[BẢN THẢO]
LINH MỤC GIÁO PHẬN
SỐNG TU ĐỨC TOÀN
DIỆN
TRONG BỐI CẢNH
THỰC TẾ
CỦA GIÁO HỘI VÀ XĂ
HỘI VIỆT NAM HÔM NAY
CHƯƠNG HAI
ỨNG SINH LINH MỤC
GIÁO PHẬN
CỦNG CỐ NHỮNG BƯỚC
ĐẦU
PHÂN ĐỊNH VÀ SỐNG
ƠN GỌI
A. ĐẶT VẤN ĐỀ
Biện
phân ơn gọi thánh hiến là lắng nghe lời Chúa kêu gọi. Vậy trước hết, chúng ta
thử khảo sát mấy từ ngữ quan trọng.
Ơn Gọi,
một từ ngữ thường được sử
dụng để gọi tên một lời mời gọi đến chức linh mục hay đời sống tu sĩ. Tuy nhiên,
trong ư nghĩa rộng răi nhất của nó, ơn gọi đơn giản là “một lời mời gọi.” Từ ngữ
này không chỉ để xác định chức linh mục hay tu sĩ mà thôi đâu.
Các bậc sống khác, như hôn nhân
chẳng hạn, cũng là một ơn gọi, giống như là ơn gọi linh mục hay ơn gọi tu sĩ.
Do đó,
nếu ơn gọi là một lời mời gọi th́ chúng ta phải để thời giờ lắng nghe hầu biết
được chúng ta phải trở thành cái ǵ và ở đâu. Tiến tŕnh lắng nghe này thật căn
bản để kiện toàn điều ḷng chúng ta ước mong t́m được ư nghĩa đời ḿnh, trong kế
hoạch quan pḥng của Thiên Chúa.
Là
những con người, chúng ta được mời gọi bởi hoàn cảnh an bài;
những giới hạn và khả năng tiềm ẩn của
chính chúng ta, trong một thời khắc lịch sử của khả năng t́nh cảm, tri thức và
tâm lư của chính chúng ta.
Nếu
chúng ta đi theo giáo huấn của các viện phụ và viện mẫu sa mạc, cũng như của các
giáo phụ và tiến sĩ Giáo Hội liên quan đến vấn đề này, chúng ta sẽ chấp nhận
rằng một ơn gọi được t́m thấy trong sự sắp xếp an bài của các phương diện ư
nghĩa của cuộc sống và bởi ân sủng mà chúng ta đón nhận để thực hiện điều tốt
nhất của các t́nh huống đó.
Biện phân
là tiến tŕnh lắng nghe và chọn lựa qua sự an bài trong các khía cạnh ư nghĩa
của cuộc đời một con người, cũng như ân sủng để t́m kiếm và xác định hoàn cảnh
và lời đáp trả đích thực đối với T́nh yêu của Chúa.
Đáng
tiếc là chúng ta có khuynh hướng lạm dụng hay sử dụng không đúng từ ngữ “biện
phân” này. Chúng ta gọi là biện phân bất cứ cái ǵ phải làm với một quyết định,
ngay cả việc rất đơn giản nhất là chọn lựa giữa hai thứ đồ vật vật chất. Chúng
ta cũng có khuynh hướng dùng danh từ biện phân khi tất cả những ǵ chúng ta muốn
chỉ là một quyết định thận trọng về một việc ǵ đó cần đến lương tri. Do đó,
không phải tất cả mọi tiến tŕnh phải lấy quyết định đều đặt dưới phạm trù biện
phân.
Biện phân đ̣i hỏi khả năng suy tư thần học liên
quan đến hoàn cảnh và đời sống của một người. Khi chúng ta lắng nghe và
chọn lựa qua sự an bài của các phương diện quan trọng của cuộc sống và khi chúng
ta đón nhận ân sủng để t́m biết qua cầu nguyện đâu là sự thật trong hoàn cảnh
của chúng ta, hầu có thể xác định lời đáp trả đích thực nhất với t́nh yêu Chúa,
th́ chúng ta đi đến sự hiểu biết rơ ràng về cuộc đời chúng ta, sự rơ ràng vượt
quá con tim biện phân của chúng ta. Như thế có sự gặp gỡ giữa hai sự hiểu biết
rơ ràng, của Chúa và của chúng ta, nhờ đó chúng ta bắt đầu nh́n thấy với con mắt
đức tin những ǵ Chúa muốn trong chúng ta và cho chúng ta.
Trong khi biện phân
lời mời gọi đến chức linh mục, tu sĩ hay một tác vụ tôn giáo, điều hết sức quan
trọng phải ghi nhớ trong ḷng trí rằng ơn gọi đặc biệt này trước hết là một lời
mời gọi dâng hiến cuộc đời phục vụ Chúa. Đó không phải là một lời mời gọi làm
bất cứ cái ǵ hay trở nên cái ǵ.
Tiến tŕnh biện phân
lời mời gọi của một người là một nỗ lực vừa nhân loại vừa thần linh để chọn một
bậc sống diễn tả lời đáp trả tốt nhất của ḿnh với t́nh yêu và sự chăm sóc quan
pḥng của Chúa. Như thế nó không bao giờ được đảm trách một ḿnh, v́ nó mời gọi
một sự tương tác giữa người biện phân và Thiên Chúa. Vậy, việc biện phân luôn
luôn nằm trong bối cảnh mối tương quan nhân vị của con người với Chúa.
Cầu Nguyện và Biện Phân
Cầu
nguyện là tâm điểm mối tương quan
của con người với Chúa làm cho con người tự nguyện sẵn sàng với sự hiện diện dẫn
dắt của Chúa trong đời sống ḿnh, đồng thời làm cho con người có khả năng nhận
biết Chúa qua tương quan đối thoại: “Xin cho con biết Chúa, xin cho con biết
con” (thánh Augustinô).
Như
vậy, biện phân không thể tách ĺa cầu nguyện, nếu không nó sẽ không thể là một
biện phân đích thực. Biện phân không phải là một cái ǵ chỉ đơn giản đ̣i học hỏi
các phương pháp và kỹ thuật, dù đó là những dụng cụ hữu ích trong chính tiến
tŕnh biện phân.
Biện
phân trước hết là một ân ban mà nguời ta t́m kiếm hằng ngày trong cầu nguyện.
Chúng ta học nghe tiếng Chúa với con tim của ḿnh, học nhận biết âm thanh của
nó, đôi khi cả học biết những ǵ Chúa muốn nói trước cả khi Ngài nói nó ra. Biện
phân là một lời mời gọi được phát sinh từ mối tương quan thân mật và hiệp thông
với Chúa. Nó là một ân ban cho ta có thể phân biệt được những hướng dẫn của Chúa
Thánh Thần.
V́ thế,
một người đi vào tiến tŕnh biện phân ít nhất phải có hạt giống đức tin trong
ḿnh. Ta phải xác tín rằng lời cầu nguyện ban sức mạnh và đào sâu mối ràng buộc
bằng hữu với Chúa. Ta cũng phải
tin rằng lời cầu nguyện và đức tin mang lại mục đích và ư nghĩa cho cuộc đời
được sống trong sự hiến dâng và cam kết phục vụ Chúa.
Nhờ
hành tŕnh cầu nguyện, chúng ta nhận ra được rằng tiến tŕnh biện phân, dù lắm
khi là một trăn trở, thực sự đơn giản nếu chúng ta để Chúa Thánh Thần hướng dẫn
chúng ta. Tiến tŕnh này bao gồm bốn giai đoạn sau đây: Giữ quan hệ với chính
ḿnh; giữ quan hệ với Chúa; chính tiến tŕnh lấy quyết định và khẳng định quyết
định đă lấy.
Bây giờ chúng ta đến
với câu hỏi vô cùng quan trọng. Dấu hiệu nào của ơn gọi linh mục và tu sĩ là nổi
bật và thiết yếu nhất đáng sự quan tâm đặc biệt của những ai dấn thân vào việc
tuyển chọn, giáo dục và đào tạo các ứng sinh? Câu trả lời là một quan tâm đúng
đắn (Paul VI)
B. CÁC KỸ NĂNG THÔNG THƯỜNG
B.I. LƯ LỊCH ỨNG
SINH
B.I.1. Lư lịch bản
thân
-
Tên thánh và họ tên: …………………………………..
-
Giáo phận: ...…………………………………………..
-
Địa chỉ và điện thoại:
....................................................
.......................................................................................
-
Ngày Sinh theo Chứng Minh Nhân
Dân:...…………….
-
Ngày Sinh theo sổ Rửa Tội:
.…………………………..
-
Nơi sinh:
........................................................................
-
Rửa tội ngày: ……………tại:
....……………………...
·
Thêm sức
ngày: ………... tại: …………………………
·
Hiện ngụ tại
giáo xứ: ...………………………………..
·
Tên cha sở:
.....………………………………………....
·
Địa chỉ và
điện thoại: ...………………………………..
........................................................................................
·
Địa chỉ và
điện thoại cá nhân: …………………………
........................................................................................
·
Tên cha bảo
trợ: .………………………………………
·
Địa chỉ và
điện thoại: ...……………………………….
........................................................................................
B.I.2. Sức khỏe
-
Chiều cao: ………… Trọng lượng:
...………………….
-
Đă giải phẫu v́ bệnh ǵ không?:
....……………………..
-
Hiện đang mắc bệnh măn tính ǵ
không?: .……………..
B.I.3. Tŕnh độ
văn hóa – Năng khiếu
........................................................................................
B.I.4. Gia đ́nh
-
Tên cha: ………………………… Sinh năm: ………...
-
Nghề nghiệp: .………………………………………….
-
Tên mẹ: ………………………… Sinh năm:
..……….
-
Nghề nghiệp: .………………………………………….
-
Địa chỉ và điện thoại của cha mẹ:
....…………………
........................................................................................
-
Là con thứ mấy trong gia đ́nh: … / …
anh chị em.
-
Có mấy anh đă …/chưa… lập gia đ́nh.
-
Có mấy em trai đă …/chưa… lập gia
đ́nh.
-
Có mấy chị đă …/chưa… lập gia đ́nh.
-
Có mấy em gái đă …/chưa… lập gia
đ́nh.
-
Trong gia đ́nh có ai đi
tu?.…………………………….
-
Tên, địa chỉ và điện thoại Nhà Ḍng:
…………………
........................................................................................
B.I.5. T́m hiểu Ơn
Gọi - Đăng kư vào dự tu:
-
Từ năm……………. đến năm...………………………..
-
Người phụ trách:
...............……………………………..
-
Địa chỉ và điện thoại:
......................................................
.........................................................................................
B.I.6. Sinh hoạt
mục vụ trước khi vào Chủng viện
-
Tại giáo xứ nơi gia đ́nh
ở........………………………...
-
Cha xứ: ...……………………………………………...
-
Địa chỉ và điện thoại:
.......................................................
..........................................................................................
Hội đoàn
khác.................................................................
B.I.7. Giai đoạn ở
Chủng viện
-
Ngày vào Chủng viện:
.………………………………...
-
Vị linh hướng:
.....…………………………………......
-
(Vị linh hướng cũ: …………………………………….)
·
Địa chỉ và
điện thoại ba bạn thân theo thứ tự thân thiết (kể cả bạn là
con gái/bạn gái):
1.....………………………………………………..
...............................................................................
2..………………………………………………….
...............................................................................
3..………………………………………………….
...............................................................................
B.I.8. Những thao
thức, vấn đề và ước vọng muốn chia sẻ:
..........................................................................................
..........................................................................................
..........................................................................................
Làm tại …....................ngày…………………
(Kư rơ họ tên)
B.II. BA YẾu TỐ Giúp Phân ĐInh Ơn GỌi
B.II.1.
Ư Ngay Lành
Trước hết là “ư ngay
lành” và ư ngay lành này phải qui chiếu vào lịch sử ơn kêu gọi của Chúa trong
cuộc đời của mỗi người. Ư ngay lành này có thể được rơ nét dần dần qua cấu trúc:
-
Khởi đầu là
lời kêu gọi của Chúa;
-
Lời đáp trả
tiếng Chúa của ứng sinh;
-
Cam kết đi
theo chính Đức Kitô toàn thể;
-
Sự biến đổi
nhân cách của ứng sinh cho phù hợp với đời sống ơn gọi được thực hiện nhờ Chúa
Thánh Thần;
-
Cuối cùng là
dấn thân thi hành sứ vụ qua việc chịu chức.
Chúa Giêsu đă nói: “Không
phải các con đă chọn Thầy, nhưng chính Thầy đă chọn các con, và sai các con ra
đi để các con sinh hoa trái và hoa trái các con tồn tại, hầu tất cả những ǵ các
con xin Cha nhân danh Thầy th́ Người ban cho các con. Điều Thầy truyền dạy các
con là hăy yêu thương nhau” (Ga 15,16-17).
Như thế, phải khẳng
định rằng ḿnh theo chính Chúa Kitô chứ không phải ai khác. Được hiểu hay không
được hiểu, được ủng hộ hay bị chống đối, vui hay buồn, sướng hay khổ, thành công
hay thất bại, mặc! Cứ bám chặt vào Chúa, bạn sẽ nhận được một sức mạnh nâng đỡ
lạ lùng, mà Thánh Phaolô xác quyết về sức mạnh kỳ diệu đó là “chính Chúa Kitô
sống trong tôi” (Gal 2,20).
(Hát Lạy Chúa nầy con
đây)
B.II.2. Động
Lực Thúc Đẩy Ư Hướng
B.II.2a Xác định động lực
Đàng sau mọi quyết
định và hành động đều có một hay nhiều động lực ẩn khuất tác động lâu dài. Ứng
sinh cần một không gian và thời gian để xem xét, làm sáng tỏ và thanh luyện các
động lực của ḿnh. Có thế th́ việc đáp trả lời mời gọi và cam kết theo Chúa mới
bền vững trong tin yêu và quảng đại.
B.II.2b Một ít động lực
Các động lực có
ư thức:
-
Ḷng khao khát phục vụ
-
Có nhiều thời gian hơn
để cầu nguyện
-
“Tôi muốn t́m sự b́nh
an”
-
Bối rối: “Tôi cảm thấy
Chúa gọi tôi, nhưng tôi sợ…”
Các động lực vô
ư thức: Nhiều
khi các động lực nhân loại can thiệp vào hầu làm thỏa măn các nhu cầu căn bản
của con người đă không được thỏa măn trong thời niên thiếu:
-
Khao khát b́nh an/an
toàn
-
Khao khát được nhận
biết, được chú ư, được chấp nhận
-
Khao khát được hoàn
thành/kiện toàn
-
Sợ người khác phái
-
Để chu toàn một lời hứa
khi nhỏ
-
Để thoát khỏi nghèo khổ
-
Thoát ly khỏi đời sống
gia đ́nh bất hạnh
-
T́m kiếm đặc ân
-
Thoả măn tham vọng của
cha mẹ
Các động lực ấy chẳng
phải là tội, nhưng chúng bộc lộ các nhu cầu cơ bản về mặt cảm xúc, sự đón nhận,
ư thức lệ thuộc, ư thức về căn tính của ḿnh, khả năng thiết lập tương quan hài
hoà với cả hai phái và sự quư mến bản thân. Để tăng cường sự phát triển trưởng
thành nhân bản và thiêng liêng, ta cần trung thực loại bỏ hay uốn nắn các động
lực không thích hợp đó.
Đời sống dâng hiến
đặt nền tảng trên sự quí mến bản thân với các nhu cầu của nó. Sự quí mến bản
thân giúp ta ư thức về sự dâng hiến bản thân. Nếu không có qúi mến bản thân th́
dâng hiến cái ǵ? Do đó phải đối mặt gọi tên và giải quyết tốt các nhu cầu ấy để
sự dâng hiến bản thân được ư nghĩa trọn vẹn và bền bĩ.Chỉ trong ánh sáng t́nh
yêu vô điều kiện và bất biến của Chúa, ước muốn dâng hiến bản thân mới ngày một
hiện rơ và tự do trao dâng cho Chúa và tha nhân, theo sự thúc đẩy của ơn Chúa
Thánh Thần (x. Tv 16:5-6)
Chúa là phần sản
nghiệp con được hưởng
Là chén phúc lộc dành cho con;
Số mạng con chính Người nắm giữ.
Phần tuyệt hảo may mắn đă về con,
Vâng, gia nghiệp ấy làm con thoả măn
(Tv 16,5-6)
(Hát Tôi xin chọn
Người)
B.II.2c Các loại ư hướng
Xem xét các loại động
lực thúc đẩy ư hướng này giúp chúng ta nắm rơ nội dung và sức năng động trong ư
hướng muốn tiến vào đời sống dâng hiến:
·
Ư hướng
cam kết khiến ứng sinh có
khả năng đáp lại tiếng Chúa gọi, nhờ hoa quả của Chúa Thánh Thần trong cuộc đời
ḿnh. Đây là ư hướng lư tưởng. Ứng sinh tương đối trưởng thành và hướng tới tự
hiến, do đó chị có thể tự do đáp lại lời mời gọi của Chúa.
·
Ư hướng
phận vụ cần một sự phân
định cẩn thận giữa sự sẵn sàng bỏ ḿnh và sự chỉ t́m kiện toàn chính ḿnh, v́
ứng sinh vừa được tác động bởi sự t́m kiếm chính ḿnh, vừa được tác động bởi đức
tin của ḿnh. Anh bị giằng co giữa việc t́m kiện toàn chính ḿnh và hấp lực tự
hiến. Tính lưỡng diện này tỏ lộ lănh vực không có tự do trong cái tôi c̣n thiếu
trưởng thành của anh.
·
Ư hướng
địa vị t́m thăng tiến bản
thân để che lấp sự bất ổn căn bản trong đời sống của ḿnh, hay v́ ước muốn và
tham vọng của người khác (coi đời tu là một thăng tiến xă hội).
·
Ư hướng
trốn thoát nhằm t́m kiếm
sự che chở từ cuộc sống tu tŕ. Một người với ư hướng này không có ơn gọi đích
thực. Ứng sinh như thế là không trưởng thành, căn tính không được đào luyện hay
hội nhập tốt, không ư thức được các nhu cầu của ḿnh. Tính thiếu bền vững cả
trong thái độ lẫn ứng xử có thể được quan sát thấy cách dễ dàng.
Ứng sinh có những ư
hướng địa vị và trốn thoát thường không có ơn gọi đích thực, bởi v́ họ thiếu
trưởng thành nhân cách và sẽ dễ dàng từ bỏ hoặc phản bội sứ vụ căn bản của ḿnh
(x. Dụ ngôn Người Gieo Giống):
“Đây là ư nghĩa dụ
ngôn: Hạt giống là lời Thiên Chúa. Những kẻ ở bên vệ đường là những kẻ đă nghe
nhưng rồi quỷ đến cất Lời ra khỏi ḷng họ, kẻo họ tin mà được cứu độ. C̣n những
kẻ ở trên đá là những kẻ khi nghe th́ vui vẻ tiếp nhận Lời, nhưng họ không có
rễ. Họ tin nhất thời, và khi gặp thử thách, họ bỏ cuộc. “Hạt rơi vào bụi gai: đó
là những kẻ nghe, nhưng dọc đường bị những nỗi lo lắng và vinh hoa phú quư cùng
những khoái lạc cuộc đời làm cho chết ngộp và không đạt tới mức trưởng thành.
Hạt rơi vào đất tốt: đó là những kẻ nghe Lời với tấm ḷng cao thượng và quảng
đại, rồi nắm giữ và nhờ kiên tŕ mà sinh hoa kết quả”
(Lc 8,11-15)
(Slideshow Thửa đất ḷng tôi)
Nếu không thể nào thay đổi
được, nên khéo léo khuyên người có ư hướng địa vị và trốn thoát t́m một đường
lối sống ở nơi nào khác th́ tốt hơn là giữ họ lại theo đuổi đời sống tu tŕ.
B.II.3.
Cam Kết Tự Biến Đổi Cho Sứ Vụ
Chúng ta cần phải ư thức về
nhiều nhân tố trong động lực ơn gọi của ứng sinh và phân tích những đường lối
anh dấn thân phục vụ tha nhân, bao gồm cả việc anh trung thành với lời cam kết
của anh. Một nhà phân định bén nhạy có thể trực giác ngay được ư muốn phục vụ
tha nhân của ứng sinh như thế nào. Nếu ứng sinh có ư hướng địa vị (linh mục là
người luôn được kính trọng và có vị thế trong xă hội: một thăng tiến xă hội) là
động cơ ưu tiên trong việc đi tu, th́ hăy khéo léo khuyên anh nên t́m một lối
sống khác.
Nhiệm vụ của vị hướng dẫn đời
sống ơn gọi của ứng sinh thật là quan trọng. Người hướng dẫn cần giúp ứng sinh ư
thức rơ nhiều động lực đang có mặt nơi anh, đồng thời giúp anh thấy được sự xung
khắc giữa các động lực ấy và giải quyết chúng. Động lực nào phù hợp với đời tu
sẽ được dùng để thăng tiến đương sự. Động lực nào không phù hợp với đời tu th́
phải loại bỏ hay biến đổi. Nếu không làm được như vậy, đương sự sẽ được mời ra
đi.
B.III. BA VẤN ĐỀ CƠ BẢN VÀ
QUYẾT ĐỊNH
Ứng sinh phải ư thức và trực
diện với ba vấn đề cơ bản mang tính quyết định này ngơ hầu đạt được một đường
hướng dứt khoát hơn cho cuộc đời ḿnh. Nếu ba vấn đề này không được “giải quyết”
th́ chúng sẽ ảnh hưởng mạnh trên cách ứng xử của anh, mà hậu quả sẽ là một khủng
hoảng ơn gọi.
Đừng quên câu định nghĩa và
tiến tŕnh sống tu đức toàn diện: “Đời sống thiêng liêng là đời sống nhân bản
được sống trong Chúa Thánh Thần.” Định nghĩa này phải hiểu trong tiến tŕnh:
Con Người → Tu Đức Nhân Bản (đạo làm người) → Nhân Bản Thiêng Liêng (đạo làm con
Chúa) → Thánh Nhân (t́nh bạn với Chúa, Ga 15,15).
B.III.1. BiẾT Ḿnh
Ở cửa đền Alphê, Socrate cho
khắc chữ “Hăy tự biết ḿnh.” C̣n Thánh Augustinô th́ cầu nguyện mỗi ngày “in cho
con biết Chúa, xin cho con biết con.” Tự biết ḿnh là yếu tố rất quan trọng để
ứng sinh đạt được trưởng thành. Ứng sinh phải cố gắng hiểu được ḿnh là ai, với
tất cả những điểm mạnh và những điểm yếu. Nếu không có nhận thức rơ ràng về
ḿnh, ứng sinh dễ có khuynh hướng tự tôn bằng sự pḥng vệ coi ḿnh là trung tâm
điểm hoặc tự ti và quá lệ thuộc vào người khác.
Sự kiện rất nhiều ứng sinh ngày
nay không thể trực diện với chính ḿnh để biết ḿnh là ai giải thích tại sao có
nhiều sự thiếu trưởng thành hay tự đánh giá thấp nơi nhiều chủng sinh, ngay cả
nơi một số linh mục trẻ mới ra trường nữa.
Ứng sinh phải tự biết ḿnh là
ai, và đang ở đâu trong tiến tŕnh tu luyện. Đôi khi anh cũng phải dám hỏi:
“Chúa nghĩ ǵ về con?” Nhà đào tạo cũng phải biết ứng sinh đang ở giai đoạn nào
trong tiến tŕnh ấy, để nhẫn nại dẫn dắt, không đốt giai đoạn, kẻo đốt giai đoạn
là đốt cháy cả một đời người.
B.III.2. VẤN ĐỀ Thân MẬt Tính DỤc
Ứng sinh cần đạt được mức
trưởng thành đầy đủ về tính dục, tâm lư và một cuộc sống cầu nguyện siêng năng
và đích thực, dưới sự hướng dẫn của vị linh hướng, trong hi sinh, xả kỷ, tự
hiến, tự giác kỷ luật…
Các ứng sinh buộc phải có một
sự trưởng thành nhất định trong đời sống nhân bản và thiêng liêng. Điều này thật
dễ nhận ra nơi giáo xứ nhà quê, nhưng lại khó biết được nơi các thành phố đông
người, nơi mà ngoài các bức tường nhà ḿnh không ai biết ai. T́nh trạng khó kiểm
soát này đặt ra nhiều vấn đề phức tạp, nhiều biến động và chiến đấu cho các công
dân trẻ mới tới đô thị, đặc biệt là trong mối liên hệ với người khác phái (x.
sinh viên tầm gửi), ảnh hưởng đến đời sống thiêng liêng và cầu nguyện.
Ngoài ra, v́ phải va chạm với
môi trường xă hội và học đường, nhiều ứng sinh có thể có bạn gái hay người yêu,
hoặc lâm vào một hoàn cảnh đáng tiếc, nên vấn đề thân mật tính dục trở nên có
thật. Năm 2007, cuộc điều tra khảo sát tại 30 trường ĐH-CĐ trong cả nước do Vụ
Văn hóa - Ban Tư tưởng Văn hóa Trung ương phối hợp với Vụ Công tác Học sinh Sinh
viên (Bộ GD-ĐT) đă đưa ra một con số rất đáng suy nghĩ: 51,4% sinh viên cho
rằng “sống thử trước hôn nhân là hiện tượng khá phổ biến” và được coi là “b́nh
thường”.
Ngạn ngữ Việt Nam có câu “Lửa
gần rơm lâu ngày sẽ cháy.” Không ai trách lửa hay rơm về chuyện chúng đốt cháy
hay bị đốt cháy, đúng hơn phải trách kẻ đặt rơm gần lửa. Nhiều trường hợp cần
một sự biện phân chặt chẽ về lương tâm, để thanh lọc và uốn nắn lại, nhưng với
một sự thấu cảm đem lại nâng đỡ và b́nh an.
Con trót dại bao
lần sa ngă,
Ôi Giêsu lượng cả
đoái nh́n.
Con nguyền can đảm
đứng lên,
Lệ sa rửa sạch tội
khiên làu làu.
Xin ánh sáng soi
vào tâm trí,
Tỉnh cơn mê, con
sẽ dâng Ngài,
Bổng trầm điệu hát
vui say,
Muôn ngàn khấn
nguyện giải bày khúc nôi.
Thánh Thi Kinh Sáng
CN Tuần III
Đối với một số ứng
sinh, để tiến bước trên con đường ơn gọi cần phải có ḷng can đảm, nhưng dừng
lại và thay đổi hướng đi c̣n đ̣i hỏi can đảm nhiều hơn. Chủng viện sẽ xây dựng
một lối sống khả dĩ giúp đỡ và ngăn ngừa cách hữu hiệu các lối giải quyết cho
những chiến đấu của họ. Nhưng tiến tŕnh khó khăn ấy cần có thời gian và những
cố gắng chân thành. Trong “Truyện Kiều,” Nguyễn Du diễn tả “dẫu ĺa ngó ư c̣n
vương tơ ḷng,” nghĩa là tuy đă chia tay, sự gắn bó dịu dàng vẫn c̣n. Nếu
không rơi vào ngăn trở Giáo luật, ứng sinh phải nỗ lực thăng hoa các mối liên hệ
và kiên vững lật sang trang đời mới th́ mới có thể tiếp tục.
Đường em em đi,
Đường anh anh đi.
T́nh nghĩa đôi ta
có thế thôi.
Đă quyết không
mong sum họp nữa,
Bận ḷng chi nữa
lúc chia phôi! (Nửa chừng xuân)
Chọn sống độc thân
thánh hiến là một chọn lựa tự do. Họ phải đương đầu và làm việc để vừa thắng
vượt các chiến đấu này, lại vừa thăng tiến chọn lựa của ḿnh. Nếu địa hạt này
không được trực diện và giải quyết, những vật lộn này sẽ trở lại với họ, ngay cả
sau khi đă chịu chức. V́ thế, họ cần liện lạc thường xuyên với vị linh hướng của
ḿnh. Đừng đợi cho đến khi vấp ngă rồi mới nhớ đến những lời khuyên: “Biết ai
khôn ngoan th́ t́m đến mà bàn hỏi và chớ coi thường bất cứ lời chỉ giáo nào hữu
ích. Hăy chúc tụng Đức Chúa là Thiên Chúa mọi lúc; hăy xin Người dạy con cho
biết theo nẻo chính đường ngay và giúp con thành công trong mọi đường đi nước
bước cũng như mọi toan tính của con” (Tb 4,18-19).
Tuy nhiên, cuộc sống
giữa muôn màu phức tạp của xă hội trần thế cũng khiến cho các ứng sinh khác lớn
lên trong việc xác định ơn gọi của ḿnh, cả về t́nh cảm đời sống nhân bản lẫn
đời sống thiêng liêng.
Trong đầm ǵ đẹp
bằng sen,
Lá xanh bông trắng
lại chen nhụy vàng,
Nhụy vàng bông
trắng lá xanh,
Gần bùn mà chẳng
hôi tanh mùi bùn.
Đời sống độc thân
linh mục khiết tịnh được nêu bật như là một ân huệ và quà tặng đặc biệt của
Thiên Chúa, như là lựa chọn một t́nh yêu không chia sẻ v́ Chúa Kitô và v́ Nước
Thiên Chúa. Đời sống độc thân linh mục khiết tịnh cần được tŕnh bày rơ ràng,
không hàm hồ và theo cách tích cực. Ứng sinh phải khiêm tốn và nhiệt thành cầu
nguyện và đón nhận đời sống độc thân linh mục như là một món quà của ân sủng
Chúa. Cùng với Hội Thánh, họ phải khiêm tốn và kiên định cầu nguyện cho ơn trung
thành và sử dụng mọi sự trợ giúp siêu nhiên cũng như tự nhiên, đặc biệt là lối
thực hành khổ chế đă được kinh nghiệm của Hội Thánh chấp thuận.
B.III.3. Vâng lỜi
Tuy linh mục không
khấn ba lời khuyên Phúc Âm, chỉ hứa vâng lời Đấng Bản Quyền, đức vâng lời phải
là nền tảng, v́ nó giúp linh mục sống dễ dàng đức thanh khiết trong một nếp sống
giản dị. Ứng sinh phải tập vâng lời triệt để trong mọi sự có liên quan, dù bây
giờ người ta nhấn mạnh hơn đến “vâng lời đối thoại” hay “vâng lời
trưởng thành”.
Quả vậy, với Vaticanô
II, không c̣n “vâng lời tối mặt”; nhưng “vâng lời đối thoại” hay “vâng
lời trưởng thành”, nghĩa là bề dưới được tŕnh bày với Bề trên hết sự thật những
ǵ ḿnh nhận thấy và suy nghĩ, với đầy đủ lư do và ước nguyện, có khi trái ư Bề
Trên, nhưng lời nói cuối cùng thuộc về Bề Trên, và bề dưới vâng lời với tinh
thần siêu nhiên.
Chúng ta biết rằng Bề
Trên có quyền quyết định trái với ư của tất cả chúng ta, nhưng chính Bề trên sẽ
chịu trách nhiệm và trả lời với Chúa. Đó là thực sự cảm thông với Giáo Hội
(Sentire cum Ecclesia). Điều đáng e ngại là có thể một số Vị quá “sính quyền
bính” không dễ dàng lắng nghe sự thật và cho bề dưới cơ hội đối thoại hay
giải thích! Nhưng đi cho tới cùng, vâng lời đ̣i hỏi mọi sự nơi chúng ta: trí
khôn, con tim, ư muốn, đời sống; nhượng bộ mọi sự cho Chúa, coi vâng lời như
diễn tả trọn vẹn sự lệ thuộc vào Chúa và Giáo Hội.
Tuy nhiên, chúng ta
cũng có thể bị ảnh hưởng bởi các yếu tố văn hóa và tâm thức do các cơ cấu xă
hội, chính trị và tôn giáo. Chẳng hạn, v́ bị ảnh hưởng của Khổng giáo, của chế
độ phong kiến và thực dân, của các cơ cấu phẩm trật và gia trưởng, chúng ta lắm
khi phải đương đầu với những thách đố và chiến đấu trăn trở về tự do và phục
tùng với bộ ba “quyền phục, lư phục và tâm phục hay tâm bất phục”
hoặc “bằng mặt mà không bằng ḷng.” Và trong những trạng huống bức xúc có
thể “tức nước vỡ bờ”, chúng ta cần có ai đó giúp “đào sâu ḷng sông và
khơi ḍng cho nước chảy”. Vị linh hướng kinh nghiệm là người đó cách thích
hợp nhất.
Nhưng với đức tin
mạnh mẽ và đâm rễ sâu trên nền tảng Thánh Kinh vững chắc, đặt trọng tâm vào Chúa
Giêsu, vào Phúc Âm, vào Giáo Hội và v́ các linh hồn, cầu nguyện và biện phân
dưới sự dẫn dắt của Chúa Thánh Thần, chúng ta sẽ vâng lời cách sẵn ḷng và siêu
nhiên các vị lănh đạo và cơ cấu Giáo Hội, không phải như những con người và cơ
cấu nhân loại, nhưng là Ư Chúa ở trong và qua những con người và cơ cấu này.
(Hát Nguồn trợ lực
tôi)
B.IV. VAI TR̉ CỦA GIA Đ̀NH ĐỐI VỚI ƠN GỌI
“Một kinh sư tiến đến thưa Người
rằng: ‘Thưa Thầy, Thầy đi đâu, tôi cũng xin đi theo.’ Đức Giê-su trả lời: ‘Con
chồn có hang, chim trời có tổ, nhưng Con Người không có chỗ tựa đầu.’ Một môn đệ
khác thưa với Người: ‘Thưa Ngài, xin cho phép con về chôn cất cha con trước đă.’
Đức Giê-su bảo: ‘Anh hăy đi theo tôi, cứ để kẻ chết chôn kẻ chết của họ’” (Mt 8,
19-22)
B.IV.1. KHÍA CẠNH TÍCH CỰC: BỐI CẢNH GIA Đ̀NH
Bổn phận nuôi dưỡng
ơn gọi thuộc về toàn thể cộng đồng kitô hữu…. Nhưng đóng góp lớn nhất thuộc về
gia đ́nh, được kích hoạt nhờ tinh thần đức tin, đức ái và ḷng đạo đức… Gia đ́nh
được kể như chủng viện đầu tiên. Tại Việt Nam, gia đ́nh có ảnh hưởng rất lớn tới
nhân cách của mỗi con người, ảnh hưởng tới việc đi theo và thực hành một tôn
giáo hay một ơn gọi.
Người Việt Nam rất đề
cao giá trị của gia đ́nh, v́ gia đ́nh như một thế giới thu nhỏ bao gồm 3 thế hệ:
ông bà, cha mẹ và con cái. Mặc dù có những cách biệt giữa các thế hệ, nhưng các
thành viên trong cùng một gia đ́nh vẫn luôn có một t́nh cảm sâu sắc gắn bó với
nhau. Gia đ́nh đóng vai tṛ trợ lực rất quan trọng giúp cho ứng sinh ngày một
trưởng thành hơn. Có nhiều nhân tố giúp anh lớn lên: Mối liên hệ mật thiết với
cha mẹ nâng cao căn tính nhân vị của anh: sự mạnh mẽ cương nghị của ba, sự dịu
dàng nhân hậu của mẹ.
Mối tương quan lành
mạnh với những người khác phái trong gia đ́nh và những người họ hàng sẽ giúp ứng
sinh ư thức hơn về tính dục của ḿnh, hầu phát triển các mối tương quan xă hội
của chính anh. Điều đó cung ứng cho anh một sự ổn định t́nh cảm cần phải có cho
đời sống và sứ vụ linh mục của anh sau này. Những hoạt động trong và ngoài gia
đ́nh thách thức ứng sinh vượt qua những cái ḿnh thích hay không thích, và làm
cho đời sống tông đồ tương lai của anh trở thành một thực tế, đ̣i hỏi phải kiên
tŕ, có khi phải trả tới cái giá cao nhất hy sinh mạng sống, chứ không chỉ là
một mơ mộng của tuổi trẻ.
Việc cầu nguyện và
chia sẻ niềm tin trong gia đ́nh giúp ứng sinh đâm rễ sâu trong đời sống thiêng
liêng. Là chủng viện đầu tiên, gia đ́nh giữ vai tṛ sinh tử trong việc đào tạo
ứng sinh. Cuộc họp hàng năm của đại diện các gia đ́nh chủng sinh nhấn mạnh đến
tầm quan trọng và sự đóng góp tích cực của gia đ́nh đối với Chủng viện trong
việc đào tạo linh mục tương lai cho Giáo Hội.
B.IV.2. KHÍA CẠNH
ÍT TÍCH CỰC: NHỮNG MONG ĐỢI VÀ HY VỌNG CỦA GIA Đ̀NH
Người Việt Nam rất
sùng đạo và nhiệt thành. Họ hết ḷng kính trọng các nhà tu hành, không chỉ trong
phạm vị tôn giáo mà cả ngoài xă hội nữa. Ngay cả hôm nay, các quan chức cộng sản
cũng nhận định rằng linh mục là công dân đặc biệt v́ có nhiều uy tín và ảnh
hưởng trên các công dân tín hữu khác.
V́ thế, bậc tu tŕ
trở thành một địa vị và một sự thăng tiến xă hội, không chỉ cho chính vị linh
mục, mà c̣n cho cả gia đ́nh và họ hàng thân thuộc: Vị linh mục sẽ được dân chúng
kính trọng và vâng phục, được hưởng một cuộc sống an toàn và dễ dăi, v.v… Một
khi người con làm linh mục hay tu sĩ, gia đ́nh sẽ được hưởng vinh quang và danh
dự, được kính trọng ở mọi nơi (trở thành “ông bà cố”). Điều này đang là một thử
thách đối với ơn gọi đích thực và sự bất lợi tai hại của ḷng kính trọng thái
quá này đối với hàng giáo sĩ và tu sĩ là biến họ thành những kẻ quan liêu và độc
đoán.
Nhiều khi, những mối
lợi mang tính cá nhân hay gia đ́nh như thế khiến một số người thúc ép con cái đi
tu. Một số các bậc cha mẹ v́ không thành công trong việc theo đuổi ơn gọi tu tŕ
nên mong đợi thấy lư tưởng và h́nh ảnh của ḿnh được thực hiện nơi con cái. Họ
gây áp lực buộc con cái dấn thân vào đời sống linh mục hay đời sống tu tŕ, dù
con cái họ không có ơn gọi đó. Một người tu không được ra về bị gia đ́nh, họ
hàng, quê hương giận dữ, khinh miệt, đàm tiếu, tẩy chay... nhất là ở khu vực
miền Bắc. Áp lực này là một trở ngại cho các ơn gọi đích thực: có em có ơn gọi
không dám dấn thấn, có em đă vào tu thấy ḿnh không có ơn gọi không dám về. Cần
phải có một kế hoạch đồng bộ và rộng khắp để chỉnh sửa dần cái tâm thức bất lợi
này.
Là nền tảng của xă
hội, là cái nôi của sự sống và là nhà sư phạm đầu tiên, gia đ́nh có thể là một
nguồn nước trong lành và cũng có thể là trở lực đối với những ơn gọi đích thực.
Do vậy, trách nhiệm của Giáo Hội là biện phân và thanh luyện những động lực ấy,
vào thời điểm thu nhận cũng như trong tiến tŕnh đào tạo, trong nỗ lực gầy dựng
cho có người kế tục sứ mệnh: Tre già măng mọc.
Tuy nhiên, Chúa cũng
quảng đại ban cho có rất nhiều gia đ́nh Công giáo dâng hiến con trai con gái
ḿnh cho Thiên Chúa thông qua Hội Thánh mà không hề thèm muốn danh vọng, và
nhiều ứng sinh quảng đại đáp lại lời mời gọi của Thiên Chúa. Các ứng sinh hăy
nghĩ đến Ông
Bà Cha Mẹ đă sinh dưỡng lại dày công hy sinh vất vả cùng Giáo Hội đào luyện,
nâng đỡ, d́u dắt ḿnh bằng cuộc sống đầy gương sáng và lời cầu nguyện
không ngừng của các ngài.
Hăy lắng nghe lời cầu
nguyện của các ngài: “Xin đừng sa thải con lúc tuổi đà xế bóng, chớ bỏ rơi
con khi sức lực suy tàn. ... Cả lúc con già nua da mồi tóc bạc, lạy Thiên Chúa,
xin đừng bỏ rơi con” (Tv 70, 9,18). Hăy hiếu thảo tri ân các ngài, cầu
nguyện và nâng đỡ các ngài, ngơ hầu trong những ngày cuối đời, chờ đợi giờ Chúa
gọi về nhà Cha, các ngài cảm nhận được đền đáp, an ủi, yêu thương, b́nh an và
hạnh phúc.
(slideshow Mẹ)
Một khi biết nghĩ đến
công lao và t́nh thương, cùng hoài bảo của mẹ cha, cũng như của các vị hữu trách
trong Giáo Hội, ứng sinh sẽ t́m được nghị lực vượt lên mọi khó khăn thử thách
trong cuộc sống, v́ cuộc sống tu tŕ cũng chẳng tránh khỏi hết mọi bất công,
phân biệt đối xử, thương người nọ hơn thương người kia, v́ chẳng ai lấy cân mà
cân được t́nh cảm cho bằng nhau đâu! Cái quan trọng là đừng lộ liểu quá, mà để
trong ḷng th́ tốt hơn. Vả lại, có t́nh thương nào cao cả hơn t́nh Chúa thương
ta đâu! Ta thế nào th́ Chúa thương ta thế ấy, và Chúa sẽ thương ta cho đến cùng.
Nhưng đối lại, Chúa cũng đ̣i hỏi và chờ đợi một t́nh thương quảng đại cho đến
cùng về phía chúng ta cho Chúa đó: Một lần đă quảng đại, hăy quảng đại cho đến
cùng.
B.V. ĐÁNH GIÁ ĐỘNG LỰC NỘI TÂM
B.V.1. Tính HẤp DẪn CỦa Ơn GỌi
Mọi ơn gọi đều đến từ
Thiên Chúa, hoặc trực tiếp hoặc gián tiếp. Ngài có thể nói gián tiếp với ứng
sinh qua Thánh Kinh, qua Giáo Hội, qua gia đ́nh và qua những nhu cầu của cuộc
sống con người. Ngài cũng có thể trực tiếp đánh động con tim và làm cho sự lôi
cuốn lớn lên dần thành cốt lơi của ơn kêu gọi.
Nhưng tính hấp dẫn
này phải được phân định qua việc đồng hành, linh hướng để ứng sinh nắm chắc rằng
ḿnh có thể đáp ứng được các khía cạnh thiêng liêng và tông đồ của một cam kết
dấn thân phục vụ Chúa và các linh hồn. Đây là một cuộc hợp tác tay đôi với ơn
Chúa: các nhà đào tạo t́m hiểu ứng sinh và các ứng sinh t́m hiểu chính ḿnh xem
có ơn gọi thực không.
B.V.2. BiỂu LỘ CỤ ThỂ Ư HưỚng Ngay Lành
Tự do lương tâm của
ứng sinh là điều cần thiết cho quyết định chuẩn bị tiến lên chức linh mục. Vị
linh hướng phải giúp ứng sinh khám phá ra những ǵ Thiên Chúa thực sự kêu gọi
anh trở thành và thực hiện. Đáp trả tự do của anh sẽ là cốt lơi sự cam kết của
anh và động lực xứng hợp sẽ đóng một vai tṛ quan trọng trong sự bền đỗ, khi anh
cụ thể bày tỏ ư hướng ngay lành muốn làm linh mục.
Ứng sinh phải t́m cho
được lời khẳng định rằng Chúa muốn anh quyết định trở thành linh mục. Để được
vậy, anh phải hiểu rơ sâu xa những điểm mạnh cũng như những điểm yếu của ḿnh;
đồng thời anh phải được giúp t́m biết chính ḿnh cách ư thức, cũng như các động
lực vô thức của anh, ngơ hầu anh thấy được anh phải biến đổi trong cái ǵ hầu
phù hợp với đời sống và sứ vụ linh mục.
Ứng sinh phải đánh
giá lại lời mời gọi của Chúa và sự đáp trả của anh để có được một cam kết sâu xa
hơn, theo tiến tŕnh ơn gọi năm bước:
1) Chúa gọi ứng sinh
cách trực tiếp như đă gọi Abraham, Mosê, Samuel... và như chính Mẹ Maria; hoặc
Ngài gọi cách gián tiếp qua người nọ kẻ kia... Nhưng lời mời gọi đó phải được
thẩm quyền hợp pháp của Giáo Hội xác nhận qua việc gọi cho chịu chức linh mục
sau này.
2) Ứng sinh tự do đáp
lại, và nên một lần quảng đại đáp lại th́ hăy quảng đại cho đến cùng. Bởi v́ ơn
gọi “không phải là một chọn lựa luân lư hay một lư tưởng cao quư, nhưng là sự
gặp gỡ với Chúa Giêsu, một cuộc gặp gỡ trao ban cho cuộc sống một chân trời mới,
và qua đó là một hướng đi có tính cách quyết định” (x. Deus Caritas Est, số 1).
3) Ứng sinh cam kết
theo chính Chúa Kitô toàn thể, nghĩa là với vinh quang và thập giá, tức khi vui
cũng như khi buồn, lúc thành công cũng như lúc thất bại, khi sướng cũng như khi
khổ, đều luôn trung thành theo chính Chúa Kitô, chứ không phải ai khác hay cái
ǵ khác. Chúng ta có thể nói cùng với thánh Phaolô:
“Ai có thể tách
chúng ta ra khỏi t́nh yêu của Đức Ki-tô? Phải chăng là gian truân, khốn khổ, đói
rách, hiểm nguy, bắt bớ, gươm giáo? Như có lời chép: Chính v́ Ngài mà mỗi ngày
chúng con bị giết, bị coi như bầy cừu để sát sinh. Nhưng trong mọi thử thách ấy,
chúng ta toàn thắng nhờ Đấng đă yêu mến chúng ta. “Đúng thế, tôi tin chắc rằng:
cho dầu là sự chết hay sự sống, thiên thần hay ma vương quỷ lực, hiện tại hay
tương lai, hoặc bất cứ sức mạnh nào, trời cao hay vực thẳm hay bất cứ một loài
thọ tạo nào khác, không có ǵ tách được chúng ta ra khỏi t́nh yêu của Thiên Chúa
thể hiện nơi Đức Ki-tô Giê-su, Chúa chúng ta” (Rm 8, 35 - 39)
Tuy nhiên chúng ta
vẫn phải luôn cảnh giác, v́ trong thực tế, rất lắm lần chúng ta đă để một ai đó
hay một cái ǵ đó tách biệt Chúa Giêsu ra khỏi t́nh yêu và cuộc đời của chúng
ta, cho dù không hề có cái ǵ tách biệt chúng ta ra khỏi t́nh yêu của Chúa
Giêsu: chúng ta có thế nào đi nữa th́ Ngài vẫn hằng thương yêu chúng ta, và
thương yêu chúng ta cho đến cùng. T́nh yêu của Ngài lớn hơn tội lỗi chúng ta và
Ngài hằng tha thứ cho chúng ta.
4) Ứng sinh phải dần
dần biến đổi và điều chỉnh đời sống ḿnh sao cho phù hợp với đời sống và sứ vụ
linh mục. Ứng sinh c̣n tiếp tục măi công việc này để trở nên chứng tá sống động
của Chúa. Quả thế, “Ông Anrê, anh ông Simôn, là một trong hai người đă nghe ông
Gioan Tẩy Giả nói và đi theo Chúa Giêsu. Trước hết, ông gặp em ḿnh là ông Simon
và nói: “Chúng tôi đă gặp Đấng Mêssia” (nghĩa là Đấng Kitô). Rồi ông dẫn em ḿnh
đến gặp Chúa Giêsu. Chúa Giêsu nh́n ông Simon và nói: “Anh là Simon, con ông
Gioan, anh sẽ được gọi là Kêpha” nghĩa là Phêrô.” Đổi tên là đổi con người, đổi
cách sống, cách làm việc, cách suy nghĩ, cách đối xử và yêu thương. Cuộc sống
của ứng sinh sẽ phải từ từ được biến đổi: từ từ sống khác đi, không c̣n như cuộc
sống anh đă từng sống trước đây nữa. Con người trần tục sẽ dần dần chết đi, để
con người thiêng liêng không ngừng được triển nở và lớn lên. Nói như thánh
Phaolô là phải cởi bỏ con người cũ của anh và mặc lấy con người mới, ngày càng
trở nên đồng h́nh đồng dạng với Chúa Kitô.
5) Ứng kiên tŕ chu
toàn bổn phận hằng ngày tùy theo đấng bậc hôm nay và sứ vụ Giáo Hội sẽ giao phó
cho anh mai ngày, dù hoàn cảnh và con người có thế nào đi nữa. Và dù đời linh
mục có bất định khi được sai đi tới nơi ḿnh không muốn, ở với người ḿnh không
ưa và làm việc ḿnh không thích, th́ cũng phải sẵn sàng CHẤP NHẬN và THÍCH NGHI.
“Biết rằng đời hiểu
hay không,
Uống cho bằng cạn
chén hồng Chúa giao,
Thương ai Chúa mới
gọi vào,
Kèm trong thử thách
dạt dào đỡ nâng”
Những lúc ngấm nỗi bồ
ḥn
Nh́n lên thánh giá nỉ
non đôi lời
T́m thêm sức mạnh cứu
đời
Từ ṭa giải tội, từ
nơi bàn thờ
Vui đem Lời Chúa cho
người,
Thắm t́nh đồng nghiệp
suốt đời thương nhau
Đời này dù có khổ đau
Chung nhau hạnh phúc
đời sau thiên đàng
Ứng sinh phải nội tâm
hóa dấn thân của anh, cũng như cụ thể hóa đời sống sứ vụ của ḿnh qua việc
thường xuyên t́m gặp gỡ Chúa Giêsu Kitô, Đấng là nguyên thuỷ và cùng đích của
mọi ơn gọi (x. Ga 15, 16). Sau khi đă chú ư lắng nghe với biện phân và khiêm
tốn, dưới sự dẫn dắt của Chúa Thánh Thần, vị linh hướng có thể khám phá được
người thụ hướng được Chúa gọi hay không. Nếu có, vị linh hướng xác định cho anh
tiếp tục đi tới với niềm vui tươi, hy vọng và hạnh phúc, mặc dù anh sẽ gặp thấy
những khó khăn và đen tối trong cuộc sống lữ hành của anh. Nếu không, vị linh
hướng nên gợi ư cho anh đổi hướng sống trong b́nh an, đồng thời bước theo con
đường Chúa mời gọi anh đi với can đảm và hạnh phúc.
Sự chọn lựa và quyết
định với tự do nội tâm (ṭa trong) này phải được xác lập và công nhận bởi thẩm
quyền Chủng viện (ṭa ngoài): Hội đồng chủng viện bỏ phiếu cho chịu chức (biểu
lộ sự kêu gọi của Chúa), có thể được trợ giúp bởi nhận xét tham khảo của cộng
đoàn Dân Chúa.
(Hát Chúa cất tiếng
gọi con)
B.VI. ỨNG SINH
TỰ ĐÁNH GIÁ
Trong suốt thời kỳ
huấn luyện, các ứng sinh được khích lệ tự suy nghĩ về chính bản thân ḿnh, dựa
trên một bảng câu hỏi giúp ứng sinh tự vấn và tŕnh bày trong linh hướng. Bảng
câu hỏi nhằm giúp ứng sinh biện phân ơn gọi của ḿnh và đưa ra một quyết định
trưởng thành cho cuộc đời ḿnh với sự tự do nội tâm hoàn toàn.
Để những nỗ lực này
được dễ dàng hơn, họ phải được khuyến khích xây dựng một mô h́nh linh mục lư
tưởng mà ḷng họ ước ao (x. Mô H́nh Linh Mục Hôm Nay và Ngày Mai). Việc tự đánh
giá nghiêm túc có thể dẫn ứng sinh tới một trong hai kết luận: Hoặc là Chúa muốn
anh theo con đường khác: anh đă được trang bị các đức tính và những khả năng cần
thiết để sống đời sống Kitô hữu một cách trọn vẹn với tư cách là một giáo dân.
Vậy tinh thần trách nhiệm sẽ khích lệ anh thay đổi ơn gọi; hoặc là Thiên Chúa
chọn anh làm linh mục: mặc dù anh tự kiểm một cách nghiêm túc, anh vẫn không thể
tuyệt đối chắc chắn về ơn gọi của ḿnh. Sự chấp thuận của Bề Trên và Bản Quyền
sẽ hoàn tất chọn lựa này và làm cho anh an tâm.
Để tiến tŕnh tu tập
được tiến bộ và kết quả, ứng sinh cần tự kiểm và tự đào luyện, cùng với sự giúp
đỡ thường xuyên của người đồng hành.
B.VI.1. Những
điều kiện bên ngoài
B.VI.1a Môi Trường Xă Hội
Năo trạng của người
dân ở quê hương tôi hay của những người hàng xóm với gia đ́nh tôi là ǵ? Họ thực
hành đạo thế nào? Họ có ảnh hưởng tốt hay xấu đến ơn gọi của tôi? Đặc biệt là
t́nh bằng hữu của bà con họ hàng đối với gia đ́nh tôi và với cá nhân tôi thế
nào? Họ nghĩ thế nào về ơn gọi của tôi? Trong gia đ́nh tôi hay trong những người
bà con họ hàng có ai sống đời thánh hiến không? Đâu là ảnh hưởng và mối tương
quan giữa tôi và những anh em cùng lớp? Tôi có quan hệ đặc biệt nào với ai
không?
B.VI.1b Gia
Đ́nh Tôi
Sức khỏe của ông bà
tôi, cha mẹ tôi, anh chị em tôi thế nào? Họ quan niệm thế nào và đối xử làm sao
với ơn gọi của tôi, tích cực hay tiêu cực? Họ có cho phép tôi tự do chọn
lựa, hay bắt tôi chịu áp lực của họ? Ai trong gia đ́nh tôi là người có tầm ảnh
hưởng quan trọng và tích cực nhất đối với ơn gọi của tôi? Cảm nghĩ của tôi về
gia đ́nh: quan tâm, gắn bó, thờ ơ lạnh nhạt, thất vọng? Tại sao? Mối tương quan
đặc biệt của tôi với gia đ́nh sẽ là ǵ, nhất là sau khi đă thụ phong linh mục?
Cố gắng dàn xếp các vấn đề gia đ́nh, tuy có những vấn đề không ảnh hưởng đến ơn
gọi của tôi, nhưng ảnh hưởng đời sống mục vụ của tôi như Chúa Giêsu khuyến cáo
“không tiên tri nào được nễ trọng tại quê hương ḿnh.”
B.VI.1c Tương
Quan Với Các Linh Mục Quen Biết
Đâu là ảnh hưởng
thiêng liêng của Cha Bảo trợ đối với tôi? Ngài có thường xuyên liên lạc, giúp đỡ
tài chính cho tôi không? Đâu là điểm tích cực mà tôi học được nơi ngài? Ngài có
ảnh hưởng ǵ tiêu cực trên đời sống tôi không? Mối tương quan của tôi với cha xứ
trong suốt năm học ở trường, nhất là trong những ngày nghỉ hè là ǵ? Mối tương
quan giữa Cha xứ với gia đ́nh tôi là ǵ? Khi cha xứ được người khác khen hay chê
th́ thái độ của tôi là ǵ? Đời sống tư và việc tông đồ của cha xứ có ảnh hưởng
ǵ đến ơn gọi của tôi? Tôi có quen biết cách đặc biệt nào với một số Cha khác
không? Đâu là lư do của sự quen biết này và nó có ảnh hưởng ǵ đến tôi, về mặt
thiêng liêng hay kinh tế? Tôi có tương quan dễ dàng và tốt lành với nhiều Cha
trong Giáo phận tôi không, nhất là với các cha trẻ?
B.VI.1d Tương
Quan Với Người Khác Phái
Quan niệm của tôi về
người khác phái là ǵ? Đâu là cách tôi giữ mối liên lạc với người khác phái? Dĩ
nhiên có nhiều bạn là con gái, nhưng tôi có bạn gái không? Và ở mức độ nào? Tôi
có biết rằng Giáo Hội đ̣i linh mục phải tiết dục hoàn toàn không? Mọi người đều
mang bản tính nhân loại và có giới tính, tôi cảm nhận ǵ khi ở gần người nữ? Tôi
có biết “bén mùi chùi chẳng sạch”, nhất là người phụ nữ lại càng khó quên hơn
không? Tôi có thận trọng hơn trong tương quan với người đời, nhất là với các bạn
không có Đạo? Tôi có làm ǵ cho họ hiểu sai và hiểu xấu về đời tu công giáo
không? Tôi có mối quan hệ gần gũi với ai trong số những người nữ sống đời thánh
hiến không? Đâu là nguyên nhân của mối tương quan này? Đâu là cách tôi giữ liên
lạc với cô ấy? Có ǵ nguy hại cho ơn gọi của cả hai, bây giờ và sau này nữa
không? Có ǵ đáng quan ngại hay dấu hiệu ǵ đáng đặt dấu hỏi không?
B.VI.2. Những
điều kiện tự nhiên
B.VI.2a Sức Khoẻ Của Tôi
Sức khoẻ của gia đ́nh
tôi thế nào? Có bệnh di truyền nào không? Tôi có lo lắng ǵ về bệnh tật trong
tương lai không? Tôi ǵn giữ sức khoẻ bằng cách nào? Tôi có nghiện thứ ǵ không?
Đâu là nhịp độ ăn uống, ngủ nghỉ và làm việc của tôi trong thời gian học đều đặn
cũng như trong thời thi cử?
B.VI.2b Tính
T́nh Của Tôi
Tôi có thể mô tả tính
t́nh của tôi thế nào: cảm xúc hay vô cảm, hoạt động hay không hoạt động? Tôi có
đầu óc hẹp ḥi hay cởi mở, có điều độ ngăn nắp hay lộn xộn bừa băi? Tôi lạc quan
hay bi quan, nhút nhát hay liều lĩnh, khiêm tốn hay kiêu ngạo và tự phụ, chăm
chỉ hay lười biếng, có óc tổ chức hay làm theo hứng?
B.VI.2c Trí
Khôn Của Tôi
Trí khôn
của tôi thế nào: xuất sắc, rất tốt, tốt hay kém? Kết quả học tập của tôi thế
nào? Có t́nh trạng đặc biệt nào ảnh hưởng tới trí khôn của tôi không? Tôi có
phương pháp nào để luyện trí nhớ và trí hiểu không? Tôi thích học thuộc ḷng hay
thích suy tư, phân tích hay tổng hợp ?
B.VI.2d Năng
Khiếu và Khả Năng Của Tôi
Trong học
tập, trong nghệ thuật và hoạt động, năng khiếu đặc biệt của tôi là ǵ? Đâu là
điểm yếu của tôi trong những lănh vực này? Tại sao? Đâu là cách tôi vun trồng và
nâng cao năng khiếu của tôi?
B.VI.3 Những
điều kiện tinh thần và thiêng liêng
B.VI.3a Tinh
Thần Tự Hiến
Ơn gọi
của tôi đă lớn lên và phát triển thế nào? Bây giờ ra sao? Tại sao tôi lại chọn
đời linh mục? Tôi có luôn suy nghĩ về ơn gọi của tôi không? Có ǵ cản trở không?
Làm thế nào để vượt qua? Tôi có lạc quan và hy vọng không, hay bi quan và thất
vọng về t́nh trạng hiện tại của tôi? Tại sao? Tôi tự nguyện theo đuổi ơn gọi hay
có áp lực nào không? Đâu là cách đặc biệt để tôi ǵn giữ và phát huy tinh thần
tự hiến của tôi, bây giờ và trong tương lai ?
B.VI.3b Tinh
Thần Trách Nhiệm
Tôi chu toàn bổn phận
v́ Chúa và v́ muốn đời sống ơn gọi được chắc chắn hơn? Hay chỉ v́ luật, v́ ư bề
trên, hay v́ ḷng tự trọng với anh em cùng lớp? Phương pháp học của tôi là ǵ?
Tôi học tất cả các môn hay chỉ học những môn ưa thích? [kinh nghiệm học Toán].
Cách tôi học ở lớp, ở nhà là ǵ? Cách tôi làm bài thi và đọc sách vở là ǵ? Tôi
tận dụng tối đa thời gian hay lăng phí nó? Quan điểm của tôi về luật lệ là ǵ?
Tôi thường hay vi phạm điều nào? Công tác của tôi trong chủng viện là ǵ và đâu
là cách tôi thi hành công tác ấy?
B.VI.3c Tinh
Thần Đời Sống Thiêng Liêng
Tôi có tin rằng đời
sống thiêng liêng là tối quan trọng đối với chủng sinh và linh mục không? T́nh
trạng hiện nay về đời sống thiêng liêng của tôi là ǵ và đâu là những cố gắng?
Tôi có thói quen dâng ngày mới cho Chúa không? Đời sống cầu nguyện của tôi thế
nào? Tôi có cầu nguyện đều đặn trong những kỳ nghỉ không? Tôi tham dự thánh lễ,
chuẩn bị rước lễ và cám ơn sau rước lễ thế nào? Tôi có nhận thấy rơ Thánh Thể là
nguồn suối và trung tâm đời sống của mọi Kitô hữu, nhất là của những người sống
đời thánh hiến không? Tôi có tập đọc sách thiêng liêng, nhất là Kinh Thánh cách
đều đặn, ngay cả trong kỳ nghỉ hè không? Tôi có viếng Chúa Giêsu Thánh Thể,
thường xuyên xét ḿnh để chuẩn bị tâm hồn lănh nhận Bí tích Hoà giải không? Tôi
có yêu thích việc xưng tội không hay ngại ngùng? Ḷng sùng kính Đức Mẹ của tôi
thế nào: có lần chuỗi, suy niệm và bắt chước Mẹ không? Vai tṛ của Đức Mẹ trong
đời sống ơn gọi của tôi là g? Mối liên hệ của tôi với các thánh và các linh hồn
là ǵ ?
B.VI.3d Tinh
Thần Đức Tin
Cách tôi nh́n các sự
kiện trong đời sống tôi và trong xă hội là ǵ, có nh́n với tinh thần đức tin hay
không? Nhất là trong những lúc gặp phải thử thách, thất bại và đau khổ nơi bản
thân, cũng như trong gia đ́nh tôi? Cả những sự phi lư và bất công xảy ra chung
quanh tôi? Tôi có thường phải đối diện với những cám dỗ về đức tin không: mức độ
thế nào và phản ứng của tôi làm sao? Những thái độ sống đức tin của tôi: trong
nhà thờ, trong khi cử hành phụng vụ, khi cầu nguyện trong lớp học là ǵ?
B.VI.3e Tinh Thần Cộng Tác
Tôi cảm thấy dễ
hay khó khi quan hệ với mọi ngướ bằng sự cởi mở, đối thoại, trợ giúp và hợp
tác? Tại sao? Tôi có sẵn ḷng giúp anh em và xin anh em giúp ḿnh không? Hay tôi
cảm thấy khó hợp tác? Đâu là những cố gắng phải vượt qua? Đời sống chung và t́nh
bạn hữu của tôi thế nào: thiện cảm hay ác cảm? Tương quan với bề trên, với cha
linh hướng và với các nhà đào tạo khác: có dễ dàng tiếp xúc và cởi mở đón nhận
những gợi ư của các ngài với ḷng biết ơn hay không? Tôi có biết rằng tinh thần
cộng tác là yếu tố cần thiết trong việc ǵn giữ và xây dựng đời sống mục vụ của
linh mục không? Tôi cộng tác thế nào để đào tạo bản thân và đào tạo anh em khác?
Trong các dịp Hè và nghỉ lễ, tôi có sẵn ḷng tham gia các việc trong giáo xứ,
giáo họ không?
B.VI.3f
Tinh Thần Vâng Phục
Tôi có
suy nghĩ ǵ về tự do, về quyền bính và vâng phục trong Hội Thánh? Tôi vâng lời
cha mẹ và anh chị em thế nào? Và sự vâng phục của tôi đối với các bề trên ra
sao? Tôi không hài ḷng với họ về điểm nào? Thái độ của tôi đối với các anh em
có trách nhiệm thế nào?
B.VI.3g
Tinh Thần Nghèo Khó
Quan
niệm của tôi về nghèo khó là ǵ? Tôi có tập sống khó nghèo và giản dị trong
trang phục và ăn uống không? T́nh trạng kinh tế của gia đ́nh tôi: giàu có hay
túng bấn? Tôi có tính sổ chi tiêu hàng tháng, hàng năm không? Của cải của tôi:
dư dật, đầy đủ hay thiếu thốn? Cách tôi kiếm tiền và tiêu tiền là g? Tôi
có lo t́m kiếm ân nhân, kết nghĩa để được giúp đỡ tiền bạc không? Thái độ của
tôi đối với họ thế nào? Tôi có thích dùng những đồ sang trọng không? Tôi có tôn
trọng và ǵn giữ của chung như của riêng ḿnh không?
B.VI.3h
Tinh Thần Thanh Khiết
Tôi có tôn trọng
và hiểu rằng sự trong sạch trong đời sống linh mục là một hiến tế, từ bỏ chính
ḿnh, dành t́nh yêu cho Chúa và cho các linh hồn không? Tôi có hiểu rằng sự
trong sạch và độc thân linh mục là khó khăn và cần ơn Chúa (đời sống cầu nguyện)
và cần cố gắng liên lỉ (khổ chế và hy sinh) không? Tôi có tránh những dịp cám
dỗ: báo chí, phim ảnh, quan hệ và những lời nói không? Tôi có thường xuyên bị
cám dỗ trong tư tưởng không? Tôi có thủ dâm không? Tự ḿnh, làm cho người khác
và để người khác làm cho ḿnh? Cách tôi chiến đấu chống lại nó là ǵ, luôn thắng
trận hay bại trận? Tôi có t́m ra phương pháp nào để sống trong sạch không? Tôi
có suy nghĩ tích cực hay tiêu cực về giá trị đời sống trong sạch của linh mục?
Quan niệm của tôi về hôn nhân, về t́nh yêu đôi lứa và về giới tính là ǵ? Tôi
nghĩ ǵ về cơn khủng khoảng hiện nay của một số linh mục, tu sĩ ?
B.VI.3i
Tinh Thần Phụng Vụ
Tinh
thần phụng vụ lúc này của tôi thế nào? Tôi có ư thức rằng phụng vụ là trung tâm
nuôi dưỡng đời sống của Hội Thánh và của đời sống của những người sống đời thánh
hiến không? Tôi tham dự thánh lễ và lănh nhận các bí tích khác thế nào? Tôi có
khao khát và cố gắng tham dự vào các hoạt động phụng vụ: giúp lễ, giúp chầu
Thánh Thể, tập những bài hát phụng vụ, cầu nguyện hằng ngày? Tôi có ngại việc
quét dọn, trang hoàng nhà thờ, lo hoa đèn, âm thanh, ánh sáng để giáo dân tham
dự sống động, tích cực và sốt sắng không?
B.VI.3j
Tinh thần Mục Vụ
Tôi có
ư thức rằng công tác mục vụ là nhiệm vụ hàng đầu trong sứ vụ quản xứ của linh
mục không? Tôi có tập trung tất cả những công việc hiện tại của ḿnh để chuẩn bị
cho các công tác mục vụ tương lai không? Tôi đă chuẩn bị cho việc dạy giáo lư và
cho sứ vụ Lời Chúa thế nào? Tôi có thăm viếng các gia đ́nh, nhất là thăm nom
những người nghèo khó và đau yếu không? Tôi có thể sống đúng mực và làm việc có
trách nhiệm với những người già cả, với thanh niên, với trẻ em và hết ḷng cộng
tác chân thành không? Hướng mục vụ của tôi được gợi hứng từ tinh thần của công
đồng Vatican II là ǵ? Điều ǵ tôi thích: nhận nhiệm vụ nơi thôn quê hay chốn đô
thị, là giáo sư hay cha xứ? Tôi có nhận định ǵ về đời sống mục vụ của hàng giáo
sĩ hiện nay: ưu điểm và khuyết điểm, mặt tích cực và mặt tiêu cực?
B.VI.3k
Tinh Thần Lao Động Chân Tay
Thái
độ của tôi đối với người lao động, người giúp việc thế nào? Tôi có ư thức giá
trị của lao động chân tay không? Hay tôi bị miễn cưỡng làm việc? Tinh thần lao
động của tôi là ǵ khi tôi tham gia vào các hoạt động lao động chân tay trong
cộng đoàn? Tôi có nhận ra ư nghĩa đào tạo thiêng liêng qua các việc lao động
chân tay và vận dụng nó không? Phát triển đời sống nhân đức như làm cho lúa tốt,
hoa đẹp? Loại trừ tận gốc các tật xấu như nhổ hết rễ cỏ dại? v.v…
Lạy
Thánh Giuse Thợ,
Chúng con cần
gương Ngài
Để thấy kho tàng trong
từng giọt mồ hôi,
Thấy nụ cười trong từng ḍng nước
mắt,
Thấy Nước Trời
trong ḷng đất mẹ cằn khô
Thấy sáng tạo, đi
lên, t́nh người,
Yêu thương và hiệp
nhất.
Thấy lớn lao trong
từng nhỏ nhặt,
Thấy vinh quang
trong khổ nhục, Ngài ơi.
Xin cho những người đang
xây dựng thế giới
này
Thấy Ngài phục sinh trong bàn tay của họ.
Trích Thánh Thi Lễ Thánh Giuse Thợ
B.VII. BẢN TỰ
KIỂM THÁNG & NĂM
(Viết trong
những ngày tĩnh tâm)
B.VII.1 BẢo vỆ
đỜi sỐng thiêng liêng và ơn gỌi
B.VII.1a
Diệt trừ Tội Lỗi nhờ Bí Tích Giải Tội
Tuyệt đối tránh
tội trọng v́ nó giết chết sự sống siêu nhiên. Cố gắng tránh những tội nhẹ cố
t́nh v́ nó làm suy yếu sự sống siêu nhiên, và có nguy cơ dẫn đến tội trọng.
Không những nên biết và thú nhận những tội ḿnh đă phạm, mà c̣n phải biết tại
sao ḿnh phạm những tội ấy và chọn những phương cách thích hợp và hữu hiệu có
thể giúp ta tránh. Ví dụ: Thay v́ thú nhận “con có lỗi đức chân thành vài lần,”
hăy xác định trường hợp nào, v́ lư do ǵ anh đă nói dối, chẳng hạn “con có nói
láo v́ khoe khoang, v́ sợ bị hạ nhục, v́ có ư đưa ḿnh lên trên kẻ khác...” Hay
ví dụ khác: “con có lỗi đức bác ái,” phải xác định “con lỗi bác ái, không phải
là một việc thông thường, mà lỗi này phát sinh từ một ác cảm, một ghen tức hay
một oán thù, có ư thức, nhưng con vẫn cố t́nh chiều theo.” Nhờ việc linh hướng,
chúng ta sẽ có cơ hội thuận lợi để nhận diện các nguyên nhân tội lỗi, và có như
thế chúng ta mới có thể chữa trị tận gốc, ngơ hầu đi xa hơn và vững hơn trong
đường lối của Chúa, tức là trở nên con người mới, con người thuộc về Chúa Kitô
mỗi ngày một thành toàn hơn. Có thể xét ḿnh qua các mối tương quan: với Chúa,
với tha nhân, với bản thân.
B.VII.1b Diệt
trừ tính xấu chủ đạo và thực tập nhân đức đối nghịch:
Con người thật của
ta có những tính tốt, mà cũng có nhiều khuynh hướng và tập quán xấu. Muốn bài
trừ tận tuyệt tính xấu, ta phải luyện tập nhân đức đối lập. Thí dụ: người nóng
tính cần luyện tập nhân đức hiền lành, người nhút nhát phải tập đức can đảm,
người ham muốn sắc dục phải tập đức khiết tịnh…. Ghi ra các tính xấu hay mắc
phải để cố gắng t́m ra nguyên nhân hay t́m ra tính xấu chủ đạo là tính xấu mạnh
nhất (thường ẩn kín, nhưng điều động những tính xấu khác). Về nhân đức cần thực
tập, cần có những nghiên cứu thêm, t́m hiểu sâu xa nhân đức này để biết và yêu
mến, đồng thời t́m ra những phương thế cụ thể trong luyện tập.
B.VII.1c Độc
thân khiết tịnh (trưởng thành nhân bản: ứng xử, t́nh cảm và giới tính)
Tông Huấn Pastores
Dabo Vobis số 29 đă khẳng định thật rơ: “Chức linh mục chỉ được phong ban cho
những người đă lănh nhận từ Thiên Chúa hồng ân có được ơn gọi sống tinh khiết
trong bậc sống độc thân.” Trong thế giới đề cao hưởng thụ hôm nay, “độc thân
khiết tịnh” đang là một thách đố thật lớn cho các linh mục và các chủng sinh. Về
vấn đề này, cha linh hướng là một người hướng dẫn, một người bạn thật quí giá.
Hăy tin tưởng, tŕnh bày và bàn hỏi với ngài ngay từ lúc đầu, khi “cảm thấy có
vấn đề.”
Đừng để đến khi
“quá trễ”, “lửa gần rơm lâu ngày cũng cháy”, cháy rồi mới tŕnh bày. Các vấn đề
nổi cộm hiện nay: Lạm dụng t́nh dục trẻ em, Lạm dụng t́nh dục phụ nữ trưởng
thành (đĩ đực, Giuse ở Ai cập), “Sinh viên tầm gửi,” Đồng tính luyến ái, Thủ
dâm…
B.VII.2
Tăng trưỞng đỜi
sỐng thiêng liêng
B.VII.2a Dâng ngày, Thánh Lễ, Chuỗi Mân Côi
Chọn ư hướng dâng
ngày cụ thể: mỗi ngày hoặc mỗi tuần một ư hướng. Ghi lại những khám phá thêm qua
học hỏi, qua gương sáng, qua những cảm nhận về Thánh lễ (ví dụ: một lời nào đó
trong Phụng vụ Lời Chúa, trong Kinh Nguyện Thánh Thể, chuẩn bị dâng lễ hay cám
ơn sau rước lễ…). Chọn cho ḿnh một cách lần chuỗi Mân Côi (những ư chỉ cầu
nguyện, t́m những tài liệu hướng dẫn…). Coi việc sống Mầu Nhiệm Thánh Thể, sùng
kính Mẹ Maria và Thập giá là phương thế nâng đỡ và bảo đảm trung thành cho đời
sống và sứ vụ chủng sinh hôm nay, và linh mục ngày mai.
B.VII.2b
Sách Thiêng Liêng
Trao đổi với cha
linh hướng để có sách thiêng liêng thích hợp mà đọc. Ghi lại trong khung này:
tên sách - tác giả - chủ đề đă đọc trong tháng. Tập ghi footnotes và
bibliography. Ghi tóm tắt những cảm nghĩ, những khám phá giúp ích cho đời sống
thiêng liêng… Đừng quan niệm môn Tu đức như đứng tách biệt với các môn học khác.
Để nuôi dưỡng đời sống nội tâm và lớn lên trong đời sống thiêng liêng, ứng sinh
phải được giúp cầu nguyện và chiêm ngắm trong và qua các môn học. Tu đức không
phải là một môn học thuần túy lư thuyết, mà là một cuộc sống luôn được chỉnh
sửa, canh tân và biến đổi, với tác động của Chúa Thánh Thần.
B.VII.2c
Xét ḿnh- Nhật kư Tĩnh tâm
“Hăy tự biết ḿnh”
– “Xin cho con biết Chúa, xin cho con biết con.” Muốn thế, cần có sự xét ḿnh
mỗi ngày. Trung thành như thế nào? Anh đă dùng cách nào để xét ḿnh? Để viết
nhật kư đạo đức? Những khó khăn trong khi xét ḿnh, khi viết nhật kư đạo đức,
khi tĩnh tâm? Những ích lợi nhận thấy được.
B.VII.2d
Nguyện gẫm
Mỗi người chọn cho
ḿnh một cách nguyện gẫm thích hợp.
Phương
pháp Xuân Bích đơn giản trong ba th́:
·
Đặt Chúa
Giêsu trước mắt (thờ lạy), nghĩa là chăm nh́n Chúa trong Phúc Âm, xem việc Chúa
làm, lời Chúa giảng dạy, thái độ và tâm t́nh của Chúa;
·
Đặt Chúa
Giêsu trong tim (hiệp thông) nghĩa là yêu mến Chúa và yêu mến như Chúa Giêsu yêu
mến, ḥa cùng một nhịp tim với Chúa Giêsu;
·
Đặt Chúa
Giêsu trên bàn tay (hợp tác), nghĩa là hành động bằng một lời dóc ḷng cụ thể
khả thi để kiểm chứng lại khi xét ḿnh, nỗ lực đem Chúa Giêsu đến cho những
người ḿnh gặp gỡ.
Tập viết lại bài
nguyện gẫm đă thực hiện, theo phương pháp mà ḿnh đă chọn, để đọc lại hầu nuôi
dưỡng đời sống thiêng liêng và trao đổi với vị Linh hướng. Ghi lại những tiến bộ
hoặc khó khăn đang gặp đối với việc nguyện gẫm.
B.VII.2e
Viếng Thánh Thể
Mầu nhiệm Thánh
Thể là nguồn suối và chóp đỉnh của đời sống và sứ vụ linh mục. Tập sống thân mật
với Chúa Giêsu Thánh Thể, năng viếng Ḿnh Thánh Chúa. Chương tŕnh dành cho Chúa
Giêsu Thánh Thể trong tuần (lúc nào? đă làm thế nào?). Viết lại tóm tắt những
cảm nhận trong tháng đối với Chúa Giêsu Thánh Thể. “Hỡi những ai vất vả và gánh
nặng, hăy đến với Ta, Ta sẽ bổ sức cho, và ḷng các con sẽ được b́nh an.” “Trong
khi cầu nguyện, anh em hăy trao trút nỗi ḷng của anh em cho Chúa, v́ Người hằng
thương yêu chăm sóc đến anh em.”
B.VII.2f
Đời sống bác ái huynh đệ
“Trên hết mọi đức
tính, anh em phải có ḷng bác ái: đó là mối dây liên kết mọi điều tuyệt hảo”
(Col. 3,14). T́nh huynh đệ giữa các linh mục là “t́nh huynh đệ Bí Tích.” Linh
mục là “con người của tương quan” (PDV 43): Cuộc sống chung tốt đẹp cần những
yếu tố nào? Cuộc sống chung nặng nề là do những nguyên nhân nào? Việc bác ái là
một phương thế hữu hiệu giúp “tăng trưởng đời sống thiêng liêng.” Cần có những
quyết tâm làm những việc bác ái cụ thể. Nỗ lực làm vô hiệu câu nói chua chát:
“Homo homini lupus, mulier mulieri (soror sorori) lupior, sacerdos sacerdoti
lupissimus.”
Trông về tháp đổ nghiêng nghiêng
Chạnh ḷng tưởng nhớ chuyện riêng của ḿnh
Ước
mong đời sống có t́nh
Sầu
thương vương nhẹ như h́nh mây bay
Rồi
ra phải trái có ngày
Ai
đời đi trả nợ nần chẳng vay
Phù
sinh một phút trắng tay
Hơn
nhau một chút dở hay ở đời
Xét
đoán là việc Chúa Trời
Ai
mà kết án những người anh em
Mặt
ḿnh cũng có lọ lem
Tiên vàn lo rửa pha dèm làm chi!
Hận
thù hăy mau lấp đi
Yêu
thương xây dựng khắc ghi trí ḷng
Làm
sao đáng được khoan hồng
Trong ngày thẩm phán chí công sau cùng
B.VII.2g Kỷ
Luật Chủng Viện
“Ai tuân giữ kỷ
luật, kỷ luật sẽ ǵn giữ người đó.” Ghi lại những điểm nào về kỷ luật cảm thấy
khó giữ và t́m biết nguyên nhân khó khăn? Ghi lại những kinh nghiệm cụ thể về
những điểm kỷ luật đă thực hiện tốt?
B.VII.2h Hướng
dẫn của Chúa Thánh Thần (những cảm nhận riêng)
Chúa Thánh Thần
luôn hoạt động: Ngài sẽ nhắc các con mọi điều Thầy đă dạy các con; Ngài sẽ dạy
các con phải nói ǵ và nói thế nào, và Ngài sẽ nói thay cho các con nữa… Ghi lại
những khám phá, những điều đánh động một các đặc biệt (một gương sáng, một câu
Phúc âm…)
B.VII.3
THAO THỨC TÔNG ĐỒ
B.VII.3a
Thấu hiểu ơn gọi linh mục triều
Hiểu, khám phá,
xác tín thêm ǵ về Ơn gọi Linh Mục Triều. Ước mơ ǵ? Chuẩn bị thế nào cho đời
sống Linh Mục? Khai triển “Mô h́nh Linh Mục Hôm Nay và Ngày Mai” để phác họa và
xây dựng cho chính ḿnh mẫu linh mục mà ḿnh sẽ thực hiện trong tương lai. Nếu
tôi làm linh mục, tôi sẽ làm ǵ để: Dạy giáo lư, giảng.... (sứ vụ Tiên Tri); Tổ
chức phụng vụ, lễ sinh, ca đoàn, pḥng thánh... (sứ vụ Tư Tế); Điều hành, hướng
dẫn cộng đoàn: hội đồng giáo xứ, các đoàn thể, các công việc từ thiện xă hội...
(sứ vụ Vương Đế). Hiện nay tôi thấy cần phải chuẩn bị ǵ để trở thành một “linh
mục tốt” như ḷng Chúa mong ước?
B.VII.3b
Vấn Đề Cần Trao Đổi
Chủ động nêu ra
các thắc mắc hay vấn đề muốn t́m hiểu thêm, muốn bàn hỏi thêm với cha linh hướng
và các nhà đào tạo.
B.VIII.
TrẮc NghiỆm Tâm Lư và Phân ĐỊnh Ơn GỌI
B.VIII.1
Đông Lực và Những Giới Hạn
V́ ảnh hưởng của
lối sống buông thả luân lư và hưởng thụ khoái lạc, cùng những gương xấu và hậu
quả tai hại của lạm dụng t́nh dục, nhiều người đ̣i hỏi các ứng sinh ơn gọi phải
trải qua những trắc nghiệm tâm lư và tính dục.
Đối với tâm thức
của người Việt Nam vốn rất dè dặt, nhất là trong lănh vực giới tính, việc này
rất tế nhị và có nguy cơ tai hại là làm cho người ta bị cám dỗ nói dối, và nếu
đă nói dối một lần, họ sẽ có cớ mạnh để tiếp tục nói dối nữa. V́ thế, những trắc
nghiệm tâm lư nên chỉ được sử dụng giới hạn thôi, và không được dùng để điều tra
lai lịch, moi móc những bí mật sâu kín, hầu đánh giá tính thích hợp toàn diện
của ơn gọi ứng sinh.
Tuy nhiên, trắc
nghiệm tâm lư ở những giai đoạn khác nhau của cuộc đời vẫn là hữu ích: khả năng
và thái độ của ứng sinh có thể được kiểm tra và bất cứ khuyết điểm hay yếu kém
tâm lư nào cũng có thể được chữa lành nhờ chữa trị hay tham vấn tâm lư. Nhưng
nhà chuyên môn chỉ được phép t́m kiếm và tường tŕnh về những ǵ mà chính ứng
sinh không biết hay không thể diễn tả và giải thích được. Hơn thế nữa, theo Đức
Gioan Phaolô II, chúng ta phải quan tâm tới việc đào tạo các chuyên gia tâm lư:
ngoài tŕnh độ khoa học cao, họ c̣n cần có sự hiểu biết đến nơi đến chốn quan
điểm Kitô giáo về chức linh mục và đời sống ơn gọi linh mục nữa, hầu cung ứng sự
trợ giúp hữu hiệu cho việc hội nhập cần thiết của các chiều kích nhân bản và
siêu nhiên.
Đồng ư với quan
điểm của Đức Thánh Cha, tiến sĩ Rick Fitzgibbons, chuyên gia tâm thần đề nghị
rằng các chuyên gia tâm lư và tâm thần dấn thân cho nhiệm vụ quan trọng đặc biệt
là đánh giá các ứng sinh linh mục phải tham dự các chương tŕnh đào tạo trung
thành với giáo huấn của Hội Thánh về luân lư tính dục.
B.VIII.2
Tiến Tŕnh
Cơ sở đào tạo sẽ
cung ứng cho ứng sinh việc tham vấn cá nhân với một chuyên gia tâm lư/tâm thần.
Cuộc đối thoại phải được giữ riêng tư và bí mật. Mỗi cá nhân được tự do gặp
chuyên gia tâm lư/tâm thần khi nào tùy ư muốn.
Khuôn khổ căn bản
của việc tư vấn là một mô h́nh trị liệu ngắn, trong đó các kỹ thuật trị liệu tập
trung vào các đề tài nổi cộm và những xung đột đă biết. Mục đích là làm cho ứng
sinh được tư vấn có khả năng gia tăng các phương tiện có sẵn của ḿnh để hiểu rơ
và giải quyết xung đột, đồng thời giúp ứng sinh trở thành người trị liệu cho
chính ḿnh, nghĩa là giúp đương sự hội nhập các phương diện của câu chuyện đời,
nhân cách và tâm linh của đương sự.
Thỉnh thoảng có
những thiếu cân bằng hoá học khiến các cá nhân trải nghiệm sự chán nản và những
chán nản này cần được chẩn đoán và chữa trị. Cũng tương tự như thế với một số
t́nh trạng băn khoăn lo lắng. Phải hiểu vai tṛ chuyên gia tâm lư/tâm thần là
trợ giúp ứng sinh hiểu biết toàn diện hơn về nhân cách của ḿnh. Do đó, ứng sinh
hoàn toàn tín nhiệm chọn tư vấn với chuyên gia tâm lư/tâm thần được nhà đào tạo
đề nghị. Sự tín nhiệm này vẫn c̣n nguyên vẹn, ngay cả khi nhà đào tạo đề nghị
một tư vấn như thế nhằm cho ứng sinh trưởng thành ở mức độ sâu hơn.
B.VIII.3
Trắc Nghiệm Tâm Lư Trong Việc Tuyển Lựa và Đào Tạo Ứng
Sinh
Theo bà Gladys A.
Sweeney, có những ứng sinh xác tín rằng ḿnh có ơn gọi, nhưng động lực ơn gọi ấy
đôi khi đến từ một ước muốn vô thức muốn tránh đời sống vợ chồng hoặc muốn chạy
trốn những mối tương quan liên nhân vị. Khoa
tâm lư giúp làm sáng tỏ các trở ngại này, và như thế giúp ích rất lớn, không
những cho Giáo Hội mà c̣n cho chính ứng sinh nữa.
Việc sử dụng các
phương tiện tâm lư và những cuộc phỏng vấn chẩn đoán làm cho người ta có thể
thấy được chướng ngại mang bản chất tâm thần, t́nh cảm hay cơ chế thể lư đang
ngăn cản ứng sinh tự do quyết định về ơn gọi của ḿnh, trong khi đó ơn gọi phải
là một quyết định hoàn toàn tự do dựa trên t́nh yêu.
Việc đào tạo ứng
sinh là một công cuộc lâu dài đ̣i hỏi một mức độ tự xem xét nội tâm và kiểm tra
mạnh mẽ về chính bản thân. Trong thời kỳ đào tạo có thể xuất hiện các hiện tượng
tâm lư kiểu như nỗi thống khổ, sự lo âu, những lúc căng thẳng, và chúng sẽ được
dọn dẹp sáng sủa nhờ việc linh hướng. Cũng có những trường hợp phải kêu gọi đến
sự giúp đỡ của các khoa học tâm lư. Trong trường hợp này, việc tham khảo một
chuyên gia tâm lư có thể cứu văn được ơn gọi.
Một chuyên gia tâm
lư có phẩm chất tốt là một nhà tâm lư học biết thấu đáo về những phát minh mới
nhất của khoa học, đồng thời phải hiểu rơ viễn ảnh toàn tiện của chiều kích siêu
nhiên của ơn gọi. Có thể rằng những thời kỳ lo âu hay chán nản không phải là
phản ánh của t́nh trạng rối loạn chức năng tâm lư, nhưng đó là biểu hiện của
giai đoạn nhất thời của đời sống thiêng liêng, như “đêm tối của linh hồn.” Trong
trường hợp này, một khi giai đoạn ấy kết thúc, đương sự sẽ ở trong mức độ đời
sống thiêng liêng cao hơn.
Nếu một chuyên gia
tâm lư không hiểu biết ǵ về những phương diện siêu nhiên của ơn gọi, mà chỉ
thấy đó là những rối loạn chức năng tâm lư, th́ chuyên gia tâm lư ấy đă làm điều
xấu hơn điều tốt, v́ đă cản trở sự phát triển đời sống thiêng liêng của ứng
sinh. Trái lại, nếu đó chỉ là một vấn đề tâm lư th́ thật là sai lầm khi coi nó
như một vấn đề thiêng liêng. V́ thế, các chuyên gia tâm lư được đào tạo kỹ lưỡng
về tŕnh độ tri thức và thiêng liêng có thể giúp ích rất nhiều, không những
trong việc tuyển chọn mà c̣n đào tạo ứng sinh linh mục nữa.
Một cái nh́n toàn
diện về con người là một cái nh́n bao gồm mọi khía cạnh: tâm lư, thiêng liêng và
luân lư. Những ai có vấn đề về tâm lư thường có khuynh hướng quyết định một cách
thiếu khôn ngoan, đi ngược với bản tính nhân loại, và đôi khi c̣n theo cách vô
luân nữa. Trong trường hợp này, khoa tâm lư học phải can thiệp để giải thoát ư
chí hầu ứng sinh có thể thấy được các trạng huống cách khách quan, phân biệt
cách khôn ngoan việc phải làm và làm trong đường lối luân lư và nhân đức. Bấy
giờ, khoa tâm lư phục vụ sự thật, và giúp “uốn cho ngay đường của Chúa” hầu con
người biết chọn điều thiện.
B.VIII.4
Liên Quan Đến Độc
Thân Thánh Hiến
Cần phải cẩn trọng
và khôn ngoan giải thích cách đầy đủ cho ứng sinh biết đời sống tu tŕ và độc
thân thánh hiến đích thực là ǵ, để ứng sinh hiểu được mục đích của việc đào tạo
và cộng tác cách tốt hơn với Chúa Thánh Thần qua vị linh hướng.
Ngay trước khi
chịu chức hay tuyên khấn, ứng viên đă phải hiểu đầy đủ và phát triển cách thích
hợp động lực t́nh cảm, t́nh yêu trưởng thành và nồng nhiệt cho Đức Giêsu, hy
vọng sống động v́ Nước trời, và ḷng nhiệt thành hăng hái giúp tha nhân vào Nước
Trời.
Ứng sinh phải tiết
dục hoàn toàn và sống đức thanh khiết cách b́nh an, không bị dục vọng thiêu đốt,
nhờ đó sẽ được chắc chắn về mặt luân lư trước lời hứa sống độc thân khiết tịnh
của ḿnh.
Với một đời sống
thiêng liêng trưởng thành, ứng sinh sẽ thấy đời sống độc thân khiết tịnh là quà
tặng thiêng liêng của Chúa v́ phần rỗi của loài người hơn là một gánh nặng. Do
đó, chủ đề giới tính là nhu cầu khẩn cấp trong chương tŕnh đào tạo nhân bản và
thiêng liêng cho ứng sinh.
Theo những khám
phá mới đây của John Jay College of Criminal Justice th́ cơn khủng hoảng trong
Giáo Hội là đồng tính luyến ái (phần lớn các nạn nhân không phải là trẻ em). Nỗi
cô đơn và thiếu tự tín là nguyên nhân của sự hấp dẫn đồng giới. Nhưng các hấp
dẫn này được giải quyết với sự trợ giúp của Chúa. Đức thanh khiết nên được tŕnh
bày như một đường lối lành mạnh của cuộc sống. Hỏi ứng sinh xem họ thích người
khác giới hay đồng giới thôi th́ chưa đủ. Phải giúp ứng sinh nỗ lực đối mặt và
giải quyết các xung đột t́nh cảm của y nhờ tâm lư trị liệu và linh hướng.
Những ứng sinh có
các hấp dẫn đồng tính phải trải qua tư vấn và trị liệu tâm lư, và chỉ những ai
đă hoàn toàn trị liệu thành công mới được phép tiếp tục. Ứng sinh ấy sẽ không
được chịu chức hay khấn cho đến khi các xung đột này được chữa lành và không c̣n
bị coi là đồng tính luyến ái (x. Huấn Thị của Bộ Giáo Dục Công Giáo về đồng tính
luyến ái ngày 04-11-2005).
Trong lănh vực
này, các nhà đào tạo có một chương tŕnh rộng lớn và thách thức để phát triển,
nhất là làm gương sáng. Gương sáng hiệu quả hơn các thuyết giảng của họ: Ở đâu
sự độc thân khiết tịnh được sống cách sung măn và vui tươi, ở đó đời sống thiêng
liêng sẽ được sống cách cao độ. Phải dạy ứng sinh hiểu được ư nghĩa đích thực
của đời độc thânkhiết tịnh và hiểu lư do tại sao Hội Thánh đ̣i hỏi phải sống độc
thân khiết tịnh, đồng thời phải học tận dụng các phương tiện nhân bản và siêu
nhiên để sống cam kết này cách vui tươi.
Những mối tương
quan lành mạnh với cả hai giới làm nên một phần quan trọng trong việc giáo dục
và phân định liên quan đến đời sống độc thân khiết tịnh. Các nhà đào tạo đóng
vai tṛ ch́a khóa trong việc đào tạo đời sống độc thânkhiết tịnh. Chính họ phải
hội nhập tốt lănh vực giới tính và đời sống độc thân khiết tịnh. Đời sống độc
thân khiết tịnh gắn liền với các nhân đức Phúc âm khác là khó nghèo và vâng
phục. V́ thế, đào tạo sống đời độc thân khiết tịnh phải đi đôi với đào tạo sống
giản dị và vâng lời có trách nhiệm.
Chúng ta có thể
kết luận với Đức Gioan Phaolô II: “Bảo đảm tốt nhất của đời sống độc thân nằm ở
việc đào tạo đúng đắn và quân b́nh cho các ứng sinh. Họ được mời gọi tha thiết
nắm giữ, với vui mừng và quảng đại, một lối sống khiêm nhường, giản dị và thanh
khiết, vốn là nền tảng thực hành của đời sống độc thân khiết tịnh của Hội Thánh”
(John Paul II, On Psychology and Candidates for the Priesthood, Vatican 21/2/
2002).
B.IX. TRỞ THÀNH
ỨNG SINH LINH MỤC
B.IX.1 Con đường ơn gọi phát sinh từ một cuộc đổi đời
B.IX.1a Trở thành Ứng sinh Linh mục là:
·
Chia cắt
với cái đi trước, nghĩa là người đang trở thành ứng sinh linh mục từ bỏ một cách
sống, một cách hiểu biết đối với Thiên Chúa, với vũ trụ, với chính ḿnh và tha
nhân, tức là con người trần thế bấy lâu nay của ḿnh. Thánh Phaolô khuyên “quên
hẳn đàng sau, nhắm phía trước mà chạy tới.”
·
Mở ra với
những ǵ đang đến, nghĩa là một hiện hữu mới, một ư nghĩa độc đáo và bất ngờ đối
với cái đi trước. Như thế, sự trở thành mở đường vào cuộc sống ứng sinh linh mục
là một sự xé rách, một thứ cái chết, nhưng rách để lành, chết để sống; đó là một
thứ biến đổi một mất một c̣n.
(Slideshow Chuyện
chim ưng)
Dường như có một
đổ vỡ giữa người thanh niên và ứng sinh linh mục. Thật thế, khi anh đang bước
vào đời ứng sinh linh mục, anh dường như không c̣n sống như một thanh niên b́nh
thường nữa, mà sống như một con người thiêng liêng, dù vẫn c̣n có con người trần
tục trong chính ḿnh. Tính lưỡng diện này vẫn tồn tại lâu dài, có khi suốt cả
cuộc đời nữa, trải qua những chiến đấu, ḍn mỏng… với thành công và có khi thất
bại nữa: “Ai từng chiến thắng mà không hề chiến bại? Ai nên khôn mà chẳng dại
đôi lần? Nhưng đây chưa phải trận sau cùng chiến đấu!” (Nguyễn Thái Học).
B.IX.1b Một kinh nghiệm đổ vỡ
Ta có thể nh́n
kinh nghiệm đổ vỡ (sự chia cắt và cái chết) nầy qua h́nh ảnh Abraham cắt đứt mọi
mối quan hệ cộng đồng và yêu thương với gia đ́nh, với đồng bào và thiên nhiên,
rời bỏ quê hương để đi t́m một quê hương mới, hầu được triển nở thành thủ lănh /
cha một dân tộc. Như thế, hành tŕnh theo ơn gọi bẻ găy tính thuần nhất của
những ǵ đă nhận lănh trong cuộc đời, ghi khắc một đổ vỡ và thay đổi các giá trị
vốn có.
Ứng sinh không sợ
nói lên kinh nghiệm bản thân để mô tả thứ thanh tẩy cần thiết hầu đi vào hành
tŕnh thiêng liêng, chuẩn bị tiến tới chức linh mục. Muốn thế, cần có tín nhiệm
lẫn nhau thực sự trong việc linh hướng. Cái quan trọng là có nơi mỗi người một
biến cố lịch sử đánh dấu thời khắc trở thành ứng sinh linh mục, và thời khắc đó
được sống thường xuyên trong tất cả công cuộc t́m kiếm và thực thi thánh ư Chúa:
Linh mục sống căn tính linh mục suốt cả đời (x.Biến cố ngă ngựa của Saolô).
Biện chứng pháp
dẫn ta từ đối chọi tiền đề – phản đề đến một quan điểm mới (hợp đề). Cũng thế,
mỗi một đổ vỡ mở ra một khởi đầu mới: Tiền đề ↔ Phản đề → Hợp đề; Hợp đề này =
Tiền đề mới ↔ Phản đề mới → Hợp đề mới = Tiền đề mới ….
Sự kiện người đi tu xem ra hiện hữu tách biệt với người đời khiến người ta than
phiền đi tu là cắt khỏi cuộc sống (xuất thế). Nhưng một cách nào đó đời tu đ̣i
lại sự chia tách nầy (nhập thế) và khoảng cách giữa tu và không tu là một dữ
kiện có một ư nghĩa hữu lư: sống một cách khác hợp với chọn lựa của đời ḿnh. Đổ
vỡ nầy đánh dấu sự khởi đầu của tất cả mọi cuộc đời.
B.IX.2 Chết cho cái cũ để sống cho cái mới
Phải chăng tu và không tu có mâu thuẫn và loại trừ lẫn nhau, và mối tương quan
được định nghĩa bằng cái chết? Có thể nói đây là một bạo lực ngọt ngào: giết
chết cái chất trần tục trong con người ḿnh, để cuối cùng được sinh ra trong con
người tu: “Anh em hăy mặc lấy con người mới đă được Đức Kitô Phục Sinh biến
đổi.” “Phàm ai ở trong Đức Kitô đều là thọ tạo mới. Cái cũ đă qua đi và cái mới
đă có đây rồi” (2 Cr 5:17).
Trong sự thay đổi đó, tinh thần theo Chúa Kitô là chủ đạo: thay đổi con tim, tâm
thức, lối sống và cuộc sống.
Luật của sự sống và sinh trưởng là thay đổi, và mỗi chặng đường sinh trưởng của
con người đều được ghi dấu bằng những thay đổi quyết định. Và đó là tiến tŕnh
lâu dài của một công cuộc hợp tác đào tạo và tự đào tạo, vừa thần linh vừa nhân
loại. Đời sống ơn gọi sẽ theo tiến tŕnh năm bước này:
-
Chính Chúa cất tiếng
gọi, trực tiếp hoặc gián tiếp.
-
Ứng sinh đích thân đáp
lại.
-
Ứng sinh cam kết theo
chính Chúa Kitô toàn thể.
-
Ứng sinh biến đổi và
điều chỉnh cuộc sống ḿnh cho phù hợp với đời sống ơn gọi linh mục.
-
Ứng sinh kiên tŕ dấn
thân phục vụ Chúa trong tha nhân qua việc chịu chức.
Việc biện phân
nghiêm túc sẽ dẫn tới hai kết quả này: Hoặc anh không có ơn gọi: anh nên đổi
hướng sống trong b́nh an, đồng thời bước theo con đường Chúa mời gọi anh đi với
can đảm và hạnh phúc; hoặc anh có ơn gọi: anh tiếp tục đi tới với niềm vui tươi,
hy vọng và hạnh phúc, mặc dù anh sẽ gặp thấy những khó khăn và đen tối trong
cuộc sống lữ hành của anh.
Tuy nhiên, mặc dù anh tự kiểm một cách nghiêm túc, anh vẫn không thể tuyệt đối
chắc chắn về ơn gọi của ḿnh. Anh cần được sự linh hướng thích hợp. Sự chấp
thuận của Bề Trên Giáo Hội sẽ hoàn tất chọn lựa này và làm cho anh an tâm. Nói
cách khác, sự chọn lựa và quyết định với tự do nội tâm của anh (ṭa trong) phải
được xác lập và công nhận bởi thẩm quyền Giáo Hội (ṭa ngoài): Hội đồng Chủng
viện bỏ phiếu quyết định (biểu lộ sự kêu gọi của Chúa), có thể được trợ giúp bởi
việc tham khảo (lượng định) của Cộng đoàn Dân Chúa.
Muốn cho việc
hướng tới đời sống mới này thành công, chúng ta phải đặt ḿnh trong tay Chúa.
(Slideshow Dụ ngôn cây viết ch́)
C. KỸ NĂNG
CHUYÊN BIỆT: LINH HƯỚNG
Lạy Chúa, Ngài ḍ xét con và
Ngài biết rơ,
Biết cả khi con
đứng con ngồi.
Con nghĩ tưởng ǵ, Ngài thấu suốt từ xa,
Đi lại hay nghỉ ngơi, Chúa đều xem xét,
Mọi nẻo đường con đi, Ngài quen thuộc cả.
Miệng lưỡi con chưa thốt nên lời,
Th́ lạy Chúa, Ngài đă am tường hết.
Ngài bao bọc con cả sau lẫn trước,
Bàn tay của Ngài, Ngài đặt lên con.
Kỳ diệu thay, tri
thức siêu phàm,
Quá cao vời, con chẳng sao vươn tới!
Đi măi đâu cho thoát thần trí Ngài,
Ẩn nơi nào cho khuất được Thánh Nhan?
Con có lên trời, Chúa đang ngự đó,
Nằm dưới âm ty, vẫn gặp thấy Ngài.
Dù chắp cánh bay từ phía hừng đông xuất hiện,
Đến ở nơi chân trời góc biển phương tây,
Tại đó cũng tay Ngài đưa dẫn,
Cánh tay hùng mạnh giữ lấy con.
Tv 139, 1-10
C.I.
NhỮng ư niỆm
khỞi đẦu
(Slideshow Chúa ở khắp nơi)
Điều mà vị linh hướng khám phá
về người thụ hướng ở toà trong sẽ không được tiết lộ ra ở toà ngoài. Dữ kiện này
có cùng một qui chế như ấn toà giải tội. Điều này không những để bảo vệ người
thụ hướng, mà c̣n cống hiến cho anh sự tín nhiệm và tin tưởng rằng điều ǵ anh
đă bộc lộ ở ṭa trong vẫn được giữ bí mật. Chính niềm tín nhiệm và bảo đảm này
mang lại sự chữa lành tận gốc các căn bệnh.
Đào tạo thiêng liêng là công
việc của Chúa Thánh Thần và Ngài là vị linh hướng đích thực. Ngài dẫn dắt mỗi
một người theo một con đường riêng biệt: đừng t́m cách giống như người khác và
cũng đừng bắt người khác giống ḿnh. Mỗi người phải tự khám phá ra con đường
Chúa Thánh Thần dẫn dắt ḿnh đi, nhờ vị linh hướng giúp đỡ, v́ Ngài dùng người
này để dẫn dắt người kia.
Tiến tŕnh đào tạo và tự đào
tạo thiêng liêng được đặt dưới sự hướng dẫn trực tiếp và được củng cố bằng các
thực hành:
-
Bề Trên có những buổi
huấn đức thường kỳ và bất thường,
-
Ứng sinh luôn được đồng
hành và đều đặn linh hướng riêng tư,
-
Sự tương tác ảnh hưởng
của các nhà đào tạo và nội dung của các môn học giúp suy niệm, cầu nguyện và
sống đời sống tu đức.
-
Chia sẻ và trợ giúp theo
nhóm, dưới sự hướng dẫn của một nhà đào tạo.
Mỗi ứng sinh linh mục buộc phải
có một vị linh hướng. Tu sĩ không nhất thiết buộc, nhưng nên có. Ngày nay, vị
linh hướng có thể là linh mục, tu sĩ và giáo dân, v́ nhiều lư do, miễn là được
Chúa Thánh Thần dùng, được đào tạo thích đáng và được thẩm quyền ủy thác. Vị
linh hướng chỉ là dụng cụ của Chúa Thánh Thần: ngài hướng dẫn ứng sinh, nhưng
chính ngài cũng được hướng dẫn bởi Chúa Thánh Thần và vị đồng hành thiêng liêng
của ngài.
Người hướng dẫn phải nỗ lực
khám phá ra con đường Chúa Thánh Thần muốn cho người được hướng dẫn của ḿnh, để
giúp người đó nhận ra, điều chỉnh và theo sát con đường độc đáo đó, chứ không
được áp đặt con đường của ḿnh, dù tốt đến đâu chăng nữa, nhưng không tốt và
thích hợp cho người thụ hướng.
Người ta cần có sự tín nhiệm
thật sự để bộc lộ hết cho nhau. Sự tín nhiệm nầy đ̣i hỏi sự hợp tác của cả hai
phía, với ơn Chúa, để đi vào thế giới tâm hồn của nhau. Thông thường cần có thời
gian cho ḷng tín nhiệm triển nở, không thể đốt giai đoạn, áp đặt hay cưỡng bách
được. Vậy khi người thụ hướng chưa nói hết được với vị linh hướng những ǵ cần
thiết, phải kể như chưa nói v́ chưa tín nhiệm nhau đủ, chứ không phải cố t́nh
giấu giếm. Cả hai đều phải nghĩ như vậy để được b́nh an tâm hồn, không bị áy náy,
mặc cảm “có lỗi” che đậy dối trá. Dĩ nhiên phải khắc phục chấm dứt t́nh trạng
nầy, nếu không th́ phải thay đổi người đồng hành, hầu đạt được đúng ư nghĩa và
mục đích của việc linh hướng.
Việc linh hướng đ̣i chuẩn bị
nghiêm túc về cả hai. Vị linh hướng sẽ rất an ḷng và vui mừng làm linh hướng
cho những người chuẩn bị nghiêm túc các vấn đề căn bản hướng về chiều sâu đời tu
(cần ghi ra, kẻo quên). Nhưng lại rất ái ngại, lo âu và nặng ḷng khi gặp người
có vẻ hời hợt, thiếu chuẩn bị, đề cập những cái phụ tùy cho “qua giờ” hơn là đi
vào trọng tâm con đường lư tưởng.
Người nghệ sĩ chỉ dùng nguyên
vật liệu có sẵn để làm nên tác phẩm nghệ thuật, chứ không sáng tạo ra được
nguyên vật liệu, vốn là công việc chỉ thuộc về Đấng Tạo Hóa. Việc linh hướng quả
là một nghệ thuật cao hơn nữa: vị linh hướng không lấy cái ḿnh có, nhưng lấy
cái của Chúa mà nắn đúc người thụ hướng. Đó là một công cuộc hợp tác hết sức
quan trọng, không những giữa hai con người với nhau, mà c̣n với Chúa, và những
người liên hệ khác nữa.
Có rất nhiều khía cạnh và vấn
đề cần được đề cập đến trong tiến tŕnh ơn gọi, trong đó có những vấn đề mà
chính ứng sinh phải tự ḿnh đối diện, trắc nghiệm bản thân, lượng lấy sức và tự
giải quyết.
Chỉ có Chúa Thánh Thần mới biết
đầy đủ và có thể biến đổi một con người: “Bất cứ sự thay đổi đích thực và bền
lâu nào cũng đều chỉ đến từ Chúa Thánh Thần, Đấng hoạt động trực tiếp trên mỗi
người và trong mọi hoàn cảnh.” Nhưng đừng quên yếu tố thời gian: không ai một
sớm một chiều mà nên thánh hay thành ác quỷ! Thiên Chúa luôn nhẫn nại hơn con
người.
Do đó, ở toà trong, vị linh
hướng không chỉ thụ động lắng nghe, song phải sẵn ḷng và có khả năng thách đố
và đối đầu, khi sự việc đ̣i hỏi, để giúp ứng sinh trải qua một tiến tŕnh phân
định ơn gọi đích thực.
Khi đánh giá ứng sinh, vị linh
hướng không bao giờ được lên tiếng để kết án, hay để bảo vệ; song phải im lặng
khi hội đồng nói về người thụ hướng của ḿnh, dù ṭa ngoài không có được sự hiểu
biết chắc chắn như ṭa trong về nội tâm ứng sinh. Sự bảo mật này nhằm bảo đảm
cho tự do nội tâm của ứng sinh. Nhưng nhờ nghe trong hội đồng những quan điểm
khác quan điểm của ḿnh về người thụ hướng, vị linh hướng có được thêm thông tin
về những yếu tố khác, nhờ đó ngài sẽ phân định tốt hơn và chọn lựa sự giúp đỡ
thích hợp hữu hiệu hơn cho người thụ hướng của ḿnh.
Quyết định ṭa ngoài phải được
giải thích cho ứng sinh ấy, để anh cố gắng hiểu, chấp nhận quyết định đă được
đưa ra, và nỗ lực khắc phục, biến đổi nên tốt. Ở Việt Nam, quyết định xuất tu
chịu áp lực và ảnh hưởng sâu xa bởi gia đ́nh, xă hội, cũng như bởi cảm thức xấu
hổ, ân nghĩa và t́nh bạn bè. Thẩm quyền hữu trách nên quan tâm hướng dẫn anh làm
một chọn lựa đúng đắn và giúp anh vượt qua các khó khăn ấy.
Mọi người đều biết rằng quyết
định dứt khoát của toà trong ăn khớp với lương tâm của ứng sinh.
Điều này cần đào tạo một lương tâm trưởng thành và vị linh hướng phải dự phần
trong đó. Việc linh hướng và phân định thiêng liêng rất tế nhị và khó khăn đối
với con người trong việc đồng hành ứng sinh trên đường tới Chúa. Hoạt động này
bao gồm mọi chiều kích của đời sống, nhân bản và thiêng liêng, tự nhiên và siêu
nhiên.
Sau khi đă chú ư lắng nghe với
biện phân và khiêm tốn, vị linh hướng có thể khám phá được người thụ hướng được
Chúa gọi hay không. Nếu có, ngài xác định cho anh tiếp tục đi tới với niềm vui
tươi, hy vọng và hạnh phúc, mặc dù anh sẽ gặp thấy những khó khăn và đen tối
trong cuộc sống lữ hành của anh. Nếu không, ngài nên gợi ư cho anh đổi hướng
sống trong b́nh an, đồng thời bước theo con đường Chúa mời gọi anh đi với can
đảm và hạnh phúc.
Chúa Giêsu là nhà đào tạo và vị
linh hướng tuyệt vời: Cây lau đă rạp xuống Ngài không bẻ găy, tim đèn c̣n leo
lét khói Ngài không dập tắt; nh́n nhận thực tế, nhưng không dừng lại ở thực tế,
mà hướng về tương lai được biến đổi tốt đẹp hơn; tha thứ, nhưng vẫn đ̣i hỏi gắt
gao (“tội con đă được tha, hăy đi bằng an và đừng phạm tội nữa”; “Ngươi đă được
lành bệnh, đừng phạm tội nữa, kẻo khốn khổ hơn trước); Quên lỗi quá khứ, cư xử
như với một con người mới (không có lỗi) và tin tưởng giao trách nhiệm (cho
Phêrô: hăy chăn chiên của thầy; cho Madalêna: hăy đi báo với anh em là họ sẽ gặp
Thầy ở Galilê), v.v…
Chúa Giêsu kết án tội, chứ
không kết án người có tội. Giới biệt phái và luật sĩ nghiêm túc giữ và bảo vệ lề
luật đạo đức, nhưng lại luôn chôn cứng và khóa chặt người ta trong lỗi lầm hiện
tại và định kiến bất di bất dịch. Họ chỉ thấy t́nh trạng tội lỗi mà không thấy
t́nh trạng được tha thứ và biến đổi; chỉ thấy t́nh trạng trước mà không muốn
thấy t́nh trạng sau: “Mỗi vị thánh đều có một quá khứ, và mỗi tội nhân đều có
một tương lai.” Đời người là cả một hành tŕnh theo ánh sao đi t́m gặp Chúa, một
cuộc gặp gỡ đổi đời, lật sang trang mới: Một linh hồn vươn ḿnh lên được sẽ nâng
cả thế giới lên.
Có thể xảy ra trường hợp thiếu
hoặc mất tín nhiệm, th́ “việc đổi linh hướng là luôn có thể và đôi khi đáng ao
ước nữa.” Ứng sinh có thể đề nghị trước. Đôi khi, vị linh hướng sẽ yêu cầu ứng
sinh đi linh hướng với người khác, v́ nghĩ rằng ḿnh sẽ không thể tiếp tục trách
nhiệm ấy được nữa.”
C.II.
ĐỊnh nghĩa
Linh hướng là nghệ thuật của
mọi nghệ thuật. Làm sao đi vào thế giới nội tâm của ứng sinh để khám phá được
Chúa kêu gọi anh, từ các vấn đề thực tế đời sống của anh trong tương quan với
Chúa và tha nhân? Làm sao phân định được điều Chúa nói với ứng sinh qua vị linh
hướng? Làm sao giúp ứng sinh quyết định cuộc đời anh với ư thức, hiểu biết,
trưởng thành và tự do nội tâm? Làm sao biết được ư Chúa cho vị linh hướng qua
ứng sinh được đồng hành?
Linh hướng là một công tác mục
vụ đặc biệt nhằm:
- giúp ứng sinh lớn lên
trong tương quan với Chúa Cha,
- cởi mở đáp lại Chúa
Kitô
- và sẵn sàng để Chúa
Thánh Thần hướng dẫn,
- ngơ hầu biết phân định
ơn gọi của ḿnh
- và chuẩn bị cho sứ vụ
của ḿnh trong Giáo Hội.
Linh hướng là một tiến tŕnh
trưởng thành liên nhân vị, qua đó tiếng gọi của Chúa được lắng nghe và đáp lại
trong đức tin.
Linh hướng nhằm nuôi dưỡng một
con tim phân định can đảm đang t́m khám phá để đạt được ư Chúa. Linh hướng trước
hết liên hệ với sự trưởng thành toàn diện trong đức tin, trong khi đối mặt kịp
thời với các vấn đề và khủng hoảng để kích thích đức tin phát triển. Việc linh
hướng sẽ hữu hiệu khi sự trưởng thành được biểu lộ rơ nét trong sự gia tăng t́nh
thương, ḷng trung thành và trách nhiệm.
Việc linh hướng cung cấp một
bầu khí yêu thương vô điều kiện, là môi trường của bầu khí cầu nguyện. Tiên vàn
đó là công việc của Chúa Thánh Thần, và vị linh hướng phải học biết làm cho dễ
dàng, chứ không cản trở hoạt động của ơn thánh. Dù có tính cách liên nhân vị,
việc linh hướng mang chiều kích cộng đồng và Giáo Hội rất cao. Nó nuôi dưỡng
viễn ảnh toàn diện và cánh chung, nội tại lẫn siêu việt.
C.III. Các nguyên tẮc chung
Việc linh hướng thường nhắm đến
những mục đích sau:
-
Giúp sống tương quan mật
thiết với Chúa;
-
Giúp trực tiếp thưa
chuyện với Chúa và lắng nghe những ǵ Ngài chỉ dạy;
-
Giúp nhận ra và sống
những kinh nghiệm thực tế trong tương quan với Thiên Chúa: kinh nghiệm sống đạo
đối với việc linh hướng cũng giống như thực phẩm đối với việc nấu nướng;
-
Giúp lưu tâm đáp lại
tiếng Chúa mời gọi để càng ngày càng sống thân mật với Ngài hơn;
-
Giúp biết luôn đặt ḿnh
trước mặt Chúa bằng cả con người và trong suốt cuộc đời ḿnh;
-
Giúp ư thức trách nhiệm
của ḿnh để duy tŕ và phát huy trong ánh sáng của Chúa Thánh Thần, Ngài vốn là
vị linh hướng đích thực;
-
Giúp t́m được con đường
mà Chúa mời gọi, để chọn lựa phù hợp ư Chúa, với ư thức và tự do nội tâm.
Theo Đức Gioan Phaolô II, ta
nên tạo ra thói quen sống thân mật với Chúa Kitô như là người bạn trong mọi chi
tiết đời sống ḿnh và sống mầu nhiệm phục sinh của Chúa để biết cách khai tâm
cho những người được trao phó cho ḿnh coi sóc (Pastores Dabo Vobis, số 45).
Giai đoạn đào tạo thiêng liêng
của Năm Tu Đức là giai đoạn khởi đầu nền tảng, và sẽ được tiếp tục khai triển,
đào sâu trong những năm kế tiếp. Giai đoạn này được triển nở qua việc đào sâu và
sống linh đạo linh mục triều (nên đồng h́nh đồng dạng với Chúa Kitô để sống hết
ḿnh cho Chúa Cha trong sự dẫn dắt và tác động của Chúa Thánh Thần), làm linh
hướng, đời sống cầu nguyện và đời sống nội tâm, thông qua việc thực hành hài hoà
giữa toà ngoài và toà trong, nhằm giúp ứng sinh có đủ tự do lương tâm trong việc
quyết định đời sống ơn gọi của ḿnh.
Tiến tŕnh đào tạo và tự đào
tạo thiêng liêng được đặt dưới sự hướng dẫn trực tiếp và được củng cố bằng ba
cách thực hành:
-
Bề Trên có những buổi
huấn đức thường kỳ và bất thường,
-
Ứng sinh luôn được đồng
hành và đều đặn linh hướng riêng tư,
-
Chia sẻ và trợ giúp theo
nhóm, dưới sự hướng dẫn của một nhà đào tạo.
Trong tiến tŕnh đào tạo này,
việc linh hướng chiếm một chỗ rất quan trọng, nhằm giúp ứng sinh kinh nghiệm về
Chúa và sự hiện diện của Ngài, khám phá ra đường lối Chúa kêu gọi và anh đáp lại
với tự do nội tâm, dấn thân đi theo và sống tương quan thân mật với Chúa, nhận
rơ trách nhiệm của ḿnh và phát triển nó dưới sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần.
Hầu hết các văn kiện mới đây viết về việc linh hướng đều nhấn mạnh rằng người
thụ hướng phải chủ động trong quan hệ với vị linh hướng. Lịch gặp gỡ và đề tài
thảo luận phải đáp ứng được với nhu cầu của người thụ hướng.
Vị linh hướng cũng phải tích
cực làm cho việc đào tạo thiêng liêng của người thụ hướng được dễ dàng. Một số
linh mục ḍng được mời hướng dẫn các kỳ tĩnh tâm thường niên hay các khoá phân
định ơn gọi để đảm bảo một sự đánh giá khách quan về mức độ trưởng thành của các
ứng sinh.
Cuộc sống nội tâm của ứng sinh
cần được cổ vũ nhờ các phương tiện thiêng liêng để thánh hoá bản thân:
-
hợp nhất với Chúa Kitô
trong mọi trạng huống của cuộc sống;
-
sống nhờ hai bàn tiệc
Lời Chúa và Thánh Thể, được cử hành trong Thánh Lễ và được sùng kính trong Nhà
Tạm;
-
tự xét lương tâm hằng
ngày;
-
đọc sách thiêng liêng để
t́m ư Chúa nhờ tác động của Chúa Thánh Thần;
-
các dấu chỉ thời đại và
các biến cố cuộc sống;
-
ḷng sùng kính Trinh Nữ
Maria, Nữ vương hàng giáo sĩ;
-
các cuộc tĩnh tâm và
linh hướng;
-
và các dạng khẩu nguyện,
tâm nguyện và suy nguyện khác.
C.IV. Ba MỐi Tương Quan KHÉP KÍN trong viỆc linh hưỚng: Chúa Thành
ThẦn - Ứng Sinh –VỊ linh hưỚng
Chúa Giêsu là vị linh hướng
tuyệt vời:
·
Ngài nh́n nhận thực tế,
nhưng không dừng lại ở thực tế, mà hướng về tương lai được biến đổi tốt đẹp hơn;
·
Tha thứ, nhưng vẫn đ̣i
hỏi gắt gao (“tội con đă được tha, hăy đi bằng an và đừng phạm tội nữa”;
·
Đ̣i hỏi sự bền vững: Anh
đă được lành bệnh, đừng phạm tội nữa, kẻo khốn khổ hơn trước);
·
Quên lỗi quá khứ, cư xử
như với một con người mới (không có lỗi) và tin tưởng giao trách nhiệm (hăy chăn
chiên của thầy, hăy đi báo với anh em là họ sẽ gặp Thầy ở Galilê), v.v…
·
Chúa Giêsu kết án tội,
chứ không kết án người có tội.
Giới biệt phái và luật sĩ
nghiêm giữ và bảo vệ lề luật đạo đức, nhưng lại luôn chôn cứng và khóa chặt
người ta trong lỗi lầm hiện tại và định kiến bất di bất dịch. Họ chỉ thấy t́nh
trạng tội lỗi mà không thấy t́nh trạng được tha thứ và biến đổi; chỉ thấy t́nh
trạng trước mà không muốn thấy t́nh trạng sau. Đời người là cả một hành tŕnh
theo ánh sao đi t́m gặp Chúa, một cuộc gặp gỡ đổi đời, lật sang trang mới:
Một linh hồn vươn ḿnh lên được sẽ nâng cả thế giới lên.
Phúc thay ai chọn được
vị linh hướng theo mô h́nh Chúa Giêsu!
C.IV.1
Tương quan vị Linh hướng với Chúa Thánh Thần
Vị linh hướng cần làm quen với
những kinh nghiệm năng động trong đời sống thiêng liêng, để tập trung lắng nghe
Chúa, và để Chúa Thánh Thần hướng dẫn và nói qua ngài vào những lúc quyết định.
Với một cảm thức trực giác
trong đời sống cầu nguyện, ngài cảm nhận được dấu chỉ sự hiện diện của Chúa
Thánh Thần trong cuộc đời ḿnh, nhờ đó ngài sẽ là một hiện diện đem lại an tĩnh,
tập trung và có thể trở nên gương mẫu cho người thụ hướng.
Mối tương quan với Chúa Thánh
Thần giúp ngài duy tŕ thế quân b́nh của sức mạnh tâm lư và thiêng liêng cần cho
việc linh hướng. Chúa có thể dùng tất cả con người của vị linh hướng để làm cho
người thụ hướng tương quan với Chúa.
C.IV.2
Tương Quan Ứng Sinh Với Chúa Thánh Thần
Quan niệm tiên quyết là nhận
biết rằng Chúa Thánh Thần là vị linh hướng đích thực.
Ứng sinh được trợ giúp để lớn
lên trong tự do nội tâm, phát triển một mối tương quan cá nhân thân mật sâu xa
với Chúa, phân định và nhận ra điều ǵ Chúa mời gọi anh thực hiện trong hoàn
cảnh đặc biệt này? Vị linh hướng giúp bằng cách gọi tên những hỗ trợ và cản trở
hay chướng ngại đưa tới thân mật với Chúa.
C.IV.3
Tương Quan Ứng Sinh Và Vị Linh Hướng
Vai tṛ của vị linh hướng rất
quan trọng. Mỗi ứng sinh phải có vị linh hướng riêng, được chọn trong số các nhà
đào tạo nội trú trọn thời gian. Mối tương quan này luôn thuộc về toà trong,
nghĩa là tính bí mật luôn được bảo vệ cẩn thận.
Chúa Thánh Thần hướng dẫn mỗi
người theo một đường lối rất đặc biệt. Cả vị linh hướng lẫn người thụ hướng đều
phải khám phá ra đường lối ấy. Vị linh hướng phải giúp người thụ hướng tự ḿnh
khám phá ra đường lối mà Chúa kêu gọi anh và điều chỉnh đời sống anh theo đúng ư
Chúa muốn cho anh.
C.IV.3a
Về phía Ứng sinh
Về phần ḿnh, ứng sinh được mời
gọi chọn cho ḿnh một vị linh hướng, để được giúp nh́n thấy ḿnh rơ ràng hơn,
sâu xa hơn, giải thích ḷng khao khát Chúa và sự trưởng thành thiêng liêng của
anh trong ánh sáng đức tin.
Người thụ hướng sẽ kể lại lịch
sử đời anh mà không phê phán, với những yếu tố:
-
những người có ảnh hưởng
quan trọng trong đời anh,
-
các hoạt động anh dấn
thân,
-
những nơi chốn, biến cố
đặc biệt,
-
kinh nghiệm
thân xác,
-
những cảm xúc
tái đi tái lại,
-
những giấc mơ
quan trọng,
-
những gợi hứng
và những ư tưởng mới,
-
những kinh
nghiệm tôn giáo và đời sống cầu nguyện.
Ứng sinh sẽ nói cách
cởi mở và thành thật, trong sự bộc lộ hổ tương, với ḷng quảng đại và can đảm
lắng nghe, suy gẫm trong thinh lặng bề trong lẫn bề ngoài, xác tín rằng Chúa
Thánh Thần hướng dẫn anh qua vị linh hướng.
Trong quá tŕnh phân
định ơn gọi, mối quan tâm của cả hai người, ứng sinh và vị linh hướng, là lợi
ích của Hội Thánh. Ứng sinh không quá để tâm đến ư riêng hay ước vọng cá nhân
của ḿnh, mà luôn t́m khám phá ư muốn của Chúa cho anh, bằng cách phân tích các
khả năng và động lực của anh đối với những kỳ vọng và nhu cầu của Hội Thánh.
C.IV.3b Về phía Vị Linh Hướng
Vị linh hướng phải
hiện diện và đồng cảm với người thụ hướng, trong sự bộc lộ hổ tương, chăm chú
lắng nghe anh với ḷng kiên nhẫn, can đảm và yên lặng; đón nhận câu chuyện cuộc
đời anh hay chính con người của anh cách không phê phán, định kiến hay tiên
kiến; hỏi những câu hỏi hỗ trợ và đối thoại để khẳng định các giá trị của anh,
để biết anh đang ở đâu trên hành tŕnh thiêng liêng, ngơ hầu phân định và xác
định con đường Chúa Thánh Thần dẫn dắt anh; cống hiến cho anh những gợi ư suy
nghĩ và cầu nguyện.
Vị linh hướng giúp
ứng sinh theo đuổi lời mời gọi trở thành môn đệ Đức Giêsu trong Giáo Hội của
Ngài. Lời cầu nguyện và đời sống của Hội Thánh cũng là một nguồn đào tạo thiêng
liêng cho ứng sinh. Điều kiện căn bản để thành công trong việc linh hướng là
tính cởi mở và thành thật của người thụ hướng trong khi đối thoại với vị linh
hướng. Người thụ hướng phải mang đến trong tương quan này sự sẵn ḷng nói lên sự
thật về chính ḿnh, và một sự cởi mở khiến anh trở nên trong suốt.
C.V. TƯƠNG TÁC T̉A TRONG VÀ T̉A NGOÀI
C.V.1. Định Nghĩa
Người ta phân biệt
toà trong như nơi phán xử lương tâm của một người và toà ngoài như toà án của cơ
chế nhân loại. Trong việc biện phân ơn gọi, “toà” được quan niệm như “quyền” phê
phán ơn gọi của một ứng sinh.
Toà Trong nói về việc
phán xét trong lương tâm của ứng sinh. Anh quyết định tự tŕnh diện với Hội
Thánh để trở thành linh mục, v́ anh cảm thấy được Chúa gọi. Theo sự phán đoán
của chính ḿnh, anh đánh giá rằng anh có khả năng phục vụ Hội Thánh với tư cách
linh mục. Chính anh phân định ơn gọi của anh, dưới sự hướng dẫn của vị linh
hướng. Anh phân định về thực tại khách quan của đời sống linh mục và thực tại
chủ quan của lời mời gọi cá nhân của anh.
Vị linh hướng
đi vào trong tiến tŕnh này bằng cách cống hiến ư kiến riêng làm sao ngài kinh
nghiệm rằng ứng sinh ấy được Chúa gọi. Ngài có lư mạnh để can thiệp, nếu cảm
thấy người thụ hướng đang làm một lầm lỗi nghiêm trọng.
Toà ngoài là phê phán
và quyết định của những người đào tạo hơn là của ứng sinh. Đánh giá một ứng sinh
có thích hợp với chức vụ và đời sống linh mục hay không là trách nhiệm của Bề
Trên và ban đào tạo. Với đánh giá cuối cùng, hội đồng chủng viện sẽ quyết định
giới thiệu cho một ứng sinh lên chịu chức hay không.
C.V.2 Tương Tác giữa Ṭa Trong và Ṭa Ngoài
C.V.2a Khác biệt nhưng bổ túc cho nhau
Điều mà vị linh hướng
khám phá về ứng sinh ở toà trong sẽ không được tiết lộ ra ở toà ngoài. Dữ kiện
này có cùng một qui chế như ấn toà giải tội. Điều này không chỉ để bảo vệ ứng
sinh, mà c̣n cống hiến cho anh sự tín nhiệm và tin tưởng rằng điều ǵ anh đă bộc
lộ ở ṭa trong vẫn được giữ bí mật.
Trong quá tŕnh phân
định ơn gọi, ứng sinh t́m khám phá ư muốn của Chúa cho anh, bằng cách phân tích
các khả năng và động lực của anh đối với những kỳ vọng và nhu cầu của Hội Thánh.
Do đó, ở toà
trong, vị linh hướng không chỉ thụ động lắng nghe, song phải sẵn ḷng và có khả
năng thách đố và đối đầu, khi sự việc đ̣i hỏi, để giúp ứng sinh trải qua một
tiến tŕnh phân định ơn gọi đích thực.
Vị Bề Trên có trách
nhiệm hàng đầu ở toà ngoài trong việc đánh giá tính thích hợp của ứng sinh với
chức vụ và đời sống linh mục hay không, nên không thể đóng một vai tṛ nào ở toà
trong. Sự hiểu biết có được ở toà ngoài về ứng sinh đều do nhận xét của nhiều
nhà đào tạo. Sự hiểu biết này thường có một mức độ chắc chắn khác và ít toàn
diện hơn sự chắc chắn có được ở ṭa trong.
Tất cả các nhận xét
đều nhằm trả lời câu hỏi “Người này có được Chúa kêu gọi không?” Trong khi t́m
trả lời câu hỏi này, các nhà đào tạo sẽ thừa nhận với tất cả khiêm tốn rằng Chúa
kêu gọi người yếu đuối để làm xấu hổ kẻ hùng mạnh! (x. 1 Cr 1, 26-29), v́ không
phải Giáo Hội kêu gọi ứng sinh, nhưng là chính Thiên Chúa. Vai tṛ của Bề Trên
và các nhà đào tạo là đánh giá lời kêu gọi ấy và rồi chấp nhận ứng sinh với vui
mừng và tạ ơn Thiên Chúa.
C.V.2b Thực hành chuyên biệt
Khi đánh giá ứng
sinh, vị linh hướng không bao giờ được lên tiếng để kết án, mà cũng chẳng được
lên tiếng để bảo vệ: ngài phải im lặng khi hội đồng chủng viện nói về người thụ
hướng của ḿnh. Sự bảo mật này nhằm bảo đảm cho tự do nội tâm của ứng sinh.
Nhưng nhờ nghe trong hội đồng những quan điểm khác quan điểm của ḿnh về người
thụ hướng, vị linh hướng có được thông tin về những yếu tố khác, nhờ đó ngài sẽ
phân định tốt hơn và chọn lựa sự giúp đỡ thích hợp hơn cho người thụ hướng của
ḿnh.
Toà ngoài h́nh thành
phán quyết của ḿnh từ sự hiểu biết trong tiến tŕnh đào tạo mỗi ngày, v́ cuộc
sống hàng ngày mạc khải trọn vẹn con người. V́ thế, cần có sự đồng hành sâu sát
qua việc “đích thân kiểm soát bằng sự hiện diện yêu thương phục vụ.” Như thế,
toà trong và toà ngoài không đối nghịch, nhưng bổ túc nhau để phục vụ một công
việc chung của Hội Thánh.
C.V.2c Giải quyết những khác biệt
Bề Trên và ban đào
tạo có thể đă đi tới quyết định rằng một ứng sinh rất xứng đáng và có khả năng
theo đuổi việc chuẩn bị chịu chức linh mục, trong khi anh lại nhận thấy rằng cảm
thức được gọi của anh là sai lầm và xin rút lui. Trường hợp này, Bề Trên và ban
đào tạo chỉ có thể chấp nhận sự chân thành trong nhận định mới của ứng sinh đó,
tin tưởng rằng Chúa sẽ sử dụng anh cách tốt nhất cho lợi ích của Giáo Hội.
Trường hợp khác biệt
thứ hai không dễ giải quyết: Bề Trên và ban đào tạo đều đồng ư không nên cho một
ứng sinh tiếp tục, trong khi đó anh ta lại xác tín rằng anh được Chúa kêu gọi
làm linh mục. Quyết định ṭa ngoài phải được giải thích thỏa đáng cho ứng sinh
ấy, để anh hiểu và chấp nhận quyết định đă được đưa ra. Trường hợp ṭa ngoài
thấy anh có một điều ǵ đó không thích hợp nhưng có thể sửa chữa được, th́ nên
yêu cầu anh ra sống ở ngoài chủng viện cho tới khi vấn đề đă được sửa chữa. Con
đường ơn gọi không hoàn toàn đóng lại đối với anh.
Khi toà ngoài quyết
định không chấp nhận anh làm ứng sinh nữa th́ phải giải thích cho anh cách tế
nhị và t́nh cảm. Ở Việt Nam, nhất là tại Miền Bắc, quyết định rời khỏi đời tu
chịu ảnh hưởng sâu xa bởi áp lực của gia đ́nh và của xă hội, cũng như bởi cảm
thức xấu hổ, ân nghĩa và t́nh bạn bè. Chủng viện nên quan tâm hướng dẫn và giúp
đỡ anh vượt qua các khó khăn ấy.
Mọi người đều biết
rằng quyết định dứt khóat của toà trong ăn khớp với lương tâm của ứng sinh. Điều
này cần đào tạo một lương tâm trưởng thành, ngay chính và vị linh hướng phải dự
phần quan trọng trong việc đào tạo lương tâm đó. Việc linh hướng và phận định
thiêng liêng rất tế nhị và khó khăn đối với con người trong việc đồng hành ứng
sinh trên đường tới Chúa. Hoạt động này bao gồm mọi chiều kích của đời sống,
nhân bản và thiêng liêng, tự nhiên và siêu nhiên.
Sau khi đă chú ư lắng
nghe với biện phân và khiêm tốn, vị linh hướng có thể khám phá được người thụ
hướng được Chúa gọi hay không. Nếu có, ngài xác định cho anh tiếp tục đi tới với
niềm vui tươi, hy vọng và hạnh phúc, mặc dù anh sẽ gặp thấy những khó khăn và
đen tối trong cuộc sống lữ hành của anh. Nếu không, ngài nên gợi ư cho anh đổi
hướng sống trong b́nh an, đồng thời bước theo con đường Chúa mời gọi anh đi với
can đảm và hạnh phúc.
C.V.3. Thinh Lặng trong tiến
tŕnh Ṭa Trong
Thinh lặng biểu lộ rơ nét nơi việc tuân giữ ḷng tín cẩn và bí mật của ấn ṭa
giải tội và việc linh hướng (ṭa trong). Càng có thói quen thinh lặng, biết cẩn
trọng đắn đo điều ḿnh nói, ta càng có khả năng giữ điều bí mật và bảo đảm ḷng
tín nhiệm của tha nhân.
Thinh lặng là một thách đố cho
bất cứ ai muốn sống thật đầy ư thức, chăm chú, cảnh giác và hoàn toàn hướng về
Thiên Chúa. Người có tinh thần siêu nhiên biết tôn trọng lương tâm của người
khác, không xía vô cuộc đời người khác và vội vàng phê phán kết án; nhưng tuyệt
đối tin tưởng giao phó cho Thiên Chúa, xác tín rằng lời đánh giá cuối cùng thuộc
về Ngài:
“Thế mà chúng tôi nghe nói:
trong anh em có một số người sống vô kỷ luật, chẳng làm việc ǵ, mà việc ǵ cũng
xen vào. Nhân danh Chúa Giê-su Ki-tô, chúng tôi truyền dạy và khuyên nhủ những
người ấy hăy ở yên mà làm việc, để có của nuôi thân. Phần anh em, hăy làm việc
thiện, đừng sờn ḷng nản chí!” (2 Tx 3,11-13).
C.VI. SỰ CẦN THIẾT VÀ GIÁ TRỊ CỦA Thinh LẶng
C.VI.1.
Điều Kiện Thiết Yếu Cho Đời Sống Nội Tâm
C.VI.1a Ư
Nghĩa và
Giá Trị của Thinh Lặng
Sự thing lặng không thể bị chia
tách bên ngoài và bên trong được. Thinh lặng bên ngoài vừa là hy sinh hăm ḿnh
vừa là phương tiện bảo đảm sự yên tĩnh của tâm hồn, để hồi tâm và sống thân mật
với Thiên Chúa.
Thinh lặng là bầu khí thiêng
liêng và sống c̣n để cảm nhận sự hiện diện của Thiên Chúa. Nhờ thinh lặng, con
người biết chỗ của ḿnh trước mặt Chúa, đồng thời tỏ lộ ḷng khiêm tốn và khả
năng lắng nghe khi Chúa nói.
Nhờ thinh lặng của thân xác,
trí óc và con tim, con người mới có thể đạt tới sự hiệp nhất và hiệp thông với
Chúa: “Hăy lặng thinh và hăy biết rằng Ta là Thiên Chúa” (Tv 46, 10). Thinh lặng
này không phải là một không gian trống rỗng, bởi v́ Thiên Chúa luôn có đó để lấp
đầy. Nhiệm vụ quan trọng nhất là phải ư thức rằng ta luôn ở trong sự hiện diện
của Chúa và không thể tách khỏi Ngài.
C.VI.1b
Thách Đố của Thinh Lặng
Thinh lặng là một trong những
thách đố lớn: Người này t́m kiếm thinh lặng, kẻ khác lại làm mọi cách để tránh
nó. Nhưng thinh lặng hỗ trợ lời nói, chuẩn bị lời nói và làm cho lời nói nên
phong phú. Ngôi Lời, ch́m sâu trong mầu nhiệm lặng thinh của Thiên Chúa để bộc
lộ và thông truyền Thiên Chúa cho con người.
Thinh lặng, nội tâm lẫn bên ngoài, là bầu khí đúng đắn của việc giáo dục toàn
diện: Chủng viện phải là nơi của thinh lặng, là nhà cầu nguyện, nơi đó Chúa tiếp
tục qui tụ các môn đệ riêng ra, để họ sống cái kinh nghiệm mạnh mẽ của sự gặp gỡ
và chiêm niệm.”
C.VI.2.
Những hỗ trợ của Thinh Lặng
C.VI.2a
Thinh Lặng trong Phụng Vụ
Thinh lặng luôn là một phần của
việc thờ phượng. Phụng vụ cung cấp nhiều cơ hội để thinh lặng: Ngưng nghỉ một
khoảng thời gian thích hợp sau mỗi bài đọc; nghỉ chốc lát để suy niệm sau bài
giảng, hay sau lời kêu mời “chúng ta dâng lời cầu nguyện.” Sau hiệp lễ, nên dành
một thời gian thinh lặng để thờ lạy và tạ ơn Chúa.
Phụng vụ các Giờ Kinh cũng cho
nhiều dịp để thinh lặng: Sau vinh tụng ca và trước điệp ca của thánh vịnh kế
tiếp, một chút ngưng nghỉ để cộng đoàn suy niệm về thánh vị đó; sau bài đọc Lời
Chúa và trước xướng đáp, một lúc thinh lặng hợp lư để suy niệm.
C.VI.2b
Thinh Lặng Trong Nhà
Mọi người đều phải cẩn trọng để
khỏi làm xáo trộn sự thinh lặng của người khác. Radio, máy nghe băng, Tivi, âm
lượng trao đổi… phải được kiềm chế và điều chỉnh để bảo vệ bầu khí chiêm niệm,
vốn phù hợp cho đời sống cầu nguyện và học tập. Không đ̣i phải thinh lặng tuyệt
đối, nhưng cuộc trao đổi phải được giữ ở mức tối thiểu.
C.VI.2c
Thinh Lặng Cấm Pḥng hay Tĩnh Tâm
Các cuộc tĩnh tâm bồi dưỡng
thiêng liêng là những cơ hội khả dĩ để trải nghiệm sự thinh lặng, t́m lại nguồn
năng lượng cho đời sống cầu nguyện và đức tin, cũng c̣n là dịp để lấy lại sức
lực cho thể xác, trí khôn và linh hồn. Người tĩnh tâm được khuyến khích loại bỏ
những mối bận tâm làm mất sự thinh lặng bề ngoài như báo chí, truyền thanh,
truyền h́nh… Càng đi vào thinh lặng và thăng tiến đời sống chiêm niệm, chúng ta
càng có thể lắng nghe tiếng Chúa với những âm thanh khác nhau và mới lạ.
C.VII. NỘi Dung & TiẾn Tŕnh GẶp Linh HưỚng
1. Lắng Nghe
Khi người thụ hướng bộc lộ câu
chuyện đời chị cho vị linh hướng, chị cảm nhận tương quan của chị với Thiên Chúa
nơi Đức Kitô được mở ra và phát triển. Vị linh hướng lắng nghe câu chuyện của
chị, t́m giúp chị hiểu và làm sáng tỏ điều Thiên Chúa đang chất vấn chị.
2. Chú Tâm vào H́nh Ảnh Thiên Chúa
Mô h́nh và định hướng đời sống thiêng liêng của một người được tác động sâu xa
bởi h́nh ảnh mà người ấy có về Thiên Chúa. Kinh Thánh mạc khải cho chúng ta một
Thiên Chúa là Cha của Đức Giêsu và của cộng đoàn Giáo Hội. Vị linh hướng giúp
ứng sinh trong nhiệm vụ căn bản này.
3. Giúp Làm Sáng Tỏ Kinh Nghiệm
Vị linh hướng giúp ứng sinh suy nghĩ và khám phá chiều kích tôn giáo trong những
kinh nghiệm đa dạng của chị, nhận biết sự hiện diện và tiếng nói của Thiên Chúa
trong những kinh nghiệm ấy.
4. Nhận Ra và Làm Sáng Tỏ Hệ Thống Giá Trị
Người thụ hướng ra sức làm việc để lớn lên trong tương quan với Chúa và với tha
nhân. Những chủ đề quan trọng trong cuộc đối thoại là viễn ảnh và các giá trị
Tin Mừng mà người thụ hướng muốn thủ đắc: vâng phục, thanh khiết của t́nh yêu
độc thân, quan tâm tới công bằng xă hội như một chiều kích của việc rao giảng
Tin Mừng.
5. Khẳng Định Và Thách Đố
Vị linh hướng khẳng định và giúp người thụ hướng dùng tài năng Chúa ban để phục
vụ Chúa và tha nhân. Ngài cũng giúp chị chấp nhận những thách đố của ḷng tốt
của Chúa và làm cho người ta nhận biết ḷng tốt ấy.
6. Giáo Huấn Và Hội Nhập
Vị linh hướng chỉ dạy và giúp người thụ hướng hội nhập các yếu tố khác nhau
trong cuộc đời chị quanh một trung tâm là chính Thiên Chúa.
7. Trách Nhiệm
Vị linh hướng giúp người thụ
hướng tránh những sai lầm trong việc tự đánh giá và giữ một thái độ tập trung
vào Chúa ở giữa bao nhiêu công việc hàng ngày và những mối tương quan đa dạng.
8. Trợ Giúp Trong Lúc Khó Khăn
Mối đe doạ lúc nào cũng có mặt
trong hành tŕnh thiêng liêng của chúng ta. Việc linh hướng có thể cung cấp
phương tiện để thấy chính ḿnh qua các giai đoạn chiến đấu trong suốt con đường.
9. Cầu Nguyện
Cầu nguyện là suối nguồn và
diễn tả mối tương quan của chúng ta với Chúa.
C.viii.
TIẾN TR̀NH VÀ NỘI DUNG ĐÁNH GIÁ CUỐI CÙNG VÀ GỌI CHỊU CHỨC
“Họ phải được thử thách
trước đă, rồi mới được thi hành chức vụ…” ( 1 Tm 3: 10)
Việc đào tạo linh mục phải theo
tiến tŕnh bốn chiều kích căn bản: nhân bản, thiêng liêng, tri thức và mục vụ.
Việc đào tạo này nhằm giúp ứng sinh trưởng thành và cung cấp một đánh giá xác
thực và hữu ích cho việc Đấng Bản Quyền gọi ứng sinh lên chịu chức linh mục.
Mục đích của việc Hội đồng
Chủng viện nhận xét hàng năm là để giúp ứng sinh tự suy nghĩ và đánh giá, nhờ đó,
trong cái nh́n xác thực về đời ḿnh, anh có thể thấy những ǵ cần phải thay đổi
và lên kế hoạch cụ thể để việc thay đổi ấy được hiệu quả.
Đức Gioan Phaolô II đề cao:
Tính thích hợp của ứng sinh, trên hết, nhắm đến tinh thần cầu nguyện, sự thấm
nhuần sâu xa giáo lư đức tin, khả năng sống t́nh huynh đệ và khả năng sống đời
độc thân linh mục. V́ thế, bên cạnh các nhận xét của ban đào tạo, người ta cũng
mong muốn có sự tham khảo các bạn đồng môn, và những người ứng sinh thi hành sứ
vụ (tham khảo thôi, chứ không có giá trị quyết định).
Mọi người phải tôn trọng
chặt chẽ phận vụ của toà trong và toà ngoài. Các giá trị và kỹ năng đánh giá dựa
trên giáo huấn của Hội Thánh và chương tŕnh đào tạo của Chủng viện.
Hội đồng Chủng viện và tất cả
các nhà đào tạo cố gắng hiểu biết đầy đủ về từng ứng sinh để giáo dục anh và
giúp anh phát huy nỗ lực tự đào tạo của anh. Các ngài góp phần vào công việc
chung của Giáo Hội bằng việc đánh giá cuối cùng và giới thiệu ứng sinh lên chịu
chức linh mục.
Việc đánh giá này nhấn mạnh
những lănh vực chủ yếu:
-
Trưởng thành toàn diện:
thể lư cũng như tâm lư, t́nh cảm;
-
Trưởng thành thiêng
liêng được diễn tả bởi cam kết dấn thân cầu nguyện và sống mật thiết với Chúa
Kitô, siêng năng lănh nhận các bí tích;
-
Hiểu biết đầy đủ về chức
linh mục và chấp nhận giáo huấn của Hội Thánh về đức tin và luân lư;
-
Sẵn sàng chấp nhận cuộc
sống bất định của kẻ được sai đi (tới nơi không muốn, ở với người không ưa và
làm việc không thích);
-
Sẵn sàng chấp nhận trách
nhiệm tiếp tục được đào tạo và tự đào tạo;
-
v.v...
Khoa tâm lư giáo dục
đương thời cung cấp nhiều kỹ thuật để đánh giá cách thích hợp hơn sự phát triển
thực sự của ứng sinh.
V́ bí mật của việc
linh hướng, vị linh hướng bị ràng buộc bởi toà trong và do đó, không được bàn
căi khi đánh giá và nhận xét về tính thích hợp của ứng sinh trong việc chịu
chức. C̣n các vị khác đă tương tác làm việc với ứng sinh cách công khai ở toà
ngoài buộc tham dự tiến tŕnh đánh giá này: không những cho biết thái độ
ứng xử bên ngoài của ứng sinh (những ǵ anh nói và làm, cũng như đạt được những
kiến thức đ̣i hỏi), mà c̣n đánh giá tính thích hợp của việc anh chịu chức linh
mục, v́ đó là trách nhiệm đă được trao phó cho các ngài.
Là những thừa tác
viên hợp luật của Hội Thánh được trao trách nhiệm phán đoán tính thích hợp của
các ứng sinh, Hội đồng chủng viện bỏ phiếu trong buổi đánh giá cuối cùng. Phiếu
bầu có nhiều loại: khẳng định, khẳng định có ghi chú, tiêu cực và loại.
Khẳng định có
ghi chú nghĩa là c̣n có khiếm khuyết cần phải sửa chữa và trau dồi thêm, nghĩa
là bị dừng lại chưa cho chịu chức. Nếu là phiếu loại th́ nên giải thích đầy đủ.
Nên nhắm giáo dục hơn là loại bỏ: Mỗi vị thánh đều có một quá khứ, và mỗi tội
nhân đều có một tương lai. Giáo dục nhắm biến đổi người xấu thành người tốt và
người tốt thành người tốt hơn, phó thác cho quyền năng của ơn Chúa. Đối với con
người th́ không thể, nhưng với Thiên Chúa th́ mọi sự đều có thể.
Các ứng sinh cũng
phải được biết về những lầm lỗi của ḿnh, đặc biệt là những lầm lỗi quan trọng;
được phép giải thích và biện hộ lư do của ḿnh (x. Cv 25,16); cũng cần có thời
gian và cơ hội để thực hiện sự hoán cải cần thiết. Đây là mệnh lệnh của Tin Mừng
đối với việc tha thứ và biến đổi. Điều mà tổ tiên người Việt Nam quan tâm là
“làm người, không ai thoát khỏi lầm lỗi; có lầm lỗi th́ phải sửa ḿnh; và khi đă
sửa rồi th́ không c̣n lầm lỗi nữa.”
Tin Mừng chứng tỏ
nhiều tội nhân trở thành thánh nhân nhờ sự trợ giúp quyền năng của ân sủng Thiên
Chúa (Ga 8,7). Đây là t́nh yêu thương xót của Chúa (Mt 9,12-13). Trên thực tế,
những người đă hoán cải mà có ḷng khiêm tốn c̣n tốt hơn những ai không hề có
lỗi lầm nào đáng kể, mà mắc phải chứng kiêu hănh và tự phụ.
Mọi nỗ lực và sự quan
tâm đặc biệt đối với việc đào tạo là nhằm cung cấp cho các ứng sinh những phương
tiện để biện phân ơn gọi của ḿnh, để họ thu thập được kiến thức, thái độ và
những kỹ năng cần thiết cho một linh mục tốt, trong niềm tin tưởng rằng Thiên
Chúa sẽ hoàn tất công việc quan trọng này của Hội Thánh bằng những ơn huệ của
Chúa Thánh Thần.
Nhưng trong sự cảm
thông với Giáo Hội, việc đánh giá không dừng lại ở đó, mà c̣n quan tâm đến các
khuynh hướng đặc biệt, những khả năng và đức tính của ứng sinh nữa, ngơ hầu giúp
Bề Trên “dùng” và bổ nhiệm anh phù hợp với các ân huệ Chúa ban cho anh và các
nhu cầu của Giáo Hội địa phương. Ban đào tạo cũng có thể gợi ư và đề nghị cho
phép một số ứng sinh đẩy xa việc học hơn nữa hầu có thể cống hiến cho Giáo Hội
những nhà đào tạo tương lai bén nhạy với các nhu cầu thiêng liêng hiện nay, bởi
v́ không phải bất cứ ai cũng có thể trở thành nhà đào tạo, nhất là linh hướng.
Đây là sự chuẩn bị nhân sự thích hợp. V́ sự sống c̣n và phát triển Giáo Hội, Bề
Trên nên chọn những linh mục ưu tú để được huấn luyện thành các nhà đào tạo
tương lai. Ai được chọn th́ phải sẵn sàng “trả lại” cả vốn lẫn lăi nén bạc Chúa
đă trao cho.
C.IX. Ứng Sinh Không Thích HỢp
(Hát Chúa cất tiếng
gọi con)
Trong việc biện phân
ơn gọi của một ứng sinh, phải phân biệt hai yếu tố ḷng ước muốn và tính thích
hợp. Ḷng ước muốn thuộc b́nh diện t́nh cảm, trong khi sự thích hợp đ̣i hỏi phẩm
chất và khả năng. Một thanh niên có thể rất muốn trở thành linh mục, nhưng anh
lại không đủ phẩm chất và khả năng khiến anh có thể làm một linh mục xứng đáng.
V́ thế, toà ngoài phải phán đoán tính thích hợp này, ngơ hầu đón nhận hay từ
chối một ứng sinh.
C̣n ở toà trong, ḷng
ước muốn phải được vị linh hướng xét xem có phù hợp với ước muốn của Chúa Thánh
Thần không. Việc này giao phó ứng sinh cho hoạt động của Chúa Thánh Thần, và sự
tiếp nhận lắng nghe những ǵ được nói với anh ở toà ngoài. Toà ngoài cũng phải
t́m biết những dấu chỉ của hoạt động của Chúa Thánh Thần trong đời sống của ứng
sinh.
Ứng sinh nào bị phát
hiện là không thích hợp, v́ khiếm khuyết thể lư, quân b́nh tâm lư hay luân lư,
th́ nên nhanh chóng đưa anh ra khỏi con đường theo đuổi ơn gọi. Cả hai phía, các
nhà đào tạo và ứng sinh, không được phép nuôi dưỡng những hy vọng hảo huyền và
những ảo tưởng nguy hiểm. Cũng không ai được tự phụ rằng ơn thánh sẽ thay thế
cho những khiếm khuyết tự nhiên.
Tuy nhiên, người ta
sẽ cho ứng sinh không thích hợp ra đi một cách tôn trọng, bằng cách nhấn mạnh về
sự không thích hợp với đời sống và sứ vụ linh mục hơn là những khiếm khuyết hay
lỗi lầm, làm tổn thương nhân phẩm và danh dự của họ. Các cựu ứng sinh nầy cũng
là kho tàng của Giáo Hội, họ sẽ hỗ trợ, cộng tác vào công cuộc đào tạo các ứng
sinh cách này hay cách khác.
Không phải tất cả
những ai vào Chủng viện đều nhất thiết trở thành linh mục: Chúa gọi th́ nhiều,
nhưng chọn th́ ít. Người nào không thích hợp với đời sống linh mục sẽ được gợi ư
cho một cuộc sống mới, trong niềm tin tưởng rằng Chúa sẽ dùng anh cách tốt đẹp
cho lợi ích của Giáo Hội, đền đáp những ǵ anh đă lănh nhận từ Chúa và Giáo Hội
của Ngài, qua những năm tháng được đào tạo trong Chủng viện. Hăy tạo cơ hội cho
họ góp phần cách tích cực và hữu hiệu vào đời sống và sứ mệnh của Giáo Hội, về
nhân lực cũng như vật lực.
Vậy vấn đề quan trọng
là giúp ứng sinh
CHỌN LỰA LÀM SAO CHO
ĐÚNG con
đường ơn gọi của ḿnh? Có thể nói một cách chính xác là cả ứng sinh lẫn
các nhà đào tạo đều phải xem xét từng ứng sinh có thực sự thích và hợp với chức
vụ và đời sống linh mục không.
Trong bất cứ chọn lựa
nào cho suốt cuộc đời, chúng ta phải làm nổi bật hai yếu tố quan trọng THÍCH và
HỢP. Thích là ư muốn chủ quan nói lên hứng thú và nguyện vọng, ước mơ. Hợp là
yêu cầu khách quan đ̣i hỏi năng lực và phẩm chất, để có thể theo đuổi suốt cuộc
đời lựa chọn hôm nay. Nhưng Thích và Hợp có những mức độ khác nhau liên quan đến
chọn lựa của ta, được mô tả như sau:
Th
Thích/Hợp
|
Không thích
|
Thích
ít
|
Thích vừa
|
Rất thích
|
Không
hợp
|
1
|
2
|
3
|
4
|
Tg đối
hợp
|
5
|
6
|
7
|
8
|
Rất hợp
|
9
|
10
|
11
|
12
|
Các ô từ 1-12 biểu thị các mức
độ thích và hợp, đồng thời xác định sự lựa chọn:
- Nếu vô t́nh hay buộc
ḷng chọn các ô 1 2 3 4 5 6 và 9 th́ đó là quyết định sai lầm có ảnh hưởng xấu
đến tương lai cuộc đời.
- Nếu phải chấp nhận số
7 và 10 th́ chọn lựa đó có thể được với nỗ lực bản thân rất lớn.
- Chọn số 8 và 11 là
chọn lựa tương đối ổn định, có khả năng hoàn thiện với cố gắng liên lĩ. Đa số ở
vào trường hợp này.
- Chọn số 12 là chọn
lựa lư tưởng.
Tóm lại:
- Nếu chỉ thích mà
không hợp là không tốt, đừng chọn.
- Nếu chỉ hợp mà
không thích th́ không hay, đừng chọn.
- Chỉ chọn cái ta
thích và hợp với ta. Đó là một quyết định không lầm lẫn.
Vấn đề quan trọng là xác định
thế nào là thích và hợp?
Thích thuộc lănh vực t́nh cảm.
Có những sở thích nhất thời, không ổn định, theo phong trào: đừng nghĩ đó là
hứng thú có thật hay một khát vọng đă được tôi luyện qua nhiều năm tháng, có khả
năng kích thích và thôi thúc thực hiện bền bĩ.
Hợp thuộc lănh vực phẩm chất và
năng lực. Cần phải biết chính ḿnh, xem phẩm chất và năng lực của ḿnh có phù
hợp với con đường ḿnh muốn dấn thân vào không? Tự ḿnh có thể ngộ nhận, nên ta
cần có sự giúp đỡ chuyên môn của khải đạo, linh hướng, cố vấn tâm lư, trắc
nghiệm hướng nghiệp…
C. X. NHỮNG NGUYÊN TẮC KHI CẦN
THAY ĐỔI VỊ LINH HƯỚNG
Có thể xảy ra trường
hợp thiếu hoặc mất tín nhiệm, th́ “việc thay đổi linh hướng là luôn có thể và
đôi khi đáng ao ước nữa.” Ứng sinh có thể đề nghị trước. Đôi khi, vị linh hướng
sẽ yêu cầu ứng sinh đi linh hướng với người khác, bởi v́ ngài nghĩ rằng ngài sẽ
không thể tiếp tục trách nhiệm ấy nữa.”
V́ lợi ích của người
thụ hướng, những nguyên tắc sau đây giúp anh phân định xem có nên tiếp tục hay
không gặp một vị linh hướng cá biệt. Anh thẳng thắn xem xét các động lực khiến
anh muốn thay đổi vị linh hướng của anh:
-
Có phải do
mâu thuẫn cá nhân?
-
Có phải anh
muốn thoát khỏi bị thách đố?
-
Có phải anh
đang phóng chiếu những tính tiêu cực như hách dịch, vô cảm, thiếu thông cảm và
hiểu biết lên vị linh hướng của anh?
-
Có những
mong đợi không thực tiễn chăng?
-
Có phải v́
vị linh hướng từ chối cung cấp thêm ảo tưởng cho anh?
-
Anh cần
tranh luận với vị linh hướng về những khó khăn mà anh đang trải nghiệm trong
giao tế?
-
Anh có tiếp
tục nhận được ích lợi thiêng liêng từ việc hướng dẫn này không?
-
Có vị linh
hướng khác mà anh bị lôi cuốn chăng?
-
Đâu là
những lư do khác nữa?
Người thụ hướng
cần phải có đủ thời gian để suy nghĩ về toàn bộ vấn đề trước khi đưa ra một
quyết định. Anh không nên vội vả, nhưng nên bàn hỏi vấn đề này với một người
trung lập.
-
Có phải đó
là sự chấm dứt tự nhiên, v́ sự hướng dẫn t́m kiếm đă được thực hiện?
-
Liệu đây có
phải là thời gian để thay đổi v́ hoàn cảnh của anh hay của vị linh hướng, hoặc
của cả hai? Do thay đổi sự bổ nhiệm, chuyển sang giai đoạn huấn luyện khác? Hay
c̣n những việc khác xem ra gặp phải trên đường tương quan linh hướng như: ḷng
tín nhiệm, hấp dẫn giới tính, đổ vỡ giá trị?
C.XI. VỊ LINH HƯỚNG TỐT
C.XI.1 Các Đức Tính của vị Linh Hướng Tốt
Theo Mẹ Têrêsa Avila, một vị linh hướng tốt phải được đào tạo kỹ lưỡng và thành
thạo, với nền đào tạo vững chắc về thần học và kinh nghiệm cầu nguyện cao (cầu
nguyện yên tĩnh, cầu nguyện nhiệm hiệp), bởi v́ mẹ đă phải đau khổ rất nhiều
trong tay những người học hành nửa vời.
Vị linh hướng phải
có kiến thức vững chắc về thần học, về linh đạo và về Kinh Thánh, một ít hiểu
biết căn bản về kỹ năng tư vấn, quen thuộc các vấn đề tâm lư và tâm thần. Vị
linh hướng nên có cái nh́n quân b́nh trong kinh nghiệm cầu nguyện và ư thức rằng
chán nản trong cầu nguyện là có thể có, đồng thời nên biết phân biệt các an ủi
và chán nản từ các kinh nghiệm đích thực về Chúa.
Vị linh hướng cũng
nên quan tâm thực sự về cảm nhận b́nh an thoải mái của người thụ hướng. Thánh
Gioan Thánh Giá nhấn mạnh rằng vị linh hướng phải giúp người thụ hướng lắng nghe
Chúa Thánh Thần, Đấng là người hướng dẫn chính đang làm việc nơi người thụ
hướng. Chính Thần Khí Chúa Giêsu là trung tâm của đời sống thiêng liêng và của
việc linh hướng.
Vị linh hướng
thành thạo giúp người thụ hướng cởi mở hoàn toàn cho hoạt động bên trong của
Chúa, sẵn sàng thay đổi ư kiến và cuộc sống. Vị linh hướng phải ngoan ngoăn nghe
theo những ǵ Chúa Thánh Thần đang làm nơi người thụ hướng, hầu có thể khẳng
định và xác nhận việc Chúa Thánh Thần làm đó.
Vị linh hướng dạy
cho người thụ hướng làm sao áp dụng Lời Chúa vào hoàn cảnh cụ thể và đặc biệt
của cuộc sống mỗi ngày; đồng thời biết quan tâm đến những ǵ Thiên Chúa nghĩ hơn
là những ǵ con người nghĩ. Thiên Chúa có thể hành động trực tiếp, nhưng Ngài
thích dạy con người qua con người hơn, chẳng hạn như trường hợp Saolô ngă ngựa
(x. Cv 9, 1-19).
Thánh Gioan Thánh
giá đồng quan điểm với thánh Têrêsa Avila rằng vị linh hướng cần được đào tạo,
nhạy cảm, tín cẩn, có kinh nghiệm trong đời sống cầu nguyện và kiến thức chắc
chắn về tâm lư thực hành.
Tóm lại, những đức
tính của một vị linh hướng tốt là:
-
Một con
người có trí phán đoán lành mạnh và lương tri tốt,
-
đủ tự tin
để khơi dậy ḷng tín nhiệm nơi người khác.
-
kinh nghiệm
Thần Khí và mở rộng kinh nghiệm ấy qua việc quan sát kinh nghiệm của người thụ
hướng.
-
khiêm tốn
tập việc dưới sự hướng dẫn của người có kỹ năng.
-
có sự
trưởng thành cá nhân trong cầu nguyện và xác tín tầm quan trọng của cầu nguyện.
-
luôn luôn
cập nhận hoá việc học với tinh thần cầu tiến.
-
sẵn sàng
chất vấn và cũng sẵn sàng để được chất vấn.
-
có khả năng
khích lệ và thúc đẩy người thụ hướng.
-
biết chăm
chú lắng nghe với ḷng thiện cảm, khiêm tốn và yêu thương.
-
có khả năng
sống thành thật với chính ḿnh và với người khác, với khả năng gây tín nhiệm nơi
người thụ hướng.
C.XI.2. Những
ǵ vị Linh Hướng Tốt phải tránh
·
Vị linh
hướng tốt không áp đặt giá trị lên người thụ hướng, nhưng phải rơ ràng với những
giá trị quan trọng. Ngài nhắc lại những giá trị ấy, nhưng để người thụ hướng tự
do, ngơ hầu anh có thể chọn lựa một giá trị cho ḿnh cách tự do.
·
Vị linh
hướng tốt không gài bẫy người thụ hướng, nhưng rất thẳng thắn với anh. Vị linh
hướng tốt không cố trở thành người giải quyết vấn đề.
·
Vị linh
hướng tốt không bắt người thụ hướng phải chịu thẩm vấn. Vị linh hướng tốt không
cố chứng minh điều ǵ đó với người thụ hướng mà ngài biết rằng anh không sẵn
sàng chấp nhận vào lúc đó.
·
Vị linh
hướng tốt không sợ thinh lặng, bởi v́ thoải mái thinh lặng chứng tỏ rằng ḿnh
đang cảm thấy dễ chịu.
·
Vị linh
hướng tốt không nhắm đến mục đích cứng nhắc: “Tôi muốn hướng dẫn anh và đưa anh
phải đi lối này.”
·
Vị linh
hướng tốt không quá bộc lộ t́nh cảm hoặc lạnh lùng như người vô cảm.
·
Vị linh
hướng tốt không vội vàng chỉnh sửa tất cả những quan niệm sai lầm của người thụ
hướng ngay lập tức. Vị linh hướng tốt không lên án người thụ hướng.
·
Vị linh
hướng tốt không lợi dụng người khác để thỏa măn nhu cầu của riêng ḿnh. Vị linh
hướng tốt không kỳ vọng quá nhiều việc ngay một lần.
·
Vị linh
hướng tốt không bảo đảm cho người thụ hướng cách quá nhanh chóng, v́ thái độ này
làm cho anh bị lệ thuộc.
·
Vị linh
hướng tốt không vội vă trả lời những vấn nạn của người thụ hướng. Vị linh hướng
tốt đôi khi nên gửi trả lại câu hỏi: “Đây là một câu hỏi hay.”
C.XI.3 Những ǵ
vị Linh Hướng Tốt phải làm
·
Vị linh
hướng tốt phải lắng nghe người thụ hướng, để cho anh cơ hội thấu hiểu kinh
nghiệm của chính anh.
·
Vị linh
hướng tốt cùng người thụ hướng lắng nghe lời mang tính hiện sinh, ngôn sứ và
thời sự của Chúa.
·
Vị linh
hướng tốt chuẩn bị đất cho một cam kết hoàn toàn tự do, hoặc tái cam kết với giá
trị và ư nghĩa của toàn bộ đời sống của người thụ hướng, hầu kiến tạo căn tính
cá biệt của một con người, nhờ sự trung thành có tính cách sáng tạo.
·
Vị linh
hướng tốt phải ư thức rằng một quyết định của một đời người phải được thực hiện
trong lúc tự do.
·
Vị linh
hướng tốt ư thức rằng lối sống và cách giải thích kinh nghiệm của một con người
phải được kiểm chứng bởi những kinh nghiệm lặp đi lặp lại được giải thích và
đánh giá cùng với nhau.