[BẢN THẢO]

 

LINH MỤC GIÁO PHẬN

SỐNG TU ĐỨC TOÀN DIỆN

TRONG BỐI CẢNH THỰC TẾ

CỦA GIÁO HỘI VÀ XĂ HỘI VIỆT NAM HÔM NAY

  

 

CHƯƠNG HAI 

 

ỨNG SINH LINH MỤC GIÁO PHẬN

CỦNG CỐ NHỮNG BƯỚC ĐẦU

PHÂN ĐỊNH VÀ SỐNG ƠN GỌI

 

 

A. ĐẶT VẤN ĐỀ

 

Biện phân ơn gọi thánh hiến là lắng nghe lời Chúa kêu gọi. Vậy trước hết, chúng ta thử khảo sát mấy từ ngữ quan trọng.

 

Ơn Gọi, một từ ngữ thường được sử dụng để gọi tên một lời mời gọi đến chức linh mục hay đời sống tu sĩ. Tuy nhiên, trong ư nghĩa rộng răi nhất của nó, ơn gọi đơn giản là “một lời mời gọi.” Từ ngữ này không chỉ để xác định chức linh mục hay tu sĩ mà thôi đâu. Các bậc sống khác, như hôn nhân chẳng hạn, cũng là một ơn gọi, giống như là ơn gọi linh mục hay ơn gọi tu sĩ.

 

Do đó, nếu ơn gọi là một lời mời gọi th́ chúng ta phải để thời giờ lắng nghe hầu biết được chúng ta phải trở thành cái ǵ và ở đâu. Tiến tŕnh lắng nghe này thật căn bản để kiện toàn điều ḷng chúng ta ước mong t́m được ư nghĩa đời ḿnh, trong kế hoạch quan pḥng của Thiên Chúa.

 

Là những con người, chúng ta được mời gọi bởi hoàn cảnh an bài; những giới hạn và khả năng tiềm ẩn của chính chúng ta, trong một thời khắc lịch sử của khả năng t́nh cảm, tri thức và tâm lư của chính chúng ta.

 

Nếu chúng ta đi theo giáo huấn của các viện phụ và viện mẫu sa mạc, cũng như của các giáo phụ và tiến sĩ Giáo Hội liên quan đến vấn đề này, chúng ta sẽ chấp nhận rằng một ơn gọi được t́m thấy trong sự sắp xếp an bài của các phương diện ư nghĩa của cuộc sống và bởi ân sủng mà chúng ta đón nhận để thực hiện điều tốt nhất của các t́nh huống đó.

 

Biện phân là tiến tŕnh lắng nghe và chọn lựa qua sự an bài trong các khía cạnh ư nghĩa của cuộc đời một con người, cũng như ân sủng để t́m kiếm và xác định hoàn cảnh và lời đáp trả đích thực đối với T́nh yêu của Chúa.

 

Đáng tiếc là chúng ta có khuynh hướng lạm dụng hay sử dụng không đúng từ ngữ “biện phân” này. Chúng ta gọi là biện phân bất cứ cái ǵ phải làm với một quyết định, ngay cả việc rất đơn giản nhất là chọn lựa giữa hai thứ đồ vật vật chất. Chúng ta cũng có khuynh hướng dùng danh từ biện phân khi tất cả những ǵ chúng ta muốn chỉ là một quyết định thận trọng về một việc ǵ đó cần đến lương tri. Do đó, không phải tất cả mọi tiến tŕnh phải lấy quyết định đều đặt dưới phạm trù biện phân.

 

Biện phân đ̣i hỏi khả năng suy tư thần học liên quan đến hoàn cảnh và đời sống của một người. Khi chúng ta lắng nghe và chọn lựa qua sự an bài của các phương diện quan trọng của cuộc sống và khi chúng ta đón nhận ân sủng để t́m biết qua cầu nguyện đâu là sự thật trong hoàn cảnh của chúng ta, hầu có thể xác định lời đáp trả đích thực nhất với t́nh yêu Chúa, th́ chúng ta đi đến sự hiểu biết rơ ràng về cuộc đời chúng ta, sự rơ ràng vượt quá con tim biện phân của chúng ta. Như thế có sự gặp gỡ giữa hai sự hiểu biết rơ ràng, của Chúa và của chúng ta, nhờ đó chúng ta bắt đầu nh́n thấy với con mắt đức tin những ǵ Chúa muốn trong chúng ta và cho chúng ta.

 

Trong khi biện phân lời mời gọi đến chức linh mục, tu sĩ hay một tác vụ tôn giáo, điều hết sức quan trọng phải ghi nhớ trong ḷng trí rằng ơn gọi đặc biệt này trước hết là một lời mời gọi dâng hiến cuộc đời phục vụ Chúa. Đó không phải là một lời mời gọi làm bất cứ cái ǵ hay trở nên cái ǵ.

 

Tiến tŕnh biện phân lời mời gọi của một người là một nỗ lực vừa nhân loại vừa thần linh để chọn một bậc sống diễn tả lời đáp trả tốt nhất của ḿnh với t́nh yêu và sự chăm sóc quan pḥng của Chúa. Như thế nó không bao giờ được đảm trách một ḿnh, v́ nó mời gọi một sự tương tác giữa người biện phân và Thiên Chúa. Vậy, việc biện phân luôn luôn nằm trong bối cảnh mối tương quan nhân vị của con người với Chúa.

 

Cầu Nguyện và Biện Phân

Cầu nguyện là tâm điểm mối tương quan của con người với Chúa làm cho con người tự nguyện sẵn sàng với sự hiện diện dẫn dắt của Chúa trong đời sống ḿnh, đồng thời làm cho con người có khả năng nhận biết Chúa qua tương quan đối thoại: “Xin cho con biết Chúa, xin cho con biết con” (thánh Augustinô).

 

Như vậy, biện phân không thể tách ĺa cầu nguyện, nếu không nó sẽ không thể là một biện phân đích thực. Biện phân không phải là một cái ǵ chỉ đơn giản đ̣i học hỏi các phương pháp và kỹ thuật, dù đó là những dụng cụ hữu ích trong chính tiến tŕnh biện phân.

 

Biện phân trước hết là một ân ban mà nguời ta t́m kiếm hằng ngày trong cầu nguyện. Chúng ta học nghe tiếng Chúa với con tim của ḿnh, học nhận biết âm thanh của nó, đôi khi cả học biết những ǵ Chúa muốn nói trước cả khi Ngài nói nó ra. Biện phân là một lời mời gọi được phát sinh từ mối tương quan thân mật và hiệp thông với Chúa. Nó là một ân ban cho ta có thể phân biệt được những hướng dẫn của Chúa Thánh Thần.

V́ thế, một người đi vào tiến tŕnh biện phân ít nhất phải có hạt giống đức tin trong ḿnh. Ta phải xác tín rằng lời cầu nguyện ban sức mạnh và đào sâu mối ràng buộc bằng hữu với Chúa. Ta cũng phải tin rằng lời cầu nguyện và đức tin mang lại mục đích và ư nghĩa cho cuộc đời được sống trong sự hiến dâng và cam kết phục vụ Chúa.

 

Nhờ hành tŕnh cầu nguyện, chúng ta nhận ra được rằng tiến tŕnh biện phân, dù lắm khi là một trăn trở, thực sự đơn giản nếu chúng ta để Chúa Thánh Thần hướng dẫn chúng ta. Tiến tŕnh này bao gồm bốn giai đoạn sau đây: Giữ quan hệ với chính ḿnh; giữ quan hệ với Chúa; chính tiến tŕnh lấy quyết định và khẳng định quyết định đă lấy.

 

Bây giờ chúng ta đến với câu hỏi vô cùng quan trọng. Dấu hiệu nào của ơn gọi linh mục và tu sĩ là nổi bật và thiết yếu nhất đáng sự quan tâm đặc biệt của những ai dấn thân vào việc tuyển chọn, giáo dục và đào tạo các ứng sinh? Câu trả lời là một quan tâm đúng đắn (Paul VI)

 

 

 

B. CÁC KỸ NĂNG THÔNG THƯỜNG

 

Text Box: Ảnh 4x6
 

B.I. LƯ LỊCH ỨNG SINH

 

 

B.I.1. Lư lịch bản thân

.......................................................................................

·      Thêm sức ngày: ………... tại: …………………………

·      Hiện ngụ tại giáo xứ: ...………………………………..

·      Tên cha sở: .....………………………………………....

·      Địa chỉ và điện thoại: ...………………………………..

  ........................................................................................

·      Địa chỉ và điện thoại cá nhân: …………………………

  ........................................................................................

·      Tên cha bảo trợ: .………………………………………

·      Địa chỉ và điện thoại: ...……………………………….

  ........................................................................................

B.I.2. Sức khỏe

B.I.3. Tŕnh độ văn hóa – Năng khiếu

........................................................................................

B.I.4. Gia đ́nh

........................................................................................

........................................................................................

B.I.5. T́m hiểu Ơn Gọi -  Đăng kư vào dự tu:

.........................................................................................

B.I.6. Sinh hoạt mục vụ trước khi vào Chủng viện

..........................................................................................

Hội  đoàn khác.................................................................                   

B.I.7. Giai đoạn ở Chủng viện

·        Địa chỉ và điện thoại ba bạn thân theo thứ tự thân thiết    (kể cả bạn là con gái/bạn gái):                      

              1.....………………………………………………..

                ...............................................................................

                    2..………………………………………………….

                      ...............................................................................

                    3..………………………………………………….

                      ...............................................................................

B.I.8. Những thao thức, vấn đề và ước vọng muốn chia sẻ:

            ..........................................................................................

            ..........................................................................................

            ..........................................................................................

                            Làm tại …....................ngày…………………  

                                                    (Kư rơ họ tên)

 

 

B.II. BA YẾu TỐ Giúp Phân ĐInh Ơn GỌi

 

    B.II.1. Ư Ngay Lành

Trước hết là “ư ngay lành” và ư ngay lành này phải qui chiếu vào lịch sử ơn kêu gọi của Chúa trong cuộc đời của mỗi người. Ư ngay lành này có thể được rơ nét dần dần qua cấu trúc:

-         Khởi đầu là lời kêu gọi của Chúa;

-         Lời đáp trả tiếng Chúa của ứng sinh;

-         Cam kết đi theo chính Đức Kitô toàn thể;

-         Sự biến đổi nhân cách của ứng sinh cho phù hợp với đời sống ơn gọi được thực hiện nhờ Chúa Thánh Thần;

-         Cuối cùng là dấn thân thi hành sứ vụ qua việc chịu chức.

 

Chúa Giêsu đă nói: “Không phải các con đă chọn Thầy, nhưng chính Thầy đă chọn các con, và sai các con ra đi để các con sinh hoa trái và hoa trái các con tồn tại, hầu tất cả những ǵ các con xin Cha nhân danh Thầy th́ Người ban cho các con. Điều Thầy truyền dạy các con là hăy yêu thương nhau” (Ga 15,16-17).

 

            Như thế, phải khẳng định rằng ḿnh theo chính Chúa Kitô chứ không phải ai khác. Được hiểu hay không được hiểu, được ủng hộ hay bị chống đối, vui hay buồn, sướng hay khổ, thành công hay thất bại, mặc! Cứ bám chặt vào Chúa, bạn sẽ nhận được một sức mạnh nâng đỡ lạ lùng, mà Thánh Phaolô xác quyết về sức mạnh kỳ diệu đó là “chính Chúa Kitô sống trong tôi” (Gal 2,20). 

(Hát Lạy Chúa nầy con đây)

 

B.II.2. Động Lực Thúc Đẩy Ư Hướng

    B.II.2a Xác định động lực

Đàng sau mọi quyết định và hành động đều có một hay nhiều động lực ẩn khuất tác động lâu dài. Ứng sinh cần một không gian và thời gian để xem xét, làm sáng tỏ và thanh luyện các động lực của ḿnh. Có thế th́ việc đáp trả lời mời gọi và cam kết theo Chúa mới bền vững trong tin yêu và quảng đại.

 

    B.II.2b Một ít động lực

Các động lực có ư thức:

-         Ḷng khao khát phục vụ

-         Có nhiều thời gian hơn để cầu nguyện

-         “Tôi muốn t́m sự b́nh an”

-         Bối rối: “Tôi cảm thấy Chúa gọi tôi, nhưng tôi sợ…”

 

Các động lực vô ư thức: Nhiều khi các động lực nhân loại can thiệp vào hầu làm thỏa măn các nhu cầu căn bản của con người đă không được thỏa măn trong thời niên thiếu:

-         Khao khát b́nh an/an toàn

-         Khao khát được nhận biết, được chú ư, được chấp nhận

-         Khao khát được hoàn thành/kiện toàn

-         Sợ người khác phái

-         Để chu toàn một lời hứa khi nhỏ

-         Để thoát khỏi nghèo khổ

-         Thoát ly khỏi đời sống gia đ́nh bất hạnh

-         T́m kiếm đặc ân

-         Thoả măn tham vọng của cha mẹ

 

Các động lực ấy chẳng phải là tội, nhưng chúng bộc lộ các nhu cầu cơ bản về mặt cảm xúc, sự đón nhận, ư thức lệ thuộc, ư thức về căn tính của ḿnh, khả năng thiết lập tương quan hài hoà với cả hai phái và sự quư mến bản thân. Để tăng cường sự phát triển trưởng thành nhân bản và thiêng liêng, ta cần trung thực loại bỏ hay uốn nắn các động lực không thích hợp đó.

 

Đời sống dâng hiến đặt nền tảng trên sự quí mến bản thân với các nhu cầu của nó. Sự quí mến bản thân giúp ta ư thức về sự dâng hiến bản thân. Nếu không có qúi mến bản thân th́ dâng hiến cái ǵ? Do đó phải đối mặt gọi tên và giải quyết tốt các nhu cầu ấy để sự dâng hiến bản thân được ư nghĩa trọn vẹn và bền bĩ.Chỉ trong ánh sáng t́nh yêu vô điều kiện và bất biến của Chúa, ước muốn dâng hiến bản thân mới ngày một hiện rơ và tự do trao dâng cho Chúa và tha nhân, theo sự thúc đẩy của ơn Chúa Thánh Thần (x. Tv 16:5-6)

Chúa là phần sản nghiệp con được hưởng

            Là chén phúc lộc dành cho con;

            Số mạng con chính Người nắm giữ.

            Phần tuyệt hảo may mắn đă về con,

            Vâng, gia nghiệp ấy làm con thoả măn (Tv 16,5-6)

(Hát Tôi xin chọn Người)

 

    B.II.2c Các loại ư hướng

Xem xét các loại động lực thúc đẩy ư hướng này giúp chúng ta nắm rơ nội dung và sức năng động trong ư hướng muốn tiến vào đời sống dâng hiến:

·        Ư hướng cam kết khiến ứng sinh có khả năng đáp lại tiếng Chúa gọi, nhờ hoa quả của Chúa Thánh Thần trong cuộc đời ḿnh. Đây là ư hướng lư tưởng. Ứng sinh tương đối trưởng thành và hướng tới tự hiến, do đó chị có thể tự do đáp lại lời mời gọi của Chúa.

·        Ư hướng phận vụ cần một sự phân định cẩn thận giữa sự sẵn sàng bỏ ḿnh và sự chỉ t́m kiện toàn chính ḿnh, v́ ứng sinh vừa được tác động bởi sự t́m kiếm chính ḿnh, vừa được tác động bởi đức tin của ḿnh. Anh bị giằng co giữa việc t́m kiện toàn chính ḿnh và hấp lực tự hiến. Tính lưỡng diện này tỏ lộ lănh vực không có tự do trong cái tôi c̣n thiếu trưởng thành của anh.

·        Ư hướng địa vị t́m thăng tiến bản thân để che lấp sự bất ổn căn bản trong đời sống của ḿnh, hay v́ ước muốn và tham vọng của người khác (coi đời tu là một thăng tiến xă hội).

·        Ư hướng trốn thoát nhằm t́m kiếm sự che chở từ cuộc sống tu tŕ. Một người với ư hướng này không có ơn gọi đích thực. Ứng sinh như thế là không trưởng thành, căn tính không được đào luyện hay hội nhập tốt, không ư thức được các nhu cầu của ḿnh. Tính thiếu bền vững cả trong thái độ lẫn ứng xử có thể được quan sát thấy cách dễ dàng.

 

Ứng sinh có những ư hướng địa vị và trốn thoát thường không có ơn gọi đích thực, bởi v́ họ thiếu trưởng thành nhân cách và sẽ dễ dàng từ bỏ hoặc phản bội sứ vụ căn bản của ḿnh (x. Dụ ngôn Người Gieo Giống):

“Đây là ư nghĩa dụ ngôn: Hạt giống là lời Thiên Chúa. Những kẻ ở bên vệ đường là những kẻ đă nghe nhưng rồi quỷ đến cất Lời ra khỏi ḷng họ, kẻo họ tin mà được cứu độ. C̣n những kẻ ở trên đá là những kẻ khi nghe th́ vui vẻ tiếp nhận Lời, nhưng họ không có rễ. Họ tin nhất thời, và khi gặp thử thách, họ bỏ cuộc. “Hạt rơi vào bụi gai: đó là những kẻ nghe, nhưng dọc đường bị những nỗi lo lắng và vinh hoa phú quư cùng những khoái lạc cuộc đời làm cho chết ngộp và không đạt tới mức trưởng thành. Hạt rơi vào đất tốt: đó là những kẻ nghe Lời với tấm ḷng cao thượng và quảng đại, rồi nắm giữ và nhờ kiên tŕ mà sinh hoa kết quả” (Lc 8,11-15)

(Slideshow Thửa đất ḷng tôi)

 

Nếu không thể nào thay đổi được, nên khéo léo khuyên người có ư hướng địa vị và trốn thoát t́m một đường lối sống ở nơi nào khác th́ tốt hơn là giữ họ lại theo đuổi đời sống tu tŕ.

 

    B.II.3. Cam Kết Tự Biến Đổi Cho Sứ Vụ

Chúng ta cần phải ư thức về nhiều nhân tố trong động lực ơn gọi của ứng sinh và phân tích những đường lối anh dấn thân phục vụ tha nhân, bao gồm cả việc anh trung thành với lời cam kết của anh. Một nhà phân định bén nhạy có thể trực giác ngay được ư muốn phục vụ tha nhân của ứng sinh như thế nào. Nếu ứng sinh có ư hướng địa vị (linh mục là người luôn được kính trọng và có vị thế trong xă hội: một thăng tiến xă hội) là động cơ ưu tiên trong việc đi tu, th́ hăy khéo léo khuyên anh nên t́m một lối sống khác.

 

Nhiệm vụ của vị hướng dẫn đời sống ơn gọi của ứng sinh thật là quan trọng. Người hướng dẫn cần giúp ứng sinh ư thức rơ nhiều động lực đang có mặt nơi anh, đồng thời giúp anh thấy được sự xung khắc giữa các động lực ấy và giải quyết chúng. Động lực nào phù hợp với đời tu sẽ được dùng để thăng tiến đương sự. Động lực nào không phù hợp với đời tu th́ phải loại bỏ hay biến đổi. Nếu không làm được như vậy, đương sự sẽ được mời ra đi. 

 

B.III. BA VẤN ĐỀ CƠ BẢN VÀ QUYẾT ĐỊNH

 

Ứng sinh phải ư thức và trực diện với ba vấn đề cơ bản mang tính quyết định này ngơ hầu đạt được một đường hướng dứt khoát hơn cho cuộc đời ḿnh. Nếu ba vấn đề này không được “giải quyết” th́ chúng sẽ ảnh hưởng mạnh trên cách ứng xử của anh, mà hậu quả sẽ là một khủng hoảng ơn gọi.

 

Đừng quên câu định nghĩa và tiến tŕnh sống tu đức toàn diện: “Đời sống thiêng liêng là đời sống nhân bản được sống trong Chúa Thánh Thần.” Định nghĩa này phải hiểu trong tiến tŕnh: Con Người → Tu Đức Nhân Bản (đạo làm người) → Nhân Bản Thiêng Liêng (đạo làm con Chúa) → Thánh Nhân (t́nh bạn với Chúa, Ga 15,15).

 

    B.III.1. BiẾT Ḿnh

Ở cửa đền Alphê, Socrate cho khắc chữ “Hăy tự biết ḿnh.” C̣n Thánh Augustinô th́ cầu nguyện mỗi ngày “in cho con biết Chúa, xin cho con biết con.” Tự biết ḿnh là yếu tố rất quan trọng để ứng sinh đạt được trưởng thành. Ứng sinh phải cố gắng hiểu được ḿnh là ai, với tất cả những điểm mạnh và những điểm yếu. Nếu không có nhận thức rơ ràng về ḿnh, ứng sinh dễ có khuynh hướng tự tôn bằng sự pḥng vệ coi ḿnh là trung tâm điểm hoặc tự ti và quá lệ thuộc vào người khác.

 

Sự kiện rất nhiều ứng sinh ngày nay không thể trực diện với chính ḿnh để biết ḿnh là ai giải thích tại sao có nhiều sự thiếu trưởng thành hay tự đánh giá thấp nơi nhiều chủng sinh, ngay cả nơi một số linh mục trẻ mới ra trường nữa.

 

Ứng sinh phải tự biết ḿnh là ai, và đang ở đâu trong tiến tŕnh tu luyện. Đôi khi anh cũng phải dám hỏi: “Chúa nghĩ ǵ về con?” Nhà đào tạo cũng phải biết ứng sinh đang ở giai đoạn nào trong tiến tŕnh ấy, để nhẫn nại dẫn dắt, không đốt giai đoạn, kẻo đốt giai đoạn là đốt cháy cả một đời người.

 

    B.III.2. VẤN ĐỀ Thân MẬt Tính DỤc 

Ứng sinh cần đạt được mức trưởng thành đầy đủ về tính dục, tâm lư và một cuộc sống cầu nguyện siêng năng và đích thực, dưới sự hướng dẫn của vị linh hướng, trong hi sinh, xả kỷ, tự hiến, tự giác kỷ luật…

 

Các ứng sinh buộc phải có một sự trưởng thành nhất định trong đời sống nhân bản và thiêng liêng. Điều này thật dễ nhận ra nơi giáo xứ nhà quê, nhưng lại khó biết được nơi các thành phố đông người, nơi mà ngoài các bức tường nhà ḿnh không ai biết ai. T́nh trạng khó kiểm soát này đặt ra nhiều vấn đề phức tạp, nhiều biến động và chiến đấu cho các công dân trẻ mới tới đô thị, đặc biệt là trong mối liên hệ với người khác phái (x. sinh viên tầm gửi), ảnh hưởng đến đời sống thiêng liêng và cầu nguyện.

 

Ngoài ra, v́ phải va chạm với môi trường xă hội và học đường, nhiều ứng sinh có thể có bạn gái hay người yêu, hoặc lâm vào một hoàn cảnh đáng tiếc, nên vấn đề thân mật tính dục trở nên có thật. Năm 2007, cuộc điều tra khảo sát tại 30 trường ĐH-CĐ trong cả nước do Vụ Văn hóa - Ban Tư tưởng Văn hóa Trung ương phối hợp với Vụ Công tác Học sinh Sinh viên (Bộ GD-ĐT) đă đưa ra một con số rất đáng suy nghĩ: 51,4% sinh viên cho rằng “sống thử trước hôn nhân là hiện tượng khá phổ biến” và được coi là “b́nh thường”.

 

Ngạn ngữ Việt Nam có câu “Lửa gần rơm lâu ngày sẽ cháy.” Không ai trách lửa hay rơm về chuyện chúng đốt cháy hay bị đốt cháy, đúng hơn phải trách kẻ đặt rơm gần lửa. Nhiều trường hợp cần một sự biện phân chặt chẽ về lương tâm, để thanh lọc và uốn nắn lại, nhưng với một sự thấu cảm đem lại nâng đỡ và b́nh an.

Con trót dại bao lần sa ngă,

Ôi Giêsu lượng cả đoái nh́n.

Con nguyền can đảm đứng lên,

Lệ sa rửa sạch tội khiên làu làu.

Xin ánh sáng soi vào tâm trí,

Tỉnh cơn mê, con sẽ dâng Ngài,

Bổng trầm điệu hát vui say,

Muôn ngàn khấn nguyện giải bày khúc nôi.

Thánh Thi Kinh Sáng CN Tuần III

 

Đối với một số ứng sinh, để tiến bước trên con đường ơn gọi cần phải có ḷng can đảm, nhưng dừng lại và thay đổi hướng đi c̣n đ̣i hỏi can đảm nhiều hơn. Chủng viện sẽ xây dựng một lối sống khả dĩ giúp đỡ và ngăn ngừa cách hữu hiệu các lối giải quyết cho những chiến đấu của họ. Nhưng tiến tŕnh khó khăn ấy cần có thời gian và những cố gắng chân thành. Trong “Truyện Kiều,” Nguyễn Du diễn tả “dẫu ĺa ngó ư c̣n vương tơ ḷng,” nghĩa là tuy đă chia tay, sự gắn bó dịu dàng vẫn c̣n. Nếu không rơi vào ngăn trở Giáo luật, ứng sinh phải nỗ lực thăng hoa các mối liên hệ và kiên vững lật sang trang đời mới th́ mới có thể tiếp tục.

 

Đường em em đi,

Đường anh anh đi.

T́nh nghĩa đôi ta có thế thôi.

Đă quyết không mong sum họp nữa,                                              

Bận ḷng chi nữa lúc chia phôi! (Nửa chừng xuân)

 

Chọn sống độc thân thánh hiến là một chọn lựa tự do. Họ phải đương đầu và làm việc để vừa thắng vượt các chiến đấu này, lại vừa thăng tiến chọn lựa của ḿnh. Nếu địa hạt này không được trực diện và giải quyết, những vật lộn này sẽ trở lại với họ, ngay cả sau khi đă chịu chức. V́ thế, họ cần liện lạc thường xuyên với vị linh hướng của ḿnh. Đừng đợi cho đến khi vấp ngă rồi mới nhớ đến những lời khuyên: “Biết ai khôn ngoan th́ t́m đến mà bàn hỏi và chớ coi thường bất cứ lời chỉ giáo nào hữu ích. Hăy chúc tụng Đức Chúa là Thiên Chúa mọi lúc; hăy xin Người dạy con cho biết theo nẻo chính đường ngay và giúp con thành công trong mọi đường đi nước bước cũng như mọi toan tính của con” (Tb 4,18-19).

 

Tuy nhiên, cuộc sống giữa muôn màu phức tạp của xă hội trần thế cũng khiến cho các ứng sinh khác lớn lên trong việc xác định ơn gọi của ḿnh, cả về t́nh cảm đời sống nhân bản lẫn đời sống thiêng liêng.

Trong đầm ǵ đẹp bằng sen,                                                                                    

Lá xanh bông trắng lại chen nhụy vàng,                                                                  

Nhụy vàng bông trắng lá xanh,                                                                             

Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn.

 

Đời sống độc thân linh mục khiết tịnh được nêu bật như là một ân huệ và quà tặng đặc biệt của Thiên Chúa, như là lựa chọn một t́nh yêu không chia sẻ v́ Chúa Kitô và v́ Nước Thiên Chúa. Đời sống độc thân linh mục khiết tịnh cần được tŕnh bày rơ ràng, không hàm hồ và theo cách tích cực. Ứng sinh phải khiêm tốn và nhiệt thành cầu nguyện và đón nhận đời sống độc thân linh mục như là một món quà của ân sủng Chúa. Cùng với Hội Thánh, họ phải khiêm tốn và kiên định cầu nguyện cho ơn trung thành và sử dụng mọi sự trợ giúp siêu nhiên cũng như tự nhiên, đặc biệt là lối thực hành khổ chế đă được kinh nghiệm của Hội Thánh chấp thuận.

 

    B.III.3. Vâng lỜi

Tuy linh mục không khấn ba lời khuyên Phúc Âm, chỉ hứa vâng lời Đấng Bản Quyền, đức vâng lời phải là nền tảng, v́ nó giúp linh mục sống dễ dàng đức thanh khiết trong một nếp sống giản dị. Ứng sinh phải tập vâng lời triệt để trong mọi sự có liên quan, dù bây giờ người ta nhấn mạnh hơn đến “vâng lời đối thoại” hay “vâng lời trưởng thành”.

 

Quả vậy, với Vaticanô II, không c̣n “vâng lời tối mặt”; nhưng “vâng lời đối thoại” hay “vâng lời trưởng thành”, nghĩa là bề dưới được tŕnh bày với Bề trên hết sự thật những ǵ ḿnh nhận thấy và suy nghĩ, với đầy đủ lư do và ước nguyện, có khi trái ư Bề Trên, nhưng lời nói cuối cùng thuộc về Bề Trên, và bề dưới vâng lời với tinh thần siêu nhiên. Chúng ta biết rằng Bề Trên có quyền quyết định trái với ư của tất cả chúng ta, nhưng chính Bề trên sẽ chịu trách nhiệm và trả lời với Chúa. Đó là thực sự cảm thông với Giáo Hội (Sentire cum Ecclesia). Điều đáng e ngại là có thể một số Vị quá “sính quyền bính” không dễ dàng lắng nghe sự thật và cho bề dưới cơ hội đối thoại hay giải thích! Nhưng đi cho tới cùng, vâng lời đ̣i hỏi mọi sự nơi chúng ta: trí khôn, con tim, ư muốn, đời sống; nhượng bộ mọi sự cho Chúa, coi vâng lời như diễn tả trọn vẹn sự lệ thuộc vào Chúa và Giáo Hội. 

 

Tuy nhiên, chúng ta cũng có thể bị ảnh hưởng bởi các yếu tố văn hóa và tâm thức do các cơ cấu xă hội, chính trị và tôn giáo. Chẳng hạn, v́ bị ảnh hưởng của Khổng giáo, của chế độ phong kiến và thực dân, của các cơ cấu phẩm trật và gia trưởng, chúng ta lắm khi phải đương đầu với những thách đố và chiến đấu trăn trở về tự do và phục tùng với bộ ba “quyền phục, lư phục và tâm phục hay tâm bất phục” hoặc “bằng mặt mà không bằng ḷng.” Và trong những trạng huống bức xúc có thể “tức nước vỡ bờ”, chúng ta cần có ai đó giúp “đào sâu ḷng sông và khơi ḍng cho nước chảy”. Vị linh hướng kinh nghiệm là người đó cách thích hợp nhất.

 

Nhưng với đức tin mạnh mẽ và đâm rễ sâu trên nền tảng Thánh Kinh vững chắc, đặt trọng tâm vào Chúa Giêsu, vào Phúc Âm, vào Giáo Hội và v́ các linh hồn, cầu nguyện và biện phân dưới sự dẫn dắt của Chúa Thánh Thần, chúng ta sẽ vâng lời cách sẵn ḷng và siêu nhiên các vị lănh đạo và cơ cấu Giáo Hội, không phải như những con người và cơ cấu nhân loại, nhưng là Ư Chúa ở trong và qua những con người và cơ cấu này.

(Hát Nguồn trợ lực tôi)

 

 

    B.IV. VAI TR̉ CỦA GIA Đ̀NH ĐỐI VỚI ƠN GỌI

 

“Một kinh sư tiến đến thưa Người rằng: ‘Thưa Thầy, Thầy đi đâu, tôi cũng xin đi theo.’ Đức Giê-su trả lời: ‘Con chồn có hang, chim trời có tổ, nhưng Con Người không có chỗ tựa đầu.’ Một môn đệ khác thưa với Người: ‘Thưa Ngài, xin cho phép con về chôn cất cha con trước đă.’ Đức Giê-su bảo: ‘Anh hăy đi theo tôi, cứ để kẻ chết chôn kẻ chết của họ’” (Mt 8, 19-22)

 

    B.IV.1. KHÍA CẠNH TÍCH CỰC: BỐI CẢNH GIA Đ̀NH

 

Bổn phận nuôi dưỡng ơn gọi thuộc về toàn thể cộng đồng kitô hữu…. Nhưng đóng góp lớn nhất thuộc về gia đ́nh, được kích hoạt nhờ tinh thần đức tin, đức ái và ḷng đạo đức… Gia đ́nh được kể như chủng viện đầu tiên. Tại Việt Nam, gia đ́nh có ảnh hưởng rất lớn tới nhân cách của mỗi con người, ảnh hưởng tới việc đi theo và thực hành một tôn giáo hay một ơn gọi.

 

Người Việt Nam rất đề cao giá trị của gia đ́nh, v́ gia đ́nh như một thế giới thu nhỏ bao gồm 3 thế hệ: ông bà, cha mẹ và con cái. Mặc dù có những cách biệt giữa các thế hệ, nhưng các thành viên trong cùng một gia đ́nh vẫn luôn có một t́nh cảm sâu sắc gắn bó với nhau. Gia đ́nh đóng vai tṛ trợ lực rất quan trọng giúp cho ứng sinh ngày một trưởng thành hơn. Có nhiều nhân tố giúp anh lớn lên: Mối liên hệ mật thiết với cha mẹ nâng cao căn tính nhân vị của anh: sự mạnh mẽ cương nghị của ba, sự dịu dàng nhân hậu của mẹ.

 

Mối tương quan lành mạnh với những người khác phái trong gia đ́nh và những người họ hàng sẽ giúp ứng sinh ư thức hơn về tính dục của ḿnh, hầu phát triển các mối tương quan xă hội của chính anh. Điều đó cung ứng cho anh một sự ổn định t́nh cảm cần phải có cho đời sống và sứ vụ linh mục của anh sau này. Những hoạt động trong và ngoài gia đ́nh thách thức ứng sinh vượt qua những cái ḿnh thích hay không thích, và làm cho đời sống tông đồ tương lai của anh trở thành một thực tế, đ̣i hỏi phải kiên tŕ, có khi phải trả tới cái giá cao nhất hy sinh mạng sống, chứ không chỉ là một mơ mộng của tuổi trẻ.

 

Việc cầu nguyện và chia sẻ niềm tin trong gia đ́nh giúp ứng sinh đâm rễ sâu trong đời sống thiêng liêng. Là chủng viện đầu tiên, gia đ́nh giữ vai tṛ sinh tử trong việc đào tạo ứng sinh. Cuộc họp hàng năm của đại diện các gia đ́nh chủng sinh nhấn mạnh đến tầm quan trọng và sự đóng góp tích cực của gia đ́nh đối với Chủng viện trong việc đào tạo linh mục tương lai cho Giáo Hội.

 

B.IV.2. KHÍA CẠNH ÍT TÍCH CỰC: NHỮNG MONG ĐỢI  VÀ HY VỌNG CỦA GIA Đ̀NH

 

Người Việt Nam rất sùng đạo và nhiệt thành. Họ hết ḷng kính trọng các nhà tu hành, không chỉ trong phạm vị tôn giáo mà cả ngoài xă hội nữa. Ngay cả hôm nay, các quan chức cộng sản cũng nhận định rằng linh mục là công dân đặc biệt v́ có nhiều uy tín và ảnh hưởng trên các công dân tín hữu khác. 

 

V́ thế, bậc tu tŕ trở thành một địa vị và một sự thăng tiến xă hội, không chỉ cho chính vị linh mục, mà c̣n cho cả gia đ́nh và họ hàng thân thuộc: Vị linh mục sẽ được dân chúng kính trọng và vâng phục, được hưởng một cuộc sống an toàn và dễ dăi, v.v… Một khi người con làm linh mục hay tu sĩ, gia đ́nh sẽ được hưởng vinh quang và danh dự, được kính trọng ở mọi nơi (trở thành “ông bà cố”). Điều này đang là một thử thách đối với ơn gọi đích thực và sự bất lợi tai hại của ḷng kính trọng thái quá này đối với hàng giáo sĩ và tu sĩ là biến họ thành những kẻ quan liêu và độc đoán.

 

Nhiều khi, những mối lợi mang tính cá nhân hay gia đ́nh như thế khiến một số người thúc ép con cái đi tu. Một số các bậc cha mẹ v́ không thành công trong việc theo đuổi ơn gọi tu tŕ nên mong đợi thấy lư tưởng và h́nh ảnh của ḿnh được thực hiện nơi con cái. Họ gây áp lực buộc con cái dấn thân vào đời sống linh mục hay đời sống tu tŕ, dù con cái họ không có ơn gọi đó. Một người tu không được ra về bị gia đ́nh, họ hàng, quê hương giận dữ, khinh miệt, đàm tiếu, tẩy chay... nhất là ở khu vực miền Bắc. Áp lực này là một trở ngại cho các ơn gọi đích thực: có em có ơn gọi không dám dấn thấn, có em đă vào tu thấy ḿnh không có ơn gọi không dám về. Cần phải có một kế hoạch đồng bộ và rộng khắp để chỉnh sửa dần cái tâm thức bất lợi này.

 

Là nền tảng của xă hội, là cái nôi của sự sống và là nhà sư phạm đầu tiên, gia đ́nh có thể là một nguồn nước trong lành và cũng có thể là trở lực đối với những ơn gọi đích thực. Do vậy, trách nhiệm của Giáo Hội là biện phân và thanh luyện những động lực ấy, vào thời điểm thu nhận cũng như trong tiến tŕnh đào tạo, trong nỗ lực gầy dựng cho có người kế tục sứ mệnh: Tre già măng mọc.

Tuy nhiên, Chúa cũng quảng đại ban cho có rất nhiều gia đ́nh Công giáo dâng hiến con trai con gái ḿnh cho Thiên Chúa thông qua Hội Thánh mà không hề thèm muốn danh vọng, và nhiều ứng sinh quảng đại đáp lại lời mời gọi của Thiên Chúa. Các ứng sinh hăy nghĩ đến Ông Bà Cha Mẹ đă sinh dưỡng lại dày công hy sinh vất vả cùng Giáo Hội đào luyện, nâng đỡ, d́u dắt ḿnh  bằng cuộc sống đầy gương sáng và lời cầu nguyện không ngừng của các ngài.

 

Hăy lắng nghe lời cầu nguyện của các ngài: “Xin đừng sa thải con lúc tuổi đà xế bóng, chớ bỏ rơi con khi sức lực suy tàn. ... Cả lúc con già nua da mồi tóc bạc, lạy Thiên Chúa, xin đừng bỏ rơi con” (Tv 70, 9,18). Hăy hiếu thảo tri ân các ngài, cầu nguyện và nâng đỡ các ngài, ngơ hầu trong những ngày cuối đời, chờ đợi giờ Chúa gọi về nhà Cha, các ngài cảm nhận được đền đáp, an ủi, yêu thương, b́nh an và hạnh phúc. 

(slideshow Mẹ)

 

Một khi biết nghĩ đến công lao và t́nh thương, cùng hoài bảo của mẹ cha, cũng như của các vị hữu trách trong Giáo Hội, ứng sinh sẽ t́m được nghị lực vượt lên mọi khó khăn thử thách trong cuộc sống, v́ cuộc sống tu tŕ cũng chẳng tránh khỏi hết mọi bất công, phân biệt đối xử, thương người nọ hơn thương người kia, v́ chẳng ai lấy cân mà cân được t́nh cảm cho bằng nhau đâu! Cái quan trọng là đừng lộ liểu quá, mà để trong ḷng th́ tốt hơn. Vả lại, có t́nh thương nào cao cả hơn t́nh Chúa thương ta đâu! Ta thế nào th́ Chúa thương ta thế ấy, và Chúa sẽ thương ta cho đến cùng. Nhưng đối lại, Chúa cũng đ̣i hỏi và chờ đợi một t́nh thương quảng đại cho đến cùng về phía chúng ta cho Chúa đó: Một lần đă quảng đại, hăy quảng đại cho đến cùng.

  

 

    B.V. ĐÁNH GIÁ ĐỘNG LỰC NỘI TÂM

 

    B.V.1. Tính HẤp DẪn CỦa Ơn GỌi

Mọi ơn gọi đều đến từ Thiên Chúa, hoặc trực tiếp hoặc gián tiếp. Ngài có thể nói gián tiếp với ứng sinh qua Thánh Kinh, qua Giáo Hội, qua gia đ́nh và qua những nhu cầu của cuộc sống con người. Ngài cũng có thể trực tiếp đánh động con tim và làm cho sự lôi cuốn lớn lên dần thành cốt lơi của ơn kêu gọi.

 

Nhưng tính hấp dẫn này phải được phân định qua việc đồng hành, linh hướng để ứng sinh nắm chắc rằng ḿnh có thể đáp ứng được các khía cạnh thiêng liêng và tông đồ của một cam kết dấn thân phục vụ Chúa và các linh hồn. Đây là một cuộc hợp tác tay đôi với ơn Chúa: các nhà đào tạo t́m hiểu ứng sinh và các ứng sinh t́m hiểu chính ḿnh xem có ơn gọi thực không.

 

    B.V.2. BiỂu LỘ CỤ ThỂ Ư HưỚng Ngay Lành

Tự do lương tâm của ứng sinh là điều cần thiết cho quyết định chuẩn bị tiến lên chức linh mục. Vị linh hướng phải giúp ứng sinh khám phá ra những ǵ Thiên Chúa thực sự kêu gọi anh trở thành và thực hiện. Đáp trả tự do của anh sẽ là cốt lơi sự cam kết của anh và động lực xứng hợp sẽ đóng một vai tṛ quan trọng trong sự bền đỗ, khi anh cụ thể bày tỏ ư hướng ngay lành muốn làm linh mục.

 

Ứng sinh phải t́m cho được lời khẳng định rằng Chúa muốn anh quyết định trở thành linh mục. Để được vậy, anh phải hiểu rơ sâu xa những điểm mạnh cũng như những điểm yếu của ḿnh; đồng thời anh phải được giúp t́m biết chính ḿnh cách ư thức, cũng như các động lực vô thức của anh, ngơ hầu anh thấy được anh phải biến đổi trong cái ǵ hầu phù hợp với đời sống và sứ vụ linh mục.

 

Ứng sinh phải đánh giá lại lời mời gọi của Chúa và sự đáp trả của anh để có được một cam kết sâu xa hơn, theo tiến tŕnh ơn gọi năm bước:

 

1) Chúa gọi ứng sinh cách trực tiếp như đă gọi Abraham, Mosê, Samuel... và như chính Mẹ Maria; hoặc Ngài gọi cách gián tiếp qua người nọ kẻ kia... Nhưng lời mời gọi đó phải được thẩm quyền hợp pháp của Giáo Hội xác nhận qua việc gọi cho chịu chức linh mục sau này.

 

2) Ứng sinh tự do đáp lại, và nên một lần quảng đại đáp lại th́ hăy quảng đại cho đến cùng. Bởi v́ ơn gọi “không phải là một chọn lựa luân lư hay một lư tưởng cao quư, nhưng là sự gặp gỡ với Chúa Giêsu, một cuộc gặp gỡ trao ban cho cuộc sống một chân trời mới, và qua đó là một hướng đi có tính cách quyết định” (x. Deus Caritas Est, số 1).

 

3) Ứng sinh cam kết theo chính Chúa Kitô toàn thể, nghĩa là với vinh quang và thập giá, tức khi vui cũng như khi buồn, lúc thành công cũng như lúc thất bại, khi sướng cũng như khi khổ, đều luôn trung thành theo chính Chúa Kitô, chứ không phải ai khác hay cái ǵ khác. Chúng ta có thể nói cùng với thánh Phaolô:

 

Ai có thể tách chúng ta ra khỏi t́nh yêu của Đức Ki-tô? Phải chăng là gian truân, khốn khổ, đói rách, hiểm nguy, bắt bớ, gươm giáo? Như có lời chép: Chính v́ Ngài mà mỗi ngày chúng con bị giết, bị coi như bầy cừu để sát sinh. Nhưng trong mọi thử thách ấy, chúng ta toàn thắng nhờ Đấng đă yêu mến chúng ta. “Đúng thế, tôi tin chắc rằng: cho dầu là sự chết hay sự sống, thiên thần hay ma vương quỷ lực, hiện tại hay tương lai, hoặc bất cứ sức mạnh nào, trời cao hay vực thẳm hay bất cứ một loài thọ tạo nào khác, không có ǵ tách được chúng ta ra khỏi t́nh yêu của Thiên Chúa thể hiện nơi Đức Ki-tô Giê-su, Chúa chúng ta” (Rm 8, 35 - 39)

 

Tuy nhiên chúng ta vẫn phải luôn cảnh giác, v́ trong thực tế, rất lắm lần chúng ta đă để một ai đó hay một cái ǵ đó tách biệt Chúa Giêsu ra khỏi t́nh yêu và cuộc đời của chúng ta, cho dù không hề có cái ǵ tách biệt chúng ta ra khỏi t́nh yêu của Chúa Giêsu: chúng ta có thế nào đi nữa th́ Ngài vẫn hằng thương yêu chúng ta, và thương yêu chúng ta cho đến cùng. T́nh yêu của Ngài lớn hơn tội lỗi chúng ta và Ngài hằng tha thứ cho chúng ta.

 

4) Ứng sinh phải dần dần biến đổi và điều chỉnh đời sống ḿnh sao cho phù hợp với đời sống và sứ vụ linh mục. Ứng sinh c̣n tiếp tục măi công việc này để trở nên chứng tá sống động của Chúa. Quả thế, “Ông Anrê, anh ông Simôn, là một trong hai người đă nghe ông Gioan Tẩy Giả nói và đi theo Chúa Giêsu. Trước hết, ông gặp em ḿnh là ông Simon và nói: “Chúng tôi đă gặp Đấng Mêssia” (nghĩa là Đấng Kitô). Rồi ông dẫn em ḿnh đến gặp Chúa Giêsu. Chúa Giêsu nh́n ông Simon và nói: “Anh là Simon, con ông Gioan, anh sẽ được gọi là Kêpha” nghĩa là Phêrô.” Đổi tên là đổi con người, đổi cách sống, cách làm việc, cách suy nghĩ, cách đối xử và yêu thương. Cuộc sống của ứng sinh sẽ phải từ từ được biến đổi: từ từ sống khác đi, không c̣n như cuộc sống anh đă từng sống trước đây nữa. Con người trần tục sẽ dần dần chết đi, để con người thiêng liêng không ngừng được triển nở và lớn lên. Nói như thánh Phaolô là phải cởi bỏ con người cũ của anh và mặc lấy con người mới, ngày càng trở nên đồng h́nh đồng dạng với Chúa Kitô.

 

5) Ứng kiên tŕ chu toàn bổn phận hằng ngày tùy theo đấng bậc hôm nay và sứ vụ Giáo Hội sẽ giao phó cho anh mai ngày, dù hoàn cảnh và con người có thế nào đi nữa. Và dù đời linh mục có bất định khi được sai đi tới nơi ḿnh không muốn, ở với người ḿnh không ưa và làm việc ḿnh không thích, th́ cũng phải sẵn sàng CHẤP NHẬN và THÍCH NGHI.

 

“Biết rằng đời hiểu hay không,                              

Uống cho bằng cạn chén hồng Chúa giao,                                                              

Thương ai Chúa mới gọi vào,                                     

Kèm trong thử thách dạt dào đỡ nâng”

 

Những lúc ngấm nỗi bồ ḥn

Nh́n lên thánh giá nỉ non đôi lời

T́m thêm sức mạnh cứu đời

Từ ṭa giải tội, từ nơi bàn thờ

Vui đem Lời Chúa cho người,

Thắm t́nh đồng nghiệp suốt đời thương nhau

Đời này dù có khổ đau

Chung nhau hạnh phúc đời sau thiên đàng

 

Ứng sinh phải nội tâm hóa dấn thân của anh, cũng như cụ thể hóa đời sống sứ vụ của ḿnh qua việc thường xuyên t́m gặp gỡ Chúa Giêsu Kitô, Đấng là nguyên thuỷ và cùng đích của mọi ơn gọi (x. Ga 15, 16). Sau khi đă chú ư lắng nghe với biện phân và khiêm tốn, dưới sự dẫn dắt của Chúa Thánh Thần, vị linh hướng có thể khám phá được người thụ hướng được Chúa gọi hay không. Nếu có, vị linh hướng xác định cho anh tiếp tục đi tới với niềm vui tươi, hy vọng và hạnh phúc, mặc dù anh sẽ gặp thấy những khó khăn và đen tối trong cuộc sống lữ hành của anh. Nếu không, vị linh hướng nên gợi ư cho anh đổi hướng sống trong b́nh an, đồng thời bước theo con đường Chúa mời gọi anh đi với can đảm và hạnh phúc.

 

Sự chọn lựa và quyết định với tự do nội tâm (ṭa trong) này phải được xác lập và công nhận bởi thẩm quyền Chủng viện (ṭa ngoài): Hội đồng chủng viện bỏ phiếu cho chịu chức (biểu lộ sự kêu gọi của Chúa), có thể được trợ giúp bởi nhận xét tham khảo của cộng đoàn Dân Chúa.

(Hát Chúa cất tiếng gọi con)

  

 

B.VI. ỨNG SINH TỰ ĐÁNH GIÁ

 

Trong suốt thời kỳ huấn luyện, các ứng sinh được khích lệ tự suy nghĩ về chính bản thân ḿnh, dựa trên một bảng câu hỏi giúp ứng sinh tự vấn và tŕnh bày trong linh hướng. Bảng câu hỏi nhằm giúp ứng sinh biện phân ơn gọi của ḿnh và đưa ra một quyết định trưởng thành cho cuộc đời ḿnh với sự tự do nội tâm hoàn toàn. 

 

Để những nỗ lực này được dễ dàng hơn, họ phải được khuyến khích xây dựng một mô h́nh linh mục lư tưởng mà ḷng họ ước ao (x. Mô H́nh Linh Mục Hôm Nay và Ngày Mai). Việc tự đánh giá nghiêm túc có thể dẫn ứng sinh tới một trong hai kết luận: Hoặc là Chúa muốn anh theo con đường khác: anh đă được trang bị các đức tính và những khả năng cần thiết để sống đời sống Kitô hữu một cách trọn vẹn với tư cách là một giáo dân. Vậy tinh thần trách nhiệm sẽ khích lệ anh thay đổi ơn gọi; hoặc là Thiên Chúa chọn anh làm linh mục: mặc dù anh tự kiểm một cách nghiêm túc, anh vẫn không thể tuyệt đối chắc chắn về ơn gọi của ḿnh. Sự chấp thuận của Bề Trên và Bản Quyền sẽ hoàn tất chọn lựa này và làm cho anh an tâm.

 

Để tiến tŕnh tu tập được tiến bộ và kết quả, ứng sinh cần tự kiểm và tự đào luyện, cùng với sự giúp đỡ thường xuyên của người đồng hành. 

 

    B.VI.1. Những điều kiện bên ngoài


    B.VI.1a Môi Trường Xă Hội 

Năo trạng của người dân ở quê hương tôi hay của những người hàng xóm với gia đ́nh tôi là ǵ? Họ thực hành đạo thế nào? Họ có ảnh hưởng tốt hay xấu đến ơn gọi của tôi? Đặc biệt là t́nh bằng hữu của bà con họ hàng đối với gia đ́nh tôi và với cá nhân tôi thế nào? Họ nghĩ thế nào về ơn gọi của tôi? Trong gia đ́nh tôi hay trong những người bà con họ hàng có ai sống đời thánh hiến không? Đâu là ảnh hưởng và mối tương quan giữa tôi và những anh em cùng lớp? Tôi có quan hệ đặc biệt nào với ai không?

 

    B.VI.1b Gia Đ́nh Tôi 

Sức khỏe của ông bà tôi, cha mẹ tôi, anh chị em tôi thế nào? Họ quan niệm thế nào và đối xử làm sao với ơn gọi của tôi, tích cực hay tiêu cực?         Họ có cho phép tôi tự do chọn lựa, hay bắt tôi chịu áp lực của họ? Ai trong gia đ́nh tôi là người có tầm ảnh hưởng quan trọng và tích cực nhất đối với ơn gọi của tôi? Cảm nghĩ của tôi về gia đ́nh: quan tâm, gắn bó, thờ ơ lạnh nhạt, thất vọng? Tại sao? Mối tương quan đặc biệt của tôi với gia đ́nh sẽ là ǵ, nhất là sau khi đă thụ phong linh mục? Cố gắng dàn xếp các vấn đề gia đ́nh, tuy có những vấn đề không ảnh hưởng đến ơn gọi của tôi, nhưng ảnh hưởng đời sống mục vụ của tôi như Chúa Giêsu khuyến cáo “không tiên tri nào được nễ trọng tại quê hương ḿnh.”

 

    B.VI.1c Tương Quan Với Các Linh Mục Quen Biết

Đâu là ảnh hưởng thiêng liêng của Cha Bảo trợ đối với tôi? Ngài có thường xuyên liên lạc, giúp đỡ tài chính cho tôi không? Đâu là điểm tích cực mà tôi học được nơi ngài? Ngài có ảnh hưởng ǵ tiêu cực trên đời sống tôi không? Mối tương quan của tôi với cha xứ trong suốt năm học ở trường, nhất là trong những ngày nghỉ hè là ǵ? Mối tương quan giữa Cha xứ với gia đ́nh tôi là ǵ? Khi cha xứ được người khác khen hay chê th́ thái độ của tôi là ǵ? Đời sống tư và việc tông đồ của cha xứ có ảnh hưởng ǵ đến ơn gọi của tôi? Tôi có quen biết cách đặc biệt nào với một số Cha khác không? Đâu là lư do của sự quen biết này và nó có ảnh hưởng ǵ đến tôi, về mặt thiêng liêng hay kinh tế? Tôi có tương quan dễ dàng và tốt lành với nhiều Cha trong Giáo phận tôi không, nhất là với các cha trẻ?  

 

    B.VI.1d Tương Quan Với Người Khác Phái 

Quan niệm của tôi về người khác phái là ǵ? Đâu là cách tôi giữ mối liên lạc với người khác phái? Dĩ nhiên có nhiều bạn là con gái, nhưng tôi có bạn gái không? Và ở mức độ nào? Tôi có biết rằng Giáo Hội đ̣i linh mục phải tiết dục hoàn toàn không? Mọi người đều mang bản tính nhân loại và có giới tính, tôi cảm nhận ǵ khi ở gần người nữ? Tôi có biết “bén mùi chùi chẳng sạch”, nhất là người phụ nữ lại càng khó quên hơn không? Tôi có thận trọng hơn trong tương quan với người đời, nhất là với các bạn không có Đạo? Tôi có làm ǵ cho họ hiểu sai và hiểu xấu về đời tu công giáo không? Tôi có mối quan hệ gần gũi với ai trong số những người nữ sống đời thánh hiến không? Đâu là nguyên nhân của mối tương quan này? Đâu là cách tôi giữ liên lạc với cô ấy? Có ǵ nguy hại cho ơn gọi của cả hai, bây giờ và sau này nữa không? Có ǵ đáng quan ngại hay dấu hiệu ǵ đáng đặt dấu hỏi không?

           

    B.VI.2. Những điều kiện tự nhiên


    B.VI.2a Sức Khoẻ Của Tôi 

Sức khoẻ của gia đ́nh tôi thế nào? Có bệnh di truyền nào không? Tôi có lo lắng ǵ về bệnh tật trong tương lai không? Tôi ǵn giữ sức khoẻ bằng cách nào? Tôi có nghiện thứ ǵ không? Đâu là nhịp độ ăn uống, ngủ nghỉ và làm việc của tôi trong thời gian học đều đặn cũng như trong thời thi cử?  

 

    B.VI.2b Tính T́nh Của Tôi 

Tôi có thể mô tả tính t́nh của tôi thế nào: cảm xúc hay vô cảm, hoạt động hay không hoạt động? Tôi có đầu óc hẹp ḥi hay cởi mở, có điều độ ngăn nắp hay lộn xộn bừa băi? Tôi lạc quan hay bi quan, nhút nhát hay liều lĩnh, khiêm tốn hay kiêu ngạo và tự phụ, chăm chỉ hay lười biếng, có óc tổ chức hay làm theo hứng?

 

    B.VI.2c Trí Khôn Của Tôi

            Trí khôn của tôi thế nào: xuất sắc, rất tốt, tốt hay kém? Kết quả học tập của tôi thế nào? Có t́nh trạng đặc biệt nào ảnh hưởng tới trí khôn của tôi không? Tôi có phương pháp nào để luyện trí nhớ và trí hiểu không? Tôi thích học thuộc ḷng hay thích suy tư, phân tích hay tổng hợp ?

 

    B.VI.2d Năng Khiếu và Khả Năng Của Tôi

            Trong học tập, trong nghệ thuật và hoạt động, năng khiếu đặc biệt của tôi là ǵ? Đâu là điểm yếu của tôi trong những lănh vực này? Tại sao? Đâu là cách tôi vun trồng và nâng cao năng khiếu của tôi?

 

    B.VI.3 Những điều kiện tinh thần và thiêng liêng

 

    B.VI.3a Tinh Thần Tự Hiến

            Ơn gọi của tôi đă lớn lên và phát triển thế nào? Bây giờ ra sao? Tại sao tôi lại chọn đời linh mục? Tôi có luôn suy nghĩ về ơn gọi của tôi không? Có ǵ cản trở không? Làm thế nào để vượt qua? Tôi có lạc quan và hy vọng không, hay bi quan và thất vọng về t́nh trạng hiện tại của tôi? Tại sao? Tôi tự nguyện theo đuổi ơn gọi hay có áp lực nào không? Đâu là cách đặc biệt để tôi ǵn giữ và phát huy tinh thần tự hiến của tôi, bây giờ và trong tương lai ?

 

    B.VI.3b Tinh Thần Trách Nhiệm

Tôi chu toàn bổn phận v́ Chúa và v́ muốn đời sống ơn gọi được chắc chắn hơn? Hay chỉ v́ luật, v́ ư bề trên, hay v́ ḷng tự trọng với anh em cùng lớp? Phương pháp học của tôi là ǵ? Tôi học tất cả các môn hay chỉ học những môn ưa thích? [kinh nghiệm học Toán]. Cách tôi học ở lớp, ở nhà là ǵ? Cách tôi làm bài thi và đọc sách vở là ǵ? Tôi tận dụng tối đa thời gian hay lăng phí nó? Quan điểm của tôi về luật lệ là ǵ? Tôi thường hay vi phạm điều nào? Công tác của tôi trong chủng viện là ǵ và đâu là cách tôi thi hành công tác ấy?

    B.VI.3c Tinh Thần Đời Sống Thiêng Liêng

Tôi có tin rằng đời sống thiêng liêng là tối quan trọng đối với chủng sinh và linh mục không? T́nh trạng hiện nay về đời sống thiêng liêng của tôi là ǵ và đâu là những cố gắng? Tôi có thói quen dâng ngày mới cho Chúa không? Đời sống cầu nguyện của tôi thế nào? Tôi có cầu nguyện đều đặn trong những kỳ nghỉ không? Tôi tham dự thánh lễ, chuẩn bị rước lễ và cám ơn sau rước lễ thế nào? Tôi có nhận thấy rơ Thánh Thể là nguồn suối và trung tâm đời sống của mọi Kitô hữu, nhất là của những người sống đời thánh hiến không? Tôi có tập đọc sách thiêng liêng, nhất là Kinh Thánh cách đều đặn, ngay cả trong kỳ nghỉ hè không? Tôi có viếng Chúa Giêsu Thánh Thể, thường xuyên xét ḿnh để chuẩn bị tâm hồn lănh nhận Bí tích Hoà giải không? Tôi có yêu thích việc xưng tội không hay ngại ngùng? Ḷng sùng kính Đức Mẹ của tôi thế nào: có lần chuỗi, suy niệm và bắt chước Mẹ không? Vai tṛ của Đức Mẹ trong đời sống ơn gọi của tôi là g? Mối liên hệ của tôi với các thánh và các linh hồn là ǵ ?

 

    B.VI.3d Tinh Thần Đức Tin 

Cách tôi nh́n các sự kiện trong đời sống tôi và trong xă hội là ǵ, có nh́n với tinh thần đức tin hay không? Nhất là trong những lúc gặp phải thử thách, thất bại và đau khổ nơi bản thân, cũng như trong gia đ́nh tôi? Cả những sự phi lư và bất công xảy ra chung quanh tôi? Tôi có thường phải đối diện với những cám dỗ về đức tin không: mức độ thế nào và phản ứng của tôi làm sao? Những thái độ sống đức tin của tôi: trong nhà thờ, trong khi cử hành phụng vụ, khi cầu nguyện trong lớp học là ǵ?

 

    B.VI.3e Tinh Thần Cộng Tác 

Tôi cảm thấy dễ hay khó khi quan hệ với mọi ngướ bằng sự cởi mở, đối thoại, trợ giúp và hợp tác? Tại sao? Tôi có sẵn ḷng giúp anh em và xin anh em giúp ḿnh không? Hay tôi cảm thấy khó hợp tác? Đâu là những cố gắng phải vượt qua? Đời sống chung và t́nh bạn hữu của tôi thế nào: thiện cảm hay ác cảm? Tương quan với bề trên, với cha linh hướng và với các nhà đào tạo khác: có dễ dàng tiếp xúc và cởi mở đón nhận những gợi ư của các ngài với ḷng biết ơn hay không? Tôi có biết rằng tinh thần cộng tác là yếu tố cần thiết trong việc ǵn giữ và xây dựng đời sống mục vụ của linh mục không? Tôi cộng tác thế nào để đào tạo bản thân và đào tạo anh em khác? Trong các dịp Hè và nghỉ lễ, tôi có sẵn ḷng tham gia các việc trong giáo xứ, giáo họ không?

 

    B.VI.3f Tinh Thần Vâng Phục 

            Tôi có suy nghĩ ǵ về tự do, về quyền bính và vâng phục trong Hội Thánh? Tôi vâng lời cha mẹ và anh chị em thế nào? Và sự vâng phục của tôi đối với các bề trên ra sao? Tôi không hài ḷng với họ về điểm nào? Thái độ của tôi đối với các anh em có trách nhiệm thế nào?

 

    B.VI.3g Tinh Thần Nghèo Khó

            Quan niệm của tôi về nghèo khó là ǵ? Tôi có tập sống khó nghèo và giản dị trong trang phục và ăn uống không? T́nh trạng kinh tế của gia đ́nh tôi: giàu có hay túng bấn? Tôi có tính sổ chi tiêu hàng tháng, hàng năm không? Của cải của tôi: dư dật, đầy đủ hay thiếu thốn? Cách tôi kiếm tiền và tiêu tiền là g?         Tôi có lo t́m kiếm ân nhân, kết nghĩa để được giúp đỡ tiền bạc không? Thái độ của tôi đối với họ thế nào? Tôi có thích dùng những đồ sang trọng không? Tôi có tôn trọng và ǵn giữ của chung như của riêng ḿnh không?

 

    B.VI.3h Tinh Thần Thanh Khiết

Tôi có tôn trọng và hiểu rằng sự trong sạch trong đời sống linh mục là một hiến tế, từ bỏ chính ḿnh, dành t́nh yêu cho Chúa và cho các linh hồn không? Tôi có hiểu rằng sự trong sạch và độc thân linh mục là khó khăn và cần ơn Chúa (đời sống cầu nguyện) và cần cố gắng liên lỉ (khổ chế và hy sinh) không? Tôi có tránh những dịp cám dỗ: báo chí, phim ảnh, quan hệ và những lời nói không? Tôi có thường xuyên bị cám dỗ trong tư tưởng không? Tôi có thủ dâm không? Tự ḿnh, làm cho người khác và để người khác làm cho ḿnh? Cách tôi chiến đấu chống lại nó là ǵ, luôn thắng trận hay bại trận? Tôi có t́m ra phương pháp nào để sống trong sạch không? Tôi có suy nghĩ tích cực hay tiêu cực về giá trị đời sống trong sạch của linh mục? Quan niệm của tôi về hôn nhân, về t́nh yêu đôi lứa và về giới tính là ǵ? Tôi nghĩ ǵ về cơn khủng khoảng hiện nay của một số linh mục, tu sĩ ?

 

    B.VI.3i Tinh Thần Phụng Vụ

            Tinh thần phụng vụ lúc này của tôi thế nào? Tôi có ư thức rằng phụng vụ là trung tâm nuôi dưỡng đời sống của Hội Thánh và của đời sống của những người sống đời thánh hiến không? Tôi tham dự thánh lễ và lănh nhận các bí tích khác thế nào? Tôi có khao khát và cố gắng tham dự vào các hoạt động phụng vụ: giúp lễ, giúp chầu Thánh Thể, tập những bài hát phụng vụ, cầu nguyện hằng ngày? Tôi có ngại việc quét dọn, trang hoàng nhà thờ, lo hoa đèn, âm thanh, ánh sáng để giáo dân tham dự sống động, tích cực và sốt sắng không?

 

    B.VI.3j Tinh thần Mục Vụ

            Tôi có ư thức rằng công tác mục vụ là nhiệm vụ hàng đầu trong sứ vụ quản xứ của linh mục không? Tôi có tập trung tất cả những công việc hiện tại của ḿnh để chuẩn bị cho các công tác mục vụ tương lai không? Tôi đă chuẩn bị cho việc dạy giáo lư và cho sứ vụ Lời Chúa thế nào? Tôi có thăm viếng các gia đ́nh, nhất là thăm nom những người nghèo khó và đau yếu không? Tôi có thể sống đúng mực và làm việc có trách nhiệm với những người già cả, với thanh niên, với trẻ em và hết ḷng cộng tác chân thành không? Hướng mục vụ của tôi được gợi hứng từ tinh thần của công đồng Vatican II là ǵ? Điều ǵ tôi thích: nhận nhiệm vụ nơi thôn quê hay chốn đô thị, là giáo sư hay cha xứ? Tôi có nhận định ǵ về đời sống mục vụ của hàng giáo sĩ hiện nay: ưu điểm và khuyết điểm, mặt tích cực và mặt tiêu cực?

 

    B.VI.3k Tinh Thần Lao Động Chân Tay 

            Thái độ của tôi đối với người lao động, người giúp việc thế nào? Tôi có ư thức giá trị của lao động chân tay không? Hay tôi bị miễn cưỡng làm việc? Tinh thần lao động của tôi là ǵ khi tôi tham gia vào các hoạt động lao động chân tay trong cộng đoàn? Tôi có nhận ra ư nghĩa đào tạo thiêng liêng qua các việc lao động chân tay và vận dụng nó không? Phát triển đời sống nhân đức như làm cho lúa tốt, hoa đẹp? Loại trừ tận gốc các tật xấu như nhổ hết rễ cỏ dại? v.v…

            Lạy Thánh Giuse Thợ,                                              

Chúng con cần gương Ngài                                               

Để thấy kho tàng trong từng giọt mồ hôi,                       

Thấy nụ cười trong từng ḍng nước mắt,              

Thấy Nước Trời trong ḷng đất mẹ cằn khô    

Thấy sáng tạo, đi lên, t́nh người,                              

Yêu thương và hiệp nhất.                                           

Thấy lớn lao trong từng nhỏ nhặt,                             

Thấy vinh quang trong khổ nhục, Ngài ơi.                              

Xin cho những người đang xây dựng thế giới này                                                                                     

Thấy Ngài phục sinh trong bàn tay của họ.                                   

Trích Thánh Thi Lễ Thánh Giuse Thợ

 

 

 

B.VII. BẢN TỰ KIỂM THÁNG & NĂM
           (Viết trong những ngày tĩnh tâm)

 

    B.VII.1 BẢo vỆ đỜi sỐng thiêng liêng và ơn gỌi

 

    B.VII.1a Diệt trừ Tội Lỗi nhờ Bí Tích Giải Tội

Tuyệt đối tránh tội trọng v́ nó giết chết sự sống siêu nhiên. Cố gắng tránh những tội nhẹ cố t́nh v́ nó làm suy yếu sự sống siêu nhiên, và có nguy cơ dẫn đến tội trọng. Không những nên biết và thú nhận những tội ḿnh đă phạm, mà c̣n phải biết tại sao ḿnh phạm những tội ấy và chọn những phương cách thích hợp và hữu hiệu có thể giúp ta tránh. Ví dụ: Thay v́ thú nhận “con có lỗi đức chân thành vài lần,” hăy xác định trường hợp nào, v́ lư do ǵ anh đă nói dối, chẳng hạn “con có nói láo v́ khoe khoang, v́ sợ bị hạ nhục, v́ có ư đưa ḿnh lên trên kẻ khác...” Hay ví dụ khác: “con có lỗi đức bác ái,” phải xác định “con lỗi bác ái, không phải là một việc thông thường, mà lỗi này phát sinh từ một ác cảm, một ghen tức hay một oán thù, có ư thức, nhưng con vẫn cố t́nh chiều theo.” Nhờ việc linh hướng, chúng ta sẽ có cơ hội thuận lợi để nhận diện các nguyên nhân tội lỗi, và có như thế chúng ta mới có thể chữa trị tận gốc, ngơ hầu đi xa hơn và vững hơn trong đường lối của Chúa, tức là trở nên con người mới, con người thuộc về Chúa Kitô mỗi ngày một thành toàn hơn. Có thể xét ḿnh qua các mối tương quan: với Chúa, với tha nhân, với bản thân.

 

B.VII.1b Diệt trừ tính xấu chủ đạo và thực tập nhân đức đối nghịch:

Con người thật của ta có những tính tốt, mà cũng có nhiều khuynh hướng và tập quán xấu. Muốn bài trừ tận tuyệt tính xấu, ta phải luyện tập nhân đức đối lập. Thí dụ: người nóng tính cần luyện tập nhân đức hiền lành, người nhút nhát phải tập đức can đảm, người ham muốn sắc dục phải tập đức khiết tịnh…. Ghi ra các tính xấu hay mắc phải để cố gắng t́m ra nguyên nhân hay t́m ra tính xấu chủ đạo là tính xấu mạnh nhất (thường ẩn kín, nhưng điều động những tính xấu khác). Về nhân đức cần thực tập, cần có những nghiên cứu thêm, t́m hiểu sâu xa nhân đức này để biết và yêu mến, đồng thời t́m ra những phương thế cụ thể trong luyện tập.

 

B.VII.1c Độc thân khiết tịnh (trưởng thành nhân bản: ứng xử, t́nh cảm và giới tính)

Tông Huấn Pastores Dabo Vobis số 29 đă khẳng định thật rơ: “Chức linh mục chỉ được phong ban cho những người đă lănh nhận từ Thiên Chúa hồng ân có được ơn gọi sống tinh khiết trong bậc sống độc thân.” Trong thế giới đề cao hưởng thụ hôm nay, “độc thân khiết tịnh” đang là một thách đố thật lớn cho các linh mục và các chủng sinh. Về vấn đề này, cha linh hướng là một người hướng dẫn, một người bạn thật quí giá. Hăy tin tưởng, tŕnh bày và bàn hỏi với ngài ngay từ lúc đầu, khi “cảm thấy có vấn đề.”

Đừng để đến khi “quá trễ”, “lửa gần rơm lâu ngày cũng cháy”, cháy rồi mới tŕnh bày. Các vấn đề nổi cộm hiện nay: Lạm dụng t́nh dục trẻ em, Lạm dụng t́nh dục phụ nữ trưởng thành (đĩ đực, Giuse ở Ai cập), “Sinh viên tầm gửi,” Đồng tính luyến ái, Thủ dâm…

 

B.VII.2 Tăng trưỞng đỜi sỐng thiêng liêng

B.VII.2a Dâng ngày, Thánh Lễ, Chuỗi Mân Côi

Chọn ư hướng dâng ngày cụ thể: mỗi ngày hoặc mỗi tuần một ư hướng. Ghi lại những khám phá thêm qua học hỏi, qua gương sáng, qua những cảm nhận về Thánh lễ (ví dụ: một lời nào đó trong Phụng vụ Lời Chúa, trong Kinh Nguyện Thánh Thể, chuẩn bị dâng lễ hay cám ơn sau rước lễ…). Chọn cho ḿnh một cách lần chuỗi Mân Côi (những ư chỉ cầu nguyện, t́m những tài liệu hướng dẫn…). Coi việc sống Mầu Nhiệm Thánh Thể, sùng kính Mẹ Maria và Thập giá là phương thế nâng đỡ và bảo đảm trung thành cho đời sống và sứ vụ chủng sinh hôm nay, và linh mục ngày mai.

 

    B.VII.2b Sách Thiêng Liêng

Trao đổi với cha linh hướng để có sách thiêng liêng thích hợp mà đọc. Ghi lại trong khung này: tên sách - tác giả - chủ đề đă đọc trong tháng. Tập ghi footnotes và bibliography. Ghi tóm tắt những cảm nghĩ, những khám phá giúp ích cho đời sống thiêng liêng… Đừng quan niệm môn Tu đức như đứng tách biệt với các môn học khác. Để nuôi dưỡng đời sống nội tâm và lớn lên trong đời sống thiêng liêng, ứng sinh phải được giúp cầu nguyện và chiêm ngắm trong và qua các môn học. Tu đức không phải là một môn học thuần túy lư thuyết, mà là một cuộc sống luôn được chỉnh sửa, canh tân và biến đổi, với tác động của Chúa Thánh Thần.

 

    B.VII.2c Xét ḿnh- Nhật kư Tĩnh tâm

“Hăy tự biết ḿnh” – “Xin cho con biết Chúa, xin cho con biết con.” Muốn thế, cần có sự xét ḿnh mỗi ngày. Trung thành như thế nào? Anh đă dùng cách nào để xét ḿnh? Để viết nhật kư đạo đức? Những khó khăn trong khi xét ḿnh, khi viết nhật kư đạo đức, khi tĩnh tâm? Những ích lợi nhận thấy được.

 

    B.VII.2d Nguyện gẫm

Mỗi người chọn cho ḿnh một cách nguyện gẫm thích hợp.

Phương pháp Xuân Bích đơn giản trong ba th́:[1]

·        Đặt Chúa Giêsu trước mắt (thờ lạy), nghĩa là chăm nh́n Chúa trong Phúc Âm, xem việc Chúa làm, lời Chúa giảng dạy, thái độ và tâm t́nh của Chúa;

·        Đặt Chúa Giêsu trong tim (hiệp thông) nghĩa là yêu mến Chúa và yêu mến như Chúa Giêsu yêu mến, ḥa cùng một nhịp tim với Chúa Giêsu;

·        Đặt Chúa Giêsu trên bàn tay (hợp tác), nghĩa là hành động bằng một lời dóc ḷng cụ thể khả thi để kiểm chứng lại khi xét ḿnh, nỗ lực đem Chúa Giêsu đến cho những người ḿnh gặp gỡ.

Tập viết lại bài nguyện gẫm đă thực hiện, theo phương pháp mà ḿnh đă chọn, để đọc lại hầu nuôi dưỡng đời sống thiêng liêng và trao đổi với vị Linh hướng. Ghi lại những tiến bộ hoặc khó khăn đang gặp đối với việc nguyện gẫm.

 

    B.VII.2e Viếng Thánh Thể

Mầu nhiệm Thánh Thể là nguồn suối và chóp đỉnh của đời sống và sứ vụ linh mục. Tập sống thân mật với Chúa Giêsu Thánh Thể, năng viếng Ḿnh Thánh Chúa. Chương tŕnh dành cho Chúa Giêsu Thánh Thể trong tuần (lúc nào? đă làm thế nào?). Viết lại tóm tắt những cảm nhận trong tháng đối với Chúa Giêsu Thánh Thể. “Hỡi những ai vất vả và gánh nặng, hăy đến với Ta, Ta sẽ bổ sức cho, và ḷng các con sẽ được b́nh an.” “Trong khi cầu nguyện, anh em hăy trao trút nỗi ḷng của anh em cho Chúa, v́ Người hằng thương yêu chăm sóc đến anh em.”

 

    B.VII.2f Đời sống bác ái huynh đệ

“Trên hết mọi đức tính, anh em phải có ḷng bác ái: đó là mối dây liên kết mọi điều tuyệt hảo” (Col. 3,14). T́nh huynh đệ giữa các linh mục là “t́nh huynh đệ Bí Tích.” Linh mục là “con người của tương quan” (PDV 43): Cuộc sống chung tốt đẹp cần những yếu tố nào? Cuộc sống chung nặng nề là do những nguyên nhân nào? Việc bác ái là một phương thế hữu hiệu giúp “tăng trưởng đời sống thiêng liêng.” Cần có những quyết tâm làm những việc bác ái cụ thể. Nỗ lực làm vô hiệu câu nói chua chát: “Homo homini lupus, mulier mulieri (soror sorori) lupior, sacerdos sacerdoti lupissimus.”

            Trông về tháp đổ nghiêng nghiêng

            Chạnh ḷng tưởng nhớ chuyện riêng của ḿnh

            Ước mong đời sống có t́nh

            Sầu thương vương nhẹ như h́nh mây bay

            Rồi ra phải trái có ngày

            Ai đời đi trả nợ nần chẳng vay

            Phù sinh một phút trắng tay

            Hơn nhau một chút dở hay ở đời

            Xét đoán là việc Chúa Trời

            Ai mà kết án những người anh em

            Mặt ḿnh cũng có lọ lem

            Tiên vàn lo rửa pha dèm làm chi!

            Hận thù hăy mau lấp đi

            Yêu thương xây dựng khắc ghi trí ḷng

            Làm sao đáng được khoan hồng

            Trong ngày thẩm phán chí công sau cùng

 

    B.VII.2g Kỷ Luật Chủng Viện

“Ai tuân giữ kỷ luật, kỷ luật sẽ ǵn giữ người đó.” Ghi lại những điểm nào về kỷ luật cảm thấy khó giữ và t́m biết nguyên nhân khó khăn? Ghi lại những kinh nghiệm cụ thể về những điểm kỷ luật đă thực hiện tốt?

 

B.VII.2h Hướng dẫn của Chúa Thánh Thần (những cảm nhận riêng)

Chúa Thánh Thần luôn hoạt động: Ngài sẽ nhắc các con mọi điều Thầy đă dạy các con; Ngài sẽ dạy các con phải nói ǵ và nói thế nào, và Ngài sẽ nói thay cho các con nữa… Ghi lại những khám phá, những điều đánh động một các đặc biệt (một gương sáng, một câu Phúc âm…)

 

    B.VII.3 THAO THỨC TÔNG ĐỒ

 

    B.VII.3a Thấu hiểu ơn gọi linh mục triều

Hiểu, khám phá, xác tín thêm ǵ về Ơn gọi Linh Mục Triều. Ước mơ ǵ? Chuẩn bị thế nào cho đời sống Linh Mục? Khai triển “Mô h́nh Linh Mục Hôm Nay và Ngày Mai” để phác họa và xây dựng cho chính ḿnh mẫu linh mục mà ḿnh sẽ thực hiện trong tương lai. Nếu tôi làm linh mục, tôi sẽ làm ǵ để: Dạy giáo lư, giảng.... (sứ vụ Tiên Tri); Tổ chức phụng vụ, lễ sinh, ca đoàn, pḥng thánh... (sứ vụ Tư Tế); Điều hành, hướng dẫn cộng đoàn: hội đồng giáo xứ, các đoàn thể, các công việc từ thiện xă hội... (sứ vụ Vương Đế). Hiện nay tôi thấy cần phải chuẩn bị ǵ để trở thành một “linh mục tốt” như ḷng Chúa mong ước?

 

    B.VII.3b Vấn Đề Cần Trao Đổi

Chủ động nêu ra các thắc mắc hay vấn đề muốn t́m hiểu thêm, muốn bàn hỏi thêm với cha linh hướng và các nhà đào tạo.

 

 

B.VIII. TrẮc NghiỆm Tâm Lư và Phân ĐỊnh Ơn GỌI

 

    B.VIII.1 Đông Lực và Những Giới Hạn 

V́ ảnh hưởng của lối sống buông thả luân lư và hưởng thụ khoái lạc, cùng những gương xấu và hậu quả tai hại của lạm dụng t́nh dục, nhiều người đ̣i hỏi các ứng sinh ơn gọi phải trải qua những trắc nghiệm tâm lư và tính dục.

 

Đối với tâm thức của người Việt Nam vốn rất dè dặt, nhất là trong lănh vực giới tính, việc này rất tế nhị và có nguy cơ tai hại là làm cho người ta bị cám dỗ nói dối, và nếu đă nói dối một lần, họ sẽ có cớ mạnh để tiếp tục nói dối nữa. V́ thế, những trắc nghiệm tâm lư nên chỉ được sử dụng giới hạn thôi, và không được dùng để điều tra lai lịch, moi móc những bí mật sâu kín, hầu đánh giá tính thích hợp toàn diện của ơn gọi ứng sinh.

 

Tuy nhiên, trắc nghiệm tâm lư ở những giai đoạn khác nhau của cuộc đời vẫn là hữu ích: khả năng và thái độ của ứng sinh có thể được kiểm tra và bất cứ khuyết điểm hay yếu kém tâm lư nào cũng có thể được chữa lành nhờ chữa trị hay tham vấn tâm lư. Nhưng nhà chuyên môn chỉ được phép t́m kiếm và tường tŕnh về những ǵ mà chính ứng sinh không biết hay không thể diễn tả và giải thích được. Hơn thế nữa, theo Đức Gioan Phaolô II, chúng ta phải quan tâm tới việc đào tạo các chuyên gia tâm lư: ngoài tŕnh độ khoa học cao, họ c̣n cần có sự hiểu biết đến nơi đến chốn quan điểm Kitô giáo về chức linh mục và đời sống ơn gọi linh mục nữa, hầu cung ứng sự trợ giúp hữu hiệu cho việc hội nhập cần thiết của các chiều kích nhân bản và siêu nhiên.

 

Đồng ư với quan điểm của Đức Thánh Cha, tiến sĩ Rick Fitzgibbons, chuyên gia tâm thần đề nghị rằng các chuyên gia tâm lư và tâm thần dấn thân cho nhiệm vụ quan trọng đặc biệt là đánh giá các ứng sinh linh mục phải tham dự các chương tŕnh đào tạo trung thành với giáo huấn của Hội Thánh về luân lư tính dục.

 

    B.VIII.2 Tiến Tŕnh

Cơ sở đào tạo sẽ cung ứng cho ứng sinh việc tham vấn cá nhân với một chuyên gia tâm lư/tâm thần. Cuộc đối thoại phải được giữ riêng tư và bí mật. Mỗi cá nhân được tự do gặp chuyên gia tâm lư/tâm thần khi nào tùy ư muốn. 

 

Khuôn khổ căn bản của việc tư vấn là một mô h́nh trị liệu ngắn, trong đó các kỹ thuật trị liệu tập trung vào các đề tài nổi cộm và những xung đột đă biết. Mục đích là làm cho ứng sinh được tư vấn có khả năng gia tăng các phương tiện có sẵn của ḿnh để hiểu rơ và giải quyết xung đột, đồng thời giúp ứng sinh trở thành người trị liệu cho chính ḿnh, nghĩa là giúp đương sự hội nhập các phương diện của câu chuyện đời, nhân cách và tâm linh của đương sự.

 

Thỉnh thoảng có những thiếu cân bằng hoá học khiến các cá nhân trải nghiệm sự chán nản và những chán nản này cần được chẩn đoán và chữa trị. Cũng tương tự như thế với một số t́nh trạng băn khoăn lo lắng. Phải hiểu vai tṛ chuyên gia tâm lư/tâm thần là trợ giúp ứng sinh hiểu biết toàn diện hơn về nhân cách của ḿnh. Do đó, ứng sinh hoàn toàn tín nhiệm chọn tư vấn với chuyên gia tâm lư/tâm thần được nhà đào tạo đề nghị. Sự tín nhiệm này vẫn c̣n nguyên vẹn, ngay cả khi nhà đào tạo đề nghị một tư vấn như thế nhằm cho ứng sinh trưởng thành ở mức độ sâu hơn.

 

B.VIII.3 Trắc Nghiệm Tâm Lư Trong Việc Tuyển Lựa và Đào Tạo Ứng Sinh

Theo bà Gladys A. Sweeney, có những ứng sinh xác tín rằng ḿnh có ơn gọi, nhưng động lực ơn gọi ấy đôi khi đến từ một ước muốn vô thức muốn tránh đời sống vợ chồng hoặc muốn chạy trốn những mối tương quan liên nhân vị. Khoa tâm lư giúp làm sáng tỏ các trở ngại này, và như thế giúp ích rất lớn, không những cho Giáo Hội mà c̣n cho chính ứng sinh nữa.

 

Việc sử dụng các phương tiện tâm lư và những cuộc phỏng vấn chẩn đoán làm cho người ta có thể thấy được chướng ngại mang bản chất tâm thần, t́nh cảm hay cơ chế thể lư đang ngăn cản ứng sinh tự do quyết định về ơn gọi của ḿnh, trong khi đó ơn gọi phải là một quyết định hoàn toàn tự do dựa trên t́nh yêu.

 

Việc đào tạo ứng sinh là một công cuộc lâu dài đ̣i hỏi một mức độ tự xem xét nội tâm và kiểm tra mạnh mẽ về chính bản thân. Trong thời kỳ đào tạo có thể xuất hiện các hiện tượng tâm lư kiểu như nỗi thống khổ, sự lo âu, những lúc căng thẳng, và chúng sẽ được dọn dẹp sáng sủa nhờ việc linh hướng. Cũng có những trường hợp phải kêu gọi đến sự giúp đỡ của các khoa học tâm lư. Trong trường hợp này, việc tham khảo một chuyên gia tâm lư có thể cứu văn được ơn gọi.

 

Một chuyên gia tâm lư có phẩm chất tốt là một nhà tâm lư học biết thấu đáo về những phát minh mới nhất của khoa học, đồng thời phải hiểu rơ viễn ảnh toàn tiện của chiều kích siêu nhiên của ơn gọi. Có thể rằng những thời kỳ lo âu hay chán nản không phải là phản ánh của t́nh trạng rối loạn chức năng tâm lư, nhưng đó là biểu hiện của giai đoạn nhất thời của đời sống thiêng liêng, như “đêm tối của linh hồn.” Trong trường hợp này, một khi giai đoạn ấy kết thúc, đương sự sẽ ở trong mức độ đời sống thiêng liêng cao hơn.

 

Nếu một chuyên gia tâm lư không hiểu biết ǵ về những phương diện siêu nhiên của ơn gọi, mà chỉ thấy đó là những rối loạn chức năng tâm lư, th́ chuyên gia tâm lư ấy đă làm điều xấu hơn điều tốt, v́ đă cản trở sự phát triển đời sống thiêng liêng của ứng sinh. Trái lại, nếu đó chỉ là một vấn đề tâm lư th́ thật là sai lầm khi coi nó như một vấn đề thiêng liêng. V́ thế, các chuyên gia tâm lư được đào tạo kỹ lưỡng về tŕnh độ tri thức và thiêng liêng có thể giúp ích rất nhiều, không những trong việc tuyển chọn mà c̣n đào tạo ứng sinh linh mục nữa.

 

Một cái nh́n toàn diện về con người là một cái nh́n bao gồm mọi khía cạnh: tâm lư, thiêng liêng và luân lư. Những ai có vấn đề về tâm lư thường có khuynh hướng quyết định một cách thiếu khôn ngoan, đi ngược với bản tính nhân loại, và đôi khi c̣n theo cách vô luân nữa. Trong trường hợp này, khoa tâm lư học phải can thiệp để giải thoát ư chí hầu ứng sinh có thể thấy được các trạng huống cách khách quan, phân biệt cách khôn ngoan việc phải làm và làm trong đường lối luân lư và nhân đức. Bấy giờ, khoa tâm lư phục vụ sự thật, và giúp “uốn cho ngay đường của Chúa” hầu con người biết chọn điều thiện.

 

    B.VIII.4 Liên Quan Đến Độc Thân Thánh Hiến

Cần phải cẩn trọng và khôn ngoan giải thích cách đầy đủ cho ứng sinh biết đời sống tu tŕ và độc thân thánh hiến đích thực là ǵ, để ứng sinh hiểu được mục đích của việc đào tạo và cộng tác cách tốt hơn với Chúa Thánh Thần qua vị linh hướng.

 

Ngay trước khi chịu chức hay tuyên khấn, ứng viên đă phải hiểu đầy đủ và phát triển cách thích hợp động lực t́nh cảm, t́nh yêu trưởng thành và nồng nhiệt cho Đức Giêsu, hy vọng sống động v́ Nước trời, và ḷng nhiệt thành hăng hái giúp tha nhân vào Nước Trời. Ứng sinh phải tiết dục hoàn toàn và sống đức thanh khiết cách b́nh an, không bị dục vọng thiêu đốt, nhờ đó sẽ được chắc chắn về mặt luân lư trước lời hứa sống độc thân khiết tịnh của ḿnh.

 

Với một đời sống thiêng liêng trưởng thành, ứng sinh sẽ thấy đời sống độc thân khiết tịnh là quà tặng thiêng liêng của Chúa v́ phần rỗi của loài người hơn là một gánh nặng. Do đó, chủ đề giới tính là nhu cầu khẩn cấp trong chương tŕnh đào tạo nhân bản và thiêng liêng cho ứng sinh.

Theo những khám phá mới đây của John Jay College of Criminal Justice th́ cơn khủng hoảng trong Giáo Hội là đồng tính luyến ái (phần lớn các nạn nhân không phải là trẻ em). Nỗi cô đơn và thiếu tự tín là nguyên nhân của sự hấp dẫn đồng giới. Nhưng các hấp dẫn này được giải quyết với sự trợ giúp của Chúa. Đức thanh khiết nên được tŕnh bày như một đường lối lành mạnh của cuộc sống. Hỏi ứng sinh xem họ thích người khác giới hay đồng giới thôi th́ chưa đủ. Phải giúp ứng sinh nỗ lực đối mặt và giải quyết các xung đột t́nh cảm của y nhờ tâm lư trị liệu và linh hướng.

 

Những ứng sinh có các hấp dẫn đồng tính phải trải qua tư vấn và trị liệu tâm lư, và chỉ những ai đă hoàn toàn trị liệu thành công mới được phép tiếp tục. Ứng sinh ấy sẽ không được chịu chức hay khấn cho đến khi các xung đột này được chữa lành và không c̣n bị coi là đồng tính luyến ái (x. Huấn Thị của Bộ Giáo Dục Công Giáo về đồng tính luyến ái ngày 04-11-2005).

 

Trong lănh vực này, các nhà đào tạo có một chương tŕnh rộng lớn và thách thức để phát triển, nhất là làm gương sáng. Gương sáng hiệu quả hơn các thuyết giảng của họ: Ở đâu sự độc thân khiết tịnh được sống cách sung măn và vui tươi, ở đó đời sống thiêng liêng sẽ được sống cách cao độ. Phải dạy ứng sinh hiểu được ư nghĩa đích thực của đời độc thânkhiết tịnh và hiểu lư do tại sao Hội Thánh đ̣i hỏi phải sống độc thân khiết tịnh, đồng thời phải học tận dụng các phương tiện nhân bản và siêu nhiên để sống cam kết này cách vui tươi.

 

Những mối tương quan lành mạnh với cả hai giới làm nên một phần quan trọng trong việc giáo dục và phân định liên quan đến đời sống độc thân khiết tịnh. Các nhà đào tạo đóng vai tṛ ch́a khóa trong việc đào tạo đời sống độc thânkhiết tịnh. Chính họ phải hội nhập tốt lănh vực giới tính và đời sống độc thân khiết tịnh. Đời sống độc thân khiết tịnh gắn liền với các nhân đức Phúc âm khác là khó nghèo và vâng phục. V́ thế, đào tạo sống đời độc thân khiết tịnh phải đi đôi với đào tạo sống giản dị và vâng lời có trách nhiệm.

 

Chúng ta có thể kết luận với Đức Gioan Phaolô II: “Bảo đảm tốt nhất của đời sống độc thân nằm ở việc đào tạo đúng đắn và quân b́nh cho các ứng sinh. Họ được mời gọi tha thiết nắm giữ, với vui mừng và quảng đại, một lối sống khiêm nhường, giản dị và thanh khiết, vốn là nền tảng thực hành của đời sống độc thân khiết tịnh của Hội Thánh” (John Paul II, On Psychology and Candidates for the Priesthood, Vatican 21/2/ 2002).

 

 

B.IX. TRỞ THÀNH ỨNG SINH LINH MỤC

 

    B.IX.1 Con đường ơn gọi phát sinh từ một cuộc đổi đời
    B.IX.1a Trở thành Ứng sinh Linh mục là:

·        Chia cắt với cái đi trước, nghĩa là người đang trở thành ứng sinh linh mục từ bỏ một cách sống, một cách hiểu biết đối với Thiên Chúa, với vũ trụ, với chính ḿnh và tha nhân, tức là con người trần thế bấy lâu nay của ḿnh. Thánh Phaolô khuyên “quên hẳn đàng sau, nhắm phía trước mà chạy tới.”

·        Mở ra với những ǵ đang đến, nghĩa là một hiện hữu mới, một ư nghĩa độc đáo và bất ngờ đối với cái đi trước. Như thế, sự trở thành mở đường vào cuộc sống ứng sinh linh mục là một sự xé rách, một thứ cái chết, nhưng rách để lành, chết để sống; đó là một thứ biến đổi một mất một c̣n.

(Slideshow Chuyện chim ưng)

 

Dường như có một đổ vỡ giữa người thanh niên và ứng sinh linh mục. Thật thế, khi anh đang bước vào đời ứng sinh linh mục, anh dường như không c̣n sống như một thanh niên b́nh thường nữa, mà sống như một con người thiêng liêng, dù vẫn c̣n có con người trần tục trong chính ḿnh. Tính lưỡng diện này vẫn tồn tại lâu dài, có khi suốt cả cuộc đời nữa, trải qua những chiến đấu, ḍn mỏng… với thành công và có khi thất bại nữa: “Ai từng chiến thắng mà không hề chiến bại? Ai nên khôn mà chẳng dại đôi lần? Nhưng đây chưa phải trận sau cùng chiến đấu!” (Nguyễn Thái Học).

 

    B.IX.1b Một kinh nghiệm đổ vỡ

Ta có thể nh́n kinh nghiệm đổ vỡ (sự chia cắt và cái chết) nầy qua h́nh ảnh Abraham cắt đứt mọi mối quan hệ cộng đồng và yêu thương với gia đ́nh, với đồng bào và thiên nhiên, rời bỏ quê hương để đi t́m một quê hương mới, hầu được triển nở thành thủ lănh / cha một dân tộc. Như thế, hành tŕnh theo ơn gọi bẻ găy tính thuần nhất của những ǵ đă nhận lănh trong cuộc đời, ghi khắc một đổ vỡ và thay đổi các giá trị vốn có.

 

Ứng sinh không sợ nói lên kinh nghiệm bản thân để mô tả thứ thanh tẩy cần thiết hầu đi vào hành tŕnh thiêng liêng, chuẩn bị tiến tới chức linh mục. Muốn thế, cần có tín nhiệm lẫn nhau thực sự trong việc linh hướng. Cái quan trọng là có nơi mỗi người một biến cố lịch sử đánh dấu thời khắc trở thành ứng sinh linh mục, và thời khắc đó được sống thường xuyên trong tất cả công cuộc t́m kiếm và thực thi thánh ư Chúa: Linh mục sống căn tính linh mục suốt cả đời (x.Biến cố ngă ngựa của Saolô).

 

Biện chứng pháp dẫn ta từ đối chọi tiền đề – phản đề đến một quan điểm mới (hợp đề). Cũng thế, mỗi một đổ vỡ mở ra một khởi đầu mới: Tiền đề ↔ Phản đề → Hợp đề; Hợp đề này = Tiền đề mới ↔ Phản đề mới → Hợp đề mới = Tiền đề mới ….

 

            Sự kiện người đi tu xem ra hiện hữu tách biệt với người đời khiến người ta than phiền đi tu là cắt khỏi cuộc sống (xuất thế). Nhưng một cách nào đó đời tu đ̣i lại sự chia tách nầy (nhập thế) và khoảng cách giữa tu và không tu là một dữ kiện có một ư nghĩa hữu lư: sống một cách khác hợp với chọn lựa của đời ḿnh. Đổ vỡ nầy đánh dấu sự khởi đầu của tất cả mọi cuộc đời.

 

    B.IX.2 Chết cho cái cũ để sống cho cái mới

            Phải chăng tu và không tu có mâu thuẫn và loại trừ lẫn nhau, và mối tương quan được định nghĩa bằng cái chết? Có thể nói đây là một bạo lực ngọt ngào: giết chết cái chất trần tục trong con người ḿnh, để cuối cùng được sinh ra trong con người tu: “Anh em hăy mặc lấy con người mới đă được Đức Kitô Phục Sinh biến đổi.” “Phàm ai ở trong Đức Kitô đều là thọ tạo mới. Cái cũ đă qua đi và cái mới đă có đây rồi” (2 Cr 5:17).            Trong sự thay đổi đó, tinh thần theo Chúa Kitô là chủ đạo: thay đổi con tim, tâm thức, lối sống và cuộc sống.       

 

            Luật của sự sống và sinh trưởng là thay đổi, và mỗi chặng đường sinh trưởng của con người đều được ghi dấu bằng những thay đổi quyết định. Và đó là tiến tŕnh lâu dài của một công cuộc hợp tác đào tạo và tự đào tạo, vừa thần linh vừa nhân loại. Đời sống ơn gọi sẽ theo tiến tŕnh năm bước này:

-         Chính Chúa cất tiếng gọi, trực tiếp hoặc gián tiếp.

-         Ứng sinh đích thân đáp lại.

-         Ứng sinh cam kết theo chính Chúa Kitô toàn thể.

-         Ứng sinh biến đổi và điều chỉnh cuộc sống ḿnh cho phù hợp với đời sống ơn gọi linh mục.

-         Ứng sinh kiên tŕ dấn thân phục vụ Chúa trong tha nhân qua việc chịu chức.

                       

Việc biện phân nghiêm túc sẽ dẫn tới hai kết quả này: Hoặc anh không có ơn gọi: anh nên đổi hướng sống trong b́nh an, đồng thời bước theo con đường Chúa mời gọi anh đi với can đảm và hạnh phúc; hoặc anh có ơn gọi: anh tiếp tục đi tới với niềm vui tươi, hy vọng và hạnh phúc, mặc dù anh sẽ gặp thấy những khó khăn và đen tối trong cuộc sống lữ hành của anh.

 

            Tuy nhiên, mặc dù anh tự kiểm một cách nghiêm túc, anh vẫn không thể tuyệt đối chắc chắn về ơn gọi của ḿnh. Anh cần được sự linh hướng thích hợp. Sự chấp thuận của Bề Trên Giáo Hội sẽ hoàn tất chọn lựa này và làm cho anh an tâm. Nói cách khác, sự chọn lựa và quyết định với tự do nội tâm của anh (ṭa trong) phải được xác lập và công nhận bởi thẩm quyền Giáo Hội (ṭa ngoài): Hội đồng Chủng viện bỏ phiếu quyết định (biểu lộ sự kêu gọi của Chúa), có thể được trợ giúp bởi việc tham khảo (lượng định) của Cộng đoàn Dân Chúa.

 

Muốn cho việc hướng tới đời sống mới này thành công, chúng ta phải đặt ḿnh trong tay Chúa.

(Slideshow Dụ ngôn cây viết ch́)

 

 

C. KỸ NĂNG CHUYÊN BIỆT: LINH HƯỚNG

 

Lạy Chúa, Ngài ḍ xét con và Ngài biết rơ,

Biết cả khi con đứng con ngồi.
Con nghĩ tưởng ǵ, Ngài thấu suốt từ xa,
Đi lại hay nghỉ ngơi, Chúa đều xem xét,
Mọi nẻo đường con đi, Ngài quen thuộc cả.

Miệng lưỡi con chưa thốt nên lời,
Th́ lạy Chúa, Ngài đă am tường hết.
Ngài bao bọc con cả sau lẫn trước,
Bàn tay của Ngài, Ngài đặt lên con.

 

Kỳ diệu thay, tri thức siêu phàm,
Quá cao vời, con chẳng sao vươn tới!
Đi măi đâu cho thoát thần trí Ngài,
Ẩn nơi nào cho khuất được Thánh Nhan?

Con có lên trời, Chúa đang ngự đó,
Nằm dưới âm ty, vẫn gặp thấy Ngài.
Dù chắp cánh bay từ phía hừng đông xuất hiện,
Đến ở nơi chân trời góc biển phương tây,
Tại đó cũng tay Ngài đưa dẫn,
Cánh tay hùng mạnh giữ lấy con.

Tv 139, 1-10

 

 

    C.I. NhỮng ư niỆm khỞi đẦu

            (Slideshow Chúa ở khắp nơi)

Điều mà vị linh hướng khám phá về người thụ hướng ở toà trong sẽ không được tiết lộ ra ở toà ngoài. Dữ kiện này có cùng một qui chế như ấn toà giải tội. Điều này không những để bảo vệ người thụ hướng, mà c̣n cống hiến cho anh sự tín nhiệm và tin tưởng rằng điều ǵ anh đă bộc lộ ở ṭa trong vẫn được giữ bí mật. Chính niềm tín nhiệm và bảo đảm này mang lại sự chữa lành tận gốc các căn bệnh.

 

Đào tạo thiêng liêng là công việc của Chúa Thánh Thần và Ngài là vị linh hướng đích thực. Ngài dẫn dắt mỗi một người theo một con đường riêng biệt: đừng t́m cách giống như người khác và cũng đừng bắt người khác giống ḿnh. Mỗi người phải tự khám phá ra con đường Chúa Thánh Thần dẫn dắt ḿnh đi, nhờ vị linh hướng giúp đỡ, v́ Ngài dùng người này để dẫn dắt người kia.

 

Tiến tŕnh đào tạo và tự đào tạo thiêng liêng được đặt dưới sự hướng dẫn trực tiếp và được củng cố bằng các thực hành:

-         Bề Trên có những buổi huấn đức thường kỳ và bất thường,

-         Ứng sinh luôn được đồng hành và đều đặn linh hướng riêng tư,

-         Sự tương tác ảnh hưởng của các nhà đào tạo và nội dung của các môn học giúp suy niệm, cầu nguyện và sống đời sống tu đức.

-         Chia sẻ và trợ giúp theo nhóm, dưới sự hướng dẫn của một nhà đào tạo.

 

Mỗi ứng sinh linh mục buộc phải có một vị linh hướng. Tu sĩ không nhất thiết buộc, nhưng nên có. Ngày nay, vị linh hướng có thể là linh mục, tu sĩ và giáo dân, v́ nhiều lư do, miễn là được Chúa Thánh Thần dùng, được đào tạo thích đáng và được thẩm quyền ủy thác. Vị linh hướng chỉ là dụng cụ của Chúa Thánh Thần: ngài hướng dẫn ứng sinh, nhưng chính ngài cũng được hướng dẫn bởi Chúa Thánh Thần và vị đồng hành thiêng liêng của ngài.

 

Người hướng dẫn phải nỗ lực khám phá ra con đường Chúa Thánh Thần muốn cho người được hướng dẫn của ḿnh, để giúp người đó nhận ra, điều chỉnh và theo sát con đường độc đáo đó, chứ không được áp đặt con đường của ḿnh, dù tốt đến đâu chăng nữa, nhưng không tốt và thích hợp cho người thụ hướng.

 

Người ta cần có sự tín nhiệm thật sự để bộc lộ hết cho nhau. Sự tín nhiệm nầy đ̣i hỏi sự hợp tác của cả hai phía, với ơn Chúa, để đi vào thế giới tâm hồn của nhau. Thông thường cần có thời gian cho ḷng tín nhiệm triển nở, không thể đốt giai đoạn, áp đặt hay cưỡng bách được. Vậy khi người thụ hướng chưa nói hết được với vị linh hướng những ǵ cần thiết, phải kể như chưa nói v́ chưa tín nhiệm nhau đủ, chứ không phải cố t́nh giấu giếm. Cả hai đều phải nghĩ như vậy để được b́nh an tâm hồn, không bị áy náy, mặc cảm “có lỗi” che đậy dối trá. Dĩ nhiên phải khắc phục chấm dứt t́nh trạng nầy, nếu không th́ phải thay đổi người đồng hành, hầu đạt được đúng ư nghĩa và mục đích của việc linh hướng.

Việc linh hướng đ̣i chuẩn bị nghiêm túc về cả hai. Vị linh hướng sẽ rất an ḷng và vui mừng làm linh hướng cho những người chuẩn bị nghiêm túc các vấn đề căn bản hướng về chiều sâu đời tu (cần ghi ra, kẻo quên). Nhưng lại rất ái ngại, lo âu và nặng ḷng khi gặp người có vẻ hời hợt, thiếu chuẩn bị, đề cập những cái phụ tùy cho “qua giờ” hơn là đi vào trọng tâm con đường lư tưởng.

 

Người nghệ sĩ chỉ dùng nguyên vật liệu có sẵn để làm nên tác phẩm nghệ thuật, chứ không sáng tạo ra được nguyên vật liệu, vốn là công việc chỉ thuộc về Đấng Tạo Hóa. Việc linh hướng quả là một nghệ thuật cao hơn nữa: vị linh hướng không lấy cái ḿnh có, nhưng lấy cái của Chúa mà nắn đúc người thụ hướng. Đó là một công cuộc hợp tác hết sức quan trọng, không những giữa hai con người với nhau, mà c̣n với Chúa, và những người liên hệ khác nữa.

 

Có rất nhiều khía cạnh và vấn đề cần được đề cập đến trong tiến tŕnh ơn gọi, trong đó có những vấn đề mà chính ứng sinh phải tự ḿnh đối diện, trắc nghiệm bản thân, lượng lấy sức và tự giải quyết.

 

Chỉ có Chúa Thánh Thần mới biết đầy đủ và có thể biến đổi một con người: “Bất cứ sự thay đổi đích thực và bền lâu nào cũng đều chỉ đến từ Chúa Thánh Thần, Đấng hoạt động trực tiếp trên mỗi người và trong mọi hoàn cảnh.” Nhưng đừng quên yếu tố thời gian: không ai một sớm một chiều mà nên thánh hay thành ác quỷ! Thiên Chúa luôn nhẫn nại hơn con người.

 

Do đó, ở toà trong, vị linh hướng không chỉ thụ động lắng nghe, song phải sẵn ḷng và có khả năng thách đố và đối đầu, khi sự việc đ̣i hỏi, để giúp ứng sinh trải qua một tiến tŕnh phân định ơn gọi đích thực.

 

Khi đánh giá ứng sinh, vị linh hướng không bao giờ được lên tiếng để kết án, hay để bảo vệ; song phải im lặng khi hội đồng nói về người thụ hướng của ḿnh, dù ṭa ngoài không có được sự hiểu biết chắc chắn như ṭa trong về nội tâm ứng sinh. Sự bảo mật này nhằm bảo đảm cho tự do nội tâm của ứng sinh. Nhưng nhờ nghe trong hội đồng những quan điểm khác quan điểm của ḿnh về người thụ hướng, vị linh hướng có được thêm thông tin về những yếu tố khác, nhờ đó ngài sẽ phân định tốt hơn và chọn lựa sự giúp đỡ thích hợp hữu hiệu hơn cho người thụ hướng của ḿnh.

 

Quyết định ṭa ngoài phải được giải thích cho ứng sinh ấy, để anh cố gắng hiểu, chấp nhận quyết định đă được đưa ra, và nỗ lực khắc phục, biến đổi nên tốt. Ở Việt Nam, quyết định xuất tu chịu áp lực và ảnh hưởng sâu xa bởi gia đ́nh, xă hội, cũng như bởi cảm thức xấu hổ, ân nghĩa và t́nh bạn bè. Thẩm quyền hữu trách nên quan tâm hướng dẫn anh làm một chọn lựa đúng đắn và giúp anh vượt qua các khó khăn ấy.

 

Mọi người đều biết rằng quyết định dứt khoát của toà trong ăn khớp với lương tâm của ứng sinh.           Điều này cần đào tạo một lương tâm trưởng thành và vị linh hướng phải dự phần trong đó. Việc linh hướng và phân định thiêng liêng rất tế nhị và khó khăn đối với con người trong việc đồng hành ứng sinh trên đường tới Chúa. Hoạt động này bao gồm mọi chiều kích của đời sống, nhân bản và thiêng liêng, tự nhiên và siêu nhiên.

 

Sau khi đă chú ư lắng nghe với biện phân và khiêm tốn, vị linh hướng có thể khám phá được người thụ hướng được Chúa gọi hay không. Nếu có, ngài xác định cho anh tiếp tục đi tới với niềm vui tươi, hy vọng và hạnh phúc, mặc dù anh sẽ gặp thấy những khó khăn và đen tối trong cuộc sống lữ hành của anh. Nếu không, ngài nên gợi ư cho anh đổi hướng sống trong b́nh an, đồng thời bước theo con đường Chúa mời gọi anh đi với can đảm và hạnh phúc.

 

Chúa Giêsu là nhà đào tạo và vị linh hướng tuyệt vời: Cây lau đă rạp xuống Ngài không bẻ găy, tim đèn c̣n leo lét khói Ngài không dập tắt; nh́n nhận thực tế, nhưng không dừng lại ở thực tế, mà hướng về tương lai được biến đổi tốt đẹp hơn; tha thứ, nhưng vẫn đ̣i hỏi gắt gao (“tội con đă được tha, hăy đi bằng an và đừng phạm tội nữa”; “Ngươi đă được lành bệnh, đừng phạm tội nữa, kẻo khốn khổ hơn trước); Quên lỗi quá khứ, cư xử như với một con người mới (không có lỗi) và tin tưởng giao trách nhiệm (cho Phêrô: hăy chăn chiên của thầy; cho Madalêna: hăy đi báo với anh em là họ sẽ gặp Thầy ở Galilê), v.v…

 

Chúa Giêsu kết án tội, chứ không kết án người có tội. Giới biệt phái và luật sĩ nghiêm túc giữ và bảo vệ lề luật đạo đức, nhưng lại luôn chôn cứng và khóa chặt người ta trong lỗi lầm hiện tại và định kiến bất di bất dịch. Họ chỉ thấy t́nh trạng tội lỗi mà không thấy t́nh trạng được tha thứ và biến đổi; chỉ thấy t́nh trạng trước mà không muốn thấy t́nh trạng sau: “Mỗi vị thánh đều có một quá khứ, và mỗi tội nhân đều có một tương lai.” Đời người là cả một hành tŕnh theo ánh sao đi t́m gặp Chúa, một cuộc gặp gỡ đổi đời, lật sang trang mới: Một linh hồn vươn ḿnh lên được sẽ nâng cả thế giới lên.     

 

Có thể xảy ra trường hợp thiếu hoặc mất tín nhiệm, th́ “việc đổi linh hướng là luôn có thể và đôi khi đáng ao ước nữa.” Ứng sinh có thể đề nghị trước. Đôi khi, vị linh hướng sẽ yêu cầu ứng sinh đi linh hướng với người khác, v́ nghĩ rằng ḿnh sẽ không thể tiếp tục trách nhiệm ấy được nữa.”

 

 

    C.II. ĐỊnh nghĩa

Linh hướng là nghệ thuật của mọi nghệ thuật. Làm sao đi vào thế giới nội tâm của ứng sinh để khám phá được Chúa kêu gọi anh, từ các vấn đề thực tế đời sống của anh trong tương quan với Chúa và tha nhân? Làm sao phân định được điều Chúa nói với ứng sinh qua vị linh hướng? Làm sao giúp ứng sinh quyết định cuộc đời anh với ư thức, hiểu biết, trưởng thành và tự do nội tâm? Làm sao biết được ư Chúa cho vị linh hướng qua ứng sinh được đồng hành?

 

Linh hướng là một công tác mục vụ đặc biệt nhằm:

-  giúp ứng sinh lớn lên trong tương quan với Chúa Cha,

-  cởi mở đáp lại Chúa Kitô

-  và sẵn sàng để Chúa Thánh Thần hướng dẫn,

-  ngơ hầu biết phân định ơn gọi của ḿnh

-  và chuẩn bị cho sứ vụ của ḿnh trong Giáo Hội.

 

Linh hướng là một tiến tŕnh trưởng thành liên nhân vị, qua đó tiếng gọi của Chúa được lắng nghe và đáp lại trong đức tin. Linh hướng nhằm nuôi dưỡng một con tim phân định can đảm đang t́m khám phá để đạt được ư Chúa. Linh hướng trước hết liên hệ với sự trưởng thành toàn diện trong đức tin, trong khi đối mặt kịp thời với các vấn đề và khủng hoảng để kích thích đức tin phát triển. Việc linh hướng sẽ hữu hiệu khi sự trưởng thành được biểu lộ rơ nét trong sự gia tăng t́nh thương, ḷng trung thành và trách nhiệm.

 

Việc linh hướng cung cấp một bầu khí yêu thương vô điều kiện, là môi trường của bầu khí cầu nguyện. Tiên vàn đó là công việc của Chúa Thánh Thần, và vị linh hướng phải học biết làm cho dễ dàng, chứ không cản trở hoạt động của ơn thánh. Dù có tính cách liên nhân vị, việc linh hướng mang chiều kích cộng đồng và Giáo Hội rất cao. Nó nuôi dưỡng viễn ảnh toàn diện và cánh chung, nội tại lẫn siêu việt.

 

    C.III. Các nguyên tẮc chung

Việc linh hướng thường nhắm đến những mục đích sau:

-         Giúp sống tương quan mật thiết với Chúa;

-         Giúp trực tiếp thưa chuyện với Chúa và lắng nghe những ǵ Ngài chỉ dạy;

-         Giúp nhận ra và sống những kinh nghiệm thực tế trong tương quan với Thiên Chúa: kinh nghiệm sống đạo đối với việc linh hướng cũng giống như thực phẩm đối với việc nấu nướng;

-         Giúp lưu tâm đáp lại tiếng Chúa mời gọi để càng ngày càng sống thân mật với Ngài hơn;

-         Giúp biết luôn đặt ḿnh trước mặt Chúa bằng cả con người và trong suốt cuộc đời ḿnh;

-         Giúp ư thức trách nhiệm của ḿnh để duy tŕ và phát huy trong ánh sáng của Chúa Thánh Thần, Ngài vốn là vị linh hướng đích thực;

-         Giúp t́m được con đường mà Chúa mời gọi, để chọn lựa phù hợp ư Chúa, với ư thức và tự do nội tâm.

 

Theo Đức Gioan Phaolô II, ta nên tạo ra thói quen sống thân mật với Chúa Kitô như là người bạn trong mọi chi tiết đời sống ḿnh và sống mầu nhiệm phục sinh của Chúa để biết cách khai tâm cho những người được trao phó cho ḿnh coi sóc (Pastores Dabo Vobis, số 45).

 

Giai đoạn đào tạo thiêng liêng của Năm Tu Đức là giai đoạn khởi đầu nền tảng, và sẽ được tiếp tục khai triển, đào sâu trong những năm kế tiếp. Giai đoạn này được triển nở qua việc đào sâu và sống linh đạo linh mục triều (nên đồng h́nh đồng dạng với Chúa Kitô để sống hết ḿnh cho Chúa Cha trong sự dẫn dắt và tác động của Chúa Thánh Thần), làm linh hướng, đời sống cầu nguyện và đời sống nội tâm, thông qua việc thực hành hài hoà giữa toà ngoài và toà trong, nhằm giúp ứng sinh có đủ tự do lương tâm trong việc quyết định đời sống ơn gọi của ḿnh.

 

Tiến tŕnh đào tạo và tự đào tạo thiêng liêng được đặt dưới sự hướng dẫn trực tiếp và được củng cố bằng ba cách thực hành:

-         Bề Trên có những buổi huấn đức thường kỳ và bất thường,

-         Ứng sinh luôn được đồng hành và đều đặn linh hướng riêng tư,

-         Chia sẻ và trợ giúp theo nhóm, dưới sự hướng dẫn của một nhà đào tạo.

 

Trong tiến tŕnh đào tạo này, việc linh hướng chiếm một chỗ rất quan trọng, nhằm giúp ứng sinh kinh nghiệm về Chúa và sự hiện diện của Ngài, khám phá ra đường lối Chúa kêu gọi và anh đáp lại với tự do nội tâm, dấn thân đi theo và sống tương quan thân mật với Chúa, nhận rơ trách nhiệm của ḿnh và phát triển nó dưới sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần. Hầu hết các văn kiện mới đây viết về việc linh hướng đều nhấn mạnh rằng người thụ hướng phải chủ động trong quan hệ với vị linh hướng. Lịch gặp gỡ và đề tài thảo luận phải đáp ứng được với nhu cầu của người thụ hướng.

 

Vị linh hướng cũng phải tích cực làm cho việc đào tạo thiêng liêng của người thụ hướng được dễ dàng. Một số linh mục ḍng được mời hướng dẫn các kỳ tĩnh tâm thường niên hay các khoá phân định ơn gọi để đảm bảo một sự đánh giá khách quan về mức độ trưởng thành của các ứng sinh.

 

Cuộc sống nội tâm của ứng sinh cần được cổ vũ nhờ các phương tiện thiêng liêng để thánh hoá bản thân:

-   hợp nhất với Chúa Kitô trong mọi trạng huống của cuộc sống;

-   sống nhờ hai bàn tiệc Lời Chúa và Thánh Thể, được cử hành trong Thánh Lễ và được sùng kính trong Nhà Tạm;

-   tự xét lương tâm hằng ngày;

-   đọc sách thiêng liêng để t́m ư Chúa nhờ tác động của Chúa Thánh Thần;

-   các dấu chỉ thời đại và các biến cố cuộc sống;

-   ḷng sùng kính Trinh Nữ Maria, Nữ vương hàng giáo sĩ; 

-   các cuộc tĩnh tâm và linh hướng;

-   và các dạng khẩu nguyện, tâm nguyện và suy nguyện khác.

 

C.IV. Ba MỐi Tương Quan KHÉP KÍN trong viỆc   linh hưỚng: Chúa Thành ThẦn - Ứng Sinh –VỊ linh hưỚng

 

Chúa Giêsu là vị linh hướng tuyệt vời:

·        Ngài nh́n nhận thực tế, nhưng không dừng lại ở thực tế, mà hướng về tương lai được biến đổi tốt đẹp hơn;

·        Tha thứ, nhưng vẫn đ̣i hỏi gắt gao (“tội con đă được tha, hăy đi bằng an và đừng phạm tội nữa”;

·        Đ̣i hỏi sự bền vững: Anh đă được lành bệnh, đừng phạm tội nữa, kẻo khốn khổ hơn trước);

·        Quên lỗi quá khứ, cư xử như với một con người mới (không có lỗi) và tin tưởng giao trách nhiệm (hăy chăn chiên của thầy, hăy đi báo với anh em là họ sẽ gặp Thầy ở Galilê), v.v…

·        Chúa Giêsu kết án tội, chứ không kết án người có tội.

 

Giới biệt phái và luật sĩ nghiêm giữ và bảo vệ lề luật đạo đức, nhưng lại luôn chôn cứng và khóa chặt người ta trong lỗi lầm hiện tại và định kiến bất di bất dịch. Họ chỉ thấy t́nh trạng tội lỗi mà không thấy t́nh trạng được tha thứ và biến đổi; chỉ thấy t́nh trạng trước mà không muốn thấy t́nh trạng sau. Đời người là cả một hành tŕnh theo ánh sao đi t́m gặp Chúa, một cuộc gặp gỡ đổi đời, lật sang trang mới: Một linh hồn vươn ḿnh lên được sẽ nâng cả thế giới lên. Phúc thay ai chọn được vị linh hướng theo mô h́nh Chúa Giêsu!

 

    C.IV.1 Tương quan vị Linh hướng với Chúa Thánh Thần

Vị linh hướng cần làm quen với những kinh nghiệm năng động trong đời sống thiêng liêng, để tập trung lắng nghe Chúa, và để Chúa Thánh Thần hướng dẫn và nói qua ngài vào những lúc quyết định.

 

Với một cảm thức trực giác trong đời sống cầu nguyện, ngài cảm nhận được dấu chỉ sự hiện diện của Chúa Thánh Thần trong cuộc đời ḿnh, nhờ đó ngài sẽ là một hiện diện đem lại an tĩnh, tập trung và có thể trở nên gương mẫu cho người thụ hướng.

 

Mối tương quan với Chúa Thánh Thần giúp ngài duy tŕ thế quân b́nh của sức mạnh tâm lư và thiêng liêng cần cho việc linh hướng. Chúa có thể dùng tất cả con người của vị linh hướng để làm cho người thụ hướng tương quan với Chúa.

 

    C.IV.2 Tương Quan Ứng Sinh Với Chúa Thánh Thần

Quan niệm tiên quyết là nhận biết rằng Chúa Thánh Thần là vị linh hướng đích thực.

 

Ứng sinh được trợ giúp để lớn lên trong tự do nội tâm, phát triển một mối tương quan cá nhân thân mật sâu xa với Chúa, phân định và nhận ra điều ǵ Chúa mời gọi anh thực hiện trong hoàn cảnh đặc biệt này? Vị linh hướng giúp bằng cách gọi tên những hỗ trợ và cản trở hay chướng ngại đưa tới thân mật với Chúa.

 

    C.IV.3 Tương Quan Ứng Sinh Và Vị Linh Hướng

Vai tṛ của vị linh hướng rất quan trọng. Mỗi ứng sinh phải có vị linh hướng riêng, được chọn trong số các nhà đào tạo nội trú trọn thời gian. Mối tương quan này luôn thuộc về toà trong, nghĩa là tính bí mật luôn được bảo vệ cẩn thận.

 

Chúa Thánh Thần hướng dẫn mỗi người theo một đường lối rất đặc biệt. Cả vị linh hướng lẫn người thụ hướng đều phải khám phá ra đường lối ấy. Vị linh hướng phải giúp người thụ hướng tự ḿnh khám phá ra đường lối mà Chúa kêu gọi anh và điều chỉnh đời sống anh theo đúng ư Chúa muốn cho anh.

 

    C.IV.3a Về phía Ứng sinh

Về phần ḿnh, ứng sinh được mời gọi chọn cho ḿnh một vị linh hướng, để được giúp nh́n thấy ḿnh rơ ràng hơn, sâu xa hơn, giải thích ḷng khao khát Chúa và sự trưởng thành thiêng liêng của anh trong ánh sáng đức tin.

 

Người thụ hướng sẽ kể lại lịch sử đời anh mà không phê phán, với những yếu tố:

-         những người có ảnh hưởng quan trọng trong đời anh,

-         các hoạt động anh dấn thân,

-         những nơi chốn, biến cố đặc biệt,

-         kinh nghiệm thân xác,

-         những cảm xúc tái đi tái lại,

-         những giấc mơ quan trọng,

-         những gợi hứng và những ư tưởng mới,

-         những kinh nghiệm tôn giáo và đời sống cầu nguyện.

 

Ứng sinh sẽ nói cách cởi mở và thành thật, trong sự bộc lộ hổ tương, với ḷng quảng đại và can đảm lắng nghe, suy gẫm trong thinh lặng bề trong lẫn bề ngoài, xác tín rằng Chúa Thánh Thần hướng dẫn anh qua vị linh hướng.

 

Trong quá tŕnh phân định ơn gọi, mối quan tâm của cả hai người, ứng sinh và vị linh hướng, là lợi ích của Hội Thánh. Ứng sinh không quá để tâm đến ư riêng hay ước vọng cá nhân của ḿnh, mà luôn t́m khám phá ư muốn của Chúa cho anh, bằng cách phân tích các khả năng và động lực của anh đối với những kỳ vọng và nhu cầu của Hội Thánh.

 

    C.IV.3b Về phía Vị Linh Hướng

Vị linh hướng phải hiện diện và đồng cảm với người thụ hướng, trong sự bộc lộ hổ tương, chăm chú lắng nghe anh với ḷng kiên nhẫn, can đảm và yên lặng; đón nhận câu chuyện cuộc đời anh hay chính con người của anh cách không phê phán, định kiến hay tiên kiến; hỏi những câu hỏi hỗ trợ và đối thoại để khẳng định các giá trị của anh, để biết anh đang ở đâu trên hành tŕnh thiêng liêng, ngơ hầu phân định và xác định con đường Chúa Thánh Thần dẫn dắt anh; cống hiến cho anh những gợi ư suy nghĩ và cầu nguyện.

 

Vị linh hướng giúp ứng sinh theo đuổi lời mời gọi trở thành môn đệ Đức Giêsu trong Giáo Hội của Ngài. Lời cầu nguyện và đời sống của Hội Thánh cũng là một nguồn đào tạo thiêng liêng cho ứng sinh. Điều kiện căn bản để thành công trong việc linh hướng là tính cởi mở và thành thật của người thụ hướng trong khi đối thoại với vị linh hướng. Người thụ hướng phải mang đến trong tương quan này sự sẵn ḷng nói lên sự thật về chính ḿnh, và một sự cởi mở khiến anh trở nên trong suốt.

 

     C.V. TƯƠNG TÁC T̉A TRONG VÀ T̉A NGOÀI

 

C.V.1. Định Nghĩa

Người ta phân biệt toà trong như nơi phán xử lương tâm của một người và toà ngoài như toà án của cơ chế nhân loại. Trong việc biện phân ơn gọi, “toà” được quan niệm như “quyền” phê phán ơn gọi của một ứng sinh.

 

Toà Trong nói về việc phán xét trong lương tâm của ứng sinh. Anh quyết định tự tŕnh diện với Hội Thánh để trở thành linh mục, v́ anh cảm thấy được Chúa gọi. Theo sự phán đoán của chính ḿnh, anh đánh giá rằng anh có khả năng phục vụ Hội Thánh với tư cách linh mục. Chính anh phân định ơn gọi của anh, dưới sự hướng dẫn của vị linh hướng. Anh phân định về thực tại khách quan của đời sống linh mục và thực tại chủ quan của lời mời gọi cá nhân của anh. Vị linh hướng đi vào trong tiến tŕnh này bằng cách cống hiến ư kiến riêng làm sao ngài kinh nghiệm rằng ứng sinh ấy được Chúa gọi. Ngài có lư mạnh để can thiệp, nếu cảm thấy người thụ hướng đang làm một lầm lỗi nghiêm trọng.

 

Toà ngoài là phê phán và quyết định của những người đào tạo hơn là của ứng sinh. Đánh giá một ứng sinh có thích hợp với chức vụ và đời sống linh mục hay không là trách nhiệm của Bề Trên và ban đào tạo. Với đánh giá cuối cùng, hội đồng chủng viện sẽ quyết định giới thiệu cho một ứng sinh lên chịu chức hay không. 

 

 

    C.V.2 Tương Tác giữa Ṭa Trong và Ṭa Ngoài

    C.V.2a Khác biệt nhưng bổ túc cho nhau

Điều mà vị linh hướng khám phá về ứng sinh ở toà trong sẽ không được tiết lộ ra ở toà ngoài. Dữ kiện này có cùng một qui chế như ấn toà giải tội. Điều này không chỉ để bảo vệ ứng sinh, mà c̣n cống hiến cho anh sự tín nhiệm và tin tưởng rằng điều ǵ anh đă bộc lộ ở ṭa trong vẫn được giữ bí mật. 

 

Trong quá tŕnh phân định ơn gọi, ứng sinh t́m khám phá ư muốn của Chúa cho anh, bằng cách phân tích các khả năng và động lực của anh đối với những kỳ vọng và nhu cầu của Hội Thánh. Do đó, ở toà trong, vị linh hướng không chỉ thụ động lắng nghe, song phải sẵn ḷng và có khả năng thách đố và đối đầu, khi sự việc đ̣i hỏi, để giúp ứng sinh trải qua một tiến tŕnh phân định ơn gọi đích thực.

 

Vị Bề Trên có trách nhiệm hàng đầu ở toà ngoài trong việc đánh giá tính thích hợp của ứng sinh với chức vụ và đời sống linh mục hay không, nên không thể đóng một vai tṛ nào ở toà trong. Sự hiểu biết có được ở toà ngoài về ứng sinh đều do nhận xét của nhiều nhà đào tạo. Sự hiểu biết này thường có một mức độ chắc chắn khác và ít toàn diện hơn sự chắc chắn có được ở ṭa trong.

 

Tất cả các nhận xét đều nhằm trả lời câu hỏi “Người này có được Chúa kêu gọi không?” Trong khi t́m trả lời câu hỏi này, các nhà đào tạo sẽ thừa nhận với tất cả khiêm tốn rằng Chúa kêu gọi người yếu đuối để làm xấu hổ kẻ hùng mạnh! (x. 1 Cr 1, 26-29), v́ không phải Giáo Hội kêu gọi ứng sinh, nhưng là chính Thiên Chúa. Vai tṛ của Bề Trên và các nhà đào tạo là đánh giá lời kêu gọi ấy và rồi chấp nhận ứng sinh với vui mừng và tạ ơn Thiên Chúa.

 

    C.V.2b Thực hành chuyên biệt

Khi đánh giá ứng sinh, vị linh hướng không bao giờ được lên tiếng để kết án, mà cũng chẳng được lên tiếng để bảo vệ: ngài phải im lặng khi hội đồng chủng viện nói về người thụ hướng của ḿnh. Sự bảo mật này nhằm bảo đảm cho tự do nội tâm của ứng sinh. Nhưng nhờ nghe trong hội đồng những quan điểm khác quan điểm của ḿnh về người thụ hướng, vị linh hướng có được thông tin về những yếu tố khác, nhờ đó ngài sẽ phân định tốt hơn và chọn lựa sự giúp đỡ thích hợp hơn cho người thụ hướng của ḿnh.

 

Toà ngoài h́nh thành phán quyết của ḿnh từ sự hiểu biết trong tiến tŕnh đào tạo mỗi ngày, v́ cuộc sống hàng ngày mạc khải trọn vẹn con người. V́ thế, cần có sự đồng hành sâu sát qua việc “đích thân kiểm soát bằng sự hiện diện yêu thương phục vụ.” Như thế, toà trong và toà ngoài không đối nghịch, nhưng bổ túc nhau để phục vụ một công việc chung của Hội Thánh.

 

    C.V.2c Giải quyết những khác biệt

Bề Trên và ban đào tạo có thể đă đi tới quyết định rằng một ứng sinh rất xứng đáng và có khả năng theo đuổi việc chuẩn bị chịu chức linh mục, trong khi anh lại nhận thấy rằng cảm thức được gọi của anh là sai lầm và xin rút lui. Trường hợp này, Bề Trên và ban đào tạo chỉ có thể chấp nhận sự chân thành trong nhận định mới của ứng sinh đó, tin tưởng rằng Chúa sẽ sử dụng anh cách tốt nhất cho lợi ích của Giáo Hội.

Trường hợp khác biệt thứ hai không dễ giải quyết: Bề Trên và ban đào tạo đều đồng ư không nên cho một ứng sinh tiếp tục, trong khi đó anh ta lại xác tín rằng anh được Chúa kêu gọi làm linh mục. Quyết định ṭa ngoài phải được giải thích thỏa đáng cho ứng sinh ấy, để anh hiểu và chấp nhận quyết định đă được đưa ra. Trường hợp ṭa ngoài thấy anh có một điều ǵ đó không thích hợp nhưng có thể sửa chữa được, th́ nên yêu cầu anh ra sống ở ngoài chủng viện cho tới khi vấn đề đă được sửa chữa. Con đường ơn gọi không hoàn toàn đóng lại đối với anh.

 

Khi toà ngoài quyết định không chấp nhận anh làm ứng sinh nữa th́ phải giải thích cho anh cách tế nhị và t́nh cảm. Ở Việt Nam, nhất là tại Miền Bắc, quyết định rời khỏi đời tu chịu ảnh hưởng sâu xa bởi áp lực của gia đ́nh và của xă hội, cũng như bởi cảm thức xấu hổ, ân nghĩa và t́nh bạn bè. Chủng viện nên quan tâm hướng dẫn và giúp đỡ anh vượt qua các khó khăn ấy.

 

Mọi người đều biết rằng quyết định dứt khóat của toà trong ăn khớp với lương tâm của ứng sinh. Điều này cần đào tạo một lương tâm trưởng thành, ngay chính và vị linh hướng phải dự phần quan trọng trong việc đào tạo lương tâm đó. Việc linh hướng và phận định thiêng liêng rất tế nhị và khó khăn đối với con người trong việc đồng hành ứng sinh trên đường tới Chúa. Hoạt động này bao gồm mọi chiều kích của đời sống, nhân bản và thiêng liêng, tự nhiên và siêu nhiên.

 

Sau khi đă chú ư lắng nghe với biện phân và khiêm tốn, vị linh hướng có thể khám phá được người thụ hướng được Chúa gọi hay không. Nếu có, ngài xác định cho anh tiếp tục đi tới với niềm vui tươi, hy vọng và hạnh phúc, mặc dù anh sẽ gặp thấy những khó khăn và đen tối trong cuộc sống lữ hành của anh. Nếu không, ngài nên gợi ư cho anh đổi hướng sống trong b́nh an, đồng thời bước theo con đường Chúa mời gọi anh đi với can đảm và hạnh phúc.

 

    C.V.3. Thinh Lặng trong tiến tŕnh Ṭa Trong

            Thinh lặng biểu lộ rơ nét nơi việc tuân giữ ḷng tín cẩn và bí mật của ấn ṭa giải tội và việc linh hướng (ṭa trong). Càng có thói quen thinh lặng, biết cẩn trọng đắn đo điều ḿnh nói, ta càng có khả năng giữ điều bí mật và bảo đảm ḷng tín nhiệm của tha nhân.

 

Thinh lặng là một thách đố cho bất cứ ai muốn sống thật đầy ư thức, chăm chú, cảnh giác và hoàn toàn hướng về Thiên Chúa. Người có tinh thần siêu nhiên biết tôn trọng lương tâm của người khác, không xía vô cuộc đời người khác và vội vàng phê phán kết án; nhưng tuyệt đối tin tưởng giao phó cho Thiên Chúa, xác tín rằng lời đánh giá cuối cùng thuộc về Ngài:

“Thế mà chúng tôi nghe nói: trong anh em có một số người sống vô kỷ luật, chẳng làm việc ǵ, mà việc ǵ cũng xen vào. Nhân danh Chúa Giê-su Ki-tô, chúng tôi truyền dạy và khuyên nhủ những người ấy hăy ở yên mà làm việc, để có của nuôi thân. Phần anh em, hăy làm việc thiện, đừng sờn ḷng nản chí!” (2 Tx 3,11-13).

 

 

    C.VI. SỰ CẦN THIẾT VÀ GIÁ TRỊ CỦA Thinh LẶng

 

    C.VI.1. Điều Kiện Thiết Yếu Cho Đời Sống Nội Tâm

    C.VI.1a Ư Nghĩa và Giá Trị của Thinh Lặng

Sự thing lặng không thể bị chia tách bên ngoài và bên trong được. Thinh lặng bên ngoài vừa là hy sinh hăm ḿnh vừa là phương tiện bảo đảm sự yên tĩnh của tâm hồn, để hồi tâm và sống thân mật với Thiên Chúa. Thinh lặng là bầu khí thiêng liêng và sống c̣n để cảm nhận sự hiện diện của Thiên Chúa. Nhờ thinh lặng, con người biết chỗ của ḿnh trước mặt Chúa, đồng thời tỏ lộ ḷng khiêm tốn và khả năng lắng nghe khi Chúa nói.

 

Nhờ thinh lặng của thân xác, trí óc và con tim, con người  mới có thể đạt tới sự hiệp nhất và hiệp thông với Chúa: “Hăy lặng thinh và hăy biết rằng Ta là Thiên Chúa” (Tv 46, 10). Thinh lặng này không phải là một không gian trống rỗng, bởi v́ Thiên Chúa luôn có đó để lấp đầy. Nhiệm vụ quan trọng nhất là phải ư thức rằng ta luôn ở trong sự hiện diện của Chúa và không thể tách khỏi Ngài.

 

    C.VI.1b Thách Đố của Thinh Lặng

Thinh lặng là một trong những thách đố lớn: Người này t́m kiếm thinh lặng, kẻ khác lại làm mọi cách để tránh nó. Nhưng thinh lặng hỗ trợ lời nói, chuẩn bị lời nói và làm cho lời nói nên phong phú. Ngôi Lời, ch́m sâu trong mầu nhiệm lặng thinh của Thiên Chúa để bộc lộ và thông truyền Thiên Chúa cho con người. 

 

            Thinh lặng, nội tâm lẫn bên ngoài, là bầu khí đúng đắn của việc giáo dục toàn diện: Chủng viện phải là nơi của thinh lặng, là nhà cầu nguyện, nơi đó Chúa tiếp tục qui tụ các môn đệ riêng ra, để họ sống cái kinh nghiệm mạnh mẽ của sự gặp gỡ và chiêm niệm.”

 

    C.VI.2. Những hỗ trợ của Thinh Lặng

    C.VI.2a Thinh Lặng trong Phụng Vụ

Thinh lặng luôn là một phần của việc thờ phượng. Phụng vụ cung cấp nhiều cơ hội để thinh lặng: Ngưng nghỉ một khoảng thời gian thích hợp sau mỗi bài đọc; nghỉ chốc lát để suy niệm sau bài giảng, hay sau lời kêu mời “chúng ta dâng lời cầu nguyện.” Sau hiệp lễ, nên dành một thời gian thinh lặng để thờ lạy và tạ ơn Chúa.

 

Phụng vụ các Giờ Kinh cũng cho nhiều dịp để thinh lặng: Sau vinh tụng ca và trước điệp ca của thánh vịnh kế tiếp, một chút ngưng nghỉ để cộng đoàn suy niệm về thánh vị đó; sau bài đọc Lời Chúa và trước xướng đáp, một lúc thinh lặng hợp lư để suy niệm.

    C.VI.2b Thinh Lặng Trong Nhà

Mọi người đều phải cẩn trọng để khỏi làm xáo trộn sự thinh lặng của người khác. Radio, máy nghe băng, Tivi, âm lượng trao đổi… phải được kiềm chế và điều chỉnh để bảo vệ bầu khí chiêm niệm, vốn phù hợp cho đời sống cầu nguyện và học tập. Không đ̣i phải thinh lặng tuyệt đối, nhưng cuộc trao đổi phải được giữ ở mức tối thiểu.

 

    C.VI.2c Thinh Lặng Cấm Pḥng hay Tĩnh Tâm

Các cuộc tĩnh tâm bồi dưỡng thiêng liêng là những cơ hội khả dĩ để trải nghiệm sự thinh lặng, t́m lại nguồn năng lượng cho đời sống cầu nguyện và đức tin, cũng c̣n là dịp để lấy lại sức lực cho thể xác, trí khôn và linh hồn. Người tĩnh tâm được khuyến khích loại bỏ những mối bận tâm làm mất sự thinh lặng bề ngoài như báo chí, truyền thanh, truyền h́nh… Càng đi vào thinh lặng và thăng tiến đời sống chiêm niệm, chúng ta càng có thể lắng nghe tiếng Chúa với những âm thanh khác nhau và mới lạ.

 

    C.VII. NỘi Dung & TiẾn Tŕnh GẶp Linh HưỚng

 

         1. Lắng Nghe

Khi người thụ hướng bộc lộ câu chuyện đời chị cho vị linh hướng, chị cảm nhận tương quan của chị với Thiên Chúa nơi Đức Kitô được mở ra và phát triển. Vị linh hướng lắng nghe câu chuyện của chị, t́m giúp chị hiểu và làm sáng tỏ điều Thiên Chúa đang chất vấn chị.

 

        2. Chú Tâm vào H́nh Ảnh Thiên Chúa

            Mô h́nh và định hướng đời sống thiêng liêng của một người được tác động sâu xa bởi h́nh ảnh mà người ấy có về Thiên Chúa. Kinh Thánh mạc khải cho chúng ta một Thiên Chúa là Cha của Đức Giêsu và của cộng đoàn Giáo Hội. Vị linh hướng giúp ứng sinh trong nhiệm vụ căn bản này.

 

        3. Giúp Làm Sáng Tỏ Kinh Nghiệm

            Vị linh hướng giúp ứng sinh suy nghĩ và khám phá chiều kích tôn giáo trong những kinh nghiệm đa dạng của chị, nhận biết sự hiện diện và tiếng nói của Thiên Chúa trong những kinh nghiệm ấy.

 

        4. Nhận Ra và Làm Sáng Tỏ Hệ Thống Giá Trị

            Người thụ hướng ra sức làm việc để lớn lên trong tương quan với Chúa và với tha nhân. Những chủ đề quan trọng trong cuộc đối thoại là viễn ảnh và các giá trị Tin Mừng mà người thụ hướng muốn thủ đắc: vâng phục, thanh khiết của t́nh yêu độc thân, quan tâm tới công bằng xă hội như một chiều kích của việc rao giảng Tin Mừng.

 

        5. Khẳng Định Và Thách Đố

            Vị linh hướng khẳng định và giúp người thụ hướng dùng tài năng Chúa ban để phục vụ Chúa và tha nhân. Ngài cũng giúp chị chấp nhận những thách đố của ḷng tốt của Chúa và làm cho người ta nhận biết ḷng tốt ấy.

 

        6. Giáo Huấn Và Hội Nhập

            Vị linh hướng chỉ dạy và giúp người thụ hướng hội nhập các yếu tố khác nhau trong cuộc đời chị quanh một trung tâm là chính Thiên Chúa.

 

        7. Trách Nhiệm

Vị linh hướng giúp người thụ hướng tránh những sai lầm trong việc tự đánh giá và giữ một thái độ tập trung vào Chúa ở giữa bao nhiêu công việc hàng ngày và những mối tương quan đa dạng.

 

        8. Trợ Giúp Trong Lúc Khó Khăn

Mối đe doạ lúc nào cũng có mặt trong hành tŕnh thiêng liêng của chúng ta. Việc linh hướng có thể cung cấp phương tiện để thấy chính ḿnh qua các giai đoạn chiến đấu trong suốt con đường. 

 

        9. Cầu Nguyện

Cầu nguyện là suối nguồn và diễn tả mối tương quan của chúng ta với Chúa.

 

 

    C.viii.  TIẾN TR̀NH VÀ NỘI DUNG ĐÁNH GIÁ CUỐI CÙNG VÀ GỌI CHỊU CHỨC

 

Họ phải được thử thách trước đă, rồi mới được thi hành chức vụ…” ( 1 Tm 3: 10)

 

Việc đào tạo linh mục phải theo tiến tŕnh bốn chiều kích căn bản: nhân bản, thiêng liêng, tri thức và mục vụ. Việc đào tạo này nhằm giúp ứng sinh trưởng thành và cung cấp một đánh giá xác thực và hữu ích cho việc Đấng Bản Quyền gọi ứng sinh lên chịu chức linh mục.

 

Mục đích của việc Hội đồng Chủng viện nhận xét hàng năm là để giúp ứng sinh tự suy nghĩ và đánh giá, nhờ đó, trong cái nh́n xác thực về đời ḿnh, anh có thể thấy những ǵ cần phải thay đổi và lên kế hoạch cụ thể để việc thay đổi ấy được hiệu quả.

 

Đức Gioan Phaolô II đề cao: Tính thích hợp của ứng sinh, trên hết, nhắm đến tinh thần cầu nguyện, sự thấm nhuần sâu xa giáo lư đức tin, khả năng sống t́nh huynh đệ và khả năng sống đời độc thân linh mục. V́ thế, bên cạnh các nhận xét của ban đào tạo, người ta cũng mong muốn có sự tham khảo các bạn đồng môn, và những người ứng sinh thi hành sứ vụ (tham khảo thôi, chứ không có giá trị quyết định). Mọi người phải tôn trọng chặt chẽ phận vụ của toà trong và toà ngoài. Các giá trị và kỹ năng đánh giá dựa trên giáo huấn của Hội Thánh và chương tŕnh đào tạo của Chủng viện.

Hội đồng Chủng viện và tất cả các nhà đào tạo cố gắng hiểu biết đầy đủ về từng ứng sinh để giáo dục anh và giúp anh phát huy nỗ lực tự đào tạo của anh. Các ngài góp phần vào công việc chung của Giáo Hội bằng việc đánh giá cuối cùng và giới thiệu ứng sinh lên chịu chức linh mục.

 

            Việc đánh giá này nhấn mạnh những lănh vực chủ yếu:

-         Trưởng thành toàn diện: thể lư cũng như tâm lư, t́nh cảm;

-         Trưởng thành thiêng liêng được diễn tả bởi cam kết dấn thân cầu nguyện và sống mật thiết với Chúa Kitô, siêng năng lănh nhận các bí tích;

-         Hiểu biết đầy đủ về chức linh mục và chấp nhận giáo huấn của Hội Thánh về đức tin và luân lư;

-         Sẵn sàng chấp nhận cuộc sống bất định của kẻ được sai đi (tới nơi không muốn, ở với người không ưa và làm việc không thích);

-         Sẵn sàng chấp nhận trách nhiệm tiếp tục được đào tạo và tự đào tạo;

-         v.v...

 

Khoa tâm lư giáo dục đương thời cung cấp nhiều kỹ thuật để đánh giá cách thích hợp hơn sự phát triển thực sự của ứng sinh.

 

V́ bí mật của việc linh hướng, vị linh hướng bị ràng buộc bởi toà trong và do đó, không được bàn căi khi đánh giá và nhận xét về tính thích hợp của ứng sinh trong việc chịu chức. C̣n các vị khác đă tương tác làm việc với ứng sinh cách công khai ở toà ngoài  buộc tham dự tiến tŕnh đánh giá này: không những cho biết thái độ ứng xử bên ngoài của ứng sinh (những ǵ anh nói và làm, cũng như đạt được những kiến thức đ̣i hỏi), mà c̣n đánh giá tính thích hợp của việc anh chịu chức linh mục, v́ đó là trách nhiệm đă được trao phó cho các ngài.

 

Là những thừa tác viên hợp luật của Hội Thánh được trao trách nhiệm phán đoán tính thích hợp của các ứng sinh, Hội đồng chủng viện bỏ phiếu trong buổi đánh giá cuối cùng. Phiếu bầu có nhiều loại: khẳng định, khẳng định có ghi chú, tiêu cực và loại. Khẳng định có ghi chú nghĩa là c̣n có khiếm khuyết cần phải sửa chữa và trau dồi thêm, nghĩa là bị dừng lại chưa cho chịu chức. Nếu là phiếu loại th́ nên giải thích đầy đủ. Nên nhắm giáo dục hơn là loại bỏ: Mỗi vị thánh đều có một quá khứ, và mỗi tội nhân đều có một tương lai. Giáo dục nhắm biến đổi người xấu thành người tốt và người tốt thành người tốt hơn, phó thác cho quyền năng của ơn Chúa. Đối với con người th́ không thể, nhưng với Thiên Chúa th́ mọi sự đều có thể.

 

Các ứng sinh cũng phải được biết về những lầm lỗi của ḿnh, đặc biệt là những lầm lỗi quan trọng; được phép giải thích và biện hộ lư do của ḿnh (x. Cv 25,16); cũng cần có thời gian và cơ hội để thực hiện sự hoán cải cần thiết. Đây là mệnh lệnh của Tin Mừng đối với việc tha thứ và biến đổi. Điều mà tổ tiên người Việt Nam quan tâm là “làm người, không ai thoát khỏi lầm lỗi; có lầm lỗi th́ phải sửa ḿnh; và khi đă sửa rồi th́ không c̣n lầm lỗi nữa.”

 

Tin Mừng chứng tỏ nhiều tội nhân trở thành thánh nhân nhờ sự trợ giúp quyền năng của ân sủng Thiên Chúa (Ga 8,7). Đây là t́nh yêu thương xót của Chúa (Mt 9,12-13). Trên thực tế, những người đă hoán cải mà có ḷng khiêm tốn c̣n tốt hơn những ai không hề có lỗi lầm nào đáng kể, mà mắc phải chứng kiêu hănh và tự phụ.

 

Mọi nỗ lực và sự quan tâm đặc biệt đối với việc đào tạo là nhằm cung cấp cho các ứng sinh những phương tiện để biện phân ơn gọi của ḿnh, để họ thu thập được kiến thức, thái độ và những kỹ năng cần thiết cho một linh mục tốt, trong niềm tin tưởng rằng Thiên Chúa sẽ hoàn tất công việc quan trọng này của Hội Thánh bằng những ơn huệ của Chúa Thánh Thần.

 

Nhưng trong sự cảm thông với Giáo Hội, việc đánh giá không dừng lại ở đó, mà c̣n quan tâm đến các khuynh hướng đặc biệt, những khả năng và đức tính của ứng sinh nữa, ngơ hầu giúp Bề Trên “dùng” và bổ nhiệm anh phù hợp với các ân huệ Chúa ban cho anh và các nhu cầu của Giáo Hội địa phương. Ban đào tạo cũng có thể gợi ư và đề nghị cho phép một số ứng sinh đẩy xa việc học hơn nữa hầu có thể cống hiến cho Giáo Hội những nhà đào tạo tương lai bén nhạy với các nhu cầu thiêng liêng hiện nay, bởi v́ không phải bất cứ ai cũng có thể trở thành nhà đào tạo, nhất là linh hướng. Đây là sự chuẩn bị nhân sự thích hợp. V́ sự sống c̣n và phát triển Giáo Hội, Bề Trên nên chọn những linh mục ưu tú để được huấn luyện thành các nhà đào tạo tương lai. Ai được chọn th́ phải sẵn sàng “trả lại” cả vốn lẫn lăi nén bạc Chúa đă trao cho.

 

 

    C.IX. Ứng Sinh Không Thích HỢp

(Hát Chúa cất tiếng gọi con)

 

Trong việc biện phân ơn gọi của một ứng sinh, phải phân biệt hai yếu tố ḷng ước muốn và tính thích hợp. Ḷng ước muốn thuộc b́nh diện t́nh cảm, trong khi sự thích hợp đ̣i hỏi phẩm chất và khả năng. Một thanh niên có thể rất muốn trở thành linh mục, nhưng anh lại không đủ phẩm chất và khả năng khiến anh có thể làm một linh mục xứng đáng. V́ thế, toà ngoài phải phán đoán tính thích hợp này, ngơ hầu đón nhận hay từ chối một ứng sinh.

 

C̣n ở toà trong, ḷng ước muốn phải được vị linh hướng xét xem có phù hợp với ước muốn của Chúa Thánh Thần không. Việc này giao phó ứng sinh cho hoạt động của Chúa Thánh Thần, và sự tiếp nhận lắng nghe những ǵ được nói với anh ở toà ngoài. Toà ngoài cũng phải t́m biết những dấu chỉ của hoạt động của Chúa Thánh Thần trong đời sống của ứng sinh.

 

Ứng sinh nào bị phát hiện là không thích hợp, v́ khiếm khuyết thể lư, quân b́nh tâm lư hay luân lư, th́ nên nhanh chóng đưa anh ra khỏi con đường theo đuổi ơn gọi. Cả hai phía, các nhà đào tạo và ứng sinh, không được phép nuôi dưỡng những hy vọng hảo huyền và những ảo tưởng nguy hiểm. Cũng không ai được tự phụ rằng ơn thánh sẽ thay thế cho những khiếm khuyết tự nhiên.

 

Tuy nhiên, người ta sẽ cho ứng sinh không thích hợp ra đi một cách tôn trọng, bằng cách nhấn mạnh về sự không thích hợp với đời sống và sứ vụ linh mục hơn là những khiếm khuyết hay lỗi lầm, làm tổn thương nhân phẩm và danh dự của họ. Các cựu ứng sinh nầy cũng là kho tàng của Giáo Hội, họ sẽ hỗ trợ, cộng tác vào công cuộc đào tạo các ứng sinh cách này hay cách khác.

 

Không phải tất cả những ai vào Chủng viện đều nhất thiết trở thành linh mục: Chúa gọi th́ nhiều, nhưng chọn th́ ít. Người nào không thích hợp với đời sống linh mục sẽ được gợi ư cho một cuộc sống mới, trong niềm tin tưởng rằng Chúa sẽ dùng anh cách tốt đẹp cho lợi ích của Giáo Hội, đền đáp những ǵ anh đă lănh nhận từ Chúa và Giáo Hội của Ngài, qua những năm tháng được đào tạo trong Chủng viện. Hăy tạo cơ hội cho họ góp phần cách tích cực và hữu hiệu vào đời sống và sứ mệnh của Giáo Hội, về nhân lực cũng như vật lực.

 

Vậy vấn đề quan trọng là giúp ứng sinh CHỌN LỰA LÀM SAO CHO ĐÚNG con đường ơn gọi của ḿnh? Có thể nói một cách chính xác là cả ứng sinh lẫn các nhà đào tạo đều phải xem xét từng ứng sinh có thực sự thích và hợp với chức vụ và đời sống linh mục không.

 

Trong bất cứ chọn lựa nào cho suốt cuộc đời, chúng ta phải làm nổi bật hai yếu tố quan trọng THÍCH và HỢP. Thích là ư muốn chủ quan nói lên hứng thú và nguyện vọng, ước mơ. Hợp là yêu cầu khách quan đ̣i hỏi năng lực và phẩm chất, để có thể theo đuổi suốt cuộc đời lựa chọn hôm nay. Nhưng Thích và Hợp có những mức độ khác nhau liên quan đến chọn lựa của ta, được mô tả như sau: 

 

 

Th   Thích/Hợp

   Không thích

Thích ít

     Thích vừa

   Rất thích

Không hợp

         1

       2

        3

      4

Tg đối hợp

         5

       6

        7

      8

    Rất hợp

         9

     10

       11

     12

           

 

Các ô từ 1-12 biểu thị các mức độ thích và hợp, đồng thời xác định sự lựa chọn:

-         Nếu vô t́nh hay buộc ḷng chọn các ô 1 2 3 4 5 6 và 9 th́ đó là quyết định sai lầm có ảnh hưởng xấu đến tương lai cuộc đời.

-         Nếu phải chấp nhận số 7 và 10 th́ chọn lựa đó có thể được với nỗ lực bản thân rất lớn.       

-         Chọn số 8 và 11 là chọn lựa tương đối ổn định, có khả năng hoàn thiện với cố gắng liên lĩ. Đa số ở vào trường hợp này.

-         Chọn số 12 là chọn lựa lư tưởng.

 

            Tóm lại:

            -  Nếu chỉ thích mà không hợp là không tốt, đừng chọn.

            -  Nếu chỉ hợp mà không thích th́ không hay, đừng chọn.

            - Chỉ chọn cái ta thích và hợp với ta. Đó là một quyết định không lầm lẫn.

 

Vấn đề quan trọng là xác định thế nào là thích và hợp?

Thích thuộc lănh vực t́nh cảm. Có những sở thích nhất thời, không ổn định, theo phong trào: đừng nghĩ đó là hứng thú có thật hay một khát vọng đă được tôi luyện qua nhiều năm tháng, có khả năng kích thích và thôi thúc thực hiện bền bĩ.

 

Hợp thuộc lănh vực phẩm chất và năng lực. Cần phải biết chính ḿnh, xem phẩm chất và năng lực của ḿnh có phù hợp với con đường ḿnh muốn dấn thân vào không? Tự ḿnh có thể ngộ nhận, nên ta cần có sự giúp đỡ chuyên môn của khải đạo, linh hướng, cố vấn tâm lư, trắc nghiệm hướng nghiệp…

 

 

C. X. NHỮNG NGUYÊN TẮC KHI CẦN THAY ĐỔI VỊ LINH HƯỚNG

         

Có thể xảy ra trường hợp thiếu hoặc mất tín nhiệm, th́ “việc thay đổi linh hướng là luôn có thể và đôi khi đáng ao ước nữa.” Ứng sinh có thể đề nghị trước. Đôi khi, vị linh hướng sẽ yêu cầu ứng sinh đi linh hướng với người khác, bởi v́ ngài nghĩ rằng ngài sẽ không thể tiếp tục trách nhiệm ấy nữa.”

 

V́ lợi ích của người thụ hướng, những nguyên tắc sau đây giúp anh phân định xem có nên tiếp tục hay không gặp một vị linh hướng cá biệt. Anh thẳng thắn xem xét các động lực khiến anh muốn thay đổi vị linh hướng của anh:

-   Có phải do mâu thuẫn cá nhân?

-   Có phải anh muốn thoát khỏi bị thách đố?

-   Có phải anh đang phóng chiếu những tính tiêu cực như hách dịch, vô cảm, thiếu thông cảm và hiểu biết lên vị linh hướng của anh?

-   Có những mong đợi không thực tiễn chăng?

-   Có phải v́ vị linh hướng từ chối cung cấp thêm ảo tưởng cho anh?

-   Anh cần tranh luận với vị linh hướng về những khó khăn mà anh đang trải nghiệm trong giao tế?

-   Anh có tiếp tục nhận được ích lợi thiêng liêng từ việc hướng dẫn này không?

-   Có vị linh hướng khác mà anh bị lôi cuốn chăng?

-   Đâu là những lư do khác nữa?

 

Người thụ hướng cần phải có đủ thời gian để suy nghĩ về toàn bộ vấn đề trước khi đưa ra một quyết định. Anh không nên vội vả, nhưng nên bàn hỏi vấn đề này với một người trung lập.

-   Có phải đó là sự chấm dứt tự nhiên, v́ sự hướng dẫn t́m kiếm đă được thực hiện?

-   Liệu đây có phải là thời gian để thay đổi v́ hoàn cảnh của anh hay của vị linh hướng, hoặc của cả hai? Do thay đổi sự bổ nhiệm, chuyển sang giai đoạn huấn luyện khác? Hay c̣n những việc khác xem ra gặp phải trên đường tương quan linh hướng như: ḷng tín nhiệm, hấp dẫn giới tính, đổ vỡ giá trị?

 

    C.XI. VỊ LINH HƯỚNG TỐT

 

    C.XI.1 Các Đức Tính của vị  Linh Hướng Tốt

       Theo Mẹ Têrêsa Avila, một vị linh hướng tốt phải được đào tạo kỹ lưỡng và thành thạo, với nền đào tạo vững chắc về thần học và kinh nghiệm cầu nguyện cao (cầu nguyện yên tĩnh, cầu nguyện nhiệm hiệp), bởi v́ mẹ đă phải đau khổ rất nhiều trong tay những người học hành nửa vời.

 

Vị linh hướng phải có kiến thức vững chắc về thần học, về linh đạo và về Kinh Thánh, một ít hiểu biết căn bản về kỹ năng tư vấn, quen thuộc các vấn đề tâm lư và tâm thần. Vị linh hướng nên có cái nh́n quân b́nh trong kinh nghiệm cầu nguyện và ư thức rằng chán nản trong cầu nguyện là có thể có, đồng thời nên biết phân biệt các an ủi và chán nản từ các kinh nghiệm đích thực về Chúa.

 

Vị linh hướng cũng nên quan tâm thực sự về cảm nhận b́nh an thoải mái của người thụ hướng. Thánh Gioan Thánh Giá nhấn mạnh rằng vị linh hướng phải giúp người thụ hướng lắng nghe Chúa Thánh Thần, Đấng là người hướng dẫn chính đang làm việc nơi người thụ hướng. Chính Thần Khí Chúa Giêsu là trung tâm của đời sống thiêng liêng và của việc linh hướng.

 

Vị linh hướng thành thạo giúp người thụ hướng cởi mở hoàn toàn cho hoạt động bên trong của Chúa, sẵn sàng thay đổi ư kiến và cuộc sống. Vị linh hướng phải ngoan ngoăn nghe theo những ǵ Chúa Thánh Thần đang làm nơi người thụ hướng, hầu có thể khẳng định và xác nhận việc Chúa Thánh Thần làm đó.

 

Vị linh hướng dạy cho người thụ hướng làm sao áp dụng Lời Chúa vào hoàn cảnh cụ thể và đặc biệt của cuộc sống mỗi ngày; đồng thời biết quan tâm đến những ǵ Thiên Chúa nghĩ hơn là những ǵ con người nghĩ. Thiên Chúa có thể hành động trực tiếp, nhưng Ngài thích dạy con người qua con người hơn, chẳng hạn như trường hợp Saolô ngă ngựa (x. Cv 9, 1-19).

 

Thánh Gioan Thánh giá đồng quan điểm với thánh Têrêsa Avila rằng vị linh hướng cần được đào tạo, nhạy cảm, tín cẩn, có kinh nghiệm trong đời sống cầu nguyện và kiến thức chắc chắn về tâm lư thực hành.

 

Tóm lại, những đức tính của một vị linh hướng tốt là:

-         Một con người có trí phán đoán lành mạnh và lương tri tốt,

-         đủ tự tin để khơi dậy ḷng tín nhiệm nơi người khác.

-         kinh nghiệm Thần Khí và mở rộng kinh nghiệm ấy qua việc quan sát kinh nghiệm của người thụ hướng.

-         khiêm tốn tập việc dưới sự hướng dẫn của người có kỹ năng.

-         có sự trưởng thành cá nhân trong cầu nguyện và xác tín tầm quan trọng của cầu nguyện.

-         luôn luôn cập nhận hoá việc học với tinh thần cầu tiến.

-         sẵn sàng chất vấn và cũng sẵn sàng để được chất vấn.

-         có khả năng khích lệ và thúc đẩy người thụ hướng.

-         biết chăm chú lắng nghe với ḷng thiện cảm, khiêm tốn và yêu thương.

-         có khả năng sống thành thật với chính ḿnh và với người khác, với khả năng gây tín nhiệm nơi người thụ hướng.

 

C.XI.2. Những ǵ vị Linh Hướng Tốt phải tránh

·    Vị linh hướng tốt không áp đặt giá trị lên người thụ hướng, nhưng phải rơ ràng với những giá trị quan trọng. Ngài nhắc lại những giá trị ấy, nhưng để người thụ hướng tự do, ngơ hầu anh có thể chọn lựa một giá trị cho ḿnh cách tự do.

·    Vị linh hướng tốt không gài bẫy người thụ hướng, nhưng rất thẳng thắn với anh. Vị linh hướng tốt không cố trở thành người giải quyết vấn đề.

·    Vị linh hướng tốt không bắt người thụ hướng phải chịu thẩm vấn. Vị linh hướng tốt không cố chứng minh điều ǵ đó với người thụ hướng mà ngài biết rằng anh không sẵn sàng chấp nhận vào lúc đó.

·    Vị linh hướng tốt không sợ thinh lặng, bởi v́ thoải mái thinh lặng chứng tỏ rằng ḿnh đang cảm thấy dễ chịu.

·    Vị linh hướng tốt không nhắm đến mục đích cứng nhắc: “Tôi muốn hướng dẫn anh và đưa anh phải đi lối này.”

·    Vị linh hướng tốt không quá bộc lộ t́nh cảm hoặc lạnh lùng như người vô cảm.

·    Vị linh hướng tốt không vội vàng chỉnh sửa tất cả những quan niệm sai lầm của người thụ hướng ngay lập tức. Vị linh hướng tốt không lên án người thụ hướng.

·    Vị linh hướng tốt không lợi dụng người khác để thỏa măn nhu cầu của riêng ḿnh. Vị linh hướng tốt không kỳ vọng quá nhiều việc ngay một lần.

·    Vị linh hướng tốt không bảo đảm cho người thụ hướng cách quá nhanh chóng, v́ thái độ này làm cho anh bị lệ thuộc.

·    Vị linh hướng tốt không vội vă trả lời những vấn nạn của người thụ hướng. Vị linh hướng tốt đôi khi nên gửi trả lại câu hỏi: “Đây là một câu hỏi hay.”

 

C.XI.3 Những ǵ vị Linh Hướng Tốt phải làm

·    Vị linh hướng tốt phải lắng nghe người thụ hướng, để cho anh cơ hội thấu hiểu kinh nghiệm của chính anh.

·    Vị linh hướng tốt cùng người thụ hướng lắng nghe lời mang tính hiện sinh, ngôn sứ và thời sự của Chúa.

·    Vị linh hướng tốt chuẩn bị đất cho một cam kết hoàn toàn tự do, hoặc tái cam kết với giá trị và ư nghĩa của toàn bộ đời sống của người thụ hướng, hầu kiến tạo căn tính cá biệt của một con người, nhờ sự trung thành có tính cách sáng tạo.

·    Vị linh hướng tốt phải ư thức rằng một quyết định của một đời người phải được thực hiện trong lúc tự do.

·    Vị linh hướng tốt ư thức rằng lối sống và cách giải thích kinh nghiệm của một con người phải được kiểm chứng bởi những kinh nghiệm lặp đi lặp lại được giải thích và đánh giá cùng với nhau.

 


 

[1] x. Phương pháp nguyện gẫm Xuân Bích.