Đặc San Giáo Sĩ Việt Nam

 

 

 

ĐỰƠC CHỌN GIỮA LOÀI NGƯỜI
VÀ CHO LOÀI NGƯỜI  (x. Dt, 5.1)

 

GIÁO SĨ:

Xuất phát từ giáo dân, hiện diện vì giáo dân và cậy dựa vào giáo dân

 

ĐỂ CÙNG LÀM VINH DANH THIÊN CHÚA

 

www.conggiaovietnam.net                          giaosivietnam@gmail.com

Đặc San Điện Tử    Giáo Sĩ Việt Nam    Số 120, Chúa Nhật 30.05.2010


MỤC LỤC 

Đời sống thiêng liêng của Linh Mục                                                     ĐTC. Gioan Phaolo 2

THƯ CHỊ THÁNH TÊRÊXA VIẾT CHO NGƯỜI ANH EM LINH MỤC (3)         Nobertô Thái Văn Hiến (dịch)

Hiện tình giáo hội Việt Nam: Một thoáng nhìn                       Lm. Anrê  Đỗ xuân Quế O.P

PHÊRÔ ĂN NĂN THỐNG HỐI                                                Bác sĩ Nguyễn Tến Cảnh, MD.

VÌ EM TIN VÀO TÌNH YÊU CHÚA BA NGÔI                                        Gioan Lê Quang Vinh

ÁNH SÁNG ĐỜI CON                                                                                             VŨ THỦY

Chân thật                                                                                                            Thanh Tâm

ÔNG QUAN TÒA                                                                                         Br. Huynhquảng

HIỂU CHỒNG VÀ CẢM THÔNG VỚI CHỒNG                    Lm. Minh Anh, tổng hợp biên tập

TÌNH BẠN KHÁC PHÁI CỦA NGƯỜI ĐỘC THÂN THÁNH HIẾN      Lm. Trần Minh Huy, pss

RỦI RO ĐIỆN ĐÀM KHI LÁI XE                                                   Bác sĩ Nguyễn Ý Ðức M.D.

ĐỒN THỔI                                                                                  Chuyện phiếm của Gã Siêu


Đời sống thiêng liêng của Linh Mục

 

TÔNG HUẤN PASTORES DABO VOBIS
VỀ VIỆC ĐÀO TẠO LINH MỤC TRONG HOÀN CẢNH HIỆN NAY

Nguồn: http://xuanbichvietnam.wordpress.com/2009/10/03/tong-huan-pastores-dabo-vobis/

 

CHƯƠNG III: THẦN KHÍ CHÚA NGỰ TRÊN TÔI

ĐỜI SỐNG THIÊNG LIÊNG CỦA LINH MỤC

Một lời mời gọi loại biệt nên thánh.

19. “Thần Khí Chúa ngự trên tôi” (Lc 4,18). Thần Khí không chỉ ở trên Đấng Mêsia nhưng lấp đầy Ngài, thấm nhập vào Ngài, nối kết với Ngài trong hữu thể và trong hành động của Ngài. Thật vậy, Thần Khí chính là nguyên lý cho sự “thánh hiến” và cho “sứ vụ” của Đấng Mêsia; “vì Ngài đã xức dầu thánh hiến tôi và đã sai tôi đi loan báo Tin Mừng cho người nghèo…” (Lc 4,18). Nhờ sức mạnh của Thần Khí, Đức Giêsu hoàn toàn thuộc về Thiên Chúa và chỉ thuộc về Thiên Chúa, Ngài thông phần vào sự thánh thiện vô biên của Thiên Chúa là Đấng mời gọi Ngài, tuyển chọn Ngài và sai phái Ngài. Bởi thế, Thần Khí Chúa tự tỏ lộ như là nguồn mạch thánh thiện và lời mời gọi nên thánh.

Chính “Thần Khí Chúa” ấy cũng ở “trên” toàn thể Dân Chúa, Dân được thiết lập thành dân “thánh thiện” cho Thiên Chúa và được Thiên Chúa “sai đi” loan báo Tin Mừng cứu độ. Các thành phần Dân Chúa “say sưa” với Thần Khí, “mang dấu ấn” của Thần Khí (x. 1Gr 12,13; 2Gr 1,21-22; Ep 1,13;4,30) và được mời gọi nên thánh.

Một cách đặc biệt, Thần Khí mạc khải cho chúng ta và thông truyền cho chúng ta ơn gọi cơ bản mà Chúa Cha từ muôn thuở ngỏ với mọi người : ơn gọi nên “thánh” và vô tì vết trước mặt Ngài trong tình yêu”, do được tiền định “làm dưỡng tử của Ngài nhờ Đức Giêsu Kitô” (Ep 1,4-5). Chẳng những mạc khải cho chúng ta và thông truyền cho chúng ta ơn gọi ấy, Thần Khí còn trở nên trong chúng ta nguyên lý và nguồn cội cho sự thực hiện ơn gọi ấy : là Thần Khí của Chúa Con (x. Gl 4,6), Ngài làm cho chúng ta mặc hình dạng của Đức Kitô Giêsu và biến chúng ta thành những người thông phần vào đời sống nghĩa tử của Đức Giêsu, nghĩa là vào đức ái của Ngài đối với Chúa Cha và đối với đàn em. “Bởi vì Thần Khí là sức sống của chúng ta, ước gì Thần Khí cũng làm cho chúng ta hành động” (Gl 5,25). Với những lời vừa qua, thánh Tông Đồ Phaolô nhắc nhở cho chúng ta rằng đời sống của người Kitô hữu là đời sống thiêng liêng, nghĩa là đời sống được thôi thúc và dẫn dắt bởi Thần Khí, hướng đến sự thánh thiện và hướng đến đức ái trọn hảo.

Khẳng định của Công Đồng: “Lời mời gọi sống viên mãn đời sống Kitô hữu và thực thi đức ái trọn hảo được ngỏ đến mọi người tin vào Chúa Kitô, bất kể bậc sống hoặc lối sống của họ” (40), được áp dụng một cách đặc biệt cho các linh mục: các linh mục được mời gọi, chẳng những với tư cách thụ nhân của bí tích Rửa tội nhưng còn, một cách loại biệt, với tư cách linh mục, hiểu như một tước hiệu mới và tùy theo những thể thức riêng, bắt nguồn từ bí tích Truyền Chức Thánh.

20. Về vấn đề “đời sống thiêng liêng” của linh mục, về ơn thánh thiện và về ơn có trách nhiệm nên “thánh”, Sắc Lệnh công đồng về chức vụ và đời sống linh mục cung cấp cho chúng ta một tổng hợp phong phú và khích lệ: “Các linh mục trở thành thừa tác viên của Chúa Kitô là Đầu để xây dựng và kiến thiết trọn vẹn Thân Thể là Giáo Hội, với tư cách cộng sự viên của Hàng Giám Mục : chính với tước hiệu ấy mà bí tích Truyền Chức Thánh mặc cho các linh mục hình dạng của Chúa Kitô Linh Mục. Chắc hẳn, được bí tích Rửa tội thánh hiến, các linh mục đã lãnh nhận như mọi Kitô hữu khác dấu chỉ và ân huệ về một ơn gọi và một ân sủng nhờ đó, dù bản tính nhân loại yếu hèn, các linh mục có khả năng và có đòi buộc phải theo đuổi sự trọn hảo, đúng như lời Chúa phán: “Các con hãy nên trọn hảo như Cha các con trên trời là Đấng trọn hảo” (Mt 5,48). Sự trọn hảo này, các linh mục có trách nhiệm đạt tới với một danh nghĩa riêng: các linh mục nhận Chức Thánh, có nghĩa là đã được thánh hiến bằng một thể thức mới để làm khí cụ sống động cho Đức Kitô Linh Mục Đời Đời, được trang bị để qua các thời dại nối tiếp hoạt động kỳ diệu của Chúa, hoạt động nhằm phục hưng toàn vẹn cộng đoàn nhân loại trong quyền năng tối cao của Ngài. Linh mục nào cũng vậy, một khi đóng vai trò thay mặt Chúa Kitô bằng cách thế của mình thì do sự kiện ấy được phú ban thêm một ơn riêng nữa; ơn này giúp cho linh mục, nhờ phục vụ những người được giao phó cho mình và phục vụ toàn thể Dân Chúa, lúc nào cũng hướng đến sự trọn hảo của Đấng mình đại diện cho; cũng chính nhờ vào ơn này mà sự yếu đuối của con người xác thịt nơi linh mục được cứu chữa nhờ sự thánh thiện của Đấng đã trở thành Linh Mục Thượng Phẩm “thánh thiện, vô tội, không tì vết, tách biệt khỏi tội nhân” cho chúng ta (Dt 7,26) (41).

Công đồng trước hết khẳng định ơn gọi nên thánh phổ quát. Ơn gọi này bắt nguồn từ bí tích Rửa tội là bí tích đóng ấn cho linh mục làm “tín hữu” (Christifidelis), làm “anh em giữa những người anh em”, được hội nhập và liên kết làm một với Dân Chúa, trong niềm vui san sẻ các ơn thiêng cứu độ (x. Ep 4,4-6) và với bổn phận cùng nhau bước đi “trong đường lối Chúa Thánh Thần” theo chân Đức Chúa và Thầy duy nhất. Chúng ta đừng quên lời nói nổi danh của thánh Augustinô: “Đối với anh em, tôi là giám mục; cùng với anh em, tôi là Kitô hữu. Tên gọi trước là để chỉ chức vụ lãnh nhận, tên gọi sau là để chỉ ân sủng; tên gọi trước gắn liền với hiểm nguy, tên gọi sau kết chặt với ơn cứu độ” (42).

Cũng minh bạch như thế, Công đồng còn bàn về một ơn gọi nên thánh “loại biệt”, nói đúng hơn về một ơn gọi đặt nền tảng trên bí tích Truyền Chức Thánh, xét như là bí tích dành riêng cho linh mục, nghĩa là nhân danh sự thánh hiến mới cho Thiên Chúa nhờ việc thụ phong. Đối với ơn gọi loại biệt này, thánh Augustinô cũng có ý ám chỉ khi tiếp tục lời khẳng định “đối với anh em, tôi là giám mục; cùng với anh em tôi là Kitô hữu” bằng những lời lẽ sau: “Nếu như cùng chung sống với anh em trong tư cách người được cứu chuộc làm cho tôi cảm thấy vui mừng hơn là được cắt đặt đứng đầu anh em thì, khi tuân giữ lệnh truyền của Chúa, tôi sẽ cố công phục vụ anh em sao cho hết mực tận tâm để không phụ bạc đối với Đấng đã cứu chuộc tôi với giá làm cho tôi nên người tôi tớ của anh em” (43).

Trong phần tiếp theo, bản văn công đồng nêu dẫn một vài yếu tố cần thiết để xác định nội dung loại biệt gồm chứa trong đời sống thiêng liêng của các linh mục. Các yếu tố ấy gắn liền với sự “ thánh hiến” của riêng các linh mục, làm cho các linh mục nên đồng hình dạng với Đức Giêsu Kitô là Đầu và Mục Tử của Giáo Hội. Các yếu tố ấy gắn liền với “sứ vụ” hay thừa tác vụ riêng của chính các linh mục, trang bị cho các linh mục để các linh mục dấn thân và trở nên “khí cụ sống động của Đức Kitô Linh Mục Đời Đời” và để các linh mục hành động “nhân danh và thay mặt cho chính Đức Kitô”; các yếu tố ấy cũng gắn liền với toàn thể “đời sống” các linh mục qua đó các linh mục có trách nhiệm biểu lộ và làm chứng một cách độc đáo “tính triệt để Tin Mừng” (44).

Nên đồng hình dạng với Đức Giêsu Kitô Đầu và Mục Tử. Đức ái mục vụ.

21. Nhờ được thánh hiến bởi bí tích, linh mục nên đồng hình dạng với Đức Giêsu xét như là Đầu và Mục Tử, linh mục lãnh nhận ơn “có quyền thiêng liêng”, nghĩa là thông chia quyền bính qua đó Đức Giêsu Kitô dẫn dắt Giáo Hội nhờ Thần Khí Ngài (45).

Nhờ vào sự thánh hiến ấy, sự thánh hiến được thực hiện do việc tuôn đổ Thần Khí trong bí tích Truyền Chức Thánh, đời sống thiêng liêng của linh mục được đóng ấn, được uốn nắn và được đánh dấu bởi những cách ứng xử của chính Đức Kitô là Đầu và Mục Tử Giáo Hội, những cách ứng xử được gồm tóm trong đức ái mục vụ của linh mục.

Đức Giêsu Kitô là Đầu của Giáo Hội, Thân Thể Ngài. Ngài là “Đầu” với ý nghĩa mới và độc đáo, là “tôi tớ”, như chính Ngài đã nói: “Cũng vậy, Con Người đến không phải để được phục vụ nhưng để phục vụ và hiến ban mạng sống làm giá chuộc muôn dân” (Mc 10,45). Công cuộc phục vụ của Đức Giêsu đạt mức viên mãn bằng cái chêt trên thập giá, nghĩa là bằng sự hiến ban trọn vẹn chính mình trong khiêm hạ và tình yêu: “Ngài đã tự hoá mình thành hư vô bằng cách mang lấy thân phận nô lệ và trở nên giống người phàm. Chẳng những xử sự như một con người, Ngài còn tự hạ hơn nữa, bằng cách vâng phục cho đến chết và chết trên thập giá…” (Pl 2,7-8). Như thế, quyền bính của Đức Giêsu Kitô là Đầu ăn khớp với việc phục vụ của Ngài, với sự trao hiến trọn vẹn chính mình Ngài, khiêm nhượng và đầy tình thương yêu, cho Giáo Hội. Tất cả đều nằm trong sự hoàn toàn vâng phục Chúa Cha : Ngài là người Tôi Tớ đau khổ duy nhất và đích thực của Chúa, đồng thời là Tư Tế và là Của Lễ.

Đời sống thiêng liêng của mỗi linh mục phải được thôi thúc và trở nên sống động bởi chính thể loại quyền bính hay phục vụ ấy đối với Giáo Hội, và đó đúng là đòi hỏi do việc linh mục nên đồng hình dạng với Đức Giêsu Kitô là Đầu và nên đầy tớ của Giáo Hội (46). Chính trong chiều hướng ấy mà thánh Augustinô ngỏ lời với một giám mục trong ngày tấn phong như sau: “Người đứng đầu trên dân trước hết phải biết rằng mình là tôi tớ của nhiều người. Đừng khinh chê, tôi xin lặp lại, người đứng đầu trên dân đừng khinh chê việc trở nên tôi tớ cho nhiều người bởi vì Chúa các Chúa đã không khinh chê việc trở nên tôi tớ cho chúng ta” (47).

Đời sống thiêng liêng của các thừa tác viên Tân Ước phải được đóng ấn bằng thái độ tiên khởi ấy, thái độ phục vụ đối với dân Thiên Chúa (x. Mt 20,24-28; Mc 10,43-44), và phải được loại trừ khỏi mọi cao ngạo và mọi tham vọng “làm vua làm chúa” trên đoàn chiên được giao phó (x. 1Pr 5,2-3). Hoàn thành công việc phục vụ một cách tự nguyện và sẵn lòng : bằng cách ấy, các thừa tác viên — các “niên trưởng” trong cộng đoàn, tức các linh mục — sẽ có thể là “mô hình” của đoàn chiên và đoàn chiên, đến lượt mình, được mời gọi đảm nhận cùng một thái độ tư tế và phục vụ ấy đối với toàn thể thế giới để cho con người được triển nở đầy đủ và được giải thoát toàn vẹn.

22. Hình ảnh của Đức Giêsu Kitô Mục Tử của Giáo Hội, đoàn chiên Ngài, lấy lại và biểu trưng cùng những ý nghĩa như hình ảnh Đức Giêsu Kitô Đầu và Tôi Tớ, nhưng với những đường nét mới hơn và gợi cảm hơn. Thực hiện lời sấm về Đấng Mêsia Cứu Độ mà ngôn sứ Êdêkien và tác giả thánh vịnh trong kinh nguyện đã vui mừng hát lên (x. Tv 23/22; Ed 34,11-16), chính Đức Giêsu tự giới thiệu mình là “Mục Tử Nhân Lành” (Ga 10,11.14) chẳng những của dân Ítraen mà của mọi người (x. Ga 10,16). Đời sống của Ngài là biểu hiện liên lỉ và còn là sự thực hiện thường nhật “đức ái mục vụ” của Ngài: Ngài động lòng thương xót đám đông bởi vì bọ mỏi mệt và kiệt sức như những con chiên không có người chăn (x. Mt 9,35-36); Ngài đi tìm những con chiên thất lạc và tản mác (x. Mt 18,12-14), và Ngài reo vui một khi tìm được chúng; Ngài qui tụ chúng lại và bảo vệ chúng; Ngài biết chúng và gọi chúng từng con một (x. Ga 10,3); Ngài dẫn dắt chúng trên những đồng cỏ xanh tươi, tiến về những dòng suối nước êm đềm (x. Tv 23/22); Ngài dọn bàn ăn cho chúng, lấy chính mạng sống mình mà nuôi chúng. Vị Mục Tử Nhân Lành hiến ban mạng sống mình, bằng cái chết và sự phục sinh của Ngài, như phụng vụ la mã của Giáo Hội đã hát lên: “Ngài đã sống lại, Đức Giêsu, Vị Mục Tử chân chính, Đấng đã hiến ban mạng sống mình vì đoàn chiên, Đấng đã chọn lựa cái chết để cứu chúng ta. Alleluia” (48).

Thánh Phêrô gọi Đức Giêsu là “Thủ Lãnh các mục tử” (1Pr 5,4) vì công trình của Ngài và sứ vụ của Ngài được nối tiếp trong Giáo Hội bởi các Tông Đồ (x. Ga 21,15-17) và bởi những người kế nhiệm các ngài (x. 1Pr 5,1-4), các linh mục. Do tác dụng của việc thánh hiến, các linh mục được nên đồng hình dạng với Đức Giêsu Mục Tử Nhân Lành và được mời gọi sao chép bằng cuộc sống đức ái mục vụ của Ngài.

Sự trao hiến mà Đức Kitô tự mình dành cho Giáo Hội, hoa trái của tình yêu Ngài, mang ý nghĩa độc đáo của sự trao hiến giữa vợ và chồng, như hơn một lần các bản văn sách thánh đã gợi lên. Đức Giêsu là Phu Quân đích thực trao tặng rượu cứu độ cho Giáo Hội (x. Ga 2,11). Là “Đầu của Giáo Hội, là Đấng Cứu Độ của Thân Thể” (Ep 5,23), Ngài đã yêu mến Giáo Hội và đã nộp mình vì Giáo Hội, ngõ hầu thánh hoá Giáo Hội bằng cách thanh tẩy Giáo Hội bởi việc tắm nước kèm theo lời đọc; bởi vì Ngài muốn tự đem đến cho mình một Giáo Hội thật rạng rở, không tì vết, không nhăn nheo hoặc tương tự, nhưng thánh thiện và không vương nhiễm” (Ep 5,25-27). Chắc hẳn, Giáo Hội là thân thể trong đó với tư cách là Đầu Đức Kitô hiện diện và hành động, nhưng Giáo Hội còn là Hiền Thê như một Evà mới được dựng nên từ cạnh sườn bị đâm thủng của Đấng Cứu chuộc trên Thập Giá. Chính vì thế, Đức Kitô đứng “trước” Giáo Hội, “dưỡng nuôi Giáo Hội và chăm sóc Giáo Hội” (x. Ep 5,29) bằng việc trao hiến mạng sống mình cho Giáo Hội. Linh mục được mời gọi trở nên hình ảnh sống động của Đức Giêsu Kitô, Phu Quân của Giáo Hội : (49) dĩ nhiên, linh mục vẫn luôn ở trong cộng đoàn và thuộc về cộng đoàn, với tư cách là tín hữu, liên kết với mọi anh chị em được qui tụ với nhau nhờ Thần Khí; nhưng, do tác dụng của việc nên đồng hình dạng với Đức Kitô Đầu và Mục Tử, linh mục được đặt trong tình huống phu thê ấy, đối diện với cộng đoàn. “Với tư cách đại diện cho Chúa Kitô là Đầu, Mục Tử và Hiền Thê của Giáo Hội, linh mục chẳng những chiếm vị trí trong Giáo Hội nhưng còn đối diện với Giáo Hội (50). Chính vì thế, trong đời sống thiêng liêng của mình, linh mục được mời gọi bằng cuộc sống sao chép tình yêu của Đức Kitô Phu Quân đối với Giáo Hội Hiền Thê. Như vậy, đời sống của linh mục phải được chiếu tỏa và được định hướng bởi tính chất phu thê ấy và bởi đó phải làm chứng cho tình yêu phu thê của Đức Kitô; nhờ đó, linh mục sẽ có khả năng yêu mến người ta với một con tim mới, lớn rộng và trong vắng, với sự siêu thoát chân chính đối với chính mình, trong một sự trao hiến chính mình hoàn toàn, liên tục và chân thành. Và linh mục sẽ cảm nghiệm như thế một “ganh tị” thần thiêng (x. 2Cr 11,2), với một niềm âu yếm thậm chí được điểm tô bằng những sắc thái của tình mẫu tử, nhờ đó có khả năng chịu đựng, những “đau đớn do việc sinh con”, cho tới khi “ Đức Kitô được thành hình” trong các tín hữu (x. Gl 4,19).

23. Nguyên lý nội tại, nhân đức thôi thúc và hướng dẫn đời sống thiêng liêng của linh mục, xét như đã nên đồng hình dạng với Đức Kitô Đầu và Mục Tử, chính là đức ái mục vụ, thông phần vào đức ái mục vụ của Đức Kitô Giêsu: đó là ơn nhưng không của Chúa Thánh Thần và, đồng thời về phía linh mục, là sự dấn thân và lời mời gọi để đáp trả tự do và có trách nhiệm.

Cốt lõi của đức ái mục vụ là trao hiến chính mình, trao hiến hoàn toàn cho Giáo Hội, theo hình ảnh sự trao hiến của Đức Kitô và thông phần với Ngài. “Đức ái mục vụ là nhân đức nhờ đó chúng ta noi gương Chúa Kitô trong sự trao hiến của Ngài và trong việc phục vụ của Ngài. Không phải chỉ những việc chúng ta làm, nhưng là việc chúng ta trao hiến chính mình mới biểu lộ tình yêu của Đức Kitô dành cho đoàn chiên của Ngài. Đức ái mục vụ ấn định cho chúng ta cách thế suy nghĩ và hành động, phương thức quan hệ với người đời. Điều ấy rất là đòi hỏi đối với chúng ta…” (51).

Sự trao hiến chính mình, cội rễ và chóp đỉnh của đức ái mục vụ, nhắm đối tượng là Giáo Hội. Điều này ứng dụng cho Đức Kitô “Đấng đã yêu mến Giáo Hội và đã nộp mình cho Giáo Hội” (Ep 5,25). Linh mục cũng phải làm như vậy. Với đức ái mục vụ thấm nhuần vào việc thực thi thừa tác vụ linh mục, như một “tác vụ tình yêu” (52), “linh mục, một khi đón nhận ơn gọi thi hành tác vụ, có nhiệm vụ làm cho ơn gọi ấy trở thành một lựa chọn do tình yêu, nhờ đó Giáo Hội và các linh hồn trở thành mối lợi chính yếu của linh mục. Sống đường thiêng liêng ấy một cách cụ thể, linh mục sẽ có khả năng yêu mến Giáo Hội phổ quát và thành phần Giáo Hội được giao phó cho mình, với tất cả sự nồng nhiệt của một người chồng đối với vợ mình” (53). Sự trao hiến chính mình không có biên giới, được đánh dấu bởi chính nhiệt tâm tông đồ và truyền giáo của Đức Kitô, vị Mục Tử Nhân Lành, Đấng đã nói: “Ta còn nhiều chiên khác chưa thuộc về chuồng nầy; những chiên ấy, Ta phải dẫn chúng về; chúng sẽ nghe tiếng Ta và sẽ chỉ có một đoàn chiên và một mục tử mà thôi” (Ga 10,16).

Bên trong cộng đoàn Giáo Hội, đức ái mục vụ của linh mục yêu cầu và đòi hỏi, một cách riêng rẽ và loại biệt, linh mục phải giữ quan hệ ngôi vị với linh mục đoàn, trong sự lệ thuộc giám mục và cùng với giám mục, như Công đồng đã minh thị phát biểu: “Đức ái mục vụ đòi buộc các linh mục, nếu như không muốn chạy đua cách vô ích, phải làm việc bằng cuộc sống trong sự hiệp thông trường kỳ với các giám mục và với các anh em khác trong hàng linh mục” (54).

Sự trao hiến chính mình cho Giáo Hội liên quan tới Giáo Hội với tư cách Giáo Hội là thân thể và là Hiền Thê của Đức Giêsu Kitô. Chính vì thế, đức ái của linh mục trước hết được nối kết với đức ái của Chúa Giêsu Kitô. Chỉ khi nào yêu mến và phục vụ Chúa Kitô Đầu và Phu Quân thì đức ái mới trở nên nguồn cội, tiêu chuẩn, thước đo, động lực cho tình yêu và cho công việc phục vụ của linh mục đối với Giáo Hội, Thân Thể và Hiền Thê của Chúa Kitô. Đó chính là điều mà Thánh Tông Đồ Phaolô ý thức một cách tinh tường và mạnh mẽ, ngài viết cho các Kitô hữu thuộc Giáo Hội Corintô như sau: “Phần chúng tôi, chúng tôi chỉ là những người làm đầy tớ cho anh em vì Đức Giêsu” (2 Cr 4,5). Nhất là lời giảng dạy minh thị của Đức Giêsu, Ngài chỉ giao cho Phêrô tác vụ chăn dắt đoàn chiên của ngài sau ba lần làm chứng về tình yêu, thậm chí về một tình yêu trổi vượt: “Ngài nói với Phêrô lần thứ ba ‘Simon, con Gioan, con có yêu mến Ta không?’ Phêrô… nói với Ngài: ‘Lạy Chúa, Chúa biết hết mọi sự; Chúa biết rõ con yêu Chúa’. Đức Giêsu nói với ông: ‘Hãy chăn dắt các chiên của Ta’” (Ga 21,17).

Đặc biệt bắt nguồn từ bí tích Truyền Chức Thánh, đức ái mục vụ sẽ được biểu hiện tròn đầy và sẽ tìm được lương thực chính yếu nơi bí tích Thánh Thể: “Đức ái mục vụ — theo như chúng ta đọc thấy trong Công Đồng — cốt nhất này sinh từ hy lễ Thánh Thể; như vậy, hy lễ Thánh Thể là trung tâm và là cội rễ của toàn thể đời sống linh mục, tinh thần của linh mục phải là cố gắng làm sao nội tâm hoá tất cả những gì được thực hiện trên bàn thờ hiến tế” (55). Thực vậy, chính trong bí tích Thánh Thể mà được tái diễn — nói cho chính xác hơn, được hiện tại hoá lần nữa — hy lễ Thập Giá, sự trao hiến hoàn toàn của Chúa Kitô cho Giáo Hội, sự trao hiến bằng Mình bị nộp và Máu đổ ra của Ngài, như là chứng từ tuyệt hảo cho phẩm vị làm Đầu và Mục Tử của Ngài, làm Tôi Tớ và Hiền Thê cho Giáo Hội. Rõ ràng chính vì thế mà đức ái mục vụ của linh mục chẳng những nảy sinh từ bí tích Thánh Thể mà còn tìm được nơi việc cử hành bí tích Thánh Thể sự thực hiện cao độ nhất. Cũng vậy, chính từ bí tích Thánh Thể mà linh mục nhận được ơn và trách nhiệm mặc cho toàn thể cuộc sống mình một ý nghĩ “hi tế”.

Cũng chính đức ái mục vụ ấy làm thành nguyên lý nội tại và năng động có khả năng thống nhất những sinh hoạt khác biệt và đa tạp của linh mục. Nhờ đức ái mục vụ, có thể thực hiện được đòi hỏi cốt yếu và trường kỳ phải thống nhất đời sống nội tâm với nhiều hoạt động và trách nhiệm thuộc chức vụ. Lại nữa, hơn bao giờ hết, đòi hỏi ấy rất khẩn thiết trong một bối cảnh văn hoá xã hội và Giáo Hội được đánh dấu mạnh mẽ bởi sự đa phức, sự phân chia thành mảng và sự tản mác. Chỉ bằng cách ráp nối từng thời khắc và từng hành vi nào trong lựa chọn cơ bản, lựa chọn “hiến ban mạng sống mình vì đoàn chiên”, người ta mới có thể chắc chắn tạo được sự thống nhất sống còn ấy, sự thống nhất cần thiết để cho đời sống linh mục được hoà điệu và quân bình : “Để có thể xây dựng sự thống nhất đời sống, các linh mục, trong khi thi hành chức vụ, phải noi gương Chúa Kitô; lương thực của Ngài là thực thi ý muốn của Đấng đã sai Ngài và hoàn thành công trình của Đấng ấy… Sống bằng chính đời sống của Vị Mục Tử Nhân Lành như thế, các linh mục, khi thực hành đức ái mục vụ, sẽ tìm được mối giây trọn hảo linh mục, hầu làm cho đời sống và hoạt động của mình được thống nhất” (56).

Đời sống thiêng liêng trong việc thi hành thừa tác vụ.

24. Thần Khí Chúa đã thánh hiến Đức Kitô và đã sai Ngài đi loan báo Tin Mừng (x. Lc 4,18). Sứ vụ không phải là một yếu tố bên ngoài song song với việc thánh hiến, nhưng là cùng đích nội thuộc và sống còn của việc thánh hiến: thánh hiến là thánh hiến cho sứ vụ. Bằng cách ấy, không chỉ việc thánh hiến nhưng cả sứ vụ đều ở dưới dấu hiệu và sức mạnh thánh hoá của Thần Khí.

Điều này đã nghiệm đúng đối với Đức Giêsu. Điều này cũng đã nghiệm đúng với các Tông Đồ và những người kế nhiệm các Tông Đồ. Điều này nghiệm đúng với đối với toàn thể Giáo Hội, và, trong Giáo Hội, đối với các linh mục: tất cả đều lãnh nhận Thần Khí như là lời mời gọi và như là ơn thánh hoá trong và bởi việc chu toàn sứ vụ của mình (57).

Như vậy, giữa đời sống thiêng liêng của linh mục và việc thực hành chức vụ của linh mục, có một mối tương quan mật thiết (58) mà Công Đồng diễn tả như sau: “Trong khi thi hành thừa tác vụ của Thần Khí và của sự công chính (x. 2Cr 3,8-9), các linh mục bén rễ sâu trong đời sống thiêng liêng, miễn sao các ngài niềm nở đón nhận Thần Khí Chúa Kitô, Đấng ban sự sống cho các ngài và hướng dẫn các ngài. Những yếu tố được phối trí để cho đời sống các ngài nên trọn hảo, đó là các hành vi phụng vụ mỗi ngày của các ngài, là trọn vẹn thừa tác vụ của các ngài được thực thi trong mối hiệp thông với Giám mục và với các linh mục. Đàng khác, sự thánh thiện của các linh mục là một đóng góp cốt yếu làm cho thừa tác vụ mà các ngài chu toàn được hữu hiệu” (59).

“Anh em hãy sống điều mà anh em sẽ chu toàn và hãy uốn mình cho phù hợp với mầu nhiệm Thập Gía của Chúa!”. Đó là lời mời, là huấn dụ mà Giáo Hội ngỏ với các linh mục trong nghi thức phong chức khi lễ vật của dân thánh dành cho hy lễ thánh thể được trao cho linh mục. “Mầu nhiệm” mà linh mục là “người phân phát” (x. 1Cr 4,1) cuối cùng chính là Đức Giêsu Kitô, Đấng, trong Thần Khí, là nguồn mạch thánh thiện và là lời mời gọi thánh hoá. “Mầu nhiệm” phải nằm giữa lòng đời sống thường nhật của linh mục. Bởi đó, có đòi buộc phải cảnh tỉnh thật sự và phải ý thức bén nhạy. Cũng trong nghi thức phong chức, trước những lời vừa nêu dẫn trên đây, có lời khuyên nhủ như sau: “Anh em hãy ý thức những việc anh em sẽ làm”. Chính thánh Phaolô đã cảnh giác giám mục Timôthê: “Con chớ khinh thường ơn huệ thiêng liêng ở trong con” (1 Tm 4,13; x. 2Tm 1,6).

Tương quan giữa đời sống thiêng liêng và việc thi hành thừa tác vụ linh mục cũng có thể được giải thích khởi từ đức ái mục vụ mà bí tích Truyền Chức Thánh ban cho. Thừa tác vụ của linh mục, chính bởi vì thông phần vào thừa tác vụ cứu độ của Đức Giêsu Kitô Đầu và Mục Tử, không thể không hiện tại hoá đức ái mục vụ của linh mục, đức ái mà linh mục vừa phải coi là nguồn mạch và vừa phải lấy làm tinh thần cho công việc phục vụ cũng như cho sự tự hiến của mình. Xét theo thực thể khách quan, thừa tác vụ linh mục là “amoris officium”, như kiểu nói đã được trích dẫn của thánh Augustinô; thực thể khách quan ấy được coi đúng là nền tảng và là lời mời gọi hướng đến một ethos tương ứng, ethos ấy chỉ có thể là ethos của tình yêu, như lời thánh Augustinô: “Sit amoris officium pascere dominicum gregem” (60). Ethos ấy, đời sống thiêng liêng của linh mục, không là gì khác hơn sự đón nhận “chân lý” của thừa tác vụ linh mục, được coi là amoris officium, trong ý thức và trong tự do, và bởi đó trong trí óc và con tim, trong những quyết định và những hành động.

25. Điều thiết yếu, đối với một đời sống thiêng liêng được triển nở trong việc thi hành thừa tác vụ, là linh mục phải không ngừng canh tân và luôn luôn đào sâu hơn nữa ý thức của mình về việc làm thừa tác viên của Đức Giêsu Kitô, nhờ tác dụng của việc thánh hiến bằng bí tích và của việc nên đồng hình dạng với Đức Kitô Đầu và Mục Tử của Giáo Hội. Ý thức ấy không chỉ tương ứng với bản chất thực sự của sứ vụ mà linh mục chu toàn nhằm lợi ích cho Giáo Hội và cho nhân loại, nhưng còn tạo thành đời sống thiêng liêng cho linh mục chu toàn sứ vụ ấy. Quả vậy, linh mục được Đức Kitô chọn, không phải như một “đồ vật” nhưng như một “nhân vị”; linh mục không phải là một công cụ ù lì và thụ động nhưng là một “khí cụ sống động” như lời Công Đồng khi nói về đòi buộc hướng đến sự trọn lành (61). Cũng chính Công đồng trình bày các linh mục như là “những người liên kết và những cộng tác viên” của một Thiên Chúa “thánh thiện và thánh hoá” (62).

Trong chiều hướng ấy, con người của của linh mục với ý thức, tự do và trách nhiệm được lôi cuốn sâu đậm vào trong việc thi hành thừa tác vụ. Được bảo đảm do việc thánh hiến và việc nên đồng hình dạng phát xuất từ bí tích Truyền Chức Thánh, mối dây nối kết với Đức Giêsu Kitô xây dựng và đòi hỏi từ phía linh mục một mối dây khác, đó là “ý hướng”, là ý muốn có ý thức và tự do làm điều mà Giáo Hội muốn làm, bằng hành vi thừa tác. Mối dây ấy tự bản chất đời phải trở nên bao quát nhất và sâu xa nhất trong mức độ có thể, phải đem trí tuệ, tình cảm, đời sống, hay nói một cách vắn tắt, một chuỗi những trạng thái luân lý và thiêng liêng tương ứng vào trong các hành vi thừa tác mà linh mục chu toàn.

Chắc chắn thừa tác vụ linh mục, cách riêng việc cử hành các bí tích, đón nhận hiệu năng cứu độ từ chính hoạt động của Đức Giêsu Kitô là hoạt động được hiện tại hoá trong các bí tích. Nhưng, do bởi một kế hoạch của Thiên Chúa nhằm tuyên dương tính nhưng không tuyệt đối của ơn cứu độ, và khi làm cho con người vừa nên “người được cứu” vừa nên “vị cứu tinh” — luôn luôn và duy chỉ với Đức Giêsu Kitô — hiệu năng của việc thi hành thừa tác vụ còn tùy thuộc vào mức độ tham gia của con người và mức độ đón nhận nữa (63). Cách riêng, nếu trong một mức độ nào đó, thừa tác viên thực sự thánh thiện, thì sự thánh thiện ấy có ảnh hưởng đích thực trên cách mà thừa tác viên loan báo lời, cử hành các bí tích và hướng dẫn cộng đoàn trong đức ái. Và đó chính là điều mà Công Đồng quả quyết một cách rõ rệt: “Chính sự thánh thiện của các linh mục là một đóng góp cốt yếu làm cho thừa tác vụ mà các ngài chu toàn được hữu hiệu; chắc hẳn ơn thánh của Thiên Chúa có thể hoàn thành công trình cứu độ ngay cả bởi những thừa tác viên bất xứng nhưng, thông thường, Thiên Chúa ưa thích biểu lộ những sự việc cao cả của Ngài qua những con người niềm nở và ngon ngùy đối với sự thúc đẩy và dẫn dắt của Chúa Thánh Thần, qua những con người sống kết hiệp mật thiết với Chúa Kitô và sống đời sống thánh thiện nhờ đó có thể nói như Thánh Tông Đồ: “Nếu tôi sống thì không còn phải là tôi sống, nhưng là Chúa Kitô sống trong tôi” (Gl 2,20)” (64).

Ngay trong ý thức về việc mình là thừa tác viên của Đức Giêsu Kitô Đầu và Mục Tử, còn có niềm vui vì đã lãnh nhận từ Đức Giêsu Kitô một ân sủng riêng biệt : ân sủng do đã được Chúa chọn làm “khí cụ sống động” cho công trình cứu độ. Sự lựa chọn ấy chứng tỏ tình yêu của Đức Giêsu Kitô dành cho linh mục. Lớn hơn tất cả mọi tình yêu khác, tình yêu ấy đòi phải đáp trả. Sau khi sống lại, Đức Giêsu đặt ra cho Phêrô câu hỏi cơ bản về tình yêu: “Simon con ông Gioan, con có yêu mến Ta hơn những người này không?”. Sau khi Phêrô trả lời, sứ vụ mới được giao phó: “Hãy chăn dắt các chiên mẹ của Ta” (Ga 21,15). Để có thể giao cho Phêrô đoàn chiên của Ngài, trước đó Đức Giêsu hỏi xem Phêrô có yêu mến Ngài không. Nhưng thực ra, đó là tình yêu tự do và đi trước của chính Đức Giêsu đã thúc đẩy Ngài đặt câu hỏi ấy cho Phêrô và rồi giao phó cho Vị Tông Đồ các chiên “của Ngài”. Bởi đó, bất cứ hành vi thừa tác nào, trong khi dẫn đến việc yêu mến và phục vụ Giáo Hội, cũng thúc đẩy để có sự chín muồi ngày càng hơn trong tình yêu và trong việc phục vụ Đức Kitô Đầu, Mục Tử và Phu Quân của Giáo Hội; tình yêu ấy luôn luôn được coi là sự đáp trả lại tình yêu đi trước, tự do và hào phóng của Thiên Chúa trong Đức Kitô. Đàng khác, sự tăng triển trong tình yêu đối với Đức Giêsu Kitô lại định hình cho sự tăng triển trong tình yêu đối với Giáo Hội: “Chúng tôi chăn dắt anh em (pascimus vobis); cùng với anh em, chúng tôi được chăn dắt (pascimur vobiscum). Nguyện xin Chúa ban cho chúng tôi sức mạnh để yêu mến anh em đến độ có thể chết cho anh em, hoặc bằng hiệu quả bên ngoài hoặc bằng tâm hồn bên trong (aut effectu aut affectu)” (65).

26. Nhờ lời giáo huấn quí giá của Công Đồng Vaticanô II (66), chúng ta có thể nắm vững được những điều kiện, những đòi buộc, những thể loại và những thành quả của mối tương quan mật thiết phải có giữa đời sống thiêng liêng của linh mục với việc thi hành ba thừa tác vụ của linh mục: Lời Chúa, các Bí Tích và công việc phục vụ trong Đức Ái. Trước hết linh mục là thừa tác viên Lời Chúa. Linh mục được hiến thánh và sai đi để loan báo Tin Mừng Nước Trời cho mọi người, mời gọi mọi người vâng phục đức tin và hướng dẫn các tín hữu để mỗi ngày họ một hiểu biết và thông hiệp sâu xa hơn vào mầu nhiệm của Thiên Chúa, đã được Đức Kitô mạc khải và truyền đạt cho chúng ta. Vì thế, chính linh mục trước tiên phải tạo được một mối thâm tình sâu đậm giữa bản thân mình với Lời Chúa. Khía cạnh ngữ học hoặc chú giải mặc dầu cần thiết vẫn chưa đủ để gọi là hiểu biết Lời Chúa. Linh mục phải đón nhận Lời Chúa với một tấm lòng mềm mại và nguyện cầu để cho Lời Chúa thấm nhập đến tận đáy thẳm ý nghĩ và tình cảm của mình và làm nảy sinh nơi mình một tinh thần mới, làm nảy sinh “tư tưởng của Chúa” (1 Cr 2,16). Bởi đó, những lời nói và hơn nữa những lựa chọn, những thái độ của linh mục phải làm sao để ngày càng nên trong suốt hơn đối với Tin Mừng, để loan báo Tin Mừng và làm chứng cho Tin Mừng. Chỉ bằng cách “ở” trong Lời Chúa mà linh mục có thể trở nên môn đệ hoàn hảo của Chúa, có thể thấu triệt chân lý và có thể thực sự trở nên tự do, vượt qua mọi trạng huống trái nghịch hoặc xa lạ với Tin Mừng (x. Ga 8,31-32). Linh mục phải là người đầu tiên tin vào Lời Chúa với ý thức tròn đầy rằng những lời lẽ trong thừa tác vụ của mình không phải là “của mình” nhưng là của Đấng đã sai mình. Linh mục không phải làm chủ Lời Chúa : linh mục là người phục vụ Lời. Không phải linh mục là người duy nhất chiếm hữu Lời Chúa : linh mục là người mắc nợ Lời Chúa đối với dân Thiên Chúa. Chính bởi vì ngài rao giảng Tin Mừng và để ngài có thể rao giảng Tin Mừng mà linh mục, cũng như Giáo Hội, càng ngày càng phải ý thức rằng chính mình cũng cần phải được liên lỉ phúc âm hoá (67). Linh mục loan báo lời Chúa, với tư cách là thừa tác viên, linh mục tham dự vào quyền làm ngôn sứ của Đức Kitô và của Giáo Hội. Vì công việc ấy, để cho chính mình cũng như cho các tín hữu bảo đảm có được sự chuyển đạt Tin Mừng trong tính toàn vẹn của nó, linh mục được mời gọi trau dồi nơi mình một sự nhạy cảm, một trạng thái ứng sẵn và một sự gắn bó đặc biệt đối với Truyền Thống sống động của Giáo Hội và đối với Huấn Quyền của Giáo Hội. Tất cả mọi điều ấy không xa lạ đối với Lời Chúa nhưng góp phần cho việc cắt nghĩa Lời Chúa được chuẩn xác hơn và bảo vệ ý nghĩa chính hiệu cho Lời Chúa (68).

Nhất là trong việc cử hành các bí tích, cũng như trong việc cử hành Phụng Vụ các Giờ Kinh, linh mục được mời gọi sống và biểu lộ sự thống nhất sâu xa giữa việc thi hành thừa tác vụ và đời sống thiêng liêng của mình. Là ân sủng được ban cho Giáo Hội, bí tích Thánh Thể là nguyên lý cho sự thánh thiện và là lời mời gọi hướng đến sự thánh hoá. Đối với linh mục, bí tích Thánh Thể chiếm một vị trí thật sự trung tâm, trong thừa tác vụ cũng như trong đời sống thiêng liêng của Ngài. “Bởi vì Bí tích Thánh Thể chứa đựng tất cả kho tàng thiêng liêng của Giáo Hội, nghĩa là chứa đựng chính Chúa Kitô, Chiên Vượt Qua, bánh hằng sống : thân mình Ngài có sự sống nhờ Chúa Thánh Thần và tạo sự sống, thân hình ấy ban sự sống cho mọi người, mời gọi họ và hướng dẫn họ cùng kết hiệp với Ngài hiến dâng chính cuộc đời của riêng mình, hiến dâng công việc của mình và hiến dâng toàn thể tạo vật” (69).

Từ những bí tích khác nhau và cách riêng từ ân sủng loại biệt thuộc về từng bí tích, đời sống thiêng liêng của linh mục nhận được những dấu ấn riêng biệt : thực vậy, đời sống ấy được cơ chế hoá và được uốn nắn nhờ vào những đặc tính và đòi buộc đa dạng của các bí tích được cử hành và được cảm nghiệm bằng cuộc sống.

Tôi muốn có một lời nhắc nhở đặc biệt về bí tích Thống Hối mà các linh mục là thừa tác viên nhưng đồng thời cũng phải là những thụ nhân, từ đó trở nên những người làm chứng cho lòng từ bi nhân ái của Thiên Chúa đối với người cõ tội. Tôi đề nghị lần nữa điều mà Tôi đã viết trong Tông Huấn Reconciliatio et poenitentia : “Cũng như đời sống của các anh em giáo dân và tu sĩ của mình, đời sống thiêng liêng và mục vụ của linh mục chỉ giữ được phẩm chất và lòng nhiệt thành nếu như cá nhân linh mục biết thực hành bí tích Thống Hối một cách chuyên cần và nghiêm chỉnh. Việc cử hành bí tích Thánh Thể và làm thừa tác viên của các bí tích khác, nhiệt tâm tông đồ, những giao tiếp với các tín hữu, sự hiệp thông với các anh em linh mục, sự cộng tác với giám mục, đời sống cầu nguyện, nói tóm lại, toàn bộ đời sống linh mục phải nhận chịu một sự thoái hoá không thể tránh khỏi nếu, vì coi thường hay vì bất cứ một lý do nào khác, linh mục không thường đều chạy đến với bí tích Thống Hối bằng một đức tin và một lòng đạo đức chân chính. Linh mục nào mà không xưng tội nữa hoặc xưng tội một cách chẳng ra gì thì con người linh mục cũng như hoạt động linh mục sẽ mau chóng cảm thụ điều ấy và chính cộng đoàn mà linh mục là người mục tử cũng không khỏi nhận ra” (70).

Sau hết, các linh mục được mời gọi thi hành quyền bính và phục vụ Đức Giêsu Kitô Đầu và Mục Tử của Giáo Hội bằng cách thôi thúc và dẫn dắt cộng đoàn Giáo Hội, nghĩa là bằng cách quy tụ “gia đình của Thiên Chúa, một cộng đoàn huynh đệ chỉ có chung một linh hồn, và, nhờ Chúa Kitô trong Chúa Thánh Thần, các linh mục dẫn dắt cộng đoàn ấy đến với Thiên Chúa là Cha” (71). Trách nhiệm cai quản ấy (“munus regendi”) là một trách nhiệm rất tế nhị và phức tạp đòi hỏi, ngoài sự chú tâm đối với từng người và từng ơn gọi khác biệt, phải có khả năng điều hợp mọi ân huệ và đặc sủng mà Chúa Thánh Thần khơi dậy trong cộng đoàn bằng cách kiểm nghiệm chúng và mặc giá trị cho chúng hầu xây dựng Giáo Hội, luôn luôn trong sự hiệp nhất với các giám mục. Đây là một thừa tác vụ đời linh mục phải có một đời sống thiêng liêng sâu đậm, giầu những phẩm cách và nhân đức dành riêng cho người “chủ tọa” và “chỉ đạo” mọi cộng đoàn, cho người “niên trưởng” hiểu theo nghĩa mạnh nhất và cao quí nhất của từ ngữ, đó là lòng trung thành, tính nhất quán, sự khôn ngoan, khả năng tiếp nhận mọi người, thái độ hoà nhã, lập trường vững chắc về những điều cốt yếu, sự từ bỏ đối với những quan điểm quá chủ quan, lòng vô vị lợi tự bản thân, tính kiên nhẫn, lòng hăng say dấn thân mỗi ngày, niềm tin cậy vào hoạt động thầm kín của ân sủng được biểu lộ nơi những người đơn sơ và nơi những người nghèo (x. Tt 1,7-8).

Cuộc sống của người linh mục và tính triệt để của Tin Mừng

27. Thần Khí Chúa ngự trên tôi (Lc 4,18). Chúa Thánh Thần được ban tặng nhờ bí tích Truyền Chức Thánh là nguồn mạch thánh thiện và là lời mời gọi thánh hoá. Bởi vì, trước hết, Ngài làm cho linh mục nên đồng hình đồng dạng với Đức Kitô Đầu và Mục Tử của Giáo Hội và Ngài giao phó cho linh mục chu toàn sứ mệnh làm ngôn sứ, làm tư tế và làm vua nhân danh và thay mặt Đức Kitô. Tiếp đến, Ngài thôi thúc linh mục và tạo sinh khí cho cuộc sống thường nhật của linh mục, vun đắp bằng những ân huệ và những đòi buộc, những nhân đức và những khí thế, cụ thể hoá trong đức ái mục vụ. Đức ái này là tổng hợp những giá trị và những nhân đức dựa theo Tin Mừng và là sức mạnh nâng đỡ sự phát triển các giá trị và các nhân đức ấy cho tới mức trọn hảo Kitô Giáo (72).

Đối với hết mọi Kitô hữu không loại trừ một ai, tính triệt để Tin Mừng là một đòi buộc cơ bản và bất khả thay thế, phát xuất từ lời Đức Kitô mời gọi nối gót Ngài và noi gương Ngài, bằng cách cậy dựa vào sự hiệp thông đời sống chặt chẽ với Ngài, do tác động của Chúa Thánh Thần (x. Mt 8,18-20; 10,37-39; Mc 8,34-38; 10,17-21; Lc 9,57-62). Chính đòi buộc ấy cũng đồng thời liên can đến các linh mục, chẳng những bởi vì các linh mục ở “trong” Giáo Hội, nhưng còn bởi vì các linh mục đứng “trước” Giáo Hội, với tư cách là đã nên đồng hình dạng với Đức Kitô Đầu và Mục Tử, đã được thánh hiến và đã dấn thân vào trong thừa tác vụ được phối trí, đã được thôi thúc bởi đức ái mục vụ. Trong tinh thần triệt để của Tin Mừng và để biểu lộ tinh thần ấy, có rất nhiều nhân đức và đòi buộc luân lý mang tính định đoạt đối với đời sống mục vụ và thiêng liêng của linh mục đã được khai hoa kết nhụy. Chúng ta có thể nêu dẫn chẳng hạn đức tin, thái độ khiêm nhượng trước mầu nhiệm Thiên Chúa, lòng từ ái, sự cẩn trọng. Những “lời khuyên Phúc Âm” mà Đức Giêsu đề nghị trong Bài Giảng Trên Núi là một hình thức diễn đạt ưu việt của tính triệt để Tin Mừng (x. Mt 5-7). Trong số những lời khuyên được phối trí mật thiết với nhau ấy, có đức vâng phục, đức khiết tịnh và đức nghèo khó (73). Linh mục được mời gọi sống các lời khuyên ấy theo những thể thức và hơn nữa, theo những cứu cánh và ý nghĩa nguyên thủy, như chúng đã phát xuất từ căn tính của linh mục và biểu lộ căn tính ấy.

28. Trong số những đức tính cần thiết nhất cho thừa tác vụ linh mục, phải kể đến trạng thái ứng trực của tâm hồn nhờ đó các linh mục không tìm ý riêng của mình nhưng tìm ý của Đấng đã sai phái mình (x. Ga 4,34; 5,30; 6,38)” (74). Đó chính là đức vâng phục vốn mang một số đặc điểm riêng đối với trường hợp đời sống thiêng liêng linh mục.

Trước hết đó là một sự vâng phục “tông truyền”, hiểu theo nghĩa công nhận, yêu mến và phục vụ Giáo Hội trong cơ cấu phẩm trật của Giáo Hội. Quả vậy, không thể có thừa tác vụ linh mục nếu không có hiệp thông với Đức Giáo Hoàng và với giám mục đoàn, cách riêng với giám mục giáo phận mà linh mục mắc nợ vì đã hứa “tôn kính với tâm tình hiếu thảo và vâng phục” trong ngày thụ phong. Việc “tuân phục” nhưng vị nắm giữ quyền bính trong Giáo Hội không hề gây nhục nhã, nhưng lại là hoa quả của tự do có trách nhiệm nơi linh mục và chính linh mục đón nhận những đòi buộc của một đời sống Giáo Hội có cơ cấu và có tổ chức. Linh mục cũng đón nhận ơn phân định và ơn ý thức trách nhiệm trong những quyết định mang chiều kích Giáo Hội. Ân sủng ấy, Đức Giêsu đã tặng ban cho các Tông Đồ và những người kế nhiệm các ngài để cho mầu nhiệm Giáo Hội được bảo tồn một cách trung thành và để cho mối dây nối kết cộng đoàn Kitô hữu được gìn giữ trên con đường duy nhất dẫn đưa Giáo Hội tới bến cứu độ.

Đức vâng phục Kitô giáo chính hiệu, với những động lực chuẩn xác và với sự tuân giữ không vì tinh thần nô lệ, giúp cho linh mục thi hành quyền bính mà linh mục có sứ vụ thi hành đối với dân Thiên Chúa, sao cho Tin Mừng như thể xuyên thấu chính mình: không theo chủ nghĩa độc tài và cũng không áp dụng những phương thế mỵ dân. Chỉ người nào biết vâng phục trong Đức Kitô mới biết làm sao để yêu cầu người khác vâng phục trong tinh thần Tin Mừng.

Ngoài ra, đức vâng phục của linh mục còn biểu lộ một đòi buộc mang chiều kích “cộng đồng”: đó không phải là sự vâng phục của một cá nhân biệt lập đối với quyền bính, nhưng ngược lại đó là sự vâng phục hội nhập một cách sâu đậm vào trong sự hiệp nhất của linh mục đoàn, trong khi linh mục đoàn, với tư cách là cộng đoàn, được mời gọi sống trong sự hợp tác chân tình với giám mục và, qua giám mục với vị kế nhiệm thánh Phêrô (75).

Khía cạnh ấy trong đức vâng phục của linh mục đòi hỏi một sự khổ chế đáng kể: một đàng, linh mục phải tập làm quen để đừng quá gắn bó với những sở thích riêng của mình và với những quan điểm riêng của mình; đàng khác linh mục phải nhượng cho các anh em đồng sự khoảng cách cần thiết để họ có thể biểu dương tài nghệ và khả năng của họ, mà không hề ganh tị, phân bì hoặc kình chống. Đức vâng phục của linh mục là một sự vâng phục liên đới, bởi vì được xây dựng trên sự kiện linh mục thuộc về linh mục đoàn duy nhất và bởi vì, luôn luôn giữa lòng linh mục đoàn và cùng với linh mục đoàn, biểu lộ những đường hướng và những lựa chọn đồng trách nhiệm.

Sau hết, đức vâng phục của linh mục mang một tính chất riêng biệt, tính chất “mục vụ”. Điều ấy có nghĩa là linh mục sống trong một bầu khí liên lỉ ứng trực và sẵn sàng để cho mình bị chộp giữ hay, có thể nói, để cho mình bị “ăn” do bởi những nhu cầu và những đòi hỏi dĩ nhiên cần phải hợp lý của đoàn chiên; những nhu cầu và đòi hỏi ấy một đôi khi cần phải được đem ra phân định và kiểm chứng, thế nhưng không thể chối cãi được rằng cuộc sống của người linh mục hoàn toàn được lấp đầy bởi sự đói khát Tin Mừng, đói khát lòng tin, đói khát hy vọng, đói khát tình yêu Thiên Chúa và đói khát mầu nhiệm Thiên Chúa, một sự đói khát, có thể được nhận thức nhiều hay ít, đang hiện hữu trong đoàn dân Thiên Chúa được giao phó cho linh mục.

29. Công đồng viết: trong số những lời khuyên Phúc Âm, “trước tiên phải kể đến hồng ân quí giá là ân sủng mà Chúa Cha đã ban cho một số người (x. Mt 19,11; 1Cr 7,7), đó là ơn tự hiến cho một mình Thiên Chúa dễ dàng hơn và với một con tim không chia sớt (x. 1Cr 7,32-34), trong bậc sống đồng trinh hoặc độc thân. Sự tiết dục hoàn toàn vì Nước Trời ấy đã luôn luôn là đối tượng, về phía Giáo Hội, của một niềm vinh dự đặc biệt, như là dấu chỉ và trợ lực cho đức ái và như là nguồn mạch riêng biệt làm trổ sinh hoa trái thiêng liêng trong thế giới” (76). Trong bậc sống đồng trinh và độc thân, đức khiết tịnh duy trì ý nghĩa cơ bản của nó, nghĩa là ý nghĩa của một đời sống tính dục con người được thể hiện như là một phương cách biểu lộ chính hiệu và như là một lối nẻo phục vụ quí giá cho tình yêu hiệp thông và trao hiến liên vị. Ý nghĩa ấy tiềm ẩn và tồn tại một cách tròn đầy trong bậc sống đồng trinh là bậc sống, mặc dầu khước từ đời sống hôn nhân, thể hiện “ý nghĩa phu thê” của thân xác, nhờ vào sự hiệp thông và sự trao hiến liên vị với Đức Giêsu Kitô và với Giáo Hội của Ngài; sự hiệp thông ấy và sự trao hiến ấy là hình ảnh tiên báo và là cảm nếm trước hương vị của sự hiệp thông trao hiến hoàn hảo và vĩnh viễn trên trời: “Trong bậc sống đồng trinh, con người ấp ủ niềm mong đợi, ngay cả trong thân xác mình, ngày dự tiệc cưới cánh chung của Đức Kitô với Giáo Hội, và con người tự trao hiến hoàn toàn chính mình cho Giáo Hội với hy vọng Đức Kitô sẽ trao tặng chính Ngài cho Giáo Hội trong chân lý trọn vẹn của đời sống vĩnh cửu” (77).

Dưới ánh sáng ấy, người ta có thể dễ dàng hiểu được và đánh giá được những nguyên do đã dẫn tới sự lựa chọn qua nhiều thế kỷ của Giáo Hội Tây Phương và đã làm cho Giáo Hội Tây Phương, mặc cho mọi khó khăn và mọi bình phẩm được nêu lên qua nhiều giai đoạn, duy trì quyết định chỉ phong chức linh mục cho những người mà quyết mình được Thiên Chúa mời gọi sống ơn trinh khiết trong bậc sống độc thân tuyệt đối và vĩnh viễn.

Các Nghị Phục Thượng Hội Đồng đã diễn đạt tư tưởng của các ngài cách rõ rệt và mạnh mẽ trong một lời đề nghị quan trọng đáng cho chúng ta nhắc lại trọn vẹn và nguyên văn. “Mặc dầu vẫn tôn trọng kỷ luật của các Giáo Hội Đông Phương, xác tín rằng đức trinh khiết toàn vẹn trong bậc độc thân linh mục là một đặc sủng, Thượng Hội Đồng nhắc nhở các linh mục rằng đức trinh khiết ấy chính là hồng ân vô giá của Thiên Chúa dành cho Giáo Hội và đức trinh khiết ấy bày tỏ cho thế giới hiện đại một giá trị ngôn sứ. Thượng Hội Đồng lần này, một lần nữa và một cách mạnh mẽ, khẳng định lại điều mà Giáo Hội La mã và một số lễ chế Đông Phương đòi hỏi, rằng chức linh mục chỉ được phong ban cho những người đã lãnh nhận từ Thiên Chúa hồng ân có được ơn gọi sống trinh khiết trong bậc độc thân (không thành kiến đối với truyền thống của một số Giáo Hội Đông Phương và đối với một số trường hợp đặc biệt trong đó có những giáo sĩ sống đời đôi bạn vốn xuất thấn từ những giáo phái khác mới trở lại đạo công giáo và vốn là trường hợp ngoại lệ đối với thông điệp của Đức Phaolô VI về đời sống độc thân linh mục) [số 42]. Thượng Hội Đồng không muốn để vương vấn nơi tâm trí bất cứ ai một chút hoài nghi nào liên quan tới ý định kiên quyết của Giáo Hội là duy trì luật buộc sống độc thân vĩnh viễn do tự do lựa chọn đối với các ứng sinh được thụ phong linh mục, trong nghi lễ La Mã. Thượng Hội Đồng đề nghị bậc sống độc thân phải được trình bày và cắt nghĩa trong tất cả sự phong phú từ nơi Thánh Kinh, thần học và tu đức học, như là hồng ân quí giá mà Thiên Chúa ban cho Giáo Hội và như là dấu chỉ của Nước Chúa vốn không thuộc về thế gian này, đồng thời là dấu chỉ cho tình yêu của Thiên Chúa đối với thế gian này, cũng như cho tình yêu không chia sớt của linh mục đối với Thiên Chúa và đối với dân Thiên Chúa, làm sao để cho bậc sống độc thân được nhìn nhận như là một yếu tố tích cực làm cho chức linh mục được nên phong phú” (78).

Điều rất quan trọng, đó là linh mục phải hiểu được động lực và nguyên do thần học dẫn tới luật của Giáo Hội về bậc sống độc thân. Với tính cách là luật, nó diễn đạt ý định của Giáo Hội, ngay cả trước khi chủ thể bày tỏ ý muốn đáp ứng của mình. Nhưng ý định của Giáo Hội tìm được động lực và nguyên do tối hậu nơi mối liên kết giữa bậc sống độc thân với việc Phong Chức Thánh, nhờ đó linh mục được nên đồng hình dạng với Đức Giêsu Kitô Đầu và Phu Quân của Giáo Hội. Giáo Hội xét như là Hiền Thê của Đức Giêsu Kitô mong muốn được linh mục yêu mến một cách hoàn toàn và độc chiếm giống như Đức Giêsu Kitô Đầu và Phu Quân đã yêu mến Giáo Hội. Đời sống độc thân linh mục lúc ấy sẽ là sự trao hiến chính mình trong với Đức Kitô cho Giáo Hội Ngài và sẽ biểu lộ công việc phục vụ mà linh mục thực thi cho Giáo Hội trong Chúa Kitô và với Chúa Kitô.

Vì nhắm đến một đời sống thiêng liêng chính hiệu, linh mục cần phải quan niệm và sống bậc độc thân không phải như một yếu tố riêng rẽ và thuần túy tiêu cực, nhưng như một trong những sắc thái của một đường hướng tích cực, loại biệt và đặc trưng của nhân cách linh mục. Từ bỏ cha mẹ mình, linh mục nối gót Đức Giêsu Mục Tử Nhân Lành trong một sự hiệp thông tông truyền, để phục vụ dân Chúa. Bậc sống độc thân bởi đó cần phải được đón nhận với một quyết định tự do và ngập tràn yêu thương, cần phải được cải tiến liên lỉ, như là một hồng ân vô giá của Thiên Chúa, như là một “trợ lực cho đức ái mục vụ” (79), như là một sự tham dự riêng biệt vào tình phụ tử của Thiên Chúa và vào sự sản sinh của Giáo Hội, như là một chứng từ cho Vương Quốc cánh chung được ban cho thế giới. Để sống tốt cả những đòi hỏi luân lý, mục vụ và thiêng liêng của bậc độc thân linh mục, tuyệt đối cần thiết phải cầu nguyện với lòng khiêm nhượng và cậy tin, như lời nhắc nhở của Công Đồng: “Chắc hẳn, trong thế giới hiện nay, có rất nhiều người tuyên bố rằng không thể nào thực hiện được tiết dục hoàn toàn: đó là một lý do hơn nữa để các linh mục phải khiêm tốn và kiên trì cầu xin, trong sự kết hiệp với Giáo hội, ơn trung thành, là ơn không bao giờ bị từ chối với mọi người” (80). Ngoài ra, nhờ liên kết việc cầu nguyện với các bí tích của Giáo Hội và với nỗ lực khổ chế, linh mục sẽ có được niềm hy vọng trong những khó khăn, ơn tha thứ trong những lỗi phạm, lòng tin cậy và sự can đảm trong việc tiếp tục tiến bước.

30. Về đức nghèo khó theo tinh thần Tin Mừng, các Nghị Phụ Thượng Hội Đồng đã đưa ra một lối mô tả cô đọng và sâu sắc hơn bao giờ hết, trình bày đức nghèo khó như là việc “đem mọi của cải (tous les biens) tùng phục Của Cải tối thượng (Bien suprême) là Thiên Chúa và Vương Quốc của Ngài” (81). Trong thực tế, chỉ người nào chiêm ngắm và sống mầu nhiệm Thiên Chúa như là Của Cải độc nhất và tối thượng, như là nguồn phong phú thực thụ và vĩnh viễn, mới có thể hiểu và thực hành đức nghèo khó. Đức nghèo khó chắc chắn không phải là khinh chê và từ chối những của cải vật chất, nhưng là tự do sử dụng những của cải ấy và đồng thời vui vẻ từ khước chúng với một trạng thái ứng trực nội tâm, đối với Thiên Chúa và đối với những kế hoạch của Ngài.

Sự nghèo khó của linh mục, vì lý do linh mục nhờ bí tích nên đồng hình dạng với Đức Kitô Đầu và Mục Tử, mặc lấy những đặc điểm mục vụ chính xác. Các Nghị Phụ Thượng Hội Đồng đã dừng chân nơi những đặc điểm ấy bằng cách lặp lại và khai triển giáo huấn của công đồng (82). Cùng với những đặc điểm khác, các ngài viết: “Theo gương Chúa Kitô, Đấng vốn giàu sang đã hoá nên nghèo khó vì yêu thương chúng ta (x. 2Cr 8,9), các linh mục phải coi người nghèo và những người yếu đuối như là được giao phó cho mình một cách đặc biệt, và phải có khả năng nêu chứng tá nghèo khó bằng một đời sống giản dị và khắc khổ, vì đã quen từ bỏ một cách quảng đại những gì là dư thừa (Optatam totius, ĐT số 9; C.I.C, GL khoản 282)” (83).

Quả thật “thợ xứng đáng hưởng thù lao của mình” (Lc 10,7) và “Chúa đã chỉ thị cho những ai loan báo Tin Mừng sống bằng Tin Mừng” (1Cr 9,14); thế nhưng, thật ra quyền ấy của người tông đồ không được nhầm lẫn với bất cứ một kỳ vọng nào nhằm đem công việc phục vụ Tin Mừng và Giáo Hội làm cái phụ thuộc cho những mối lợi và bổng lộc có thể phát sinh từ đó. Chỉ có sự nghèo khó mới chắc chắn tạo được cho linh mục tư tế ứng trực cần có để được sai đi nơi nào mà hoạt động của mình hữu ích hơn và cấp thiết hơn, ngay cả với giá của một hy sinh bản thân. Đó là điều kiện tiên quyết cho sự ngoan nguỳ của người tông đồ đối với Thần Khí, Đấng làm cho người tông đồ sẵn sàng “ra đi” mà không cần hành trang và không bị ràng buộc, chỉ một mực tuân theo ý định của Đấng là Thầy (x. Lc 9,57-62; Mc 10,17-22).

Đích thân hội nhập vào trong cộng đoàn mà mình có trách nhiệm, linh mục cần phải nêu chứng tá về một sự “trong suốt” hoàn toàn trong việc quản trị tài sản của cộng đoàn. Linh mục sẽ không bao giờ xử sự như thể các tài sản ấy là gia sản riêng tư của mình, nhưng như những gì mà mình phải thanh thỏa trước mặt Thiên Chúa và trước mặt anh em mình, nhất là trước những người nghèo. Và, nhờ ý thức rằng mình thuộc về một linh mục đoàn duy nhất, linh mục sẽ dấn thân để tạo điều kiện thuận lợi, hoặc cho một sự phân phối của cải giữa các anh em đồng sự cao sang cho công bằng hơn, hoặc cho việc cùng hưởng dùng chung với nhau những của cải ấy (x. Cv 2,42-45).

Tự do nội tâm, được nuôi dưỡng và bảo toàn nhờ vào đức nghèo khó theo tinh thần Tin Mừng, làm cho linh mục có khả năng đứng về phía những người yếu đuối nhất, liên kết chính mình với những nỗ lực của họ nhằm tái tạo một xã hội công bằng hơn, trở nên nhạy bén hơn cũng như có khả năng hiểu biết và phân định hơn đối với những hiện tượng liên can tới khía cạnh kinh tế và xã hội của đời sống, đồng thời thăng tiến chọn lựa nào là ưu tiên của người nghèo. Không loại trừ một ai trong việc loan báo và ban phát ơn cứu độ, linh mục biết chú tâm tới những người bé nhỏ, tới các tội nhận, tới hết mọi người sống ngoài lề xã hội, theo như mẫu mực mà Đức Giêsu đã để lại trên bước đường thừa tác vụ ngôn sứ và tư tế của Ngài (x. Lc 4,18).

Chúng ta đừng quên ý nghĩa ngôn sứ của đức nghèo khó linh mục, đặc biệt khẩn thiết trong những xã hội tiêu dùng: “Một linh mục thật sự nghèo chắc chắn sẽ là dấu chỉ cụ thể cho sự tách biệt, cho sự chối từ chớ không phải cho sự lụy phục đối với bạo quyền trong thế giới đương thời là thế giới đặt trọn niềm tin cậy của mình nơi tiền bạc và nơi sự an toàn vật chất” (84).

Trên thập giá, Đức Giêsu Kitô mang đức ái mục vụ của Ngài đến mức trọn hảo trong một sự trần trụi tột cùng bên ngoài và bên trong; Ngài là mẫu mực và là nguồn mạch các nhân đức vâng phục, khiết tịnh và nghèo khó mà linh mục được mời gọi sống như là biểu hiện tình yêu mục vụ của mình đối với anh em. Theo như những điều Phaolô viết cho các Kitô hữu Philipphê, linh mục phải có “cùng những tâm tình” như Đức Giêsu, phải tự tước bỏ khỏi cái tôi riêng rẻ của mình để, trong đức ái vâng phục, khiết tịnh và nghèo khó, tìm gặp được con đường vương giả đưa tới sự nối kết với Thiên Chúa và tới sự hiệp nhất với các anh em (x. Pl 2,5).

Thuộc về Giáo Hội địa phương và tận tụy với Giáo Hội địa phương.

31. Cũng như bất cứ đời sống thiêng liêng Kitô giáo chính hiệu nào, đời sống thiêng liêng của linh mục cũng sở đắc một chiều kích giáo Hội cốt yếu và bất khả thay thế: đời sống ấy tham dự vào sự thánh thiện của chính Giáo Hội, Giáo Hội mà trong kinh Tin Kính chúng ta tuyên xưng là “các Thánh cùng thông công”. Sự thánh thiện của Kitô hữu bắt nguồn từ sự thánh thiện của Giáo Hội, biểu lộ sự thánh thiện ấy và đồng thời làm giàu cho sự thánh thiện ấy. Chiều kích Giáo Hội này mang những thể thức, những cứu cánh và những ý nghĩa đặc thù trong đời sống thiêng liêng của linh mục, vì tương quan loại biệt đối với Giáo hội, luôn luôn khởi đi từ việc linh mục nên đồng hình dạng với Đức Kitô Đầu và Mục Tử, từ thừa tác vụ được phân bổ và từ đức ái mục vụ của linh mục.

Trong nhãn quan ấy, cần phải coi việc linh mục thuộc về Giáo Hội địa phương và tận tụy với Giáo Hội địa phương như là giá trị thiêng liêng của ngài. Các thực tại ấy không những chỉ khởi phát vì những lý do tổ chức và kỷ luật. Ngược lại, quan hệ với giám mục trong sự hiệp nhất của linh mục đoàn, sự san sẻ niềm ân cần săn sóc của giám mục đối với Giáo Hội, lòng tận tụy mục vụ nhằm phục vụ dân Thiên Chúa trong những điều kiện lịch sử và xã hội cụ thể của Giáo Hội địa phương là những yếu tố mà người ta không thể coi thường khi muốn phác hoạ chân dung của linh mục và của đời sống thiêng liêng linh mục. Trong chiều hướng ấy, “nhập vụ” không chỉ giản lược vào một liên hệ, nhưng còn giả thiết một chuỗi những thái độ, những lựa chọn mục vụ và thiêng liêng góp phần kiến tao một diện mạo riêng biệt cho ơn gọi của linh mục.

Điều cần thiết là linh mục phải ý thức rằng sự kiện ở trong một Giáo Hội địa phương tự nó là một yếu tố định đoạt để sống một đời sống thiêng liêng Kitô giáo. Với ý nghĩa ấy, linh mục tìm ngay trong việc mình thuộc về Giáo Hội địa phương và tận tụy với Giáo Hội địa phương một nguồn mạch cho những ý nghĩa, những tiêu chuẩn phân định và hành động tạo khuôn khổ cho sứ mệnh phục vụ và đời sống thiêng liêng của mình.

Trên bước đường tiến tới trọn hảo, cũng có thể có sự trợ giúp đến từ những thần hứng hoặc những qui chiếu nơi các truyền thống đời sống thiêng liêng khác, có khả năng làm giàu cho đời sống linh mục của nhiều người và tạo sinh khí cho linh mục đoàn nhờ vào những ân huệ thiêng liêng quí giá. Đó là trường hợp của nhiều hiệp hội cũ và mới trong Giáo Hội vốn đón nhận cả những linh mục trong hàng ngũ của mình, từ những hiệp đoàn tông đồ cho đến những tu hội đời linh mục, từ những dạng thức hiệp thông và chia sẻ thiêng liêng đa dạng cho đến các phong trào Giáo Hội. Các linh mục thuộc những đan viện và những hội dòng chính là nguồn phong phú thiêng liêng cho toàn thể linh mục đoàn giáo phận, đóng góp cho linh mục đoàn những đặc sủng loại biệt của họ cũng như những thừa tác vụ chuyên biệt của họ : do bởi sự hiện diện của mình, họ khuyến khích Giáo Hội địa phương sống đậm đà hơn chiều kích hướng mở phổ quát của Giáo Hội ấy (85).

Việc linh mục thuộc về Giáo Hội địa phương và tận tụy với Giáo Hội địa phương đến độ trao hiến mạng sống mình, ngõ hầy xây dựng Giáo Hội “thay mặt” cho Đức Kitô Đầu và Mục Tử, nhằm phục vụ toàn thể cộng đoàn Kitô hữu, trong sự liên kết chân tình và hiếu thảo với giám mục, cần phải được tô đậm bởi bất cứ đặc sủng nào khả dĩ khởi hứng trực tiếp hoặc gián tiếp cho đời sống của một linh mục (86).

Để cho các ân huệ dư tràn của Thần Khí được đón nhận trong niềm vui và để cho chúng được sinh hoa kết trái nhằm làm vinh danh Thiên Chúa và mưu ích cho toàn thể Giáo Hội, trước hết mọi người cần phải nhận thức và phân định những đặc sủng riêng của mình và những đặc sủng của tha nhân. Tiếp đến, việc thực thi các đặc sủng ấy phải luôn luôn đi kèm với lòng khiêm nhượng Kitô giáo, với sự can đảm dám tự phê phán chính mình, với ý hướng trổi vượt trên mọi bận tâm khác nhằm giúp xây dựng toàn thể cộng đoàn, mọi đặc sủng riêng biệt đều được sắp xếp cho sự phục vụ cộng đoàn ấy. Ngoài ra mọi người đều được yêu cầu phải có một nỗ lực chân thành nhằm quý chuộng lẫn nhau, nhằm tôn trọng lẫn nhau và nhằm đánh giá sao cho hoà hợp những dị biệt tích cực và chính đáng hiện có nơi linh mục đoàn. Tất cả những yếu tố ấy cũng nằm trong đời sống thiêng liêng và trong sự khổ chế liên lỉ của linh mục.

32. Thuộc về Giáo Hội địa phương và tận tụy đối với Giáo Hội địa phương thì không phải là tất cả hoạt động và đời sống linh mục đều đóng khung trong Giáo Hội ấy. Không thể đem giản lược các đặc tính ấy vào nơi Giáo Hội địa phương bằng cách nại tới chính bản chất của Giáo Hội địa phương (87) và tới bản chất của thừa tác vụ linh mục. Về vấn đề này, Công Đồng viết : “ân huệ thiêng liêng mà các linh mục đã lãnh nhận ngày thụ phong chuẩn bị cho các linh mục, không phải đi vào một sứ vụ hạn hẹp và gò bó, nhưng vào một sứ vụ cứu độ có tầm mức phổ quát, cho đến mút cùng trái đất” (Cv 18); thực vậy, bất cứ thừa tác vụ linh mục nào cũng thông phần vào những chiều kích hoàn vũ của sứ vụ được Đức Kitô giao phó cho các Tông Đồ” (88).

Bởi đó, đời sống thiêng liêng của các linh mục cần phải được đánh dấu sâu đậm bởi khí thế và năng động thừa sai. Họ có trách nhiệm, trong việc thi hành thừa tác vụ và làm chứng bằng đời sống của mình, biến cộng đoàn được giao phó cho mình thành một cộng đoàn thừa sai chính hiệu. Như Tôi đã viết trong thông điệp Redemptoris missio, “tất cả các linh mục đều phải có một tâm hồn và một não trạng thừa sai, mở ngỏ hướng đến những nhu cầu của Giáo Hội và của thế giới, chú trọng tới những người xa cách nhất, và trên hết tới những tập thể ngoài Kitô giáo trong môi trường của mình. Trong kinh nguyện và cách riêng trong hy lễ tạ ơn, các linh mục phải cưu mang niềm ân cần của toàn thể Giáo Hội đối với toàn bộ nhân loại” (89).

Nếu tinh thần thừa sai ấy tạo sinh khí dạt dào cho đời sống các linh mục, việc đáp ứng tình huống hiện đang ngày càng nghiêm trọng hơn trong Giáo Hội, tình huống phát xuất từ tình trạng phân phối hàng giáo sĩ không đồng đều, sẽ trở nên dễ dàng hơn. Về điểm này, Công đồng đã phát biểu hết sức rõ ràng và mạnh mẽ: “Do đó, các linh mục phải nhớ rằng cách ngài cần ủ ấp trong tim mối ưu tư của tất cả Giáo Hội. Vì thế, những linh mục thuộc các giáo phận giàu ơn gọi phải sẵn sàng tự nguyện ra đi, dĩ nhiên với phép của Đấng Bản Quyền hoặc với lời kêu gọi của ngài, để thi hành thừa tác vụ của mình trong những xứ sở, những hội thừa sai hoặc những hoạt động đang lâm vào cảnh thiếu thốn linh mục (90).

“Xin hãy canh tân nơi chúng sự tuôn đổ Thần Khí thánh thiện của Ngài”

33. “Thần Khí Chúa ngự trên tôi, vì Ngài đã xức dầu thánh hiến tôi. Ngài đã sai tôi đem Tin Mừng đến cho người nghèo” (Lc 4,18). Ngày nay, Đức Giêsu vẫn còn làm vọng lên trong con tim linh mục chúng ta những lời Ngài đã phát biểu trong hội đường Nagiarét. Thật vậy, đức tin chúng ta mạc khải cho chúng ta sự hiện diện tích cực của Thần Khí Chúa Kitô nơi hữu thể chúng ta, nơi hành động và đời sống chúng ta, bằng cùng một phương cách như đã được bí tích Truyền Chức Thánh định hình, trang bị và uốn nắn.

Đúng vậy, Thần Khí Chúa là vị hướng đạo vĩ đại của đời sống thiêng liêng chúng ta. Thần Khí Chúa tạo dựng “quả tim mới”, ban sinh khí và dẫn dắt quả tim ấy với “lề luật mới” của đức ái, của đức ái mục vụ. Ý thức rằng linh mục không bao giờ thiếu ân sủng của Chúa Thánh Thần, xét như là ơn hoàn toàn nhưng không và như là sự dấn thân trong trách nhiệm, đó là yếu tố định đoạt cho sự phát triển đời sống thiêng liêng linh mục. Sự ý thức về ân huệ ấy thâm nhập và đỡ nâng lòng tin cậy không thể chuyển lay của linh mục giữa những khó khăn, những cám dỗ, những yếu đuối vẫn thường xảy đến trên hành trình thiêng liêng.

Một lần nữa, Tôi đề nghị với mọi linh mục điều mà vào một dịp khác Tôi đã nói với nhiều người trong anh em: “ơn gọi linh mục cốt yếu là một lời mời gọi nên thánh với mô hình bắt nguồn từ bí tích Truyền Chức Thánh. Sự thánh thiện là tình thân mật đối với Thiên Chúa, là nỗ lực noi gương Đức Kitô nghèo khó, khiết tịnh và khiêm nhượng; là tình yêu không hạn chế đối với các linh hồn và là sự trao hiến chính mình vì lợi ích đích thực của các linh hồn; là tình yêu đối với Giáo Hội, một Giáo Hội thánh thiện, một Giáo hội muốn chúng ta nên thánh bởi vì đó chính là sứ vụ mà Đức Kitô đã giao phó cho Giáo Hội. Mỗi người trong anh em cũng phải nên thánh để có thể giúp các anh em khác thực hiện ơn gọi nên thánh.

“Làm sao lại không suy tư […] về vai trò thiết yếu mà Chúa Thánh Thần nắm giữ trong lời mời gọi loại biệt nên thánh dành riêng cho thừa tác vụ linh mục ? Chúng ta hãy nhắc lại những lời trong nghi thức Phong Chức được coi như trọng tâm của công thức bí tích: “Lạy Chúa Cha toàn năng, chúng con khẩn nguyện Cha, xin Cha ban cho các tôi tớ Cha đây được gia nhập hàng linh mục. Xin Cha hãy tuôn đổ một lần nữa Thần Khí thánh thiện vào nơi đáy thẳm tâm hồn họ. Lạy Chúa, xin cho họ được lãnh nhận nơi Chúa trọng trách phục tùng hàng giám mục. Xin cho họ biết dùng gương đời sống của mình mà thúc đẩy cho các phong tục tập quán được nên tinh tuyền”.

“Hỡi những người bạn thân mến, nhờ việc Phong Chức, anh em đã lãnh nhận chính Thần Khí của Đức Kitô. Đấng làm cho anh em nên giống với Đức Kitô, ngõ hầu anh em có thể hành động nhân danh Đức Kitô và mặc lấy nơi anh em cùng những tâm tình như Ngài. Sự thông hiệp mật thiết với Thần Khí Đức Kitô bảo đảm cho hiệu năng của hoạt động bí tích mà anh em thực hiện “thay mặt Đức Kitô”, sự thông hiệp ấy còn đòi phải được biểu lộ trong việc sốt sắng cầu nguyện, trong tính nhất quán của đời sống, trong đức ái mục vụ của một thừa tác vụ không ngơi qui hướng về ơn cứu độ của mọi người. Nói vắn tắt, sự thông hiệp ấy đòi hỏi anh em phải thánh hoá bản thân mình” (91).

còn tiếp

chú thích: Lưu ý: những số chú thích nhỏ hơn đã được ghi vào số báo kỳ trước

 

40) Hiến Chế Tín Lý về Giáo Hội, Lumen Gentium, GH, số 40.

41) Sắc lệnh về thừa tác vụ và đời sống linh mục, Presbyterorum ordinis, LM, số 12.

42) Sermo 340,1 : PL 38,1483.

43) Như trên : 1.c.

44) X. Propositio 8.

45) X. Công Đồng Vat. II, Sắc lệnh về thừa tác vụ và đời sống linh mục, Presbyterorum ordinis, LM, số 2; 12.

46) X. Propositio 8.

47) Sermo Morin Guelferbytanus, 32,1; PLS 2, 637.

48) Sách lễ Roma, Ca Hiệp Lễ chúa nhật thứ tư Mùa Phục Sinh.

49) X. Tông Thư, Mulieris dignitatem. Phẩm giá của phụ nữ (15/8/1988), số 26 : AAS 80 (1988), tr. 1715-1716.

50) Propositio 7.

51) Bài giảng dịp tôn thờ Thánh Thể tại Séoul (7/10/1989), số 2: Insegnamenti XII/2 (1989), tr. 785.

52) Thánh Augustinô, In Iohannis Evangelium Tractatus, Khảo luận về Tin Mừng Gioan 123,5 : CCL 36,678.

53) Với các linh mục tham dự đại hội do Hội Đồng Giám Mục Ý khởi xướng (4/11/1980) : Insegnamenti III/2 (1980), TR. 1055.

54) Sắc lệnh về thừa tác vụ và đời sống linh mục Presbyterorum ordinis, LM, số 14.

55) Như trên.

56) Như trên.

57) X. Phaolô VI, Tông Huấn về việc rao giảng Tin Mừng Evangelii nuntiandi (8/12/1975), số 75 : ASS 68 (1976), tr. 64-67.

58) X. Propositio 8.

59) Sắc lệnh về thừa tác vụ và đời sống linh mục, Presbyterorum ordinis, LM, số 12.

60) In Iohannis Evange-lium Tractatus, 123, 5 : 1.c.

61) X. Sắc lệnh về thừa tác vụ và đời sống linh mục, Presbyterorum ordinis, số 12.

62) Như trên, số 5.

63) X. Công Đồng Trentô, Decretum de justificatione, Sắc lệnh về sự công chính hoá, chương 7; Decretum de sacramentis, Sắc lệnh về các bí tích, khoản 6 (DS 1529;1606).

64) Sắc lệnh về thừa tác vụ và đời sống linh mục, Presbyterorum ordinis, LM, số 12.

65) Thánh Augustinô, Sermo de Nat. Sanct. Apost. Petri et Pauli sx Evangelio in quo ait : Simon Iohannis diligis me?: Bibliotheca Casinensis, in “Miscellanea Augustiana”, Quyển I phát hành do G.Morin, o.s.b., Roma, Typ. Polygl. Vat., 1930, tr.404.

66) X. Sắc lệnh về thừa tác vụ và đời sống linh mục, Presbyterorum ordinis, LM, số 4-6; 13.

67) X. Phaolô VI, Tông Huấn về việc Rao giảng Tin Mừng, Evangelu nuntiandi (8/12/1975), số 15 : 1.c; tr. 13-15.

68) X. Hiến Chế Tín Lý về Mạc Khải, Dei Verbum, MK, số 8; 10.

69) Công Đồng Vat. II, Sắc lệnh về thừa tác vụ và đời sống linh mục, Presbyterorum ordinis, LM, số 5.

70) Tông Huấn hậu Thượng Hội Đồng, Hoà Giải và Thống Hối, Reconciliatio et paenitentia (2/12/1984), số 31, VI : AAS 77 (1985), tr. 265-266.

71) Công Đồng Vat. II, Sắc lệnh về thừa tác vụ và đời sống linh mục, Presbyterorum ordinis, LM, số 6.

72) X. Công Đồng Vat. II, Hiến Chế Tín Lý về Giáo Hội, Lumen Gentium, GH, số 42.

73) X. Propositio 9.

74) Công Đồng Vat, II, Sắc lệnh về thừa tác vụ và đời sống linh mục, Presbyterorum ordinis, LM, số 15.

75) X. như trên.

76) Hiến Chế Tín Lý về Giáo hội, Lumen Gentium, GH, số 42.

77) Tông Huấn về Gia đình, Familiaris consortio (22/11/1981), số 16 : AAS 74 (1982), tr.98.

78) Propositio 11.

79) Công Đồng Vat. II, Sắc lệnh về thừa tác vụ và đời sống linh mục, Presbyterorum ordinis, LM, số 16.

80) Như trên.

81) Propositio 8.

82) X. Sắc lệnh về thừa tác vụ và đời sống linh mục, Presbyterorum ordinis, LM, số 17.

83) Propositio 10.

84) Như trên.

85) X. Thánh Bộ đặc trách các tu sĩ và các Tu Hội đời và Thánh Bộ đặc trách các giám mục, Những Chỉ Dẫn dành cho các mối quan hệ hỗ tương giữa các giám mục và tu sĩ trong Giáo hội, Mutuae relationes (14/5/1978), số 18: AAS 70 (1978), tr. 484-485.

86) X. Propositiones 25,38.

87) X. Công Đồng Vat. II, Hiến Chế Tín Lý về Giáo hội, Lumen Gentium, GH, số 23.

88) Sắc lệnh về thừa tác vụ và đời sống linh mục, Presbyterorum ordinis, LM, số 10; x. Propositio 12.

89) Thông Điệp Sứ Vụ Đấng Cứu Chuộc, Redemptoris missio (7/12/1990), số 67 : AAS 83 (1991), tr. 315-316.

90) Sắc lệnh về thừa tác vụ và đời sống linh mục, Presbyterorum ordinis, LM, số 10.

91) Bài giảng cho 5000 linh mục đến từ khắp thế giới (9/10/1984), số 2 : Insegnamenti VII/2 (1984), tr. 839.

 

VỀ MỤC LỤC

THƯ CHỊ THÁNH TÊRÊXA VIẾT CHO NGƯỜI ANH EM LINH MỤC (3)

  

Năm thánh linh mục đang dần dần kết thúc để đẩy các linh mục của Chúa vững bước hành trình trên nẻo đường hy vọng. Xin trân trọng giới thiệu với quý độc giả, cách riêng là anh em linh mục, 6 lá thư của Chị thánh Têrêxa Hài Đồng Giêsu viết cho Cha Roulland và 11 lá thư cho một thầy đại chủng sinh, người mà sau khi Chị Thánh qua đời mới được thụ phong linh mục: Cha Bellière.

Dưới đây xin giới thiệu thư thứ ba Chị Thánh gởi cha Rolland, do ông Nôbertô Thái Văn Hiến dịch.

Lm Trăng Thập Tự

  

Thư 201: Gửi Cha Roulland[1]

G.M.G.T

Nhà Cát Minh Lisieux

01 tháng 11 năm 1896

Giêsu V

 

Người Anh Em kính mến,

Bức thư rất thú vị của Cha, nhờ sự bảo trợ của các Thánh, đã đến và mang theo cho con cả một niềm vui lớn. Xin cảm ơn Cha vì đã đối xử với con như người chị em đích thực; nhờ hồng ân của Giêsu con hy vọng sẽ tự làm cho mình trở nên xứng đáng với danh nghĩa vô cùng thân thiết ấy.

Con cũng cảm ơn Cha đã gửi cho chúng con cuốn “Tâm hồn một nhà truyền giáo [2]”, cuốn sách đã mang cho con nhiều điều hữu ích. Nó đã giúp con theo chân Cha suốt chuyến hành trình của Cha nơi xa xôi ấy. Cuộc đời Cha Nempon được tựa đề cuốn sách nói lên một cách hoàn hảo, đúng là qua đó mà tâm hồn một nhà truyền giáo, hay nói đúng hơn, tâm hồn của tất cả các tông đồ xứng danh đích thực được tỏ hiện.

Cha muốn chúng con (trong thư gửi về Marseille) cầu xin Chúa cất khỏi Cha thập giá được chỉ định làm giám đốc chủng viện và thậm chí phải quay về lại nước Pháp nữa. Con hiểu là, với Cha, viễn cảnh ấy không dễ chịu chút nào; với cả tấm lòng, con cầu xin Giêsu đoái thương cho Cha chu toàn công việc tông đồ cần mẫn như lòng Cha hằng mong ước. Tuy nhiên con cũng nói thêm với Cha: “Xin cho ý Chúa Nhân Lành được thực hiện”. (Mt 6,10) Chỉ có nơi đó mới tìm gặp được sự nghỉ ngơi, ngoài ý muốn nhân lành ấy ra thì chúng ta sẽ chẳng làm được điều gì, cho Giêsu cũng như cho các linh hồn.

Người Anh Em quí mến ơi, con không thể nói với Cha là con sung sướng đến thế nào khi nhìn thấy Cha hoàn toàn phó thác vào tay các bề trên của Cha, với con dường như đó là một thử thách chắc chắn để đến một ngày những ước ao của con sẽ được thực hiện, nghĩa là Cha sẽ trở nên một vị Thánh vĩ đại.

Xin phép Cha cho con được thố lộ với Cha một bí mật vừa được tỏ ra cho con qua trang giấy có ghi những ngày tháng đáng nhớ của cuộc đời Cha.

08.9.1890 ơn gọi trở thành nhà truyền giáo của Cha được cứu bởi Đức Maria, Nữ Vương các thánh tông đồ và các thánh tử đạo [3]; cũng trong ngày ấy một nữ tu Cát Minh hèn mọn đã trở thành tân nương của Đức Vua Thiên Đàng. Trong khi nói lời vĩnh biệt thế gian, mục đích của nữ tu ấy là cứu các linh hồn, nhất là linh hồn của các tông đồ… Với Giêsu, Đức Phu Quân Thánh Thiêng của mình, nữ tu ấy đã đặc biệt cầu xin cho có được một tâm hồn tông đồ, không thể làm linh mục nên nữ tu ấy muốn thay vào chỗ của mình là một linh mục đã nhận lãnh các hồng ân của Chúa, có cùng những hoài bão, những ước ao ấy như mình…

Thưa người Anh Em kính mến, Cha đã biết nữ tu Cá-minh bất xứng đang dâng lời cầu nguyện ấy rồi. Cha có cùng một ý nghĩ như con không, đó là sự kết hiệp của chúng ta được kiên định vào ngày Cha lãnh nhận sứ vụ linh mục, ngày 08 tháng 9? … [1vo] Con tin là chỉ có trên Thiên Đàng, mới gặp được người tông đồ, người anh em mà con đã cầu xin với Giêsu, nhưng Đấng Cứu độ Chí Ái, trong khi hé mở đôi chút bức màn mầu nhiệm che kín những bí ẩn đời đời, đã đoái thương ban cho con ngay từ trong chốn lưu đày này niềm an ủi được quen biết với người anh em của tâm hồn con, được cùng làm việc với người anh em ấy vì phần rỗi của những kẻ bất trung đáng thương.

Ôi! lòng biết ơn của con thật vô cùng sâu xa khi nhìn vào những tinh tế của Giêsu!... Ngài đang dành sẵn cho chúng ta những gì, khi mà ngay từ dưới thế này, tình yêu của Ngài ban phát cho chúng ta những ngạc nhiên tuyệt vời đến thế?

Hơn bao giờ hết, con hiểu rằng những biến cố dù nhỏ nhất trong cuộc đời chúng ta cũng đều dẫn đến với Chúa, chính Ngài làm cho chúng ta ước ao và mãn nguyện … Khi Mẹ nhân lành đáng kính đề nghị con trở thành người phụ trợ cho Cha, thú thật với Cha, thưa người Anh Em kính mến, con đã ngập ngừng [4]. Nhìn xem những nhân đức của các Nữ Thánh Cát Minh đang bao bọc quanh con, thì với con hình như là Mẹ đáng kính sẽ phục vụ những lợi ích thiêng liêng của Cha tốt hơn nếu chọn cho Cha một người chị em khác không phải là con, duy chỉ có ý tưởng cho rằng Giêsu không quan tâm đến những công việc bất toàn của con mà chỉ quan tâm đến ý chí ngay lành của con, đã khiến con chấp nhận niềm vinh hạnh được chia sẻ với công việc tông đồ của Cha. Con không hay biết gì cả mặc dù chính Chúa đã chọn con, Ngài vốn sử dụng những khí cụ yếu đuối nhất để làm nên những việc lạ lùng!... (1Cr 1,27) Con đâu biết là từ 6 năm nay con đã có một người anh em chuẩn bị trở thành Nhà Truyền Giáo; giờ thì người anh em ấy đích thực là Tông Đồ của Ngài rồi, Giêsu tỏ cho con biết sự bí nhiệm ấy chắc chắn là để làm gia tăng trong con niềm ước ao yêu mến Ngài và làm cho Ngài được yêu mến.

Cha có biết rằng, thưa người Anh Em quí mến, nếu Chúa tiếp tục chuẩn nhận lời cầu nguyện của con, thì Cha sẽ nhận được một hồng ân mà vì lòng khiêm tốn của mình Cha đã không thỉnh cầu không? Hồng ân khôn ví ấy chắc Cha cũng đoán ra, đó chính là phúc tử đạo …

Vâng, con hy vọng như vậy, sau những tháng năm ròng rã dạn dày với công việc tông đồ, khi đã trao cho Giêsu tình yêu đáp lại tình yêu, và sự sống báo đền sự sống, thì Cha cũng sẽ hiến dâng Ngài máu để đổi máu …

Khi viết đến đây, con chợt nghĩ là những dòng này sẽ đến tay Cha vào tháng Giêng, tháng mà người ta trao cho nhau những lời cầu chúc hạnh phúc. Con tin rằng những lời cầu chúc của người chị em hèn mọn này của Cha sẽ là duy nhất trong những lời cầu chúc kia… nói đúng ra, thế gian sẽ cho những lời cầu chúc như thế thật điên rồ, nhưng với chúng ta, thế gian không còn sống nữa và “cuộc hàn huyên của chúng ta đã là trên trời rồi[5]” (Ph. 3,20), ước ao duy nhất của chúng ta chính là làm cho mình trở nên giống như Thầy Đáng Tôn Thờ của chúng ta mà thế gian đã không muốn nhìn nhận bởi Ngài đã tự hạ mình, mặc lấy thân nô lệ. (Ga 1,10; Ph. 2,7) Ôi người Anh Em quí mến ơi! Cha thật hạnh phúc khi được bắt chước rất giống với gương mẫu Giêsu… Khi nghĩ đến việc Cha đã ăn mặc theo lối người Trung Hoa, tự nhiên con cũng nghĩ đến Đấng Cứu Độ đã mặc lấy nhân tính đáng thương của chúng ta và trở nên giống như một người giữa chúng ta để cứu chuộc các linh hồn và cho họ được sống đời đời (Ph. 2,7).

Có thể Cha sẽ thấy con rất trẻ con, nhưng bất luận thế nào, con cũng xin thú tội với Cha là đã ước ao đoán xem tóc Cha có bị cắt hết và thay vào đó là một chiếc đuôi sam dài theo kiểu người Hoa không. Chẳng phải là con háo hức gì về kiểu tóc đó đâu, nhưng tất cả chỉ vì một mái tóc nay đã trở nên vô ích. Hẳn [2r0] Cha sẽ vừa cười vừa hỏi là con sẽ làm gì với mớ tóc ấy phải không nào? Này nhé, đơn giản thôi, những sợi tóc ấy với con sẽ trở thành các di vật một khi Cha đã ở trên Thiên Đàng, với nhành lá tử đạo trong tay. Dĩ nhiên Cha sẽ cho là con bận tâm đến chuyện đó quá sớm, nhưng với con đó là cách duy nhất để đạt được mục đích của mình, bởi người chị em hèn mọn của Cha (điều này thì chỉ có một mình Giêsu công nhận[6]) chắc chắn sẽ bị người ta bỏ quên vào lúc phân phát các thánh tích của Cha. Con tin chắc là Cha sẽ cười con thôi, nhưng điều đó với con chẳng hề gì. Nếu Cha đồng ý trả công cho việc con làm Cha vui bằg “Những sợi tóc của một Thánh Tử Đạo tương lai”, thì như vậy cũng đã là thưởng công hậu hĩnh cho con rồi.

Ngày 25 tháng 12 con sẽ không quên gửi thiên thần của con đi đặt những ý định của con cạnh bánh lễ mà Cha sẽ thánh hiến[7]. Con xin thay mặt Mẹ Đáng Kính của chúng con và cả con nữa để hết lòng cảm ơn Cha vì sẽ dâng thánh lễ vào buổi rạng đông; trong lúc Cha bước lên bàn Thánh, chúng con sẽ hát kinh Sách mừng Chúa Giáng Sinh ngay sau lễ nửa đêm.

Người Anh Em kính mến ơi, Cha đã không nhầm khi nói rằng chắc chắn những ý định của con sẽ là: “để cảm ơn Giêsu về ngày hồng ân trong tất cả mọi ngày”. Đó chẳng phải là ngày con nhận lãnh hồng ân ơn gọi sống đời thánh hiến đâu. Chúa chúng ta, khi muốn cái nhìn đầu tiên của con chỉ dành cho Ngài mà thôi, đã đoái xin trái tim con ngay từ thuở con còn nằm trong nôi kia, có thể nói như vậy đấy.

Quả đúng đêm Giáng Sinh 1886 là đêm quyết định đối với ơn gọi của con, song, nói chính xác hơn, thì phải gọi là: đêm hoán cải của con[8]. Trong đêm được chúc phúc như có lời đã chép là đêm toả rạng những việc lạ lùng của Chúa, Giêsu làm hài nhi vì yêu con nên đã đoái thương cho con cởi bỏ hết những tã lót và những bất toàn của tuổi ấu nhi. Ngài đã biến đổi con cách nào đó đến nỗi con không còn nhận ra chính mình nữa. Không có sự biến đổi ấy hẳn là con vẫn còn phải ở lại giữa thế gian hằng bao năm nữa. Mẹ Thánh Têrêxa đã nói với các con cái của Mẹ: “Mẹ không muốn các con là những người nữ vô ích[9] mà phải là ngang tầm với những người nam mạnh mẽ trong mọi sự[10]”. Mẹ Thánh Têrêxa hẳn là không muốn nhìn nhận con là con của Mẹ nếu Chúa đã không mặc cho con sức mạnh của Ngài, không trang bị cho con chính Ngài làm khí giới để chiến đấu.

Thưa người Anh Em kính mến, con hứa với Cha là sẽ đặc biệt ký thác vào tay Giêsu người thiếu nữ mà Cha đã nói với con là đang gặp khó khăn trong ơn gọi của mình, con chân thành cảm thông với nỗi khổ tâm của chị ấy, bởi kinh nghiệm mách cho con biết thật đau khổ biết bao khi không thể đáp trả được ngay tức khắc tiếng gọi của Chúa. Con cầu mong chị ấy không buộc phải đến Rô-ma như con… Hẳn là Cha không biết người chị em của Cha đã cả dám đến thưa chuyện với Đức Thánh Cha như thế nào đâu?... Tuy nhiên điều đó có thật, và giả như con không có sự bạo dạn ấy, hẳn là con vẫn đang còn ở giữa thế gian.

Giêsu đã nói “Nước Trời phải đương đầu với sức mạnh, ai mạnh sức thì chiếm được.” (Mt 11,12). Điều ấy cũng tương tự như con với vương quốc Cát Minh. Trước khi là nữ tù nhân của Giêsu, con đã phải thực hiện một chuyến đi xa mới đoạt được nhà tù mà con yêu thích hơn cả những đền đài trên thế gian, con chẳng hề ươc ao thực hiện một chuyến đi vì thú vui riêng nào cả, và khi người cha độc nhất vô nhị của con đề nghị dắt con đến Giêrusalem vì không muốn để muộn mất ngày con nhập Dòng [2vo] đến những hai ba tháng, con đã (dù bị hấp dẫn một cách tự nhiên đi tham quan những nơi thánh của cuộc đời Đấng Cứu Độ) không ngập ngừng chọn sự nghỉ ngơi dưới bóng của Đấng mà con hằng mơ tưởng (Dc 2,3). Con đã hiểu ra là quả thực chỉ một ngày được sống trong nhà Chúa thì giá trị gấp ngàn lần so với bất cứ nơi nào khác. (Tv. 83,11).

Có thể, thưa người Anh Em kính mến, Cha đang muốn biết đâu là trở ngại mà con gặp phải khi thực hiện ơn gọi của con; trở ngại ấy không là gì khác ngoài việc tuổi con còn quá nhỏ, Cha Bề Trên[11] nhân lành của chúng con chính thức từ chối nhận con trước khi con đủ 21, khi nói rằng một đứa trẻ 15 tuổi thì làm gì có khả năng biết được mình dấn thân vào việc gì. Lối xử sự của ngài thật khôn ngoan và con không mảy may nghi ngờ khi cảm thấy ngài không thực hiện ý muốn của Chúa nhân lành đang muốn làm cho con chinh phục Cát Minh bằng mũi gươm, và biết đâu Giêsu cho phép ma quỉ ngăn trở một ơn gọi mà, theo con nghĩ, không hợp khẩu vị của tên xấu xa bị tước mất tình yêu như Me[12] Thánh chúng con đã nói; may thay tất cả những xảo trá của nó quay lại làm cho nó phải xấu hổ, và chỉ làm cho chiến thắng của một con bé càng thêm huy hoàng hơn nữa mà thôi. Nếu định viết cho Cha hết những chi tiết về cuộc chiến đấu mà con phải chịu đựng, hẳn là con phải tốn khá nhiều thời gian, giấy mực; những chi tiết ấy mà được kể lại bằng một ngòi bút lưu loát thì, theo con nghĩ, sẽ rất thú vị với Cha, nhưng cách con viết chẳng thể mang lại những điều hấp dẫn cho một câu chuyện dài đến thế đâu, vậy kính mong Cha bỏ lỗi cho con vì có lẽ đã không làm cha hài lòng.

Thưa người Anh Em kính mến, Cha hứa với con là mỗi buổi sáng, khi bước lên bàn Thánh, sẽ đọc: “Lạy Thiên Chúa của con, xin hãy làm tình yêu của Ngài rực cháy trong lòng người chị em của con”, con hết lòng biết ơn Cha về việc ấy và sẵn lòng cam đoan với Cha là những điều kiện của Cha sẽ luôn được chấp thuận[13]. Tất cả những gì con cầu xin nơi Giêsu cho con, thì con cũng xin cho Cha như vậy; khi tiến dâng tình yêu yếu ớt của mình cho Đấng Chí Ái, con cũng xin phép được dâng tình yêu của Cha cùng một thể. Như Giôsuê, Cha đang chiến đấu trên bãi chiến, còn con là Môsê nhỏ của Cha (Xh 17,8-13) và tâm hồn con không ngừng hướng lên Trời để xin cho được chiến thắng. Ôi người Anh Em yêu quí, Cha cứ việc than thở nếu Giêsu không tự tay đỡ nâng hai tay cho Môsê của Cha!... Nhưng với sự cứu giúp bằng lời cầu nguyện mọi ngày mà, vì con, Cha dâng lên Thiên Chúa Tù Nhân Tình Yêu, thì con hy vọng Cha sẽ chẳng khi nào phải than vãn, và rồi sau cõi đời này, nơi mà chúng ta đã cùng nhau gieo trong nước mắt (Tv. 125, 5-6), chúng ta sẽ gặp thấy nhau hân hoan tay ôm những bó lúa.

Con rất thích bài giảng ngắn mà Cha đã ngỏ với Mẹ nhân lành của chúng con để động viên Mẹ tiếp tục ở lại trên trần thế này; Bài giảng ấy tuy không dài nhưng, như Cha nói, rất hợp tình hợp lý, con thấy Cha chẳng khó khăn lắm trong việc thuyết phục những người nghe Cha giảng, và con hy vọng sẽ có một mùa gặt bội thu các linh hồn được chính tay Cha dâng lên Chúa – con thấy là sắp hết giấy rồi, và thế là con buộc phải tạm dừng những hí hoáy của mình lại thôi. Tuy nhiên con muốn nói với Cha là con sẽ trung thành mừng kính tất cả những ngày lễ kỷ niệm của Cha. Ngày 03 tháng 7 sẽ là ngày thân thiết với con cách đặc biệt bởi đó là ngày lần đầu tiên Cha được đón rước Giêsu và cũng chính trong ngày đó, con đã được lãnh nhận Giêsu từ tay Cha và tham dự thánh lễ đầu tiên do Cha cử hành tại nhà Cát Minh.

Người Anh Em kính mến, xin hãy ban phép lành cho người chị em bất xứng của Cha.

Têrêxa Hài Đồng Giêsu

Rel. carm.ind

[2votv] (Con xin ký thác vào những lời cầu nguyện của Cha một chủng sinh trẻ muốn trở thành nhà truyền giáo, ơn gọi của người ấy vừa bị lung lay bởi thời gian phải thi hành quân dịch[14].)


 


[1] Adolphe Roulland (1870-1934), lớn hơn Têrêxa 3 tuổi và là người anh em thiêng liêng thứ hai của Chị Thánh (30/5/1896) – Thụ phong LM ngày 28/6/1896; đi Tứ Xuyên, Trung Quốc vào ngày 02/8/1896, sau đó về lại Pháp vào năm 1909. Cha Roulland có 06 thư trao đổi với Têrêxa. (Trích từ Petit Dictionnaire des Noms Propres; Oeuvres Complètes; Textes et Dernières Paroles, nxb Cerf 1992 - Chú thich thêm của ND).

[2] Cuộc đời Cha Nempon, Nhà Truyền Giáo tông đồ Tây Tonkin, tác giả G. Monteuuis (nxb Victor Rétaux và Con Trai, Paris 1895)

[3] Sau này Cha Roulland sẽ xác nhận: “Ngày 08 tháng 9 năm 1890, tôi đã ngập ngừng về ơn gọi cũng như việc vào Đại Chủng Viện của mình. Trong khi cầu nguyện ở Nguyện Đường Đức Bà Chuộc Kẻ Làm Tôi, bất ngờ tôi đi đến quyết định dứt khoát.” Cũng ngay hôm đó Têrêxa tuyên khấn trong Dòng Cát Minh.

[4] Xem Thủ bản C. 33ro

[5] Trích Sách Theo Gương Chúa Giêsu I, 8, Reflexion.

[6] Xem Thư 189, ghi chú thứ tư

[7] Ngày 26/9, Cha Roulland viết cho Têrêxa: “Ngày 25 tháng 12, chị hẵng gửi cho em các ý định của chị; còn bây giờ thì em đoán: chị sẽ cảm ơn Chúa về ngày hồng ân trong tất cả mọi ngày, dĩ nhiên đó là ngày mà Chúa nhân lành đã gọi chị vào Dòng Cát Minh.” (Thư từ trao đổi (LC) 171.) Năm ấy, bệnh tật đã cản trở không cho nhà truyền giáo cử hành ngày lễ Giáng Sinh. Xem Carnet Jaune 1.8.9

[8] Xem Thủ bản A 44vo/45ro

[9] Thánh Nữ Têrêxa Avila, Đường hoàn thiện, Ch. VIII

[10] Xem Thư 36 và Thủ bản A 63ro.

[11] Cha Delatroette.

[12] Biểu thức không phải của Têrêxa Avila, mà là của Thánh Phanxicô de Sales. Xem Kịch 7, 1rophần ở dưới số 6.

[13] Trong chuyến đi giữa tháng 8 và 9 1896, Cha Roulland đã đọc một tập thơ do Têrêxa thực hiện. Cha đã viết cho Chị về việc đó: “Em xin chị, thưa chị, hãy thường xuyên đặt dưới chân Giêsu, nhân danh người anh em của chị, một vài tâm tình đang dạt dào trong lòng chị: được thế, thì mỗi buổi sáng em sẽ đọc: “Lạy Thiên Chúa của con, xin hãy làm rực cháy tình yêu của Ngài trong lòng người chị em của con.” (LC 171.)

[14] Cha Bellière

Nobertô Thái Văn Hiến (dịch)

 

VỀ MỤC LỤC
Hiện tình giáo hội Việt Nam: Một thoáng nhìn

 

Lm. Anrê Đỗ Xuân Quế OP

Nguồn:

http://www.nuvuongcongly.com/index.phpoption=com_content&view=article&id=938:giao-hoi-viet-nam-mot-thoang-nhin&catid=1:latest-news&Itemid=18

Từ bên ngoài

Nhìn từ bên ngoài, Giáo hội Việt Nam là một giáo hội phồn thịnh, sầm uất, từ Bắc chí Nam, với nhiều nhà thờ được xây mới hay được nâng cấp sửa chữa, nhiều trung tâm hành hương mục vụ được xây cất rầm rộ ở nhiều nơi, giáo dân đi lễ đông chật nhà thờ, các thứ Năm thánh được khai mở ở nhiều nơi, các thứ lễ lạt tưng bừng náo nhiệt, các lễ truyền chức đông đảo tiến chức và người tham dự, (như ngày 25/5 vừa qua ở nhà chung Phú Cường (Bình Dương) có 26 tân chức, buổi lễ kéo dài ba tiếng đồng hồ). 

Căn cứ vào, đó ai dám báo Giáo hội Việt Nam đang có vấn đề. Giáo hội đang “ngon lành” như thế, tại sao lại gây ra “sự cố” toà Khâm sứ, Nhà thờ Thái hà v.v… Tại sao không ở yên để người ta khỏi làm khó dễ. Phải chăng vì vậy mới có câu “đồng cảm” chứ không “đồng thuận”. Có lẽ vì vậy mới xảy ra vụ “thay bậc đổi ngôi” ở toà Tổng Giám mục Hà Nội, khiến một vị Tổng Giám mục đang được giáo dân yêu mến kính nể phải đột ngột ra đi không hẹn ngày về. Chính biến cố đó đã và đang gây ra sóng gió và tình trạng “rắm rối” cho Giáo hội Việt Nam.

Đứng trước tình trạng này, người thì chê trách thở than, người thì buồn phiền bực bội. Người chê trách thì nói rằng tại sao lại đổ thêm dầu vào lửa bằng những bài báo tỏ rõ sự thật hay bạch hoá một nửa sự thật chưa được nói tới, tại sao “vạch áo cho người xem lưng”, tại sao gây chia rẽ bằng cách viết lách không theo “lề phải” v.v…

Thiết tưởng phải thành thật nói rằng không cần những bài báo như đã nêu trên, những người hiểu biết, bên trong cũng như bên ngoài công giáo, cũng thấy là Giáo hội đang phân hoá. Cứ nhìn vào các biểu ngữ trong ngày lễ Đức Cha Phê-rô Nguyễn văn Nhơn được bổ nhiệm làm Tổng Giám mục phó Tổng Giáo phận Hà nội cũng đủ biết, khỏi cần phải nói năng hay viết lách gì.

Vậy thử hỏi từ đâu có sự phân hoá ?

Rồi tiếp đến là sự ra đi âm thầm tủi nhục như một kẻ phạm pháp của Đức Nguyên Tổng Giám mục Ngô quang Kiệt. Nhiều người vì bức xúc đến tột độ, nên đã không cầm nổi mình mà phát ra những lời lẽ quá ư bực bội đến như lỗ mãng.

Sự phân hoá là có thật và không thể che giấu được. Vậy phải tôn trọng sự thật. Nhờ tôn trọng và giãi bày sự thật, may ra mới có thể giải gỡ cho Giáo hội Việt Nam khỏi tình trạng rối rắm này. Mà thật là khi có sự phù hợp giữa sự việc xẩy ra với việc làm và lời nói. Phải nói sự thật thì lời nói mới đáng tin. Có thể sự thật làm cho nhức nhối và gây ra khó chịu. Nhưng một khi chấp nhận sự thật thì sự thật có sức giải thoát. Ai không nói sự thật và làm chứng cho sự thật thì lời nói của người ấy không có giá trị. Mà đã không có giá trị thì cũng không có sức thuyết phục và giải toả được dư luận.

Nhìn từ bên trong

Nhìn từ bên trong thì dù muốn dù không phải công nhận là có sự nứt rạn. Nhiều người không muốn nhận sự thật này, và tỏ vẻ bực mình với những ai muốn phơi bày vết nứt rạn đó ra, không phải để làm cớ gây chia rẽ cho người ngoài lợi dụng, mà chính là để tìm cách hàn gắn bằng cách đưa vết thương đó ra rửa sạch rồi bôi thuốc chữa trị. Không ai muốn cho Giáo hội lâm vào tình trạng này, nhưng đã lỡ thì mọi người phải chung vai gánh vác. Người công giáo chúng ta không muốn cho người ngoài “xem lưng”. Nhưng người ta đã xem thấy rồi thì làm sao giấu giếm và che đậy nổi.

Chắc có người sẽ nói vết thương ở đâu mà bảo đem ra chữa trị. Thưa vết thương ở chỗ các tín hữu Bắc Nam, các vi giám mục trong HĐGM không đồng thuận với nhau. Hầu hết các vị giám mục miền Bắc đồng ý với lập luận tôn giáo là quyền chứ không phải cơ chế xin-cho, còn phần đông các vi giám mục còn lại trong Hội Đồng Giám Mục thì chủ trương đối thoại, hiệp thông cho yên chuyện, miễn sao xây được nhà thờ, tổ chức được những buổi lễ thật linh đình ấn tượng và không bị làm khó dễ gì là được. 

Mấu chốt của sự rạn nứt là ở chỗ đó và cũng từ đây đưa tới sự bất bình của người công giáo ở khắp nơi, làm nổ tung ra những sự phản kháng. Những sự phản kháng này dường như bột phát tựa như “tức nước vỡ bờ”.

Bây giờ làm thế nào đây ? Nhiều người rất băn khoăn lo lắng. Nói ra thì sợ động chạm và bị coi như bất kính mà không nói ra thì lòng không đươc yên.

Vậy phải có người nói và người nghe: người nói lẽ phải và người nghe lẽ phải. Hai bên đều phải tôn trọng lẽ phải. Lẽ phải đó đặt căn cứ trên tính khách quan của sự việc và lòng tôn trọng sự thật của người nghe cũng như người nói..

L.m Anrê  Đỗ xuân Quế O.P

VỀ MỤC LỤC
PHÊRÔ ĂN NĂN THỐNG HỐI
 

 

Bác sĩ Nguyễn Tến Cảnh, MD.

 

 

Câu chuyện thánh Phêrô và một số môn đệ cùng nhau đánh cá suốt đêm trên biển Hồ Tiberia mà không bắt được con cá nào. Rồi Chúa Giêsu hiện ra biểu các ông buông lưới bên mạn phải thuyền thì lại bắt được quá nhiều cá….Rồi Chúa Giêsu ăn sáng với bánh mì và cá bắt được với các ông trên bờ hồ. An sáng xong Chúa hỏi Phêrô cả thảy 3 lần: Này Simon con ông Gioan, anh có yêu mến Thày không thì lần nào Phêrô cũng đều trả lời: Thưa thày CÓ, Thày biết con yêu mến Thày. Lần thứ ba ông Phêrô thưa: Thưa Thầy, Thầy biết hết mọi sự, Thầy biết con yêu mến Thầy. Chúa Giêsu liền bảo:

    -“Hãy chăm sóc chiên của Thày. Thật, Thày bảo cho anh biết: Lúc còn trẻ, anh tự mình thắt lưng lấy và đi đâu tùy ý. Nhưng khi đã về già, anh sẽ phải dang tay ra cho người khác thắt lưng và dẫn anh đến nơi mà anh chẳng muốn”. Người nói như vậy, có ý ám chỉ ông sẽ phải chết cách nào để tôn vinh Thiên Chúa. Thế rồi, Người bảo ông: Hãy theo Thày.” (Ga 21: 1-19)

 

Câu chuyên Phúc Âm bi hùng tráng này nằm trong bối cảnh là biển Galilee.  Đa số cuộc hành trình mục vụ của Chúa Giêsu đều diễn ra dọc theo phía Tây Bắc của biển Galilee, cũng còn được gọi là Biển Tiberia (Ga 6:1) và Hồ Gennesaret (Luca 5:1).

 

Nói là biển, nhưng thực sự là một hồ nước ngọt có hình cái đàn thụ cầm (harp) chiều dài chừng 12-13 dặm và chiều rộng chừng 7-8 dặm. Cá và đánh cá giữ một vị thế quan trọng trong Tân Ước và Giáo Hội Sơ Khai. Đánh cá đã trở thành một biểu tượng quan yếu của sứ vụ Giáo Hội từ khi Chúa Giêsu kêu gọi các môn đệ tiên khởi của người đi “đánh cá con người” (Matthew 4:19; Mark 1:17;Luke 5:10). Danh từ / dấu hiệu CÁ đã là một biểu  hiệu của Kito Giáo.

 

BỮA ĐIỂM TÂM VÀ BẢN HÒA TẤU VỚI HAI ÂM ĐIỆU

 

Đoạn 21 trong Phúc Âm thư thánh Gioan tả lại cuộc đối thoại giữa Chúa Giêsu và ông Phêrô trong bữa điểm tâm sáng trên bờ hồ Tiberia. Có người đã ví cuộc đối thoại này như một bản nhạc hòa tấu với hai âm điệu.

 

Âm điệu thứ nhất mô tả Chúa Giêsu phục sinh hiện ra với các môn đệ trên bờ hồ Tiberia. Quang cảnh và biến cố đó liên quan tới CÁ và LƯỚI CÁ.

 

Sau khi Chúa Giêsu bị đóng đanh chết trên thập giá, các môn đệ ai cũng chán nản, tứ tán mỗi người mỗi nơi. Họ phân vân không biết phải làm gì đây. Khi ông Phêrô quyết định đi đánh cá là lúc ông và các môn đệ thất vọng vô cùng vì cái chết của chúa Giêsu. Phêrô cảm thấy tuyệt vọng, nghĩ rằng đâu còn Chúa nữa để mà theo. Ông muốn từ bỏ việc theo  Chúa, và con đường duy nhất đối với ông lúc đó là trở về với nghề cũ. Nghề chài lưới.

 

Chính lúc đó Chúa Giêsu lại bất thần hiện ra, trong một khung cảnh rất là bình thường, tự nhiên nên chẳng ai nhận ra Chúa[1]. Các môn đệ đã ra khơi thả lưới, cực nhọc suốt cả đêm mà không bắt được một con cá nào (c.3). Đây là một quang cảnh buồn thảm, cô đơn u ám, thê lương và bẽ bàng…Đang lúc thất vọng vì Chúa chết mà trở về nghề đánh cá lại thất bại ê chề. Các ông nghĩ rằng việc các ông làm là đúng và hợp lý, nhưng các ông đã thất bại. Phải chăng đây là một bài học dạy cho các ông biết thế nào là cách hành sử của người môn đệ đích thực của Chúa. Không có Chúa các ông chẳng làm được gì cả (15: 5). Cuộc đổi hướng vào buổi sáng sớm này chính là bình minh của cuộc sống mới của Phêrô. Chúa Giêsu hiện ra được miêu tả là bất thình lình thấy Chúa đứng đó, không báo  trước, lúc nào và ở đâu (c.4; 20: 14, 19, 26)

 

Chúa Giêsu đã khéo léo tế nhị hỏi các môn đệ: “Này các bạn, các bạn không bắt được con cá nào à?”(c.5). Các môn đệ trả lời “không” một cách uể oải chứng tỏ họ đã thất bại. Chúa Giêsu bèn nói với họ “Hãy thả lưới bên mạn phải của thuyền thì sẽ có cá” (c.6). Các ông nghe câu nói đó như là câu nói của một kẻ bàng quang qua đường.

 

Hãy để ý, Chúa đã không nói: “Các ông hãy làm thế này và ở đây thì các ông sẽ bắt được cá”. Chúa cũng không gợi ý, mà thực ra Chúa đã hứa với các ông là các ông sẽ bắt được cá ở những nơi nào Chúa chỉ cho các ông thả lưới. Dĩ nhiên những nơi này, những nơi “bắt cá linh hồn người ta” trong hành trình mục vụ không phải là những nơi, những vị thế, địa vị an nhàn dễ dãi, giao du / đi theo với những kẻ quyền thế….không cần biết đến ý kiến nguyện vọng của người dân.

 

Khi lên bờ, các môn đệ đã thấy có củi lửa đang cháy, có bánh mì, có cá sẵn sàng (c.9) mà không biết Chúa đã lấy những thứ đó ở đâu. Thức ăn cũng là một dấu hiệu bí ẩn đối với các ông, nhưng củi lửa thì là dấu hiệu quen thuộc thường được nhắc tới trong phúc âm thánh Luca, gợi lại quang cảnh lúc Chúa chịu nạn và Phêrô trả lời đứa đầy tớ gái  của thày cả thượng tế: “Tôi không biết người ấy là ai” (Luc 22: 55-60). Lửa cháy lúc đó là biểu hiệu Phêrô “chối từ và phản bội Chúa”. Lửa lúc này, trong phúc âm thánh Gioan là lửa ăn năn thống hối và quyết tâm. Cả 3 lần khi Chúa hỏi Phêrô có yêu mến thày không, Phêro đều thưa lại với Chúa “Có, thưa thầy, thày biết con yêu mến thày…Lần thứ ba, Phêrô nhấn mạnh, thưa Thầy, Thầy biết hết mọi sự, Thầy biết con yêu mến Thầy”. Cùng một bối cảnh là lửa nhưng ý nghĩa khác nhau: một đàng Phêrô chối Chúa ba lần, một đàng Phêrô xác quyết ba lần Tôi yêu Chúa. Không phải vô tình mà Chúa hỏi Phêrô ba lần đâu. Phêrô chắc chắn cũng nhận ra như vậy và ông đã nắm lấy cơ hội cuối cùng này để ăn năn chuộc tội với Chúa.

 

Bữa ăn sáng cũng có một ý nghĩa đặc biệt biểu tượng Mình Thánh Chúa đối với những Kitô hữu thời Giáo Hội sơ khai bởi vì Phúc Âm thánh Gioan (Ga 21:13; 6: 11) đã ghi lại những lời Chúa nói và cử chỉ Chúa làm trong bữa ăn này giống như Chúa đã nói và làm trong bữa tiệc ly cuối cùng trước khi Chúa chịu chết trên thập giá.

 

Có nhiều người thắc mắc hỏi các thánh tông đồ bắt được bao nhiêu cá? Có phải 153 con ? Vì theo thánh Jerôme thì các nhà động vật học Hy Lạp đã cho biết trong hồ đó có cả thảy 153 loại cá. Số lượng cá cũng có một ý nghĩa đặc biệt liên quan tới sứ mạng mục vụ phổ quát của các thánh tông đồ.

 

Màn kế tiếp cũng là một màn khá đặc biệt là không một ông nào (môn đệ)  dám hỏi Chúa Giêsu “ông là ai?” (c.12). Mặc dù có những dấu hiệu khác lạ, nhưng các ông cũng có thể nhận ra được đó là Chúa Giêsu. Đến đây chúa Giêsu đã trở thành trọng tâm của câu chuyện rồi.

 

Sau khi ăn sáng xong,, Chúa Giêsu bắt đầu nói truỵện trực tiếp với Phêrô. Khi nói truyện Chúa gọi Phêrô là Simon, con Gioan.  Chúng ta biết rằng Phêrô còn có tên là Simon Phêrô (c. 2-3; 7b, 11) hay đơn giản là Phêrô (c.7a) là tên mà Chúa Giêsu đã đặt cho ông (1: 42, cf.Mark 3:16; Luke 6: 14). Nhưng trong câu chuyện này, lúc đàm thoại Chúa Giêsu gọi Phêrô là Simon (c.15), tên cũ của ông trước khi được Chúa gọi. Gọi như vậy phải chăng Chúa coi Phêrô chưa phải hoặc không còn là môn đệ của Chúa nữa?

 

PHÊRÔ ĂN NĂN CHUỘC TỘI VÀ VAI TRÒ MỚI CỦA PHÊRÔ

 

Âm điệu thứ hai của bản hòa tấu (c.15-23) là cuộc đối thoại gay gắt nhưng nồng nhiệt giữa Chúa Giêsu và Phêrô. Đây là một ủy thác rất đặc biệt và cảm động mà Chúa trao cho Phêrô như đã được nói trong Kinh Thánh. Công tác liên quan đến “Chiên” và “Chăn Chiên”. Có lẽ Phêrô cũng biết rõ mình yếu đuối và dễ dàng vấp phạm trên suốt đoạn đường thi hành vai trò môn đệ của mình. Là một môn đệ được gọi là “ĐÁ” mà phải khóc lóc hối hận vì đã chối Chúa (Luca 22: 62). Giờ đây Phêrô có được cơ hội để ăn năn chuộc tội và cương quyết thề hứa với Chúa Giêsu.

 

Chúa Giêsu hỏi Phêrô rồi ra lệnh cho ông. Chúa đã hỏi ông những ba lần. Câu hỏi của Chúa là một câu hỏi tối hậu và có tính quyết định cả cuộc đời: Anh có thực sự yêu Ta hơn những “cái này” không?(c.15). Những “cái này” phải chăng là lưới, là tàu thuyền, là tất cả những vật dụng dùng để đánh cá? Thực sự, Chúa muốn ám chỉ “những cái này” là “các môn đệ khác”. Theo như những phúc âm thư khác, Phêrô đã cương quyết và có vẻ khoe khoang cường điệu thưa với Chúa rằng “dù tất cả có vấp ngã vì thầy nhưng con thì không bao giờ…(Math.26: 33; Mark 14: 29; Luke 22:33; Ga 13: 37). Thánh Gioan thì không ghi lời quả quyết này trong phúc âm thư của ông, nhưng cho thấy hành động Phêrô khi biết người đứng trên bờ biển là Chúa thì liền nhảy ùm xuống nước bơi vào bờ và tự kéo lưới đầy cá lên đã chứng tỏ tính tình và hành động của Phêrô hợp với lời nói quả quyết đó của ông. Do đó, câu hỏi của Chúa Giêsu đã đi xâu thấu hơn cả vấn đề cảm tính khoe khoang ấy. Chúa đã đi vào tận căn gốc của  cái tội gọi là tính kiêu ngạo.

 

Động từ “Yêu” mà Chúa Giêsu đã dùng để hỏi Phêrô có hai chuyển biến: Yêu thực lòng, vô vị lợi  như tình yêu của Chúa Giêsu đối với loài người (truly love= Agapae) và Yêu Mến, tình yêu con người (love= phileo). Với cách nói này, hai lần đầu Chúa Giêsu đã hỏi Phêrô xem ông có yêu Chúa không là tình yêu agapae và mỗi lần Phêrô trả lời có yêu Chúa là tình yêu phileo. Nhưng lần thứ ba Chúa đã chuyển qua cách dùng động từ yêu của Phêrô.

 

Nhìn lại ba lần Phêrô chối Chúa và ba lần Phêrô quả quyết ông yêu Chúa, ta thấy ba lần Phêrô chối bỏ Chúa khi Chúa đang bị quân dữ “sử tội, đóng đanh trên thập giá” đã được hủy bỏ, tha thứ bởi ba lần ông xác quyết ông yêu Chúa thực sự.

 

Đối với câu hỏi thứ ba, Phêrô đã trả lời một cách chua chát và đớn đau: “Thưa Thày, Thày biết hết mọi sự, Thày biết con yêu mến Thày” (c.17). Sau mỗi lần Phêrô tuyên xưng tình yêu của mình với Chúa, Chúa Giêsu đều đưa ra cùng một mệnh lệnh, nhưng mỗi lần Chúa dùng mỗi ngôn từ khác nhau.Lần đầu tiên Chúa truyền“Hãy chăm sóc (feed=boske) chiên con (lambs=arnia) của Thầy(c.15); lần thứ hai: “Hãy chăn dắt (shepherd=poimaine) chiên (sheep=probata) của Thày (c.16) và lần thứ ba Chúa gồm cả hai ngôn từ của lần 1 và 2 (c.17, boske/probate), nghĩa là hãy chăm sóc cả chiên con lẫn chiên mẹ của Thày, một mệnh lệnh thu gọn cả 3 lại làm một mệnh lệnh cuối cùng. Sứ mạng mục tử của Phêrô là đứng đầu đoàn chiên của Chúa.

 

KHẢ NĂNG CỦA PHÊRÔ TRONG SỨ MẠNG MỤC TỬ

 

Tại sao Chúa Giêsu lại hỏi Phêrô những câu hỏi như vậy trước khi trao cho ông quyền đứng đầu đoàn chiên Hội Thánh? Phải chăng không còn câu hỏi nào khác nữa thích hợp với vai trò mục tử hay sao, chẳng hạn như: “ Simon con Gioan, anh có nhận biết trách nhiệm anh đang có hay không? Anh có nhận thấy rằng anh đã từng tỏ ra yếu đuối, đôi khi hèn nhát không? Simon anh có hiểu như vậy không? Anh có biết rằng bao nhiêu người đang cần sự giúp đỡ, che chở, lên tiếng yểm trợ của anh không? Anh có khả năng đáp ứng lại tất cả những đòi hỏi của Giáo Hội, của địa phận, của những người bị trà đạp ức hiếp …đang trông chờ nơi anh không?

 

Ở thời đại ngày nay, thời đại thế giới toàn cầu, thời đại của tự do, dân chủ, nhân quyền với văn minh cơ khí, kỹ thuật điện toán điện tử thì điều kiện khả năng và chiều kích đắc lực có lẽ là những ưu tiên hàng đầu trong công tác thích ứng mục vụ chuyên nghiệp. Nói theo ngôn ngữ đương thời đó là khả năng học vấn đại học kinh điển, sành tâm lý, có kinh nghiệm lãnh đạo và quản lý tài chánh, giao dịch rộng quen biết nhiều, tài hùng biện, tháo vát, ngoại giao giỏi, có năng khiếu và quyền biến chính trị, ngay cả tuổi tác và sự lanh lợi. Những điều kiện đó quan trọng đến đâu tùy theo mức độ của chương trình mục vụ mỗi nơi mỗi lúc. Nhưng đó chỉ là mặt nổi; điều quan yếu không thể thiếu đã được Chúa Giêsu tóm gọn, cô đọng tất cả lại qua một câu hỏi căn bản được nhắc lại bởi hai động từ khác nhau bằng tiếng Hy Lạp, diễn tả sắc thái khác nhau của tiếng TÌNH YÊU và TÌNH  HUYNH ĐỆ: “Simon,con Gioan, anh có yêu Thày không? Anh có thực sự là bạn của Thày không?”. Câu hỏi này đã đi thẳng vào tim của con người Phêrô!

 

Mấu chốt của khả năng mục vụ của Phêrô cũng như của mọi chương trình mục vụ dưới danh nghĩa Chúa Kitô phải là TÌNH YÊU CHÚA được biểu hiện qua đức khiêm cung, sự phó thác và đức vâng lời. Phêrô đã hết lòng tận hiến cho Chúa Giêsu nhưng vẫn còn đầy tính tự phụ và thích phô trương xuất hiện, ham danh lợi và kèn kựa. Thái độ và lòng kiêu căng đó sẽ đưa tới tai họa cho cộng đồng như đã thấy trong lịch sử dân Israel, khiến những kẻ đối nghịch đóng đanh Chúa và cũng thấy rõ ràng ngay trong lịch sử giáo hội của thời đại chúng ta hiện giờ.

 

Chính Phêrô cũng đã học được bài học này, rất rõ nét trong bức thư đầu tiên của Phêrô nhắn nhủ các bậc kỳ mục trong cộng đồng cách thức chăn dắt đoàn chiên, bởi vì ông cũng từng thuộc hạng kỳ mục: “Cùng các bậc kỳ mục trong cộng đồng, tôi xin có mấy lời nhắn nhủ, vì tôi cũng thuộc hàng kỳ mục, lại là chứng nhân những đau khổ của Đức Kitô và được dự phần vinh quang sắp tỏ hiện trong tương lai. Anh em hãy chăn dắt đoàn chiên mà Thiên Chúa đã giao phó cho anh em: lo lắng cho họ không phải vì miễn cưỡng, nhưng hoàn toàn tự nguyện như Thiên Chúa muốn, không phải vì ham hố lợi lộc thấp hèn, nhưng vì lòng nhiệt thành tận tụy. Đừng lấy quyền mà thống trị những người Thiên Chúa đã giao phó cho anh em, nhưng hãy nêu gương sáng cho đoàn chiên. Như thế, khi vị mục tử tối cao xuất hiện, anh em sẽ được lãnh triều thiên vinh hiển không bao giờ hư nát” (1Pet 5: 1-4). Quyền uy này phải được thực thi đúng với tư cách của một mục tử thủ lãnh đầy khiêm cung và lương tâm trong sáng, sẵn sàng dấn thân vào những nơi khó khăn nan giải và nguy hiểm nhất để phụng sự Chúa và phục vụ con người, nhất là những kẻ nghèo khổ cô thế. Đừng quanh co né tránh trách nhiệm viện cớ này nọ... Đó là dấu hiệu của một mục tử đích thực.

 

ĐÔI LỜI KẾT:

TRÁCH NHIỆM TỐI HẬU ĐỐI VỚI ĐOÀN CHIÊN

 

Khi tình yêu của Phêrô đã thực sự chín mùi thì ông có thể mời gọi Chúa Phục Sinh cứ tự nhiên nhìn vào tâm can ông thì biết. Nếu lòng ông như cái bánh ông sẵn sàng bóc ra để cho Chúa xem bên trong nó thế nào: “Thưa Thày, Thày biết hết mọi sự, Thày biết con yêu mến Thày” (Ga 21: 17). Chỉ khi nào Phêrô tự cho phép mình được Chúa tha thứ thì ông mới có thể được nhận lãnh trách nhiệm mới đối với đoàn chiên. Đối với Phêrô, chúa Giêsu đã truyền những mệnh lệnh và trách nhiệm mới cho ông là do bản tính nhận thức kỳ diệu và lòng thương vô bờ bến của Ngài. Phêrô đúng là mẫu mực cho chúng ta, bởi vì ông luôn luôn nhận ra sự yếu đuối và thất bại của mình trong khi thi hành trách nhiệm đứng đầu Hội Thánh. Nhận thức này không làm ông mất đi khả năng của mình nhưng giúp ông trở thành vị lãnh đạo hiếu thảo luôn luôn nhiệt tình xả thân vì Chúa.

 

Vậy thì, khi phải đối diện với công chúng làm sao chúng ta có thể đương đầu nổi với những  thất bại do sự yếu hèn của chúng ta ở quá khứ? Lúc này chúng ta muốn Chúa kêu gọi chúng ta thân thiết đến mức độ nào? Chúng ta muốn Chúa kêu gọi chúng ta trở nên  thân tình với những ai? Chúng ta phải hiểu trách nhiệm của chúng ta thế nào về việc tuyên xưng đức tin của chúng ta đối với Chúa Giêsu? Thánh Phêrô đã học được bài học rất đích đáng, ông đã bắt chước Chúa, đi theo đường của Chúa trong suốt cuộc đời còn lại của ông đến chỗ hy sinh mạng sống, tử vì đạo, chết trên thập giá đầu lộn ngược xuống đất ở trên đồi Vatican.

 

Chúng ta đã sửa soạn để đi tới tột điểm của Niềm Tin vào Chúa Giêsu của chúng ta chưa? Chúng ta có yêu mến Chúa Giêsu hơn tất cả “Những Cái Này”  như Chúa Giêsu đã từng hỏi ông Phêrô không?. Những cái thuộc về thế tục, như danh vọng, địa vị, tiền bạc, sắc dục, thích dễ dãi an nhàn thân xác, e ngại khó khăn hiểm nguy, thích giao du làm thân với những kẻ quyền thế giàu sang, nhưng coi thường kẻ nghèo khó, không ngó ngàng hay lên tiếng bênh vực giúp đỡ những kẻ cô thế, bị đè nén áp bức và cưỡng đoạt? Không lên tiếng bảo vệ niềm tin của đạo mà biểu tượng là cây Thánh Giá bị phá hủy và chà đạp, khi Công Lý, Công Bằng và Nhân Quyền bị tước đoạt?

 

Vẫn chưa muộn. Hãy ăn năn thống hối. Như Thánh Phêrô.

 

Fleming Island, Florida

Ngày 16 tháng 5 năm 2010

NTC

 


[1] Chúa hiện ra một cách bất ngờ trong một khung cảnh bình thường và tự nhiên đến độ chẳng ai nhận ra Chúa. Sự kiện này đều được diễn tả như nhau trong tất cả các Phúc Âm thư.

 
VỀ MỤC LỤC
VÌ EM TIN VÀO TÌNH YÊU CHÚA BA NGÔI

 

Vào ngày Đại Lễ kính Đức Chúa Trời Ba Ngôi, giáo xứ Tân Phú chúng tôi vui mừng vì các em tôi trong gia đình Hành Trình Đức Tin sẽ hãnh diện và hạnh phúc bước lên cung thánh tuyên xưng Đức Tin của mình vào Thiên Chúa và Hội Thánh Ngài.

Tại sao các em và chúng tôi vui mừng và hạnh phúc? Suốt bao nhiêu năm các em đã kiên trì học giáo lý, và nhất là trong một năm vừa qua, các em đã chăm chỉ cần mẫn, đến ngày học giáo lý là dậy thật sớm để đúng 5 giờ sáng anh em chúng tôi chia sẻ về mầu nhiệm đức tin. Có ai không hạnh phúc khi nhìn thấy những tâm hồn luôn hướng về Thiên Chúa?

Có những ngày các em phải đi học sớm ở trường phổ thông hay đại học, có những ngày phải thi cử, có những ngày mưa lạnh hay nóng bức, các em đều đến lớp, hăng say lắng nghe và tìm tòi Lời của Chúa.

Tôi thầm thán phục các em, và cảm thấy lời tuyên xưng của những người em của tôi trước bàn thờ Chúa dịp này là điều đáng khich lệ. Vì sao vậy?

Thứ nhất, các em đang sống và học hành giữa một xã hội và nền giáo dục vô thần, nơi mà các giá trị nền tảng đang bị coi thường. Lương tâm con người cùng những giá trị liên quan tới lương tâm bị loại trừ, để thay vào đó là những lý thuyết và khuynh hướng nghiêng chiều về sự chết.

Vậy mà các em vẫn ý thức, dĩ nhiên với ơn Chúa, rằng mình được mời gọi để sống chết cho gia sản đức tin mà Thiên Chúa phú ban và tiền nhân đã anh dũng giữ gìn.

Thứ hai, thời đại này bao thế lực đen tối đang ra tay phá hoại Hội Thánh. Họ lên án cả Đấng đại diện Chúa Giêsu ở trần gian. Hơn nữa, chính người của Hội Thánh, đôi khi ở bậc cao chức trọng, cũng có khi không làm tròn trách nhiệm mà Đức Kytô giao phó. Các bạn trẻ nghe hết, đọc hết, biết rất nhiều.

Nhưng cái đáng khâm phục là các em biết những điều ấy xảy ra, và có khi các em cũng băn khoăn, nhưng cuối cùng các em hiểu rằng Hội Thánh vẫn là thánh thiện và tông truyền. Dù có những dấu hiệu cho thấy sự khác biệt, Hội Thánh vẫn là duy nhất và công giáo. Tôi vẫn thường nhắc các em Lời tuyên tín của Thánh Phêrô: “Thầy là Đức Kytô, Con Thiên Chúa hằng sống”. Và chính niềm tin vào Đức Kytô, chứ không phải vào ai khác, là niềm khích lệ lớn lao và là sức mạnh vô biên cho các em.

Thứ ba, các em đang sống giữa thời đại có qua nhiều cám dỗ. Chỉ cần một cái click chuột, tất cả thế giới suy đồi hư hoại diễn ra, và dĩ nhiên vì sự yếu đuối em sa ngã dễ dàng. Nhưng các em cũng hiểu rằng chính Chúa là mục tử nhân dũng, và chỉ nơi Chúa các em mới được lấp đầy những khát vọng lớn lao của cuộc đời mình.

Các em biết rằng khi đặt tay lên Sách Thánh mà tuyên thệ trung thành với Đức Tin, các em tự nguyện để cuộc đời mình ràng buộc với Thánh Giá Chúa Giêsu, và nơi đó, các em tìm thấy ân sủng và bình an.

Cũng như các môn đệ ngày xưa, dù thuyền có sóng sánh, dù Đức Giêsu có nằm ngủ, thì các ông vẫn về đến bến bờ bình an. Các em đi có nhọc nhằn, có hoang mang đôi chút, thì với niềm tin và tình yêu vào Thiên Chúa, các em vẫn bước đi vững vàng.

Cầu xin cho các em và các bạn trẻ Công giáo khắp nơi nhìn vào Chúa Giêsu để yêu mến và tin tưởng, nhìn lên Chúa Ba Ngôi để gắn bó với Hội Thánh Chúa, và nhìn về hướng Mẹ Maria để vững tin rằng khi có Mẹ thì đức tin không thể nào nao núng.

Gioan Lê Quang Vinh

VỀ MỤC LỤC
ÁNH SÁNG ĐỜI CON
  

Chúa Giê-su đã nói: “Ta là đường, là sự thật và là sự sống”, đối với một người mù như tôi, đó là con đường dễ đi nhất bởi vì tôi không sợ bị vấp ngã. Trên con đường đó, tôi có một người bạn song hành, người bạn đó sẽ chẳng bỏ rơi tôi cho dù tôi xấu xa, bướng bỉnh và đầy ích kỷ. Nhưng con đường đó lại là sự thật, mà sự thật thì không phải lúc nào cũng dễ chịu. Một sự thật chua chát khi con đường ấy là con đường đau khổ, con đường ấy là con đường vác thập giá. Nhưng chính Chúa cũng lại là sự sống, là nguồn ơn cứu rỗi cho linh hồn tôi. Phải chăng đó chỉ là một sự bám víu cùng quẫn hay là một sự đọc thần chú cho qua cơn sợ hãi?

Không, đó là cả một quá trình sống và trăn trở của một tâm hồn luôn muốn vươn tới sự thật. Mỗi khi mở cuốn Kinh Thánh ra, tôi luôn luôn rờ thấy dòng chữ  nổi“LỜI CHÚA LÀ ÁNH SÁNG ĐỜI CON ở ngay trang đầu tiên”, tôi đã từng chấp nhận điều đó như một lẽ tự nhiên và cho rằng đó là sự đúc kết của biết bao nhiêu người nghiên cứu về Kinh thánh Thế nhưng Chúa đã làm cho tôi những điều kỳ diệu khiến ngày hôm nay chính tôi là người khẳng định: “LỜI CHÚA LÀ ÁNH SÁNG ĐỜI CON” chứ không phải ai khác!

Người đã làm gì cho tôi, một đứa con gái cứng lòng? Phải, từ khi mới 9 tuổi tôi đã là một đứa con gái rất bướng bỉnh và cứng lòng tin. Tôi lớn lên và sống đạo theo kiểu truyền thống gia đình chứ không dễ tin vào bất cứ điều gì. Tôi thường lý luận theo kiểu dựa trên cơ sở khoa học chứ chẳng dễ tin vào ma quỷ thánh thần cho dù tôi rất sợ ma. Tôi thường tỏ vẻ mạnh mẽ cho mọi người thấy chứ quyết không chịu nhận là mình yếu đuối. Nhưng kỳ thật tôi thường lo lắng cho một tương lai đen tối đã được đoán trước của đời mình khi vừa mới 17 tuổi. Lúc đó, theo thói quen chứ không phải vì lòng tin, tôi đã cầu xin với Chúa rằng: “Xin cho con đủ sức chịu đựng”. Rồi như một câu thần chú, tôi đã vượt qua được nhiều thứ trong bệnh tật, học tập và lao động bằng cách lập lại lời cầu nguyện ấy. Tuy nhiên, mọi thứ dường như lại đâu vào đấy, tôi vẫn cứ lao vào tìm kiếm vật chất, tiền tài. Tôi thường bị bố tôi trách móc vì lười biếng đọc kinh thánh, nhưng cũng không thể ép lòng vì Kinh thánh không hấp dẫn tôi bằng những cuốn sách khoa học, triết học, đặc biệt là truyện trinh thám và những vụ án mạng. . . Cho đến khi tôi mù hẳn vào cuối năm 1993, khi sức khỏe càng ngày càng xuống cấp, khi chẳng có chút tiền tài danh vọng trong tay, tôi đã bám víu vào Chúa như một người đang bơi giữa dòng sông bão tố vớ được chiếc phao. Trong suốt 8 năm đầu tập thích nghi với cuộc sống trong bóng tối và vật lộn với bệnh tật, tôi đã hiểu ra siêu giá trị của thập tự. Những ngày ấy, tôi bị những chứng đau nhức thần kinh, mất ngủ kéo dài, tay chân đi đứng khó khăn, những cử động rất nhỏ nhặt cũng khiến tôi đau ói mửa liên tục mà không thuốc gì ngăn nổi. Đôi khi tôi phải uống nhiều nước vào để có cái mà ói ra. Kỳ thực tôi cũng chẳng trông mong gì vào thế lực trần gian nữa, vì người nhà mang tôi đến bệnh viện rồi mang về với những đống thuốc mà tôi càng uống vào thì lại càng ói ra. Tôi cứ nằm chịu trận, chờ cơn đau đến rồi cơn đau lại đi sau khi tôi phó dâng và suy nghĩ về những dấu đinh của Chúa. . . Tôi cũng chẳng muốn rên rỉ tâm sự với ai ngoài Chúa giê-su chịu đóng đinh vì ai mà thích nghe những điều ấy mãi? Mỗi sáng tôi thầm mong Chúa gởi đến cho tôi điều gì đó mới mẻ, và mỗi ngày lại có những sự việc tuy nhỏ nhặt nhưng lại đem đến nhiềm vui trong suốt ngày hôm ấy. Thế rồi, cứ khỏe lên một tí, tôi lại chẳng tâm sự với Chúa nữa, lại thích quan tâm đến những chuyện thời sự, phim ảnh, thể thao. . . những chuyện tào lao đâu đâu.

Giáng sinh năm 2001, tôi quyết định đi dự lễ tại nhà thờ Đức Bà, lễ này được tổ chức đặc biệt cho người khuyết tật. Mặc dù tôi đã nghe nói về chữ Braille nhưng vẫn hết sức ngạc nhiên khi em gái tôi cho biết người đang đọc thánh Thư là một người mù, vì giọng cô bé đọc rất dễ thương và trôi chảy. Sau đó tôi tìm đến Mái Ấm Thiên Ân học chữ nổi và sử dụng computer với thầy Phong. Chưa hết, tôi lại gặp một trở ngại mà tôi và thầy Phong đã không ngờ đến, những đầu ngón tay phải của tôi cảm giác rất kém không nhận được ký hiệu. Cuối buổi học thứ hai, khi tôi tưởng chừng sắp phát khóc vì phải bỏ cuộc, tự nhiên tôi đưa ngón trỏ trái lên rờ vào hàng ký hiệu thì nhận ra cảm giác khá hơn. Cuối cùng tôi cũng đọc được chữ nổi tuy có chậm hơn bạn bè song tôi vẫn nhận ra rằng Chúa đã mở ra cho mình một cánh cửa rộng lớn từ đây. Tôi bắt đầu học tập và hòa nhập trở lại với cuộc sống bình thường. Tôi tự tin trở lại, giao tiếp, sinh hoạt với cộng đồng người khuyết tật và tập thể dục để tăng cường sức khỏe. Thời gian đầu, vì không có nhiều sách chữ nổi để đọc, tôi miễn cưỡng đọc những cuốn Kinh thánh. Tôi ngạc nhiên nhận ra rất nhiều điều thiết thực Chúa dạy mà trước đây tôi đã nghe như “nước đổ đầu vịt”. Tôi còn đem những điều mình nhận thấy có thể áp dụng đơn giản vào cuộc sống hàng ngày nói cho những thành viên trong gia đình biết, đây là việc trước đó tôi chưa bao giờ làm. Mặc dù cho đến hôm nay tôi vẫn chưa tập được thói quen đọc Kinh Thánh mỗi ngày, song có thể nói Lời Chúa chính là con đường cho tôi bước đi trong bóng tối của sự mù lòa. Con đường của Chúa thường dẫn tôi vào nơi sâu thẳm của tâm hồn để lắng nghe tiếng Chúa. Con đường ấy dẫn tôi vào thinh lặng để xem xét lại cách cư xử của mình đối với anh em. Con đường ấy dẫn tôi ra khỏi nơi phù hoa đô hội để tôi thoát khỏi sự níu kéo của vật chất phù phiếm. con đường ấy đã dẫn tôi lên đồi Gôn-gô-ta để hiểu ra ý nghĩa của sự đau khổ và giúp tôi vác thập giá đời tôi một cách nhẹ nhàng hơn: “HÃY ĐẾN VỚI TA, HỠI NHỮNG AI GÁNH NẶNG. . . HÃY MANG LẤY ÁCH CỦA TA VÌ ÁCH CỦA TA THÌ ÊM ÁI. . .”  Chẳng phải Chúa đã chữa cho tôi khỏi sự mù lòa của tâm hồn đó sao?

Lời Chúa chỉ cho tôi cạm bẫy, hố sâu, vực thẳm để tôi khỏi sa chân lỡ bước. Lời Chúa chỉ cho tôi lối sống công bình, bác ái, và phục vụ anh em. Lời Chúa dạy cho tôi biết sống khoan dung với người anh em hèn mọn, yếu đuối nhưng không khoan nhượng những điều sai trái, gian manh. Lời Chúa giúp tôi hiểu ra rằng nếu tôi tha thứ cho anh em mình thì tôi sẽ được bình an và tự giải thoát mình khỏi hận thù ganh ghét. Lời Chúa giúp tôi sống có mục đích, có ý nghĩa và sống dồi dào bất kể thân xác tôi đã tàn tạ vì bệnh tật và thời gian.

Cũng những đoạn tin Mừng ấy, nhưng trong mỗi hoàn cảnh, mỗi tâm trạng, mỗi tuổi tác, tôi lại cảm nghiệm ra những điều mới mẻ và cách ứng dụng khác nhau. Có lúc tôi giật mình nhận ra tôi giống như một trong những người Pha-ri-sêu đắc  ý hỏi Chúa Giê-su sẽ xử trí ra sao với người thiếu phụ bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình. Biết đâu tôi đã chẳng tệ hơn họ? Vì ít nhất họ cũng đã cụp đuôi bỏ đi, còn tôi, tôi đã bao lần quyết dùng lý lẽ để xét đoán anh em? Khi đọc đoạn Tin Mừng NGƯỜI CHA NHÂN HẬU, tôi hiểu rằng tôi đã nhận ra mình chính là đứa con hoang đàng chứ không biết mình đôi khi xử sự giống như người anh cả, tưởng mình là đứa con hiếu thảo mà không thấu hiểu nỗi lòng của người Cha. . .

Quả thật, LỜI CHÚA LÀ ÁNH SÁNG ĐỜI CON, đến bây giờ tôi nhận ra điều ấy không phải vì câu này được viết ra bởi những người nghiên cứu Tin Mừng nhưng bởi vì tôi đã được Lời Chúa soi tỏ. Các bạn biết rõ Mặt trời to lớn và tỏa năng lượng đến mức nào, nhưng một người mù như tôi chỉ cảm thấy nó khi có nắng ấm. Vào những ngày mưa gió lạnh lẽo, tôi không biết có sự hiện diện của nó cũng như ánh sáng chan hòa tỏa ra từ nó. Trái lại, những dòng chữ nổi như những hạt cát li ti trong cuốn Kinh Thánh ghi lại Lời Chúa có sức mạnh kỳ lạ. Những khi một mình trong bóng tối rờ rẫm những dòng chữ đó, tôi lẩm bẩm đọc và tự hỏi Chúa đang dạy tôi điều gì? “Hãy học cùng Ta vì Ta hiền lành và khiêm nhường trong lòng. . . “Câu nói này của Chúa giúp tôi nhận ra bản tính kiêu căng của mình để mà sửa đổi. . .

Tương lai trước mặt có lẽ sẽ còn nhiều gian truân đối với tôi, rồi đường đời chông chênh sẽ xô đẩy, xui khiến tôi ra khỏi kế hoạch của Chúa. Nhưng tôi tin chắc rằng nếu tôi cứ bám theo con đường của Chúa, Lời Chúa sẽ mãi là ánh sáng của đời tôi. Chính Lời Chúa đã gieo vào lòng tôi niềm tin tưởng đó khi trong tin Mừng đã chỉ ra cho thấy Chúa chạnh lòng thương xót những người mù hèn mọn và tội lỗi như thế nào. Lời Chúa đã gieo vào lòng tôi niềm hy vọng vào sự khoan dung độ lượng của Chúa qua rất nhiều dụ ngôn về vườn nho và Nước Trời. Ánh sáng cứ thế ùa vào tâm trí tôi, tràn ngập không gian khiến tôi hầu như không còn trở ngại gì về đôi mắt mù lòa. Thậm chí ngay cả ban đêm căn phòng của tôi chẳng tốn tiền thắp điện. Nhưng chính Lời Chúa đã thắp lên trong tôi một niềm tin và hy vọng vào sự Phục sinh của Con Người. Cả điều này cũng đã được Chúa giê-su báo trước, và chính Chúa đã không bỏ mặc hai môn đệ đang thất thểu trên đường về E-mau, Người đã theo họ cả ngày trời để khôi phục lại niềm tin cho họ. Năm xưa Chúa đã dùng các dấu đinh của Chúa để khôi phục niềm tin cho Tô-ma, thì ngày nay Chúa cũng đã và đang củng cố niềm tin qua các việc Người làm cho tôi. Không những thế, tôi còn được chính Chúa Giê-su Ki-tô Phục sinh ở cùng, và là niềm tin chắc chắn cho tôi rằng: Thân xác này rồi sẽ thối rữa nhưng linh hồn tôi sẽ trỗi dậy cùng với Người. Cho dù bây giờ tôi không có một bảo đảm về tiền tài, sức khỏe nhưng tôi luôn tìm được niềm hy vọng, cậy trông và đặc biệt là sự bình an từ Chúa Ki-tô Phục sinh, vì vậy mà tôi sống rất ung dung tự tại. Như Madalena xưa thấy những sự việc xảy ra trong ngôi mộ trống của Chúa Giê-su  đã chạy về báo cho các môn đệ, tôi cũng muốn nói cho các bạn biết về những gì Chúa đã làm cho tôi, từ một người vô dụng tưởng đã bỏ đi giờ  trỗi dậy sáng tác thơ diễn tả sự kỳ diệu của Lời Chúa.

 

                                    Viết trong ngày lễ Phục Sinh năm 2010

                                    Vũ Thủy

 

CÔ GÁI MÙ TRƯỚC ÁNH BÌNH MINH

 

Cô  mở mắt nhìn đời qua bóng tối

Mắt thêm nâu vì nắng đã ùa vào

Giọt ấm áp chìm sâu trong đáy mắt

ấm cả con tim, tâm hồn cô rộng mở

Lòng háo hức đón bình minh của Chúa

Có điều gì mới mẻ giữa tim cô

Cô hăm hở mỗi ngày còn đang sống

Uống từng giọt nắng vàng như mật

Dù ngày mai cuối chân trời mây xám

Cô vẫn còn những giọt nắng yêu thương

Đã len lỏi vào sâu trong đáy mắt

Kể từ khi cô biết Chúa yêu mình

Cô gái mù nhìn thấy ánh bình minh

Luôn mang tới những điều thật mới mẻ

Những giọt nắng trẻ trung vừa thức giấc

Cứ hân hoan ôm trọn mỗi con người.

 

                                                13/8/2009

VŨ THỦY

VỀ MỤC LỤC
CHÂN THẬT
 

Thật và giả như hai mặt của cuộc đời. Có người thì chọn sự thật và có người thì chọn sự giả dối. Con người cũng hoàn toàn tự do và quyết định chọn cho mình cách sống thật hay sống giả.

Với cuộc sống, với xã hội, với con người mà sự thật chiếm lĩnh, sự thật thống trị thì con người và con người sẽ dễ dàng để chọn sự thật mà sống. Ngược lại, cuộc sống mà sự gian xảo, sự giả trá chiếm lĩnh thì sống thật thật là khó.

Sự thật nó làm sao ấy trong cái cõi nhân gian này để rồi người ta nói : “Thuốc đắng dã tật - sự thật mất lòng”. Câu nói sao mà hay quá, sao mà thật quá !

Chẳng hiểu sao mà ngày hôm nay tìm người thật việc thật sao khó quá !

Mới đây, tôi hết sức ngạc nhiên khi nghe người quen cho biết chuyện là dạo này ở Sài Thành người ta mướn người nấu cơm, giúp việc trong gia đình thôi mà lương đến tận 4 triệu hoặc hơn nữa. Công nhân đi làm nhà máy, xí nghiệp quần quật cả ngày chỉ có thể kiếm được hơn triệu hoặc hơn chút nữa ấy vậy mà đi giúp việc lương cao hơn. Hỏi ra thì người quen nói rằng 4 triệu đó là bao gồm cả “tiền chân thật”. Chưa bao giờ nghe đến chuyện “tiền chân thật” cả và sau đó người quen mới giải thích cho thắc mắc của kẻ mọn này.

Người quen cho biết là nhu cầu tìm người giúp việc hiện nay ở Sài Thành quá lớn. Dẫu nhu cầu tìm người lớn đấy nhưng khả năng đáp ứng nhu cầu tương đối đầy đủ vì lượng người từ tỉnh lẻ lên cũng nhiều. Sau một thời gian giúp việc, chẳng hiểu sao người giúp việc nảy sinh lòng tham hay “phát sinh” tình cảm với cậu chủ hay ông chủ để rồi người đuổi việc, việc mất người. Vấn nạn nhiều nhất gặp phải nơi người giúp việc đó là lòng tham và thiếu chân thật. Có lẽ chân ướt chân ráo lên Sài Thành hoa lệ nên họ thấy gì cũng thích để rồi táy máy chân tay. Chính cái táy máy chân tay đó đã làm cho người giúp việc mất cái chân thật nơi thôn quê sẵn có của mình. Chuyện mất chân thật tưởng chừng chỉ có nơi một vài người nhưng chẳng hiểu sao nó nhiều đến độ nhiều chủ nhà bở hơi tai để đi tìm người chân thật.

Thật sự ra mà nói không chỉ người chủ nhà mong có người giúp việc chân thật nhưng mong cả nhà cùng sống chân thật. Trong một gia đình mà thiếu người chân thật cũng rõ khổ.

Cách đây vài hôm, cô học trò ngày xưa nhờ “sư phụ” tư vấn cho chuyện gia đình. Hỏi ra thì người chồng đã không còn chân thật như thuở trước. Cô đã đưa ra chứng cứ rành rành cho sự thất tín của chồng nhưng chồng cô cự cãi. Để thử lòng chung thuỷ của chồng, đây là lần thứ hai cô nhờ người khác phái đến để thử anh. Hai lần, lần nào cũng như thế, anh chồng của cô chấp nhận giải pháp ra đi sống chung với “người tình điện thoại” mà cô sắp xếp nhưng khi hỏi chuyện thì lại chối quanh. Đến hôm nay, cô đã chán ngán cho sự thiếu chân thật của người mà cả đời cô trao phận.

Và hôm qua, trong gia đình nọ tôi cũng khá thân đã xảy ra chuyện rạn nứt tình cảm. Người anh dường như bối rối cách cư xử của người em. Người em quá thẳng thắn trong khi người anh thì mềm dẻo. Lối hành xử nào nó cũng có mặt trái mặt phải, mặt tốt và mặt hạn chế của nó. Thẳng quá chưa hẳn là tốt và mềm quá cũng chưa hẳn là hay. Người anh luôn khẳng định lời nói và cách làm của người em là đúng nhưng người anh không chuyển tải cho bà con lối xóm của hai anh em để khi đụng chuyện người anh như muốn loại người em của mình. Cần lắm sự trao đổi thẳng thắn và chân thật nơi hai anh em nhưng không có. Người anh hành xử theo lối của người anh và người em đành chấp nhận. Chuyện anh em không hề trao đổi nhưng lại chạy đi đến người trên trong khi người trên không hiểu cũng như chẳng can thiệp được chuyện của đôi bên. Người ngoài biết được chuyện của hai anh thì họ nhận định : Hễ thiếu chân thành và thẳng thắn là gây xáo trộn !

Đúng như lời nhận định của người nào đó. Ở đời, bất cứ chuyện gì ta nên thẳng thắn với nhau. Hễ thiếu chân thật thì không sớm thì muộn sẽ gây xáo trộn trong gia đình, trong cộng đồng và trong xã hội. Bao kinh nghiệm chua xót của sự thiếu chân thật diễn ra trong đời sống thường nhật.

Thật thà thẳng thắn thường thua thiệt - lọc lừa lươn lẹo lại lên lương ! Câu nói như đúc kết của phận người thẳng thắn.

Quả thật, trong cuộc sống, phần thua thiệt luôn luôn nghiêng về những con người chân thật.

Dẫu thua, dẫu thiệt nhưng hình như lòng của những người thua thiệt vẫn an bình hơn người chiến thắng trong lươn lẹo.

Chân thật – lươn lẹo luôn mở ra sự chọn lựa của con người.

Thanh Tâm

VỀ MỤC LỤC
ÔNG QUAN TÒA

 

Kính thưa quí vị và các bạn, Mục Sống Sao Cho Đẹp xin tiếp tục gởi đến đề tài Tha Thứ - Hòa Giải. Kỳ này, chúng ta sẽ cùng nhau học hỏi, khái niệm về công bằng trong tha thứ.

Ông LaGuardia là thị trưởng của thành phố New York vào những năm xảy ra nạn đói tại nước Mỹ. Vào một hôm lạnh giá tháng giêng năm 1935, ông đã bãi nhiệm một vị chánh án và ngồi vào ghế chủ tọa để xét xử một phiên tòa có một không hai.

 Bị cáo là một bà già nghèo nàn, nhem nhuốc. Bà bị tố cáo là đã lấy trộm một ổ bánh mì. Bà thú nhận rằng, bà ăn cắp ổ bánh mì là vì cho con gái của bà đang bị bệnh và cháu của bà không có gì ăn. Người tố cáo bà là chủ tiệm bánh mì; ông đề nghị quan tòa phạt bà 10 dollars vì bà ta là một người xấu và đồng thời dùng hình phạt này để răn dạy những kẻ xấu khác.

Ông LaGudrida thở dài và nói, “Tôi phải phạt bà 10 dollars hoặc 10 ngày trong nhà tù, vì luật pháp không miễn trừ cho một ai cả.” Sau khi tuyên án, ông rút trong túi áo mình 10 dollars và nói tiếp. “Đây là 10 dollars tôi tặng bà để đóng tiền phạt; nhưng quan trọng hơn, tôi sẽ phạt mọi người trong phòng xử án này mỗi người 50 cents vì đang sống chung trong một khu phố với một người mà đã để người ấy lấy cắp bánh mì để nuôi cháu của mình mà mình không hay biết.” Hôm sau, hành động xử án lạ kỳ của ông Thị trưởng đã làm cho nhiều người tự nguyện đóng 50 cents “tiền phạt.” Số “tiền phạt” lên hơn 70 dollars và đã được trao cho người phụ nữ đáng thương này.[1] 

Kính thưa quí bạn, câu chuyện trên đây như đưa chúng ta một nhận định rằng: Hoàn cảnh xã hội có thể đẩy chúng ta vào những việc làm trái với luật pháp và đạo lý làm người. Nhưng thật may mắn thay, chính lòng đại lượng và cách nhìn hiểu đời một cách thấu đáo của những người như ông LaGuardia đã không những thể hiện lòng bao dung tha thứ cho người phạm tội nhưng họ còn khơi gợi những người khác về trách nhiệm phải tha thứ và giúp đỡ những người đã có lỗi với mình.

Khi bàn đến tha thứ hay không tha thứ cho một ai đó, chúng ta thường hay nghĩ đến về vấn đề công bằng theo khái niệm của luật pháp. Khi ai đó xúc phạm hay nói xấu chúng ta… chúng ta dễ dàng trở thành một vị “quan tòa” xét xử người khác theo những khái niệm “qua lại, bù trừ, hơn thua.” Nếu càng để lâu những mối bất hòa trong lòng mình, thì những khái niệm của luật pháp càng dần dần lộ ra rõ hơn và mạnh hơn trong tâm trí của mình. Đáng buồn thay, những khái niệm này dần dần lớn lên theo tính chủ quan của mình – tức là xét xử người khác theo hướng có lợi cho mình. Mình là người vô tội. Bà ấy, ông ấy là người có tội. Bà ấy, ông ấy phải là người xin lỗi mình vì họ đã xúc phạm đến mình thế này, thế này, và thế này,… Bà ấy, ông ấy đáng bị như vậy. Bà ấy, ông ấy phải trả giá cho hành động như vậy.

Thưa bạn, thật buồn và đáng thương cho vị trí “quan tòa” chủ quan ấy, vì thực ra, những lời kết án mà mình dành cho người xúc phạm mình đó, chính là những lời kết án cho chính mình. Những khái niệm chủ quan do mình đưa ra với lý do “công bằng, pháp luật, hợp lý” thực ra là những khái niệm bên ngoài; còn thực chất chính là mình đang che đậy vị trí “quan tòa” mà mình vẫn thường cho mình là đúng, còn người khác là sai. Mình mất ngủ, mình không bình an, mình không thấy hòa khí trong gia đình, mình không thấy cộng đoàn mình có bầu khí chan hòa, chia sẻ, mình khó nở nụ cười,.. cũng là do nguyên nhân của “ông quan tòa” chủ quan trong con người mình tưởng tượng nên.

Thưa bạn, tôi cũng như bạn đều mang lấy thân phận con người vốn nhiều tính xấu và ích kỷ. Hiểu như thế để chúng ta cảm thông cho chính mình và cũng cảm thương cho nhau. Vì thân phận con người này, mà chúng ta gặp nhiều khó khăn trong việc tìm sự bình an cho chính mình. Vì sự yếu đuối của chính mỗi người như chúng ta, mà chúng ta cảm thấy bất lực trước những ý nghĩ tiêu cực về người khác và cũng như về chính mình. Nếu không nhận ra điều đó, một cách vô tình chúng ta trở thành nạn nhân của chính mình. Ông “quan tòa” do mình dựng nên đó có thể là kẻ nguy hiểm nhất để hãm hại chúng ta chứ không ai khác.

Chúng ta thường nói với nhau, “Nhân vô thập toàn.” Hôm nay tôi mời bạn hãy áp dụng lời nhận định ấy vào chính đương sự mà mình đang gặp khó khăn trong việc hòa giải tha thứ. Anh ấy, cô ấy cũng là “nhân,” vậy tôi còn ngần ngại gì nữa mà không tha thứ cho họ?!!!

Lạy Chúa, nếu Chúa xét xử con, liệu con sẽ ra sao? 

Br. Huynhquảng  

Kính mời ghé thăm mục Sống Sao Cho Đẹp bằng audio tai www.gdthanhgiusetampa.org 


[1] William J. Bausch, A World of Stories (The Blackrock: Colomba Press, 1998) 233.

VỀ MỤC LỤC
HIỂU CHỒNG VÀ CẢM THÔNG VỚI CHỒNG

Tác phẩm: Cẩm  Nang  Hạnh  Phúc Gia  Đình  Kitô - MỤC VỤ HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH

Tác giả: D. WAHRHEIT (Lm. Minh Anh, GP. Huế tổng hợp biên tập)

A4. HIỂU CHỒNG VÀ CẢM THÔNG VỚI CHỒNG

Cơn khủng hoảng trong gia đình của hoàng gia Anh, giữa Hoàng tử Charles và Công chúa Diane, đã là đề tài sốt dẻo trên báo chí Anh và thế giới suốt nhiều tháng trời. Người ta qui lỗi cho Hoàng tử Charles vì ông không biết yêu thương, chiều chuộng, săn sóc vợ. Nhưng liệu Công chúa Diane có phải là người hoàn toàn không đáng trách trong cuộc khủng hoảng này chăng?

Nếu hôn nhân là một công trình phải xây dựng chung của hai vợ chồng, thì sự đổ vỡ hay bất cứ một xáo trộn nào có phải là tại lỗi của một người không?

Người ta trách cứ Hoàng tử Charles là người không biết để ý đến vợ mình. Nhưng liệu Công chúa Diane có chấp nhận những khác biệt của chồng và biết chia sẻ những thao thức, những tham vọng, những sở thích của chồng mình không?

Chúng tôi nghĩ rằng, tâm trạng của Công chúa Diane cũng có thể là nỗi lòng của rất nhiều người vợ trẻ: “Chồng tôi không còn để ý đến tôi! Chồng tôi không còn săn sóc tôi! Chồng tôi không muốn hiểu tôi nữa”. Những lời than vãn ấy vốn có nền tảng. Nhưng đó cũng có thể là tâm trạng của chính những người vợ không muốn hiểu hoặc chưa hiểu và cảm thông với chồng mình.

Họ quên rằng, người chồng có những cách suy nghĩ, có những phản ứng, có những bộc lộ khác với mình. Họ cũng quên rằng, hôn nhân là một hoà hợp từ những khác biệt giữa hai tính khí khác biệt.

1. Người ta có thể nói, nơi người đàn bà tất cả đều là quả tim, trong khi đó nơi người đàn ông, tất cả đều là cái đầu. Ngay cả khi yêu, người đàn ông cũng yêu với đầu óc, với sự lý luận của mình. Đó là lý do tại sao đàn ông đơn giản hơn đàn bà. Đơn giản ở đây không đồng nghĩa với ngây ngô khờ khạo mà chính là trong suốt, minh bạch. Người đàn ông không để ý đến những chi tiết. Họ nhìn thẳng vào điều cốt yếu. Họ xếp loại mọi sự. Khi biểu lộ tình cảm của mình, người đàn ông xem ra ít tế nhị, ít tinh tế, thậm chí có khi cục mịch nữa.

Lý do là vì đàn ông có khuynh hướng nhắm thẳng vào mục đích hơn là đi vòng vo. Điều này dễ tạo ra xung đột và thậm chí còn gây tổn thương cho người khác. Tính đơn giản nơi người đàn ông một phần cũng do chính cấu trúc thể lý của họ. Sức mạnh thân xác khiến họ tự tin và cũng dễ gây hấn hơn.

Người vợ cũng cần phải hiểu rằng, một trong những nhu cầu lớn của chồng mình chính là hoạt động. Một người đàn ông chỉ thực sự được thỏa mãn khi họ hiến thân cho một công việc, một lý tưởng, một hành động, một công cuộc. Người đàn ông luôn muốn sáng tạo bằng sức mạnh của đôi tay, bằng sự suy nghĩ của khối óc. Người đàn ông thích nghĩ đến những cái mới mẻ. Sự phát triển nhân cách, niềm hạnh phúc của người đàn ông tuỳ thuộc phần lớn vào sức hoạt động ấy.

Do đó, một người vợ tốt sẽ không bao giờ là một cản trở đối với sự hoạt động của chồng. Người vợ ấy sẽ không tỏ ra buồn phiền khi người chồng không dành mọi tâm tư và suy nghĩ cho mình. Người vợ phải nghĩ rằng, nhân cách của người đàn ông mình yêu thương kính trọng chỉ được thực hiện qua những hoạt động và thi thố bên ngoài ấy.

Người ta có trách cứ Hoàng tử Charles của Anh quốc quá đam mê trong những trò chơi thể thao và mối quan tâm về môi sinh đến độ quên đi những chiều chuộng, săn sóc Công chúa Diane đang chờ đợi nơi ông. Nhưng thiết tưởng, người ta cũng cần phải hiểu rằng, Hoàng tử Charles muốn thể hiện nhân cách của ông qua những hoạt động ấy. Ông muốn cho mọi người thấy mình là một người đàn ông dũng mạnh và là một con người biết lo cho đại sự. Hẳn hơn ai hết ông cũng mong được người vợ chia sẻ những sở thích và thao thức của ông.

2. Người vợ nên nhớ rằng, những cách biểu lộ tình cảm của người đàn ông khác với người đàn bà. Tình yêu thương người đàn ông dành cho gia đình, vợ con thường được biểu lộ qua sự chú tâm, những hy sinh, sự cặm cụi làm việc. Cho dẫu người đàn ông có thiếu tế nhị và lịch sự, cho dẫu cung cách của người đàn ông có thiếu sự tinh tế và tình cảm, thì điều đó không có nghĩa là người đàn ông không biết yêu hay không có tình yêu.

Người chồng có thể không nhớ ngày sinh hay những dịp đáng ghi nhớ khác của người vợ hay của đời sống gia đình. Người vợ sẽ không vì thế mà trách móc chồng mình là người vô tâm. Dĩ nhiên, đó có thể là những thiếu sót của người chồng. Nhưng những thiếu sót đó không hẳn đã là thể hiện sự vô tâm. Người đàn bà phải tự nhủ rằng, người đàn ông không thể hiện tình yêu thương giống như mình. Một người đàn bà yêu chồng và tha thiết với hạnh phúc gia đình phải là một người đàn bà sống trọn vẹn cho chồng. Bà hãy xem những tham vọng, những sở thích, những hoạt động của chồng như của chính mình.

Với sức mạnh của đôi tay, với tính khách quan trong phán đoán, với sự tự chủ trong những cảm xúc, người đàn ông cũng muốn là chủ trong nhà. Người đàn bà, tự bản chất, cũng muốn bên cạnh mình có một nơi nương tựa vững chắc. Do đó, trong bất cứ xã hội nào, vai trò chủ động của người đàn ông trong gia đình là điều không ai chối cãi. Người chồng nên thành toàn hơn, nghĩa là có một nhân cách được phát triển hơn khi họ đóng trọn vai trò ấy. Một người vợ yêu chồng sẽ là một người đàn bà biết nhìn nhận vai trò ấy của chồng và tạo điều kiện để chồng mình thi thố vai trò ấy.

Người chồng không chỉ muốn được nhìn nhận như người làm chủ trong gia đình. Ông còn muốn xã hội cũng nhìn nhận điều ấy nữa. Do đó, một người vợ yêu chồng phải là một người tha thiết với những hoạt động xã hội của chồng.

Một trong các phu nhân Tổng thống được ca tụng nhiều nhất hiện nay có lẽ là Đệ Nhất Phu Nhân Bush, phu nhân của đương kim Tổng thống Mỹ. Bà luôn sát cánh bên chồng trong tất cả mọi hoạt động của ông. Người ta nói, bà là cố vấn được Tổng thống tham khảo nhiều nhất. Tuy nhiên, điều đáng ca tụng nơi bà là bà luôn biết rõ vị trí của mình. Bà biết rút lui đúng lúc để không xen vào những quyết định của chồng.

3. Hôn nhân là một công trình xây dựng chung của hai vợ chồng. Hai tâm lý khác nhau, hai lối suy nghĩ khác nhau, hai biểu lộ khác nhau, hai sở thích khác nhau. Đó là kho tàng quí giá nhất của đời sống vợ chồng. Sự khác biệt đó không phải là hố ngăn cách hai người, mà trái lại, bổ túc cho nhau, làm cho nhau nên phong phú hơn.

Hôn nhân là một cách sống ơn gọi làm người. Chính nhờ đời sống hôn nhân mà con người nên người hơn, nên phong phú hơn, nên thành toàn trong nhân cách hơn. Và để đạt được ơn gọi ấy, hai người phối ngẫu phải biết tiếp nhận nhau, biết xem những khác biệt của nhau như những giá trị giúp nhau nên phong phú. Nói tóm lại, nên một với nhau, hoà lẫn với nhau, nhưng không đánh mất chính mình. Đó là vẻ đẹp của đời sống vợ chồng.
 

Tác giả: D. WAHRHEIT (Lm. Minh Anh, GP. Huế tổng hợp biên tập)

VỀ MỤC LỤC
TÌNH BẠN KHÁC PHÁI CỦA NGƯỜI ĐỘC THÂN THÁNH HIẾN 

[BẢN THẢO]

LINH MỤC GIÁO PHẬN SỐNG TU ĐỨC TOÀN DIỆN

TRONG BỐI CẢNH THỰC TẾ CỦA GIÁO HỘI VÀ XÃ HỘI VIỆT NAM HÔM NAY

Lm. Micae-Phaolô Trần Minh Huy pss

CHƯƠNG MỘT 

LINH MỤC GIÁO PHẬN TƯƠNG LAI

sỐng TỐT đỜi SỐNG đỘc thân LINH MỤC

TRONG BỐI CẢNH GIÁO HỘI VÀ XÃ HỘI VIỆT NAM HÔM NAY

(tiếp theo)

D. TÌNH BẠN KHÁC PHÁI CỦA NGƯỜI ĐỘC THÂN THÁNH HIẾN 

D.I. ĐẶt vẤn đỀ

Linh mục và những người sống đời độc thân thánh hiến có thể có tình bạn khác giới không? Nếu Chúa Kitô, trong nhân tính của Ngài, đã làm bạn với phụ nữ để lôi kéo họ tới thiên tính của Ngài, cho họ cộng tác với Ngài trong công trình cứu độ nhân loại, thì tình bạn giữa người nam và nữ sống đời độc thân thánh hiến đã được Thiên Chúa phê chuẩn. Và Chúa Giêsu trở thành mẫu gương hoàn hảo của tình bạn khác giới của người sống đời độc thân thánh hiến.

Mẫu gương sống động về tình bạn của Chúa Giêsu với phụ nữ có căn bản Thánh Kinh cho loại liên hệ này trong cuộc đời con người. Cha Felix M. Padimatham nói rằng Chúa Giêsu trở thành mẫu gương hoàn hảo của tình bạn khác tính luyến ái. Ngài cũng chỉ ra nhiều mẫu gương các Thánh và Chân Phước đã có loại tình bạn này trong cuộc đời các ngài, như:

-         thánh Hiêrônimô và bà quả phụ Paula,

-         thánh Gioan Kim Khẩu và nữ trợ tế Olympias,

-         thánh Phanxicô Assisi và thánh nữ Clara,

-         thánh nữ Catarina Siena và Chân Phước Raymon Capua,

-         thánh nữ Têrêsa Avila và thánh Gioan Thánh Giá, v.v…

Và mẫu gương của Chúa Giêsu vẫn còn có giá trị cho những người theo Ngài, trong tất cả mọi chiều kích nhân bản và thiêng liêng của đời sống ơn gọi và sứ vụ. Nhưng một điều rất rõ ràng là sự yếu đuối và những nguy hiểm đã không đe dọa Chúa Giêsu, lại có thể đe dọa những người nam và người nữ sống đời thánh hiến trong những liên hệ như vậy. Do đó, chúng ta phải biết cân nhắc các giới hạn và điều kiện cần thiết.  

Chúng ta đừng bao giờ quên rằng mọi thân xác đều mang giới tính và bất cứ tương quan nam nữ nào cũng có yếu tố phái tính (“trai khôn không ở với mạ, má khôn không ở với trưa”). Vì thế, quà tặng độc thân thánh hiến có thể bị nguy hiểm, nhất là trong quan hệ độc hữu, khi mà một người nam đơn độc ở với một người nữ đơn độc (solus cum sola) lâu giờ trong một nơi kín đáo cửa khóa chặt, chẳng ai biết và trông thấy, mà không có bất cứ khoảng cách nào, cùng với những biên giới cần thiết về thể lý, tâm lý và thiêng liêng, nhất là ý thức về sự hiện diện thường hằng của Chúa (x. Câu chuyện “Một nơi kín đáo không ai thấy”).  

Linh mục và những người sống độc thân thánh hiến không có sự quân bình tự nhiên của người sống đời đôi bạn theo nguyên lý bổ túc âm dương, nên phải thiết lập cho được và sống thế quân bình siêu nhiên bằng đời sống cầu nguyện, mật thiết với Chúa, đời sống huynh đệ, tận tụy với sứ vụ, cảnh giác toàn bộ cách ứng xử và cảm xúc của mình, ý thức rằng mình “gìn giữ kho tàng ấy trong những chiếc bình sành” dễ vỡ (2 Cor 4,7).  

Sự thiếu quân bình trong đời sống và sứ vụ cộng với những khó khăn, thử thách đau khổ, yếu đuối nhân loại bên trong, và những thử thách, cám dỗ lôi cuốn từ bên ngoài, khiến người ta có khi đi tìm lại sự quân bình tự nhiên kia mà vấp ngã. Kinh nghiệm cho thấy những linh mục, tu sĩ thất bại trong sứ vụ, gặp thử thách buồn phiền từ Bề trên và anh chị em, lại bỏ đời sống cầu nguyện, thiếu tình huynh đệ cộng đoàn và bỏ bê bổn phận sớm muộn gì cũng sẽ sa ngã, bỏ cuộc: người ta sẽ liều thua cuộc khi con tim thổn thức, mất hướng trước những thử thách buồn phiền, chán nản gây nên bởi những người đáng ra không nên làm như thế! Vì thế, chúng ta được thúc đẩy thiết lập mối tương quan trưởng thành, lành mạnh, hài hòa và quân bình giữa cả hai phái. Người ta nên tốt hay không đều do các mối tương quan của họ. 

D.II. linh mỤc tương quan vỚi ngưỜi nỮ                          

(x. Micae-Trần Minh Huy, Đào tạo và tự đào tạo thiêng liêng của linh mục tương lai trong bối cảnh Việt Nam ngày nay, tr.283-291). 

D.II.1 Tương Quan cỦa Linh MỤc vỚi PhỤ NỮ:

Trợ Lực hay là Vấn  Đề cho Cuộc Sống và Sứ Vụ?  

Theo sách Sáng Thế (St 2, 18-24) và theo quan niệm Á Đông về Âm-Dương, người nam và người nữ rất gắn bó nhau, hấp dẫn nhau và bổ túc cho nhau. Người nam không thể là một con người nếu không có người nữ và ngược lại. Điều này đã khởi sự tự nhiên ở trong gia đình và ngay từ thời niên thiếu: người nam và người nữ bổ túc cho nhau, và sự sống, cả nhân bản và thiêng liêng, vẫn  tiếp tục trải ra và phát triển.  

Sự việc cũng như thế với các linh mục và phụ nữ, nữ tu hay nữ giáo dân. Trong những mối tương quan này, có nhiều phương diện của cuộc sống thật ý nghĩa và đẹp đẽ và có nhiều công việc thật tuyệt vời. Tuy nhiên, họ không luôn luôn là trợ lực, nhưng lắm khi cũng là vấn đề và sa lầy không lối thoát cho một số linh mục. Và, vì một người đàn bà, một số linh mục đã từ bỏ thừa tác vụ, nhất là trong bối cảnh hiện nay của nền văn minh tục hóa, lấy cái tôi làm trọng tâm, vật chất, hưởng thụ khoái lạc, phim con heo và nhục dục. Vì thế, đời sống độc thân linh mục cần được bảo vệ cách ý thức bằng việc đặc biệt giữ cảnh giác cảm xúc và toàn bộ cách cư xử của mình, với ý thức rằng “chúng ta gìn giữ kho tàng ấy trong những chiếc bình sành” dễ vở (2 Cor 4,7). “Cách thực tế, một lối sống phù hợp với chức linh mục không thể được phát triển, nếu chủng sinh dấn thân vào một mối quan hệ độc hữu với một phụ nữ.” 

Do hoàn cảnh cuộc sống, nhất là học hành từ nhiều thập niên qua trong các trường đời, vì trường đạo không được phép tồn tại, bên cạnh các bạn đồng giới, các ứng sinh linh mục có nhiều bạn là con gái từ nhà trẻ, mẫu giáo, lên bậc tiểu học, rồi trung học, cao đẳng, đại học, cũng như trong các sinh hoạt xã hội và ngành nghề; thậm chí có một số ứng sinh không chỉ có bạn là con gái, mà là «bạn gái» nữa, với những hệ quả và phản ứng như đã nói trên kia.  

D.II.2 Tương quan cỦa Linh MỤc vỚi NỮ Tu:

Phải Khôn Ngoan và Tỉnh Thức 

Linh mục hãy giữ trong trí óc và tâm hồn sự lệ thuộc của chính mình, cũng như sự lệ thuộc của các nữ tu đối với Chúa, và luôn ý thức phải “trả cho Thiên Chúa những gì thuộc về Thiên Chúa” (x. Mc 12,17): Cái đã cho rồi, không lấy lại mà cho người khác! 

Nhưng do lý tưởng hiến dâng và môi trường mục vụ chung, linh mục và nữ tu có thể có mối tương quan thân mật, bằng sự cởi mở tâm sự cho nhau, bằng sự hiểu nhau và chia sẻ sứ vụ, những thành công cũng như những khó khăn thất bại, tin tưởng nhau, cảm thông nhau, dịu dàng và ân cần chăm sóc nhau. Và cũng phải kể đến những người nữ cùng làm việc tông đồ với linh mục trong các đoàn hội, hay ân nhân, bảo trợ, mạnh thường quân: Không ai cho cái gì mà cho không cả, và nhiều khi ÂN đòi được trả bằng TÌNH ! “Em ngồi em kể công ơn, bạc vàng nặng ít nghĩa nhơn nặng nhiều.”  

Chính từ sự thân mật này, một cảm nhận “yêu thương” có thể dễ dàng phát sinh và phát triển, rồi tình trạng có thể trở nên nguy hiểm hơn, với những hình thức được bộc lộ ra theo tiến trình: muốn chiếm hữu - ghen tuông - và muốn độc quyền. Những hình thức này dễ nhìn thấy bộc lộ ra nơi các cô bếp hay những nữ tu trẻ đẹp phục vụ và ở luôn trong nhà xứ. Không những thế, mà nhiều trường hợp còn đi xa hơn trong chiều hướng tiêu cực. Ước mong những người có trách nhiệm khôn ngoan và kiên quyết tránh hoàn cảnh nguy hiểm/bẩy ngầm của việc chung sống dưới một mái nhà.        

Không hiểu tại sao các vị hữu trách cấp cao về phía giáo phận cũng như Dòng tu vẫn để tình trạng một, hai nữ tu trẻ, kể cả em đệ tử sống chung trong nhà xứ cùng với các cậu dự tu và không dự tu, Thầy xứ và cha xứ, cha phó! Các ngài quá thánh quá siêu và coi ai cũng thật thánh thật siêu mà quên đi nhận định bao đời của tiền nhân “lửa gần rơm lâu ngày cũng cháy” chăng?! Không ai trách lửa tại sao đốt cháy rơm; và cũng không ai trách rơm tại sao để bị lửa đốt cháy; mà trách người đã để rơm gần lửa. Nhiều trường hợp thương tâm đã và đang xảy ra đó đây, lẽ nào lại để tiếp tục xảy ra nữa sao?! 

Linh mục đừng quên lời khuyên của Chúa Giêsu (x. Mt 26,41; Mc 14,38): là những con người thánh hiến, nhưng linh mục và nữ tu vẫn không thôi là những con người với những yếu đuối nhân loại. Thánh Phaolô chia sẻ: “Có ai trong anh em yếu đuối mà tôi không cảm thấy yếu đuối, có ai trong anh chị em sa ngã mà tôi không cảm thấy như thiêu như đốt?” 

Linh mục và nữ tu cũng phải ý thức rằng sự thân mật là nhu cầu của con người, nhưng sự thân mật trong đời sống độc thân thánh hiến không cần (và không được) biểu lộ có tính cách thể lý phái tính, cùng với hoạt động truyền sinh. Sự thân mật độc thân thánh hiến có mức độ thích hợp của nó. Chính mức độ riêng biệt này cung ứng cho linh mục và nữ tu đủ tự do để yêu thương nhau và yêu thương mọi người mà không vượt qua các giới hạn. 

Linh mục và nữ tu hãy khuôn đúc các mối tương quan nam nữ của mình theo gương mẫu đời sống của Chúa Ba Ngôi và kêu xin ơn can đảm để thăng tiến, vượt thắng và thánh hoá “tiếng gọi nhân loại” này, ngõ hầu giúp nhau sống và chu toàn những gì đã cam kết trong ơn gọi và sứ vụ của mỗi người, vì tình yêu nhiều khi không có tuổi và giờ hẹn:

Chúa đã gọi cha,

Chúa đã gọi con.

Chúa đã gọi, sao còn một tiếng gọi? 

Trong trường hợp ấy, linh mục và nữ tu phải biết tôn trọng: nơi chốn - thời gian - thời lượng - khoảng cách và giới hạn cần thiết, về thể lý cũng như tâm lý, của các cuộc gặp gỡ, nhất là ý thức sự hiện diện thấu suốt mọi bí ẩn của Thiên Chúa. Có thế mới mong:

Lòng như lòng can đảm dẹp mến thương,

Vâng tiếng Chúa, sống cho tròn sứ mệnh. 

Linh mục và nữ tu phải rõ ràng và thành thật với chính mình, với người khác và với Chúa, bởi vì lắm khi sự “hẹn hò yêu thương ấy” thường được che giấu dưới những cớ hợp pháp và chính đáng của các công tác và hoạt động mục vụ, nhưng “thực tế đó là những nghiêng chiều nguy hiểm của con tim.” Và chớ gì đừng vì thế mà dại dột can thiệp giữ lại hay cản trở việc thuyên chuyển chính đáng của Nhà Dòng, nhất là khi họ muốn rút về các nữ tu ở chung trong nhà xứ vì chưa có điều kiện xây dựng cơ sở cộng đoàn riêng. 

Mỗi linh mục và nữ tu, hiện thể hay năng thể, hãy nhớ rằng mình không thôi là con người: Chúng ta có thể làm cớ cho người khác vấp phạm, và người khác cũng có thể làm cớ cho chúng ta vấp phạm: “Tại cả anh, tại cả ả, tại cả và hai!” Thánh sử Matthêu đã viết: “Đức Giê-su quay lại bảo ông Phê-rô: “Sa-tan, lui lại đàng sau Thầy! Con làm cớ cho Thầy vấp phạm, vì con không nghĩ đến việc của Thiên Chúa, mà chỉ nghĩ đến việc của loài người” (Mt 16,23).

Trong hoàn cảnh tế nhị này, sự hiện diện yêu thương và đời sống huynh đệ cộng đoàn sẽ mang lại sự trợ giúp cần thiết. Nhờ tình bạn dâng hiến và nhiệt tình, mỗi người có thể là sự trợ giúp lớn lao cho người khác, trong việc soi sáng và khích lệ lẫn nhau, khi phải chịu đựng những hoàn cảnh nguy hại khác nhau, cũng như sự lây nhiễm một thứ tinh thần thế tục nào đó.  

Xin nhớ trong mọi hoàn cảnh sống, Tình huynh đệ sẽ là:

·        một sự đoàn kết bên nhau để cùng tiến bước,

·        một cuộc đối thoại thường xuyên trong cuộc sống đa nguyên đa diện,

·        một cuộc gặp gỡ cởi mở hơn cho cuộc hành trình đầy gian khó và nguy hiểm,

·        một sự có mặt khích lệ hay một nâng đỡ hỗ trợ tinh thần,

·        một lời vui, một tiếng cười thanh thỏa cùng chia sẻ tình thương dâng lên vời vợi,

·        một cái nhìn cảm thông khi vướng trở ngại, hay khi bị thất bại chua cay,

·        một “tôi khác” để mỗi người có dịp phản tỉnh nhìn lại bộ mặt của mình, có khi đã hoen ố bụi đời,

·        một bạn đồng hành để con đường thập giá bớt nỗi đơn côi,

·        một Simong vác đỡ hay một Vêrônica lau mặt,

·        một cái gì khỏa lấp chỗ trống vắng tình thương sau tình yêu Thầy Chí Thánh,

·        một hiện diện và hiện thân của Thiên Chúa cao xa vô hình.  

Và mỗi người chúng ta trước hết hãy là người bạn như thế cho nhau và cho kẻ khác.

(slideshow Tình bạn là gì?) 

Hơn nữa, linh mục và nữ tu cũng đừng cả dám tự phụ quên đi cái nghịch lý mà thánh Phaolô đã trăn trở: “Vì tính xác thịt thì ước muốn những điều trái ngược với Thần Khí, còn Thần Khí lại ước muốn những điều trái ngược với tính xác thịt, đôi bên kình địch nhau, khiến anh em không làm được điều anh em muốn… Những ai thuộc về Đức Ki-tô Giê-su thì đã đóng đinh tính xác thịt vào thập giá cùng với các dục vọng và đam mê. Nếu chúng ta sống nhờ Thần Khí, thì cũng hãy nhờ Thần Khí mà tiến bước ” (Ga 5,17.24-25).

Linh mục không được quên nhu cầu cầu nguyện, khổ chế, ăn chay và chiêm niệm: “Người ta không thể đi theo con đường khó ấy nếu không có một thứ khổ chế đặc biệt.” Chúa Giêsu tha thiết cầu nguyện với Chúa Cha cho linh mục: “Con không còn ở trong thế gian nữa, nhưng họ còn ở trong thế gian... Con không xin Cha cất họ ra khỏi thế gian, nhưng xin Cha gìn giữ họ khỏi ác thần. Họ không thuộc về thế gian cũng như con đây không thuộc về thế gian. Xin Cha lấy sự thật mà thánh hóa họ. Lời Cha là sự thật. Như Cha đã sai con đến thế gian thì con cũng sai họ đến thế gian. Vì họ, con xin thánh hiến chính mình con, để nhờ sự thật họ cũng được thánh hiến” (Ga 17,11.15-19)

 

          Mặc trần thế ngày ngày giăng cạm bẫy

          Đây một lòng xin tuân phục ý Cha

          Đã tốn công gieo rắc chẳng nề hà

          Hương ngào ngạt Chúa Kitô khắp cõi.

          Bắt thân xác phải hy sinh đền tội

          Lấy lời kinh mà nuôi dưỡng tâm thần

          Những coi thường các lợi lộc phù vân

          Tìm ân thưởng phúc trường sinh chân thật.

                   Thánh Thi Kinh Sáng Lễ Chung  Thánh Nữ

         

Cho tấc dạ trinh bạch như tuyết trắng

Mãi can trường trong thử thách đau thương

Khi tiết độ, khi cầu kinh nguyện ngắm

Vững tâm theo đường đạo lý luân thường

Thánh Thi Kinh Sáng Thứ Tư Tuần IV 

Nhưng trên hết, mỗi người phải tin rằng tình yêu của Thiên Chúa lớn hơn tình yêu nhân loại (một tình yêu lớn hơn vượt thắng tình yêu nhỏ hơn và những hấp dẫn của nó); rằng chỉ có Thiên Chúa mới làm thoả mãn được con tim chúng ta và chúng ta thế nào thì Ngài yêu thương chúng ta thế ấy, và Ngài yêu thương chúng ta cho đến tận cùng; và rằng chúng ta cũng phải yêu thương Ngài đến tận cùng như vậy. Chúa luôn hiện diện trong cuộc đời chúng ta như là “người canh giữ”, như là “bóng mát” của cột mây ban ngày và cột lửa ban đêm để soi đường trong sa mạc, và như là “cánh tay uy quyền” của người bảo vệ. 

D.II.3 Ứng sinh tương quan vỚi bẠn khác phái đỜi THƯỜNG 

Đối diện với những vấn đề này, các ứng sinh được thúc đẩy thiết lập một mối tương quan trưởng thành, lành mạnh, hài hoà và quân bình; và các nhà đào tạo cũng cần có những quan tâm sâu sát. Xin phân biệt hai trường hợp bạn là con gái và bạn gái  Công giáo và không công giáo.  

Nếu những lưu ý về nơi chốn, thời gian, thời lượng, khoảng cách và giới hạn cần thiết, về thể lý cũng như tâm lý, của các cuộc gặp gỡ đã được nhắc đến trên kia với giới nhà tu vì những yếu đuối của con người, thì ở đây càng được nhấn mạnh hơn nữa, nhất là đừng bao giờ mời hay nhận lời đi riêng với một mình họ đến khách sạn, nhà khách, nhà nghỉ, hay những nơi tương tự như qua đêm ở phòng trọ riêng của mỗi người, vì bất cứ lý do gì.  

Nhiều trường hợp đã gặp phải những hậu quả thê thảm, hỏng mất lý tưởng và cả đời người. Nhớ bài “Lý Con Quạ” Nam Bộ: “Quạ kêu, cái mạ quạ kêu, nam đáo bất đáo nữ phong, người dưng khác họ, chẳng nọ thời kia, ban ngày mắc cỡ, tối ở quên về, chừng ra í a ra về, tình tình mà nhớ thương, chừng ra í a ra về, tình tình mà nhớ thương.” 

Đối với các bạn là con gái hay bạn gái Công giáo thì dù gì cũng có một mẫu số chung là đức tin, luân lý và giáo lý công giáo. Chính mẫu số chung đó với quan niệm và lập trường về nhân đức hay tội lỗi tạo nên một môi trường tăng trưởng lành mạnh, những giới hạn được bảo vệ hữu hiệu. Tâm thức sợ tội và yêu mến sự thánh thiện được coi trọng, đề cao và chăm sóc gìn giữ bởi các thẩm quyền hữu trách trong Giáo hội, trong Dòng Tu, trong gia đình, trong cộng đồng giáo xứ và đoàn thể.  

Nếu người nào “xem ra có cái gì đó” thì sẽ có những can thiệp kịp thời và thích đáng. Thậm chí nếu ai thực sự “có vấn đề” thì cũng có mẫu số chung của Đạo để giải quyết. Tuy nhiên, “đừng đùa với lửa”, nhiều lúc trong tình trạng xem ra an toàn lại gặp phải nguy hiểm nhất. Anh em cũng đừng quên giữ luật giao tiếp của chủng sinh: Ai giữ luật thì sẽ được luật gìn giữ cho. 

Trái lại, nếu anh em có những bạn là con gái hay bạn gái không công giáo thì vấn đề sẽ khác hẳn. Việc không có được mẫu số chung về đức tin và luân lý, về nhân đức và tội lỗi, về các qui tắc của Giáo Hội sẽ làm cho các mối tương quan trở nên phức tạp vì sự khác biệt căn bản về Đạo, mà sự thua thiệt chắc chắn sẽ về phía anh em. Các bạn ấy chỉ biết yêu là cho và cho để chinh phục người mình yêu, dù có biết anh em đi tu thì cũng cố gắng đi tới, nhất là khi anh em cũng yêu họ: họ nhằm cho “có kết quả rồi” anh em có muốn lui cũng chẳng được nữa.  

Đời có quá nhiều mánh lới và cạm bẩy mình không thể lường trước được, nhiều người đã “chết vì không biết đủ.” Dĩ nhiên đời cũng có rất nhiều người tốt, nhưng cũng có những cái tốt tự nhiên tự nó lại không phù hợp cho người sống đời thánh hiến, mà còn trở nên xấu và tác hại đời tu, chỉ vì cách nhìn, cách hiểu, cách suy nghĩ không chung hướng đạo đức.   

Hy vọng nói ít mà anh em sẽ hiểu được nhiều. Và nếu được phép khuyên thì xin khuyên rằng ai chưa có những liên hệ như thế đừng nên thiết lập, và ai đã có thì cố gắng cởi bỏ dần dần đi, nhớ câu thơ của Xuân Diệu: “Đường êm quá ta đi mà quên ngó, đến khi hay thì gai nhọn đã vào thấu xương!”  

Mong anh em sẽ biết ứng xử thích đáng, sống và giữ đúng cương vị ứng sinh linh mục của mình, đừng làm cho họ hiểu sai và đánh giá sai về đời tu và linh mục Công giáo. Đó là một gương đại xấu gây cản trở lớn lao cho chứng tá Tin Mừng và truyền giáo của Giáo Hội. Thiệt hại lớn lao đó đòi hỏi đương sự phải cất đi cho Giáo Hội bằng cách tự ý rút lui và người có trách nhiệm cũng cần cương quyết trong việc này: Vâng lời Chúa hơn là vị nể con người. Chúng ta phải nhớ đến sứ mệnh và nỗ lực truyền giáo, làm cho Chúa Kitô được nhận biết và yêu mến, mà vẫn không quên ‘nỗi lo sợ bị hư mất’ của thánh Phaolô. 

Anh em cũng phải cẩn trọng với các bà goá, một đàng          với các góa phụ trưởng thành giàu có sẵn lòng giúp đỡ nơi ăn chốn ở, tiền bạc xe cộ, máy móc... Nhớ cuộc điều tra về “sinh viên tầm gửi” của những chàng trai có sự “hấp dẫn tính dục” mà ngày trước tôi không thể hiểu được “đĩ đực” là gì vì chỉ nghe “con đĩ”; và đàng khác  những góa phụ trẻ đẹp “mẹ dại con thơ” gặp khó khăn cần giúp đỡ, lòng trắc ẩn của anh em và lòng biết ân nghĩa của họ sẽ là bẫy ngầm không ngờ đó!  Một số phụ nữ dù đã có gia đình cũng không thể cưỡng lại những người đàn ông có sức hấp dẫn tính dục, và họ không loại trừ đàn ông đi tu! 

D.II.4 NhỮng Con ĐưỜng Tương Quan TỐt 

D.II.4a Tương Quan với Mẹ và Chị Em của mình

Mối quan hệ đầu tiên và cơ bản nhất của linh mục với các phụ nữ phải kể cụ thể là mối quan hệ với chính mẹ và chị em của mình. Mẹ linh mục là người phụ nữ mà ngài đã nhận được sự sống, và nhờ mẹ mà ngài có được ơn kêu gọi. Sự dịu dàng và chăm sóc yêu thương của tình mẹ nâng đỡ và bảo vệ ngài, giúp ngài lớn lên trong đời sống nhân bản cũng như đời sống thiêng liêng. Mẹ và chị em luôn tiếp tục đồng hành với ngài, với tình yêu thương, cầu nguyện, với chăm sóc canh phòng nhưng đầy an toàn và kính trọng. Một linh mục tốt luôn giữ mối liên hệ mật thiết với mẹ và các chị em mình, đặc biệt trong thời gian gặp thử thách, thất bại, bị hiểu lầm, đau ốm bệnh hoạn, buồn phiền chán nản, lại bị dao động tình cảm và bị cám dỗ.   

D.II.4b Đối xử với các Cụ Bà như là mẹ, và với các thiếu nữ như chị em với tấm lòng trong sạch” (1 Tm 5,2):

Để  sống hồng ân quí giá là đời sống độc thân linh mục vì Nước Trời trong con đường trưởng thành và trong sáng, điều xem ra đặc biệt quan trọng là linh mục phải phát triển cách sâu xa trong chính mình, hình ảnh của các phụ nữ như mẹ và chị em mình, với cùng một lòng yêu thương và kính trọng như đối với mẹ và chị em mình, mà thánh Phaolô đã khuyên nhủ Timôtê.  

Trong thời đại hôm nay, linh mục phải biết “khám phá ra phẩm giá và ơn gọi của phụ nữ trong Giáo Hội và trong thế giới.” Hơn bao giờ cả, ngày nay người ta nói nhiều đến giải phóng, bảo vệ và thăng tiến phụ nữ, và xem ra ngoài xã hội nhiều hơn trong Giáo Hội.  

Thật ra không phải thế, vì ngay từ thời của Ngài, Chúa Giêsu đã ân cần đón nhận sự cộng tác của nhiều phụ nữ theo giúp Ngài và cho họ một vị trí đặc biệt quan trọng, nhất là vai trò của Mẹ Maria và Maria Madalêna dưới chân thập giá, trong biến cố Phục sinh và thời kỳ đầu của Giáo Hội sơ khai, bắt đầu với Lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống đầu tiên.  

Sự thăng tiến này làm cho người nam và người nữ cảm thấy bình đẳng và biết tôn trọng nhau trong mọi khía cạnh. Một biến cố thời sự chứng minh điều vừa nói là Vatican loan báo rằng ngày 21/1/2010 vừa qua, ĐTC Biển Đức 16 đã bổ nhiệm Cô Flaminia Giovanelli là người phụ nữ đầu tiên nắm giữ vị trí Phó Thư Ký của Hội Đồng Giáo Hoàng Công Lý và Hòa Bình. 

Ngược lại, Đức Phaolô VI cũng nhắc Dân Chúa trách nhiệm của họ là cầu nguyện và chân thành trợ giúp các linh mục vượt qua mọi nỗi khó khăn, tận tình yêu thương các ngài với tình con thảo và sẵn sàng cộng tác với các ngài, với kính trọng và tế nhị dè giữ, khích lệ và an ủi, vì các ngài là những người hoàn toàn tận hiến cho Chúa Kitô và Giáo Hội. 

D.II.4c. Nhìn Cách Ứng Xử và Mối Tương Quan Hài Hoà của Chúa Giêsu đối với Phụ Nữ 

Phúc Âm cho chúng ta biết rằng thái độ ứng xử của Chúa Giêsu mang lại tự do và hòa điệu giữa Ngài và các phụ nữ. Linh mục cần học từ Chúa Giêsu, là Thầy và Chủ của mình, cách thức quan hệ và ứng xử thế nào cho đúng mực với các phụ nữ. Chúng ta hãy xem vài khuôn mặt chính:

·    Mẹ Maria, người mà Ngài đã tỏ lòng yêu thương của một người con và hết lòng kính trọng vâng phục; và Mẹ đã trở nên bản đối chiếu mật thiết của Ngài trong việc lắng nghe và thực thi ý Chúa;

·    Mattha và Maria ở Bêtania, nơi mà Chúa thường ghé qua trong cuộc hành trình truyền giáo; và Ngài đã trở nên rất gần gũi với họ;

·    Người phụ nữ xứ Samaria, được hoán cải và đổi mới, đã giới thiệu Chúa Giêsu cho dân chúng vốn không biết đến căn tính đích thực của Ngài;

·    Maria Madalêna, người được cứu sống và hoàn toàn biến đổi nhờ Chúa Giêsu; cô đã thấy Chúa Phục Sinh và nhận lãnh trực tiếp từ Ngài sứ vụ loan báo sự sống lại;

·    Người phụ nữ vô danh mà Chúa đã dạy cho biết hạnh phúc lớn lao là lắng nghe và thực hành lời Chúa;

·    Các con gái thành Giêrusalem đã theo Chúa trên con đường thánh giá.  

Tóm lại, trong các mối tương quan của tình bạn khác phái, dù với người tu hay ở giữa thế gian, linh mục phải luôn qui hướng về Chúa Kitô, khiêm tốn nhìn nhận những điều kiện con người yếu đuối của mình, lắng nghe sự khôn ngoan và kinh nghiệm của kẻ khác, đừng bao giờ dám tự phụ cho mình là mạnh, trái lại nhớ luôn rằng “con chim nhát là con chim sống” hay “tam thập lục kế, vi tẩu thượng sách.” Phải khiêm tốn và bền bỉ cầu xin ơn trung thành: những cây đại thụ trong Giáo Hội còn ngã (có vị TGM bị ĐGH bãi luôn cả tình trạng giáo sĩ) huống gì nhỏ bé dòn mỏng như chúng ta! 

Ngoài ra, phải phát huy tình huynh đệ bí tích linh mục. Khi mà linh mục thực sự yêu thương nhau, ai cũng thỏa mãn được nhu cầu tâm lý căn bản yêu và được yêu của con người, thì chẳng ai thèm đi tìm bù trừ hay đón nhận một tình cảm nào khác. Thế nhưng trong bất cứ cuộc chiến đấu nào cũng có chiến thắng và chiến bại. Nếu gặp phải trường hợp chiến bại, hãy cư xử theo lòng nhân hậu của Chúa Kitô, giúp nhau chuyển bại thành thắng, chỗi dậy đứng lên tiếp tục hành trình với bài học kinh nghiệm và tâm hồn đổi mới. Hãy coi lầm lỗi như một lúc con tàu bị trật bánh ra khỏi đường ray. Nếu khéo léo điều chỉnh, bánh xe sẽ lại trở về đúng vị trí để con tàu tiếp tục vận hành.

Người lầm lỗi được chân thành thương yêu, quảng đại tha thứ và nhân từ nâng đỡ sẽ đủ nghị lực kiên trì biến đổi nên tốt, với sự trợ giúp của ơn thánh Chúa: Mỗi vị thánh đều có một quá khứ và mỗi tội nhân đều có một tương lai.  

Tâm lý chung của những người cầu toàn khi phát hiện một lầm lỗi là muốn làm om sòm lên. Nhưng liệu sự om sòm ấy có làm thay đổi được tình hình, hay nó lại càng “vạch áo cho người xem lưng” về tình trạng thiếu yêu thương của mình. Trước hết nên bình tĩnh, nhìn lại chính mình. Ai cũng có thể bị “vi-rút” tình cảm và tình dục tấn công. Vấn đề là cần có sức đề kháng tốt để tránh được bệnh. Sức đề kháng đó nằm ở chính sự kết hiệp mật thiết với Chúa Giêsu và tình huynh đệ bí tích của linh mục với nhau, là nhân tố làm thỏa mãn nhu cầu yêu và được yêu trong bối cảnh của đời sống ơn gọi, được đặt trọng tâm nơi Chúa Giêsu, và kiên trì chu toàn bổn phận theo đấng bậc của mình.

 (Slideshow Chúng con cần đến Chúa)

còn tiếp

VỀ MỤC LỤC
RỦI RO ĐIỆN ĐÀM KHI LÁI XE

 

Ngày thứ Ba, 12/1/2010, Janet Froescher, Chủ tịch tổ chức National Safety Council  tại Hoa Kỳ phổ biến một báo cáo cho biết mỗi năm ít nhất có 1.6 triệu trường hợp đụng xe ( khoảng 28% trong tổng số các tại nạn xe cộ) là do điện đàm + lái xe (1.4 triệu vụ) và nhắn tin texting (200.000 vụ). Bà  kết luận là các tai nạn này đều có thể tránh được và nếu không làm gì để tránh ngay từ bây giờ là điều rất đáng trách. 

Tại Hoa kỳ, hiện nay có khoảng 100 triệu điện thoại di động, thì 85% chủ nhân ông đều sử dụng khi lái xe. Họ đã tận dụng thời gian ngồi trên xe rồi điện đàm, dùng vi tính để giải quyết công việc.  Thực là tiện lợi, nhưng mặt trái của sự việc cũng có nhiều ảnh hưởng không tốt tới khả năng điều khiển tay lái, cũng như quan sát sự vật xung quanh.  

Theo tập san y học New England Journal of Medicine số tháng 2 năm 1997 thì rủi ro tai nạn do lái xe + nói cell phone  tương đương lái xe + say rượu với mức độ cồn trong máu hợp pháp (blood alcohol level at the legal limit).

Nghiên cứu tại Trung tâm Phân Tích Rủi ro, Đại học Harvard (Harvard Center of Risk Analysis) cho hay, lái xe + điện đàm gây ra 636.000 vụ đụng xe, 333.000 thương tích với 12.000 thương tích nặng, 2600 tử vong và tổn phí chung lên tới 43 tỷ mỹ kim.

Các khoa học gia tại Ðại học Johns Hopkins, Baltimore Hoa Kỳ đã nghiên cứu hoạt động của não bộ khi làm hai việc một lúc. Kết quả cho thấy khi não chú tâm vào sự nhìn thì khả năng nghe hơi giảm đi một chút. Do đó họ khuyên là không nên vừa nói vừa nhìn đường trong khi lái xe.

Tháng 7 năm 2009,Viện Kỹ Thuật Giao Thông Virginia ( Virginia Tech Transportation Institute) công bố kết quả nghiên cứu cho hay tai nạn khi lái xe + bấm nhắn tin (texting) tăng 23% so với không nhắn tin.

Trong khi đó, Pew Internet & American Life Project thực hiện thăm dò vào mùa Hè năm 2009 cho biết có khoảng 26% thiếu niên tuổi 16-17 lái xe + bấm nhắn tin, 43% lái xe + điện đàm.

Kết quả nghiên cứu do Donald Redelmeier và Robert Tibshirani tại Đại học Toronto, Canada, cho hay điện đàm + lái xe sẽ gây ra tai nạn nhiều hơn khi không điện đàm từ 4 tới 5 lần, và nói với tay không cầm điện thoại hand-free cell phone có vẻ cũng không an toàn hơn. Theo nghiên cứu này thì tai nạn xảy ra là do giảm sự chú ý khi vừa lái vừa nói, hơn là sự khéo tay, tài nghệ lái. Nghiên cứu cũng chi tiết thêm rằng:

- Rủi ro tai nạn 5 lần nhiều hơn bình thường khi tài xế nói trong 1 hoặc 5 phút trước khi tai nạn xảy ra.

- Tỷ lệ đụng xe 4 lần cao hơn bình thường khi điện đàm bắt đầu 15 phút trước khi có tai nạn.

- Rủi ro tai nạn thường xảy ra 15 phút sau khi tài xế ngưng nói

- Tài xế trẻ hoặc già đều có tỷ lệ rủi ro như nhau khi lái xe lại điện đàm.

Thời gian phản ứng (reaction time) của tài xế cũng thay đổi: Lái xe + điện đàm, thời gian này chậm hơn bình thường tới 50%, khi say rượu chỉ có 30%.  

Những rủi ro  khi điện đàm + lái xe:

- Gây bối rối, lãng trí người đang lái xe khiến cho họ không tập trung nhìn làn đường trong khi nói và quay số điện thoại;

- Giảm khả năng điều khiển, kiểm soát động tác lái xe. Tài xế say mê với điện đàm mà lơ đãng việc điều khiển tay lái, đưa tới rủi ro cho người trên xe và khách bộ hành.

- Giảm sự chú ý của tài xế với mọi sự việc đang diễn ra trên đường phố ở xung quanh.

- Không lái đúng trong lằn đường quy định

- Không giữ được tốc độ cố định thích hợp

- Không giữ khoảng cách an toàn với xe phía trước

- Phản ứng với các biến cố thường chậm lại

- Giảm khả năng nhận xét về an toàn xa lộ, dấu hiệu chỉ đường. 

Thường thường, khi lái với tốc độ 70 mile/giờ (112 km) cần một khoảng cách là 46 feet (14 thước) để tài xế có đủ thì giờ bắt đầu phản ứng với chuyện xảy ra trước mắt. Nếu điện đàm, dù là lái với 2 tay, tài xế cần thêm một quãng đường 26 feet ( gần 8 thước) để phản ứng, so với không điện đàm.

Ngoài ra đang lái xe mà nói quá nhiều, ăn uống luôn miệng luôn tay, trang điểm má phấn môi son là những giây phút lơ đãng rất ư là tai hại. 

Ðã có tới 40 quốc gia trên thế giới ban hành luật cấm dùng điện thoại di động khi lái xe, như Pháp, Anh, Trung Hoa, Nhật Bản, Nam Hàn, Thụy sĩ, Đức, Hồng Kông, Tân Gia Ba, Gia Nã Đại…

Riêng tại Hoa Kỳ, hiện nay có 7 tiểu bang cấm cầm cell phone để nói chuyện trong khi lái xe. Đó là California, Connecticut, New Jersey, New York, Oregon, Utah, tiểu bang Washington cộng thêm District of Columbia. Trong khi đó đã có 18 tiểu bang + District of Columbia cấm nhắn tin + lái xe.

Tháng 10 năm 2009, Tổng Thống Hoa Kỳ Barrack Obama đã ký sắc lệnh cấm nhân viên dân chính, quân sự liên bang sử dụng điện thoại di động khi lái xe thi hành công vụ, với xe, điện thoại công hoăc cá nhân.           

Lái xe mà có điện thoại di động để khi khẩn cấp có phương tiện thông tin, cấp cứu, cũng là điều thuận lợi. Tuy nhiên, đang điều khiển xe mà  điện đàm tâm sự ba hoa thì tai nạn cũng dễ dàng xẩy ra với tử vong cho người lái và người khác.

Đã có nhiều vụ kiện do người vừa lái xe vừa nói điện thoại rồi gây ra tai nạn và sự bồi thường lên rất cao. Tháng 12 năm 2007, một công ty tư nhân đã phải điều đình bồi thường những 5.2 triệu mỹ kim cho một phụ nữ tại Georgia, vì bà bị thương tích đụng xe do tài xế của công ty vừa điện đàm + lái xe.

Bài học căn bản về lái xe là:

- Cần luôn luôn đề cao cảnh giác, thận trọng với tác phong lịch sự.

- Đầu hướng về phía trước, mắt vừa nhìn đường vừa ngó kính chiếu hậu và quan sát người lái chung quanh.

- Tôn trọng luật đi đường, giới hạn tốc độ và mang nịt an toàn.

Nếu lại dùng cell phone thì cũng tốt thôi, vì phương tiện này có nhiều ích lợi thực tiễn: giúp ta liên lạc với nhau, giải quyết vấn đề cấp bách và mang lại cấp cứu cho ta cho người khi hoạn nạn.

Chủ nhân xe vận tải hành khách cũng như hàng hóa đều quan tâm tới việc tài xế vừa lái vừa điện đàm: họ có thể gây ra tai nạn và chủ xe cũng có phần trách nhiệm dân sự vì đã không đặt quy luật dùng điện thoại cho tài xế.

Do đó, khi phải dùng điện thoại khi lái xe, cũng nên để ý mấy điều sau đây:

1- Điện thoại bây giờ có nhiều nút, nhiều cách dùng phức tạp nhưng nếu làm quen được với chúng thì lại rất có lợi. Chẳng hạn nút kêu khẩn cấp, nút kêu lại tự động, nút số điện thoại thường kêu... mà khi cần, chỉ việc nhấn nút là nói chuyện được.

2- Sắm thêm trang bị phụ để khỏi phải dùng tay cầm điện thoại áp vào tai, dành hai tay cho bánh lái. Hiện nay có nhiều trang bị phụ như giá cài điện thoại vào xe, dây điện thoại gắn vào tai, ống nghe không dây…

3- Lên xe là để điện thoại gần ngay chỗ mình ngồi, dễ lấy, không phải quay mình ra sau, đảo mắt tìm kiếm.

4- Đang nói chuyện mà thấy có bất an lưu thông như tai nạn trước mặt, mưa to chợt tới, nhiều xe cộ... thì cho đối tượng hay rồi ngưng nói, chú tâm vào đường xá, lưu thông.

6-Đang lái xe mà cần khẩn cấp dùng điện thoại thì táp vào lề đường hoặc nơi an toàn, khóa cửa xe rồi quay số.

5- Giới hạn quay số điện thoại khi đang lái. Quay số khi xe ngừng nơi đèn đỏ hoặc bảng stop. Nếu cần lắm thì quay một nửa các con số, nhìn đường rồi quay tiếp.

6- Không ghi chép, tìm số điện thoại, đọc danh sách việc cần làm trong khi lái xe.

7- Tránh nói chuyện gây nhiều xúc động mạnh trong lúc vừa lái vừa nói vì ta rất dễ bị chia trí, gây ra tai nạn.

Tránh hào hứng, ba hoa tán hươu tán vượn qua điện thoại khi đang lái xe. Để gặp nhau, tha hồ mà phát ngôn.

8-Lái xe trên lằn đường bên phải trong khi dùng điện thoại, như vậy chỉ cần để ý tới giao thông ở phía trái thôi;

9-Dùng di động khi gặp trường hợp khẩn cấp: đây là phương tiện rất hữu ích để bảo vệ mình và gia đình  khi có rủi ro xẩy ra. Ta có thể kêu cấp cứu với cơ sở y tế, cảnh sát giao thông…

10-Dùng di động để giúp đỡ người khác khi họ gặp tai nạn, khó khăn.

 

Kết luận

Mark Edwards, Giám đốc An Toàn Giao Thông của công ty Bảo hiểm Xe hơi Hoa Kỳ nhắc nhở “Các nghiên cứu cho hay khoảng từ 20-50% của tổng số các vụ đụng xe tại Hoa Kỳ đều có nguyên nhân là sự không chú tâm của người lái”.

Ngày nay, cell phone đã trở thành một phần của nếp sống con người. Nhưng dùng chúng một cách an toàn và khôn ngoan là một thói quen tốt mà mọi người nên có.

Phải chi mà ai ai, và ngay bản thân mình, cũng cẩn tắc vô áy náy như vậy thì đỡ việc cho mấy chủ nhân  nhà hòm  biết mấy!

 

Bác sĩ Nguyễn Ý Ðức M.D.  Texas-Hoa Kỳ.

 
VỀ MỤC LỤC
ĐỒN THỔI   Chuyện phiếm của Gã Siêu

 

Chả biết từ đời thuở nhà nào, trong thiên hạ đã có lời xác   quyết :

- Người là một con vật có trí khôn.

Đúng thế, càng suy gẫm gã càng nhận ra sự thực tuyệt vời của câu nói ấy. Sở dĩ con người vượt trội hơn con vật là nhờ đầu óc. Thế nhưng, đầu óc mới chỉ là bình diện vật chất. Không phải cứ đầu to óc lớn mà tài giỏi. Nếu lấy khối lượng làm tiêu chuẩn thì hẳn con bò phải ăn đứt con người, thế mà chúng ta vẫn bảo :

- Ngu như bò.

Và chúng ta cũng thường kết án :

- To đầu mà dại.

Cái làm nên chất lượng cao cho đầu óc con người chính là trí khôn. Nhờ trí khôn, con người mới có được những tư tưởng hay ho, rồi từ đó nảy sinh những việc làm tốt đẹp, bởi vì tư tưởng thì hướng dẫn cho hành động.

Nhờ trí khôn, con người mới có được những phát minh làm đổi thay bộ mặt trái đất.

Chẳng hạn trong lãnh vực ăn, ngày xưa người ta ăn sống nuốt tươi, thế mà hôm nay đã có hằng hà sa số những  thứ cao lương mỹ vị. Cứ chiều chiều đi dạo phố Saigon, người ta ghi nhận được biết bao nhiêu nhà hàng, biết bao nhiêu quán ăn, biết bao nhiêu... làng nướng mọc lên khắp nơi, khói tỏa nghi ngút, hương thơm ngào ngạt làm điếc mũi hàng xóm và khách qua đường.

Chẳng hạn trong lãnh vực uống, ngày xưa người ta uống nước lã cầm hơi, thế mà hôm nay đã có muôn vàn thứ rượu. Quê hương Việt Nam chúng ta vốn còn nghèo nàn và nhiều người vốn còn thiếu ăn, thế nhưng nếu bây giờ người ta hỏi gã :

- Có bao nhiêu thứ bia trên đất nước này ?

Gã đành bó tay chào thua, chẳng thể trả lời được, bởi vì hầu như tất  cả các thứ bia nổi tiếng trên thế giới, cũng như những thứ bia vô danh tiểu tốt chả ai biết đến đều có mặt tại vùng đất khốn khổ này, hơn thế nữa lại còn liên tục phát triển và  không ngừng vươn lên.

Chẳng hạn trong lãnh vực ở, ngày xưa người ta ở hang ở lỗ, thế mà hôm nay đã có cơ man nào những ngọn tháp, những tòa nhà chọc trời, cao hằng mấy trăm mét, đứng ở dưới mà nhìn lên, cứ tưởng chúng đụng tới mây và làm cho mình hoa cả mắt, chóng cả mặt.

Trong khi đó, con vật thì vẫn cứ giậm chân tại chỗ, trước sao sau vậy, chẳng tiến bộ được một ly ông cụ nào cả.

Chẳng hạn con cọp thì vẫn cứ ăn sống nuốt tươi, con chuột thì vẫn cứ chui hang chui hốc, con chim thì vẫn cứ xơi những hạt lúa rụng và tha những cọng rơm về làm tổ.

Chỉ riêng con người là không ngừng phát triển về đủ mọi phương diện. Sở dĩ như vậy cũng chỉ vì con người có trí khôn.

Một trong những sinh hoạt chính của trí khôn, đó là suy nghĩ. Chẳng thế mà Pascal đã bảo :

- L’homme est un roseau pensant, con người là một cây sậy biết suy nghĩ.

Và chính Pascal còn đã khẳng định thêm :

- Je pense, donc je suis, tôi suy nghĩ, vậy tôi hiện hữu.

Cái làm nên con người tôi, cái làm nên cuộc sống tôi, đó là sự suy nghĩ. Nếu tôi sống mà không suy nghĩ, thì kể như  đã tiêu tùng từ lâu và không còn là tôi nữa.

Bây giờ, gã xin “xì tốp” những chuyện triết lý trên mây trên gió ấy để chỉ nói tới những chuyện đời thường mà thôi, bởi vì gã chẳng được học chuyên sâu về môn này, kẻo lắm kẻ thối mồm lại bĩu môi, chu mỏ mà bảo :

- Ban môn lộng phủ, múa bút trước cửa nhà Lỗ Ban.

Được diễn nôm thành :

- Đánh trống qua cửa nhà sấm.

Hay :

- Múa rìu qua mắt thợ.

Trong những lúc ngồi suy tư mông lung, chúng ta ít khi nghĩ đến những sự trên trời, mà hay nghĩ đến những sự dưới đất, chúng ta cũng ít nghĩ đến chuyện mình, mà hay nghĩ đến chuyện người. Rồi sau đó, đưa ra những nhận định và những đánh giá.

Chúng ta giống như người đeo hai cái giỏ. Cái giỏ trước ngực đặt những sai lỗi của của người khác, còn cái giỏ sau lưng đặt những sai lỗi của bản thân. Vì thế, chúng ta thường nhìn thấy rất rõ những sai lỗi của người khác, rồi lên tiếng phê bình và chỉ trích một cách gắt gao. Còn những sai lỗi của bản thân thì lại chẳng nhìn thấy. Và nếu có nhìn thấy chăng nữa, thì cũng sẽ đưa ra một ngàn lẻ một lý do để bào chữa, để biện minh : vì... tại... bởi... Chúng ta thường khắt khe đối với người khác mà khoan dung với bản thân, đáng lẽ ra, chúng ta phải khoan dung với người khác mà khắt khe đối với chính bản thân mình.

Tuy nhiên, những nhận định và đánh giá của chúng ta rất ít khi vô tư và chính xác, bởi vì chúng ta thường bị chi phối bởi nhiều lý do khác nhau.

Trước một sự việc, mỗi người đều có một cái nhìn riêng và một phán quyết riêng, đúng như tục ngữ đã bảo :

- Năm người, mười ý.

Ngày nọ, có hai cha con nhà kia dắt một con lừa ra chợ  để bán. Người cha ngồi chễm chệ trên lưng lừa, còn đứa con đi bộ theo sau. Khách qua đường thấy thế bèn nói :

- Người cha gì mà không biết thương con! Ngồi chễm chệ trên lưng lừa trong khi đứa con phải đi bộ.

Nghe vậy, người cha bèn nhảy xuống khỏi lưng lùa và nhường cho con cưỡi. Đi được một chốc, hai cha con lại nghe khách qua đường chỉ trích :

- Đồ con bất hiếu, còn trẻ mà ngồi ung dung trên lưng lừa, trong khi cha thì già mà lại phải cuốc bộ.

Nghe vậy, hai cha con mới bảo nhau :

- Chỉ còn một cách để cho thiên hạ khỏi bàn ra tán vào, đó là cả hai cha con ta cùng cưỡi.

Thế là hai cha con cùng leo lên lưng lừa. Nhưng vừa đi được một quãng, họ lại nghe thấy một lời chỉ trích khác :

- Rõ là phường vô nhân đạo! Làm sao con lừa gầy chịu đựng nổi một sức nặng như thế.  

Nghe vậy, hai cha con lại vội nhảy xuống khỏi lưng lừa. Thế nhưng cũng chỉ một lúc sau, có người lại phê bình :

- Rõ là đồ ngu dốt. Có lừa mà không dám cưỡi lại phải đi bộ.

Hai cha con không biết làm sao, đành phải nai lưng khiêng con lừa đến chợ.

Câu chuyện này làm cho gã nhớ tới một câu ca dao của người Việt Nam  chúng ta :

- Ở sao cho vừa lòng người,

  Ở rộng người cười, ở hẹp người chê.

  Cao chê ngỏng, thấp chê lùn,

  Béo chê béo trục, béo tròn,

  Gầy chê xương sống, xương sườn phơi ra.

Sở dĩ có những cái nhìn riêng và những phán quyết khác biệt như thế, bởi vì khi nhận định và đánh giá, chúng ta thường chủ quan, bị tình cảm chi phối, theo kiểu :

- Yêu nhau củ ấu cũng tròn,

  Trái bồ hòn cũng ngọt.

- Yêu nhau cau bảy bổ ba,

  Ghét nhau cau bảy bổ ra làm mười.

- Yêu ai yêu cả đường đi,

  Ghét ai, ghét cả tông chi họ hàng.

Ngày xưa, bên nước Tống có một người rất giàu. Ông xây tường cao chung quanh nhà để đề phòng kẻ gian xâm nhập. Một hôm mưa to và gió lớn, cuồng phong và bão táp nổi lên, khiến một cây cổ thu ïbên đường bị đổ và làm sập mất một khoảng tường. Người con thấy thế bèn nói :

- Xin cha cho xây tường lại ngay đi, nếu không kẻ trộm sẽ lẻn vào mất.

Người láng giềng thấy vậy cũng đề nghị :

- Này bác, không xây lại ngay thì e rằng sẽ có trộm.

Tường chưa kịp sửa, thì ngay đêm hôm đó, nhà ông phú hộ bị kẻ trộm viếng thăm. Sáng ra khi hay nhà mất trộm, ông khen người con là khôn ngoan, nhìn xa trông rộng, biết trước mọi sự. Trong khi đó, ông lại nghi ngờ người hàng xóm là gian xảo, lợi dụng thời cơ, xâm nhập gia cư, lấy trộm đồ đạc nhà ông.

Cũng vậy, ngày xửa ngày xưa ở bên Tàu có một ông quan rất được nhà vua sủng ái, mà gã quên béng mất tên rồi. Ngày kia, thiên hạ đem dâng cho nhà vua một món sơn hào hải vị. Thấy vậy, ông quan này bèn xơi trước một bát. Nhà vua nghe biết liền khen :

- Rõ thật là bậc trung thần, ăn trước để xem trong món sơn hào hải vị ấy có thuốc độc hại trẫm hay không.

Thời gian sau, ông quan này bị thất sủng. Ngày kia, thiên hạ cũng đem dâng cho nhà vua một món sơn hào hải vị. Thấy vậy, ông quan này cũng xơi trước một bát. Khi nghe biết, nhà vua bèn đùng đùng nổi giận và quát mắng :

- Rõ thật là đồ khinh quân phản phúc, dám xơi trước, chẳng còn kính nể gì trẫm nữa. Không những phải tội chết, mà còn phải tru di tam tộc.

Nói thế rồi, nhà vua bèn truyền lệnh :

- Lính đâu ? Chém đầu.

Những câu chuyện trên làm gã nghĩ tới lời cha ông chúng ta đã xác quyết :

- Yêu nến tốt, ghét nên xấu.

Hay như dân tây thường bảo :

- C’est la vie!!! Đời là thế!!!

Tuy nhiên, khi nhận định và đánh giá người và việc, ngoài yếu tố tình cảm, chúng ta còn bị  bị tâm trạng cũng như hoàn cảnh, những yếu tố bên trong cũng như bên ngoài chi phối nữa, như Nguyễn Du đã từng viết :

- Cảnh nào, cảnh chẳng đeo sầu,

  Người buồn, cảnh có vui đâu bao giờ.

Ông du khách lái xe phom phom từ Nha Trang lên Đàlạt, khi qua khỏi đèo Ngoạn Mục, người ta hỏi :

- Ông thấy Nha Trang thế nào ?

Ông mỉm cười và nói :

- Nha Trang hở ? Gió biển mát mẻ, con người vui vẻ, quả là một địa điểm du lịch tuyệt vời.

Người ta hỏi tiếp :

- Ông lên Đàlạt, vậy ông nghĩ gì về thành phố này ?

Ông trả lời :

- Tôi hy vọng Đàlạt cũng sẽ tuyệt vời như vậy và còn hơn vậy nữa.

Lúc sau, một ông du khách khác lái chiếc xe cà rịch cà tàng, từ Nha Trang lên Đàlạt. Bò mãi mới leo tới đỉnh đèo Ngoạn Mục, người ta hỏi :

- Ông thấy Nha Trang thế nào ?

Ông nhăn nhó và nói :

- Nha Trang ư ? Khí hậu oi bức, con người cục súc. Quả là một nơi du lịch tồi tệ.

Người ta hỏi tiếp :

- Ông lên Đàlạt, vậy ông nghĩ gì về thành phố này ?

Ông trả lời :

- Tôi cho rằng Đàlạt cũng sẽ tồi tệ như vậy, mà còn hơn vậy nữa.

Sau cùng, khi nhận định cũng như đánh giá người và việc, nhiều khi chúng ta còn cố tình để cho những ý đồ đen tối lộng lành mà vo tròn bóp mép sự thật.

Đúng thế, bất kỳ ai trong chúng ta cũng đều mang lấy một chút tự ái, một chút tự cao, một chút tự đại...  Bất kỳ ai trong chúng ta cũng đều bị tính kiêu căng len lỏi vào từng ngõ ngách tâm hồn.

Khi người khác gặp phải tai ương hoạn nạn, có thể bên ngoài chúng ta ủ rũ như treo cờ tang, nhưng bên trong lại khấp khởi mừng thầm :

- Cho mày chết.

Khi người khác phạm phải một sai lỗi nào đó. Thay vì tìm hiểu để có được một thái độ cảm thông, chúng ta bèn vội vã lên tiếng kết án một cách nghiệt ngã như muốn đạp họ xuống tận bùn đen và giám tiếp nói rằng mình tốt hơn họ bội phần :

- Tôi không như vậy đâu.

Đúng như tục ngữ đã bảo :

- Chân mình những lấm mê mê,

  Lại cầm bó đuốc mà rê chân người.

Hơn thế nữa, những nhận định và đánh giá của chúng ta vốn thường sai lầm, bởi vì chúng ta không hiểu rõ được hoàn cảnh của họ, cũng như những lý do thầm kín đã chi phối hành động của họ.

Một cô gái bán dâm, hành động ấy chắc chắn phải là một hành động xấu, nhưng biết đâu cô gái ấy lại có những lý do chính đáng để được giảm nhẹ, chẳng hạn như cô gái ấy đang cần một số tiền để mua thuốc chữa bệnh cho mẹ già sắp chết.

Một ông chồng khô khan nguội lạnh, chẳng hiểu buồn vì chuyện gia đình lục đục hay chuyện làm ăn thất bại, mà ngày nọ đã nhảy xuống sông tự tử. Mọi người đều tin rằng ông ấy đã mất linh hồn, chết sa hỏa ngục đời đời kiếp kiếp.

Thế nhưng, nào có ai hay ông ấy vốn kính mến Đức Mẹ. Thứ bảy đầu tháng nào, ông cũng dâng lên Mẹ những bông hoa tươi. Chính vì thế, ông đã được ơn ăn năn vào giây phút cuối cùng, như lời thánh Vianney đã nói với bà vợ của ông  :

- Giữa cây cầu và dòng sông có một khoảng cách. Khoảng cách ấy tuy nhỏ nhưng cũng đã đủ để ông ta sám hối. Và chính khoảng cách nhỏ này cấm chúng ta không được xét đoán liều lĩnh.

Khi tỏ lộ những nhận định, những đánh giá chủ quan và sai lạc của mình cho thiên hạ biết, là chúng ta đã tạo nên và tung ra những tin đồn. Vì thế, trong tự điển người ta đã định nghĩa :

- Đồn là nói chuyền cho nhiều người biết.

- Tin đồn là tin không chắc chắn do nhiều người rỉ tai cho nhau.

Chẳng hạn trong ca dao có câu :

- Cúc mai trồng lộn một bồn,

  Chúng mình chồng vợ, ai đồn mặc ai.

Còn sau khi nhận được một tin đồn, chúng ta nói lại cho người khác, thì lúc bấy giờ chúng ta chẳng khác gì kẻ đang phùng má trợn mắt thổi cho tin ấy lan nhanh.

Vì thế, người ta mới gọi là đồn thổi. Đã đồn thì phải thổi để cho tin ấy được bay đi khắp bốn phương trời :

- Tiếng lành đồn xa,

  Tiếng dữ đồn ba ngày đường.

Tuy nhiên trong thực tế, nhiều khi chúng ta đã phải ngậm đắng nuốt cay mà nhận ra rằng :

- Đồn về tiếng lành thì chẳng bao nhiêu, còn thổi về tiếng dữ thì lại quá nhiều, chẳng thể nào kể ra cho xiết.

Tin đồn thường không đúng với sự thật. Chính vì tính cách “thất thiệt” này mà  tin đồn do chúng ta tung ra, hay do chúng ta thổi cho nó bay đi xa, đã giết hại biết bao nhiêu người ngay lành và thiện chí mà nhiều khi chính chúng ta cũng chẳng thèm biết đến.

Bà chị của gã lấy chồng. Anh ấy là cảnh sát cấp “nhớn”. Hai người có với nhau ba mặt con. Rồi anh ấy được “bốc” đi mình ên trước ngày 30 tháng 4 năm 1975.

Suốt quãng thời gian dài, chị đã không nhận được một tin tức hay có một liên hệ gì với anh. Một sự thinh lặng quả là dễ sợ. Và cũng trong khoảng thời gian đằng đẵng ấy, người ta đã đồn rằng :

- Anh ấy bị chết chìm giữa biển khơi vì tàu bị đắm.

- Anh ấy bị đụng xe bên Mỹ và đã được mai táng tại nghĩa trang...

Và tệ hơn nữa :

- Anh ấy đã lấy vợ và đã có con.

Những tin đồn vô căn cứ này làm cho chị héo hắt và quay quắt. Chị âm thầm nuốt những giọt nước mắt cay đắng, ra sức làm lụng vất vả để nuôi dạy ba đứa con. Cho tới ngày nhận được lá thư, trong đó anh cho biết mình đang xúc tiến thủ tục đón chị và các con qua Mỹ theo diện đoàn tụ gia đình.

Dầu vậy, chị vẫn còn bán tín bán nghi, nên đã viết và đặt thẳng vấn đề với anh :

- Thế thì qua Mỹ, mẹ con em sẽ ở với ai, bởi vì người ta đồn rằng anh đã lấy vợ và đã có con.

Một câu chuyện khác kể lại rằng :

Tại một thị trấn nhỏ, chàng thanh niên kia có những triệu chứng và biểu hiện khác thường. Sau khi khám nghiệm, các bác sĩ  “nghi ngờ” anh ta mắc phải bệnh phong cùi.

Tuy không phải là một phán quyết dứt khoát, nhưng  kể từ đó mọi người bắt đầu xa tránh anh ta, nhìn anh ta với con mắt kinh hãi và ghê tởm vì sợ bị lây lan, vì thế anh ta không dám ra khỏi nhà và cũng chẳng dám tiếp xúc với một ai. Ngay cả những người thân trong gia đình cũng cho rằng anh đã mắc phải chứng bệnh khủng khiếp đó.

Và để che dấu con người bị coi như một nỗi tủi nhục và xấu hổ chung, họ đã nhốt anh ta vào một căn phòng nhỏ và khóa chặt. Chàng thanh niên đáng thương ấy chỉ còn sống vất vưởng nhờ mấy chén cơm được đưa vào mỗi ngày. Vũ trụ của anh ta chỉ còn là căn phòng nhỏ với bốn bức tường khép kín. Ngậm đắng nuốt cay từng giây từng phút, anh ta chỉ còn một hy vọng duy nhất, đó là trốn thoát khỏi căn phòng giam của chính mình.

Ngày nọ,  anh ta đã lẻn được ra ngoài, nhưng chẳng may, gia đình đã kịp thời phát giác và lại tống anh ta vào căn phòng nhỏ. Lần này, chàng thanh niên khốn khổ ấy dường như không còn một tia hy vọng nào nữa. Anh ta chỉ muốn tìm sự giải thoát qua cái chết mà thôi.

Lần thứ hai, anh trốn khỏi vũ trụ tăm tối của mình. Nhưng lang thang mãi trên đường phố mà vẫn không tìm được một sự tin tưởng và giúp đỡ của những người chung quanh, vì đi tới đâu anh ta cũng đều bị chối từ. Và thế là anh ta quyết định tìm đến cái chết như một lời biện hộ cuối cùng.

Anh ta đã mua thuốc ngủ và tự tử trước mặt mọi người. Cái chết của anh ta đã gây chấn động trong dư luận. Người ta yêu cầu khám nghiệm tử thi. Và kết quả cuộc khám nghiệm đã làm cho mọi người chưng hửng và sửng sốt :

- Anh ta chẳng hề mắc phải bệnh phong cùi.

Một khi tin đã được tung ra, một lời đã được đồn thổi, thì không thể nào thu hồi lại được, cũng như không thể nào đền bù những thiệt hại tinh thần lẫn vật chất mà chúng đã gây nên.

Có một người đàn bà vào tòa cáo giải và xưng tội nói hành nói xấu của mình. Cha giải tội bèn ra việc đền tội :

- Con hãy mua một con gà giò, ôm nó vào lòng và đi khắp thành phố. Vừa đi vừa nhổ lông nó.

Tuần sau, người đàn bà lại vào tòa cáo giải và lại xưng tội nói hành nói xấu. Cha giải tội hỏi :

- Lần trước, con đã làm việc đền tội chưa ?

- Thưa cha, rồi ạ.

- Vậy việc đền tội lần này, đó là con hãy đi lại những con đường đã đi hôm trước và nhặt đưa về cho cha hết tất cả những chiếc lông con gà.

- Nhưng thưa cha, gió đã thổi bay chúng hết rồi.

- Cũng thế con ạ, con không thể nào thu hồi lại những lời nói hành nói xấu của con, bởi vì chúng đã được chuyền từ miệng người này tới miệng người kia.

Chẳng thế mà các cụ ta ngày xưa đã bảo :

- Nhất ngôn xuất khẩu, tứ mã nan truy. Một lời nói ra khỏi miệng, bốn ngựa đuổi theo cũng không kịp.

Đừng bao giờ tự mình tung ra những tin đồn thất thiệt. Cũng như đừng bao giờ tiếp tay bằng cách thổi cho những tin đồn thất thiệt ấy bay đi khắp nơi, khắp chốn.

Trái lại, hãy là bờ cát vàng, để những con sóng đồn đại xô tới chúng ta,  lập tức sẽ bị tan thành những đám bọt trắng hiền hòa, không còn mang lấy những tác dụng độc hại của chúng nữa.

Gã Siêu   Gasieu@gmail.com 

VỀ MỤC LỤC

- Mọi liên lạc: Ghi danh, thay đổi địa chỉ, đóng góp ý kiến, bài vở..., xin gởi về địa chỉ

giaosivietnam@gmail.com

- Những nội dung sẽ được đề cao và chú ý bao gồm:

Trao đổi, chia sẻ những kinh nghiệm thực tế trong việc mục vụ của Giáo sĩ;  Những tài liệu của Giáo hội hoặc của các Tác giả nhằm mục đích Thăng tiến đời sống Giáo sĩ; Cổ võ ơn gọi Linh mục; Người Giáo dân tham gia công việc “Trợ lực Giáo sĩ” bằng đời sống cầu nguyện và cộng tác trong mọi lãnh vực; Mỗi  Giáo dân phải là những “Linh mục” không có chức Thánh; Đối thoại trong tinh thần Bác ái giữa Giáo dân và Giáo sĩ… (Truyền giáo hay xây pháo đài?)

- Quy vị cũng có thể tham khảo những số báo đã phát hành tại

www.conggiaovietnam.net

Rất mong được sự cộng tác, hưởng ứng của tất cả Quí vị

Xin chân thành cám ơn tất cả anh chị em đã sẵn lòng cộng tác với chúng tôi bằng nhiều cách thế khác nhau.

TM. Đặc San Giáo Sĩ Việt Nam

Lm. Luca Phạm Quốc Sử  USA

 

 

Duoc chon giua loai nguoi va cho loai nguoi; GIAO SI: Xuat phat tu giao dan, hien dien vi giao dan va cay dua vao giao dan, de cung lam VINH DANH THIEN CHUA

*************