TÔNG
HUẤN VỀ
VIỆC ĐÀO TẠO LINH MỤC TRONG HOÀN CẢNH HIỆN NAY |
CHƯƠNG I:
ĐƯỢC CẤT NHẮC
TỪ GIỮA LOÀI NGƯỜI
-
VIỆC ĐÀO TẠO LINH MỤC
TRƯỚC NHỮNG THÁCH ĐỐ
VÀO CUỐI THIÊN NIÊN
KỶ THỨ HAI
Linh mục và thời đại
5.
“Mọi thương tế được cất nhắc
từ giữa loài người đều được đặt lên để can thiệp cho loài người
trong những mối tương quan giữa lời người với Thiên Chúa” (Dt
5,1).
Thư gửi tín hữu Do Thái
khẳng định rõ ràng “bản tính con người” nơi thừa tác viên của
Thiên Chúa : từ loài người mà đến và phục vụ loài người, noi
gương Chúa Giêsu Kitô, “Đấng đã phải chịu thử thách về mọi mặt,
hoàn toàn giống như chúng ta, ngoại trừ tội lỗi” (Dt 4,15).
Thiên Chúa lúc nào cũng kêu
gọi các linh mục của Ngài giữa những môi trường nhân sinh và môi
trường Giáo Hội nhất định, các linh mục không thể không mang dấu
vết của những môi trường ấy và chính trong những môi trường ấy
mà họ được sai đến để phục vụ Tin Mừng Chúa Kitô.
Chính vì vậy, Thượng Hội
Đồng đã đem đặt lại vấn đề linh mục trong bối cảnh hiện đại của
xã hội và của Giáo Hội. Thượng Hội Đồng cũng đã mở ngỏ vấn đề
cho những viễn tượng của thiên niên kỷ thứ ba, như cách phát
biểu vấn đề cho thấy : “Việc đào tạo linh mục trong hoàn cảnh
hiện nay”.
Chắc hẳn luôn luôn có “một
diện mạo cốt yếu, không thay đổi, của người linh mục : thực vậy,
không kém gì linh mục hôm nay, linh mục ngày mai sẽ phải nên
giống Chúa Kitô. Trong cuộc sống trần thế. Đức Giêsu đã tỏ bày
nơi chính Ngài khuôn mặt xác định của linh mục, đã thể hiện chức
linh mục thừa tác mà các Tông Đồ là những người đầu tiên được
nhận lãnh; chức linh mục ấy tự yếu tính phải nối tiếp, phải trải
dài không ngừng trong mọi giai đoạn lịch sử. Trong chiều hướng
ấy, người linh mục thiên niên kỷ thứ ba sẽ là người nối tiếp các
linh mục trong những thiên niên kỷ trước đã đóng góp vào sức
sống của Giáo Hội. Ngay cả vào năm 2000, ơn gọi linh mục sẽ tiếp
tục là lời mời gọi sống chức linh mục độc nhất và trường tồn của
Chúa Kitô” (9). Cũng vậy, đời sống và chức vụ linh mục phải
“thích nghi với mọi thời đại và với mọi môi trường sống… Chính
vì thế, trong mức độ có thể, chúng ta phải nổ lực tiếp nhận ánh
sáng tối thượng của Chúa Thánh Thần, hầu khám phá ra những
phương hướng của xã hội đương thời, nhận ra những nhu cầu sâu xa
nhất, xác định những bổn phận cụ thể quan trọng nhất, những
phương pháp mục vụ phải chấp nhận, để có thể đáp lại cách xứng
hợp nhất những mong chờ của nhân loại” (10).
Vì phải thích ứng ý nghĩa
đích thực trường tồn của chức linh mục với những đòi hỏi và
những đặc điểm của thời buổi hiện tại, các Nghị Phụ Thượng Hội
Đồng đã tìm cách giải đáp một số vấn nạn trước mắt : đâu là
những vấn đề và đồng thời đâu là những động cơ tích cực mà bối
cảnh văn hoá xã hội và Giáo Hội hiện nay khơi dậy nơi những trẻ
nhỏ, thiếu niên và thanh niên đang cần phải làm cho dự phóng
sống đời linh mục được chính nuồi trong toàn bộ cuộc sống của
mình ? Thời đại chúng ta gây những khó khăn nào và cung cấp
những khả năng mới mẻ nào cho việc thi hành một thừa tác vụ linh
mục phù hợp với ơn bí tích đã lãnh nhận và với đòi buộc phải có
một đời sống thiêng liêng thích đáng ?
Giờ đây, Tôi lặp lại một số
yếu tố do việc phân tích tình huống mà các Nghị Phụ Thượng Hội
Đồng đã khai triển. Vì có quá nhiều bối cảnh văn hoá xã hội và
Giáo Hội hiện đại trong những quốc gia khác nhau, Tôi chỉ nêu
dẫn những hiện tượng sâu xa nhất và phổ cập nhất, đặc biệt những
hiện tượng liên quan tới các vấn đề giáo dục và tới việc đào tạo
linh mục.
Tin
Mừng hôm nay : những triển vọng và những trở ngại.
6.
Nhiều yếu tố dường như cổ võ
nơi con người hôm nay một ý thức sắc bén hơn về phẩm giá nhân vị
và về một sự mở ngỏ mới đối với những giá trị tôn giáo, đối với
Tin Mừng và đối với thừa tác vụ linh mục.
Mặc dầu những mâu thuẫn
chồng chất, chúng ta gặp thấy trong xã hội một niềm khao khát
công bằng và hòa bình lan rộng hơn và mãnh liệt hơn, một cảm
thức sắc bén hơn về việc quản trị lành mạnh công trình tạo dựng
và về sự tôn trọng thiên nhiên, một sự nghiên cứu rộng mở hơn về
chân lý và về sự bảo vệ nhân phẩm; nơi nhiều tập thể dâ n cứ thế
giới, người ta ghi nhận một sự dấn thân ngày càng tăng nhằm xây
dựng tình liên đới giữa các quốc gia sao cho cụ thể hơn và nhằm
tạo một trật tự mới cho hành tinh chúng ta trong sự tôn trọng tự
do và công bằng.
Trong khi tiềm lực năng
lượng mà khoa học và kỹ thuật cung cấp đang trên đà phát triển,
trong khi thông tin và văn hoá ngày càng lan rộng, người ta cũng
nhận thấy trổi hiện lên một yêu cầu mới về luân lý, nghĩa là một
sự truy tầm ý nghĩa và bởi đó truy tầm nấc thang khách quan cho
các giá trị để nhờ đó điều hoà những triển vọng và những giới
hạn của tiến bộ.
Trong lãnh vực thuần túy
tôn giáo và thuần túy Kitô giáo, không còn phải đương đầu với
những thành kiến ý thức hệ và những từ khước có tính bạo động
trước đề nghị về những giá trị tinh thần và tôn giáo nữa, và nơi
nhiều miền trên thế giới xuất hiện những triển vọng phúc âm hoá
và những triển vọng tái lập đời sống Giáo Hội thật mới mẻ và
thật bất ngờ. Người ta ghi nhận một sự phổ cập ngày càng tăng
trong việc hiểu biết Kinh Thánh, một sức sống và một mãnh lực
lan rộng nơi nhiều Giáo Hội trẻ với sự dấn thân càng lúc càng hệ
trọng vào việc bảo vệ và nâng cao các giá trị con người và sự
sống con người, người ta còn nêu dẫn một chứng từ đạo tuyệt vời
từ phía các Giáo Hội Trung và Đông Âu cũng như chứng từ trung
tín và dũng cảm của nhiều Giáo Hội khác hiện đang phải gánh chịu
những bách hại và những thử luyện nhân danh đức tin (11).
Niềm khát vọng hướng về
Thiên Chúa, niềm khát vọng về một mối quan hệ sống động và có ý
nghĩa với Thiên Chúa ngày nay biểu hiện rõ rệt đến mức tạo điều
kiện thuận lợi cho sự quảng bá những hình thái tôn giáo phi
Thiên Chúa và nhiều giáo phái khác nữa ở những nơi mà không có
được sự loan báo Tin Mừng Đức Giêsu một cách chính hiệu và toàn
vẹn. Đối với mọi con cái Giáo Hội, đặc biệt đối với các linh
mục, sự quảng bá ấy, thậm chí nơi một số môi trường có truyền
thống Kitô giáo, là nguyên do thường hằng buộc phải kiểm điểm
lương tâm, phải xét lại tính khả tín nơi chứng từ Tin Mừng của
mình; thế nhưng sự quảng bá ấy cũng là một dấu hiệu cho thấy sự
truy tầm Thiên Chúa vẫn còn sâu xa và rất phổ biến.
7.
Người ta nhận thấy nhiều yếu
tố khác có tính chất vấn nạn hoặc tiêu cực pha trộn vào các yếu
tố nói trên và vào những yếu tố tích cực khác.
Chủ nghĩa duy lý
vẫn còn rất phổ biến, nhân danh một quan
niệm giản lược hoá của “khoa học”, chủ nghĩa này khép chặt lý
trí con người lại, không nhường chỗ cho sự gặp gỡ Mặc khải và
không công nhận tính siêu việt của Thiên Chúa.
Người ta cũng ghi nhận rằng
chủ nghĩa chủ thể của ngôi vị vẫn được bảo vệ một cách
khốc liệt, chủ nghĩa này có khuynh hướng vây kín ngôi vị trong
cá nhân chủ nghĩa, để rồi không thể có được những tương quan
đích thực giữa người với người. Vì thế nhiều người, nhất là các
thiếu niên và thanh niên, tìm cách bù trừ tình trạng cô đơn ấy
bằng những phương tiện khỏa lấp thuộc nhiều bản chất khác nhau,
với những hình thức tìm hướng lạc hoặc tìm trốn tránh trách
nhiệm trong mức độ cường điệu khác nhau; bị giam hãm trong cái
chóng qua, những người ấy tìm cách sống những kinh nghiệm cá
nhân nào mạnh nhất và có lợi nhất trong mức độ có thể, những
kinh nghiệm trên bình diện giác quan và cảm xúc nhất thời, bởi
đó họ đương nhiên trở thành vô tâm và như thể bại liệt trước lời
mời gọi bước vào một kế hoạch sống đòi phải có chiều kích thiêng
liêng và tôn giáo hoặc phải có sự dấn thân trong tình liên đới.
Ngoài ra, khắp nơi trên thế
giới, ngay cả khi mà những ý thức hệ lấy chủ nghĩa duy vật làm
giáo điều và sự bài trừ tôn giáo làm chương trình hành động đã
cáo chung, có một thứ chủ nghĩa vô thần thực hành và hiện
sinh vẫn được truyền lan, chủ nghĩa này ăn khớp với một nhãn
giới trần tục hoá về đời sống và về vận mệnh con người. Một con
người “chỉ còn biết quan tâm đến chính mình, một con người chẳng
những biến mình thành tiêu điểm hâm mộ mà còn dám tự xưng mình
là nguyên lý và là căn cơ của mọi thực tại” (12), con người ấy
càng ngày càng bị tước đoạt mất phần “bổ khuyết của tâm hồn”,
phần này lại càng rất cần thiết khi mà khối lượng dự trữ lớn lao
gồm những của cải vật chất và những tài nguyên càng tạo cho
người ấy ảo tưởng để tự thoả mãn với chính mình. Họ không còn
cần phải đấu tranh với Thiên Chúa, họ chỉ đơn giản coi Ngài như
không có.
Trong bối cảnh này, một
cách đặc biệt, cần phải ghi nhận tình trạng thực tại gia đình
đang bị thoái hoá, ý nghĩa đích thực của tính dục con người bị
lu mờ hoặc bóp méo: đây là những hiện tượng có tầm ảnh hưởng
rất tiêu cực trên việc giáo dục những người trẻ và trên việc
giúp họ mở lòng đón nhận các thứ ơn gọi tu trì. Người ta còn ghi
nhận tình trạng trầm trọng do những bất công xã hội và do sự tập
trung của cải trong tay một thiểu số, là hoa quả của một chủ
nghĩa tư bản phi nhân bản (13), càng ngày càng khơi thêm hố ngăn
cách giữa những dân tộc giàu và những dân tộc nghèo: bởi đó có
sự phát sinh trong xã hội con người những căng thẳng và những
băn khoăn làm cho đời sống cá nhân và cộng đoàn bị xáo trộn cách
sâu đậm.
Trong môi trường Giáo Hội,
người ta cũng ghi nhận những hiện tượng tiêu cực đáng lo ngại
ảnh hưởng đến đời sống và thừa tác vụ của các linh mục: chẳng
hạn sự ngu dốt, sự thiếu hiểu biết về tôn giáo vẫn đang dai dẳng
nơi nhiều tín hữu, ảnh hưởng thấp kém của huấn giáo bị lấn át
bởi những sứ điệp phổ biến sâu rộng và có sức mạnh hơn về phía
những cơ quan truyền thông xã hội; sự đa nguyên trong lãnh vực
thần học, văn hoá và mục vụ, mặc dầu đôi khi được khởi xướng với
ý ngay lành đã bị hiểu lệch lạc và rốt cuộc làm cho đối thoại
đại kết trở nên khó khăn và tạo nguy cơ cho sự hiệp nhất đức tin
cần có; sự tồn tại lâu dài của một thái độ nghi kỵ và hầu như
bất khoan nhượng đối với Huấn Quyền của phẩm trật; sự đẩy mạnh
nguồn phong phú của sứ điệp Tin Mừng theo kiểu một chiều và giản
lược để rồi biến việc loan báo đức tin và làm chứng cho đức tin
thành một đóng góp đơn thuần cho sự giải phóng con người và xã
hội hoặc thành một nơi ẩn trú làm cho con người tha hoá trong sự
mê tín hoặc trong một trạng thái tôn giáo phi Thiên Chúa (14).
Sự hiện diện trên cùng một
một lãnh thổ những tập thể bền bỉ gồm những người thuộc sắc tộc
và tôn giáo khác nhau là một hiện tượng rất ư quan trọng ngay cả
khi đó là một hiện tượng đổi mới mẻ nơi nhiều quốc gia có thuyền
thống Kitô Giáo từ lâu đời. Cứ như thế mà ngày càng phát triển
một xã hội da sắc tộc và đa tôn giáo. Nếu một đàng hiện tượng
này có thể trở nên cơ hội cho một nỗ lực đối thoại thường xuyên
hơn và hiệu nghiệm hơn, cho một sự mờ ngỏ hướng đến những tinh
thần cũng như những kinh nghiệm tiếp đón và khoan dung đúng mức,
thì đàng khác nó lại có thể trở nên nguồn phát sinh sự xáo trộn
và chủ nghĩa tương đối, nhất là nơi những cá nhân và tập thể
không mấy vững chắc về đức tin.
Ngoài những yếu tố trên,
trong sự liên kết chặt chẽ với đà đi lên của chủ nghĩa cá nhân,
còn có thể kể thêm chủ nghĩa duy chủ thể về đức tin. Nơi
một con số Kitô hữu ngày càng gia tăng, người ta ghi nhận có sự
sút kém, trong việc gắn bó với nội dung khách quan của giáo
thuyết đức tin : người ta gắn bó một cách chủ quan vào những gì
để ưa, vào những gì tương hợp với kinh nghiệm riêng rẽ của mình,
vào những gì không gây xáo trộn cho những thói quen riêng tư của
mình. Cuối cùng việc nại tới tính bất khả xâm phạm của lương tâm
cá nhân, tự nó là chính đáng, trong một bối cảnh như thế, không
khỏi mặc lấy những tính chất nguy hiểm và hàm hồ.
Từ đó dẫn đến sự kiện này
là càng ngày người ta càng thuộc về Giáo Hội một cách không trọn
vẹn và có điều kiện, gây ảnh hưởng tiêu cực cho sự nở rộ các ơn
gọi hướng đến chức linh mục, cho ý thức mà linh mục có về căn
tính và về thừa tác vụ của mình trong cộng đoàn.
Sau hết, cho đến ngày hôm
nay, nơi nhiều vùng. Giáo Hội vẫn còn phải gánh chịu những vấn
đề nghiêm trọng do sự kiện các lực lượng linh mục không có mặt
đầy đủ và bởi đó ít đáp ứng hơn cho những nhu cầu. Các tín hữu
thường bị bỏ rơi trong những giai đoạn lâu dài, thiếu sự trợ
giúp mục vụ thích đáng. Sự tăng triển đời sống Kitô hữu của họ
nói chung phải thiệt thòi và hơn nữa, khả năng trở thành tác
nhân rao giảng Tin Mừng của chính họ bị giảm sút.
Những người trẻ trước ơn gọi và việc đào tạo linh mục.
8.
Những mâu thuẫn và triển vọng đa tạp
đánh dấu các xã hội, các nền văn hoá và đồng thời các cộng đoàn
Giáo Hội chúng ta được thế giới người trẻ cảm nhận và sống với
một cường độ rất đặc biệt, với những âm vang trực tiếp và rất
mãnh liệt trên bước đường giáo dục của họ. Trong chiều hướng ấy,
sự khởi động và sự phát triển các ơn gọi linh mục nơi trẻ nhỏ,
thiếu niên và thanh niên không ngừng phải đương đầu với những
cản trở và những khích lệ.
Cái mà người ta gọi là
“xã hội tiêu dùng” mê hoặc những
người trẻ một cách dữ dội, làm cho họ trở thành nạn nhân và tù
nhân của một lối giải thích cuộc hiện hữu con người mang tính
chất duy cá nhân, duy vật và duy khoái lạc ! Quan niệm “sống
thoải mái” hiểu theo nghĩa vật chất có khuynh hướng trở thành lý
tưởng độc nhất của cuộc đời, một lối “sống thoải mái” phải đạt
được với bất cứ điều kiện nào và với bất cứ giá nào. Hiệu quả là
từ chối mọi hy sinh, vứt bỏ mọi nỗ lực tìm kiếm và sống những
giá trị tinh thần và tôn giáo. Mối “quan tâm” độc chiếm về cái
sở hữu dành chỗ cái ưu việt là hiện hữu ; và, từ
đó, các giá trị nhân vị và liên vị không được cắt nghĩa và sống
theo luân lý của ơn huệ, của tính nhưng không, nhưng theo luân
lý của sự chiếm hữu ích kỷ và sự bóc lột kẻ khác.
Tình trạng này được nhận ra
một cách đặc biệt trong quan niệm về tính dục con người,
sa đoạ và mất phẩm giá, từ chỗ nằm phục vụ cho hiệp thông và
trao hiến liên vị đến chỗ giàn lược thành đơn thuần một mặt hàng
tiêu dùng. Bởi đó, kinh nghiệm cảm tính của số đông những người
trẻ thay vì dẫn đến sự tăng trưởng hoà điệu và tươi đẹp về nhân
cách, thay vì mở ngỏ cho họ hướng đến tha nhân trong sự trao
hiến chính mình lại dẫn đến một sự thoái nhượng nghiêm trọng về
mặt tâm lý và đạo đức, mang theo những hậu quả nặng nề cho tương
lai họ.
Đối với nhiều người trẻ,
cội rễ của các khuynh hướng nói trên chính là kinh nghiệm
lệch lạc về tự do : tự do thay vì được đảm nhận để tuân theo
chân lý khách quan và phổ quát thì lại được cảm mến như là sự
đồng tình mù quáng với những mãnh lực của bản năng và với ý muốn
thống trị của mỗi người. Do vậy, một cách nào đó, xét theo
phương diện não trạng và cách xử sự, thật là tự nhiên khi có sự
tiêu tan về thái độ gắn bó nội tâm đối với những nguyên tắc luân
lý; thật là tự nhiên, xét theo phương diện tôn giáo, nếu không
phải trong mọi trường hợp, khi có sự từ chối Thiên Chúa một cách
minh nhiên, hay ít ra có thái độ bất cần hoặc một cuộc sống mà
ngay cả trong những giây phút có ý nghĩa nhất và trong những lựa
chọn dứt khoát nhất chỉ được sống như thể không hề có Thiên
Chúa. Trong một bối cảnh như thế, thật là khó khăn cho ý nghĩa
của một ơn gọi linh mục có thể thực hiện, thậm chí có thể hiểu;
bởi vì ơn gọi là một chứng từ loại biệt về tính ưu việt của cái
hiện hữu trên cái chiếm hữu; ơn gọi còn là nhìn nhận ý nghĩa của
đời sống như là một sự trao hiến chính mình tự do và có trách
nhiệm cho người khác và như là một tư thế sẵn sàng để hoàn toàn
phục vụ Tin Mừng và Nước Chúa trong chức linh mục.
Ngay cả trong cộng đoàn
Giáo Hội, thế giới người trẻ vẫn đang thường là một “vấn nạn”.
Thực vậy, nếu còn hơn cả nơi người trưởng thành, nơi người trẻ,
có một xu hướng khá mạnh tiến tới thái độ duy chủ thể trong lãnh
vực đức tin và tiến tới tình trạng thuộc về đời sống và sứ mệnh
của Giáo Hội chỉ phiếm diện và có điều kiện, thì trong cộng đoàn
Giáo Hội người ta phải vất vả, vì một loạt nguyên cớ, để tổ chức
một nền mục vụ cho giới trẻ sao cho thích nghi và kiến hiệu :
người trẻ có nguy cơ bị bỏ rơi, làm mồi cho sự mong manh về tâm
lý, bất mãn và chỉ trích khi nhìn thấy những người lớn không
sống đức tin cho hợp lẽ và chín muồi và do đó không nêu được
những mẫu gương đáng tin cậy.
Bởi vậy, khó có thể đề nghị
cho những người trẻ và đào tạo cho họ một kinh nghiệm sống trọn
vẹn và năng động đời sống Kitô hữu trong Giáo Hội. Do sự kiện
ấy, viễn tượng ơn gọi linh mục vẫn xa cách với những tiêu điểm
hâm mộ cụ thể của người trẻ.
9.
Dầu vậy, không thiếu những tình huống
đầy khích lệ và tích cực có khả năng khơi dậy và cổ xuý trong
tâm hồn các thiếu niên và thanh niên một thái độ sẵn sàng đáp
ứng mới cũng như một sự truy tầm đích thực và chính hiệu đối với
các giá trị đạo đức và tinh thần, vốn tự bản chất cống hiến một
mảnh đất thuận lợi cho sự nở rộ ơn gọi nhằm trao hiến trọn vẹn
chính mình cho Chúa Kitô và cho Giáo Hội trong chức linh mục.
Trước hết, một số hiện
tượng mới đây đã gây khá nhiều vấn đề nay được ghi nhận là có
phần giảm thiểu, chẳng hạn sự phản kháng có tính triệt để, những
làn sóng phóng túng, những yêu sách nặng tính không tưởng, những
hình thức xã hội hoá bất chấp phân biệt, sự bạo động.
Đàng khác, phải công nhận
rằng những người trẻ ngày nay, với sức mạnh và sự tươi mát của
lứa tuổi mình, cưu mang nơi họ những lý tưởng đang dần dà hội
nhập vào lịch sử : niềm khao khát tự do, sự nhận thức giá trị vô
song của nhân vị, nhu cầu phải chân chính và trong suốt, một
quan niệm mới và một thể loại mới về tính hỗ tương trong những
quan hệ giữa nam và nữ, sự truy tầm xác tín và say mê nhằm tiến
tới một thế giới công bằng hơn, liên đới hơn và hiệp nhất hơn,
sự mở ngỏ hướng đến đối thoại với mọi người, sự dấn thân cho hoà
bình.
Nơi nhiều người trẻ thời
đại, người ta ghi nhận một sự phát triển thật phong phú và thật
sống động về nhiều hình thức tự nguyện đáp ứng nhu cầu của những
người phải sống trong cảnh bị bỏ rơi và vất vưởng giữa lòng xã
hội, thái độ sẵn sàng đáp ứng này được coi là một yếu tố tác
động rất quan trọng cho việc giáo dục, bởi vì khuyến khích và
nâng đỡ những người trẻ trong một lối sống vô vị lợi hơn, cởi mở
hơn và liên đới hơn với người nghèo. Nếp sống ấy có thể giúp
khai thông sự hiểu biết, niềm khát vọng và sự đón nhận một ơn
gọi hướng đến việc phục vụ tha nhân lâu bền và hoàn toàn, nhất
là bằng đường lối dâng hiến trọn vẹn cho Thiên Chúa trong đời
sống linh mục.
Sự sụp đổ gần đây của các ý
thức hệ, thái độ nặng tính chất phê phán khi đứng trước thế giới
những người lớn vốn không luôn luôn nêu dẫn một chứng từ sống
được hun đúc bằng các giá trị luân lý và siêu việt, cả đến kinh
nghiệm của những người đồng trang lứa đi tìm đào thoát trong ma
tuý và bạo lực, tất cả góp phần rất lớn để phải đẩy mạnh hơn và
phải nhất thiết không tránh né vấn đề cơ bản về những giá trị
thực sự có khả năng mang lại ý nghĩa viên mãn của chúng cho cuộc
sống. Nơi rất nhiều người trẻ, khát vọng tôn giáo và nhu cầu
thiêng liêng ngày càng tỏ hiện cách minh nhiên : từ đó có khát
vọng sống kinh nghiệm hoang địa và cầu nguyện, có sự quay trở về
với việc đọc Lời Chúa thiết thân hơn và thường đều hơn, với việc
nghiên cứu thần học.
Trong khuôn khổ của môi
trường tự nguyện, cũng như trong khuôn khổ của công đoàn Giáo
Hội, những người trẻ trở thành những chiến hữu mỗi ngày một tích
cực, nhất là trong việc tham gia các nhóm, từ những nhóm lâu đời
nhất nay đã được canh tân cho tới những nhóm mới được thành lập:
đây là kinh nghiệm của một Giáo Hội được mời gọi vào công cuộc
“phúc âm hoá mới” bằng sự trung thành với Thần Khí, Đấng tạo sức
sống cho Giáo Hội, và thể theo những khát vọng của một thế giới
xa cách Thiên Chúa nhưng lại cần đến Ngài; đây cũng là kinh
nghiệm của một Giáo Hội liên đới hơn với con người và các dân
tộc, trong công cuộc bảo vệ và thăng tiến phẩm giá con người,
nhân quyền của mọi người và của từng người. Tất cả những điều ấy
khai mở tâm hồn và đời sống những người trẻ hướng đến những lý
tưởng có sức thu hút và đòi phải dấn thân, những lý tưởng có thể
thực hiện một cách cụ thể bằng việc nối gót Chúa Kitô trong chức
linh mục.
Tình trạng của con người và
của Giáo Hội được đánh dấu bằng một tính chất hàm hồ và lưỡng
nghĩa sâu đậm như thế chắc hẳn sẽ làm nền, chẳng những cho mục
vụ ơn gọi và cho việc đào tạo linh mục tương lai, mà còn cho
khuôn khổ đời sống và thừa tác vụ của mọi linh mục, và cho việc
đào tạo trường kỳ. Bởi đó, nếu người ta hiểu được những hình
thức “khủng hoảng” khác nhau mà các linh mục ngày nay cảm nghiệm
trong việc thi hành thừa tác vụ, trong đời sống thiêng liêng, cả
đến trong việc diễn giải bản chất và ý nghĩa của chức linh mục
thừa tác, người ta cũng phải vui mừng và hy vọng mà nhận ra được
những triển vọng tích cực mà khúc quanh lịch sử hiện nay cung
ứng cho các linh mục trong việc hoàn thành sứ vụ của mình.
Sự
phân định dựa theo Tin Mừng.
10. Như đã được gợi lên qua
một vài nhận định thoáng qua có tính cách ví dụ, tình huống phức
tạp hiện nay chẳng những cần phải được nhận thức nhưng còn phải
và nhất là phải được diễn giải. Chỉ bằng cách đó người ta mới có
thể trả lời rành mạch câu hỏi cơ bản : “Làm sao để đào tạo các
linh mục cho thực sự ngang tầm với hoàn cảnh hiện nay, cho thực
sự có khả năng phúc âm hoá thế giới ngày nay?” (15).
Nhận thức tình huống là
điều quan trọng. Chỉ nêu dẫn một số dữ kiện thì chưa đủ; cần có
một cuộc tra cứu khoa học để có thể xác định cái toàn diện của
một khuôn khổ cụ thể gồm những hoàn cảnh văn hoá, xã hội và Giáo
Hội.
Diễn giải
tình huống còn là điều quan trọng hơn. Việc làm
này là do yêu cầu của tính lưỡng nghĩa và đôi khi của tính chất
mâu thuẫn từ nơi tình huống, những tính chất này cũng giống như
thửa đất trong Tin Mừng, trên đó hạt giống tốt và cỏ lùng cùng
được gieo và mọc chung với nhau (x.Mt 1, 24-30), chứng tỏ cho
thấy có sự trộn lẫn sâu đậm giữa những khó khăn và những tiềm
năng, giữa những yếu tố tiêu cực và những lý do để hy vọng, giữa
những cản trở và những lối mở.
Công việc diễn giải nhằm
phân biệt điều thiện và điều dữ, phân biệt những dấu chỉ hy vọng
và những đe doạ, không phải luôn dễ dàng. Trong công việc đào
tạo linh mục, vấn đề không phải chỉ đơn thuần là thâu nhận những
yếu tố tích cực và đem đối chọi chúng với những yếu tố tiêu cực.
Điều quan trọng là phải đưa chính những yếu tố tích cực ấy ra để
phân định một cách chăm chú, để đừng tách biệt yếu tố này ra
khỏi yếu tố kia và đừng đem đối lập chúng với nhau, như thế
chúng là những yếu tố có thể đem đối chọi nhau. Đối với các yếu
tố tiêu cực cũng vậy : đừng đem vứt bỏ chúng trọn khối mà không
phân biệt, bởi vì nơi mỗi một yếu tố tiêu cực có thể tiềm ẩn một
giá trị cần được cứu vãn và cần được trả về trong chân lý toàn
diện.
Đối với người tín hữu, diễn
giải tình huống lịch sử có nghĩa là tôn trọng nguyên tắc vận
dụng trí thông minh và dựa vào tiêu chuẩn của những lựa chọn
hành động phát xuất từ đó, nguyên tắc và tiêu chuẩn này nằm
trong một đòi hỏi mới và căn cơ, đó là sự phân định dựa theo
Tin Mừng; việc diễn giải này hình thành trong sức mạnh và
ánh sáng của Tin Mừng, của Tin Mừng sống động và cá vị, của
chính Chúa Giêsu Kitô, và nhờ vào ân huệ của Chúa Thánh Thần.
Bởi thế, trong tình huống lịch sử với những gì là bấp bênh của
nó, công việc phân định dựa theo Tin Mừng không chỉ thâu nhận
một dữ kiện đơn thuần để rồi phải đem ra ứng dụng một cách chính
xác và để rồi có thể dửng dưng hoặc thụ động trước dữ kiện ấy,
nhưng đúng hơn thâu nhận một “bổn phận”, một thách đố đối với tự
do có trách nhiệm, hoặc của cá nhân mà thôi hoặc của cộng đoàn.
Đó là một thách đố gắn liền với “lời mời gọi” mà Thiên Chúa làm
vang vọng trong chính tình huống lịch sử : vì vậy, trong tình
huống, Thiên Chúa mời gọi trước hết Giáo Hội cùng với người tín
hữu làm sao cho “Tin Mừng về ơn gọi và về chức linh mục” diễn
dạt được tính trường tồn của chân lý trong những hoàn cảnh đổi
thay của cuộc sống. Cũng cần phải áp dụng cho việc đào tạo linh
mục những lời của của Công đồng Vaticanô II: “Giáo Hội có bổn
phận, bất cứ lúc nào, tra cứu các dấu chỉ thời đại và cắt nghĩa
các dấu chỉ ấy dưới ánh sáng Tin Mừng, làm thế nào cho mình có
thể giải đáp, với cách thức thích nghi cho từng thế hệ, các vấn
nạn muôn thuở của con người về ý nghĩa của cuộc sống hiện tại và
mai ngày và về những quan hệ hỗ tương giữa con người với nhau.
Bởi đó, điều cần thiết là phải nhận biết và thấu hiểu thế giới
trong đó chúng ta đang sống, những mong chờ, những khát vọng và
dặc tính thường là bi thảm của thế giới” (16).
Sự phân định dựa theo Tin
Mừng ấy đặt nền tảng trên lòng tín thác vào tình yêu Chúa Giêsu
Kitô là Đấng luôn mãi và không ngơi chăm sóc Giáo Hội (x. Ep
5,29), Ngài là Chúa và là Thầy, là nền móng, là trung tâm và là
cùng đích của toàn thể lịch sử nhân loại (17); sự phân định ấy
được soi sáng và củng cố nhờ Chúa Thánh Thần Đấng mọi nơi mọi
lúc khơi dậy sự vâng phục đức tin, lòng dũng cảm tươi vui để nói
gót Chúa Giêsu, ơn khôn ngoan để xét đoán mọi sự và không bị một
ai xét đoán (x. 1Cr 2,15); sự phân định ấy cậy dựa vào lòng
trung thành của Chúa Cha đối với những lời hứa của Ngài.
Nhờ đó Giáo Hội cảm thấy dù
khả năng đương đầu với những khó khăn và những thách đố của giai
đoạn lịch sử mới. Giáo Hội cũng có thể bảo đảm cho hiện tại cũng
như cho tương lai một nền đào tạo linh mục nhằm cung cấp những
thừa tác viên nhiệt thành và xác tín đối với công cuộc “phúc âm
hoá mới”, những người đầy tớ trung thành và quảng đại phục vụ
Chúa Giêsu Kitô và phục vụ loài người.
Chúng ta đừng che dấu những
khó khăn. Những khó khăn không phải là hiếm và cũng không nhẹ
nhàng. Để thắng vượt khó khăn, chúng ta có niềm hy vọng và niềm
tin vào tình yêu bất khả khuyết của Chúa Kitô, chúng ta có niềm
tin vững chắc vào tính bất khả thay thế của thừa tác vụ linh mục
đối với đời sống Giáo Hội và thế giới.
còn tiếp
chú thích:
1) Propositio
2.
2) Diễn văn bế mạc
Thượng Hội Đồng (27/10/1990), số 5 báo Osservatore Romano,
(28/10/1990).
3) X. Propositio
1.
4) X. Hiến Chế Tín
Lý Lumen Gentium, GH, số 28; Sắc lệnh về Thừa tác vụ và
đời sống các linh mục Presbyterorum ordinis, LM; Sắc lệnh
về đào tạo các linh mục Optatam totius, ĐT.
5) Ratio
fundamentalis institutionis Sacerdotalis (6/01/1970) : AAS
62 (1970), tr.321-384.
6) Diễn văn bế mạc
Thượng Hội Đồng (27/10/90), số 3 : 1.c.
7) Như trên, số 1:
1.c.
8) Sứ Điệp của các
Nghị Phụ Thượng Hội Đồng gởi Dân Chúa (28/10/1990), III:
Osservatore Romano, 29-30/10/1990.
9) Kinh Truyền Tin
(14/01/1990), số 2 : Osservatore Romano, 15-16/01/1990.
10) Như trên, số 3
: 1.c.
11) X.
Propositio 3.
12) Bài giảng của
Đức Phaolô VI nhân khoá họp thứ IX CĐ Vat.II (7/12/1965): AAS 58
(1966), tr.55.
13) X.
Propositio 3.
14) X. Như trên.
15) X. Thượng Hội
Đồng các Giám Mục về việc đào tạo các linh mục trong hoàn
cảnh hiện nay – “Lineamenta” (1989), số 5-6.
16) Hiến Chế Mục Vụ
về Giáo Hội trong thế giới ngày nay, Gaudium et Spes, MV
số 4.
17) X. Thượng Hội
Đồng Giám Mục, Phiên họp khoáng đại thường kỳ VII, Sứ Điệp của
các Nghị Phụ Thượng Hội Đồng gởi Dân Chúa (28/10/1990), 1 : 1.c. |
VỀ MỤC LỤC |
|
MỪNG NĂM THÁNH 2010, XEM LỊCH SỬ
TRUYỀN GIÁO VIỆT NAM (BÀI 13) ĐÀO TẠO ĐỘI NGŨ TÔNG ĐỒ GIÁO DÂN
|
Qua
sắc chỉ « Super Cathedram » ngày 09/09/1659, Tòa Thánh đã trao
cho các Giám mục Đại diện Tông Tòa sứ mệnh truyền giáo tại Đàng
Trong và Đàng Ngoài. Để thực hiện sứ mệnh này, công việc quan
trọng nhất đã được rõ rệt xác định là việc quản trị các địa phận
truyền giáo và việc đào tạo giáo sỹ địa phương. Các Đại Diện
Tông Tòa đã thực hiện hai công việc này một cách nhiệt tình và
tích cực ngay từ buổi đầu. Song song với hai công việc ấy, các
ngài còn thực hiện nhiều công việc khác, quan trọng không kém,
đặc biệt là việc đào tạo các tu sĩ, phát triển Hội Thầy Giảng,
lập từ thời các cha Dòng Tên và lập Dòng Mến Thánh Giá năm 1670
và việc đào tạo đội ngũ tông đồ giáo dân. Trong bài này, chúng
ta đặc biệt chú trọng đến công việc đào tạo đội ngũ tông đồ giáo
dân, trong buổi đầu, vào thế kỷ XVII và những kết quả của nó
trong hai thế kỷ XVIII và XIX.
1. Xác định những nguyên
tắc nền tảng cho việc đào tạo đội ngũ tông đồ giáo dân, trong
Công Đồng Ayuthia 1664
Trong bản « Chỉ dẫn thừa sai », tài liệu căn bản của Công Đồng
Ayuthia 1664, việc đào tạo giáo dân rõ rệt chiếm một chỗ quan
trọng hơn cả, chiếm sáu trên 10 chương của Chỉ Dẫn. Ba chương
III, IV và V dành cho việc rao giảng Tin Mừng cho lương dân,
Hai chương VI và VII dành cho dự tòng, chương VIII dành cho tân
tòng và chương IX dành cho « Những Kitô hữu tòng giáo lâu
năm ».
Chương IX về « Những Kitô hữu tòng giáo lâu năm », trước nhất đã
đưa ra lời xác định tổng quát. Công đồng viết : « Các vị Đại
diện Tông Tòa phải có trách nhiệm không những với người dự tòng
và tân tòng mà còn với những tín hữu lâu năm, trách nhiệm của
người cha đối với con cái, của người chủ chăn với giáo dân, của
người thầy với học trò. Vậy phải yêu mến, dẫn dắt, dậy dỗ họ và
phải dành sự chăm sóc hơn mức bình thường vào việc hướng dẫn
cũng như giáo dục họ. Nhưng sự trung thành làm tròn bổn phận
này, phải kéo theo cả sự an ủi vỗ về, và công việc này sẽ sinh
hoa kết trái : tức là càng đào tạo được những tín hữu đạo đức
thánh thiện, thì càng phụ được việc các vị thừa sai, sẽphản
chiếu nơi chính bản thân sự tinh tuyền của Giáo Hội, sẽ lôi kéo
được những người bất trung bởi hương thơm nhân đức của mình, đặt
họ tự nguyện téúng phục ách êm ái của Chúa chúng ta. Trách nhiệm
của người mục tử rất phúc tạp, bởi số lượng và tính đa dạng của
những bổn phận ; chúng tôi nhận thấy nên thu gọn việc giải thích
thành ba điểm cơ bản : hướng dẫn, gìn giữ và cai quản đoàn chiên
được giao phó cho họ chăm sóc ». (François Pallu, Pierre
Lambert de la Motte, Nhắn nhủ các thừa sai, trong Tòa GM Kon
Tum, Khơi nguồn tiến bước, Lưu hành nội bộ, 2004, tr. 201)
Sau
lời xác định tổng quát trên, lần lượt ba trách nhiệm của các mục
tử đối với việc đào tạo đội ngũ tông đồ giáo dân, mà các ngài
gọi là trách nhiệm đối với các tín hữu đã tòng giáo lâu năm, đã
được quảng diễn : trách nhiệm giáo huấn giáo dân ; trách nhiệm
gìn giữ giáo dân; và trách nhiệm cai quản đoàn chiên.
11. Trách nhiệm hướng dẫn các tín hữu
Nhiệm vụ đầu tiên của người mục tử là dẫn đoàn chiên được giao
phó đến đồng cỏ, nghĩa là họ có trách nhiệm tìm ra đồng cỏ hoặc
thức ăn phù hợp với đoàn chiên và cung cấp cho chúng. Thức ăn
này là ; lời giáo huấn và sự yểm trợ bước đầu về tinh thần và cả
vật chất nữa. Vậy, người mục tử - thừa sai phải chăm chú toàn
tâm vào việc cung cấp cho các tín hữu Sữa Thần Linh của giáo lý
thánh, củng cố họ bằng ơn sủng từ các Bí tích. Trong những nỗi
đau khổ sâu xa,hãy nhỏ xuống trên họnhững giọt sương êm dịu của
sự an ủi. Khi tàn tật, tăng thêm cho họ sức mạnh, giúp đỡ bằng
những lời khuyên khi họ đau buồn, bằng sự bố thí khi họ thiếu
thốn, năng đỡ họ hết thảy bằng sự hy sinh và cầu nguyệ, vây bọc
họ trong sự ân cần của lòng vị tha đầy tình phụ tử. Bởi vì, mình
đã vui vẻ hiến cả cuộc đời cho giáo dân chưa, nếu không cho họ
những thứ đó ? (Ibidem,
tr. 202).
12. Trách nhiệm gìn giữ gìn giữ các tín hữu
Về
trách nhiệm gìn giữ các tín hữu, Công Đồng nêu ra ba công việc
phải làm : Xua đuổi sói xa khỏi chuồng, Dẫn những con chiên lạc
về và liều mình cứu chúng.
« Vậy người mục tử sẽ là người gieo kinh hoàng cho những con sói
tham mồi luôn đe dọa đoàn chiên của Chúa. Duổi cho chúng chạy
bằng sức mạnh kêu gào. Vậy phải nổi dậy bằng nghị lực chống lại
những hào nhoáng của ma quỷ, sự quyến rũ mà chúng dùng hằng ngày
để bắt chộp được sự nhẹ dạ của con chiên. Đừng để cho quen phạm
tội công khai mà không bị phạt, đây là nguyên nhân gây gương xấu
cho những người yếu đuối, cũng đừng để một cơn dịch truyền nhiễm
và nguy hại nào len lỏi vào các linh hồn, dặc biệt có một số tật
xấu của tính xácthịt là nguy cơ sa sútcho những cộngđoàn Kitô
giáo.,….
Khi cơn thịnh nộ của những tên bạo chúa nổi lên thì phải an ủi
đoàn chiên, năng cho họ những lời khích lệ, cổ vũ họ, bảo vệ và
bênh vực họ bằng những lời huấn giáo thành ính và bằng lời cầu
nguyện của mình.
Thứ đến, phải ân cần đi tìm những tâm hồn lầm lạc ; Và khi đã
tìm thấy, hãy vác lên vai, không quản mệt nhọc, mồ hôi và che
chở để đưa chúng về chuồng. Những con tự mìh trở về thì hãy đón
nhận chúng với lòng thương yêu đầy tình phụ tử, sự kiên nhẫn của
mình sẽ trị được những con bướng bỉnh nhất và để có thể cứu
chúng hết thảy, phải ưng chịu sự yếu đuối của từng con.
Cuối cùng, người mục tử phải nhớ lại rằng Chúa Giêsu mục tử nhân
lành đã hiến mạng vì đoàn chiên : không có công việc nào làm
mình chán nản, không nghịch cảnh nào làm mình ngã gục, không
nguy hiểm nào làm mình khiếp sợ ; Nếu có gì liên quan đến ơn cứu
độ con chiên, phải bênh vực hết thảy, ngay cả việc nguy hiểm
trực tiếp đến mạng sống, ngay khi việc giải thoát bị lâm nguy,
ngay khi họ cần sự nâng đỡ cho lòng tin bị lung lay, cần đến
người thừa tác các Bí tích, người hướng dẫn, người bảo trợ, cố
vấn hay làm chỗ dựa. …(Ibidem,
tr. 202-205).
13. Trách nhiệm tuyển chọn một đội ngũ giáo dân tham gia việc
quản trị mục vụ
Trách nhiệm tuyển chọn một đội ngũ giáo dân tham gia việc quản
trị mục vụ có
nghĩa là : Trong tầt cả các giáo đoàn, tùy thuộc vào tầm quan
trọng của nó, người ta sẽ phải chọn một số giáo dân để giúp linh
mục tham gia việc quản trị mục vụ.
Bốn
điều kiện để tuyển chọn những người giáo dân này là :
·
Họ « phải đặc biệt hơn
những giáo dân khác bởi sự hiểu biết về giáo lý Kitô giáo
·
bởi lòng sùng đạo nhiệt
thành và đời sống gương mẫu của họ
·
Những giáo dân được
tuyển chọn này trước tiên phải tuyên xưng đức tin và tuyên hứa
giảng dậy cho dân chúng không chút thay đổi nào với giáo lý
thuần chất và toàn vẹn giống như họ đã nhận từ các thừa sai
·
Tuyên thệ không bao giờ
được biển thủ đồ tế lễ của các tín hữu cho việc xử dụng phàm tục
của cá nhân hay kẻ khác.
Công việc của họ gồm những gì ? Đặc biệt trong những giáo xứ
không có linh mục, họ phải làm những việc sau đây :
« Họ
phải lo việc cầu kinh cho các tín hữu tụ họp nhau vào mỗi chủ
nhật hay lễ trọng.
« Vào những dịp này,
sau khi đã đọc kinh tin, kinh thờ lậy và kinh cám ơn, rồi các
kinh sáng, họ giúp giáo dân hướng lòng về Tòa Thánh để rước lễ
thiêng liêng. Những lời nguyện mà họ đọc phải được Thánh Bộ hay
Ðức Giám Mục duyệt xét trước. Theo lời Vị Tông Ðồ Dân Ngoại dậy
rằng phải dâng lời khẩn xin, cầu nguyện, kỳ đảo, tạ ơn cho hết
mọi người, cho vua Chúa và hết các người quyền cao chức trọng
(Tim I, ch. 2, 1-2), họ phải nhắc bảo cho các tín hữu rằng trong
các chủ nhật và lễ trọng, trước khi lui khỏi nhà thờ, phải đọc
ba lần Kinh Chủ Nhật và Kinh Thiên Thần Truyền Tin để cầu cho
việc truyền bá đức tin và mở rộng giáo hội ; cho Ðức Thánh Cha
La Mã ; cho giám mục và các chủ chăn ; cho các vua chúa và quân
quan ; cho những người có tội được Chúa tha thứ và quay trở về
đường ngay của Chúa ; cho những người rối đạo được biết tuân
phục giáo hội công giáo ; cho lương dân được biết rời bỏ lầm lẫn
mà gắn bó tin vào Chúa Kitô ; cho các linh hồn đã qua đời, đặc
biệt là những linh hồn đã an nghỉ trong giáo hội, được khỏi ách
luyện hình ; cho các dân nước được thịnh vượng mà thoát khỏi tai
ương bất hạnh.
« Thêm vào đó, như
của ăn nuôi dưỡng linh hồn bổn đạo, họ đọc sách đạo do Ðức Giám
Mục Ðại Diện Tông Tòa chỉ dậy, hoặc về những lý lẽ đức tin, hoặc
về những điều khác cần thiết cho sự rỗi.
« Ho cũng đọc lịch
báo trước cho giáo dân các ngày lễ, ngày chay, chiều trước lễ,…
có thể có trong tuần và những việc mà giáo dân phải làm để giữ
đúng luật đạo thánh.
« Họ công bố các lễ
cưới và tìm xem những ngăn trở, nếu có.
« Họ Công bố các lệnh
truyền của giám mục và đọc các lời rao theo hoàn cảnh. Tất cả
những việc đó đều phải làm vào ban sáng.
« Về ban chiều, nếu
có thể, họ lại tụ họp giáo dân lần nữa để đọc kinh, xét mình và
đọc kinh chiều.
« Ðặc biệt họ phải lo
lắng rửa tội cho con nít và người lớn, nếu họ xin, và vào lúc
lâm tử.
« Họ cũng đặc biệt lo
lắng cho các bệnh nhân, cứu giúp người hấp hối, chôn cất kể chết
và xin giáo xứ cầu nguyện cho họ ; như vậy, họ sẽ cố gắng gây
lên lòng sùng kính các linh hồn nơi luyện tội mà tránh cho người
ngoại đạo cái thiên kiến rằng chỉ có họ mới biết tôn kính tổ
tiên.
« Họ dậy giáo lý và
lòng đạo cho các trẻ em theo cách thức và thói quen đã được
truyền dậy, với một lòng xác tín rằng công việc giáo dục giới
trẻ là một trong những việc quan trọng nhất.
« Họ bảo trợ các trẻ
mồ côi, các goá phụ công giáo và cả các góa phụ ngoại đạo.
« Chẳng bao giờ họ
xen mình vào những cuộc kiện cáo giữa những giáo dân, để quyết
định ; nhưng họ gắng sức khôn ngoan giải hòa.
« Họ chứng kiến các
cuộc cử hành hôn lễ, cùng với hai người làm chứng.
« Và để cho các việc
thánh được coi là thánh, họ phải áp dụng những luật lệ rõ rệt
cho lễ nghi rửa tội trẻ em và ngưới lớn, cho việc giúp đỡ kẻ hấp
hối, tẩm liệm kẻ chết, việc ma chay, việc phó dâng linh hồn,
việc rao hôn phối, việc cử hành hôn phối và tất cả những việc
liên quan đến họ, theo như luật giáo hội đòi hỏi.
« Họ cần có một cuốn
sổ ghi chép những lý do cho phép cử hành mỗi dịp lễ trong nhà
thờ và những kinh nguyện đặc biệt cho những lễ này.
« Họ có một cuốn sách
trình bày những điểm chính yếu về đạo kitô, về các tội trọng, về
những lời khuyên phúc âm, về 4 mục đích tối hậu ( Sự chết, sự
phán xét, thiên đàng, hỏa ngục)
« Họ có tại nhà họ
cuốn lịch các ngày lễ do các thừa sai soạn.
« Họ coi sóc thứ tự
các sổ rửa tội, thêm sức, qua đời, hôn phối và lưu trữ tại nhà
họ hay nhà hàng xóm, nếu an toàn hơn.
« Nếu các trưởng giáo
khu này không đủ sức làm hết những công việc đó, thì các thừa
sai phải giúp họ. Như vậy, thứ nhất, để giúp giải quyết những vụ
kiện tụng giữa các tín hữu, người ta có thể chỉ định vài ba
người vị vọng để khởi sự nghe các người kiện trước khi trình lên
quan tòa sự tranh chấp, hầu nghe theo sự phân xử phụ mẫu của họ,
hầu nhân nhượng giao hòa với nhau. Nhưng để tránh bóng vía ngoại
đạo, nhửng người trọng tài này phải tránh xuất hiện như là muốn
tạo lập nên một loại tòa án mới.
« Thứ hai, cần phải
đào tạo những thầy giáo kitô, để họ có thể cung cấp cho tuổi trẻ
công giáo cũng như không công giáo những lời giảng dậy phù hợp
với phong hóa của xứ sở ; có thể chinh phục được thiện cảm của
dân bản địa và có thể trải rộng khắp nơi hương thơm đạo thánh ;
như vậy họ có thể dậy bảo trẻ em kitô làm hết bổn phận đức ái.
« Cũng phải chọn
những đàn bà công giáo đạo đức để làm công việc bà mụ, hầu họ
không để một trẻ em nào chết mà không rửa tội, ngay cả khi chúng
là những con của cha mẹ ngoại đạo.
« Sau cùng, các
trưởng giáo khu này phải thường xuyên gởi các bản tường trình
chi tiết về tình trạng tôn giáo trong những xứ mà họ được trao
trách nhiệm coi sóc.(Trần văn Cảnh,
Công Ðồng Thừa Sai Hải
Ngoại đầu tiên Năm 1664 ở thủ đô AYUTHIA, nước Xiêm,
http://www.conggiaovietnam.net/index.php?m=module2&v=detailarticle&id=13&ia=644)
2. Những bước đầu đào
tạo đội ngũ tông
đồ giáo dân, trong Công Đồng Phố Hiến 1670 và Công Đồng Hội An
1672
Những nguyên tắc tổng quát về việc đào tạo đội ngũ tông đồ giáo
dân, phác thảo trong Công Đồng Ayuthia 1664 đã được nhắc lại cho
các thừa sai và giáo sỹ địa phương trong hai công đồng : Phố
Hiến năm 1670 ở Đàng Ngoài và Công Đồng Hội An 1672 ở Đàng
Trong.
21 Công đồng Phố Hiến 1670
Trong văn kiện Công Đồng Phố Hiến, địa phận Đàng Ngoài 1670,
trên 34 khoản dự thảo, không kể các khoản đề cập đến việc đào
tạo 11 khoản đã đề cập đến việc sồng đức tin của tín hữu, trong
đó ba khoản 7, 8 và 21 đặc biệt lưu ý đến việc huấn luyện đội
ngũ tông đồ giáo dân trong tất cả các công ciệc giúp đỡ các linh
mục thực hiện công việc mục vụ trong hai sứ vụ chính : điều hành
giáo xứ và truyền đạo cho lương dân.
Khoản 7 : Ở mỗi nhà thờ có nhiều tín hữu, người ta sẽ đặt những
tín hữu đạo đức nhất, lo việc kinh nguyện trong những ngày lễ
buộc, cũng như lo cho những ngày khác.
Khoản 8 : Những chức việc nêu trên sẽ báo cáo công việc của mình
và của giáo dân cho các Thầy Giảng, và các Thầy cũng sẽ báo cáo
như vậy về công việc mình làm, cũng như của các Chức Việc cho vị
quản nhiệm (linh mục) của xứ mà họ thuộc thẩm quyền.
Khoản 21: Những (linh mục) quản nhiệm, thầy giảng chức việc, hãy
thúc dục các tín hữu tuân giữ và bước theo con đường hẹp, thúc
dục họ suy niệm, ít là vào những ngày lễ buộc, và trong những
ngày ấy, suy gẫm đặc biệt về cuộc Tử Nạn và Thương Khó của Chúa
chúng ta là Đức Kitô.
(Ibidem, tr. 246, 249)
22. Công Đồng Hội An 1672
Về những quyết định của Công Đồng
Hội An địa phận Đàng Trong, liên hệ đến việc đào tạo đội ngũ
tông đồ giáo dân, Đức Ông Mai Đức Vinh đã tóm tắt như sau ;
« Hai năm sau công nghị
Bắc Kỳ, từ ngày 26-10 đến ngày 18-11-1672, công nghị Nam Kỳ được
triệu tập tại thành phố Hội An (Faifo) thuộc tỉnh Quảng Nam khi
đó trực thuộc miền truyền giáo Nam Kỳ. Công nghị này cũng do đức
cha Lambert de la Motte, vị giám quản đầu tiên của giáo phận Nam
Kỳ (1659-1679), chủ tọa. Công nghị đã chú trọng đến đời sống tín
hữu, sự tổ chức những giáo sở và những họ đạo. Chính vì thế, bên
cạnh những nghị quyết về hôn nhân, ban hành các bí tích, còn có
những nghị quyết liên quan đến định chế của quí chức họ đạo,
những nghị quyết về những bổn phận của quý chức. Chúng ta có thể
lược tóm như sau:
* Cần thiết phải chọn lựa những quí chức cho những họ đạo tương
đối đông đảo. Quí chức phải là những tín hữu đức hạnh và khôn
ngoan.
* Nhiệm vụ của quí chức trong những khi vị linh mục và các thầy
giảng vắng mặt là chăm lo trước tiên những buổi cầu nguyện, rao
lịch những ngày kiêng thịt, dạy giáo lý, thăm viếng bệnh nhân,
rửa tội cho trẻ em và người lớn, tuy nhiên chỉ rửa tội cho người
lớn sau khi biết rõ tình trạng hôn phối của họ, quản lý sổ hôn
phối và sổ tửù, giúp đỡ tín hữu sống Phúc Âm.
Như thế, vai trò và nhiệm vụ của quí chức đã được thừa nhận và
qui định bởi giáo quyền. Họ không chỉ là những tín hữu đức hạnh,
mà còn là những cộng tác viên của linh mục, những ông trùm của
họ đạo. Trong thời buổi cấm cách, trong lúc thiếu vắng linh mục,
họ là những người thay thế để củng cố và làm vươn tiến sinh
hoạt họ đạo về mặt thiêng liêng, luân lý đạo đức cũng như về mặt
vật chất ».
(Mai Đức Vinh, Hội Đồng Quý Chức, Paris : GXVN Paris, 2008, tr.
73-74).
3. Những kết quả quan
trọng do đội ngũ tông đồ giáo dân đã thực hiện, đặc biệt trong
thời cấm đạo thế kỷ
XIX
Những quyết định đào tạo đội ngũ tông đồ giáo dân quyết định ở
hai Công Đồng địa phương đã được đem ra áp dụng, Kết quả là
nhiều giáo dân có khả năng và đạo đức đã được đào tạo. Đến lượt
họ, họ đi đào tạo giáo dân. Mà công việc đào tạo lớn vô giá mà
họ đã thực hiện là nêu gương can đảm tuyên xưng đức tin, nhờ đó
họ làm vững đức tin của các giáo dân khác.
31. Cha Deydier đã thành lập đội ngũ tông đồ giáo dân ngay từ
năm 1668, 1680 ở Đàng Ngoài
Những điều mà Công Đồng Ayuthia 1664, Công Đồng Phố Hiến 1670 và
Công Đồng Hội An 1672 đã nêu ra, liên hệ đến việc đào tạo đội
ngũ tông đồ giáo dân, mà vào thời buổi đầu nhắm nhất vào những
chức việc trong Hội Đồng Quý Chức, trong thực tế đã được thực
hiện trên cánh đồng truyền giáo.
Sau
đây là « trích
thư của cha Deydier viết cho ban giám đốc chủng viện Thừa Sai
Hải Ngoại ngày 28.7.1668, và một bản tường trình khác về tình
hình truyền giáo năm 1680. Cả hai bản văn xác nhận rõ ràng: hàng
ngũ quí chức được tổ chức một cách thực tế từ buổi đầu công cuộc
truyền giáo tại Việt Nam.
«Từ khi tôi làm xong công việc sắp đặt mọi sự cho được tốt đẹp
nhất, tôi đã có thể thiết dựng 5 ngôi thánh đường trong thành
phố vương đô này, và đặt 6 vị (quí chức) nhiệt thành và học thức
nhất trong các tín hữu tại mỗi thánh đường, vì tôi muốn đi khắp
các làng để rao giảng Tin Mừng…».
«…Trong mỗi thánh đường, từ hàng ngũ giáo dân người ta chọn ra
một người có đời sống gương mẫu và không mấy bị câu thúc bởi
công kia việc nọ để giúp việc nhà thờ, hội họp giáo dân, xướng
kinh hạt những ngày chủ nhật và ngày lễ, đọc sách thiêng liêng,
giảng dạy, thông báo lịch hàng tuần những ngày lễ hay chay tịnh,
thăm viếng bệnh nhân, sắp xếp cho vị linh mục đến ban bí tích
xức dầu nếu là bệnh nặng, thu nhận tiền bạc dâng cúng của tín
hữu để mua nhang đèn và những gì cần thiết cho nhà thờ...” (Mai
Đức Vinh,
Ibidem).
32. Đội ngũ tông đồ giáo dân đã nêu gương can đảm tuyên xưng đức
tin
Nhưng kết quả lớn nhất mà đội ngũ tông đồ giáo dân đã làm cho
các bậc chủ chăn cũng như giáo hội được thỏa mãn là gương can
đảm tuyên xưng đức tin của họ trong những thời kỳ khó khăn nhất
của lịch sử kitô giáo việt nam, những thời kỳ cấn đạo. Nhờ gương
can đảm ấy người ta nhận ra sự cộng tác quảng đại và can đảm của
quí chức vào thừa tác vụ của linh mục, hay đúng hơn, vào công
cuộc truyền đạo và giữ đạo, vào đời sống của Giáo Hội Công Giáo
Việt Nam. Đức ông Mai Đức Vinh đã nêu ra những trường hợp tiêu
biểu sau đây.
1) Bắt giam toàn bộ quí
chức công giáo
Năm 1859: Vào khoảng trung tuần tháng 10.1859, chiếu theo các
sắc lệnh của vua, quan triều tiến hành bắt giam những quí chức
các họ đạo. Trên toàn quốc, những quí chức trên năm mươi tuổi bị
lùng bắt. Nhà tù chẳng mấy chốc trở nên đầy ứ. Những tù nhân bất
hạnh này không được vua cho cơm ăn, nên các thừa sai phải chu
cấp cho họ. Những cuộc bắt giam hàng loạt này đã làm sụp đổ cơ
cấu tổ chức và gây hoảng loạn trong các họ đạo. Người ta khiếp
sợ nghĩ đến những hành quyết sắp ập xuống trên những tù nhân
này. Tiếng đồn về một cuộc tàn sát tận tuyệt đã loan truyền khắp
các tỉnh thành.
Năm 1861: Tiếp đó, vào năm 1861, quan triều thi hành sắc lệnh
phát vãng toàn diện: Những quí chức bị bắt giam cầm từ hai năm
nay và tất cả giáo dân trai tráng đều vắng bóng, trong các
làng chỉ còn những người già cả, tàn tật, đàn bà, con nít và
một vài người bần cùng, vì bị quên sót hay được ân huệ.
Lúc này, quan triều lùng bắt khắp nơi. Rút kinh nghiệm, họ bắt
giam cả những tín hữu đã bỏ đạo, bởi vì, theo nhà vua: “Chúng
không thành thực bỏ đạo và vẫn mê muội với giáo thuyết sai lạc
của chúng”. Vào tháng 5.1860, đức cha Lefebvre viết về tình hình
ở Sài Gòn: “Những cuộc bắt bớ tại khắp nơi gia tăng gấp đôi
cường độ. Chưa từng bao giờ trong vòng một năm lại có nhiều
người tuyên xưng đạo và nhiều người tử vì đạo đến như vậy. Hiện
tại, tôi đang có 396 tín hữu bị rên xiết dưới gông cùm và xiềng
xích ngục tù! Con số này còn gia tăng trong suốt các năm 1860 và
1861 với sự bắt giam những quí chức của các họ đạo thuộc giáo
phận”
2) Một vài dẫn chứng
đặc biệt
Vào năm 1647, tại tỉnh Quảng Bình, sáu tín hữu bị bắt giam, hai
người trong số đó bị tử hình: Một người là Alexis, quan võ trong
đạo quân triều đình. Người kia là ông trùm họ đạo, tên là
Augustinô.
Ngày 9.1.1665, Chúa Hiền Vương cho quân lùng bắt giáo dân họ đạo
Dinh Cát, trong số đó có ông trùm Têphanô và sáu người đàn anh
trong họ bị lên án chặt đầu.
Ngày 9.12.1888, tu viện Đức Mẹ Vô Nhiễm ở Cái Mơn bị một toán
quân xâm nhập. Sau khi cướp phá, chúng tra gông cùm các ông trùm
trưởng, nữ tu bề trên Matta Lành và nữ tu Elisabeth Ngộ, rồi dẫn
điệu họ về Vĩnh Long. Đồng thời, chúng bắt giam 5 người trong số
những quí chức của các họ đạo vùng Cái Môn. Một trong những quí
chức, ông Gioan Hoan, là trùm của họ đạo và lý trưởng của làng,
ông đã tuyên chứng một đức tin bất khuất.
Vào năm 1859: Vào đêm mùng 7 rạng ngày mùng 8 tháng 1.1859, họ
đạo Dầu Nước, vùng phía Tây miền truyền giáo, bị một toán ít ra
là ba trăm quân lính xâm nhập giữa đêm khuya. Họ đạo này bị tố
lên quan triều tỉnh Châu Đốc về tội chứa chấp một giáo sĩ thừa
sai Âu Châu, một linh mục Việt Nam, có một tu viện và một thánh
đường xinh đẹp. Vị thừa sai nói đây không ai khác là cha M.
Pernot, trở về làm giám đốc chủng viện ở Paris vào cuối năm
1860. Sự tận tâm của ông trùm Lý Phụng đã đưa cha M. Pernot vượt
thoát. Nhưng khi trở về, ông Lý Phụng bị quân hầu bắt trói. Ngày
13.7.1859, ông Lý Phụng và cha Quy bị kết án tử hình. Ngày
13.2.1879, cả hai vị được đức giáo hoàng Léon XIII tuyên phong
bậc Đáng Kính, đức giáo hoàng Piô X suy tôn bậc Chân Phước, ngày
02.05.1909 và đức giáo hoàng Gioan Phaolô II tôn phong bậc Hiển
Thánh ngày 19.06.1988.
(Mai Đức Vinh,
Ibid., tr. 74-76)
LỜI
KẾT
Công việc đào tạo đội ngũ tông đồ giáo dân đã được các Giám mục
Đại Diện Tông Tòa chỉ đạo thực hiện, song song với các công việc
truyền giáo, đào tạo hàng giáo sỹ địa phương và quản trị giáo
phận. Việc đào tạo này đã được thể hiện ngay từ buổi đầu, trong
th ế
k ỷ XVII, qua ba khía cạnh : hướng dẫn, gìn giữ và tham gia quản
trị. Đội ngũ tông đồ giáo dân được đào tạo, trong suốt ba thế kỷ
XVII, XVIII và XIX đều chính yếu chỉ xoay quanh các thành phần
ban « Hội Đồng Quý Chức ».
Trong luận án tiến sỹ thần học mục vụ về « Hội Đồng Quý Chức »
bảo vệ tại Đại Học Giáo Hoàng Thánh Thomas Aquinô tại Rôma năm
1977, Đức Ông Mai Đức Vinh, sau khi đã trình bày tỷ mỷ về lịch
sử đại cương của Giáo Hội Việt Nam, Diễn tiến lịch sử công trình
tổ chức Hội
Đồng Quý Chức,
khuôn mặt Họ Đạo Việt Nam, Tham gia vào Thừa tác vụ Thánh Hóa,
Giảng Huấn và Quản Trị, Hội Đồng Quý Chức dưới ánh sáng của Công
Đồng Vatican II, đã đi đến một kết luận như sau : « Vào năm
1533, Tin Mừng bắt đầu được truyền rao ở Việt Nam và « người
trưởng nữ của Giáo Hội tại Viễn Đông » chào đời. Kể từ năm 1580,
sự đàn áp đạo giáo nổ bùng và kéo dài cho đến năm 1580, tức là
trong vòng 300 năm. Đồng thời, giặc giã và loạn lạc liên miên.
Giáo Hội Việt Nam lớn lên trong những đàn áp và chiến tranh. Đó
là một sự thật lịch sử ngoạn mục. Sau hồng ân của Thiên Chúa và
hoạt động của Chúa Thánh Thần, một trong những nhân tố chính yếu
đã củng cố và phát triển Giáo Hội Việt Nam trong những điều kiện
như thế, đó là « Quý Chức Họ Đạo Tham Gia Vào Các Thừa Tác Vụ
Của Linh Mục » (Mai Đức Vinh, O.c., tr. 338).
Trước Đức Ông Mai Đức Vinh, cha
Cadière, một thừa sai lão luyện và một cha sở nổi tiếng của địa
phận Huế, cũng đã có một kết luận tương tự : « Từ
nhiều thế kỷ qua, tổ chức Hội Đồng Quý Chức đã cống hiến nhiều
lợi ích to lớn. Nếu Giáo Hội Công Giáo được tồn tại giữa dân
chúng Việt Nam thì một phần lớn là nhờ có tổ chức sáng suốt này
trong các họ đạo. Chính nhờ vào hoạt động của các quý chức mà
các tín hữu luôn trung thành gắn bó với đạo giáo của họ mặc dù
phải trải qua những bách hại lâu dài và đẵm máu » (Ibidem).
Paris, ngày 15/04/2010
Trần
Văn Cảnh
Ghi chú :
Sau bài này, loạt bài « MỪNG
NĂM THÁNH 2010, XEM LỊCH SỬ TRUYỀN GIÁO VIỆT NAM »
sẽ tạm ngưng trong mấy tháng và
sẽ tiếp tục lại vào
sau hè 2010.
|
VỀ MỤC LỤC |
|
NGƯỜI GIÁO DÂN TRONG CỘNG ĐỒNG DÂN
CHÚA VÀ KHÍA CẠNH TRẦN THẾ CỦA GIÁO HỘI
|
Nguyễn Đăng Trúc
Thời gian - vĩnh cửu, đời-đạo, tu-tục, và rồi giáo dân-giáo
sĩ..., từ nơi tâm thức sâu kín của con người đến sự thể diễn ra
thành tập tục, nếp sống và ngay cả cơ chế điều hành xã hội, hai
yếu tố nầy được cảm nhận như hai cảnh giới khác nhau, đôi khi
xung khắc nhưng lại cần có nhau. Sự kiện đó là nét cá biệt của
cõi người ta, từ muôn thủa khi người là người. Nó đi vào từng
giây phút một của cuộc sống con người, bất kể trong lãnh vực
nào, dù mang nhiều dạng thức khác nhau và cách nói khác nhau. Và
chính vì thế chúng ta sẽ thấy khi nêu lên vai trò người gìáo
dân, khía cạnh trần thế của Giáo hội thì chúng ta sẽ bị tràn
ngập bởi nhiều lối đặt vấn đề và những kết luận khác nhau tuỳ
tiền đề và khung cảnh mà mỗi người định vị quan điểm của mình.
Có người cho rằng nêu lên vấn đề trần tục và giáo dân nơi Giáo
hội công giáo lúc nầy quả là một chiến thuật "lấn dân, dành đất"
của phe nầy, khi thấy mình ngày càng mất đi bề thế và quyền uy
trên thế giới ! Có người thì đánh giá vìệc đặt thành vấn đề giáo
dân hôm nay quả là đã muộn màng, bởi lẽ thế giới đã chán chê
kinh nghiệm dân chủ và đang chuẩn bị cho một lối điều hành cộng
đồng xã hội mới, chưa kể đến thái độ dửng dưng của nhiều Kitô
hữu, ngay cả giới giáo sĩ ở nhiều cấp khác nhau, trước lời giáo
huấn nhắc nhở của Giáo hội về vấn đền nầy. Cộng đồng công giáo
Việt Nam cũng có thể có thiên kiến cho rằng : đó là vấn đề riêng
của một cộng đồng Giáo hội nào đó bên Tây phương hoặc trong
truyền thống văn hoá riêng của họ; đó chẳng qua là lối luận bàn
trí thức, chuyên môn của mấy vị thần học gia chỉ biết sách vở
không biết gì đến mục vụ cụ thể; hoặc giả đó là việc riêng của
Giáo hoàng, Giám mục, còn cộng đồng địa phương mình thì tuỳ
nghi, cần gì tạo thêm rắc rối ...
Nhưng quan niệm như thế nào đi nữa, thì trên cương vị đạo hay
đời, người ta cũng phải nhận rằng khía cạnh trần tục của Giáo
hội và giáo dân là những nét đậm trong Công đồng Vaticanô II.
Công đồng đó đánh dấu sự thay đổi tâm thức của Kitô hữu, canh
tân nếp sống của Giáo hội công giáo và ảnh hưởng sâu rộng vào
sinh hoạt của nhân loại.
I-
Hai cạm bẫy cần lưu ý
Cạm bẫy đầu tiên
phát xuất từ tiền kiến văn hoá của xã hội tân kỳ, chỉ biết đóng
khung và dừng lại các tiêu chuẩn của khoa học để đề cập và
phê phán tất cả các chiều kích của con người, kể cả chiều
kích của tinh thần và tôn giáo. Hẳn nhiên việc truy cứu về mặt
xã hội, lịch sử, các sự kiện khách quan là điều kiện không thể
thiếu, nhưng chỉ dựa vào khung khoa học để luận bàn và đề xuất
các giải pháp thuộc lãnh vực tôn giáo thì hẳn nhiên là bất cập,
vì lập trường đó mâu thuẫn. Mâu thuẫn vì ý định xoá bỏ yếu tố
tôn giáo đã xuất hiện trước khi luận bàn hay đề xuất về lãnh vực
nầy, trừ phi xem khoa học là một tôn giáo.
Nhưng điều làm ta ngạc nhiên là phần lớn những hiện tượng nổi
bật được truyền thông xã hội, dư luận nêu lên khi đề cập đến vấn
đề giáo dân và yếu tố trần tục của Giáo hội, lại tự đóng
khung trong lãnh vực "thuần khoa học xã hội" nầy.
Đức Giáo hoàng Gioan-Phaolô II trong thông điệp đầu tiên của
Ngài Redemptor hominis (ngày 4.3.1979) đã nhắc nhở
rằng :
"Khi trình bày một cái nhìn toàn bộ về dân Chúa và nhắc lại vị
trí của giáo sĩ cũng như giáo dân, đại diện của hàng giáo phẩm
cũng như của các thành phần của các hiệp hội tận hiến nam-nữ
trong cộng đồng dân ấy, thì Công đồng Vaticanô II đã không chỉ
rút hình ảnh nầy từ các tiền đề của khoa học xã hội. Giáo hội
với tư cách là một hội của con người, hẳn nhiên có thể được
người ta nghiên cứu, và định nghĩa theo những tiêu chuẩn mà khoa
học sử dụng về bất cứ một hội nào khác. Nhưng các khuôn khổ đó
chưa đủ. Đối với toàn bộ cộng đồng dân Chúa cũng như đối với mỗi
thành phần của dân nầy, đây không phải chỉ là một "sự tham gia
có tinh cách xã hội" đặc loại, nhưng phần thiết yếu phải là một
"ơn gọi" riêng cho mỗi người và cho tất cả. (...) Nếu chúng ta
muốn biết Cộng đồng dân Chúa nầy, vốn rất to lớn và rất đa dạng,
trước hết chúng ta phải nhìn Đức Kitô, Đấng từng nói với mỗi
thành phần của cộng đồng nầy một cách nào đó: "Hãy theo ta"
(số 21).
Riêng đối với người Kitô hữu Việt Nam, cạm bẫy thứ hai là sự
xa lạ với những ý tưởng, tâm tình đằng sau các từ ngữ liên hệ
giáo dân, trần tục được dùng trong các nước Tây
phương, từng chịu ảnh hưởng Kitô giáo lâu đời, và nhất là đã
chứng kiến sự phân cách, đối kháng giữa đạo-đời trong thời tân
kỳ cận đại và hiện đại. Hơn thế nữa tương quan tôn giáo-trần tục
trong cuộc sống của gia đình, xã hội Việt Nam cũng không nhất
thiết phải chứng kiến những xung đụng quyền lực mà chúng ta đã
chứng kiến nơi lịch sử Tây phương. Nên từ ngữ giáo dân (laïc),
tính cách thế tục (laïcité) của Giáo hội trước hết đối
với người Kitô hữu Việt Nam và người Việt nói chung không ngầm
hiểu là phi tôn giáo, đôi lúc là chống lại hàng giáo
sĩ như cách hiểu và nổ lực hoá giải của xã hội Tây phương.
Nếu muốn đưa vấn đề nầy vào trong khung cảnh sinh hoạt của Cộng
đồng Kitô giáo Việt Nam, trong cũng như ngoài nước, chúng ta cần
đến những nghiên cứu sâu rộng hơn nữa để có thể ứng dụng một
cách linh động và thiết thực giáo huấn của Giáo hội trong nổ lực
canh tân nếp sống đạo của mình.
II- Bối cảnh của vấn đề
Phúc âm Mathêu ghi lại một kiểu mẫu có tính cách chung toàn về
cộng đồng những kẻ tin "Đức Giêsu là Đấng Kitô, con Thiên
Chúa hằng sống" (Mt. 16, 16), hay còn gọi là Giáo hội.
Cộng đồng đó vượt lên trên lối tổ chức "trần tục hoá" của tôn
giáo cũ như sau:
"Phần anh em, thì đừng để ai gọi mình là "Ráp-bi", vì anh em
chỉ có một Thầy; còn tất cả là anh em đều là anh em với nhau.
Anh em cũng đừng gọi ai dưới đất nầy là Cha của anh em, vì anh
em chỉ có một Cha trên trời. Anh em cũng đừng để ai gọi mình là
người lãnh đạo, vì anh em chỉ có một người lãnh đạo, là Đức
Kitô. Trong anh em, người làm lớn hơn cả, phải là người phục vụ
anh em. Ai tôn vinh mình lên, sẽ bị hạ xuống; còn ai hạ mình
xuống, sẽ được tôn lên" (Mt. 23, 8-12).
Nhưng nếu mọi sự đã hoàn thành nơi Đức Kitô, Lời Thiên Chúa, thì
nơi thân thể Ngài, các em Ngài, là Cộng đồng Giáo hội lại là
một diễn tiến đang hoàn thành : Cộng đồng huynh đệ ấy có một
thời để khai sinh, có những giai đoạn thăng trầm của lịch sử để
phát triển với những thành công, vấp ngã và canh tân liên tục
trong niềm hy vọng hướng đến thời hoàn mãn khi Đức Kitô lại đến.
Thật vậy, gần 20 thế kỷ, qua lịch sử, Giáo hội không phải luôn
luôn xứng hợp với cộng đồng huynh đệ kiểu mẫu mà Đức Kitô vạch
ra.
Lịch sử không phải là một giả thiết và không ai biết được bí mật
tại sao kitô giáo trong gần 20 thế kỷ qua hầu như đã phát triển
trong khuôn khổ của văn minh lịch sử Âu châu. Nếu các cộng đồng
Kitô hữu lúc ban đầu không bị lệ thuộc nhiều vào lối suy tư,
cách sống của xã hội La mã - Hy lạp đương thời, thì ngược lại từ
thế kỷ thứ IV trở đi, Kitô giáo và cuộc sống trần thế của Âu
châu thường tương quan qua lại với nhau rất gắn bó. Kinh qua
thời gian chung sống nầy, mầu nhiệm hợp thông làm cho Giáo
hội thành một cộng đồng huynh đệ dần dà bị lãng quên. Giáo
hội có nguy cơ bị tục hóa. Và sự việc đã xảy ra vì nhiều yếu tố
: trước hết là vì khung cảnh văn hoá, sau đó là sự hội nhập hay
đúng hơn là đồng hoá Giáo hội vào lối tổ chức trần tục của xã
hội đương thời.
Về mặt văn hoá, triết học duy lý và nhị nguyên của các trường
phái Tân-Platon đã phân cách lý trí thuộc phần cao cả, thần
thánh, còn xác thịt hữu hình thuộc cõi thế trần còn vương vấn
chuyện sinh con, đẻ cái. Cuộc sống thần thánh của Giáo hội sớm
được nhìn là những gì thuộc cõi vô hình, lý trí, xa vật chất, mà
tiêu biểu là sự độc thân.
Yêu sách độc thân gắn liền không những với giới đan sĩ mà phải
là điều kiện để đi vào bậc sống của các mục tử, tức là giới giáo
sĩ. Không những giới giáo sĩ, tu sĩ được trọng vì tiêu biểu cho
Giáo hội thánh thiện qua cuộc sống độc thân của mình (!), nhưng
còn nhờ cuộc sống cộng đoàn, nhờ điều kiện được học hỏi và được
huấn luyện làm cho họ thành tầng lớp kẻ sĩ, thành giới trí thức
(đặc biệt là vào thời Trung cổ) trong một khối quần chúng
khó có điều kiện để ăn học.
Nhưng ngoài yếu tố văn hoá giáo dục, còn có yếu tố chính trị.
Một trong những yếu tố có tính cách quyết định là vào thế kỷ thứ
IV, Hoàng đế Constantinô cho phép Kitô giáo tự do hành đạo, rồi
không bao lâu nâng Kitô giáo lên hàng tôn giáo chính thức của La
mã. Dân chúng ào ạt gia nhập vào Giáo hội như chỉ gia nhập vào
một xã hội đời. Kitô giáo mất đi hứng khởi truyền giáo; các Giám
mục được đồng hoá thành công chức cao cấp của Đế quốc và hưởng
các đặc quyền trên trước của vua quan.Từ thế kỷ thứ IV đến thế
kỷ XVIII ( vào lúc có cuộc cách mạng Pháp), không phải lúc nào
và bất cứ đâu Kitô giáo cũng tự đồng hoá với quyền lực trần thế,
nhưng sự gắn bó quyền đạo - quyền đời vào nhau là một chuẩn mực
điều hành xã hội. Sự thấm nhập hai quyền vào nhau đi đến tình
trạng chen chân nhau để cai trị. Gia đình vua chúa, quí tộc hành
xử cả việc điều hành Cộng đồng tôn giáo; giám mục, giáo hoàng
lắm lúc vừa là ông hoàng, lãnh chúa của một vùng đất. Bấy giờ
dân là của vua chúa, thì Giáo hội cũng là của giới
giáo sĩ. Trong khung cảnh xã hội nầy, giáo dân không phải chỉ là
một người không thuộc giới giáo sĩ đang điều hành Giáo hội,
một người không biết giáo lý và sống đời sống trần tục (lập
gia đình, sinh con, đẻ cái và lao động để kiếm ăn),
nhưng dần dà là khối dân được cai trị với tất cả thăng trầm của
vâng phục hay phản kháng, như một khối dân bên lề Giáo hội.
Về điểm nầy, nhà thần học Walter Kasper, Giám mục giáo phận
Rottenburg - Stuttgart, Đức, phân tích như sau :
"Trong Sắc thư Clericis laicos (1296), Giáo hoàng Bonifaciô VIII
nhận định rằng Giáo dân luôn chống lại giáo sĩ. Xác quyết nầy
hẳn nhiên nói đến những cuộc phiêu lưu chính trị giữa giáo hoàng
và hoàng đế hoặc vua nước Pháp, nhưng còn cho thấy một khuynh
hướng nguy hiểm. Những cuộc tranh chấp tương tự tiếp tục xảy ra
trong nhiều lãnh địa giám mục; tại đây chính các lãnh chúa giám
mục lại thường xuất quân đánh chống các Kitô hữu trong vùng
mình.
Hậu cảnh nầy giúp chúng ta hiểu rõ hơn về sự nổi dậy của các
phong trào giáo dân chống giáo sĩ ngay từ thời đầu của Trung cổ
và sự chống đối hung hăng sau đó vào thời tân kỳ. Chủ trương
giáo sĩ trị và chủ trương thuần trần tục là hai mặt của một đồng
tiền"
.
Đến thời tân kỳ (les
temps modernes),
thời đại đánh dấu sự chống đối, xa cách Giáo hội - trần thế; và
bây giờ chữ giáo dân (laïc) được hiểu trong nghĩa chống
đối nầy : giáo dân (laïc) được hiểu là không phải tôn
giáo hoặc chống lại giáo sĩ. Và giáo sĩ được hiểu là Giáo hội.
Cuối thời Trung cổ, xã hội Tây phương chuyển đổi tâm thức song
song với sự xuất hiện những lực lượng văn hoá, xã hội mới. Văn
hoá, nghệ thuật, thương mãi, tài chánh ... không còn nằm trong
sự kiểm soát duy nhất của khuôn khổ quyền lực đạo - đời cũ nữa.
Qua cuộc cách mạng Pháp như là một hình ảnh cô động, chúng ta
thấy vua - quí tộc - giáo sĩ tức là hình ảnh Quốc gia - Giáo hội
cũ bị chuyển đổi thành khối quyền lực mới nhân danh dân chúng.
Khối quyền lực mới lôi kéo quần chúng đứng sau lưng mình. Quyền
lực mới dựa trên lý trí tự đủ cho mình (lý
trí mà mỗi người đều có được)
để một mặt đạp bỏ những quyền lực áp bức bên ngoài, mà tiêu biểu
về mặt xã hội lúc bấy giờ là chế độ quân chủ và Giáo hội. Mặt
khác nó đề xuất một lý tưởng mà hầu hết các ý niệm được
rút ra từ ngôn ngữ Tân ước Kitô giáo: Tự do - Bình đẳng và
Huynh đệ. Chung ta nói là hầu hết, vì căn nguồn phát
sinh các nội dung liên hệ đến các từ ngữ nầy đôi đường hoàn toàn
khác biệt nhau.
Thời đại tân kỳ, cũng tự nhận là chủ nghĩa trần tục tuyệt đối,
không những chống đối quyền lực giới giáo sĩ liên minh với chế
độ quân chủ cũ, mà còn bài xích cả chiều sâu của cuộc sống đức
tin tôn giáo.
Về phía Giáo hội, vì thiếu thiện cảm với thái độ bài xích giáo
sĩ của các trào lưu tân kỳ, nên thường có khuynh hướng bảo vệ sự
sống còn và cơ chế cũ của mình, xa lạ dần với nhịp sống của xã
hội. Nhưng trong những năm tháng căng thẳng hay xa lạ của đôi
bên, giữa Giáo hội và xã hội trần tục, chúng ta sẽ thấy có những
giáo hoàng, giám mục, linh mục, đặc biệt là các tu sĩ, giáo dân
đã vượt lên trên khung cảnh quyền lực để thực hiện cuộc
sống đức tin của mình nơi trần thế. Các dòng tu, với ý hướng
hoàn toàn phục vụ con người, trong lãnh vực y tế, từ
thiện bác ái, giáo dục cho giới nghèo, liên tục xuất hiện trong
khoảng thời gian nầy. Sự can thiệp của các giáo hoàng, giám mục
vào xã hội không còn là chiếm đất, dành dân...; nhưng cổ suý
công bằng, bác ái, huynh đệ trong cộng đồng xã hội, khi các giá
trị nầy đang bị bôi bác, đặc biệt là Thông điệp Rerum Novarum
của Đức Giáo hoàng Lêô XIII (tháng 5.1891) và tiến trình phát
triển Học thuyết xã hội Công giáo.
Một vài nét lịch sử chính yếu đó giúp chúng ta thấy dần dà xuất
hiện cái nhìn mới và khác của các phong trào xã
hội Công giáo (thường là do giáo dân chủ xướng trong các thế
kỷ có sự xung đụng đạo - đời trong hai thế kỷ vừa qua) cũng
như đường hướng của Học thuyết Xã hội Công giáo và Công đồng
Vaticanô II. Cái nhìn mới và khác ấy vượt
lên sự đồng hoá đạo - đời và sau đó là tách biệt hoặc xung đột
đạo - đời trong quá khứ lịch sử Tây Âu.
*
Trong một giai đoạn khá dài của lịch sử, và nơi tâm thức của văn
hoá tân kỳ, Giáo hội được đánh giá là một cộng đồng dựa trên
tiêu chuẩn quyền lực. Đồng hoá hay đối kháng thì cũng lấy
quyền lực làm thước để đo. Vì thế, Giáo hội được nhìn là một
quyền và quyền ấy ở trong tay hàng giáo sĩ.
Ngày nay, dư luận bên ngoài (và điều đáng tiếc là rất đông
những trào lưu khi thì bảo thủ, khi thì tiến bộ trong Giáo hội
thường được báo chí nhắc đến hơn cả) mỗi lần nói đến sinh
hoạt của người Công giáo, thì vẫn lấy tiêu chuẩn thuần trần
tục tiêu cực nầy để lên tiếng phê phán hay đấu tranh.
*
Cuộc thay đổi tâm thức nơi Giáo hội Công giáo trong một vài thế
kỷ gần đây, và được biểu lộ rõ nét nơi Công đồng Vaticanô II là
nhìn cao hơn, đào sâu hơn để thấy gần với Mẫu-mực Cộng đồng
huynh đệ: Cộng dồng ấy có ơn gọi và sứ mệnh là phục vụ và
truyền bá Tin Mừng yêu thương của Thiên Chúa nơi Đức Giêsu Kitô.
Các yếu tố đạo - đời, tương quan Giáo sĩ - Giáo dân không lấy
tiêu chuẩn thuần trần tục là quyền hành trần thế để thiết định
và đánh giá. Chuẩn mực Giáo hội không phải là quyền uy, lấn
đất, dành dân theo tiêu chuẩn đời, nhưng là Đức Giêsu Kitô
làm hoà Thiên Chúa và con người trong công việc phục vụ nhân
loại, thực hiện và cổ suý cộng đồng huynh đệ.
*
Giáo hội khám phá lại mẫu mực Phúc âm dẫn đến những canh tân sâu
rộng trong nếp sinh hoạt của Cộng đồng dân Chúa. Thoát dần khỏi
vướng mắc văn hoá nhị nguyên theo lối Tân-Platon, Công đồng nhận
ra nơi Mầu nhiệm Nhập thể của Đức Kitô ánh sáng chỉ đường :
Thân xác mà Thiên Chúa mặc lấy bảo chứng nét cao cả của vật chất
hữu hình và cuộc sống thể lý. Cái xấu, cái bất cập, tội lỗi và
sa sẩy do từ bên trong tâm hồn con người. Người ta hiểu được chữ
"thế gian" trong các bản Phúc âm, đối kháng với Cộng đồng con
cái Thiên Chúa, không phải là thế giới vật chất, xã hội dân sự,
nhưng là điều mà ngày nay ta thường gọi là tội lỗi và cơ cấu
tội lỗi, nghĩa là cuộc sống con người tự-mãn và ích kỷ từ
khước các giá trị siêu nhiên và đóng kín không mở ra với tình
huynh đệ nhân loại. "Thế gian ma quái" đó không phải là giáo sĩ
hay giáo dân, tôn giáo hay thế giới dân sự, nhưng là khung cảnh
của tự mãn và hận thù nơi bất cứ ai trong bất cứ hoàn cảnh, bậc
sống nào. Lối hiểu về "trần tục" mới nầy rất quan trọng, vì việc
không phân biệt các nội dung nầy có thể tạo hiểu lầm khi đọc các
tài liệu giáo huấn của Giáo hội, đặc biệt là của Công đồng
Vaticanô II. Và từ hiểu lầm đến áp dụng lầm, vô tình
nhiều thiện chí canh tân lại vấp phạm lại những đoạn đường bất
cập của quá khứ. Một trong những nội dung có tính cách tranh cãi
và hiểu trăm nghìn kiểu khác nhau đó là hội nhập, dấn thân
vào đời. Chúng tôi không nêu lên đây quan điểm mới, tích
cực, bám rễ vào Mầu nhiệm Nhập thể của Đức Giêsu Kitô mà Công
đồng nêu lên qua các tài liệu Công đồng về nội dung nầy (xem
Hiến chế Vui mừng và Hy vọng), nhưng chỉ lưu ý đến một tình
trạng mập mờ trong lối hiểu về chữ "dấn thân", mà chúng ta lấy
làm mục tiêu công tác. Vì đã từng hiểu một chiều và theo nghĩa
trần tục về "dấn thân", mà có một thời Giáo hội đã tự đồng hoá
với thế quyền; vì không thiết định rõ sứ mạng rao truyền Đức
Kitô là Đường, là Sự thật và là Sự sống, mà "hội nhập văn hoá"
một thời ưu đãi các học thuyết triết học Tây phương trên chính
giáo huấn của Phúc âm. Ngày nay những phê phán, đòi hỏi Giáo
hội phải chạy kịp và đồng hoá với các trào lưu nhất thời của
thế giới, thái độ và tâm thức đó là vết tích của một quá khứ
tiêu cực mà Giáo hội, qua Công đồng Vaticanô II, đã vượt qua.
Giáo hội không cổ võ dấn thân trần thế để hiện diện trong xã hội
ngày nay như một lực lượng xã hội ưu thắng theo tiêu chuẩn xã
hội dân sự. Nhưng bằng mọi cách và trong mọi lúc, toàn thể các
thành phần của Cộng đồng dân Chúa phải hiện diện giữa cuộc sống
xã hội như dấu chỉ của Đức Kitô, nghĩa là Tình yêu Thiên Chúa
đối với mọi người. Sự hiện diện đó phong phú, đa diện, nhưng khó
khăn hơn, đòi hỏi sự trưởng thành của tất cả các thành phần
trong Giáo hội .
Song song với ý thức Giáo hội không phải là sở hữu riêng của
Hàng giáo sĩ dựa theo lối đánh giá theo tiêu chuẩn quyền lực,
thì tâm thức Kitô hữu cũng ý thức được yếu tố hữu hình, nhân
loại và lịch sử của cộng đồng những con người làm nên Giáo hội.
Giáo hội cảm nhận tính - thời - gian của mình như
thân phận còn hữu hạn, với những bất cập của con người, ý thức
bổn phận của mình là phải mãi lớn lên và hoàn thành với tất cả
những vốn liếng mà Chúa Thánh Thần đã thực hiện với sự cộng tác
của con người qua các nền văn hoá khác nhau từ cổ chí kim và
khắp nơi trên thế giới.
Trong khung cảnh của một Giáo hội như thế, không có sự tôn vinh
hàng giáo sĩ như một giống người đặc biệt khác với khối quần
chúng giáo dân được xem là thụ động, không am tường giáo lý, và
được đánh giá là không cần phải sống thánh thiện như các bậc
sống khác. Chữ ơn gọi và hành đạo (nghĩa là sứ
mệnh truyền bá Tin Mừng) không còn là ngôn ngữ hạn chế để
chỉ cuộc sống giáo sĩ và tu sĩ. Mọi thành phần của Giáo hội, tuỳ
lời mời của Chúa và do sự đáp trả tự do của mỗi người, đều có ơn
gọi và sứ mệnh chung là làm nên Giáo hội, như Phúc âm đã nói
"Tất cả anh em đều là anh em với nhau" (Mt.
23, 8), trong những phận vụ riêng của mình tuỳ nhu cầu phục vụ
của cộng đồng và hoàn cảnh cá biệt của mỗi bậc sống.
III-
Giáo dân trong Giáo hội ngày hôm nay
Tài liệu mới nhất về giáo huấn của Giáo hội về Giáo dân là Tông
huấn Christi Fideles Laici, do Đức Giáo hoàng Gioan
Phaolô II ban hành ngày 30.12.1988, tiếp theo Thượng Hội đồng
Giám mục về Tông đồ Giáo dân tổ chức vào năm 1987 tại Rôma. Giáo
huấn vừa nhắc lại toàn bộ nội dung của Sắc lệnh về Tông đồ
Giáo dân năm 1965 trong Công đồng Vaticanô II, vừa cập nhật
hoàn cảnh Giáo hội lúc bấy gìờ nhưng đi vào chi tiết hơn.
Với tâm thức cũ, tiền-Công-đồng, nhiều Kitô hữu, giáo sĩ cũng
như giáo dân dường như cảm thấy không cần phải đi vào nội dung
giáo huấn của Giáo hội, nhưng thường có định kiến rằng đây hẳn
là bản văn thúc giục giáo dân, đặc biệt các xứ Tây âu, đi lễ Chủ
nhật, tổ chức sinh hoạt rước kiệu, tham gia vào các chức vụ của
Hội đồng giáo xứ để giúp các linh mục; hoặc trao cho một số giáo
dân có thêm uy quyền trong việc điều hành Cộng đồng giáo xứ.
Những nội dung nầy không phải nằm ngoài ưu tư chung của toàn bộ
giáo huấn của Giáo hội về giáo dân, nhưng lối hiểu tiêu cực, què
quặt nầy
(như đóng khung vào sinh
hoạt giáo xứ; tương quan giáo sĩ - giáo dân đặt nền trên ý niệm
quyền uy trần tục; sinh hoạt cộng đồng dân Chúa o ép lại trong
một hội đóng kín, tự đủ cho mình...) đi
ngược lại đường hướng canh tân và quan điểm Giáo hội học mới của
Công đồng Vaticanô II.
III.1- Những nét cá biệt của Giáo hội nêu lên trong văn kiện
·
Giáo hội là cộng đồng huynh đệ có phận vụ truyền giáo
Tựa đề "Ơn gọi và sứ mệnh của người giáo
dân..." tưởng chừng đã nói lên hầu hết điều muốn nói.
Trước đây khi nói đến ơn gọi, người ta hiểu đó là phần
dành riêng cho giáo sĩ, tu sĩ làm như chỉ giới sau nầy mới là
môn đệ Chúa Giêsu.
Không phải thế. Chữ ơn gọi áp dụng cho bất cứ ai là
người, hướng đến việc thực hiện hoàn toàn nhân tính của mình.
Nhưng chữ ơn gọi ở đây được nêu lên đi liền với sứ
mệnh, nhằm nói đến lý lịch của tất cả những ai đã tin vào
Đức Kitô là con Thiên Chúa hằng sống và đã lãnh nhận phép rửa.
Sự kiện sau nầy (sứ mệnh) xác minh sự bất khả phân ly giữa
phép rửa và sứ mệnh rao truyền Phúc âm hay còn gọi là sống đạo.
Bản văn Christi Fideles Laici đưa ngay vào phần dẫn nhập
yếu tố sứ mệnh nghĩa là phục vụ, hành động qua hình ảnh
người thợ được gọi làm trong vườn nho. Chịu phép
rửa là để làm việc. Câu hỏi đặt cho Giáo hội hôm nay
trong cuộc canh tân của Công đồng Vaticanô II đối với người giáo
dân là "Tại sao ở đấy suốt ngày mà không làm gì hết?" Và
nếu giáo dân trước đây đã trả lời với Giáo hội : "Vì không ai
mướn chúng tôi". Thì hôm nay qua Công đồng Vaticanô II, Giáo
hội lặp lại lời Chúa: "Các ông cũng thế, hãy vào làm vườn nho
của ta" (Mt. 2, 6-7) (xem Christi Fideles
Laici, số 1 và 3).
·
Vườn nho là thế giới: sống đạo mọi nơi, mọi lúc
Cũng ở phần dẫn nhập, Tông huấn nầy nói ngay "Vườn nho đó là
toàn thế giới (Mt. 13, 38), và thế giới nầy phải được
biến đổi theo ý định của Thiên Chúa trong một viễn ảnh của vương
quốc Ngài vào ngày thế mạt" (Christi Fideles Laici).
Giáo xứ, giáo phận, dòng tu trước đây là khung cảnh hạn chế cho
sinh hoạt tôn giáo. Trên mặt pháp lý xã hội, chúng ta ngày nay
cũng khó lòng hiểu khác đi được! Nhưng sống đạo có phải chỉ thực
thi các nghi lễ tuy cần thiết nhưng giới hạn trong lãnh vực tôn
giáo hình thức nầy không? Không phải. Vườn nho là toàn thế
giới mà người thợ là Kitô hữu, giáo sĩ cũng như giáo
dân mỗi người một việc phải chu toàn mọi nơi và mọi lúc. Trước
đây ta thấy, mỗi lần Giáo hội đề xuất và thực hiện một công tác
nào, thì thường định chế hoá qua một hình thức xem là có tính
Giáo hội như là cộng đoàn các giáo sĩ hoặc cộng đoàn tu sĩ. Các
thế kỷ trước đây các hội dòng tu nam, nữ là đã "làm", đã "sống
đạo" trong khuôn khổ tổ chức nầy. Tiếp đến, các đoàn thể giáo
dân, hoặc có mục tiêu phục vụ cuộc sống trần tục, như Hội đoàn
Công giáo, các tổ chức từ thiện Công giáo, ngay cả đảng phái
cũng mang tên Kitô giáo... Nhưng từ Công đồng, kinh nghiệm và
sinh hoạt đó tuy vẫn còn tiếp tục nhưng còn được nới rộng hơn
khi Giáo hội thoát dần khỏi tiêu chuẩn trần tục của việc tổ chức
và qui chiếu vào lời Phúc âm: "Các con là Muối đất, là Men
trong bột, là Ánh sáng thế gian...".
Vừa bứt bỏ được các giới hạn quá hình thức, vừa đi gần hơn tinh
thần của Phúc âm, cuộc sống đạo trải tràn ra trong cuộc sống
toàn diện của con người : từ những người đau yếu đến những khoa
học gia thám hiểm không gian, từ người đấu tranh chính trị cho
đến vị đan sĩ ngày ngày lao tác và cầu nguyện, từ Giáo hoàng đến
người mẹ gia đình... sống đạo làm nên Giáo hội không nhất thiết
phải là giáo sĩ hay giáo dân, vì không phải quyền uy điều
hành là yếu tố then chốt làm nên Giáo hội nhưng "biến đổi thế
giới hay cuộc sống con người theo ý định Thiên Chúa" làm nên
sinh hoạt Giáo hội .
·
Một nhu cầu thực tế cấp bách cần đến vai trò giáo dân
Vườn nho là thế giới thực tế trước mắt, chúng không phải một
hình ảnh nào đó của một ý hệ. Giáo hội xác minh lại rằng mọi
người chịu phép rửa đều là anh em và phải có sứ mạng rao truyền
Tin Mừng. Nhưng trước mắt Giáo hội chứng kiến gì:
-
Một thế giới đang đi xa dần ý định của Thiên Chúa, "Một thế
giới với hiện tình kinh tế, xã hội, chính trị và văn hoá đầy dẫy
các vấn đề và khó khăn trầm trọng hơn cả những gì được Công đồng
diễn tả trong Hiến chế mục vụ Vui mừng và Hy vọng" (Christi
Fideles Laici số 3). Và thế giới hay vườn nho đó cần đến thợ
gặt.
-
Giáo hội trong hiện tình ngày nay
đào sâu khủng hoảng thế giới, và sự uể oải thụ động, thờ ơ của
người giáo dân như những dấu chỉ thời đại để khám phá được rằng
: "Thế giới trở thành
môi trường và phương thế cho ơn gọi Kitô hữu của người tín hữ
giáo dân...họ không được gọi để bỏ mất vị trí của họ trong thế
giới nhưng...được Chúa gọi để làm việc, như ngầm ở bên trong,
nhằm thánh hoá thế giới, như hình ảnh men trong bột, trong nổ
lực thi hành các trách nhiệm riêng của mình dưới ánh sáng của
tinh thần Phúc âm".
Do đó, khi nêu lên nhu cầu cấp bách phải đưa giáo dân lên tuyến
đầu của công cuộc rao truyền Phúc âm trong thời buổi ngày nay,
thì một mặt Giáo hội nêu lên một lề lối sinh hoạt mới về sống
đạo. Trong khung cảnh mới nầy không có phân cấp hay loại trừ
theo khuôn khổ tổ chức trần thế : Giáo sĩ không hề bị loại ra
khỏi sinh hoạt trần thế; và giáo dân cũng không có mục tiêu sống
đạo một cách tích cực để có được một vai vế trên trước nào trong
cộng đồng dân Chúa. Đồng thời những tiêu chuẩn bên ngoài, nhãn
hiệu tôn giáo của mình hay uy thế cho một tổ chức cũng không
phải là cùng đích của nổ lực truyền giáo của người giáo dân ngày
nay.
·
Đào tạo
Để có thể đưa giáo dân, tất cả giáo dân vào tuyến đầu của việc
truyền giáo, hẳn nhiên phải cần có đào tạo. Không ai cho cái mà
mình không có. Đào tạo khó khăn nhất là làm sao thay đổi tâm
thức sống đạo? Bản văn Tông huấn trước hết nêu lên tầm mức phải
đạt đến đó là mức trưởng thành. Tiêu chuẩn ưu tiên của
trưởng thành là sống cho kẻ khác, nhìn nhận kẻ khác, nghĩa là
tinh thần phục vụ một cách đại độ.
Và đây cũng là điểm mới lạ của tinh thần sống đạo, vì Kitô hữu
cần trút bỏ tâm tình sợ hãi bị trừng phạt trong tâm thức tôn
giáo của mình, hoặc tìm kiếm lợi ích riêng tư cho mình trong
Giáo hội nơi trần thế mỗi khi thi hành các công tác tông đồ.
Tiêu chuẩn quan trọng hơn nữa trong việc đào tạo là hướng đến
sinh hoạt cộng đồng hiệp nhất, từ nơi gia đình, đến hội
đoàn, giáo xứ đến cấp quốc gia, quốc tế, trong giáo hội, đến với
các tổ chức, tôn giáo khác mình...
Sinh hoạt tông đồ không chỉ là hành động cá thể mà hơn hết là
kết hợp thành hành động chung của cộng đồng, nhất là các đoàn
thể hướng đến những cơ cấu rộng lớn điều hành cuộc sống con
người.
III.2- Những khó khăn
Sự cách biệt giữa giáo huấn của Giáo hội và nếp sống của đa số
người giáo dân như một thực tế trước mắt làm nhiều người nêu lên
những nhận định bi quan. Giáo huấn được xem là một yêu sách của
mẫu mực Phúc âm đòi hỏi phải thực hiện cấp bách trong thực tế,
tiếc thay lại đi kèm với một sự thiếu vắng các yếu tố thiết yếu
để có thể thực hiện! Chẳng hạn:
·
Khuôn khổ tổ chức tối thiểu
Trước đây một dòng tu được lập ra thường đi theo những điều kiện
tinh thần, vật chất, tổ chức để có thể tồn tại : một số công tác
phục vụ cụ thể để thi hành, để kiểm điểm công tác; một sự nhìn
nhận của giáo phẩm, và sự hỗ trợ của cộng đồng; tiêu chuẩn, thời
gian huấn luyện; kỹ thuật và tổ chức nội bộ...
Ngày nay, khi nói đến tông đồ giáo dân, không khác gì đọc một
bản Phúc âm; công tác mênh mông vượt lên mọi hình thức tổ chức,
đòi hỏi một sự uyển chuyển của một tâm thức hết sức trưởng thành
như đã có sẳn tự bao giờ! Và vì yêu sách quá rộng, quá cao, kỳ
cùng giáo huấn dễ bị xem là một lý thuyết dành cho ai khác chứ
không phải cho mình và cộng đồng mình ! Và thực tế đã xảy ra khi
những gì đã nêu lên trong Tông huấn Christi Fideles Laici
thường được chính Giáo hoàng, Giáo triều Rôma qua các thánh bộ
và hội đồng giáo hoàng : Công lý Hoà bình, Đối thoại Tôn giáo,
Di dân,Văn hoá, Giáo dục, Gia đình...thực hiện; càng xuống các
cấp gần với chính cuộc sống hằng ngày của giáo dân như gia đình,
xứ đạo... thì ảnh hưởng hầu như chưa có tác dụng gì mấy (những
phê phán cho rằng Giáo triều Rôma không lưu ý đến sinh hoạt trần
thế, xa cuộc sống cụ thể... là lối nói thuộc lòng do báo chí
quảng cáo hơn là một nhận định bám trên thực tế).
·
Đào tạo
Công việc đào tạo giáo dân quá phức tạp và khó khăn. Yêu sách
đòi hỏi phải có sáng kiến truyền giáo xây dựng Giáo hội, canh
tân xã hội, phải đi tuyến đầu, phải trưởng thành phân biệt những
nguy cơ tinh vi của chủ nghĩa thế tục và đường hướng Phúc âm,
phải uyển chuyển chọn lựa phương thức tổ chức và hành động...,
lắm lúc cho chúng ta có cảm tưởng rằng một cán bộ giáo dân như
thế hẳn phải được đào tạo 3 lần hơn một giáo sĩ ! Thế mà, ý chí
và phương tiện để thực hiện giáo huấn của Giáo hội về Giáo dân,
khởi đầu bằng công tác đào tạo lại èo uột. Có những vùng, những
xứ..., dường như chưa tùng có kế hoạch hay một dự án, ngân sách
nào hướng đến nổ lực nầy. Về phía tổ chức Giáo hội trên mặt hỗ
trợ, sự hiệp thông giữa giáo sĩ - giáo dân trong mục tiêu đào
tạo giáo dân lại càng hiếm hoi. Trong công tác mục vụ, việc đào
tạo gìáo sĩ hướng đến công tác nầy ít được thực hiện, chẳng hạn
không mấy giáo sĩ am tường về phương cách hoạt động tông đồ giáo
dân, các đoàn thể, theo từng bộ môn, lứa tuổi...; các đoàn thể
hay các sinh hoạt giáo dân thường đành chấp nhận sự hiện diện
một giáo sĩ bất chừng nào đó ở cạnh mình như một chuyện tự phát,
đã rồi.
·
Tâm thức
Tâm thức xã hội - và ngay cả Kitô hữu , giáo sĩ cũng như giáo
dân - như còn xa lạ với tinh thần Công đồng Vaticanô II về ý
nghĩa sống đạo. Hãy thử làm một bản trắc nghiệm đa số giáo sĩ và
giáo dân tại cơ sở để xem khi nói đến việc trả thuế, đi bầu cử,
đóng góp giúp người nghèo, dạy con, giúp vợ, săn sóc chồng, thăm
viếng bạn bè, tham gia cổ võ nhân quyền .v.v...có nằm trong
khung cảnh sinh hoạt cuộc sống đạo không, thì rõ. Phải chăng dư
luận và tâm thức nơi nơi vẫn chỉ lấy việc dự lễ chủ nhật
làm thước đo hành đạo ! Và như thế giáo huấn Giáo hội dạy phải
dấn thân vào bất cứ sinh hoạt nào của trần thế : chính trị, bác
ái, xã hội, văn hoá, tu đức đặc loại của giáo dân... có giá trị
như thế nào trong cuộc sống hằng ngày của việc điều hành Cộng
đồng và sống đạo? Giáo huấn Giáo hội còn xa lạ trong tâm thức,
điều đó còn có thể hiểu vì cần thì giờ thích ứng; nhưng ngay cả
trong giáo huấn chính thức của cộng đồng cấp quốc gia, giáo
phận, giáo xứ, trong các cơ sở truyền thông của Giáo hội địa
phương, trong nội dung đào tạo giáo sĩ, giáo dân ..., việc mạnh
dạn truyền đạt giáo huấn của Giáo hội và áp dụng vào cuộc sống
mục vụ thiết thực, tất cả còn ngập ngừng như có vẽ hoài nghi !
III.3-
Niềm hy vọng
Những khó khăn nêu lên có những cơ sở giải thích của chúng. Tuy
nhiên chúng ta biết việc cổ võ Công việc tông đồ giáo dân, nêu
cao sứ mạng và ơn gọì của người tín hữu nầy nằm trong khuôn khổ
một cuộc canh tân Giáo hội học, nghĩa là toàn bộ sinh hoạt Giáo
hội chiếu theo Mẫu mực Phúc âm. Cuộc canh tân đó luôn luôn khởi
đầu lại, trường kỳ vì gắn với bản tính luôn sinh động mà luôn
phải canh cải để kiện toàn Giáo hội .
Bên cạnh những đổi thay còn khó khăn, đôi lúc chậm chạp đến độ
như chết chìm so với vận tốc đổi thay phi mã của cuộc sống văn
minh trần thế, thì cũng phải nhìn nhận rằng chưa một cộng đồng
tôn giáo hay một nền văn hoá nào trong gần 50 năm qua đã thay
đổi nhanh chóng tâm thức và nếp sinh hoạt của mình (dĩ nhiên là
đối chiếu vào kiểu mẫu Phúc âm) hơn là Giáo hội công giáo. Làm
sao trước đây chúng ta có thể tưởng tượng có một hiệp hội như
Focolare do một phụ nữ (trăm phần trăm ở trong đời sống giáo
dân) đứng đầu, với sự tham gia của từng trăm hồng y, giám mục,
hàng ngàn linh mục làm hội viên, để còn qui tụ những thành phần
không phải chỉ là công giáo! Một điển hình, tuy quá chọn lựa,
nhưng không còn gây ngỡ ngàng, thắc mắc bên trong và bên ngoài
Giáo hội, cho phép chúng ta lượng giá một chặng đường rất dài đã
vượt qua được, và tiên liệu những thành quả còn sáng ngời hơn
nữa.
IV- Giáo dân trong hoàn cảnh Việt Nam
Cận kề năm 2.000, có lẽ chúng ta có dịp để kiểm điểm lại nếp
sống cá nhân và cộng đồng đối chiếu với giáo huấn của Giáo hội
và tinh thần Phúc âm. Nếu những khó khăn để cổ võ việc tông đồ
giáo dân là tình trạng chung của Cộng đồng Kitô hữu trong hoàn
vũ, thì đối với Giáo hội Việt Nam chúng ta trong và ngoài nước
lại còn có những khó khăn mười lần hơn.
Khó khăn riêng của Cộng đồng Kitô hữu chúng ta trước hết phát
xuất do tiền kiến lấy mẫu mực tiền Công đồng để đánh giá cao nếp
sống đức tin của chúng ta. Mỗi lần nêu lên sinh hoạt Giáo hội,
chúng ta có sẳn các con số tham gia Thánh lễ chủ nhật để xí xoá
tất cả : chúng ta cho rằng Giáo hội nêu lên khủng hoảng là chỉ
nói đến tình trạng Giáo hội Tây phương, vì giáo dân không còn
"giữ đạo" ! Tiên kiến đó hàm ngụ rằng thực ra giáo huấn của Giáo
hội về giáo dân cũng chỉ để cổ động giáo dân đi lễ; và tiền kiến
kế tiếp là xã hội và cộng đồng Công giáo Việt Nam muôn năm sẽ
không bao giờ thay đổi. Vượt lên trên tâm thức không chịu canh
tân nầy chúng ta cần đọc lại giáo huấn của Giáo hội để đối chiếu
với sinh hoạt của các cộng đồng, các sinh hoạt tôn giáo của
chúng ta, và chúng ta sẽ có được một sự lượng giá chính xác!
Nhưng niềm hy vọng đang lên đường trong cộng đồng giáo hội Việt
Nam
Gần đây, trong công cuộc chuẩn bị họp Thượng Hội đồng Giám mục
cho Á châu (tháng 4 và 5.98 tại Vatican) các giám mục Việt Nam
đã xác nhận rằng Giáo dân là thành phần tích cực truyền giáo
trong giai đoạn qua, và đề nghị một khung cảnh sinh hoạt sống
đạo trong tình huynh đệ gia đình, ăn khớp với tâm thức văn hoá
Việt Nam. Hai yếu tố quan trọng đã được nêu lên nhằm khai triển
giáo huấn của Giáo hội áp dụng cho Kitô hữu Việt Nam.
- Trở lại tinh thần giáo sĩ - giáo dân sát cánh nhau năng nổ
truyền giáo trong giai đoạn thành lập Giáo hội Việt Nam, khi kẻ
sĩ Ignace, chàng thanh niên André Phú yên cùng với linh mục
Alexadre de Rhodes xây dựng cộng đồng. Ở đây phục vụ, truyền
giáo, đi sâu vào văn hoá, ngôn ngữ, tâm thức người Việt không
phải chỉ là lý thuyết mà là nếp sinh hoạt hằng ngày của cộng
đồng những người "yêu thương nhau".
- Kinh nghiệm sống Đạo lý làm người của xã hội Việt Nam
đã sớm biết một nề nếp vượt lên các hình thức tôn giáo quá nặng
nề hệ thống, cấp bậc : Đạo lý Khổng-Mạnh đi vào xã hội như một
tinh thần sống; cuộc sống đạo nghĩa trong việc thờ cúng tổ tiên
trong gia đình và đại gia đình... Đây là những kinh nghiệm quí
giá để giúp Cộng đồng Công giáo Việt Nam trong tương lai thoát
dần nét quá trần-tục-hoá của một tổ chức phẩm cấp trong Giáo hội
chịu ảnh hưởng phần nào sinh hoạt cũ của nền hành chánh La-mã
và xã hội Trung cổ Tây phương. Phải chăng đây là lý do thúc đẩy
các Giám mục hy vọng cho tương lai Cộng đồng huynh đệ Kitô hữu
Việt Nam, muốn lấy mẫu mực thời Tông đồ Công vụ làm điểm qui
chiếu.
***
Để kết luận, xin lấy lại lời Đức Giáo hoàng Gioan Phaolô II
trong phần cuối Tông huấn Christi Fideles Laici :
"Trước ngưỡng cửa Đệ III Thiên niên, toàn thể Giáo hội, Chủ
chăn, cũng như Tín hữu, phải nhận ra một cách mạnh mẽ hơn nữa
trách nhiệm của mình và vâng theo mệnh lệnh của Chúa Kitô:
"Các con hãy đi khắp thế giới mà rao giảng Tin mừng cho muôn
dân" (Mc. 16, 15) là tái tạo một lối truyền giáo mới, Giáo
hội được giao phó để thực hiện một công trình có tầm vóc lớn
lao, khó khăn và cao cả: Đó là việc tiến hành "một lối rao
giảng Phúc âm mới mà thế giới ngày nay đòi hỏi một cách cấp
thiết. Tín hữu giáo dân phải thấy rằng mình là phần tử tích cực
trong công cuộc đó: Họ được gọi để loan báo và sống Phúc âm,
bằng công tác phục vụ con người và xã hội trong tất cả những giá
trị và đòi hỏi của chúng" (C.L. số 64).
_____________
Chú thích
Về thần học giáo dân, yếu tố trần thế của Giáo hội, có rất nhiều
tài liệu để nghiên cứu, đặc biệt là các bản văn Công đồng và các
công trình thâm cứu sau đó. Một số hướng dẫn căn bản về nội dung
nầy đã được "Hội đồng Giáo hoàng về Giáo dân" xuất bản. Riêng về
phần Việt ngữ, Phong trào Giáo dân Vìệt Nam Hải ngoại đã đóng
góp vào việc hỗ trợ đào tạo giáo dân qua các bản dịch các Thông
điệp Giáo hoàng và một số sách Thần học Giáo dân :
- Người Tín hữu Giáo dân - Bản dịch Tông huấn Christi
Fideles Laici - Định Hướng xuất bản 1990.
- Thông điệp Vấn đề Xã hội, Định Hướng xb, 1990
- Giáo dân vào những thế kỷ đầu của Giáo hội, A. Faivre,
Định Hướng xb, 1992.
- Đào
tạo Giáo dân
- Hội đồng Giáo hoàng về Giáo dân, Định Hướng xb, 1993.
- Huấn
thị Tự do Kitô Giáo và giải phóng -
Định Hướng xb, 1993.
- Đường
lối tự tin, tụ lực, tự cường -
Roger Heckel, s.j. Định Hướng xb, 1993.
- Bài
giảng trên núi -
Dấn thân Kitô Giáo, Nguyễn Đăng Trúc, Định Hướng xb, 1996.
- Đối
thoại và rao truyền -
Kitô giáo và các tôn giáo, Định Hướng xb, 1998.
- Giáo hội và Nhân quyền, Hội đồng Giáo hoàng Công lý và
Hoà bình, Định Hướng xb, 1999
- Một cái nhìn mới về Học thuyết Xã hội Công giáo - Hội
đồng Giáo hoàng Công lý và Hoà bình, Định Hướng xb, 1999.
|
VỀ MỤC LỤC |
|
HÃY CỨU NHỮNG THAI PHÔI VÔ TỘI
|
Bác sĩ Nguyễn Tiến
Cảnh, MD
Điều răn thứ V Chúa
đã truyền dạy “Chớ giết người”. Vậy thì không ai được
phép giết người, ngay cả giết thai phôi, bởi vì thai phôi cũng
là con người khi trứng của người đàn bà và tinh trùng của người
đàn ông kết hợp với nhau thành công thì sự sống đã có và bắt đầu.
Càng ngày khoa học
càng tiến bộ thì người ta lại càng làm ra được nhiều việc đặc
biệt và lạ lùng. Người ta có thể tạo ra được một con vật hay một
người giống y chang con vật chủ hoặc người chủ mà không cần sự
phối hợp giữa tinh trùng nam và trứng của người đàn bà. Đó là kỹ
thuật DNA cloning. Con cừu đầu tiên được tạo thành theo cách này
vào năm 1996 nhưng cũng không sống được lâu và chết khi 6 tuổi
(2003). Từ đó người ta nghĩ đến cách tạo ra con người theo kỹ
thuật này, nhưng bị dư luận phản đối vì nhiều lý do luân lý đạo
đức nên ý định đó đã không được thực hiện?
Đồng thời với những
lý do nhân đạo, y khoa và trị liệu, người ta đã dùng những tế
bào gốc (sterm cells) của thai phôi để chữa những bệnh hiểm
nghèo mà hiện y khoa bị bó tay. Thế là người ta đã cho thụ thai
nhân tạo bằng cách lấy trứng của người đàn bà và tinh trùng của
người đàn ông đem cấy cho thụ thai ở phòng thí nghiệm (in vitro
fertilization, IVF)). Khi trứng đã đậu, bác sĩ sẽ dùng những
thai phôi đó để chữa bệnh hoặc sẽ chuyển cái thai phôi đó đặt
vào trong dạ con / tử cung của người đàn bà. Người đàn bà này sẽ
cưu mang cái bào thai đó để nó phát triển cho đến ngày khai hoa
nở nhụy, gọi là người mang thai hộ hay đẻ mướn cho những cặp vợ
chồng hiếm muộn muốn có con.
Hiện nay trên thế
giới có rất nhiều bệnh viện với những bác sĩ chuyên môn đặc
trách công việc này như một kỹ nghệ thương mại.
Đây là một vấn đề
rất quan trọng liên quan đến luân lý, đạo đức y học và phẩm giá
con người. Người ta đã lợi dụng triệt để thai phôi con người như
những con vật để làm thí nghiệm và sử dụng nó với mọi mục đích
bất kể tốt xấu.
SỐ PHẬN CỦA 600,000 THAI PHÔI HIỆN CÓ.
Người ta phỏng đoán
tính đến năm 2003 số thai phôi được giữ đông lạnh trong phòng
thí nghiệm trên toàn quốc Hoa Kỳ có chừng 400,000
và con số này tăng lên mỗi năm 19,000 cái nữa
.
Như vậy tính đến năm 2010 sẽ có khoảng 500,000-600,000 cái thai
phôi người được tồn trữ dưới dạng đông lạnh.
Mặc dù phần lớn
những thai phôi này đã có người nhận mua để cho “thụ thai trong
tương lai”, nhưng ai cũng biết rằng đa số những cặp vợ chồng đã
thành công thụ thai kiểu này một lần rồi sẽ chẳng bao giờ muốn
tiếp tục một lần nữa đầy gian nan và phiền toái, lại phải trả
thêm số tiền ít nhất cũng phải $20,000. Như vậy có thể nói rằng
đa số trong số 600,000 cái thai phôi đó sẽ chẳng bao giờ được
cấy vào tử cung của người đàn bà và, dĩ nhiên nó sẽ phải chết
thôi….
HÃY CỨU NHỮNG THAI PHÔI
Vậy thì làm sao để
cứu những thai phôi này? Dù có những kỹ thuật tân kỳ hiện đại,
cho đến nay để cho những thai phôi đó được sống, chỉ có cách duy
nhất là đem cấy nó vào dạ con / tử cung một người đàn bà để cho
nó được sinh ra làm người. Nhiều người Kitô giáo trong đó đa số
là Tin Lành, dĩ nhiên có cả Công Giáo, đề nghị những cặp chủ
những thai phôi đó nên tặng cho những cặp khác để họ nhận “làm
con nuôi”. Bác sĩ sẽ cấy thai phôi đó vào tử cung người vợ của
những cặp nhận con nuôi này để chúng được tiếp tục phát triển và
sinh ra làm người.
Là người công giáo,
chúng ta nghĩ sao về cách giải quyết này? Giáo Hội Công Giáo dạy
chúng ta thế nào? Để có câu trả lời, chúng ta thử tìm hiểu giáo
huấn của Giáo Hội.
GIÁO HUẤN CỦA GIÁO HỘI VỀ LUÂN LÝ SINH HỌC.
Cho đến khi Thánh
Bộ Giáo Lý & Đức Tin cho ra tập tài liệu “Phẩm Giá Con Người /
Dignitas Personae” nói về luân lý sinh học vào tháng 12 năm
2008, Giáo Hội vẫn chưa chính thức đưa ra một phương cách nào để
giải quyết vấn đề này. Một số nhà thần học trung thành với huấn
quyền đã tán trợ ý kiến cho nhận “làm con nuôi”, một số chống
đối. Nhưng cả hai phía đều tỏ ra thất vọng về thông điệp Phẩm
Giá Con Người.
Mặc dù thông điệp
đã dành ra hai đoạn nói về việc Nhận Làm Con Nuôi (DP.19) nhưng
lại không đưa ra một phán quyết luân lý nào để áp dụng mà chỉ
yêu cầu một số người công giáo, gồm cả những nhà thần học phải
thận trọng. Vậy là coi như kết án việc nhận làm con nuôi. Nhưng
cho đến giờ chưa có một kết tội nào đã xẩy ra. Bản bình luận rất
rõ ràng của HĐGMHK về thông điệp Phẩm Giá Con Người dưới hình
thức Câu Hỏi và Trả Lời
được đưa ra cùng với bản văn vào tháng 12 năm 2008 và bản tin
đưa ra báo chí do văn phòng liên lạc truyền thông ngày 20 - 12 -
2008. Cả hai đều xác nhận rằng thông điệp Phẩm Giá Con Người đã
không đưa ra phán quyết rõ ràng để thực hành
.
William E. May, thành
viên trong tổ chức Văn Hóa Nền Tảng Đời Sống
hai năm trước đây đã đưa ra bản giải thích thông điệp Phẩm Giá
Con Người về vấn đề “Nhận thai phôi làm con nuôi” và được sự tán
đồng của HĐGM. Bản giải thích này có thể được coi là một hướng
dẫn đáng tin cậy để đọc thông điệp Phẩm Giá Con Người.
NHẬN THAI PHÔI LÀM CON NUÔI CÓ HỢP LUÂN LÝ ĐẠO ĐỨC KHÔNG?
Thay vì bàn luận về
giáo huấn trong thông điệp Phẩm Giá Con Người, phần dưới đây
chúng tôi sẽ dựa vào những tư tưởng cập nhật mới nhất về phán
quyết luân lý theo thần học công giáo để cắt nghĩa vấn đề.
Bất cứ một tín hữu
công giáo nào muốn đi đến một phán quyết đúng về một vấn đề nào
đó thuộc phạm vi luân lý mà chưa có quyết định bởi đấng thẩm
quyền về giáo huấn công giáo thì phải điều nghiên xem nó có được
đa số những nhà thần học công giáo đồng ý hay không. Nếu có, thì
chúng ta nên dùng những ý kiến chung đó làm tiêu chuẩn đáng tin
cậy để nhận biết điều gì là đúng. Nhưng thực ra những ý kiến đó
cũng có thể sai lầm, vì vậy chúng ta không nên tin vào đó một
cách tuyệt đối như chúng ta chấp nhận những giáo huấn do Chúa
mặc khải, mà phải xem xét cẩn thận và so sánh với những sự thật
rõ ràng và trong sáng khác.
Ngược lại nếu không
có được đa số đồng thuận như trên mà lại không có ý kiến chuyên
môn và hướng dẫn của giáo quyền, thì người tín hữu phải cẩn thận
xem xét những ý kiến tốt nhất, đồng ý cũng như không đồng ý về
vấn đề của mình rồi chọn ý kiến tốt nhất. Nên nhớ rằng; Một việc
không đúng, bởi vì Giáo Hội dạy vậy; Giáo Hội dạy vậy bởi vì
việc đó đúng. Sự thật là điều mà chúng ta phải theo đuổi.
Cho đến nay, Giáo
Hội vẫn chưa có giáo huấn rõ ràng về việc nhận nuôi thai phôi và
cũng không có đa số ý kiến đồng thuận của những nhà thần học
đáng tin cậy và có thê giá, nên chúng ta vẫn cần phải học hỏi,
bàn luận và tranh cãi tự do.…
NHỮNG Ý KIẾN CHỐNG ĐỐI
Nhà đạo đức học có
thế giá Úc Đại Lợi là Nicholas Tonti-Filippini đã chống đối việc
nhận thai phôi làm con nuôi. Quan niệm và lập luận của ông vừa
được nêu ra đã có nhiều người công giáo chia sẻ và tán đồng. Ông
lý luận rằng: Đem cấy vào dạ con của một người đàn bà hay người
vợ, một cái thai phôi không do chính vợ chồng họ tao ra, thì
người đó sẽ tự cảm thấy là mình lỗi đạo phu-thê, phạm đến thánh
tính của phép hôn phối. Nó có cái gì sai trái bất ổn ở trong đó.
Lập luận của Tonti-Fhilippini quả đã đánh đúng trái tim tình cảm
con người.
Ông kết luận: Mang
một bào thai không liên quan máu mủ gì với mình là lỗi luật / vi
phạm phép hôn phối Chúa đã phán là “Trở Nên Một” khi hai
người nam và nữ lấy nhau thành vợ chồng. Người đàn bà hay vợ chỉ
đươc có thai qua chuyện “chăn gối” với chồng mình mà thôi.
Trường hợp nhận thai phôi làm con nuôi là người đàn bà / người
vợ mang thai một cách khác thường không qua chuyện chăn gối vợ
chồng do phép hôn phối. Đứa con đó là đứa con ngoại hôn. Hành
động đó tự nó đã là xấu rồi. Dùng phương tiện xấu để đạt mục
đích tốt là cứu mạng người là không được.
Đào sâu lý do tại
sao có sự cấm đoán (luân lý) đó, ông Tonti-Filippini đề xuất vấn
đề ý nghĩa của việc thụ thai. Ông cho rằng thụ thai là biểu hiện
sự liên đới giữa người mẹ và đứa con. Nó phải hoàn toàn kết hợp
với nhau một cách tinh tuyền, nghĩa là đứa con hoàn toàn là của
người mẹ; không phải chỉ nằm ở trọng bụng mẹ là đủ mà còn phải
có sự liên kết thân thiết máu huyết thực sự. Người mẹ phải là
mái ấm gia đình, nơi trú ẩn thực sự của đứa con đúng nghĩa của
nó, một mái nhà mà đứa trẻ cần phải có do sự liên đới mẹ con với
nhau, trong đó hai mẹ con hoàn toàn chia sẻ với nhau, liên hợp
với nhau từ tinh thần đến thể xác, cách điều hòa sinh hoc và
phát triển sinh lý một cách mật thiết. Sự liên hợp thân thiết
này không thể đi song hành mà phải hòa trộn với nhau không được
phân cách. Đúng ra thụ thai là một hiện thân hay một nối dài của
tình nghĩa hòa hợp phu thê. Nói gọn lại thụ thai phải do tình
liên đới hòa hợp tinh thần và xác thịt vợ chồng. Trường hợp nhận
thai phôi làm con nuôi là thụ thai ngoại hôn, không do tình
nghĩa phu-thê.
Riêng tôi, xin được
tiếp lời như sau: Lý luận của Tonti-Filippini dựa trên việc thụ
thai phải do hôn nhân. Bởi vì hành động chăn gối vợ chồng bao
gồm hai ý nghĩa của hôn nhân: nghĩa là thụ thai phải do hành
động “ giao hoan vợ chồng”. Khi hai người cưới nhau là đã cam
kết chuyện “chăn gối” để người vợ mang thai. Chuyện mang thai
này không phải chỉ là kết quả của việc “chăn gối”, nhưng nói
theo luân lý đạo đức hoc, tự bản chất nó còn là một yếu tố của
việc giao hoan giữa hai vợ chồng. Vì vậy “hành động chăn gối”
không phải luôn luôn chỉ để người vợ mang thai. Nhận thai phôi
làm con nuôi là cố ý tách rời việc thụ thai ra khỏi việc chăn
gối vợ chồng. Do đó nó làm sai lạc hành động chăn gối giữa hai
vợ chồng, chống lại hôn nhân, phạm tội ngoại tình. Còn nhiều
loại lý luận khác ta có thể thấy nơi những nhà đạo đức học đáng
kính khác như Luke Gormally, Mary Geach, và linh mục Tadeusz
Pacholczyk.
THỤ THAI VÀ HÔN NHÂN
Ở một khía cạnh nào
đó ta thấy lý luận trên là đúng. Nhưng trọng tâm vấn đề ở đây là
“Cứu cái bào thai vô tội”. Vì vậy nếu vấn đề chính là
cứu bào thai mà lý luận không vững thì cái tiền đề và kết thúc
cũng phải dẹp bỏ. Tiền đề cho là thụ thai phải do sự giao hợp vợ
chồng chính thức và thụ thai / mang thai cũng phải có tính đạo
đức là một sai lầm, đồng thời lẫn lộn giữa luân lý đạo đức và
chuyện thụ thai và vợ chồng giao hợp. Vợ chồng giao hợp phải có
ý định sinh con như đã được xác định và lưu truyền trong kinh
thánh từ xưa đến nay. Nhưng vấn đề không phải ở chỗ người đàn bà
thụ thai mà ở chỗ là có một con người mới xuất hiện trên trái
đất này. Con người mới này được hoàn thành từ lúc có sự kết hợp
thành công của hai tinh trùng nam và nữ (fertilization) để sáng
tạo ra con người (procreation), rồi từ đó công việc thụ thai
(pregnancy) bắt đầu.
Ở thế giới lý tưởng
không tội lỗi, hai công việc sáng tạo và thụ thai không bao giờ
tách rời nhau, cũng như sáng tạo và hôn nhân (không tách biệt
nhau). Trái lại trong thế giới tội lỗi, chúng ta thấy có những
đứa con ra đời do ngoại hôn, vì bị hiếp dâm, ngoại tình và loạn
luân. Chúng ta không thể ngoảnh mặt làm ngơ trước những đứa trẻ
vô tội đó chỉ vì chúng sinh ra do tình trạng vị phạm giới răn
Chúa. Mặc dù chúng ta chống lại những hành động đã sinh ra
chúng, nhưng chúng vẫn có quyền sống và đáng được hưởng một
tương lai tốt đẹp nhất có thể.
Cũng hoàn toàn có
lý khi nói rằng một người đàn bà chỉ có thể thụ thai do việc
chăn gối vợ chồng chính thức, do đó người đàn bà mang cái bào
thai trong bụng mình là bình thường và hợp đạo lý. Nhưng làm thụ
thai trong phòng thí nghiệm lại cho là lỗi đạo. Vì bị cho là lỗi
luật Chúa mà không giúp chúng có nơi để phát triển sinh ra làm
người như những đứa con ngoại hôn, không đúng luật hôn nhân…hẳn
là bất công. Cho rằng chúng ở trong tình trạng tội lúc khởi đầu,
nhưng chúng vẫn phải được hưởng một tương lai tốt đẹp nhất, một
nơi trú ẩn trong bụng một người đàn bà để sinh ra làm người, làm
con một cha chung ở trên trời. Cũng là người chúng phải có mọi
quyền lợi như tất cả những đứa trẻ khác, có quyền hưởng công lý
trong xã hội loài người, hưởng ân huệ và bác ái của Chúa và Giáo
Hội.
Chỉ vì kết án hành
động thụ thai của người đàn bà mà tước đoạt luôn cả quyền sống
của đứa con là lỗi đạo đức, công bằng và bác ái.
Theo như lập luận
của Tonti-Filippini và những người theo ông chống lại việc nhận
thai phôi làm con nuôi thì ý nghĩa của của sáng tạo con người
(Procreation / IVF) và thụ thai (Pregnancy) là một thực tế luân
lý, do đó đã đi đến một kết luận kinh hoàng, ngược lại cả trực
giác, rằng luân lý đạo đức đòi hỏi chúng ta phải để cho cả hàng
trăm ngàn “người” phải chết; buộc chúng ta phải quên đi cái
trách nhiệm của chúng ta đối với hơn 600,000 cái thai phôi hiện
có và ngưng tồn trữ chúng dưới dạng đông lạnh để cho chúng chết.
Đối với họ luân lý đạo đức và phẩm giá con người đòi hỏi chúng
ta phải từ chối không cứu giúp những thai phôi đó!
CẢM GIÁC GHÊ TỞM
Như vậy thì làm sao
có thể tưởng tượng nổi cái cảm giác ghê tởm của một số người
công giáo thuần thành? Có hai điều cần suy nghĩ:
Thứ nhất, việc thụ
thai trong phòng thí nghiệm đã gây một phản ứng tiêu cực về việc
nhận thai phôi làm con nuôi, bởi vì thái độ của những cặp vợ
chồng nhận thai phôi làm con nuôi cũng giống như những cặp hiếm
muộn nhận thai phôi từ phòng thí nghiệm để có con. Trong cả hai
trường hợp, thai phôi đều được chuyển từ phòng thí nghiệm đem
cấy vào dạ con người đàn bà. Cái giống nhau của hai trường hợp
này đến đó là hết. Một bên vì mục đích có con, một bên vì việc
thiện. Cái ác độc của các ông bác sĩ thực hiện việc thụ thai
trong phòng thí nghiệm không phải ở chỗ họ di chuyển/cấy cái
thai phôi đó vào người đàn bà, mà ở chỗ là họ tạo dựng những mầm
sống / những đứa trẻ trong phòng thí nghiệm một cách bất chính.
Nếu việc cấy cái thai phôi đó vào bụng người đàn bà tự nó đã là
vô đạo đức rồi thì những cặp hiếm muộn muốn có con qua việc thụ
thai trong phòng thí nghiệm cũng phải bị cấm chỉ, không được cưu
mang đứa trẻ để chúng ra chào đời hay sao? Kết luận như vậy chắc
chắn là sai lầm.
Thứ hai, tình mẫu
tử của người mẹ mang đứa con trong bụng mình 9 tháng mười ngày
có thể nói là độc nhất vô nhị, vì sự liên hệ sinh học giữa người
mẹ và đứa con, là sợi dây liên kết đặc thù không thể thiếu giữa
hai mẹ con. Nhưng xác quyết đó không thể giải quyết được vấn nạn
là việc cứu những thai phôi đang bị đe dọa có hợp lý hợp tình
không sau khi nó được cho ra đời một cách bất công?
Tương tự như trường
hợp nhận làm con nuôi một đứa bé đã sinh ra đời làm người rồi
thì đâu có khác gì nhận một cái thai phôi trước khi nó được cấy
vào bụng người đàn bà cho nó thụ thai. Người đàn bà đó đã dùng
cái dạ con / tử cung của mình để nuôi dưỡng cứu mạng một con
người đang gặp nguy hiểm. Nếu cả hai vợ chồng đồng ý thì đâu có
thể nói là lỗi luật phu thê, đâu có khác gì một người đàn bà
nuôi dưỡng bằng sữa của mình một đứa bé con nuôi khi nó vừa mới
cất tiếng khóc chào đời.
Trong cả hai trường
hợp, người đàn bà đều cung cấp cho đứa trẻ những nhu cầu cần
thiết nhất, là nuôi dưỡng nó bằng chính thân xác mình. Cái quan
tâm chính của bà ta không phải cho bà ta mà là cho đứa nhỏ. Bà
ta đã lấy chính thân xác của bà ta làm một món quà vô vị lợi cho
đứa nhỏ đang lúc nó cần thiết nhất. Tonti-Filippini đã không
chứng minh được việc người đàn bà mang thai tự nó là có tội khi
bà ta không có liên quan gì đến việc giao hoan vợ chồng.
TIÊU CHUẨN LUÂN LÝ ĐẠO ĐỨC
Ba tiêu chuẩn luân
lý đạo đức cần phải có để cứu xét việc nhận thai phôi làm con
nuôi:
1-
Bảo
vệ sự cấu tạo con người (Human procreation)
2-
Bảo
vệ việc chăn gối vợ chồng (Marital intercourse)
3-
Ngăn
cấm việc đẻ mướn (Surrogacy)
Để coi việc nhận
thai phôi làm con nuôi có hợp đạo đức không, ta phải xem nó có
vi phạm những tiêu chuẩn trên không. Cả hai thông điệp Donum
Vitae và Dignitas Personae đều dạy rằng sự sống của một con
người mới chỉ được hiện hữu hợp pháp trong khuôn khổ việc
chăn gối vợ chồng mà thôi.
Việc nhận thai phôi
làm con nuôi không vi phạm những tiêu chuẩn trên, bởi vì nó
không liên quan gì đến chuyện tạo ra một sự sống mới ở trên trái
đất này, mà đúng ra một sự sống con người đã có trước ở trong
phòng thí nghiệm rồi. Nó không thể bị đả kích là đã tạo ra con
người (tiêu chuẩn 1). Cả hai tài liệu Donum Vitae và Dignitas
Personae đều dạy rằng chiều kích cấu tạo và hợp nhất của hành
động “chăn gối vợ chồng” không bao giờ được cố tình phân cách.
Nhưng nhận thai phôi làm con nuôi không liên quan gì tới việc
chăn gối vợ chồng, không có bất cứ một cử động sắc dục nào ở
trong đó. Do đó tiêu chuẩn bảo vệ sự tinh toàn của hành động
chăn gối vợ chồng (tiêu chuẩn 2) không dính dáng gì tới việc
nhận thai phôi làm con nuôi.
Sau cùng, cả hai
tài liệu Donum Vitae và Dignitas Personae đều kết án việc đẻ
mướn. Chúng ta phải coi việc nhận thai phôi làm con nuôi có dính
dáng gì đến chuyện đẻ mướn không. Mặc dù bề ngoài hai chuyện đó
giống nhau là cùng chuyển cấy cái thai phôi không phải là của họ
vào dạ con người đàn bà để nó thụ thai và triển nở cho đến ngày
đứa trẻ chào đời. Nhưng về mặt luân lý hai chuyện đó hoàn toàn
khác nhau. Cái quỉ quái của người đẻ mướn không phải ở chỗ họ
muốn mang thai và cưu mang cái bào thai không phải của họ mà là
họ cộng tác, a tòng với tội lỗi của kẻ làm thụ thai trong phòng
thí nghiệm. Họ ký kết với “bố mẹ” của cái thai phôi được thụ
thai trong phòng thí nghiệm để cưu mang trong người đến khi sanh
đẻ xong thì trao đứa bé lại cho cha mẹ nó để lấy tiền. Người đẻ
mướn đã chia sẻ tội ác của kẻ đả tạo ra con người trong phòng
thí nghiệm một cách bất chính. Ngược lại, người đàn bà nhận con
nuôi họ nhận cái thai phôi làm con một cách ngay thẳng, vì tình
thương bác ái; họ ân hận buồn phiền vì cái thai phôi được tạo
lập một cách bất công, họ phản đối không chấp nhận kế hoạch
chương trình tội ác của những ông bác sĩ tạo ra thai phôi trong
phòng thí nghiệm.
Nhận thai phôi làm
con nuôi với mục đích cứu mạng sống một người đang trong tình
trạng nguy hiểm là một hành động tốt với mục đích tốt thì đương
nhiên về mặt luân lý nó là chính đáng, nên làm và đúng. Mặc dù
đôi khi trong những trường hợp đặc biệt có thể có những chọn lựa
sai lầm, như biết mình nhận con nuôi là một gánh nặng sẽ làm tổn
thương, giảm sút việc hoàn thành nhiệm vụ đang có của mình. Tuy
nhiên hành động chọn lựa đó tự nó không phải là tội ác.
KẾT LUẬN
Chúa đã phán dạy
“Không Được Giết Người”. Do đó cứu những thai phôi / con người
đang trong tình trạng nguy hiểm hiển nhiên là được phép. Tuy
nhiên thực tế cuộc đời có nhiểu khúc mắc oái uăm, luân lý đạo
đức cũng có những trường hợp ngoại lệ, luật pháp loài người có
lúc thế này lúc thế kia, phải chăng cứu mạng sống một người có
khi không cần thiết, giết một người có thể không có tội?
Đó là những nan đề.
Trong khi Giáo Hội chưa có những giáo huấn rõ ràng để thực hành,
mỗi người Công Giáo chúng ta có thể có những suy luận, lý đoán
riêng để tìm câu trả lời. Có nên cứu những thai phôi đã được tạo
ra trong phòng thí nghiệm không?
Chúng tôi mời gọi
tất cả mọi người nhất là những ai thích thú vấn đề, tham gia
đóng góp ý kiến.
Fleming Island,
Florida
25-4-2010
NTC
|
VỀ MỤC LỤC |
|
CHA MÃI LÀ ĐỨC TỔNG CỦA
CHÚNG CON !
|
(Lời dâng Đức Tổng Giuse đáng kính)
Cha mãi là Đức
Tổng của chúng con !
Trong niềm tin,
lòng biết ơn, kính trọng
Trong cảm thông
và tâm giao ngưỡng vọng
Một con người đã
Sống Đẹp vị tha
Chiếc ghế quyền
cao không còn dáng hình Cha
Không còn nữa
ngày vinh hoa mũ, gậy…
Nhưng mãi còn
trong thâm tâm hết thảy
Đoàn chúng con
đang muốn sống lời Cha
Ác ôn thế trần
sẽ tàn lụi, phôi pha
Quân tỵ ghen sẽ
ngẫm ra chua nhục
Hôm nay Cha đang
lâm vào uẩn khúc
Nhưng mở ra
“Đường Hy Vọng” gần hơn
Cha mãi là Đức
Tổng của chúng con !
Thêm sinh lực
cho khát khao mỏi mòn
Không ngả
nghiêng trước gạt lường, mơn trớn
Không nhút e khi
kẻ ác ngó dòm
Tháng ngày qua
đã kết cánh bông thơm
Đời Cha đó như
chiến sỹ phi thường
Giữa chiến
trường tràn thê lương bạo ngược
Cha muốn dành
cho Chúa những linh hồn
Cha mãi là Đức
Tổng của chúng con !
Những tâm hồn
đang đau thương dập nát
Theo Đức Ki-tô
Cha đem Lời chân thật
Để dịu xoa vực
dậy kiếp lầm than
Dù biết ra đi,
sự thật phũ phàng
Chúng con tin
Chúa từ nhân thấu tỏ
Tình thương Cha
vẫn đồng hành nâng đỡ
Đoàn chúng con
những chiên nhỏ mù khơi
Cha mãi xứng
danh “Đức Tổng”, Cha ơi !
Giữa lòng người
không phân chia ranh giới
Dù người ta cố
giương tay thay đổi
Cha mãi là Đức
Tổng của chúng con !
Đa tạ Cha !
Con: J.B. Nguyễn
Quốc Tuấn
|
VỀ MỤC LỤC |
|
TẠI SAO “HỌC HỎI VỀ GIÁO HỘI NHƯ
MẦU NHIỆM, HIỆP THÔNG, SỨ VỤ”?
|
I.
Vui Mừng:
Tôi
đã đọc “Thư Hội đồng giám mục Việt Nam gửi cộng đồng dân Chúa
công bố Năm Thánh 2010”, trong số 3 có nói rằng: “Năm
Thánh 2010 là cơ hội thuận lợi cho chúng ta học hỏi về Giáo Hội
mầu nhiệm, hiệp thông, sứ vụ”. Rồi trong “Nội quy Năm
Thánh 2010” đăng trong báo Hiệp thông số 52, cũng của Hội
đồng giám mục, trong phần II cử hành Năm Thánh 2010, nói rằng:
“Hội đồng giám mục Việt Nam
‘quyết tâm cùng nhau làm mới hình ảnh Giáo Hội tại Việt Nam’, và
chọn chủ đề của Năm thánh 2010 là:
Giáo Hội tại Việt Nam: Mầu nhiệm – Hiệp
thông – Sứ vụ
Chủ đề này được triển khai theo 3 chủ điểm lớn sau đây: Giáo
hội
mầu nhiệm – giáo hội hiệp thông – giáo hội sứ vụ”.
Một “tiểu ban” sẽ soạn thảo các tài liệu học hỏi và cử
hành Năm thánh theo 3 chiều kích, hay 3 lãnh vực mục vụ (giáo
hội mầu nhiệm, giáo hội hiệp thông, giáo hội sứ vụ)… Điều làm
tôi vui mừng chính là được “học hỏi về giáo hội”
và “cùng nhau làm mới hình ảnh giáo hội tại Việt Nam”,
theo 3 chủ điểm hay 3 chiều kích: mầu nhiệm, hiệp thông, sứ
vụ. Tôi có dịp hỏi một số linh mục già cũng như trẻ, một số
tu sĩ, và giáo lý viên rằng có biết tại sao mà HĐGM chọn lựa học
hỏi về giáo hội theo 3 chiều kích kể trên không? Tất cả đều trả
lời là chẳng có thắc mắc tại sao, mà thấy các ngài nêu ra thì cứ
việc học hỏi thôi. Còn tôi, tôi đọc hết Đề cương và các bài viết
trong báo Hiệp thông cho tới nay chủ ý tìm xem HĐGM có nói tại
sao đã chọn để học hỏi giáo hội theo mô hình đó không, mà chỉ
thấy trong Nội quy, (phần I. Ý nghĩa và mục đích), nêu ra quyết
tâm “làm mới hình ảnh gia đình giáo hội tại Việt Nam theo
hình mẫu mà công đồng Vatican II 1965 đã phác hoạ: giáo hội hiệp
thông, giáo hội tham gia, giáo hội vì loài người”, nên
tôi cũng không rõ lý do các ngài đã chọn lựa. Nhưng riêng tôi,
tôi rất tâm đắc, và nhận thấy chọn lựa của HĐGM rất chính đáng,
hữu ích và còn cần thiết cho giáo hội Việt Nam hôm nay, bởi vì
tôi may mắn có được tài liệu của Thượng hội đồng giám mục đặc
biệt 1985, THĐGM này được gọi là đặc biệt vì để kỷ niệm 20 năm
bế mạc Công đồng Vatican II, do Đức Gioan Phaolô II triệu tập,
cùng với 118 Nghị phụ đại diện các HĐGM, nhằm “trao đổi và
đào sâu các kinh nghiệm và các kiến thức để áp dụng công đồng”,
cũng như “góp phần vào việc thực thi công đồng cách trung
thực và đầy đủ trong đời sống giáo hội”. THĐGM đặc biệt này
không phổ biến tài liệu dưới hình thức Tông huấn, như các THĐGM
khác, mà chỉ phát hành một tập tài liệu gồm báo cáo của Đức Hồng
y Garrone và Đức Hồng y Danneels. Hôm nay, sau 25 năm, đọc lại
tài liệu ấy, tôi thấy như HĐGMVN đang muốn cùng với Dân Chúa làm
lại kinh nghiệm của các nghị phụ của THĐGM đặc biệt. Các nghị
phụ này hầu hết đã tham dự Công đồng, khi về gặp lại nhau sau 20
năm đem áp dụng những đổi mới của Công đồng, đã góp ý cho nhau
những nhận xét và kinh nghiệm sâu sắc, mà ngày nay tôi nghĩ rằng
có nhiều người chưa biết đến, nếu biết sẽ hiểu giáo hội sâu hơn
và thực thi giáo huấn của Công đồng tích cực hơn.
Quả
vậy, trong tài liệu của THĐGM đặc biệt, các nghị phụ đã cho biết
một số điều cốt yếu sau đây:
1.
Khi bắt đầu họp Công đồng Vatican II, các
nghị phụ đã đưa ra quá nhiều lược đồ, sau các ngài mới nhất trí
“tập trung vào 3 chiều kích là: Chúa Kitô,
Giáo
hội,
và thế giới”.
2.
Từ 3 chiều kích đó, các nghị phụ “đặt
Chúa Giêsu Kitô là nền tảng và trung tâm của tất cả các tài liệu
Công đồng” (quy Kitô), và chọn
“Giáo
hội
là đề tài trung tâm của Công đồng
… Giáo
hội
vâng lời Thiên Chúa cử hành các mầu nhiệm Chúa Kitô cho thế giới
được cứu độ”,
đây chính là sứ vụ của Giáo
hội.
3.
Khi bàn về đề tài trung tâm là Giáo
hội,
Đức Hồng y Garrone báo cáo rằng các nghị phụ Công đồng đã làm
một việc đặc biệt là “đảo
ngược viễn tượng có tính cách cơ bản, làm người ta phải nhìn
Giáo
hội
như một toàn bộ trước khi nhìn Giáo
hội
trong chi tiết của các yếu tố cấu thành”,
nghĩa là các ngài đã không theo cái nhìn cơ bản mà thần học cổ
điển quen trình bày về Giáo
hội
như: trước hết là định nghĩa, nguồn gốc, rồi đến các đặc tính,
tổ chức, các thánh thông công … nhưng các ngài đã chọn lựa để
bàn ngay đến Giáo
hội
là mầu nhiệm, là hiệp thông, là sứ vụ.
Sự đảo ngược này tránh cho mọi người có cái nhìn bị phân tán vào
các chi tiết cấu thành nhưng có một cái nhìn tổng hợp và hữu cơ
về Giáo
hội:
tổng hợp là bao gồm được nhiều thành phần có quan hệ chặt chẽ
với nhau làm thành một tổng thể; còn hữu cơ, không phải là đối
nghịch với vô cơ, mà là có quan hệ không thể tách rời nhau để
tồn tại hoặc hoạt động, như trong một cơ thể vậy. “Nhờ
thế, người ta có thể trả lại cho mỗi yếu tố, chức năng chính xác
của nó trong một viễn tượng toàn diện và dưới ánh sáng của một
cứu cánh chung. Nhờ vậy mỗi cơ quan tìm lại được ý nghĩa đích
thực của mình, chẳng hạn mọi quyền bính đều mang tính cách một
phục vụ”.
4.
Ý muốn của công đồng là như thế, nhưng sau
công đồng 20 năm, THĐGM đặc biệt đã nhất trí rằng
“khái
niệm Giáo
hội
như mầu nhiệm, tỏ ra khó hiểu đối với nhiều Kitô hữu”,
và “ý niệm Giáo
hội
– Hiệp thông đã không thấm nhập vào dân Kitô giáo”,
dù công đồng nhận thấy “ý tưởng hiệp thông đã trở thành
giá trị tối hậu”, và Công đồng đã
“lấy khái niệm Giáo
hội
Hiệp thông làm khái niệm căn bản cho công trình học hỏi của mình”.
5.
Vì thế, các nghị phụ của THĐGM đặc biệt
chọn chủ đề trung tâm là:
“Giáo
hội
lắng nghe Lời Chúa, cử hành các mầu nhiệm của Chúa Kitô để thế
giới được cứu độ”.
Và từ chủ đề trung tâm này các ngài rút ra 4 đề tài để khai
triển:
1.
Mầu nhiệm của Giáo
hội
là gì?
2.
Nguồn mạch sống của Giáo
hội
là Lời Chúa trong Thánh Kinh và Thánh Truyền.
3.
Giáo
hội
là “hiệp thông” như thế nào?
4.
Sứ vụ của Giáo
hội
hôm nay là gì?
Các
ngài muốn “đào sâu sự hiểu biết
về Công đồng – cả văn tự lẫn tinh thần – để đi tới chỗ thực hiện
Công đồng cách trung thực và đầy đủ trong đời sống Giáo
hội”.
1.
Để giúp Dân Chúa nắm bắt được ý nghĩa toàn
vẹn hay toàn diện (sens integral) của các chủ đề trên, các nghị
phụ đã khai triển mỗi chủ đề một cách ngắn gọn, súc tích như
sau:
2.
Mầu nhiệm của Giáo
hội
là gì?
“Tất cả sự quan trọng của Giáo
hội
bắt nguồn từ mối quan hệ giữa Giáo
hội
và Chúa Kitô, một Chúa Kitô là Thiên Chúa làm người”.
Từ mối quan hệ này mà Giáo
hội
được Công đồng “mô tả như Dân Thiên Chúa, Thân Mình Chúa
Kitô, Hôn thê của Chúa Kitô, Đền thờ của Chúa Thánh Thần, Gia
đình của Thiên Chúa”. Đó là
“mầu nhiệm Giáo
hội
trong Chúa Kitô”.
“Giáo
hội
được coi là dấu chỉ và dụng cụ của sự thánh thiện”.
Tuy nhiên, “Giáo
hội
vẫn còn là Giáo
hội
mang trong lòng những người tội lỗi. Giáo
hội
thánh nhưng vẫn phải được thanh luyện”.
3.
Giáo
hội
là hiệp thông như thế nào?
“Chữ hiệp thông phức tạp, nó có nghĩa gì? Cơ bản đó là hiệp
thông với Thiên Chúa, nhờ Chúa Giêsu, trong Chúa Thánh Thần. Sự
hiệp thông đó được thực hiện trong Lời Chúa và trong các nhiệm
tích”. Sự hiệp thông này có “tính hiệp nhất và tính đa
dạng” nghĩa là “Giáo
hội
duy nhất và phổ quát lại thật sự hiện diện trong mọi Giáo
hội
địa phương”,
“chính nhờ và trong các Giáo
hội
địa phương mà có một Giáo
hội
công giáo duy nhất”.
Mọi thành phần trong Giáo
hội
duy nhất đó, từ Đức Giáo
hoàng
đến các giám mục, các hội đồng giám mục, các linh mục, tu sĩ,
giáo dân nam nữ già trẻ … hiệp thông với nhau bằng việc tham gia
và đồng trách nhiệm, và còn phải hiệp thông đại kết với các cộng
đồng ngoài công giáo nữa.
4.
Sứ vụ của Giáo
hội
trong thế giới là gì?
Tự bản chất thâm sâu, Giáo
hội
là mầu nhiệm, là hiệp thông với Thiên Chúa và với mọi thành phần
trong Giáo
hội;
Giáo
hội
còn được sai tới thế giới để đối thoại với thế giới và tìm cách
cứu độ thế giới, một thế giới mà các nghị phụ thấy sau công đồng
20 năm, đã “gia tăng các nạn đói kém, áp bức bất công và
chiến tranh, nạn tra tấn, nạn bạo hành, và đủ mọi hình thức bạo
động khác”. Giáo
hội
địa phương phải hội nhập văn hoá, đối thoại với các tôn giáo
ngoài Kitô giáo và với cả những người không tin. Đặc biệt THĐ
1985 nhắc lại thái độ của công đồng là: “vui mừng và hy vọng,
ưu sầu và lo lắng của con người ngày nay, nhất là của người
nghèo và những ai đau khổ, cũng phải là vui mừng và hy vọng, ưu
sầu và lo lắng của các môn đệ Chúa Kitô”, và còn quyết tâm
“chọn lựa dành ưu tiên cho những người nghèo và việc thăng
tiến con người”. Các ngài mong muốn Giáo
hội
“ý thức hơn về sứ vụ của mình nhằm phục vụ người nghèo, kẻ bị
áp bức, những người sống bên lề”. Các ngài nhấn mạnh rằng:
“ngoài cái nghèo vật chất, còn có
sự thiếu tự do và các của cải thiêng liêng mà người ta có thể
coi như một hình thức của nghèo khổ. Sự thiếu thốn đó đặc biệt
nghiêm trọng khi tự do tôn giáo bị sức mạnh tiêu diệt. Một cách
tiên tri, Giáo
hội
phải tố cáo mọi hình thức nghèo khó và áp bức, bênh vực và cổ cõ
ở mọi nơi các quyền cơ bản và bất khả tước đoạt của con người”.
Và “Thượng hội đồng tỏ bày sự hiệp thông với các anh chị em
đang bị bắt bớ vì đức tin hay vì cổ võ cho công lý. THĐ dâng lên
Thiên Chúa lời cầu nguyện cho họ”.
Những điều cốt yếu tóm lại ở trên cho thấy rằng để việc đào sâu
ý nghĩa về Giáo
hội,
và để có thể thi hành giáo huấn của Công đồng cách thiết thực,
đầy đủ hơn trong đời sống Kitô hữu, THĐ đặc biệt đã triển khai
mô hình Giáo
hội
là mầu nhiệm, là hiệp thông, là sứ vụ, nhằm làm cho Giáo
hội
có được một ý nghĩa toàn vẹn hay toàn diện hơn, từ đó có thể có
cái nhìn tổng hợp và hữu cơ về Giáo
hội,
và cũng nhờ đó giúp cho mọi thành phần trong Giáo
hội
hiểu sâu xa và đầy đủ hơn căn tính toàn vẹn của mình.
Ba
năm sau, năm 1986, tông huấn “về
ơn gọi và sứ mạng của giáo dân trong Giáo
hội
và thế giới”,
đã theo mô hình trên, để khai triển ơn gọi và sứ mạng đó trong 3
chương đầu:
·
Chương 1:
Phẩm giá của giáo dân trong giáo hội – Mầu nhiệm.
·
Chương 2:
Sự tham gia của giáo dân vào đời sống giáo hội – Hiệp thông.
·
Chương 3:
Tinh thần đồng trách nhiệm trong giáo hội – Sứ vụ.
Rồi
năm 1992 Tông huấn Đào tạo linh mục cũng theo cách tổng hợp của
Công đồng, để đặt chức linh mục trong mô hình giáo hội như mầu
nhiệm, Hiệp thông, Sứ vụ, để từ đó tìm ra căn tính, bản chất, và
linh đạo của linh mục.
Sau
đó năm 1996, tông huấn đời thánh hiến có 3 chương thì:
·
Chương đầu:
trình bày “Đời thánh hiến trong
mầu nhiệm của giáo hội”.
·
Chương 2:
nói về Đời thánh hiến dấu chỉ hiệp – thông trong giáo hội.
·
Chương 3:
bàn về những người được thánh hiến cho sứ vụ truyền giáo.
Đó
là công việc mà giáo hội toàn cầu đã làm. Đặc biệt ở Á châu, năm
1999 THĐGM Á châu cũng đã theo mô hình trên để đào sâu ý nghĩa
về Giáo
hội
và cố gắng suy tư tìm tòi nhằm làm cho giáo hội đổi mới cách
hiện diện tại Á châu, giúp cho việc Phúc âm hoá Á châu được hữu
hiệu. Hơn nữa, liên HĐGM Á châu còn dấn thân tích cực để suy tư
và đề xuất nhiều sáng kiến góp phần làm cho bộ mặt Giáo
hội
tại Á châu có thể hấp dẫn dân tộc Á châu hơn, chẳng hạn như Giáo
hội
phải hiệp thông trong nội bộ, phải đối thoại với các tôn giáo
bạn, phải ưu tiên lo thăng tiến phẩm giá con người nhất là người
nghèo bị đàn áp bóc lột, phải hội nhập văn hoá, và sống đời
chứng nhân …
Như
vậy, sau 20 năm công đồng Vatican II, các nghị phụ của THĐGM đặc
biệt thấy rằng chủ đề Giáo
hội
là mầu nhiệm, hiệp thông, sứ vụ chưa được dân Kitô giáo hiểu và
đem áp dụng, nên các ngài đã góp ý để hiểu sâu hơn mà đem áp
dụng vào đời sống, rồi các THĐGM theo sau cũng như liên HĐGM Á
châu tiếp tục đào sâu và tìm cách thực thi trong đời sống. Và
năm nay 2010, sau 25 năm THĐGM đặc biệt, Giáo
hội
tại Việt Nam đã chọn chủ đề trên, để học hỏi và trả lời câu hỏi
“Hỡi Giáo
hội
tại Việt Nam, hãy nói xem mình là ai?”
(xem đề cương), và để “quyết tâm
làm mới hình ảnh gia đình Giáo
hội
tại Việt Nam”
(xem nội quy). Có người cho là muộn, nhưng muộn còn hơn không
(Better late than never), bởi vì có một ký giả hỏi Đức Giáo
hoàng
Bênêđictô XVI là có cần một Vatican III không, thì Ngài trả lời:
“Tôi thiết tưởng chuyện đó không xảy ra trong tương lai gần …
còn lâu chúng ta mới thực hiện được hết những điều của công đồng
Vatican II” (xem Muối cho đời trang 253). Và Giáo
hội
tại Việt Nam hoan hỉ vui mừng vì tất cả đang bắt tay vào việc
đổi mới Giáo
hội
nhờ dịp Năm thánh này. Muộn còn hơn không, tuy nhiên lại có lợi
nữa là được hưởng những kinh nghiệm rất quý giá của THĐ đặc
biệt, của Tông
huấn
về Giáo
hội
tại Á châu, nhất là những thử nghiệm của Liên HĐGM Á châu để cố
gắng làm mới bộ mặt của Giáo
hội
tại Á châu. Giáo
hội
tại Việt Nam chỉ việc tận dụng những trải nghiệm đó để đi một
bước nữa là áp dụng cho thích nghi với bối cảnh Việt Nam, giúp
cho giáo sĩ, tu sĩ, giáo dân hiểu và sống theo mô hình Giáo
hội
mầu nhiệm, hiệp thông, và sứ vụ một cách trọn vẹn hơn.
II.
Hy Vọng:
Vui
mừng vì HĐGMVN đã chọn chủ đề Giáo
hội
mầu nhiệm, hiệp thông, sứ vụ, đã soạn Đề cương để học hỏi, soạn
Nội quy để tổ chức Đại hội dân Chúa trao đổi góp ý, có ban thư
ký đại hội soạn thảo văn kiện “thành bản chỉ dẫn thực hiện
chương trình mục vụ tương lai” (Nội quy còn lưu ý: cần tránh
dừng lại ở những cách nói mang tính đại cương hoặc chỉ cổ võ).
“Sau đại hội, HĐGM sẽ xác định thể thức và thời điểm toàn thể
GHCG Việt Nam thi hành những quyết định được ghi trong văn kiện
sau đại hội”. Công việc chuẩn bị thật chu đáo. Đó là lý do
chính đáng để mọi người càng vui mừng và hy vọng. Tuy nhiên,
trong vài năm gần đây, chúng ta đã và đang “trải qua những
cuộc bể dâu” mà ai cũng biết, như vụ Toà khâm sứ Hà Nội và
đất của giáo xứ Thái Hà (Hà Nội) bỗng nhiên biến thành công viên
cây xanh. Việc này được toàn bộ Tổng giáo phận Hà Nội từ Đức
tổng giám mục, các giám mục, linh mục, tu sĩ, giáo dân, đều hiệp
thông với nhau cách cụ thể bằng cầu nguyện, thăm viếng, an ủi.
Ngoài ra còn có 2 giám mục ở tổng giáo tỉnh Huế là Đức cha giáo
phận Vinh và Đức
cha
giáo phận Kontum cũng có thư hiệp thông, Đức cha giáo phận Vinh
còn nói rõ: “việc của Thái Hà, cũng là việc của Vinh”. Và
Dòng Chúa Cứu Thế ở Sài Gòn cũng tổ chức cầu nguyện tỏ tình hiệp
thông. Còn các nơi khác thì không lên tiếng gì. Rồi đến vụ nền
nhà thờ giáo xứ Tam Toà ở Quảng Bình bị chiếm, Đức
hha
giáo phận Vinh có hiệp thông; vụ trường học ở giáo xứ Loan Lý
Huế bị mất, Đức cha giáo phận Huế có hiệp thông. Ơ Sài Gòn, một
khu nhà đất của các nữ tu Bác ái Vinhsơn bị lấy mất, các vị chủ
chăn Sài Gòn không lên tiếng. Ở Vĩnh Long, trường cô nhi của các
nữ tu dòng thánh Phaolô cũng biến thành công viên cây xanh,
nhưng lại được Đức giám mục Vĩnh Long lên tiếng, và có người can
ngài rằng “lên tiếng chẳng ăn thua gì đâu” thì ngài nói
là “biết rằng không ăn thua gì, nhưng cứ phải nói lên sự thật
cho mọi người biết”. Còn khu Giáo hoàng học viện ở Đà Lạt
cũng được biến thành công viên, nhưng Đức giám mục Đà Lạt biết
và không lên tiếng… Trước những “cuộc bể dâu” như vậy,
văn phòng HĐGM Việt Nam có thông báo cho biết có nhiều người tỏ
ra bức xúc vì không thấy HĐGM lên tiếng, nên văn phòng cho biết
rằng về vụ đất đai thì Đức cha chủ tịch HĐGM đã có lên tiếng
trong một bức thư rồi. Văn phòng không đả động gì đến các cuộc
bể dâu: nhà đất biến thành công viên, đặc biệt là cây thánh giá
bị đặt chất nổ phá tan tành ở giáo xứ Đồng Chiêm, Hà Nội. Ít bữa
sau lại thấy có thư của Đức cha chủ tịch HĐGMVN tỏ tình hiệp
thông với Giáo
hội
ở Haiti bị động đất tàn phá. Đang khi đó thì Giáo
hội
Balan bên Âu châu đã dành một ngày trong tháng giêng năm 2010 để
hiệp thông cầu nguyện cho giáo xứ nhỏ bé là Đồng Chiêm thuộc
giáo phận Hà Nội. Chúng ta cũng thấy Đức Giáo
hoàng
Bênêđictô XVI khi biết tin ở đâu có tai nạn hoặc thiên tai lớn
như ở Haiti, ở Chilê, ngài luôn tỏ tình hiệp thông bằng cầu
nguyện cho người đã qua đời, và xin ơn an ủi cho người còn sống;
và ở lịch công giáo, có lần trong ý cầu nguyện mỗi tháng, ngài
còn xin “cầu nguyện cho mọi người biểu lộ tình huynh đệ bằng
những cử chỉ cụ thể” (ý cầu nguyện tháng 12-2008).
Xem
như thế, nếu sau công đồng Vatican II 20 năm, mà các nghị phụ
của THĐGM đặc biệt đã thấy rằng mầu nhiệm Giáo
hội
hiệp thông tỏ ra khó hiểu và chưa thấm nhập vào dân Thiên Chúa,
thì nay, sau thêm 25 năm nữa, cộng đồng dân Chúa tại Việt Nam đã
trải qua những cuộc bể dâu, và đã có nhiều phản ứng, nhiều kiểu
hiệp thông khác nhau, có thể nghĩ rằng hiệp thông cũng đã thấm
nhập vào dân Chúa ở đây nhưng hiệp thông như thế nào? Thật khó
thẩm định. Cuối Nội quy về Năm Thánh của HĐGMVN có nêu ra mấy
nguyên tắc để thẩm định là: “hiệp nhất trong những gì cốt
yếu, tự do trong những gì hồ nghi, bác ái trong tất cả”; nếu
tôi không lầm thì những nguyên tắc trên được nói tới từ thời
Công đồng Vatican II, tuy có vẻ rõ ràng chính xác, nhưng việc
thẩm định xem cái gì là cốt yếu, cái gì là hồ nghi… không phải
dễ. Rồi còn “bác ái trong tất cả” cũng rất chung chung,
bởi vì tôi thấy trước kia có hai giám mục chọn khẩu hiệu giám
mục là “chân lý trong bác ái” (Đức cha Bart. Lâm), và
“chân lý trong tình thương” (Đức cha FX. Sang) theo thư
thánh Phaolô (Ep 4,15); rồi mới đây Đức Giáo
hoàng
Bênêđictô XVI có Thông điệp “Bác ái trong chân lý”. Cho
nên nguyên tắc “Bác ái trong tất cả” phải hiểu thêm là
bác ái trong chân lý nữa, mà “bác ái trong chân lý” theo
Đức cha P. Khảm nghĩa là “bác ái cần được thực thi trong chân
lý… chỉ trong chân lý bác ái mới có thể chiếu toả và được sống
đúng đắn… Bác ái phải đi đôi với sự thật. Sự thật ở đây là chính
thực tế và những gì đang diễn ra trong thực tế… sự thật nền tảng
mà Đức Bênêđictô XVI nhấn mạnh là sự thật về con người” (Một
vài ghi nhận khi đọc Thông điệp “bác ái trong chân lý”,
đăng trong CG và DT số 1732 trang 16). Từ điển Việt Nam giải
nghĩa rằng: “thực tế là tổng thể những gì cụ thể đang tồn
tại, đang diễn ra trong tự nhiên và xã hội, có quan hệ đến đời
sống con người”. Về chuyện “sự thật”, người Việt Nam
lại có câu “Sự thật mất lòng” câu này thường đi với câu:
“thuốc đắng đã tật, sự thật mất lòng”, ý nói thuốc thường
là đắng và sự thật dễ làm mất lòng, nhưng nên chấp nhận đắng,
chấp nhận sự thật thì tốt hơn. Tuy nhiên đã có người vì không
muốn làm mất lòng nên không dám nói lên sự thật, hoặc có người
nghĩ rằng mình không biết ăn nói làm sao để khỏi mất lòng, nên
đành làm thinh không nói ra sự thật; đang khi đó có người khác
lại nghĩ rằng “phải bảo vệ giáo lý tinh tuyền, phải bảo vệ sự
công bằng cho con người, nên phải can đảm nói sự thật khi cần,
dù phải trả giá bằng mạng sống”. Thẩm định vẫn còn khó…
Để Kết,
có trải qua những cuộc bể dâu, mới gặp những điều trông thấy mà
xâu xé lòng, bởi nhiều thách đố mục vụ vừa phức tạp vừa nhạy
cảm, cho nên Dân Chúa tại Việt Nam đang hết sức vui mừng và hy
vọng, nhờ dịp Năm Thánh này, HĐGM Việt Nam đưa ra những “thẩm
định, phân định, và quyết định… chính xác rõ ràng… tránh những
cách nói mang tính đại cương hoặc chỉ để cổ võ”, điều này
chính các ngài đã đề ra trong Nội quy (xem Nội quy phần III);
nhờ đó “cộng đồng Dân Chúa có thể
làm mới hình ảnh gia đình Giáo
hội
tại Việt Nam bằng những cử chỉ cụ thể, vừa hiệp nhất trong những
gì cốt yếu, vừa tự do trong những gì hồ nghi, vừa bác ái đi đôi
với sự thật, trong tất cả mọi sự”.
Lm.
Antôn
Nguyễn Mạnh Đồng
Giáo phận Cần Thơ
www.liendoanconggiao.net |
VỀ MỤC LỤC |
|
GHEN (BÀI 2)
|
MỤC ĐÍCH CỦA
GHEN TƯƠNG
Vì cảm xúc của chúng ta gây cho
chúng ta một ấn tượng mạnh rằng chúng ta đúng và người kia sai,
chúng ta cảm thấy khó chấp nhận một sự cắt nghĩa tâm lý về sự
ghen tương của chúng ta. Sự ghen tương có thể có những ý nghĩa
khác nhau, tất cả tuỳ vào mục đích mà sự ghen tương được dùng.
Caûm xúc ghen chỉ được nhìn thấy nhờ hành vi rối loạn xã hội.
Hành vi như thế thường được hướng về một trong 4 chiều hướng sau
đây:
- Lý do bào chữa cho khuyết điểm
mình.
- Lôi kéo sự chú ý.
- Chiếm quyền lực.
- Báo thù.
BÀO CHỮA CHO
KHUYẾT ĐIỂM
Có một sự nghi ngờ trong chính
mình là một yếu tố thiết yếu. Bao lâu chúng ta không nghi ngờ
ảnh hưởng chúng ta, sự lôi cuốn chúng ta, và sự tương xứng đầy
đủ, chúng ta không bao giờ ghen tương. Đối với một người can đảm
biết chắc về khả năng của mình có thể chế ngự được nguy hiểm thì
không có gì phải sợ sệt ngay cả tình thế khó khăn nhất. Chúng ta
ghen tương khi chúng ta hỏi: tự chúng ta có cho nhiều đủ hay
không? Chúng ta sợ người khác cho nhiều hơn. Chúng ta ghen tương
tạo nên những cuộc gây lộn và chán nản, là cái làm chúng ta càng
không chắc chắn về vị thế chúng ta trong đời sống của người
khác. Cảm giác về sự không tương xứng làm tăng sự ghen tương của
chúng ta. Trong vòng lẩn quẩn xấu xa nầy, sự ghen tương là sự
động lực khiến chúng ta hành động cách hung hăng và thù nghịch.
Với tri thức, chúng ta có thể nhận biết rằng chúng ta phải bổ
túc cho những khiếm khuyết của chúng ta. Thiếu can đảm thì không
chấp nhận được chuyện nầy. Trong lúc chúng ta sợ chúng ta không
thể làm tốt hơn, chúng ta cần cảm xúc cho sự đền bù khác. Ngược
lại, sự ghen tương ngăn cản chúng ta trở nên tốt khi chúng ta
biết rằng chúng ta không tốt đủ.
Vấn đề giá trị cá nhân người ghen
tương ngay từ lúc ấu thời đã có khuynh hướng không tin giá trị
riêng của họ. Nhiều cách đã được tìm để giấu sự thiếu chân thành
nầy. Nơi người nầy có thể là sự ước muốn hoàn thiện và điều đó
là đúng. Không một khả năng, không một chiêm ngưỡng nào ngăn cãn
một người khỏi cảm giác bị quên đi. Sự an sinh được theo đuổi
nhưng không chiếm được, vì không gì ngoài cái chết là chắc chắn.
Việc theo đưổi sự bảo đảm đòi sống an sinh là vô hy vọng. Cái
cảm giác bất an trở thành một đày đọa và đòi hỏi đền bù. Ghen
tương hành động như muốn đòi hỏi một sự công chính mà sự hiểu
biết bình thường không cho phép được. Sự ghen tương thường nổi
lên vào lúc khi chúng ta ý thức về khuyết điểm của chúng ta
trong tương quan bổn phận hôn nhân. Ước muốn tố cáo thường để
tránh bị tố cáo. Động lực tâm lý nầy thường dẫn tới một tình
trạng đặc biệt khó có thể nói được.
Một ví dụ cho thấy: một cô gái trẻ
sống trong tình trạng hôn nhân không được hạnh phúc. Cô lo cho
chồng rất ít, người mà có bản chất và tính tình cô rất coi
thường. Nên cuối cùng cô quyết định ly dị. Trước khi dứt điểm
hoàn toàn, cô đi xa nghỉ ngơi để thử xem tình trạng ảnh hưởng cả
hai thế nào. Cô có nhiều thời giờ rảnh rỗi rong chơi nhưng không
có một sự thích thú sâu xa nào. Cô bắt đầu làm quen chuyện trò
với một anh chàng trẻ. Khi cô về nhà, như cô đoán trước, chồng
cô không ra sân ga để đón cô. Cô bị tổn thương, khó chịu và lần
đầu tiên trở nên ghen tương. Cô tưởng tượng anh chồng đang đi
với cô khác và quên mất cô. Cái cảm giác mới nầy không làm thay
đổi thái độ của cô với anh ta, và sau đó không bao lâu thì họ
làm giấy tờ ly dị, nhưng biến cố đó đã làm cô rối loạn. Trong
phút chốc, cô nghi ngờ cô có thể yêu chồng mà không biết, nhưng
điều đó không thật, và cô tiếp tục tiến trình ly dị của cô. Cái
đã xảy ra là: lần đầu tiên trong đời cô thấy mình không chắc
chắn có đối đãi đúng trong liên hệ cũa cô với chồng hay không?
Cô có làm tròn bổn phận của một người vợ và một người đàn bà
không? Lẽ ra cô không nên hy vọng rằng ông chồng, người mà trước
kia không bao giờ quan tâm đến cô, bây giờ lại ra sân ga để đón
cô, và không chút ghen tương cô không nên đòi hỏi bất cứ một vấn
đề gì nữa với ông ta sau khi hai người đã quyết định ly dị.
Một yếu tố khác cũng thường xảy ra
trong ghen tương đó là cạnh tranh với người cùng phái. Sự liên
hệ của chúng ta với người khác phái thì rất là màu mè bỡi thái
độ chúng ta đối với họ. Những đàn bà mà cuộc sống của họ chú
trọng vào những người đàn ông thường nhìn những người đàn bà
khác như là những kẻ thù vì họ nghĩ về ông chồng của họ như một
người dễ bị lừa dối thường rất nguy hiểm bỡi những con mèo đang
rình mồi. Sự canh tranh giữa những người đàn ông thì thường quan
tâm về công việc làm ăn và địa vị trong xã hội, còn các bà chỉ
đóng vai trò phụ dầu không phải là quên đi. Còn những ông vốn
nghi ngờ về phái tính của mình, ước ao được như những đàn ông
khác bằng cách nhìn họ như những người đàn ông thật còn họ không
được như vậy, thường có khuynh hướng cảm nhạy đối với những hồng
ân mà những người vợ của họ ban cho những ông khác.
Thành phần thứ ba thường lôi cuốn
nhiều thích thú và khêu gợi cảm xúc hơn là người vợ mà sự bất
tín của người vợ xem ra là lý do cho sự thay đổi bất ngờ. Sự
ghen tương của những thành phần nầy không chú trọng trên người
vợ hoặc trên những hành động thù nghịch mà chú trọng trên người
cạnh tranh vì sợ họ trổi vượt hơn mình trong hiện tại hoặc có
thể trong tương lai.
Như một diễn tả của sự mất can đảm
trong sự cạnh tranh với người bạn mình hoặc với người cùng phái,
sự ghen tương dùng như một lý do cho sự tăng cường lợi ích, và
lý do cho những hành động tấn công hoặc vô lễ mà người yêu không
bao giờ cho phép.
LÔI CUỐN SỰ CHÚ
Ý VÀ CHIẾM QUYỀN LỰC
Cảm giác mặc cảm và không cảm thấy
tự đủ gây sự tranh đấu cho sự đền bù. Cách dễ nhất và gần nhất
là cố gắng chiếm sự chú ý. Những người cảm thấy không chắc mình
có được yêu đủ không và có tiếp tục được quí chuộng không đòi
hỏi một dấu chỉ cho sự tận hiến. Ghen tương phục vụ cho mục đích
nầy của họ. Mọi cái thích thú bên ngoài đòi hỏi tốn phí thời
gian và sự chú ý từ người bạn xem ra là nguy hiểm. Mọi chú ý từ
một người khác được xem như là dẫm lên trên quyền sở hữu của họ.
Sự tiếp tục đòi hỏi sự chú ý thường dẫn đến bạo chúa, đặc biệt
nếu đòi hỏi chú ý không giới hạn thì không bao giờ được thõa mãn
tròn đầy. Cảm giác bị quên lãng đưa đến sự đòi hỏi ngày càng
tăng cường. Dưới tiền đề tình yêu và tận hiến, người ghen tương
canh giữ mọi bước đi của người bạn mình. Và thật là may mắn cho
cả hai nếu người bạn được kiểm soát không đặt nặng đến những
luật lệ được đặt ra. Nếu không muốn chấp nhận trách nhiệm cho sự
bộc phát của đau khổ và bạo động, tốt nhất là tuân phục cách cẩn
thận những đòi hỏi của người bạn ghen tương đó. Dĩ nhiên, người
ghen tương hoàn toàn vô tội vì họ bị thúc đẩy bỡi xúc cảm quá
mạnh và ý hướng tốt đẹp trong họ, và trên hết cái đau khổ thật
của họ giải thóat bất cứ hành vi sai lầm nào.
Cô Hồng Liên lớn lên giữa nhiều
anh trai. Cô là trung tâm của mọi chú ý và xếp đặt để giữ địa vị
nầy. Khi cô có gia đình, cô đau khổ nhiều do cảm giác ghen tương,
điều mà cô nhận thấy như bị đối xử không công bằng. Cô hỏi về
thời giờ của ông chồng và về những kinh nghiệm với đàn bà trước
đây mặc dù ông bảo đảm với nàng rằng cô là người quyến rũ rất
nhiều và rằng anh ta yêu cô hơn mọi ai hết. Cô ta vẫn nghi ngờ
khả năng của cô nếu đem so sánh với vẻ đẹp của các cô khác. Cô
không còn dấu sự ghen tương và mất nhiều thời giờ vặn vò tra hỏi
chồng. Với sự ghen tương, cô muốn kiểm soát hết mọi hoạt động
của chồng. Mỗi khi cô cảm thấy bị quên lãng, cô gọi đến văn
phòng để xem thử ông có đang ở với bà nào không? Dưới áp lực của
sự ghen tương, cô ngăn ngừa chồng không bỏ cô cô độc, không muốn
chồng phải đi làm nhiều vì đó là nguyên nhân khiến chàng phải xa
cách nàng. Một lần cô cố gắng giữ chàng ở nhà thất bại, cô dùng
sự ghen tương như một chiến thuật chống lại anh ta bằng cách xếp
hẹn với một người đàn ông khác để khiến ông chồng ghen chơi. Cô
lệ thuộc vào sự ghen tương bằng cách nầy hay cách khác.
TÌM KIẾM SỰ TRẢ
THÙ
Nếu sự xung đột tăng cường với sự
bạo chúa và bột phát càm ràm, người ghen tương không bảo đảm vị
thế và quyền hành vì chỉ làm tăng cường sự chống đối và phản
loạn trong người họ chống đối và cuối cùng giai đoạn thù hận
công khai đạt tới. Sự ghen tương được dùng như vũ khí để trả thù.
Người ghen tương khám phá ra chỗ kẻ thù đáng yêu có thể bị tổn
thương nhất. Dưới sự bảo vệ của sự giận dữ, những tố cáo được
nói ra, những điểm đáng lưu ý như tấn công phẩm giá và sự tự
trọng của nạn nhân để cái còn lại là một mớ những thất vọng, một
cái gì không có phẩm giá con người.
Lm. Lê Văn Quảng, tiến sĩ tâm lý |
VỀ MỤC LỤC |
|
THA THỨ VÔ ĐIỀU KIỆN
|
Kính thưa quí
thính giả, mục Sống Sao Cho Đẹp tuần này xin tiếp tục gởi
đến quí thính giả đề tài: Tha Thứ - Hòa Giải. Trong tuần này,
chúng ta sẽ học hỏi về chủ đề: Tha Thứ Vô Điều Kiện.
Thưa quí vị,
đâu là sự khác biệt của một người lính cộng sản và một vị thánh
nhân tử đạo khi cả hai đều nằm xuống? Xét về mặt tự nhiên, một
cách khách quan chúng ta thấy rằng: cả hai đều hy sinh mạng sống
của mình cho một lý tưởng. Người lính cộng sản có thể chết đi vì
họ bảo vệ lý tưởng cộng sản của họ, và thậm chí có người cầm
súng chiến đấu vì bảo vệ quê hương, đất nước. Cũng vậy, khi một
thánh nhân bị giết thì họ chết vì một lý tưởng và niềm tin mà họ
muốn dùng mạng sống để bảo vệ lý tưởng niềm tin ấy. Nếu xét về
những phương diện trên, chúng ta có thể nói rằng: cái chết của
cả hai đều có giá trị gần như nhau, vì cùng mục đích là chết vì
một lý tưởng mà mình theo đuổi. Nhưng thực ra, trong hoàn cảnh
thực tế cho chúng ta thấy rằng. Cái chết của cả hai người hoàn
toàn khác nhau, và giá trị cho mỗi lý tưởng cũng khác nhau.
Khi người
cộng sản trước khi nhắm mắt, họ sẽ nói với người đồng đội của
mình đại ý như sau: Anh hãy cầm súng và trả thù cho tôi. Ngược
lại một vị thánh tử đạo khi nằm xuống, ngài sẽ nói với anh em
mình đại ý như sau: Xin anh chị hãy tha thứ cho người hãm hại
tôi; tôi đã tha thứ cho ngừoi hãm hại tôi rồi. Đó chính là điểm
khác biệt lớn lao nhất và căn bản nhất của người lính cộng sản
và bậc thánh nhân. Thánh nhân là người tha thứ cho kẻ hại mình
vô điều kiện. Họ hiểu rằng, tha thứ giúp cho họ hoàn thành sứ
mạng làm người một cách hoàn hảo hơn và giá trị hơn.
Simon
Wiesentha là tác giả của tác phẩm nổi tiếng The Sun Flower,
tạm dịch: Hoa Hướng Dương. Ông là nạn nhân của chế độ độc
tài Đức Quốc Xã, và đã trải qua nhiều năm trong các trại tập
trung. Ông đã chứng kiến hàng ngàn người đồng hương của mình bị
giết bởi những người lính Đức. Với thân phận là một tù nhân có
thể bị giết lúc nào, ông đã chạm thấu được nỗi bất hận của một
kiếp người. May mắn thay, ông được sống sót và thuật lại câu
chuyện sau đây trong tác phẩm
Hoa Hướng Dương.
Một buổi nọ,
khi ông đang lao động như thường lệ trong một trạm xá của trại
tập trung, ông được một người lính Đức nằm trên giường bệnh gọi
ông tới để trò chuyện. Người lính với giọng nói thều thào, yếu
ớt như người sắp chết, đã thú nhận với ông những tội ác mà anh
đã thực hiện đối với người Do Thái. Người lính đã cho biết là
anh ta đã giết nhiều người Do Thái, anh đã hãm hại nhiều nạn
nhân vô tội…Giờ đây trước khi chết, anh lính này chỉ có một ao
ước duy nhất là gặp một người Do Thái và nói lời xin lỗi, và
mong nhận được lời xin lỗi của mình.
Sau khi nghe
người lính kể lễ, ông Simon không nói lời nào và đã bỏ ra khỏi
phòng trạm xá ấy. Kết thúc cuốn sách Hoa Hướng Dương, ông
Simon đã đặt câu hỏi với đọc giả rằng: Nếu bạn là tôi, bạn sẽ
hành xử như thế nào? Bạn có tha cho anh ta hay không? Cuốn
sách không cho biết là tác giả đã trả lời như thế nào, nhưng
phần trả lời là của đọc giả và của mỗi người chúng ta.
Kính thưa quí
vị, câu chuyện trên đây của ông Simon Wiesentha bộc lộ rõ sự
nhức nhối ray rứt trong mối quan hệ giữa con người với nhau. Nói
cụ thể, việc tha thứ cho nhau không phải là chuyện dễ dàng. Tha
thứ nó đòi hỏi một sự bỏ mình thật sự và phải có một quyết tâm
chiến đấu với cái tôi ích kỷ của mình thì mới hy vọng thực hiện
sự tha thứ được.
Chúng ta
thường gặp thấy nhiều người trong chúng ta vẫn mạnh mẽ nói rằng:
Tôi sẽ tha thứ cho anh nhưng với điều kiện là anh phải nói lời
xin lỗi tôi trước. Tôi không giận anh đâu, tôi chỉ cần anh tỏ
thái độ ăn năn hối lỗi thì tôi sẽ tha cho anh. Hay kiểu lập luận,
“Đánh kẻ chạy đi, chứ khống ai đánh kẻ chạy lại.” Những lập luận
trên xem chừng rất logic và vẫn diễn ra hằng ngày trong đời sống
của chính chúng ta. Nhưng rõ ràng, những thái độ xem chừng như
rất hợp lý ấy, không phải là thái độ biểu hiện sự tha thứ. Tha
thứ là biểu hiện sự cao thượng và quảng đại chứ không không phải
là hành động trao đổi xòng phẳng như mua bán, đổi chác hàng hóa.
Khi nói đến
tha thứ là chúng ta nên nói đến tha thứ vô điều kiện. Vì thực ra,
nếu còn điều kiện thì không phải là tha thứ nữa. Những va chạm
xe cộ trên đường phố, những lầm lỗi do mình vô tình gây ra cho
những người bạn trong công sở, những lần chạy xe quá tốc độ,…mà
trong chúng ta ai ai cũng không ít lần gây ra; thì trong những
lần sai lỗi ấy, chính chúng ta cũng là những con người mong muốn
được tha thứ hơn bao giờ hết! Hằng ngày chính chúng ta cũng mong
nhận được sự tha thứ vô điều kiện, vậy tại sao chúng ta lại đòi
hỏi điều kiện thì mới có thể tha thứ cho người khác được, nhất
là những người thân của mình?
Thưa bạn, tha
thứ không làm giảm giá trị con người của bạn, ngược lại tha thứ
càng làm cho giá trị con người của bạn nên cao đẹp và hoàn mỹ
hơn.
Lạy Chúa,
Chúa tha thứ cho chúng con mà đâu cần điều kiện nào đâu. Xin
giúp biến đổi trái tim chai cứng và khối óc lý luận nhỏ nhoi của
chúng con, để chúng con biết thật lòng tha thứ cho anh em mình.
Nhất là những ai chưa sẵn sàng để nói lời xin lỗi với chúng con,
thì chúng con cũng sẵn sàng để tha thứ cho họ. Amen.
Br. Huynhquảng
Kính mời ghé
thăm mục Sống Sao Cho Đẹp bằng audio tai
www.gdthanhgiusetampa.org |
VỀ MỤC LỤC |
|
NGƯỜI CHỒNG MUỐN ĐƯỢC LÀM ĐÀN ÔNG
|
Tác phẩm: Cẩm Nang Hạnh Phúc Gia Đình
Kitô - MỤC VỤ HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH
Tác
giả: D. WAHRHEIT (Lm. Minh Anh, GP. Huế tổng hợp biên tập)
A2. NGƯỜI CHỒNG MUỐN ĐƯỢC LÀM ĐÀN
ÔNG
Một tác giả đã nói: “Không người
chồng nào ve vãn tán tỉnh vợ mình suốt cả đời”.
Sau thời gian hẹn hò, sau những
ngày thần tiên của tuần trăng mật, nhiều người đàn bà đã thất
vọng. Con người “người đàn ông” của thời gian hẹn hò, của những
ngày đầu đời cuộc sống vợ chồng không còn nữa. Trước mắt họ, giờ
đây chỉ còn là một người chồng với rất nhiều giới hạn và khiếm
khuyết. Con người lý tưởng họ đã từng ôm ấp trong trái tim giờ
đây để lộ chân tướng của mình.
1.
Chúng tôi xin được phép khyên những người vợ trẻ, đừng
thất vọng. Hãy thực tế để chấp nhận chồng mình, một người chồng
với rất nhiều giới hạn và khuyết điểm. Người chồng đó là một
người đàn ông, nghĩa là một con người có những suy nghĩ, hành
động, cách cư xử khác với đàn bà; một người đàn ông luôn muốn
được làm đàn ông theo cách thế riêng của họ.
Trong truyện ngắn “Tôi Muốn Làm
Đàn Ông”, tác giả kể chuyện một giáo viên gương mẫu sống với
người vợ đảm đang và hai đứa con thông minh của mình. Ai nhìn
vào gia đình ấy cũng đều cho đó là một cảnh êm ấm tuyệt vời. Thế
nhưng, cảnh êm ấm ấy suýt đổ vỡ vì sự xuất hiện của một cô giáo
mới và nhất là vì người giáo viên kia muốn thực sự là một người
đàn ông.
Một buổi chiều trên đường về nhà,
người giáo viên bước ra phía sau khu chung cư của trường. Cảnh
cô giáo mới phải loay hoay với chiếc búa và cái đinh trong tay
làm người giáo viên cảm thấy xót xa và từ đó, bản tính đàn ông
cũng bừng dậy một cách mãnh liệt.
Tuy với bàn tay vụng về của một
nhà giáo, người giáo viên cũng giúp cho cô giáo mới đến đóng
xong cái đinh, sửa lại cái ghế trong nhà. Ông hãnh diện vì sự
giúp đỡ ấy và nhất là thấy được rằng, mình là một người đàn ông
hữu dụng. Đó là công việc mà vợ ông không bao giờ cho ông đụng
đến. Là một người đàn bà đảm đang, bà làm tất cả mọi việc trong
nhà, kể cả những việc của đàn ông.
Có lần trong nhà cũng có cái ghế
xiêu vẹo, người giáo viên sực nhớ mình đã hơn một lần cầm búa
giúp sửa chữa bàn ghế trong nhà cô giáo ở khu chung cư. Ông muốn
tỏ ra mình là một người đàn ông, nên đã mau mắn đi lấy dụng cụ
bắt tay vào việc. Nhưng cách làm việc chậm rãi của ông đã khiến
cho người vợ sốt ruột. Bà chụp lấy đồ nghề và chỉ trong chớp
nhoáng bà đã chữa xong cái ghế. Người giáo viên lại một lần nữa
thấy mình chỉ là một đứa con nít thừa thãi trong gia đình.
Những lần đi dạy về, ông thường
ghé vào khu chung cư để giúp đỡ cô giáo và nhất là để thể hiện
tính đàn ông của mình. Dần dà, căn hộ của cô giáo đã trở thành
gian phòng quen thuộc của ông.
Dĩ nhiên, ai cũng có thể đoán được
giữa hai người đã có sự khắng khít hoà hợp gần như vợ chồng.
Người giáo viên gần như đóng vai trò của một người chồng đối với
cô giáo. Cô giáo nương tựa vào ông. Cô hỏi ý kiến ông trong tất
cả mọi sự. Nhưng với lương tâm của những nhà giáo, hai người đã
biết dừng lại đúng lúc. Dù vậy, người giáo viên ấy cũng đã nói
lên tâm trạng của mình như sau:
“Người đàn ông trong tôi vừa
mới hồi sinh đã bị chết ngay, chết vĩnh viễn trong ngôi nhà có
một người đàn bà toàn diện. Cho nên, nếu có ai hỏi tôi ước ao
điều gì, thì tôi xin trả lời: ước ao được làm người đàn ông
trong cái vỏ đàn ông của mình”.
2.
Người đàn ông nào cũng muốn đóng trọn vai trò đàn ông của
họ trong gia đình. Người đàn ông nào cũng muốn thể hiện tính đàn
ông của mình, và dĩ nhiên, theo cách thế đàn ông của họ, chứ
không theo sự chỉ đạo và yêu cầu của người vợ.
Trong những cuộc xích mích và cãi
cọ giữa hai người, người vợ thường gọi chồng mình là kẻ ích kỷ.
Đây không phải là một kết luận sai lầm. Quả thực, người đàn ông
nào cũng có đôi chút ích kỷ. Ý thức hay vô thức, người đàn ông
nào cũng ích kỷ. Sự ích kỷ ấy thường thể hiện bằng nỗi khát khao
được độc lập nơi chính mình.
Tự bản chất, người đàn ông không
thích sống dựa vào đàn bà như một bóng mờ. Họ muốn làm chủ. Họ
muốn điều khiển trong gia đình. Sự độc lập ấy cũng thường được
biểu lộ qua những phản ứng đầy tự ái của họ.
Nói chung, người đàn ông không
thích được vợ lên lớp chỉ bảo. Cho dẫu rất yếu đuối khi đứng
trước đàn bà, dẫu là nô lệ của rất nhiều đam mê, người đàn ông
vẫn luôn tỏ ra làm chủ được tư tưởng, đời sống trí thức, những
xác tín về tôn giáo và chính trị của mình. Người đàn ông không
muốn tỏ ra lệ thuộc vào cách suy nghĩ của đàn bà. Lắm khi chúng
ta nghe họ thốt lên: “Chuyện đàn bà! Chuyện vớ vẩn!”.
3.
Không muốn tỏ ra lệ thuộc vào đàn bà, người đàn ông đương
nhiên muốn tỏ ra mình là chủ trong nhà. Tính khí đàn ông khiến
họ muốn điều khiển và chỉ đạo trong nhà. Từ đó, chúng ta không
ngạc nhiên khi thấy có nhiều đàn ông cư xử một cách độc tài.
Đấy cũng chỉ là một thể hiện của
sự ích kỷ nơi người đàn ông. Họ muốn được mọi tiện nghi trong
nhà. Họ muốn thấy tất cả mọi sự phải sẵn sàng khi họ về đến nhà.
Hình ảnh của một người chồng vừa về đến nhà vội nằm ngửa trên
ghế bành, bật tivi, đọc báo… trong khi vợ mình phải đầu tắt mặt
tối trong bếp, đó là hình ảnh tiêu biểu nhất của những người đàn
ông ích kỷ và độc tài. Sự ích kỷ đôi khi cũng khiến cho người
chồng thiếu quan tâm đến vợ mình. Ông muốn ngồi yên một chỗ. Ông
chán cả những âu yếm vuốt ve của người vợ.
Dĩ nhiên không phải mọi người đàn
ông đều hành động theo sự ích kỷ của mình. Sự rèn luyện, tình
yêu thương đối với vợ con giúp cho rất nhiều người đàn ông thắng
vượt những hẹp hòi nhỏ nhen của họ để có thể hy sinh sống trọn
vẹn cho vợ con.
Tuy nhiên, không có người đàn ông
nào là lý tưởng cả. Mỗi con người là một thực thể độc nhất vô
nhị. Mỗi người đàn ông đều có những đức tính và những khuyết
điểm của họ.
Trong những đức tính và khuyết
điểm ấy, điểm nổi bật hơn cả nơi đàn ông chính là muốn thể hiện
tính đàn ông của mình. Người đàn ông nào cũng muốn làm và được
hãnh diện làm đàn ông. Hôn nhân là điều kiện để cho tính đàn ông
của họ được thể hiện một cách trọn vẹn. Vai trò của người vợ là
giúp cho chồng mình được trở nên đàn ông hơn. Sống với một người
đàn ông có nghĩa là chấp nhận những tham vọng, những khó khăn,
những khuyết điểm của họ. Nhưng đồng thời cũng giúp cho họ tăng
trưởng theo những đức tính của họ.
Tình yêu vợ chồng chỉ có thể được
xây dựng, được vun xới trong chân lý và bác ái. Trong chân lý
nghĩa là chấp nhận và chịu đựng những khuyết điểm, những thiếu
sót của nhau, cũng như những khác biệt trong bản chất của mỗi
người. Trong bác ái, nghĩa là không ngừng cảm thông và tha thứ.
Xét cho cùng, sự hiện diện và tình
yêu của người chồng là một thách đố đối với người vợ. Người
chồng sẽ là động cơ, là trợ lực giúp cho người vợ sống trọn ơn
gọi đàn bà của họ hơn.
Tác
giả: D. WAHRHEIT (Lm. Minh Anh, GP. Huế tổng hợp biên tập)
|
VỀ MỤC LỤC |
|
Ý NIỆM VỀ ĐỜI SỐNG ĐỘC THÂN LINH MỤC |
[BẢN THẢO]
LINH MỤC GIÁO PHẬN SỐNG TU ĐỨC TOÀN DIỆN
TRONG BỐI CẢNH THỰC TẾ CỦA GIÁO HỘI VÀ XÃ HỘI VIỆT NAM HÔM NAY
Lm.
Micae-Phaolô Trần Minh Huy pss
(tiếp theo)
B. Ý NIỆM VỀ ĐỜI SỐNG ĐỘC THÂN LINH MỤC
B.I. Cái nhìn tiêu cỰc vỀ ĐỘC thân linh
mỤc
Người thời nay không tin là người ta có thể sống độc thân khiết tịnh được (x.
PDV số 29), và chúng ta cũng phải khiêm tốn nhìn nhận là lắm khi phải chiến đấu
cam go, cần nhiều ơn Chúa và khôn ngoan tỉnh thức (x. Câu chuyện “Tôi chịu không
nổi…ở Nam Đông”).
Thánh Phaolô chia sẻ: “Có ai trong anh em yếu đuối mà tôi không cảm thấy yếu
đuối; có ai trong anh em sa ngã mà tôi không cảm thấy như thiêu như đốt”. Và
chính Chúa Giêsu cũng đã dạy: “Các con hãy tỉnh thức và cầu nguyện luôn để
khỏi sa chước cám dỗ, vì tinh thần thì nhẹ nhàng chóng vánh, nhưng xác thịt lại
nặng nề yếu đuối.”
Độc thân thánh hiến không phải chỉ là một mình, vì có nhiều người độc thân không
sống một mình, nhưng sống với những người khác. Vì thế ở một mình không
phải là một định nghĩa tốt về độc thân thánh hiến.
Độc thân thánh hiến không phải là không kết hôn, vì độc thân thánh hiến chẳng
những có nghĩa là không kết hôn mà còn là kiêng tính dục sinh dục trọn vẹn và
trường kỳ. Do đó ‘không kết hôn’ không phải là một định nghĩa tốt của độc
thân thánh hiến, dù độc thân thánh hiến cấm linh mục và tu sĩ không được kết
hôn.
Độc thân thánh hiến không phải là đơn lẻ, vì một người đơn lẻ hay đơn chiếc thì
sẵn sàng để kết hôn. Nhưng một người độc thân thánh hiến thì không sẵn sàng để
kết hôn. Do đó, độc thân thánh hiến không thể được định nghĩa là sự thoát khỏi
người khác phái, hôn nhân, con cái, gia đình v.v…
Như thế chúng ta không thể định nghĩa độc thân thánh hiến là đơn lẻ, đơn chiếc,
ở một mình, không kết hôn, kiêng cữ thân mật nhục dục v.v… Đó là những cách nhìn
tiêu cực về độc thân khiết tịnh của linh mục.
B.II. Cái nhìn đúng đẮn vỀ đỘc thân linh
mỤc
Chúng ta phải nhìn độc thân linh mục một cách tích cực hơn: không phải theo cái
gì nó không là, nhưng chỉ theo cái gì nó là.
Độc thân linh mục là một lựa chọn đời sống tích cực vì Nước Thiên Chúa. Như thế,
độc thân linh mục là một món quà đặc biệt Thiên Chúa ban và được đón nhận vì
Nước Trời.
Đoạn Tin Mừng đã trở thành nền tảng cho độc thân thánh hiến là Mt 19,12: “Vì có
nhiều lý do khác nhau tại sao người ta trở nên yêm hoạn và không thể kết hôn:
-
một số người được sinh ra như thế;
-
những người khác, vì người ta làm cho họ ra như vậy;
-
và những người khác yêm hoạn vì Nước Trời”
Độc thân khiết tịnh vì Nước Trời mà các linh mục được mời gọi và bị bó buộc phải
là một món quà ân sủng đặc biệt được quí chuộng.
Nó giải thoát trái tim một con người, để người ấy trở nên sốt sắng hơn trong
lòng kính mến Chúa và yêu thương mọi người: “Đàn ông không có vợ thì chuyên
lo việc Chúa: họ tìm cách làm đẹp lòng Người. Còn người có vợ thì lo lắng việc
đời: họ tìm cách làm đẹp lòng vợ, thế là họ bị chia đôi. Cũng vậy, đàn bà không
có chồng và người trinh nữ thì chuyên lo việc Chúa, để thuộc trọn về Người, cả
hồn lẫn xác. Còn người có chồng thì lo lắng việc đời: họ tìm cách làm đẹp lòng
chồng” (1 Cor 7,32-34).
Vì lý do này, độc thân thánh hiến là biểu tượng cho lợi ích trên trời, và đối
với linh mục, tu sĩ thì nó là phương tiện hữu hiệu nhất để hết lòng hiến dâng
mình cho việc phụng sự Chúa và các công cuộc tông đồ.
Đời
Sống Độc Thân Linh Mục được nêu bật như ân huệ và quà tặng đặc biệt của Thiên
Chúa, là lựa chọn một tình yêu không chia sẻ và mạnh mẽ hơn vì Chúa Kitô và vì
Nước Thiên Chúa.
Đời
sống độc thân cần được trình bày rõ ràng, không hàm hồ và theo cách tích cực.
Các chủng sinh cần đạt được mức trưởng thành về tính dục và tâm lý đầy đủ, cùng
một cuộc sống cầu nguyện siêng năng và đích thực, dưới sự hướng dẫn của các nhà
đào tạo, nhất là vị linh hướng. Những điều đó sẽ hàm dưỡng khả năng đánh giá giá
trị của hi sinh, xả kỷ, tự hiến hết mình, tự giác kỷ luật, đón nhận thập giá và
sự cô tịch, nhất là đối với các linh mục triều.
Mọi công việc đào tạo nội tâm phải sinh hoa kết
trái trong chính lối sống của ứng sinh: Các ứng sinh phải tìm kiếm Thiên Chúa
nơi người khác qua việc phục vụ thừa tác vụ được trao ban nhưng không và đức bác
ái mục tử. Do hồng ân này, linh mục và tu sĩ có thể gần gũi hơn với Chúa Giêsu
với một trái tim không phân chia, và có thể cống hiến đời mình một cách tròn đầy
hơn cho Nước Thiên Chúa.
Optatam Totius
muốn Đời Sống Độc Thân Linh Mục phải được trình bày hết sức kỹ lưỡng cho các
chủng sinh như là một món quà quí giá của Thiên Chúa, với tình yêu không chia sẻ
vì Nước Trời.
Công
tác đào tạo này cần được bổ sung bằng những khám phá mới nhất của khoa sư phạm
và tâm lý lành mạnh, nhằm biết làm thế nào tránh được những hiểm nguy đe doạ đức
trong sạch, làm thế nào đạt tới mức trưởng thành về nhân bản và làm chủ suy
nghĩ, cơ thể, bản năng, tình cảm và những đam mê của mình.
Các
chủng sinh cần được huấn luyện trong tinh thần vâng phục của linh mục, tinh thần
sống giản dị và từ bỏ, để họ có thể tự nguyện từ bỏ ngay cả những thứ hợp pháp
nhưng không thiết thực. Họ phải khiêm tốn hướng tới và đáp lại đời sống độc thân
linh mục một cách tự do và quảng đại dưới ơn trợ giúp và tác động của Chúa Thánh
Thần, với những phẩm chất tốt đẹp như thành thật, lòng yêu mến lẽ công bình,
lòng trung thành với những lời cam kết, thái độ lịch lãm trong hành động, lòng
khiêm tốn và bác ái trong lời nói.
Presbyterorum Ordinis
cũng nhắc nhở rằng được Hội thánh Latinh quyết định và bó buộc, Đời Sống Độc
Thân Linh Mục được gìn giữ và đánh giá như là món quà của Thiên Chúa, được đón
nhận và tuân giữ như một giá trị cao quí của đời sống linh mục. Nó là một dấu
chỉ của đức ái mục tử và là một suối nguồi đặc biệt của sự phong phú thiêng
liêng.
Thực
ra, đời sống độc thân có nhiều khía cạnh thích hợp với chức linh mục. Qua đời
sống độc thân, được tuân giữ vì Nước Trời, các linh mục kết hợp với Chúa Kitô dễ
dàng hơn bằng một con tim không san sẻ (x.1 Cr 7,32-34). Qua Chúa Kitô, họ hiến
dâng bản thân để phục vụ Thiên Chúa và Dân Ngài, và như thế các ngài dễ dàng trở
nên dấu chỉ sống động của thế giới tương lai thời cánh chung.
Các
linh mục phải khiêm tốn và nhiệt thành cầu nguyện cho đời sống độc thân và đón
nhận đời sống ấy như là một món quà thuộc về ân sủng Thiên Chúa. Cùng với Hội
Thánh, họ phải khiêm tốn và kiên định cầu nguyện cho ơn trung thành và sử dụng
mọi sự trợ giúp siêu nhiên cũng như tự nhiên, đặc biệt là lối thực hành khổ chế
đã được trải nghiệm và chấp thuận trong Hội Thánh. Cả các linh mục và tín hữu
đều phải ấp ủ và nài xin Thiên Chúa ban quà tặng quí giá là đời sống độc thân
linh mục cho Giáo Hội.
Ratio Fundamentalis Institutionis Sacerdotalis
khẳng định đời sống độc thân linh mục, một nguyên tắc được Hội Thánh Latinh đặt
ra cho những ai, nhờ ân sủng Thiên Chúa, tự nguyện đón nhận vì Nước Trời. Ở tình
trạng này, các linh mục dễ dàng ở gần Chúa Kitô hơn với một trái tim không chia
sẻ; tự do hơn trong việc trao hiến chính mình phục vụ Chúa và Dân Chúa, và đón
nhận chức linh mục với lòng quảng đại.
Bởi
vậy, các linh mục tương lai phải ý thức và đón nhận đời sống độc thân như là một
món quà đặc biệt Chúa ban. Nhờ đời sống dành trọn cho việc cầu nguyện, cho mối
hiệp nhất với Chúa Kitô, cho đức ái huynh đệ chân thành, họ có thể giữ gìn cách
hân hoan và trọn vẹn đời sống độc thân của mình. Họ cần có được tự do hoàn toàn
về tâm lý, cả bề trong lẫn bề ngoài, và đạt mức ổn định về tình cảm, để hiểu rõ
và sống đời độc thân như là sự kiện toàn bản thân vì Nước Trời. Một nền giáo dục
thích đáng về giới tính sẽ dẫn đưa họ tới một tình yêu trong trắng đối với con
người hơn là một nỗi lo âu nhằm tránh tội, như vậy nhằm chuẩn bị cho họ dấn thân
vững vàng vào tác vụ mục vụ trong tương lai.
(Hát
Trông cậy Chúa)
B.III.
HỆ luẬn
Vậy, lý do quan trọng để chọn độc thân khiết tịnh là “vì Nước Trời.” Độc thân
khiết tịnh được một con người đảm nhận là vì con người ấy bị Nước Trời hấp dẫn
mãnh liệt. Việc Nước Trời thu hút một ứng sinh mạnh đến đỗi ứng sinh ấy vui lòng
hy sinh mọi sự, kể cả đời sống và tình yêu gia đình, để sở hữu Nước ấy. Việc từ
bỏ mọi sự này không phải bị cưỡng bách mà là hoàn toàn tự do tự nguyện.
Việc nói ‘không’ với đời sống và tình yêu gia đình tìm được ý nghĩa của nó trong
bối cảnh thưa ‘vâng’ với Nước Thiên Chúa. Người ta nên nói ‘không’ với sự vật
và con người, khi những sự vật và con người ấy gây trở ngại cho việc linh mục
sống cam kết với Chúa và Giáo Hội. Linh mục nói ‘Không’ như vậy là vì Chúa, vì
Nước Trời, vì Phúc âm, vì các linh hồn.
Các dụ ngôn về Nước Trời thật hấp dẫn: Kho tàng giấu trong ruộng và Viên ngọc
quí (Mt 13,44-45); Phêrô, Anrê, Giacôbê và Gioan theo Chúa (Mt 4,18-22).
Vậy Đời Sống Độc Thân Linh mục được nêu bật:
-
như ân huệ và quà tặng đặc biệt của Thiên Chúa,
-
là lựa chọn tự nguyện và tự do của chính đương sự cho một tình yêu không chia sẻ
và mạnh mẽ hơn vì Chúa Kitô và vì Nước Thiên Chúa.
-
Đời sống độc thân linh mục cần được trình bày rõ ràng, không hàm hồ và theo cách
tích cực là một kỷ luật của Giáo Hội được tự nguyện chấp nhận,
-
Các ứng sinh cần đạt mức trưởng thành về tính dục và tâm lý, với một cuộc sống
cầu nguyện siêng năng và đích thực, dưới sự hướng dẫn của các nhà đào tạo, nhất
là vị linh hướng.
Tóm lại:
Độc thân thánh hiến phải được hiểu theo những liên hệ tình yêu của con người.
Độc thân thánh hiến là một liên hệ đặc sủng của linh mục, tu sĩ:
-
với Thiên Chúa,
-
với chính mình,
-
với các phần tử của cộng đoàn,
-
với mọi người trong thừa tác vụ
-
và với cả thiên nhiên.
Độc thân thánh hiến là một đặc sủng của Chúa Thánh Thần ban qua Giáo Hội để làm
cho liên hệ tình yêu đích thực giữa linh mục, tu sĩ và các người mình thi hành
sứ vụ được dễ dàng, nam cũng như nữ.
Độc thân thánh hiến là một lời kêu gọi làm chứng cho những đòi hỏi nội tâm đích
thực của tất cả tình yêu con người.
Cái sẽ chiếu tỏa ra qua đời sống độc thân thánh hiến không phải là sự tự chủ của
chúng ta, hay sự chúng ta siêu thoát khỏi những đường lối thế trần, nhưng là khả
năng yêu thương của chúng ta. Những mối liên hệ nhân loại lành mạnh không có
hại, nhưng đúng hơn nó có lợi cho việc sống độc thân thánh hiến.
Độc thân thánh hiến không phải là chướng ngại vật đối với các liên hệ của chúng
ta. Độc thân thánh hiến không phải là phủ nhận liên hệ con người và tình cảm con
người. Độc thân thánh hiến không rút lui khỏi những liên hệ, nhưng thăng tiến
các mối liên hệ.
Độc thân thánh hiến không chối bỏ thân xác, cảm xúc, tình dục v.v… Độc thân
thánh hiến không phải là cái gì làm cho chính bản thân mình thành không còn là
con người nữa. Đúng hơn độc thân thánh hiến giải thoát, để giúp chúng ta yêu tốt
hơn, quảng đại hơn, vì độc thân thánh hiến là một lời mời gọi yêu thương mọi
người. Lời mời gọi sống đời độc thân thánh hiến là lời mời gọi tới liên hệ thánh
thiện.
Như thế, độc thân thánh hiến là:
-
liên hệ “tình yêu bao gồm” hơn là liên hệ “tình yêu loại trừ”
-
lời mời gọi yêu người mà không có quyền sở hữu;
-
liên hệ tình yêu và chăm sóc người khác, trong đó một người tập trung vào nhiều
người hơn là vào một người;
-
liên hệ mà trong đó chúng ta yêu người một cách thâm thúy, chân tình, sâu lắng,
nồng ấm và vui tươi mà không đi vào nhục dục.
(Hát
Tôi xin chọn Người)
|
VỀ MỤC LỤC |
|
ĐIỀU TRỊ CẤP CỨU
|
Bệnh của cơ
thể thường xuất hiện dưới hình thức các triệu chứng và dấu hiệu
khác nhau.
Triệu chứng
(Symptom) là những biểu lộ mà bệnh nhân nhận ra và cảm thấy là
chúng đang gây khó khăn cho các sinh hoạt thường lệ của mình.
Chẳng hạn khi
không mà ho rũ rượi, đau tức ngực, hụt hơi thở, mỏi mệt trong
nhiều ngày thì chắc là ta phải đi bác sĩ để tìm nguyên nhân rồi
từ đó điều trị.
Dấu hiệu
(Sign) là những rối loạn, tổn thương do bác sĩ tìm ra khi khám
bệnh mà bệnh nhân không thấy được.
Như trong
trường hợp kể trên, bác sĩ nghe tim phổi, thấy có tiếng khò khè
khi bệnh nhân thở, nhìn cuống họng thấy sưng đỏ, nhiệt độ cơ thể
cao. Tất cà đều là dấu hiệu của cơ quan hô hấp bị nhiễm trùng.
Các triệu
chứng có thể báo hiệu một căn bệnh nhẹ hoặc trầm kha sẽ xảy ra
và cần được chẩn đoán rồi điều trị càng sớm càng tốt
Sau đây là
một số trường hợp cần phải lưu ý:
1- Tai biến mạch máu não
Một người
đang khỏe mạnh:
- Bất chợt
cảm thấy tê dại hoặc yếu ở mặt, chân tay, đặc biệt là ở nửa thân
mình.
- Bất chợt
mất phương hướng (confusion), không hiểu sự việc xảy ra ở xung
quanh và không diễn tả được bằng lời nói.
- Đột nhiên
không nhìn thấy ở một hoặc cả hai mắt
- Đột nhiên
có khó khăn đi lại, chóng mặt, mất thăng bằng và rối loạn phối
hợp các cử động của cơ thể.
- Đột nhiên
nhức đầu như búa bổ mà không rõ nguyên nhân.
Y giới Úc
dùng ký tự (acronym) F.A.S.T. để tóm tắt cấp cứu
này cho dễ nhớ:
F là Facial
paralysis tê liệt mặt, huýt sáo không ra hơi, miệng lại méo
xệch;
A là Arm
weakness cánh tay yếu, không dơ cao lên khỏi đầu;
S là Speech
difficulties nói khó khăn, không ra tiếng;
T có ý nói
Time to act fast cần hành động, cấp cứu ngay, kẻo quá trễ.
Các triệu
chứng này là báo hiệu của Tai biến động mạch não stroke gây ra
do một mạch máu não bị đứt vỡ hoặc tắc nghẽn với cục máu khiến
cho tế bào não bị tiêu hủy.
Bệnh nặng hay
nhẹ là tùy theo phần não bị tổn thương. Nếu là một động mạch lớn
bị tắc nghẽn thì nửa thân người bị tê liệt, không nói được.
Ngược lại nếu chỉ là mạch máu nhỏ thì chỉ có bại suội ở chân tay.
Tai biến cần
được điều trị tức thì tại bệnh viện với các phương thức và dược
phẩm cấp cứu để giảm thiểu sự hủy hoại tế bào thần kinh, ngăn
ngừa các hậu quả trầm trọng.
Kêu số điện
thoại 911 và tới phòng cấp cứu ngay nếu thấy các dấu hiệu này.
2- Cơn đau tim
Với:
- Cảm giác
khó chịu, đau quặn như có gì đè ở giữa ngực, kéo dài vài ba phút
- Cơn đau lan
xuống vai, cổ, cánh tay.
- Chóng mặt,
quay cuồng muốn xỉu
- Hụt hơi
thở, nhịp tim nhanh và không đều
- Cảm thấy lo
sợ, nóng nảy, đổ mồ hôi, da nhợt nhạt.
- Buồn nôn,
muốn ói.
Không phải
mỗi cơn đau tim đều có các triệu chứng này. Đôi khi chúng hết đi
rồi tái xuất hiện.
Khi có các
dấu hiệu vừa kể cần kêu 911 và tới phòng cấp cứu ngay.
3- Khối máu cục
Sau một thời
gian ngồi lâu không cử động như là ở trên máy bay, xe hơi hoặc
nằm nghỉ lâu ngày sau khi giải phẫu mà cảm thấy căng đau ở bắp
chuối, tức ngực, khó thở, ho ra máu thì cần nghĩ tới trường hợp
bị máu cục ở tĩnh mạch dưới chân.
Cục máu có
thể tự tan nhưng cũng có thể gây tổn thương cho các bộ phận quan
trọng của cơ thể. Chẳng hạn, khi cục máu di chuyển tới động mạch
tim sẽ gây ra cơn đau trim, tới não đưa tới tai biến não hoặc
tới phổi với máu cục phổi.
Cần đi bác sĩ
ngay để chẩn khám, điều trị.
4- Cơn hen suyễn
Cơn hen suyễn
(Asthma attack) là do lớp cơ bắp ở ống phổi đột nhiên co hẹp,
lòng ống phổi viêm, sưng đầy chất đàm nhớt. Tất cả khiến cho
bệnh nhân có hơi thở khò khè, hổn hển đứt đoạn như gà nuốt dây
thung, ngực đau tức, miệng ho không ngừng, đổ mồ hôi hột, tim
đập nhanh, da tái mét, sợ hãi.
Nhiều khi chỉ
một dị ứng với thời tiết, phấn hoa, một viêm mũi, nhiễm virus
cũng khiến người hen suyễn bị cơn tấn công hen này.
Nếu cơn hen
không giảm với các trị liệu có sẵn do bác sĩ cho như thuốc hít,
thuốc viên, bệnh nhân cần tới bệnh viện ngay. Trì hoãn sẽ làm
cho cơ bắp lồng ngực suy yếu, hơi thở ngắn, cơ thể tích tụ nhiều
thán khí, ít dưỡng khí, bệnh nhân bị hôn mê, có thể thiệt mạng.
5- Buồn rầu, nghĩ tới quyên sinh
Những dấu
hiệu của trầm buồn tuyệt vọng là chán nản, đờ đẫn, không quan
tâm tới mọi chuyện xung quanh, trong người mệt mỏi suy nhược,
mất ngủ…Nếu tình trạng kéo dài thì tương tự như “giết nhau chẳng
cái lưu cầu; giết nhau bằng cái u sầu, độc chưa”. Người bệnh có
thể vì quá tuyệt vọng mà tự tử, quyên sinh.
Ở trong tình
trạng này thì nên gặp bác sĩ ngay, để trình bày tự sự cứu chữa.
Hãy mạnh dạn, trước khí quá trễ.
Phòng Cấp Cứu
Trong các
hoàn cảnh kể trên hoặc khi có các bệnh cần chữa trị ngay thì
bệnh nhân phải tới Phòng Cấp Cứu (Emergency Department).
Phòng Cấp Cứu
là một phần của bệnh viện được trang bị với đấy đủ nhân viên và
dụng cụ nhằm cung cấp các loại chăm sóc, điều trị những bệnh
khẩn cấp, đặc biệt là trường hợp bị chấn thương trầm trọng. Bệnh
nhân được sàng lọc, phân loại rồi uu tiên điều trị tùy theo mức
độ nặng nhẹ chứ không phải cứ tới trước là được khám trước.
Điều cần làm
khi tới phòng cấp cứu:
- Mang danh
sách tất cả các thuốc đang dùng và bản tóm tắt các điều trị
trước đây.
- Chi tiết
các bệnh đã được chích ngừa.
- Bình tĩnh
kể cho nhân viên cấp cứu biết đầy đủ về tình trạng căn bệnh mà
hiện nay mình đang mắc phải.
Nhân viên y
tế cần có các dữ kiện liên quan tới bệnh để áp dụng phương pháp
điều trị thích hợp và càng sớm càng tốt.
Dưới đây là
danh sách các trường hợp cần điều trị cấp cứu, theo Hội Cấp Cứu
Y khoa Hoa Kỳ:
- Chảy máu
liên tục
- Khó thở,
hơi thở ngắn
- Thay đổi
tâm trạng, như mất định với không gian và thời gian
- Đau ngực,
ho hoặc ói ra máu
- Xỉu hoặc
bất tỉnh nhân sự
- Có ý nghĩ
quyên sinh, tự tử
- Chấn thương
cột sống hoặc não bộ
- Ói mửa hoặc
tiêu chảy trầm trọng
- Bất thình
lình bị chóng mặt, suy nhược hoặc rối loạn thị giác
- Uống nhằm
độc chất, hít hơi khói nguy hại
- Đau tức
phía trên bụng.
Kết luận
Các cụ ta
thường nói: “Cứu bệnh như cứu hỏa”.
Trong y khoa
cấp cứu, có khái niệm “Giờ Vàng- Golden Hour” giữa sự sống và sự
chết do bác sĩ R Adams Cowley, Đại học Y Maryland, phổ biến cũng
được y giới chú ý.
Theo khái
niệm này, nếu bị chấn thương trầm trọng thì nạn nhân có 60 phút
để sống. Đương sự có thể không thiệt mạng tức thì mà có thể là 3
ngày hoặc 2 tuần lễ sau đó. Nhưng trong cơ thể đã có vài đổi
thay không chữa được.
Nếu trong
thời gian vàng này mà được điều trị đúng cách thì sinh mạng
người bệnh có thể được bảo toàn.
Bác sĩ Cowley
là nhà tiền phong lừng danh Hoa Kỳ về phẫu thuật mở-tim
(open-heart surgery)
Như vậy thì
Đông phương và Tây phương đã có cùng ý tưởng vậy về nhu cầu cấp
cứu nan bệnh.
Bác sĩ Nguyễn Ý-Đức
M.D,
Texas-Hoa Kỳ.
|
VỀ MỤC LỤC |
CÔNG LAO CỦA VỢ
Chuyện phiếm của Gã Siêu |
Cứ mỗi lần lễ tình nhân, hay ngày tôn vinh
mẹ hiền trở về, là mấy anh con giai lo toát cả mồ hôi, chạy đôn
chạy đáo để mà mua bông mua quà, còn mấy ông viết lách thì hết
lời ca tụng và tôn vinh phe đờn bà con gái, khiến cho cánh kẹp
tóc cứ vểnh tai cối lên mà nghe, cánh mũi nở to như trái cà chua
và cảm thấy đời bỗng dưng “dzui”.
Dịp mồng tám tháng ba, ngày quốc tế phụ nữ
năm nay, có một anh chàng độc thân vui tính đã viết :
- Đời không có đờn bà con gái giống như một
ngày mà không có mặt trời. Ủ dột và tê tái.
Nếu như anh chàng độc thân này mà rời bỏ
binh chủng “phòng không” của mình, để gia nhập lực lượng “lính
thủy đánh bộ”, chắc chắn anh ta sẽ được liệt vào hàng “tôn thờ”
bà xã theo kiểu:
- Kính vợ đắc thọ,
Sợ vợ sống lâu,
Nể vợ ta hết u sầu,
Để vợ lên đầu,
Thì trường sinh bất lão.
Mà quả đúng như vậy, nếu bà xã là mặt trời,
thì lúc nào mà chẳng ở vào cái thế “thượng phong”, vì mặt trời
luôn luôn chẳng chiếu sáng trên đầu chúng ta.
Ngày xưa khi học về ca dao tục ngữ, gã vẫn
còn nhớ bài “Mười thương”:
- Một thương tóc bỏ đuôi gà,
Hai thương ăn nói mặn mà có duyên,
Ba thương má lúm đồng tiền,
Bốn thương răng nhánh hạt huyền kém thua.
Năm thương cổ yếm đeo bùa,
Sáu thương nón thượng qua tua dịu dàng.
Bảy thương nết ở khôn ngoan,
Tám thương ăn nói lại càng thêm xinh.
Chính thương cô ở một mình,
Mười thương con mắt có tình với ai.
Thế nhưng, ngày phụ nữ đòi quyền sống và
sướng năm nay, một anh bạn của gã tận mãi bên Đan Mạch, không
biết tự mình sáng tác, hay đã đọc được ở đâu đó, bèn gửi cho gã
một bài thơ cùng một thể thức và cũng mang tựa đề là “Mười
thương” được nhái theo bài ca dao trên, gọi là để góp tiếng ngợi
ca phe kẹp tóc:
- Một thương đôi má của nàng,
Xoa toan mỹ phẩm, anh tàn tháng lương.
Hai thương giọng ngọt như đường,
Nàng xin một tiếng, vua nhường mất ngôi.
Ba thương đo đỏ đôi môi,
Anh không hôn được, sợ trôi son nàng.
Bốn thương mười ngón thiên đàng,
Móng nàng lạ lắm : lúc vàng, lúc xanh.
Năm thương đôi mắt long lanh,
Liếc tình, cọp cũng biến thành nai tơ.
Sáu thương cái nết ngây thơ,
Quen nàng một tháng, anh khờ ba năm.
Bảy thương cái mặt chầm dầm,
Đòi mua vài cái áo đầm mới vui.
Tám thương mái tóc buông xuôi,
Làm anh té xỉu bởi mùi dầu thơm.
Chín thương nàng biết nấu cơm,
Lớp khê, lớp khét, thằng bờm chạy xa.
Mười thương tính chẳng xa hoa,
Vòng vàng không khoái, hột xoàn nàng mê.
Đời trai sao lắm ê chề,
Thương xong mười cái anh về chăn trâu.
Gọi là góp tiếng để ngợi ca phe kẹp tóc
theo cái kiểu này, thì đúng là tên phản phé, đâm sau lưng các…nữ
chiến sĩ rồi còn gì.
Riêng phần gã, gã xin mượn phần đất của bài
viết hôm nay, để tôn vinh công sức của các chị vợ.
Thực vậy, có người đã định nghĩa chữ “vợ”
như sau :
- Vợ là mẹ các con ta,
Thường kêu “bà xã”, hiệu là “phu nhân”.
Vợ là tổng hợp bạn thân,
Thủ trưởng, bảo mẫu, tình nhân, mẹ hiền.
Vợ là ngân khố, kho tiền,
Gửi vô nhanh gọn, hơi phiền rút ra.
Vợ là biển cả bao la,
Đôi khi nổi sóng, khiến ta chìm phà.
Vợ là âm nhạc, thi ca,
Vừa là cô giáo, vừa là luật sư.
Cả gan đấu khẩu vợ ư?
Cá ươn không muối, chồng hư cãi lời.
Chồng ơi! Đừng có dại khờ,
Vợ đi, thì biết cậy nhờ vào ai?
Vợ là phước, lộc, thọ, tài,
Thuộc trăm định nghĩa, trả bài vợ khen.
Bài thơ trên đã quảng diễn một cách phong
phú ý tưởng của câu “ranh ngôn” :
- Vợ không có công sinh ra ta, nhưng lại có
công nuôi dưỡng và dạy dỗ ta nên người.
Hay như một câu ca dao thời nay :
- Dù không sinh đẻ ra ta,
Nhưng công dưỡng dục thật là lớn lao.
Dựa vào câu “ranh ngôn” cũng như câu ca dao
trên, gã thấy công sức của chị vợ được chia thành hai loại:
Loại thứ nhất, đó là
công sức nuôi dưỡng.
Mặc dù thỉnh thoảng cũng có tí luật trừ, đó
là một vài anh đờn ông bỗng dưng giỏi chuyện bếp núc, phụ trách
chế biến các món ăn ở những khách sạn năm sao và một vài chị đờn
bà bỗng dưng mù tịt việc nấu nướng, chỉ nguyên việc thổi một nồi
cơm, thì cũng đã trên sống, dưới khê, tứ bề nhão nhoét.
Tuy nhiên, phải công nhận rằng lãnh vực bếp
núc là lãnh vực riêng của các nàng. Có bàn tay phụ nữ, bữa ăn
được cải thiện trông thấy. Không còn cảnh chém to kho mặn…
Chính vì thế, nhiều anh chàng sinh viên đã
gạ gẫm bạn gái của mình góp gạo thổi cơm chung. Rồi sau đó, việc
gì đến, ăt sẽ phải đến. Và chuyện…ăn cơm trước kẻng đương nhiên
sẽ xảy ra, với những hậu quả thật não nùng và bi đát , mà phần
thiệt thòi bao giờ cũng nằm ở phía các nàng.
Ngày nay, hình như người ta thích dành cho
mình cái danh hiệu là “từ mẫu”, tức là mẹ hiền. Mấy ông bác sĩ,
mấy ông thày thuốc và ngay cả những vị lang băm cũng đều ra sức
tự phong cho mình cái nhãn hiệu ấy:
- Lương y như từ mẫu.
Trong khi đó, mấy cô giáo nhà trẻ cũng say
mê tập cho các em thuộc lứa tuổi babilac hát vang:
- Lúc ở nhà, mẹ cũng là cô giáo,
Đi đến trường, cô giáo như mẹ hiền.
Cô và mẹ là hai cô giáo,
Mẹ và cô cũng như mẹ hiền.
Và bây giờ đến lượt các chị vợ cũng rất
mong muốn được làm mẹ của các anh chồng. Dĩ nhiên, sự mong muốn
này được biểu lộ ra không phải trong tư tưởng, cũng như không
phải trong lời nói, mà được biểu lộ ra trong những việc làm cụ
thể, bằng cách “nuôi chồng khỏe và dạy chồng ngoan”.
Hiện giờ, chuyện an toàn thực phẩn đang là
một vấn đề nóng bỏng được thiên hạ bàn tán. Phở thì có “phọc
môn”, bún thì có hàn the, thịt lợn thì đang bị lở mồm long móng,
thịt gà thịt vịt thì đang bị dịch cúm gia cầm, lúa gạo thì nhiễm
thuốc trừ sâu và phân hóa học…
Cũng chính vì thế, để bảo đảm sức khỏe cho
các thành viên trong gia đình, các chị vợ đều bắt mọi người phải
ăn cơm nhà, vừa bảo đảm, lại vừa đủ chất dinh dưỡng. Còn đâu nữa
mỗi buổi sáng ra quán làm một tô phở tái béo ngậy, rồi nhâm nhi
ly cà phê đen mà ba hoa chích chòe đủ mọi chuyện trên trời dưới
đất với nhóm bạn hữu.
Thậm chí, nhiều khi đi dự đám tiệc, chị vợ
cũng bắt anh chồng phải ăn cơm ở nhà trước cho chắc bụng. Hơn
thế nữa, lỡ có uống dăm ba ly, thì cũng khó mà say được.
Nhiều chị vợ còn ra sức chăm sóc anh chồng
một cách chu đáo, vượt ngoài mức độ cần thiết, cứ như một người
mẹ chăm sóc đứa con bé bỏng của mình.
Chẳng hạn sau mỗi bữa cơm, phải “tráng
miệng” bằng hai trái chuối, và trước khi đi ngủ, phải “lót lòng”
bằng một ly cối đầy sữa…Thành thử anh chồng cứ mỗi ngày một phát
tướng và vòng số hai cứ liên tục phát triển. Chị vợ đâu có ngờ
rằng cái vòng này càng to ra, thì vòng đời càng teo lại!
Nếu chẳng may anh chồng quá vui mà bị xỉn,
thì đã có chị vợ lo pha nước chanh, đắp khăn nóng và thậm chí
còn bôi vôi vào gan bàn chân để được mau tỉnh. Còn nếu chẳng may
anh chồng bị đau yếu thì đã có chị vợ vội tìm thầy chạy thuốc,
dành cho một chế độ “bồi dưỡng” mà ngày thường có nằm mơ cũng
chẳng thấy. Vì thế, người ta đã bảo :
- Khi ta đau ốm xanh xao,
Vợ lo chăm sóc, hồng hào khỏe ngay.
Anh chồng mà nhõng nhẽo…chả muốn ăn, thì
liền được rót vào tai những lời ngọt ngào :
- Bộ anh hổng còn thương em nữa sao? Em đã
bỏ công lo lắng cho sức khỏe của anh từng ly từng tí, để vợ
chồng mình được ăn ở đời kiếp với nhau. Vậy mà anh hổng chịu
nghe lời em.
Tới nước này, thì anh chồng cũng giống như
em bé, ầm một cái, ăn cho bà xã được vui lòng.
Tuy nhiên, đôi lúc sự chăm sóc trên cả
tuyệt vời này, khiến cho anh chồng…ngao ngán. Nguyễn Niệm trên
báo Phụ Nữ Chủ Nhật, số 7 ra ngày mồng 2 tháng 3 năm 2008, đã
đưa ra một trường hợp điển hình như sau:
Một hôm, mấy tay “chiến hữu” đến rủ anh
chồng đi…nhậu. Lúc anh chồng chuẩn bị lên đường, chị vợ bèn dặn
dò đủ thứ:
- Nè, anh nhớ uống vừa phải thôi, còn chừa
đường về.
- À, mà khi nhậu, anh phải nhớ ăn nhiều,
bằng không sẽ bị đau bao tử nghe chưa!
Đến khi anh chồng phóng xe ra tới đầu ngõ,
chị vợ còn réo gọi, chạy theo đưa cho anh chồng chiếc áo mưa và
nói:
- Sao anh bỏ áo mưa ở nhà, lỡ trời đổ mưa,
bị cảm lạnh lại khổ thân.
Thái độ chăm sóc chồng trên mức…bình thường
của chị vợ trước mặt đám “chiến hữu” khiến anh chồng ngượng chín
cả người, thiếu điều muốn độn thổ mà thôi…
Loại thứ hai, đó
là công sức dạy bảo.
Chị vợ không phải chỉ bỏ công sức ra nuôi
chồng khỏe, mà còn bỏ biết bao nhiêu công sức ra để giáo dục,
nhờ đó mà anh chồng được “thuần hóa” và trở nên người “ích quốc,
lợi gia”.
Thực vậy, gã đã từng thấy có những anh con
giai, thuở còn độc thân, thì ngang tàng không ai chịu nổi, thế
nhưng, cưới vợ xong chỉ một thời gian ngắn là bỏ được cái thói
ngông nghênh của mình, chí thú làm ăn, khiến cho bà con lối xóm
phải tâm phục, khẩu phục. Thì ra, sự dạy bảo của chị vợ, tuy âm
thầm mà lại hiệu quả, theo kiểu “mưa dầm thấm đất”.
Gã đã sưu tầm được một số những lời dạy bảo
đầy êm dịu của những chị vợ, xin ghi lại nơi đây để những anh
chồng cùng suy gẫm và đem ra thực hành, khi gặp phải những tình
huống tương tự.
Trước hết, khi còn ở trong nhà thì phải
biết chia sẻ công việc “tề gia nội trợ” với chị vợ, chứ đừng lên
mặt thầy đời, chỉ tay năm ngón. Một anh chồng đã thú nhận sự
thất bại của mình trước những lời dụ dỗ ngọt ngào của chị vợ như
sau:
- Vợ tui là khéo nhất nhà,
Rất hay sai vặt, nhưng là sai hay!
Anh ơi giúp em tí này,
Mang hộ cái đấy vào đây anh à.
Cái này thì hãy mang ra,
Mang vào cái đấy mang ra cái này.
Vào ra giúp hộ tối ngày,
Cái tai vẫn khoái, cái tay vẫn đều.
Vợ tui đúng thật là siêu,
Sai mà sai khéo, sai yêu, sai tình. (Bắc
Tiếu)
Còn khi ra ngoài ngõ, thì phải nhớ lời vợ
dặn :
- Lái xe ra khỏi cổng nhà,
Vợ kêu giật ngược, diết da dặn rằng :
Một đừng mơ mộng thơ trăng,
Đụng xe, thi sĩ gẫy răng u đầu.
Hai đừng giữ ống nghe lâu,
Gái tơ õng ẹo ghẹo đầu dây kia.
Ba đừng ghé quán rượu bia,
Bốc men tơ tưởng nọ kia khó lường.
Bốn đừng mua báo dọc đường,
Bìa in hoa hậu soi gương liếc cười.
Năm đừng liến láo con ngươi,
Đồng nghiệp váy ngắn ẹo người đi qua.
Sáu đừng hoang phí thời gian,
Ngồi lâu trộm nghía cô hàng cà phê.
Bảy đừng thấy phở mà mê,
Ăn vào loét dạ, lại chê cơm nhà.
Tám đừng hò hát lang thang,
Tiếp viên ca sĩ giả ma hớp hồn.
Chín đừng dạo bước hoàng hôn,
Công viên hoa lá cô hồn rủ rê.
Mười đừng ghé rạp xi nê,
Ti vi nhà sẵn, lẹ về coi phim.
Rõ chưa, vợ hét đứng tim,
Đừng hòng tưởng bở như chim sổ lồng.
Mà này! Nhắc lại cho thông,
Nếu không, tui quyết nhốt ông ở nhà.
Ở mọi nơi và trong mọi lúc, chị vợ luôn có
những hành động phù hợp, để giáo dục anh chồng:
- Sợ ta đi trật đường rày,
Vợ liền theo dõi kéo ngay về nhà,
Khi ta tán tỉnh ba hoa,
Vợ liền “quát nạt” để mà răn đe.
Tới đây gã xin kể lại một câu truyện trong
sách “Cổ Học Tinh Hoa” để thấy được rằng nếu chịu khó nghe lời
vợ dạy, thì sẽ trở nên một con người đức độ và thành đạt.
Án Tử làm tướng nước Tề, một hôm đi việc
quan, có tên đánh xe theo hầu.
Vợ tên đánh dòm qua khe cửa, thấy chồng tay
cầm cái dù, tay cầm dây cương, mặt vác lên trời, dương dương tự
đắc.
Lúc chồng về nhà, nàng xin từ bỏ nhà ra đi.
Chồng hỏi :
- Tại làm sao ?
Nàng nói :
- Án Tử người gầy thấp và bé nhỏ, nhưng làm
đến tướng nước Tề, danh tiếng lừng lẫy khắp thiên hạ, thế mà
thiếp xem ông ấy vẫn có ý chín chắn và khiêm nhường, như chưa
bằng ai. Chớ như chàng cao lớn đẫy đà, mới chỉ làm được một tên
đánh xe tầm thường và hèn hạ, thế mà thiếp xem chàng đã ra dáng
lấy làm vinh hạnh, tưởng không ai bằng. Thiếp xin bỏ chàng,
thiếp đi.
Từ hôm ấy, tên đánh xe bỏ được cái bộ vênh
váo, chừa được cái tính nông nổi. Án Tử thấy thế, lấy làm lạ,
bèn hỏi. Tên đánh xe bèn đem việc nhà mà kể lại. Án Tử bèn cất
cho làm đại phu.
Sở dĩ Án Tử chừa bỏ được cái thói “tự cao
hão” và làm tới chức đại phu cũng chỉ vì đã nghe lời vợ dạy,
Tuy nhiên, đôi khi cũng có những anh chồng
cứng đầu cứng cổ, thì lúc đó chị vợ sẽ áp dụng chiến thuật “bất
bạo động”: không nói, không cười, không cộng tác và không làm gì
hết.
Hay tạo nên một tình huống “chiến tranh
lạnh”: ban ngày thì mặt mũi ủ rũ như treo cờ tang, còn ban đêm
thì…”cấm vận”, mỗi người ngủ một nơi.
Sau cùng, “tối hậu thu” được đưa ra một
cách âm thầm, đó là chị vợ sẽ lặng lẽ khăn gói quả mướp về với
bu, để dạy cho anh chồng một bài học thế nào là vâng lời vợ và
thế nào là lễ độ với vợ. Tới đây, muốn được ổn định lại cuộc
sống, anh chồng đành phải năn nỉ ỉ ôi, xin chị vợ tha thứ, để
rồi “mời nàng về…dinh”.
Kinh nghiệm cay đắng này, sẽ làm cho anh
chồng mau mắn “hạ quyết tâm”:
- Vợ mà dạy, phải lắng nghe,
Mai sau “khôn lớn”, mà khoe mọi người.
Tóm lại, gã xin kính cẩn nghiêng mình trước
những chị vợ đã cư xử như một người mẹ và đã góp rất nhiều công
sức vào sự nghiệp “nuôi chồng khỏe, dạy chồng ngoan”.
Gã Siêu
gasieu@gmail.com
|
VỀ MỤC LỤC |
|
- Mọi liên lạc: Ghi danh, thay đổi địa chỉ, đóng góp ý kiến,
bài vở..., xin gởi về địa chỉ
giaosivietnam@gmail.com
- Những nội dung sẽ được đề cao và chú ý bao gồm:
Trao đổi, chia sẻ những kinh nghiệm thực tế trong việc mục
vụ của Giáo sĩ; Những tài liệu của Giáo hội hoặc của các
Tác giả nhằm mục đích Thăng tiến đời sống Giáo sĩ; Cổ võ ơn
gọi Linh mục; Người Giáo dân tham gia công việc “Trợ lực
Giáo sĩ” bằng đời sống cầu nguyện và cộng tác trong mọi lãnh
vực; Mỗi Giáo dân phải là những “Linh mục” không có chức
Thánh; Đối thoại trong tinh thần Bác ái giữa Giáo dân và
Giáo sĩ… (Truyền giáo hay xây pháo đài?)
- Quy vị cũng có thể tham khảo những số báo đã phát hành tại
www.conggiaovietnam.net
Rất mong được sự cộng tác, hưởng ứng của tất cả Quí vị
Xin chân thành cám ơn tất cả anh chị em đã
sẵn lòng cộng tác với chúng tôi bằng nhiều cách thế khác
nhau.
TM. Đặc San Giáo Sĩ Việt Nam
Lm. Luca
Phạm Quốc Sử
USA
|
|
*************
|
|