Đặc San Giáo Sĩ Việt Nam

 

 

 

ĐỰƠC CHỌN GIỮA LOÀI NGƯỜI
VÀ CHO LOÀI NGƯỜI  (x. Dt, 5.1)

 

GIÁO SĨ:

Xuất phát từ giáo dân, hiện diện vì giáo dân và cậy dựa vào giáo dân

 

ĐỂ CÙNG LÀM VINH DANH THIÊN CHÚA

 

www.conggiaovietnam.net                          giaosivietnam@gmail.com

Đặc San Điện Tử    Giáo Sĩ Việt Nam    Số 124, Chúa Nhật 25.07.2010


MỤC LỤC 

CÁC CHIẾN HỮU TIÊN PHONG CỦA NỀN ĐÀO TẠO LINH MỤC             ĐTC. GioanPhaolo 2

LỄ CHÚA CỨU THẾ - TIN HOẶC KHÔNG TIN                                 Lm. LÊ QUANG UY, DCCT

THƯ CHỊ THÁNH TÊRÊXA VIẾT CHO NGƯỜI ANH EM CHỦNG SINH (2)       Nobertô Thái Văn Hiến (dịch)

XIN - CHO                                                                                   Lm. Giuse Hoàng Kim Toan

Đối Thoại                                                                                        Lm. Giuse Trần Việt Hùng

GIA ĐÌNH TRONG HIẾN PHÁP NHÂN BẢN                                       Tiến sĩ Nguyễn Học Tập

NGỤ NGÔN THỜI BẤN LOẠN (KỲ 7)                                                    Gioan Lê Quang Vinh

MỘT ĐÀN CHIM                                                                                            Br. Huynhquảng 

LÀM MẸ NHƯNG VẪN TIẾP TỤC LÀM VỢ                          Lm. Minh Anh, tổng hợp biên tập

PHÂN ĐỊNH VÀ SỐNG ƠN GỌI                                   Lm. Micae-Phaolô Trần Minh Huy pss

CHĂM SÓC CHA MẸ GÌA                                                               Bác sĩ Nguyễn Ý-Đức M.D.

BỮA CƠM GIA ĐÌNH XƯA VÀ NAY -                                           Chuyện phiếm của Gã Siêu


CÁC CHIẾN HỮU TIÊN PHONG CỦA NỀN ĐÀO TẠO LINH MỤC

 

TÔNG HUẤN PASTORES DABO VOBIS
VỀ VIỆC ĐÀO TẠO LINH MỤC TRONG HOÀN CẢNH HIỆN NAY

Nguồn: http://xuanbichvietnam.wordpress.com/2009/10/03/tong-huan-pastores-dabo-vobis/

CHƯƠNG V (tiếp theo)

NGÀI THIẾT LẬP HỌ THÀNH NHÓM MƯỜI HAI ĐỂ HỌ NÊN BẠN ĐỒNG HÀNH VỚI NGÀI

III. CÁC CHIẾN HỮU TIÊN PHONG CỦA NỀN ĐÀO TẠO LINH MỤC

Giáo Hội và Giám Mục.

65. Bởi vì việc đào tạo các ứng sinh linh mục vốn nằm trong nền mục vụ các ơn gọi do Giáo Hội điều hành, phải nói rằng Giáo Hội, xét theo đúng bản chất, chính là đại chủ thể (sujet communautaire) được ơn và có trách nhiệm sát cánh những ai được Chúa kêu gọi trờ nên thừa tác viên của Ngài trong chức linh mục.

Trong chiều hướng ấy, chính sự hiểu biết về mầu nhiệm Giáo Hội sẽ giúp chúng ta xác định rõ hơn vị thế và bổn phận thuộc về các thành phần khác nhau trong Giáo Hội, hoặc như những cá nhân riêng rẽ, hoặc như những thành phần của một nhóm, một tập thể, trong công việc đào tạo các ứng sinh linh mục.

Tự bản chất thâm sâu, Giáo Hội là “sự tưởng niệm”, là “bí tích” về sự hiện diện và về hoạt động của Đức Giêsu Kitô ở giữa chúng ta và vì chúng ta. Chính nhờ sự hiện diện cứu chuộc của Ngài mà chúng ta mới có được lời mời gọi hướng đến chức linh mục : không chỉ lời mời gọi, mà còn sự sát cánh để cho người được gọi có thể nhận ra ân sủng của Chúa và đáp lại ân sủng ấy một cách tự do và bằng tình yêu. Chính Thấn Khí của Đức Giêsu tạo ánh sang và ban sức mạnh cho sự phân định ơn gọi và cho hành trình ơn gọi. Bởi đó, không thể có công trình đào tạo chính hiệu dành cho chức linh mục nếu không có ân huệ của Thần Khí Đức Kitô. Bất cứ nhà đào tạo phàm nhân nào cũng phải ý thức đầy đủ điều ấy. Tại sao lại không nhìn thấy ở đó một “tài nguyên” hoàn toàn miễn phí và triệt để hữu hiệu, một “tài nguyên” hoàn toàn miễn phí và triệt để hữu hiệu, một tài nguyên tỏ lộ trọng lượng dứt khoát khi có sự dấn thân vào việc đào tạo hướng đến chức linh mục? Tại sao lại không mừng rỡ trước phẩm giá của mọi nhà đào tạo vốn là con người nhưng nay, hiểu theo một nghĩa nào đó, trờ thành người đại diện hữu hình của Chúa Kitô đối với ứng sinh linh mục? Nếu nền đào tạo linh mục thiết yếu là để chuẩn bị cho vị “mục tử” tương lai noi theo hình ảnh của Đức Giêsu Kitô Mục Tử Nhân Lành, hỏi còn ai hơn là chính Đức Giêsu Kitô, nhờ sự tuôn đổ Thần Khí của Ngài, có thể chuyển thông đức ái mục vụ mà Ngài đã thể hiện bằng cuộc sống đến nỗi hiên ban trọn vẹn chính mình (x. Ga 15,13;10,11), có thể đưa dẫn đức ái mục vụ ấy tới chỗ trưởng thành, đức ái mà Ngài muốn cho hết mọi linh mục phải lặp lại bằng cuộc sống ?

Vị đại diện đầu tiên của Đức Kitô trong việc đào tạo linh mục chính là giám mục. Có thể dùng lời của tác giả Tin Mừng Mác-cô trong bản văn chúng ta đã trưng dẫn nhiều lần, để nói về giám mục, về mọi giám mục : “Ngài gọi những kẻ Ngài muốn đến với Ngài. Họ đã đến với Ngài và Ngài đã thiết lập họ thành Nhóm Mười Hai để họ nên bạn đồng hành với Ngài và để sai họ đi rao giảng…” (Mc 3,13-14). Thật ra, tiếng gọi bên trong của Thần Khí cần phải được xác nhận bởi tiếng gọi chính hiệu của giám mục. Nếu tât cả mọi người đều có thể “đến với giám mục” vì giám mục là Cha và là Mục Tử của mọi người, thì các linh mục có thể đến một cách đặc biệt, vì các linh mục chung chia với giám mục cùng một chức tư tế và cùng một thừa tác vụ: theo lời Công Đồng, giám mục phải coi các linh mục và đối xử với các linh mục như “những người anh em và những người bạn” (202). Có thể loại suy để áp dụng điều đó cho những ai đang chuẩn bị tiến đến chức linh mục. Còn về điểm khác: “nên bạn đồng hành với Ngài”, bạn đồng hành với giám mục, thì trách nhiệm của giám mục, với tư cách là nhà đào tạo của các ứng sinh linh mục, đòi ngài phải có bổn phận thăm viếng các linh mục thường đều và một cách nào đó phải nên “bạn đồng hành với các linh mục”.

Sự hiện diện của giám mục mang một giá trị đặc biệt, chẳng những bởi vì sự hiện diện ấy giúp cộng đoàn chủng viện sống hội nhập với Giáo Hội địa phương và hiệp thông với Vị Mục Tử dẫn dắt Giáo Hội này, nhưng còn bởi vì sự hiện diện ấy đem lại căn tính cho cộng đoàn và phục vụ cứu cánh mục vụ là đặc tính của nền đào tạo các ứng sinh linh mục. Nhất là, với sự hiện diện ở giữa các ứng sinh linh mục, qua việc chia sẻ cho họ tất cả những gì liên quan đến hành trình mục vụ Giáo Hội địa phương, giám mục mang lại một nhân tố cơ bản để cho các ứng sinh được đào tạo về “cảm thức Giáo Hội” vốn là một giá trị thiêng liêng và mục vụ trung tâm trong việc thi hành thừa tác vụ linh mục.

Cộng đoàn giáo dục trong chủng viện.

66. Cộng đoàn giáo dục trong chủng viện được xây dựng xung uanh những nhà đào tạo khác nhau : viện trưởng, cha linh hướng hoặc cha thiêng liêng, các bề trên và các giáo sư. Tất cả những nhà đào tạo này phải tự cảm thấy liên kết mật thiết với giám mục mà họ đóng vai đại diện dưới những tước vị khác nhau và bằng những cách thức khác nhau; giữa họ với nhau, họ cần phải có một sự hiệp thông và một sự cộng tác sâu đậm và chân tình. Mối dây hiệp nhất giữa các nhà giáo dục làm cho phương án giáo dục có thể được thực hiện đúng mức và nhất là mang lại cho các ứng sinh linh mục một gương mẫu giàu ý nghĩa và cụ thể về sự hiệp thông Giáo Hội, giá trị cơ bản của đời sống Kitô hữu và của thừa tác vụ mục tử.

Điều hiển nhiên là hiệu năng của việc đào tạo phần lớn tuỳ thuộc vào nhân cách chín chắn và vững vàng của các nhà đào tạo, về phương diện nhân bản và Tin Mừng. Vè thế, điều hết sức hệ trọng là phải chọn lọc kỹ lưỡng các nhà đào tạo và phải tích cực khuyến khích họ tự tôi luyện cho ngày càng trở nên thích ứng hơn với trọng trách được uỷ thác cho họ. Vì biết chắc rằng việc chuẩn bị cho các ứng sinh linh mục tuỳ thuộc vào sự lựa chọn các nhà đào tạo và vào nền đào tạo mà các vị ấy cung ứng, các Nghị Phụ Thượng Hội Đồng đã xác định khá dài dòng về những đức tính dành cho các nhà đào tạo. Chẳng hạn các ngài đã viết: “Trọng trách đào tạo các ứng sinh linh mục đòi hỏi các nhà đào tạo phải được chuẩn bị một cách đặc biệt, về những phương diện thật sự là kỹ thuật, sư phạm, thiêng liêng, nhân bản và thần học, nhưng cũng phải được chuẩn bị về một tinh thần đoàn kết và cộng tác, để có thể thực hiện chương trình đào tạo trong một mối dây hiệp nhất rất chặt chẽ, sao cho luôn luôn bảo toàn được sự thống nhất trong hoạt động mục vụ của chủng viện dưới quyền viện trưởng. Tập thể các nhà đào tạo phải làm chứng về một đời sống thực sự phản ánh Tin Mừng và về sự tận hiến hoàn toàn cho Chúa. Điều xúng hợp là nhà đào tạo cần được hưởng một sự ổn định và cần có chỗ cư ngụ thường xuyên trong cộng đoàn chủng viện. Nhà đào tạo phải luôn liên kết mật thiết với giám mục, vì giám mục là người đầu tiên chịu trách nhiệm về việc đào tạo các linh mục” (203).

Các giám mục phải là những người đầu tiên cảm thấy trách nhiệm nghiêm trọng của mình trong việc đào tạo những người sẽ đảm nhận việc giáo dục các linh mục tương lai. Đối với thừa tác vụ giáo dục này, cần phải chọn những linh mục có đời sống gương mẫu và sỏ đắc một tập hợp những đức tính như: “Sự trưởng thành nhân bản và thiêng liêng, kinh nghiệm mục vụ, uy thế nghiệp vụ, sự ổn định trong ơn gọi của riêng mình, sự đào luyện về mặt lý thuyết trong những khoa học nhân văn (đặc biệt tâm lý học) tương ứng với trách nhiệm được giao phó, sự thành thạo về những phương pháp làm việc tập thể” (204).

Mặc dầu vẫn tôn trọng sự phân biệt giữa cái bên trong với cái bên ngoài, mặc dầu vẫn tôn trọng tự do hoàn toàn trong việc chọn lựa cha giải tội cũng như tôn trọng sự khôn ngoan và thận trọng phù hợp với thừa tác vụ linh hướng, cộng đoàn linh mục gồm những nhà giáo dục phải cảm thấy liên đới lẫn nhau trong trách nhiệm giáo dục các ứng sinh linh mục. Chính cộng đoàn này, luôn luôn quy chiếu về sự đánh giá có thẩm quyền của giám mục và của viện trưởng, sẽ đóng vai thăng tiến và kiểm nghiệm khả năng thích ứng của các ứng sinh về mặt tài năng thiêng liêng, nhân bản và trí thức, nhất là về những gì liên quan tới tinh thần cầu nguyện, về sự hấp thụ sâu xa giáo lý đức tin, về khả năng sống tình huynh đệ chính hiệu, về đặc sủng sống độc thân (205).

Như các Nghị Phụ Thượng Hội Đồng đã nhắc nhở, trong khi vẫn chú trọng đến những chỉ dẫn của Tông Huấn Christifideles laici và của Tông Thư Mulieris dignitatem (206), trong đó có sự nhấn mạnh về ích lợi của một nguồn ảnh hưởng lành mạnh cho mọi đường lối giáo dục do tự đời sống tu đức của người giáo dân và do tự đặc sủng của giới nữ, còn một điều quan trọng nữa, đó là phải liên hiệu dưới những hình thức khôn khéo và thích ứng với từng bối cảnh văn hoá, cho có được sự cộng tác của các tín hữu giáo dân, nam cũng như nữ, trong công trình đào tạo các linh mục tương lai. Họ phải được chọn lựa một cách kỹ lưỡng, trong khuôn khổ những luật lệ của Giáo Hội, tuỳ theo đặc sủng riêng của họ và những sở đắc của họ như đã được thử nghiệm. Với sự cộng tác của họ, được điều hợp và đan kết kỹ lưỡng vào những trách nhiệm giáo dục của những vị đóng vai trò đào tạo các linh mục tương lai, chúng ta có quyền chờ đợi những thành quả rất hữu ích cho các ứng sinh linh mục để họ có được một sự tăng triển quân bình về cảm thức Giáo Hội và một nhận thức chính xác hơn về căn tính linh mục (207).

Các giáo sư thần học.

67. Những người hướng dẫn và sát cánh với các linh mục tương lai để đi vào học thuyết linh thánh (doctrina sacra), bằng việc giảng dạy thần học, có một trách nhiệm giáo dục đặc thù, trách nhiệm này, dựa theo kinh nghiệm thường được nhìn nhận là mang nhiều tầm mức định đoạt hưon là trách nhiệm của các nhà giáo dục khác trong việc phat triển nhân cách của người linh mục tương lai.

Chưa kể đến những quan hệ sư phạm với các ứng sinh linh mục, trách nhiệm của các giáo sư thần học bao gồm quan niệm mà chính họ phải có về bản chất thần học và về bản chất thừa tác vụ linh mục, cũng như bao gồm tinh thần và cú pháp mà họ dùng để diễn giải giáo trình thần học của mình. Theo chiều hướng ấy, các Nghị Phụ Thượng Hội Đồng đã quả quyết đúng nghĩa khi nói “nhà thần học phải ý thức rõ rệt rằng, trong việc giảng dạy, mình không vận dụng uy thế tự nơi chính mình, nhưng phải khơi dậy và thông truyền nhận thức đức tin nhân danh Chúa và Giáo Hội. Bằng cách ấy, trong khi vẫn sử dụng những tài nguyên mới của khoa học, nhà thần học thi hành thừa tác vụ của mình theo sự ủy thác của Giáo Hội và cộng tác với giám mục trong bổn phận dạy dỗ của ngài. Bởi vì các nhà thần học cũng như các giám mục đều phục vụ cùng một Giáo Hội trong công việc thăng tiến đức tin, họ phải cùng nhau phát huy và vun trồng một lòng tin cậy lẫn nhau, và trong tinh thần ấy, họ cũng phải thắng vượt những đôi co và những xung khắc (x. phần khai triển trong Huấn Thị của Thánh Bộ Giáo Lý Đức Tin về “ơn gọi mang chiều kích Giáo Hội của nhà thần học”)” (208).

Cũng như mọi nhà giáo dục khác, vị giáo sư thần học phải duy trì sự hiệp thông và phải cộng tác chân tình với tất cả những người khác cũng đã hiến thân cho việc đào tạo linh mục tương lai, họ phải nhờ vào sự chuẩn mực khoa học, lòng quảng đại, thái độ khiêm nhường và say mê, mà mang lại một sự đóng góp độc đáo và ưu tú; sự đóng góp ở đây không phải chỉ là truyền đạt học thuyết – cho dầu đó là học thuyết thánh – nhưng, trên hết, là trình bày một lối nhìn, một nhãn quan hầu có thể liên kết thành một mối, trong kế hoạch của Thiên Chúa, tất cả mọi kiến thức của con người và mọi biểu hiện khác nhau của đời sống.

Các giáo sư thấn học có khả năng chuyên biệt và có hiệu năng đào tạo hay không là tuỳ thuộc nơi đức tính của họ : trước hết phải là “những con người đức tin và đầy lòng yêu mến Giáo Hội, rồi phải xác tín rằng chủ thể phân minh nắm giữ sự hiểu biết về mầu nhiệm Kitô giáo vẫn luôn là Giáo Hội xét như là Giáo Hội; bởi đó, phải tin chắc rằng bổn phận dạy dỗ của mình là một thừa tác vụ chính hiệu của Giáo Hôi, phải khá dồi dào về cảm quan mục vụ ấy chẳng những đâu là những nội dung nhưng còn đâu là cách trình bày những nội dung ấy cho thích ứng. Các giáo sư được yêu cầu phải hoàn toàn tuân phục Huấn Quyền : là những chứng nhân của đức tin, các giáo sư giảng dạy nhân danh Giáo Hội” (209).

Các cộng đoàn xuất phát, các hiệp hội và phong trào người trẻ.

68. Mặc dầu sự lựa chọn ơn gọi đã nhất thiết dẫn đến thái độ dứt bỏ, những cộng đoàn mà từ đó các ứng sinh linh mục đã xuất phát vẫn còn tiếp tục nắm giữ một tầm ảnh hưởng không thể coi thường đối với việc đào tạo linh mục tương lai. Bởi đó, các cộng đoàn ấy cần phải ý thức phần trách nhiệm đặc biệt về phía mình.

Trước tiên phải kể đến gia đình : các bậc cha mẹ, các anh chị em và các thành phần khác trong vòng vây gia đình không bao giờ được tìm cách đưa linh mục tương lai trở về với những giới hạn chật hẹp của một kiểu lập luận quá nhân loại, nếu không nói quá trần tục, ngay cả khi vì tình nghĩa chân thành (x. Mc 3,20-21.31-35). Ngược lại, chính mình được thôi thúc bởi ước muốn “thi hành thánh ý Thiên Chúa”, họ sẽ có thể sát cánh với bước đường đào tạo bằng việc cầu nguyện, lòng kính trọng, gương sáng về những nhân đức gia đình, sự trợ giúp tinh thần và vật chất, nhất là trong những giai đoạn khó khăn. Kinh nghiệm dạy cho chúng ta rằng, trong nhiều trường hợp, sự trợ giúp đa dạng ấy đã được coi là có tính định đoạt đối với ứng sinh linh mục. Ngay cả trong trường hợp cha mẹ và gia đình dửng dưng hoặc chống đối việc lựa chọn ơn gọi, cách phát biểu lập trường trong sáng và minh bạch của họ cùng với động cơ kích thích phát xuất từ đó, đối với chúng sinh, sẽ là một trợ lực lớn lao để cho ơn gọi linh mục được chín muồi một cách có ý thức hơn và nhất định hơn.

Trong liên hệ sâu đậm với gia đình, có cộng đoàn giáo xứ ; cả hai kết hiệp với nhau trên phương diện giáo dục đức tin. Hơn nữa, nhờ một nền mục vụ đặc biệt dành cho những người trẻ và các ơn gọi, giáo xứ đóng vai trò bổ khuyết, trong tương quan với gia đình. Nhất là, với tư cách thể hiện mầu nhiệm Giáo Hội một cách cận kề hơn, giáo xứ cống hiến một sự đóng góp nguồn cội và hết mực quý giá cho nền đào tạo linh mục tương lai. Cộng đoàn giáo xứ phải tiếp tục coi người trẻ đang trên đường tiến tới chức linh mục như một thành phần sống động của mình. Cộng đoàn giáo xứ phải tiếp tục coi người trẻ đang trên đường tiến tới chức linh mục như một thành phần sống động của mình. Cộng đoàn giáo xứ phải sát cánh với người trẻ bằng việc cầu nguyện, phải đón tiếp người trẻ một cách chân tình trong những thời gian nghỉ hè, phải tôn trọng và tạo điều kiện thuận lợi để người trẻ được đào tạo về căn tính linh mục của mình, bằng cách tạo cho người trẻ những cơ hội thích đáng và những kinh nghiệm phù hợp nhằm tôi luyện ơn gọi của người trẻ trước sứ vụ linh mục.

Cả các hiệp hội và các phong trào người trẻ, là dấu chỉ và là lời xác quyết về sức sống mà Thần Khí bảo đảm ban cho Giáo Hội cũng có thể và phải đóng góp vào việc đào tạo các ứng sinh linh mục, cách riêng cho những người đã sống kinh nghiệm Kitô hữu, thiêng liêng và tông đồ trong các cộng đoàn ấy. Những người trẻ đã lãnh nhận sự đào tạo nền tảng trong các hiệp hội như thế và đang qui chiếu về đó để múc lấy kinh nghiệm về Giáo Hội không được để cho mình cảm thấy như bị mời gọi thoát ra khỏi quá khứ và cắt đứt những mối tương quan với môi trường đã góp phần giúp mình đáp lại ơn gọi. Những người trẻ ấy không được xoá bỏ những đường nét tiêu biểu của nền linh đạo mà mình đã lãnh nhận và đã sống ở đó, với tất cả những gì là tốt lành, là xây dựng và là làm cho phong phú mà mình nắm giữ được (210). Bởi đó, đối với họ, môi trường xuất phát vẫn tiếp tục là nguồn trợ lực và nâng đỡ trên bước đường đào tạo linh mục.

Những cơ hội giáo dục đức tin, những cơ hội tăng triển Kitô giáo và Giáo Hội mà Chúa Thánh Thần tạo cho biết bao người trẻ, qua muôn vàn hình thức tập thể, nhóm, phong trào và hiệp hội với nguồn hứng khởi tin mừng đa dạng, cần phải được nhận định và sống như một ân huệ đến từ một nguồn mạch nuôi dưỡng ở bên trong cơ chế và nhằm phục vụ cho cơ chế. Thật vậy, một phong trào riêng biệt hay một nền linh đạo riêng biệt thì “không phải là một cấu trúc thay cho cơ chế. Ngược lại, đó là nguồn mạch không ngừng tái tạo tính chính hiệu hiện sinh và lịch sử của cơ chế. Bởi đó linh mục cần phải tìm thấy, trong một phong trào, ánh sáng và sức nóng nhờ đó mình có đủ khả năng trung thành với giám mục, nhờ đó mình được chuẩn bị sẵn sàng để chu toàn những đòi buộc của cơ chế và để chú tâm tới kỷ luật của hàng giáo sĩ, nhằm mục đích làm cho nhiệt tình đức tin và ước muốn trung tín của mình được nên đậm đà hơn” (211).

Bởi vậy, trong cộng đoàn mới của chủng viên mà họ được giám mục quy tụ, những người trẻ xuất phát từ các hiệp hội và các phong trào của Giáo Hội cần phải học tập “sự kính trọng đối với những con đường thiêng liêng khác, tinh thần đối thoại và cộng tác”, họ cần phải tuân thủ một cách nghiêm nhặt và chân tình những chỉ dẫn đào tạo mà giám mục và các nhà giáo dục của chủng viện ban hành, bằng cách rập theo những hiệu lệnh và những phán quyết của các vị ấy với lòng tin cậy chân thành (212). Thật ra, thái độ ấy sửa soạn và, một cách nào đó, chuẩn bị trước cho sự lựa chọn chính hiệu của linh mục nhằm phục vụ toàn thể Dân Chúa, trong sự hiệp thông huynh đệ với linh mục đoàn và trong sự vâng phục đối với giám mục.

Việc chủng sinh hoặc linh mục triều tham dự vào những nền linh đạo riêng biệt và vào những nhóm hoặc tập thể thuộc về Giáo Hội chắc chắn tự nó là một yếu tố ích lợi cho sự tăng triển và cho tình huynh đệ linh mục. Dầu vậy, việc tham dự ấy không được gây phiền lụy nhưng ngược lại, phải trợ giúp cho việc thi hành thừa tác vụ và đời sống thiêng liêng đặc thù của linh mục triều, vì linh mục triều “vẫn luôn là mục tử của toàn thể mọi người. Linh mục triều chẳng những là người “thường trực” sẵn sàng phục vụ mọi người mà còn đóng vai chủ sự trong cuộc gặp gỡ mọi người – cách riêng ngài đứng đầu các giáo xứ -, ngõ hầu mọi người gặp được sự tiếp đón mà họ có quyền chờ đợi trong cộng đoàn và trong Tiệc Thánh Thể là cơ hội quy tụ của họ, không kể đến tính nhạy cảm tôn giáo cũng như con đường dấn thân mục vụ của họ” (213).

Đích thân ứng sinh.

69. Sau hết, không thể quên được rằng ứng sinh linh mục chính mình là chiến hữu tiên phong cần thiết và bất khả thay thế cho nền đào tạo của mình : mọi nền đào tạo, kể cả đào tạo linh mục, cuối cùng là một công cuộc tự đào tạo. Quả vậy, không ai có thể trám chỗ cho tự do hữu trách của mỗi người với tính cách là ngôi vị độc nhất.

Chắc hẳn linh mục tương lai phải là người đầu tiên nhận thức một cách mãnh liệt hơn rằng Vị Chiến Hữu Tiên Phong tuyệt hảo của nền đào tạo dành cho mình, đó là Chúa Thánh Thần, Đấng ban cho trái tim mới, làm cho nên đồng hình dạng và nên một với Đức Giêsu Kitô Mục Tử Nhân Lành : hiểu như thế, ứng sinh sẽ phải củng cố triệt để tự do của mình bằng cách đón nhận hoạt động giáo dục của Chúa Thánh Thần. Thế nhưng đón nhận hoạt động ấy thì, về phía ứng sinh linh mục, cũng có nhĩa là đón nhận những “vai trò trung gian” nhân loại mà Chúa Thánh Thần sử dụng. Chính vì thế, hoạt động của các nhà giáo dục chỉ hữu hiệu thật sự và trọn vẹn nếu linh mục tương lai cộng tác vào đó một cách tự thân, thâm tín và vui lòng.

còn tiếp

chú thích: Lưu ý: những số chú thích nhỏ hơn đã được ghi vào số báo kỳ trước

200) X. Propositio 17.

201) X. Thánh Bộ Giáo Dục Công Giáo, Ratio Fundamentalis institutionis saerdotalis (6/1/1970), số 19: 1.c., tr 342.

202) Sắc lệnh về thừa tác vụ và đời sống linh mục, Presbyterorum ordinis, LM, số 7.

203) Propositio 29.

204) Như trên.

205) X. Propositio 23.

206) X. Tông Huấn Hậu Thượng Hội Đồng Christifideles laici (30/12/1988), số 61; 63 : 1.c tr. 512-514; 517-518, Tông Thư Mulieris dignitatem (15/8/1988), số 29-31: 1.c., tr.1721-1729.

207) X. Propositio 29.

208) Propositio 30.

209) Như trên.

210) X. propositio 25.

211) Diễn văn ngỏ với các linh mục tương cận với phong trào “Hiệp Thông và Giải Phóng” (12/9/1985): AAS 78 (1986), tr. 256.

212) X. Propositio 25.

213) Cuộc gặp gỡ với các đại biểu hàng giáo sĩ Thụy Sĩ ở Einsieden (15/6/1984), số 10 : Insegnamenti VII/1 (1984), tr. 1798.

 

VỀ MỤC LỤC
LỄ CHÚA CỨU THẾ - TIN HOẶC KHÔNG TIN
 

 

Tin Mừng Đức Giêsu Kitô theo Thánh Gioan ( Ga 3, 13 – 21 ):

“Khi ấy, Chúa Giêsu nói cùng ông Nicôđêmô rằng: “Không ai đã lên Trời, ngoại trừ Con Người, Đấng từ Trời xuống. Như ông Môsê đã giương cao con rắn trong sa mạc, Con Người cũng sẽ phải được giương cao như vậy, để ai tin vào Người thì được sống muôn đời. Thiên Chúa Yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời.

Quả vậy, Thiên Chúa sai Con của Người đến thế gian, không phải để lên án thế gian, nhưng là để thế gian, nhờ Con của Người, mà được cứu độ. Ai tin vào Con của Người, thì không bị lên án; nhưng kẻ không tin, thì bị lên án rồi, vì đã không tin vào danh của Con Một Thiên Chúa.

Và đây là bản án: ánh sáng đã đến thế gian, nhưng người ta đã chuộng bóng tối hơn ánh sáng, vì các việc họ làm đều xấu xa. Quả thật, ai làm điều ác, thì ghét ánh sáng và không đến cùng ánh sáng, để các việc họ làm khỏi bị chê trách. Nhưng kẻ sống theo sự thật, thì đến cùng ánh sáng, để thiên hạ thấy rõ: các việc của người ấy đã được thực hiện trong Thiên Chúa”.

Dựa vào mạch ý bài Tin Mừng, xin được tách làm bốn phần chia sẻ, hai phần đầu đối lập nhau giữa thái độ tin và không tin, giữa chọn lựa Ánh Sáng và Bóng Tối; hai phần sau cũng đối lập nhau khi đề cập đến thái độ chưa tin nhưng rồi sẽ tin, và ngược lại, tin mà lại chưa thật sự tin, cứ lập lờ nước đôi giữa Ánh Sáng và Bóng Tối.

Đó là 4 thái độ, 4 chọn lựa khác nhau của người đời, của cả chúng ta nữa khi đối diện với một Đấng “từ Trời xuống”, đã được “giương cao lên” và đã “lại lên Trời”, Đấng ấy là chính Con Một của Thiên Chúa, đã tự nguyện làm người, chịu đóng đinh, bị giết chết thê thảm nhưng đã sống lại trong vinh quang. Đây là một biến cố lịch sử có thật, đã xảy ra, không ai có thể phủ nhận và dửng dưng chối bỏ được. Và người ta bị đặt trước một chọn lựa, buộc phải có một thái độ nào đó, tắt một lời, hoặc tin hoặc không tin !

 

1.  TIN – SỐNG TRONG ÁNH SÁNG

Trong câu chuyện ban đêm giữa Chúa Giêsu và ông Ni-cô-đê-mô, Ngài nhắc lại sự kiện trong Cựu Ước ông Mô-sê đã cho đúc một con rắn bằng đồng giương cao trên đỉnh một cây cột trồng giữa hoang mạc. Những người bị rắn độc cắn cứ ngước mắt nhìn lên tượng rắn đồng thì được cứu khỏi chết ( Ds 21, 4 – 9 ). Ngài đã nói về chính mình ở ngôi thứ ba với danh xưng long trọng “Con Người” cùng với sứ mạng cứu độ trần gian của Ngài. Sứ mạng này bắt nguồn từ Tình Yêu của Thiên Chúa Cha dành cho nhân loại. Ngài bảo: “Thiên Chúa Yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời”.

Vậy điều kiện duy nhất để được cứu, được thoát chết là tin vào chính Đức Giêsu, một Đức Giêsu chịu đóng đinh trên thập giá trồng trên một ngọn đồi cao, y như con rắn đồng ngày xưa trong hoang mạc.

Kỳ lạ thật, ai lại đi chọn một hình tượng ghê sợ như thế, một hình tượng chết chóc kinh hoàng như thế để bảo đảm cho một sự sống ? Có ngược đời không ? Thưa không ! Bởi Đức Giêsu đã chịu chết thật sự trên thập giá đấy, nhưng rồi Ngài đã thật sự phục sinh, khải hoàn vinh quang, nghĩa là ngang qua thập giá, ngài đã chiến thắng sự chết.

Hồi còn ở Học Viện Liên Dòng, chúng tôi có nghe một cha giáo dạy môn Luân Lý, kể chuyện một người vô thần đến chơi nhà một người bạn thân Công Giáo, ông ta nhìn lên tượng thập giá treo trên tường rồi mỉa mai: “Sao ông lại đi thờ một cái xác chết treo như thế ? Đã chết rồi thì còn làm được gì nữa cơ chứ ?!?” Người bạn Công Giáo mỉm cười trả lời: “Vâng, đúng là Chúa Giêsu của chúng tôi đã chết thật sự rồi, nhưng ông không biết hoặc ông biết mà ông không tin đấy thôi, Ngài cũng đã sống lại thật sự rồi. Tôi không thể giải thích sao cho ông hiểu, nhưng phần tôi, tôi tin, thế là đủ rồi !”

Vâng, đúng là chỉ cần tin vào Đức Giêsu chết và sống lại là đã đủ điều kiện để chúng ta được sống muôn đời. Tin như thế mới là tin, chứ nếu còn chứng minh, còn dùng lập luận lý lẽ và thông số khoa học mà chứng minh được rồi mới tin thì lại chẳng còn gọi là tin nữa !

 

2.  KHÔNG TIN – Ở LẠI TRONG BÓNG TỐI

Chúa Giêsu lại khẳng định thêm: “Ai tin vào Con của Người, thì không bị lên án; nhưng kẻ không tin, thì bị lên án rồi, vì đã không tin vào danh của Con Một Thiên Chúa”.

Thật ra Chúa Giêsu rộng lượng bao dung, Ngài chẳng hề lên án kết tội ai. Nhưng khi con người ta đã có cơ hội được nghe nói về Chúa, đã chứng kiến quyền năng Chúa tỏ hiện, mà lại vẫn cứ khăng khăng không chịu tin, không chấp nhận Chúa, không để cho Chúa đi vào cuộc đời mình, dứt khoát không tuân theo những chỉ dạy hướng dẫn của Chúa, thậm chí ngoan cố chống lại Thánh Ý yêu thương của Chúa, tìm cách tiêu diệt loại trừ Chúa, bách hại cả những ai tin theo Chúa. Và như thế kẻ không tin cũng đồng thời khước từ con đường sống, con đường giải thoát cho chính mình, nghĩa là tự chọn lấy con đường chết, tự kết án chết cho chính mình.

Mà một khi đã không đi theo con đường sống chân thiện mỹ của Chúa, những người này chỉ còn biết tìm bóng tối như một đồng lõa để “làm điều ác”, để “làm điều xấu xa”. Họ chuộng bóng tối hơn ánh sáng” vì bóng tối che giấu cho những việc mờ ám độc dữ họ đã, đang và sẽ làm. Họ căm ghét ánh sáng cũng phải, bởi ánh sáng của sự thật làm lộ ra tâm địa gian ngoa lường gạt dối trá của họ. Hơn nữa, bóng tối đem lại cho họ bao nhiêu quyền lợi và quyền lực, họ không thể rời bỏ bóng tối, họ luyến tiếc bóng tối, họ ở lì lại mãi trong bóng tối của sự chết nên làm sao mà đến cùng ánh sáng của sự sống được ? Họ vẫn còn đang sống mà như đã chết mất rồi.

Chúng tôi còn nhớ một cha trong DCCT có kể lại, một lần ngài được mời đến thăm một người hấp hối. Con cháu của cụ già ấy rất muốn người thân mình quay trở về với Chúa sau gần cả cuộc đời bỏ Đạo, chống lại Giáo Hội và căm ghét Chúa. Thế nhưng mặc cho Linh Mục trò chuyện khuyên nhủ, cụ già ấy dứt khoát quay lưng lại, chỉ nhìn vào bức tường, cho đến khi co giật run rẩy thở hơi cuối cùng, tay vẫn cứ khư khư ôm một lon Guigoz đầy những cây vàng đã thu vén cả đời bằng những việc bất chính !

Thiên Chúa nhân ái và Giáo Hội nhẫn nại đã cố làm mọi cách nhưng trong không ít trường hợp vẫn phải chịu thua trước những con người hoàn toàn tự do quyết định không tin là không tin ! Và chúng ta hiểu đó là quyền lực của Sự Dữ, của Bóng Tối... Rất may và thật đáng vui mừng, hầu hết các trường hợp khác, quyền năng do lòng thương xót của Thiên Chúa vẫn chiến thắng, Bóng Tối đã bị đẩy lui có khi vào những giây phút cuối cùng của cuộc đời. Đức Tin tưởng là không có hoặc đã đánh mất, bỗng bừng tỉnh và dẫn đưa con người sa ngã như thể trỗi dậy, bước đi những bước sau hết trong bình an vào cõi sống muôn đời...

 

3. CHƯA TIN MÀ NHƯ THỂ ĐÃ TIN – TỪ BÓNG TỐI TIẾN DẦN ĐẾN CÙNG ÁNH SÁNG

Không thiếu gì những chứng tá cho thấy nhiều người không Công Giáo, thậm chí là người vô thần, lại có một cuộc sống tốt lành như thể được chính Thiên Chúa hướng dẫn, như thể họ có sẵn một hạt mầm Đức Tin ẩn tàng chôn sâu trong thửa đất tâm hồn. Và chỉ chờ đến một lúc, đến “Giờ của Chúa” bày tỏ quyền năng yêu thương, những con người tuyệt vời ấy bật thốt lên lời tuyên xưng vào Chúa Giêsu Kitô.

Chúng ta có thể xếp họ vào loại “những kẻ sống theo sự thật”. Lương tri của họ dẫu chưa biết Chúa, chưa tin, chưa theo Chúa, thì vẫn là lương tri xuất phát từ Thiên Chúa, là “thiên lương”, là “thiện lương”, là “Thiện Căn ở tại lòng ta, chữ Tâm kia mới bằng ba chữ tài” theo cách diễn tả của thi hào Nguyễn Du trong Truyện Kiều. Họ không ở trong bóng tối nhưng đang “đến cùng ánh sáng”. Và cuộc đời những con người ấy xứng đáng được coi là “đã được thực hiện trong Thiên Chúa”.

Có một nhà văn lão thành từ thời Tự Lực Văn Đoàn, sau theo Cách Mạng có nhiều công to trong ngành văn hóa văn nghệ. Đến cuối đời già yếu vào Sàigòn, cụ cứ thấy trăn trở băn khoăn mãi về cuộc sống sau cái chết dù cả đời cụ đã chẳng làm điều gì độc ác. Cụ được một người quen giới thiệu với cha Tiến Lộc, DCCT, cha đã đến và trò chuyện với cụ mới biết từ gần bảy mươi năm trước, khi còn bé học trường bà sơ, đã được dạy cho Kinh Kính Mừng bằng tiếng Pháp. Nay nhắc đến, cụ vẫn đọc được trôi chảy và thật trân trọng. Những giờ phút cuối lìa đời, cụ đã được thanh tẩy với tên Thánh Bổn Mạng là Maria. Hóa ra chính Đức Mẹ đã gieo một hạt giống Đức Tin bé nhỏ từ lâu lắm rồi ! Và nay chính Đức Tin ấy dẫn cụ già đến với Đức Giêsu Kitô, Con của Mẹ...

 

4.    TIN MÀ VẪN CHƯA TIN – LẬP LỜ GIỮA ÁNH SÁNG VÀ BÓNG TỐI

Cuối cùng, tuy không thấy Chúa Giêsu nói gì về một thái độ lập lờ nước đôi, tin mà lại chưa thật sự tin, nhưng chúng ta cũng nhận thấy nơi nhiều người mang danh là Kitô hữu chung quanh chúng ta, cũng đôi khi ngay chính nơi chúng ta một cung cách sống Đạo ma... vô Đạo. Hỏi có tin không thì thưa vẫn có tin đấy chứ, nhưng xét lòng một cách chân thành tới nơi tới chốn, thì phải thú thật rằng mình đã sống tệ hại không khác gì kẻ không tin !

Coi chừng, thái độ tin nửa vời như thế đã từng bị Chúa Giêsu cảnh cáo là đạo đức giả, là dở dở ương ương, “giống như mồ mả tô vôi, bên ngoài có vẻ đẹp nhưng bên trong thì đầy xương người chết và đủ mọi thứ ô uế”; “bên ngoài thì có vẻ công chính trước mặt thiên hạ, nhưng bên trong toàn là giả hình và gian ác” ( Mt 23, 27 – 28 ).

Thật vậy, một thái độ nửa nạc nửa mỡ, ba rọi như thế chỉ là một thứ ngụy trang cho một kiểu cách sống chất chứa toàn những điều sai quấy: mở cửa tiệm với một bàn thờ Thần Tài để trong góc; xây nhà cũng phải mời thầy địa lý để chấn trạch yểm bùa; cưới gả con cái phải đi coi bói, xem tướng cho bằng được; buôn bán thì gian lận, quịt nợ ăn bớt hớt xén; sẵn sàng hối lộ tham nhũng để thu vén càng nhanh càng nhiều càng tốt; khi giàu rồi thì ăn chơi sa đọa, vung tiền qua cửa sổ để hưởng thụ thừa mứa, nhưng lại keo kiệt tàn nhẫn đối với người làm công cho mình; cư xử bất hiếu với cha mẹ, bạc bẽo phi nghĩa với mọi người, lăng nhăng ngoại tình, phá thai; chẳng từ một thủ đoạn độc ác và dối trá nào để đạt được ý muốn riêng v.v... Vậy mà vẫn chẳng bỏ Nhà Thờ Nhà Thánh bao giờ, vẫn đọc kinh lần chuỗi, thậm chí còn tham gia hội đoàn và ghi sổ vàng bác ái khi có dịp để gọi là... thêm công đức !

Kitô hữu mà như thế thì là phản Kitô, phi Kitô ! Tin mà như thế thì chẳng khác gì không tin ! Mà không tin tức là đã “bị lên án rồi”, tức là đã tự mình chìm sâu vào bóng tối của sự chết.

May quá, Giáo Hội vẫn được Chúa Giêsu ủy thác cho quyền năng tha thứ và chữa lành trong Bí Tích Hòa Giải và Thánh Lễ, để qua mọi biến cố buồn vui thăng trầm của cuộc đời, qua lời cầu nguyện của những người thiện chí, qua cả nhịp sống Phụng Vụ với các Mùa Vọng và Mùa Chay, qua chính dịp Lễ Chúa Cứu Thế hàng năm như chúng ta sắp cùng anh em DCCT toàn thế giới mừng kính sắp tới đây, những tâm hồn sai lạc đáng thương ấy vẫn còn có cơ may để sám hối, để được giao hòa trở lại cùng Thiên Chúa...

Lm. LÊ QUANG UY, DCCT,  Lễ Chúa Cứu Thế 2005 – 2010

VỀ MỤC LỤC
THƯ CHỊ THÁNH TÊRÊXA VIẾT CHO NGƯỜI ANH EM CHỦNG SINH (2)
 

Năm thánh hóa linh mục đang dần dần kết thúc để đẩy các linh mục của Chúa vững bước hành trình trên nẻo đường hy vọng. Xin trân trọng giới thiệu với quý độc giả, cách riêng là anh em linh mục, 6 lá thư của Chị thánh Têrêxa Hài Đồng Giêsu viết cho Cha Roulland và 11 lá thư cho một thầy đại chủng sinh, người mà sau khi Chị Thánh qua đời mới được thụ phong linh mục: Cha Bellière.

Năm thánh hóa linh mục cũng mời gọi chủng ta cầu nguyện cho các linh mục tương lai. Để có những linh mục thánh, chúng ta cần có những chủng sinh nồng nàn khát khao nên thánh như Thầy Chí Thánh.

Maurice-Marie-Louis Bellière (1874-1907) nhỏ hơn Têrêxa 01 tuổi và là người anh em thiêng liêng đầu tiên của Chị Thánh (1895); vào Tập Viện Dòng Trắng 29/9/1897, tức là trước khi Têrêxa qua đời 01 ngày. Bellière thụ phong LM vào năm 1901, sau đó đi tông đồ tại Nyassa từ 1902 đến 1905, tới năm 1906 thì quay về lại Pháp; Có tất cả là 11 thư trao đổi với Têrêxa từ 21/10/1896 đến 25/8/1897. (Trích từ Petit Dictionnaire des Noms Propres; Oeuvres Complètes; Textes et Dernières Paroles, nxb Cerf 1992 -Chú thich thêm của ND -)

Dưới đây xin giới thiệu thư thứ ba trong những thư Chị Thánh gởi thầy Bellière, do ông Nôbertô Thái Văn Hiến dịch.

Lm Trăng Thập Tự

Thư 220: Gửi thầy Đại Chủng Sinh Bellière

(Cát Minh Lisieux)

 G.M.G.T

Tối thứ tư – 24/02/1897

Giêsu V

Thăm thầy kính mến,

Trước khi bước vào sự thinh lặng suốt bốn mươi ngày thánh[1], con muốn kèm một vài lời theo thư của Mẹ Đáng Kính của chúng con, để cảm ơn thầy về những gì mà tháng trước thầy đã gửi cho con[2].

Nếu thầy cảm thấy được an ủi khi nhớ ở Cát Minh, có một người chị em đang không ngừng cầu nguyện cho thầy, thì lòng biết ơn của con cũng không ít hơn thầy đâu, bởi vì Chúa đã ban cho con một người anh em nhỏ mà Ngài có ý định làm cho trở thành Linh Mục và Tông Đồ của Ngài… Quả thật chỉ có ở trên Thiên Đàng thầy mới biết được là thầy quí giá với con đến chừng nào, con cảm thấy tâm hồn chúng ta được dựng nên là để hiểu nhau, bức thư của thầy mà thầy nói với con là: “thô thiển và cụt ngủn” chứng tỏ cho con thấy Giêsu đã đặt trong tâm hồn thầy những khát khao mà Ngài chỉ ban cho những linh hồn được gọi đến với sự thánh thiện cao cả nhất. Bởi chính Ngài đã chọn con làm người chị em của thầy, cho nên con hy vọng Ngài sẽ không nhìn vào sự yếu đuối của con hay đúng hơn Ngài sẽ dùng chính sự yếu đuối ấy để thực hiện công việc của Ngài; vì Thiên Chúa Hùng Mạnh thích chứng tỏ quyền năng của Ngài bằng cách dùng những điều chẳng là gì cả (Is. 9,5) – Được hiệp nhất trong Ngài, linh hồn chúng ta mới có thể nhờ đó mà cứu được nhiều linh hồn khác (1Cr 1,27) bởi chưng Giêsu hiền lành đã nói: “Nếu ở dưới đất, hai người trong anh em hợp lời cầu xin bất cứ điều gì, thì Cha Thầy, Đấng ngự trên trời sẽ ban cho” (Mt 18, 19). Ôi! điều mà chúng ta cầu xin Ngài, đó là được làm việc vì vinh quang Ngài, là yêu mến và làm cho Ngài được yêu mến … Vậy thì vì lẽ gì mà sự kết hiệp và lời cầu nguyện của chúng ta lại không được chúc phúc?

Thưa thầy kính mến, bởi khúc diễm tình ca[3] đã làm cho thầy hài lòng, cho nên Mẹ Nhân Lành của chúng con đã bảo con chép cho thầy nhiều khúc khác nữa, nhưng phải mất vài tuần lễ nữa thầy mới nhận được, bởi con không có nhiều lúc rảnh rỗi ngay cả vào ngày Chúa nhật, vì bận việc ở phòng thánh. Những bài thơ đáng thương ấy sẽ làm cho thầy thấy không chỉ con là gì, mà còn cả những gì mà con muốn và phải trở nên nữa… Khi làm ra những bài thơ ấy con đã chú tâm đi sâu vào nội dung hơn là hình thức, vì thế mà niêm luật về thơ phú không phải khi nào cũng được tuân thủ, mục đích của con là diễn giải những tâm tình của mình (hay nói đúng hơn là những tâm tình của người nữ tu Cát Minh) để đáp lại những mong muốn của các chị em con. Những câu thơ ấy thích hợp với một nữ tu hơn là một Đại Chủng Sinh, tuy nhiên con vẫn hy vọng là chúng sẽ làm thầy vui thích. Tâm hồn thầy chẳng phải là hôn thê của Con Chiên Thiên Chúa và sẽ không sớm trở thành hiền thê của Ngài, vào ngày diễm phúc được chịu chức Phó Tế của thầy sao?

Thưa thầy kính mến, con xin cảm ơn thầy vì đã chọn con làm mẹ đỡ đầu cho đứa con đầu tiên mà thầy sẽ vui sướng ban phép Rửa tội[4], vì thế mà con phải chọn tên cho con đỡ đầu của mình; con muốn đặt người con ấy dưới sự bảo của Đức Trinh Nữ, Thánh Giuse và Thánh Maurice, quan thầy của đứa em trai yêu dấu của con. Dĩ nhiên người con ấy vẫn còn đang nằm trong ý tưởng của Chúa Nhân Lành, nhưng con đã cầu nguyện cho [2ro] người con ấy và đã chu toàn trước những bổn phận làm mẹ đỡ đầu của con rồi. Con cũng cầu nguyện cho tất cả các linh hồn sẽ được ký thác cho thầy và nhất là con nài xin Giêsu trang điểm thật đẹp cho linh hồn thầy bằng tất cả các nhân đức và đặc biệt là bằng tình yêu của Ngài. Thầy nói với con là thầy cũng rất thường cầu nguyện cho người chị em của thầy; vì thầy có lòng bác ái như vậy, nên con sẽ hết sức sung sướng nếu thầy đồng ý mỗi ngày dành riêng lời cầu nguyện cho tất cả những ước ao của người chị em ấy: “Lạy Cha đầy lòng thương xót, nhân danh Giêsu Hiền Lành Dịu Ngọt của con, Đức Trinh Nữ Maria và các Thánh, con cầu xin Cha hãy làm rực cháy trong người chị em con Thần Khí Tình Yêu của Cha và ban cho người chị em ấy hồng ân làm cho Cha được yêu mến nhiều[5]” Thầy đã hứa là sẽ cầu nguyện cho con suốt đời thầy, vậy chắc là cuộc đời ấy sẽ dài hơn cuộc đời con và thầy không được phép hát như con: “Con hy vọng ngày tháng lưu đày của con sẽ ngắn ngủi[6]!...” nhưng thầy cũng không được phép quên lời hứa của thầy đâu. Nếu Chúa sớm đưa con về với Ngài, thì con xin thầy tiếp tục mỗi ngày cũng bằng lời cầu nguyện ấy, bởi trên Trời con cũng vẫn ươc sao một điều như khi còn ở dưới thế: Yêu mến Giêsu và làm cho Ngài được yêu mến.

Thưa thầy kính mến, chắc là thầy nhận thấy con quá lạ lùng, có thể thầy lấy làm tiếc vì có một người chị em có vẻ như muốn đi an hưởng sự nghỉ ngơi đời đời và để thầy phải làm việc một mình … nhưng xin thầy hãy yên tâm, điều duy nhất con ao ước, đó là ý Chúa Nhân Lành, và con thú thật là nếu trên Thiên Đàng, con không thể làm việc vì vinh quang của Ngài được nữa, thì con sẽ ưa thích nơi lưu đày hơn là quê trời.

Con không biết được tương lai, tuy nhiên nếu Giêsu thực hiện [2vo] những linh cảm của con, thì con hứa với thầy là vẫn luôn làm người chị em bé mọn của thầy ở Trên ấy. Sự kết hiệp của chúng ta, còn xa mới bị cắt đứt, sẽ càng trở nên mật thiết hơn, bấy giờ sẽ không còn hàng rào ngăn cách, không còn chắn song và linh hồn con sẽ có thể bay đi cùng với thầy đến những nơi truyền giáo xa xôi. Vai trò của mỗi người chúng ta vẫn thế, thầy nắm giữ vũ khí tông đồ, còn con là lời cầu nguyện và tình yêu.

Thưa thầy quí mến, con e là mình quên, vì đã muộn, trong vài phút nữa sẽ đến giờ thần vụ[7] rồi, thế nhưng con vẫn còn một thỉnh cầu nữa với thầy – Con rất muốn được thầy ghi lại cho con những ngày tháng đáng nhớ trong cuộc đời thầy để con có thể kết hợp với thầy một cách hoàn toàn đặc biệt mà cảm ơn Đấng Cứu Độ Dịu Hiền vì những hồng ân Ngài đã ban cho thầy.

Trong Thánh Tâm Giêsu Thánh Thể sắp hiển hiện trước những tôn thờ[8] của chúng con, con sung sướng được mãi mãi xưng mình là

Người chị em hét sức hèn mọn và bất xứng của thầy

 Têrêxa Hài Đồng Giêsu Thánh Nhan

 Rel. carm. ind.

 

[1] Mùa Chay bắt đầu vào ngày 03 tháng 3.

[2] Đây là phần trích từ bức thư ấy: “Chị quí mến trong Chúa. Lòng nhân lành Chúa dành cho em thật vô cùng xúc động và ngay cả lòng nhân lành Ngài thông ban cho chị đang hoạt động trong tâm hồn em cũng hoàn toàn được củng cố bởi những quan tâm do lòng bác ái chị đã mách bảo. Em cảm thấy mình trở nên tốt hơn mỗi lần nhận được một chút lòng đạo đức được người ta sống trong nhà Cát Minh – và em muốn yêu Giêsu như ở đấy chị đang yêu. Chị mến, khi biên soạn, chị đã có sẵn trong lòng khúc diễm tình ca mà chị đã thương gửi cho em. Trong đó người ta hít thở một hơi thở thánh thiêng làm cho trở nên tinh tuyền và mạnh mẽ (…) Em muốn mình có thể hát lên được như chị, chị quí mến ạ, để nói với Giêsu những tâm tình bắt nguồn từ chính những tâm tình của chị gợi lên cho – Nhưng Ngài rất nhân lành chỉ rủ lòng chấp nhận lá thư thô thiển và cụt ngủn của em mà thôi. Trái Tim Ngài vô cùng trìu mến nên không mấy quan tâm đến hình thức và Hồng Ân của người vẫn hằng tuôn xuống. Ôi! vâng, chị quí mến, “Chúng ta hãy sống tình yêu”. (Thư trao đổi LC 174, 31/01/1897)

[3] Bài thơ Sống Tình Yêu! của Têrêxa, ngày 26 tháng 2 năm 1895.

[4] Thầy Bellière từ lúc đó đã chắc chắn là sẽ đi Châu Phi vào tháng 10: “Năm tới, sẽ là Tập Viện, chuẩn bị trước mắt và sau đó là “Tiến lên, vì Chúa và Công Việc”. Khi nào rửa tội cho đứa con da đen đầu tiên, em sẽ xin Mẹ Đáng Kính của các chị để chị làm mẹ đỡ đầu cho nó – bởi đó sẽ là con của chị, hẳn là chị sẽ lôi cuốn nó đến với Chúa hơn em đấy” (LC 174)

[5] Xem lời thỉnh cầu tương tự với Cha Roulland, Thư 189.

[6] Thơ Sống Tình Yêu!, khổ 9

[7] Thần vụ kinh Sáng, vào lúc 21 giờ.

[8] Trong ba ngày được gọi là Bốn Mươi Giờ.

Nobertô Thái Văn Hiến (dịch)

VỀ MỤC LỤC
XIN - CHO

 

Tiến Sỹ Nguyễn Quang A, (Báo Lao động cuối tuần số 18, ngày 16 tháng 5 năm 2010) viết: “Trong khoa học kinh tế (và có lẽ trong các khoa học xã hội khác) không có cái gọi là “cơ chế xin-cho”. Nó là thuần Việt. Chưa có ai định nghĩa cơ chế này một cách tường minh. Người ta thường hiểu là: “bên xin” (thường là cấp dưới, người dân, hay doanh nghiệp) xin “bên cho” (thường là cấp trên, các cơ quan nhà nước) cái gì đó mà “bên cho” có quyền quản lý (có thể lại là một “cơ chế” nào đó mà địa phương xin trung ương chẳng hạn, có thể là quyền kinh doanh, tài nguyên hay nguồn lực gì đó) và bên cho có thể cho hay không cho.”

Trong xã hội người ta đã mệt mỏi bởi cơ chế xin cho. Vậy hiểu từ “xin cho” thế nào trong kinh Lạy Cha?

Nguyện Danh Cha.

Trong Kinh Lạy Cha thường đọc “nguyện Danh Cha”, đó là một từ được hiểu một cách rõ ràng: thể hiện mong muốn và quyết tâm thực hiện. Hiểu chữ nguyện như vậy, chúng ta mới dễ dàng giải thích: Danh Cha cả sáng, Nước Cha trị đến, Ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời. Danh Cha đã cả sáng, Nước Cha cũng đã trị đến và Ý Cha cũng đã thể hiện toàn vẹn trong Chúa Giêsu, chúng ta mong muốn và quyết tâm thực hiện những điều đó nơi bản thân mỗi người chúng ta.

Xin tha…như chúng con cũng..:

Việc xin bày tỏ đồng thời với việc thực hành, đồng nghĩa với việc nguyện ở trên. Kinh Lạy Cha không phải là cơ chế xin cho.

Xin được, gõ mở, tìm gặp:

Diễn tả một hành trình thực hiện những ước nguyện trong cuộc đời. Thiên Chúa đã ban cho sẵn tất cả, ai cũng như ai: “Người cho mặt trời của Người mọc lên soi sáng kẻ xấu cũng như người tốt, và cho mưa xuống trên người công chính cũng như kẻ bất chính” (Mt 5, 45). Việc quan trọng là thực hiện những điều Chúa dạy, đó là chỉ nam cho hành trình tìm gặp, gõ mở, xin cho.

Chúa không dạy xin – cho:

"Không phải bất cứ ai thưa với Thầy: "Lạy Chúa! lạy Chúa! " là được vào Nước Trời cả đâu! Nhưng chỉ ai thi hành ý muốn của Cha Thầy là Đấng ngự trên trời, mới được vào mà thôi” (Mt 7, 21). Đời sống cầu nguyện luôn đi đôi với đời sống thực hành, đó là lý tưởng của đời sống để thấy được “Chúa đã làm cho tôi những điều trọng đại” (Lc 1, 49).

Ở trong Chúa.

Hiệu quả của đời sống thực hành Lời Chúa đó là đưa chúng ta ở trong Chúa. Trong lời nguyện hiến tế Chúa Giêsu bày tỏ: “để tất cả nên một, như Cha ở trong con và con ở trong Cha để họ cũng ở trong chúng ta. Như vậy, thế gian sẽ tin rằng Cha đã sai con” (Ga 17, 21). Khi chúng ta ở trong Chúa, đau khổ của ta là đau khổ trong Chúa, hạnh phúc của ta là hạnh phúc trong Chúa. Chúng ta ở trong Thiên Chúa là niềm vui tuyệt đỉnh của đời ta.

Kinh Lạy Cha mở ra một tương quan cho mọi người, là con của Cha trên trời, quyền của người con là ở trong nhà của Cha. "Thật, tôi bảo thật các ông: hễ ai phạm tội thì làm nô lệ cho tội. Mà kẻ nô lệ thì không được ở trong nhà luôn mãi, người con mới được ở luôn mãi” (Ga 8, 34 – 45). Chỉ có tội lỗi làm cho con người mất quyền làm con, trong Bí Tích Giải Tội, tư cách của người con được phục hồi và giúp cho con người xứng đáng hơn với địa vị làm con Chúa.

Nếu là quyền làm con thì không phải là xin nữa mà là thực hành đời sống làm con. Đối với Thánh Phaolô, ở trong Chúa Kitô là tràn đầy phúc lộc của Người, cho nên Thánh Phaolô nghiệm thấy: "Ơn Ta đủ cho ngươi, vì sức mạnh của Thầy được biểu lộ trọn vẹn trong sự yếu đuối. Thế nên tôi rất vui mừng và tự hào vì những yếu đuối của tôi, để sức mạnh của Đức Ki-tô ở mãi trong tôi. Vì vậy, tôi cảm thấy vui sướng khi mình yếu đuối, khi bị sỉ nhục, hoạn nạn, bắt bớ, ngặt nghèo vì Đức Ki-tô. Vì khi tôi yếu, chính là lúc tôi mạnh” (2Cor 12, 9 – 10). 

Lạy cha ước nguyện Danh Cha cả sáng trong con và giúp con sống xứng đáng địa vị làm con Cha.

L.m Giuse Hoàng Kim Toan

VỀ MỤC LỤC
ĐỐI THOẠI
  

Và bỗng các ông thấy ông Môsê và ông Êlia hiện ra đàm đạo với Người.  (Mt. 17:3)

1.     Nối Kết Đất Trời

Thiên Chúa là tình yêu. Thiên Chúa muốn chia sẻ tình thương yêu của Ngài với con người. Ngài đã mở cửa trời mặc khải cho loài người về mầu nhiệm của tình yêu. Thiên Chúa đã đối thoại với con người qua nhiều cách thế: Thuở xưa, nhiều lần nhiều cách, Thiên Chúa đã phán dạy cha ông chúng ta qua các ngôn sứ; nhưng vào thời sau hết này, Thiên Chúa đã phán dạy chúng ta qua Thánh Tử (Dt. 1:1-2). Thánh Tử Giêsu đã hiện thân làm người và giữa chúng ta. Ngài chính là hình ảnh của Thiên Chúa vô hình. Qua Ngài, mọi sự được tạo thành, hữu hình và vô hình. Chính Ngài đã mặc khải cho chúng ta về tình yêu của Thiên Chúa Ba Ngôi qua con đường đối thoại.

Đối thoại được diễn tả qua nhiều cách như: đàm đạo, đàm phán, hòa đàm, chia sẻ, họp bàn, nói truyện, tâm sự, gặp gỡ và giao lưu… Đối thoại có thể trực tiếp mặt đối mặt hoặc đối thoại gián tiếp qua thư từ, gọi phôn, điện thư hay tin nhắn…Đối thoại sẽ dẫn đến hòa giải, hòa đồng và giao hòa với nhau. Đối thoại là con đường ngắn nhất giúp con người đến gần với nhau. Đối thoại có nghĩa là dám mở cửa để đón nhận ý kiến của người khác. Đối thoại là bày tỏ ý hướng và lập trường để đàm phán, để giao dịch và tìm sự thỏa thuận giữa đôi bên. Dám mở cửa là dám chấp nhận những khác biệt và đối nghịch. Con đường đối thoại là con đường an toàn và đưa tới hòa bình. Đối thoại phải có sự chân thành và tôn trọng lẫn nhau. Trong sự đối thoại không nên có thái độ áp chế hay gạt bỏ. Muốn có sự đối thoại thành công, cần phải biết lắng nghe.

2.     Sự Khác Biệt

Mỗi người đều được sinh ra ở một nơi chốn, sống tại một địa chỉ và mang một quốc tịch. Trên thế giới có trên sáu tỷ người. Mỗi người đều có một cá tính riêng biệt và không ai giống ai hoàn toàn. Mỗi người có một định mệnh riêng phải hoàn tất. Không ai là một hòn đảo riêng rẽ, chúng ta sống là phải đồng hành với người khác. Muốn đồng hành tốt, chúng ta phải đồng hướng và thông hiểu nhau. Thông hiểu nhau qua sự trao đổi và chia sẻ tâm tình.

Trong thế giới đại đồng, chúng ta có thể cùng sống chung trong một nước, hưởng một nền văn hóa, giữ một truyền thống và theo một đạo giáo. Nhưng có nhiều yếu tố cuộc sống làm cho chúng ta nên khác nhau. Chính của ăn thức uống là một trong những cơ bản làm nên con người khác biệt. Người ăn lông ở lỗ sẽ khác với người ăn cơm gạo. Người ăn cơm gạo suy nghĩ khác người ăn bánh mì. Người ăn bánh mì suy tư khác với người ăn đỗ đậu. Người ăn chay quan niệm khác với người ăn mặn. Người ăn nước mắm hành xử khác với người ăn muối. Thức ăn sẽ biến đổi và tạo nên những giá trị đặc thù văn hóa của mỗi nhóm người. Con người tuy khác nhau nhưng không đối lập nhau mà là bổ túc cho nhau để xây dựng một xã hội tốt đẹp.

3.     Cầu Thông Cảm

Làm sao con người có thể hiểu, cảm thông và liên kết với nhau. Chúng ta cần bắc một chiếc cầu, gọi là cầu thông cảm. Chúng ta biết rằng tất cả mọi thứ bế tắc đều có lối thoát. Bĩ cực thái lai. Mọi vấn đề dù rắc rối đến đâu, nếu chúng ta biết mở cửa ngõ đối thoại, chúng ta sẽ tìm được lối ra.  Khi chúng ta tự đóng khung mình, chúng ta sẽ đối diện với ngõ cụt. Ngõ đi vào cô đơn và tù đọng. Chỉ những dòng nước tiếp tục chảy là dòng nước trong sạch. Nước tù, ao đọng là nước dơ bẩn và ô nhiễm.

Ngôn ngữ chính là phương tiện giúp con người xích lại gần nhau hơn. Trong thế giới chúng ta đang sinh sống, không biết có bao nhiêu thứ ngôn ngữ.  Qua ngôn ngữ, con người có thể đối thoại với nhau và truyền thông hiểu biết cho nhau. Từ xa xưa, con người đã giao lưu với nhau qua ngôn ngữ và chữ viết.  Như khi các nhà truyền giáo đến các nước xa xôi để truyền đạo, các ngài đã phải từng bước học hỏi về văn hóa và ngôn ngữ giúp truyền đạt chân lý đức tin. Các ngài cũng phải khổ học để thấu đạt mọi vấn đề qua việc đối thoại. Chúng ta phải khâm phục những vị tiên phong đã giáp chạm với các nền văn hóa khác. Không những học hỏi mà còn truyền rao đạo giáo và cả những kiến thức văn minh khoa học của xã hội.

4.     Cầu Ngôn Ngữ

Ngày nay, chúng ta thấy ngay tại quê hương thân yêu Việt Nam, các em học sinh đã muốn học thêm các sinh ngữ khác để mở mang kiến thức của thế giới bên ngoài. Tại Sàigon, đi dọc theo tất cả mọi con đường lớn trong thành phố, đâu đâu cũng thấy nhan nhản những bảng hiệu học sinh ngữ, học thêm, học kèm ngoại ngữ: tiếng Anh, tiếng Pháp, tiếng Nga, tiếng Nhật, tiếng Đại Hàn, tiếng Tây Ban Nha, tiếng Đức… Chúng ta nhớ rằng càng biết nhiều ngôn ngữ, càng có cơ hội học biết thêm kiến thức. Ngôn ngữ là cửa ngõ dẫn chúng ta vào tìm hiểu kho tàng văn hóa của con người. Qua ngôn ngữ, chúng ta có thể đối thoại với nhiều nhóm người khác.

Không người nào có thể hiểu hết được các ngôn ngữ riêng biệt của từng nước, từng thổ dân và bộ lạc. Khi con người chưa hiểu nhau, họ cần có những người thông ngôn. Có nghĩa là phải có người thông thạo ngôn ngữ đôi bên để làm nhịp cầu thông cảm. Tuy nhiên, chúng ta biết loài người còn có một thứ ngôn ngữ vô hình. Một thứ ngôn ngữ không cần dùng miệng lưỡi mà họ vẫn có thể hiểu nhau, đó là ngôn ngữ của tình yêu. Qua ngôn ngữ tình yêu con người có thể hiểu nhau, yêu nhau và sống đời với nhau.

5.     Cầu Ngoại Giao

Để tạo nhịp cầu thông cảm và hiểu biết lẫn nhau trên thế giới, mỗi quốc gia có các tòa Đại Sứ, tòa Lãnh Sự hay đại diện thường trực để liên hệ ngoại giao.  Muốn cộng tác xây dựng hòa bình, cần phải có ngoại giao. Ngoại giao là đối thoại để giải quyết những khác biệt. Chấp nhận sự khác biệt của nhau để bổ túc và giải trừ những mâu thuẫn và đố kỵ. Ngoại giao chính là sự đối thoại. Càng biết đối thoại, chúng ta càng hiểu nhau và thông cảm lẫn nhau. Đối thoại kịp thời sẽ tránh được nhiều đổ vỡ và thiệt hại. Muốn có sự đối thoại thành công, cần có thái độ nhún nhường và hài hòa. Có qua có lại, mới toại lòng nhau chứ. Khi đối thoại là có bước tiến, bước lùi. Trong cuộc đối thoại thì có được, có mất và có nhường, có nhịn. Nếu đối thoại chỉ mong có thắng, đối thoại đó sẽ trở thành độc tài.

Trên trường Quốc Tế, chúng ta biết cũng có những Nước đứng trung lập giúp mở cuộc đối thoại chung cho các nước đang gặp khó khăn. Đây là một Quốc gia không thiên vị hay đứng về một phe phái nào. Nước đó có thể giúp hòa giải các vụ xung đột lớn trên chính trường quốc tế. Như mới đây, tại Vienne, Austria, nơi diễn ra cụôc trao đổi những người điệp viên của Hoa Kỳ và Nga đã bị phát hiện và bị bắt. Hai Nước đã tráo đổi các tội phạm điệp viên với nhau qua cuộc đàm phán ngoại giao. Sự giải quyết êm đẹp đã dẫn đến một thỏa hiệp tích cực xây dựng nền hòa bình chung.

6.     Đối Thoại Liên Tôn

Các Tôn Giáo cũng cần có sự đối thoại. Hiện nay Giáo Hội Công Giáo có Ủy Ban đặc trách về Đối Thoại Liên Tôn. Tôn giáo ảnh hưởng đến niềm tin của mỗi người. Tôn giáo là lý tưởng có một sức mạnh vô song. Niềm tin Tôn giáo cũng có thể xây dựng hoặc phá đổ. Biết bao cuộc chiến đã xảy ra vì vấn đề tranh chấp tôn giáo. Khác biệt niềm tin là một khác biệt sâu xa nhất. Con người có thể sống chết với nhau vì niềm tin của mình. Các tôn giáo cần đối thoại để tìm ra một hướng chung. Cùng đích của tất cả mọi tôn giáo là mưu cầu hạnh phúc cho con người ở đời này và đời sau. Cái chung của các tôn giáo đều qui về một mối, đó là tình yêu. Chỉ tình yêu mới có thể nối kết mọi người đối thoại với nhau. Thế giới của tình yêu là thế giới không có biên cương lãnh thổ.

Trong đời sống giáo hội, xã hội hay cộng đoàn, các nhà lãnh đạo cũng cần lắng nghe. Lắng nghe phải là một nhân đức. Trong thời gian qua, chúng ta thấy có nhiều người lên tiếng về sự thông tin bất cập và đối thoại một chiều. Đã đến lúc chúng ta phải lắng nghe. Các nhà lãnh đạo chính quyền phải lắng nghe dân chúng, vì ý dân là ý trời mà. Các vị đại diện các tôn giáo cũng cần lắng nghe các thành viên trong giáo hội của mình. Dù rằng trăm người trăm ý, nhưng không phải mọi ý kiến đều vô ích. Không ai là sự phụ cho tất cả mọi vấn đề. Chúng ta cần có những người chuyên môn góp ý và xây dựng. Biết lắng nghe, chúng ta mới có thể mở mắt nhìn vấn đề một cách khách quan và định hướng đúng đắn hơn.

7.     Sự Quan Hệ

Đối thoại là con đường giải thoát. Đối thoại bao giờ cũng có thể giải quyết được vấn đề. Đặc biệt là trong những gia đình đang gặp khó khăn trong cuộc sống hôn nhân. Đối thoại là cách tốt nhất để xây dựng hạnh phúc gia đình. Đã có biết bao nhiêu gia đình đã tan vỡ vì thiếu sự thông cảm hiểu biết. Nếu mỗi người khư khư giữ cái thiên kiến và định kiến về người khác, vợ chồng sẽ đi đến bế tắc. Đôi khi vợ chồng hiểu lầm nhau vì sự xen vào của một nhân vật thứ ba. Sự chia sẻ và cảm thông sẽ loại trừ nguy cơ đổ vỡ. Chúng ta nhớ rằng mọi sự đều sẽ cùng tắc biến, biến tắc thông. Vợ chồng thông cảm được với nhau, gia đình sẽ tìm thấy nụ cười hạnh phúc.  Phải thông thì giòng mới giọt.

Khi gia đình hai họ có sự kết giao hôn nhân của con cái thì gọi là thông gia. Thông gia nối kết hai họ nên một trong quan hệ mới. Trong gia đình sẽ có con dâu, con rể và ông xui bà xui. Cha mẹ trở thành cha mẹ chồng và cha mẹ vợ. Làm cha mẹ của con dâu, con rể phải rất tế nhị. Câu truyện không vui kể rằng sau khi con dâu, con rể tương lai đã qua mọi diễn tiến thủ tục để cưới xin. Ngày lễ Ăn Hỏi, hai gia đình nhóm họ và mở tiệc tùng ăn uống vui vẻ. Bỗng dưng bố vợ lên tiếng kẻ cả phát biểu dạy dỗ con rể. Hình như bố vợ dậy dỗ không đúng lúc, chàng rể tương lai quá tự ái và đã phản bác bố vợ tại bàn tiệc. Rồi chú rể bỏ ra về không nương tiếc, quan viên hai họ ngồi ngẩn ngơ. Tội nghiệp cho cô con gái năn nỉ hết nước mắt cũng không xong. Chú rể dứt khoát bỏ cuộc. Cô con gái buồn tình bỏ nhà ra đi và không trở về. Lỗi tại ai bây giờ? Sự việc đã rồi. Thật tội nghiệp cho đôi trẻ. Thiếu đối thoại và sự thông cảm đã gây biết bao đau buồn. Phải có cảm thông mới tìm ra được chân lý hoặc có sự đồng thuận. Thuận vợ thuận chồng, tát bể Đông cũng cạn.

8.      Sự Thông Hiểu

Làm thế nào chúng ta có thẻ đối thoại với lớp trẻ bây giờ. Con cháu thuộc đời thứ hai hoặc thứ ba đã lớn lên giữa nền văn hóa chú trọng nhiều về cá nhân chủ nghĩa.  Quan niệm đời sống của tuổi trẻ cũng đã khác nhiều. Giữa hai nền văn hóa và giữa hai thế hệ hiểu nhau sao được nếu không có sự đối thoại. Bạn tôi kể câu truyện: Dịp kỷ niệm 25 năm thành hôn của vợ chồng bạn. Trong tập sách nhỏ của thánh lễ tạ ơn mừng Ngân khánh, ở cuối trang có in những lời cám ơn cha chủ tế, cha mẹ, anh em bạn bè và qúy khách… Đứa con gái 17 tuổi của bạn đọc qua, vừa cười vừa nói: Ba má cám ơn hết mọi người nhưng con cái thì lại không. Câu nói của cháu không phải để trách cứ nhưng làm cho vợ chồng bạn phải sửng sốt và suy nghĩ. Đúng vậy, đây là những thiếu xót không ngờ, cháu gái thật có lý.

Cũng có những sự hiểu lầm do văn hóa khác biệt và môi trường sống thay đổi.  Những truyện nho nhỏ xảy ra trong nhà nhưng hậu qủa lại không ngờ. Truyện là một cháu nhỏ thấy ông ngoại cắt tiết con vịt. Cháu thấy lạ và khiếp quá, gọi bạn bè đến xem. Bạn của cháu là những chú Mỹ con, thấy con vịt bị ông cắt tiết thì nghĩ là ông dùng bạo lực với thú vật. Một chú bé về nhà kể cho mẹ nghe, mẹ em liền gọi cảnh sát đến, thế là ông ngoại bị còng tay và bỏ vào tù. Khi được thả về, ông chỉ còn biết chắp tay vái đứa cháu nhỏ: Tôi lạy ông thôi, tôi không dám đụng đến ông nữa đâu!

Nói tóm lại, Thiên Chúa ban cho chúng ta môi miệng để nói lời êm dịu, để cảm thông, để trao đổi và liên kết với nhau. Các loài hoang thú cũng có những ngôn ngữ riêng để thông tin và đến gần với nhau. Con người là tạo vật ưu tuyển trên hết mọi loài, chúng ta hãy dùng ân huệ này để sinh hoa kết quả tốt trong việc xây dựng tình liên đới với nhau. Không có sự gì nặng nề và ngột ngạt cho bằng người bạn đồng hành giữ thái độ im lặng và mặt lạnh như tiền. Hãy học nơi Chúa Giêsu, Ngài rất muốn được chia sẻ và lắng nghe. Thánh Luca diễn tả sự quan trọng của việc đối thoại: Cô này cứ ngồi bên chân Chúa mà nghe lời Người dạy. Còn cô Mácta thì tất bật lo việc phục vụ.... Chúa đáp: "Mácta! Mácta ơi! Chị băn khoăn lo lắng nhiều chuyện quá! Chỉ có một chuyện cần thiết mà thôi. Maria đã chọn phần tốt nhất và sẽ không bị lấy đi." (Lc 10: 39-42).

Giuse Trần Việt Hùng - Bronx, New York

 

VỀ MỤC LỤC
GIA ĐÌNH TRONG HIẾN PHÁP NHÂN BẢN
 

NGUYỄN HỌC TẬP 

Nền Cộng Hoà nhận biết các quyền của gia đình như là xã hội tự nhiên, được xây dựng trên hôn nhân.

Hôn nhân được đặt nền tảng trên bình đẳng luân lý và pháp lý giữa hai vợ chồng, các giới hạn được luật lệ xác định nhằm bảo đảm sự hợp nhứt của gia đình” (Điều 29, đoạn 1 và 3 Hiến Pháp 1947 Ý Quốc). 

Chúng tôi vừa trích dẫn nội dung và xuất xứ điều khoản đầu tiên của một loạt các điều khoản định chế cho tổ ấm gia đình, tổ chức sống xã hội tự nhiên của con người,

    - nhận biết các quyền của gia đình như là xã hội tự nhiên”,

bất cứ ở đâu và bất cứ dưới thời đại nào.

Gia đình là “ xã hội tự nhiên” của con người.

Điều đó có nghĩa là gia đình là nơi con người được sinh ra trong tình thương yêu, bảo bọc, nuôi nấng, dạy dỗ, giáo dục, chuẩn bị  để lớn lên, hợp với bản tính con người để phát triển chính mình và  sống liên đới, cộng tác với những con người khác trong Cộng Đồng Quốc Gia và Cộng Đồng Thế Giới.

Điều 29 vừa được trích dẫn là điều khoản đầu tiên, được tiếp nối bằng hai điều 30 và 31 xác định quyền và nhiệm vụ của cha mẹ đối với con cái, cũng như bổn phận của tổ chức Quốc Gia trợ lực cha mẹ chu toàn bổn phận của mình.

Đó là những gì chúng ta có thể tìm thấy được dễ dàng trong phần đầu của Tiếc Mục III, định chế luân lý và xã hội của Hiến Pháp 1947 Ý Quốc.

Nhưng những gì Hiến Pháp đề cập đến gia đình không phải chỉ có vậy.

Các tư tưởng liên quan đến gia đình tiềm tàng trong nhiều điều khoản khác trong suốt văn bản của Hiến Pháp, liên quan đến lý tưởng về con người và về tổ chức cuộc sống xã hội, xứng đáng với nhân phẩm con người, lý tưởng mà Hiến Pháp 1947 Ý Quốc  nêu lên trong các điều khoản đầu tiên, như là nền tảng trên đó xây dựng Quốc Gia.

Điều đó cho thấy gia đình là yếu tố cấu trúc thiết yếu và “ tự nhiên ” để phát triển con người và xây dựng Quốc Gia, môi trường sống nơi đó các giá trị của con người được “ nhận biết và bảo vệ ” (Điều 2, Hiến Pháp 1947 Ý Quốc).

Đó là những gì chúng ta muốn tìm hiểu, giúp chúng ta có được những tư tưởng định hướng cho tương lai đất nước mà chúng ta muốn xây dựng cho Việt Nam, một thể chế trong đó tổ chức Quốc Gia, gia đình, xã hội, đều được quy hướng để phục vụ con người,  chủ thể tối thượng và là chủ nhân của quyền lực Quốc Gia,  một thể chế Nhân Bản và Dân Chủ cho dân tộc.  

Sau khi xác nhận gia đình là “ tổ chức xã hội tự nhiên ” của con người, được đặt nền tảng trên hôn nhân với các quyền tự nhiên  của mình mà  Quốc Gia nhận biết (Điều 29, đoạn 1 Hiến Pháp 1947 Ý Quốc), Quốc Gia xác nhận vị trí pháp nhân của hôn nhân là quyền bình đẳng giữa hai vợ chồng, bình đẳng trên luân lý và bình đẳng trước luật pháp, được luật pháp đứng ra bảo đảm và xác định để bảo vệ sự hợp nhứt của gia đình.

Nói cách khác, sau khi xác định vị trí của tổ chức gia đình trong Cộng Đồng Quốc Gia, là “ tổ chức xã hội tự nhiên” của con người, tổ chức gia đình có những quyền tự nhiên của mình, không do Quốc Gia thiết định hay phân phát, tùy thuộc cơ chế “ xin-cho ”, mà là những quyền tự nhiên đi liền với bản tính con người, với bản tính gia đình được con người thành lập.  

Do đó, Quốc Gia có bổn phận

   - nhận biết các quyền của gia đình như là xã hội tự nhiên ”.

Một trong những quyền tự nhiên vừa kể, được điều 29 đề cập, đó là quyền hợp nhứt của hai vợ chồng, yếu tố cấu trúc tiên khởi của gia đình, phải được bảo vệ:

   - “…các giới hạn được luật lệ xác định, nhằm bảo vệ sự hợp nhứt của gia đình ” (Điều 29, đoạn 2b, id.). 

Gia đình hợp nhứt là môi trường lý tưởng để con người được sinh ra, nuôi dưỡng, giáo dục và lớn lên, triển nở chính mình về mọi mặt, đức dục, thể dục và trí dục, cũng như được dạy dỗ trong chiều hướng, hướng thiện và hướng thiên và hướng tha,  đặc tính làm cho con người trổi hơn những tạo vật khác.

Đó là những gì Hiến Pháp 1947 Ý Quốc liệt kê kế tiếp như là quyền và bổn phận của cha mẹ đối với con cái: 

   - Cha mẹ có bổn phận và quyền nuôi nấng, dạy dỗ và giáo dục con cái, ngay cả đối với những đứa con sinh ra ngoài hôn nhân” (Điều 30, đoạn 1, id.).  

Những đứa con sinh ra là con người, con hợp pháp hay con ngoại hôn cũng vậy: 

   - Pháp luật bảo đảm cho những đứa con ngoại hôn mọi tư các pháp lý và xã hội, cũng được hưởng các quyền như thành phần hợp pháp  trong gia đình ” (Điều 30, đoạn 3). 

Đã là con người trong Cộng Đồng Quốc Gia, con người sinh ra hợp pháp hay ngoại hôn cũng vậy, con người đó được tổ chức quốc Gia nhận biết và bảo đảm các quyền bất khả xâm phạm của mình, là những quyền phát xuất tử bản tính con người của mình, bảo đảm cho mình có được một cuộc sống người cho ra người: 

   - Nền Cộng Hoà nhận biết và bảo đảm các quyền bất khả xâm phạm của con người, con người như cá nhân hay con người như thành phần xã hội, nơi mỗi cá nhân phát huy nhân cách của mình…” (Điều 2 Hiến Pháp 1947 Ý Quốc).   

Và dĩ nhiên trong các quyền bất khả xâm phạm đó, quyền được sống và được toàn vẹn thân thể, quyền được dạy dỗ và giáo dục đối với trẻ sơ sinh và tuổi trẻ, được giao cho thẩm quyền của cha mẹ:  

   - bổn phận và quyền nuôi nấng, dạy dỗ và giáo dục con cái…”. 

Nhưng cha mẹ không phải là những chủ thể duy nhứt có quyền và bổn phận phải nuôi nấng, dạy dỗ và giáo dục con cái.

Quốc Gia được tổ chức cũng có mục đích phục vụ người dân, đối với những quyền bất khả xâm phạm của con người, mà Quốc Gia tuyên bố đảm nhận ở điều 2 vừa trích,

   - Nền Cộng Hoà  nhận biết và bảo đảm các quyền bất khả xâm phạm của con người…” . 

Do đó trong trường hợp bất khả kháng, vì nghịch cảnh hay vì thiếu phương tiện, Quốc Gia có bổn phận trợ giúp hay thay thế cha mẹ chu toàn bổn phận của mình: 

   - “ Trong trường hợp cha mẹ không có khả năng, luật pháp tiên liệu cho cha mẹ được miễn khỏi các bổn phận của mình ” (Điều 30, đoạn 2, id.). 

   - Tiền liệu mọi cách để gia đình được thành lập

   - và giúp hay thay thế cha mẹ trong các hoàn cảnh khó khăn để hoàn thành quyền và trách nhiệm nuôi dưỡng, giáo dục và dạy dỗ con cái của mình. Đó là bổn phận của một Quốc Gia, được xây dựng trên thể chế Nhân Bản, được thiết lập để phục vụ con người: 

Nền Cộng Hoà dành dễ dàng mọi phương tiện kinh tế và mọi cách tiền liệu khác để gia đình được thành lập và chu toàn các nhiệm vụ liên hệ của mình, nhứt là đối với các gia đình đông con ” (Điều 31, đoạn 1, id.).   

Thể chế Nhân Bản của Quốc Gia đề thảo ra định chế

   - tiền liệu các phương tiện thuận tiện giúp gia đình được thành lập,

   - xác nhận quyền bình đẳng luân lý và pháp lý giữa hai vợ chồng,

   - tiên liệu luật pháp bảo vệ sự hợp nhứt của gia đình,

   - tiên liệu các phương tiện để bảo đảm con người được sinh ra trong gia đình được nuôi dưỡng, dạy dỗ và giáo dục.

Mọi người có quyền được sinh ra, chăm sóc, nuôi nấng, dạy dỗ, giáo dục và bảo vệ, nhứt là trong lúc tuổi thiếu thời. Đó là những gì Hiến Pháp 1947 tuyên bố tiếp ở điều 31: 

- “ Nền Cộng Hoà bảo vệ thiên chức làm mẹ, trẻ sơ sinh và tuổi trẻ, dành mọi  dễ  dàng đối với các tổ chức cần thiết cho mục đích” (Điều 31, đoạn 2, id.)( Majello Ugo, Profili costituzionali della filiazione legittima e naturale, Morano, Napoli, 1965, 89s). 

Qua những điều khoản vừa kể, chúng ta thấy rằng tổ chức Quốc Gia đặc biệt chú ý đến gia đình, 

   - “tổ chức xã hội tự nhiên của con người ”,

gắn liền với bản tính con người, có các quyền không do Quốc Gia thiết định hay ban cho,  mà là chính Quốc Gia phải  nhìn nhận .

Nhận biết ” hay " nhìn nhận "  các quyền đó của gia đình, Quốc Gia tiên liệu các phương thế để gia đình được thành lập và chu toàn bổn phận của mình đối với con cái.  

Đọc các điều 29, 30 và 31 của Hiến Pháp 1947 Ý Quốc, chúng ta có thể thấy được các vị soạn thảo Hiến Pháp đồng thuận công nhận

   - địa vị cao cả của gia đình, “ tổ chức xã hội tự nhiên” của con người, được thành hình do chính bản thể con người đòi buộc, thích hợp với cuộc sống của con người;

   - vai trò cấu trúc không thể thiếu của gia đình trong tổ chức Quốc Gia, nơi con người được sinh ra, chăm sóc, nuôi dưỡng, dạy dỗ và giáo dục, lớn lên trở nên con người triển nở  hoàn về mọi mặt, có được cuộc sống hạnh phúc cho chính mình và có khả năng cộng tác tạo lợi ích cho cuộc sống xã hội.  

Bởi đó không những cha mẹ, mà cả tổ chức Quốc Gia đều có quyền và bổn phận phải chu toàn, nuôi dưỡng, giáo dục và bảo vệ,  đối với trẻ con và trẻ vị thành niên, không kể được sinh ra trong gia đình hợp pháp hay ngoài hôn nhân.

Các câu nói:  

   - “ Trong trường hợp cha mẹ không có khả năng, luật pháp tiên liệu để họ được truất khỏi trách nhiệm của họ” (Điều 30 đoạn 2, id.).

   - Luật pháp bảo đảm cho những đứa con ngoại hôn cũng được bảo đảm mọi tư cách pháp nhân và xã hội, hợp với các quyền của thành phần gia đình hợp pháp” (Điều 30, đoạn 3, id.)

 cho thấy Hiến Pháp ra lệnh và dành quyền cho Quốc Hội thường nhiệm sau nầy sẽ “ soạn thảo và chuẩn y ” các đạo luật tiên liệu các phương tiện cần thiết để đạt được các mục đích Hiến Pháp tuyên bố.

Nói cách khác, không ai là con người trong thể chế Nhân Bản mà bị bỏ rơi trong thiếu thốn cùn cực của mình, bị cha mẹ bỏ rơi hay bị Quốc Gia ngoảnh mặt cũng vậy. 

Còn nữa,

- không những gia đình là “ xã hội tự nhiên ” của con người, là cấu trúc thiết yếu trong cuộc sống Quốc Gia, để con người được “ tự nhiên ” sinh ra, nuôi đưỡng, dạy dỗ, giáo dục và lớn lên nên người, được triển nở hoàn hảo con người của mình và góp phần cộng tác  lợi ích cho Cộng Đồng Quốc Gia,

- quan niệm của các vị soạn thảo Hiến Pháp còn đi xa hơn: gia đình, “ xã hội tự nhiên ”, muốn thực hiện được hoàn hảo vai trò cao cả của mình đối với con người và đối với đất nước, gia đình phải được hưởng bầu không khí tự do, môi trường thuận lợi thiết yếu giúp con người phát huy được bản năng, cá tính và tài năng của mình.

Nói cách khác, gia đình phải là môi trường sống trong đó hai vợ chồng sống trong thương yêu và bình đẳng, hợp tác với nhau, tạo lợi ích cho nhau và cho con cái. Đó là những gì Hiến Pháp nêu lên qua một câu văn ngắn ngủi: 

   - Hôn nhân được xây dựng trên bình đẳng luân lý và luật pháp giữa hai vợ chồng, với những lằn mức được xác định bởi luât pháp nhằm bảo đảm sự đoàn kết gia đình ” (Điều 29, đoạn 2, id.). 

 Câu văn trên của Hiến Pháp 1947 Ý Quốc cho thấy tinh thần khai phóng người phụ nữa của Hiến Pháp ( Rodotà Stefano, La Riforma del diritto di famiglia alla prova. Principi ispiratori e ipotesi sistematiche, in Il Nuovo Diritto di Famiglia, 5s).

Quan niệm “ nam tôn nữu ty ” hay “ chồng chúa vợ tôi ” của xã hội thời Trung Cổ đã chấm dứt với Hiến Pháp 1947 Ý Quốc.

Hai vợ chồng đều  

   - “… bình đẳng trên luân lý và trước pháp luật ”( Điều 29, đoạn 2, id.). 

Điều 29, đoạn 2 vừa trích dẫn, được Hiến Pháp tuyên bố trong tinh thần nguyên tắc căn bản, đã được long trọng xác định ở một trong các điều khoản đầu tiên của Hiến Pháp: 

   - “ Mọi công dân đều có địa vị xã hội ngang nhau và bình đẳng trước pháp luật, không phân biệt phái giống, chủng tộc, ngôn ngữ, tôn giáo, chính kiến, điều kiện cá nhân và xã hội ” (Điều 3, đoạn 1, Hiến Pháp 1947 Ý Quốc). 

Tinh thần khai phóng người phụ nữ vừa kể, không những được Hiến Pháp đóng khung trong lãnh vực gia đình, mà người phụ nữ còn được cởi trói ngoài xã hội, khỏi bị quan niệm xã hội cưỡng chế, áp bức: 

   - Người phụ nữ làm việc có mọi quyền và, với cùng một việc làm, có quyền được hưởng thù lao như người làm việc nam giới”. (Điều 37, đoạn 1, id.).  

Không những vậy, người phụ nữ làm việc còn được hưởng nhiều đặc quyền khác, để có thể dễ dàng chu toàn bổn phận làm vợ và làm mẹ trong gia đình: 

- “ Các điều kiện làm việc phải được thiết định thế nào để người phụ nữ có thế chu toàn phận sự chính yếu của mình trong gia đình và đáp ứng cho người mẹ và trẻ thơ một quy chế bảo vệ đặc biệt” (Điều 37, đoạn 2, id.). 

Dĩ nhiên để khai phóng cho người phụ nữ được hưởng những quyền hạn đặc biệt,

- cho nàng có thể chu toàn thiên chức làm vợ và làm mẹ trong gia đình,

- để cung cấp cho trẻ thơ một quy chế bảo vệ đặc biệt,

tổ chức xã hội phải tiên liệu quy chế lương bổng của người làm việc như thế nào để cho cha mẹ bảo đảm được trách nhiệm nuôi duỡng, chăm sóc, dạy dỗ và giáo dục của mình: 

- “ Người làm việc có quyền được hưởng thù lao tương xứng với số lượng và phẩm chất việc làm của mình. Và trong bất cứ trường hợp nào, lương bổng phải đủ để bảo đảm cho mình và cho gia đình mình có được một cuộc sống tự do và khang trang ” (Điều 56, id.). 

Chúng ta đã biết qua

- về tính cách pháp lý của tổ chức gia đình,

- đặc tính bình đẳng và hợp nhứt của hai vợ chồng,

- quyền và bổn phận của cha mẹ,

- địa vị và quy chế đặc biệt cho người phụ nữ làm vợ và làm mẹ,

- quy chế lương bổng của người lảm việc để có thể nuôi sống gia đình có một mức sống khang trang,

- bổn phận của cơ chế Quốc Gia trợ giúp hay thay thế bổn phận các gia đình gặp khó khăn trong hoàn cảnh sống của họ.

Tất cả những gì được liệt kê không có mục đích gì khác hơn là bảo đảm cho con người có môi trường và điều kiện “… phát triển hoàn hảo con người của mình và tham dự một cách thiết thực vào tổ chức chính trị, kinh tế, xã hội của Đất Nước”: 

 - Bổn phận của Quốc Gia là dẹp bỏ đi những chướng ngại vật về phương diện kinh tế và xã hội, là những chướng ngại, trong khi thật sự giới hạn tự do và bình đẳng của con  người, không cho phép họ triển nở hoàn hảo con người của mình và tham dự một cách thiết thực vào tổ chức chính trị, kinh tế và xã hội của Xứ Sở ” (Điều 3, đoạn 2 Hiến Pháp 1947 Ý Quốc). 

Con người đó là ai, trong “…tổ chức chính trị, kinh tế và xã hội của Xứ Sở ”?

Là vợ chồng, là cha mẹ, là người nam và người nữ, chúng ta vừa đề cập đến, có “…địa vị xã hội ngang nhau và bình đẳng trước pháp luật ” trong xã hội.

Là vợ chồng “ bình đẳng nhau trên luân lý và trước pháp luật ” trong gia đình.

Là người nam và người nữ, “ …với cùng một việc làm, có quyền được hưởng thù lao như nam giới” trong môi trường làm việc.

Là con cái trong gia đình và trẻ em trong môi trường học đường.

Là con cái trong gia đình, các em được chăm sóc, nuôi nấng, dạy dỗ của cha mẹ, nhứt là của mẹ, được Quốc Gia dành cho quy chế bảo vệ đặc biệt,           “…để chu toàn phận sự thiết yếu trong gia đình và đáp ứng cho người mẹ và trẻ thơ mộtg quy chế bảo vệ đặc biệt ” (Điều 37, đoạn 2, id.).

Là giới trẻ trong môi trường học đường, các em và cả những người lớn tuổi khác, được Quốc Gia dành cho “ quyền được giáo dục” ( diritto di studio): 

- Nền Cộng Hoà thiết định các đạo luật tổng quát về giáo dục và thiết lập trường ốc công lập cho mọi lãnh vực và đẳng cấp” (Điều 33, đoạn 2, id.).  

Thiết lập trường ốc và thiết định quy chế:

   - Học đường được mở ra cho tất cả mọi người.

Ngành giáo dục ở bậc thấp, được giảng huấn ít nhứt là 8 năm ( 12 năm với tu chính án mới, 1990) bắt buộc và miễn phí.

Đối với những ai có khả năng và đáng được tưởng thưởng, dẩu cho thiếu phương tiện, đều có quyền đạt đến cấp bậc cao nhứt của chương trình học vấn.

Nền Cộng Hoà biến quyền học vấn nầy thành thực hữu bằng phụ cấp gia đình hay các phương tiện tiền liệu khác, được cấp phát qua các cuộc thi tuyển” (Điều 34, đoạn 1,2,3 và 4, id.). 

Và một khi con người bước chân vào môi trường làm việc, tổ chức Quốc Gia vẫn tiếp tục bổn phận của mình “ nhận biết và bảo vệ  các quyền bất khả xâm phạm của con người” (Điều 2, id.), vẫn tiếp tục bổn phận giáo dục của mình, qua các khóa huấn nghệ và thăng tiến nghề nghiệp: 

- “ Nền Cộng Hoà bảo vệ việc làm dưới mọi hình thức và mọi áp dụng.

Chăm lo huấn nghệ và thăng tiến nghề nghiệp cho giới lao động ” (Điều 35, đoạn 1 và 2, id.). 

Ở nội địa đã vậy, trên chính trường quốc tế Quốc Gia cũng chăm lo bảo vệ và thăng tiến việc làm cho người dân: 

   - Nền  Cộng Hòa phát động và dành mọi dễ dãi cho các thoả ước và cơ quan quốc tế nhằm cũng cố và điều hòa các quyền làm việc” (Điều 35, đoạn 2, id.). 

Đó là những bổn phận của Quốc Gia đối với con người bình thường.  

Đối với những người bị khuyết tật,Quốc Gia cũng không thiếu bổn phận đối với họ: 

- “ Mọi công dân không có khả năng làm việc và thiếu phương tiện sống, đều có quyền được nuôi sống và bảo trợ xã hội.

    Những người không có khả năng và khuyết tật có quyền được giáo dục và khởi công chức nghiệp.

   Các quyền được tiền liệu trong điều khoản nầy, sẽ được các cơ quan và cơ chế được thiết lập chăm lo hoặc do Quốc Gia bổ khuyết ” (Điều 38, đoạn 1, 2 và 3, id.). 

Nói tóm lại trong thể chế Nhân Bản, các quyền bất khả xâm phạm của con người được “ nhận biết và bảo đảm ” bất cứ ở đâu và bất cứ lúc nào.

Và đó chính là mục đích mà Quốc Gia được thành lập: 

   - Nền Cộng Hoà nhận biết và bảo đảm các quyền bất khả xâm phạm của con người, con người như cá nhân hay như thành phần các tổ chức xã hội, nơi con người phát huy nhân cách của mình và đòi buộc các bổn phận liên đới không  thể thiếu về phương diện chính trị, kinh tế và xã hội ” (Điều 2, Hiến Pháp 1947 Ý Quốc). 

Hiểu được mục đích cao cả về con người của Hiến Pháp Nhân Bản 1947 Ý Quốc, chúng ta sẽ hiểu được tại sao Hiến Pháp dành nhiều điều khoản bàng bạc khắp Văn Bản để định chế về gia đình, địa vị, quyền hạn cũng như bổn phận của mọi thành phần trong gia đình, cả bổn phận của Quốc Gia để trợ lực và thay thế. 

Gia đình là “ tổ chức xã hội tự nhiên ”, tiên khởi của xã hội con người, do bản tính con người đòi buộc và là yếu tố không thể thiếu để triển nở con người và phục vụ xã hội: bổn phận mà Quốc Gia được tổ chức.

Tiến sĩ Nguyễn Học Tập

VỀ MỤC LỤC
NGỤ NGÔN THỜI BẤN LOẠN (KỲ 7)
  

Ngụ ngôn 24

Mùa đông, những con dế mèn đào hang trên bờ ruộng để tránh nước lũ. Có một chú dế đề nghị: “Hay là mình đến chỗ vắng vẻ đào hang, chứ trên bờ ruộng thế này tôi thấy không ổn, bởi vì bọn trẻ như thằng Nhớn thằng Bé trong truyện của Tô Hoài đi đào dế mà thấy chúng ta hẳn sẽ thích và tóm chúng ta như chơi”.

Nói thì nói vậy nhưng cuối cùng bọn dế cũng quyết định ở ngay trên bờ ruộng vì đó là đỉnh cao nhất rồi, nước dễ gì tìm đâu ra chỗ nào cao hơn để tránh những cơn lũ mùa đông. Vả lại, có một lý do sâu xa hơn mà chúng không nói ra. Chúng thích bị bọn trẻ bắt đem về vì sẽ được đi đá dế, sẽ có cỏ non mà xơi, khỏi lo vất vả bươn chải.

Nhưng thật không may cho bọn dế lười ham ăn kia. Mùa đông ấy những nông dân ra canh ruộng ban đêm, chọn ngay đỉnh cao nhất để nghỉ lại. Họ dùng củi khô và rơm rạ đốt lửa sưởi ấm.

Khói mịt mù khắp nơi. Những chú dế sặc sụa chui ra khỏi hang và tự động thiêu thân trong lửa đỏ.

Mùi dế nướng lan xa. Còn những hang dế ở “đỉnh vừa”, nước chưa ngập thì các chú dế khiêm tốn hơn vẫn vui vẻ xơi cỏ, dù cỏ hơi úa.

 

Ngụ ngôn 25

Cậu bé ôm cặp chạy ùa vào nhà, ướt như chuột lột. Tóc ướt nước chảy xoà xuống mặt, áo quần ướt như trong chậu giặt đồ, cặp trên tay cậu ướt như mới vớt dưới nước lên. Mẹ hốt hoảng thay đồ cho cậu, xoa dầu cù là, rồi nhét cậu vô chăn ấm.

Ông bố có vẻ bực bội lắm vì nghĩ cậu bé quên đem áo mưa. Nhưng khi mở cặp cậu bé ra, ông càng giận hơn vì áo mưa được cậu gấp cẩn thận để trong cặp. Ông quát: “Sao con không chịu mặc áo mưa?” Cậu bé nói: “Dạ con sợ áo mưa bị ướt”.

Ông bố kinh ngạc quát to hơn: “Áo mưa để mặc cho con khỏi ướt, con lại sợ ướt áo mưa mà để mình ướt hết là sao chứ hả”.

Cậu bé vừa khóc vừa đáp: “Dạ bố ơi, chứ bố là người có trách nhiệm mà lại để cho người dưới mình phải khổ, chỉ có bố con ta là đầy đủ. Tụi bạn con nói bố là áo mưa nhưng bố khô, còn người cần khô thì ướt hết cả”.

 

Ngụ ngôn 26

26a. Bánh mì nói với patê và bơ: “Nhà ngươi chẳng được tích sự gì, chỉ làm thứ cho ta nuốt vào bụng”. Patê và bơ sẽ nói gì?

26b. Con muỗi chích vào tay người xong liền bảo: “Ông thật ác, cứ để da dày thế làm kim ta muốn gãy”. Ai ác?

26c. Con quạ nhặt được trứng, mang về ấp, nở ra con bồ câu trắng đẹp dịu dàng. Quạ bảo: “Nhờ ta mà con đẹp thế này”. Bồ câu vỗ cánh cười như nắc nẻ.

 

Gioan Lê Quang Vinh

Mời thăm www.giaoducconggiao.net


VỀ MỤC LỤC
MỘT ĐÀN CHIM
 

Trong tập truyện Wisdom Tales có kể câu chuyện rằng. Một đàn chim cùng sống bình an với nhau trong một khu rừng. Bổng nhiên sự xuất hiện của người thợ săn đã làm cho đàn chim lo sợ. Cứ mỗi lần người thợ săn cất tiếng kêu, thải đồ ăn, thì chim tự sà xuống và người thợ săn chỉ cần tung chiếc lưới và bầy chim bị bắt. Dần dần, số chim bị bắt ngày càng tăng, và đàn chim ngày càng thưa thớt. Trước tình cảnh này, con chim đầu đàn liền bàn với toàn thể bầy chim rằng: Khi người thợ săn vừa tung lưới chụp chúng ta, chúng ta cùng nhau hiệp sức bay lên, thì lúc ấy chúng ta sẽ nâng chiếc lưới lên; sau đó chúng ta cùng nhau đậu vào bụi cây và chúng ta sẽ thoát thân.

Sau khi bàn bạc và nhất trí theo kế hoạch, bầy chim đã thành công. Người thợ săn không những đã không bắt được con chim nào, mà còn bị mất lưới; đàn chim thì vui sướng vì từ nay chúng không hề sợ người thợ săn nữa.

Người thợ săn ngẫm nghĩ rằng: Tuy chúng là những con chim nhỏ, nhưng khi chúng cùng làm việc với nhau, hợp tác với nhau thì ta không làm gì được chúng cả.

Vài hôm sau, khi đàn chim dần dần quên đi sự chiến thắng, người thợ săn đã rải thêm những thức ăn ngon, thơm. Cũng như mọi lần, những chú chim sà xuống, nhưng vì mãi lo ăn uống, và tranh giành với nhau những thức ăn ngon, nên khi bị tung lưới, chúng không còn nhớ đến nhau để cùng nhau nâng chiếc lưới bay lên. Tồi tệ hơn, chúng lại gây ẩu đả với nhau vì do sự đụng chạm và vấp vào nhau đang khi tìm thức ăn. Chính sự tranh cãi này, đã giúp cho người thợ săn có đủ thời giờ để bắt toàn bộ đàn chim.[1] 

Quí bạn thân mến, câu chuyện ngụ ngôn trên nhắc cho chúng ta thấy giá trị của sự đoàn kết và tinh thần hiệp nhất trong một tập thể. Kinh nghiệm cho thấy, khi chúng ta gặp khó khăn, khi chúng ta lâm vào hoạn nạn, chúng ta dễ đồng cảm và hiệp nhất với nhau hơn là lúc chúng ta sống trong bình an và thịnh vượng. Hoàn cảnh này cũng dễ dàng được nhận thấy trong gia đình chúng ta, đặc biệt những gia đình đã từng sống tại Việt Nam. Nhiều người đã tâm sự rằng, khi họ còn sống tại Việt Nam, bữa ăn hằng ngày chỉ là củ khoai, củ mì, nhưng bầu khí gia đình đầm ấm, anh em thương nhau. Nhưng khi cuộc sống gia đình đã khá giả hơn, không phải đi cày cấy trên ruộng đồng vất vả hằng ngày nữa, thì cũng là lúc bầu khí hiệp nhất gia đình cũng bị phai nhạt và mất dần.

Như những chú chim trong câu chuyện, sở dĩ chúng bị bắt là vì chúng đã để cho hoàn cảnh bên ngoài làm chúng quên đi sức mạnh của tập thể. Sức mạnh của mỗi con chim là phải gắn liền với mục đích chung của tập thể, chứ không phải tùy thuộc vào sức mạnh hay khả năng của mỗi cá nhân. Cũng như những con chim, nếu chúng ta không nhận ra sự hiệp nhất là đặc tính căn bản của một tập thể, thì những hoàn cảnh bên ngoài dễ làm ta thay đổi lập trường xây dựng tập thể. Như thế chúng ta nhận thấy rằng, sự hiệp nhất trong một tập thể phải là mục tiêu và ưu tiên một để mọi phần tử của tập thể theo đuổi và xây dựng, chứ không phải nó chỉ là một đặc tính, hay khái niệm nhằm để tô điểm cho tập thể ấy. Nếu chúng ta không nhìn nhận sự hiệp nhất là mối ưu tiên hàng đầu trong một tập thể, thì những hoạt động, những sinh hoạt, những công việc mà chúng ta làm chỉ tạo thêm sự chia rẻ và ngăn cách giữa các thành viên với nhau.

Khi chúng ta nhìn nhận xây dựng sự hiệp nhất là mối ưu tiên hàng đầu cho tập thể thì chúng ta mới nhận ra rằng: Tập thể thì quan trọng hơn cá nhân của mình; sự hiện diện và tồn tại của mình là nhờ vào tập thể, chứ không phải mình làm cho tập thể tồn tại. Trong tập thể, mình lớn lên, mình trưởng thành; vì thế sự đóng góp sức lực, khả năng của mình cho tập thể là cách để mình trả ơn cho tập thể, và thể hiện tinh thần trách nhiệm của mình với tập thể.

Tiến sĩ Martin Luther King phát biểu rằng: “Con người đã học cách bay như những bầy chim bay với nhau; họ đã học bơi như những đàn cá bơi với nhau, nhưng con người chúng ta lại không biết học cách sống với nhau như anh em.”[2] 

Hôm nay, mục Sống Sao Cho Đẹp xin mời bạn suy nghĩ về lý do gì và động cơ nào đã làm cho bạn gia nhập một tập thể. Bạn gia nhập là vì bạn muốn xây dựng tập thể ấy thêm mạnh và hiệp nhất hay vì lý do nào khác?  

Br. Huynhquảng 
 


[1] Từ Wisdom Tales (Atlanta: August House, Inc., 1996), 17.

[2] Martin Luther King, Jr., Strength to Love, 1963

 

VỀ MỤC LỤC
LÀM MẸ NHƯNG VẪN TIẾP TỤC LÀM VỢ

 

Tác phẩm: Cẩm  Nang  Hạnh  Phúc Gia  Đình  Kitô - MỤC VỤ HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH

Tác giả: D. WAHRHEIT (Lm. Minh Anh, GP. Huế tổng hợp biên tập)

 

A8. LÀM MẸ NHƯNG VẪN TIẾP TỤC LÀM VỢ

Một cuốn phim Mỹ với tựa đề “Địa Đàng” mô tả cơn sóng gió của một đôi vợ chồng trẻ sống tại một vùng ven biển có tên là Địa Đàng.

Ngày kia, một người bạn của người vợ dẫn đứa con trai đến nhờ họ trông coi suốt kỳ nghỉ hè. Cả hai vợ chồng đều yêu thương đứa bé. Nhưng từ đó, sóng gió cũng bắt đầu nổi lên.

Quả thực, sự hiện diện của cậu bé đã khiến cho người vợ nhớ lại đứa con trai cùng trạc tuổi mà họ đã mất trong một tai nạn giao thông. Sự săn sóc và tình thương dành cho đứa bé càng lớn thì nỗi nhớ thương đối với đứa con đã mất càng mãnh liệt nơi người phụ nữ.

Ngày ngày, bà ra nghĩa địa thăm mộ con. Và mỗi ngày bà trở nên lạnh nhạt với chồng hơn. Từ chỗ khước từ mọi âu yếm, người vợ lại đi đến chỗ cắt đứt mọi liên lạc với chồng. Họ sống bên nhau như hai người xa lạ trong cùng một căn nhà.

Sau mấy tháng nghỉ, người khách tí hon trở lại với gia đình. Sóng gió yên lặng, đôi vợ chồng trẻ làm hoà với nhau. Địa Đàng thực sự trở lại với họ.

Với câu chuyện phim trên đây, chúng tôi xin được nhắn gửi tới người vợ trẻ một lời khuyên: là một người mẹ tốt và một người nội trợ tốt chưa đủ để là một người vợ tốt. Làm mẹ nhưng vẫn tiếp tục làm vợ, đó chính là bí quyết của hạnh phúc hôn nhân.

1. Khi tạo dựng người đàn bà, Thiên Chúa đã phán: “Người đàn ông ở một mình không tốt. Ta hãy tạo dựng cho nó một người trợ giúp”. Một trợ giúp, hay nói đúng hơn, một nơi nương tựa. Người đàn bà là nơi nương tựa cho người đàn ông đúng nghĩa nhất. Chúng ta hãy thử tưởng tượng cái cảnh người đàn ông trở về nhà sau một ngày lao nhọc vất vả. Một căn nhà tươm tất, những đứa con được chăm sóc kỹ lưỡng đã đành, nhưng quan trọng hơn cả, phải là sự hiện diện của người vợ. Người đàn ông nào cũng cảm thấy cần được sự bao bọc đỡ nâng của vợ mình.

Với tâm trạng đó, người đàn ông không muốn gì hơn là được chia sẻ với vợ những sinh hoạt trong ngày. Từ chuyện đồng áng đến những lao nhọc vất vả nơi công sở và ngay cả những gặp gỡ va chạm của mình, người đàn ông nào cũng muốn chia sẻ và mong gặp được nơi vợ mình sự cảm thông. Họ chờ đợi gì nếu không phải là sự lắng nghe của người vợ?

Nhưng lắm khi, điều làm cho người đàn ông chán nản nhất, là họ không tìm được một người vợ biết lắng nghe. Chúng ta hãy tưởng tượng cảnh một người đàn ông suốt ngày đã gặp không biết bao nhiêu bực dọc trong công việc làm ăn, vừa bước vào nhà lại phải nghe thêm những than phiền của người vợ. “Hãy để cho tôi yên một chút được không?”. Hẳn đó là câu lẩm bẩm thông thường của người chồng khi gặp phải một người vợ không biết lắng nghe.

2. Một tác giả chuyên về tâm lý học đã nêu lên một số khuyết điểm mà một số phụ nữ thường có như sau:

Trước hết họ hay ngắt lời chồng mình. Thái độ này không chỉ nói lên khuynh hướng muốn làm chủ của người đàn bà mà còn có thể cho thấy người đàn bà không muốn hoặc không ý thức về vai trò trợ giúp đối với chồng mình nữa.

Khuyết điểm thứ hai mà người ta thường thấy nơi một số người vợ, đó là không chú tâm đến câu chuyện của chồng mình. Thái độ này đã đưa người đàn ông đến chỗ khép kín và lạnh nhạt đối với vợ. Dĩ nhiên, ngày nay câu châm ngôn “Phu xướng phụ tuỳ” không còn là luật tối thượng của đời sống gia đình nữa. Sự đối thoại mới là cơ bản của đời sống hôn nhân. Nhưng để có sự đối thoại, cần phải biết lắng nghe.

Một khuyết điểm khác nữa mà nhiều người chồng rất sợ nơi vợ mình, đó là sự thiếu cẩn mật. Tự bản chất, người đàn bà nào cũng thích tâm sự. Nhưng không phải tất cả mọi bí mật đều có thể đem ra chia sẻ. Nhất là khi những bí mật đó liên quan đến người chồng hoặc do người chồng cung cấp. Có biết bao người đàn ông đã phải trả giá quá đắt, vì đã trót nói với vợ những điều mà vợ mình không biết giữ kín.

3. Trong đời sống vợ chồng, người ta dễ nhìn thấy những khuyết điểm của nhau. Nhưng thiết tưởng, thay vì đòi hỏi người chồng phải nên hoàn hảo, thay vì trách cứ chồng mình, thì người vợ nên tự xét mình trước.

Một tác giả đã gợi lên cho người vợ bản xét mình sau đây:

·          Tôi có quan tâm đến công việc của chồng tôi không?

·          Tôi có biết không tiếc lời để luôn luôn khen tặng và khuyến khích chồng tôi, nhất là trong những năm đầu của đời sống hôn nhân không?

·          Khi được chồng ngỏ ý đưa đi dự tiệc, tôi có nghĩ rằng, tôi chỉ làm đẹp vì chồng và được hạnh phúc khi ngồi bên chồng không?

·          Tôi có biết hỏi ý kiến chồng mỗi khi mua sắm quần áo không?

·          Tôi có biết chia sẻ với chồng một vài thứ tiêu khiển, như đọc sách, xem chiếu bóng không?

·          Tôi có còn là người bạn tốt của chồng tôi không?

Đó là những câu hỏi mà thiết tưởng một người vợ biết thao thức với hạnh phúc hôn nhân không thể không đặt ra để xét mình mỗi ngày.

4. Xã hội xưa cũng như nay, có thể đặt người đàn bà vào tư thế đầu tắt mặt tối suốt ngày. Bổn phận của một người mẹ; và trong nhiều trường hợp, bổn phận của một người dâu, bổn phận của một người con trong gia đình có thể khiến cho họ quên đi hoặc xem thường bổn phận làm vợ.

Họ nên nhớ, một người mẹ tốt, một người nội trợ tốt, một người dâu hiền… tất cả chưa đủ để là một người vợ tốt. Một người vợ tốt, cốt yếu phải là một sự trợ giúp, một nơi nương tựa thiết thực cho chồng.

Người vợ trẻ nên đọc lại lời cầu chúc mà Giáo Hội dành cho họ trong nghi thức hôn phối:

Xin cho họ được âu yếm nồng nàn với chồng như nàng Rakhen. Xin cho họ được khôn ngoan như Rebeca, sống lâu trường thọ và thủy chung như bà Sara”.


VỀ MỤC LỤC
PHÂN ĐỊNH VÀ SỐNG ƠN GỌI

  

[BẢN THẢO]

LINH MỤC GIÁO PHẬN SỐNG TU ĐỨC TOÀN DIỆN

TRONG BỐI CẢNH THỰC TẾ CỦA GIÁO HỘI VÀ XÃ HỘI VIỆT NAM HÔM NAY

Lm. Micae-Phaolô Trần Minh Huy pss

 

CHƯƠNG HAI  

ỨNG SINH LINH MỤC GIÁO PHẬN

CỦNG CỐ NHỮNG BƯỚC ĐẦU

PHÂN ĐỊNH VÀ SỐNG ƠN GỌI

  

A. ĐẶT VẤN ĐỀ 

Biện phân ơn gọi thánh hiến là lắng nghe lời Chúa kêu gọi. Vậy trước hết, chúng ta thử khảo sát mấy từ ngữ quan trọng. 

Ơn Gọi, một từ ngữ thường được sử dụng để gọi tên một lời mời gọi đến chức linh mục hay đời sống tu sĩ. Tuy nhiên, trong ý nghĩa rộng rãi nhất của nó, ơn gọi đơn giản là “một lời mời gọi.” Từ ngữ này không chỉ để xác định chức linh mục hay tu sĩ mà thôi đâu. Các bậc sống khác, như hôn nhân chẳng hạn, cũng là một ơn gọi, giống như là ơn gọi linh mục hay ơn gọi tu sĩ. 

Do đó, nếu ơn gọi là một lời mời gọi thì chúng ta phải để thời giờ lắng nghe hầu biết được chúng ta phải trở thành cái gì và ở đâu. Tiến trình lắng nghe này thật căn bản để kiện toàn điều lòng chúng ta ước mong tìm được ý nghĩa đời mình, trong kế hoạch quan phòng của Thiên Chúa. 

Là những con người, chúng ta được mời gọi bởi hoàn cảnh an bài; những giới hạn và khả năng tiềm ẩn của chính chúng ta, trong một thời khắc lịch sử của khả năng tình cảm, tri thức và tâm lý của chính chúng ta. 

Nếu chúng ta đi theo giáo huấn của các viện phụ và viện mẫu sa mạc, cũng như của các giáo phụ và tiến sĩ Giáo Hội liên quan đến vấn đề này, chúng ta sẽ chấp nhận rằng một ơn gọi được tìm thấy trong sự sắp xếp an bài của các phương diện ý nghĩa của cuộc sống và bởi ân sủng mà chúng ta đón nhận để thực hiện điều tốt nhất của các tình huống đó. 

Biện phân là tiến trình lắng nghe và chọn lựa qua sự an bài trong các khía cạnh ý nghĩa của cuộc đời một con người, cũng như ân sủng để tìm kiếm và xác định hoàn cảnh và lời đáp trả đích thực đối với Tình yêu của Chúa. 

Đáng tiếc là chúng ta có khuynh hướng lạm dụng hay sử dụng không đúng từ ngữ “biện phân” này. Chúng ta gọi là biện phân bất cứ cái gì phải làm với một quyết định, ngay cả việc rất đơn giản nhất là chọn lựa giữa hai thứ đồ vật vật chất. Chúng ta cũng có khuynh hướng dùng danh từ biện phân khi tất cả những gì chúng ta muốn chỉ là một quyết định thận trọng về một việc gì đó cần đến lương tri. Do đó, không phải tất cả mọi tiến trình phải lấy quyết định đều đặt dưới phạm trù biện phân. 

Biện phân đòi hỏi khả năng suy tư thần học liên quan đến hoàn cảnh và đời sống của một người. Khi chúng ta lắng nghe và chọn lựa qua sự an bài của các phương diện quan trọng của cuộc sống và khi chúng ta đón nhận ân sủng để tìm biết qua cầu nguyện đâu là sự thật trong hoàn cảnh của chúng ta, hầu có thể xác định lời đáp trả đích thực nhất với tình yêu Chúa, thì chúng ta đi đến sự hiểu biết rõ ràng về cuộc đời chúng ta, sự rõ ràng vượt quá con tim biện phân của chúng ta. Như thế có sự gặp gỡ giữa hai sự hiểu biết rõ ràng, của Chúa và của chúng ta, nhờ đó chúng ta bắt đầu nhìn thấy với con mắt đức tin những gì Chúa muốn trong chúng ta và cho chúng ta.  

Trong khi biện phân lời mời gọi đến chức linh mục, tu sĩ hay một tác vụ tôn giáo, điều hết sức quan trọng phải ghi nhớ trong lòng trí rằng ơn gọi đặc biệt này trước hết là một lời mời gọi dâng hiến cuộc đời phục vụ Chúa. Đó không phải là một lời mời gọi làm bất cứ cái gì hay trở nên cái gì.  

Tiến trình biện phân lời mời gọi của một người là một nỗ lực vừa nhân loại vừa thần linh để chọn một bậc sống diễn tả lời đáp trả tốt nhất của mình với tình yêu và sự chăm sóc quan phòng của Chúa. Như thế nó không bao giờ được đảm trách một mình, vì nó mời gọi một sự tương tác giữa người biện phân và Thiên Chúa. Vậy, việc biện phân luôn luôn nằm trong bối cảnh mối tương quan nhân vị của con người với Chúa.

Cầu Nguyện và Biện Phân

Cầu nguyện là tâm điểm mối tương quan của con người với Chúa làm cho con người tự nguyện sẵn sàng với sự hiện diện dẫn dắt của Chúa trong đời sống mình, đồng thời làm cho con người có khả năng nhận biết Chúa qua tương quan đối thoại: “Xin cho con biết Chúa, xin cho con biết con” (thánh Augustinô). 

Như vậy, biện phân không thể tách lìa cầu nguyện, nếu không nó sẽ không thể là một biện phân đích thực. Biện phân không phải là một cái gì chỉ đơn giản đòi học hỏi các phương pháp và kỹ thuật, dù đó là những dụng cụ hữu ích trong chính tiến trình biện phân.  

Biện phân trước hết là một ân ban mà nguời ta tìm kiếm hằng ngày trong cầu nguyện. Chúng ta học nghe tiếng Chúa với con tim của mình, học nhận biết âm thanh của nó, đôi khi cả học biết những gì Chúa muốn nói trước cả khi Ngài nói nó ra. Biện phân là một lời mời gọi được phát sinh từ mối tương quan thân mật và hiệp thông với Chúa. Nó là một ân ban cho ta có thể phân biệt được những hướng dẫn của Chúa Thánh Thần.

Vì thế, một người đi vào tiến trình biện phân ít nhất phải có hạt giống đức tin trong mình. Ta phải xác tín rằng lời cầu nguyện ban sức mạnh và đào sâu mối ràng buộc bằng hữu với Chúa. Ta cũng phải tin rằng lời cầu nguyện và đức tin mang lại mục đích và ý nghĩa cho cuộc đời được sống trong sự hiến dâng và cam kết phục vụ Chúa.  

Nhờ hành trình cầu nguyện, chúng ta nhận ra được rằng tiến trình biện phân, dù lắm khi là một trăn trở, thực sự đơn giản nếu chúng ta để Chúa Thánh Thần hướng dẫn chúng ta. Tiến trình này bao gồm bốn giai đoạn sau đây: Giữ quan hệ với chính mình; giữ quan hệ với Chúa; chính tiến trình lấy quyết định và khẳng định quyết định đã lấy. 

Bây giờ chúng ta đến với câu hỏi vô cùng quan trọng. Dấu hiệu nào của ơn gọi linh mục và tu sĩ là nổi bật và thiết yếu nhất đáng sự quan tâm đặc biệt của những ai dấn thân vào việc tuyển chọn, giáo dục và đào tạo các ứng sinh? Câu trả lời là một quan tâm đúng đắn (Paul VI)

còn tiếp nhiều kỳ

VỀ MỤC LỤC
CHĂM SÓC CHA MẸ GÌA

 

Nhân ngày “Từ Phụ”, Lang tôi xin cùng quý thân hữu đi vào một vấn đề có tính cách gia đình.  Vì nhìn gần nhìn xa, thấy các vị đàn anh và một số bạn đồng tuế đang từ từ đối diện. Và các con cũng rất ưu tư suy nghĩ.        

Đang ngồi họp, Vân được cho hay có điện thoại khẩn cấp. Chị vội đứng lên, về phòng. Bà hàng xóm nơi mẹ Vân đang ở, cho hay bà cụ vừa được đưa vào nhà thương. Bà cụ té ngã.

Vân vào cáo lỗi với ông chủ rồi xuống lấy xe lái vào bệnh viện thăm mẹ.

Trên đường đi, nàng dùng điện thoại di động báo cho Huân, chồng nàng hay. Huân hiện đang đi công tác ở miền miền Trung nước Mỹ, tuần sau mới về. Rồi suốt mười lăm phút lái xe, nàng suy nghĩ mung lung, với nhiều lo âu, bối rối. Sự việc mà nàng hằng nghĩ trước sau gì cũng xẩy ra, thì bây giờ nó đã đến, hơi sớm một chút. 

Sau khi ba Vân mất cách đây dăm năm, mẹ Vân dọn về ở với vợ chồng nàng. Rồi sau một thời kỳ thích nghi với hoàn cảnh mới, nếp sống mới của người góa phụ, bà cụ dọn ra ở riêng.

 Cụ tới khu người già trong khuôn viên chùa Linh Sơn. Cụ nói lên đây ở để đi lễ bái cho gần, lại có mấy cụ già quanh quẩn với nhau cho vui. Nhất là có hai người bạn học từ thuở xưa ở Hải Phòng, mà họ thường hay liên lạc chuyện trò.

Khu người già được lập ra từ hơn mười năm, có 40 phòng, dành cho các cụ độc thân, còn đủ sức khỏe, đi lại được, còn tự chăm sóc nấu ăn, giặt giũ. Các cụ sống hợp quần với nhau rất vui. Ngày ngày các cụ lên Chùa lễ bái, tụng kinh rồi làm công quả. Lâu lâu nhà Chùa tổ chức đi thăm viếng đây đó hoặc đi lễ hội Chùa tại thành phố khác. Đôi khi trời mưa, các cụ ở nhà rủ nhau làm vài hội chắn hoặc bài cào để tiêu khiển giải trí.

Nhưng từ trong thâm tâm thì cụ không muốn phiền con cháu quá lâu. Từ trước tới nay cụ là người rất hoạt động, phải nói là đảm đang nữa. Cùng chồng, cụ đã đôn đáo tìm đường thoát khỏi Sài Gòn vào biến cố 1975, rồi nuôi nấng, gây dựng cho sáu mặt con từ khi còn ở trong nước tới khi sang Hoa Kỳ hơn ba chục năm nay. Cháu nội ngoai các cụ có hơn một tá.

Mọi việc xuôi sẻ cho đến ngày hôm nay.

Thực ra thì từ năm ngoái, cụ đã không được khỏe lắm. Huyết áp lên cao, các khớp xương thì mỗi khi trái gió, trở trời là đau nhức, khiến cụ mất ngủ. Có đêm, cụ chỉ ngủ được có vài ba giờ, nên ban ngày mệt và hay kêu chóng mặt, nhức đầu.

Cách đây ba tuần cụ phải nằm bệnh viện mất mươi ngày vì sưng phổi. Sau khi xuất viện, vợ chồng Vân muốn mời cụ về ở chung một thời gian cho khỏe nhưng cụ một mực từ chối, nói không sao. Vân đã cho anh chị em biết về tình trạng sức khỏe của cụ và mọi người dự định là tháng tới sẽ về để cùng thảo luận coi xem nên làm gì.

Tới bệnh viện, Vân được cô y tá cho hay tự sự.

Số là sáng nay, mấy ông bà hàng xóm sang rủ cụ lên Chùa tụng niệm, như lệ thường. Gõ cửa không có tiếng trả lời, một lão ông bèn đẩy cửa bước vào và thấy mẹ Vân nằm song soài dưới đất, cạnh bàn điện thoại, nét mặt nhăn nhó. Cụ sửa soạn lên Chùa thì bị một cơn chóng mặt, xỉu đi và ngã xuống nền nhà. Cụ cố với tay tới điện thoai để kêu cứu, nhưng đau quá, không lết thêm được.

Bác sĩ đã khám, chụp hình thì thấy cụ bị gẫy xương hông. Cụ hiện đang nằm trong phòng cấp cứu. Bác sĩ chờ thân nhân tới để thảo luận vì cụ cần được giải phẫu.

Vân vào phòng, thấy mẹ nằm thiu thiu mà nước mắt trào ra. Da mặt bà cụ xanh nhợt, vẫn còn phảng phất nét đau đớn. Vân nhẹ nhàng ngồi xuống ghế, để mẹ tiếp tục ngủ. Nhìn mẹ mà lòng vân bối rối. Cả trăm vấn đề hiện lên trong đầu Vân. Sau giải phẫu, mẹ sẽ ra sao? Liệu có đi lại được không? Huyết áp cao, bệnh phong thấp hoành hành, lại mất ngủ thì sức khỏe chắc là phải sa sút.

 Mấy tháng trước, khi vợ chồng Vân đến thăm, thấy cụ cứ than là ăn không ngon miệng, nên đôi khi chẳng thèm nấu cơm, mà chỉ uống ly sữa, ăn miếng bánh khô cho khỏi đói bụng. Coi tủ lạnh, Vân thấy mấy món ăn thiu đã lên men. Vào buồng tắm thấy nước vặn bỏ quên không khóa. Vợ chồng Vân đã lo ngại... 

Rồi Vân nghĩ tới hoàn cảnh của mình.

Trong sáu người con, Vân là người duy nhất ở gần mẹ. Mà bà cụ vẫn có cảm tình đặc biệt với Vân, nên trước sau cụ vẫn nói là mai mốt nếu cần “tao chỉ ở với vợ chồng con Vân thôi. Nó bướng bỉnh nhưng có lòng”.

Vợ chồng Vân được hai trai một gái đã vào đại học nên cũng nhẹ gánh. Vân mới được lên chức và trong tương lai gần, sở sẽ cho nàng đi học thêm để lấy bằng chuyên môn. Vân đã sắp xếp như vậy cho mình. Chồng nàng thì cứ vài tháng phải đi công tác xa mươi ngày.

Bây giờ, cơ sự sẩy ra như thế này, mọi dự tính của Vân đều phải xét lại. Để chờ cụ giải phẫu xong rồi tuần sau anh chị em về sẽ tính. Nhưng Vân có linh tính rằng nàng sẽ là người đứng mũi chịu sào. Mẹ mình vẫn muốn vậy, nàng tự nhủ.

Bà cụ chợt tỉnh giấc, mở mắt. Nhìn thấy Vân, Cụ gượng cười. Và trong đôi mắt của mẹ, Vân đọc thấy những nét thất vọng, sợ hãi, chịu thua... 

Trường hợp của chị Vân là một trong cả trăm ngàn trường hợp tương tự.

Tuổi thọ con người kéo dài lâu hơn, tới 75, 80 là chuyện thường. Chứ không “Thất thập cổ lai hy” như vào thế kỷ trước. Số những người cao tuổi mỗi ngày mỗi gia tăng. Sức khỏe người già có khá hơn nhờ các cụ biết giữ gìn nếp sống cũng như được cung cấp dịch vụ y tế, thuốc men đầy đủ.

Nhưng một cơ thể lâu đời vẫn có những thay đổi tự nhiên theo chiều đi xuống cộng thêm những bệnh kinh niên, những tai nạn bất ngờ, với hồi phục chậm chạp. Biết bao nhiêu mất mát đã chồng chất lên niên kỷ, những xói mòn làm mong manh thân xác.

Dù vậy nhiều người già vẫn gắng gượng tự lo, chưa muốn phụ thuộc vào các con. Họ cũng có những kiêu hãnh riêng tư, những niềm tự trọng, đôi khi cũng chỉ e ngại “cảnh cha mẹ nuôi con như trời như bể, con nuôi cha mẹ con kể từng ngày ”. Nhưng sức gắng gượng chỉ có hạn, rồi một ngày nào đó cũng yếu đi. Như căn nhà tranh vách đất trước gió bão, cần được chống đỡ.

Và cũng là lúc con cái phải suy nghĩ, xem ai sẽ là người lãnh trách nhiệm. Chắc phải là người có thiện chí, có điều kiện, khả năng và hoàn cảnh thuận tiện.  

Phục vụ thân nhân cao tuổi là một vinh dự cho con cái đồng thời cũng là vấn đề quan trọng của nhiều xã hội hiện nay. Tại Hoa Kỳ hiện nay có tới cả 40 triệu người cung cấp chăm sóc không lương cho cha mẹ già. Sự chăm sóc này ảnh hưởng dây chuyền tới nhiều lãnh vực khác. Sẽ có nhiều người vắng mặt ở sở hoặc đi làm trễ; sẽ có dùng nhiều điên thoại để lấy hẹn bác sĩ, gọi mua thuốc. Nhiều nhân viên tới sở than phiền mỏi mệt mất ngủ. Tai nạn tại chỗ dễ sẩy ra. Thay đổi việc làm nhiều hơn. Và số người bị trầm cảm, đau ốm sẽ gia tăng. 

Trong thực tế thì có rất ít gia đình đã sửa soạn để sẵn sàng giải quyết việc chăm sóc cha mẹ khi về già. Nhiều việc xẩy đến bất thường, đòi hỏi có quyết định ngay.

Ông bố đang có sức khỏe tốt, đột nhiên bị tai biến não, liệt nửa thân, nằm bất động cần giúp đỡ với nhu cầu căn bản, thiết yếu hàng ngày: ăn uống, tắm rửa, đại tiểu tiện, cho uống thuốc...

Con dâu đang vừa đi làm vừa trông nom bà mẹ chồng, giờ đây con dâu cũng thường đau ốm. Ai là người sẽ lãnh trách nhiệm săn sóc ông bố? Ai sẽ tiếp tay với mình trông nom mẹ chồng?

Theo kinh nghiệm thì dù có nhiều anh chị em, nhưng trách nhiệm chăm sóc không đồng đều chia sẻ khi bố mẹ cần. Có thể là người con gái lớn với cả một bầy con hoặc cô út chưa đi ở riêng, hoặc nàng dâu nhà ở gần bố mẹ. Đôi khi là cậu con trai cưng. Nhưng thường ra thì chỉ có một người đóng vai chính, thường xuyên.

Nói như vậy không có nghĩa lã không có chia sẻ về tài chánh, về công việc chăm sóc mà qua người này mọi việc được giáo phó, phối hợp và thông báo cho người khác khi cần. Một tiểu gia đình cộng thêm hai cụ thân sinh. Thế hệ người chăm nuôi được ví như thế hệ của một chiếc “ bánh mì kẹp chả” , với trách nhiệm làm cha mẹ, bổn phận làm con và đời sống riêng tư của mình.

Nói đến người săn sóc thường thường là ta nghĩ đến vai trò của người phụ nữ: con gái, con dâu, chị em, cháu. Theo kết quả thăm dò tại Hoa Kỳ, cứ 10 người chăm sóc thì 6 người là con gái hoặc con dâu. Cũng chẳng ai hiểu tại sao. Có lẽ đó là thiên chức của họ sinh ra với những nét dịu dàng, nhậy cảm, những quan tâm, linh động, nhất là đức tính hy sinh, nhẫn nại, thông cảm để chăm sóc chồng con, bố mẹ. Điều đó cũng đúng vì việc tề gia nội trợ, việc chăm sóc nâng niu thì cũng hiếm đàn ông làm hơn quý bà được.

Cho nên khi một bà cụ khoe “tôi ở với con trai ” thì thực ra phải hiểu là bà cụ đang ở với con dâu mới công bằng, chính xác. Đàn ông cũng làm được công việc đó nhưng tổng quát hơn, sắp đặt nhiều hơn là đi vào chi tiết. Mà những chi tiết mới là điều mà người phụ thuộc cần và quan trọng đối với họ.

 Người đàn bà có chín tháng mười ngày sửa soạn để đón chào đứa con ra đời, nhưng họ không có một phần mười thời gian đó để sẵn sàng cho trách nhiệm nuôi cha nuôi mẹ .Vì sự việc xẩy ra không lường trước.

Vả lại, nuôi con là thấy mỗi ngày chúng vươn ra khỏi vòng phụ thuộc, còn nuôi bố mẹ già thì nhu cầu giúp đỡ mỗi ngày mỗi tăng, mỗi đi sâu vào sự lệ thuộc. Nhiều người như bơi lội quay cuồng trong vai trò mới của mình. Kinh nghiệm chưa có, làm sao học được cách thức điều dưỡng trong vài ngày. Tài chánh giới hạn. Sức khỏe kém. Công việc trở ngại. Ngoài việc làm kiếm gạo, mỗi ngày cũng phải dành ra vài giờ cho việc săn sóc. Họ cảm thấy cô đơn, buồn chán, nhiều khi bực bội, bất mãn, tuyệt vọng. Không còn riêng tư cho mình. Tương lai như ngưng lại. Họ mủi lòng cho người thân, người mà bạn đường đã sớm bỏ ra đi, sức khỏe đang hao mòn và biết rằng đang là gánh nặng cho con cháu. 

Tình nghĩa gia đình, lòng hiếu thảo, mặc cảm chịu ơn là những hỗ trợ để người chăm sóc tiếp tục. Họ nghĩ là có bổn phận phải chăm sóc cha mẹ như cha mẹ đã nuôi nấng, trìu mến họ.

Tuy nhiên dù có cứng nhưng cũng có ngày ngả nghiêng trước gió táp. Những chia xẻ trách nhiệm, những giúp đỡ từ anh chị em, thân nhân đã tới lúc cần có vì việc chăm sóc là trách nhiệm chung của cả gia đình.

Thường thì một người tình nguyện chăm sóc thường xuyên. Còn người khác phụ giúp khi được yêu cầu hay khi có cơ hội thuận tiện. Sắp xếp sao để tránh khỏi một người bị kiệt sức. Hoặc đưa tới bất hòa giữa anh chị em. Một người mẹ có thể chăm sóc cả bầy con mười đứa, nhưng khi cha mẹ già thì mười đứa con không chăm sóc được một mẹ. Kể cũng éo le, tội nghiệp.

Sau một thời gian cố gắng, người chăm nom bắt đầu có những dấu hiệu khó khăn. Đôi khi họ cố tình gạt bỏ những nhu cầu riêng, quên những đau ốm cá nhân để lo cho người thân yêu. Có người từ chối sự tiếp tay của anh chị em hoặc bạn bè, nhóm hội. Họ cứ nghĩ có đủ sức làm mọi việc và nếu nhận sự tiếp tay là thú nhận thất bại, kém khả năng. Có người cho là chỉ có mình mới chăm sóc chu đáo, không tin ở người khác.

Để rồi kiệt sức, ngã bệnh. Thử tưởng tượng một người không có sức khỏe dồi dào, săn sóc một người không khỏe lắm, thì chắc kết quả cũng chẳng được mấy hoàn hảo, như ý muốn của đôi bên.

Theo mấy ông bà thống kê thì người cống hiến chăm sóc bị cao huyết áp gấp đôi người khác, 91% bị trầm cảm, bốn lần bực bội, cau có hơn người nhận. Họ bất mãn vì đã cố gắng hết mình mà tình trạng người thân mỗi ngày mỗi suy kém, nên họ phải cố gắng hơn trong việc chăm sóc. Họ có cảm tưởng như mình là người duy nhất có thể trông nom chu đáo được cho người thân, luôn luôn e ngại rằng sự săn sóc của anh chị em sẽ làm cha mẹ già suy yếu hơn.

 Đôi khi họ thấy không có được một thì giờ dành cho mình, một chút riêng tư với chồng con. Rồi tính tình thay đổi, hay cau có, bực tức, giận dỗi vu vơ; cảm thấy khó chịu với người mình đang trông nom, đã chẳng chịu hợp tác lại còn bướng bỉnh, đòi hỏi.

Lâu lâu họ thấy trong người mệt mỏi, ngủ không được. Nhiều sáng họ sợ không dám thức dậy, sợ phải đương đầu với những thường lệ mỗi ngày lại diễn ra.

Ngoài ra, dịch vụ chăm sóc cũng gây trở ngại cho công việc làm ăn, cho đời sống giao tế hàng ngày. Và đôi khi họ không còn thấy vui vẻ kiêu hãnh về trách nhiệm của mình, hoặc cảm thấy tội lỗi về những ý nghĩ không tốt của mình đối với người thân.

Rồi một lúc nào đó ngã bệnh, buông xuôi... 

...Để tiếp tục chăm lo cho mẹ, Vân đã dành cho bản thân chị một vài chăm sóc, nhân nhượng. Vân đã như nghe thấy từng thớ thịt kêu gào với Vân, “cho tôi nghỉ chút xíu chứ, bạn đã sử dụng quá sức lao động của tôi để phục vụ bà cụ rồi đó”!

Vân đã sẵn sàng, dễ dãi tiếp nhận sự giúp đỡ của anh chị em.

Cô Lan ơi, tuần sau lên đón mẹ về với em, đỡ hộ chị mươi ngày nhé, anh chị định đi xả hơi ngoài biển.

Anh Hoan ơi, bác sĩ nói mẹ cần uống thêm sữa đậu nành, hay là anh nói với chị làm hộ em mỗi tuần vài lít nhé.

Chị đã xen kẽ xả hơi và chăm sóc để duy trì sinh lực, lấy lại nhiệt tâm. Dạo này Vân để ý đến ăn uống đầy đủ dinh dưỡng hơn. Ngày nào chị cũng dành 15 phút để vận động cơ thể.

Nàng lo nhất là bị rối loạn giấc ngủ. Ban đêm nhiều khi Vân phải thức dậy giúp đưa mẹ vào phòng tắm, lấy miếng nước, viên thuốc cho mẹ. Vân biết là mất ngủ sẽ mau đưa tới nhiều tiêu hao tinh thần thể xác.

Chị cũng đã nghĩ đến một ngày nào đó phải cần đến sự giúp đỡ của các dịch vụ chăm sóc người già của chính phủ, của các tổ chức trong cộng đồng, tôn giáo, xã hội, những nhóm hỗ trợ tư nhân, trung tâm chăm sóc ban ngày. Các dịch vụ này có sẵn tại mỗi địa phương lớn nhỏ tại Hoa Kỳ.

Nhưng quan trọng nhất vẫn là nói chuyện với anh chị em. Để phân chia công việc săn sóc, phụng dưỡng người mẹ cô đơn được chu đáo trong những năm tháng còn lại của Mẹ...

Vì:

Mẹ già như chuối chín cây”.

Rụng lúc nào, không biết.

Cũng như Cha đã về nguồn cách đây mấy năm.

 

Bác sĩ Nguyễn Ý-Đức M.D. Texas- Hoa Kỳ

VỀ MỤC LỤC
BỮA CƠM GIA ĐÌNH XƯA VÀ NAY - Chuyện phiếm của Gã Siêu

 

BỮA CƠM NGÀY XƯA 

Cuộc sống khắp nơi đang thơ thới hân hoan, bỗng dưng giá cả thực phẩm bắt đầu leo thang. Mà đã leo thang, bọn đầu cơ tích trữ thế nào cũng dấu béng đi để tạo thành một tình  trạng khan hiếm, để rồi sau đó, giá cả lại tiếp tục tăng lên vùn vụt, khiến cho bàn dân thiên hạ lo lắng đến toát cả mồ hôi hột.

Những nước nghèo đói bên Châu Phi và ngay cả những nước không đến nỗi túng thiếu, chẳng hạn như Phi Luật Tân hay Ấn Độ…vì không sản xuất đủ lương thực, nên dân chúng phải xếp hàng mua gạo và chỉ được mua theo một chế độ nào đó. Nhìn cảnh tượng ấy mà gã cảm thấy ngao ngán lắm vậy.

Gã là dân Hai Lúa, cắm dùi ở miền đồng bằng sông Cửu Long. Ngay sau khi thu hoạch vụ đông xuân, cứ tưởng giá lúa sẽ ổn định như mọi năm, nên cũng như nhiều người khác, đã vội bán đi để trang trải nợ nần: Nào là tiền công, nào là tiền thuốc, nào là tiền phân…Nào ngờ đâu, giá lúa cứ như ngựa phi đường xa, mỗi ngày lên một bậc, thành thử chỉ trong hai hay ba tuần lễ là đã mất toi một số tiền lớn chỉ vì trượt giá. Số tiền bay hơi trước mắt này gần bằng  với tiền lời mình kiếm được của một vụ mùa.

Và điều còn vô lý hơn nữa, đó là ngay tại cái vựa lúa miền Nam, giá gạo bất chợt lên cơn sốt, như một căn bệnh cấp tính. Tăng gấp hai, gấp ba…khiến cho những người ăn đong cũng phải xếp hàng mà mua gạo. Nhưng may thay cơn sốt này chỉ kéo dài có hai ngày thì xẹp xuống như trái bóng xì hơi,

Qua sự việc nóng bỏng kể trên, gã nghiệm ra rằng cái ăn thật là quan trọng, đứng vào hàng đầu trong cuộc sống thường ngày. Ngoài ngõ, người ta đánh nhau toạc đầu xẻ trán cũng chỉ vì cái ăn, còn trong nhà người ta xào xáo lẫn nhau cũng chỉ vì cái ăn đang ở vào thời buổi “gạo châu củi quế”, bởi vì như cha ông chúng ta vốn thường nói:

- Có thực mới vực được đạo.

- Bụng đói, thì đầu gối phải bò.

- Đói ăn vụng, túng làm liều.

- Bần cùng sinh đạo tặc.

Chính vì thế, gã xin bàn đến chuyện bữa cơm gia đình xưa và nay. Nói một cách trừu tượng theo kiểu khoa học, thì  vấn đề nạp năng lượng cho cơ thể được hoạt động, hay nói một cách cụ thể theo kiểu bình dân, thì vấn đề ăn cho cơ thể được sống, là điều rất cần thiết cho mọi người, ở mọi nơi và trong mọi lúc. Chẳng thế mà người tây phương đã bảo:

- Ăn để mà sống.

Còn người đông phương thì nói:

- Dân dĩ thực vi tiên, người dân lấy cái ăn làm đầu.

Mặc dù người quân tử có thể vỗ ngực mà hãnh diện:

- Thực vô cầu bão và cư vô cầu an. Có nghĩa là ăn chẳng cần no và ở chẳng cần yên.

Thế nhưng, chẳng ai đói mãi mà sống bình thường được. Không suy dinh dưỡng, thì cũng bệnh nọ tật kia. Chính vì thế mà bữa cơm đã trở thành một sinh hoạt trung tâm của nếp sống gia đình.

Đa số người Việt Nam sống bằng nghề nông, nên được liệt vào hạng lao động tay chân. Mà đã lao động tay chân, thì ban sáng cần phải ăn no, mới đủ sức làm việc trên ruộng đồng cho tới trưa. Vì thế, người Việt Nam thường ăn ba bữa: Sáng, trưa và tối: Ngày ba bữa, vỗ bụng rau bình bịch. Tuy nhiên, có những gia đình bữa tối chỉ ăn qua quít với cơm nguội và những thức ăn còn dư lại của ban trưa mà thôi.

Trong khi đó, dân thành phố do ảnh hưởng của người Pháp, ban sáng thường ăn ít và gọi đó là bữa điểm tâm. Còn ban trưa mới là bữa chính và ban tối mới là bữa…trọng hơn các bữa.

Tác giả Đào Duy Anh, trong Việt Nam Văn hóa Sử cương, đã viết: “Từ xưa, người nước ta vẫn sinh hoạt bằng nghề cày cấy và nghề chài lưới, cho nên đồ ăn chủ yếu của ta là gạo và cá”. Gạo là hoa màu chính của ruộng đồng, còn cá là sản phẩm chính của sông ngòi và biển cả.

Theo Toan Ánh trong “Phong tục Việt Nam”, thì cây lúa ở ngoài đồng mới chỉ cho ta hạt thóc mà thôi. Và hạt thóc cần phải có bàn tay con người chế tạo để biến thành hạt gạo.

Gã không cần nói tới những lao công vất vả quyện lẫn với những giọt mồ hôi, được người nông dân đổ xuống trên ruộng đồng từ những ngày gieo xạ cho tới lúc thu hoạch, mà chỉ nói tới từ lúc thu hoạch cho tới khi trở thành một hạt cơm mà thôi.

Ngày xưa chưa có máy móc như hiện nay, lúa được gặt, rồi đập, phơi và rê sạch, sau đó thóc được dí…bồ.

Muốn biến thóc thành gạo, thì trước tiên phải đổ thóc vào cối xay để tách vỏ thóc, gọi là trấu, ra khỏi hạt. Thóc xay rồi được đem sàng, để loại trấu ra khỏi gạo. Gạo sàng rồi được cho vào cối giã, để tách cám khỏi gạo. Gạo giã rồi được đem dần để cám và tấm tách rời riêng biệt, chỉ còn lại gạo sẽ đem dùng.

Muốn nấu cơm, trước hết phải vo gạo, để sạch những mày trấu còn dính trong gạo. Vo mà thôi chưa đủ, đôi khi còn phải đãi gạo. Người ta lắc mạnh rá gạo đã vo, để những hạt sạn nặng hơn sẽ bị lắng xuống dưới lòng rá. Sau đó bốc chỗ gạo ở trên bỏ vào một cái rá khác cho tới khi chỉ còn một ít gạo lẫn với sạn, thì bỏ đi hay vứt cho gà vịt ăn…

Tiếp đến, người ta đổ nước vào nồi, đun cho sôi, rồi đổ gạo vào và đậy vung lại. Lát sau, nồi cơm sôi trở lại, người ta lấy đôi đũa cả mà ghế. Sau đó, phải liệu sao cho nồi cơm được đủ nóng bằng cách vần,  đốt, hay đánh cuốn…thì nồi cơm mới chín được.

Không phải ai cũng có thể nấu được nồi cơm ngon và dẻo, cũng không phải hễ cứ nấu, thì nồi cơm liền được như ý mình muốn. Nấu không  khéo, cơm sẽ trương, sẽ sống, sẽ khê hay sẽ nát, như câu tục ngữ dùng để chê bai các bà nội trợ nấu cơm hơi bị vụng về:

- Trên sống, dưới khê, tứ bề nát bét.

Ý thức được những công lao vất vả là như thế, nên các cụ ta ngày xưa mới khuyên:

- Ai ơi bưng bát cơm đầy,

  Dẻo thơm một hạt, đắng cay muôn phần.

Hồi còn bé, trong khi ăn, nếu chẳng may làm rơi vãi một vài hạt cơm mà không chịu nhặt lên, thế nào cũng được ba gã giảng cho một bài luân lý giáo khoa thư về những khó nhọc của người đã làm nên hạt gạo và hạt cơm, cũng như những người hiện đang lâm cơn đói kém, không có gì để ăn. Chắc hẳn ba gã vẫn còn bị ám ảnh bởi cơn ác mộng  của nạn đói năm Ất Dậu, đã cướp đi sinh mạng của hàng  vạn người tại miền Bắc?

Hồi còn bé, bọn nhóc con trong những đêm trăng sáng, thường chơi trò đố vui. Và có một câu được đưa ra như sau:

- Mấy hạt gạo thì được một hạt cơm?

Xin thưa rằng:

- Chín hạt gạo mới được một hạt cơm.

Té ra đó là một kiểu chơi chữ. Chín hạt gạo có nghĩa là hạt gạo phải được nấu chín thì mới trở thành một hạt cơm.

Dân Việt Nam vốn nghèo, nên thức ăn trong bữa cơm không có gì đáng kể, ngoài con cua, con tép, con cá bắt được dưới kinh rạch hay ao chuôm và mớ rau trồng trong vườn như rau muống, rau cải, quả cà hay hái được nơi bờ dậu như rau ngót, rau mồng tơi…Chỉ trong những ngày đặc biệt hay trong những dịp hội hè đình đám mới có miếng thịt và thường là thịt lợn.

Vì hiếm khi được ăn thịt, nên ở một vài nơi khi đi dự tiệc, người ta chỉ ăn qua quít, còn bao nhiêu được chia đều, mỗi người một gói để mang về cho con cháu.

Gã còn nhớ ngày xưa khi tham gia sinh hoạt trong “hội hát” của giáo xứ, cứ mỗi lần mừng bổn mạng, người ta đều giết heo. Đầu lòng và tiết canh được dùng trong bữa tiệc. Số thịt sống còn lại được chia làm nhiều phần và mỗi ca viên được một phần xách về nhà, để mọi người cùng hưởng tí lộc của hội hát…

Vì là một trong những sinh hoạt chính, nên các gia đình thường qui định: Đến bữa, thì mọi người đều phải có mặt đông đủ, bởi vì “người đi không bực, cho bằng người chực nồi cơm”. Cơm nấu xong, phải ăn liền tù tì khi còn nóng hổi thì mới ngon, chứ còn kẻ chờ và người đợi, tới khi nguội tanh nguội ngắt, thì dù thức ăn được nấu ngon cũng trở thành dở.

Theo Toan Ánh diễn tả thì ở nhà quê, mâm cơn thường được đặt trên một chiếc chiếu trải xuống đất ở dưới bếp. Gặp những buổi chiều mát mẻ, thì trải ngay ở ngoàisân. Chỉ nhà giàu mới dọn cơm trên phản. Khi có khách hoặc giỗ tết, mâm cơm sẽ được dọn lên ở nhà trên hay nhà khách. 

Thật là tình tứ và thơ mộng, khi cả gia đình cùng nhau quây quần với nhau bên mâm cơm, được dọn ra ở ngoài sân vào một buổi tối sáng trăng, cho dù thức ăn có đạm bạc và ít ỏi với canh cua rau day, với cà ghém mắm tôm, thì vẫn cứ ngon miệng, hay như ca dao đã diễn tả:

- Râu tôm nấu với ruột bầu,

  Chồng chan, vợ húp, gật đầu khen ngon.

Cũng có nhà, người ông hoặc người cha, vốn là chủ gia đình, được vợ con và các cháu kính trọng dọn riêng một xuất cơm lên nhà trên.

Trong bữa ăn, thường con gái và con dâu phải ngồi đầu nồi để xới cơm.

Vì thế mới xảy ra chuyện mấy đứa em trai “trời đánh thánh vật không chết” chọc ghẹo chị dâu mới về nhà chồng bằng cách nháy mắt cho nhau, chị dâu vừa xới cho đứa này, thi đứa kia đã vội chìa bát tới, khiến cho chị dâu cứ phải liên tục xới cơm mà chẳng kịp ăn. Thế là chúng phá ra cười một cách vui vẻ.

Khi ngồi xuống mâm cơm, ông bà hay cha mẹ thường ngồi trước, rồi sau đó mới đến con cháu. Trước khi dùng bữa, nếu là con nhà có đạo, thì người chủ gia đình sẽ làm dấu thánh giá và cùng nhau đọc kinh Lạy Cha, để cảm tạ và xin Chúa thánh hóa những của ăn sắp được hưởng dùng.

Sau đó, những người dưới phải mời những người trên. Thí du đứa cháu thì phải  mời ông bà,mời cha mẹ và mời các anh các chị…xơi cơm. Nghi thức này xem ra hơi bị kéo dài, nhất là đối với những gia đình đông con nhiều cháu.

Khi ăn, con cháu thường nhường những miếng ngon miếng ngọt cho ông bà và cha mẹ. Thế nhưng, ông bà và cha mẹ cũng thường nhường lại cho con cháu, nhất là những đứa còn nhỏ.

Theo phép lịch sự, người xưa đã dạy:

- Ăn trao xuống, uống trao lên.

Đồ ăn là chính, còn nước uống là phụ, ai muốn dùng bao nhiêu cũng được, không đáng kể. Vì thế, người trên phải trao đồ ăn xuống cho kẻ dưới để tỏ lượng bao dung. Còn kẻ dưới thì đưa nước uống lên cho người trên, để tỏ ra lòng tôn kính. Ngoài ra, câu trên còn được hiểu: Trong chuyện cỗ bàn, người mâm trên vốn  ăn ít nhưng uống nhiều, nên thường san sẻ thức ăn cho mâm dưới. Còn người mâm dưới thì phải trông chừng để tiếp thêm rượu, thêm nước cho mâm trên.

Ngoài ra, người xưa cũng nhắc nhở chúng ta:

- Ăn trông nồi, ngồi trông hướng.

Có nghĩa là khi ăn phải trông xem trong nồi còn nhiều cơm hay ít để mà liệu có nên ăn thêm nữa hay thôi, cho phải phép. Còn khi muốn ngồi xuống chỗ nào, thì phải trông xem cái hướng mình ngồi có gây cản trở cho ai không, rồi mới  ngồi.

Hồi còn bé, gã đã xem một cuốn phim mang tựa đề là “Thằng khùng đi hỏi vợ”, trong đó có một chi tiết như sau:

Thằng khùng được ông bác dẫn tới nhà ông bố vợ tương lai. Và trong bữa cơm, thế nào bên đàng gái cũng quan sát thái độ của thằng khùng để đánh giá và quyết định xem có nên gả con gái hay không. Vốn biết tính thằng khùng tham ăn, nên ông bác bèn cột một sợi chỉ vào chân thàng khùng và nói:

- Bao giờ tao giật thì mày mới được ăn.

Thằng khùng vui vẻ nhận lời. Vào bàn tiệc, nó ngồi ăn rất nhỏ nhẹ theo những cái giật  của ông bác. Mọi người đều tấm tắc khen. Nhưng rồi khi bữa tiệc gần kết thúc, con chó dưới gậm bàn vướng phải sợi dây, làm cho sợi dây bị giật liên hồi. Và thế là thằng khùng cũng vội bốc các thứ thịt thà trên bàn mà ăn lấy ăn để, khiến cho mọi người trố mắt ngạc nhiên mà không hiểu tại sao.

Một truyện tiếu lâm khác kể lại:

Anh chàng rể tương lai tới nhà ông bố vợ và được mời ở lại dùng bữa. Trong khi ăn, anh chàng rể hờ này cố gắng bắt chước ông bố vợ. Hễ ông bố vợ gắp món nào, thì anh ta cũng gắp món đó, khiến ông bố vợ gật đầu khoái chí.

Tới lúc ông bố gắp bún vào bát, rồi chan canh mà ăn. Chẳng may đang lúc ăn bún như vậy, ông bố vợ bị…”hắt xì”, khiến một cọng bún thò ra ở lỗ mũi. Thấy vậy, anh chàng rể tương lại bèn chắp tay vái ông bố vợ và nói:

- Thôi con lạy bố, con không thể nào bắt chước bố ở cái khoản này được đâu!

Suốt ngày chúng ta làm lụng vất vả, mỗi người một việc và mỗi việc một nơi. Bởi thế, bữa cơm phải là nơi hội tụ, phải là lúc sum họp của mọi người trong gia đình.

Nhiều khi gã thấy các bữa cơm thật tẻ nhạt và rời rạc vì thiếu vắng những khuôn mặt thân yêu, mạnh ai người ấy ăn, còn những người khác thì lại đang làm những việc đâu đâu.

Tới giờ cơm, chúng ta hãy tạm gác bỏ mọi công việc không mấy cần thiết ấy để đoàn tụ, để họp mặt. Đồng thời cố gắng tạo cho bữa ăn một bàu khí tươi vui cởi mở.

Có nhiều gia đình đã biến bữa cơm thành một tòa án nhân dân để xét xử, trong đó anh chị em tố cáo những sai lỗi của nhau với cha mẹ, để rồi cha mẹ, như những ông quan tòa nghiêm khắc, đã lên tiếng chửi bới, đánh mắng, làm cho bữa ăn trở thành ngột ngạt và căng thẳng. Chúng ta nên nhớ lại lời người xưa khuyên nhủ:

- Trời đánh còn tránh bữa ăn.

Có nghĩa là dù công việc quan trọng đến đâu chăng nữa, thì cũng đợi cho mọi người dùng bữa xong, thì mới đem ra tính toán, chứ không nên đề cập tới trong lúc mọi người còn đang ăn. Cũng vậy, thiếu gì lúc chúng ta có thể bảo ban, sửa dạy con cái, nên đừng nhằm vào bữa cơm mà tố khổ và chửi bới lẫn nhau.

 

BỮA CƠM HÔM NAY 

Ngày nay, với những tiến bộ của khoa học và kỹ thuật, người ta đã chế tạo ra nhiều dụng cụ, giúp đỡ cho công việc bếp núc được dễ dàng. Trước hết là cái nồi cơm điện.

Gã xin thanh minh thanh nga rằng cái nồi cơm điện ở đây không phải là cái mũ an toàn phải đội lên đầu mỗi khi ngồi trên xe gắn máy, mà là cái nồi thổi cơm bằng điện thứ thiệc chính hiệu con nai vàng, có nhãn hiệu trình tòa hẳn hoi.

Với cái nồi cơm điện, người ta không còn phải làm trải qua những  công việc tỉ mỉ khi thổi một nồi cơm như ngày xưa nữa, mà chỉ cần vo gạo, đổ nước và gạo vào nồi, rồi cắm điện và ngồi chờ…cơm chín. Tuy nhiên, theo nhiều người nhận xét, thì cơm được nấu trong nồi điện không ngon bằng cơm nấu trong niêu đất hay nồi đồng, nồi gang với lửa củi và lửa rơm.

Tiếp đến là cái tủ lạnh, nhờ nó người ta tiết kiệm được rất nhiều thời giờ. Mỗi tuần chỉ cần đi chợ một hai lần mà thôi. Sau đó thực phẩm tươi sống được cất vào tủ lạnh để ăn dần. Ngoài ra còn rất nhiều những dụng cụ khác nữa, như bếp ga, lò nướng…giúp cho công việc bếp núc được dễ dàng và bớt đi phần nào những vất vả nhọc nhằn.

Thêm vào đó là hệ thống siêu thị với những thức ăn được chế biến sẵn, chỉ việc cho vào nồi mà đun, hay cho vào chảo mà chiên, cùng với những hàng quán ở khắp nơi, chỉ việc nhấc điện thoại là cơm nóng canh ngọt sẽ được phục vụ tận nhà, khiến cho người phụ nữ không còn phải bận rộn nhiều đến góc bếp của mình nữa.

Dầu vậy, nhiều bà nhiều cô hiện nay xem ra lơ là phần nào cái bổn phận nữ công gia chánh của người nội trợ và những bữa cơm gia đình  mỗi ngày một trở nên khan hiếm và mất dần ý nghĩa của nó. Sở dĩ như vậy là vì nhiều người phụ nữ hôm nay được học hành đến nơi đến chốn và bước chân ra ngoài xã hội. Nói một cách cụ thể hơn, người vợ hôm nay cũng phải đi làm như người chồng. Một chị vợ đã phát biểu như sau:

- Tôi đi làm suốt cả ngày cũng đã mệt lắm rồi, chiều về nhà lại phải chui đầu vào bếp nữa, thì làm sao kham nổi. Huống chi còn  phải tranh thủ giải quyết bữa cơm chiều thật nhanh thật gọn để ban tối đến lớp học tại chức…

Tác giả Duy Thảo, trên báo “Phụ nữ Chủ nhật” số 23 ra ngày 19.6.2005, đã ghi nhận như sau: “Cuộc sống tất bật với biết bao nhiêu công việc, khiến người ta quên đi hương vị của những bữa cơm gia đình. Dần dần, điều đó trở thành thói quen. Người ta cho rằng: Ăn ở đâu mà chẳng được, miễn sao nạp đủ năng lượng để tái sản xuất sức lao động. Có người bằng lòng với một dĩa cơm bụi bên vỉa hè, sang hơn thì vào quán. Người khác thì kêu cơm hộp, cũng có khi mọi người kéo nhau đi nhà hàng…

Có những nhà chẳng còn bữa cơm gia đình nữa. Thí dụ một gia đình trẻ gồm có ba người. Ban sáng kéo nhau ra quán ăn điểm tâm. Ban trưa người vợ và người chồng thì  ăn cơm nơi “căn tin” của cơ quan mình. Đứa nhỏ ăn cơm trong nhà trẻ. Ban tối anh chồng thường về muộn vì còn bận tiếp khách hay la cà ăn nhậu với bè bạn…

Có những nhà, bữa cơm gia đình tuy còn đấy, nhưng lại mất đi sự ấm cúng của nó. Mỗi người một hộp cơm mua sẵn, hay mỗi người một tô cơm, muốn ăn vào lúc nào thì ăn, hay vừa ăn vừa ngó vô màn hình TV, vì anh chồng không thể bỏ qua trận bóng đá, chị vợ không thể bỏ qua cuốn phim Hàn quốc và đứa con không thể bỏ qua bộ phim hoạt hình…

Cũng theo tác giả Duy Thảo: Bữa cơm gia đình không đơn giản chỉ là “đầu vào” cho cơ thể, nhưng còn là nơi sum họp của các thành viên trong nhà. Những câu chuyện được kể lại và từ đó những khúc mắc được giải tỏa, những ấm ức được xoa dịu. Qua những bữa ăn, các ông chồng sẽ nắm rõ hơn giá cả thị trường. Các bà vợ sẽ biết thêm tình hình thời sự thế giới. Trong những gia đình hạnh phúc, tiếng cười tràn ngập bữa cơm.

Thực vậy, với bữa cơm gia đình, chúng ta không phải chỉ chia sẻ cho nhau những thức ăn và đồ uống, là nguồn sống cho cơ thể, mà còn chia sẻ cho nhau những tình cảm chân thành, để những thành viên gần gũi và gắn bó với nhau hơn, nhờ đó gia đình thực sự trở thành một mái ấm hạnh phúc.

Để kết luận, xin ghi lại nơi đây lời khuyên của một người mẹ cho cô con gái sắp sửa lên xe hoa:

- Con phải giữ lửa trong căn bếp của gia đình luôn ấm nóng, chứ đừng để nó nguội lạnh.

Gã Siêu    gasieu@gmail.com


VỀ MỤC LỤC

- Mọi liên lạc: Ghi danh, thay đổi địa chỉ, đóng góp ý kiến, bài vở..., xin gởi về địa chỉ

giaosivietnam@gmail.com

- Những nội dung sẽ được đề cao và chú ý bao gồm:

Trao đổi, chia sẻ những kinh nghiệm thực tế trong việc mục vụ của Giáo sĩ;  Những tài liệu của Giáo hội hoặc của các Tác giả nhằm mục đích Thăng tiến đời sống Giáo sĩ; Cổ võ ơn gọi Linh mục; Người Giáo dân tham gia công việc “Trợ lực Giáo sĩ” bằng đời sống cầu nguyện và cộng tác trong mọi lãnh vực; Mỗi  Giáo dân phải là những “Linh mục” không có chức Thánh; Đối thoại trong tinh thần Bác ái giữa Giáo dân và Giáo sĩ… (Truyền giáo hay xây pháo đài?)

- Quy vị cũng có thể tham khảo những số báo đã phát hành tại

www.conggiaovietnam.net

Rất mong được sự cộng tác, hưởng ứng của tất cả Quí vị

Xin chân thành cám ơn tất cả anh chị em đã sẵn lòng cộng tác với chúng tôi bằng nhiều cách thế khác nhau.

TM. Đặc San Giáo Sĩ Việt Nam

Lm. Luca Phạm Quốc Sử  USA

 

 

Duoc chon giua loai nguoi va cho loai nguoi; GIAO SI: Xuat phat tu giao dan, hien dien vi giao dan va cay dua vao giao dan, de cung lam VINH DANH THIEN CHUA

*************