CÁC CHIẾN HỮU
TIÊN PHONG CỦA NỀN ĐÀO TẠO LINH MỤC |
Nguồn:
http://xuanbichvietnam.wordpress.com/2009/10/03/tong-huan-pastores-dabo-vobis/
CHƯƠNG V (tiếp
theo)
NGÀI THIẾT
LẬP HỌ THÀNH NHÓM MƯỜI HAI ĐỂ HỌ NÊN BẠN ĐỒNG HÀNH VỚI NGÀI
III. CÁC CHIẾN HỮU TIÊN PHONG CỦA NỀN
ĐÀO TẠO LINH MỤC
Giáo Hội và
Giám Mục.
65.
Bởi vì việc đào tạo các ứng sinh linh
mục vốn nằm trong nền mục vụ các ơn gọi do Giáo Hội điều hành, phải nói rằng
Giáo Hội, xét theo đúng bản chất, chính là đại chủ thể (sujet communautaire)
được ơn và có trách nhiệm sát cánh những ai được Chúa kêu gọi trờ nên thừa tác
viên của Ngài trong chức linh mục.
Trong chiều hướng
ấy, chính sự hiểu biết về mầu nhiệm Giáo Hội sẽ giúp chúng ta xác định rõ hơn vị
thế và bổn phận thuộc về các thành phần khác nhau trong Giáo Hội, hoặc như những
cá nhân riêng rẽ, hoặc như những thành phần của một nhóm, một tập thể, trong
công việc đào tạo các ứng sinh linh mục.
Tự bản chất thâm
sâu, Giáo Hội là “sự tưởng niệm”, là “bí tích” về sự hiện diện và về hoạt động
của Đức Giêsu Kitô ở giữa chúng ta và vì chúng ta. Chính nhờ sự hiện diện cứu
chuộc của Ngài mà chúng ta mới có được lời mời gọi hướng đến chức linh mục :
không chỉ lời mời gọi, mà còn sự sát cánh để cho người được gọi có thể nhận ra
ân sủng của Chúa và đáp lại ân sủng ấy một cách tự do và bằng tình yêu. Chính
Thấn Khí của Đức Giêsu tạo ánh sang và ban sức mạnh cho sự phân định ơn gọi và
cho hành trình ơn gọi. Bởi đó, không thể có công trình đào tạo chính hiệu
dành cho chức linh mục nếu không có ân huệ của Thần Khí Đức Kitô. Bất cứ nhà
đào tạo phàm nhân nào cũng phải ý thức đầy đủ điều ấy. Tại sao lại không nhìn
thấy ở đó một “tài nguyên” hoàn toàn miễn phí và triệt để hữu hiệu, một “tài
nguyên” hoàn toàn miễn phí và triệt để hữu hiệu, một tài nguyên tỏ lộ trọng
lượng dứt khoát khi có sự dấn thân vào việc đào tạo hướng đến chức linh mục? Tại
sao lại không mừng rỡ trước phẩm giá của mọi nhà đào tạo vốn là con người nhưng
nay, hiểu theo một nghĩa nào đó, trờ thành người đại diện hữu hình của Chúa Kitô
đối với ứng sinh linh mục? Nếu nền đào tạo linh mục thiết yếu là để chuẩn bị cho
vị “mục tử” tương lai noi theo hình ảnh của Đức Giêsu Kitô Mục Tử Nhân Lành, hỏi
còn ai hơn là chính Đức Giêsu Kitô, nhờ sự tuôn đổ Thần Khí của Ngài, có thể
chuyển thông đức ái mục vụ mà Ngài đã thể hiện bằng cuộc sống đến nỗi hiên ban
trọn vẹn chính mình (x. Ga 15,13;10,11), có thể đưa dẫn đức ái mục vụ ấy tới chỗ
trưởng thành, đức ái mà Ngài muốn cho hết mọi linh mục phải lặp lại bằng cuộc
sống ?
Vị đại diện đầu
tiên của Đức Kitô trong việc đào tạo linh mục chính là giám mục.
Có thể dùng lời của tác giả Tin Mừng Mác-cô trong bản văn chúng ta đã trưng dẫn
nhiều lần, để nói về giám mục, về mọi giám mục : “Ngài gọi những kẻ Ngài muốn
đến với Ngài. Họ đã đến với Ngài và Ngài đã thiết lập họ thành Nhóm Mười Hai
để họ nên bạn đồng hành với Ngài và để sai họ đi rao giảng…” (Mc 3,13-14).
Thật ra, tiếng gọi bên trong của Thần Khí cần phải được xác nhận bởi tiếng gọi
chính hiệu của giám mục. Nếu tât cả mọi người đều có thể “đến với giám mục”
vì giám mục là Cha và là Mục Tử của mọi người, thì các linh mục có thể đến một
cách đặc biệt, vì các linh mục chung chia với giám mục cùng một chức tư tế và
cùng một thừa tác vụ: theo lời Công Đồng, giám mục phải coi các linh mục và đối
xử với các linh mục như “những người anh em và những người bạn” (202). Có thể
loại suy để áp dụng điều đó cho những ai đang chuẩn bị tiến đến chức linh mục.
Còn về điểm khác: “nên bạn đồng hành với Ngài”, bạn đồng hành với giám mục, thì
trách nhiệm của giám mục, với tư cách là nhà đào tạo của các ứng sinh linh mục,
đòi ngài phải có bổn phận thăm viếng các linh mục thường đều và một cách nào đó
phải nên “bạn đồng hành với các linh mục”.
Sự hiện diện của
giám mục mang một giá trị đặc biệt, chẳng những bởi vì sự hiện diện ấy giúp cộng
đoàn chủng viện sống hội nhập với Giáo Hội địa phương và hiệp thông với Vị Mục
Tử dẫn dắt Giáo Hội này, nhưng còn bởi vì sự hiện diện ấy đem lại căn tính cho
cộng đoàn và phục vụ cứu cánh mục vụ là đặc tính của nền đào tạo các ứng sinh
linh mục. Nhất là, với sự hiện diện ở giữa các ứng sinh linh mục, qua việc chia
sẻ cho họ tất cả những gì liên quan đến hành trình mục vụ Giáo Hội địa phương,
giám mục mang lại một nhân tố cơ bản để cho các ứng sinh được đào tạo về “cảm
thức Giáo Hội” vốn là một giá trị thiêng liêng và mục vụ trung tâm trong việc
thi hành thừa tác vụ linh mục.
Cộng đoàn
giáo dục trong chủng viện.
66.
Cộng đoàn giáo dục trong chủng viện được
xây dựng xung uanh những nhà đào tạo khác nhau : viện trưởng, cha linh hướng
hoặc cha thiêng liêng, các bề trên và các giáo sư. Tất cả những nhà đào tạo này
phải tự cảm thấy liên kết mật thiết với giám mục mà họ đóng vai đại diện dưới
những tước vị khác nhau và bằng những cách thức khác nhau; giữa họ với nhau, họ
cần phải có một sự hiệp thông và một sự cộng tác sâu đậm và chân tình. Mối dây
hiệp nhất giữa các nhà giáo dục làm cho phương án giáo dục có thể được thực hiện
đúng mức và nhất là mang lại cho các ứng sinh linh mục một gương mẫu giàu ý
nghĩa và cụ thể về sự hiệp thông Giáo Hội, giá trị cơ bản của đời sống Kitô hữu
và của thừa tác vụ mục tử.
Điều hiển nhiên là
hiệu năng của việc đào tạo phần lớn tuỳ thuộc vào nhân cách chín chắn và vững
vàng của các nhà đào tạo, về phương diện nhân bản và Tin Mừng. Vè thế, điều hết
sức hệ trọng là phải chọn lọc kỹ lưỡng các nhà đào tạo và phải tích cực khuyến
khích họ tự tôi luyện cho ngày càng trở nên thích ứng hơn với trọng trách được
uỷ thác cho họ. Vì biết chắc rằng việc chuẩn bị cho các ứng sinh linh mục tuỳ
thuộc vào sự lựa chọn các nhà đào tạo và vào nền đào tạo mà các vị ấy cung ứng,
các Nghị Phụ Thượng Hội Đồng đã xác định khá dài dòng về những đức tính dành cho
các nhà đào tạo. Chẳng hạn các ngài đã viết: “Trọng trách đào tạo các ứng sinh
linh mục đòi hỏi các nhà đào tạo phải được chuẩn bị một cách đặc biệt, về những
phương diện thật sự là kỹ thuật, sư phạm, thiêng liêng, nhân bản và thần học,
nhưng cũng phải được chuẩn bị về một tinh thần đoàn kết và cộng tác, để có thể
thực hiện chương trình đào tạo trong một mối dây hiệp nhất rất chặt chẽ, sao cho
luôn luôn bảo toàn được sự thống nhất trong hoạt động mục vụ của chủng viện dưới
quyền viện trưởng. Tập thể các nhà đào tạo phải làm chứng về một đời sống thực
sự phản ánh Tin Mừng và về sự tận hiến hoàn toàn cho Chúa. Điều xúng hợp là nhà
đào tạo cần được hưởng một sự ổn định và cần có chỗ cư ngụ thường xuyên trong
cộng đoàn chủng viện. Nhà đào tạo phải luôn liên kết mật thiết với giám mục, vì
giám mục là người đầu tiên chịu trách nhiệm về việc đào tạo các linh mục” (203).
Các giám mục phải
là những người đầu tiên cảm thấy trách nhiệm nghiêm trọng của mình trong việc
đào tạo những người sẽ đảm nhận việc giáo dục các linh mục tương lai. Đối với
thừa tác vụ giáo dục này, cần phải chọn những linh mục có đời sống gương mẫu và
sỏ đắc một tập hợp những đức tính như: “Sự trưởng thành nhân bản và thiêng
liêng, kinh nghiệm mục vụ, uy thế nghiệp vụ, sự ổn định trong ơn gọi của riêng
mình, sự đào luyện về mặt lý thuyết trong những khoa học nhân văn (đặc biệt tâm
lý học) tương ứng với trách nhiệm được giao phó, sự thành thạo về những phương
pháp làm việc tập thể” (204).
Mặc dầu vẫn tôn
trọng sự phân biệt giữa cái bên trong với cái bên ngoài, mặc dầu vẫn tôn trọng
tự do hoàn toàn trong việc chọn lựa cha giải tội cũng như tôn trọng sự khôn
ngoan và thận trọng phù hợp với thừa tác vụ linh hướng, cộng đoàn linh mục gồm
những nhà giáo dục phải cảm thấy liên đới lẫn nhau trong trách nhiệm giáo dục
các ứng sinh linh mục. Chính cộng đoàn này, luôn luôn quy chiếu về sự đánh giá
có thẩm quyền của giám mục và của viện trưởng, sẽ đóng vai thăng tiến và kiểm
nghiệm khả năng thích ứng của các ứng sinh về mặt tài năng thiêng liêng, nhân
bản và trí thức, nhất là về những gì liên quan tới tinh thần cầu nguyện, về sự
hấp thụ sâu xa giáo lý đức tin, về khả năng sống tình huynh đệ chính hiệu, về
đặc sủng sống độc thân (205).
Như các Nghị Phụ
Thượng Hội Đồng đã nhắc nhở, trong khi vẫn chú trọng đến những chỉ dẫn của Tông
Huấn Christifideles laici và của Tông Thư Mulieris dignitatem
(206), trong đó có sự nhấn mạnh về ích lợi của một nguồn ảnh hưởng lành mạnh cho
mọi đường lối giáo dục do tự đời sống tu đức của người giáo dân và do tự đặc
sủng của giới nữ, còn một điều quan trọng nữa, đó là phải liên hiệu dưới những
hình thức khôn khéo và thích ứng với từng bối cảnh văn hoá, cho có được sự cộng
tác của các tín hữu giáo dân, nam cũng như nữ, trong công trình
đào tạo các linh mục tương lai. Họ phải được chọn lựa một cách kỹ lưỡng, trong
khuôn khổ những luật lệ của Giáo Hội, tuỳ theo đặc sủng riêng của họ và những sở
đắc của họ như đã được thử nghiệm. Với sự cộng tác của họ, được điều hợp và đan
kết kỹ lưỡng vào những trách nhiệm giáo dục của những vị đóng vai trò đào tạo
các linh mục tương lai, chúng ta có quyền chờ đợi những thành quả rất hữu ích
cho các ứng sinh linh mục để họ có được một sự tăng triển quân bình về cảm thức
Giáo Hội và một nhận thức chính xác hơn về căn tính linh mục (207).
Các giáo sư
thần học.
67.
Những người hướng dẫn và sát cánh với
các linh mục tương lai để đi vào học thuyết linh thánh (doctrina sacra), bằng
việc giảng dạy thần học, có một trách nhiệm giáo dục đặc thù, trách nhiệm này,
dựa theo kinh nghiệm thường được nhìn nhận là mang nhiều tầm mức định đoạt hưon
là trách nhiệm của các nhà giáo dục khác trong việc phat triển nhân cách của
người linh mục tương lai.
Chưa kể đến những
quan hệ sư phạm với các ứng sinh linh mục, trách nhiệm của các giáo sư thần
học bao gồm quan niệm mà chính họ phải có về bản chất thần học và về bản
chất thừa tác vụ linh mục, cũng như bao gồm tinh thần và cú pháp mà họ dùng để
diễn giải giáo trình thần học của mình. Theo chiều hướng ấy, các Nghị Phụ Thượng
Hội Đồng đã quả quyết đúng nghĩa khi nói “nhà thần học phải ý thức rõ rệt rằng,
trong việc giảng dạy, mình không vận dụng uy thế tự nơi chính mình, nhưng phải
khơi dậy và thông truyền nhận thức đức tin nhân danh Chúa và Giáo Hội. Bằng cách
ấy, trong khi vẫn sử dụng những tài nguyên mới của khoa học, nhà thần học thi
hành thừa tác vụ của mình theo sự ủy thác của Giáo Hội và cộng tác với giám mục
trong bổn phận dạy dỗ của ngài. Bởi vì các nhà thần học cũng như các giám mục
đều phục vụ cùng một Giáo Hội trong công việc thăng tiến đức tin, họ phải cùng
nhau phát huy và vun trồng một lòng tin cậy lẫn nhau, và trong tinh thần ấy, họ
cũng phải thắng vượt những đôi co và những xung khắc (x. phần khai triển trong
Huấn Thị của Thánh Bộ Giáo Lý Đức Tin về “ơn gọi mang chiều kích Giáo Hội của
nhà thần học”)” (208).
Cũng như mọi nhà
giáo dục khác, vị giáo sư thần học phải duy trì sự hiệp thông và phải cộng tác
chân tình với tất cả những người khác cũng đã hiến thân cho việc đào tạo linh
mục tương lai, họ phải nhờ vào sự chuẩn mực khoa học, lòng quảng đại, thái độ
khiêm nhường và say mê, mà mang lại một sự đóng góp độc đáo và ưu tú; sự đóng
góp ở đây không phải chỉ là truyền đạt học thuyết – cho dầu đó là học thuyết
thánh – nhưng, trên hết, là trình bày một lối nhìn, một nhãn quan hầu có thể
liên kết thành một mối, trong kế hoạch của Thiên Chúa, tất cả mọi kiến thức của
con người và mọi biểu hiện khác nhau của đời sống.
Các giáo sư thấn
học có khả năng chuyên biệt và có hiệu năng đào tạo hay không là tuỳ thuộc nơi
đức tính của họ : trước hết phải là “những con người đức tin và đầy lòng yêu mến
Giáo Hội, rồi phải xác tín rằng chủ thể phân minh nắm giữ sự hiểu biết về mầu
nhiệm Kitô giáo vẫn luôn là Giáo Hội xét như là Giáo Hội; bởi đó, phải tin chắc
rằng bổn phận dạy dỗ của mình là một thừa tác vụ chính hiệu của Giáo Hôi, phải
khá dồi dào về cảm quan mục vụ ấy chẳng những đâu là những nội dung nhưng còn
đâu là cách trình bày những nội dung ấy cho thích ứng. Các giáo sư được yêu cầu
phải hoàn toàn tuân phục Huấn Quyền : là những chứng nhân của đức tin, các giáo
sư giảng dạy nhân danh Giáo Hội” (209).
Các cộng
đoàn xuất phát, các hiệp hội và phong trào người trẻ.
68.
Mặc dầu sự lựa chọn ơn gọi đã nhất thiết
dẫn đến thái độ dứt bỏ, những cộng đoàn mà từ đó các ứng sinh linh mục đã xuất
phát vẫn còn tiếp tục nắm giữ một tầm ảnh hưởng không thể coi thường đối với
việc đào tạo linh mục tương lai. Bởi đó, các cộng đoàn ấy cần phải ý thức phần
trách nhiệm đặc biệt về phía mình.
Trước tiên phải kể
đến gia đình : các bậc cha mẹ, các anh chị em và các thành phần khác trong vòng
vây gia đình không bao giờ được tìm cách đưa linh mục tương lai trở về với những
giới hạn chật hẹp của một kiểu lập luận quá nhân loại, nếu không nói quá trần
tục, ngay cả khi vì tình nghĩa chân thành (x. Mc 3,20-21.31-35). Ngược lại,
chính mình được thôi thúc bởi ước muốn “thi hành thánh ý Thiên Chúa”, họ sẽ có
thể sát cánh với bước đường đào tạo bằng việc cầu nguyện, lòng kính trọng, gương
sáng về những nhân đức gia đình, sự trợ giúp tinh thần và vật chất, nhất là
trong những giai đoạn khó khăn. Kinh nghiệm dạy cho chúng ta rằng, trong nhiều
trường hợp, sự trợ giúp đa dạng ấy đã được coi là có tính định đoạt đối với ứng
sinh linh mục. Ngay cả trong trường hợp cha mẹ và gia đình dửng dưng hoặc chống
đối việc lựa chọn ơn gọi, cách phát biểu lập trường trong sáng và minh bạch của
họ cùng với động cơ kích thích phát xuất từ đó, đối với chúng sinh, sẽ là một
trợ lực lớn lao để cho ơn gọi linh mục được chín muồi một cách có ý thức hơn và
nhất định hơn.
Trong liên hệ sâu
đậm với gia đình, có cộng đoàn giáo xứ ; cả hai kết hiệp với nhau trên
phương diện giáo dục đức tin. Hơn nữa, nhờ một nền mục vụ đặc biệt dành cho
những người trẻ và các ơn gọi, giáo xứ đóng vai trò bổ khuyết, trong tương quan
với gia đình. Nhất là, với tư cách thể hiện mầu nhiệm Giáo Hội một cách cận kề
hơn, giáo xứ cống hiến một sự đóng góp nguồn cội và hết mực quý giá cho nền đào
tạo linh mục tương lai. Cộng đoàn giáo xứ phải tiếp tục coi người trẻ đang trên
đường tiến tới chức linh mục như một thành phần sống động của mình. Cộng đoàn
giáo xứ phải tiếp tục coi người trẻ đang trên đường tiến tới chức linh mục như
một thành phần sống động của mình. Cộng đoàn giáo xứ phải sát cánh với người trẻ
bằng việc cầu nguyện, phải đón tiếp người trẻ một cách chân tình trong những
thời gian nghỉ hè, phải tôn trọng và tạo điều kiện thuận lợi để người trẻ được
đào tạo về căn tính linh mục của mình, bằng cách tạo cho người trẻ những cơ hội
thích đáng và những kinh nghiệm phù hợp nhằm tôi luyện ơn gọi của người trẻ
trước sứ vụ linh mục.
Cả các hiệp hội
và các phong trào người trẻ, là dấu chỉ và là lời xác quyết về sức sống mà
Thần Khí bảo đảm ban cho Giáo Hội cũng có thể và phải đóng góp vào việc đào tạo
các ứng sinh linh mục, cách riêng cho những người đã sống kinh nghiệm Kitô hữu,
thiêng liêng và tông đồ trong các cộng đoàn ấy. Những người trẻ đã lãnh nhận sự
đào tạo nền tảng trong các hiệp hội như thế và đang qui chiếu về đó để múc lấy
kinh nghiệm về Giáo Hội không được để cho mình cảm thấy như bị mời gọi thoát ra
khỏi quá khứ và cắt đứt những mối tương quan với môi trường đã góp phần giúp
mình đáp lại ơn gọi. Những người trẻ ấy không được xoá bỏ những đường nét tiêu
biểu của nền linh đạo mà mình đã lãnh nhận và đã sống ở đó, với tất cả những gì
là tốt lành, là xây dựng và là làm cho phong phú mà mình nắm giữ được (210). Bởi
đó, đối với họ, môi trường xuất phát vẫn tiếp tục là nguồn trợ lực và nâng đỡ
trên bước đường đào tạo linh mục.
Những cơ hội giáo
dục đức tin, những cơ hội tăng triển Kitô giáo và Giáo Hội mà Chúa Thánh Thần
tạo cho biết bao người trẻ, qua muôn vàn hình thức tập thể, nhóm, phong trào và
hiệp hội với nguồn hứng khởi tin mừng đa dạng, cần phải được nhận định và sống
như một ân huệ đến từ một nguồn mạch nuôi dưỡng ở bên trong cơ chế và nhằm phục
vụ cho cơ chế. Thật vậy, một phong trào riêng biệt hay một nền linh đạo riêng
biệt thì “không phải là một cấu trúc thay cho cơ chế. Ngược lại, đó là nguồn
mạch không ngừng tái tạo tính chính hiệu hiện sinh và lịch sử của cơ chế. Bởi đó
linh mục cần phải tìm thấy, trong một phong trào, ánh sáng và sức nóng nhờ đó
mình có đủ khả năng trung thành với giám mục, nhờ đó mình được chuẩn bị sẵn sàng
để chu toàn những đòi buộc của cơ chế và để chú tâm tới kỷ luật của hàng giáo
sĩ, nhằm mục đích làm cho nhiệt tình đức tin và ước muốn trung tín của mình được
nên đậm đà hơn” (211).
Bởi vậy, trong cộng
đoàn mới của chủng viên mà họ được giám mục quy tụ, những người trẻ xuất phát từ
các hiệp hội và các phong trào của Giáo Hội cần phải học tập “sự kính trọng đối
với những con đường thiêng liêng khác, tinh thần đối thoại và cộng tác”, họ cần
phải tuân thủ một cách nghiêm nhặt và chân tình những chỉ dẫn đào tạo mà giám
mục và các nhà giáo dục của chủng viện ban hành, bằng cách rập theo những hiệu
lệnh và những phán quyết của các vị ấy với lòng tin cậy chân thành (212). Thật
ra, thái độ ấy sửa soạn và, một cách nào đó, chuẩn bị trước cho sự lựa chọn
chính hiệu của linh mục nhằm phục vụ toàn thể Dân Chúa, trong sự hiệp thông
huynh đệ với linh mục đoàn và trong sự vâng phục đối với giám mục.
Việc chủng sinh
hoặc linh mục triều tham dự vào những nền linh đạo riêng biệt và vào những nhóm
hoặc tập thể thuộc về Giáo Hội chắc chắn tự nó là một yếu tố ích lợi cho sự tăng
triển và cho tình huynh đệ linh mục. Dầu vậy, việc tham dự ấy không được gây
phiền lụy nhưng ngược lại, phải trợ giúp cho việc thi hành thừa tác vụ và đời
sống thiêng liêng đặc thù của linh mục triều, vì linh mục triều “vẫn luôn là mục
tử của toàn thể mọi người. Linh mục triều chẳng những là người “thường trực” sẵn
sàng phục vụ mọi người mà còn đóng vai chủ sự trong cuộc gặp gỡ mọi người – cách
riêng ngài đứng đầu các giáo xứ -, ngõ hầu mọi người gặp được sự tiếp đón mà họ
có quyền chờ đợi trong cộng đoàn và trong Tiệc Thánh Thể là cơ hội quy tụ của
họ, không kể đến tính nhạy cảm tôn giáo cũng như con đường dấn thân mục vụ của
họ” (213).
Đích thân
ứng sinh.
69.
Sau hết, không thể quên được rằng ứng
sinh linh mục chính mình là chiến hữu tiên phong cần thiết và bất khả thay thế
cho nền đào tạo của mình : mọi nền đào tạo, kể cả đào tạo linh mục, cuối cùng là
một công cuộc tự đào tạo. Quả vậy, không ai có thể trám chỗ cho tự do hữu trách
của mỗi người với tính cách là ngôi vị độc nhất.
Chắc hẳn linh mục
tương lai phải là người đầu tiên nhận thức một cách mãnh liệt hơn rằng Vị Chiến
Hữu Tiên Phong tuyệt hảo của nền đào tạo dành cho mình, đó là Chúa Thánh Thần,
Đấng ban cho trái tim mới, làm cho nên đồng hình dạng và nên một với Đức Giêsu
Kitô Mục Tử Nhân Lành : hiểu như thế, ứng sinh sẽ phải củng cố triệt để tự do
của mình bằng cách đón nhận hoạt động giáo dục của Chúa Thánh Thần. Thế nhưng
đón nhận hoạt động ấy thì, về phía ứng sinh linh mục, cũng có nhĩa là đón nhận
những “vai trò trung gian” nhân loại mà Chúa Thánh Thần sử dụng. Chính vì thế,
hoạt động của các nhà giáo dục chỉ hữu hiệu thật sự và trọn vẹn nếu linh mục
tương lai cộng tác vào đó một cách tự thân, thâm tín và vui lòng.
còn tiếp
chú thích: Lưu ý: những số
chú thích nhỏ hơn đã được ghi vào số báo kỳ trước
200) X. Propositio 17.
201) X. Thánh Bộ Giáo Dục Công Giáo, Ratio Fundamentalis
institutionis saerdotalis (6/1/1970), số 19: 1.c., tr 342.
202) Sắc lệnh về thừa tác vụ và đời sống linh mục,
Presbyterorum ordinis, LM, số 7.
203) Propositio 29.
204) Như trên.
205) X. Propositio 23.
206) X. Tông Huấn Hậu Thượng Hội Đồng Christifideles laici
(30/12/1988), số 61; 63 : 1.c tr. 512-514; 517-518, Tông Thư
Mulieris dignitatem (15/8/1988), số 29-31: 1.c.,
tr.1721-1729.
207) X. Propositio 29.
208) Propositio 30.
209) Như trên.
210) X. propositio 25.
211) Diễn văn ngỏ với các linh mục tương cận với phong trào
“Hiệp Thông và Giải Phóng” (12/9/1985): AAS 78 (1986), tr. 256.
212) X. Propositio 25.
213) Cuộc gặp gỡ với các đại biểu hàng giáo sĩ Thụy Sĩ ở
Einsieden (15/6/1984), số 10 : Insegnamenti VII/1 (1984),
tr. 1798.
|
VỀ MỤC LỤC |
|
LỄ CHÚA CỨU THẾ - TIN HOẶC KHÔNG
TIN
|
Tin Mừng Đức Giêsu Kitô theo Thánh Gioan (
Ga 3, 13
– 21 ):
“Khi ấy, Chúa Giêsu nói cùng ông Nicôđêmô
rằng: “Không ai đã lên Trời, ngoại trừ Con Người, Đấng từ Trời
xuống. Như ông Môsê đã giương cao con rắn trong sa mạc, Con
Người cũng sẽ phải được giương cao như vậy, để ai tin vào Người
thì được sống muôn đời. Thiên Chúa Yêu thế gian đến nỗi đã ban
Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng
được sống muôn đời.
Quả vậy, Thiên Chúa sai Con của Người đến
thế gian, không phải để lên án thế gian, nhưng là để thế gian,
nhờ Con của Người, mà được cứu độ. Ai tin vào Con của Người, thì
không bị lên án; nhưng kẻ không tin, thì bị lên án rồi, vì đã
không tin vào danh của Con Một Thiên Chúa.
Và đây là bản án: ánh sáng đã đến thế gian,
nhưng người ta đã chuộng bóng tối hơn ánh sáng, vì các việc họ
làm đều xấu xa. Quả thật, ai làm điều ác, thì ghét ánh sáng và
không đến cùng ánh sáng, để các việc họ làm khỏi bị chê trách.
Nhưng kẻ sống theo sự thật, thì đến cùng ánh sáng, để thiên hạ
thấy rõ: các việc của người ấy đã được thực hiện trong Thiên
Chúa”.
Dựa vào mạch ý bài Tin Mừng, xin được tách
làm bốn phần chia sẻ, hai phần đầu đối lập nhau giữa thái độ tin
và không tin, giữa chọn lựa Ánh Sáng và Bóng Tối; hai phần sau
cũng đối lập nhau khi đề cập đến thái độ chưa tin nhưng rồi sẽ
tin, và ngược lại, tin mà lại chưa thật sự tin, cứ lập lờ nước
đôi giữa Ánh Sáng và Bóng Tối.
Đó là 4 thái độ, 4 chọn lựa khác nhau của
người đời, của cả chúng ta nữa khi đối diện với một Đấng “từ
Trời xuống”, đã được “giương cao lên” và đã “lại lên Trời”, Đấng
ấy là chính Con Một của Thiên Chúa, đã tự nguyện làm người, chịu
đóng đinh, bị giết chết thê thảm nhưng đã sống lại trong vinh
quang. Đây là một biến cố lịch sử có thật, đã xảy ra, không ai
có thể phủ nhận và dửng dưng chối bỏ được. Và người ta bị đặt
trước một chọn lựa, buộc phải có một thái độ nào đó, tắt một lời,
hoặc tin hoặc không tin !
1.
TIN – SỐNG TRONG ÁNH SÁNG
Trong câu chuyện ban đêm giữa Chúa Giêsu và
ông Ni-cô-đê-mô, Ngài nhắc lại sự kiện trong Cựu Ước ông Mô-sê
đã cho đúc một con rắn bằng đồng giương cao trên đỉnh một cây
cột trồng giữa hoang mạc. Những người bị rắn độc cắn cứ ngước
mắt nhìn lên tượng rắn đồng thì được cứu khỏi chết ( Ds 21, 4 –
9 ). Ngài đã nói về chính mình ở ngôi thứ ba với danh xưng long
trọng “Con Người” cùng với sứ mạng cứu độ trần gian của Ngài. Sứ
mạng này bắt nguồn từ Tình Yêu của Thiên Chúa Cha dành cho nhân
loại. Ngài bảo: “Thiên
Chúa Yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai
tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống
muôn đời”.
Vậy điều kiện duy nhất để được cứu, được
thoát chết là tin vào chính Đức Giêsu, một Đức Giêsu chịu đóng
đinh trên thập giá trồng trên một ngọn đồi cao, y như con rắn
đồng ngày xưa trong hoang mạc.
Kỳ lạ thật, ai lại đi chọn một hình tượng
ghê sợ như thế, một hình tượng chết chóc kinh hoàng như thế để
bảo đảm cho một sự sống ? Có ngược đời không ? Thưa không ! Bởi
Đức Giêsu đã chịu chết thật sự trên thập giá đấy, nhưng rồi Ngài
đã thật sự phục sinh, khải hoàn vinh quang, nghĩa là ngang qua
thập giá, ngài đã chiến thắng sự chết.
Hồi còn ở Học Viện Liên Dòng, chúng tôi có
nghe một cha giáo dạy môn Luân Lý, kể chuyện một người vô thần
đến chơi nhà một người bạn thân Công Giáo, ông ta nhìn lên tượng
thập giá treo trên tường rồi mỉa mai: “Sao ông lại đi thờ một
cái xác chết treo như thế ? Đã chết rồi thì còn làm được gì nữa
cơ chứ ?!?” Người bạn Công Giáo mỉm cười trả lời: “Vâng, đúng là
Chúa Giêsu của chúng tôi đã chết thật sự rồi, nhưng ông không
biết hoặc ông biết mà ông không tin đấy thôi, Ngài cũng đã sống
lại thật sự rồi. Tôi không thể giải thích sao cho ông hiểu,
nhưng phần tôi, tôi tin, thế là đủ rồi !”
Vâng, đúng là chỉ cần tin vào Đức Giêsu
chết và sống lại là đã đủ điều kiện để chúng ta được sống muôn
đời. Tin như thế mới là tin, chứ nếu còn chứng minh, còn dùng
lập luận lý lẽ và thông số khoa học mà chứng minh được rồi mới
tin thì lại chẳng còn gọi là tin nữa !
2.
KHÔNG TIN – Ở LẠI TRONG BÓNG TỐI
Chúa Giêsu lại khẳng định thêm: “Ai
tin vào Con của Người, thì không bị lên án; nhưng kẻ không tin,
thì bị lên án rồi, vì đã không tin vào danh của Con Một Thiên
Chúa”.
Thật ra Chúa Giêsu rộng lượng bao dung,
Ngài chẳng hề lên án kết tội ai. Nhưng khi con người ta đã có cơ
hội được nghe nói về Chúa, đã chứng kiến quyền năng Chúa tỏ hiện,
mà lại vẫn cứ khăng khăng không chịu tin, không chấp nhận Chúa,
không để cho Chúa đi vào cuộc đời mình, dứt khoát không tuân
theo những chỉ dạy hướng dẫn của Chúa, thậm chí ngoan cố chống
lại Thánh Ý yêu thương của Chúa, tìm cách tiêu diệt loại trừ
Chúa, bách hại cả những ai tin theo Chúa. Và như thế kẻ không
tin cũng đồng thời khước từ con đường sống, con đường giải thoát
cho chính mình, nghĩa là tự chọn lấy con đường chết, tự kết án
chết cho chính mình.
Mà một khi đã không đi theo con đường sống
chân thiện mỹ của Chúa, những người này chỉ còn biết
tìm bóng tối như một đồng lõa để “làm điều
ác”, để “làm điều xấu xa”. Họ “chuộng
bóng tối hơn ánh sáng” vì bóng tối che giấu cho những việc mờ ám
độc dữ họ đã, đang và sẽ làm. Họ căm ghét ánh sáng cũng phải,
bởi ánh sáng của sự thật làm lộ ra tâm địa gian ngoa lường gạt
dối trá của họ. Hơn nữa, bóng tối đem lại cho họ bao nhiêu quyền
lợi và quyền lực, họ không thể rời bỏ bóng tối, họ luyến tiếc
bóng tối, họ ở lì lại mãi trong bóng tối của sự chết nên làm sao
mà đến cùng ánh sáng của sự sống được ? Họ vẫn còn đang sống mà
như đã chết mất rồi.
Chúng tôi còn nhớ một cha trong DCCT có kể
lại, một lần ngài được mời đến thăm một người hấp hối. Con cháu
của cụ già ấy rất muốn người thân mình quay trở về với Chúa sau
gần cả cuộc đời bỏ Đạo, chống lại Giáo Hội và căm ghét Chúa. Thế
nhưng mặc cho Linh Mục trò chuyện khuyên nhủ, cụ già ấy dứt
khoát quay lưng lại, chỉ nhìn vào bức tường, cho đến khi co giật
run rẩy thở hơi cuối cùng, tay vẫn cứ khư khư ôm một lon Guigoz
đầy những cây vàng đã thu vén cả đời bằng những việc bất chính !
Thiên Chúa nhân ái và Giáo Hội nhẫn nại đã
cố làm mọi cách nhưng trong không ít trường hợp vẫn phải chịu
thua trước những con người hoàn toàn tự do quyết định không tin
là không tin ! Và chúng ta hiểu đó là quyền lực của Sự Dữ, của
Bóng Tối... Rất may và thật đáng vui mừng, hầu hết các trường
hợp khác, quyền năng do lòng thương xót của Thiên Chúa vẫn chiến
thắng, Bóng Tối đã bị đẩy lui có khi vào những giây phút cuối
cùng của cuộc đời. Đức Tin tưởng là không có hoặc đã đánh mất,
bỗng bừng tỉnh và dẫn đưa con người sa ngã như thể trỗi dậy,
bước đi những bước sau hết trong bình an vào cõi sống muôn đời...
3. CHƯA TIN MÀ NHƯ THỂ ĐÃ TIN – TỪ BÓNG TỐI
TIẾN DẦN ĐẾN CÙNG ÁNH SÁNG
Không thiếu gì những chứng tá cho thấy
nhiều người không Công Giáo, thậm chí là người vô thần, lại có
một cuộc sống tốt lành như thể được chính Thiên Chúa hướng dẫn,
như thể họ có sẵn một hạt mầm Đức Tin ẩn tàng chôn sâu trong
thửa đất tâm hồn. Và chỉ chờ đến một lúc, đến “Giờ của Chúa” bày
tỏ quyền năng yêu thương, những con người tuyệt vời ấy bật thốt
lên lời tuyên xưng vào Chúa Giêsu Kitô.
Chúng ta có thể xếp họ vào loại
“những kẻ sống theo sự thật”. Lương tri của
họ dẫu chưa biết Chúa, chưa tin, chưa theo Chúa, thì vẫn là
lương tri xuất phát từ Thiên Chúa, là “thiên lương”, là “thiện
lương”, là “Thiện Căn ở tại lòng ta, chữ Tâm kia mới bằng ba chữ
tài” theo cách diễn tả của thi hào Nguyễn Du trong Truyện Kiều.
Họ không ở trong bóng tối nhưng đang “đến cùng ánh sáng”. Và
cuộc đời những con người ấy xứng đáng được coi là “đã được thực
hiện trong Thiên Chúa”.
Có một nhà văn lão thành từ thời Tự Lực Văn
Đoàn, sau theo Cách Mạng có nhiều công to trong ngành văn hóa
văn nghệ. Đến cuối đời già yếu vào Sàigòn, cụ cứ thấy trăn trở
băn khoăn mãi về cuộc sống sau cái chết dù cả đời cụ đã chẳng
làm điều gì độc ác. Cụ được một người quen giới thiệu với cha
Tiến Lộc, DCCT, cha đã đến và trò chuyện với cụ mới biết từ gần
bảy mươi năm trước, khi còn bé học trường bà sơ, đã được dạy cho
Kinh Kính Mừng bằng tiếng Pháp. Nay nhắc đến, cụ vẫn đọc được
trôi chảy và thật trân trọng. Những giờ phút cuối lìa đời, cụ đã
được thanh tẩy với tên Thánh Bổn Mạng là Maria. Hóa ra chính Đức
Mẹ đã gieo một hạt giống Đức Tin bé nhỏ từ lâu lắm rồi ! Và nay
chính Đức Tin ấy dẫn cụ già đến với Đức Giêsu Kitô, Con của Mẹ...
4.
TIN MÀ VẪN CHƯA TIN – LẬP LỜ GIỮA ÁNH SÁNG
VÀ BÓNG TỐI
Cuối cùng, tuy không thấy Chúa Giêsu nói gì
về một thái độ lập lờ nước đôi, tin mà lại chưa thật sự tin,
nhưng chúng ta cũng nhận thấy nơi nhiều người mang danh là Kitô
hữu chung quanh chúng ta, cũng đôi khi ngay chính nơi chúng ta
một cung cách sống Đạo ma... vô Đạo. Hỏi có tin không thì thưa
vẫn có tin đấy chứ, nhưng xét lòng một cách chân thành tới nơi
tới chốn, thì phải thú thật rằng mình đã sống tệ hại không khác
gì kẻ không tin !
Coi chừng, thái độ tin nửa vời như thế đã
từng bị Chúa Giêsu cảnh cáo là đạo đức giả, là dở dở ương ương,
“giống như mồ mả tô vôi, bên ngoài có vẻ đẹp nhưng bên trong thì
đầy xương người chết và đủ mọi thứ ô uế”; “bên ngoài thì có vẻ
công chính trước mặt thiên hạ, nhưng bên trong toàn là giả hình
và gian ác” ( Mt 23, 27 – 28 ).
Thật vậy, một thái độ nửa nạc nửa mỡ, ba
rọi như thế chỉ là một thứ ngụy trang cho một kiểu cách sống
chất chứa toàn những điều sai quấy: mở cửa tiệm với một bàn thờ
Thần Tài để trong góc; xây nhà cũng phải mời thầy địa lý để chấn
trạch yểm bùa; cưới gả con cái phải đi coi bói, xem tướng cho
bằng được; buôn bán thì gian lận, quịt nợ ăn bớt hớt xén; sẵn
sàng hối lộ tham nhũng để thu vén càng nhanh càng nhiều càng tốt;
khi giàu rồi thì ăn chơi sa đọa, vung tiền qua cửa sổ để hưởng
thụ thừa mứa, nhưng lại keo kiệt tàn nhẫn đối với người làm công
cho mình; cư xử bất hiếu với cha mẹ, bạc bẽo phi nghĩa với mọi
người, lăng nhăng ngoại tình, phá thai; chẳng từ một thủ đoạn
độc ác và dối trá nào để đạt được ý muốn riêng v.v... Vậy mà vẫn
chẳng bỏ Nhà Thờ Nhà Thánh bao giờ, vẫn đọc kinh lần chuỗi, thậm
chí còn tham gia hội đoàn và ghi sổ vàng bác ái khi có dịp để
gọi là... thêm công đức !
Kitô hữu mà như thế thì là phản Kitô, phi
Kitô ! Tin mà như thế thì chẳng khác gì không tin ! Mà không tin
tức là đã “bị
lên án rồi”, tức là đã tự mình chìm sâu vào bóng tối của sự chết.
May quá, Giáo Hội vẫn được Chúa Giêsu ủy
thác cho quyền năng tha thứ và chữa lành trong Bí Tích Hòa Giải
và Thánh Lễ, để qua mọi biến cố buồn vui thăng trầm của cuộc đời,
qua lời cầu nguyện của những người thiện chí, qua cả nhịp sống
Phụng Vụ với các Mùa Vọng và Mùa Chay, qua chính dịp Lễ Chúa Cứu
Thế hàng năm như chúng ta sắp cùng anh em DCCT toàn thế giới
mừng kính sắp tới đây, những tâm hồn sai lạc đáng thương ấy vẫn
còn có cơ may để sám hối, để được giao hòa trở lại cùng Thiên
Chúa...
Lm. LÊ QUANG UY, DCCT, Lễ Chúa Cứu Thế
2005 – 2010
|
VỀ MỤC LỤC |
|
THƯ CHỊ THÁNH TÊRÊXA VIẾT CHO
NGƯỜI ANH EM CHỦNG SINH (2)
|
Năm thánh hóa linh mục đang dần dần kết
thúc để đẩy các linh mục của Chúa vững bước hành trình trên nẻo
đường hy vọng. Xin trân trọng giới thiệu với quý độc giả, cách
riêng là anh em linh mục, 6 lá thư của Chị thánh Têrêxa Hài Đồng
Giêsu viết cho Cha Roulland và 11 lá thư cho một thầy đại chủng
sinh, người mà sau khi Chị Thánh qua đời mới được thụ phong linh
mục: Cha Bellière.
Năm thánh hóa linh mục cũng mời gọi chủng
ta cầu nguyện cho các linh mục tương lai. Để có những linh mục
thánh, chúng ta cần có những chủng sinh nồng nàn khát khao nên
thánh như Thầy Chí Thánh.
Maurice-Marie-Louis Bellière (1874-1907) nhỏ hơn Têrêxa 01 tuổi
và là người anh em thiêng liêng đầu tiên của Chị Thánh (1895);
vào Tập Viện Dòng Trắng 29/9/1897, tức là trước khi Têrêxa qua
đời 01 ngày. Bellière thụ phong LM vào năm 1901, sau đó đi tông
đồ tại Nyassa từ 1902 đến 1905, tới năm 1906 thì quay về lại
Pháp; Có tất cả là 11 thư trao đổi với Têrêxa từ 21/10/1896 đến
25/8/1897. (Trích từ Petit Dictionnaire des Noms Propres;
Oeuvres Complètes; Textes et Dernières Paroles, nxb Cerf
1992 -Chú
thich thêm của ND -)
Dưới đây xin giới thiệu thư thứ ba trong
những thư Chị Thánh gởi thầy Bellière, do ông Nôbertô Thái Văn
Hiến dịch.
Lm Trăng
Thập Tự
Thư 220:
Gửi thầy Đại Chủng Sinh Bellière
(Cát Minh
Lisieux)
G.M.G.T
Tối thứ tư –
24/02/1897
Giêsu V
Thăm thầy kính mến,
Trước khi bước vào
sự thinh lặng suốt bốn mươi ngày thánh[1],
con muốn kèm một vài lời theo thư của Mẹ Đáng Kính của chúng
con, để cảm ơn thầy về những gì mà tháng trước thầy đã gửi cho
con[2].
Nếu thầy cảm thấy được an ủi khi nhớ ở Cát
Minh, có một người chị em đang không ngừng cầu nguyện cho thầy,
thì lòng biết ơn của con cũng không ít hơn thầy đâu, bởi vì Chúa
đã ban cho con một người anh em nhỏ mà Ngài có ý định làm cho
trở thành Linh Mục và Tông Đồ của Ngài… Quả thật chỉ có ở trên
Thiên Đàng thầy mới biết được là thầy quí giá với con đến chừng
nào, con cảm thấy tâm hồn chúng ta được dựng nên là để hiểu
nhau, bức thư của thầy mà thầy nói với con là: “thô thiển và cụt
ngủn” chứng tỏ cho con thấy Giêsu đã đặt trong tâm hồn thầy
những khát khao mà Ngài chỉ ban cho những linh hồn được gọi đến
với sự thánh thiện cao cả nhất. Bởi chính Ngài đã chọn con làm
người chị em của thầy, cho nên con hy vọng Ngài sẽ không nhìn
vào sự yếu đuối của con hay đúng hơn Ngài sẽ dùng chính sự yếu
đuối ấy để thực hiện công việc của Ngài; vì Thiên Chúa Hùng Mạnh
thích chứng tỏ quyền năng của Ngài bằng cách dùng những điều
chẳng là gì cả (Is. 9,5) – Được hiệp nhất trong Ngài, linh hồn
chúng ta mới có thể nhờ đó mà cứu được nhiều linh hồn khác (1Cr
1,27) bởi chưng Giêsu hiền lành đã nói: “Nếu ở dưới đất, hai
người trong anh em hợp lời cầu xin bất cứ điều gì, thì Cha Thầy,
Đấng ngự trên trời sẽ ban cho” (Mt 18, 19). Ôi! điều mà chúng ta
cầu xin Ngài, đó là được làm việc vì vinh quang Ngài, là yêu mến
và làm cho Ngài được yêu mến … Vậy thì vì lẽ gì mà sự kết hiệp
và lời cầu nguyện của chúng ta lại không được chúc phúc?
Thưa thầy kính mến,
bởi khúc diễm tình ca[3]
đã làm cho thầy hài lòng, cho nên Mẹ Nhân Lành của chúng con đã
bảo con chép cho thầy nhiều khúc khác nữa, nhưng phải mất vài
tuần lễ nữa thầy mới nhận được, bởi con không có nhiều lúc rảnh
rỗi ngay cả vào ngày Chúa nhật, vì bận việc ở phòng thánh. Những
bài thơ đáng thương ấy sẽ làm cho thầy thấy không chỉ con là gì,
mà còn cả những gì mà con muốn và phải trở nên nữa… Khi làm ra
những bài thơ ấy con đã chú tâm đi sâu vào nội dung hơn là hình
thức, vì thế mà niêm luật về thơ phú không phải khi nào cũng
được tuân thủ, mục đích của con là diễn giải những tâm tình của
mình (hay nói đúng hơn là những tâm tình của người nữ tu Cát
Minh) để đáp lại những mong muốn của các chị em con. Những câu
thơ ấy thích hợp với một nữ tu hơn là một Đại Chủng Sinh, tuy
nhiên con vẫn hy vọng là chúng sẽ làm thầy vui thích. Tâm hồn
thầy chẳng phải là hôn thê của Con Chiên Thiên Chúa và sẽ không
sớm trở thành hiền thê của Ngài, vào ngày diễm phúc được chịu
chức Phó Tế của thầy sao?
Thưa thầy kính mến, con xin cảm ơn thầy vì
đã chọn con làm mẹ đỡ đầu cho đứa con đầu tiên mà thầy sẽ vui
sướng ban phép Rửa tội[4],
vì thế mà con phải chọn tên cho con đỡ đầu của mình; con muốn
đặt người con ấy dưới sự bảo của Đức Trinh Nữ, Thánh Giuse và
Thánh Maurice, quan thầy của đứa em trai yêu dấu của con. Dĩ
nhiên người con ấy vẫn còn đang nằm trong ý tưởng của Chúa Nhân
Lành, nhưng con đã cầu nguyện cho [2ro] người con ấy
và đã chu toàn trước những bổn phận làm mẹ đỡ đầu của con rồi.
Con cũng cầu nguyện cho tất cả các linh hồn sẽ được ký thác cho
thầy và nhất là con nài xin Giêsu trang điểm thật đẹp cho linh
hồn thầy bằng tất cả các nhân đức và đặc biệt là bằng tình yêu
của Ngài. Thầy nói với con là thầy cũng rất thường cầu nguyện
cho người chị em của thầy; vì thầy có lòng bác ái như vậy, nên
con sẽ hết sức sung sướng nếu thầy đồng ý mỗi ngày dành riêng
lời cầu nguyện cho tất cả những ước ao của người chị em ấy: “Lạy
Cha đầy lòng thương xót, nhân danh Giêsu Hiền Lành Dịu Ngọt của
con, Đức Trinh Nữ Maria và các Thánh, con cầu xin Cha hãy làm
rực cháy trong người chị em con Thần Khí Tình Yêu của Cha và ban
cho người chị em ấy hồng ân làm cho Cha được yêu mến nhiều[5]”
Thầy đã hứa là sẽ cầu nguyện cho con suốt đời thầy, vậy
chắc là cuộc đời ấy sẽ dài hơn cuộc đời con và thầy không được
phép hát như con: “Con hy vọng ngày tháng lưu đày của con sẽ
ngắn ngủi[6]!...”
nhưng thầy cũng không được phép quên lời hứa của thầy đâu. Nếu
Chúa sớm đưa con về với Ngài, thì con xin thầy tiếp tục mỗi ngày
cũng bằng lời cầu nguyện ấy, bởi trên Trời con cũng vẫn ươc sao
một điều như khi còn ở dưới thế: Yêu mến Giêsu và làm cho Ngài
được yêu mến.
Thưa thầy kính mến, chắc là thầy nhận thấy
con quá lạ lùng, có thể thầy lấy làm tiếc vì có một người chị em
có vẻ như muốn đi an hưởng sự nghỉ ngơi đời đời và để thầy phải
làm việc một mình … nhưng xin thầy hãy yên tâm, điều duy nhất
con ao ước, đó là ý Chúa Nhân Lành, và con thú thật là nếu trên
Thiên Đàng, con không thể làm việc vì vinh quang của Ngài được
nữa, thì con sẽ ưa thích nơi lưu đày hơn là quê trời.
Con không biết được tương lai, tuy nhiên
nếu Giêsu thực hiện [2vo] những linh cảm của con, thì
con hứa với thầy là vẫn luôn làm người chị em bé mọn của thầy ở
Trên ấy. Sự kết hiệp của chúng ta, còn xa mới bị cắt đứt, sẽ
càng trở nên mật thiết hơn, bấy giờ sẽ không còn hàng rào ngăn
cách, không còn chắn song và linh hồn con sẽ có thể bay đi cùng
với thầy đến những nơi truyền giáo xa xôi. Vai trò của mỗi người
chúng ta vẫn thế, thầy nắm giữ vũ khí tông đồ, còn con là lời
cầu nguyện và tình yêu.
Thưa thầy quí mến,
con e là mình quên, vì đã muộn, trong vài phút nữa sẽ đến giờ
thần vụ[7]
rồi, thế nhưng con vẫn còn một thỉnh cầu nữa với thầy – Con rất
muốn được thầy ghi lại cho con những ngày tháng đáng nhớ trong
cuộc đời thầy để con có thể kết hợp với thầy một cách hoàn toàn
đặc biệt mà cảm ơn Đấng Cứu Độ Dịu Hiền vì những hồng ân Ngài đã
ban cho thầy.
Trong Thánh Tâm
Giêsu Thánh Thể sắp hiển hiện trước những tôn thờ[8]
của chúng con, con sung sướng được mãi mãi xưng mình là
Người chị em hét sức hèn mọn và bất xứng
của thầy
Têrêxa Hài Đồng Giêsu Thánh Nhan
Rel. carm. ind.
Nobertô Thái Văn Hiến (dịch) |
VỀ MỤC LỤC |
|
XIN - CHO |
Tiến Sỹ Nguyễn Quang A, (Báo Lao động cuối
tuần số 18, ngày 16 tháng 5 năm 2010) viết: “Trong khoa học kinh
tế (và có lẽ trong các khoa học xã hội khác) không có cái gọi là
“cơ chế xin-cho”. Nó là thuần Việt. Chưa có ai định nghĩa cơ chế
này một cách tường minh. Người ta thường hiểu là: “bên xin” (thường
là cấp dưới, người dân, hay doanh nghiệp) xin “bên cho” (thường
là cấp trên, các cơ quan nhà nước) cái gì đó mà “bên cho” có
quyền quản lý (có thể lại là một “cơ chế” nào đó mà địa phương
xin trung ương chẳng hạn, có thể là quyền kinh doanh, tài nguyên
hay nguồn lực gì đó) và bên cho có thể cho hay không cho.”
Trong xã hội người ta đã mệt mỏi bởi cơ chế
xin cho. Vậy hiểu từ “xin cho” thế nào trong kinh Lạy Cha?
Nguyện Danh Cha.
Trong Kinh Lạy Cha thường đọc “nguyện Danh
Cha”, đó là một từ được hiểu một cách rõ ràng: thể hiện mong
muốn và quyết tâm thực hiện. Hiểu chữ nguyện như vậy, chúng ta
mới dễ dàng giải thích: Danh Cha cả sáng, Nước Cha trị đến, Ý
Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời. Danh Cha đã cả sáng,
Nước Cha cũng đã trị đến và Ý Cha cũng đã thể hiện toàn vẹn
trong Chúa Giêsu, chúng ta mong muốn và quyết tâm thực hiện
những điều đó nơi bản thân mỗi người chúng ta.
Xin tha…như chúng con cũng..:
Việc xin bày tỏ đồng thời với việc thực
hành, đồng nghĩa với việc nguyện ở trên. Kinh Lạy Cha không phải
là cơ chế xin cho.
Xin được, gõ mở, tìm gặp:
Diễn tả một hành trình thực hiện những ước
nguyện trong cuộc đời. Thiên Chúa đã ban cho sẵn tất cả, ai cũng
như ai: “Người cho mặt trời của Người mọc lên soi sáng kẻ xấu
cũng như người tốt, và cho mưa xuống trên người công chính cũng
như kẻ bất chính” (Mt 5, 45). Việc quan trọng là thực hiện những
điều Chúa dạy, đó là chỉ nam cho hành trình tìm gặp, gõ mở, xin
cho.
Chúa không dạy xin – cho:
"Không phải bất cứ ai thưa với Thầy: "Lạy
Chúa! lạy Chúa! " là được vào Nước Trời cả đâu! Nhưng chỉ ai thi
hành ý muốn của Cha Thầy là Đấng ngự trên trời, mới được vào mà
thôi” (Mt 7, 21). Đời sống cầu nguyện luôn đi đôi với đời sống
thực hành, đó là lý tưởng của đời sống để thấy được “Chúa đã làm
cho tôi những điều trọng đại” (Lc 1, 49).
Ở trong Chúa.
Hiệu quả của đời sống thực hành Lời Chúa đó
là đưa chúng ta ở trong Chúa. Trong lời nguyện hiến tế Chúa
Giêsu bày tỏ: “để tất cả nên một, như Cha ở trong con và con ở
trong Cha để họ cũng ở trong chúng ta. Như vậy, thế gian sẽ tin
rằng Cha đã sai con” (Ga 17, 21). Khi chúng ta ở trong Chúa, đau
khổ của ta là đau khổ trong Chúa, hạnh phúc của ta là hạnh phúc
trong Chúa. Chúng ta ở trong Thiên Chúa là niềm vui tuyệt đỉnh
của đời ta.
Kinh Lạy Cha mở ra một tương quan cho mọi
người, là con của Cha trên trời, quyền của người con là ở trong
nhà của Cha.
"Thật,
tôi bảo thật các ông: hễ ai phạm tội thì làm nô lệ cho tội. Mà
kẻ nô lệ thì không được ở trong nhà luôn mãi, người con mới được
ở luôn mãi” (Ga 8, 34 – 45). Chỉ có tội lỗi làm cho con người
mất quyền làm con, trong Bí Tích Giải Tội, tư cách của người con
được phục hồi và giúp cho con người xứng đáng hơn với địa vị làm
con Chúa.
Nếu là quyền làm con thì không phải là xin
nữa mà là thực hành đời sống làm con. Đối với Thánh Phaolô, ở
trong Chúa Kitô là tràn đầy phúc lộc của Người, cho nên Thánh
Phaolô nghiệm thấy:
"Ơn
Ta đủ cho ngươi, vì sức mạnh của Thầy được biểu lộ trọn vẹn
trong sự yếu đuối. Thế nên tôi rất vui mừng và tự hào vì những
yếu đuối của tôi, để sức mạnh của Đức Ki-tô ở mãi trong tôi. Vì
vậy, tôi cảm thấy vui sướng khi mình yếu đuối, khi bị sỉ nhục,
hoạn nạn, bắt bớ, ngặt nghèo vì Đức Ki-tô. Vì khi tôi yếu, chính
là lúc tôi mạnh” (2Cor 12, 9 – 10).
Lạy cha ước nguyện Danh Cha cả sáng trong
con và giúp con sống xứng đáng địa vị làm con Cha.
L.m Giuse Hoàng Kim Toan |
VỀ MỤC LỤC |
|
ĐỐI THOẠI
|
Và bỗng các ông thấy ông
Môsê và ông Êlia hiện ra đàm đạo với Người. (Mt. 17:3)
1.
Nối Kết Đất
Trời
Thiên Chúa là
tình yêu. Thiên Chúa muốn chia sẻ tình thương yêu của Ngài với
con người. Ngài đã mở cửa trời mặc khải cho loài người về mầu
nhiệm của tình yêu. Thiên Chúa đã đối thoại với con người qua
nhiều cách thế: Thuở
xưa, nhiều lần nhiều cách, Thiên Chúa đã phán dạy cha ông chúng
ta qua các ngôn sứ; nhưng vào thời sau hết này, Thiên Chúa đã
phán dạy chúng ta qua Thánh Tử (Dt. 1:1-2).
Thánh Tử Giêsu đã hiện thân làm người và giữa chúng ta. Ngài
chính là hình ảnh của Thiên Chúa vô hình. Qua Ngài, mọi sự được
tạo thành, hữu hình và vô hình. Chính Ngài đã mặc khải cho chúng
ta về tình yêu của Thiên Chúa Ba Ngôi qua con đường đối thoại.
Đối thoại được diễn tả qua nhiều cách như:
đàm đạo, đàm phán, hòa đàm, chia sẻ, họp bàn, nói truyện, tâm sự,
gặp gỡ và giao lưu… Đối thoại có thể trực tiếp mặt đối mặt hoặc
đối thoại gián tiếp qua thư từ, gọi phôn, điện thư hay tin nhắn…Đối
thoại sẽ dẫn đến hòa giải, hòa đồng và giao hòa với nhau. Đối
thoại là con đường ngắn nhất giúp con người đến gần với nhau.
Đối thoại có nghĩa là dám mở cửa để đón nhận ý kiến của người
khác. Đối thoại là bày tỏ ý hướng và lập trường để đàm phán, để
giao dịch và tìm sự thỏa thuận giữa đôi bên. Dám mở cửa là dám
chấp nhận những khác biệt và đối nghịch. Con đường đối thoại là
con đường an toàn và đưa tới hòa bình. Đối thoại phải có sự chân
thành và tôn trọng lẫn nhau. Trong sự đối thoại không nên có
thái độ áp chế hay gạt bỏ. Muốn có sự đối thoại thành công, cần
phải biết lắng nghe.
2.
Sự Khác Biệt
Mỗi người đều được sinh ra ở một nơi chốn,
sống tại một địa chỉ và mang một quốc tịch. Trên thế giới có
trên sáu tỷ người. Mỗi người đều có một cá tính riêng biệt và
không ai giống ai hoàn toàn. Mỗi người có một định mệnh riêng
phải hoàn tất. Không ai là một hòn đảo riêng rẽ, chúng ta sống
là phải đồng hành với người khác. Muốn đồng hành tốt, chúng ta
phải đồng hướng và thông hiểu nhau. Thông hiểu nhau qua sự trao
đổi và chia sẻ tâm tình.
Trong thế giới đại đồng, chúng ta có thể
cùng sống chung trong một nước, hưởng một nền văn hóa, giữ một
truyền thống và theo một đạo giáo. Nhưng có nhiều yếu tố cuộc
sống làm cho chúng ta nên khác nhau. Chính của ăn thức uống là
một trong những cơ bản làm nên con người khác biệt. Người ăn
lông ở lỗ sẽ khác với người ăn cơm gạo. Người ăn cơm gạo suy
nghĩ khác người ăn bánh mì. Người ăn bánh mì suy tư khác với
người ăn đỗ đậu. Người ăn chay quan niệm khác với người ăn mặn.
Người ăn nước mắm hành xử khác với người ăn muối. Thức ăn sẽ
biến đổi và tạo nên những giá trị đặc thù văn hóa của mỗi nhóm
người. Con người tuy khác nhau nhưng không đối lập nhau mà là bổ
túc cho nhau để xây dựng một xã hội tốt đẹp.
3.
Cầu Thông Cảm
Làm sao con người có thể hiểu, cảm thông và
liên kết với nhau. Chúng ta cần bắc một chiếc cầu, gọi là cầu
thông cảm. Chúng ta biết rằng tất cả mọi thứ bế tắc đều có lối
thoát. Bĩ cực thái lai. Mọi vấn đề dù rắc rối đến đâu,
nếu chúng ta biết mở cửa ngõ đối thoại, chúng ta sẽ tìm được lối
ra. Khi chúng ta tự đóng khung mình, chúng ta sẽ đối diện với
ngõ cụt. Ngõ đi vào cô đơn và tù đọng. Chỉ những dòng nước tiếp
tục chảy là dòng nước trong sạch. Nước tù, ao đọng là nước dơ
bẩn và ô nhiễm.
Ngôn ngữ chính là phương tiện giúp con
người xích lại gần nhau hơn. Trong thế giới chúng ta đang sinh
sống, không biết có bao nhiêu thứ ngôn ngữ. Qua ngôn ngữ, con
người có thể đối thoại với nhau và truyền thông hiểu biết cho
nhau. Từ xa xưa, con người đã giao lưu với nhau qua ngôn ngữ và
chữ viết. Như khi các nhà truyền giáo đến các nước xa xôi để
truyền đạo, các ngài đã phải từng bước học hỏi về văn hóa và
ngôn ngữ giúp truyền đạt chân lý đức tin. Các ngài cũng phải khổ
học để thấu đạt mọi vấn đề qua việc đối thoại. Chúng ta phải
khâm phục những vị tiên phong đã giáp chạm với các nền văn hóa
khác. Không những học hỏi mà còn truyền rao đạo giáo và cả những
kiến thức văn minh khoa học của xã hội.
4.
Cầu Ngôn Ngữ
Ngày nay, chúng ta thấy ngay tại quê hương
thân yêu Việt Nam, các em học sinh đã muốn học thêm các sinh ngữ
khác để mở mang kiến thức của thế giới bên ngoài. Tại Sàigon, đi
dọc theo tất cả mọi con đường lớn trong thành phố, đâu đâu cũng
thấy nhan nhản những bảng hiệu học sinh ngữ, học thêm, học kèm
ngoại ngữ: tiếng Anh, tiếng Pháp, tiếng Nga, tiếng Nhật, tiếng
Đại Hàn, tiếng Tây Ban Nha, tiếng Đức… Chúng ta nhớ rằng càng
biết nhiều ngôn ngữ, càng có cơ hội học biết thêm kiến thức.
Ngôn ngữ là cửa ngõ dẫn chúng ta vào tìm hiểu kho tàng văn hóa
của con người. Qua ngôn ngữ, chúng ta có thể đối thoại với nhiều
nhóm người khác.
Không người nào có thể hiểu hết được các
ngôn ngữ riêng biệt của từng nước, từng thổ dân và bộ lạc. Khi
con người chưa hiểu nhau, họ cần có những người thông ngôn. Có
nghĩa là phải có người thông thạo ngôn ngữ đôi bên để làm nhịp
cầu thông cảm. Tuy nhiên, chúng ta biết loài người còn có một
thứ ngôn ngữ vô hình. Một thứ ngôn ngữ không cần dùng miệng lưỡi
mà họ vẫn có thể hiểu nhau, đó là ngôn ngữ của tình yêu. Qua
ngôn ngữ tình yêu con người có thể hiểu nhau, yêu nhau và sống
đời với nhau.
5.
Cầu Ngoại Giao
Để tạo nhịp cầu thông cảm và hiểu biết lẫn
nhau trên thế giới, mỗi quốc gia có các tòa Đại Sứ, tòa Lãnh Sự
hay đại diện thường trực để liên hệ ngoại giao. Muốn cộng tác
xây dựng hòa bình, cần phải có ngoại giao. Ngoại giao là đối
thoại để giải quyết những khác biệt. Chấp nhận sự khác biệt của
nhau để bổ túc và giải trừ những mâu thuẫn và đố kỵ. Ngoại giao
chính là sự đối thoại. Càng biết đối thoại, chúng ta càng hiểu
nhau và thông cảm lẫn nhau. Đối thoại kịp thời sẽ tránh được
nhiều đổ vỡ và thiệt hại. Muốn có sự đối thoại thành công, cần
có thái độ nhún nhường và hài hòa. Có qua có lại, mới toại
lòng nhau chứ. Khi đối thoại là có bước tiến, bước lùi.
Trong cuộc đối thoại thì có được, có mất và có nhường, có nhịn.
Nếu đối thoại chỉ mong có thắng, đối thoại đó sẽ trở thành độc
tài.
Trên trường Quốc Tế, chúng ta biết cũng có
những Nước đứng trung lập giúp mở cuộc đối thoại chung cho các
nước đang gặp khó khăn. Đây là một Quốc gia không thiên vị hay
đứng về một phe phái nào. Nước đó có thể giúp hòa giải các vụ
xung đột lớn trên chính trường quốc tế. Như mới đây, tại Vienne,
Austria, nơi diễn ra cụôc trao đổi những người điệp viên của Hoa
Kỳ và Nga đã bị phát hiện và bị bắt. Hai Nước đã tráo đổi các
tội phạm điệp viên với nhau qua cuộc đàm phán ngoại giao. Sự
giải quyết êm đẹp đã dẫn đến một thỏa hiệp tích cực xây dựng nền
hòa bình chung.
6.
Đối Thoại Liên Tôn
Các Tôn Giáo cũng cần có sự đối thoại. Hiện
nay Giáo Hội Công Giáo có Ủy Ban đặc trách về Đối Thoại Liên Tôn.
Tôn giáo ảnh hưởng đến niềm tin của mỗi người. Tôn giáo là lý
tưởng có một sức mạnh vô song. Niềm tin Tôn giáo cũng có thể xây
dựng hoặc phá đổ. Biết bao cuộc chiến đã xảy ra vì vấn đề tranh
chấp tôn giáo. Khác biệt niềm tin là một khác biệt sâu xa nhất.
Con người có thể sống chết với nhau vì niềm tin của mình. Các
tôn giáo cần đối thoại để tìm ra một hướng chung. Cùng đích của
tất cả mọi tôn giáo là mưu cầu hạnh phúc cho con người ở đời này
và đời sau. Cái chung của các tôn giáo đều qui về một mối, đó là
tình yêu. Chỉ tình yêu mới có thể nối kết mọi người đối thoại
với nhau. Thế giới của tình yêu là thế giới không có biên cương
lãnh thổ.
Trong đời sống giáo hội, xã hội hay cộng
đoàn, các nhà lãnh đạo cũng cần lắng nghe. Lắng nghe phải là một
nhân đức. Trong thời gian qua, chúng ta thấy có nhiều người lên
tiếng về sự thông tin bất cập và đối thoại một chiều. Đã đến lúc
chúng ta phải lắng nghe. Các nhà lãnh đạo chính quyền phải lắng
nghe dân chúng, vì ý dân là ý trời mà. Các vị đại diện
các tôn giáo cũng cần lắng nghe các thành viên trong giáo hội
của mình. Dù rằng trăm người trăm ý, nhưng không phải mọi ý kiến
đều vô ích. Không ai là sự phụ cho tất cả mọi vấn đề. Chúng ta
cần có những người chuyên môn góp ý và xây dựng. Biết lắng nghe,
chúng ta mới có thể mở mắt nhìn vấn đề một cách khách quan và
định hướng đúng đắn hơn.
7.
Sự Quan Hệ
Đối thoại là con đường giải thoát. Đối
thoại bao giờ cũng có thể giải quyết được vấn đề. Đặc biệt là
trong những gia đình đang gặp khó khăn trong cuộc sống hôn nhân.
Đối thoại là cách tốt nhất để xây dựng hạnh phúc gia đình. Đã có
biết bao nhiêu gia đình đã tan vỡ vì thiếu sự thông cảm hiểu
biết. Nếu mỗi người khư khư giữ cái thiên kiến và định kiến về
người khác, vợ chồng sẽ đi đến bế tắc. Đôi khi vợ chồng hiểu lầm
nhau vì sự xen vào của một nhân vật thứ ba. Sự chia sẻ và cảm
thông sẽ loại trừ nguy cơ đổ vỡ. Chúng ta nhớ rằng mọi sự đều sẽ
cùng tắc biến, biến tắc thông. Vợ chồng thông cảm được
với nhau, gia đình sẽ tìm thấy nụ cười hạnh phúc. Phải thông
thì giòng mới giọt.
Khi gia đình hai họ có sự kết giao hôn nhân
của con cái thì gọi là thông gia. Thông gia nối kết hai họ nên
một trong quan hệ mới. Trong gia đình sẽ có con dâu, con rể và
ông xui bà xui. Cha mẹ trở thành cha mẹ chồng và cha mẹ vợ. Làm
cha mẹ của con dâu, con rể phải rất tế nhị. Câu truyện không vui
kể rằng sau khi con dâu, con rể tương lai đã qua mọi diễn tiến
thủ tục để cưới xin. Ngày lễ Ăn Hỏi, hai gia đình nhóm họ và mở
tiệc tùng ăn uống vui vẻ. Bỗng dưng bố vợ lên tiếng kẻ cả phát
biểu dạy dỗ con rể. Hình như bố vợ dậy dỗ không đúng lúc, chàng
rể tương lai quá tự ái và đã phản bác bố vợ tại bàn tiệc. Rồi
chú rể bỏ ra về không nương tiếc, quan viên hai họ ngồi ngẩn ngơ.
Tội nghiệp cho cô con gái năn nỉ hết nước mắt cũng không xong.
Chú rể dứt khoát bỏ cuộc. Cô con gái buồn tình bỏ nhà ra đi và
không trở về. Lỗi tại ai bây giờ? Sự việc đã rồi. Thật tội
nghiệp cho đôi trẻ. Thiếu đối thoại và sự thông cảm đã gây biết
bao đau buồn. Phải có cảm thông mới tìm ra được chân lý hoặc có
sự đồng thuận.
Thuận vợ thuận chồng, tát bể Đông cũng cạn.
8.
Sự Thông Hiểu
Làm thế nào chúng ta có thẻ đối thoại với
lớp trẻ bây giờ. Con cháu thuộc đời thứ hai hoặc thứ ba đã lớn
lên giữa nền văn hóa chú trọng nhiều về cá nhân chủ nghĩa. Quan
niệm đời sống của tuổi trẻ cũng đã khác nhiều. Giữa hai nền văn
hóa và giữa hai thế hệ hiểu nhau sao được nếu không có sự đối
thoại. Bạn tôi kể câu truyện: Dịp kỷ niệm 25 năm thành hôn của
vợ chồng bạn. Trong tập sách nhỏ của thánh lễ tạ ơn mừng Ngân
khánh, ở cuối trang có in những lời cám ơn cha chủ tế, cha mẹ,
anh em bạn bè và qúy khách… Đứa con gái 17 tuổi của bạn đọc qua,
vừa cười vừa nói: Ba má cám ơn hết mọi người nhưng con cái
thì lại không. Câu nói của cháu không phải để trách cứ nhưng
làm cho vợ chồng bạn phải sửng sốt và suy nghĩ. Đúng vậy, đây là
những thiếu xót không ngờ, cháu gái thật có lý.
Cũng có những sự hiểu lầm do văn hóa khác
biệt và môi trường sống thay đổi. Những truyện nho nhỏ xảy ra
trong nhà nhưng hậu qủa lại không ngờ. Truyện là một cháu nhỏ
thấy ông ngoại cắt tiết con vịt. Cháu thấy lạ và khiếp quá, gọi
bạn bè đến xem. Bạn của cháu là những chú Mỹ con, thấy con vịt
bị ông cắt tiết thì nghĩ là ông dùng bạo lực với thú vật. Một
chú bé về nhà kể cho mẹ nghe, mẹ em liền gọi cảnh sát đến, thế
là ông ngoại bị còng tay và bỏ vào tù. Khi được thả về, ông chỉ
còn biết chắp tay vái đứa cháu nhỏ:
Tôi lạy ông
thôi, tôi không dám đụng đến ông nữa đâu!
Nói tóm lại,
Thiên Chúa ban cho chúng ta môi miệng để nói lời êm dịu, để cảm
thông, để trao đổi và liên kết với nhau. Các loài hoang thú cũng
có những ngôn ngữ riêng để thông tin và đến gần với nhau. Con
người là tạo vật ưu tuyển trên hết mọi loài, chúng ta hãy dùng
ân huệ này để sinh hoa kết quả tốt trong việc xây dựng tình liên
đới với nhau. Không có sự gì nặng nề và ngột ngạt cho bằng người
bạn đồng hành giữ thái độ im lặng và mặt lạnh như tiền. Hãy học
nơi Chúa Giêsu, Ngài rất muốn được chia sẻ và lắng nghe. Thánh
Luca diễn tả sự quan trọng của việc đối thoại:
Cô này cứ
ngồi bên chân Chúa mà nghe lời Người dạy. Còn cô Mácta thì tất
bật lo việc phục vụ.... Chúa đáp: "Mácta! Mácta ơi! Chị băn
khoăn lo lắng nhiều chuyện quá! Chỉ có một chuyện cần thiết mà
thôi. Maria đã chọn phần tốt nhất và sẽ không bị lấy đi." (Lc
10: 39-42).
Giuse Trần Việt Hùng - Bronx, New
York
|
VỀ MỤC LỤC |
|
GIA ĐÌNH TRONG HIẾN PHÁP NHÂN BẢN
|
NGUYỄN HỌC TẬP
“ Nền Cộng Hoà nhận biết các
quyền của gia đình như là xã hội tự nhiên, được xây dựng trên
hôn nhân.
Hôn nhân được đặt nền tảng trên bình đẳng
luân lý và pháp lý giữa hai vợ chồng, các giới hạn được luật lệ
xác định nhằm bảo đảm sự hợp nhứt của gia đình” (Điều 29, đoạn 1
và 3 Hiến Pháp 1947 Ý Quốc).
Chúng tôi vừa trích dẫn nội dung và xuất xứ điều khoản đầu tiên
của một loạt các điều khoản định chế cho tổ ấm gia đình, tổ chức
sống xã hội tự nhiên của con người,
-
“ nhận biết
các quyền của gia đình như là xã hội tự nhiên”,
bất cứ ở đâu và bất cứ dưới thời đại nào.
Gia đình là “ xã hội tự nhiên” của con người.
Điều đó có nghĩa là gia đình là nơi con người được sinh ra trong
tình thương yêu, bảo bọc, nuôi nấng, dạy dỗ, giáo dục, chuẩn bị
để lớn lên, hợp với bản tính con người để phát triển chính mình
và sống liên đới, cộng tác với những con người khác trong Cộng
Đồng Quốc Gia và Cộng Đồng Thế Giới.
Điều 29 vừa được trích dẫn là điều khoản đầu tiên, được tiếp nối
bằng hai điều 30 và 31 xác định quyền và nhiệm vụ của cha mẹ đối
với con cái, cũng như bổn phận của tổ chức Quốc Gia trợ lực cha
mẹ chu toàn bổn phận của mình.
Đó là những gì chúng ta có thể tìm thấy được dễ dàng trong phần
đầu của Tiếc Mục III, định chế luân lý và xã hội của Hiến Pháp
1947 Ý Quốc.
Nhưng những gì Hiến Pháp đề cập đến gia đình không phải chỉ có
vậy.
Các tư tưởng liên quan đến gia đình tiềm tàng trong nhiều điều
khoản khác trong suốt văn bản của Hiến Pháp, liên quan đến lý
tưởng về con người và về tổ chức cuộc sống xã hội, xứng đáng với
nhân phẩm con người, lý tưởng mà Hiến Pháp 1947 Ý Quốc nêu lên
trong các điều khoản đầu tiên, như là nền tảng trên đó xây dựng
Quốc Gia.
Điều đó cho thấy gia đình là yếu tố cấu trúc thiết yếu và “
tự nhiên ” để phát triển con người và xây dựng Quốc Gia, môi
trường sống nơi đó các giá trị của con người được “ nhận biết
và bảo vệ ” (Điều 2, Hiến Pháp 1947 Ý Quốc).
Đó là những gì chúng ta muốn tìm hiểu, giúp chúng ta có được
những tư tưởng định hướng cho tương lai đất nước mà chúng ta
muốn xây dựng cho Việt Nam, một thể chế trong đó tổ chức Quốc
Gia, gia đình, xã hội, đều được quy hướng để phục vụ con người,
chủ thể tối thượng và là chủ nhân của quyền lực Quốc Gia, một
thể chế Nhân Bản và Dân Chủ cho dân tộc.
Sau khi xác nhận gia đình là “ tổ chức xã hội tự nhiên ”
của con người, được đặt nền tảng trên hôn nhân với các quyền tự
nhiên của mình mà Quốc Gia nhận biết (Điều 29, đoạn 1 Hiến
Pháp 1947 Ý Quốc), Quốc Gia xác nhận vị trí pháp
nhân
của hôn nhân là quyền bình đẳng giữa hai vợ chồng, bình đẳng
trên luân lý và bình đẳng trước luật pháp, được luật pháp đứng
ra bảo đảm và xác định để bảo vệ sự hợp nhứt của gia đình.
Nói cách khác, sau khi xác định vị trí của tổ chức gia đình
trong Cộng Đồng Quốc Gia, là “ tổ chức xã hội tự nhiên”
của con người, tổ chức gia đình có những quyền tự nhiên của mình,
không do Quốc Gia thiết định hay phân phát, tùy thuộc cơ chế “
xin-cho ”, mà là những quyền tự nhiên đi liền với bản
tính con người, với bản tính gia đình được con người thành lập.
Do đó, Quốc Gia có bổn phận
-
“ nhận biết các quyền của gia đình như
là xã hội tự nhiên ”.
Một trong những quyền tự nhiên vừa kể, được điều 29 đề cập, đó
là quyền hợp nhứt của hai vợ chồng, yếu tố cấu trúc tiên khởi
của gia đình, phải được bảo vệ:
-
“…các giới hạn được luật lệ xác định,
nhằm bảo vệ sự hợp nhứt của gia đình ” (Điều 29, đoạn 2b, id.).
Gia đình hợp nhứt là môi trường lý tưởng để con người được sinh
ra, nuôi dưỡng, giáo dục và lớn lên, triển nở chính mình về mọi
mặt, đức dục, thể dục và trí dục, cũng như được dạy dỗ trong
chiều hướng, hướng thiện và hướng thiên
và hướng tha,
đặc tính làm cho con người trổi hơn những tạo vật khác.
Đó là những gì Hiến Pháp 1947 Ý Quốc liệt kê kế tiếp như là
quyền và bổn phận của cha mẹ đối với con cái:
-
“ Cha mẹ có bổn phận và quyền nuôi nấng,
dạy dỗ và giáo dục con cái, ngay cả đối với những đứa con sinh
ra ngoài hôn nhân” (Điều 30, đoạn 1, id.).
Những đứa con sinh ra là con người, con hợp pháp hay con ngoại
hôn cũng vậy:
-
“ Pháp luật
bảo đảm cho những đứa con ngoại hôn mọi tư các pháp lý và xã
hội, cũng được hưởng các quyền như thành phần hợp
pháp
trong gia đình ” (Điều 30, đoạn 3).
Đã là con người trong Cộng Đồng Quốc Gia, con người sinh ra hợp
pháp hay ngoại hôn cũng vậy, con người đó được tổ chức quốc Gia
nhận biết và bảo đảm các quyền bất khả xâm phạm của mình, là
những quyền phát xuất tử bản tính con người của mình, bảo đảm
cho mình có được một cuộc sống người cho ra người:
-
“
Nền
Cộng Hoà nhận biết và bảo đảm các quyền bất khả xâm phạm của con
người, con người như cá nhân hay con người như thành phần xã
hội, nơi mỗi cá nhân phát huy nhân cách của mình…” (Điều 2 Hiến
Pháp 1947 Ý Quốc).
Và dĩ nhiên trong các quyền bất khả xâm phạm đó, quyền được sống
và được toàn vẹn thân thể, quyền được dạy dỗ và giáo dục đối với
trẻ sơ sinh và tuổi trẻ, được giao cho thẩm quyền của cha mẹ:
-
“ bổn phận và quyền nuôi nấng, dạy dỗ và
giáo dục con cái…”.
Nhưng cha mẹ không phải là những chủ thể duy nhứt có quyền và
bổn phận phải nuôi nấng, dạy dỗ và giáo dục con cái.
Quốc Gia được tổ chức cũng có mục đích phục vụ người
dân,
đối với những quyền bất khả xâm phạm của con người, mà Quốc Gia
tuyên bố đảm nhận ở điều 2 vừa trích,
-
“
Nền
Cộng Hoà nhận biết và bảo đảm các quyền bất khả xâm phạm của
con người…”
.
Do đó trong trường hợp bất khả kháng, vì nghịch cảnh hay vì
thiếu phương tiện, Quốc Gia có bổn phận trợ giúp hay thay thế
cha mẹ chu toàn bổn phận của mình:
- “ Trong trường hợp cha mẹ không có khả năng, luật pháp
tiên liệu cho cha mẹ được miễn khỏi các bổn phận của mình ”
(Điều 30, đoạn 2, id.).
-
Tiền liệu mọi cách để gia đình được thành
lập
- và giúp hay thay thế cha mẹ trong các hoàn cảnh khó khăn để
hoàn thành quyền và trách nhiệm nuôi dưỡng, giáo dục và dạy dỗ
con cái của mình. Đó là bổn phận của một Quốc Gia, được xây dựng
trên thể chế Nhân Bản, được thiết lập để phục vụ con người:
“
Nền
Cộng Hoà dành dễ dàng mọi phương tiện kinh tế và mọi cách tiền
liệu khác để gia đình được thành lập và chu toàn các nhiệm vụ
liên hệ của mình, nhứt là đối với các gia đình đông con ” (Điều
31, đoạn 1, id.).
Thể chế Nhân Bản của Quốc Gia đề thảo ra định chế
-
tiền liệu các phương tiện thuận tiện giúp
gia đình được thành lập,
- xác nhận quyền bình đẳng luân lý và pháp lý giữa hai vợ
chồng,
- tiên liệu luật pháp bảo vệ sự hợp nhứt của gia đình,
- tiên liệu các phương tiện để bảo đảm con người được sinh ra
trong gia đình được nuôi dưỡng, dạy dỗ và giáo dục.
Mọi người có quyền được sinh ra, chăm sóc, nuôi nấng, dạy dỗ,
giáo dục và bảo vệ, nhứt là trong lúc tuổi thiếu thời. Đó là
những gì Hiến Pháp 1947 tuyên bố tiếp ở điều 31:
- “
Nền
Cộng Hoà bảo vệ thiên chức làm mẹ, trẻ sơ sinh và tuổi trẻ, dành
mọi dễ dàng đối với các tổ chức cần thiết cho mục đích” (Điều
31, đoạn 2, id.)(
Majello Ugo, Profili costituzionali della filiazione
legittima e naturale, Morano, Napoli, 1965, 89s).
Qua những điều khoản vừa kể, chúng ta thấy rằng tổ chức Quốc Gia
đặc biệt chú ý đến gia đình,
- “tổ chức xã hội tự nhiên của con người ”,
gắn liền với bản tính con người,
có các quyền không do Quốc Gia thiết định hay ban cho,
mà
là chính Quốc Gia
phải nhìn nhận .
“ Nhận biết ” hay " nhìn nhận " các quyền đó của
gia đình, Quốc Gia tiên liệu các phương thế để gia đình được
thành lập và chu toàn bổn phận của mình đối với con cái.
Đọc các điều 29, 30 và 31 của Hiến Pháp 1947 Ý Quốc, chúng ta có
thể thấy được các vị soạn thảo Hiến Pháp đồng thuận công nhận
-
địa vị cao cả của gia đình, “ tổ chức xã
hội tự nhiên” của con người, được thành hình do chính bản
thể con người đòi buộc, thích hợp với cuộc sống của con người;
-
vai trò cấu trúc không thể thiếu của gia
đình trong tổ chức Quốc Gia, nơi con người được sinh ra, chăm
sóc, nuôi dưỡng, dạy dỗ và giáo dục, lớn lên trở nên con người
triển nở hoàn về mọi mặt, có được cuộc sống hạnh phúc cho chính
mình và có khả năng cộng tác tạo lợi ích cho cuộc sống xã hội.
Bởi đó không những cha mẹ, mà cả tổ chức Quốc Gia đều có quyền
và bổn phận phải chu toàn, nuôi dưỡng, giáo dục và bảo vệ, đối
với trẻ con và trẻ vị thành niên, không kể được sinh ra trong
gia đình hợp pháp hay ngoài hôn nhân.
Các câu nói:
- “ Trong trường hợp cha mẹ
không có khả năng, luật pháp tiên liệu để họ được truất khỏi
trách nhiệm của họ” (Điều 30 đoạn 2, id.).
-
“ Luật pháp
bảo đảm cho những đứa con ngoại hôn cũng được bảo đảm mọi tư
cách pháp nhân và xã hội, hợp với các quyền của thành phần gia
đình hợp pháp” (Điều 30, đoạn 3, id.)
cho thấy Hiến Pháp ra lệnh và dành quyền cho Quốc Hội thường
nhiệm sau nầy sẽ “ soạn thảo và chuẩn y ” các đạo luật
tiên liệu các phương tiện cần thiết để đạt được các mục đích
Hiến Pháp tuyên bố.
Nói cách khác, không ai là con người trong thể chế Nhân Bản mà
bị bỏ rơi trong thiếu thốn cùn cực của mình, bị cha mẹ bỏ rơi
hay bị Quốc Gia ngoảnh mặt cũng vậy.
Còn nữa,
- không những gia đình là “ xã hội tự nhiên ” của con
người, là cấu trúc thiết yếu trong cuộc sống Quốc Gia, để con
người được “ tự nhiên ” sinh ra, nuôi đưỡng, dạy dỗ, giáo
dục và lớn lên nên người, được triển nở hoàn hảo con người của
mình và góp phần cộng tác lợi ích cho Cộng Đồng Quốc Gia,
-
quan niệm của các vị soạn thảo Hiến Pháp
còn đi xa hơn:
gia
đình, “ xã hội tự nhiên ”, muốn thực hiện được hoàn hảo
vai trò cao cả của mình đối với con người và đối với đất nước,
gia đình phải được hưởng bầu không khí tự do, môi trường thuận
lợi thiết yếu giúp
con
người phát huy được bản năng, cá tính và
tài năng của mình.
Nói cách khác, gia đình phải là môi trường sống trong đó hai vợ
chồng sống trong thương yêu và bình đẳng, hợp tác với nhau,
tạo lợi ích cho nhau và cho con cái. Đó là những gì Hiến Pháp
nêu lên qua một câu văn ngắn ngủi:
-
“ Hôn nhân được xây dựng trên bình đẳng
luân lý và luật pháp giữa hai vợ chồng, với những lằn mức được
xác định bởi luât pháp nhằm bảo đảm sự đoàn kết gia đình ” (Điều
29, đoạn 2, id.).
Câu văn trên của Hiến Pháp 1947 Ý Quốc cho thấy tinh thần khai
phóng người phụ nữa của Hiến Pháp (
Rodotà Stefano, La Riforma del diritto di
famiglia alla prova. Principi ispiratori e ipotesi sistematiche,
in Il Nuovo Diritto di Famiglia, 5s).
Quan niệm “
nam
tôn nữu ty
” hay “
chồng
chúa vợ tôi
” của xã hội thời Trung Cổ đã chấm dứt với Hiến Pháp 1947 Ý
Quốc.
Hai vợ chồng đều
-
“… bình đẳng trên luân lý và trước pháp
luật ”( Điều 29, đoạn 2, id.).
Điều 29, đoạn 2 vừa trích dẫn, được Hiến Pháp tuyên bố trong
tinh thần nguyên tắc căn bản,
đã được long trọng xác định ở một trong các điều khoản đầu tiên
của Hiến Pháp:
- “ Mọi công dân đều có địa vị xã hội ngang nhau và bình
đẳng trước pháp luật, không phân biệt phái giống, chủng tộc,
ngôn ngữ, tôn giáo, chính kiến, điều kiện cá nhân và xã hội ”
(Điều 3, đoạn 1, Hiến Pháp 1947 Ý Quốc).
Tinh thần khai phóng người phụ nữ vừa kể, không những được Hiến
Pháp đóng khung trong lãnh vực gia đình, mà người phụ nữ còn
được cởi trói ngoài xã hội, khỏi bị quan niệm xã hội cưỡng chế,
áp bức:
-
“ Người phụ nữ làm việc có mọi quyền và,
với cùng một việc làm, có quyền được hưởng thù lao như người làm
việc nam giới”. (Điều 37, đoạn 1, id.).
Không những vậy, người phụ nữ làm việc còn được hưởng nhiều đặc
quyền khác, để có thể dễ dàng chu toàn bổn phận làm vợ và làm mẹ
trong gia đình:
- “ Các điều kiện làm việc phải
được thiết định thế nào để người phụ nữ có thế chu toàn phận sự
chính yếu của mình trong gia đình và đáp ứng cho người mẹ và trẻ
thơ một quy chế bảo vệ đặc biệt” (Điều 37, đoạn 2, id.).
Dĩ nhiên để khai phóng cho người phụ nữ được hưởng những quyền
hạn đặc biệt,
-
cho nàng có thể chu toàn thiên chức làm vợ
và làm mẹ trong gia đình,
- để cung cấp cho trẻ thơ một quy chế bảo vệ đặc biệt,
tổ chức xã hội phải tiên liệu quy chế lương bổng của người làm
việc như thế nào để cho cha mẹ bảo đảm được trách nhiệm nuôi
duỡng, chăm sóc, dạy dỗ và giáo dục của mình:
- “ Người làm việc có quyền được
hưởng thù lao tương xứng với số lượng và phẩm chất việc làm của
mình. Và trong bất cứ trường hợp nào, lương bổng phải đủ để bảo
đảm cho mình và cho gia đình mình có được một cuộc sống
tự do và khang trang
” (Điều 56, id.).
Chúng ta đã biết qua
- về tính cách pháp lý của tổ chức gia đình,
- đặc tính bình đẳng và hợp nhứt của hai vợ chồng,
- quyền và bổn phận của cha mẹ,
- địa vị và quy chế đặc biệt cho người phụ nữ làm vợ và làm mẹ,
- quy chế lương bổng của người lảm việc để có thể nuôi sống gia
đình có một mức sống khang trang,
- bổn phận của cơ chế
Quốc
Gia
trợ giúp hay thay thế bổn phận các gia đình gặp khó khăn trong
hoàn cảnh sống của họ.
Tất cả những gì được liệt kê không có mục đích gì khác hơn là
bảo đảm cho con người có môi trường và điều kiện “… phát
triển hoàn hảo con người của mình và tham dự một cách thiết thực
vào tổ chức chính trị, kinh tế, xã hội của Đất Nước”:
-
“ Bổn phận của Quốc Gia là dẹp bỏ đi
những chướng ngại vật về phương diện kinh tế và xã hội, là những
chướng ngại, trong khi thật sự giới hạn tự do và bình đẳng của
con người, không cho phép họ triển nở hoàn hảo con người của
mình và tham dự một cách thiết thực vào tổ chức chính trị, kinh
tế và xã hội của Xứ Sở ” (Điều 3, đoạn 2 Hiến Pháp 1947 Ý Quốc).
Con người đó là ai, trong “…tổ
chức chính trị, kinh tế và xã hội của Xứ Sở ”?
Là vợ chồng, là cha mẹ, là người nam và người nữ, chúng ta vừa
đề cập đến,
có
“…địa vị xã hội ngang nhau và bình đẳng
trước pháp luật
” trong xã hội.
Là vợ chồng “ bình đẳng nhau trên luân lý và trước pháp luật
” trong gia đình.
Là người nam và người nữ, “ …với cùng một việc làm, có quyền
được hưởng thù lao như nam giới” trong môi trường làm việc.
Là con cái trong gia đình và trẻ em trong môi trường học đường.
Là con cái trong gia đình, các em được chăm sóc, nuôi nấng, dạy
dỗ của cha mẹ, nhứt là của mẹ, được Quốc Gia dành cho quy chế
bảo vệ đặc biệt,
“…để
chu toàn phận sự thiết yếu trong gia đình và đáp ứng cho người
mẹ và trẻ thơ mộtg quy chế bảo vệ đặc biệt ” (Điều 37, đoạn 2,
id.).
Là giới trẻ trong môi trường học đường, các em và cả những người
lớn tuổi khác, được Quốc Gia dành cho “ quyền được giáo dục”
( diritto di studio):
-
“
Nền
Cộng Hoà thiết định các đạo luật tổng quát về giáo dục và thiết
lập trường ốc công lập cho mọi lãnh vực và đẳng cấp” (Điều 33,
đoạn 2, id.).
Thiết lập trường ốc và thiết định quy chế:
-
“ Học đường
được mở ra cho tất cả mọi người.
Ngành giáo dục ở bậc thấp, được giảng huấn
ít nhứt là 8 năm ( 12 năm với tu chính án mới,
1990)
bắt buộc và miễn phí.
Đối với những ai có khả năng và đáng được
tưởng thưởng, dẩu cho thiếu phương tiện, đều có quyền đạt đến
cấp bậc cao nhứt của chương trình học vấn.
Nền Cộng Hoà biến quyền học vấn nầy thành
thực hữu bằng phụ cấp gia đình hay các phương tiện tiền liệu
khác, được cấp phát qua các cuộc thi tuyển” (Điều 34, đoạn 1,2,3
và 4, id.).
Và một khi con người bước chân vào môi trường làm việc, tổ chức
Quốc Gia vẫn tiếp tục bổn phận của mình “ nhận biết và bảo vệ
các quyền bất khả xâm phạm của con người” (Điều 2, id.), vẫn
tiếp tục bổn phận giáo dục của mình, qua các khóa huấn nghệ và
thăng tiến nghề nghiệp:
- “
Nền
Cộng Hoà bảo vệ việc làm dưới mọi hình thức và mọi áp dụng.
Chăm lo huấn nghệ và thăng tiến nghề nghiệp
cho giới lao động ” (Điều 35, đoạn 1 và 2, id.).
Ở nội địa đã vậy, trên chính trường quốc tế Quốc Gia cũng chăm
lo bảo vệ và thăng tiến việc làm cho người dân:
-
“
Nền
Cộng Hòa phát động và dành mọi dễ dãi cho
các thoả ước và cơ quan quốc tế nhằm cũng cố và điều hòa các
quyền làm việc” (Điều 35, đoạn 2, id.).
Đó là những bổn phận của Quốc Gia đối với con người bình
thường.
Đối với những người bị khuyết tật,Quốc Gia cũng không thiếu bổn
phận đối với họ:
- “ Mọi công dân không có khả
năng làm việc và thiếu phương tiện sống, đều có quyền được nuôi
sống và bảo trợ xã hội.
Những người không có khả năng và khuyết
tật có quyền được giáo dục và khởi công chức nghiệp.
Các quyền được tiền liệu trong điều
khoản nầy, sẽ được các cơ quan và cơ chế được thiết lập chăm lo
hoặc do Quốc Gia bổ khuyết ” (Điều 38, đoạn 1, 2 và 3, id.).
Nói tóm lại trong thể chế Nhân Bản, các quyền bất khả xâm phạm
của con người được “ nhận biết và bảo đảm ” bất cứ ở đâu
và bất cứ lúc nào.
Và đó chính là mục đích mà Quốc Gia được thành lập:
-
“
Nền
Cộng Hoà nhận biết và bảo đảm các quyền bất khả xâm phạm của con
người, con người như cá nhân hay như thành phần các tổ chức xã
hội, nơi con người phát huy nhân cách của mình và đòi buộc các
bổn phận liên đới không thể thiếu
về phương diện chính trị, kinh tế và xã hội ” (Điều 2, Hiến Pháp
1947 Ý Quốc).
Hiểu được mục đích cao cả về con người của Hiến Pháp Nhân Bản
1947 Ý Quốc, chúng ta sẽ hiểu được tại sao Hiến Pháp dành nhiều
điều khoản bàng bạc khắp Văn Bản để định chế về gia đình, địa vị,
quyền hạn cũng như bổn phận của mọi thành phần trong gia đình,
cả bổn phận của Quốc Gia để trợ lực và thay thế.
Gia đình là “ tổ chức xã hội tự nhiên ”, tiên khởi của xã
hội con người, do bản tính con người đòi buộc và là yếu tố không
thể thiếu để triển nở con người và phục vụ xã hội: bổn phận mà
Quốc Gia được tổ chức.
Tiến sĩ Nguyễn Học Tập |
VỀ MỤC LỤC |
|
NGỤ NGÔN THỜI BẤN LOẠN (KỲ 7)
|
Ngụ ngôn 24
Mùa đông,
những con dế mèn đào hang trên bờ ruộng để tránh nước lũ. Có một
chú dế đề nghị: “Hay là mình đến chỗ vắng vẻ đào hang, chứ trên
bờ ruộng thế này tôi thấy không ổn, bởi vì bọn trẻ như thằng
Nhớn thằng Bé trong truyện của Tô Hoài đi đào dế mà thấy chúng
ta hẳn sẽ thích và tóm chúng ta như chơi”.
Nói thì nói
vậy nhưng cuối cùng bọn dế cũng quyết định ở ngay trên bờ ruộng
vì đó là đỉnh cao nhất rồi, nước dễ gì tìm đâu ra chỗ nào cao
hơn để tránh những cơn lũ mùa đông. Vả lại, có một lý do sâu xa
hơn mà chúng không nói ra. Chúng thích bị bọn trẻ bắt đem về vì
sẽ được đi đá dế, sẽ có cỏ non mà xơi, khỏi lo vất vả bươn chải.
Nhưng thật
không may cho bọn dế lười ham ăn kia. Mùa đông ấy những nông dân
ra canh ruộng ban đêm, chọn ngay đỉnh cao nhất để nghỉ lại. Họ
dùng củi khô và rơm rạ đốt lửa sưởi ấm.
Khói mịt mù
khắp nơi. Những chú dế sặc sụa chui ra khỏi hang và tự động
thiêu thân trong lửa đỏ.
Mùi dế nướng
lan xa. Còn những hang dế ở “đỉnh vừa”, nước chưa ngập thì các
chú dế khiêm tốn hơn vẫn vui vẻ xơi cỏ, dù cỏ hơi úa.
Ngụ ngôn 25
Cậu bé ôm cặp
chạy ùa vào nhà, ướt như chuột lột. Tóc ướt nước chảy xoà xuống
mặt, áo quần ướt như trong chậu giặt đồ, cặp trên tay cậu ướt
như mới vớt dưới nước lên. Mẹ hốt hoảng thay đồ cho cậu, xoa dầu
cù là, rồi nhét cậu vô chăn ấm.
Ông bố có vẻ
bực bội lắm vì nghĩ cậu bé quên đem áo mưa. Nhưng khi mở cặp cậu
bé ra, ông càng giận hơn vì áo mưa được cậu gấp cẩn thận để
trong cặp. Ông quát: “Sao con không chịu mặc áo mưa?” Cậu bé nói:
“Dạ con sợ áo mưa bị ướt”.
Ông bố kinh
ngạc quát to hơn: “Áo mưa để mặc cho con khỏi ướt, con lại sợ
ướt áo mưa mà để mình ướt hết là sao chứ hả”.
Cậu bé vừa
khóc vừa đáp: “Dạ bố ơi, chứ bố là người có trách nhiệm mà lại
để cho người dưới mình phải khổ, chỉ có bố con ta là đầy đủ. Tụi
bạn con nói bố là áo mưa nhưng bố khô, còn người cần khô thì ướt
hết cả”.
Ngụ ngôn 26
26a.
Bánh mì nói với patê và bơ: “Nhà ngươi chẳng được tích sự gì,
chỉ làm thứ cho ta nuốt vào bụng”. Patê và bơ sẽ nói gì?
26b.
Con muỗi chích vào tay người xong liền bảo: “Ông thật ác, cứ để
da dày thế làm kim ta muốn gãy”. Ai ác?
26c.
Con quạ nhặt được trứng, mang về ấp, nở ra con bồ câu trắng đẹp
dịu dàng. Quạ bảo: “Nhờ ta mà con đẹp thế này”. Bồ câu vỗ cánh
cười như nắc nẻ.
Gioan Lê Quang
Vinh
Mời thăm
www.giaoducconggiao.net
|
VỀ MỤC LỤC |
|
MỘT ĐÀN
CHIM
|
Trong tập
truyện Wisdom Tales có kể câu chuyện rằng. Một đàn chim
cùng sống bình an với nhau trong một khu rừng. Bổng nhiên sự
xuất hiện của người thợ săn đã làm cho đàn chim lo sợ. Cứ mỗi
lần người thợ săn cất tiếng kêu, thải đồ ăn, thì chim tự sà
xuống và người thợ săn chỉ cần tung chiếc lưới và bầy chim bị
bắt. Dần dần, số chim bị bắt ngày càng tăng, và đàn chim ngày
càng thưa thớt. Trước tình cảnh này, con chim đầu đàn liền bàn
với toàn thể bầy chim rằng: Khi người thợ săn vừa tung lưới chụp
chúng ta, chúng ta cùng nhau hiệp sức bay lên, thì lúc ấy chúng
ta sẽ nâng chiếc lưới lên; sau đó chúng ta cùng nhau đậu vào bụi
cây và chúng ta sẽ thoát thân.
Sau khi bàn
bạc và nhất trí theo kế hoạch, bầy chim đã thành công. Người thợ
săn không những đã không bắt được con chim nào, mà còn bị mất
lưới; đàn chim thì vui sướng vì từ nay chúng không hề sợ người
thợ săn nữa.
Người thợ săn
ngẫm nghĩ rằng: Tuy chúng là những con chim nhỏ, nhưng khi chúng
cùng làm việc với nhau, hợp tác với nhau thì ta không làm gì
được chúng cả.
Vài hôm sau,
khi đàn chim dần dần quên đi sự chiến thắng, người thợ săn đã
rải thêm những thức ăn ngon, thơm. Cũng như mọi lần, những chú
chim sà xuống, nhưng vì mãi lo ăn uống, và tranh giành với nhau
những thức ăn ngon, nên khi bị tung lưới, chúng không còn nhớ
đến nhau để cùng nhau nâng chiếc lưới bay lên. Tồi tệ hơn, chúng
lại gây ẩu đả với nhau vì do sự đụng chạm và vấp vào nhau đang
khi tìm thức ăn. Chính sự tranh cãi này, đã giúp cho người thợ
săn có đủ thời giờ để bắt toàn bộ đàn chim.
Quí bạn thân
mến, câu chuyện ngụ ngôn trên nhắc cho chúng ta thấy giá trị của
sự đoàn kết và tinh thần hiệp nhất trong một tập thể. Kinh
nghiệm cho thấy, khi chúng ta gặp khó khăn, khi chúng ta lâm vào
hoạn nạn, chúng ta dễ đồng cảm và hiệp nhất với nhau hơn là lúc
chúng ta sống trong bình an và thịnh vượng. Hoàn cảnh này cũng
dễ dàng được nhận thấy trong gia đình chúng ta, đặc biệt những
gia đình đã từng sống tại Việt Nam. Nhiều người đã tâm sự rằng,
khi họ còn sống tại Việt Nam, bữa ăn hằng ngày chỉ là củ khoai,
củ mì, nhưng bầu khí gia đình đầm ấm, anh em thương nhau. Nhưng
khi cuộc sống gia đình đã khá giả hơn, không phải đi cày cấy
trên ruộng đồng vất vả hằng ngày nữa, thì cũng là lúc bầu khí
hiệp nhất gia đình cũng bị phai nhạt và mất dần.
Như những chú
chim trong câu chuyện, sở dĩ chúng bị bắt là vì chúng đã để cho
hoàn cảnh bên ngoài làm chúng quên đi sức mạnh của tập thể. Sức
mạnh của mỗi con chim là phải gắn liền với mục đích chung của
tập thể, chứ không phải tùy thuộc vào sức mạnh hay khả năng của
mỗi cá nhân. Cũng như những con chim, nếu chúng ta không nhận ra
sự hiệp nhất là đặc tính căn bản của một tập thể, thì những hoàn
cảnh bên ngoài dễ làm ta thay đổi lập trường xây dựng tập thể.
Như thế chúng ta nhận thấy rằng, sự hiệp nhất trong một tập thể
phải là mục tiêu và ưu tiên một để mọi phần tử của tập thể theo
đuổi và xây dựng, chứ không phải nó chỉ là một đặc tính, hay
khái niệm nhằm để tô điểm cho tập thể ấy. Nếu chúng ta không
nhìn nhận sự hiệp nhất là mối ưu tiên hàng đầu trong một tập
thể, thì những hoạt động, những sinh hoạt, những công việc mà
chúng ta làm chỉ tạo thêm sự chia rẻ và ngăn cách giữa các thành
viên với nhau.
Khi chúng ta
nhìn nhận xây dựng sự hiệp nhất là mối ưu tiên hàng đầu cho tập
thể thì chúng ta mới nhận ra rằng: Tập thể thì quan trọng hơn cá
nhân của mình; sự hiện diện và tồn tại của mình là nhờ vào tập
thể, chứ không phải mình làm cho tập thể tồn tại. Trong tập thể,
mình lớn lên, mình trưởng thành; vì thế sự đóng góp sức lực, khả
năng của mình cho tập thể là cách để mình trả ơn cho tập thể, và
thể hiện tinh thần trách nhiệm của mình với tập thể.
Tiến sĩ
Martin Luther King phát biểu rằng: “Con người đã học cách bay
như những bầy chim bay với nhau; họ đã học bơi như những đàn cá
bơi với nhau, nhưng con người chúng ta lại không biết học cách
sống với nhau như anh em.”
Hôm nay, mục
Sống Sao Cho Đẹp xin mời bạn suy nghĩ về lý do gì và động
cơ nào đã làm cho bạn gia nhập một tập thể. Bạn gia nhập là vì
bạn muốn xây dựng tập thể ấy thêm mạnh và hiệp nhất hay vì lý do
nào khác?
Br.
Huynhquảng
Martin
Luther King, Jr., Strength to Love, 1963
|
VỀ MỤC LỤC |
|
LÀM MẸ NHƯNG VẪN TIẾP TỤC LÀM VỢ
|
Tác phẩm: Cẩm Nang Hạnh Phúc Gia Đình
Kitô - MỤC VỤ HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH
Tác
giả: D. WAHRHEIT (Lm. Minh Anh, GP. Huế tổng hợp biên tập)
A8. LÀM MẸ NHƯNG VẪN TIẾP TỤC LÀM
VỢ
Một cuốn phim Mỹ với tựa đề “Địa
Đàng” mô tả cơn sóng gió của một đôi vợ chồng trẻ sống tại một
vùng ven biển có tên là Địa Đàng.
Ngày kia, một người bạn của người
vợ dẫn đứa con trai đến nhờ họ trông coi suốt kỳ nghỉ hè. Cả hai
vợ chồng đều yêu thương đứa bé. Nhưng từ đó, sóng gió cũng bắt
đầu nổi lên.
Quả thực, sự hiện diện của cậu bé
đã khiến cho người vợ nhớ lại đứa con trai cùng trạc tuổi mà họ
đã mất trong một tai nạn giao thông. Sự săn sóc và tình thương
dành cho đứa bé càng lớn thì nỗi nhớ thương đối với đứa con đã
mất càng mãnh liệt nơi người phụ nữ.
Ngày ngày, bà ra nghĩa địa thăm mộ
con. Và mỗi ngày bà trở nên lạnh nhạt với chồng hơn. Từ chỗ
khước từ mọi âu yếm, người vợ lại đi đến chỗ cắt đứt mọi liên
lạc với chồng. Họ sống bên nhau như hai người xa lạ trong cùng
một căn nhà.
Sau mấy tháng nghỉ, người khách tí
hon trở lại với gia đình. Sóng gió yên lặng, đôi vợ chồng trẻ
làm hoà với nhau. Địa Đàng thực sự trở lại với họ.
Với câu chuyện phim trên đây,
chúng tôi xin được nhắn gửi tới người vợ trẻ một lời khuyên: là
một người mẹ tốt và một người nội trợ tốt chưa đủ để là một
người vợ tốt. Làm mẹ nhưng vẫn tiếp tục làm vợ, đó chính là bí
quyết của hạnh phúc hôn nhân.
1.
Khi tạo dựng người đàn bà, Thiên Chúa đã phán: “Người
đàn ông ở một mình không tốt. Ta hãy tạo dựng cho nó một người
trợ giúp”. Một trợ giúp, hay nói đúng hơn, một nơi nương
tựa. Người đàn bà là nơi nương tựa cho người đàn ông đúng nghĩa
nhất. Chúng ta hãy thử tưởng tượng cái cảnh người đàn ông trở về
nhà sau một ngày lao nhọc vất vả. Một căn nhà tươm tất, những
đứa con được chăm sóc kỹ lưỡng đã đành, nhưng quan trọng hơn cả,
phải là sự hiện diện của người vợ. Người đàn ông nào cũng cảm
thấy cần được sự bao bọc đỡ nâng của vợ mình.
Với tâm trạng đó, người đàn ông
không muốn gì hơn là được chia sẻ với vợ những sinh hoạt trong
ngày. Từ chuyện đồng áng đến những lao nhọc vất vả nơi công sở
và ngay cả những gặp gỡ va chạm của mình, người đàn ông nào cũng
muốn chia sẻ và mong gặp được nơi vợ mình sự cảm thông. Họ chờ
đợi gì nếu không phải là sự lắng nghe của người vợ?
Nhưng lắm khi, điều làm cho người
đàn ông chán nản nhất, là họ không tìm được một người vợ biết
lắng nghe. Chúng ta hãy tưởng tượng cảnh một người đàn ông suốt
ngày đã gặp không biết bao nhiêu bực dọc trong công việc làm ăn,
vừa bước vào nhà lại phải nghe thêm những than phiền của người
vợ. “Hãy để cho tôi yên một chút được không?”. Hẳn đó là
câu lẩm bẩm thông thường của người chồng khi gặp phải một người
vợ không biết lắng nghe.
2.
Một tác giả chuyên về tâm lý học đã nêu lên một số khuyết điểm
mà một số phụ nữ thường có như sau:
Trước hết họ hay ngắt lời chồng
mình. Thái độ này không chỉ nói lên khuynh hướng muốn làm chủ
của người đàn bà mà còn có thể cho thấy người đàn bà không muốn
hoặc không ý thức về vai trò trợ giúp đối với chồng mình nữa.
Khuyết điểm thứ hai mà người ta
thường thấy nơi một số người vợ, đó là không chú tâm đến câu
chuyện của chồng mình. Thái độ này đã đưa người đàn ông đến chỗ
khép kín và lạnh nhạt đối với vợ. Dĩ nhiên, ngày nay câu châm
ngôn “Phu xướng phụ tuỳ” không còn là luật tối thượng của
đời sống gia đình nữa. Sự đối thoại mới là cơ bản của đời sống
hôn nhân. Nhưng để có sự đối thoại, cần phải biết lắng nghe.
Một khuyết điểm khác nữa mà nhiều
người chồng rất sợ nơi vợ mình, đó là sự thiếu cẩn mật. Tự bản
chất, người đàn bà nào cũng thích tâm sự. Nhưng không phải tất
cả mọi bí mật đều có thể đem ra chia sẻ. Nhất là khi những bí
mật đó liên quan đến người chồng hoặc do người chồng cung cấp.
Có biết bao người đàn ông đã phải trả giá quá đắt, vì đã trót
nói với vợ những điều mà vợ mình không biết giữ kín.
3.
Trong đời sống vợ chồng, người ta dễ nhìn thấy những khuyết điểm
của nhau. Nhưng thiết tưởng, thay vì đòi hỏi người chồng phải
nên hoàn hảo, thay vì trách cứ chồng mình, thì người vợ nên tự
xét mình trước.
Một tác giả đã gợi lên cho người
vợ bản xét mình sau đây:
·
Tôi có quan tâm đến công
việc của chồng tôi không?
·
Tôi có biết không tiếc lời
để luôn luôn khen tặng và khuyến khích chồng tôi, nhất là trong
những năm đầu của đời sống hôn nhân không?
·
Khi được chồng ngỏ ý đưa đi
dự tiệc, tôi có nghĩ rằng, tôi chỉ làm đẹp vì chồng và được hạnh
phúc khi ngồi bên chồng không?
·
Tôi có biết hỏi ý kiến
chồng mỗi khi mua sắm quần áo không?
·
Tôi có biết chia sẻ với
chồng một vài thứ tiêu khiển, như đọc sách, xem chiếu bóng không?
·
Tôi có còn là người bạn tốt
của chồng tôi không?
Đó là những câu hỏi mà thiết tưởng
một người vợ biết thao thức với hạnh phúc hôn nhân không thể
không đặt ra để xét mình mỗi ngày.
4.
Xã hội xưa cũng như nay, có thể đặt người đàn bà vào tư
thế đầu tắt mặt tối suốt ngày. Bổn phận của một người mẹ; và
trong nhiều trường hợp, bổn phận của một người dâu, bổn phận của
một người con trong gia đình có thể khiến cho họ quên đi hoặc
xem thường bổn phận làm vợ.
Họ nên nhớ, một người mẹ tốt, một
người nội trợ tốt, một người dâu hiền… tất cả chưa đủ để là một
người vợ tốt. Một người vợ tốt, cốt yếu phải là một sự trợ giúp,
một nơi nương tựa thiết thực cho chồng.
Người vợ trẻ nên đọc lại lời cầu
chúc mà Giáo Hội dành cho họ trong nghi thức hôn phối:
“Xin cho họ được âu yếm nồng
nàn với chồng như nàng Rakhen. Xin cho họ được khôn ngoan như
Rebeca, sống lâu trường thọ và thủy chung như bà Sara”.
|
VỀ MỤC LỤC |
|
PHÂN ĐỊNH VÀ SỐNG
ƠN GỌI |
[BẢN THẢO]
LINH MỤC GIÁO PHẬN SỐNG TU ĐỨC TOÀN DIỆN
TRONG BỐI CẢNH THỰC TẾ CỦA GIÁO HỘI VÀ XÃ HỘI VIỆT NAM HÔM NAY
Lm.
Micae-Phaolô Trần Minh Huy pss
CHƯƠNG HAI
ỨNG SINH LINH MỤC
GIÁO PHẬN
CỦNG CỐ NHỮNG BƯỚC
ĐẦU
PHÂN ĐỊNH VÀ SỐNG
ƠN GỌI
A. ĐẶT VẤN ĐỀ
Biện
phân ơn gọi thánh hiến là lắng nghe lời Chúa kêu gọi. Vậy trước hết, chúng ta
thử khảo sát mấy từ ngữ quan trọng.
Ơn Gọi,
một từ ngữ thường được sử
dụng để gọi tên một lời mời gọi đến chức linh mục hay đời sống tu sĩ. Tuy nhiên,
trong ý nghĩa rộng rãi nhất của nó, ơn gọi đơn giản là “một lời mời gọi.” Từ ngữ
này không chỉ để xác định chức linh mục hay tu sĩ mà thôi đâu.
Các bậc sống khác, như hôn nhân
chẳng hạn, cũng là một ơn gọi, giống như là ơn gọi linh mục hay ơn gọi tu sĩ.
Do đó,
nếu ơn gọi là một lời mời gọi thì chúng ta phải để thời giờ lắng nghe hầu biết
được chúng ta phải trở thành cái gì và ở đâu. Tiến trình lắng nghe này thật căn
bản để kiện toàn điều lòng chúng ta ước mong tìm được ý nghĩa đời mình, trong kế
hoạch quan phòng của Thiên Chúa.
Là
những con người, chúng ta được mời gọi bởi hoàn cảnh an bài;
những giới hạn và khả năng tiềm ẩn của
chính chúng ta, trong một thời khắc lịch sử của khả năng tình cảm, tri thức và
tâm lý của chính chúng ta.
Nếu
chúng ta đi theo giáo huấn của các viện phụ và viện mẫu sa mạc, cũng như của các
giáo phụ và tiến sĩ Giáo Hội liên quan đến vấn đề này, chúng ta sẽ chấp nhận
rằng một ơn gọi được tìm thấy trong sự sắp xếp an bài của các phương diện ý
nghĩa của cuộc sống và bởi ân sủng mà chúng ta đón nhận để thực hiện điều tốt
nhất của các tình huống đó.
Biện phân
là tiến trình lắng nghe và chọn lựa qua sự an bài trong các khía cạnh ý nghĩa
của cuộc đời một con người, cũng như ân sủng để tìm kiếm và xác định hoàn cảnh
và lời đáp trả đích thực đối với Tình yêu của Chúa.
Đáng
tiếc là chúng ta có khuynh hướng lạm dụng hay sử dụng không đúng từ ngữ “biện
phân” này. Chúng ta gọi là biện phân bất cứ cái gì phải làm với một quyết định,
ngay cả việc rất đơn giản nhất là chọn lựa giữa hai thứ đồ vật vật chất. Chúng
ta cũng có khuynh hướng dùng danh từ biện phân khi tất cả những gì chúng ta muốn
chỉ là một quyết định thận trọng về một việc gì đó cần đến lương tri. Do đó,
không phải tất cả mọi tiến trình phải lấy quyết định đều đặt dưới phạm trù biện
phân.
Biện phân đòi hỏi khả năng suy tư thần học liên
quan đến hoàn cảnh và đời sống của một người. Khi chúng ta lắng nghe và
chọn lựa qua sự an bài của các phương diện quan trọng của cuộc sống và khi chúng
ta đón nhận ân sủng để tìm biết qua cầu nguyện đâu là sự thật trong hoàn cảnh
của chúng ta, hầu có thể xác định lời đáp trả đích thực nhất với tình yêu Chúa,
thì chúng ta đi đến sự hiểu biết rõ ràng về cuộc đời chúng ta, sự rõ ràng vượt
quá con tim biện phân của chúng ta. Như thế có sự gặp gỡ giữa hai sự hiểu biết
rõ ràng, của Chúa và của chúng ta, nhờ đó chúng ta bắt đầu nhìn thấy với con mắt
đức tin những gì Chúa muốn trong chúng ta và cho chúng ta.
Trong khi biện phân
lời mời gọi đến chức linh mục, tu sĩ hay một tác vụ tôn giáo, điều hết sức quan
trọng phải ghi nhớ trong lòng trí rằng ơn gọi đặc biệt này trước hết là một lời
mời gọi dâng hiến cuộc đời phục vụ Chúa. Đó không phải là một lời mời gọi làm
bất cứ cái gì hay trở nên cái gì.
Tiến trình biện phân
lời mời gọi của một người là một nỗ lực vừa nhân loại vừa thần linh để chọn một
bậc sống diễn tả lời đáp trả tốt nhất của mình với tình yêu và sự chăm sóc quan
phòng của Chúa. Như thế nó không bao giờ được đảm trách một mình, vì nó mời gọi
một sự tương tác giữa người biện phân và Thiên Chúa. Vậy, việc biện phân luôn
luôn nằm trong bối cảnh mối tương quan nhân vị của con người với Chúa.
Cầu Nguyện và Biện Phân
Cầu
nguyện là tâm điểm mối tương quan
của con người với Chúa làm cho con người tự nguyện sẵn sàng với sự hiện diện dẫn
dắt của Chúa trong đời sống mình, đồng thời làm cho con người có khả năng nhận
biết Chúa qua tương quan đối thoại: “Xin cho con biết Chúa, xin cho con biết
con” (thánh Augustinô).
Như
vậy, biện phân không thể tách lìa cầu nguyện, nếu không nó sẽ không thể là một
biện phân đích thực. Biện phân không phải là một cái gì chỉ đơn giản đòi học hỏi
các phương pháp và kỹ thuật, dù đó là những dụng cụ hữu ích trong chính tiến
trình biện phân.
Biện
phân trước hết là một ân ban mà nguời ta tìm kiếm hằng ngày trong cầu nguyện.
Chúng ta học nghe tiếng Chúa với con tim của mình, học nhận biết âm thanh của
nó, đôi khi cả học biết những gì Chúa muốn nói trước cả khi Ngài nói nó ra. Biện
phân là một lời mời gọi được phát sinh từ mối tương quan thân mật và hiệp thông
với Chúa. Nó là một ân ban cho ta có thể phân biệt được những hướng dẫn của Chúa
Thánh Thần.
Vì thế,
một người đi vào tiến trình biện phân ít nhất phải có hạt giống đức tin trong
mình. Ta phải xác tín rằng lời cầu nguyện ban sức mạnh và đào sâu mối ràng buộc
bằng hữu với Chúa. Ta cũng phải
tin rằng lời cầu nguyện và đức tin mang lại mục đích và ý nghĩa cho cuộc đời
được sống trong sự hiến dâng và cam kết phục vụ Chúa.
Nhờ
hành trình cầu nguyện, chúng ta nhận ra được rằng tiến trình biện phân, dù lắm
khi là một trăn trở, thực sự đơn giản nếu chúng ta để Chúa Thánh Thần hướng dẫn
chúng ta. Tiến trình này bao gồm bốn giai đoạn sau đây: Giữ quan hệ với chính
mình; giữ quan hệ với Chúa; chính tiến trình lấy quyết định và khẳng định quyết
định đã lấy.
Bây giờ chúng ta đến
với câu hỏi vô cùng quan trọng. Dấu hiệu nào của ơn gọi linh mục và tu sĩ là nổi
bật và thiết yếu nhất đáng sự quan tâm đặc biệt của những ai dấn thân vào việc
tuyển chọn, giáo dục và đào tạo các ứng sinh? Câu trả lời là một quan tâm đúng
đắn (Paul VI)
còn tiếp nhiều kỳ
|
VỀ MỤC LỤC |
|
CHĂM SÓC CHA MẸ GÌA
|
Nhân ngày “Từ Phụ”,
Lang tôi xin cùng quý thân hữu đi vào một vấn đề có tính cách
gia đình. Vì nhìn gần nhìn xa, thấy các vị đàn anh và một số
bạn đồng tuế đang từ từ đối diện. Và các con cũng rất ưu tư suy
nghĩ.
Đang ngồi họp, Vân được cho hay có điện thoại khẩn cấp. Chị vội
đứng lên, về phòng. Bà hàng xóm nơi mẹ Vân đang ở, cho hay bà cụ
vừa được đưa vào nhà thương. Bà cụ té ngã.
Vân vào cáo lỗi với ông chủ rồi xuống lấy xe lái vào bệnh viện
thăm mẹ.
Trên đường đi, nàng dùng điện thoại di động báo cho Huân, chồng
nàng hay. Huân hiện đang đi công tác ở miền miền Trung nước Mỹ,
tuần sau mới về. Rồi suốt mười lăm phút lái xe, nàng suy nghĩ
mung lung, với nhiều lo âu, bối rối. Sự việc mà nàng hằng nghĩ
trước sau gì cũng xẩy ra, thì bây giờ nó đã đến, hơi sớm một
chút.
Sau khi ba Vân mất cách đây dăm năm, mẹ Vân dọn về ở với vợ
chồng nàng. Rồi sau một thời kỳ thích nghi với hoàn cảnh mới,
nếp sống mới của người góa phụ, bà cụ dọn ra ở riêng.
Cụ tới khu người già trong khuôn viên chùa Linh Sơn. Cụ nói lên
đây ở để đi lễ bái cho gần, lại có mấy cụ già quanh quẩn với
nhau cho vui. Nhất là có hai người bạn học từ thuở xưa ở Hải
Phòng, mà họ thường hay liên lạc chuyện trò.
Khu người già được lập ra từ hơn mười năm, có 40 phòng, dành cho
các cụ độc thân, còn đủ sức khỏe, đi lại được, còn tự chăm sóc
nấu ăn, giặt giũ. Các cụ sống hợp quần với nhau rất vui. Ngày
ngày các cụ lên Chùa lễ bái, tụng kinh rồi làm công quả. Lâu lâu
nhà Chùa tổ chức đi thăm viếng đây đó hoặc đi lễ hội Chùa tại
thành phố khác. Đôi khi trời mưa, các cụ ở nhà rủ nhau làm vài
hội chắn hoặc bài cào để tiêu khiển giải trí.
Nhưng từ trong thâm tâm thì cụ không muốn phiền con cháu quá
lâu. Từ trước tới nay cụ là người rất hoạt động, phải nói là đảm
đang nữa. Cùng chồng, cụ đã đôn đáo tìm đường thoát khỏi Sài Gòn
vào biến cố 1975, rồi nuôi nấng, gây dựng cho sáu mặt con từ khi
còn ở trong nước tới khi sang Hoa Kỳ hơn ba chục năm nay. Cháu
nội ngoai các cụ có hơn một tá.
Mọi việc xuôi sẻ cho đến ngày hôm nay.
Thực ra thì từ năm ngoái, cụ đã không được khỏe lắm. Huyết áp
lên cao, các khớp xương thì mỗi khi trái gió, trở trời là đau
nhức, khiến cụ mất ngủ. Có đêm, cụ chỉ ngủ được có vài ba giờ,
nên ban ngày mệt và hay kêu chóng mặt, nhức đầu.
Cách đây ba tuần cụ phải nằm bệnh viện mất mươi ngày vì sưng
phổi. Sau khi xuất viện, vợ chồng Vân muốn mời cụ về ở chung một
thời gian cho khỏe nhưng cụ một mực từ chối, nói không sao. Vân
đã cho anh chị em biết về tình trạng sức khỏe của cụ và mọi
người dự định là tháng tới sẽ về để cùng thảo luận coi xem nên
làm gì.
Tới bệnh viện, Vân được cô y tá cho hay tự sự.
Số là sáng nay, mấy ông bà hàng xóm sang rủ cụ lên Chùa tụng
niệm, như lệ thường. Gõ cửa không có tiếng trả lời, một lão ông
bèn đẩy cửa bước vào và thấy mẹ Vân nằm song soài dưới đất, cạnh
bàn điện thoại, nét mặt nhăn nhó. Cụ sửa soạn lên Chùa thì bị
một cơn chóng mặt, xỉu đi và ngã xuống nền nhà. Cụ cố với tay
tới điện thoai để kêu cứu, nhưng đau quá, không lết thêm được.
Bác sĩ đã khám, chụp hình thì thấy cụ bị gẫy xương hông. Cụ hiện
đang nằm trong phòng cấp cứu. Bác sĩ chờ thân nhân tới để thảo
luận vì cụ cần được giải phẫu.
Vân vào phòng, thấy mẹ nằm thiu thiu mà nước mắt trào ra. Da mặt
bà cụ xanh nhợt, vẫn còn phảng phất nét đau đớn. Vân nhẹ nhàng
ngồi xuống ghế, để mẹ tiếp tục ngủ. Nhìn mẹ mà lòng vân bối rối.
Cả trăm vấn đề hiện lên trong đầu Vân. Sau giải phẫu, mẹ sẽ ra
sao? Liệu có đi lại được không? Huyết áp cao, bệnh phong thấp
hoành hành, lại mất ngủ thì sức khỏe chắc là phải sa sút.
Mấy tháng trước, khi vợ chồng Vân đến thăm, thấy cụ cứ than là
ăn không ngon miệng, nên đôi khi chẳng thèm nấu cơm, mà chỉ uống
ly sữa, ăn miếng bánh khô cho khỏi đói bụng. Coi tủ lạnh, Vân
thấy mấy món ăn thiu đã lên men. Vào buồng tắm thấy nước vặn bỏ
quên không khóa. Vợ chồng Vân đã lo ngại...
Rồi Vân nghĩ tới hoàn cảnh của mình.
Trong sáu người con, Vân là người duy nhất ở gần mẹ. Mà bà cụ
vẫn có cảm tình đặc biệt với Vân, nên trước sau cụ vẫn nói là
mai mốt nếu cần
“tao chỉ ở với vợ
chồng con Vân thôi. Nó bướng bỉnh nhưng có lòng”.
Vợ chồng Vân được hai trai một gái đã vào đại học nên cũng nhẹ
gánh. Vân mới được lên chức và trong tương lai gần, sở sẽ cho
nàng đi học thêm để lấy bằng chuyên môn. Vân đã sắp xếp như vậy
cho mình. Chồng nàng thì cứ vài tháng phải đi công tác xa mươi
ngày.
Bây giờ, cơ sự sẩy ra như thế này, mọi dự tính của Vân đều phải
xét lại. Để chờ cụ giải phẫu xong rồi tuần sau anh chị em về sẽ
tính. Nhưng Vân có linh tính rằng nàng sẽ là người đứng mũi chịu
sào. Mẹ mình vẫn muốn vậy, nàng tự nhủ.
Bà cụ chợt tỉnh giấc, mở mắt. Nhìn thấy Vân, Cụ gượng cười. Và
trong đôi mắt của mẹ, Vân đọc thấy những nét thất vọng, sợ hãi,
chịu thua...
Trường hợp của chị Vân là một trong cả trăm ngàn trường hợp
tương tự.
Tuổi thọ con người kéo dài lâu hơn, tới 75, 80 là chuyện thường.
Chứ không “Thất thập cổ lai hy” như vào thế kỷ trước. Số những
người cao tuổi mỗi ngày mỗi gia tăng. Sức khỏe người già có khá
hơn nhờ các cụ biết giữ gìn nếp sống cũng như được cung cấp dịch
vụ y tế, thuốc men đầy đủ.
Nhưng một cơ thể lâu đời vẫn có những thay đổi tự nhiên theo
chiều đi xuống cộng thêm những bệnh kinh niên, những tai nạn bất
ngờ, với hồi phục chậm chạp. Biết bao nhiêu mất mát đã chồng
chất lên niên kỷ, những xói mòn làm mong manh thân xác.
Dù vậy nhiều người già vẫn gắng gượng tự lo, chưa muốn phụ thuộc
vào các con. Họ cũng có những kiêu hãnh riêng tư, những niềm tự
trọng, đôi khi cũng chỉ e ngại “cảnh cha mẹ nuôi con như trời
như bể, con nuôi cha mẹ con kể từng ngày ”. Nhưng sức gắng
gượng chỉ có hạn, rồi một ngày nào đó cũng yếu đi. Như căn nhà
tranh vách đất trước gió bão, cần được chống đỡ.
Và cũng là lúc con cái phải suy nghĩ, xem ai sẽ là người lãnh
trách nhiệm. Chắc phải là người có thiện chí, có điều kiện, khả
năng và hoàn cảnh thuận tiện.
Phục vụ thân nhân cao tuổi là một vinh dự cho con cái đồng thời
cũng là vấn đề quan trọng của nhiều xã hội hiện nay. Tại Hoa Kỳ
hiện nay có tới cả 40 triệu người cung cấp chăm sóc không lương
cho cha mẹ già. Sự chăm sóc này ảnh hưởng dây chuyền tới nhiều
lãnh vực khác. Sẽ có nhiều người vắng mặt ở sở hoặc đi làm trễ;
sẽ có dùng nhiều điên thoại để lấy hẹn bác sĩ, gọi mua thuốc.
Nhiều nhân viên tới sở than phiền mỏi mệt mất ngủ. Tai nạn tại
chỗ dễ sẩy ra. Thay đổi việc làm nhiều hơn. Và số người bị trầm
cảm, đau ốm sẽ gia tăng.
Trong thực tế thì có rất ít gia đình đã sửa soạn để sẵn sàng
giải quyết việc chăm sóc cha mẹ khi về già. Nhiều việc xẩy đến
bất thường, đòi hỏi có quyết định ngay.
Ông bố đang có sức khỏe tốt, đột nhiên bị tai biến não, liệt nửa
thân, nằm bất động cần giúp đỡ với nhu cầu căn bản, thiết yếu
hàng ngày: ăn uống, tắm rửa, đại tiểu tiện, cho uống thuốc...
Con dâu đang vừa đi làm vừa trông nom bà mẹ chồng, giờ đây con
dâu cũng thường đau ốm. Ai là người sẽ lãnh trách nhiệm săn sóc
ông bố? Ai sẽ tiếp tay với mình trông nom mẹ chồng?
Theo kinh nghiệm thì dù có nhiều anh chị em, nhưng trách nhiệm
chăm sóc không đồng đều chia sẻ khi bố mẹ cần. Có thể là người
con gái lớn với cả một bầy con hoặc cô út chưa đi ở riêng, hoặc
nàng dâu nhà ở gần bố mẹ. Đôi khi là cậu con trai cưng. Nhưng
thường ra thì chỉ có một người đóng vai chính, thường xuyên.
Nói như vậy không có nghĩa lã không có chia sẻ về tài chánh, về
công việc chăm sóc mà qua người này mọi việc được giáo phó, phối
hợp và thông báo cho người khác khi cần. Một tiểu gia đình cộng
thêm hai cụ thân sinh. Thế hệ người chăm nuôi được ví như thế hệ
của một chiếc “ bánh mì kẹp chả” , với trách nhiệm làm
cha mẹ, bổn phận làm con và đời sống riêng tư của mình.
Nói đến người săn sóc thường thường là ta nghĩ đến vai trò của
người phụ nữ: con gái, con dâu, chị em, cháu. Theo kết quả thăm
dò tại Hoa Kỳ, cứ 10 người chăm sóc thì 6 người là con gái hoặc
con dâu. Cũng chẳng ai hiểu tại sao. Có lẽ đó là thiên chức của
họ sinh ra với những nét dịu dàng, nhậy cảm, những quan tâm,
linh động, nhất là đức tính hy sinh, nhẫn nại, thông cảm để chăm
sóc chồng con, bố mẹ. Điều đó cũng đúng vì việc tề gia nội trợ,
việc chăm sóc nâng niu thì cũng hiếm đàn ông làm hơn quý bà
được.
Cho nên khi một bà cụ khoe “tôi ở với con trai ” thì thực ra
phải hiểu là bà cụ đang ở với con dâu mới công bằng, chính xác.
Đàn ông cũng làm được công việc đó nhưng tổng quát hơn, sắp đặt
nhiều hơn là đi vào chi tiết. Mà những chi tiết mới là điều mà
người phụ thuộc cần và quan trọng đối với họ.
Người đàn bà có chín tháng mười ngày sửa soạn để đón chào đứa
con ra đời, nhưng họ không có một phần mười thời gian đó để sẵn
sàng cho trách nhiệm nuôi cha nuôi mẹ .Vì sự việc xẩy ra không
lường trước.
Vả lại, nuôi con là thấy mỗi ngày chúng vươn ra khỏi vòng phụ
thuộc, còn nuôi bố mẹ già thì nhu cầu giúp đỡ mỗi ngày mỗi tăng,
mỗi đi sâu vào sự lệ thuộc. Nhiều người như bơi lội quay cuồng
trong vai trò mới của mình. Kinh nghiệm chưa có, làm sao học
được cách thức điều dưỡng trong vài ngày. Tài chánh giới hạn.
Sức khỏe kém. Công việc trở ngại. Ngoài việc làm kiếm gạo, mỗi
ngày cũng phải dành ra vài giờ cho việc săn sóc. Họ cảm thấy cô
đơn, buồn chán, nhiều khi bực bội, bất mãn, tuyệt vọng. Không
còn riêng tư cho mình. Tương lai như ngưng lại. Họ mủi lòng cho
người thân, người mà bạn đường đã sớm bỏ ra đi, sức khỏe đang
hao mòn và biết rằng đang là gánh nặng cho con cháu.
Tình nghĩa gia đình, lòng hiếu thảo, mặc cảm chịu ơn là những hỗ
trợ để người chăm sóc tiếp tục. Họ nghĩ là có bổn phận phải chăm
sóc cha mẹ như cha mẹ đã nuôi nấng, trìu mến họ.
Tuy nhiên dù có cứng nhưng cũng có ngày ngả nghiêng trước gió
táp. Những chia xẻ trách nhiệm, những giúp đỡ từ anh chị em,
thân nhân đã tới lúc cần có vì việc chăm sóc là trách nhiệm
chung của cả gia đình.
Thường thì một người tình nguyện chăm sóc thường xuyên. Còn
người khác phụ giúp khi được yêu cầu hay khi có cơ hội thuận
tiện. Sắp xếp sao để tránh khỏi một người bị kiệt sức. Hoặc đưa
tới bất hòa giữa anh chị em. Một người mẹ có thể chăm sóc cả bầy
con mười đứa, nhưng khi cha mẹ già thì mười đứa con không chăm
sóc được một mẹ. Kể cũng éo le, tội nghiệp.
Sau một thời gian cố gắng, người chăm nom bắt đầu có những dấu
hiệu khó khăn. Đôi khi họ cố tình gạt bỏ những nhu cầu riêng,
quên những đau ốm cá nhân để lo cho người thân yêu. Có người từ
chối sự tiếp tay của anh chị em hoặc bạn bè, nhóm hội. Họ cứ
nghĩ có đủ sức làm mọi việc và nếu nhận sự tiếp tay là thú nhận
thất bại, kém khả năng. Có người cho là chỉ có mình mới chăm sóc
chu đáo, không tin ở người khác.
Để rồi kiệt sức, ngã bệnh. Thử tưởng tượng một người không có
sức khỏe dồi dào, săn sóc một người không khỏe lắm, thì chắc kết
quả cũng chẳng được mấy hoàn hảo, như ý muốn của đôi bên.
Theo mấy ông bà thống kê thì người cống hiến chăm sóc bị cao
huyết áp gấp đôi người khác, 91% bị trầm cảm, bốn lần bực bội,
cau có hơn người nhận. Họ bất mãn vì đã cố gắng hết mình mà tình
trạng người thân mỗi ngày mỗi suy kém, nên họ phải cố gắng hơn
trong việc chăm sóc. Họ có cảm tưởng như mình là người duy nhất
có thể trông nom chu đáo được cho người thân, luôn luôn e ngại
rằng sự săn sóc của anh chị em sẽ làm cha mẹ già suy yếu hơn.
Đôi khi họ thấy không có được một thì giờ dành cho mình, một
chút riêng tư với chồng con. Rồi tính tình thay đổi, hay cau có,
bực tức, giận dỗi vu vơ; cảm thấy khó chịu với người mình đang
trông nom, đã chẳng chịu hợp tác lại còn bướng bỉnh, đòi hỏi.
Lâu lâu họ thấy trong người mệt mỏi, ngủ không được. Nhiều sáng
họ sợ không dám thức dậy, sợ phải đương đầu với những thường lệ
mỗi ngày lại diễn ra.
Ngoài ra, dịch vụ chăm sóc cũng gây trở ngại cho công việc làm
ăn, cho đời sống giao tế hàng ngày. Và đôi khi họ không còn thấy
vui vẻ kiêu hãnh về trách nhiệm của mình, hoặc cảm thấy tội lỗi
về những ý nghĩ không tốt của mình đối với người thân.
Rồi một lúc nào đó ngã bệnh, buông xuôi...
...Để tiếp tục chăm lo cho mẹ, Vân đã dành cho bản thân chị một
vài chăm sóc, nhân nhượng. Vân đã như nghe thấy từng thớ thịt
kêu gào với Vân, “cho
tôi nghỉ chút xíu chứ, bạn đã sử dụng quá sức lao động của tôi
để phục vụ bà cụ rồi đó”!
Vân đã sẵn sàng, dễ dãi tiếp nhận sự giúp đỡ của anh chị em.
Cô Lan ơi, tuần sau lên đón mẹ về với em, đỡ hộ chị mươi ngày
nhé, anh chị định đi xả hơi ngoài biển.
Anh Hoan ơi, bác sĩ nói mẹ cần uống thêm sữa đậu nành, hay là
anh nói với chị làm hộ em mỗi tuần vài lít nhé.
Chị đã xen kẽ xả hơi và chăm sóc để duy trì sinh lực, lấy lại
nhiệt tâm. Dạo này Vân để ý đến ăn uống đầy đủ dinh dưỡng hơn.
Ngày nào chị cũng dành 15 phút để vận động cơ thể.
Nàng lo nhất là bị rối loạn giấc ngủ. Ban đêm nhiều khi Vân phải
thức dậy giúp đưa mẹ vào phòng tắm, lấy miếng nước, viên thuốc
cho mẹ. Vân biết là mất ngủ sẽ mau đưa tới nhiều tiêu hao tinh
thần thể xác.
Chị cũng đã nghĩ đến một ngày nào đó phải cần đến sự giúp đỡ của
các dịch vụ chăm sóc người già của chính phủ, của các tổ chức
trong cộng đồng, tôn giáo, xã hội, những nhóm hỗ trợ tư nhân,
trung tâm chăm sóc ban ngày. Các dịch vụ này có sẵn tại mỗi địa
phương lớn nhỏ tại Hoa Kỳ.
Nhưng quan trọng nhất vẫn là nói chuyện với anh chị em. Để phân
chia công việc săn sóc, phụng dưỡng người mẹ cô đơn được chu đáo
trong những năm tháng còn lại của Mẹ...
Vì:
“ Mẹ già như chuối chín cây”.
Rụng lúc nào, không biết.
Cũng như Cha đã về nguồn cách đây mấy năm.
Bác sĩ Nguyễn Ý-Đức
M.D. Texas- Hoa Kỳ
|
VỀ MỤC LỤC |
BỮA CƠM GIA ĐÌNH XƯA VÀ NAY - Chuyện
phiếm của Gã Siêu |
BỮA CƠM NGÀY
XƯA
Cuộc sống khắp nơi đang thơ thới hân hoan,
bỗng dưng giá cả thực phẩm bắt đầu leo thang. Mà đã leo thang,
bọn đầu cơ tích trữ thế nào cũng dấu béng đi để tạo thành một
tình trạng khan hiếm, để rồi sau đó, giá cả lại tiếp tục tăng
lên vùn vụt, khiến cho bàn dân thiên hạ lo lắng đến toát cả mồ
hôi hột.
Những nước nghèo đói bên Châu Phi và ngay
cả những nước không đến nỗi túng thiếu, chẳng hạn như Phi Luật
Tân hay Ấn Độ…vì không sản xuất đủ lương thực, nên dân chúng
phải xếp hàng mua gạo và chỉ được mua theo một chế độ nào đó.
Nhìn cảnh tượng ấy mà gã cảm thấy ngao ngán lắm vậy.
Gã là dân Hai Lúa, cắm dùi ở miền đồng bằng
sông Cửu Long. Ngay sau khi thu hoạch vụ đông xuân, cứ tưởng giá
lúa sẽ ổn định như mọi năm, nên cũng như nhiều người khác, đã
vội bán đi để trang trải nợ nần: Nào là tiền công, nào là tiền
thuốc, nào là tiền phân…Nào ngờ đâu, giá lúa cứ như ngựa phi
đường xa, mỗi ngày lên một bậc, thành thử chỉ trong hai hay ba
tuần lễ là đã mất toi một số tiền lớn chỉ vì trượt giá. Số tiền
bay hơi trước mắt này gần bằng với tiền lời mình kiếm được của
một vụ mùa.
Và điều còn vô lý hơn nữa, đó là ngay tại
cái vựa lúa miền Nam, giá gạo bất chợt lên cơn sốt, như một căn
bệnh cấp tính. Tăng gấp hai, gấp ba…khiến cho những người ăn
đong cũng phải xếp hàng mà mua gạo. Nhưng may thay cơn sốt này
chỉ kéo dài có hai ngày thì xẹp xuống như trái bóng xì hơi,
Qua sự việc nóng bỏng kể trên, gã nghiệm ra
rằng cái ăn thật là quan trọng, đứng vào hàng đầu trong cuộc
sống thường ngày. Ngoài ngõ, người ta đánh nhau toạc đầu xẻ trán
cũng chỉ vì cái ăn, còn trong nhà người ta xào xáo lẫn nhau cũng
chỉ vì cái ăn đang ở vào thời buổi “gạo châu củi quế”, bởi vì
như cha ông chúng ta vốn thường nói:
- Có thực mới vực được đạo.
- Bụng đói, thì đầu gối phải bò.
- Đói ăn vụng, túng làm liều.
- Bần cùng sinh đạo tặc.
Chính vì thế, gã xin bàn đến chuyện bữa cơm
gia đình xưa và nay. Nói một cách trừu tượng theo kiểu khoa học,
thì vấn đề nạp năng lượng cho cơ thể được hoạt động, hay nói
một cách cụ thể theo kiểu bình dân, thì vấn đề ăn cho cơ thể
được sống, là điều rất cần thiết cho mọi người, ở mọi nơi và
trong mọi lúc. Chẳng thế mà người tây phương đã bảo:
- Ăn để mà sống.
Còn người đông phương thì nói:
- Dân dĩ thực vi tiên, người dân lấy cái ăn
làm đầu.
Mặc dù người quân tử có thể vỗ ngực mà hãnh
diện:
- Thực vô cầu bão và cư vô cầu an. Có nghĩa
là ăn chẳng cần no và ở chẳng cần yên.
Thế nhưng, chẳng ai đói mãi mà sống bình
thường được. Không suy dinh dưỡng, thì cũng bệnh nọ tật kia.
Chính vì thế mà bữa cơm đã trở thành một sinh hoạt trung tâm của
nếp sống gia đình.
Đa số người Việt Nam sống bằng nghề nông,
nên được liệt vào hạng lao động tay chân. Mà đã lao động tay
chân, thì ban sáng cần phải ăn no, mới đủ sức làm việc trên
ruộng đồng cho tới trưa. Vì thế, người Việt Nam thường ăn ba
bữa: Sáng, trưa và tối: Ngày ba bữa, vỗ bụng rau bình bịch. Tuy
nhiên, có những gia đình bữa tối chỉ ăn qua quít với cơm nguội
và những thức ăn còn dư lại của ban trưa mà thôi.
Trong khi đó, dân thành phố do ảnh hưởng
của người Pháp, ban sáng thường ăn ít và gọi đó là bữa điểm tâm.
Còn ban trưa mới là bữa chính và ban tối mới là bữa…trọng hơn
các bữa.
Tác giả Đào Duy Anh, trong Việt Nam Văn hóa
Sử cương, đã viết: “Từ xưa, người nước ta vẫn sinh hoạt bằng
nghề cày cấy và nghề chài lưới, cho nên đồ ăn chủ yếu của ta là
gạo và cá”. Gạo là hoa màu chính của ruộng đồng, còn cá là sản
phẩm chính của sông ngòi và biển cả.
Theo Toan Ánh trong “Phong tục Việt Nam”,
thì cây lúa ở ngoài đồng mới chỉ cho ta hạt thóc mà thôi. Và hạt
thóc cần phải có bàn tay con người chế tạo để biến thành hạt
gạo.
Gã không cần nói tới những lao công vất vả
quyện lẫn với những giọt mồ hôi, được người nông dân đổ xuống
trên ruộng đồng từ những ngày gieo xạ cho tới lúc thu hoạch, mà
chỉ nói tới từ lúc thu hoạch cho tới khi trở thành một hạt cơm
mà thôi.
Ngày xưa chưa có máy móc như hiện nay, lúa
được gặt, rồi đập, phơi và rê sạch, sau đó thóc được dí…bồ.
Muốn biến thóc thành gạo, thì trước tiên
phải đổ thóc vào cối xay để tách vỏ thóc, gọi là trấu, ra khỏi
hạt. Thóc xay rồi được đem sàng, để loại trấu ra khỏi gạo. Gạo
sàng rồi được cho vào cối giã, để tách cám khỏi gạo. Gạo giã rồi
được đem dần để cám và tấm tách rời riêng biệt, chỉ còn lại gạo
sẽ đem dùng.
Muốn nấu cơm, trước hết phải vo gạo, để
sạch những mày trấu còn dính trong gạo. Vo mà thôi chưa đủ, đôi
khi còn phải đãi gạo. Người ta lắc mạnh rá gạo đã vo, để những
hạt sạn nặng hơn sẽ bị lắng xuống dưới lòng rá. Sau đó bốc chỗ
gạo ở trên bỏ vào một cái rá khác cho tới khi chỉ còn một ít gạo
lẫn với sạn, thì bỏ đi hay vứt cho gà vịt ăn…
Tiếp đến, người ta đổ nước vào nồi, đun cho
sôi, rồi đổ gạo vào và đậy vung lại. Lát sau, nồi cơm sôi trở
lại, người ta lấy đôi đũa cả mà ghế. Sau đó, phải liệu sao cho
nồi cơm được đủ nóng bằng cách vần, đốt, hay đánh cuốn…thì nồi
cơm mới chín được.
Không phải ai cũng có thể nấu được nồi cơm
ngon và dẻo, cũng không phải hễ cứ nấu, thì nồi cơm liền được
như ý mình muốn. Nấu không khéo, cơm sẽ trương, sẽ sống, sẽ khê
hay sẽ nát, như câu tục ngữ dùng để chê bai các bà nội trợ nấu
cơm hơi bị vụng về:
- Trên sống, dưới khê, tứ bề nát bét.
Ý thức được những công lao vất vả là như
thế, nên các cụ ta ngày xưa mới khuyên:
- Ai ơi bưng bát cơm đầy,
Dẻo thơm một hạt, đắng cay muôn phần.
Hồi còn bé, trong khi ăn, nếu chẳng may làm
rơi vãi một vài hạt cơm mà không chịu nhặt lên, thế nào cũng
được ba gã giảng cho một bài luân lý giáo khoa thư về những khó
nhọc của người đã làm nên hạt gạo và hạt cơm, cũng như những
người hiện đang lâm cơn đói kém, không có gì để ăn. Chắc hẳn ba
gã vẫn còn bị ám ảnh bởi cơn ác mộng của nạn đói năm Ất Dậu, đã
cướp đi sinh mạng của hàng vạn người tại miền Bắc?
Hồi còn bé, bọn nhóc con trong những đêm
trăng sáng, thường chơi trò đố vui. Và có một câu được đưa ra
như sau:
- Mấy hạt gạo thì được một hạt cơm?
Xin thưa rằng:
- Chín hạt gạo mới được một hạt cơm.
Té ra đó là một kiểu chơi chữ. Chín hạt gạo
có nghĩa là hạt gạo phải được nấu chín thì mới trở thành một hạt
cơm.
Dân Việt Nam vốn nghèo, nên thức ăn trong
bữa cơm không có gì đáng kể, ngoài con cua, con tép, con cá bắt
được dưới kinh rạch hay ao chuôm và mớ rau trồng trong vườn như
rau muống, rau cải, quả cà hay hái được nơi bờ dậu như rau ngót,
rau mồng tơi…Chỉ trong những ngày đặc biệt hay trong những dịp
hội hè đình đám mới có miếng thịt và thường là thịt lợn.
Vì hiếm khi được ăn thịt, nên ở một vài nơi
khi đi dự tiệc, người ta chỉ ăn qua quít, còn bao nhiêu được
chia đều, mỗi người một gói để mang về cho con cháu.
Gã còn nhớ ngày xưa khi tham gia sinh hoạt
trong “hội hát” của giáo xứ, cứ mỗi lần mừng bổn mạng, người ta
đều giết heo. Đầu lòng và tiết canh được dùng trong bữa tiệc. Số
thịt sống còn lại được chia làm nhiều phần và mỗi ca viên được
một phần xách về nhà, để mọi người cùng hưởng tí lộc của hội hát…
Vì là một trong những sinh hoạt chính, nên
các gia đình thường qui định: Đến bữa, thì mọi người đều phải có
mặt đông đủ, bởi vì “người đi không bực, cho bằng người chực nồi
cơm”. Cơm nấu xong, phải ăn liền tù tì khi còn nóng hổi thì mới
ngon, chứ còn kẻ chờ và người đợi, tới khi nguội tanh nguội ngắt,
thì dù thức ăn được nấu ngon cũng trở thành dở.
Theo Toan Ánh diễn tả thì ở nhà quê, mâm
cơn thường được đặt trên một chiếc chiếu trải xuống đất ở dưới
bếp. Gặp những buổi chiều mát mẻ, thì trải ngay ở ngoàisân. Chỉ
nhà giàu mới dọn cơm trên phản. Khi có khách hoặc giỗ tết, mâm
cơm sẽ được dọn lên ở nhà trên hay nhà khách.
Thật là tình tứ và thơ mộng, khi cả gia
đình cùng nhau quây quần với nhau bên mâm cơm, được dọn ra ở
ngoài sân vào một buổi tối sáng trăng, cho dù thức ăn có đạm bạc
và ít ỏi với canh cua rau day, với cà ghém mắm tôm, thì vẫn cứ
ngon miệng, hay như ca dao đã diễn tả:
- Râu tôm nấu với ruột bầu,
Chồng chan, vợ húp, gật đầu khen ngon.
Cũng có nhà, người ông hoặc người cha, vốn
là chủ gia đình, được vợ con và các cháu kính trọng dọn riêng
một xuất cơm lên nhà trên.
Trong bữa ăn, thường con gái và con dâu
phải ngồi đầu nồi để xới cơm.
Vì thế mới xảy ra chuyện mấy đứa em trai
“trời đánh thánh vật không chết” chọc ghẹo chị dâu mới về nhà
chồng bằng cách nháy mắt cho nhau, chị dâu vừa xới cho đứa này,
thi đứa kia đã vội chìa bát tới, khiến cho chị dâu cứ phải liên
tục xới cơm mà chẳng kịp ăn. Thế là chúng phá ra cười một cách
vui vẻ.
Khi ngồi xuống mâm cơm, ông bà hay cha mẹ
thường ngồi trước, rồi sau đó mới đến con cháu. Trước khi dùng
bữa, nếu là con nhà có đạo, thì người chủ gia đình sẽ làm dấu
thánh giá và cùng nhau đọc kinh Lạy Cha, để cảm tạ và xin Chúa
thánh hóa những của ăn sắp được hưởng dùng.
Sau đó, những người dưới phải mời những
người trên. Thí du đứa cháu thì phải mời ông bà,mời cha mẹ và
mời các anh các chị…xơi cơm. Nghi thức này xem ra hơi bị kéo dài,
nhất là đối với những gia đình đông con nhiều cháu.
Khi ăn, con cháu thường nhường những miếng
ngon miếng ngọt cho ông bà và cha mẹ. Thế nhưng, ông bà và cha
mẹ cũng thường nhường lại cho con cháu, nhất là những đứa còn
nhỏ.
Theo phép lịch sự, người xưa đã dạy:
- Ăn trao xuống, uống trao lên.
Đồ ăn là chính, còn nước uống là phụ, ai
muốn dùng bao nhiêu cũng được, không đáng kể. Vì thế, người trên
phải trao đồ ăn xuống cho kẻ dưới để tỏ lượng bao dung. Còn kẻ
dưới thì đưa nước uống lên cho người trên, để tỏ ra lòng tôn
kính. Ngoài ra, câu trên còn được hiểu: Trong chuyện cỗ bàn,
người mâm trên vốn ăn ít nhưng uống nhiều, nên thường san sẻ
thức ăn cho mâm dưới. Còn người mâm dưới thì phải trông chừng để
tiếp thêm rượu, thêm nước cho mâm trên.
Ngoài ra, người xưa cũng nhắc nhở chúng ta:
- Ăn trông nồi, ngồi trông hướng.
Có nghĩa là khi ăn phải trông xem trong nồi
còn nhiều cơm hay ít để mà liệu có nên ăn thêm nữa hay thôi, cho
phải phép. Còn khi muốn ngồi xuống chỗ nào, thì phải trông xem
cái hướng mình ngồi có gây cản trở cho ai không, rồi mới ngồi.
Hồi còn bé, gã đã xem một cuốn phim mang
tựa đề là “Thằng khùng đi hỏi vợ”, trong đó có một chi tiết như
sau:
Thằng khùng được ông bác dẫn tới nhà ông bố
vợ tương lai. Và trong bữa cơm, thế nào bên đàng gái cũng quan
sát thái độ của thằng khùng để đánh giá và quyết định xem có nên
gả con gái hay không. Vốn biết tính thằng khùng tham ăn, nên ông
bác bèn cột một sợi chỉ vào chân thàng khùng và nói:
- Bao giờ tao giật thì mày mới được ăn.
Thằng khùng vui vẻ nhận lời. Vào bàn tiệc,
nó ngồi ăn rất nhỏ nhẹ theo những cái giật của ông bác. Mọi
người đều tấm tắc khen. Nhưng rồi khi bữa tiệc gần kết thúc, con
chó dưới gậm bàn vướng phải sợi dây, làm cho sợi dây bị giật
liên hồi. Và thế là thằng khùng cũng vội bốc các thứ thịt thà
trên bàn mà ăn lấy ăn để, khiến cho mọi người trố mắt ngạc nhiên
mà không hiểu tại sao.
Một truyện tiếu lâm khác kể lại:
Anh chàng rể tương lai tới nhà ông bố vợ và
được mời ở lại dùng bữa. Trong khi ăn, anh chàng rể hờ này cố
gắng bắt chước ông bố vợ. Hễ ông bố vợ gắp món nào, thì anh ta
cũng gắp món đó, khiến ông bố vợ gật đầu khoái chí.
Tới lúc ông bố gắp bún vào bát, rồi chan
canh mà ăn. Chẳng may đang lúc ăn bún như vậy, ông bố vợ bị…”hắt
xì”, khiến một cọng bún thò ra ở lỗ mũi. Thấy vậy, anh chàng rể
tương lại bèn chắp tay vái ông bố vợ và nói:
- Thôi con lạy bố, con không thể nào bắt
chước bố ở cái khoản này được đâu!
Suốt ngày chúng ta làm lụng vất vả, mỗi
người một việc và mỗi việc một nơi. Bởi thế, bữa cơm phải là nơi
hội tụ, phải là lúc sum họp của mọi người trong gia đình.
Nhiều khi gã thấy các bữa cơm thật tẻ nhạt
và rời rạc vì thiếu vắng những khuôn mặt thân yêu, mạnh ai người
ấy ăn, còn những người khác thì lại đang làm những việc đâu đâu.
Tới giờ cơm, chúng ta hãy tạm gác bỏ mọi
công việc không mấy cần thiết ấy để đoàn tụ, để họp mặt. Đồng
thời cố gắng tạo cho bữa ăn một bàu khí tươi vui cởi mở.
Có nhiều gia đình đã biến bữa cơm thành một
tòa án nhân dân để xét xử, trong đó anh chị em tố cáo những sai
lỗi của nhau với cha mẹ, để rồi cha mẹ, như những ông quan tòa
nghiêm khắc, đã lên tiếng chửi bới, đánh mắng, làm cho bữa ăn
trở thành ngột ngạt và căng thẳng. Chúng ta nên nhớ lại lời
người xưa khuyên nhủ:
- Trời đánh còn tránh bữa ăn.
Có nghĩa là dù công việc quan trọng đến đâu
chăng nữa, thì cũng đợi cho mọi người dùng bữa xong, thì mới đem
ra tính toán, chứ không nên đề cập tới trong lúc mọi người còn
đang ăn. Cũng vậy, thiếu gì lúc chúng ta có thể bảo ban, sửa dạy
con cái, nên đừng nhằm vào bữa cơm mà tố khổ và chửi bới lẫn
nhau.
BỮA CƠM HÔM
NAY
Ngày nay, với những tiến bộ của khoa học và
kỹ thuật, người ta đã chế tạo ra nhiều dụng cụ, giúp đỡ cho công
việc bếp núc được dễ dàng. Trước hết là cái nồi cơm điện.
Gã xin thanh minh thanh nga rằng cái nồi
cơm điện ở đây không phải là cái mũ an toàn phải đội lên đầu mỗi
khi ngồi trên xe gắn máy, mà là cái nồi thổi cơm bằng điện thứ
thiệc chính hiệu con nai vàng, có nhãn hiệu trình tòa hẳn hoi.
Với cái nồi cơm điện, người ta không còn
phải làm trải qua những công việc tỉ mỉ khi thổi một nồi cơm
như ngày xưa nữa, mà chỉ cần vo gạo, đổ nước và gạo vào nồi, rồi
cắm điện và ngồi chờ…cơm chín. Tuy nhiên, theo nhiều người nhận
xét, thì cơm được nấu trong nồi điện không ngon bằng cơm nấu
trong niêu đất hay nồi đồng, nồi gang với lửa củi và lửa rơm.
Tiếp đến là cái tủ lạnh, nhờ nó người ta
tiết kiệm được rất nhiều thời giờ. Mỗi tuần chỉ cần đi chợ một
hai lần mà thôi. Sau đó thực phẩm tươi sống được cất vào tủ lạnh
để ăn dần. Ngoài ra còn rất nhiều những dụng cụ khác nữa, như
bếp ga, lò nướng…giúp cho công việc bếp núc được dễ dàng và bớt
đi phần nào những vất vả nhọc nhằn.
Thêm vào đó là hệ thống siêu thị với những
thức ăn được chế biến sẵn, chỉ việc cho vào nồi mà đun, hay cho
vào chảo mà chiên, cùng với những hàng quán ở khắp nơi, chỉ việc
nhấc điện thoại là cơm nóng canh ngọt sẽ được phục vụ tận nhà,
khiến cho người phụ nữ không còn phải bận rộn nhiều đến góc bếp
của mình nữa.
Dầu vậy, nhiều bà nhiều cô hiện nay xem ra
lơ là phần nào cái bổn phận nữ công gia chánh của người nội trợ
và những bữa cơm gia đình mỗi ngày một trở nên khan hiếm và mất
dần ý nghĩa của nó. Sở dĩ như vậy là vì nhiều người phụ nữ hôm
nay được học hành đến nơi đến chốn và bước chân ra ngoài xã hội.
Nói một cách cụ thể hơn, người vợ hôm nay cũng phải đi làm như
người chồng. Một chị vợ đã phát biểu như sau:
- Tôi đi làm suốt cả ngày cũng đã mệt lắm
rồi, chiều về nhà lại phải chui đầu vào bếp nữa, thì làm sao
kham nổi. Huống chi còn phải tranh thủ giải quyết bữa cơm chiều
thật nhanh thật gọn để ban tối đến lớp học tại chức…
Tác giả Duy Thảo, trên báo “Phụ nữ Chủ nhật”
số 23 ra ngày 19.6.2005, đã ghi nhận như sau: “Cuộc sống tất bật
với biết bao nhiêu công việc, khiến người ta quên đi hương vị
của những bữa cơm gia đình. Dần dần, điều đó trở thành thói quen.
Người ta cho rằng: Ăn ở đâu mà chẳng được, miễn sao nạp đủ năng
lượng để tái sản xuất sức lao động. Có người bằng lòng với một
dĩa cơm bụi bên vỉa hè, sang hơn thì vào quán. Người khác thì
kêu cơm hộp, cũng có khi mọi người kéo nhau đi nhà hàng…
Có những nhà chẳng còn bữa cơm gia đình nữa.
Thí dụ một gia đình trẻ gồm có ba người. Ban sáng kéo nhau ra
quán ăn điểm tâm. Ban trưa người vợ và người chồng thì ăn cơm
nơi “căn tin” của cơ quan mình. Đứa nhỏ ăn cơm trong nhà trẻ.
Ban tối anh chồng thường về muộn vì còn bận tiếp khách hay la cà
ăn nhậu với bè bạn…
Có những nhà, bữa cơm gia đình tuy còn đấy,
nhưng lại mất đi sự ấm cúng của nó. Mỗi người một hộp cơm mua
sẵn, hay mỗi người một tô cơm, muốn ăn vào lúc nào thì ăn, hay
vừa ăn vừa ngó vô màn hình TV, vì anh chồng không thể bỏ qua
trận bóng đá, chị vợ không thể bỏ qua cuốn phim Hàn quốc và đứa
con không thể bỏ qua bộ phim hoạt hình…
Cũng theo tác giả Duy Thảo: Bữa cơm gia
đình không đơn giản chỉ là “đầu vào” cho cơ thể, nhưng còn là
nơi sum họp của các thành viên trong nhà. Những câu chuyện được
kể lại và từ đó những khúc mắc được giải tỏa, những ấm ức được
xoa dịu. Qua những bữa ăn, các ông chồng sẽ nắm rõ hơn giá cả
thị trường. Các bà vợ sẽ biết thêm tình hình thời sự thế giới.
Trong những gia đình hạnh phúc, tiếng cười tràn ngập bữa cơm.
Thực vậy, với bữa cơm gia đình, chúng ta
không phải chỉ chia sẻ cho nhau những thức ăn và đồ uống, là
nguồn sống cho cơ thể, mà còn chia sẻ cho nhau những tình cảm
chân thành, để những thành viên gần gũi và gắn bó với nhau hơn,
nhờ đó gia đình thực sự trở thành một mái ấm hạnh phúc.
Để kết luận, xin ghi lại nơi đây lời khuyên
của một người mẹ cho cô con gái sắp sửa lên xe hoa:
- Con phải giữ lửa trong căn bếp của gia
đình luôn ấm nóng, chứ đừng để nó nguội lạnh.
Gã Siêu
gasieu@gmail.com
|
VỀ MỤC LỤC |
|
- Mọi liên lạc: Ghi danh, thay đổi địa chỉ, đóng góp ý kiến,
bài vở..., xin gởi về địa chỉ
giaosivietnam@gmail.com
- Những nội dung sẽ được đề cao và chú ý bao gồm:
Trao đổi, chia sẻ những kinh nghiệm thực tế trong việc mục
vụ của Giáo sĩ; Những tài liệu của Giáo hội hoặc của các
Tác giả nhằm mục đích Thăng tiến đời sống Giáo sĩ; Cổ võ ơn
gọi Linh mục; Người Giáo dân tham gia công việc “Trợ lực
Giáo sĩ” bằng đời sống cầu nguyện và cộng tác trong mọi lãnh
vực; Mỗi Giáo dân phải là những “Linh mục” không có chức
Thánh; Đối thoại trong tinh thần Bác ái giữa Giáo dân và
Giáo sĩ… (Truyền giáo hay xây pháo đài?)
- Quy vị cũng có thể tham khảo những số báo đã phát hành tại
www.conggiaovietnam.net
Rất mong được sự cộng tác, hưởng ứng của tất cả Quí vị
Xin chân thành cám ơn tất cả anh chị em đã
sẵn lòng cộng tác với chúng tôi bằng nhiều cách thế khác
nhau.
TM. Đặc San Giáo Sĩ Việt Nam
Lm. Luca
Phạm Quốc Sử
USA
|
|
*************
|
|