Nguồn:
http://xuanbichvietnam.wordpress.com/2009/10/03/tong-huan-pastores-dabo-vobis/
CHƯƠNG III:
THẦN KHÍ CHÚA
NGỰ TRÊN TÔI
ĐỜI SỐNG THIÊNG LIÊNG CỦA LINH MỤC
Một lời mời
gọi loại biệt nên thánh.
19.
“Thần Khí Chúa ngự trên tôi” (Lc 4,18).
Thần Khí không chỉ ở trên Đấng Mêsia nhưng lấp đầy Ngài, thấm nhập vào Ngài, nối
kết với Ngài trong hữu thể và trong hành động của Ngài. Thật vậy, Thần Khí chính
là nguyên lý cho sự “thánh hiến” và cho “sứ vụ” của Đấng Mêsia; “vì Ngài đã xức
dầu thánh hiến tôi và đã sai tôi đi loan báo Tin Mừng cho người nghèo…” (Lc
4,18). Nhờ sức mạnh của Thần Khí, Đức Giêsu hoàn toàn thuộc về Thiên Chúa và chỉ
thuộc về Thiên Chúa, Ngài thông phần vào sự thánh thiện vô biên của Thiên Chúa
là Đấng mời gọi Ngài, tuyển chọn Ngài và sai phái Ngài. Bởi thế, Thần Khí Chúa
tự tỏ lộ như là nguồn mạch thánh thiện và lời mời gọi nên thánh.
Chính “Thần Khí
Chúa” ấy cũng ở “trên” toàn thể Dân Chúa, Dân được thiết lập thành dân “thánh
thiện” cho Thiên Chúa và được Thiên Chúa “sai đi” loan báo Tin Mừng cứu độ. Các
thành phần Dân Chúa “say sưa” với Thần Khí, “mang dấu ấn” của Thần Khí (x. 1Gr
12,13; 2Gr 1,21-22; Ep 1,13;4,30) và được mời gọi nên thánh.
Một cách đặc biệt,
Thần Khí mạc khải cho chúng ta và thông truyền cho chúng ta ơn gọi cơ bản
mà Chúa Cha từ muôn thuở ngỏ với mọi người : ơn gọi nên “thánh” và vô tì
vết trước mặt Ngài trong tình yêu”, do được tiền định “làm dưỡng tử của Ngài nhờ
Đức Giêsu Kitô” (Ep 1,4-5). Chẳng những mạc khải cho chúng ta và thông truyền
cho chúng ta ơn gọi ấy, Thần Khí còn trở nên trong chúng ta nguyên lý và
nguồn cội cho sự thực hiện ơn gọi ấy : là Thần Khí của Chúa Con (x. Gl 4,6),
Ngài làm cho chúng ta mặc hình dạng của Đức Kitô Giêsu và biến chúng ta thành
những người thông phần vào đời sống nghĩa tử của Đức Giêsu, nghĩa là vào đức ái
của Ngài đối với Chúa Cha và đối với đàn em. “Bởi vì Thần Khí là sức sống của
chúng ta, ước gì Thần Khí cũng làm cho chúng ta hành động” (Gl 5,25). Với những
lời vừa qua, thánh Tông Đồ Phaolô nhắc nhở cho chúng ta rằng đời sống của người
Kitô hữu là đời sống thiêng liêng, nghĩa là đời sống được thôi thúc và
dẫn dắt bởi Thần Khí, hướng đến sự thánh thiện và hướng đến đức ái trọn hảo.
Khẳng định của Công
Đồng: “Lời mời gọi sống viên mãn đời sống Kitô hữu và thực thi đức ái trọn hảo
được ngỏ đến mọi người tin vào Chúa Kitô, bất kể bậc sống hoặc lối sống của họ”
(40), được áp dụng một cách đặc biệt cho các linh mục: các linh mục được mời
gọi, chẳng những với tư cách thụ nhân của bí tích Rửa tội nhưng còn, một cách
loại biệt, với tư cách linh mục, hiểu như một tước hiệu mới và tùy theo những
thể thức riêng, bắt nguồn từ bí tích Truyền Chức Thánh.
20.
Về vấn đề “đời sống thiêng liêng” của
linh mục, về ơn thánh thiện và về ơn có trách nhiệm nên “thánh”, Sắc Lệnh công
đồng về chức vụ và đời sống linh mục cung cấp cho chúng ta một tổng hợp phong
phú và khích lệ: “Các linh mục trở thành thừa tác viên của Chúa Kitô là Đầu để
xây dựng và kiến thiết trọn vẹn Thân Thể là Giáo Hội, với tư cách cộng sự viên
của Hàng Giám Mục : chính với tước hiệu ấy mà bí tích Truyền Chức Thánh mặc cho
các linh mục hình dạng của Chúa Kitô Linh Mục. Chắc hẳn, được bí tích Rửa tội
thánh hiến, các linh mục đã lãnh nhận như mọi Kitô hữu khác dấu chỉ và ân huệ về
một ơn gọi và một ân sủng nhờ đó, dù bản tính nhân loại yếu hèn, các linh mục có
khả năng và có đòi buộc phải theo đuổi sự trọn hảo, đúng như lời Chúa phán: “Các
con hãy nên trọn hảo như Cha các con trên trời là Đấng trọn hảo” (Mt 5,48). Sự
trọn hảo này, các linh mục có trách nhiệm đạt tới với một danh nghĩa riêng: các
linh mục nhận Chức Thánh, có nghĩa là đã được thánh hiến bằng một thể thức mới
để làm khí cụ sống động cho Đức Kitô Linh Mục Đời Đời, được trang bị để qua các
thời dại nối tiếp hoạt động kỳ diệu của Chúa, hoạt động nhằm phục hưng toàn vẹn
cộng đoàn nhân loại trong quyền năng tối cao của Ngài. Linh mục nào cũng vậy,
một khi đóng vai trò thay mặt Chúa Kitô bằng cách thế của mình thì do sự kiện ấy
được phú ban thêm một ơn riêng nữa; ơn này giúp cho linh mục, nhờ phục vụ những
người được giao phó cho mình và phục vụ toàn thể Dân Chúa, lúc nào cũng hướng
đến sự trọn hảo của Đấng mình đại diện cho; cũng chính nhờ vào ơn này mà sự yếu
đuối của con người xác thịt nơi linh mục được cứu chữa nhờ sự thánh thiện của
Đấng đã trở thành Linh Mục Thượng Phẩm “thánh thiện, vô tội, không tì vết, tách
biệt khỏi tội nhân” cho chúng ta (Dt 7,26) (41).
Công đồng trước hết
khẳng định ơn gọi nên thánh phổ quát. Ơn gọi này bắt nguồn từ bí tích Rửa
tội là bí tích đóng ấn cho linh mục làm “tín hữu” (Christifidelis), làm
“anh em giữa những người anh em”, được hội nhập và liên kết làm một với Dân
Chúa, trong niềm vui san sẻ các ơn thiêng cứu độ (x. Ep 4,4-6) và với bổn phận
cùng nhau bước đi “trong đường lối Chúa Thánh Thần” theo chân Đức Chúa và Thầy
duy nhất. Chúng ta đừng quên lời nói nổi danh của thánh Augustinô: “Đối với anh
em, tôi là giám mục; cùng với anh em, tôi là Kitô hữu. Tên gọi trước là để chỉ
chức vụ lãnh nhận, tên gọi sau là để chỉ ân sủng; tên gọi trước gắn liền với
hiểm nguy, tên gọi sau kết chặt với ơn cứu độ” (42).
Cũng minh bạch như
thế, Công đồng còn bàn về một ơn gọi nên thánh “loại biệt”, nói đúng hơn
về một ơn gọi đặt nền tảng trên bí tích Truyền Chức Thánh, xét như là bí tích
dành riêng cho linh mục, nghĩa là nhân danh sự thánh hiến mới cho Thiên Chúa nhờ
việc thụ phong. Đối với ơn gọi loại biệt này, thánh Augustinô cũng có ý ám chỉ
khi tiếp tục lời khẳng định “đối với anh em, tôi là giám mục; cùng với anh em
tôi là Kitô hữu” bằng những lời lẽ sau: “Nếu như cùng chung sống với anh em
trong tư cách người được cứu chuộc làm cho tôi cảm thấy vui mừng hơn là được cắt
đặt đứng đầu anh em thì, khi tuân giữ lệnh truyền của Chúa, tôi sẽ cố công phục
vụ anh em sao cho hết mực tận tâm để không phụ bạc đối với Đấng đã cứu chuộc tôi
với giá làm cho tôi nên người tôi tớ của anh em” (43).
Trong phần tiếp
theo, bản văn công đồng nêu dẫn một vài yếu tố cần thiết để xác định nội dung
loại biệt gồm chứa trong đời sống thiêng liêng của các linh mục. Các yếu tố ấy
gắn liền với sự “ thánh hiến” của riêng các linh mục, làm cho các linh mục nên
đồng hình dạng với Đức Giêsu Kitô là Đầu và Mục Tử của Giáo Hội. Các yếu tố ấy
gắn liền với “sứ vụ” hay thừa tác vụ riêng của chính các linh mục, trang bị cho
các linh mục để các linh mục dấn thân và trở nên “khí cụ sống động của Đức Kitô
Linh Mục Đời Đời” và để các linh mục hành động “nhân danh và thay mặt cho chính
Đức Kitô”; các yếu tố ấy cũng gắn liền với toàn thể “đời sống” các linh mục qua
đó các linh mục có trách nhiệm biểu lộ và làm chứng một cách độc đáo “tính triệt
để Tin Mừng” (44).
Nên đồng
hình dạng với Đức Giêsu Kitô Đầu và Mục Tử. Đức ái mục vụ.
21.
Nhờ được thánh hiến bởi bí tích, linh
mục nên đồng hình dạng với Đức Giêsu xét như là Đầu và Mục Tử, linh mục lãnh
nhận ơn “có quyền thiêng liêng”, nghĩa là thông chia quyền bính qua đó Đức Giêsu
Kitô dẫn dắt Giáo Hội nhờ Thần Khí Ngài (45).
Nhờ vào sự thánh
hiến ấy, sự thánh hiến được thực hiện do việc tuôn đổ Thần Khí trong bí tích
Truyền Chức Thánh, đời sống thiêng liêng của linh mục được đóng ấn, được uốn nắn
và được đánh dấu bởi những cách ứng xử của chính Đức Kitô là Đầu và Mục Tử Giáo
Hội, những cách ứng xử được gồm tóm trong đức ái mục vụ của linh mục.
Đức Giêsu Kitô là
Đầu của Giáo Hội, Thân Thể Ngài. Ngài là “Đầu” với ý nghĩa mới và độc đáo,
là “tôi tớ”, như chính Ngài đã nói: “Cũng vậy, Con Người đến không phải để được
phục vụ nhưng để phục vụ và hiến ban mạng sống làm giá chuộc muôn dân” (Mc
10,45). Công cuộc phục vụ của Đức Giêsu đạt mức viên mãn bằng cái chêt trên thập
giá, nghĩa là bằng sự hiến ban trọn vẹn chính mình trong khiêm hạ và tình yêu:
“Ngài đã tự hoá mình thành hư vô bằng cách mang lấy thân phận nô lệ và trở nên
giống người phàm. Chẳng những xử sự như một con người, Ngài còn tự hạ hơn nữa,
bằng cách vâng phục cho đến chết và chết trên thập giá…” (Pl 2,7-8). Như thế,
quyền bính của Đức Giêsu Kitô là Đầu ăn khớp với việc phục vụ của Ngài, với sự
trao hiến trọn vẹn chính mình Ngài, khiêm nhượng và đầy tình thương yêu, cho
Giáo Hội. Tất cả đều nằm trong sự hoàn toàn vâng phục Chúa Cha : Ngài là người
Tôi Tớ đau khổ duy nhất và đích thực của Chúa, đồng thời là Tư Tế và là Của Lễ.
Đời sống thiêng
liêng của mỗi linh mục phải được thôi thúc và trở nên sống động bởi chính thể
loại quyền bính hay phục vụ ấy đối với Giáo Hội, và đó đúng là đòi hỏi do việc
linh mục nên đồng hình dạng với Đức Giêsu Kitô là Đầu và nên đầy tớ của Giáo Hội
(46). Chính trong chiều hướng ấy mà thánh Augustinô ngỏ lời với một giám mục
trong ngày tấn phong như sau: “Người đứng đầu trên dân trước hết phải biết rằng
mình là tôi tớ của nhiều người. Đừng khinh chê, tôi xin lặp lại, người đứng đầu
trên dân đừng khinh chê việc trở nên tôi tớ cho nhiều người bởi vì Chúa các Chúa
đã không khinh chê việc trở nên tôi tớ cho chúng ta” (47).
Đời sống thiêng
liêng của các thừa tác viên Tân Ước phải được đóng ấn bằng thái độ tiên khởi ấy,
thái độ phục vụ đối với dân Thiên Chúa (x. Mt 20,24-28; Mc 10,43-44), và phải
được loại trừ khỏi mọi cao ngạo và mọi tham vọng “làm vua làm chúa” trên đoàn
chiên được giao phó (x. 1Pr 5,2-3). Hoàn thành công việc phục vụ một cách tự
nguyện và sẵn lòng : bằng cách ấy, các thừa tác viên — các “niên trưởng” trong
cộng đoàn, tức các linh mục — sẽ có thể là “mô hình” của đoàn chiên và đoàn
chiên, đến lượt mình, được mời gọi đảm nhận cùng một thái độ tư tế và phục vụ ấy
đối với toàn thể thế giới để cho con người được triển nở đầy đủ và được giải
thoát toàn vẹn.
22.
Hình ảnh của Đức Giêsu Kitô Mục Tử
của Giáo Hội, đoàn chiên Ngài, lấy lại và biểu trưng cùng những ý nghĩa như
hình ảnh Đức Giêsu Kitô Đầu và Tôi Tớ, nhưng với những đường nét mới hơn và gợi
cảm hơn. Thực hiện lời sấm về Đấng Mêsia Cứu Độ mà ngôn sứ Êdêkien và tác giả
thánh vịnh trong kinh nguyện đã vui mừng hát lên (x. Tv 23/22; Ed 34,11-16),
chính Đức Giêsu tự giới thiệu mình là “Mục Tử Nhân Lành” (Ga 10,11.14) chẳng
những của dân Ítraen mà của mọi người (x. Ga 10,16). Đời sống của Ngài là biểu
hiện liên lỉ và còn là sự thực hiện thường nhật “đức ái mục vụ” của Ngài: Ngài
động lòng thương xót đám đông bởi vì bọ mỏi mệt và kiệt sức như những con chiên
không có người chăn (x. Mt 9,35-36); Ngài đi tìm những con chiên thất lạc và tản
mác (x. Mt 18,12-14), và Ngài reo vui một khi tìm được chúng; Ngài qui tụ chúng
lại và bảo vệ chúng; Ngài biết chúng và gọi chúng từng con một (x. Ga 10,3);
Ngài dẫn dắt chúng trên những đồng cỏ xanh tươi, tiến về những dòng suối nước êm
đềm (x. Tv 23/22); Ngài dọn bàn ăn cho chúng, lấy chính mạng sống mình mà nuôi
chúng. Vị Mục Tử Nhân Lành hiến ban mạng sống mình, bằng cái chết và sự phục
sinh của Ngài, như phụng vụ la mã của Giáo Hội đã hát lên: “Ngài đã sống lại,
Đức Giêsu, Vị Mục Tử chân chính, Đấng đã hiến ban mạng sống mình vì đoàn chiên,
Đấng đã chọn lựa cái chết để cứu chúng ta. Alleluia” (48).
Thánh Phêrô gọi Đức
Giêsu là “Thủ Lãnh các mục tử” (1Pr 5,4) vì công trình của Ngài và sứ vụ của
Ngài được nối tiếp trong Giáo Hội bởi các Tông Đồ (x. Ga 21,15-17) và bởi những
người kế nhiệm các ngài (x. 1Pr 5,1-4), các linh mục. Do tác dụng của việc thánh
hiến, các linh mục được nên đồng hình dạng với Đức Giêsu Mục Tử Nhân Lành và
được mời gọi sao chép bằng cuộc sống đức ái mục vụ của Ngài.
Sự trao hiến mà Đức
Kitô tự mình dành cho Giáo Hội, hoa trái của tình yêu Ngài, mang ý nghĩa độc đáo
của sự trao hiến giữa vợ và chồng, như hơn một lần các bản văn sách thánh đã gợi
lên. Đức Giêsu là Phu Quân đích thực trao tặng rượu cứu độ cho Giáo Hội
(x. Ga 2,11). Là “Đầu của Giáo Hội, là Đấng Cứu Độ của Thân Thể” (Ep 5,23), Ngài
đã yêu mến Giáo Hội và đã nộp mình vì Giáo Hội, ngõ hầu thánh hoá Giáo Hội bằng
cách thanh tẩy Giáo Hội bởi việc tắm nước kèm theo lời đọc; bởi vì Ngài muốn tự
đem đến cho mình một Giáo Hội thật rạng rở, không tì vết, không nhăn nheo hoặc
tương tự, nhưng thánh thiện và không vương nhiễm” (Ep 5,25-27). Chắc hẳn, Giáo
Hội là thân thể trong đó với tư cách là Đầu Đức Kitô hiện diện và hành động,
nhưng Giáo Hội còn là Hiền Thê như một Evà mới được dựng nên từ cạnh sườn bị đâm
thủng của Đấng Cứu chuộc trên Thập Giá. Chính vì thế, Đức Kitô đứng “trước” Giáo
Hội, “dưỡng nuôi Giáo Hội và chăm sóc Giáo Hội” (x. Ep 5,29) bằng việc trao hiến
mạng sống mình cho Giáo Hội. Linh mục được mời gọi trở nên hình ảnh sống động
của Đức Giêsu Kitô, Phu Quân của Giáo Hội : (49) dĩ nhiên, linh mục vẫn luôn ở
trong cộng đoàn và thuộc về cộng đoàn, với tư cách là tín hữu, liên kết với mọi
anh chị em được qui tụ với nhau nhờ Thần Khí; nhưng, do tác dụng của việc nên
đồng hình dạng với Đức Kitô Đầu và Mục Tử, linh mục được đặt trong tình huống
phu thê ấy, đối diện với cộng đoàn. “Với tư cách đại diện cho Chúa Kitô là Đầu,
Mục Tử và Hiền Thê của Giáo Hội, linh mục chẳng những chiếm vị trí trong Giáo
Hội nhưng còn đối diện với Giáo Hội (50). Chính vì thế, trong đời sống thiêng
liêng của mình, linh mục được mời gọi bằng cuộc sống sao chép tình yêu của Đức
Kitô Phu Quân đối với Giáo Hội Hiền Thê. Như vậy, đời sống của linh mục phải
được chiếu tỏa và được định hướng bởi tính chất phu thê ấy và bởi đó phải làm
chứng cho tình yêu phu thê của Đức Kitô; nhờ đó, linh mục sẽ có khả năng yêu mến
người ta với một con tim mới, lớn rộng và trong vắng, với sự siêu thoát chân
chính đối với chính mình, trong một sự trao hiến chính mình hoàn toàn, liên tục
và chân thành. Và linh mục sẽ cảm nghiệm như thế một “ganh tị” thần thiêng (x.
2Cr 11,2), với một niềm âu yếm thậm chí được điểm tô bằng những sắc thái của
tình mẫu tử, nhờ đó có khả năng chịu đựng, những “đau đớn do việc sinh con”, cho
tới khi “ Đức Kitô được thành hình” trong các tín hữu (x. Gl 4,19).
23.
Nguyên lý nội tại, nhân đức thôi thúc và
hướng dẫn đời sống thiêng liêng của linh mục, xét như đã nên đồng hình dạng với
Đức Kitô Đầu và Mục Tử, chính là đức ái mục vụ, thông phần vào đức ái mục
vụ của Đức Kitô Giêsu: đó là ơn nhưng không của Chúa Thánh Thần và, đồng
thời về phía linh mục, là sự dấn thân và lời mời gọi để đáp trả tự do và có
trách nhiệm.
Cốt lõi của đức ái
mục vụ là trao hiến chính mình, trao hiến hoàn toàn cho Giáo
Hội, theo hình ảnh sự trao hiến của Đức Kitô và thông phần với Ngài. “Đức ái
mục vụ là nhân đức nhờ đó chúng ta noi gương Chúa Kitô trong sự trao hiến của
Ngài và trong việc phục vụ của Ngài. Không phải chỉ những việc chúng ta làm,
nhưng là việc chúng ta trao hiến chính mình mới biểu lộ tình yêu của Đức
Kitô dành cho đoàn chiên của Ngài. Đức ái mục vụ ấn định cho chúng ta cách thế
suy nghĩ và hành động, phương thức quan hệ với người đời. Điều ấy rất là đòi hỏi
đối với chúng ta…” (51).
Sự trao hiến chính
mình, cội rễ và chóp đỉnh của đức ái mục vụ, nhắm đối tượng là Giáo Hội. Điều
này ứng dụng cho Đức Kitô “Đấng đã yêu mến Giáo Hội và đã nộp mình cho Giáo Hội”
(Ep 5,25). Linh mục cũng phải làm như vậy. Với đức ái mục vụ thấm nhuần vào việc
thực thi thừa tác vụ linh mục, như một “tác vụ tình yêu” (52), “linh mục,
một khi đón nhận ơn gọi thi hành tác vụ, có nhiệm vụ làm cho ơn gọi ấy trở thành
một lựa chọn do tình yêu, nhờ đó Giáo Hội và các linh hồn trở thành mối lợi
chính yếu của linh mục. Sống đường thiêng liêng ấy một cách cụ thể, linh mục sẽ
có khả năng yêu mến Giáo Hội phổ quát và thành phần Giáo Hội được giao phó cho
mình, với tất cả sự nồng nhiệt của một người chồng đối với vợ mình” (53). Sự
trao hiến chính mình không có biên giới, được đánh dấu bởi chính nhiệt tâm tông
đồ và truyền giáo của Đức Kitô, vị Mục Tử Nhân Lành, Đấng đã nói: “Ta còn nhiều
chiên khác chưa thuộc về chuồng nầy; những chiên ấy, Ta phải dẫn chúng về; chúng
sẽ nghe tiếng Ta và sẽ chỉ có một đoàn chiên và một mục tử mà thôi” (Ga 10,16).
Bên trong cộng đoàn
Giáo Hội, đức ái mục vụ của linh mục yêu cầu và đòi hỏi, một cách riêng rẽ và
loại biệt, linh mục phải giữ quan hệ ngôi vị với linh mục đoàn, trong sự lệ
thuộc giám mục và cùng với giám mục, như Công đồng đã minh thị phát biểu: “Đức
ái mục vụ đòi buộc các linh mục, nếu như không muốn chạy đua cách vô ích, phải
làm việc bằng cuộc sống trong sự hiệp thông trường kỳ với các giám mục và với
các anh em khác trong hàng linh mục” (54).
Sự trao hiến chính
mình cho Giáo Hội liên quan tới Giáo Hội với tư cách Giáo Hội là thân thể và là
Hiền Thê của Đức Giêsu Kitô. Chính vì thế, đức ái của linh mục trước hết
được nối kết với đức ái của Chúa Giêsu Kitô. Chỉ khi nào yêu mến và phục vụ Chúa
Kitô Đầu và Phu Quân thì đức ái mới trở nên nguồn cội, tiêu chuẩn, thước đo,
động lực cho tình yêu và cho công việc phục vụ của linh mục đối với Giáo Hội,
Thân Thể và Hiền Thê của Chúa Kitô. Đó chính là điều mà Thánh Tông Đồ Phaolô ý
thức một cách tinh tường và mạnh mẽ, ngài viết cho các Kitô hữu thuộc Giáo Hội
Corintô như sau: “Phần chúng tôi, chúng tôi chỉ là những người làm đầy tớ cho
anh em vì Đức Giêsu” (2 Cr 4,5). Nhất là lời giảng dạy minh thị của Đức Giêsu,
Ngài chỉ giao cho Phêrô tác vụ chăn dắt đoàn chiên của ngài sau ba lần làm chứng
về tình yêu, thậm chí về một tình yêu trổi vượt: “Ngài nói với Phêrô lần thứ ba
‘Simon, con Gioan, con có yêu mến Ta không?’ Phêrô… nói với Ngài: ‘Lạy Chúa,
Chúa biết hết mọi sự; Chúa biết rõ con yêu Chúa’. Đức Giêsu nói với ông: ‘Hãy
chăn dắt các chiên của Ta’” (Ga 21,17).
Đặc biệt bắt nguồn
từ bí tích Truyền Chức Thánh, đức ái mục vụ sẽ được biểu hiện tròn đầy và sẽ tìm
được lương thực chính yếu nơi bí tích Thánh Thể: “Đức ái mục vụ — theo
như chúng ta đọc thấy trong Công Đồng — cốt nhất này sinh từ hy lễ Thánh Thể;
như vậy, hy lễ Thánh Thể là trung tâm và là cội rễ của toàn thể đời sống linh
mục, tinh thần của linh mục phải là cố gắng làm sao nội tâm hoá tất cả những gì
được thực hiện trên bàn thờ hiến tế” (55). Thực vậy, chính trong bí tích Thánh
Thể mà được tái diễn — nói cho chính xác hơn, được hiện tại hoá lần nữa — hy lễ
Thập Giá, sự trao hiến hoàn toàn của Chúa Kitô cho Giáo Hội, sự trao hiến bằng
Mình bị nộp và Máu đổ ra của Ngài, như là chứng từ tuyệt hảo cho phẩm vị làm Đầu
và Mục Tử của Ngài, làm Tôi Tớ và Hiền Thê cho Giáo Hội. Rõ ràng chính vì thế mà
đức ái mục vụ của linh mục chẳng những nảy sinh từ bí tích Thánh Thể mà còn tìm
được nơi việc cử hành bí tích Thánh Thể sự thực hiện cao độ nhất. Cũng vậy,
chính từ bí tích Thánh Thể mà linh mục nhận được ơn và trách nhiệm mặc cho toàn
thể cuộc sống mình một ý nghĩ “hi tế”.
Cũng chính đức ái
mục vụ ấy làm thành nguyên lý nội tại và năng động có khả năng thống nhất những
sinh hoạt khác biệt và đa tạp của linh mục. Nhờ đức ái mục vụ, có thể thực hiện
được đòi hỏi cốt yếu và trường kỳ phải thống nhất đời sống nội tâm với nhiều
hoạt động và trách nhiệm thuộc chức vụ. Lại nữa, hơn bao giờ hết, đòi hỏi ấy rất
khẩn thiết trong một bối cảnh văn hoá xã hội và Giáo Hội được đánh dấu mạnh mẽ
bởi sự đa phức, sự phân chia thành mảng và sự tản mác. Chỉ bằng cách ráp nối
từng thời khắc và từng hành vi nào trong lựa chọn cơ bản, lựa chọn “hiến ban
mạng sống mình vì đoàn chiên”, người ta mới có thể chắc chắn tạo được sự thống
nhất sống còn ấy, sự thống nhất cần thiết để cho đời sống linh mục được hoà điệu
và quân bình : “Để có thể xây dựng sự thống nhất đời sống, các linh mục, trong
khi thi hành chức vụ, phải noi gương Chúa Kitô; lương thực của Ngài là thực thi
ý muốn của Đấng đã sai Ngài và hoàn thành công trình của Đấng ấy… Sống bằng
chính đời sống của Vị Mục Tử Nhân Lành như thế, các linh mục, khi thực hành đức
ái mục vụ, sẽ tìm được mối giây trọn hảo linh mục, hầu làm cho đời sống và hoạt
động của mình được thống nhất” (56).
Đời sống
thiêng liêng trong việc thi hành thừa tác vụ.
24.
Thần Khí Chúa đã thánh hiến Đức
Kitô và đã sai Ngài đi loan báo Tin Mừng (x. Lc 4,18). Sứ vụ không phải là một
yếu tố bên ngoài song song với việc thánh hiến, nhưng là cùng đích nội thuộc và
sống còn của việc thánh hiến: thánh hiến là thánh hiến cho sứ vụ. Bằng
cách ấy, không chỉ việc thánh hiến nhưng
cả sứ vụ đều ở dưới dấu hiệu và sức mạnh thánh hoá
của Thần Khí.
Điều này đã nghiệm
đúng đối với Đức Giêsu. Điều này cũng đã nghiệm đúng với các Tông Đồ và những
người kế nhiệm các Tông Đồ. Điều này nghiệm đúng với đối với toàn thể Giáo Hội,
và, trong Giáo Hội, đối với các linh mục: tất cả đều lãnh nhận Thần Khí như là
lời mời gọi và như là ơn thánh hoá trong và bởi việc chu toàn sứ vụ của mình
(57).
Như vậy, giữa đời
sống thiêng liêng của linh mục và việc thực hành chức vụ của linh mục, có một
mối tương quan mật thiết (58) mà Công Đồng diễn tả như sau: “Trong khi thi hành
thừa tác vụ của Thần Khí và của sự công chính (x. 2Cr 3,8-9), các linh mục bén
rễ sâu trong đời sống thiêng liêng, miễn sao các ngài niềm nở đón nhận Thần Khí
Chúa Kitô, Đấng ban sự sống cho các ngài và hướng dẫn các ngài. Những yếu tố
được phối trí để cho đời sống các ngài nên trọn hảo, đó là các hành vi phụng vụ
mỗi ngày của các ngài, là trọn vẹn thừa tác vụ của các ngài được thực thi trong
mối hiệp thông với Giám mục và với các linh mục. Đàng khác, sự thánh thiện của
các linh mục là một đóng góp cốt yếu làm cho thừa tác vụ mà các ngài chu toàn
được hữu hiệu” (59).
“Anh em hãy sống
điều mà anh em sẽ chu toàn và hãy uốn mình cho phù hợp với mầu nhiệm Thập Gía
của Chúa!”. Đó là lời mời, là
huấn dụ mà Giáo Hội ngỏ với các linh mục trong nghi thức phong chức khi lễ vật
của dân thánh dành cho hy lễ thánh thể được trao cho linh mục. “Mầu nhiệm” mà
linh mục là “người phân phát” (x. 1Cr 4,1) cuối cùng chính là Đức Giêsu Kitô,
Đấng, trong Thần Khí, là nguồn mạch thánh thiện và là lời mời gọi thánh hoá.
“Mầu nhiệm” phải nằm giữa lòng đời sống thường nhật của linh mục. Bởi đó, có đòi
buộc phải cảnh tỉnh thật sự và phải ý thức bén nhạy. Cũng trong nghi thức phong
chức, trước những lời vừa nêu dẫn trên đây, có lời khuyên nhủ như sau: “Anh em
hãy ý thức những việc anh em sẽ làm”. Chính thánh Phaolô đã cảnh giác giám mục
Timôthê: “Con chớ khinh thường ơn huệ thiêng liêng ở trong con” (1 Tm 4,13; x.
2Tm 1,6).
Tương quan giữa đời
sống thiêng liêng và việc thi hành thừa tác vụ linh mục cũng có thể được giải
thích khởi từ đức ái mục vụ mà bí tích Truyền Chức Thánh ban cho. Thừa tác vụ
của linh mục, chính bởi vì thông phần vào thừa tác vụ cứu độ của Đức Giêsu Kitô
Đầu và Mục Tử, không thể không hiện tại hoá đức ái mục vụ của linh mục, đức ái
mà linh mục vừa phải coi là nguồn mạch và vừa phải lấy làm tinh thần cho công
việc phục vụ cũng như cho sự tự hiến của mình. Xét theo thực thể khách quan,
thừa tác vụ linh mục là “amoris officium”, như kiểu nói đã được trích dẫn
của thánh Augustinô; thực thể khách quan ấy được coi đúng là nền tảng và là lời
mời gọi hướng đến một ethos tương ứng, ethos ấy chỉ có thể là
ethos của tình yêu, như lời thánh Augustinô: “Sit amoris officium pascere
dominicum gregem” (60). Ethos ấy, đời sống thiêng liêng của linh mục,
không là gì khác hơn sự đón nhận “chân lý” của thừa tác vụ linh mục, được coi là
amoris officium, trong ý thức và trong tự do, và bởi đó trong trí óc và
con tim, trong những quyết định và những hành động.
25.
Điều thiết yếu, đối với một đời sống
thiêng liêng được triển nở trong việc thi hành thừa tác vụ, là linh mục phải
không ngừng canh tân và luôn luôn đào sâu hơn nữa ý thức của mình về việc làm
thừa tác viên của Đức Giêsu Kitô, nhờ tác dụng của việc thánh hiến bằng bí
tích và của việc nên đồng hình dạng với Đức Kitô Đầu và Mục Tử của Giáo Hội. Ý
thức ấy không chỉ tương ứng với bản chất thực sự của sứ vụ mà linh mục chu toàn
nhằm lợi ích cho Giáo Hội và cho nhân loại, nhưng còn tạo thành đời sống thiêng
liêng cho linh mục chu toàn sứ vụ ấy. Quả vậy, linh mục được Đức Kitô chọn,
không phải như một “đồ vật” nhưng như một “nhân vị”; linh mục không phải là một
công cụ ù lì và thụ động nhưng là một “khí cụ sống động” như lời Công Đồng khi
nói về đòi buộc hướng đến sự trọn lành (61). Cũng chính Công đồng trình bày các
linh mục như là “những người liên kết và những cộng tác viên” của một Thiên Chúa
“thánh thiện và thánh hoá” (62).
Trong chiều hướng
ấy, con người của của linh mục với ý thức, tự do và trách nhiệm được lôi cuốn
sâu đậm vào trong việc thi hành thừa tác vụ. Được bảo đảm do việc thánh hiến và
việc nên đồng hình dạng phát xuất từ bí tích Truyền Chức Thánh, mối dây nối kết
với Đức Giêsu Kitô xây dựng và đòi hỏi từ phía linh mục một mối dây khác, đó là
“ý hướng”, là ý muốn có ý thức và tự do làm điều mà Giáo Hội muốn làm, bằng hành
vi thừa tác. Mối dây ấy tự bản chất đời phải trở nên bao quát nhất và sâu xa
nhất trong mức độ có thể, phải đem trí tuệ, tình cảm, đời sống, hay nói một cách
vắn tắt, một chuỗi những trạng thái luân lý và thiêng liêng tương ứng vào trong
các hành vi thừa tác mà linh mục chu toàn.
Chắc chắn thừa tác
vụ linh mục, cách riêng việc cử hành các bí tích, đón nhận hiệu năng cứu độ từ
chính hoạt động của Đức Giêsu Kitô là hoạt động được hiện tại hoá trong các bí
tích. Nhưng, do bởi một kế hoạch của Thiên Chúa nhằm tuyên dương tính nhưng
không tuyệt đối của ơn cứu độ, và khi làm cho con người vừa nên “người được cứu”
vừa nên “vị cứu tinh” — luôn luôn và duy chỉ với Đức Giêsu Kitô — hiệu năng của
việc thi hành thừa tác vụ còn tùy thuộc vào mức độ tham gia của con người và mức
độ đón nhận nữa (63). Cách riêng, nếu trong một mức độ nào đó, thừa tác viên
thực sự thánh thiện, thì sự thánh thiện ấy có ảnh hưởng đích thực trên cách mà
thừa tác viên loan báo lời, cử hành các bí tích và hướng dẫn cộng đoàn trong đức
ái. Và đó chính là điều mà Công Đồng quả quyết một cách rõ rệt: “Chính sự thánh
thiện của các linh mục là một đóng góp cốt yếu làm cho thừa tác vụ mà các ngài
chu toàn được hữu hiệu; chắc hẳn ơn thánh của Thiên Chúa có thể hoàn thành công
trình cứu độ ngay cả bởi những thừa tác viên bất xứng nhưng, thông thường, Thiên
Chúa ưa thích biểu lộ những sự việc cao cả của Ngài qua những con người niềm nở
và ngon ngùy đối với sự thúc đẩy và dẫn dắt của Chúa Thánh Thần, qua những con
người sống kết hiệp mật thiết với Chúa Kitô và sống đời sống thánh thiện nhờ đó
có thể nói như Thánh Tông Đồ: “Nếu tôi sống thì không còn phải là tôi sống,
nhưng là Chúa Kitô sống trong tôi” (Gl 2,20)” (64).
Ngay trong ý thức
về việc mình là thừa tác viên của Đức Giêsu Kitô Đầu và Mục Tử, còn có niềm vui
vì đã lãnh nhận từ Đức Giêsu Kitô một ân sủng riêng biệt : ân sủng do đã được
Chúa chọn làm “khí cụ sống động” cho công trình cứu độ. Sự lựa chọn ấy chứng tỏ
tình yêu của Đức Giêsu Kitô dành cho linh mục. Lớn hơn tất cả mọi tình yêu khác,
tình yêu ấy đòi phải đáp trả. Sau khi sống lại, Đức Giêsu đặt ra cho Phêrô câu
hỏi cơ bản về tình yêu: “Simon con ông Gioan, con có yêu mến Ta hơn những người
này không?”. Sau khi Phêrô trả lời, sứ vụ mới được giao phó: “Hãy chăn dắt các
chiên mẹ của Ta” (Ga 21,15). Để có thể giao cho Phêrô đoàn chiên của Ngài, trước
đó Đức Giêsu hỏi xem Phêrô có yêu mến Ngài không. Nhưng thực ra, đó là tình yêu
tự do và đi trước của chính Đức Giêsu đã thúc đẩy Ngài đặt câu hỏi ấy cho Phêrô
và rồi giao phó cho Vị Tông Đồ các chiên “của Ngài”. Bởi đó, bất cứ hành vi thừa
tác nào, trong khi dẫn đến việc yêu mến và phục vụ Giáo Hội, cũng thúc đẩy để có
sự chín muồi ngày càng hơn trong tình yêu và trong việc phục vụ Đức Kitô Đầu,
Mục Tử và Phu Quân của Giáo Hội; tình yêu ấy luôn luôn được coi là sự đáp trả
lại tình yêu đi trước, tự do và hào phóng của Thiên Chúa trong Đức Kitô. Đàng
khác, sự tăng triển trong tình yêu đối với Đức Giêsu Kitô lại định hình cho sự
tăng triển trong tình yêu đối với Giáo Hội: “Chúng tôi chăn dắt anh em
(pascimus vobis); cùng với anh em, chúng tôi được chăn dắt (pascimur
vobiscum). Nguyện xin Chúa ban cho chúng tôi sức mạnh để yêu mến anh em đến
độ có thể chết cho anh em, hoặc bằng hiệu quả bên ngoài hoặc bằng tâm hồn bên
trong (aut effectu aut affectu)” (65).
26.
Nhờ lời giáo huấn quí giá của Công Đồng
Vaticanô II (66), chúng ta có thể nắm vững được những điều kiện, những đòi buộc,
những thể loại và những thành quả của mối tương quan mật thiết phải có giữa đời
sống thiêng liêng của linh mục với việc thi hành ba thừa tác vụ của linh mục:
Lời Chúa, các Bí Tích và công việc phục vụ trong Đức Ái. Trước hết linh mục là
thừa tác viên Lời Chúa. Linh mục được hiến thánh và sai đi để loan báo
Tin Mừng Nước Trời cho mọi người, mời gọi mọi người vâng phục đức tin và hướng
dẫn các tín hữu để mỗi ngày họ một hiểu biết và thông hiệp sâu xa hơn vào mầu
nhiệm của Thiên Chúa, đã được Đức Kitô mạc khải và truyền đạt cho chúng ta. Vì
thế, chính linh mục trước tiên phải tạo được một mối thâm tình sâu đậm giữa bản
thân mình với Lời Chúa. Khía cạnh ngữ học hoặc chú giải mặc dầu cần thiết vẫn
chưa đủ để gọi là hiểu biết Lời Chúa. Linh mục phải đón nhận Lời Chúa với một
tấm lòng mềm mại và nguyện cầu để cho Lời Chúa thấm nhập đến tận đáy thẳm ý nghĩ
và tình cảm của mình và làm nảy sinh nơi mình một tinh thần mới, làm nảy sinh
“tư tưởng của Chúa” (1 Cr 2,16). Bởi đó, những lời nói và hơn nữa những lựa
chọn, những thái độ của linh mục phải làm sao để ngày càng nên trong suốt hơn
đối với Tin Mừng, để loan báo Tin Mừng và làm chứng cho Tin Mừng. Chỉ bằng cách
“ở” trong Lời Chúa mà linh mục có thể trở nên môn đệ hoàn hảo của Chúa, có thể
thấu triệt chân lý và có thể thực sự trở nên tự do, vượt qua mọi trạng huống
trái nghịch hoặc xa lạ với Tin Mừng (x. Ga 8,31-32). Linh mục phải là người đầu
tiên tin vào Lời Chúa với ý thức tròn đầy rằng những lời lẽ trong thừa tác vụ
của mình không phải là “của mình” nhưng là của Đấng đã sai mình. Linh mục không
phải làm chủ Lời Chúa : linh mục là người phục vụ Lời. Không phải linh mục là
người duy nhất chiếm hữu Lời Chúa : linh mục là người mắc nợ Lời Chúa đối với
dân Thiên Chúa. Chính bởi vì ngài rao giảng Tin Mừng và để ngài có thể rao giảng
Tin Mừng mà linh mục, cũng như Giáo Hội, càng ngày càng phải ý thức rằng chính
mình cũng cần phải được liên lỉ phúc âm hoá (67). Linh mục loan báo lời Chúa,
với tư cách là thừa tác viên, linh mục tham dự vào quyền làm ngôn sứ của Đức
Kitô và của Giáo Hội. Vì công việc ấy, để cho chính mình cũng như cho các tín
hữu bảo đảm có được sự chuyển đạt Tin Mừng trong tính toàn vẹn của nó, linh mục
được mời gọi trau dồi nơi mình một sự nhạy cảm, một trạng thái ứng sẵn và một sự
gắn bó đặc biệt đối với Truyền Thống sống động của Giáo Hội và đối với Huấn
Quyền của Giáo Hội. Tất cả mọi điều ấy không xa lạ đối với Lời Chúa nhưng góp
phần cho việc cắt nghĩa Lời Chúa được chuẩn xác hơn và bảo vệ ý nghĩa chính hiệu
cho Lời Chúa (68).
Nhất là trong việc
cử hành các bí tích, cũng như trong việc cử hành Phụng Vụ các Giờ Kinh,
linh mục được mời gọi sống và biểu lộ sự thống nhất sâu xa giữa việc thi hành
thừa tác vụ và đời sống thiêng liêng của mình. Là ân sủng được ban cho Giáo Hội,
bí tích Thánh Thể là nguyên lý cho sự thánh thiện và là lời mời gọi hướng đến sự
thánh hoá. Đối với linh mục, bí tích Thánh Thể chiếm một vị trí thật sự trung
tâm, trong thừa tác vụ cũng như trong đời sống thiêng liêng của Ngài. “Bởi vì Bí
tích Thánh Thể chứa đựng tất cả kho tàng thiêng liêng của Giáo Hội, nghĩa là
chứa đựng chính Chúa Kitô, Chiên Vượt Qua, bánh hằng sống : thân mình Ngài có sự
sống nhờ Chúa Thánh Thần và tạo sự sống, thân hình ấy ban sự sống cho mọi người,
mời gọi họ và hướng dẫn họ cùng kết hiệp với Ngài hiến dâng chính cuộc đời của
riêng mình, hiến dâng công việc của mình và hiến dâng toàn thể tạo vật” (69).
Từ những bí tích
khác nhau và cách riêng từ ân sủng loại biệt thuộc về từng bí tích, đời sống
thiêng liêng của linh mục nhận được những dấu ấn riêng biệt : thực vậy, đời sống
ấy được cơ chế hoá và được uốn nắn nhờ vào những đặc tính và đòi buộc đa dạng
của các bí tích được cử hành và được cảm nghiệm bằng cuộc sống.
Tôi muốn có một lời
nhắc nhở đặc biệt về bí tích Thống Hối mà các linh mục là thừa tác viên nhưng
đồng thời cũng phải là những thụ nhân, từ đó trở nên những người làm chứng cho
lòng từ bi nhân ái của Thiên Chúa đối với người cõ tội. Tôi đề nghị lần nữa điều
mà Tôi đã viết trong Tông Huấn Reconciliatio et poenitentia : “Cũng như
đời sống của các anh em giáo dân và tu sĩ của mình, đời sống thiêng liêng và mục
vụ của linh mục chỉ giữ được phẩm chất và lòng nhiệt thành nếu như cá nhân linh
mục biết thực hành bí tích Thống Hối một cách chuyên cần và nghiêm chỉnh. Việc
cử hành bí tích Thánh Thể và làm thừa tác viên của các bí tích khác, nhiệt tâm
tông đồ, những giao tiếp với các tín hữu, sự hiệp thông với các anh em linh mục,
sự cộng tác với giám mục, đời sống cầu nguyện, nói tóm lại, toàn bộ đời sống
linh mục phải nhận chịu một sự thoái hoá không thể tránh khỏi nếu, vì coi thường
hay vì bất cứ một lý do nào khác, linh mục không thường đều chạy đến với bí tích
Thống Hối bằng một đức tin và một lòng đạo đức chân chính. Linh mục nào mà không
xưng tội nữa hoặc xưng tội một cách chẳng ra gì thì con người linh mục
cũng như hoạt động linh mục sẽ mau chóng cảm thụ điều ấy và chính cộng
đoàn mà linh mục là người mục tử cũng không khỏi nhận ra” (70).
Sau hết, các
linh mục được mời gọi thi hành quyền bính và phục vụ Đức Giêsu Kitô Đầu và Mục
Tử của Giáo Hội bằng cách thôi thúc và dẫn dắt cộng đoàn Giáo Hội, nghĩa
là bằng cách quy tụ “gia đình của Thiên Chúa, một cộng đoàn huynh đệ chỉ có
chung một linh hồn, và, nhờ Chúa Kitô trong Chúa Thánh Thần, các linh mục dẫn
dắt cộng đoàn ấy đến với Thiên Chúa là Cha” (71). Trách nhiệm cai quản ấy
(“munus regendi”) là một trách nhiệm rất tế nhị và phức tạp đòi hỏi, ngoài
sự chú tâm đối với từng người và từng ơn gọi khác biệt, phải có khả năng điều
hợp mọi ân huệ và đặc sủng mà Chúa Thánh Thần khơi dậy trong cộng đoàn bằng cách
kiểm nghiệm chúng và mặc giá trị cho chúng hầu xây dựng Giáo Hội, luôn luôn
trong sự hiệp nhất với các giám mục. Đây là một thừa tác vụ đời linh mục phải có
một đời sống thiêng liêng sâu đậm, giầu những phẩm cách và nhân đức dành riêng
cho người “chủ tọa” và “chỉ đạo” mọi cộng đoàn, cho người “niên trưởng” hiểu
theo nghĩa mạnh nhất và cao quí nhất của từ ngữ, đó là lòng trung thành, tính
nhất quán, sự khôn ngoan, khả năng tiếp nhận mọi người, thái độ hoà nhã, lập
trường vững chắc về những điều cốt yếu, sự từ bỏ đối với những quan điểm quá chủ
quan, lòng vô vị lợi tự bản thân, tính kiên nhẫn, lòng hăng say dấn thân mỗi
ngày, niềm tin cậy vào hoạt động thầm kín của ân sủng được biểu lộ nơi những
người đơn sơ và nơi những người nghèo (x.
Tt 1,7-8).
Cuộc sống
của người linh mục và tính triệt để của Tin Mừng
27.
Thần Khí Chúa ngự trên tôi (Lc 4,18).
Chúa Thánh Thần được ban tặng nhờ bí tích Truyền Chức Thánh là nguồn mạch thánh
thiện và là lời mời gọi thánh hoá. Bởi vì, trước hết, Ngài làm cho linh mục nên
đồng hình đồng dạng với Đức Kitô Đầu và Mục Tử của Giáo Hội và Ngài giao phó cho
linh mục chu toàn sứ mệnh làm ngôn sứ, làm tư tế và làm vua nhân danh và thay
mặt Đức Kitô. Tiếp đến, Ngài thôi thúc linh mục và tạo sinh khí cho cuộc sống
thường nhật của linh mục, vun đắp bằng những ân huệ và những đòi buộc, những
nhân đức và những khí thế, cụ thể hoá trong đức ái mục vụ. Đức ái này là tổng
hợp những giá trị và những nhân đức dựa theo Tin Mừng và là sức mạnh nâng đỡ sự
phát triển các giá trị và các nhân đức ấy cho tới mức trọn hảo Kitô Giáo (72).
Đối với hết mọi
Kitô hữu không loại trừ một ai, tính triệt để Tin Mừng là một đòi buộc cơ bản và
bất khả thay thế, phát xuất từ lời Đức Kitô mời gọi nối gót Ngài và noi gương
Ngài, bằng cách cậy dựa vào sự hiệp thông đời sống chặt chẽ với Ngài, do tác
động của Chúa Thánh Thần (x. Mt 8,18-20; 10,37-39; Mc 8,34-38; 10,17-21; Lc
9,57-62). Chính đòi buộc ấy cũng đồng thời liên can đến các linh mục, chẳng
những bởi vì các linh mục ở “trong” Giáo Hội, nhưng còn bởi vì các linh mục đứng
“trước” Giáo Hội, với tư cách là đã nên đồng hình dạng với Đức Kitô Đầu và Mục
Tử, đã được thánh hiến và đã dấn thân vào trong thừa tác vụ được phối trí, đã
được thôi thúc bởi đức ái mục vụ. Trong tinh thần triệt để của Tin Mừng và để
biểu lộ tinh thần ấy, có rất nhiều nhân đức và đòi buộc luân lý mang tính định
đoạt đối với đời sống mục vụ và thiêng liêng của linh mục đã được khai hoa kết
nhụy. Chúng ta có thể nêu dẫn chẳng hạn đức tin, thái độ khiêm nhượng trước mầu
nhiệm Thiên Chúa, lòng từ ái, sự cẩn trọng. Những “lời khuyên Phúc Âm” mà Đức
Giêsu đề nghị trong Bài Giảng Trên Núi là một hình thức diễn đạt ưu việt của
tính triệt để Tin Mừng (x. Mt 5-7). Trong số những lời khuyên được phối
trí mật thiết với nhau ấy, có đức vâng phục, đức khiết tịnh và đức nghèo khó
(73). Linh mục được mời gọi sống các lời khuyên ấy theo những thể thức và hơn
nữa, theo những cứu cánh và ý nghĩa nguyên thủy, như chúng đã phát xuất từ căn
tính của linh mục và biểu lộ căn tính ấy.
28.
Trong số những đức tính cần thiết nhất
cho thừa tác vụ linh mục, phải kể đến trạng thái ứng trực của tâm hồn nhờ đó các
linh mục không tìm ý riêng của mình nhưng tìm ý của Đấng đã sai phái mình (x. Ga
4,34; 5,30; 6,38)” (74). Đó chính là đức vâng phục vốn mang một số
đặc điểm riêng đối với trường hợp đời sống thiêng liêng linh mục.
Trước hết đó là một
sự vâng phục “tông truyền”, hiểu theo nghĩa công nhận, yêu mến và phục vụ
Giáo Hội trong cơ cấu phẩm trật của Giáo Hội. Quả vậy, không thể có thừa tác vụ
linh mục nếu không có hiệp thông với Đức Giáo Hoàng và với giám mục đoàn, cách
riêng với giám mục giáo phận mà linh mục mắc nợ vì đã hứa “tôn kính với tâm tình
hiếu thảo và vâng phục” trong ngày thụ phong. Việc “tuân phục” nhưng vị nắm giữ
quyền bính trong Giáo Hội không hề gây nhục nhã, nhưng lại là hoa quả của tự do
có trách nhiệm nơi linh mục và chính linh mục đón nhận những đòi buộc của một
đời sống Giáo Hội có cơ cấu và có tổ chức. Linh mục cũng đón nhận ơn phân định
và ơn ý thức trách nhiệm trong những quyết định mang chiều kích Giáo Hội. Ân
sủng ấy, Đức Giêsu đã tặng ban cho các Tông Đồ và những người kế nhiệm các ngài
để cho mầu nhiệm Giáo Hội được bảo tồn một cách trung thành và để cho mối dây
nối kết cộng đoàn Kitô hữu được gìn giữ trên con đường duy nhất dẫn đưa Giáo Hội
tới bến cứu độ.
Đức vâng phục Kitô
giáo chính hiệu, với những động lực chuẩn xác và với sự tuân giữ không vì tinh
thần nô lệ, giúp cho linh mục thi hành quyền bính mà linh mục có sứ vụ thi hành
đối với dân Thiên Chúa, sao cho Tin Mừng như thể xuyên thấu chính mình: không
theo chủ nghĩa độc tài và cũng không áp dụng những phương thế mỵ dân. Chỉ người
nào biết vâng phục trong Đức Kitô mới biết làm sao để yêu cầu người khác vâng
phục trong tinh thần Tin Mừng.
Ngoài ra, đức vâng
phục của linh mục còn biểu lộ một đòi buộc mang chiều kích “cộng đồng”: đó không
phải là sự vâng phục của một cá nhân biệt lập đối với quyền bính, nhưng ngược
lại đó là sự vâng phục hội nhập một cách sâu đậm vào trong sự hiệp nhất của linh
mục đoàn, trong khi linh mục đoàn, với tư cách là cộng đoàn, được mời gọi sống
trong sự hợp tác chân tình với giám mục và, qua giám mục với vị kế nhiệm thánh
Phêrô (75).
Khía cạnh ấy trong
đức vâng phục của linh mục đòi hỏi một sự khổ chế đáng kể: một đàng, linh mục
phải tập làm quen để đừng quá gắn bó với những sở thích riêng của mình và với
những quan điểm riêng của mình; đàng khác linh mục phải nhượng cho các anh em
đồng sự khoảng cách cần thiết để họ có thể biểu dương tài nghệ và khả năng của
họ, mà không hề ganh tị, phân bì hoặc kình chống. Đức vâng phục của linh mục là
một sự vâng phục liên đới, bởi vì được xây dựng trên sự kiện linh mục thuộc về
linh mục đoàn duy nhất và bởi vì, luôn luôn giữa lòng linh mục đoàn và cùng với
linh mục đoàn, biểu lộ những đường hướng và những lựa chọn đồng trách nhiệm.
Sau hết, đức vâng
phục của linh mục mang một tính chất riêng biệt, tính chất “mục vụ”. Điều
ấy có nghĩa là linh mục sống trong một bầu khí liên lỉ ứng trực và sẵn sàng để
cho mình bị chộp giữ hay, có thể nói, để cho mình bị “ăn” do bởi những nhu cầu
và những đòi hỏi dĩ nhiên cần phải hợp lý của đoàn chiên; những nhu cầu và đòi
hỏi ấy một đôi khi cần phải được đem ra phân định và kiểm chứng, thế nhưng không
thể chối cãi được rằng cuộc sống của người linh mục hoàn toàn được lấp đầy bởi
sự đói khát Tin Mừng, đói khát lòng tin, đói khát hy vọng, đói khát tình yêu
Thiên Chúa và đói khát mầu nhiệm Thiên Chúa, một sự đói khát, có thể được nhận
thức nhiều hay ít, đang hiện hữu trong đoàn dân Thiên Chúa được giao phó cho
linh mục.
29.
Công đồng viết: trong số những lời
khuyên Phúc Âm, “trước tiên phải kể đến hồng ân quí giá là ân sủng mà Chúa Cha
đã ban cho một số người (x. Mt 19,11; 1Cr 7,7), đó là ơn tự hiến cho một mình
Thiên Chúa dễ dàng hơn và với một con tim không chia sớt (x. 1Cr 7,32-34), trong
bậc sống đồng trinh hoặc độc thân. Sự tiết dục hoàn toàn vì Nước Trời ấy đã luôn
luôn là đối tượng, về phía Giáo Hội, của một niềm vinh dự đặc biệt, như là dấu
chỉ và trợ lực cho đức ái và như là nguồn mạch riêng biệt làm trổ sinh hoa trái
thiêng liêng trong thế giới” (76). Trong bậc sống đồng trinh và độc thân, đức
khiết tịnh duy trì ý nghĩa cơ bản của nó, nghĩa là ý nghĩa của một đời sống tính
dục con người được thể hiện như là một phương cách biểu lộ chính hiệu và như là
một lối nẻo phục vụ quí giá cho tình yêu hiệp thông và trao hiến liên vị. Ý
nghĩa ấy tiềm ẩn và tồn tại một cách tròn đầy trong bậc sống đồng trinh là bậc
sống, mặc dầu khước từ đời sống hôn nhân, thể hiện “ý nghĩa phu thê” của thân
xác, nhờ vào sự hiệp thông và sự trao hiến liên vị với Đức Giêsu Kitô và với
Giáo Hội của Ngài; sự hiệp thông ấy và sự trao hiến ấy là hình ảnh tiên báo và
là cảm nếm trước hương vị của sự hiệp thông trao hiến hoàn hảo và vĩnh viễn trên
trời: “Trong bậc sống đồng trinh, con người ấp ủ niềm mong đợi, ngay cả trong
thân xác mình, ngày dự tiệc cưới cánh chung của Đức Kitô với Giáo Hội, và con
người tự trao hiến hoàn toàn chính mình cho Giáo Hội với hy vọng Đức Kitô sẽ
trao tặng chính Ngài cho Giáo Hội trong chân lý trọn vẹn của đời sống vĩnh cửu”
(77).
Dưới ánh sáng ấy,
người ta có thể dễ dàng hiểu được và đánh giá được những nguyên do đã dẫn tới sự
lựa chọn qua nhiều thế kỷ của Giáo Hội Tây Phương và đã làm cho Giáo Hội Tây
Phương, mặc cho mọi khó khăn và mọi bình phẩm được nêu lên qua nhiều giai đoạn,
duy trì quyết định chỉ phong chức linh mục cho những người mà quyết mình được
Thiên Chúa mời gọi sống ơn trinh khiết trong bậc sống độc thân tuyệt đối và vĩnh
viễn.
Các Nghị Phục
Thượng Hội Đồng đã diễn đạt tư tưởng của các ngài cách rõ rệt và mạnh mẽ trong
một lời đề nghị quan trọng đáng cho chúng ta nhắc lại trọn vẹn và nguyên văn.
“Mặc dầu vẫn tôn trọng kỷ luật của các Giáo Hội Đông Phương, xác tín rằng đức
trinh khiết toàn vẹn trong bậc độc thân linh mục là một đặc sủng, Thượng Hội
Đồng nhắc nhở các linh mục rằng đức trinh khiết ấy chính là hồng ân vô giá của
Thiên Chúa dành cho Giáo Hội và đức trinh khiết ấy bày tỏ cho thế giới hiện đại
một giá trị ngôn sứ. Thượng Hội Đồng lần này, một lần nữa và một cách mạnh mẽ,
khẳng định lại điều mà Giáo Hội La mã và một số lễ chế Đông Phương đòi hỏi, rằng
chức linh mục chỉ được phong ban cho những người đã lãnh nhận từ Thiên Chúa hồng
ân có được ơn gọi sống trinh khiết trong bậc độc thân (không thành kiến đối với
truyền thống của một số Giáo Hội Đông Phương và đối với một số trường hợp đặc
biệt trong đó có những giáo sĩ sống đời đôi bạn vốn xuất thấn từ những giáo phái
khác mới trở lại đạo công giáo và vốn là trường hợp ngoại lệ đối với thông điệp
của Đức Phaolô VI về đời sống độc thân linh mục) [số 42]. Thượng Hội Đồng không
muốn để vương vấn nơi tâm trí bất cứ ai một chút hoài nghi nào liên quan tới ý
định kiên quyết của Giáo Hội là duy trì luật buộc sống độc thân vĩnh viễn do tự
do lựa chọn đối với các ứng sinh được thụ phong linh mục, trong nghi lễ La Mã.
Thượng Hội Đồng đề nghị bậc sống độc thân phải được trình bày và cắt nghĩa trong
tất cả sự phong phú từ nơi Thánh Kinh, thần học và tu đức học, như là hồng ân
quí giá mà Thiên Chúa ban cho Giáo Hội và như là dấu chỉ của Nước Chúa vốn không
thuộc về thế gian này, đồng thời là dấu chỉ cho tình yêu của Thiên Chúa đối với
thế gian này, cũng như cho tình yêu không chia sớt của linh mục đối với Thiên
Chúa và đối với dân Thiên Chúa, làm sao để cho bậc sống độc thân được nhìn nhận
như là một yếu tố tích cực làm cho chức linh mục được nên phong phú” (78).
Điều rất quan
trọng, đó là linh mục phải hiểu được động lực và nguyên do thần học dẫn tới luật
của Giáo Hội về bậc sống độc thân. Với tính cách là luật, nó diễn đạt ý định
của Giáo Hội, ngay cả trước khi chủ thể bày tỏ ý muốn đáp ứng của mình.
Nhưng ý định của Giáo Hội tìm được động lực và nguyên do tối hậu nơi mối liên
kết giữa bậc sống độc thân với việc Phong Chức Thánh, nhờ đó linh mục được
nên đồng hình dạng với Đức Giêsu Kitô Đầu và Phu Quân của Giáo Hội. Giáo Hội xét
như là Hiền Thê của Đức Giêsu Kitô mong muốn được linh mục yêu mến một cách hoàn
toàn và độc chiếm giống như Đức Giêsu Kitô Đầu và Phu Quân đã yêu mến Giáo Hội.
Đời sống độc thân linh mục lúc ấy sẽ là sự trao hiến chính mình trong và
với Đức Kitô cho Giáo Hội Ngài và sẽ biểu lộ công việc phục vụ mà
linh mục thực thi cho Giáo Hội trong Chúa Kitô và với Chúa Kitô.
Vì nhắm đến một đời
sống thiêng liêng chính hiệu, linh mục cần phải quan niệm và sống bậc độc thân
không phải như một yếu tố riêng rẽ và thuần túy tiêu cực, nhưng như một trong
những sắc thái của một đường hướng tích cực, loại biệt và đặc trưng của nhân
cách linh mục. Từ bỏ cha mẹ mình, linh mục nối gót Đức Giêsu Mục Tử Nhân Lành
trong một sự hiệp thông tông truyền, để phục vụ dân Chúa. Bậc sống độc thân bởi
đó cần phải được đón nhận với một quyết định tự do và ngập tràn yêu thương, cần
phải được cải tiến liên lỉ, như là một hồng ân vô giá của Thiên Chúa, như là một
“trợ lực cho đức ái mục vụ” (79), như là một sự tham dự riêng biệt vào tình phụ
tử của Thiên Chúa và vào sự sản sinh của Giáo Hội, như là một chứng từ cho Vương
Quốc cánh chung được ban cho thế giới. Để sống tốt cả những đòi hỏi luân lý, mục
vụ và thiêng liêng của bậc độc thân linh mục, tuyệt đối cần thiết phải cầu
nguyện với lòng khiêm nhượng và cậy tin, như lời nhắc nhở của Công Đồng: “Chắc
hẳn, trong thế giới hiện nay, có rất nhiều người tuyên bố rằng không thể nào
thực hiện được tiết dục hoàn toàn: đó là một lý do hơn nữa để các linh mục phải
khiêm tốn và kiên trì cầu xin, trong sự kết hiệp với Giáo hội, ơn trung thành,
là ơn không bao giờ bị từ chối với mọi người” (80). Ngoài ra, nhờ liên kết việc
cầu nguyện với các bí tích của Giáo Hội và với nỗ lực khổ chế, linh mục sẽ có
được niềm hy vọng trong những khó khăn, ơn tha thứ trong những lỗi phạm, lòng
tin cậy và sự can đảm trong việc tiếp tục tiến bước.
30.
Về đức nghèo khó theo tinh thần Tin
Mừng, các Nghị Phụ Thượng Hội Đồng đã đưa ra một lối mô tả cô đọng và sâu
sắc hơn bao giờ hết, trình bày đức nghèo khó như là việc “đem mọi của cải (tous
les biens) tùng phục Của Cải tối thượng (Bien suprême) là Thiên Chúa và Vương
Quốc của Ngài” (81). Trong thực tế, chỉ người nào chiêm ngắm và sống mầu nhiệm
Thiên Chúa như là Của Cải độc nhất và tối thượng, như là nguồn phong phú thực
thụ và vĩnh viễn, mới có thể hiểu và thực hành đức nghèo khó. Đức nghèo khó chắc
chắn không phải là khinh chê và từ chối những của cải vật chất, nhưng là tự do
sử dụng những của cải ấy và đồng thời vui vẻ từ khước chúng với một trạng thái
ứng trực nội tâm, đối với Thiên Chúa và đối với những kế hoạch của Ngài.
Sự nghèo khó của
linh mục, vì lý do linh mục nhờ bí tích nên đồng hình dạng với Đức Kitô Đầu và
Mục Tử, mặc lấy những đặc điểm mục vụ chính xác. Các Nghị Phụ Thượng Hội Đồng đã
dừng chân nơi những đặc điểm ấy bằng cách lặp lại và khai triển giáo huấn của
công đồng (82). Cùng với những đặc điểm khác, các ngài viết: “Theo gương Chúa
Kitô, Đấng vốn giàu sang đã hoá nên nghèo khó vì yêu thương chúng ta (x. 2Cr
8,9), các linh mục phải coi người nghèo và những người yếu đuối như là được giao
phó cho mình một cách đặc biệt, và phải có khả năng nêu chứng tá nghèo khó bằng
một đời sống giản dị và khắc khổ, vì đã quen từ bỏ một cách quảng đại những gì
là dư thừa (Optatam totius, ĐT số 9; C.I.C, GL khoản 282)” (83).
Quả thật “thợ xứng
đáng hưởng thù lao của mình” (Lc 10,7) và “Chúa đã chỉ thị cho những ai loan báo
Tin Mừng sống bằng Tin Mừng” (1Cr 9,14); thế nhưng, thật ra quyền ấy của người
tông đồ không được nhầm lẫn với bất cứ một kỳ vọng nào nhằm đem công việc phục
vụ Tin Mừng và Giáo Hội làm cái phụ thuộc cho những mối lợi và bổng lộc có thể
phát sinh từ đó. Chỉ có sự nghèo khó mới chắc chắn tạo được cho linh mục tư tế
ứng trực cần có để được sai đi nơi nào mà hoạt động của mình hữu ích hơn và cấp
thiết hơn, ngay cả với giá của một hy sinh bản thân. Đó là điều kiện tiên quyết
cho sự ngoan nguỳ của người tông đồ đối với Thần Khí, Đấng làm cho người tông đồ
sẵn sàng “ra đi” mà không cần hành trang và không bị ràng buộc, chỉ một mực tuân
theo ý định của Đấng là Thầy (x. Lc 9,57-62; Mc 10,17-22).
Đích thân hội nhập
vào trong cộng đoàn mà mình có trách nhiệm, linh mục cần phải nêu chứng tá về
một sự “trong suốt” hoàn toàn trong việc quản trị tài sản của cộng đoàn. Linh
mục sẽ không bao giờ xử sự như thể các tài sản ấy là gia sản riêng tư của mình,
nhưng như những gì mà mình phải thanh thỏa trước mặt Thiên Chúa và trước mặt anh
em mình, nhất là trước những người nghèo. Và, nhờ ý thức rằng mình thuộc về một
linh mục đoàn duy nhất, linh mục sẽ dấn thân để tạo điều kiện thuận lợi, hoặc
cho một sự phân phối của cải giữa các anh em đồng sự cao sang cho công bằng hơn,
hoặc cho việc cùng hưởng dùng chung với nhau những của cải ấy (x. Cv 2,42-45).
Tự do nội tâm, được
nuôi dưỡng và bảo toàn nhờ vào đức nghèo khó theo tinh thần Tin Mừng, làm cho
linh mục có khả năng đứng về phía những người yếu đuối nhất, liên kết chính mình
với những nỗ lực của họ nhằm tái tạo một xã hội công bằng hơn, trở nên nhạy bén
hơn cũng như có khả năng hiểu biết và phân định hơn đối với những hiện tượng
liên can tới khía cạnh kinh tế và xã hội của đời sống, đồng thời thăng tiến chọn
lựa nào là ưu tiên của người nghèo. Không loại trừ một ai trong việc loan báo và
ban phát ơn cứu độ, linh mục biết chú tâm tới những người bé nhỏ, tới các tội
nhận, tới hết mọi người sống ngoài lề xã hội, theo như mẫu mực mà Đức Giêsu đã
để lại trên bước đường thừa tác vụ ngôn sứ và tư tế của Ngài (x. Lc 4,18).
Chúng ta đừng quên
ý nghĩa ngôn sứ của đức nghèo khó linh mục, đặc biệt khẩn thiết trong những xã
hội tiêu dùng: “Một linh mục thật sự nghèo chắc chắn sẽ là dấu chỉ cụ thể cho sự
tách biệt, cho sự chối từ chớ không phải cho sự lụy phục đối với bạo quyền trong
thế giới đương thời là thế giới đặt trọn niềm tin cậy của mình nơi tiền bạc và
nơi sự an toàn vật chất” (84).
Trên thập giá, Đức
Giêsu Kitô mang đức ái mục vụ của Ngài đến mức trọn hảo trong một sự trần trụi
tột cùng bên ngoài và bên trong; Ngài là mẫu mực và là nguồn mạch các nhân đức
vâng phục, khiết tịnh và nghèo khó mà linh mục được mời gọi sống như là biểu
hiện tình yêu mục vụ của mình đối với anh em. Theo như những điều Phaolô viết
cho các Kitô hữu Philipphê, linh mục phải có “cùng những tâm tình” như Đức
Giêsu, phải tự tước bỏ khỏi cái tôi riêng rẻ của mình để, trong đức ái vâng
phục, khiết tịnh và nghèo khó, tìm gặp được con đường vương giả đưa tới sự nối
kết với Thiên Chúa và tới sự hiệp nhất với các anh em (x. Pl 2,5).
Thuộc về
Giáo Hội địa phương và tận tụy với Giáo Hội địa phương.
31.
Cũng như bất cứ đời sống thiêng liêng
Kitô giáo chính hiệu nào, đời sống thiêng liêng của linh mục cũng sở đắc một
chiều kích giáo Hội cốt yếu và bất khả thay thế: đời sống ấy tham dự vào sự
thánh thiện của chính Giáo Hội, Giáo Hội mà trong kinh Tin Kính chúng ta
tuyên xưng là “các Thánh cùng thông công”. Sự thánh thiện của Kitô hữu bắt nguồn
từ sự thánh thiện của Giáo Hội, biểu lộ sự thánh thiện ấy và đồng thời làm giàu
cho sự thánh thiện ấy. Chiều kích Giáo Hội này mang những thể thức, những cứu
cánh và những ý nghĩa đặc thù trong đời sống thiêng liêng của linh mục, vì tương
quan loại biệt đối với Giáo hội, luôn luôn khởi đi từ việc linh mục nên đồng
hình dạng với Đức Kitô Đầu và Mục Tử, từ thừa tác vụ được phân bổ và từ đức ái
mục vụ của linh mục.
Trong nhãn quan ấy,
cần phải coi việc linh mục thuộc về Giáo Hội địa phương và tận tụy với Giáo Hội
địa phương như là giá trị thiêng liêng của ngài. Các thực tại ấy không những chỉ
khởi phát vì những lý do tổ chức và kỷ luật. Ngược lại, quan hệ với giám mục
trong sự hiệp nhất của linh mục đoàn, sự san sẻ niềm ân cần săn sóc của giám mục
đối với Giáo Hội, lòng tận tụy mục vụ nhằm phục vụ dân Thiên Chúa trong những
điều kiện lịch sử và xã hội cụ thể của Giáo Hội địa phương là những yếu tố mà
người ta không thể coi thường khi muốn phác hoạ chân dung của linh mục và của
đời sống thiêng liêng linh mục. Trong chiều hướng ấy, “nhập vụ” không chỉ giản
lược vào một liên hệ, nhưng còn giả thiết một chuỗi những thái độ, những lựa
chọn mục vụ và thiêng liêng góp phần kiến tao một diện mạo riêng biệt cho ơn gọi
của linh mục.
Điều cần thiết là
linh mục phải ý thức rằng sự kiện ở trong một Giáo Hội địa phương tự nó là một
yếu tố định đoạt để sống một đời sống thiêng liêng Kitô giáo. Với ý nghĩa ấy,
linh mục tìm ngay trong việc mình thuộc về Giáo Hội địa phương và tận tụy với
Giáo Hội địa phương một nguồn mạch cho những ý nghĩa, những tiêu chuẩn phân định
và hành động tạo khuôn khổ cho sứ mệnh phục vụ và đời sống thiêng liêng của
mình.
Trên bước đường
tiến tới trọn hảo, cũng có thể có sự trợ giúp đến từ những thần hứng hoặc những
qui chiếu nơi các truyền thống đời sống thiêng liêng khác, có khả năng làm giàu
cho đời sống linh mục của nhiều người và tạo sinh khí cho linh mục đoàn nhờ vào
những ân huệ thiêng liêng quí giá. Đó là trường hợp của nhiều hiệp hội cũ và mới
trong Giáo Hội vốn đón nhận cả những linh mục trong hàng ngũ của mình, từ những
hiệp đoàn tông đồ cho đến những tu hội đời linh mục, từ những dạng thức hiệp
thông và chia sẻ thiêng liêng đa dạng cho đến các phong trào Giáo Hội. Các linh
mục thuộc những đan viện và những hội dòng chính là nguồn phong phú thiêng liêng
cho toàn thể linh mục đoàn giáo phận, đóng góp cho linh mục đoàn những đặc sủng
loại biệt của họ cũng như những thừa tác vụ chuyên biệt của họ : do bởi sự hiện
diện của mình, họ khuyến khích Giáo Hội địa phương sống đậm đà hơn chiều kích
hướng mở phổ quát của Giáo Hội ấy (85).
Việc linh mục thuộc
về Giáo Hội địa phương và tận tụy với Giáo Hội địa phương đến độ trao hiến mạng
sống mình, ngõ hầy xây dựng Giáo Hội “thay mặt” cho Đức Kitô Đầu và Mục Tử, nhằm
phục vụ toàn thể cộng đoàn Kitô hữu, trong sự liên kết chân tình và hiếu thảo
với giám mục, cần phải được tô đậm bởi bất cứ đặc sủng nào khả dĩ khởi hứng trực
tiếp hoặc gián tiếp cho đời sống của một linh mục (86).
Để cho các ân huệ
dư tràn của Thần Khí được đón nhận trong niềm vui và để cho chúng được sinh hoa
kết trái nhằm làm vinh danh Thiên Chúa và mưu ích cho toàn thể Giáo Hội, trước
hết mọi người cần phải nhận thức và phân định những đặc sủng riêng của mình và
những đặc sủng của tha nhân. Tiếp đến, việc thực thi các đặc sủng ấy phải luôn
luôn đi kèm với lòng khiêm nhượng Kitô giáo, với sự can đảm dám tự phê phán
chính mình, với ý hướng trổi vượt trên mọi bận tâm khác nhằm giúp xây dựng toàn
thể cộng đoàn, mọi đặc sủng riêng biệt đều được sắp xếp cho sự phục vụ cộng đoàn
ấy. Ngoài ra mọi người đều được yêu cầu phải có một nỗ lực chân thành nhằm quý
chuộng lẫn nhau, nhằm tôn trọng lẫn nhau và nhằm đánh giá sao cho hoà hợp những
dị biệt tích cực và chính đáng hiện có nơi linh mục đoàn. Tất cả những yếu tố ấy
cũng nằm trong đời sống thiêng liêng và trong sự khổ chế liên lỉ của linh mục.
32.
Thuộc về Giáo Hội địa phương và tận tụy
đối với Giáo Hội địa phương thì không phải là tất cả hoạt động và đời sống linh
mục đều đóng khung trong Giáo Hội ấy. Không thể đem giản lược các đặc tính ấy
vào nơi Giáo Hội địa phương bằng cách nại tới chính bản chất của Giáo Hội địa
phương (87) và tới bản chất của thừa tác vụ linh mục. Về vấn đề này, Công Đồng
viết : “ân huệ thiêng liêng mà các linh mục đã lãnh nhận ngày thụ phong chuẩn bị
cho các linh mục, không phải đi vào một sứ vụ hạn hẹp và gò bó, nhưng vào một sứ
vụ cứu độ có tầm mức phổ quát, cho đến mút cùng trái đất” (Cv 18); thực vậy, bất
cứ thừa tác vụ linh mục nào cũng thông phần vào những chiều kích hoàn vũ của sứ
vụ được Đức Kitô giao phó cho các Tông Đồ” (88).
Bởi đó, đời sống
thiêng liêng của các linh mục cần phải được đánh dấu sâu đậm bởi khí thế và năng
động thừa sai. Họ có trách nhiệm, trong việc thi hành thừa tác vụ và làm chứng
bằng đời sống của mình, biến cộng đoàn được giao phó cho mình thành một cộng
đoàn thừa sai chính hiệu. Như Tôi đã viết trong thông điệp Redemptoris
missio, “tất cả các linh mục đều phải có một tâm hồn và một não trạng thừa
sai, mở ngỏ hướng đến những nhu cầu của Giáo Hội và của thế giới, chú trọng tới
những người xa cách nhất, và trên hết tới những tập thể ngoài Kitô giáo trong
môi trường của mình. Trong kinh nguyện và cách riêng trong hy lễ tạ ơn, các linh
mục phải cưu mang niềm ân cần của toàn thể Giáo Hội đối với toàn bộ nhân loại”
(89).
Nếu tinh thần thừa
sai ấy tạo sinh khí dạt dào cho đời sống các linh mục, việc đáp ứng tình huống
hiện đang ngày càng nghiêm trọng hơn trong Giáo Hội, tình huống phát xuất từ
tình trạng phân phối hàng giáo sĩ không đồng đều, sẽ trở nên dễ dàng hơn. Về
điểm này, Công đồng đã phát biểu hết sức rõ ràng và mạnh mẽ: “Do đó, các linh
mục phải nhớ rằng cách ngài cần ủ ấp trong tim mối ưu tư của tất cả Giáo Hội. Vì
thế, những linh mục thuộc các giáo phận giàu ơn gọi phải sẵn sàng tự nguyện ra
đi, dĩ nhiên với phép của Đấng Bản Quyền hoặc với lời kêu gọi của ngài, để thi
hành thừa tác vụ của mình trong những xứ sở, những hội thừa sai hoặc những hoạt
động đang lâm vào cảnh thiếu thốn linh mục (90).
“Xin hãy
canh tân nơi chúng sự tuôn đổ Thần Khí thánh thiện của Ngài”
33.
“Thần Khí Chúa ngự trên tôi, vì Ngài đã
xức dầu thánh hiến tôi. Ngài đã sai tôi đem Tin Mừng đến cho người nghèo” (Lc
4,18). Ngày nay, Đức Giêsu vẫn còn làm vọng lên trong con tim linh mục chúng ta
những lời Ngài đã phát biểu trong hội đường Nagiarét. Thật vậy, đức tin chúng ta
mạc khải cho chúng ta sự hiện diện tích cực của Thần Khí Chúa Kitô nơi hữu thể
chúng ta, nơi hành động và đời sống chúng ta, bằng cùng một phương cách như đã
được bí tích Truyền Chức Thánh định hình, trang bị và uốn nắn.
Đúng vậy, Thần
Khí Chúa là vị hướng đạo vĩ đại của đời sống thiêng liêng chúng ta. Thần Khí
Chúa tạo dựng “quả tim mới”, ban sinh khí và dẫn dắt quả tim ấy với “lề luật
mới” của đức ái, của đức ái mục vụ. Ý thức rằng linh mục không bao giờ thiếu ân
sủng của Chúa Thánh Thần, xét như là ơn hoàn toàn nhưng không và như là sự dấn
thân trong trách nhiệm, đó là yếu tố định đoạt cho sự phát triển đời sống thiêng
liêng linh mục. Sự ý thức về ân huệ ấy thâm nhập và đỡ nâng lòng tin cậy không
thể chuyển lay của linh mục giữa những khó khăn, những cám dỗ, những yếu đuối
vẫn thường xảy đến trên hành trình thiêng liêng.
Một lần nữa, Tôi đề
nghị với mọi linh mục điều mà vào một dịp khác Tôi đã nói với nhiều người trong
anh em: “ơn gọi linh mục cốt yếu là một lời mời gọi nên thánh với mô hình bắt
nguồn từ bí tích Truyền Chức Thánh. Sự thánh thiện là tình thân mật đối với
Thiên Chúa, là nỗ lực noi gương Đức Kitô nghèo khó, khiết tịnh và khiêm nhượng;
là tình yêu không hạn chế đối với các linh hồn và là sự trao hiến chính mình vì
lợi ích đích thực của các linh hồn; là tình yêu đối với Giáo Hội, một Giáo Hội
thánh thiện, một Giáo hội muốn chúng ta nên thánh bởi vì đó chính là sứ vụ mà
Đức Kitô đã giao phó cho Giáo Hội. Mỗi người trong anh em cũng phải nên thánh để
có thể giúp các anh em khác thực hiện ơn gọi nên thánh.
“Làm sao lại không
suy tư […] về vai trò thiết yếu mà Chúa Thánh Thần nắm giữ trong lời mời gọi
loại biệt nên thánh dành riêng cho thừa tác vụ linh mục ? Chúng ta hãy nhắc lại
những lời trong nghi thức Phong Chức được coi như trọng tâm của công thức bí
tích: “Lạy Chúa Cha toàn năng, chúng con khẩn nguyện Cha, xin Cha ban cho các
tôi tớ Cha đây được gia nhập hàng linh mục. Xin Cha hãy tuôn đổ một lần nữa Thần
Khí thánh thiện vào nơi đáy thẳm tâm hồn họ. Lạy Chúa, xin cho họ được lãnh nhận
nơi Chúa trọng trách phục tùng hàng giám mục. Xin cho họ biết dùng gương đời
sống của mình mà thúc đẩy cho các phong tục tập quán được nên tinh tuyền”.
“Hỡi những người
bạn thân mến, nhờ việc Phong Chức, anh em đã lãnh nhận chính Thần Khí của Đức
Kitô. Đấng làm cho anh em nên giống với Đức Kitô, ngõ hầu anh em có thể hành
động nhân danh Đức Kitô và mặc lấy nơi anh em cùng những tâm tình như Ngài. Sự
thông hiệp mật thiết với Thần Khí Đức Kitô bảo đảm cho hiệu năng của hoạt động
bí tích mà anh em thực hiện “thay mặt Đức Kitô”, sự thông hiệp ấy còn đòi
phải được biểu lộ trong việc sốt sắng cầu nguyện, trong tính nhất quán của đời
sống, trong đức ái mục vụ của một thừa tác vụ không ngơi qui hướng về ơn cứu độ
của mọi người. Nói vắn tắt, sự thông hiệp ấy đòi hỏi anh em phải thánh hoá bản
thân mình” (91).
còn tiếp
chú thích: Lưu ý: những số
chú thích nhỏ hơn đã được ghi vào số báo kỳ trước
40) Hiến Chế Tín Lý
về Giáo Hội, Lumen Gentium, GH, số 40.
41) Sắc lệnh về
thừa tác vụ và đời sống linh mục, Presbyterorum ordinis, LM, số 12.
42) Sermo
340,1 : PL 38,1483.
43) Như trên : 1.c.
44) X.
Propositio 8.
45) X. Công Đồng
Vat. II, Sắc lệnh về thừa tác vụ và đời sống linh mục, Presbyterorum ordinis,
LM, số 2; 12.
46) X.
Propositio 8.
47) Sermo Morin
Guelferbytanus, 32,1; PLS 2, 637.
48) Sách lễ Roma,
Ca Hiệp Lễ chúa nhật thứ tư Mùa Phục Sinh.
49) X. Tông Thư,
Mulieris dignitatem. Phẩm giá của phụ nữ (15/8/1988), số 26 : AAS 80 (1988),
tr. 1715-1716.
50) Propositio
7.
51) Bài giảng dịp
tôn thờ Thánh Thể tại Séoul (7/10/1989), số 2: Insegnamenti XII/2 (1989),
tr. 785.
52) Thánh
Augustinô, In Iohannis Evangelium Tractatus, Khảo luận về Tin Mừng Gioan
123,5 : CCL 36,678.
53) Với các linh
mục tham dự đại hội do Hội Đồng Giám Mục Ý khởi xướng (4/11/1980) :
Insegnamenti III/2 (1980), TR. 1055.
54) Sắc lệnh về
thừa tác vụ và đời sống linh mục Presbyterorum ordinis, LM, số 14.
55) Như trên.
56) Như trên.
57) X. Phaolô VI,
Tông Huấn về việc rao giảng Tin Mừng Evangelii nuntiandi (8/12/1975), số
75 : ASS 68 (1976), tr. 64-67.
58) X.
Propositio 8.
59) Sắc lệnh về
thừa tác vụ và đời sống linh mục, Presbyterorum ordinis, LM, số 12.
60) In Iohannis
Evange-lium Tractatus, 123, 5 : 1.c.
61) X. Sắc lệnh về
thừa tác vụ và đời sống linh mục, Presbyterorum ordinis, số 12.
62) Như trên, số 5.
63) X. Công Đồng
Trentô, Decretum de justificatione, Sắc lệnh về sự công chính hoá, chương
7; Decretum de sacramentis, Sắc lệnh về các bí tích, khoản 6 (DS
1529;1606).
64) Sắc lệnh về
thừa tác vụ và đời sống linh mục, Presbyterorum ordinis, LM, số 12.
65) Thánh
Augustinô, Sermo de Nat. Sanct. Apost. Petri et Pauli sx Evangelio in quo ait
: Simon Iohannis diligis me?: Bibliotheca Casinensis, in “Miscellanea
Augustiana”, Quyển I phát hành do G.Morin, o.s.b., Roma, Typ. Polygl. Vat.,
1930, tr.404.
66) X. Sắc lệnh về
thừa tác vụ và đời sống linh mục, Presbyterorum ordinis, LM, số 4-6; 13.
67) X. Phaolô VI,
Tông Huấn về việc Rao giảng Tin Mừng, Evangelu nuntiandi (8/12/1975), số
15 : 1.c; tr. 13-15.
68) X. Hiến Chế Tín
Lý về Mạc Khải, Dei Verbum, MK, số 8; 10.
69) Công Đồng Vat.
II, Sắc lệnh về thừa tác vụ và đời sống linh mục, Presbyterorum ordinis,
LM, số 5.
70) Tông Huấn hậu
Thượng Hội Đồng, Hoà Giải và Thống Hối, Reconciliatio et paenitentia
(2/12/1984), số 31, VI : AAS 77 (1985), tr. 265-266.
71) Công Đồng Vat.
II, Sắc lệnh về thừa tác vụ và đời sống linh mục, Presbyterorum ordinis,
LM, số 6.
72) X. Công Đồng
Vat. II, Hiến Chế Tín Lý về Giáo Hội, Lumen Gentium, GH, số 42.
73) X.
Propositio 9.
74) Công Đồng Vat,
II, Sắc lệnh về thừa tác vụ và đời sống linh mục, Presbyterorum ordinis,
LM, số 15.
75) X. như trên.
76) Hiến Chế Tín Lý
về Giáo hội, Lumen Gentium, GH, số 42.
77) Tông Huấn về
Gia đình, Familiaris consortio (22/11/1981), số 16 : AAS 74 (1982),
tr.98.
78) Propositio
11.
79) Công Đồng Vat.
II, Sắc lệnh về thừa tác vụ và đời sống linh mục, Presbyterorum ordinis,
LM, số 16.
80) Như trên.
81) Propositio
8.
82) X. Sắc lệnh về
thừa tác vụ và đời sống linh mục, Presbyterorum ordinis, LM, số 17.
83) Propositio
10.
84) Như trên.
85) X. Thánh Bộ đặc
trách các tu sĩ và các Tu Hội đời và Thánh Bộ đặc trách các giám mục, Những Chỉ
Dẫn dành cho các mối quan hệ hỗ tương giữa các giám mục và tu sĩ trong Giáo hội,
Mutuae relationes (14/5/1978), số 18: AAS 70 (1978), tr. 484-485.
86) X.
Propositiones 25,38.
87) X. Công Đồng
Vat. II, Hiến Chế Tín Lý về Giáo hội, Lumen Gentium, GH, số 23.
88) Sắc lệnh về
thừa tác vụ và đời sống linh mục, Presbyterorum ordinis, LM, số 10; x.
Propositio 12.
89) Thông Điệp Sứ
Vụ Đấng Cứu Chuộc, Redemptoris missio (7/12/1990), số 67 : AAS 83 (1991),
tr. 315-316.
90) Sắc lệnh về
thừa tác vụ và đời sống linh mục, Presbyterorum ordinis, LM, số 10.
91) Bài giảng cho
5000 linh mục đến từ khắp thế giới (9/10/1984), số 2 : Insegnamenti VII/2
(1984), tr. 839.
|