng, trắc ẩn cảnh “mẹ dại con thơ” mà sa ngă và gây gương xấu. Phải cư xử khôn ngoan khi giao tiếp với các goá phụ, nhất là goá phụ trẻ.

·        Tôn trọng, thông cảm, vui tươi, nhưng mực thước, luôn biết tạo khoảng cách an toàn. Lời nói nghiêm chỉnh, đứng đắn. Thánh Cypriano dạy: “đối với phụ nữ ta phải luôn nghiêm khắc, thi hành quyền bính nghiêm trang đứng đắn. Khi tiếp đón phụ nữ, cần phải ư tứ, đề pḥng lối ăn ở cẩu thả tai hại cho nhiều linh mục. V́ thế linh mục cần bác ái khôn ngoan, nết na, bỏ ḿnh”.

·        Các thánh dạy rằng tên lửa t́nh yêu qua mắt để đâm vào con tim, và con mắt là kẻ dụ dỗ đưa đến tội lỗi. Vậy phải rất ư tứ khi họ đến nhà ta hay khi ta đến nhà họ: ḷng trắc ẩn chăm sóc của ta đối với “mẹ góa con côi” dễ bị họ hiểu lầm, nguy hiểm.

·        Đừng năng đến nhà họ và cũng đừng để họ thường xuyên đến nhà xứ. Nói chuyện với họ phải ít, ngắn gọn và nghiêm chỉnh, nơi trống trải. Tránh những thứ gây ràng buộc dính bén là những bẫy ngầm: thân mật quá có nguy cơ dẫn đến gương xấu và sa ngă.

·        Cần quan tâm nâng đỡ, ủi an, động viên, khích lệ họ tham gia các đoàn hội, tạo những mối tương quan tốt, để họ nhận thấy niềm vui, vơi đi nỗi đau thương mất mát mà đến gần với Chúa hơn. 

 

C.14.b Những ǵ không nên cư xử, nói và làm

·        Không khinh thường xa lánh, nhưng cũng không gần gũi quá. Không nói đùa dỡn, cợt nhả, bất nhă. Không nên nói những lời thô tục, thiếu tế nhị, một lời hai ư.

·        Không v́ giúp đỡ vật chất mà gây hiểu lầm nảy sinh t́nh cảm không hay. Phải nhớ ḿnh là người của mọi người và luôn được mọi người quan tâm để ư.

·        Không được có những tư tưởng hay hành động bao biện, muốn chiếm đoạt hay để họ quá cậy dựa và lệ thuộc vào ḿnh.

·        Đừng quên lời thánh Eusêbiô dạy: “đức trinh khiết làm cho con người bằng thiên thần, tà dục làm cho con người nên như loài vật và tệ hơn cả loài vật”.

·        Không quên lời khuyến cáo của Chúa Giêsu: “hăy tỉnh thức và cầu nguyện luôn kẻo sa chước cám dỗ, v́ tinh thần th́ nhẹ nhành chóng vánh, nhưng xác thịt nặng nề yếu đuối" (Mc 14,38), v́ linh mục vẫn không thôi là con người với những yếu đuối nhân loại. 

·        Cẩn trọng về nơi chốn, thời gian, khoảng cách và giới hạn cần thiết trong các cuộc gặp gỡ. Không nên quá thân mật, gặp gỡ riêng tư lâu giờ ở những nơi kín đáo, v́ có thể gây nguy hiểm cho họ và cho ḿnh. Nhưng không nên v́ sợ dị nghị mà xa lánh, họ là những con chiên đáng được chăm sóc.

 

 

C.15. Tương quan với giới trẻ

C.15.a Những ǵ nên cư xử, nói và làm

·        Giới trẻ là mối bận tâm hàng đầu của Giáo hội. Phải quan tâm tới đời sống đức tin và nhân bản của họ (Giáo lư, giáo dục giới tính, ư thức gắn bó với gia đ́nh, với giáo xứ…). Nhắc nhở đề pḥng những hiểm nguy, cám dỗ đang ŕnh rập đầu độc lứa tuổi thanh xuân như cờ bạc, x́ ke ma tuư, sách vở, phim ảnh đồi trụy, games sex và bạo lực, v.v…

·        Phải nên gương mẫu bằng lời nói, cách sống và hành động cho giới trẻ, vốn là tương lai của Giáo hội và xă hội. Phải t́m cách nâng tŕnh độ tri thức của giới trẻ Công giáo lên ngang tầm với thời đại.

·        Thỉnh thoảng nên tổ chức dă ngoại hay tham quan, giao lưu với nơi khác để họ được học hỏi, mở rộng tầm nh́n và sống t́nh liên đới Giáo Hội..

·        Đứng đắn trong lời nói việc làm; nên mẫu gương tốt lành để các em tín nhiệm noi theo, giúp các em bước vào cuộc sống.

·        Cần có Thánh Lễ, lớp giáo lư, những buổi gặp gỡ sinh hoạt lành mạnh cho giới trẻ, để tiếp tục giáo dục đời sống đức tin và nhân bản cho các em.

·        Động viên tất cả các bạn trẻ trong xứ tham gia, nhờ đó họ năng lănh nhận các bí tích, tập tành nhân đức, sửa chữa sai phạm và h́nh thành cho ḿnh một hướng đi tốt.

·        Nên sống thân t́nh, gần gũi bằng tư tưởng, lời nói cũng như trái tim. Nên giữ mối liên hệ đối với những bạn trẻ “di dân” đi làm ở xa bằng thư từ, điện thoại…

·        Quan tâm tổ chức những buổi sinh hoạt, toạ đàm với giới trẻ về đức tin và kỹ năng sống. Vận dụng các buổi gặp gỡ, các lớp giáo lư mà giúp giới trẻ biết nh́n và đánh giá các biến cố sự việc theo cái nh́n đức tin.

·        Nên tổ chức những buổi sinh hoạt giới trẻ, tạo cơ hội để các bạn trẻ tŕnh bày những khó khăn, những thao thức của ḿnh trong cuộc sống đạo, giúp họ t́m ra lư tưởng sống, định hướng nghề nghiệp và các kỹ năng sống khác… Có thể tư vấn, tạo công ăn việc làm và hướng dẫn giới trẻ chọn nghề, chọn người bạn đời theo hai yếu tố thích và hợp.

·        Phải gần gũi với các bạn trẻ để t́m hiểu tâm tính và hoàn cảnh của họ, hầu giúp họ trưởng thành lên trong đời sống nhân bản, đức tin, luân lư, đạo đức và tông đồ.

 

C.15.b Những ǵ không nên cư xử, nói và làm

·        Không nên làm ngơ trước những nhu cầu cần thiết của người trẻ, nhất là mặt đời sống đức tin và truyền giáo. Không phó mặc giới trẻ cho cha phó, thầy xứ, các d́ xứ chịu trách nhiệm.

·        Tránh những lời nói khiếm nhă hoặc nóng nảy gắt gỏng cũng như những việc làm thiếu đứng đắn làm mất uy tín người mục tử...

·        Không có thái độ độc tài, phân biệt đối xử giữa các thành viên. Không quá khó khăn, quan cách khiến giới trẻ không dám tiếp xúc cởi mở khi họ cần bàn hỏi, tư vấn việc thiêng liêng và cả những vấn đề tế nhị trong đời sống luân lư, giới tính và tính dục.

·        Phải thận trọng trong giao tiếp với thanh thiếu nữ, chỉ gặp gỡ và tiếp chung, hay ít ra phải có hai người, pḥng khách mở thoáng. Không nên thân thiện quá, nhất là đối với các bạn nữ trẻ đẹp khiến người ta dễ hiểu lầm không hay.

·        Không để cửa nửa mở nửa khép hay đóng kín mít khi tiếp khách nữ giới, viện cớ pḥng gắn máy điều hoà hoặc trời lạnh quá: người khác nh́n vào sẽ nghi ngờ tư cách linh mục, lại nguy hiểm nữa. 

·        Không nên dùng những lời thiếu lịch sự trong đối thoại. Lời nói “quá đời” làm giới trẻ vui lúc đó nhưng về sau họ không kính trọng đâu. Đừng làm họ mất niềm tin v́ cư xử thiếu tế nhị của ḿnh. Không nên lấy việc ăn nhậu làm cớ giao tiếp với giới trẻ. Linh Mục là khuôn mẫu cho các bạn trẻ trong giáo xứ.

·        Cần tránh những cử chỉ và lời nói thiếu tôn trọng các bạn trẻ. Ḥa đồng nhưng không được đồng hóa với họ, để rồi có những cách cư xử, phong thái không phù hợp với linh mục: uống rượu “dô 100%”, đi xe và ăn mặc theo “mốt” thời trang…

 

 

C.16. Tương quan với giới thiếu nhi

C.16.a Những ǵ nên cư xử, nói và làm

·        Thiếu nhi là tương lai của Giáo hội và đất nước, cần được uốn nắn từ nhỏ, nên phải dạy giáo lư và đào tạo các em nên người, nên người kitô hữu và nên người tông đồ mai sau.

·        Đầu tư thời giờ, tiền bạc, sách vở cho việc giáo dục các em thiếu nhi về giáo lư và kiến thức xă hội. Khuyến khích các em tham gia buổi học giáo lư theo từng lứa tuổi, với tất cả ḷng nhiệt thành yêu mến.

·        Tổ chức việc dạy và học giáo lư sao cho hiệu quả, tăng tiến đức tin và đời sống thiêng liêng. Nên vận dụng sự hấp dẫn của những sinh hoạt vui chơi, ca múa và phương pháp nghe nh́n.

·        Nên để các em tự do lui tới và vui chơi trong khu vực nhà thờ, nhà xứ. Các em sẽ có ấn tượng là ngoài mái ấm gia đ́nh th́ nhà thờ, nhà xứ được coi như gia đ́nh thứ hai ghi khắc nhiều kỷ niệm sống đạo đẹp đẽ của tuổi thơ các em.

·        Cần tổ chức các buổi sinh hoạt, liên hoan văn nghệ, vui chơi tập thể như hội chợ, các tṛ chơi thi đua, các tṛ chơi vận động để các em phát triển tính sáng tạo và sống hoà đồng với nhau. Cũng đừng quên tổ chức những buổi hành hương, tham quan cho thiếu nhi.

·        Cố gắng sống tinh thần trẻ trung, dí dỏm, quảng đại và vui vẻ, để các em có thể đến gần và coi linh mục là người cha, người thầy đáng mến và gần gũi, yêu thương.

·        Hăy vẽ vào tâm hồn trong trắng các em những dường nét đầu tiên của Phúc âm Chúa; chúng sẽ ảnh hưởng mạnh nơi các em suốt đời.

·        Phải có sự thống nhất đời sống và lời giảng dạy: các em sẽ nh́n vào cách ta sống mà bắt chước hơn là nghe lời ta nói, cho dù hay ho đến mấy đi nữa, hầu giúp các em hướng thiện.

·        Hăy tiết kiệm lời hứa, nhưng phải giữ lời hứa với mọi người, nhất là với thiếu nhi. Luôn tỏ thái độ dịu dàng và vui tươi với các em.

·        Hàng tuần nên có thánh lễ dành riêng cho các em, để giúp các em tham dự với ư thức, tích cực và sống động, hầu thăng tiến đời sống đức tin và đạo đức của các em. Cũng nên tổ chức những buổi dành riêng cho các em cầu nguyện và chầu Thánh Thể.

·        Quan tâm tới việc giáo dục nhân bản và giáo dục đức tin cho các em, qua việc mở các lớp học Giáo lư phù hợp theo từng lứa tuổi của các em. Có chương tŕnh cụ thể cho việc Xưng Tội, Thêm Sức trong năm.

·        Trong giao tiếp nên dùng những cử chỉ gần gũi, lời nói nhẹ nhàng thân thiện và tỏ ra hiểu nhu cầu của các em. Nên coi các em như những người con để tận t́nh hướng dẫn, chỉ bảo hầu giúp các em sống mỗi ngày một tốt hơn.

 

C.16.b Những ǵ không nên cư xử, nói và làm

·        Không quá nghiêm khắc la hét, quát tháo hay doạ nạt, nhất là đừng bao giờ đánh các em v́ bất cứ lư do ǵ. Phải chấp nhận và nhẫn nại chịu đựng tính hiếu động, thích chơi nghịch cách thoả mái, tự do, hồn nhiên của các em. Nhưng cũng không quá dễ dăi, đừa cợt với các em, v́ như vậy không thể giáo dục được cho các em.

·        Tuyệt đối không đánh trẻ nhỏ, không dùng h́nh phạt có tính nhục mạ, xúc phạm đến nhân phẩm em nào trước mặt cộng đoàn, trong nhà thờ, nhất là giữa thời buổi tôn trọng và đề cao cá nhân và trẻ con như hiện nay.

·        Không bao giờ được lợi dụng sự thân thiện, đơn sơ của trẻ để có những hành vi đồi bại làm gương xấu cho các em. Không bao giờ gọi trẻ vào pḥng riêng một ḿnh, tránh chiều chuộng em này hơn em khác. Hăy thận trọng và đứng đắn đối với trẻ nữ.

·        Không coi thường các em mà hứa suông bao giờ. Nếu đă hứa ǵ th́ đừng rút lại và phải giữ lời hứa. Không nói những lời cũng như làm những việc thiếu lịch sự trước mặt các em. V́ chúng như tờ giấy trắng, cần in những lời nói việc làm tốt đẹp vào tâm hồn chúng.

·        Không nên khoán trắng thiếu nhi cho người phụ trách, để rồi chúng như thế nào cũng không biết. Không nên phó mặc thiếu nhi cho thầy xứ, các d́, giáo lư viên, ông bà quản… trong việc dạy giáo lư. Đừng quá bủn xỉn trong việc đầu tư: tiền của, thời gian… cho việc giáo dục đức tin cho các em.

·        Đừng bao giờ quở trách các em trong khi tham dự phụng vụ, nếu cần hăy chỉ bảo các em cách dịu dàng. Không la mắng khi không cần thiết, và sau khi la mắng hăy luôn làm ḥa cách vui vẻ, trung thực.

 

 

C.17. Tương quan với những người phục vụ trong nhà xứ, nhất là cô bếp.

C.17.a Những ǵ nên cư xử, nói và làm

·        Nhu cầu có người giúp việc là điều chính đáng. Tuy nhiên, người nữ giúp việc đừng có trẻ quá (phải đủ tuổi luật buộc), đừng quá nhan sắc, đừng quá nhí nhảnh, đừng quá khoe khoang, đừng lắm lời, đừng quá ṭ ṃ chuyện người khác, cũng đừng có tiếng xấu, nghĩa là đừng để nên cạm bẫy cho ta hay làm dịp cho người khác ngờ vực.

·        Đừng bao giờ hỏi ư kiến hay tâm sự với họ về nỗi đau buồn, chán chường, hoặc nỗi thất vọng của ḿnh. Cây leo trước tiên bắt đầu ḅ từ gốc rễ, không ngờ nó lớn lên, cao lên rồi nó vấn vít đè ngột cả những cành cao nhất. Cây leo của ta ḅ tới đâu rồi?

·        Nhớ lời thánh Cypriano dạy phải luôn nghiêm khắc đối với phụ nữ và thi hành quyền bính nghiêm trang đứng đắn. Tại nhà xứ, quyền bính phải được thi hành dưới h́nh thức quân chủ chứ không phải lối dân chủ (bàn hỏi và theo ư kiến người giúp việc).

·        Hăy liệu để người nữ giúp việc biết niềm nở tiếp đón các linh mục, tu sĩ, khách khứa, người nghèo và bổn đạo. Người nữ giúp việc càng kém phẩm chất bao nhiêu, càng làm ta mất ḷng dân và đưa ta đến thất bại, suy sụp bấy nhiêu.

·        Phải thông cảm với họ là họ phải cáng đáng bao nhiêu là những công việc lặt vặt không tên trong ngày. Nên có những lời động viên khích lệ, nhất là trong những lúc bận nhiều công việc. Có những lời khen hoặc chê đúng lúc, đúng hoàn cảnh với ư hướng xây dựng. Nên thông cảm và tha thứ những thiếu sót hay lỗi lầm của họ.

·        Tôn trọng giá trị phục vụ của họ và hăy trả tiền công cho họ cách xứng đáng và ṣng phẳng. C̣n họ giúp không th́ cũng phải t́m cách bù đắp cho họ một cách tương xứng. Nên tặng cho họ những món quà vật chất nhân dịp lễ tết và thăm hỏi gia đ́nh nhân dịp này. Cũng nên khôn khéo và tế nhị quan tâm đến nhu cầu và ước vọng của họ, giúp đỡ đời sống của họ và bố mẹ họ để họ nhiệt tâm giúp việc.

 

C.17.b Những ǵ không nên cư xử, nói và làm

·        Không để người giúp việc đem chuyện thiên hạ vào nhà xứ hoặc chuyện nhà xứ ra cho thiên hạ. Ngày nào bà trở thành tờ báo sống, nó sẽ làm ta khó chịu và có trăm ngàn phản ứng sai lạc. Nếu v́ cô bếp mà phải bị ngờ vực tai tiếng th́ hăy để cho về ngay.

·        Không làm cho cô bếp phải khóc lóc: nước mắt đàn bà là vũ khí lợi hại của họ, nhưng là thuốc độc và cạm bẫy khó lường cho đàn ông.

·        Tự làm lấy những công việc vệ sinh, dọn dẹp trong pḥng riêng, không nên để cô bếp suốt ngày lục sục trong pḥng ta, dễ khiến người ngoài nghi ngờ, khó chịu.

·        Không nên để cô bếp vào pḥng riêng của ḿnh quét dọn và nói chuyện lâu giờ. Không kêu cô bếp vào pḥng ban đêm để giúp đỡ việc này việc nọ hay vào pḥng riêng của họ. Những khi đau yếu bệnh tật, nên nhờ thêm người giúp đỡ chứ không phải chỉ ḿnh cô bếp lo lắng cơm cháo, xức dầu, xức thuốc... “Tối trời, nhà tranh cũng như nhà ngói!”

·        Không quan tâm quá mức đến họ và việc nội trợ của họ. Không nên quá pha ḿnh vào việc nội trợ, nên để cho người giúp việc một phần tự do trong nhiệm vụ của họ. Không nên quá gần gũi. Phải có giới hạn và khoảng cách cần thiết. Không quá thân mật, đùa cợt, dễ gây hiểu lầm và tổn thương uy tín và danh dự.

·        Không nên để họ can thiệp vào công việc mục vụ của ḿnh. Không tâm sự với họ về bất cứ điều ǵ, nhất là những nỗi đau buồn hay chuyện riêng của ḿnh: sự thông cảm, chia sẻ đó sẽ là một bẫy ngầm.

·        Không được khinh dể và thiếu bác ái đối với họ, nhiều khi bác ái đối với người ngoài nhưng lại không bác ái với người trong nhà.

·        Không để cô bếp ăn chung, nhất là khi có khách; khách sẽ rất khó chịu v́ khó nói chuyện. Khi ăn cơm, ta có thể tiếp và trao đổi với giáo dân. 

 

 

C.18. Tương quan với Chính Quyền

C.18.a Những ǵ nên cư xử, nói và làm

·        Tính nhă nhặn là hoa thơm của phép lịch sự, nó bắt nguồn từ đức khiêm nhượng và bác ái. Linh mục nhă nhặn hấp dẫn và xây dựng kẻ khác, đồng thời được thêm uy tín và tín nhiệm.

·        Chấp hành những nghĩa vụ chính đáng của một người công dân. Tôn trọng các cấp chính quyền, bằng thái độ cởi mở và thân thiện, b́nh tĩnh cùng nhau trao đổi, đối thoại và nghiên cứu giải quyết các vấn đề liên quan giữa hai bên. Cộng tác trong vấn đề thực hiện công ích như an sinh xă hội, phục vụ người nghèo, thăng tiến con người, đẩy lui những tệ nạn xă hội…

·        Giữ liên lạc thiện chí với chính quyền. Thỉnh thoảng nên viếng thăm xă giao để tỏ ḷng kính trọng họ, nhất là những dịp lễ lớn của Đất Nước và truyền thống Dân tộc. Cũng nên mời họ tới dự những dịp lễ lớn của ḿnh để cảm thông và hiểu biết nhau hơn.

·        Sống giản dị và ân cần tiếp đón mọi người, sẵn sàng lắng nghe và đừng bao giờ để ai đến gặp ḿnh phải bất măn ra về. Nên tiếp xúc đối thoại để thông cảm với nhau hơn về những vấn đề xă hội và cuộc sống của dân chúng, hầu cộng tác lành mạnh lo cho những người nghèo trong lănh địa ḿnh phục vụ, theo đường hướng của Giáo Hội.[87]

·        Cố gắng tỏ cử chỉ yêu thương thật ḷng, cảm thông, lắng nghe, trao đổi, thảo luận và giúp họ chu toàn bổn phận lo cho dân giàu nước mạnh, cổ vũ và phát huy những sáng kiến mới.

·        Khi có dịp, có thể cùng làm việc với họ trong các vấn đề xây dựng cuộc sống của người dân, đặc biệt trong lănh vực giáo dục, đạo đức và luân lư, bác ái và từ thiện.

·        Tôn trọng họ và coi họ như những người anh em của ḿnh mà Chúa muốn cứu độ.

 

C.18.b Những ǵ không nên cư xử, nói và làm

·        Không cộng tác trong vấn đề chính trị, nhất là chính trị  đảng phái hoặc tổ chức chính trị nghịch lại ư muốn của Hội Thánh. Không nên gieo ḿnh vào chính trị, nếu không muốn người ta động đến việc tôn giáo của ḿnh.

·        Không nóng nảy kiêu căng, căi cọ khi vừa bị phản đối, nhưng t́m thông cảm với chính quyền để loại bỏ những điều nghi kỵ; khi cần nên hy sinh và chịu đựng đôi tí để giữ b́nh an và ḥa khí; xử sự có tư cách và tha thứ các lỗi lầm của họ.

·        Đừng tránh gặp chính quyền hay có gặp là chỉ để tấn công với những lời chê trách chua chát. Trong các buổi họp, cũng như trên toà giảng, không nói gần nói xa với hậu ư, nói ám chỉ để đả kích, bêu xấu… nhà chức trách.

·        Không nhượng bộ những quyền lợi chính đáng và thiêng liêng của Giáo Hội, của cộng đoàn, của giáo dân, của con người đúng với sự thật, công bằng và công lư. Không nôn nóng cho được việc mà hối lộ tiêu cực hay manh động đấu tranh.

·        Phải tránh thái độ đối kháng hay khép kín, nhưng hăy mở ḷng ra để đối thoại. Và khi giao tiếp, phải tránh những cử chỉ và lời nói thiếu tôn trọng người đối thoại và thiếu tư cách về phía ḿnh.

·        Khi Chính quyền cần gặp gỡ và trao đổi với giáo dân, hăy liệu có nơi thuận tiện, chứ tuyệt đối không đưa vào nhà thờ để chính quyền gặp gỡ bà con giáo dân, nhất là khi nội dung đi ngược lại giáo huấn của Hội Thánh.

·        Không chống lại các chính sách hợp lư của Nhà Nước; không cản trở giáo dân trong những bổn phận dân sự họ phải đóng góp; không cản trở chính quyền trong việc bài trừ các tệ nạn, các tội phạm.

·        Tránh độc thoại, phê phán và giảng chửi chính quyền trước mặt giáo dân trong thánh lễ. Như thế sẽ làm cho họ gặp khó khăn trong việc lănh đạo và công tác, dẫn tới nghi kỵ và đối kháng lẫn nhau.

·        Không được cộng tác với họ trong các vấn đề gây tổn thương đức tin, phong hóa và luân lư. Không để họ gợi ư và ép buộc, điều khiển ḿnh theo ư hướng và mục đích của họ.

·        Nỗ lực sống đúng thiên chức linh mục, chiến đấu để tránh rơi vào t́nh cảnh mà con người yếu đuối thường mắc phải là vấn đề nhục dục giới tính nam nữ; cảnh giác kể cả trường hợp có thể bị gài bẫy. Nếu có lỡ mắc phải, hăy khiêm tốn chân thành tŕnh bày xin thẩm quyền t́m cách giải gỡ, luôn đứng về phía Chúa và Giáo Hội; càng chấp nhận điều kiện để che đậy hầu bảo vệ thanh danh càng sa lầy, và cuối cùng khi hết giá trị lợi dụng họ cũng bạch hóa ra thôi.

 

 

C.19. Tương quan với các tôn giáo bạn, nhất là các vị lănh đạo

C.19.a Những ǵ nên cư xử, nói và làm

·        Phải t́m hiểu và đẩy mạnh việc gặp gỡ, đối thoại liên tôn để các tôn giáo ngày càng hiểu nhau hơn, cộng tác với nhau hơn v́ hạnh phúc của con người.

·        Hăy tôn trọng các giá trị văn hoá và tâm linh của các tôn giáo bạn, không bác bỏ những ǵ là chân thực, thánh thiện nơi các tôn giáo, dù có khác biệt với Đức Tin Công Giáo.

·        Sẵn sàng hợp tác với các vị lănh đạo tôn giáo bạn, nhất là các vị họat động trong cùng địa hạt, trong các hoạt động từ thiện, văn hóa, xă hội để loại trừ bất công, áp bức, nghèo khổ và các tệ nạn xă hội đang làm thoái hóa, biến chất con ngươi, đồng thời cổ vũ sự công bằng, công lư, yêu thương, và thăng tiến phẩm giá con người trong mọi tầng lớp xă hội.

·        Qua đối thoại, ta có dịp học hỏi và hiểu biết giá trị của các tôn giáo khác, đồng thời cũng nhận ra và chia sẻ, làm cho họ nhận biết Tin Mừng và những giá trị thiêng liêng của Kitô giáo.

·        Không gây chia rẽ, không phân biệt đối xử: khuyến học, cứu tế không phân biệt lương giáo hay không tôn giáo, để qua tay, qua môi miệng linh mục, họ cảm nhận được bàn tay ấm áp của Giáo hội Chúa Kitô.

·        Luôn có tinh thần cởi mở, đối thoại trong tinh thần liên đới với thái độ kính trọng, yêu thương. Nên có những buổi gặp gỡ, trao đổi, bàn hỏi mà hai bên cùng quan tâm. Cùng t́m hiểu và đối thoại trong tinh thần hiểu biết lẫn nhau.

·        Cố gắng hàn gắn những hiểu lầm và chia rẽ giữa các tôn giáo với nhau. Cần hiểu, cảm thông và tôn trọng những thao thức và tập tục tôn giáo của họ.

 

C.19.b Những ǵ không nên cư xử, nói và làm

·        Không đố kỵ và phân biệt tôn giáo, có thể dẫn đến mất đoàn kết. Nếu nơi giáo dân có sự đố kỵ th́ phải ngăn chặn ngay và phân tích cho họ hiểu được rằng Thiên Chúa muốn mọi người được cứu độ, tuy không cùng tôn giáo nhưng họ cũng thuộc về Nước Thiên Chúa.

·        Không quan niệm chỉ có những người trong giáo xứ mới là con chiên của ḿnh, mà phải có trách nhiệm với mọi người chung quanh trong ranh giới mục vụ được trao phó để quan tâm, giúp đỡ họ trong khả năng của ḿnh.

·        Không đề cao Kitô giáo thái quá và hạ thấp hay khinh khi các tôn giáo khác, cho rằng chỉ có đạo Công Giáo mới là đạo thật, c̣n các đạo khác đều là tà đạo. Nhưng cũng tránh thái độ cào bằng, coi tôn giáo nào cũng như tôn giáo nào.

·        Không nên có những lời xúc phạm, chê bai những người lănh đạo trong các tôn giáo bạn, hoặc có thái độ coi thường, thiếu tôn trọng và có những lời khích bác những người anh em đó.

 

 

C.20. Tương quan với lương dân

C.20.a Những ǵ nên cư xử, nói và làm

·        Kính trọng và thương yêu đồng bào lương dân, phát huy nơi giáo dân tinh thần đối thoại, khuyến khích họ tương thân tương ái và hợp tác với bà con trong mọi lănh vực đời sống.

·        Thỉnh thoảng đích thân lui tới thăm nom, trao đổi và sẵn sàng giúp đỡ họ, vật chất cũng như tinh thần khi cần thiết như dịp lễ tết hay lúc gia đ́nh họ có chuyện vui buồn.

·        Phải ư thức cánh đồng truyền giáo là cả thế giới và phải rao giảng Phúc âm bằng một thứ tiếng nói mọi người đều có thể thông hiểu được, đó là bằng chính cuộc sống chứng tá và hành động đượm nhuần Tin Mừng.

·        Phải tích cực đưa người chưa có đức tin về đoàn chiên Chúa. Nên sống bác ái hơn với lương dân, nhất là những người đau yếu bệnh tật, già cả neo đơn; thăm hỏi họ trong những dịp lễ tết dân tộc, lễ lớn của Hội Thánh để chia sẻ niềm vui với họ, sống đoàn kết yêu thương như với anh em đồng đạo.

·        Phải quan tâm hội nhập văn hoá trong cốt lơi tinh thần chứ không chỉ h́nh thức bên ngoài, để đồng bào dễ dàng đón nhận Tin Mừng và điều chỉnh các giá trị văn hoá cao quí và phong phú của họ theo Tin Mừng. Mời họ tham dự những buổi lễ lớn của ḿnh.

·        Cần có những cuộc gặp gỡ trao đổi với đồng bào; học hỏi và tôn trọng những giá trị truyền thống tốt đẹp của họ và mời họ cộng tác trong các việc bác ái xă hội…

·        Khi có tang, cha xứ có thể lănh đạo hội đoàn đến viếng thăm an ủi, để chia sẻ và cảm thông với họ. Cố gắng xây dựng t́nh liên đới giữa giáo dân của ḿnh với những người không tôn giáo.

·        Luôn đối thoại cởi mở trong sự kính trọng và tin tưởng. Hăy tôn trọng, yêu thương, quan tâm và coi họ như những giáo dân mà ḿnh có bổn phận phải chăm sóc.

·        Nên hiện diện và động viên khi họ gặp những thử thách lớn.

    

C.20.b Những ǵ không nên cư xử, nói và làm

·                 Không sống tách biệt như ốc đảo hay khép kín như pháo đài, mà mở ra với mọi người, không sợ mở cửa cho Chúa Kitô và tha nhân. Phải ư thức về bổn phận truyền giáo của ḿnh để từ đó t́m đến với những tâm hồn đang sống ngoài Giáo hội.

·        Không được dửng dưng hay từ chối những người thiện chí t́m biết về Chúa và Giáo hội, họ có quyền được nghe về Tin Mừng cứu độ của Chúa Kitô.

·        Không được nhạo báng, xúc phạm nghi lễ và tâm t́nh tín ngưỡng tôn giáo, cũng như các tập tục dân gian và việc thờ cúng tổ tiên, ông bà của họ.

·        Không ngăn cản đồng bào tham dự các ngày lễ lớn của giáo xứ, tham gia các sinh hoạt vui chơi giải trí của giáo xứ, và tham gia sinh hoạt các đoàn thể nếu họ có khả năng.

·        Không nên phân biệt đối xử giữa những người công giáo và những người không công giáo. Không nên chỉ làm việc bác ái cho những người công giáo, coi như ḿnh không có bổn phận ǵ hết, thờ ơ, lănh đạm trước những đói khổ, bệnh tật… của anh chị em lương dân. 

 

 

C.21. Tương quan với giới giàu có

C.21.a Những ǵ nên cư xử, nói và làm

·                 Luôn có thái độ quân b́nh trong mọi mối tương quan giữa giàu nghèo để tránh tiếng là cha chỉ chơi với người giàu có. Nên giữ mối quan hệ thân thiện nhưng không để bị tiền của lôi kéo: không săn t́m đại gia để đại gia coi thường lèo lái...

·        Không nên chạy đua với những tiện nghi hiện đại của người giàu: nhà xứ sang trọng với máy điều hoà, giàn nhạc, thiết bị cao cấp... 

·        Cần cẩn thận với những giúp đỡ của người giàu (không ai cho không cái ǵ cả): họ có thể dùng của cải để sai khiến, hoặc mượn uy thế của ta để lũng đoạn, gây ảnh hưởng và lên mặt với người khác. Cần t́m hiểu cách thức làm ăn của họ có ǵ không ổn về đạo lư và luật pháp không, rồi hăy nhận sự tài trợ của họ. 

·        Nên gặp gỡ trao đổi, cổ vơ và khơi gợi ḷng quảng đại của người giàu, kêu mời họ quảng đại tham gia cộng tác trong việc giúp đỡ những người nghèo khó, mồ côi, goá bụa… bằng việc giúp đỡ vật chất và tạo công ăn việc làm… đỡ đầu cho các đoàn hội công giáo tiến hành trong giáo xứ, tham gia hội khuyến học…

 

C.21.b Những ǵ không nên cư xử, nói và làm

·                 Không phân biệt và đối xử quá cách biệt giữa giàu nghèo: quá tôn trọng, lệ thuộc, và đề cao người giàu, trong khi quá quan liêu hạch sách đối với người nghèo. Không nên lui tới, quan tâm và quỵ luỵ thái quá người giàu có, kẻo bị người đời hiểu lầm và người nghèo buồn tủi, bị xúc phạm. 

·                 Không nên chung vốn làm ăn kinh tế với người giầu, rồi v́ tiền và vị nễ mà nhẹ tay trong việc áp dụng luật Chúa và luật Hội Thánh đối với họ. 

·        Không nên đề cao người giầu quá đáng và công khai, dành cho họ qúa nhiều ưu tiên, thiên vị trong các dịp lễ lạy, chỉ v́ những đóng góp của họ, khiến họ tự phụ kiêu căng ỷ của và người nghèo phải tủi thân.

·        Không quá năng viếng thăm người giàu có, trong khi đó lại không bao giờ thăm những người nghèo bên cạnh, kẻo người nghèo nói rằng: “cha chỉ chơi với người giàu, cha tham tiền.v.v.”

·        Không quị lụy đối với những người giàu có. Không nên gần gũi quá với người giàu mà xa cách người nghèo. Không nên để người giàu ảnh hưởng tới việc mục vụ của ḿnh.

 

 

C.22. Tương quan với giới nghèo

C.22.a Những ǵ nên cư xử, nói và làm

·                 Để gần gũi với người nghèo, linh mục cần phải ăn mặc giản dị, sống giản dị để qua đó phản ánh một giá trị Tin Mừng: tự nguyện sống khó nghèo để theo sát Đức Kitô trong mọi lănh vực (nhà ở, phương tiện đi lại, nghỉ ngơi…), hầu dễ gần gũi với đoàn chiên.

·                 Noi gương Đức Kitô vốn giàu có đă tự trở nên nghèo khó v́ chúng ta, dành cho người nghèo những chăm sóc tế nhị của đức ái mục tử; khiêm tốn đứng về phía người nghèo, người bên lề xă hội, người bị áp bức; sẵn ḷng lắng nghe họ để linh mục thực sự là dấu chỉ của t́nh yêu Thiên Chúa đối với họ.

·                 Thương yêu người nghèo khó, túng bần, thấp cổ bé miệng, sa cơ lỡ vận… nhưng đừng khinh rẻ vất của bố thí, mà hăy cung kính đặt vào tay họ: cách cho hơn của cho.

·                 Đừng rẻ rúng người nghèo, người lao động: vồn vă chào đón người giàu có mà chẳng thèm chào hỏi họ. Trái lại, phải thực sự hướng về người nghèo và người thiếu thốn, động viên giáo xứ dấn thân nâng đỡ người nghèo; nhận ra h́nh ảnh Chúa Kitô nơi người nghèo và lắng nghe tiếng kêu của ngài qua tiếng kêu của họ.

·                 Đặc biệt quan tâm thăm hỏi người nghèo trong những dịp lễ tết, giúp đỡ vật chất cũng như tinh thần để họ được an ủi nâng đ và hoà ḿnh với cộng đồng.

·                 Thông cảm chia sẻ và nâng đỡ hoàn cảnh sống của những người nghèo, nhất là điều kiện kinh tế nuôi dạy con cái. Kêu gọi cộng đoàn giáo xứ và những người giầu có chia sẻ gánh nặng cuộc sống với họ. Nhưng tôn trọng quyền lợi và nghĩa vụ của người nghèo trong sinh hoạt giáo xứ. 

·                 Hô hào mọi người dấn thân nâng đỡ người nghèo, các trẻ mồ côi, những người goá bụa…, nhằm giúp cho họ biết tự giúp ḿnh, để họ có thể làm việc nhằm thăng tiến t́nh trạng của họ: “Cho một  người một con cá, người đó chỉ ăn được một bữa; cho một cần câu và dạy y biết câu cá, người đó ăn được cả đời.

·        Phải biết lắng nghe tiếng nói của người nghèo, bênh vực người nghèo, biết cảm thông và chia sẻ, thực sự cởi mở khi đối thoại, tỏ ra là dấu chỉ chữa lành của t́nh yêu Thiên Chúa đối với họ: sống v́ người nghèo, cho người nghèo và với người nghèo “cả trong lời nói và việc làm”.

·        Phải nhận ra h́nh ảnh Chúa Kitô, tiếng nói của Chúa Kitô qua những người nghèo, người bệnh tật, người tội lỗi và kể cả người không tin.

·        Ân cần đón tiếp người nghèo khó, sẵn sàng lắng nghe nhu cầu của những người nghèo, những người bên lề xă hội. Nếu được, nên tổ chức các lớp dạy nghề trong giáo xứ.

·        Yêu thương những người già cả bệnh tật, người nghèo khó, các trẻ mồ côi, những người góa bụa bằng những việc cụ thể.

·        Nên thăm viếng những người nghèo trong xứ, v́ đó là nguồn động viên lớn cho họ trong cuộc sống. Nên dấn thân vào nhiều h́nh thức khác nhau trong công việc nâng đỡ người nghèo: thăm hỏi, động viên, giúp đỡ họ vật chất, tinh thần, và công ăn việc làm.

 

C.22.b Những ǵ không nên cư xử, nói và làm

·        Không được quên bổn phận và trách nhiệm Chúa giao chăm sóc từng con chiên, nhất là những chiên nghèo, chiên lạc.

·        Không phân biệt đối xử: người giàu được kính trọng và năng lui tới, có việc họ mời rất dễ; c̣n người nghèo bị coi khinh, chẳng mấy khi lui tới, có việc mời rất khó, th́ làm sao biết được hoàn cảnh thiếu thốn của họ!

·                 Khi đối thoại vối người nghèo và người giàu, không thiên quá về người giàu, khinh rẻ những người đói rách. Họ sẽ cảm thấy bị rẻ rúng khi thấy linh mục thật vui vẻ với người giàu có, nhưng lại nhăn nhó với người nghèo.

·                 Đừng quên rằng người nghèo chỉ thiếu thốn vật chất (cơm không đủ ăn, áo mặc không đủ ấm, thiếu tiền cho con đi học, thiếu thuốc men khi bệnh tật…), mà c̣n nghèo tinh thần và thiêng liêng.

·        Không dùng những đồ quá sang trọng, làm cho người nghèo hèn không dám lui tới. Không bao giờ làm cho người nghèo sợ không dám đến gặp gỡ cha xứ để tŕnh bày, đối thoại khi họ có nhu cầu. Không nên có những lời nói cộc cằn thô lỗ, so sánh, kẻo người nghèo cảm thấy tủi thân và mặc cảm.

·        Không chê của dâng của người nghèo khó, cho dù không thích hay chẳng đáng là bao, nhưng nó tượng trưng tất cả tấm ḷng và sự lao công cực nhọc của họ.

 

  

 

D.  ỨNG SINH LINH MỤC GIÁO PHẬN  HỌC VÀ SỐNG TƯƠNG QUAN VỚI GIA Đ̀NH

 

Mảnh đất đầu tiên và quan trọng nhất cho ơn gọi là gia đ́nh, được kể như chủng viện đầu tiên ươm mầm và bảo vệ ơn gọi. Người ta nói rằng khi một người con đi tu th́ cả gia đ́nh cũng phải tu, v́ tu là sửa, sửa cái chưa tốt thành cái tốt, sửa cái tốt thành cái tốt hơn nữa và thành thánh nhân. Chúng ta sẽ xét xem những thuận lợi cũng như những khó khăn mà gia đ́nh bà con họ hàng có thể mang lại cho thành viên của gia đ́nh theo ơn gọi linh mục và sống sứ vụ linh mục qua từng giai đoạn của cuộc sống, từ bước khởi đầu cho tới lúc hoàn tất cuộc đời.

 

 

D.I. Những tác động tích cực và tiêu cực của gia đ́nh  đối với việc nuôi dưỡng và chọn lựa ơn gọi linh mục trong thời kỳ tiền chủng viện và đại chủng viện.

  

Công cha như núi thái sơn,
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn xảy ra.

 

Không ai có thể phủ nhận được tầm quan trọng của thân nhân và gia đ́nh trong sự h́nh thành, lớn lên và trưởng thành của một con người. Với một ứng sinh linh mục th́ tầm quan trọng này càng được thấy rơ hơn, v́ trên thực tế, đa phần các linh mục xuất thân từ những gia đ́nh đạo đức và được nâng đỡ bởi những tấm ḷng quảng đại.

 

Gia đ́nh và các thân nhân vừa là trường dạy các đức tính nhân bản cần thiết, vừa là vườn ươm trồng hạt giống ơn gọi, để một ngày kia, khi nghe tiếng Chúa kêu gọi, ứng sinh có đủ khả năng đáp trả và bước theo Ngài.

Tuy nhiên, do sự khác biệt giữa thánh ư Thiên Chúa và nhận định của con người, các gia đ́nh lại trở thành lực cản đối với con người đi t́m thánh ư Thiên Chúa, khiến những ai muốn nghe theo tiếng Chúa phải trải qua đau khổ và thập giá, đôi khi c̣n gặp thất bại và bất hạnh.

 

Để giúp có cái nh́n cụ thể, chúng ta cố gắng tŕnh bày từng điểm tích cực và tiêu cực của gia đ́nh, từ đó rút ra những điều nên làm, những việc phải tránh.

 

D.I.1  Trong thời kỳ tiền chủng viện

D.I.1a Tác động tích cực trên ứng sinh tiền chủng viện

Chuẩn bị cho ơn gọi

Thân nhân và gia đ́nh chuẩn bị những điều kiện cần thiết về nhân bản, tri thức và đức tin như mảnh đất tốt cho hạt giống ơn gọi nẩy nở.

·        Về nhân bản, gia đ́nh là trường học đầu tiên về các đức tính nhân bản, lễ nghi, ứng xử, giúp ứng sinh học được cách thế tương giao với những người xung quanh. Các đức tính thật thà, dũng cảm, lễ phép, vâng lời, tiết kiệm, giản dị, dũng cảm, thinh lặng, đều được khởi sự từ gia đ́nh và trở thành những điều kiện cần thiết cho ứng sinh nhận ra và theo tiếng Chúa kêu gọi.

·        Về tri thức, gia đ́nh cung cấp cho ứng sinh những kiến thức cần thiết về con người, về thế giới và môi trường xung quanh; đồng thời cộng tác với học đường giúp ứng sinh học tập văn hóa, trưởng thành về trí tuệ, có khả năng nghiên cứu, t́m hiểu, nhận định, phân tích những chân lư trong thế giới tự nhiên, làm nền tảng cho việc học biết về thế giới siêu nhiên trong thời gian đại chủng viện.

·        Về giáo dục đức tin, gia đ́nh đóng góp vào việc nuôi dưỡng ơn gọi bằng việc giáo dục đức tin. Ngày rửa tội, cha mẹ và người đỡ đầu là những người tuyên xưng đức tin và thề hứa sẽ nuôi dưỡng con trong đức tin: ngày qua ngày, những giờ kinh tối sớm, đời sống đạo đức và chăm chỉ trong việc thờ phượng Chúa của cha mẹ là những bài học giúp ứng sinh lớn mạnh trong ḷng mến Chúa và yêu người.

 

Vun trồng cho ơn gọi

Kể từ khi lựa chọn ơn gọi, gia đ́nh là chỗ dựa vững chắc nhất cho ứng sinh trong việc sinh sống, học tập và tu luyện thời tiền chủng viện.

·        Là tế bào của xă hội và Giáo Hội, gia đ́nh là vườn ươm giống cho cây đời, thân nhân là những kỹ sư lành nghề vun xới, cắt tỉa cho cây ngày càng phát triển tươi tốt và trổ sinh những hoa trái thơm ngon. Nhờ đó, ứng sinh ngày một tăng tiến hơn cả về nhân bản lẫn đạo đức.

 

Ǵn giữ ơn gọi

 

D.I.1b. Tác động tiêu cực lên ứng sinh tiền chủng viện

 

 

 

D.I.2. Trong thời gian học tại Đại chủng viện

D.I.2a. Những tác động tích cực

 

D.I.2b. Những tác động tiêu cực

 

D.I.3. Những việc nên làm và điều nên tránh

D.I.3a. Những việc nên làm

Về phía thân nhân và gia đ́nh

“Nuôi con buôn bán tảo tần
Chỉ mong con lớn nên thân với đời
Những khi trái nắng trở trời
Con đau là mẹ đứng ngồi không yên
Trọn đời vất vả triền miên
Chạy lo bát gạo đồng tiền nuôi con”.

 

Về phía ứng sinh 

 

D.I.3b. Những điều nên tránh

Về phía thân nhân và gia đ́nh

 

Về phía ứng sinh 

 

Những ư tưởng tŕnh bày trên đây bao gồm những đúc kết chủ quan mang tính hồi tưởng về những điểm tích cực và tiêu cực của gia đ́nh, bà con với ơn gọi của các ứng sinh linh mục và một vài kiến nghị để góp phần đào tạo và tự đào tạo ơn gọi linh mục, không phải là những nguyên tắc phải theo, càng không phải là giải pháp tối ưu dành cho hết mọi người, mọi gia đ́nh. Có chăng chỉ là một thực tế rằng gia đ́nh là nơi ơn gọi được sinh ra và nuôi dưỡng, nhất là giai đoạn tiền chủng viện và chủng viện.

 

Xin được mượn lời của Thánh Công Đồng chung trong sắc lệnh về đào tạo linh mục: “Toàn thể cộng đoàn kitô hữu có bổn phận cổ vơ ơn thiên triệu, mà trước hết phải tiến hành nghĩa vụ ấy bằng một đời sống kitô hữu trọn vẹn; các gia đ́nh và các giáo xứ góp phần quan trọng vào việc đó; những gia đ́nh sống tinh thần đức tin, đức mến và đạo hạnh trở nên như chủng viện sơ khởi[88]

 

  

 

D. II. Những hỗ trợ và khó khăn gia đ́nh có thể mang lại cho linh mục trong thời gian sung sức thi hành sứ vụ mục vụ.

 

Ở Á đông, nhất là tại Việt Nam, những quan hệ t́nh cảm gia đ́nh và bà con có một giá trị rất quan trọng đối với mỗi người. Thông thường, đó là một trợ lực tự nhiên về nhiều mặt, nhưng bên cạnh đó cũng có nhiều khó khăn. Trong sứ vụ mục vụ hàng ngày, linh mục có biết bao những t́nh cảm cao đẹp, đáng trân trọng. Một trong những t́nh cảm thiêng liêng sáng ngời, vô cùng thâm thúy mà linh mục thường khắc ghi trong ḷng là những hỗ trợ t́nh thương, tinh thần và kinh tế của cha mẹ và anh chị em trong gia đ́nh. Tuy nhiên, bên cạnh những hỗ trợ tích cực đó, linh mục cũng gặp không ít khó khăn khi phải trực diện với chính gia đ́nh và bà con của ḿnh.

 

D.II.1. Những hỗ trợ từ phía gia đ́nh bà con

Linh mục được chọn gọi giữa muôn người là để sống cho và sống v́ người khác, nên linh mục trở thành người của muôn người, là nhịp cầu trung gian để giúp người khác gặp nhau và dẫn đưa họ đến với Chúa. Để chu toàn trọng trách Thiên Chúa và Giáo Hội kư thác, ngoài ơn Chúa và sự giúp đỡ của tha nhân, linh mục cũng cần tới giúp đỡ của những người thân trong gia đ́nh nữa.

 

D.II.1a. Về phương diện tinh thần

·        Gia đ́nh có người thành đạt là niềm tự hào không chỉ cho đương sự, nhưng c̣n cho cả những người thân, nhất là ông bà cố, v́ từ đây, trong mắt mọi người những người trong gia đ́nh của linh mục là những người được trân trọng và kính nể…

·        Nhưng gia đ́nh nào có người đi tu th́ cả gia đ́nh ấy cũng phải tu luôn, v́ nếu được người khác trân trọng, kính nể, th́ cũng phải có những nghĩa vụ kèm theo, là phải sống sao cho xứng đáng về luân lư, nhân bản, xă hội, cách ứng xử trong lời ăn tiếng nói, đặc biệt là đời sống tôn giáo. Nếu không, linh mục sẽ mất uy tín trong việc giảng dạy, và việc mục vụ sẽ đem lại ít hiệu quả v́ những lời gièm pha, bàn tán đại loại như: dao sắc không gọt được chuôi; hỡi thầy thuốc hăy chữa ḿnh trước…

·        Theo văn hoá Á Đông, người con đi làm ăn xa được mọi người trong gia đ́nh luôn hướng tới; người con linh mục của gia đ́nh cũng sẽ được mọi người cầu nguyện cho nhiều hơn, đặc biệt hơn với hy vọng ngài có thể hoàn thành bổn phận một cách tốt đẹp nhất.

·        Gia đ́nh có thể nâng đỡ bằng lời cầu nguyện, động viên, khích lệ linh mục, nói cho linh mục biết sự thật tốt xấu về linh mục và việc linh mục đang làm, cảnh báo cho linh mục trước những thách thức và khó khăn, hay những nguy cơ có thể xảy ra.

·        Mỗi khi quá căng thẳng, gia đ́nh là nơi linh mục có thể trở về và sống thật nhất với con người của ḿnh mà không phải chịu những áp lực xung quanh, có thể t́m lại được sự quân b́nh trong bầu khí đầm ấm thương yêu của gia đ́nh.

·        Nhờ được đào luyện kỷ trong nhà trường và quan sát những thành công hay thất bại của người đi trước, linh mục trẻ sẽ đem hết khả năng, sức lực của ḿnh để biến những ước mơ thành hiện thực.

·        Một lợi điểm của linh mục Công Giáo là độc thân, nên có thể tận hiến, gần gũi với hết mọi người, mọi nơi, mọi lúc. Đó cũng là lư do để mọi người dễ gần gũi, quí mến, chia sẻ, động viên quan tâm cả về tinh thần lẫm vật chất.

·        Được nhiều người chia sẻ và thông cảm về những khó khăn cũng như thuận lợi trong bước đường mục vụ, linh mục có thể cảm nhận được sâu xa t́nh Chúa và t́nh người, từ đó lại càng đ̣i hỏi ḿnh phải sống tốt và gương mẫu hơn.

·        Nếu trong cuộc “làm dâu trăm họ” có bị hiểu lầm, chống đối th́ gia đ́nh và người thân sẽ là chỗ dựa và là nguồn động viên an ủi rất lớn. 

·        Nếp sống, lối giáo dục, những thành công hay thất bại trong gia đ́nh sẽ giúp cho linh mục kinh nghiệm và phương pháp tổ chức giáo xứ thành một gia đ́nh.

·        Những tương quan t́nh thân trong đại gia đ́nh giúp linh mục kinh nghiệm xây dựng những tương quan tốt đẹp trong giáo xứ, đồng thời biết khắc phục những xung đột trong các mối tương quan ấy.

·        Người thân có thể giúp linh mục trong các sinh hoạt hằng ngày như nấu ăn, giặt rũ, dọn dẹp… Sự gần gũi của người thân sẽ như là hàng rào bảo vệ giúp linh mục tránh được những nguy cơ sa ngă, đặc biệt là về t́nh cảm trong tương quan với người khác giới.

             

D.II.1b. Về phương diện vật chất

·        Chúa Giê-su đă nói: thợ th́ đáng hưởng công, các linh mục được sự trợ giúp của cộng đoàn để yên tâm phục vụ và đem lại hiệu quả cao trong công tác. Tuy nhiên, chúng ta cũng không thể không kể những đóng góp từ phía gia đ́nh của linh mục:

·        Quăng thời gian khá dài vun trồng ơn gọi đ̣i hỏi nhiều sự hy sinh đóng góp từ phía gia đ́nh và những người thân để cung cấp mọi thứ cần thiết cho ứng sinh.

·        Kế đến, khi đă làm linh mục, linh mục trẻ thường phải đi giúp xứ từ một đến hai năm: công việc chưa ổn định, thiếu phương tiện đi lại, kinh tế để xây dựng đoàn hội, con người và đôi khi cả việc xây dựng cơ sở vật chất th́ chỗ cậy dựa đầu tiên có thể là từ phía gia đ́nh hoặc những người thân.

 

D.II.2. Những khó khăn

D.II.2a. Khó khăn từ phía gia đ́nh

·        Khó khăn trước nhất là đời sống thiếu gương mẫu của cha mẹ làm cản trở sứ vụ của linh mục: “Gia đ́nh đó có con làm linh mục mà c̣n làm thế huống chi là chúng ta!” Thế nên người ta thường nói một người đi tu th́ cả nhà phải tu theo.

·        Trong một thế giới mà công nghệ thông tin đa cực như thời đại hôm nay th́ chỉ cần mấy phút là mọi thông tin có thể chuyển từ bên kia đại dương sang bên này đại dương: nếu cha mẹ có tiếng xấu ǵ th́ công việc của linh mục cũng bị ảnh hưởng rất nhiều.

·        Linh mục là người dạy người ta sống tốt, sống yêu thương, sống hiệp nhất…, thế mà nếu ngay trong gia đ́nh, họ hàng linh mục không bảo được nhau th́ linh mục đó có giảng dạy hay đến đâu th́ người ta vẫn cho là lư thuyết mà thôi: ông hăy về mà dạy bảo gia đ́nh bà con ông trước đă rồi hăy đi dạy bảo thiên hạ.

·        Từ tư tưởng “một người làm quan cả họ được nhờ,” nhiều khi linh mục gặp không ít phiền phức từ phía những người thân. Thực tế cho thấy đă có nhiều ông bà cố đ̣i hỏi thái quá làm cản trở công việc mục vụ của chính con ḿnh, thậm chí gây áp lực, can thiệp vào việc điều hành giáo xứ qua ảnh hưởng của con ḿnh…

·        Gặp khi gia đ́nh bà con quá nghèo khổ, bố mẹ hay anh chị em ốm đau bệnh tật không đủ tiền chạy chữa, linh mục không thể nào mà không quan tâm đến, liên quan đến đạo hiếu của con người Việt Nam: Gia đ́nh không ổn th́ linh mục không yên tâm làm việc.

·        Việc gia đ́nh bấu víu linh mục về kinh tế sẽ gây nên khó khăn cho linh mục trong việc xây dựng, tổ chức giáo xứ. Nếu không cẩn thận, linh mục bị mang tiếng là kiếm tiền đem về cho gia đ́nh, nhất là nơi linh mục phục vụ cũng khó khăn về kinh tế.

 

·        Nếu gia đ́nh đ̣i hỏi sự ưu tiên về chữ hiếu, t́nh thương, t́nh cảm, đồng thời bảo vệ cách thái quá trong những vấn đề nhạy cảm th́ cũng ảnh hưởng không nhỏ tới công việc mục vụ của linh mục.

·        Trong khi thi hành bổn phận có liên quan đến giáo luật, mục vụ... linh mục rất khó xử khi vụ việc có liên quan đến gia đ́nh. Nếu gia đ́nh sống đạo không gương mẫu, thiếu công bằng, bác ái… th́ chắc chắn sẽ ảnh hưởng tới linh mục: Giải quyết cũng khó mà không giải quyết cũng khó.

·        Nếu v́ công việc của giáo xứ mà linh mục không về với gia đ́nh được th́ bị gia đ́nh trách móc, c̣n nếu bỏ công việc của giáo xứ mà về với gia đ́nh th́ cũng sẽ bị những người trong giáo xứ kêu ca, thật là lưỡng nan và khổ tâm.

·        Đời sống và sứ vụ của linh mục không phải lúc nào cũng thành công, thuận lợi mà có nhiều lúc gặp khó khăn, thất bại và bị hiểu lầm. Nếu trong những hoàn cảnh khó khăn như vậy mà gia đ́nh không thấu hiểu, nâng đỡ, động viên, khích lệ lại chê trách th́ linh mục sẽ bị suy sụp tinh thần và rất đau khổ.

·        Chính Đức Giêsu bảo:“ngôn sứ có bị rẻ rúng, th́ cũng chỉ là ở chính quê hương ḿnh, hay giữa đám bà con thân thuộc và trong gia đ́nh ḿnh thôi” (Mc 6,4).

 

D.II.2b. Khó khăn từ phía anh chị em, bà con

·        Mỗi cây mỗi hoa, mỗi nhà mỗi cảnh, hay cha mẹ sinh con trời sinh tính. Anh chị em trong gia đ́nh của linh mục không phải ai cũng “thuần tính” hay đạo đức, mà cũng có kẻ ngang ngạnh, rượu chè, nghiện ngập… Nhất là khi giáo xứ ḿnh coi sóc lại biết rơ những người ấy. Điều này đă gây trở ngại không nhỏ cho vấn đề rao giảng Tin Mừng cũng như đời sống chứng tá của linh mục.

·        Bà con ỷ lại, cho rằng ḿnh đă biết rơ linh mục “sinh ra và lớn lên ở đây”… nên nhiều khi “coi thường” hay phản kháng tiêu cực, hoặc đ̣i hỏi linh mục “phải” đóng góp cho quê hương: “làm phúc nơi nào mà để quê hương rách nát.”

·        Bất cứ việc ǵ cũng đưa đến xin ư kiến hay nhờ linh mục can thiệp giải quyết giúp.

·        Bà con đến thăm ở lại nhiều quá, có khi c̣n xin cái này, cái kia cũng làm cho linh mục khó xử, bị nghi ngờ lấy của cải của giáo xứ để giúp bà con.

 

D.II.3. Một Định Hướng

Linh mục là người được Thiên Chúa thánh hiến dành riêng để thờ phượng, ca ngợi, cảm tạ Thiên Chúa và phục vụ các linh hồn. Linh mục phục vụ giáo dân bằng t́nh thương yêu và b́nh an của Thiên Chúa. Bởi vậy, khi giảng dạy về t́nh yêu thương cho người khác th́ chính linh mục phải có t́nh yêu và b́nh an. Khi ban b́nh an cho dân chúng, linh mục phải có đời sống b́nh an. V́ thế, để khỏi điều ǵ không tốt từ phía gia đ́nh mang lại, linh mục cần:

·     Tránh việc gia đ́nh can thiệp vào việc mục vụ của ḿnh

·     Nâng đỡ chăm sóc gia đ́nh họ hàng thân thuộc theo đúng giới răn Chúa và luật Giáo hội dạy.

·     Sống tương quan tốt với gia đ́nh và bà con thân thuộc phần nào giúp linh mục chu toàn trách nhiệm chăm sóc các linh hồn.

 

Như vây gia đ́nh có thể mang lại nhiều lợi ích cho đời sống, nhưng cũng mang đến cho linh mục nhiều khó khăn cản trở công việc mục vụ. Gia đ́nh đạo đức hạnh phúc sẽ giúp nhiều thuận lợi cho công việc rao giảng Tin mừng và đời sống mục vụ, nhưng nếu gia đ́nh có đời sống không tốt sẽ gây nhiều khó khăn và cản trở cho công việc của linh mục. Linh mục cần dung hoà đời sống chung và tư, nhưng phải ưu tiên cho các linh hồn.

 

Tuy nhiên, chúng ta cũng không nên quá đặt nặng vấn đề ảnh hưởng của gia đ́nh trên đời sống tu tŕ và sứ vụ, điều quan trọng là “chân tu” và sống xứng đáng với thiên chức đă được Chúa trao phó. Khi linh mục sống đúng với phẩm giá và ơn gọi của ḿnh là làm theo thánh ư Chúa, phục vụ các linh hồn và gương mẫu cho giáo dân th́ sẽ được giáo dân quí mến, cộng tác giúp đỡ trong các công việc của sứ vụ mà không để ư đến gia đ́nh của cha xứ như thế nào: Điều mà giáo dân quan tâm không phải là gia đ́nh của linh mục mà là chính linh mục.

 

Nhóm đă cố gắng rút tỉa từ những quan sát, nhận định từ cuộc sống thực tế và tŕnh bày một cách khách quan nhằm đóng góp một cái nh́n khá sát thực tế. Hy vọng từ những đóng góp nhỏ nhoi này sẽ giúp ích cho những người quan tâm đến đời sống và sứ vụ linh mục, đặc biệt là những ứng sinh linh mục như một bước đệm hay nhân tố kích thích để đi t́m hiểu, quan sát, đánh giá và đưa ra được những cái nh́n sâu sắc hơn.

 

Chúng ta phải nh́n nhận rằng một số gia đ́nh đôi khi cũng là những ngáng trở cho công tác mục vụ của linh mục, song những đóng góp từ phía gia đ́nh cũng không nhỏ: có thể sánh ví sứ vụ linh mục như tiền tuyến và gia đ́nh như hậu phương. Tiền tuyến chỉ có thể yên tâm hoàn thành nhiệm vụ khi có hậu phương vững chắc hậu thuẫn.

 

Là những ứng sinh linh mục tương lai, chúng ta không thể coi nhẹ gia đ́nh viện cớ rằng đi tu là phải từ bỏ. Trái lại, nếu muốn sứ vụ linh mục tương lai của ḿnh đem lại những kết quả như mong muốn, chúng ta phải sống cho thật tốt tư cách người con trong gia đ́nh: đi tu nhưng chúng ta không được miễn trừ bổn phận sống chữ hiếu của kẻ làm con, nếu chúng ta nghĩ và làm được như thế th́ gia đ́nh sẽ biết làm tốt phần của họ.

 

 

D.III. Những hỗ trợ và khó khăn gia đ́nh có thể mang lại cho linh mục trong thời gian gặp thử thách, đau ốm và yếu đuối.

 

Ngày nay, đời sống linh mục gặp rất nhiều khó khăn do khủng hoảng căn tính linh mục, cũng như do ảnh hưởng của xă hội bị tục hoá và hưởng thụ. T́nh trạng lạm dụng t́nh dục đă làm ảnh hưởng tới uy tín của Giáo hội nói chung và cách riêng hàng linh mục. Nhóm xin tŕnh bày những hỗ trợ và khó khăn mà gia đ́nh, bà con có thể mang lại cho linh mục trong thời gian thử thách, đau ốm và yếu đuối, v́ ngoài ơn Chúa nâng đỡ, gia đ́nh và bà con anh chị em cũng đóng một vai tṛ quan trọng cho đời sống và sứ vụ của linh mục, v́ lời cầu nguyện và đời sống gương mẫu của gia đ́nh là chỗ dựa tinh thần vững chắc cho linh mục.

 

D.III.1. Những hỗ trợ từ phía gia đ́nh

D.III.1a. Khi linh mục gặp thử thách

·        Khi linh mục gặp phải những khó khăn trong công việc mục vụ hoặc trong tương quan với bề trên và anh em, gia đ́nh  vừa là người ngoài cuộc có cái nh́n khách quan, vừa là  người thân cận luôn muốn điều tốt cho linh mục, sẽ có những phân tích, nhận xét và góp ư một cách chân thành cho linh mục dễ dàng hơn.

·        Không người nào có thể gần gũi, hiểu biết và cảm thông với linh mục hơn là gia đ́nh, v́ thế, linh mục cũng dễ dàng tin tưởng và đón nhận những góp ư của gia đ́nh ḿnh hơn.

·        Khi bị hiểu lầm, con người dễ cảm thấy chán nản, bị cám dỗ thoái chí, ù ĺ, muốn buông xuôi. Lúc này, gia đ́nh là nơi để linh mục có thể giăi bày, chia sẻ để bớt căng thẳng.

·        Người thân với những lời khuyên tích cực là nguồn động viên để linh mục thêm can đảm và kiên nhẫn giải quyết vấn đề.

·        Đôi khi, v́ danh dự của gia đ́nh, mà linh mục sẽ cố gắng sống tốt hơn, vượt lên mọi khó khăn thử thách.

 

D.III.1b. Khi linh mục bị đau ốm

  

 

D.III.1c. Khi linh mục yếu đuối hoặc sa ngă

 

D.III.2. Những khó khăn từ phía gia đ́nh

D.III.2a. Khi linh mục gặp thử thách

 

D.III.2b. Khi linh mục bị đau ốm

 

D.III.2c. Khi linh mục yếu đuối hoặc sa ngă

 

 

Có thể có hai cảnh trái nghịch: gia đ́nh là chỗ dựa tinh thần tốt nhất cho linh mục, nhất là những khi gặp thử thách, đau ốm hoặc yếu đuối sa ngă, nhưng gia đ́nh cũng có thể gây ra cho linh mục những khó khăn riêng.

 

Ngoài ơn Chúa trợ giúp, linh mục cũng rất cần lời cầu nguyện, sự cảm thông nâng đỡ và chia sẻ từ phía gia đ́nh. Muốn được thế, linh mục cần sống tốt mối tương quan với cha mẹ, anh chị em thân thuộc. Mọi người phải ư thức rằng làm linh mục không phải để thu quén cho gia đ́nh, nhưng là để hiến thân phụng sự Chúa và phục vụ mọi người.

 

Cộng đồng giáo xứ là gia đ́nh thiêng liêng của linh mục. Nếu có được mối tương quan hài ḥa giữa hai gia đ́nh này, gia đ́nh máu mủ và gia đ́nh giáo xứ của linh mục th́ tốt đẹp biết bao nhiêu cho đời sống và sứ vụ của linh mục trong mọi cảnh ngộ.

 

 

D.IV. Những hỗ trợ và khó khăn gia đ́nh có thể mang lại cho linh mục trong thời gian tuổi già, hưu dưỡng,  lâm chung và sau khi đă qua đời.

  

Kinh Thánh nói tuổi già là khôn ngoan và đáng kính trọng, nhưng đối với thời đại phát triển không ngừng về mọi phương diện khoa học kỹ thuật và cả quan niệm sống, th́ người già được coi như lạc hậu và là cái thắng làm cho xă hội chậm phát triển. Linh mục khi đến tuổi già hưu, tâm hồn có thể đạt đến mức hoàn thiện của cuộc đời dâng hiến, nhưng thể xác th́ trở nên già cổi và đang tiến gần về với ḷng đất. Lúc tuổi già và bệnh tật đau yếu bắt đầu xuất hiện, không thể đáp ứng được cho nhu cầu phục vụ, th́ uy tín linh mục có thể bắt đầu giảm, giáo dân bắt đầu chê bai, khiến ngài cảm thấy như dư thừa, người ta không cần ḿnh nữa, v́ tuổi già xế bóng, đường đi dưới thế gần cùng gần hết, và ḿnh như đă hết thời, bị bỏ rơi, cô đơn lạc lơng trong cuộc đời, không c̣n phục vụ trong cộng đoàn giáo xứ nên cũng không c̣n được sự chăm sóc của cộng đoàn giáo xứ.

 

Cả cuộc đời dấn thân phục vụ không biết bao con người, bao nhiêu giáo xứ, nhưng lúc về hưu th́ hầu như không có ai đoái hoài tới người đă tận t́nh phục vụ họ suốt bao năm. Lúc này trở về với cuộc sống cô đơn một ḿnh, ngài rất cần đến sự chăm sóc của mọi người, nhưng hỏi ai có thể sẵn sàng? Khi cây đèn dầu đă cạn, không c̣n đủ sức chiếu sáng, mấy ai c̣n muốn sử dụng? Phải chăng chỉ c̣n trông vào gia đ́nh, con cháu ? 

 

D.IV.1. Những hỗ trợ do gia đ́nh, bà con cho linh mục

D.IV.1a. Trong thời gian tuổi già:

·        Nếu không có nhà hưu dưỡng chung, nơi đâu các ngài có thể đi về ngoài tổ ấm yêu thương gia đ́nh, để cảm nhận được an toàn và b́nh an? «rách lành đùm bọc dở hay đỡ đần» để chuẩn bị cho cuộc ra đi lần cuối.

·        Linh mục tuy sống cuộc đời dâng hiến phụng sự Thiên Chúa và tha nhân nhưng khi về già và hưu dưỡng cũng không khỏi có những hụt hẫng và cô đơn. Chính lúc này gia đ́nh và những người thân nên đón nhận cha già với tấm ḷng chân thành và yêu mến, đồng hành và khích lệ ngài, để ngài tiếp tục sứ mạng c̣n lại của cuộc đời dâng hiến.

·        Bệnh tật và yếu đau không thể tránh được, nếu linh mục được gia đ́nh tận t́nh chăm sóc, nâng đỡ, sẻ chia những khó khăn và đau đớn của bệnh tật, th́ ngài sẽ yên tâm bớt đi cảm giác cô đơn và bị bỏ rơi trong tuổi già.

·        Quan tâm động viên, khích lệ, cổ vũ, để cha già lạc quan tin tưởng tiếp tục hoàn thành tốt sứ vụ của ḿnh trong những năm cuối đời.

·        Giúp đỡ, hỗ trợ cả về vật chất và tinh thần, chăm sóc, thăm hỏi, thuốc thang khi ốm đau giúp cha già vơi đi nỗi đau thể xác cũng như tinh thần của tuổi già bệnh tật. 

·        Tổ chức các dịp kỷ niệm như mừng kim khánh, bổn mạng... để vừa tôn vinh công trạng của các ngài vừa để tỏ sự quan tâm, gần gũi của gia tộc.

·        Việc thăm nom của con cháu giúp cha già vơi bớt sự tự ti v́ tuổi già vô ích, vô tích sự, là gánh nặng cho con cháu, và để cho ngài thấy được rằng ngài vẫn là chỗ dựa tinh thần cho đời sống đức tin của con cháu.

·        Việc có người thân lo cơm nước, hoặc luôn ở bên cạnh giai đoạn này thật là ư nghĩa, đóng vai tṛ như chỗ dựa vững chắc giúp các ngài vui vẻ tuổi già.

·        Nhớ nhắc cha già viết và gửi gắm chúc thư cho cẩn thận. Nên gửi cho Ṭa Giám mục một bản.

 

D.IV.1b. Trong thời gian hưu dưỡng

 

D.IV.1c. Trong thời gian lâm chung

·        Quy luật tự nhiên của cuộc đời là sinh lăo bệnh tử. Có sinh ra là có chết đi, thế nhưng đứng trước cái chết, cha già cũng cảm thấy hăi sợ, mặc dù đă xác tín rằng chết là cửa ngơ bước vào một đời sống mới, đời sống ngập tràn hạnh phúc cùng Thiên Chúa, Đấng mà ngài đă từng phụng sự và đặt niềm hy vọng.

·        Trước khi chia tay giă từ cuộc đời ra đi trở về với Đấng mà cả cuộc đời cha già đă dấn thân phụng sự, ngài cũng thấy bàng hoàng lo âu. Chính trong lúc này, sự hiện diện của gia đ́nh và những người thân là nguồn động viên và khích lệ lớn lao, làm cho tâm hồn cha già được an ủi, giúp ngài đón nhận t́nh yêu và ân sủng của Chúa để ngang qua cái chết, ra đi trong an b́nh của Thiên Chúa.

 

D.IV.1d. Thời gian sau khi qua đời:

 

D.IV.2. Những khó khăn do gia đ́nh gây ra cho linh mục

D.IV.2a. Trong thời gian tuổi già:

 

D.IV.2b. Trong thời gian hưu dưỡng:

 

D.IV.2c. Trong thời gian lâm chung:

 

D.IV.2d. Trong thời gian sau khi qua đời:

Trên đây chỉ phác họa đôi nét về cái được và cái chưa được của cuộc đời linh mục, giúp ứng sinh có cái nh́n căn bản để biết cách sống thế nào với gia đ́nh và những người thân trong cuộc đời dâng hiến đang đi; đồng thời cũng có cái nh́n đúng đắn về vai tṛ của gia đ́nh và những người thân trong đời sống dâng hiến của ḿnh, từ đó can đảm và an tâm tiếp bước trên con đường dâng hiến để phụng vụ Chúa và tha nhân trong nhiệt t́nh và yêu thương.

 

  

 

BÀI ĐỌC THÊM

 

TỔ ẤM HOÀNG HÔN

Nhiều Giáo phận có nhà hưu dưỡng tại Giáo phận, ngay trong khu vực Ṭa Giám mục hoặc một nơi riêng biệt, cho các linh mục lớn tuổi hoặc bệnh hoạn không c̣n làm việc được nữa sống những ngày cuối đời, chờ đợi Chúa gọi về. Nhưng cũng có những Giáo phận chưa có nhà hưu dưỡng dành riêng cho linh mục và để các linh mục tự lo liệu lấy. Có những Giáo phận có nhà hưu dưỡng, nhưng để các linh mục được tự do hưu ở nhà hưu của giáo phận hay ở đâu có thể tiếp nhận họ, hoặc ở với bà con cháu chắt. 

Phần đông nhà hưu dưỡng giáo phận yêu cầu các cha hưu phải đóng góp bằng cách dâng lễ, nhưng chế độ chăm sóc không rơ ràng và chu đáo, tiêu chuẩn cấp dưỡng thấp và quá chặt chẽ. Các cha già và bệnh tật thường phải theo chế độ ăn kiêng, hoặc do thời tiết và bệnh hoạn không ăn được những thứ dọn ra, nhưng người phục vụ không có điều kiện để thay thế, khiến các ngài phải chịu thiếu thốn, đói khát, tủi thân, đâm ra tiếc nuối, hụt hẫng…, nhất là các vị lúc đương làm việc có những điều kiện sống cao và thoải mái hơn: cực trước sướng sau th́ sướng hơn, nhưng sướng trước cực sau th́ cái cực càng nặng nề! Đây cũng là một lư do khiến các cha già ngại hưu ở nhà hưu chung. 

Tại một số giáo phận, khi một cha hưu chết, giáo phận sẽ cho ḥm chôn, c̣n các chi phí dịp an táng th́ gia đ́nh phải chịu. Do đó, nếu không c̣n gia đ́nh hoặc gia đ́nh quá nghèo, cha già phải dè sẻn dành dụm trước cho khoản này, không dám cả ăn uống thuốc men khi c̣n thấy chịu đựng được. Ngược lại, có một ít cha để dành và di chúc lại cả tiền xe cộ và ăn uống cho các bổn đạo cũ đi đưa đám ḿnh! 

Ngoài ra, do điều kiện tuổi tác và sức khỏe, có những vị cần được chăm sóc đặc biệt (d́u dắt, bợ đỡ, lau chùi, đấm bóp và vệ sinh thân thể), mà nhân viên nhà hưu dưỡng không thể đảm đang nổi. Các vị có bà con cháu chắt có điều kiện kinh tế và thời gian th́ đến ở với để chăm sóc. Các vị không có bà con cháu chắt th́ phải bỏ tiền ra thuê người đến ở phục vụ. Nhưng gặp vị nghèo khó chẳng có ǵ để bồi dưỡng hay thuê người giúp, chỉ trông vào “người đi qua kẻ đi lại” th́ thật đáng thương. Nhân viên phục vụ ít, lại nhiều công việc, nên chỉ dành cho các vị hưu dưỡng sự phục vụ theo tiêu chuẩn chung và theo lượt. Từ hoàn cảnh này, nhiều vị rất tội nghiệp là từ thân thể và pḥng ở của các vị xông mùi hôi hám. Có vị v́ phải nằm lâu một bề nên bị lỡ loét đau đớn lắm. Đó cũng là một lư do nữa khiến các cha ngại về nhà hưu chung. Và đă có vị chết ở trong pḥng chẳng ai hay, và cũng chẳng biết chúc thư để ở đâu. V́ thế Giáo Hội khôn ngoan yêu cầu mỗi linh mục phải viết và để một bản chúc thư ở Ṭa Giám Mục. 

Nhưng trường hợp những vị có con cháu hay thuê người tới ở lại chăm sóc lại nảy sinh vấn đề khác: thường nhà hưu chỉ dành cho mỗi cha hưu một pḥng khép kín với các công tŕnh phụ cần thiết. Nay người giúp cũng ở và làm mọi sự trong đó, suốt ngày đêm; và nếu đó lại là người nữ th́ rất bất tiện, khó coi và có khi nguy hiểm nữa. Chúng ta đi tu, tận hiến đời ḿnh cho Chúa, cho Giáo Hội và các linh hồn, nhưng chúng ta vẫn không thôi là con người. Nhiều người trêu nhau: “trâu già mà sừng không già” hay "già chưa đều".

Do những hoàn cảnh ấy, có một số linh mục không đủ tinh thần từ bỏ và phó thác như thân phận Chúa Giêsu “con chim có tổ, con chồn có hang, Con Người không nơi tựa đầu”, mà lại có đôi chút phương tiện nên pḥng xa thủ lại một số tiền hay xây dựng nhà cửa để hưu sau này. Từ đó sinh ra keo kiệt và quá đ̣i hỏi giáo dân trong vấn đề lễ lạy, bí tích và phân biệt đối xử, trọng giàu khinh nghèo! Chủ chăn mà làm khó dễ quá cho giáo dân trong vấn đề lănh nhận các bí tích sẽ gây nên một hậu quả ngược lại rất tai hại, là đẩy họ ra khỏi Giáo Hội... Những người làm như thế phải nghĩ đến lúc phải trả lẽ nặng với lương tâm thức tỉnh của ḿnh và với Chúa. Có những vị “dại” xây nhà tại nơi ḿnh phục vụ, gây nhiều phiền phức cho người kế nhiệm và giáo dân, và cuối cùng cũng chẳng được ở! Những vị “khôn hơn” đầu tư xây nhà cửa cho ông bà cố và dành những căn pḥng tiện nghi cho ḿnh hưu sau này.

Qua những bất tiện đó, có những Giáo phận đưa ra các biện pháp: Không cho hưu tại giáo xứ đă làm việc; ai hưu  tại nhà hưu dưỡng giáo phận th́ giáo phận đài thọ phần lớn và cha hưu dâng một số ư lễ; c̣n ai hưu tại nhà riêng th́ phải tự túc hoàn toàn. Có một giáo phận kia xin được Ṭa Thánh và vận động giáo dân trong và ngoài nước lập nên một quỷ hưu khá lớn do một Ủy ban đặc trách làm lợi thêm. Giáo phận ấy đă đài thọ trọn gói cho các cha hưu tại nhà hưu của giáo phận, và đài thọ hai triệu đồng cho các cha hưu tại trụ sở của giáo phận gốc, c̣n tất cả các cha đang làm mục vụ được giúp khám sức khỏe tổng quát hằng năm, và ai bị bệnh được giúp tới mức tối đa ba mươi triệu. 

Nếu tất cả các giáo phận đặc biệt quan tâm, học hỏi lẫn nhau và giúp nhau tổ chức những nhà hưu dưỡng thật hẳn hoi, để chăm lo tốt cho các cha sau thời gian phục vụ đầy công lao vất vả, không những phần vật chất, mà nhất là phần tinh thần. Các cha hưu sống thành cộng đồng huynh đệ trong vui tươi, an b́nh, hạnh phúc, tin yêu, tín thác cho Chúa và Giáo Hội, nêu gương cho đàn em, và cũng là hậu phương cầu nguyện cho đàn em trên cánh đồng truyền giáo và dưỡng giáo. C̣n các linh mục đang làm mục vụ cũng được an tâm về tương lai tuổi già của ḿnh, chẳng cần suy tính pḥng xa tích trử ǵ cả, một mực hết ḷng cống hiến cho đoàn chiên, và có thể góp phần với giáo phận trong việc xây dựng, trang bị và bảo tŕ nhà hưu dưỡng chung. Được vậy th́ siêu nhiên và tốt đẹp biết bao!

Nhưng đối với các nhà hưu dưỡng chung cho các cha như thế, xin đề nghị các vị hữu trách liệu làm sao có đủ nhân viên phục vụ được huấn luyện thích hợp và cũng có phương tiện cần thiết để đáp ứng kịp thời cho các vị đau yếu cần chăm sóc đặc biệt. Có như thế, các cha sắp hưu được an tâm và vui vẻ đi hưu, nêu gương sáng cho đàn em đi sau. Ngoài ra, trong trường hợp không thể có đủ nhân viên phục vụ như thế, mà có những cha thực sự cần thiết được phục vụ đặc biệt riêng, xin thiết kế thế nào để kế cận pḥng cha hưu có một pḥng nhỏ với những công tŕnh phụ tối thiểu cho người giúp ở và sinh hoạt, chứ không ở chung và dùng chung pḥng với cha hưu.

Nhưng trong tất cả những trạng huống tế nhị này, chớ ǵ chúng ta hướng về Mẹ Maria. Mẹ đă hiến dâng Con Mẹ bằng ḷng ưng thuận đầu tiên với mầu nhiệm Nhập Thể. Và trong suốt cuộc sống, Mẹ vẫn tiếp tục hiến dâng Chúa Giêsu. Mẹ đă trao phó Ngài trong tay ông Simêon ngày dâng Chúa vào Đền Thánh. Mẹ đă hiến dâng khi Ngài rời bỏ gia đ́nh để bắt đầu sứ vụ công khai. Và trên tất cả, Mẹ đă hiến dâng Ngài trên thập giá v́ phần rỗi nhân loại. Trong khoảnh khắc đáng sợ ấy, Chúa Kitô cũng trao ban và đặt Mẹ Ngài trong sự chăm sóc của Giáo Hội, qua con người của người môn đệ yêu dấu.

Sau cùng, chớ ǵ ḷng nhân hậu của Giáo Hội c̣n quan tâm đặc biệt đến những người này nữa trong các viện dưỡng lăo của Giáo Hội. Đó là cha mẹ của một số linh mục gặp hoàn cảnh già cả neo đơn, không ai chăm sóc. Các anh em linh mục ấy có thể gửi gắm cha mẹ hầu được yên tâm phục vụ các linh hồn, trở nên linh mục nhiệt thành hơn, hoàn toàn sống v́ đoàn chiên. Nếu được vậy th́ tốt đẹp biết bao, v́ bao nhiêu năm trước cha mẹ họ đă trao họ cho Giáo Hội, và bây giờ họ lại được đặt cha mẹ ḿnh trong ṿng tay chăm sóc của Giáo Hội. Trong lănh vực này, Giáo Hội cũng nên lưu tâm đến hoàn cảnh, t́nh cảm và những trăn trở không thể tránh được của các linh mục là con một hay con trai duy nhất trong gia đ́nh. Cầu mong cho họ “một lần đă quảng đại th́ được quảng đại cho đến cùng”. Nữ Vương ban sự b́nh an, xin cầu cho chúng con. Amen.

 

D.V. Những ǵ linh mục nên làm và không nên làm cho gia đ́nh, nhất là ông bà cố,  cũng như con cái bảo trợ và linh tông

 

Thiên Chúa dựng nên con người, Ngài phú bẩm cho họ con tim để yêu thương chia sẻ với tha nhân. V́ thế, cuộc sống của con người không thể không có các mối tương quan, đặc biệt nơi người linh mục, các mối tương quan đó càng đ̣i hỏi sâu đậm hơn: Tương quan mật thiết với Thiên Chúa là Cha, Đấng chọn và mời gọi cha làm chứng cho Ngài; tương quan với tha nhân để cùng nhau sống lời mời gọi nên thánh. Linh mục cần phải thăng hoa các mối tương quan này. Chúng ta sẽ tŕnh bày những điều linh mục nên làm và không nên làm cho những người thân trong gia đ́nh huyết tộc cũng như gia đ́nh linh tông.

 

D.V.1. Đối với gia đ́nh bà con, đặc biệt là ông bà cố

D.V.1a. Những điều nên làm

 

D.V.1b. Những điều không nên làm

 

D.V.2. Đối với con cái bảo trợ

D.V.2a. Những điều nên làm

 

D.V.1b. Những điều không nên làm

 

D.V.3. Đối với anh chị em linh tông

D.V.3a. Những điều nên làm

 

D.V.3b. Những điều không nên làm

 

Trong cuộc sống, mỗi người đều có kinh nghiệm về các mối tương quan. Đức Giêsu, con người hoàn hảo, là mẫu mực trong các mối tương quan. Là h́nh ảnh sống động của Chúa Giêsu tại trần gian, linh mục hăy theo sát Ngài trên mọi nẻo đường, trong mọi hành động và lời nói. Như Chúa Giêsu luôn sống cho Chúa Cha, trong sự tuân phục Đức Mẹ và Thánh Giuse, linh mục được mời gọi tận hiến hoàn toàn cho Chúa và công việc của Ngài, nhưng không quên bổn phận với những người thân trong gia đ́nh huyết tộc cũng như linh tông.

 

Thật vậy, tương quan hai chiều: hàng dọc với Thiên Chúa và hàng ngang với con người, đặc biệt với cha mẹ, anh chị em thân thuộc là một đ̣i hỏi của Tin Mừng (x. Mt 15,4-6). Đây cũng là hai trong bốn chiều kích đào tạo của tông huấn Pastores Dabo Vobis.

 

E. NHỮNG TRÔNG ĐỢI

 

E.1. Linh mục tương lai trông đợi

E.1a Nơi Giám Mục và Linh mục đoàn

·        Cần có sự cảm thông, chia sẻ và nâng đỡ từ Đức Giám mục. Nhưng không nên kỳ vọng quá nhiều vào Ngài, đ̣i hỏi sự nâng đỡ đặt biệt hơn anh em khác.

·        Cần có t́nh hiệp thông liên đới trong linh mục đoàn. Cùng cộng tác trong mục vụ, chia sẻ và nâng đỡ giữa anh em với nhau. Mong sự cộng tác và nâng đỡ, hiểu biết lẫn nhau, cùng nhau hướng tới vinh danh Thiên Chúa.

 

E.1.b Nơi bản thân mỗi linh mục

·        Mong chính bản thân linh mục luôn biết hướng tới Chúa là trung tâm và cùng đích của đời sống linh mục của ḿnh. Cần ơn Chúa giúp phát triển đời sống thiêng liêng, gắn bó mật thiết với Thiên Chúa t́nh yêu, sống hiền hoà với mọi người theo gương Chúa Kitô Mục Tử nhân lành.

·        Không nên thần thánh hoá đời sống linh mục để đ̣i hỏi sự phục vụ, trọng vọng nơi giáo dân và t́m vinh danh cho ḿnh; quan cách trong giao tiếp, coi khinh người khác, độc tài trong khi làm việc, coi ḿnh là người biết mọi thứ mà không chịu học hỏi, kiêu căng, tự phụ. 

·        Mong linh mục dành nhiều thời giờ hơn cho việc giảng dạy giáo lư và soạn bài giảng lễ, luôn cập nhật và tự trau dồi thêm kiến thức đạo đời để tiến kịp với thời đại, nếu không sẽ trở nên lạc hậu đối với giáo dân.

 

E.1.c Nơi cha xứ

·        Mong cha xứ luôn hết ḷng v́ giáo dân, chu toàn bổn phận của ḿnh, nhất là việc cử hành các bí tích; sống chan hoà, chịu khó tiếp khách, lắng nghe và ghi nhận những tâm t́nh, tiếp thu ư kiến của giáo dân…

·        Mong cha xứ không co cụm lại, chỉ biết mỗi xứ ḿnh, một ḿnh một kiểu, không giống ai, không chơi với ai; phân b́, so sánh, khích bác, nói xấu cha xứ cũng như giáo dân các xứ lân cận.

·        Mong cha xứ không tự ti về những yếu kém của ḿnh mà thụ động, dù Chúa ban cho một nén cũng hăy cố gắng làm lợi cho Chúa một nén khác.

·        Mong cha xứ không bỏ xứ đi quá nhiều, khổ cho dân, tạo vất vả cho các cha khác trong việc ban các bí tích; hoặc nghĩ ḿnh chuẩn bị chuyển xứ, nên không làm ǵ cả hay làm qua loa cho xong chuyện.

·        Mong cha sở cùng anh em linh mục khác cộng tác làm việc chung với nhau, thường xuyên giúp đỡ, ủi an, thăm viếng, tạo uy tín và giữ uy tín cho nhau.

 

E.1.d Nơi Cha phó

·        Mong cha phó ư thức rơ quyền hạn và nghĩa vụ của ḿnh, làm mọi việc mà cha xứ nhờ hay uỷ quyền và làm tốt nhất những ǵ có thể.

·        Mong cha phó năng động, cộng tác, chia sẻ gánh nặng mục vụ với cha xứ trong mọi lănh vực; cảm thông, tha thứ những khiếm khuyết, yếu kém của cha xứ và giúp đỡ cha xứ chu toàn sứ vụ…

·        Mong cha phó coi cha xứ như người anh, tế nhị, tôn trọng, để cùng nhau phục vụ trong yêu thương.

·        Mong cha phó không qua mặt, coi thường, hay chống đối cha xứ; gây áp lực, bất cộng tác, kết bè kết cánh, gây chia rẽ, phá rối cộng đoàn, chiến tranh lạnh với cha xứ, gây gương mù gương xấu cho giáo dân.

·        Mong cha phó không ù lỳ, lười biếng, chỉ làm lễ lấy tiền, c̣n mọi việc mặc kệ; coi cha xứ là ông chủ c̣n ḿnh là nô lệ. Trái lại, hăy mặc lấy tâm t́nh phục vụ như Chúa Kitô.

 

E.1.e Nơi Thầy Xứ

·        Mong Thầy xứ ư thức ḿnh chỉ là người cộng tác, cố gắng giúp cha xứ cách tốt nhất trong các lănh vực ca đoàn, giáo lư, phụng vụ.

·        Mong thầy xứ làm mọi việc có sự đồng thuận của cha xứ; không làm ǵ theo ư ḿnh, ngược với ư cha xứ.

·        Mong thầy xứ sống cởi mở, hoà nhă, lịch sự với hết mọi người; nhiệt t́nh và có trách nhiệm với công việc, chứ không lười biếng công việc, mà chỉ lo t́m kiếm các mối quan hệ v́ tiền bạc hay t́nh cảm.

·        Mong thầy xứ không ngông cuồng coi ḿnh là giỏi, là hiểu biết rồi không coi ai ra ǵ. Ai mời đi ăn cũng đi, rồi rượu chè say sưa 100%, tiếng tốt th́ ít, tiếng xấu th́ nhiều.

·        Mong các tu sĩ cũng tương tự như thầy xứ vậy.

 

E.1.f Nơi Giáo dân

·        Mong có sự cộng tác tích cực từ phía thường trực Ban Hành Giáo với cha xứ, cùng bàn hỏi và t́m ra phương hướng chung, hiệu quả trong việc phát triển giáo xứ để các hội đoàn cùng hiệp nhất phát triển đức tin.

·        Mong giáo dân cầu nguyện cho cha xứ và nâng đỡ cha xứ về vật chất cũng như tinh thần.

·        Mong giáo dân yêu thương, tôn trọng cha xứ như người cha tinh thần mà Chúa gửi đến cho giáo xứ và giúp cha thi hành tác vụ cách tốt nhất.

·        Mong giáo dân tha thứ cho cha xứ về những yếu kém, thiếu sót, lỗi lầm… và góp ư cho cha xứ về những ǵ ngài không chuyên môn, những mặt trái mà ngài không biết …

·        Mong giáo dân cộng tác với cha xứ trong những công việc chung, trong việc lănh đạo cộng đoàn, xây dựng đoàn hội, cơ sở vật chất của giáo xứ… Đoàn kết, một ḷng, luôn là những cánh tay cùng với cha xứ xây dựng giáo xứ, thăng tiến giáo xứ về mọi mặt.

·        Mong giáo dân không lỗi đức bác ái: chửi bới, nói xấu, nói hành, vu cáo, kiện tụng, bôi nhọ cha xứ; coi cha như người xa lạ, rồi ác cảm, tránh mặt, không gặp, không đối thoại, không cộng tác.

·        Mong giáo dân không t́m cách ảnh hưởng lên cha xứ, cố gắng làm được một chức ǵ đó trong xứ rồi ỷ thế làm càn, mang tiếng cho cha xứ, gây gương mù cho cộng đoàn.

·        Mong giáo dân không vay mượn tiền bạc cũng như vật dụng của cha xứ, v́ vay mượn th́ dễ mà trả th́ khó, sinh ra nhiều phiền phức mất ḷng nhau; cũng đừng lừa dối cha xứ về t́nh, tiền, quyền.

·        Mong giáo dân không bè phái, cực đoan ḍng họ, làm việc th́ ít mà bàn mưu tính kế hại nhau, làm mất mặt, mất thể diện của nhau th́ nhiều…

 

E.1.g Nơi Chính quyền

·        Mong Chính quyền tôn trọng và tạo điều kiện để giáo dân thi hành bổn phận tôn giáo của ḿnh; đồng thời tạo sự đoàn kết, thông thoáng hơn trong các vấn đề xă hội, để giáo dân có thể tham gia nhiều hơn trong việc đóng góp xây dựng đất nước.

·        Mong Chính quyền để giáo dân được tham gia nhiều hơn trong các lĩnh vực y tế, giáo dục, bác ái xă hội; thay đổi những chính sách hay thái độ cư xử kỳ thị, thù nghịch, không công bằng; không làm ǵ cách áp chế, khiến người dân có ác cảm với chính quyền.

 

E.2. Giáo dân trông đợi

E.2.a Trong tương quan linh mục với giáo dân

·        Giáo dân Việt Nam rất quí trọng linh mục và ḷng quí trọng này vừa là một lợi điểm lại vừa là một nguy cơ: Là lợi điểm v́ giúp cho linh mục cảm thấy ḿnh cần thiết và có ích, ít cảm thấy bị cô đơn; là nguy cơ, v́ ḷng quí trọng ấy có thể làm cớ cho linh mục ỷ y mà tôn ḿnh lên, coi thường thiên hạ, cho ḿnh có quyền ăn trên ngồi trước, hách dịch, quan liêu.

·        Mong linh mục coi ḷng quí trọng này là một ơn riêng Chúa dành cho hàng ngũ linh mục Việt Nam, để nhờ đó các vị được an vui và phấn khởi trong chức vụ chứ không phải ngược lại.

 

E.2.b Trong căn tính linh mục

·        Chức linh mục được đề cao (là một Đức Kitô khác) và do sự đề cao quá đáng quyền chức này mà linh mục dễ bị cám dỗ tôn ḿnh lên, ví dụ trong ngày chịu chức, khi người ta đến xin phép lành đầu tay hay ngỏ lời chúc mừng. Đây là một cử chỉ đầy ḷng tin và khiêm nhường, chớ ǵ tân linh mục xúc động mà tăng thêm ḷng tạ ơn Chúa và sống cho xứng đáng.

·        Giáo dân muốn linh mục nên giống Chúa Giêsu về ḷng nhân ái và tinh thần phục vụ: Chúa Giêsu luôn gần gũi tiếp xúc với người ta và t́m cách làm ơn cho họ. Giáo dân cũng đợi chờ nơi linh mục đức tính này là dễ gặp, dễ gần và dễ nhờ việc thiêng liêng. V́ đức tính này mà linh mục được định nghĩa rất sâu sắc và thâm thuư là con người “bị ăn” (Le prêtre est un homme mangé).

·        Nhiều linh mục ngày nay dành nhiều thời giờ cho ḿnh mà ít cho giáo dân. Có linh mục làm lễ sáng xong là rút lui lên lầu, suốt ngày sống với máy vi tính và các thứ máy móc khác, hoặc đi vắng không mấy khi có mặt ở nhà, mọi việc giao cho thầy xứ, d́ xứ hay Ban hành giáo, khiến cho giáo dân nhiều người cần gặp mà không gặp được. Có những cha sở tuy gặp được, nhưng giáo dân rất sợ tính lạnh lùng và hay bẳn gắt của cha. V́ thế, giáo dân mong linh mục hoạ lại h́nh ảnh Chúa Giêsu trong cách hành xử, nói năng và tiếp xúc.

·        Đức Giáo hoàng Grêgoriô Cả than phiền là có nhiều linh mục, nhưng rất ít linh mục chịu làm việc theo chức năng của ḿnh hay có làm th́ lại làm những việc ở bên ngoài chứ không phải việc bên trong. Việc chính yếu của linh mục là rao giảng lời Chúa, cử hành bí tích, giáo dục đức tin và lo phần rỗi cho các tín hữu. Những việc này phải làm trước rồi mới đến những việc khác như xây cất, mở mang cơ sở, hoạt động xă hội, phát triển dân sinh v.v…

·        Ở Việt Nam, cha sở có một vị trí xă hội tốt, nói th́ dân dễ nghe và người ta cũng hay nhờ thế cha sở để làm công kia việc nọ. V́ thế, cha sở cũng dễ bị cám dỗ trở thành một nhân vật ngoài đời để có thế ăn nói với người ta. Điều này có thể đưa linh mục đi ra khỏi phạm vi chức vụ chính thức của ḿnh. Linh mục phải coi chừng với tính thích làm quan tự nhiên của ḿnh mà luôn nhớ rằng linh mục chính yếu là người phục vụ Chúa và Tin Mừng của Người.

·        Linh mục không chỉ biết có pḥng thánh, nhà thờ và nhà xứ, mà cũng không ham mê lo những công việc bên ngoài. Phải theo bậc thang giá trị mà dành ưu tiên cho những việc thuộc bổn phận linh mục: làm lễ, giải tội, giảng thuyết, đi kẻ liệt, thăm viếng người nghèo khổ, ốm đau bệnh tật. Một linh mục làm đầy đủ bổn phận của ḿnh th́ chẳng c̣n thời giờ rảnh rỗi bao nhiêu; mà nếu có rảnh rỗi th́ cũng nên dành thời giờ để học hành, đọc sách vở thêm.

E.2.c Trong đời sống tri thức

·        Làm linh mục rồi nhưng vẫn c̣n phải học, phải viết bài giảng và giảng thế nào cho người ta nghe được. Thường sau khi làm linh mục rồi, ít vị c̣n thích tiếp tục làm việc tri thức. V́ vậy, giáo dân mong linh mục dành giờ làm việc tinh thần mỗi ngày: soạn bài giảng không dài quá, không chạy theo thời sự nhưng chú trọng vào sứ điệp lời Chúa, không khuyên lơn hời hợt nhưng mở lối cho những áp dụng thiết thực đức tin vào cuộc sống, không chiều theo thị hiếu người nghe mà chú tâm vào việc giáo dục đức tin và đem lại cho người ta một cái ǵ có chất lượng: muốn thấy một bài giảng chứ không muốn nghe một bài giảng.

·        Dân chúng hôm nay thích sự hào nhoáng và h́nh thức bên ngoài: thích vui, thích dễ, thích ồn ào. Linh mục phải giữ chừng mực, nếu chiều theo khuynh hướng này th́ linh mục cũng dễ trở thành hời hợt nông cạn.

 

E.2.d Trong tác phong linh mục

·        Giáo dân muốn linh mục có tác phong thích đáng trong cách ăn mặc, nói năng, cư xử. Ăn mặc như người ta có cái lợi là dễ hoà đồng, thoải mái, nhưng có cái bất lợi là có thể làm cho linh mục quên căn tính của ḿnh mà không c̣n giữ ǵn hay ít giữ ǵn trong lời ăn tiếng nói và cư xử với người ta nữa.

·        V́ vậy, tuy ăn mặc như người đời, nhưng linh mục vẫn phải giữ cho ḿnh cái cốt cách là linh mục: đơn sơ xứng đáng với con người được học hành, có chữ nghĩa và có văn hoá, không chải chuốt quá đáng mà cũng không lôi thôi, áo quần luộm thuộm, đầu tóc bù xù, nói năng bừa băi.

·        Có dư luận rằng nhiều linh mục trẻ sau 1975 thiếu nhân bản trong cách hành xử, đáng cho các linh mục lưu ư v́ có liên quan đến ảnh hưởng và uy tín của các vị trong vấn đề làm chứng cho Chúa và cho đạo.

·        Thận trọng trong vấn đề vật chất: tiền bạc, của cải, đất đai nhà ở, đồ dùng cá nhân. Giáo dân rất để ư, họ thích những linh mục không lo làm giầu hay t́m kiếm của cải vật chất cho ḿnh hoặc bà con họ hàng; họ nể trọng những linh mục sống đơn sơ giản dị, không xa hoa trong cách ăn mặc và biết sử dụng tiền bạc cách chính đáng.

 

E.2.e Trong các tương quan

·       Một trong những lư do khiến ít người theo đạo, dù đạo có tổ chức chặt chẽ, kỷ luật nghiêm minh, nhà thờ đẹp đẽ, nhiều cơ sở to lớn và các lễ nghi rất tưng bừng lôi cuốn, đó là tại giới linh mục xa cách dân chúng. Do đó, linh mục phải để ư hơn đến những nghèo và ít học, chứ không chỉ chơi với người giầu và có học.

·       Giáo dân mong muốn thấy cha sở và cha phó sống gắn bó thân t́nh, đồng tâm nhất trí với nhau trong công tác mục vụ và hướng dẫn cộng đoàn. Gương sống hiệp thông thân mật, kính trọng, yêu thương và nhường nhịn nhau giữa các vị mục tử là yếu tố có sức thuyết phục nhất đối với cộng đoàn dân Chúa.

·       Giáo dân mong linh mục bén nhạy với mọi diễn biến đổi thay của t́nh h́nh xă hội để có những kế sách và phương án uyển chuyển, thích nghi năng động và cảm thông sâu sắc những khó khăn trong việc sống đạo của người tín hữu.

·       Mong các ngài nhiệt thành việc tông đồ và vui vẻ hoà nhă, tậm tâm phục vụ như người cha, người anh và là trụ cột vững vàng trong đại gia đ́nh giáo xứ giữa những biến động phức tạp của xă hội hôm nay.

 

Dự phóng và ước mơ bao giờ cũng nhiều và đẹp. Chớ ǵ mỗi người theo đuổi cho đến cùng những ước mơ và dự phóng tương lai của ḿnh. Xin Chúa tiếp tục cho đến hoàn thành tốt đẹp những ǵ Ngài đă khởi sự với chúng ta và cho chúng ta.

 


[1] Ac 20,22: Giờ đây, bị Thần Khí trói buộc, tôi về Giê-ru-sa-lem, mà không biết những ǵ sẽ xảy ra cho tôi ở đó.

[2] Lc 1,41

[3] Lc 1,15

[4] Lc 1,67

[5] x. Mt 1,18-24; Lc 2,1-7

[6] Lc 2,25-27

[7] Is 61,1-2

[8] Lc 4,18-21

[9] x. Cvtđ 2,1-41

[10] Dn 5,24-28

[11] Ga 10,36

[12] Pastore Dabo Vobis số 47

[13] Ecclesia in Asia số 43

[14] Ibid số 42

[15] ĐTC Biển Đức XVI nói với Hiệp sĩ Colombo ngày 4/8/2010 tại Rôma trong bối cảnh Giáo Hội bị tấn công kịch liệt từ nhiều phía..

[16] Xem điểm khởi động cổ máy khổng lồ trong Phương pháp luận sáng tạo, là phương pháp giúp phân tích cặn kẻ để chọn .giải pháp tốt nhất trong các giải pháp có thể.

[17] 1 Cr 3,2

[18] Ga 16,12-13

[19] x. Huấn thị Phục vụ Quyền Bính và Vâng Lời của Bộ Tu sĩ ban hành ngày 11/5/2008.

[20] x. Eph 4:12

[21] 1 Cr 12, 4-1: “Có nhiều đặc sủng khác nhau, nhưng chỉ có một Thần Khí. Có nhiều việc phục vụ khác nhau, nhưng chỉ có một Chúa. Có nhiều hoạt động khác nhau, nhưng vẫn chỉ có một Thiên Chúa làm mọi sự trong mọi người. Thần Khí tỏ ḿnh ra nơi mỗi người một cách, là v́ ích chung. Người th́ được Thần Khí ban cho ơn khôn ngoan để giảng dạy, người th́ được Thần Khí ban cho ơn hiểu biết để tŕnh bày. Kẻ th́ được Thần Khí ban cho ḷng tin; kẻ th́ cũng được chính Thần Khí duy nhất ấy ban cho những đặc sủng để chữa bệnh. Người th́ được ơn làm phép lạ, người th́ được ơn nói tiên tri; kẻ th́ được ơn phân định thần khí; kẻ khác th́ được ơn nói các thứ tiếng lạ; kẻ khác nữa lại được ơn giải thích các tiếng lạ. Nhưng chính Thần Khí duy nhất ấy làm ra tất cả những điều đó và phân chia cho mỗi người mỗi cách, tuỳ theo ư của Người.”

[22] x. 1 Cr 12,12-30.

[23] x. Rm 8,18-23

[24] Ecclesia in Asia số 24

[25] x. Zenit ngày 6/7/2010.

[26] x. Zenit.org Rôma này 25/3/2010.

[27] x. Ad Gentes số 2

[28] 1 Cr 9,16

[29] 2 Tm 4,2-4.

[30] Hiến chế Sacrosantum Concilium số 10: “Phụng vụ là đỉnh cao hướng dẫn hoạt động của Giáo Hội, đồng thời là suối nguồn trào tuôn sức mạnh cho Hội Thánh. V́ thế, mục tiêu và đối tượng của mọi hoạt động tông đồ là tất cả những người được làm con cái Thiên Chúa, nhờ đức tin và qua Bí tích rửa tội, sẽ tuôn đến hợp dâng lời chúc tụng Chúa giữa ḷng Giáo Hội, tham dự vào lễ tế hy sinh và ăn bữa Tiệc Ly của Chúa.”.

[31] x. Bài nói chuyện của Đức Cha Chaput OFM, TGM giáo phận Denver ngày 24.06.2010, tại Học viện Phụng vụ Chicago do Anh Khoa dịch và đăng trên WHĐ ngày 27.07.2010.

 

[32] Micae-Phaolô Trần Minh Huy, Đào tạo và tự đào tạo thiêng liêng của các linh mục tương lai trong bối cảnh Việt Nam ngày nay, ĐCV. Huế 2006, tr. 165-187.

[33] Ecclesia in Asia số 30.

[34] Ecclesia in Asia số 48.

[35] Ecclesia in Asia số 48.

[36] x. Kh 21:5

[37] x. Vui Mừng và Hy Vọng số 1.

[38] CWN/ VietCatholic News (25 Mar 2010 09:19) Tổng thống Mauricio Funes của El Salvador, nhân ngày kỷ niệm 30 năm ĐTGM Oscar Romero bị giết đang khi dâng thánh lễ tại San Salvador (24/3/1980 - 24/3/2010) đă tạ lỗi về cái chết của ngài: “Việc ám sát Đức Tổng Giám Mục Romero chẳng may đă diễn với sự bao che, cộng tác hoặc tham gia của một số nhân viên đặc vụ an ninh quốc gia. Một số những phe nhóm vũ trang bất hợp pháp đă khủng bố các thường dân suốt trong những năm tháng đen tối này, và để lại hàng mấy chục ngàn nạn nhân.”

[39] Mục sư Baptist Martin Luther King là nhà hoạt động dân quyền Mỹ gốc Phi, chủ trương bất bạo động, được giải Nobel Ḥa B́nh năm 1964 v́ những nỗ lực chấm dứt nạn kỳ thị chủng tộc, ngày 4/4/1968 bị ám sát tại Memphis, thế giới ngưỡng mộ như một anh hùng, nhà kiến tạo hoà b́nh và thánh tử đạo.

[40] Cvtđ 4,19; 5,29.

[41] Hb 5,7-9. 

[42] x. Alex Robello trong Linh mục thiên niên kỷ mới.

[43] Mt 16,24.  

[44] Thư Luân Lưu về một số khía cạnh cấp bách của việc huấn luyện tu đức trong chủng viện, II,2. 

[45] Thánh Gioan Thánh Giá, Lên Đỉnh Các-men, quyển II, Ch.7, số 7.

[46] x. Mt 16,23. 

[47] Ga 12,24.

[48] Kinh Nguyện Thánh Thể III.

[49] x. Mc 10,14.

[50] x. Ga 11,35.

[51] x. Mc 6,35.

[52] x. Lc 7,11.

[53] x. Mc 1,41. 

[54] x. Mc 10,46.

[55] x. Mc 5,30.

[56] x. Lc 21,2. 

[57] Hiến Chế Vui Mừng và Hy Vọng, số 1. 

[58] JP II, Tông Thư Salvifici Doloris, số 30. 

[59] JP II, Triều yếu ngày 14/8/1990. 

[60] 2 Cr 5,16-19. 

[61] 2 Cr 5,19.

[62] x. Ga 11,52.

[63] x. Dt 4,15.

[64] x. Mt 11,19.

[65] x. Lc 23,43.  

[66] Rm 7,24. 

[67] JP II, Reconciliatio et Penitentia, số 31.

[68] x. Mc 6,11. 

[69] Lc 11,1.

[70] x. Mc 14,23

[71]  x. Lc 10,21

[72] x. Mc 14,32

[73] x. Mt 27,36

[74] x. Lc 23,46. 

[75] x. Ga 1,:5.

[76] Thánh Bộ Giáo Sĩ, Linh Mục và Thiên Niên Kỷ Thứ Ba: Thầy Dạy Lời Chúa, Thừa Tác Viên Bí Tích và Người Lănh Đạo Cộng Đoàn, Ch.3, số 2.

[77] Thánh Gioan Thánh Giá, Ngọn Lửa Sống của T́nh Yêu, đoạn 3, 45. 

[78] Mt 10,28.

[79] Bộ Giáo sĩ, Linh Mục Và Thiên Niên Kỷ Thứ Ba…, ch.4, số 3. 

[80] x. Ga 10,11.

[81] x. Lc 17,10.

[82] x. Mt 25, 40; Pastores Dabo Vobis, số 49. 

[83] x. Phaolô VI, Evangelii Nuntiandi, số 15. 

[84] Optatam totius số 4.

[85] Thánh Bộ Giáo Sĩ, Linh Mục Và Thiên Niên Kỷ Thứ Ba…, Ch.2, số 1. 

[86] Pl 2,8; Dt 5,8.

[87] x. MP. Trần Minh Huy, Đào tạo và Tự đào tạo thiêng liêng của các linh mục tương lai trong bối cảnh Việt Nam ngày nay, tr.168-187.

[88] Optatam totius số 2.