TÔNG HUẤN PASTORES DABO VOBIS
VỀ VIỆC ĐÀO TẠO LINH MỤC TRONG HOÀN CẢNH
HIỆN NAY |
http://xuanbichvietnam.wordpress.com/2009/10/03/tong-huan-pastores-dabo-vobis/
LTS: Nhân dịp Năm Linh Mục và vì nhu cầu tham chiếu qua internet
cho những người không có bản văn trong tay, chúng tôi mạo muội cho đánh máy lại
bản dịch Việt ngữ Tông Huấn Pastores Dabo Vobis, mà chúng tôi không biết dịch
giả, để phổ biến phục vụ nhu cầu học hỏi. Xin chân thành cám ơn dịch giả đã cống
hiến cho độc giả một tài liệu rất quan trọng trong việc đào tạo linh mục.
XBVN.
GIỚI
THIỆU TÔNG HUẤN
PASTORES DABO VOBIS
I. NHẬN ĐỊNH SƠ KHỞI.
Bản dịch Tông Huấn
bằng Việt Ngữ, “Những mục tử như lòng mong ước”, mới ra mắt chưa tròn một tháng,
với số lượng trên 1000 cuốn, đã cạn sạch. Nhiều nơi còn đặt mua thêm 30, 40, 60…
Chắc chắn sẽ có tái bản mặc dầu bản dịch chưa phải là hoàn chỉnh. Được biết có
một số giám mục, linh mục và cả nữ tu đang sử dụng tối đa văn bản (đọc đi đọc
lại, gạch đích, ghi chú, rút tia đề tài, suy niệm,…) để làm của ăn nuôi sống bản
thân, để làm chất liệu hướng dẫn cộng đoàn trong hoàn cảnh hiện tại.
Phải chăng tác phẩm
của Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã đến đúng lúc để cứu chữa cơn sốt linh mục,
để đáp ứng nỗi khát khao mong chờ rạo rực từ nhiều phía, phía Thiên Chúa, phía
Giáo Hội nói chung, phía các linh mục nói riêng, và nhất là cả phía giáo dân
nữa: làm sao để có được “những linh mục như lòng mong ước”.
Chúng ta không có
quyền nhìn và nghe ngóng sự kiện một cách chủ quan, giàn lược hoặc quá lạc quan.
Có thể có những người chỉ vì “sính trí thức” mà chạy theo Tông Huấn để tự chứng
tỏ chính mình. Cũng có thể có những người chủ trương cơ hội chỉ trích dẫn và chỉ
nhấn mạnh những gì trong Tông Huấn đem lại cho lợi ích cấp thòi. Không thiếu
những người lần giờ văn kiện với một thái độ hời hợt và thiển cận. Một số đông
sẽ vội vàng bỏ cuộc vì nản chí, vì ngại đương đầu với những khó khăn đòi phải
tiến sâu vào ngõ ngách của vấn đề.
II. NHỮNG KHÓ KHĂN.
Khó khăn dường như
là điều đương nhiên. Thế nhưng không vì vậy mà người Kitô hữu và nhất là người
linh mục lại không cùng với Đức Giáo Hoàng tìm hiểu và cảm nghiệm sâu xa nhu cầu
bức bách của Giáo Hội hiện nay, một “Giáo Hội là mầu nhiệm, hiệp thông và sứ
vụ”, một Giáo Hội không lẫn tránh khó khăn nhưng luôn tìm cách đương đầu và
vượt qua. Một chi tiết được Tông Huấn lặp đi lặp lại khá nhiều lần là người linh
mục vừa “ở trong” Giáo Hội vừa “đứng trước” Giáo Hội: đây lại càng
là một thôi thúc để chúng ta nhận định những khó khăn của văn kiện để rồi cũng
say mê văn kiện như người soạn thảo đã viêt lên với một tâm hồn dạt dào, tha
thiết và say sưa.
1.
Phải thú nhận rằng khó khăn thoạt đầu
của chúng ta là khó khăn chủ quan của những con người nghiêng chiều về khuynh
hướng thực dụng. Chúng ta quen dùng “mì ăn liền”, những bài giảng soạn sẵn,
những mẫu suy niệm vắn gọn, mau hấp dẫn và chống lôi cuốn, những áng văn hoa mỹ
dành để thưởng thức hơn là đòi phải suy nghĩ bằng tất cả tâm hồn. Đây cũng là
nhận xét của Đức Giáo Hoàng ngay trong phần dẫn nhập Tông Huấn: “… Về phần
những linh mục ít lâu nay đang thi hành chức vụ của mình, họ dường như rơi vào
một sự phân tán thái quá trong những hoạt động mục vụ ngày càng tăng… họ cảm
thấy bó buộc phải xét lại lối sống của mình, xét lại những chọn lựa ưu tiên của
mình… và đồng thời cảm nghiệm mỗi lúc một sâu sắc sự cần thiết phải có một nền
đào tạo trường kỳ”. Trong chương I khi đặt mầu nhiệm linh mục trước những
thách đố của thiên nhiên kỳ đang kết thúc, ngài đã nhắc nhở: “truy tầm một sự
hiểu biết chính xác và sâu rộng về bản chất và sứ vụ của chức linh mục thừa tác
là đường lối phải tuân theo để có thể ra khỏi cuộc khủng hoảng về căn tính linh
mục”. Ý thức khó khăn thoạt đầu này, chúng ta mượn lời Thánh Augustinô để
cùng khuyến khích nhau đi vào Tông Huấn: Tolle et lege.
2.
Khó khăn cơ bản không thể không nhận ra
đó là phạm vi bao la và sâu rộng của vấn đề đào tạo linh mục. Đề tựa của
Tông Huấn là: “Việc đào tạo linh mục trong hoàn cảnh hiện nay”. Ngay cả
khi chúng ta tự giới hạn khái niệm “đào tạo” vào vấn đề đã là mênh mông rồi.
Huống nữa, ở đây, Đức Giáo Hoàng lại mở rộng khái niệm “đào tạo”. Chẳng những
đào tạo là đào tạo các ứng sinh linh mục nhưng còn là đào tạo chính các linh
mục, ngài coi đó là hai giai đoạn của cùng một tiến trình đào tạo: đào tạo
khai đạo (formation initiale) và đào tạo trường kỳ (formation
permanente), được khai triển và trình bày trong hai chương cuối là chương V và
chương VI.
a) Chương V
lấy hình ảnh Nhóm Mười Hai chung quanh Chúa Giêsu trước khi được sai đi
làm kim chỉ nam và là chương dài nhất trong Tông Huấn. Phần I bàn về các chiều
kích của việc đào tạo các ứng sinh gồm có: nhân bản, trí thức, thiêng liêng và
mục vụ. Phần II đề cập tới các môi trường đào tạo như đại chủng viện, tiểu chủng
viện và những hình thức khác. Phần III nhắm tới những người đảm nhận trách nhiệm
đào tạo, trước hết là Giáo Hội và Giám Mục, sau đó là cộng đoàn hữu trách ở
chủng viện, các giáo sư thần học và chính bản thân ứng sinh.
b) Chương VI
tuy có phần ngắn hơn nhưng có thể được coi như là chương cao điểm. Hình ảnh chỉ
đạo cho việc đào tạo trường kỳ trong chương VI là lời khuyên nhủ mà Thánh Phaolô
nói với Timôthê: “Cha kêu mời con khơi thắm lại ân huệ mà Thiên Chúa đã đổ
xuống trên con”. Tương tự như chương V, chương VI lần lượt bàn về những
lý do thần học của việc đào tạo trường kỳ, khai triển các chiều kích đa dạng của
việc đào tạo ấy, cũng gồm có nhân bản, thiêng liêng, trí thức và mục vụ, xét tới
ý nghĩa sâu xa của việc đào tạo trường kỳ, đề cập tới tuổi tác và điều kiện
sống, xác định những thành phần chịu trách nhiệm về việc đào tạo trường kỳ và
sau cùng đề nghị thời giờ, hình thức và những phương thế để tổ chức việc đào tạo
trường kỳ.
Hai chương V và VI
như chúng ta vừa phác hoạ dầu quan trọng cũng chỉ là phần ứng dụng của những
phân tích và suy niệm về nền móng. Những phân tích và suy niệm này lại liên hệ
và đan kết với nhau một cách chặt chẽ tuy vẫn được chia thành bốn chương.
c) Chương I
có thể ví như một bức hoạ đặt người trẻ ứng sinh cũng như người linh mục vào
khung cảnh của thời đại, với những yếu tố tiêu cực cũng như tích cực. Nhưng bức
hoạ gắn liền với Tin Mừng: không lẩn tránh sự thật phũ phàng, nhưng cũng không
kém lạc quan và nhất là dấu chỉ thời đại không phải để nhận xét suông rồi
áp dụng vội vàng, nhưng để nhận ra lời mời gọi, trách nhiệm và bổn phận
phải cộng tác, phải không ngừng canh tân và thích nghi. Công cuộc “phúc âm
hoá mới” đòi phải có “những nhà phúc âm hoá mới”. Vì linh mục “được
cất nhắc từ giữa loài người”, nên linh mục và ứng sinh linh mục vừa phải
am tường môi trường nhân sinh, phải bén nhạy trước dấu chỉ của thời đại nhưng
vừa phải cậy dựa vào lời hứa của Thiên Chúa trung thành, cùng chia sẻ với Giáo
Hôi niềm tin tưởng vững chắc và sâu xa vào hoạt động của Chúa Thánh Thần.
d) Chương
II truy tầm cội nguồn của căn tính linh mục bằng cách nhìn vào chính
Chúa Giêsu linh mục, trong tình yêu Chúa Cha và sự thánh hiến của Chúa Thánh
Thần, nhìn vào Giáo Hội trong mầu nhiệm, hiệp thông và sứ vụ, móc nối với Đức
Kitô Đầu và Mục Tử, hướng đến công cuộc phục vụ Giáo Hội và thế giới.
“Ngài đã
xức dầu thánh hiến tôi”.
e) Chương III
khai triển sâu rộng về đời sống thiêng liêng của linh mục một khi được
lấp đầy Thánh Thần : “Thần Khí Chúa ngự trên tôi”. - Cũng như
người giáo dân và còn hơn người giáo dân, linh mục được mời gọi nên thánh một
cách đặc biệt – Phương thức nên thánh của linh mục là nên đồng hình dạng với Đức
Giêsu Kitô Đầu và Mục Tử và là thực thi đức ái mục vụ – Đời sống thiêng liêng và
thánh thiện ấy phải được biểu lộ trong việc thi hành thừa tác vụ – Sự thánh hiến
của linh mục gắn liền với những đòi hỏi triệt để của Tin Mừng : vâng phục, nghèo
khó và trinh khiết – Yếu tố định đoạt của một đời sống thiêng liêng Kitô giáo và
hơn nữa một đời sống thiêng liêng linh mục, đó là ý thức mình ở trong một Giáo
Hội địa phương và xả thân phục vụ Giáo Hội ấy một cách tận tụy – Tin vào ân sủng
của Chúa Thánh Thần trong mọi hoàn cảnh.
f) Chương IV
bàn về ơn gọi linh mục trong mục vụ của Giáo Hội. Mẫu mực của ơn gọi linh mục là
cuộc gặp gỡ ban đầu giữa Chúa Giêsu với hai môn đệ của Gioan Tẩy Giả: “Hãy
đến mà xem”. Mọi ơn gọi Kitô hữu đều phát xuất từ Thiên Chúa và đều là
ân huệ của Thiên Chúa dành cho Giáo Hội. Ơn gọi bao gồm cuộc đối thoại giữa
Thiên Chúa đề xướng và con người đáp trả. Làm sao để cổ võ và nuôi dưỡng các ơn
gọi (mẫu gương của Anrê trong Tin Mừng Gioan). Mọi thành phần trong Giáo Hội đều
có trách nhiệm đối với các ơn gọi linh mục: giám mục, linh mục, gia đình, học
đường, giáo dân.
Liệt kê sơ lược dàn
bài cùng với những đề tài chính trên đây là để chúng ta nhận thức được tầm mức
sâu rộng của Tông Huấn. Tầm mức sâu rộng ấy không cho phép chúng ta dừng lại ở
những suy nghĩ phiến diện, hời hợt hoặc xé vụn nhưng ngược lại mời gọi chúng ta
đương đầu với khó khăn và nỗ lực đi vào những suy niệm và phân tích của Đức Giáo
Hoàng với thái độ chú tâm và với tinh thần Tin Mừng.
3.
Hai khó khăn trên không phải là không
thể khắc phục nếu chúng ta đánh giá cao và nếu chúng ta ưa chuộng văn kiện quý
hoá này. Thật ra, khó khăn đặc biệt của Tông Huấn Pastores dabo vobis là ở chỗ
nó được viết ra bằng ngôn ngữ của con tim nên đòi phải được đọc và nghiền
ngẫm cũng bằng những rung cảm của con tim. Không giống như thông thường.
Tông Huấn về đào tạo linh mục của Đức Gioan Phaolô II không chỉ là thành quả góp
nhặt từ quá khứ để lại, từ những nghiên cứu và thảo luận của Thượng Hội Đồng
1990, cũng không chỉ là dùng Quyền Giáo Huấn để đưa ra những chỉ dẫn, khuyên bảo
có tính cách giáo thuyết. Hơn thế nữa, ở đây là cả một sự san sẻ những ưu tư,
nhận thức và cảm nghiệm sâu xa đã thấm đượm những nhịp đâp của con tim. Người
đọc chăm chú có thể lấy làm lạ và ngỡ ngàng tự hỏi: tại sao một Tông Huấn với
những đề tài quan trọng và nặng tính chất giáo điều như thế mà lại được diễn đạt
một cách say mê và dào dạt kinh nghiệm sống như vậy? Phải chăng chúng ta có
quyền coi đây là kiệt tác của Vị Kế Nhiệm Thánh Phêrô thời đại, với biết bao
chuyến công du mục vụ ở nhiều nơi trên thế giới, với những tiếp xúc gặp gỡ đậm
đà và chân tình cùng các linh mục và giáo dân ở rải rác khắp nơi, với một cái
nhìn bao quát và sâu rộng kèm theo mối ưu tư khắc khoải đối với sức sống của
Giáo Hội, với những ơn thúc đẩy và soi sáng của một vị Thủ Lãnh Giáo Hội có đời
sống nội tâm sâu xa và bén nhạy.
Ngay trong phần dẫn
nhập, sau khi đã say sưa kêu gọi người Kitô hữu mạnh mẽ tin tưởng vào lời hứa
của Chúa, mặc cho biết bao những khủng hoảng, mặc cho sự xuống cấp, mặc cho tình
trạng thiếu hụt linh mục trầm trọng, Đức Gioan Phaolô II đã bày tỏ nỗi lòng của
mình: “Tôi muốn ngỏ lời tâm huyết (le coeur) với mọi tín hữu và từng tín hữu,
cách riêng với các linh mục và với tất cả những ai đã dấn thân vào trách nhiệm
tế nhị trong lãnh vực đào tạo linh mục. Qua Tông Huấn này, tôi mong mỏi được
tiếp cận tất cả các linh mục và mỗi một linh mục, triều hoặc dòng”. Trong
phần kết luận, ngài còn diễn tả rõ hơn : “Ngài (Đức Kitô Mục Tử Nhân
Lành) yêu cầu những con tim khác cũng phải chung nhịp đập – những con tim
linh mục – “Các ngươi hãy cho họ ăn”. Như vậy không phải lối suy nghĩ và
diễn tả của “người slave” làm cho bản văn ra vòng vo và phức tạp cho bằng những
lối nẻo của con tim, lắt léo, uốn khúc, có khi chi li, súc tích… Thừa tác vụ
linh mục được gọi là “amoris officium” theo kiểu nói của Thánh Augustinô:
“Đời sống thiêng liêng của linh mục không là gì khác hơn sự đón nhận “chân
lý” của thừa tác vụ linh mục, được coi là amoris officium, trong ý
thức và trong tự do, và bởi đó trong trí óc và con tim, trong những quyết định
và những hành động”. (cuối số 24).
Con tim có những tỷ
lệ ít cần đếm xỉa đến lý trí. Chẳng hạn để giải quyết vấn đề khủng hoảng về căn
tính linh mục, chương II nhằm mời gọi linh mục quay về với nguồn cội tột cùng
của mình, để đắm mình trong tình yêu của Chúa Cha, để yêu mến nguồn cội cao cả
của chính mình: “Đời sống và thừa tác vụ linh mục là sự nối dài đời sống và
hoạt động của chính Đức Kitô. Căn tính của chúng ta nằm ở đó, cũng như phẩm giá
thực sự của chúng ta, nguồn mạch vui mừng của chúng ta, và niềm tin vững chắc
của chúng ta về sự sống” (cuối số 18).
Vấn đề độc thân
linh mục cũng được giải quyết vừa mạnh mẽ, cương quyết nhưng cũng vừa nhẹ nhàng
và uyển chuyển. Ý thức sáng suốt những chỉ trích và chống đối, không phủ nhận
những lỗi phạm, những khó khăn. Tông Huấn chuyển vấn đề sang mặt tích cực, chiêm
ngắm một “Đức Giêsu Kitô mong muốn được linh mục yêu mến một cách hoàn toàn
và độc chiếm giống như Đức Giêsu Kitô Đầu và Phu Quân đã yêu mến Giáo Hội”
(số 29, phần giữa), kêu gọi linh mục “đón nhận bậc sống độc thân với một
quyết định tự do và ngập tràn yêu thương”, xác quyết bậc sống độc thân linh
mục là có thể thực hiện một cách trung thành nhờ “cầu xin trong sự kết hiệp
với Giáo Hội” và gợi lên “lòng tin cậy và can đảm trong việc tiếp tục
tiến bước” (cuối số 29).
Cụ thể, trong việc
đào tạo ứng sinh linh mục, bằng ngôn ngữ của con tim. Tông Huấn đòi phải có
“sự quan tâm tới du khách, nghĩa là tới con người cụ thể đang dấn thân trong
chuyến du hành đào tạo…”, “lòng yêu mến đích thực và sự tôn trọng chân thành đối
với người ứng sinh đang bước tới chức linh mục trong những chiều kích cá vị của
mình”. (số 61, phần cuối). Việc đào tạo trường kỳ cũng được đẩy xa tới những
ngỏ ngách của con tim như khi đề cập đến tình huynh đệ linh mục ở số 74 phần
giữa: “Tình huynh đệ linh mục không loại trừ một ai; dầu vậy,…, linh mục có
thể và phải dành những ưu tiên cho người nào đang cần giúp đỡ và cần khích lệ
nhất. Tình huynh đệ ấy dành một sự quan tâm đặc biệt đối với các linh mục trẻ,
duy trì một thái độ đối thoại chân tình và huynh đệ với những linh mục thuộc lứa
tuổi trung bình hoặc cao niên cũng như đối với những linh mục nào vì lý do này
hay lý do khác đang phải đương đầu với những khó khăn…” Cũng về việc đào tạo
trường khi, khi cổ võ những trao đổi và gặp gỡ giữa các linh mục với nhau, Tông
Huấn ghi nhận: “Họ sẽ nhờ đó mà chứng tỏ tình yêu của mình đối với toàn thể
linh mục đoàn và chứng tỏ niềm hăng say của mình trong việc đáp ứng như cầu của
Giáo Hội địa phương là nhu cầu phải có những linh mục được đào tạo hẳn hoi”.
(số 76 phần giữa).
Một vài dẫn chứng
trong số muôn vàn dẫn chứng khác thiết tưởng tạm đủ để chúng ta cảm phục con tim
tràn đầy sức sống được bộc lộ ra trong Tông Huấn lớn lao của Giáo Hội và nhất là
để chúng ta cũng đón nhận và đi vào Tông Huấn bằng chính con tim của chúng ta
cùng với niềm say mê và nỗi thao thức của những chi thể trong Nhiệm Thể Giáo Hội
có Chúa Kitô là Đầu, Mục Tử và Tôi Tớ.
III. MỘT VÀI ĐIỂM NỔI BẬT VÀ LAN TỎA TRONG TÔNG HUẤN
1.
Trước hết, trong mạch văn của cái gọi là
ngôn ngữ con tim, chúng ta có thể ghi nhận một đức tính mà Tông Huấn luôn kêu
mời mặc dầu từ ngữ chỉ được lặp lại nhiều lần khi đề cập tới chiều kích nhân bản
và mục vụ của việc đào tạo, đó là tính bén nhạy (sensibilité). Trong số
72, chương V, Tông Huấn viết: “Linh mục phải làm sao để tính bén nhạy nhân
bản của mình được nên phong phú nhờ vào một kinh nghiệm ngày càng rộng lớn hơn
và để cho Dân Thiên Chúa có thể nói về mình một cách tương tự như tác giả thư
gởi tín hữu Do Thái đã nói về Đức Giêsu: Không phải chúng ta có một vị thượng tế
bất lực, không cảm thông được những nỗi yếu hèn của chúng ta, trái lại, Ngài đã
nếm chịu mọi thử thách, giống như chúng ta, ngoại trừ tội lỗi (Dt 4,15)”.
a) Trọn chương I là
để khai triển tính bén nhạy đối với môi trường và hoàn cảnh
chung quanh : những thách đố của thiên niên kỷ thứ hai. Cần phải nhận thức
và nhất là diễn giải tình huống phức tạp hiện nay thì mới trả lời được câu hỏi:
“Làm sao để đào tạo các linh mục cho thực sự ngang tầm với hoàn cảnh hiện
nay, cho thực sự có khả năng phúc âm hoá thế giới ngày nay?” (số 10). Một
tính bén nhạy như thế cần phải đưa theo Tin Mừng, cần phải được “soi sáng và
cũng cố nhờ Chúa Thánh Thần, Đấng mọi nơi mọi lúc khơi dậy sự vâng phục đức tin,
lòng dũng cảm tươi vui để nối gót Chúa Giêsu, ơn khôn ngoan để xét đoán mọi sự
và không bị một ai xét đoán (x. 1 Cr 2.15)” (số 10, gần cuối).
b) Bén nhạy đối
với Lời Chúa, đối với truyền thống Giáo Hội, đối với Huấn Quyền (số 26,
tr.61).
c) Bén nhạy đối
với người nghèo : “Không loại trừ một ai trong việc loan báo và ban phát
ơn cứu độ, linh mục biết chú tâm tới những người bé nhỏ, tới các tội nhân, tới
hết mọi người sống ngoài lề xã hội…” (số 30, tr. 73)”… giữ mình khỏi mọi
thái độ trịch thượng hoặc khỏi việc thi hành một quyền bính nào đó mà không luôn
luôn hoặc không chỉ có thể biện minh bằng đức ái mục vụ” (số 60, tr.145).
“Các chúng sinh phải tìm kiếm Đức Kitô… nhất là nơi những người nghèo, những
người bé nhỏ, những người yếu đau, những người tội lỗi và những người không tin”
(số 45, tr.116).
“Linh mục cần
phải có khả năng hiểu biết sâu xa lòng trí con người, trực giác được những khó
khăn và những vấn đề, tạo điều kiện dễ dàng cho sự gặp gỡ và đối thoại, đạt được
lòng tin cậy, sự cộng tác, phát biểu được những phán đoán lành mạnh và khách
quan” (số 43, tr. 109).
“Linh mục cần
phải lớn lên trong việc tiếp xúc thường ngày với người khác và trong việc chia
sẻ cuộc sống với họ mỗi ngày,… hiểu được những nhu cầu và đón nhận những lời kêu
cứu, có thể trực giác những yêu cầu không được phát biểu thành lời…”
(số 72, tr. 176).
d) Bén nhạy đối
với Giáo Hội, “khuyến khích Giáo Hội địa phương sống đậm đà hơn chiều
kích phổ quát của Giáo Hội ấy” (số 31, tr.76), “nhằm giúp xây dựng toàn
thể cộng đoàn, mọi đặc sủng riêng biệt đều được sắp xếp cho sự phục vụ cộng đoàn
ấy” (số 31, tr.77).
Tất cả sự bén nhạy
nói trên nhờ “mặc lấy những tâm tình của Đức Kitô”, nhờ “nên đồng hình
dạng với Ngài”, nhờ thông phần vào đức ái mục vụ của Ngài,
nhờ hoạt động “nhân danh” và “thay mặt” Ngài.
2.
Ba khái niệm luôn được móc nối với nhay
là: hiệp thông, tính phổ quát và tư thế ứng trực (communion, universalité,
disponibilité).
Ngay trong phần dẫn
nhập, Tông Huấn đã nêu bật kinh nghiệm cụ thể của Thượng Hội Đồng Giám Mục:
“kinh nghiệm riêng biệt về sự hiệp thông giữa các giám mục trong tinh thần phổ
quát nhờ đó mà cảm thức về Giáo Hội phổ quát cũng như trách nhiệm của các giám
mục đối với Giáo Hội phổ quát và đối với sứ vụ của Giáo Hội, được củng cố, trong
mối hiệp thông thân ái và thiết thực chung quanh Thánh Phêrô”. Từ nhận định
về hoàn cảnh Giáo Hội, trong đó có “sự kiện này là càng ngày người ta càng
thuộc về Giáo Hội một cách không trọn vẹn và có điều kiện, gây ảnh hưởng tiêu
cực cho sự nở rộ các ơn gọi hướng đến chức linh mục, cho ý thức mà linh mục có
về căn tính và về thừa tác vụ của mình” (số 7, tr.18). Đức Gioan Phaolô II
đã đề cao tính “tương giao” và tính “hiệp thông” của thừa tác vụ
linh mục trong Giáo Hội.
Tính chất thiết yếu
“tương giao” ấy là “do bởi chức linh mục phát sinh từ nơi sâu thẳm Mầu Nhiệm
khôn tả của Thiên Chúa, nghĩa là từ tình yêu của Chúa Cha, từ ân sủng của Chúa
Giêsu Kitô và từ ơn hiệp nhất của Chúa Thánh Thần, người linh mục qua bí tích
được hội nhập vào sự hiệp thông với giám mục và với các linh mục khác, để phục
vụ Dân Thiên Chúa là Giáo Hội và để dẫn dắt mọi người đến với Chúa Kitô” (số
12, tr.30).
Do đó, thừa tác vụ
được điều phối mang “bản chất cộng đồng” và chỉ có thể được hoàn thành
như là “công trình tập thể”. Đời sống thiêng liêng cũng được suy niệm
trong chiều hướng hiệp thông ấy: từ việc nên đồng hình dạng với Đức Kitô Đầu và
Mục tử, đức ái mục vụ cho đến sống các lời hứa vâng phục, khó nghèo, và trinh
khiết… Tất cả đều mang chiều kích cộng đồng. Chính vì thế, trong Giáo Hội là mầu
nhiệm, hiệp thông và sứ vụ, linh mục phải sống với ý thức mình thuộc về Giáo Hội
phổ quát qua Giáo Hội địa phương, và phải xả thân phục vụ Giáo Hội một cách tận
tụy. Toàn thể Giáo Hội phải chăm lo cho ơn gọi linh mục, vì ơn gọi linh mục là
từ trong Giáo Hội và để phục vụ Giáo Hội (chương IV). Hai chương V và VI cũng
luôn nêu dẫn chiều kích hiệp thông ấy đối với tiến trình đào tạo : một linh mục
đoàn duy nhất, liên kết chặt chẽ với giám mục, gắn bó và kề cận với mọi người.
Điểm đặc biệt ở đây
là tính hiệp thông luôn gắn liền với lời mời gọi hướng đến Giáo Hội phổ quát
: “bởi vì trong nội bộ Giáo Hội, linh mục là con người của sứ vụ và hiệp
thông, cho nên đối với mọi người, linh mục phải là con người của sứ vụ và đối
thoại… Linh mục phải nối kết những quan hệ huynh đệ trước hết với các anh em
thuộc các Giáo Hội khác và thuộc các hệ phái Kitô giáo, nhưng cũng phải nối kết
những quan hệ huynh đệ với các tín hữu thuộc các tôn giáo khác, với mọi người
thiện chí và một cách đặc biệt với những người nghèo và những người yếu đuối hơn
hết cũng như với hết mọi người, hoặc không nhận thức, hoặc không diễn đạt ra
được, đang ngưỡng vọng về chân lý và ơn cứu độ mà Đức Kitô mang đến…” (số
18, tr.42 và 43); “bất cứ thừa tác vụ linh mục nào cũng tham dự vào những
chiều kích hoàn vũ của sứ vụ được Đức Kitô giao phó cho các Tông Đồ” (số 32,
tr.77); “một não trạng thừa sai, mở ngỏ hướng đến những nhu cầu của Giáo Hội
và của thế giới, chú trọng tới những người xa cách nhất và trên hết tới những
tập thể ngoài Kitô giáo trong môi trường của mình” (số 32, tr.77). Trong
công việc giáo dục và huấn luyện, Tông Huấn cũng khuyến khích sự đóng góp đa
dạng cho các giáo phận kề nhau, do những thành phần nam nữ dị biệt…
Tính chất hiệp
thông và phổ quát lại dẫn đến một thái độ quan trọng nơi người linh mục : đó là
tư tế ứng trực, sẵn sàng để được sai đi bất cứ nơi nào, sẵn sàng chấp
nhận vượt ra ngoài biên giới giáo phận, nếu cần luôn tạo thuận lợi cho việc đón
tiếp mọi người có nhu cầu, mọi lời kêu cứu. “Ứng sinh linh mục sẽ được giúp
đỡ để yêu mến và sống chiều kích thừa sai thiết yếu của Giáo Hội cùng những hoạt
động mục vụ đa tạp; họ sẽ được giúp đỡ để trở nên rộng mở và ứng trực sẵn sàng
đối với mọi đường lối có thể thực hiện ngày nay nhằm loan báo Tin Mừng… ứng
trực, đáp lại Chúa Thánh Thần và đáp lại giám mục, để rồi được sai đi rao giảng
Tin Mừng bên kia những biên giới của quốc gia mình” (số 61, tr.147),
“liên lỉ ứng trực và sẵn sàng để cho mình bị chộp giữ hay, có thể nói, để cho
mình bị “ăn” do bởi những nhu cầu và những đòi hỏi dĩ nhiên cần phải hợp lý của
đoàn chiên” (số 28, tr.67).
3.
Một yếu tố quan trọng cần được ghi
nhận để khỏi lạc hướng khi bước vào Tông Huấn, đó là vấn đề đào tạo nhắm đến
phẩm chất linh mục hơn là con số linh mục. Nhiều từ ngữ được dùng để diễn tả
trọng tâm đó : “Những nhà phúc âm hoá mới”, “những linh mục ngang tầm với
thời đại”, “những linh mục được đào tạo hẳn hoi” (bien formés),
“một trình độ đào tạo trí thức ưu tú”, “không phải
[…] bất cứ những mục tử nào nhưng những mục tử như lòng Ngài mong ước”.
Chính vì thế mà
Tông Huấn nhận định tình trạng thiếu hụt linh mục cũng như sự giảm sút ơn gọi
linh mục với một thái độ khách quan và bình tĩnh và luôn nêu cao trách nhiệm
cộng tác vào sự thực hiện lời hứa của Chúa với một niềm tin vững mạnh và can
trường. Cũng chính vì thế mà, không như chúng ta có thể lầm tưởng, Tông Huấn
không tự giản lược vào những phân tích và nghiên cứu nhằm đưa ra những phương
hướng huấn luyện và giáo dục. Tông Huấn đi xa hơn nhiều, với dụng ý đưa linh mục
vào trong mầu nhiệm của cuộc sống : “Từ vấn đề căn tính của linh mục,
sự chú trọng được hướng đến các vấn đề liên quan tới tiến trình đào tạo linh mục
và tới phẩm chất đời sống các linh mục” (Phần Dẫn Nhập, tr.7).
Chương I nhấn
mạnh “bản tính con người” của thừa tác viên, tới môi trường nhân sinh,
tới những điều kiện và hoàn cảnh của cuộc sống: “Ngay cả vào năm 2000, ơn gọi
linh mục sẽ tiếp tục là lời mời gọi sống chức linh mục độc nhất và trường tồn
của Chúa Kitô. Cũng vậy, đời sống và chức vụ linh mục phải thích nghi với mọi
thời đại và với mọi môi trường sống” (số 5, tr.12). Trong dòng liên tục này,
Tông Huấn không ngừng lặp đi lặp lại “đời sống linh mục”, “đời sống thiêng
liêng của linh mục”, “cuộc sống của người linh mục và tính triệt để của Tin
Mừng”, “sống nối gót Đức Kitô như các Tông Đồ”, Tông Huấn đạt tới đỉnh cao
của việc suy niệm về cuộc sống linh mục, đó là chương VI với việc đào tạo truyền
kỳ : sống làm sao cho sâu đậm hơn, khơi thắm lại cuộc đời linh mục đã khởi đầu:
“Cha kêu mời con khơi thắm lại ân huệ mà
Thiên Chúa đã đổ xuống nơi con”.
Cuộc sống linh mục
bắt nguồn từ mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi, múc lấy sức mạnh nơi Vị Mục Tử Nhân
Lành đã được Cha sai đến trong quyền lực của Chúa Thánh Thần. Đó là căn tính của
linh mục, “là nguồn mạch vui mừng của chúng ta, và niềm tin vững chắc của
chúng ta về sự sống”. Toàn bộ Tông Huấn nhằm mục đích nối dài và ứng dung sự
sống cội nguồn này. Khởi từ việc mô phỏng Vị Mục Tử Nhân Lành đã hiến ban mạng
sống, “nhân danh Ngài, các linh mục tiến dâng nghi lễ cứu độ… các linh mục có
trách nhiệm xả thân phục vụ Dân Cha để nuôi dưỡng họ bằng lời của Cha và làm cho
họ sống bằng các bí tích của Cha; các linh mục sẽ là những chứng nhân thực sự
cho đức tin và đức ái, sẵn sàng hiến mạng sống mình như Đức Kitô đã hiến dâng
mạng sống cho đàn em và cho Cha” (số 15, tr.37).
Cuộc sống
linh mục chính là tham gia và thông phần vào sức sống của Đấng là Đầu của
Thân Thể, nên đồng hình dạng với Ngài. Biểu hiện rõ nét nhất của sự tham
gia thông phần chính là “đức ái mục vụ”, sự trao hiến trọn vẹn chính mình
một cách tích cực và tươi vui, như Đức Kitô Phu Quân đã trao hiến chính Ngài cho
Hiền Thê là Giáo Hội. Có thể nói rằng toàn bộ Tông Huấn xoay quanh “đức
ái mục vụ” bởi vì đó chính là biểu hiện, là trợ lực, là cội rễ và nguồn mạch của
đời sống linh mục: “Việc chuẩn bị cho
cuộc sống linh mục nhất thiết bao hàm một nền đào tạo vững chắc về đức ái, nhất
là về lòng yêu mến ưu tiên đối với người nghèo…”
Có thể kể
thêm “đời sống cầu nguyện” “đời sống bí
tích” “sống thinh lặng”, “sống cô đơn” v.v… Nói tóm lại, cả Tông Huấn đều trình
bày về sự sống, giới thiệu sự sống và dẫn vào sự sống. Sống chức vụ linh
mục chớ không phải có chức linh mục. Tương lai và hy vọng của Giáo Hội là ở đó.
Một đôi điều
giới thiệu và gợi ý trên đây chẳng qua là nỗ lực khiêm tốn nhằm giúp bạn đọc đỡ
nản chí khi mới bắt tay vào Tông Huấn. Chúng tôi chưa dám tự cho mình là nắm
vững được nội dung phong phú và trào tràn của văn kiện. Cũng như bạn đọc, chúng
tôi còn phải đọc đi đọc lại, nghiền ngẫm thật nhiều nữa…
TÔNG
HUẤN
VỀ
VIỆC ĐÀO TẠO LINH MỤC TRONG HOÀN CẢNH HIỆN NAY
CỦA
ĐỨC GIÁO HOÀNG GIOAN PHAOLÔ II
GỞI
GIÁM MỤC ĐOÀN - HÀNG
GIÁO SĨ - VÀ
TOÀN THỂ GIÁO HỮU
SAU
THƯỢNG HỘI ĐỒNG GIÁM MỤC
DẪN NHẬP
1.
“Ta sẽ ban cho các ngươi những mục tử
như lòng Ta mong ước” (Gr 3,15).
Qua lời của ngôn sứ
Giêrêmia, Thiên Chúa hứa sẽ không bao giờ để cho Dân Ngài phải thiếu mục tử chăm
lo qui tụ và hướng dẫn: “Ta sẽ thôi thúc cho [các chiên Ta] những mục tử để các
mục tử chăn nuôi chúng, chúng sẽ không còn phải sợ hãi và hoảng loạn” (Gr 23,4).
Là Dân Thiên Chúa,
Giáo Hội luôn chứng nghiệm cho sự thực hiện lời tuyên sấm ấy và, trong niềm vui,
Giáo Hội tiếp tục tạ ơn Chúa. Giáo Hội biết rằng Đức Giêsu Kitô chính là lời hứa
của Thiên Chúa được ứng nghiệm, một cách sống động, tuyệt hào và vĩnh viễn : “Ta
là Mục Tử Nhân Lành” (Ga 10,11). Là “Mục Tử tối cao của đoàn chiên” (Dt 13,20),
Đức Giêsu đã giao phó cho các Tông Đồ và những người kế vị các ngài sứ mệnh chăn
dắt đoàn chiên của Thiên Chúa (x. Ga 21, 15-17; 1 Pr 5,2).
Một cách đặc biệt,
nếu không có linh mục, Giáo Hội sẽ không thể nào thực thi được sự vâng phục cơ
bản vốn nằm ngay giữa lòng cuộc sống và sứ mệnh của Giáo Hội trong lịch sử, sự
vâng phục đối với lệnh truyền của Chúa Giêsu: “Các con hãy ra đi,. Hãy chiêu tập
môn đệ từ khắp muôn dân” (Mt 28,19) và “hãy làm việc này mà nhớ đến Ta” (Lc
22,19; x. 1Gr 11,24). Lệnh truyền ấy có nghĩa là lệnh truyền loan báo Tin Mừng
và hàng ngày cử hành hy lễ Mình và Máu Người đã trao hiến và đổ ra cho nhân loại
được sống.
Đức tin dạy cho
chúng ta rằng Chúa không bao giờ bội ước quên thề. Lời Chúa đã hứa chính là động
lực làm cho Giáo Hội vui mừng và vững mạnh, trước sự nở rộ và tình trạng gia
tăng con số những ơn gọi linh mục được ghi nhận ở một số miền trên thế giới. Lời
hứa ấy còn là nền tảng và là yếu tố kích thích cho một hành vi đức tin cao cả
hơn, cho một niềm hy vọng mãnh liệt hơn trước sự thiếu hụt linh mục trầm trọng
nơi những miền khác trên thế giới.
Tất cả chúng ta đều
được mời gọi chia sẻ niềm tin cậy hoàn toàn vào sự ứng nghiệm liên lỉ của lời
Thiên Chúa hứa, như các Nghị Phụ Thượng Hội Đồng Giám Mục đã làm chứng một cách
rõ ràng và mạnh mẽ: “Với niềm tin cậy hoàn toàn vào lời hứa của Chúa Kitô: ‘Và
Ta, Ta sẽ ở với các con mọi ngày cho đến tận thế’, Thượng Hội Đồng Giám mục ý
thức rằng Chúa Thánh Thần không ngừng hoạt động trong Giáo Hôi; Thượng Hội Đồng
tin tưởng một cách sâu xa rằng Giáo Hội sẽ không bao giờ hoàn toàn khuyết vị
những thừa tác viên được thánh hiến… Mặc dầu người ta ghi nhận sự thiếu vắng
linh mục ở một số miền trên thế giới, Chúa Cha, Đấng khơi dậy các ơn gọi, sẽ
không bao giờ ngưng hoạt động trong Giáo Hội” (1).
Đứng trước cuộc
khủng hoảng về ơn gọi linh mục, như Tôi đã tỏ bày khi kết thúc Thượng Hội Đồng
Giám mục, “giải pháp đầu tiên của Giáo Hội phải là hoàn toàn tin tưởng vào Chúa
Thánh Thần. Chúng ta thâm tín rằng sự phó thác với lòng tin cậy ấy sẽ không làm
chúng ta thất vọng nếu chúng ta luôn trung thành với ơn đã lãnh nhận” (2).
2.
Trung thành với ơn đã lãnh nhận ! Quả
thực, ơn huệ của Thiên Chúa không hủy diệt tự do của con người nhưng lại cổ võ,
phát huy và đòi hỏi tự do ấy.
Bởi thế, trong Giáo
Hội, lòng tin cậy hoàn toàn vào sự trung thành vô điều kiện của Thiên Chúa đối
với lời hứa của Ngài phải kèm theo trọng trách hợp tác với hoạt động của Thiên
Chúa là Đấng mời gọi, trọng trách đóng góp vào việc tạo những điều kiện thuận
lợi và bảo tồn những điều kiện ấy để cho hạt giống tốt được Thiên Chúa vãi gieo
có thể bén rễ và trổ sinh dồi dào hoa trái. Giáo Hội sẽ không bao giờ ngưng cầu
xin Đấng làm chủ mùa gặt để Ngài sai thợ gặt đến (x. Mt 9,38); Giáo Hội sẽ đề
nghị với các thế hệ trẻ một phương án ơn gọi sáng tỏ và can trường. Giáo Hội sẽ
giúp các thế hệ trẻ phân định tính chính hiệu của lời mời gọi từ Thiên Chúa và
đáp lại lời mời gọi ấy với lòng quảng đại; Giáo Hội sẽ chú tâm đặc biệt đến việc
đào tạo các ứng sinh cho hàng linh mục.
Thật vậy, vì tương
lai của công cuộc phúc âm hoá nhân loại, việc chuyên chăm đào tạo các linh mục
tương lai triều và dòng, việc nối dài nền đào tạo ấy trong suốt đời sống các
linh mục, nhằm giúp họ biết thánh hoá bản thân khi thi hành chức vụ bà biết
thường xuyên cập nhật hoá đường hướng dấn thân mục vụ của mình, được Giáo Hội
nhìn nhận như là một trách vụ có tầm quan trọng đặc biệt và là một trách vụ hết
sức tế nhị.
Nhờ công trình đào
tạo ấy, Giáo Hội nối tiếp trong thời gian công trình của Đức Kitô mà tác giả tin
mừng Máccô trình bày như sau: “Chúa Giêsu leo lên núi, Ngài gọi những kẻ Ngài
muốn đến với Ngài. Họ đã đến với Ngài. Và Ngài đã thiếp lập Nhóm Mười Hai để họ
ở với Ngài và để sai họ đi rao giảng, kèm theo quyền xua trừ ma quỉ” (Mc
3,13-15).
Có thể quả quyết
rằng trong suốt dòng lịch sử của mình, khi nhặt khi khoan, cách này hoặc cách
khác, Giáo Hội đã áp dụng trang Tin Mừng này vào cuộc sống bằng công trình đào
tạo các ứng sinh cho hàng linh mục và ngay cả đào tạo chính các linh mục. Dầu
vậy, ngày nay Giáo Hội cảm thấy mình được mời gọi đi vào một phương thức dấn
thân mới để ứng dụng vào cuộc sống điều mà Đấng là Thầy đã làm với các Tông Đồ
của Ngài, trong lãnh vực này, Giáo Hội bị thúc bách bởi những biến đổi xã hội
sâu rộng và nhanh chóng, bởi sự đa tạp và dị biệt của những bối cảnh trong đó
Giáo Hội loan báo Tin Mừng và làm chứng cho Tin Mừng. Giáo Hội cũng được khích
lệ bởi sự tiến triển thuận lợi về con số ơn gọi linh mục trong nhiều giáo phận
trên thế giới, bởi sự khẩn cấp phải duyệt xét lại nội dung và phương pháp đào
tạo linh mục, nởi nỗi băn khoăn của các Giám Mục và các cộng đoàn trước sự thiếu
vắng linh mục ngày càng tăng, bởi sự cần thiết tuỵệt đối phải làm cho công cuộc
“phúc âm hoá mới” có được những “nhà phúc âm hoá mới”, đầu tiên là các linh mục.
Chính trong bối
cảnh lịch sử và văn hoá này mà và qua Thượng Hội Đồng Giám mục thế giới năm
1990, đã tiến hành Đại Hội chung thương kỳ, dành trọn đại hội cho “việc đào tạo
linh mục trong hoàn cảnh hiện nay”, hai mươi lăm năm sau Cộng Đồng, với ý hướng
bổ túc giáo thuyết cộng đồng về điểm này và thích nghi giáo thuyết ấy một cách
thỏa đáng hơn vào hoàn cảnh hiện nay. (3).
3.
Nối tiếp các văn kiện Công Đồng Vaticanô
II về vấn đề chức linh mục và đào tạo linh mục (4), nhằm mục đích đem giáo
thuyết phong phú được ban hành trong các văn kiện ấy áp dụng một cách cụ thể vào
trong những hoàn cảnh khác nhau. Giáo Hội đã nhiều lần bàn luận về các vấn đề
đời sống, chức vụ và đào tạo linh mục.
Những cơ hội long
trọng hơn cả là các Thượng Hội Đồng Giám mục. Ngay từ Đại Hội chung đầu tiên
tháng 10 năm1967, Thượng Hội Đồng đã dành năm ủy ban cho đề tài canh tân các
chủng viện. Công việc này đã mang lại một đóng góp dứt khoát cho việc soạn thảo
tài liệu của Thánh Bộ Giáo dục Công giáo: “Những tiêu chuẩn cơ bản dành cho việc
đào tạo linh mục” (5).
Nhất là Đại Hội
chung Thường kỳ, lần thứ hai, vào năm 1971, đã dành phân nửa đại hội cho chức
linh mục thừa tác. Được lấy lại và cô đọng trong một vài “lời nhắn nhủ” do vị
Tiền Nhiệm của Tôi là Đức Giáo Hoàng Phaolô VI, được đọc lên vào lúc khai mạc
Thượng Hội Đồng Giám mục năm 1974, các thành quả của công cuộc tư duy lâu dài ấy
chủ yếu liên quan đến giáo thuyết về chức linh mục thừa tác và về một vài khía
cạnh tu đức cũng như thừa tác vụ của hàng linh mục.
Trong nhiều cơ hội
khác, Huấn Quyền của Giáo Hội đã tiếp tục bày tỏ mối quan tân của mình đối với
đời sống và chức vụ linh mục. Trong những năm hậu công đồng, có thể nói không có
một bài tham luận nào của Huấn Quyền mà, dưới hình thức này hay hình thức khác,
lại không minh nhiên hoặc mặc nhiên lưu ý tới ý nghĩa sự hiện diện của các linh
mục trong cộng đoàn, vai trò và sự cần thiết của các linh mục đối với Giáo Hội
và đối với đời sống nhân loại.
Những năm gần đây,
ở nhiều nơi, người ta đã cảm thấy cần phải quay về với đề tài chức linh mục và
đề cập vấn đề dưới một quan điểm tương đối mới hơn và thích nghi hơn cho hoàn
cảnh Giáo Hội và văn hoá hiện nay. Tư vấn đề căn tính của linh mục, sự chú trọng
được hướng đến các vấn đề liên quan tới tiến trình đào tạo linh mục và tới phẩm
chất đời sống linh mục. Thực ra, các thế hệ trẻ được ơn gọi làm linh mục thừa
tác biểu lộ rõ rệt những đặc tính khác với những đựac tính của các thế hệ kế cận
trước đây, họ sống trong một thế giới mới, một thế giới dưới nhiều phương diện
không ngừng biến đổi một cách nhanh chóng. Cần phải chú trọng đến tất cả những
điều ấy khi soạn thảo chương trình và khi thực hiện những đường hướng đào tạo
linh mục thừa tác.
Về phần những linh
mục ít lâu nay đang thi hành chức vụ của mình, họ dường như rơi vào một sự phân
tán thái quá trong những hoạt động mục vụ ngày càng tăng. Đứng trước những khó
khăn của xã hội và nền văn hoá hiện đại, họ cảm thấy bó buộc phải xét lại lối
sống của mình, xét lại những chọn lựa ưu tiên của mình trong việc dấn thân mục
vụ và đồng thời cảm nghiệm mỗi lúc một sâu sắc sự cần thiết phải có một nền đào
tạo trường kỳ.
Thượng Hội Đồng
Giám mục năm 1990 đã hướng những mối ưu tư và những suy nghĩ của mình vào vấn đề
gia tăng ơn gọi linh mục, vào việc đào tạo – sao cho các ứng sinh hiểu biết và
nối gót theo Chúa Giêsu đồng thời học tập cử hành và sống bí tích Truyền Chức
Thánh là bí tích làm cho họ nên đồng hình dạng với Chúa Kitô là Đầu và Mục Tử,
là Tôi Tớ và Phu Quân của Giáo Hội – và váo việc xác định những đường hướng đào
tạo trường kỳ thích hợp để nâng đỡ cách thiết thực và hữu hiệu chức vụ và đời
sống thiêng liêng của các linh mục.
Thượng Hội Đồng
Giám mục này cũng có ý giải quyết một yêu cầu của Thượng Hội Đồng trước về vấn
đề ơn gọi và sứ mệnh của người giáo dân trong Giáo Hội và trên thế giới. Chính
người giáo dân mong ước được các linh mục dấn thân đào tạo họ để giúp họ một
cách thỏa đáng trong việc thực thi sứ vụ chung của Giáo Hội. Thực ra, “hoạt động
tông đồ giáo dân càng phát triển, người ta càng cảm nhận một cách mãnh liệt nhu
cầu phải có những linh mục được đào tạo hẳn hoi, những linh mục thánh thiện. Bởi
đó, chính đời sống của Dân Thiên Chúa trở thành lời diễn giải cho giáo huấn của
Công đồng Vaticanô II về tương quan giữa chức tư tế công đồng với chức tư tế
thừa tác và phẩm trật. Thực vậy, trong mầu nhiệm Giáo Hội, phẩm trật mang tính
chất thừa tác (x. Lumen gentium, GH, số 10). Ơn gọi đặc thù của giáo dân
càng được đào sâu ý nghĩa thì những gì là đặc thù của linh mục càng hiển thiện
hơn” (6).
4.
Trong kinh nghiệm tiêu biểu về Giáo Hội
của Thượng Hội Đồng, nghĩa là “kinh nghiệm riêng biệt về sự hiệp thông giám mục
trong tinh thần phổ quát nhờ đó mà cảm thức về Giáo Hội phổ quát cũng như trách
nhiệm của các Giám mục đối với Giáo Hội phổ quát và đối với sứ vụ của Giáo Hội
được củng cố, trong mối hiệp thông thân ái và thiết thực chung quanh Thánh
Phêrô” (7), người ta đã nghe được tiếng nói minh bạch và thống thiết của nhiwuf
Giáo Hội địa phương và lần đầu tiên, trong Thượng Hội Đồng vừa qua, của một số
Giáo Hội Đông phương, các Giáo Hội ấy đã công bố niềm tin vào sự ứng nghiệm của
lời Thiên Chúa hứa: “Ta sẽ ban cho các ngươi những mục tử như lòng Ta mong ước”
(Gr 3.15). Các Giáo Hội đã canh tân công cuộc dấn thân mục vụ nhằm quan tâm đặc
biệt đến ơn gọi và nhằm đào tạo linh mục, với ý thức rằng tương lai của Giáo
Hội, sự phát triển và sứ mệnh cứu độ phổ quát của Giáo Hội tuỳ thuộc vào những
công việc này.
Giờ đây, với tư
cách là Giám mục Tôma và là Đấng kế vị thánh Phêrô, trong Tông Huấn sau Thượng
Hội Đồng Giám mục này, Tôi xin đóng góp thêm tiếng nói của Tôi vào trong nền
móng rất phong phú gồm những suy tư, những phương hướng và những chỉ dẫn đã dọn
đường cũng như đã hình thành các công trình của các Nghị Phụ Thượng Hội Đồng.
Tôi muốn ngỏ lời tâm huyết với mọi tín hữu và từng tín hữu, cách riêng với các
linh mục và với tất cả những ai đã dấn thân vào trách nhiệm tế nhị trong lãnh
vực đào tạo linh mục. Qua Tông Huấn này, Tôi mong mỏi được tiếp cận tất cả các
linh mục và mỗi một linh mục, triều hoặc dòng.
Tôi muốn vay mượn
tâm tình và lời lẽ của các Nghị Phụ Thượng Hội Đồng trong “Sứ điệp chung kết của
Thượng Hội Đồng gởi Dân Thiên Chúa : “Với đầy lòng tri ân và cảm phục, chúng tôi
hướng về các linh mục là những cộng tác viên đầu tiên của chúng tôi trong sứ vụ
tông đồ. Vai trò của anh em trong Giáo Hội thật là cần thiết và bất khả thay
thế. Chính anh em là những người đảm nhận gánh nặng của chức vụ và trực tiếp gần
gũi với giáo dân. Anh em là những thừa tác viên của bí tích Thánh Thể, những
người phân phát lượng từ bi của Thiên Chúa qua bí tích Thống Hối, những người an
ủi các tâm hồn và những hướng dẫn viên cho mọi tín hữu trong cơn lốc của cuộc
sống dẫy đầy khó khăn ngày hôm nay”.
“Chúng tôi hết lòng
chào đón anh em, chúng tôi bày tỏ với anh em tâm tình biết ơn của chúng tôi, và
chúng tôi khuyến khích anh em kiên tâm tiến bước trong niềm vui và lòng hăng
say. Đừng lùi bước trước sự chán nản. Công việc của chúng ta không phải là của
chúng ta nhưng là của Thiên Chúa”.
“Đấng đã kêu gọi
chúng ta và sai phái chúng ta vẫn luôn ở với chúng ta, hết mọi ngày trong đời
chúng ta. Quả vậy, chúng ta hoạt động là do được Chúa Kitô ủy thác” (8).
Còn tiếp
|
VỀ MỤC LỤC |
|
MỪNG NĂM THÁNH 2010, XEM LỊCH SỬ
TRUYỀN GIÁO VIỆT NAM (BÀI 12) THÀNH LẬP DÒNG MẾN THÁNH GIÁ NĂM
1670
|
Song song với những công việc truyền giáo, thiết lập và xây dựng
các giáo phận, đào tạo hàng giáo sỹ địa phương và phát triển các
hoạt động mục vụ, Hai Đức Cha Pallu và Lambert đã cùng với các
thừa sai khác thực hiện một công trình khác rất quan trọng cho
Giáo Hội Việt Nam. Đó là việc thành lập Dòng Nữ Mến Thánh Giá.
Việc thành lập dòng là một quyết định chung do các thừa sai lấy
trong Công Đồng Ayuthia 1664, và là một công trình tập thể được
các linh mục và giám mục góp phần suốt trong 350 năm qua. Nhưng
ý tưởng, sáng kiến khởi đầu và hành động tạo lập vào năm 1670 là
do Đức Cha Lambert.
1. Năm 1664, đưa ra một « Linh đạo tông đồ » và lập Hội tông đồ
« Những người mến thánh giá ».
Ngày 29/02/1664, Công Đồng Ayuthia đã khởi sự nhóm họp. Qua ba
bài 9, 10 và 11, chúng ta đã xem qua những điểm quan trọng cho
chương trình truyền giáo đã được các thừa sai quyết định trong
công đồng. Chúng ta cũng đã xem qua việc thực hiện hai quyết
định quan trọng : thành lập 17 giáo phận tông tòa tại Việt Nam
và thành lập chủng viện thánh Giuse tại Ayuthia đào tạo giáo sỹ
tiên khỏi cho các giáo phận Việt Nam. Hai quyết định quan trọng
khác cũng đã được lấy trong công đồng này : Việc soạn thảo « Một
linh đạo tông đồ » và lập hội tông đồ « Những người mến thánh
giá ».
Nhằm cải tiến lối sống không mấy tốt đẹp của các nhà truyền giáo
đang sống tại vùng Á Đông, giúp các thừa sai mới và sắp đến,
sống xứng hợp với lối sống khổ hạnh chân tu của vùng này và giúp
tăng hiệu quả truyền bá Tin Mừng, các nghị phụ Công Đồng Ayuthia
đã đưa ra một « Linh đạo tông đồ », theo đó, các thừa sai ở vùng
này được một ơn gọi khác thường thì phải có lối sống cũng khác
thường, nên :
- Các thừa sai phải từ bỏ hoàn toàn sự tự do xử dụng linh hồn
mình và các tài năng mình, từ bỏ cả sự vui thú xảy đến do các
thụ tạo hay do ơn siêu nhiên, hầu phó thác hoàn toàn cho Thánh
Linh hoạt động.
- Các thừa sai phải luôn luôn lắng nghe tiếng Chúa Thánh Linh.
- Các thừa sai phải bắt chuớc các nhà Sư Sãi ở Xiêm, không dùng
thuốc khi đau bệnh và không nằm trên giường nệm.
- Trừ ba ngày lễ Giáng Sinh, Phục Sinh, Hiện Xuống, còn trong
các ngày khác quanh năm : kiêng thịt và ăn chay mọi ngày, không
uống rượu.
(Đỗ
Quang Chính, SJ, Dòng Mến Thánh Giá những năm đầu, San Diego ‘
Montréal, (2007), tr. 31-32)
Cùng với việc đưa ra một Linh Đạo Tông Đồ, Công đồng Ayuthia đã
quyết định lập hội tông đồ Những Người Mến Thánh Giá, theo những
gợi ý quan trọng của Đức Cha Lambert.
Theo nhận định của cha Roland Jacques, O.M.I, thì « Hội Tông Đồ
sẽ phải là dòng khấn trọng nghiêm ngặt hơn hết chưa bao giờ có
trong Giáo Hội và khác biệt với mọi dòng khác. Hội tông đồ này
gồm ít là hai ngành khác nhau, chia ra ba loại thành viên khác.
Loại thứ nhất gồm các giám mục và các bề trên miền truyền
giáo, được kêu gọi khấn hứa một đời sống tông đồ khắc nghiệt hết
sức, tức là phải giữ đến cực độ ba lời khấn cả ở tòa trong và
phải sống khổ hạnh cũng đến cực độ. Loại thứ nhì là các
các thừa sai khác, gồm linh mục, tu huynh và giáo dân, mà luật
sống của họ khá giống với luật Dòng Tên, ít ra như người ta nghĩ
vào lúc ban đầu của Hội. Tất cả các thừa sai thuộc hai loại trên
phải sống cộng đoàn và khắc khổ nghiêm ngặt, phải thích nghi với
não trạng Á châu, điều mà Đức Cha Lambert đã nhận ra qua sự đạo
đức nơi các nhà tu Á châu. Loại thứ ba gồm các thành viên
bản địa cũng sống theo lý tưởng từ bỏ này. Trongloại thứ ba, ít
ra phải hình thành ngay một dòng nữ ». (Đỗ Quang Chính, Sđd, tr.
33-34)
Mục
đích của hội là vun trồng khắp nơi tình yêu thực sự đối với
thánh giá Con Thiên Chúa. Ai gia nhập hội thì giữ 6 điều sau :
-
Giảng dạy và theo con đường chật hẹp của Phúc Âm, và xa lánh con
đường rộng rãi.
-
Lãnh nhận các bí tích thường xuyên nhất có thể, tuy nhiên phải
vâng ý vị linh hướng mình.
-
Mỗi ngày phải làm nửa giờ suy niệm về cuộc đời đau khổ, sự
thương khó và tử nạn của Chúa Giêsu Kitô.
-
Mỗi ngày, vào ban chiều hay buổi tối, phải làm việc đánh tội
trong khi đọc kinh « Miserere ».
-
Vào ngày chúa nhật Lễ Lá cùng bốn ngày tiếp theo, phải làm gấp
đôi việc hãm mình đó, và vào ngày thứ sáu tuần thánh, phải làm
gấp ba lần, để tôn kính trọng thể cuộc Thương Khó và một cách
đặc biệt, ngày tử nạn của Con Thiên Chúa.
-
Phải tuân giữ đặc biệt là yêu thương kẻ thù địch mình.
Đức cha Lambert đã thuyết phục
được Đức cha Pallu và các thừa sai khác chấp nhận chương trình
này. Và trong công đồng Ayuthia, tất cả các vị hiện diện đều đã
tuyên khấn : «... Chúng
tôi tuyên hứa và thệ nguyện với Thiên Chúa rất tốt lành và rất
cao cả đức khó nghèo đời tu sĩ, đức khiết tịnh và đức vâng phục,
và nhất là điều được diễn tả qua ba lời khấn trên, nghĩa là sự
thanh thoát toàn vẹn của linh hồn cùng các năng lực của linh
hồn, từ bỏ tuyệt đối việc tự do xử dụng các năng lực tâm hồn
cũng như từ chối mọi niềm vui vẻ có thể đến từ một thụ tạo hay
ngay cả từ những ân huệ trên trời; sau cùng và theo Bên Trên sẽ
ban cho chúng tôi, một niềm vâng phục trọn vẹn theo sự soi sáng
và hướng dẫn của Chúa Thánh Thần.
«Chúng tôi cũng thề nguyền vâng lời hoàn toàn Đức Giáo Hoàng...
«Ngoài ra, chúng tôi tuyên hứa không tìm kiếm một bổng lộc nào,
một tước vị nào, một chức vụ thuộc bất kỳ loại nào, một cách
trực tiếp hay gián tiếp...».
(Đào Quang Toản, Mến Thánh Giá thế kỷ 17 : thành lập và tổ
chức ; 1998, ch.1)
Một
năm sau, tháng giêng 1665, đức cha Pallu lên đường trở lại Âu
Châu. Ngoài các mục đích khác, ngài còn phải đệ trình lên Toà
thánh để xin chuẩn nhận « Linh Đạo Tông Đồ » và việc thành lập
«Hội dòng tông đồ Những Người Mến Thánh Giá». Tới Roma vào tháng
tư năm 1667, đức cha Pallu trình bày với Thánh bộ Truyền Giáo về
tình hình chung của các vùng truyền giáo Á Đông, đặc biệt là
những vấn đề mà Công Đồng Ayuthia đã nêu ra, nhưng ngài chưa dám
đề cập đến Linh Đạo Tông Đồ và Hội tông đồ Những Người Mến Thánh
Giá, vì ngài đoán trước Thánh Bộ sẽ không chấp thuận. Sau đó,
tháng giêng 1668, Đức cha đến Paris, bàn việc với Ban Giám Đốc
Hội Thừa Sai Hải Ngoại Paris. Ngày 10/11/1668, đức cha trở lại
Roma trình bày với Thánh Bộ hai vấn đề cam go trên. Ngày
13.8.1669, Thánh bộ Truyền Giáo báo cho đức cha Pallu quyết định
của Thánh Bộ là bác bỏ « Linh Đạo Tông Đồ » và « Hội tông đồ
Những Người Mến Thánh Giá » và giải thệ các lời đã khấn ; Ngày 6
tháng chín sau đó, đức giáo hoàng Clément IX xác nhận quyết định
trên của Thánh bộ. Từ Roma trở lại Paris, đức cha Pallu thông
báo tin trên cho đức cha Lambert de la Motte qua lá thư đề ngày
6.12.1669.
Trong khi Đức cha Pallu bôn ba ở Âu Châu, thì trên cánh đồng
truyền giáo Á Đông Đức cha Lambert rất lạc quan. Tháng 10 năm
1667 ngài biên cho Đức cha Pallu một lá thơ loan báo dự tính của
ngài : «Từ ít
lâu nay tôi cứ toan tính viết cho đức cha, bàn tới ba việc phục
vụ lớn mà chúng ta có thể đem lại cho Giáo Hội tại vương quốc
này và ba việc ấy chắc sẽ được đón nhận tốt.
Việc thứ nhất là thành lập tại đây một chủng viện và một nhà
trường thường trực cho tất cả các quốc gia, có thể chứa được gần
một trăm người; đó là chuyện mà chúng ta đã đề đặt ra các điểm
căn bản rồi, trong hy vọng rằng Thiên Chúa sẽ ban cho được phát
triển khả đáng.
Việc thứ hai là thiết lập một cộng đoàn các thiếu nữ đồng trinh
; cộng đoàn này có thể sẽ cũng vậy và sẽ đông hơn cộng đoàn các
thày chủng sinh. Về chuyện này, chúng ta sẽ cần tới một hoặc hai
phụ nữ đức hạnh từ Pháp, có đặc ân về công tác này. Đi đường
biển để đến đây thì không là chuyện khó khăn lắm; các phụ nữ ấy
không được kém can đảm hơn các bà nước Bồ Đào Nha và Tây Ban
Nha. Các bà Bồ Đào Nha đi khắp miền Ấn Độ Dương, và các bà Tây
Ban Nha còn đi tới tận Phi Luật Tân.
Việc thứ ba là việc sẽ đem lại kết quả nhiều nhất dưới con mắt
của triều đình là việc tạo nên một bệnh viện cho các kẻ đau yếu,
và để điều hành bệnh viện thì cần hai người nhiệt tâm trong việc
phục vụ người nghèo. Hai người ấy nên hiểu vài sự trong khoa
giải phẫu và y học. Rồi ngay cả khi những sự giúp đỡ trên không
lấy gì làm khéo léo lắm, ở chốn này họ cũng được xem như những
kẻ xuất chúng rồi ».
(Đào Quang Toản, Sđd, ibid.)
Việc thứ hai mà đức cha nói ở đây, liên hệ đến việc thiết lập
một cộng đoàn các thiếu nữ đồng trinh, không hiểu đức cha chỉ
nghĩ đến việc lập cộng đoàn này ở Ayuthia, nước Xiêm, hay có
liên tưởng cả đến việc lập cộng đoàn này ở Đàng Ngoài và Đàng
Trong nữa ? Trong thực tế, đức cha đã chính thức thiết lập Dòng
Nữ Mến Thánh Giá đầu tiên vào ngày 19/02/1670, bằng cách nhận
lời hứa của hai dì Phaola và Inê tại Phố Hiến, Đàng Ngoài. Rồi
tháng 12 năm 1671 ngài đã lập Dòng Nữ Mến Thánh Giá ở An Chỉ,
Đàng Trong. Sau cùng, năm 1672, ngài đã lập Dòng Nữ Mến Thánh
Giá tại Ayuthia, nước Xiêm, gồm khoảng 4 hay 5 chị em, tất cả
đều là người gốc xứ Đàng Trong.
2. Năm
1670,
thành
lập
Dòng Mến Thánh Giá tại Đàng Ngoài
Năm
1666, cha Deydier đến Đàng Ngoài. Một năm sau, ngày 01.11.1667,
ngài đâ loan tin cho đưc cha Pallu và tháng giêng năm 1668 cho
đức cha Lambert về sự kiện « các thiếu nữ và một vài bà góa muốn
sống chung với nhau », « có nhiều người đã dâng hiến cho Thiên
Chúa đức đồng trinh của mình và một số đông các quả phụ trẻ tuổi
đã từ chối việc tái hôn lần thứ hai », « Con nghĩ rằng con có
thể quy tụ lại được gần ba chục chị em là những người chỉ ao ước
sống như thế », « hy vọng rằng Thiên Chúa ban cho chúng con
phương tiện để có thể tạo nên một thứ tu viện trong đó những chị
em này và nhiều chị em khác đủ mọi lứa tuổi có cùng lòng ao ước
như vậy, sẽ sống chung với nhau » . Có thể nói được rằng cha
Deydier đã chuẩn bị mọi sự sẵn sàng để có thể tiến đến việc lập
một dòng nữ.
Trong hai năm 1668 và 1669, bốn linh mục việt nam đầu tiên đã
được đức cha Lambert phong chức tại Ayuthia. Đó là các cha Giuse
Trang và Luca Bền thuộc địa phận Ðàng Trong. Cha Bênêđictô Hiền
và cha Gioan Huệ thuộc địa phận Ðàng Ngoài. Qua tin tức do hai
cha Bênêđictô Hiền và Gioan Huệ cho biết về tình hình phát triển
của giáo phận Ðàng Ngoài, Ðức cha Lambert nghĩ rằng đây là thời
gian thuận tiện để xem xét việc tổ chức giáo hội ở đây với những
đơn vị căn bản của nó : giáo hạt và giáo xứ, hầu xây dựng một
nền tảng vững chắc, hữu hiệu, thứ tự và an bình về tổ chức và
nguyên tắc mục vụ. Nghĩ như vậy, Ðức cha quyết định đi kinh lý
Ðàng Ngoài.
Ðược hai cha Jacques de Bourges và Gabriel Bouchard hộ tống, Ðức
cha Lambert lấy tầu khởi hành ngày 23/07/1669. Ngày 30.8.1669,
Đức cha Lambert đến Đàng Ngoài bằng tầu buôn của ông Junet người
Pháp, gốc miền Bourguignon. Ngài ở lại đây được sáu tháng. Ngày
19.02.1670, thuyền rời bến cảng và ngày 14.03.1670, thuyền của
ngài ra khơi về Xiêm.
Trong thời gian kinh lý Dàng Ngoài này, đức cha Lambert đã làm
được bốn việc quan trọng : 1- Chứng kiến tận nơi đời sống đức
tin của giáo dân việt nam và ban bí tích thêm sức cho họ ; 2-
Truyền chức 7 tân linh mục, ban các chức nhỏ cho 20 thầy giảng
hạng thứ và ban phép cắt tóc cho khoảng 20 chủng sinh trẻ hơn ;
3- Họp Công Đồng Phố Hiến đặt nền tảng sinh hoạt và cơ cấu tổ
chức giáo phận Đàng Ngoài ; 4- Lập dòng nữ Mến Thánh Giá.
Ngày 14/02/1670, Công Đồng Phố Hiến đã khởi họp, dưới sự chủ tọa
của Đức cha Lambert, với sự tham dự của 12 linh mục, trong đó có
3 thừa sai François Deydier, Jacques de Bourges, Gabriel
Bouchard và 9 linh mục Việt Nam : Bentô Văn Hiền, Gioan Văn Huê,
Martinô Mát, Antôn Văn Quế, Philipphê Văn Nhân, Simong Kiên,
Giacôbê Văn Chiêu, Vitô Văn Trí, Lêông Văn Trông. Một bản văn
công đồng đã được ký chung gồm 34 khoản, quy định các chức năng,
kỷ luật, việc tổ chức và điều hành Giáo Hội địa phương. Văn bản
được gửi sang Toà thánh Roma để xin phê chuẩn. Toà thánh, sau
khi duyệt xét và thêm bớt một số chi tiết, rút lại còn 33 khoản,
đã chuẩn nhận ngày 23.12.1673.
Trong bản văn Công Đồng Phố Hiến đã được chuẩn nhận này, vẫn còn
2 khoản liên quan tới «dòng Mến Thánh Giá». Rõ rệt Công Đồng Phố
Hiến đã quan tâm đến việc tổ chức Dòng Mến Thánh Giá.
Khoản 18 viết : « Những vị cai quản trên đây (các Thầy cả) cũng
phải săn sóc không ít đối với các trinh nữ và các quả phụ, là
những người đã tự ý lựa chọn giữ tiết dục, hiến mình phụng sự
Đức Chúa Trời và sống chung với nhau.
Khoản 21 viết : «Các vị cai quản (thầy cả), các Thày giảng và
các vị Trùm trưởng phải khuyên bổn đạo để họ theo đuổi, giữ đời
sống nhiệm nhặt và con đường bé nhỏ của Phúc Âm, nhắn nhủ họ làm
việc suy ngắm công khai trong nhà thờ ít là vào những ngày lễ,
nhất là suy ngắm trong nhà thờ về những mầu nhiệm quan trọng
nhất của đức tin chúng ta ».
Ngày thứ tư lễ Tro, 19/02/1670, Đức cha Lambert đã chính thức
khai sinh Dòng Mến Thánh Giá tại giáo phận Đàng Ngoài. Đức cha
đã hiện diện trong lễ « tận hiến » của hai nữ tu Mến Thánh Giá
việt nam đầu tiên. Đó là dì Phaola và dì Anê. Lễ tận hiến này,
cũng giống như Công Đồng Phố Hiến, có lẽ đã được tổ chức trên
tầu Pháp, trong khu vực Phố Hiến.
Mấy
ngày trước khi các dì khấn, tại Phố hiến, đức cha đã biên cho
các dì một lá thơ, nói tới việc gởi cho các dì một bản « Những
điều lệ nhỏ », mà ngài đã soạn từ lâu, để giúp các dì sống. Bản
« Những điều lệ nhỏ » này chính là bản hiến chương « Luật Tiên
Khởi Dòng Nữ Mến Thánh Giá Chúa Giêsu Kitô », gồm năm chương :
Giáo đầu, Mục đích, Các nhiệm vụ của Tu hội, Quy tắc (14 điều),
Kết luận.
Dự
lễ khấn xong, đức cha theo tầu Pháp rời Phố Hiến, trở về
Ayuthia. Nhưng tới cửa khẩu, gặp gió to bão lớn, tầu không ra
khơi được, phải đợi lại ở đây đến ngày 14/03/1670, mới giong
buồm ra biển về Ayuthia được. Trong những ngày chờ đợi này, đức
cha đã biên thơ nhắn nhủ hai dì Phaola và Anê.
Bức
thư đặc biệt nhắc đến tinh thần tu đức cốt lõi của Dòng Mến
Thánh Giá : « chúng
con không còn thuộc về mình nữa, song hoàn toàn thuộc về Chúa
Giêsu Kitô. Chúng con đã tận hiến mình cho Người, hầu từ nay trở
đi chỉ còn chuyên cần lo hiểu biết Người và yêu mến Người, bằng
sự nguyện ngắm và bắt chước đời sống đau khổ của Người và bằng
cách tuân giữ những nghĩa vụ của Hội dòng chúng con…. chúng con
thấy đó sự cao sang của ơn gọi chúng con và chúng con đã chết
cho thế gian; nghĩa là chết cho các giác quan, bản tính và lý
trí con người, để từ nay chỉ còn sống theo những lời dạy, những
việc làm và cuộc đời Chúa Giêsu Kitô »
Bức
thư cũng nhắc nhớ các chị lo lắng huấn luyện các tập sinh và cầu
nguyện cho những kẻ ngoại và những kytô hữu bê bối được ơn trở
lại ; « Cha cũng dặn dò chúng con một cách riêng phải vô cùng
lo lắng cho các chị em tập sinh của chúng con mà chúng con phải
xem họ như những của thánh mà Thiên Chúa đã đặt để trong bàn tay
chúng con. Chúng con hãy nhớ thường xuyên dạy bảo họ mục đích
chính của Hội dòng chúng con là tiếp tục đời sống đau khổ của
Chúa Giêsu Kitô nơi họ và hằng ngày xin Người, qua những lời
nguyện, nước mắt, công việc, hy sinh của chúng con, ơn trở lại
cho những kẻ ngoại đạo và những Kitô hữu bê bối ». (Đào
Quang Toản, Sđd, chương ba)
Theo lời thơ này, chúng ta có thể hiểu được rằng vào năm 1670
này, ở Đàng Ngoài đã có một vài địa điểm mà các chị quy tụ sống
chung với nhau, mà hai dì Phaola và Inê là bề trên. Nhưng không
có tư liệu nào ghi rõ rệt. Ngày nay, người ta tạm cho là ở Kiên
Lao và Bái Vàng. (Đỗ Quang Chính, Sđd, tr. 93).
3. Dòng Mến Thánh Giá phát triển
Từ
cuối tháng 8/1671 đến tháng 3/1672, Ðức cha Lambert đi kinh lý
Đàng Trong lần thứ nhất. Trong khoảng thời gian này, vào tháng
12 năm 1671, ngài đã lập Hội Dòng Mến Thánh Giá ở An Chỉ, Quảng
Ngãi. Nhà dòng gồm 10 chị, sống chung trong cùng một cộng đoàn
trong ngôi nhà và vườn do bà Luxia Kỳ dâng cúng. Họ có một chị
bề trên mà họ yêu mến và hoàn toàn tôn trọng. Họ có một lòng tin
tưởng và vâng phục trọn hảo nơi vị linh hướng của họ. Luật dòng
của họ hoàn toàn giống với luật dòng Mến Thánh Giá Đàng Ngoài.
Cuối tháng 3/1672, ngài trở về Thái Lan. Ngài đã thực hiện một
số công việc quan trọng, trong đó có việc thành lập Hội Dòng Mến
Thánh Giá tại Ayuthia vào khoảng cuối năm 1672, với bản luật như
ở Việt Nam.
Trong chuyến kinh lý Đàng Trong lần thứ II, từ 06/08/1675 đến
22/04/1676, đức cha đã được một niềm vui lớn. Trong thơ gởi cho
đức cha François de Laval, ngài viết :
«Ngày 14.11.1676- Tháng
năm vừa qua, tôi đã trở về từ xứ Đàng Trong thương mến của tôi,
nơi tôi đã đi thăm tất cả các tín hữu trong nhiều tỉnh hạt, với
một niềm vui khó tả được.
Tôi đã thăm một cộng đoàn các chị em đồng trinh là những kẻ đang
đến cùng Thiên Chúa với cung cách cao cả và họ cần chúng tôi đặt
hạn mức cho lòng sốt sắng của họ».
Và cho bà công tước Longueville ở
Pháp, ngài viết : « Xiêm
La ngày 16.11.1676 - Bà Bá Tước sẽ được vui mừng khi tôi cho tin
bà hay rằng cộng đoàn các chị em đồng trinh mà chúng tôi có được
ở xứ ấy là những tâm hồn ưu tú, họ mang danh hiệu Chị em Mến
Thánh Giá đấng Cứu Thế, là Đấng mà họ cố gắng bắt chước đời sống
và những đau khổ của Người».
(Đào Quang Toản, Sđd, chương năm)
Dòng Mến Thánh Giá phát triển và tăng trưởng không ngừng. Nhưng
lịch sử hình thành và phát triển của Hội Dòng cho thấy rằng các
nữ tu Mến Thánh Gía Việt-nam đã trải qua một đêm dài khủng khiếp
– từ những năm cuối thế kỷ 17 đến những năm đầu thế kỷ 20 – với
biết bao thử thách nội bộ, như không được giáo quyền nhiều nơi
công nhận và nâng đỡ và những thử thách khách quan, đó là các
cuộc bách hại đạo đã làm đổ máu của biết bao nhiêu chị em Mến
Thánh Giá.
Có
thể nói, chỉ từ sau ngày Bộ Giáo Luật được ĐGH Bê-nê-đi-tô XV
ban hành vào năm 1917, Dòng MTG Việt-nam mới bắt đầu có được một
vị trí xứng hợp, khi các chị em được chính thức công nhận là nữ
tu mặc dầu chỉ có lời khấn đơn và sống giữa lòng xã hội, vì
trước đó họ chỉ được coi là những phụ nữ thuộc hội đạo đức mà
thôi.
Rồi
trải qua những cải tổ, cải cách – đặc biệt là cuộc cải tổ được
Đức Cha Louis de Cooman (Hành) cho thực hiện với Hội Dòng MTG
Phát-Diệm dẫn đến việc 61 chị em Mến Thánh Giá đầu tiên được
tuyên khấn tạm, ngày 02/02/1925 với ba lời khấn: khó nghèo,
khiết tịnh và vâng phục; hay cuộc cải tổ do Đức Cha Phan-xi-cô
Chaize (Thịnh) cho thực hiện với Hội Dòng MTG Hà-nội từ năm
1938, dẫn đến lớp khấn đầu tiên vào ngày 02/02/1941 – Dòng MTG
Việt-nam dần dần đi vào nề nếp qui củ. Nhiều Hội Dòng MTG được
chính thức thành lập trên cả 3 miền đất nước, nghĩa là qua những
cuộc cải tổ để có nghi thức khấn tạm và vĩnh viễn cũng như có
qui định về tu phục.
Sau
công Đồng Vatican II, một luồng gió canh tân đang hướng dẫn dòng
Mến Thánh Giá trở về nguồn, về với nguyên hứng ban đầu của Đấng
Sáng lập. Năm 1970, một lể kỷ niệm Đệ Tam Bách Chu niên thành
lập Dòng Mến Thánh Giá của 14 hội dòng Mến Thánh Giá miền Nam từ
vĩ tuyến 17 trở vào đã được tổ chức tại tại tu viện Mến Thánh
Giá Chợ Quán, là một sự kiện mang ý nghĩa lớn. Dịp này, một bản
dự thảo Hiến Pháp in ronéo cho dòng Mến Thánh Giá của cha Luca
Huy được đề nghị ra để tham khảo, và việc thành lập « Học viện
liên dòng Mến Thánh Giá » cũng được Đại Hội biểu quyết.
Trong những năm đầu thập niên 80, nhờ sự quan tâm của cha Vương
Đình Khởi và nỗi thao thức mục tử nơi Đức Tổng Giám Mục Nguyễn
Văn Bình, một « Nhóm Nghiên Cứu Linh Đạo Dòng Mến Thánh Giá
thành phố Hồ Chí Minh » đã được thành lập với phiên họp đầu tiên
diễn ra ngày 25/08/1985. Cha Vương Đình Khởi được Đức Tổng Giám
Mục định vị là « cố vấn của Nhóm ». Các thành viên trong Nhóm
gồm cha cố vấn và 14 nữ tu trong 7 hội dòng tại thành phố,
thường là chị tổng phụ trách và chị thư ký. Ban chỉ đạo gồm có
cha cố vấn, chị tổng phụ trách Chợ Quán, chị tổng phụ trách Gò
Vấp và chị tổng phụ trách Thủ Thiêm.
Sau
khi thành lập, Nhóm khẩn trương bắt tay vào việc ngay, qua ba
giai đoạn :
Giai đoạn 1 : Soạn tiểu sử Đấng Sáng Lập và linh đạo (1985-1987)
Giai đoạn 2 : Soạn thảo Hiến Chương (1987-1990)
Giai đoạn 3 : 1990-1993 : tổ chức những khóa bồi dưỡng và thực
hiện được ba tiểu phẩm :
-
Soạn quyển Nghi thức Dòng Mến Thánh Giá (1991).
-
Soạn quyển Giải thích phần Linh đạo của Hiến Chương (1993).
-
Soạn Quy chế Mến Thánh Giá tại thế (1995)
Năm
1998, Nhóm Nghiên Cứu cho tái bản « Tập tiểu sử và bút tích Đức
Cha Lambert de la Motte ». Và trong hai năm 1998-1999, Nhóm soạn
thảo lại và bổ sung quyển Hiến Chương năm 1990. Ngày 02 tháng 02
năm 2000, Đức Tổng Giám Mục Phạm Minh Mẫn, đã chính thức phê
chuẩn Hiến Chương cho 7 hội dòng Mến Thánh Giá có nhà mẹ trong
tổng giáo phận. Hiện nay có hội dòng Mến Thánh Giá Los Angeles
(Hoa Kỳ) và 19/23 hội dòng Mến Thánh Giá tại Việt Nam đón nhận
Hiến Chương này.
Hướng về tương lai gần và xa, Nhóm Nghiên Cứu cưu mang ba dự
án :
1.
Soạn quyển lịch sử Dòng Mến Thánh Giá Việt Nam, điều mà Nhóm ôm
ấp từ lâu nhưng chưa thực hiện được.
2.
Hình thành một Học viện Liên Hội Dòng Mến Thánh Giá. Trong tinh
thần chuẩn bị, hiện đang có một lớp Bồi dưỡng Thần học Liên Hội
Dòng Mến Thánh Giá, kết hợp với khối Thần học Dòng nữ của Liên
Tu sĩ thành phố.
3.
Lập Liên Hiệp Dòng Mến Thánh Giá, bắt đầu cho tổng giáo phận
thành phố Hồ Chí Minh và khi thuận tiện cho toàn quốc.
(Đào Quang Toản, Những cải cách trong lịch sử dòng Mến Thánh
Giá,
http://pagesperso-orange.fr/daoquangtoan/articlesPJD/NhungCaicach.htm)
Thống kê năm 2003 cho thấy: 23 Hội Dòng Mến Thánh Giá tại Việt
Nam, một Hội Dòng Mến Thánh Giá gốc Việt tại Hoa Kỳ, ba Hội Dòng
Mến Thánh Giá Thái Lan và một Hội Dòng Mến Thánh Giá Lào có tổng
số thành viên khoảng 5.500 nữ tu, gồm các Tập Sinh và Khấn Sinh,
trong đó số nữ tu người Việt nam chiếm đa số.
Hiện nay, trên toàn cõi Việt-nam, có 23 Hội Dòng, phục vụ trong
16 giáo phận. Các giáo phận không có Dòng MTG là Bắc-ninh,
Lạng-sơn, Hải-phòng và Thái-bình trong Tổng giáo phận Hà-nội;
Kon-tum, Đà-nẵng và Ban-mê-thuột trong Tổng giáo phận Huế;
Long-xuyên và Phú-cường trong Tổng giáo phận Tp.HCM. Cuối năm
2004, tổng số Nữ tu khấn trọn là 3.092 chị và khấn tạm là 1.428
chị.
LỜI KÊT
Ðể
kết luận bài biên khảo nhỏ này, có lẽ không gì chính đáng bằng
lặp lại lời của một linh mục việt nam, cha Nguyễn Hữu An, mới
đây đã viết về Ðức Cha Lambert như sau : « Cùng với Đức Cha
Francois Fallu, Đức Cha Lambert là một trong hai vị Giám Mục Đại
Diện Tông Tòa đầu tiên sang truyền giáo tại Việt Nam, và coi sóc
chương trình truyền giáo Viễn Đông vào thế kỷ 17. Ngài chính là
người Cha tinh thần của Giáo Hội Việt Nam thời sơ khai, một vị
thừa sai lỗi lạc với óc tổ chức kỳ tài và tầm nhìn hiểu rộng,
với tinh thần hội nhập và thích ứng vào văn hóa địa phương. Ngài
thực hiện ước vọng của cha Đắc Lộ, trong việc đào tạo các linh
mục bản xứ làm nền tảng cho hàng Giáo Phẩm Việt Nam sau này.
Ngài đã không bỏ lỡ cơ hội để quy tụ một nhóm trinh nữ đã bắt
đầu sống đời độc thân vì Nước Trời, để lập nên tu hội nữ đầu
tiên mang tên “Những người nữ yêu mến Thánh Giá”. Cùng với Giáo
hội trải qua hơn ba thế kỷ với những thăng trầm và thử luyện, tu
hội của “Những người nữ Yêu mến Thánh Giá” ngày nay chính là
Dòng Mến Thánh Giá, một dòng tu mang bản chất Á Châu để phục vụ
cho dân tộc và Giáo Hội Việt Nam do Đức Cha Lambert sáng lập.
Đức
Cha Lambert de la Motte là một anh hùng, hay nói cách khác, một
đấng thánh chưa được tôn phong. Ngài là vị đại ân nhân của dân
tộc và Giáo Hội Việt Nam mà mới đây, trong kỳ họp thường niên
của Hội Đồng Giám Mục Việt Nam từ ngày 5-9 tháng 9 năm 2005 tại
Bãi Dâu, Vũng Tàu, đã bàn về những bước tiến trong thủ tục xin
phong Chân Phước cho ngài ».
(
LM. Nguyễn Hữu An, HAI MƯƠI LĂM NĂM HỒNG ÂN: HỘI DÒNG MẾN THÁNH
GIÁ PHAN THIẾT, trong VietCatholic News (Thứ Sáu 14/03/2008
11:19)
http://vietcatholic.net/News/Html/53086.htm)
Paris, ngày 25 tháng 03 năm 2010
Gs.
Trần Văn Cảnh |
VỀ MỤC LỤC |
|
GIÁO HỘI CỦA ĐỨC KYTÔ TỬ NẠN VÀ PHỤC SINH LÀ GIÁO HỘI CỦA NGƯỜI
NGHÈO |
Thật không dễ để chúng ta rao
giảng một Đức Ky Tô là Thiên Chúa. Và càng không dễ để chúng ta
rao giảng một Đức Ky Tô là Thiên Chúa đã phục sinh.
Khi Philatô hỏi Chúa: “Ông có phải
là vua dân Do Thái không ?” Chúa đáp: “Quan nói đúng. Tôi là vua.
Nhưng nước tôi không thuộc về thế gian nầy. Nếu nước tôi thuộc
về thế gian nầy thì những người của tôi đã chiến đấu để tôi
không bị nộp cho người Do Thái. Nhưng nước tôi không thuộc về
thế gian nầy.”
Cũng chính vì những lời nầy mà
người Do Thái đã lên án Chúa. Họ đã lên án Chúa vì cho rằng Chúa
đã nói những lời phạm thượng. Họ đã lên án Chúa vì cho rằng Ngài
là một con người mà dám xưng mình là Con Thiên chúa. Họ đã lên
án Chúa vì quan niệm về Thiên Chúa của họ vẫn còn là Chúa của
thời Cựu ước. Họ đã lên án Chúa vì họ nghĩ rằng Chúa của họ là
một Thiên Chúa đầy uy nghi, thánh thiện, cao sang ngự mãi trên
chín tầng mây.
Thật vậy, con người dễ dàng chấp
nhận một Thiên Chúa là Thiên Chúa đầy oai hùng và quyền năng,
một Thiên Chúa ngự đến giữa tiếng sấm sét rền vang như Ngài đã
ngự đến trên núi Sinai khi Ngài ban cho Maisen mười giới răn của
Chúa, hay một Thiên Chúa quyền năng có thể sai sứ thần giết sạch
tất cả những đứa con đầu lòng của người Aicập để trừng phạt tội
cứng đầu của vua Pharaon, hay một Thiên Chúa ra cánh tay oai
hùng chôn vùi cả hàng vạn quân của người Aicập dưới lòng Biển Đỏ
để cứu dân Ngài khỏi ách nô lệ của người Aicập. Và chúng ta dễ
dàng chấp nhận một Thiên Chúa như thế.
Nhưng thật khó cho chúng ta để
chấp nhận một Thiên Chúa là một trẻ sơ sinh nằm khóc oa oa trong
máng cỏ. Thật khó cho chúng ta để chấp nhận một Thiên Chúa là
một con người tầm thường, nghèo hèn sống cuộc đời ẩn dật ở làng
Nazareth.
Càng khó cho chúng ta để chấp nhận
một Thiên Chúa lại là một con người đã từng quì gối xuống rửa
chân cho các môn đệ. Và càng khó cho chúng ta biết bao để chấp
nhận một Thiên Chúa là một con người đã từng bị người đời nguyền
rủa, sỉ nhục, lên án, từng vác thập giá lên đỉnh đồi Calvê để
chịu chết và chết một cách nhục hình trên thập giá như một tên
tử tội. Quả thật, không dễ để chúng ta chấp nhận một Thiên Chúa
như vậy. Bỡi lẽ, có ai trong chúng ta có thể nghĩ ra rằng vinh
quang đến từ thập giá không?
Có ai trong chúng ta có thể nghĩ
ra rằng Thiên chúa chỉ thống trị từ lúc bị treo lên không?
Có ai trong chúng ta có thể nghĩ
ra rằng sự sống chỉ đựơc phát sinh từ cái chết của Đức KiTô
không ?
Chắc chắn không ai trong chúng ta
đã nghĩ ra những điều đó, bỡi lẽ những điều đó quá nghịch lý,
quá phi lý đối với lý trí của con người. Và để chấp nhận được
những điều nghịch lý đó, nó đòi hỏi chúng ta một cái gì khác hơn
là lý luận. Nó đòi hỏi một NIỀM TIN. Vì thế, tôi xin nói với ông
bà anh chị em: Tôn giáo không là để tranh luận nhưng là để TIN
và để SỐNG.
Nói đến đây tôi nhớ đến câu chuyện
đã được nghe kể trong chuyến du hành sang Thổ Nhĩ Kỳ, một quốc
gia mà chín mươi chín phần trăm dân số là Hồi Giáo. Câu chuyện
nói về một nhà truyền giáo tình nguyện sang truyền giáo ở vùng
Arập.
Arập cũng là một vùng đất mà Hồi
giáo là quốc giáo và đa số họ là những người có tinh thần tôn
giáo quá khích. Vì thế, trong những nước như vậy, Ky Tô giáo rất
khó truyền bá. Nhưng vốn là một con người có bản tính hiền hòa,
cởi mở và đạo đức, nên nhà truyền giáo ấy sau một thời gian đã
chiếm được cảm tình rất nhiều người chung quanh mà ông đã từng
có dịp gặp gỡ, trong số đó có cả vị thủ tướng của Ảrập. Một hôm,
thủ tướng Arập mời vị truyền giáo ấy đến nhà dùng bữa cơm tối để
có dịp hàn huyên chuyện trò. Trong buổi chuyện trò hai người
cũng đã chia sẻ với nhau về tâm tình tôn giáo. Bấy giờ, nhà
truyền giáo ấy mới thưa với vị thủ tướng rằng:
Chúng tôi tin có ba cách thức
Thiên Chúa muốn mặc khải cho chúng ta về chính Ngài:
- Qua tự nhiên: Nhìn vũ trụ vạn
vật chúng ta nhận biết có Thiên Chúa vì phải có một Đấng đã tạo
thành ra nó.
Vị thủ tướng đáp: Chúng tôi cũng
tin như vậy.
- Qua Thánh kinh: Thiên Chúa cũng
đã mặc khải cho chúng ta về chính Ngài qua Thánh Kinh, Lời của
Ngài. Tất cả đều đã được mặc khải trong Thánh Kinh.
Vị thủ tướng đáp: Chúng tôi cũng
có Kinh Thánh Koran
- Qua Đức KyTô: Thiên Chúa mặc
khải về chính Ngài trong Đức KyTô. Ngài chính là hình ảnh của
Thiên Chúa. Ngài đã sinh ra, đã sống và đã chết cho dân Ngài.
Vị thủ tướng đáp: Chúng tôi cũng
có vị tiên tri Mohamet. Ngài cũng dạy cho chúng tôi biết về
Thiên Chúa. Ngài cũng đã sinh ra, đã sống và đã chết cho dân
Ngài.
Bấy giờ nhà truyền giáo nói tiếp:
Nhưng Đức KyTô đã chết và đã phục sinh để cứu dân Ngài khỏi chết.
Chúng tôi tin điều đó và chúng tôi muốn ra đi loan báo Tin Mừng
Phục Sinh đó cho tất cả mọi người trên khắp tận cùng trái đất.
Nghe đến đây vị thủ tướng mới yên
lặng, trầm ngâm suy nghĩ một hồi lâu, rồi ngẩng mặt lên nhìn nhà
truyền giáo một cách kính phục và nói:
- Vâng, vị tiên tri Mohamet của
chúng tôi cũng đã sống và đã chết cho dân Ngài. Nhưng cái gì đã
xảy ra sau cái chết của Ngài, chúng tôi hoàn toàn không biết.
Cũng từ đó vị thủ tướng đã có một
cái nhìn cũng như một thái độ xem ra có vẻ thân thiện hơn trước
nhiều đối với người Kitô giáo và đặc biệt đối với nhà truyền
giáo ấy.
Kính thưa quí ông bà anh chị em,
đây mới chính là sự khác biệt giữa Đức KyTô và vị tiên tri
Mohamet. Đây mới chính là sự khác biệt giữa Thiên chúa và con
người. Và đây cũng chính là sự khác biệt giữa Thiên Chúa chúng
ta và các thần minh khác. Đây mới chính là niềm hy vọng của
chúng ta vì ích gì cho chúng ta nếu chúng ta tin vào một Đức
KyTô đã chết mà không phục sinh.
Vâng, Đức KyTô đã đến, đã sinh ra,
đã sống một kiếp sống lầm than, đã chết một cái chết nhục hình
trên thập giá và đã phục sinh một cách khải hoàn để mang lại cho
con người sự sống vĩnh cửu.
Đức KyTô đã đến 2000 năm rồi và
chúng ta đã bước sang một thiên niên kỷ mới. Đã 2000 năm rồi,
thế mà trong giáo hội vẫn còn có nhiều người còn ước mong một
giáo hội oai hùng với đầy quyền bính và giàu sang, chứ không
phải là giáo hội của Đức KyTô nghèo hèn, phục vụ và phục vụ cho
đến chết và chết trên thập giá vì con người.
Không, không, chúng ta đã hiểu sai
bộ mặt của Đức KyTô cũng như bộ mặt của giáo hội. Do đó, chúng
ta đã đi đến chỗ chèn ép, tranh dành địa vị trong giáo hội hơn
là phục vụ. Chúng ta vẫn còn sống mãi trong thời cựu ước. Chúng
ta vẫn còn mơ ước xây những tòa nhà nguy nga lộng lẫy cho Thiên
Chúa và cho chính mình, và rồi chúng ta nghĩ rằng giáo hội như
thế là phát triển. Chúng ta không nghĩ ra rằng Thiên Chúa đâu có
thích ở nơi những cung điện nguy nga đó trong khi dân của Ngài
phải sống trong cảnh lầm than, ăn không đủ no, mặc không đủ ấm.
Chúng ta cũng không nghĩ ra rằng Thiên Chúa đâu có cần chúng ta
xây dựng cho Ngài những thánh đường huy hoàng tráng lệ bên ngoài
đó, mà chỉ muốn chúng ta xây dựng lại niềm tin của dân
chúng vào chúng ta trong trái tim họ, trong tâm hồn họ. Và đó
cũng là cách thế TRUYỀN GIÁO TỐT NHẤT, cách thế MỤC VỤ
TỐT NHẤT mà chúng ta cần phải nghĩ đến. Giữa lúc mọi
người sống trong bơ vơ, sống trong khủng hoảng, sống trong thất
vọng, tại sao chúng ta không mang lại cho họ một niềm tin mạnh
mẽ vào sức mạnh của Tình Yêu, của Tình Người, của Chân
Thiện Mỹ. Tại sao chúng ta không dám đề cao cái Chân Lý, cái
Thiện Hảo để làm thức tỉnh lương tâm con người, để xây dựng cho
con người một xã hội công bình và hạnh phúc.
Hãy nhớ rằng Đạo Công Giáo
là một đạo Nhập Thế, nghĩa là Đạo ấy phải đi vào thế gìới, phải
phục vụ thế giới, phải ảnh hưởng thế gìới, và phải cải thiện bộ
mặt thế gìới bằng chính Đời Sống Chứng Nhân của mình, nếu không
nó Vô Nghĩa.
Chúng ta cũng thường hay nghe nói:
“Giáo hội Ở GIỮA lòng dân tộc và giáo hội luôn ĐỒNG
HÀNH với dân tộc”. Những từ ngữ nghe ra thật tuyệt vời và
đánh động biết bao, nhưng thật ra giáo hội có đồng hành với dân
tôc mình không? Vì ĐỒNG HÀNH có nghĩa là gì nếu không
phải là cùng đi, cùng sống, cùng cảm nghiệm, cùng băn khoăn,
cùng khoắc khoải, cùng ưu tư, cùng lo lắng, cùng chia xẻ nỗi vui,
nỗi buồn với người cùng sống. ĐỒNG HÀNH không có nghĩa là
đường anh, anh đi, và đường tôi, tôi đi. Hai người cùng đi nhưng
không bao giờ gặp nhau, giống như hai đường song song không bao
giờ gặp nhau.
Từ đó, chúng ta có thể nói
rằng giáo hội có Ở GIỮA lòng dân tộc, có SONG HÀNH chứ không có
ĐỒNG HÀNH với dân tộc mình. Và như vậy, giáo hội đó có phải là
giáo hội của CHÚA KITÔ TỬ NẠN VÀ PHỤC SINH không? hay là một
giáo hội đã Biến Thái nào khác? Xem ra giáo hội chúng ta vẫn còn
ở mãi thời Cựu Ước, vẫn chưa trưởng thành và phát triển được
nhất là tại vùng đất Á Châu nầy.
Ước gì mầu nhiệm tử nạn và phục
sinh của Đức KyTô trong mùa phục sinh nầy thấm nhập và đổi mới
mỗi người chúng ta, để như nhà truyền giáo kia, chúng ta sẽ dùng
chính cuộc sống đạo đức chân thành của chúng ta ra đi loan báo
TIN MỪNG PHỤC SINH của Đấng đã chết và sống lại vì con người
chúng ta.
Lm. Lê văn Quảng |
VỀ MỤC LỤC |
|
“NĂM LINH MỤC”
ĐI TÌM CĂN TÍNH THẬT CỦA LINH MỤC (I) |
L.M. ĐƯỜNG THI
Những bài bình luận, những
buổi Hội thảo để tìm hiểu CĂN TÍNH hay Căn Cước..của
“hiện tượng Linh Mục”.. thì rất nhiều. Đối với giới
truyền thông, sách báo Công giáo những câu hỏi như: Linh Mục
là ai? vẫn thường được nêu ra. Những tiều thuyết lãng mạn
như: tóc mây, .hay phim điện ảnh ..càng tô vẽ hình ảnh và
vai trò linh muc thêm thê thảm, cô đơn, đáng thương hại.
Trong thực tế, nhất là
những năm gần đây, gương xấu “lạm dụng tính dục trẻ em ”,
trong giới giáo sĩ tại Hoa kỳ, Á nhĩ lan, Phi châu... đã làm lu
mờ hình ảnh thánh thiện, cao quí của chức vị linh mục. Ngoài ra,
cuộc khủng hoảng về sa sút Ơn Gọi “tận hiến” trong đời sống tu
trì đang là mối lo ngại, và thách đố hàng đầu trong Hội Thánh
toàn cầu.
Các vị lãnh đạo trong Hội
Thánh như Công Đồng Vatican II, Tòa Thánh Roma và các Hội Đồng
Giám Mục các quốc gia, các Giáo Phận địa phương..đã đề nghị
nhiều biện pháp về việc huấn luyện, đường hướng tu đức để cổ
động và củng cố Ơn Thiên Triệu linh mục được bền vững hơn.
Những tài liệu quan trọng
của Cộng Đồng Chung Lateran(năm lần họp: năm 1123,
năm1139, năm 1179, năm1215, năm1512-17),Công Đồng Vatican(
hai lần họp( I năm 1869, và II năm 1962-1965), với “Sắc
Lệnh về Chức Vụ và Đời Sống của các vị Trưởng Thượng, Trưởng
Lão( Linh Mục)”Presbyterorum Ordinis”. Thông
điệp gần đây của ĐGH Gioan Phaolô II như: “Pastores
Dabo Vobis”, chuyên chú về huấn luyện các ứng
sinh chịu chức Linh Mục, cần phải được nghiên cứu, học hỏi cho
thấu đáo. Nhưng nếu muốn hiểu rõ hơn về CĂN TÍNH(identity)
hay yếu tính của chức Tư Tế Linh Mục, thì cần phải suy luận, và
tìm hiểu cách diễn giảng của Thánh Phao Lô Tông Đổ, trong bức
Thư gửi Người Do Thái. Thánh Nhân đã bàn luận về
phương diện thần học, yếu tính chức Tư Tế Thượng Phẩm
của Chúa Cứu Thế, làm nền tảng cho việc Chúa thiết lập
chức Tư Tế của các Tông Đồ, và các vị nối quyền các Tông Đồ là
hàng Giám Mục, và hàng Linh Mục là Cộng sự viện của Giám Mục.
Hơn nữa, Thánh Tông Đồ còn đề cập đến “chức Tư Tế chung cho
mọi Tín Hữu”, cho những ai đã Tin Chúa Cứu Thế và lĩnh
nhận Phép Rửa Tội.
Công việc đi tìm Căn Tính, Căn Cước tức là
trả lời câu hỏi: Linh Mục là AI?,
đây là một vấn nạn khó giải đáp cho minh bạch được, vì chức Tư
Tế của Linh Mục không phải là một chức nghiệp như một công chức
của chính phủ, cũng không phải là một nghề nghiệp để kiếm ăn như
nghề kĩ sư, thương gia.. Nhưng căn tính của một Tư Tế tự bản
chất vừa “hữu hình” quan hệ đến một Cộng đồng tín hữu,
nhưng vừa “vô hình”tương giao” với thế giới thần thiêng,
siêu nhiên, cầu nguyện với Chúa và các Thánh.
Do đó, muốn việc trình bày
được rõ ràng dễ hiểu thì phương pháp tiếp cận vấn đề này:
Phần I:
mô tả “hiện tượng linh mục” qua các hoạt động cụ thể,
qua các tiếp xúc thường nhật của một Linh Mục bao gồm những
công tác gì, tương tự như “kê khai các việc phải làm”(job
description). Chính nhờ những mối Tương Quan liên Hệ đó đã giúp
Linh Mục nên Thánh Thiện.
Phần II:
suy luận Thần học về mối tuơng quan liên hệ giữa Chúa Cứu
Thế, Vị Thượng Tế Duy Nhất và chức Tư tế của các Thánh Tông
Đồ, của Hàng Giám Mục,(order of Bishops) Kế Vị các Tông Đồ và
chức Tư tế của các Linh Mục, hay Trưởng Lão(order of Presbyters)
là cộng sự viên của các Giám Mục và chức Tư Tế Chung của mọi
Tin Hữu đã lĩnh Phép Thánh Tẩy. Đây là mối Tương Quan Liên
Hệ của Thân Mình Mầu Nhiệm Chúa Cứu Thế, tức là Hội Thánh của
Chúa Giêsu.
Phần Một: CĂN TÍNH LINH MỤC: MỐI
TƯƠNG QUAN LIÊN HỆ với DÂN CHÚA
Câu hỏi: Linh Mục là AI?
Đúng ra, nên hỏi: Chức vụ Linh Mục, tương quan Liên hệ với
những AI? Vì trong căn bản, con người lĩnh nhận chức vụ
Linh Mục không phải cho cá nhân mình, nhưng cho Hội Thánh để
phục vụ Dân Chúa, như Chúa Cứu Thế đã phán:
“Con Người đến không phải
để được phục vụ, nhưng để phục vụ(Filius hominis non venit
ministrari sed ministrare: Matt:20, 28)
Trong thưc tế, khi ta thấy một linh mục chỉ
biết sống cho riêng mình, hay cho bà con, cháu chắt.. hay
cho ân nhân, quen thân, khi bắt đầu thu vén tiền bạc, xây cất,
sắm sẵn nhà cửa chuẩn bị cho ngày hưu trí..thì cũng là những
chuỗi ngày chểng mảng thi hành các công tác mục vụ, và sa
đọa.Bởi vậy, có thế minh định: căn tính của Linh Mục là
sống cho người khác, cho Dân Chúa.
Nếu ta mở những tờ Thông Tin của các
Giáo Xứ hay Cộng Đồng Công Giáo,
trên trang nhất, ta thấy những cột chữ, những con số điện thoại
chằng chịt kê khai danh sách quí vị Linh Mục, thày Sáu, quí vị
phụ tá về Mục vụ, quí vị Trưởng các Uỷ Ban như Phụng vụ, Thánh
Ca, Giáo Lý, Giới trẻ, Xã hội, .và các Hội Đoàn như: Cursillo,
Đạo Binh Đức Mẹ, Thiếu Nhi Thánh Thể,...Lịch Phụng vụ, giờ Thánh
Lễ hằng ngày, Ngày Chúa Nhật, Lễ Trọng..Ngày giờ giải tội, Xức
dầu bệnh nhân bất cứ lúc nào, .
Người quan sát nhận thấy: mọi công việc lớn
nhỏ..đều do các Linh Mục chính Xứ hay Phó Xứ phải được thông
qua, góp ý, và tham dự. Không kể những công việc tiếp khách,
sinh hoạt thường nhật trong tuần, vì tình trạng thiếu linh mục,
nên có nhiều nơi, các Linh mục còn phải phụ trách hai ba Giáo Họ
ngánh. Các Ngài rất bận rộn ngày cuối tuần, nên đã tạo ra thành
ngữ:”the weekend Warriors”( chiến binh hành quân cuối
tuấn)
(Chú thích:
Trong một dịp tôi được hầu chuyện với ĐHY
khả kính và đạo đức Phạm Đình Tụng, tôi tự giới thiệu là một
Linh Mục làm việc ở ngoại quốc đã hồi hưu. Ngài vui vẻ nói:ở V.N
chúng tôi không có cha nào được hưu trí, như ở Địa phận nhà, một
cha già bệnh tật vẫn còn được người ta khiêng đi ban Phép Xức
dầu cho bổn đạo sắp qua đời. Đây là hoàn cảnh rất đặc biệt tại
miền Bắc. Nhưng trong thực tế, vì linh mục cũng là con người
bình thường như mọi người khác, sức khoẻ có giới hạn, nên cũng
cần nghỉ ngơi bồi dưỡng để có sức khoẻ, tiếp tục làm việc, giữ
cho đời sống “quân bình”, để có thể phục vụ lâu bền. Ngày
nghỉ(days off) hay hưu trí để làm việc khác mà mình thích, tuỳ
sức khoẻ, tuỳ khả năng, cũng là để phục vụ Dân Chúa)
Nhiều công tác mục vụ, nếu giáo dân được
huấn luyện, thì có thể đảm nhiệm được, nhưng công việc chính yếu
không thể uỷ quyền cho giáo dân được, vì gằn liền với Chức vụ Tư
Tế của Linh Mục (cộng sự viên của Giám Mục) là:
1. Linh Mục Chủ Tế cùng Dâng Thánh Lễ với
Dân Chúa
Trong PHỤNG
VỤ(
Liturgy),
Linh Mục Chủ Tế( presiding) Dâng Thánh
Lễ, và Giảng Lời Chúa luôn luôn cùng với Dân Chúa dâng lời
cầu nguyện lên Thiên Chúa. Đây là LINH ĐẠO(spirituality)giúp
các Linh Mục làm Mục vụ tại các Giáo Xứ trong Giáo Phận nên
Thánh Thiện(Sanctification). Thật vậy, khi dâng Thánh Lễ hay làm
thừa tác các Bí Tích, vị Tư Tế luôn nhân Danh Chúa để thi hành
chức vụ thánh, luôn cầu nguyện cùng Chúa ban Ân Sủng cho Tín
Hữu. Trong Thánh Lễ Misa, vị Chủ tế luôn dùng đại danh từ ở số
nhiều như: CHÚNG CON, chúng ta, anh chị em, chúng
tôi..không dùng đại danh từ số ítnhư: tôi. Khi chia sẻ LỜI CHÚA,
vị giảng thuyết căn cứ vào bài Sách Thánh, bài Phúc Âm, bài
Thánh Thư để hướng về cử tọa là cộng đồng Dân Chúa..
Cùng Dâng Thánh Lễ Misa lên cùng Chúa
Linh Mục quản nhiệm một
Cộng đồng Giáo Xứ, có bổn phận dâng Thánh Lễ ngày CHÚA NHẬT(
Ngày của Chúa) cho các Tín Hữu. Mọi hành vi, cử chỉ, lời đọc,
cầu nguyện đều Liên Hệ(relational) tới Thiên Chúa Ba Ngôi Cực
Thánh:
“
Nhân Danh
CHA, và CON, và THÁNH THẦN”
Chúng con TIN và SỐNG
trong Chúa:” trong Chúa chúng ta sống, và cử động, và hiện
hữu: (Tông Đồ Công Vụ:17:28)
Mối Tương Quan với Chúa
là nền
tảng của mọi mối Liên Hệ khác trong các Cộng Đồng Dân Chúa,
trong toàn thể Hội Thánh(Church). Các Cộng đồng Tín hữu luôn
Hiệp Thông Liên Kết với nhau trong một Hội Thánh. Có thể sánh ví
CHÚA là Một Vòng Tròn rộng lớn nhất, bao bọc các vòng tròn nhỏ
bên trong, và luôn nối kết với CHÚA. Để biệu lộ căn tính Cộng
đồng Dân Chúa là duy nhất, nên Vị Chủa Tế luôn dùng đại danh
xưng: CHÚNG CON trong Lời Cầu Nguyện cùng Chúa
cho Cộng Đồng.
Trong Thánh Lễ,
vị Linh Mục Chủ Tế, như đại diện Hội Thánh, cùng với phẩm trật
khác như: Đức Giáo Hoàng, các Giám Mục, các vị Linh Mục, đồng
tiến dân Chúa Lời Kinh Nguyện Thánh Thể, Tạ Ơn(eucharistic
Prayer). Vị Linh Mục được chọn vào hàng Linh Mục, hàng
Trưởng Thượng, Trưởng Lão(order of Priests, of Presbyters ),
để phụng sự cho toàn thể Hội Thánh hoàn vũ, chứ không phải chỉ
dâng Thánh Lễ , ở đây và bây giờ(here and now) cho giáo
dân một địa phương. Do đó, việc xướng Danh Vị Giáo Tông và vị
Giám mục để Chủ tế luôn nhớ rằng: Hội Thánh là CÔNG
GIÁO(Catholicism, hằng có ở khắp thế này). Công
Đồng Vatican II, đặc biệt nhấn mạnh đến tính chất”Tập Thể(Collegiality)
của Hội Thánh Công Giáo.
Theo kinh nghiệm bản thân,
một Linh
Mục dâng Thánh Lễ Misa một mình trong phòng, hay âm thầm trong
tù cải tạo, trại giam, nhận thù lao bổng lễ hay không.., nhưng
nếu luôn tâm niệm đến Dân Chúa khắp nơi trong Hội Thánh, đặc
biệt chú ý nhấn mạnh đọc đại danh từ”CHÚNG TA, hãy cầu
nguyện, xin Chúa thương xót CHÚNG CON, một cách trịnh
trọng và ý thức, thì sẽ giúp tăng lòng sốt sáng kết hợp với Chúa
là Của Lễ Duy Nhất. Trong Sách Lễ, không dùng đại danh từ:TÔI.
2. Rao Giảng Lời Chúa cho mọi Phần Tử trong
Cộng Đồng Dân Chúa
Chức vụ quan trọng trong
Phụng Vụ Thánh Thể là việc Vị Chủ Tế chia sẻ LỜI CHÚA cho Cộng
Đồng đang hiện diện trong Thánh Đường. Vì căn tính làm nên chức
Tư Tế Linh Mục, như đã trình bày ở trên, là luôn tương
giao liên kết với Dân Chúa, nên việc diễn giảng hay chia
sẻ Lời Chúa, giảng thuyết cũng phải nhằm đáp ứng những nhu cầu
thiết thực để bồi dưỡng Đức Tin của mọi từng lớp trong Cộng
Đồng. Vị Giảng thuyết không phải là người khoe khoang, dạy đời,
đề cao cá nhân riêng, không được dùng “Tòa Giảng”, để kết án,
chê trách các cá nhân hay hội đoàn mình không ưa thích.
Ngày nay, đa số giới trẻ cảm thấy như”nhàm
chán”(boring)không
còn muốn dự Thánh Lễ hay nghe cha giảng nữa, vì chúng cảm thấy
bài giảng không liên quan gì đến đời sống thực tế và những thao
thức của chúng. Mỗi lần đến Nhà Thờ, chúng chỉ thấy lập đi
lập lại một số lễ nghi quen thuộc, đọc một vài bài Sách
Thánh, hay một vài câu kinh đã thuộc lòng.
Tuy vẫn dùng một Sách Lễ,
đọc một số bài trong Sách Thánh , nhưng không phải việc cử hành
Phụng vụ là lập lập lại, một cách vô ý thức, vì mỗi lần vị Chủ
Tế cử hành Thánh Lễ và Giảng, đều phải tương quan hướng về
một cử toạ, một Công Đồng Dân Chúa khác biệt, đủ các
sắc dân, hiện đang sống trong hoàn cảnh xã hội, gồm những nhu
cầu vật chất, tinh thần, khó khăn về công ăn việc làm., mỗi
tháng ,mỗi năm, đều...khác nhau. Vị Giảng
thuyết cần cầu nguyện, tham khảo, để hiểu biết và thông cảm với
hoàn cảnh của cá nhân hay cả Công Đồng, những thành công và
thất bại, lòng nhiệt thành hay nguội lạnh, khô khan trong việc
giữ Đạo, tham gia các Hội Đoàn..Do đó, vị Chủ Tế và giảng
thuyết cần phải tương quan mật thiết với Cộng Đồng, chia
sẻ nếp sống với mọi giáo dân, nhất là với giới trẻ..để
có thể “động viên” tinh thần, củng cố Đức Tin của các đoàn thể
trong Cộng Đồng thêm vững mạnh..
Bởi vậy, muốn cho việc cử
hành Thánh Lễ, và Giảng thuyến không “nhàm chán”, thì
Phụng Vu phải phản ánh công việc Mục Vụ(pastoral
care). Muốn được linh động, đầy sức sống siêu nhiên, nhiệt thành,
thì việc cử hành Phụng vụ phải xuất phát từ tình trạng, từ nếp
sinh hoạt của Công Đồng, rồi lại phục hồi với những ai đã tham
dự Thánh Lễ.
Nhờ sự tương giao, liên kết liên tục của Vị
Mục tử
với mọi thành phần trong Cộng Đồng, chia sẻ
mọi nỗi khó khăn vất vả cũng như niềm vui với Cộng Đồng, giầu
kinh nghiệm mục vụ, hiểu biết thấu đáo tình hình sinh hoạt trong
Cộng Đồng, do đó, vị Giảng thuyết mới có thể dùng làm đề tài và
chất liệu để dọn bài chia sẻ Phúc Âm, một cách thích hợp với từng
thính giả.
Có thể nói: Phụng Vụ Thánh Thể phải ăn
nhập vào các hoạt động Mục Vụ. Nhờ những mối tương quan
giữa Phụng Vụ và Mục Vụ sẽ giúp cho Vị Linh Mục Quản Nhiệm thêm
lòng sốt sáng khi cầu nguyện cho Cộng Đồng Dân Chúa, nhất là cảm
nghiệm được sự hiện diện của Chúa trong mỗi tín hữu giáo dân.
Nhờ những mối quan hệ hỗ tương ấy, vị Mục tử sẽ tạo
dược sự tín nhiệm nơi Cộng Đồng, đồng thời cũng giúp Linh Mục
tiến triển trên đường Tu Đức, Thánh Hóa (
spirituality, sanctification).
3. Những Thách Đố, Thử Thách đối với Căn
Tính của Chúc Vụ Linh Mục
Tình trạng thiếu Ơn Thiên
Triệu Linh Mục hay Tu sĩ, và tai nạn “lạm dụng tính dục, nơi
trẻ em”.., nguyên nhân chính là vì khủng hoảng về Căn Tính
Linh Mục. Đó là một sự thực vẩn còn đang diến biến, xẩy ra
trong Hội Thánh. Bởi vậy, công việc đi tìm Căn Cước thật
của giới tu sĩ là cân thiết như đã phác họa mất nét chính ở trên.
Để tạm Kết Luận “Phần Một,
xin nêu ra mấy khó khăn, thách đố mà người Mục tử cần thắng vượt
để làm nổi bật Căn tính của Người Môn Đệ Chúa, là
Phục Vụ
Dân Chúa.
Theo Truyền Thống trong Hội Thánh Công Giáo(Catholicism),
để giúp người Tín Hữu, Môn Đệ Chúa được trở nên THÁNH THIỆN,
thì đường TU ĐỨC, hay LINH ĐẠO, luôn được tập luyện với
sự trợ lực của Tha Nhân. Chúng ta cùng giúp đỡ nhau tìm gặp
Chúa, cùng rủ nhau lên”Thiên Đàng”. Do đó, cần tránh những
cách tu luyện đi tìm những cảm giác hoan lạc, ngây ngất, xuất
thần, vui thỏa cho bản thân mình. Đó là tính”tự kỉ ái mộ”(narcissism).
Trong Công Giáo, đời sống thiêng liêng, tu thân tích đức, luôn
được sống trong Cộng Đồng, Cộng Thể và tình HIỆP THÔNG(in
communion) với mọi chi thể trong Thân Mình Mầu Nhiệm của Chúa
KyTô.
Công việc Rao Giàng Tin Mừng của Chúa Cứu
Thế
luôn đòi hỏi sự Cộng Tác của mọi Tín Hữu đã lãnh nhận Phép Rửa
Tội, mọi ngườ đều là con Chúa. Ngày nay, công việc Truyền Giáo
rất phức tạp, đa dạng, nên cần sự đóng góp tài lực của nhiều
phần tử khác nhau trong Cộng Đồng. Linh Mục Quản Nhiệm
chỉ có tài năng, sức lực hạn định, không thể quán xuyến, bao
thầu mọi công tác Mục vụ được. Vì thề, cần sự hợp tác của các
nhân viên trong Văn Phòng, các Hội Trưởng các Đoàn thể, trong
Giáo Xứ. Do đó, một vị Quản Nhiệm thiếu tinh thần hợp tác,
chuyên quyền, sẽ gây bất bình, chia rẽ, và đình trệ công
việc Truyền Giáo trong Cộng Đồng, Giáo Xứ.
Việc hiểu biết tình hình sinh hoạt, xã
hội..của một Giáo Xứ,
đặc biệt tại các đô thị có nhiều người tới định cư, kiếm việc
làm, thì tình hình xã hội trở nên phức tạp, khó điều tra cho
tường tận, không giống các Giáo Xứ miền đồng ruộng. Linh Mục
Giảng thuyết cần những bản báo cáo về tình trạng sinh hoạt trong
Cộng đống, các nhu cầu, các tệ đoan..thì việc áp dụng thực hành
LỜI CHÚA mới thiết thực và đem lại ơn ích cho thính giả.
Do đó, muốn đem Lời Chúa vào đời sống của Cộng Đồng như “men
trong bột”, ‘ánh sáng cho thế giới”, vị giảng thuyết
cần thấu đáo những nỗi khó khăn về nạn thất nghiệp, về giáo dục
con cái, và những tệ đoan xã hội như phá thai, buôn người,
nghiện hút, tham nhũng, phim ảnh xấu..,mới có sức đánh động ý
thức và lương tâm người nghe. Điều nghịch lí nhất là vị giảng
thuyết làm GƯƠNG XẤU, trái ngược với những lời khuyên bảo
bổn đạo. Nếu linh mục thường đi “casino”, thì không thể ra lệnh
cấm bổn đạo”đánh bạc”.
Cần nhấn mạnh đến tinh thần”HUYNH ĐỆ”
giữa các Mộn Đệ
tận hiện phụng sự Chúa và Hội Thánh như: giữa các Giám Mục
với Giám Mục, giữa Giám Mục với Linh Mục, giữa các Giáo sĩ với
các Nữ Tu, giữa các Dòng tu và Điạ Phận. Sự chia rẽ vì quyền
lợi riêng, sự phen bì hay tranh giành ảnh hưởng giữa các Linh
Mục với nhau, giữa Linh Mục Chính Xứ với Linh Mục Phụ tá..cũng
là những mối đe dọa thường xuyên làm suy yếu tinh thần
HIỆP NHẤT, trong Hội Thánh Chúa.
Mời xem tiếp Phần Hai: CĂN
TÍNH LINH MỤC: TƯƠNG QUAN LỆ THUỘC vào CHÚA CỨU THẾ, VỊ TƯ TẾ
THƯỢNG PHẨM
|
VỀ MỤC LỤC |
NHỮNG DẤU ĐINH NGƯỜI HÔM NAY
|
Những vết sẹo cuộc đời
Nhổ tóc bạc
cho ông nội, bé An bỗng giật mình vì trên đầu ông có một vết sẹo
dài lắm. Vết sẹo như con thằn lằn đang đậu trên đầu ông. An hỏi:
“Ông nội ơi, sao mà ông có cái sẹo to vậy ?”
Cả một khoảng
thời gần 50 năm trước sống dậy trong ông. Biết kể sao cho hết,
đối với một đứa cháu nội 8 tuổi ? Nó hiểu gì về chiến tranh, về
những tàn ác ? Ông chỉ tóm lại mấy câu: “Hồi ấy, ban đêm là kinh
khủng lắm. Có người ngủ trong nhà bị kẻ lạ mặt cầm súng đến bắt
đi. Ông thường không ngủ ở nhà. Ông đi ngủ nhờ ở phòng áo Nhà
Thờ.
Một đêm, thấy
cháy sáng, nghe người la thất thanh. Ông chạy một hơi đến chỗ
nhà cháy. À thì ra nhà mình. Nhà mình bị người ta đốt. Nhà tranh
vách đất mà đốt cháy đồng loạt tứ phía thì không ai chạy kịp. Bà
nội con và ba của con ở trong ấy. Cháy càng to, mà mỗi người một
gàu nước, một thùng nước, chẳng thấm vào đâu. Ông đành quấn cái
mền ướt chạy vào trong nhà cứu bà và ba của con. Ở ngoài nhà
thỉnh thoảng có tiếng súng bắn và tiếng la “không ai được cứu”.
Vừa lôi được
bà và ba của con ra đến cửa trước, giàn chính trên nhà đổ ầm
xuống trên người ông nội. Người ta kéo bà, kéo ba của con ra.
Rồi kéo ông ra… ngất xỉu, cả mình phỏng nhiều chỗ. Trên đầu của
ông nặng nhất… May mà tóc cũng mọc lại. Chỉ còn một con thằn lằn
lì lợm ấy, trơn tru… không chịu mọc lại tí tóc nào !”
Không kể hết
những vết sẹo trên thân thể những con người đã hy sinh cho con
cái, cho gia đình, cho tổ quốc, nhưng có thể nói vết sẹo nào
cũng là chứng tích của một Tình Yêu. Có người đã hy sinh cả đôi
tay, cả đôi chân, đôi mắt, có người mang vết sẹo hình con tắc
kè, và cũng có người vẫn đang chung sống với một đầu đạn đồng vô
cảm trong cái vỏ sọ người tưởng đã phải vỡ làm đôi.
Là con cháu,
là thế hệ hậu duệ, luôn mang tâm tình biết ơn ông bà cha mẹ,
tiên tổ. Không phải là biết ơn những vết sẹo cuộc đời, nhưng
chính là biết ơn Tình Yêu. Người vì yêu không kể hy sinh cả mạng
sống, huống là một phần thân thể… Hy sinh vì tình yêu, vì chính
nghĩa, vì chân lý…
Thương tích của Chúa Giêsu Tử Nạn
và Phục Sinh
Không nhổ tóc
bạc, để thấy vết sẹo con thằn lắn. Không đấm lưng để thấy con
tắc kè bông còn đang nằm trên lưng khê khét mùi thuốc súng.
Nhưng với Chúa Giêsu thì Toma đã biết rõ những thương tích thật
khủng khiếp của thầy mình. Vẫn còn nhớ ở ngay giữa cổ tay, những
lỗ đinh rộng toác, bị rách toạc vì thân người kéo trì xuống. Vẫn
còn nhớ ở mu bàn chân, những lỗ đinh xé dài đến mắt cá. Vẫn còn
nhớ đó, lỗ lưỡi đòng đâm thâu từ phía dưới bên cạnh sườn lên đến
trái tim người đã chết, để chảy cho cạn kiệt máu cùng nước trong
thân xác.
Nhưng lại
nghe anh em nói Thầy đã sống lại. Thật sao ? Khó tin quá !
"Nếu tôi
không thấy dấu đinh ở tay Người, nếu tôi không xỏ ngón tay vào
lỗ đinh và không thọc bàn tay vào cạnh sườn Người, tôi chẳng có
tin." ( Ga 20, 25 )
Từ câu nói
này, cho thấy:
- Một mạc
khải Phục Sinh theo chương trình của Thiên Chúa, đã thực hiện
cho Tôma, và cho cả ngàn con người thực dụng những thế hệ sau
này.
- Tôma là
một con người nhiệt tình với Tin Mừng Phục Sinh: nhiệt tình vì
khao khát được thấy dấu đinh nơi tay thầy mình, thấy lỗ lưỡi
đòng đâm thâu nơi cạnh sườn, khao khát được xỏ ngón tay vào lỗ
đinh, thọc bàn tay vào cạnh sườn.
- Khi
tuyên bố câu nói có vẻ cứng cỏi như thế, chắc chắn Tôma không
khỏi ray rứt ngày đêm, ray rứt trong lòng, ray rứt trước mặt anh
em, những người đã nhìn thấy Chúa Phục Sinh. Sự ray rứt giữa Đức
Tin và thực dụng ấy càng đốt nóng lòng khát khao lên đến mức
mãnh liệt.
Với quyền
năng của Thiên Chúa, Đức Giêsu có thể hiện ra với Tôma ngay sau
câu nói của ông, để chứng minh cho ông biết Ngài đã sống lại.
Nhưng không, để một tuần sau, để khi lòng khao khát lên đến tột
đỉnh, Chúa Giêsu mới mạc khải chính thân xác Phục Sinh của Ngài
còn mang thương tích mới nguyên, chưa và có lẽ không bao giờ
lành.
“Hãy xỏ
ngón tay con vào đây, và hãy nhìn xem tay Thầy. Hãy đưa bàn tay
con ra mà thọc vào cạnh sườn Thầy. Đừng cứng lòng nữa, nhưng hãy
tin.” ( Ga 20, 27 ).
Nếu các vết
sẹo đời người kia còn có thể minh chứng cho một Tình Yêu Hy Sinh
thì lỗ đinh và lỗ đòng của người đã chết mà đang sống có thể nói
là một mạc khải vô cùng quan trọng cho toàn thể nhân loại về một
Tình Yêu Thương Vĩ Đại: Tình yêu của người đã chết và đã sống
lại. Chết để làm của lễ chuộc tội cho con người và sống lại để
nhân loại được cứu sống.
Những dấu đinh người hôm nay
Chúa Giêsu
không còn ở lại trần gian với thân xác mang thương tích lỗ đinh
lỗ đòng cho nhân loại đặng thấy mà tin, như Tôma nữa, nhưng còn
các chứng nhân của Ngài. Vì Tôma đã không tin vào các anh em là
những chứng nhân đã thấy Chúa Phục Sinh, nên Chúa mạc khải cho
những người như Tôma một chân lý mới: “Phúc cho những người
không thấy mà tin”. Không thấy Người đã chết sống lại, nhưng tin
Người đã chết sống lại qua các chứng nhân.
Như vậy,
chứng nhân Phục Sinh cũng phải là chứng nhân của cuộc Tử Nạn.
Chứng nhân của niềm Hy Vọng cũng là chứng nhân phải lăn mình vào
cuộc Thương Khó, cái chết với Ngài. Đòi hỏi ấy luôn là một đòi
hỏi song đôi đối với chứng nhân Ơn Cứu Độ. Vì không qua cái chết
và sống lại của Chúa Kitô, không có Ơn Cứu Độ.
Từ bỏ cái
tôi, từ bỏ tội lỗi là chết đi một phần đời sống thỏa mãn ở đời
này, và chỉ có chấp nhận cái chết ấy, mới có thể phục sinh với
Ngài. Sẽ có lời chứng hùng hồn thuyết phục, khi chứng nhân không
chỉ nói về cuộc Tử Nạn và Phục Sinh mà chính chứng nhân ấy đang
tử nạn, đang phục sinh.
Tôi không cho
là Đức Hồng Y Phanxicô Xaviê, hay Đức Tổng Giuse của Hà Nội, Cha
Lý, Cộng Đoàn Thái Hà, Đồng Chiêm được người người trong nước
và trên khắp thế giới thương mến cảm phục, vì các ngài chống
cộng hay thân cộng, vì các ngài học cao hiểu rộng, hoặc vì các
ngài làm chính trị giỏi… nhưng chính vì các ngài nên giống Chúa
Kitô Tử Nạn và Phục Sinh.
Nơi các ngài
cũng mang đầy thương tích, mang đầy sự sỉ nhục, khốn khó như
Chúa Giêsu vì Sự Thật Nước Thiên Chúa phải được rao truyền trên
chính quê hương mình. Các ngài không nói bằng lời như Thánh Tôma:
“Lạy Chúa là Thiên Chúa tôi” nhưng chính cuộc đời của các ngài
là lời tôn vinh “Chúa là Thiên Chúa duy nhất, và chỉ tôn thờ một
mình Ngài, không tôn thờ chúa nào khác”.
Vâng, vẫn còn
những dấu đinh, những lỗ đòng, không phải của Chúa Giêsu nhưng
là của các nhân chứng. Thêm vào đó, còn những lỗ đinh, lỗ đòng
của biết bao người chấp nhận chịu thương chịu khó trong cuộc đời
này, cho con cái cho gia đình được an vui hạnh phúc. Những lỗ
đinh to bằng những món nợ chồng chất trên vai người làm cha mẹ
khi sống hết mình cho con cái được ăn học, hoặc chữa bệnh cứu
sống cho chồng cho con. Những lỗ đòng kinh khủng khi biết con
cái của Chúa nghe lời xúi giục của ma quỷ mà giết trẻ thơ vô tội
từ trong trứng nước…
Nỗi đau
của Chúa Giêsu vẫn còn đó. Và Ngài cũng đang mời mỗi người chúng
ta: “Hãy xỏ ngón tay con vào đây, và hãy nhìn xem tay Thầy. Hãy
đưa bàn tay con ra mà thọc vào cạnh sườn Thầy. Đừng cứng lòng
nữa, nhưng hãy tin.” ( Ga 20, 27 ).
Hãy xỏ
ngón tay mình vào lỗ đinh đói nghèo, bệnh tật, bất công, tội lỗi…
của những người bé nhỏ, bạn chí thiết của Chúa Giêsu.
Hãy thọc
bàn tay vào lỗ đòng chính Thân Thể Chúa Giêsu là Giáo Hội trong
những ngày này, đang bị quân dữ đâm thâu từ Giáo Hoàng đến các
Giám Mục đến những Linh Mục, những người ưu tuyển của Thiên Chúa
với dụng ý: đánh kẻ chăn, đoàn chiên ắt tan tác.
Lòng Thương
của Thiên Chúa đang hiển hiện khắp nơi. Chúa Kitô đang Tử Nạn để
Phục Sinh ở khắp nơi. Ngài không còn ẩn giấu hay lánh mặt chúng
ta nữa. Ngài đang rất hiện thực. Chỉ vì chúng ta không muốn mở
con mắt Đức Tin ra để nhìn thấy Ngài đang Tử Nạn, đang Phục Sinh
để kết hiệp với Ngài...
Còn tệ hơn
nữa, cách nào đó, chúng ta đang “nối giáo” cho quân dữ, vì không
tin tưởng vào tình thương của Ngài, mà còn ngăn cản con người ta
đến với tình thương Ngài, hoặc là tiếp tục gây thêm cho Ngài
những thương tích. Máu nước chan hòa cho đến cái chết tận cùng
của Chúa, vẫn chưa lay động lòng tin tưởng của chúng ta vào lòng
thương xót vô cùng của Thiên Chúa Cha sao ?
Lạy Chúa
Giêsu, xin cho hai luồng sáng Máu và Nước từ trái tim Chúa chiếu
dọi cõi lòng cứng cỏi khô khan của chúng con, để chúng con nên
mềm mại sốt mến mà tín thác trọn niềm vào Lòng Thương Xót vô
cùng của Thiên Chúa Cha, và anh dũng làm chứng nhân Tử Nạn và
Phục Sinh cho một cuộc sống mới vĩnh cửu trong Ba Ngôi Thiên
Chúa. Amen.
PM. CAO
HUY HOÀNG, thứ năm 8.4.2010 |
VỀ MỤC LỤC |
|
TRÍ THỨC TRẺ - TƯƠNG LAI ĐANG ĐI
VỀ ĐÂU ?
|
Có lẽ chưa
bao giờ các trường Đại học được thành lập “ồ ạt” như trong vài
ba năm trở lại đây. “Ồ ạt” đến độ báo chí đã phải gọi bằng một
cái tên hết sức châm biếm : “đại học đại trà”. Nghĩa là vừa học
vừa uống trà vẫn xong đại học. Tất nhiên, nếu chỉ nhìn vào số
lượng những người theo học, thì ai cũng có thể tự hào. Có những
trường lên tới 3-4 ngàn sinh viên, nhưng chất lượng thì khỏi bàn
tới. Báo chí đã nói nhiều, các nhà giáo dục tâm huyết cũng đã
tốn rất nhiều giấy mực để luận bàn. Tuy nhiên, một điều đáng nói
hơn nữa là điều kiện sống của tầng lớp được coi là trí thức -
những người nắm giữ vận mệnh của nước nhà trong tương lai – thì
hỡi ôi.
Cụ thể ở đây
là điều kiện ăn ở. Từ ngữ “cơm bụi” đã quá quen thuộc đối với
đa số sinh viên. Gọi là “cơm bụi” theo 2 nghĩa : cơm ở gần bụi
gần bờ và cơm đầy bụi bặm. Bức xúc trước việc ăn uống luộm thuộm,
nên gần đây các cơ quan chức năng đã ra quân rầm rộ kiểm tra
đồng loạt các quán cơm bụi dành cho sinh viên, như một phong
trào nhằm chấn chỉnh khâu vệ sinh an toàn thực phẩm. Quả vậy, an
toàn thực phẩm là vấn đề rất lớn hiện nay. Thế nhưng chế độ ăn
uống của giới sinh viên cũng có nhiều điều đáng quan tâm.
Nhớ lại hồi
chúng tôi còn là sinh viên, dẫu là những năm cuối thập niên 90
rồi, nhưng điều kiện ăn uống vẫn còn rất kham khổ. Đầu tháng
nhìn mâm cơm còn dể coi đôi chút, vì gia đình mới gởi tiền lên;
nhưng càng về cuối tháng, khẩu phần ăn càng teo dần lại. Phải tự
đi chợ mua đồ ăn về nấu lấy, chứ không dám ăn căn-tin hay quán
xá, thậm chí đi chợ mà không dám mua thịt nạc, thịt đùi về ăn.
Bởi thế có thầy bị đặt cho cái biệt danh là ông thầy “ba rọi” vì
chuyên mua thịt ba rọi. Hỏi ra mới hay là không đủ tiền mua các
thứ thịt khác. Có người còn được tặng cho cái biệt hiệu là “thầy
thơm”. Cứ hết thơm xào đến thơm kho, hết thơm kho đến thơm luộc.
Ăn cho đỡ thịt cá ấy mà !
Thời gian gần
đây, mỗi khi có dịp đón các đoàn sinh viên đi picnic cắm trại,
câu đầu tiên các em thường “cật vấn” là : “Cha ơi, một phần ăn
khoảng 10 ngàn thôi, các bà mẹ có nấu được không ?” Bảo rằng đi
chơi ăn khá hơn để có sức mà chơi chứ, các em vô tư trả lời :
“Tụi con định mì tôm thôi đấy, đỡ tốn. Hehe !!!” Có em còn bảo :
“Đi chơi 2 ngày về có khi phải ăn mì tôm đến 2 tuần đấy cha ạ !”
Mì tôm là món “trường kì kháng chiến” của các sinh viên nghèo,
xa nhà là cái chắc.
“Cái ăn” đã
thế, “cái ở” còn khủng hoảng hơn. Phần lớn các trường đại
học đều nằm ở trung tâm các thành phố lớn, nên cảnh tượng sinh
viên chen chúc nhau trong các nhà trọ, kí túc xá chật chội, nóng
bức là không còn xa lạ gì lâu nay! Mới đây có bạn sinh viên gọi
điện bộc bạch nỗi lòng : “Cha ơi, tụi con cực lắm, 2 chị em ở 1
phòng chưa đầy 6 m2 . Mọi sự trong đó hết, kể cả chỗ để xe máy
ban đêm. Nóng như cái lò nung. Nghĩ đến mùa hè sắp tới là phát
sốt”. Cứ đi ngang qua các trường đại học, chẳng hạn Đại học Kiến
Trúc, Đại học Luật, Sài Gòn, sẽ thấy ngổn ngang cảnh tượng sinh
viên phải dùng chính vỉa hè quanh trường để ăn uống, để học bài
và để… hít khói bụi. Một tờ báo để lót ngồi, một tờ báo để đặt
ly xốp cà phê hay đồ ăn, cứ thế cho đến hết giờ giải lao và các
giờ học riêng. Trông thật nhếch nhác và tội nghiệp.
Có dịp tiếp
xúc với một số sinh viên đại học Nông Lâm, Sư Phạm Kĩ Thuật,
Hồng Bàng,… chúng tôi không khỏi chạnh lòng. Vì thấy nhiều em
sao nhỏ bé và èo uột thế. Có những sinh viên nữ chắc chỉ khoảng
3 - 4 chục kilô, còn nam thì chẳng khá hơn bao nhiêu, 4 – 5 chục
kilô là cùng. Thể chất bề ngoài chẳng có gì ngoài một chút “vốn
liếng” là tinh thần trẻ trung của sinh viên. Đáng buồn thay !
Đáng thương thay !
Giải phóng đã
35 năm rồi, nhưng vóc dáng, chiều cao của đại đa số sinh viên
ngày nay chẳng “giải phóng” được bao nhiêu, vả lại sức đề kháng
còn kém hơn. Sinh viên ngày xưa dù thiếu ăn, nhưng xem ra vẫn
cường tráng hơn nhờ lao động tay chân và môi trường sống trong
lành. Còn bây giờ, mặc dầu dinh dưỡng có được cải thiện đôi chút,
song bất hạnh thay ô nhiễm môi trường đã cướp đi tất cả. Không
khí thì đầy những khói bụi, thức ăn thức uống thì tràn ngập các
hoá chất độc hại, không gian sống thì ồn ào và ngày càng bị thu
hẹp. Tắt một lời, ăn uống thì thiếu chất bổ, thừa chất độc. Ở
thì tù túng chật chội và ngột ngạt, không đủ không khí để thở,
làm sao có sức khoẻ tốt, thể lực sung mãn được.
Mong sao việc
chấn chỉnh khâu vệ sinh trong ăn uống dành cho sinh viên được
làm rốt ráo và việc hỗ trợ tài chánh cho sinh viên được nhà nước
và xã hội quan tâm nhiều hơn để các em có điều kiện và môi
trường học tập tốt hơn. Có như thế tương lai của đất nước và dân
tộc mới có thể tươi sáng lên được.
Lm. Giuse Nguyễn
Thành Long |
VỀ MỤC LỤC |
|
THĂNG TIẾN CÁC MỐI QUAN HỆ CON
NGƯỜI QUA LẮNG NGHE
|
Lắng nghe là
điều rất căn bản trong các giao tiếp con người mà nhiều khi
chúng ta tưởng rằng mình đang thực hành. Thế nhưng, trước các
xung đột gia đình, những người trong cuộc thường hay phàn nàn họ
không được lắng nghe.
Bạn hãy nghĩ
coi khi bạn đang bộc lộ nỗi buồn phiền vì mắc chuyện ngặt nghèo,
người đối diện liền nói, “Ừ, tôi cũng bị như vậy”, bạn có bực
mình không? Harold S. Kushner, tác giả cuốn When Bad
Things Happen to Good People (Khi Điều Xấu Xảy Ra Cho Người Tốt),
nói rằng những lúc như thế, tốt nhất là lắng nghe và đừng
nói gì cả.
Thực vậy,
không phải lúc nào bạn cũng cần câu trả lời hoặc cần điều khuyên
bảo. Nhiều khi chúng ta chỉ cần có người để cảm thông. Có lúc
chỉ cần họ lắng nghe là ta đủ vơi đi nỗi buồn, chứ không nhất
thiết phải nghe lời an ủi.
Nếu bạn nghĩ
rằng đàm thoại chỉ là lời nói, bạn đã chưa thực hành lắng nghe.
Không phải ngẫu nhiên mà Thượng Đế tạo dựng con người với hai lỗ
tai nhưng chỉ một cái miệng: Ngài muốn chúng ta nghe nhiều hơn
nói.
Thực ra lắng
nghe có nhiều lợi điểm mà chúng ta cần nên thực hành. Những nhà
tâm lý và cố vấn gia đình có những nhận xét về việc lắng nghe
như sau:
-
Thái độ
lắng nghe tự nó diễn tả tình yêu thương, sự tôn trọng và
quan tâm. Khi lắng nghe người khác là chúng ta cho họ biết
rằng họ là người quan trọng và đáng được sự chú tâm của mình.
-
Khi lắng
nghe, chúng ta hiểu quan điểm người khác một cách rõ ràng
hơn. Nhiều khi vì chính thái độ lắng nghe của mình mà người
đối diện muốn chia sẻ cả những tâm tư thầm kín, nhờ vậy
chúng ta càng hiểu biết để có cách hành xử thích hợp hơn.
-
Khi được
lắng nghe, người nói có cơ hội làm sáng tỏ suy nghĩ của họ,
và nhờ thế họ dễ nhận ra các vấn đề đang gặp phải, cũng như
biết tìm chọn phương thức đối phó thỏa đáng.
-
Khi lắng
nghe người khác, bạn không những chinh phục được cảm tình
của họ mà còn làm gương cho họ noi theo, đó là, bạn cũng
đáng được người ta lưu ý điều mình phát biểu.
Mặc dầu chúng
ta biết lắng nghe quan trọng như vậy, nhưng trong thực tế người
ta ít chú tâm tập luyện kỹ năng nầy. Họ nghĩ rằng nghe cũng như
hít thở, là điều ai cũng có thể làm một cách tự nhiên từ khi còn
rất nhỏ. Thực ra, nghe cũng như nói, nếu người tinh tế trong
ngôn từ trò chuyện cần nhiều thời gian tập luyện, thì người biết
nghe cũng cần thao dợt trong cách thực hành.
Vậy làm sao để
lắng nghe?
Nói ít. Điều
nầy không có nghĩa là không nói, nhưng là biết lúc nào thì cần
nói. Khi chú ý lắng nghe người khác, bạn cần lắng đọng tâm tư,
giảm sự chi phối do ngoại cảnh như xeo-phôn, máy móc điện tử,
tránh chủ quan phán đoán khi chưa có đủ dữ kiện, và cố tìm hiểu
ý tưởng của người phát biểu qua việc hỏi lại, hoặc cho người ta
phản ảnh điều mình đã nghe để hiểu cho rõ ràng.
Người biết
lắng nghe đòi hỏi tự ý thức về mình ở một tầm mức cao, cũng như
biết thực hành cách lắng nghe một cách tích cực. Đó là khi bạn
không chỉ nghe người ta qua lời nói, nhưng còn cả giọng điệu, cử
chỉ và toàn bộ cách diễn đạt của họ. Để bày tỏ sự chú ý của
mình, bạn cần dùng các cử điệu câm như gật gù, nháy mắt hoặc
dùng ngôn từ phản ảnh ngắn gọn như “ừ hử”, “thế à”… để cho người
đối diện biết là bạn đang tích cực lắng nghe.
Cũng có khi
bạn cảm thấy mình khó khăn trong lắng nghe, lúc đó cố gắng lặp
lại trong tư tưởng những điều họ nói, nhờ đó bạn sẽ cảm thấy
mình chủ động trở lại, tránh cho tâm trí khỏi lãng đi nơi khác.
Tóm lại, lắng nghe đòi hỏi nhiều kiên nhẫn
và quyết tâm trong thực hành. Kỹ năng nầy cũng đòi hỏi sự khiêm
tốn và kềm chế ý riêng của bạn. Nhưng hiệu qủa của nó sẽ mang
lại cho bạn lợi ích lớn lao, đó là thăng tiến mối quan hệ với
những người thân yêu. Một khi bạn thấy người ta hay tìm đến bạn
để tâm tình, khả năng lắng nghe của bạn đã đến mức đáng khen
ngợi.-
Trần Hiếu |
VỀ MỤC LỤC |
|
CHA VÀ CỐ
|
Cách đây ít
lâu, khi tôi đưa tin “Bà cố của một người bạn là linh mục mới
được Chúa gọi về, xin anh em bạn cũ của cha cùng cầu nguyện cho
linh hồn bà cố”, thì có một sự việc rất bất ngờ nằm ngoài mọi
suy nghĩ của tôi, làm tôi cảm thấy xót xa và thất vọng rất nhiều.
Một anh viết: “Vinh cho hỏi bà cố nội của Cha Ngọc mất hay mẹ
Cha Ngọc mất?”. Không chỉ mình anh ta, mà vài anh khác hùa theo
nói mỉa. Tôi rất buồn vì tôi biết những người anh em này không
phải là không hiểu, nhưng rõ ràng là các anh cố ý châm chọc, chỉ
tiếc là anh châm chọc không đúng lúc và không đúng chỗ.
Ít lâu sau,
anh em lại chuyền cho nhau bài viết về một bà cố tham lam muốn
đẩy con mình vào hàng linh mục để bà được hãnh diện với xóm làng.
Tôi hiểu rằng một số người nghĩ bà cố là như vậy. Thật ra khi
các cụ dâng con mình cho Chúa là họ đã hy sinh nhiều rồi. Hãy
đọc lại về cuộc đời các cụ cố đã từng được viết lại thì sẽ hiểu.
Tôi không là
linh mục, nên tôi không viết bài này để mong thiên hạ gọi mẹ
tôi là bà cố. Nhưng rõ ràng, truyền thống tốt đẹp của người Việt
đã dành một chỗ trang trọng và một danh xưng tôn kính cho thân
mẫu các linh mục quả là một điều đáng khích lệ và không có gì
xấu để phải đả kích.
Chúng ta không thấy có tài liệu nào nói những danh xưng “ông bà
cố” dành cho song thân linh mục bắt đầu từ lúc nào. Nhưng theo
truyền thống cao quí của Á Đông, khi con cái có một chỗ đứng
trong xã hội thì cha mẹ họ cũng có chỗ… ngồi bên cạnh! Khi hoàng
tử được phong vương thì mẹ của ông sẽ là hoàng thái hậu. Khi
người ta làm thầy dạy thì học trò cung kính với cha mẹ họ như
với ông bà cha mẹ mình.
Và danh xưng
ông cố bà cố trong xã hội Việt nam còn dùng để gọi những người
cao niên có công đóng góp cho cộng đồng, cho xã hội hay có uy
tín trong cộng đồng và xã hội ấy. Ở miền Tây, dân chúng kính
trọng các linh mục (trừ linh mục đàn két quốc doanh), nên cũng
gọi các cha là ông cố.
Người Việt
chúng ta có truyền thống quí báu là tôn trọng những người hy
sinh cho xã hội. Nhưng, như Nguyễn gia Kiểng đã từng viết,
“người Việt nam tìm đủ mọi lý do để ghét nhau”. Tư tưởng này
được diễn tả bình dân trong tục ngữ “trâu buộc thì ghét trâu
ăn”. Cái tâm lý đáng buồn này đã in sâu vào tâm con người, kể cả
một số người trí thức và một số người sống ở trời Tây.
Người ta hay nói vui là “tu xuất hay phá đạo”. Tôi thì không
nghĩ vậy. Ở một website « đạo đức » nọ, có hai ông tác giả
chuyên moi chuyện các linh mục ra đập ! Nhưng Đạo Chúa mà anh
phá được thì cũng là chuyện hư truyền. Cả một đoàn quân do Satan
cầm đầu hai ngàn năm nay (bao gồm cả quỉ sứ lẫn sứ của
quỉ) cũng chẳng làm gì nổi Giáo Hội Chúa kia mà. Có lần tôi
tâm sự với một Đức Giám Mục về chuyện này, ngài bảo chắc tại
thấy mấy anh tu xuất biết nhiều và hay góp ý nên nhiều người
thấy ngại. Tôi nghĩ góp ý đúng thì đâu có gì người ta phải ngại,
nhưng có người ý gì cũng góp, không có ý cũng tìm ý mà góp, tìm
không ra ý cũng góp lời… chê trách. Có mỗi danh xưng bà cố ông
cố mà cũng ráng chê thì… hết biết.
Gần đây có
người góp ý không nên gọi các linh mục là cha. Người đặt vấn đề
là NCK, một giáo sư mà tôi kính trọng cả về tầm hiểu biết và
nhân cách. Ông đặt vấn đề cách ôn hoà và đầy lý lẽ thuyết phục,
chứ không chơi kiểu ném đá lung tung như trên các diễn đàn. Một
website nọ cho độc giả góp ý, tôi thấy có người đưa ý kiến là
mình lớn tuổi sao gọi mấy linh mục trẻ là cha cho được. Tôi thấy
lý do này hơi nho nhỏ!
Tôi không
phản đối ý kiến này. Nhưng tôi thấy có hai điều. Thứ nhất là về
mặt thiêng liêng, quả thật các linh mục đã sinh ra dân Chúa
trong bí tích Thánh Tẩy và nuôi sống dân bằng các bí tích, thế
nên gọi các ngài là cha thì cũng hợp lý (trừ các LM từ chối
quyền này khi muốn làm con của các thế lực khác). Thứ hai, thói
quen ấy vốn không có gì sai trái, lại còn rất dễ thương, bây giờ
muốn sửa lại thì liệu giáo dân có chấp nhận và nếu họ chấp nhận
thì bao nhiêu thế hệ sẽ thay đổi được? Và có cần tốn công sức và
thời gian để thay đổi điều “không có gì phải ầm ĩ”?
Bây giờ nếu
thay đổi cách gọi thì chưa chắc nhiều người Công giáo đồng ý. Ở
xứ Tân Phú của tôi chẳng hạn, tình cảm giữa các cha và giáo dân
rất tốt, bây giờ đùng một cái bảo mọi người đừng gọi các cha là
cha nữa thì có thể cả xứ xuống đường ngay.
Một cha kể
tôi nghe là bà nội của ngài ở Mỹ gọi điện thoại về cứ gọi ngài
là cha, ngài xin bà nội đừng gọi thế thì bà bảo bà thích gọi
cha, cứ để bà tự do gọi. Đó là niềm vui của bà cụ cố, chẳng lẽ
lại dập tắt đi? Một cha trẻ khác vốn xưng hô khiêm tốn. Khi ngài
gọi điện thoại đến nhà tôi, bà xã tôi nói “Con chào cha” là ngài
cười phá lên “Ôi, con chào cha mới ghê chứ”. Như vậy,
chuyện xưng hô cha con nếu ai không thích thì cũng đừng trách
các cha.
Nhưng cũng
đúng là có những ông linh mục làm cho thiên hạ không muốn gọi là
cha. Chẳng hạn có ai gọi con két là cha bao giờ. Một anh bạn tôi
là bác sĩ, sống đạo rất tốt, vẫn thường nói: “Gặp ông linh mục
đàn két quốc doanh, mình kêu ông xưng tôi chứ chả cha con gì
sất”.
Danh xưng chỉ
là cái bên ngoài để tỏ tấm lòng bên trong. Nếu anh không thích,
anh gọi tên khác, không sao. Tôi là người vốn kính trọng thiên
chức linh mục và con người linh mục, nên tôi gọi các ngài là
cha, và song thân các ngài là ông bà cố. Nếu bạn thấy linh mục
cũng như bạn thôi thì bạn cứ gọi cách khác. Nhưng cẩn thận, bạn
có thể bị người chung quanh cười (chứ không phải là ông linh mục
bị cười).
Trong một
cuộc họp nọ, một anh giáo dân hay hoạt động gia đình, đến gọi
một vị giám mục vốn là bạn cùng lớp ngày xưa (tôi nghe kể lại,
không biết nguyên văn), đại khái là Ê, Đức Cha T hay ông T gì đó,
thì lập tức bị phản ứng ngay. Những giáo dân có mặt hôm ấy sau
này trong các cuộc họp đều kể lại chuyện này và lắc đầu cho cái
anh giáo dân cựu tu ấy.
Tôi chưa gặp
ông bà cố nào “lôi thôi” để cho người ta phải trách móc. Dĩ
nhiên là con người thì ai cũng có lúc này lúc nọ, nhưng chẳng lẽ
cứ ngồi đó mà trách móc nhau? Nhân đây tôi cũng xin kể lại một
câu chuyện vui cho đỡ căng thẳng. Chuyện này do cha Nguyễn xuân
Hoà, giáo hạt Tuy Hoà, Qui nhơn, kể tôi nghe lúc anh em ngồi
uống nuớc vỉa hè thành phố Sàigòn cách đây vài năm. Số là có
buổi giải tội luân phiên mùa Chay ở các xứ, ông bà cố bảo nhau
đi xưng tội vì có nhiều cha đến giải tội. Ông cố đi xưng tội
trước, ra thầm thì với bà cố: “Bà đi sang xưng bên toà kia đi,
toà này thằng Tèo nhà mình đang giải tội đấy”. Bà cố vốn ngại
xưng tội với ông cha con nhà mình nên vội vã sang xếp hàng bên
toà kia. Ai ngờ sự đời éo le, lúc đó các cha đi uống nuớc, khi
ra ngồi toà lại đổi chỗ cho nhau. Bà cố vào xưng tội đúng ngay
ông cha con mình nhưng không biết. Khi cha vừa lên tiếng nói thì
bà nhận ra và la lên: “Lại thằng Tèo!”.
Trong câu
chuyện trên, tôi thấy bà cố dễ thương đấy chứ! Xưng hô là chuyện
không có gì đáng bàn cãi. Xưng hô để tỏ lòng kính trọng và thân
thiện với nhau là nét sống đẹp. Ông bà bảo là “lựa lời mà nói
cho vừa lòng nhau”, tôi xin sửa lại “Gọi gì cũng vậy mà
thôi, nói lời kính trọng chính tôi hài lòng”.
Gioan Lê Quang
Vinh
Mời thăm và
giới thiệu
www.giaoducconggiao.net
|
VỀ MỤC LỤC |
|
KỸ THUẬT THA THỨ
|
Kính thưa quí
thính giả, chúng ta đang sống trong một thế giới dù nhiều hận
thù và đố kỵ, nhưng những gương sống về lòng bao dung tha thứ
vẫn được thể hiện rõ nét. Trong lịch sử loài người, những tấm
gương về lòng quảng đại tha thứ vẫn được đề cao và khơi ngợi cho
thế hệ tương lai bắt chước noi theo. Mục Sống Sao Cho Đẹp
hôm nay xin tiếp tục gởi đến đề tài Tha Thứ và Hòa Giải như để
tô điểm thêm những giá trị nhân bản mà không ít người hằng ngày
đang sống nhờ biết suy gẫm và học hỏi những mẫu gương tha thứ và
hòa giải.
Cổ Học
Tinh Hoa có kể rằng,
sau khi thắng trận lớn, Sở Trang Vương mở đại yến khao tướng sĩ
để tưởng thưởng công lao và lòng trung thành. Vua truyền cho các
cung nữ của mình ra hầu tiệc. Đang ăn bỗng một trận gió làm đèn
đuốc tắt hết. Lợi dụng bóng tối, một quan đại phu ôm chầm lấy
người đẹp đang chuốc rượu cho mình và hôn. Người đẹp chính là
nàng Hứa Cơ đang được nhà vua sủng ái nhất. Hứa Cơ bèn giật đứt
giải mũ của vị quan ấy và đem trình vua xin Ngài trừng trị thích
đáng.
Thay vì phẫn
nộ, vua ra lệnh cho các quan đều bỏ giải mũ khi đèn sáng. Không
ai hiểu tại sao ngoài ba người liên hệ. Sở Vương nói: “Trong
nguy biến, các quan đã liều thân vì đất nước. Khi vui say, các
quan quên lễ phép một chút, có sao đâu! Lẽ nào vì một chuyện nhỏ
mà quên đi lòng hy sinh cao cả của người khác”.
Hai năm sau,
nước Sở đánh nhau với nước Tần. Đánh luôn năm trận mà trận nào
cũng có một viên quan võ liều sống liều chết xông ra phía trước,
đánh rất dũng cảm làm cho quân Tần phải lui binh. Nhờ vậy, quân
Sở đại thắng.
Sở Trang
Vương lấy làm lạ bèn hỏi:
- Trẫm đãi
khanh cũng như mọi người khác, cớ sao khanh lại hết lòng giúp
trẫm như vậy?
Vị võ quan
trả lời:
- Thần rắp
tâm đem tính mạng dâng cho bệ hạ đã lâu, nhưng nay mới có dịp
đáp đền nghĩa xưa. Thần đây chính là người ngày xưa đã bị giật
đứt giải mũ mà bệ hạ không nỡ hành tội.
***
Kính thưa quí
vị, tha thứ sẽ dẫn chúng ta đến hòa giải. Còn hơn thế nữa, tha
thứ không chỉ dẫn đến hòa giải mà con xây dựng hòa bình cho
chính tâm hồn mình và cho chính gia đình, cũng như cộng đồng
mình đang sống.
Sở Trang
Vương là một vị vua có lòng khoan dung đại lượng. Ông đã tinh tế
quảng đại trong cái nhìn về cuộc đời, và về đại cuộc hơn là chỉ
xem xét những sự kiện bé nhỏ xảy ra trước mắt. Có thể nói tóm
lại, Sở Trang Vương đã biết vượt qua cái tôi ích kỷ hẹp hòi của
mình để chỉ nhìn đến điểm tích cực nơi người khác. Ông biết nhìn
điểm tốt nơi người khác và dùng nó để khỏa lấp đi những khuyết
điểm nơi những ai xúc phạm đến mình.
Quả vậy, khi
nói đến tha thứ, chúng ta cũng cần học biết kỹ thuật tha thứ; vì
nếu không, chúng ta cũng khó lòng để tha thứ được. Một trong
những kỹ thuật ấy là học nhìn điểm tích cực nơi người khác.
Là con người
ai cũng có những đức tính tốt và tích cực. Nhưng vì chúng ta
thường bỏ qua những điểm tốt này nên cách nhìn đời và nhìn người
của chúng ta cũng thay đổi.
Khi một đôi
nam nữ mới yêu nhau, họ chỉ thấy điều tốt nơi nhau và họ quyết
định kết hôn với nhau vì họ dựa trên những đức tính tốt này. Và
thậm chí đôi khi những tật xấu cũng dễ dàng được bỏ qua. Nhưng
khi sống chung với nhau, những suy nghĩ tiêu cực dần dần chiếm
chỗ những suy nghĩ tích cực về người mà mình yêu thương. Những
cãi vả, giận hờn bắt đầu xuất hiện cũng từ đó. Những điểm tiêu
cực dường như mỗi ngày một lớn hơn những điểm tích cực. Và đến
một ngày nào đó, con người mà mình một thời yêu thương, tôn thờ
giờ đây lại trở thành gánh nặng cho chính cuộc đời của mình.
Thay vì là tìm điểm tốt nơi nhau và khuyến khích nhau sống điều
tốt, thì họ chỉ thường thấy điểm xấu của nhau và chỉ trích nhau.
Đó chính là hậu quả của cái nhìn tiêu cực về người khác. Đó cũng
là hậu quả của việc không học kỹ thuật để tha thứ.
Hôm nay tôi
mời bạn nhìn vào gia đình mình, người thân mình, con cái mình,
và rộng hơn là bạn hữu mình. Các bạn hãy nhìn vào những con
người này và hãy nói với chính mình về những đức tính tốt của họ.
Các bạn muốn tha thứ cho ai ư! Thưa các bạn, các bạn cũng hãy
bắt đầu bằng cách: Hãy nhìn điểm tốt nơi người khác. Chẳng lẽ
con người mà theo bạn là “không thể tha thứ được” lại không có
lấy ba điểm tích cực trong con người họ sao? Đừng để những
chuyện nhỏ phá hư đi ý nghĩa cao đẹp của đời người.
Lạy Chúa,
xin giúp chúng con học biết tha thứ. Xin cho chúng con sức mạnh
để tha thứ cho những ai mà chúng con không thể tha thứ được. Để
làm được việt đó, xin Chúa cho chúng con khả năng biết nhìn điểm
tốt nơi anh em chúng con, nhờ đó, chúng con sẽ học tha thứ một
cách dễ dàng hơn.
Br. Huynhquảng
Xin mời quí vị
nghe audio mục Sống Sao Cho Đẹp tại website:
www.gdthanhgiusetampa.org
|
VỀ MỤC LỤC |
|
TÂM LÝ VỢ CHỒNG TRẺ - NHỮNG KHÁC
BIỆT NƠI NGƯỜI VỢ
|
Tác phẩm: Cẩm Nang Hạnh Phúc Gia Đình
Kitô - MỤC VỤ HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH
Tác
giả: D. WAHRHEIT (Lm. Minh Anh, GP. Huế tổng hợp biên tập)
A1. TÂM LÝ VỢ CHỒNG TRẺ - NHỮNG
KHÁC BIỆT NƠI NGƯỜI VỢ
Những ngày hẹn hò đã qua.
Những giây phút thần tiên của tuần trăng mật cũng đã hết.
Bây giờ là cuộc sống chung mà đôi vợ chồng trẻ phải giáp mặt
và cùng nhau xây dựng. Thực tế trước tiên mà họ phải đương
đầu chính là những khác biệt giữa hai người. Lâu đài tình
yêu không chỉ được xây bằng những viên gạch đồng điệu nhưng
còn cần đến những vật liệu khác biệt nhau.
Do đó, nguyên tắc tối quan
trọng để xây dựng đời sống chung là ý thức khác biệt của
nhau, đồng thời chấp nhận sự khác biệt ấy như một kho tàng
hầu phong phú hóa lẫn nhau.
1.
Với người chồng trẻ, chúng tôi xin được phép
khuyên ngay điều này: họ cần tâm niệm luôn rằng, người vợ có
những điểm hoàn toàn khác biệt với họ. Chỉ khi nào chấp nhận
sự thật ấy, người chồng mới thấy hiểu vợ mình là một điều
cần thiết. Hiểu vợ mình, hay nói chung, hiểu một người đàn
bà là chấp nhận rất nhiều điều mà cách chung, đàn ông chỉ có
ý niệm lờ mờ. Những người chồng bắt đầu tỏ ra hờ hững và vô
tình kể từ lúc họ cho rằng, chuyện của vợ mình là chuyện vớ
vẩn hoặc vợ mình là người kém hiểu biết.
Thật ra, người vợ có cái lý
của họ. Những gì mà người chồng cho là vô lý nơi vợ mình,
thực ra chỉ là những điều mà ông ta không hiểu hoặc không
muốn hiểu. Lắm khi người đàn bà tỏ ra vô lý để buộc người
chồng phải xử sự như một người người đàn ông.
Tiếng “không” mà đôi
khi người vợ phải thốt lên với chồng là một dấu hiệu rất rõ
ràng cho thấy ông không thể xử sự với vợ chỉ bằng lý luận
khúc chiết của ông, trái lại, còn phải có tình thương, sự
cảm thông và sự khoan nhượng hơn.
Người vợ nói “không” là
để thách thức người chồng xử sự như một người chồng đích
thực như một tác giả đã nói: “Người đàn ông chỉ thực sự là
người đàn ông khi có người đàn bà”. Người chồng chỉ thực sự
là người chồng khi có sự thách thức của người vợ.
Người chồng đừng bao giờ quên
rằng: người vợ, tự bản chất, mong muốn cho những người thân
của mình được hạnh phúc. Nhưng dĩ nhiên theo cách của bà.
Khi mong muốn cho người thân của mình được hạnh phúc, người
đàn bà cũng có thể tỏ ra độc tài như là muốn mọi người phải
làm theo ý mình. Nhưng cái ý muốn làm cho người khác được
hạnh phúc và bắt người khác phải làm theo ý mình thực ra
cũng là một hình thức dâng hiến của người đàn bà.
Người ta thường nói: người đàn
bà thường hành động bằng tình cảm hơn bằng lý trí. Đó là lý
do khiến người đàn bà dễ khăng khăng với lập trường của mình
hơn. “Vợ muốn là trời muốn” là thế.
Khác với đàn ông, người đàn bà
nhìn vào thực tế bằng một cái nhìn phân tích. Họ dừng lại ở
những đặc điểm nhỏ và chi tiết của sự vật do cảm tính thúc
đẩy và hướng dẫn. Cái nhìn của ngưòi đàn bà về cuộc sống
thường nồng nhiệt, hăng say hơn cái nhìn của người người đàn
ông. Họ dễ cảm xúc hơn người đàn ông khi đứng trước nỗi khổ
của người khác. Người ta gọi cái nhìn của người đàn bà là
cái nhìn trực giác. Nghĩa là đàn bà nhìn xuyên suốt bản chất
sự vật và thích nghi với thực tế dễ dàng hơn người đàn ông.
Chính vì cái nhìn trực giác ấy mà có lẽ tính khí của đàn bà
dễ thay đổi hơn người đàn ông.
2.
Trong một đại hội y khoa quốc tế mới đây, người ta khẳng
định, sự yếu đuối về cơ bắp nơi cơ thể của người đàn bà được
bù đắp bằng hiệu năng của những giác quan và hệ thống thần
kinh. Do đó, thực sai lầm khi cho rằng, có một phái mạnh và
một phái yếu.
Lịch sử thế giới cũng như lịch
sử Giáo Hội cho thấy có biết bao người đàn bà đã viết lên
những trang sử hào hùng, hoặc chính nhờ những người đàn bà
mà người đàn ông mới có thể có những thành công hiển hách.
Tác giả Asler Montéguy trong
cuốn sách nhan đề “Sự Trổi Vượt Của Đàn Bà” đã viết như sau:
“Đàn
bà yêu thích những gì thuộc về nhân tính. Đàn ông, nói
chung, có thái độ ngược lại. Người đàn ông hành động như thể
họ không được yêu thương đầy đủ, như thể họ phải chịu những
uẩn ức làm phát sinh trong tâm hồn họ sự thù ghét. Trở nên
gây hấn, người đàn ông cho rằng, sự gây hấn là một đặc tính
tự nhiên và đàn bà là những kẻ thấp hèn bởi vì họ tử tế và
hoà nhã.
Sự trổi vượt của người đàn
bà trên người đàn ông được thể hiện trong sức mạnh yêu
thương của họ, cũng như sức đẩy nội tại khiến họ có thái độ
hợp tác hơn là gây hấn”.
Chúng ta đừng quên, sức đẩy
yêu thương và cộng tác là điều tự nhiên của tâm hồn con
người. Sự sống còn và định mệnh của nhân loại tuỳ thuộc ở
tình yêu và sự tương trợ. Vai trò của người đàn bà chính là
dạy cho người đàn ông sống nhân bản, sống nên người hơn.
Một tác giả đã ví von: người
đàn bà đối với người đàn ông cũng như một con số đối với
những con số không. Tự nó, những con số không chẳng có giá
trị nào, nhưng thêm vào đó một đơn vị nó sẽ tăng gấp bội lần
giá trị của một con số.
3.
Đời sống hôn nhân là khởi đầu của một cuộc khám
phá. Yêu nhau, nên một với nhau, không có nghĩa là xóa bỏ
mọi khác biệt; cũng không có nghĩa là bắt người khác phải
nên giống mình. Sự hoà hợp chỉ có khi hai bên biết tôn trọng
những khác biệt của nhau. Mãi mãi, người phối ngẫu vẫn là
một mầu nhiệm để chiêm ngưỡng.
Bao lâu người chồng ý thức vợ
mình có những khác biệt trong suy nghĩ, trong hành động,
trong cách cư xử và cố gắng để tôn trọng và hoà hợp với
những khác biệt ấy thì đó là dấu chỉ cho thấy người chồng
còn tha thiết với tình yêu và hạnh phúc lứa đôi.
Trái lại, khi người chồng
không nhìn nhận những khác biệt ấy và cưỡng bách người vợ
phải khuôn rập theo cách suy nghĩ, hành động và ý muốn của
mình, lúc đó sẽ không có tình yêu nữa mà chỉ có nô lệ và sợ
hãi.
Khởi đầu cuộc sống vợ chồng,
người chồng trẻ nên tâm niệm mỗi ngày, vợ mình có những điểm
khác biệt với mình và những khác biệt ấy không là một cản
trở cho tình yêu; trái lại, là một yếu tố giúp cho mình được
thêm phong phú, cần thiết cho việc vun xới và củng cố tình
yêu vợ chồng.
còn tiếp nhiều kỳ
|
VỀ MỤC LỤC |
|
LINH MỤC GIÁO PHẬN SỐNG TU ĐỨC TOÀN DIỆN
|
[BẢN THẢO]
LINH MỤC GIÁO PHẬN SỐNG TU ĐỨC TOÀN DIỆN
TRONG BỐI CẢNH THỰC TẾ CỦA GIÁO HỘI VÀ XÃ HỘI VIỆT NAM HÔM NAY
LỜI NÓI ĐẦU
Tôi
rất thích định nghĩa này: “Đời sống thiêng liêng là đời sống nhân bản được
sống trong Chúa Thánh Thần.” Quả vậy, việc đào tạo linh mục (được đào tạo và
tự đào tạo) phải đi qua tiến trình “làm con người tốt, rồi làm người kitô hữu
tốt, thì mới làm người linh mục tốt được.” Nếu hạ tầng cơ sở mà không vững
chắc thì thượng tầng kiến thiết sẽ không bền lâu được. Điều đó Chúa Giêsu đã nói
rõ trong Phúc Âm qua việc xây nhà trên đá.
Sau
nhiều năm chia sẻ với các ứng sinh linh mục và tu sĩ thuộc nhiều giai đoạn được
đào tạo và tự đào tạo, từ những gì tôi đã học được, đã hiểu, đã cố gắng sống và
trải nghiệm, những kinh nghiệm sống bản thân không thiếu thăng trầm va vấp cho
đến nay ở tuổi bảy mươi, những kinh nghiệm qúi báu rút tỉa được từ việc giúp
tĩnh tâm, giải tội đối thoại và linh hướng, cũng như những bài học học được khi
họ chia sẻ những thao thức, những trăn trở, những niềm vui và đau khổ, nước mắt
và nụ cười, những thành công và thất bại, những thách đố và trông đợi, ở chính
mình, ở anh chị em, ở Bề Trên và các nhà đào tạo, ở những người họ phải giao
tiếp trong sứ vụ tông đồ, thuộc về Giáo Hội hay ở ngoài Giáo Hội công giáo, tôi
nhận ra một thực tế rất hữu ích rằng chúng ta cần học hỏi lẫn nhau và cùng nhau
học với vị thầy duy nhất là Chúa Giêsu Kitô trong Chúa Thánh Thần, nhất là đối
với các ứng sinh linh mục triều.
Trong
ánh sáng Lời Chúa và giáo huấn của Giáo Hội, những kinh nghiệm sống ấy gợi hứng
cho tôi chú tâm hơn vào thực tế cuộc sống khi soạn đề tài “LINH
MỤC GIÁO PHẬN TƯƠNG LAI SỐNG TU ĐỨC TOÀN DIỆN TRONG BỐI CẢNH THỰC TẾ CỦA GIÁO
HỘI VÀ XÃ HỘI VIỆT NAM HÔM NAY.”
Mong
muốn của phần này là cố gắng theo sát ánh sáng chỉ đạo của giáo huấn Giáo Hội để
nhìn vào thực tế đang diễn ra trong Giáo Hội và thế giới, đặc biệt trong bối
cảnh Giáo Hội và Xã hội Việt Nam, hầu giúp ứng sinh can đảm đối mặt với thực tế
của đời mình, và từ thực tế đó mà định hướng hay tái định hướng đời sống ơn gọi
của mình theo đúng bản chất đích thực của lý tưởng đời sống và sứ vụ linh mục
triều mà Chúa và Giáo Hội mong muốn, thế giới và con người ngày nay đang chờ
đợi, với mục đích kép là vừa học cho mình sống hôm nay vừa chuẩn bị hành trang
cho sứ vụ của mình ngày mai.
Vấn
đề
thật
cần thiết và hữu ích, nhưng vượt quá tầm với của sức mình, nên tôi thêm hai chữ
“BẢN THẢO” ở giáo trình này. Phải, đây mới là bản thảo. Là bản thảo nghĩa là
chưa xong, chưa đầy đủ, chưa tốt, cần phải được liên tục sửa chữa, hiệu đính,
cập nhật cái mới, bỏ đi cái cũ hay không thích hợp. Công việc này không phải tự
mình tôi hay cùng những người nghe tôi chia sẻ và chia sẻ với tôi mà làm được.
Tôi tha thiết xin mọi người, nhất là các bậc Thầy, các bậc Đàn Anh giúp chỉ giáo
và sửa chữa giúp tôi, vì lợi ích lớn hơn của các ứng sinh, đang học làm linh
mục và sẽ sống linh mục hơn lên mỗi ngày trong sứ mệnh của
Giáo Hội giữa lòng thế giới không ngừng biến chuyển, đặc biệt trong bối cảnh
Giáo Hội và Xã Hội Việt Nam hôm nay.
Nguyện xin Chúa Thánh Thần tiếp tục cho đến hoàn thành tốt đẹp những gì Ngài đã
thương khởi sự cho chúng ta và với chúng ta, nhờ lời cầu bàu mạnh thế của Mẹ
Maria Lavang và Thánh Cả Giuse.
Bùi
Chu, Xuân Canh Dần
Micae-Phaolô Trần Minh Huy pss
CHƯƠNG MỘT
LINH MỤC GIÁO PHẬN TƯƠNG LAI
sỐng TỐT đỜi SỐNG đỘc thân LINH MỤC
TRONG BỐI CẢNH GIÁO HỘI VÀ XÃ HỘI VIỆT NAM HÔM NAY
Điều khẳng định căn để là bản chất đời sống độc thân linh mục vẫn là một đòi
buộc không hề thay đổi trong Giáo Hội Công Giáo Rôma và được các đương sự tự
nguyện dấn thân vào. Nhưng trong bối cảnh xã hội hôm nay, nó phải được hiểu,
được sống và được bảo vệ một cách tế nhị, cương quyết và khôn ngoan dù khó khăn
hơn các thế hệ trước đây.
A. ĐẶT VẤN ĐỀ:
MÔI TRƯỜNG SỐNG CỦA ỨNG SINH TRƯỚC KHI ĐƯỢC TIẾP NHẬN VÀ ĐÀO TẠO
Chúa
kêu gọi và chọn lựa một người từ trong hoàn cảnh sống cụ thể của mình. Vậy môi
trường sống của các ứng sinh muốn theo đuổi lý tưởng linh mục tại Việt Nam ngày
nay như thế nào?
A.I.
KẾt quẢ cỦa mỘt cuỘc
điỀu tra
Có một cái gì đó thức tỉnh và thúc giục chúng ta khi đọc những kết luận giật
mình được công bố trong cuộc Hội thảo “Giáo dục đạo đức cho học sinh, sinh
viên ở nước ta hiện nay - Thực trạng và Giải pháp” do Hội Khoa học Tâm lý -
Giáo dục Việt Nam tổ chức năm 2007 tại Đồng Nai.
A.I.1 Càng lên cao, người trẻ càng... “hư”
Tỷ lệ quay cóp:
Rất ngạc nhiên khi có tới 8% học sinh tiểu học đã... quay cóp. Con số này lên
đến bậc THCS và THPT đã nhảy vọt thành 55% - 60% và đến bậc ĐH, CĐ đã thành 69%.
Tỷ lệ nói dối:
Ở bậc Tiểu học, đã có tới 22% nói dối cha mẹ, còn ở bậc THCS và THPT thì có tới
50% - 64% học sinh lừa cha dối mẹ. Và ở bậc ĐH, CĐ có đến hơn 80% sinh viên sẵn
sàng nói dối để qua mặt phụ huynh.
Tỷ lệ thiếu niên phạm pháp
cũng ngày một tăng cao: năm 1986 có 3.607, năm 1996 có 11.726 em vị thành niên
phạm tội bị phát hiện (gấp 3 lần). Trung bình mỗi năm trên cả nước có 4.746
thiếu niên phạm pháp.
Nạn ma túy học đường
gia tăng đột biến ngày càng trở thành vấn đề nhức nhối: Năm 2004 chỉ có 600 học
sinh, sinh viên nghiện ma túy, đến năm 2007 con số này đã tăng lên 1.234 học
sinh, sinh viên.
A.I.2 Phong cách sống đạo đức
của học sinh, sinh viên ngày càng “có vấn đề”: Kết quả cuộc điều tra khảo sát
năm 2007 tại 30 trường ĐH-CĐ trong cả nước do Vụ Văn hóa - Ban Tư tưởng Văn hóa
Trung Ương phối hợp với Vụ Công tác Học sinh Sinh viên (Bộ GD-ĐT) cho thấy
51,4% sinh viên cho rằng “sống thử trước hôn nhân là hiện tượng khá phổ biến”
và được coi là “bình thường” [x. Hiện tượng “sinh viên tầm gửi” và “tình
ở trọ”]
A.I.3 Một số các nguyên nhân
-
Chúng ta vẫn nặng về dạy chữ, nhẹ về dạy người.
Nhiều giáo viên lên lớp chỉ lo truyền giảng kiến thức chuyên môn, chứ
không chú trọng để uốn nắn chỉnh sửa những sai
trái của học trò mình.
-
Gia đình buông lỏng việc quản lý giáo dục con cái,
để trẻ ngày càng tách khỏi thế giới thực và bị cuốn hút bởi những trò chơi bạo
lực ly kì, hấp dẫn trên TV mà quên đi nhiệm vụ học tập, giúp đỡ gia đình.
-
Việc giáo dục đạo đức trong nhà trường từ bậc phổ thông đến đại học còn nhiều
bất ổn:
Các chương trình giáo dục đạo đức còn nặng về lý thuyết, nhẹ giáo dục kỹ năng
sống, không tạo được dấu ấn và điều kiện thuận lợi để hình thành nhân cách cho
học sinh.
-
Tác động của nền kinh tế thị trường,
sự hội nhập các nền văn hóa và sự hấp dẫn của đời sống đô thị đã làm cho các giá
trị đạo đức truyền thống bị xâm hại và mai một dần.
-
Người trẻ càng lớn càng hư vì nhiều năm qua họ phải thụ hưởng một nền giáo
dục đạo đức theo kiểu quan liêu, giáo điều, áp đặt, nhồi nhét và khô cứng
mà không được tôn trọng thật sự.
-
Cần coi trọng tính thực tiễn trong việc giáo dục đạo đức cho học sinh, sinh
viên:
Thầy cô cần tích cực liên hệ thực tiễn, đưa ra nhiều tình huống để các em tự
giải quyết, qua đó các em nhận thức được giá trị sống, học được kỹ năng cơ bản
và định hướng hành vi. Nội dung chương trình các môn học khác cần được lồng ghép
với nội dung giáo dục một cách phù hợp.
-
Yếu tố kinh tế là vấn đề nổi cộm nhất, mà môi trường gia đình và xã hội
có nhiều yếu tố xấu tác động trực tiếp đến nhân cách học sinh, đặc biệt là vấn
đề đạo đức”.
A.II. NhẬn đỊnh cỦa HĐgm ViỆt Nam
“Ngày
nay, một trong những điều gây nhức nhối lương tâm là sự gian dối trong nhiều
lãnh vực, kể cả trong môi trường cần đến sự thật nhiều nhất là giáo dục học
đường. Chắc chắn tất cả những ai tha thiết với tiền đồ của đất nước và dân tộc
không thể không quan tâm đến tình trạng này... Do đó, việc giáo dục đạo đức và
lương tâm phải là trách nhiệm hàng đầu của toàn xã hội, và cần đến sự tham gia
tích cực của người dân cũng như các tổ chức xã hội”
A.III. SUY TƯ
và nỖ lỰc cẢi tiẾn CỦA Chúng ta
Người có trách nhiệm trước nhất và cao nhất trong việc tuyển chọn và đào tạo
linh mục là Giám Mục giáo phận. Đây cũng là trách nhiệm của mọi thành phần Dân
Chúa, giáo sĩ, tu sĩ và giáo dân, đặc biệt là các cha xứ (x. GL 233: “Toàn
thể cộng đồng kitô giáo có bổn phận phải cổ động các ơn gọi để đáp ứng đủ những
nhu cầu của thừa tác vụ thánh trong toàn thể Giáo Hội. Bổn phận này bó buộc cách
riêng các gia đình, các nhà đào tạo, đặc biệt là các giáo sĩ, nhất là các cha
sở... Chuẩn bị thích đáng cho những người nam đứng tuổi cảm thấy mình được gọi
vào thừa tác vụ thánh.”
Nhưng trong chiều kích Giáo Hội tham gia, Giám mục giáo phận ủy nhiệm cho một số
nhà đào tạo đã được chuẩn bị kỹ lưỡng cộng tác với Ngài để:
-
đồng hành với các ứng sinh,
-
tiệm tiến thẩm tra và giúp ứng sinh biện phân ý Chúa và
thực thi ý Chúa (qua câu chuyện đời của anh),
-
bảo đảm cho ứng sinh là anh được Thiên Chúa kêu gọi,
-
mời gọi anh tham gia vào việc đào tạo chính anh bằng việc
tự đào tạo chính mình,
-
và sau cùng, chính việc Giám Mục gọi ứng sinh lên chịu chức
linh mục xác nhận ơn gọi đích thực của Chúa đối với anh.
Cuộc
sống đức tin, nhất là đời sống ơn gọi, luôn là lối đi ngược dòng với xu hướng
thời đại của nền văn minh sự chết. Tuy nhiên, sống trong một bối cảnh xã hội như
thế, chắc chắn các thanh thiếu niên nam nữ Công giáo cũng không thể không chịu
ảnh hưởng, kể cả các dự tu nam nữ trong thời gian tìm hiểu và đi học ở ngoài.
Thật
thế, trong Huấn Thị “Những chỉ dẫn về việc huấn luyện trong các dòng tu,” Bộ Tu
sĩ nhận định: “… Thường có sự chênh lệch giữa những kiến thức đời, đôi khi
rất chuyên môn, với sự tăng trưởng tâm lý và đời sống kitô… Họ cũng chịu ảnh
hưởng của một xã hội tiêu thụ cùng với những thất vọng của nó. Khi đạt tới một
địa vị xã hội, đôi khi rất vất vả, một số đã bị băng hoại do bạo lực, ma túy và
dâm ô… Trong số những ứng sinh vào đời tu, càng ngày càng có không ít thanh niên
đã có những kinh nghiệm thương đau trong lãnh vực vừa kể trên… đòi phải được
thanh lọc và uốn nắn lại”
Do
đó, các nhà đào tạo phải quan tâm đến các mối liên hệ xã hội và đời sống độc
thân thanh khiết của các ứng sinh trước khi vào Chủng viện hay Dòng tu.
Phải cân nhắc thái độ của ứng sinh đối với giới tính và khả năng sống độc thân
thánh hiến (Bộ GDCG, Chỉ dẫn việc huấn luyện độc thân linh mục tr.7-75);
đồng thời phải xem ứng sinh có ngăn trở Giáo luật nào không (GL 1024-1052).
Trong một xã hội tục hoá, buông thả luân lý và hưởng thụ khoái lạc, các nhà đào
tạo cần phải giúp các ứng sinh nhận ra được lý tưởng cao cả của chức linh mục và
đời sống tu sĩ, cùng những yêu sách tất nhiên của nó ở trong Giáo Hội, hầu kiên
trì sử dụng mọi phương thế tự nhiên và siêu nhiên để gìn giữ và tự bảo vệ lấy
mình, trong mọi mối tương quan nhân loại, nhất là tương quan khác phái, hầu được
xứng hợp theo đuổi lý tưởng ơn gọi cho đến cùng.
Người
trẻ ngày nay trưởng thành sớm về mặt sinh học nên chuyện tình cảm yêu đương
không thể tránh. Họ cần được giúp hiểu và sống tốt nguyên vẹn cuộc đời mình
trước khi đi vào lựa chọn đời sống hôn nhân hay đời sống linh mục và tu sĩ đúng
như Chúa muốn và Giáo Hội dạy. Đồng thời cũng phải giúp họ thẳng thắn nhìn nhận
những cản trở và chiến đấu không thể vượt qua được để lượng sức mình mà đổi
hướng sớm, không cần đợi đến lúc bị phát hiện hay bị tố cáo, vì con đường linh
mục hay tu sĩ không phù hợp cho họ.
Đối
với người Việt Nam chúng ta, lãnh vực tính dục rất tế nhị, các nhà đào tạo phải
làm cho mình trở thành người biết nhẫn nại lắng nghe và khả tín hầu ứng sinh dễ
dàng bộc lộ sự thật, đồng thời đừng để mình dễ bị “sốc” và có ngay biện pháp
khiến ứng sinh lo sợ và co mình lại hoặc nói dối, kẻo một lần đã nói dối thì họ
sẽ có khuynh hướng nói dối mãi, dù biết rằng sẽ phải trả giá rất đắt khi lời nói
dối bị vạch trần.
Vì
thế, thật hữu ích trong thời gian đầu này, ứng sinh cần được trình bày rõ và tự
mình có trách nhiệm đối mặt với những gì đã xảy ra cho mình và giải quyết chúng,
với sự giúp đỡ của các nhà đào tạo, nhất là vị linh hướng. Có thế thì sự chọn
lựa đời sống linh mục hay tu sĩ có hướng dứt khoát ngay từ đầu, để tiến trình
đào tạo và tự đào tạo được thanh thản và hiệu quả.
Nếu
chỉ là chuyện tình cảm và tình yêu thì nên dần dần chấm dứt đi, khi đã chọn lựa
đời tu. Nếu lỡ có chi hơn thế mà không đến đỗi mắc ngăn trở thì càng phải cương
quyết chấm dứt, triệt để biến đổi lật sang trang đời mới, không nuôi dưỡng đèo
bồng du dưa nữa. Kể cả hai bên đều cùng đi tu thì phải biến đổi và thăng hoa nó
lên, để tránh những hệ lụy “người xưa cảnh cũ” sau này. Tốt nhất là không nên
tìm cơ hội gặp gỡ riêng tư với người tình cũ. Nhớ câu chuyện “đứt đuôi nòng
nọc.”
Và dù có nói là quyết tâm lật sang trang đời mới thì cũng cần có đủ thời gian để
ứng sinh trắc nghiệm chính mình là mình có thể kiên trì làm được điều đó; đồng
thời người có trách nhiệm có đủ dữ kiện để an tâm chứng nhận rằng ứng sinh thực
sự đã đổi mới và kiên trì tiến bước được trên đường ơn gọi. Giáo Hội đã quá đau
khổ, bị thiệt hại vì chuyện này và đang nỗ lực nghiêm khắc chấn chỉnh ngay từ
bước tuyển lựa và đào tạo đầu tiên. Tiếc là nhiều người quá chú trọng đến THI về
kiến thức mà không có TUYỂN kỹ càng về phẩm chất đạo đức, thanh danh luân lý và
những vấn đề thuộc tâm sinh lý, cũng như những cản trở Giáo luật có thể có.
Đã
là con người thì ai cũng có những nhu cầu và ham muốn tự nhiên cần phải chiến
đấu, nhưng tội nghiệp cho những ai “bén mùi chùi chẳng sạch” sẽ phải chiến đấu
nặng nề hơn. Tuy nhiên, nếu cứ phải chiến đấu quá nặng nề và quá dai dẳng thì
không nên để tiếp tục, vì sẽ khổ cho đương sự và nhiều người khác sau này, thiệt
hại cho công cuộc dưỡng giáo và truyền giáo của Giáo Hội.
Chớ
gì ngay từ những ngày còn là mầm non ơn gọi, các người có trách nhiệm trong gia
đình, giáo xứ và giáo phận tích cực hướng dẫn, nói rõ cho các em biết và xem
xét, nếu em nào không có khả năng sống độc thân khiết tịnh (tiết dục toàn vẹn và
trường kỳ) như Giáo Hội đòi hỏi thì thôi, đừng cho tiếp tục nữa, kẻo các em sẽ
hiểu sai lệch và có một lương tâm lệch lạc về đời sống linh mục và tu sĩ, rất
nguy hiểm. Cũng nên xem xét kỷ các động lực đi tu của các em.
Chuyện gì làm riêng tư một mình thì có Chúa biết. Nhưng chuyện gì làm giữa hai
người thì rồi người khác cũng sẽ biết, không biết được hôm nay thì mai kia cũng
sẽ biết. Có thể vì nhân đạo, họ không nói hoặc chưa nói đó thôi. Ứng sinh nên
nhớ rằng những người thương mình và bảo vệ Giáo Hội sẽ không chấp nhận thái độ
nước đôi đó đâu. Những người ghét mình hay gia đình mình sớm muộn gì sẽ tố cáo.
Và ngay chính người con gái khó quên được chuyện ấy cũng sẽ không giữ kín được
lâu đâu. Nàng có thể chấp nhận mất người yêu cho Chúa và Giáo Hội, chứ không
chịu mất trong tay một hay nhiều cô gái khác đâu; và rồi chính nàng sẽ làm ra
chuyện, vì “không ăn được thì đạp đổ!”
Nếu
thiếu tính tự giác tự nguyện đổi hướng về phía ứng sinh, thì ứng sinh nào bị
phát hiện là không thích hợp, vì khiếm khuyết thể lý, quân bình tâm lý hay luân
lý, và có những ngăn trở theo Giáo luật, nên mạnh dạn và nhanh chóng đưa đương
sự ra khỏi con đường theo đuổi ơn gọi. Cả hai phía, các nhà đào tạo và ứng sinh,
không được phép nuôi dưỡng những hy vọng hảo huyền và những ảo tưởng nguy hiểm,
dù biết rằng mỗi vị thánh đều có một quá khứ và mỗi tội nhân đều có một tương
lai. Cũng không ai được tự phụ rằng ơn thánh sẽ thay thế cho những khiếm
khuyết tự nhiên.
A.IV. Ứng sinh nên biẾt sỚm VỀ TRỞ NGẠI
GL:
Tuy
đang ở những bước khởi đầu, các ứng sinh cần được biết sớm những khoản Giáo Luật
liên quan cần thiết. Không nên để quá muộn khiến tiến thối lưỡng nan, thiệt hại
cho Giáo Hội lẫn cho đương sự.
-
GL 1024 và 1033: Chỉ có người nam nào đã lãnh nhận Bí tích
Rửa Tội và Thêm Sức rồi mới được lãnh nhận chức thánh cách thành sự và hợp pháp.
-
GL 1025: Phải trải qua một thời gian thử thách, hội đủ
những đức tính thích hợp, không bị điều bất hợp luật và ngăn trở nào, đủ các
giấy tờ cần thiết, và phải được điều tra kỹ lưỡng (x. GL 1051)
-
GL 1026: Đương sự phải được tự do hoàn toàn, tuyệt đối
không được cưỡng bách bằng bất cứ cách nào và vì bất cứ lý do gì, cũng không
được ngăn cản người đủ khả năng xứng hợp theo Giáo luật (x. Chuyện lo và sợ sau
khi học về nhiệm vụ linh hướng).
-
GL 1029: Chỉ nên cho tiến chức những ứng sinh có đức tin
tinh tuyền, ý hướng ngay lành, kiến thức cần thiết, danh thơm tiếng tốt, đức
hạnh vẹn toàn, nhân đức vững vàng, các đức tính về thể lý và tâm lý phù hợp với
chức thánh sẽ lãnh nhận.
-
GL 1036-1037: Ứng viên phải đệ trình một bản tuyên bố do
chính tay mình viết và ký tên xác nhận mình tự nguyện và tự do xin được chịu
chức và sẽ vĩnh viễn dấn thân cho thừa tác vụ của Giáo Hội, đã công khai đảm
nhận nghĩa vụ sống độc thân trước Thiên Chúa và Giáo Hội.
-
GL 1041: Những bất hợp luật không được chịu chức:
-
điên khùng/bệnh tâm thần không đủ năng lực chu toàn thừa
tác vụ;
-
bội giáo, lạc giáo hay ly giáo;
-
mưu toan kết hôn, dù chỉ là hôn nhân dân sự;
-
tội sát nhân, phá thai có hiệu quả, hay tích cực cộng tác
vào;
-
chủ tâm hủy hoại thân thể mình hay kẻ khác, đã mưu toan tự
vẫn;
-
đã thực hiện một hành vi thuộc bí tích truyền chức [ngồi
vào tòa giải tội nghe xưng tội, lấy MTC ra ban phép lành cho giáo dân…].
-
GL 1043: Buộc tín hữu phải trình báo với Bản quyền về người
có những ngăn trở để nhận lãnh chức thánh.
-
GL 1045: Dù không biết là có những điều bất hợp luật và
những ngăn trở thì vẫn bị mắc những điều ấy.
-
GL 1051: Phải điều tra theo các phương thế hữu ích tùy hoàn
cảnh mỗi thời và mỗi nơi:
-
giấy chứng nhận các đức tính cần thiết: học thuyết ngay
lành, đạo đức chân thành, hạnh kiểm tốt, khả năng thi hành thừa tác vụ;
-
giấy chứng nhận đã khám nghiệm kỹ lưỡng sức khoẻ thể lý và
tâm lý.
Ứng
sinh cũng cần có một cam kết khởi đầu về ý ngay lành và tính trung thực của việc
theo đuổi ơn gọi, liên quan đến bối cảnh gia đình “xét như chủng viện đầu tiên”
(Optatam Totius số 21), những điều kiện bên ngoài, những điều kiện tự nhiên và
những điều kiện thiêng liêng (x. Bản câu hỏi tự vấn).
Ứng
sinh cũng được yêu cầu trải qua một cuộc kiểm tra sức khỏe tổng quát và trắc
nghiệm tâm lý; lãnh vực đời sống tình cảm cũng cần được khảo sát và chữa lành
hầu đạt được sự ổn định cần thiết cho đời sống linh mục mai ngày; những gánh
nặng nội tâm cần được tháo gỡ và giải quyết nhờ sự trợ giúp của các nhà đào tạo,
nhất là vị linh hướng (GL 239,2; 240,2; 246,4; FABC, 7th Plenary Assembly,
Spiritual Direction).
-
GL 239,2: Mỗi chủng viện phải có ít nhất một vị linh hướng
và những tư tế khác được Giám Mục chỉ định vào nhiệm vụ này.
-
GL 240,2: Không bao giờ được hỏi ý kiến của vị linh hướng
hay cha giải tội trong việc cho chủng sinh tiến chức hoặc sa thải.
-
GL 246, 4: Ứng sinh phải thường xuyên lãnh nhận bí tích sám
hối và tự do chọn lựa cho mình một vị linh hướng để có thể tin tưởng bày tỏ
lương tâm. Việc linh hướng thuộc bí mật tòa trong, như ấn tòa giải tội, trong
mối tương quan khép kín tay ba (Chúa Thánh Thần, ứng sinh và vị linh hướng)
Điều
mà vị linh hướng khám phá về người thụ hướng ở toà trong sẽ không được tiết lộ
ra ở toà ngoài. Điều này không những để bảo vệ người thụ hướng, mà còn cống hiến
cho anh sự tín nhiệm và tin tưởng rằng điều gì anh đã bộc lộ ở tòa trong vẫn
được giữ bí mật. Chính niềm tín nhiệm và bảo đảm này mang lại sự chữa lành tận
gốc. Ngay trong tai họa lạm dụng tình dục trẻ em khiến lập trường Giáo Hội trở
nên cứng rắn hơn và yêu cầu tích cực hợp tác với thẩm quyền dân sự thì ấn tòa
giải tội vẫn phải tuyệt đối tuân giữ, là cha giải tội không được tố cáo các linh
mục xưng thú phạm tội ấu dâm.
Tóm
lại, việc chuẩn bị các ứng sinh thích hợp là nhiệm vụ hàng đầu của cộng đoàn
Giáo phận, mà trên hết là của Giám Mục Bản Quyền và những người Ngài tin tưởng
ủy thác cho công cuộc tối quan trọng này. Sự chuẩn bị nhắm đến việc tiếp nhận
các ứng sinh vào chủng viện, qua việc phân định, nhận xét, đánh giá, tuyển chọn
và khai tâm họ đi vào sự cam kết khởi đầu tiến trình tự biến đổi và cam kết với
sứ vụ (x. GL 241). Việc đào tạo ở chủng viện tùy thuộc vào phẩm chất của các ứng
sinh đã được nhận vào.
ĐTC
Biển Đức XVI đau đớn về vấn đề lạm dụng tình dục trẻ em hiện đang làm ta bối
rối, một vấn đề từng góp phần vào việc làm suy yếu đức tin không ít và mất đi
lòng tôn kính đối với Giáo Hội và giáo huấn của Giáo Hội, đã nêu ra một số
nguyên nhân:
“Chỉ bằng cách xem xét cẩn thận nhiều yếu tố phát sinh ra cuộc khủng hoảng hiện
nay mới có thể tiến hành được một cuộc chẩn bệnh sáng suốt các nguyên nhân gây
ra bệnh và tìm thấy các phương thuốc hữu hiệu. Chắc chắn, trong các yếu tố góp
phần, ta có thể kể ra: các thủ tục thiếu sót trong việc ấn định ra tư cách xứng
đáng để các ứng viên lãnh nhận chức linh mục và cuộc sống tu trì; thiếu sót
trong việc đào tạo nhân bản, luân lý, tri thức và thiêng liêng trong các chủng
viện và tập viện; khuynh hướng trong xã hội nể vì hàng giáo sĩ và những khuôn
mặt có thẩm quyền khác; và việc quá quan tâm một cách không đúng chỗ tới tiếng
tăm của Giáo Hội và tránh gương mù gương xấu, kết quả là không áp dụng các hình
phạt hiện hành theo giáo luật để giữ tiếng tăm cho mọi người. Cần phải khẩn
thiết hành động để điều chỉnh lại các yếu tố trên, từng mang lại nhiều hậu quả
bi thương cho đời sống các nạn nhân và gia đình họ, và làm tối đen ánh sáng Phúc
Âm đến độ ngay các thế kỷ bách hại cũng không làm hại đến thế”
Lm.
Micae-Phaolô Trần Minh Huy pss
còn
tiếp
__________________________
|
VỀ MỤC LỤC |
|
ĐỂ GIẢM CHI PHÍ KHÁM CHỮA BỆNH
|
Ngày 23 tháng 3 năm 2010, Tổng Thống Hoa Kỳ Barrack Obama đã
dùng 22 cây viết kể ký thành luật bản dự thảo cải tổ nền y tế
vốn đã có nhiều khuyết điểm của cường quốc tư bản giầu có này.
Đảng cầm quyền Dân Chủ rất hoan hỉ với đạo luật, cho rằng phe ta
đã hoàn tất được một việc mà cả gần trăm năm nay không ai làm
được còn đảng đối trọng Cộng Hòa hậm hực, hơi ghen tị, cho là
chính phủ đã can thiệp vào quyết định y tế của mỗi cá nhân.
Dân
chúng thì mỏi cồ quay phải nghe ý kiến chỉ trích của phe Cộng
hòa rồi quay trái nghe đối đáp bảo vệ của khối Dân Chủ, và tiếp
tục ngóng cổ hồi hộp chờ đợi xem đạo luật có mang lại điều mới
mẻ ích lợi gì không.
Trong khi chờ đợi luật mới được cụ thể áp dụng thì bà con ta
tiếp tục thắt lưng buộc bụng, vất vả đối phó với y phí quá cao
trong việc khám trị bệnh, bảo vệ, chăm sóc sức khỏe.
Theo thống kê, từ năm 1980 tới 2009, chi phí y tế của mỗi gia
đình tăng gấp 3 lần so với chi phí cho các nhu cầu khác, như ăn
uống nhà cửa. Có nhiều ý kiến cho rằng, đôi khi chi phí cao chưa
chắc là dịch vụ chăm sóc luôn luôn hoàn hảo. Ngoài ra, chi phí
cũng nhiều ít tùy theo phương thức trị liệu, nơi cung cấp dịch
vụ,. uy tín kinh nghiệm của giới chuyên môn và cách sử dụng của
người dân. Xét nghiệm MRI, Cat Scan chắc chắn là tốn kém hơn
x-quang bình thường. Chi phí khám chữa ở phòng cấp cứu bắt buộc
là sẽ cao hơn ở ngoại trú, phòng mạch bác sĩ.
Lý do chi phí cao
Vấn
đề rất phức tạp, tuy nhiên một số lý do để giải thích tình trạng
đắt đỏ này đã được nêu ra:
-
Hậu quả của sự khủng hoảng, lạm phát kinh tế nói chung.
-
Chi phí mua bảo hiểm sức khỏe tăng vọt.
-
Nhiều bệnh nhân ỷ mình có bảo hiểm công- tư, lạm dụng dịch vụ y
tế vì thấy rằng mình không phải trả toàn bộ chi phí khám chữa
bệnh,. Đây là một trong nhiều lý do khiến cho ngân sách các
chương trình bảo hiểm y tế của chính phủ như Medicare, Medicaid
bị thâm lạm.
-
Chi phí cho dược phẩm và kỹ thuật khám-trị bệnh quá cao.
Hiện nay, có nhiều dược phẩm rất công hiệu để trị các bệnh mà
cách đây vài chục năm tưởng như bất khả trị. Mà thuốc tốt là do
kết quả nhiều nghiên cứu của các nhà bào chế, sản xuất. Họ phải
bỏ ra nhiều tiền để có thể tìm ra rồi sản xuất thuốc quý. Họ
phải thu vốn bằng cách bán với giá thuốc cao.
Rồi
lại còn kỹ thuật máy móc điều trị cũng tối tân hơn và đắt tiền
hơn. Dân chúng thích dùng thuốc tốt, kỹ thuật cao, đôi khi không
cần thiết do đó chi phí y tế lên cao.
-
Số bệnh nhân kinh niên gia tăng nhờ có điều trị tân tiến, giảm
tử vong nhưng sống dai dẳng với bệnh tật.
-
Tuổi thọ cao, số lão niên tăng, mang thêm một số bệnh bệnh cần
chữa trị. Ngoài ra lại còn chi phí khi nhiều vị phải vào nhà
dưỡng lão, chăm sóc tại gia, cận tử...
-
Chi phí cho các dịch vụ hành chánh không liên quan và giúp ích
gì tới việc khám trị bệnh cũng quá nhiều. Chẳng hạn các nhà cung
cấp dịch vụ cần nhân viên để làm thủ tục đòi tiền bảo hiểm; công
ty bảo hiểm phải bồi hoàn y phí cho nên họ cần người kiểm soát,
theo dõi để tránh sự lạm dụng của bệnh nhân, bác sĩ.
-
Bác sĩ và cơ sở y tế e ngại bị kiện vì lỗi lầm, sai sót
(malpractice) cho nên hành nghề trong chiều hướng tự vệ, làm
nhiều xét nghiệm không cần thiết.
Nói
chung, chi phí cho các dịch vụ ở bệnh viện cao nhất, 31% rồi tới
bác sĩ 21% và thuốc men 10%.
Để
giảm chi phí
Bài
học thực tế bây giờ là làm sao giảm chi phí này. Sau đây là một
số đề nghị từ các nhà chuyên môn kinh tế tài chánh trong lãnh
vực y tế:
- Luôn luôn dùng các dịch
vụ trong bảo hiểm mình đã mua như bác sĩ, y tá, bệnh viện, bác
sĩ chuyên môn. Lý do là giữa công ty bảo hiểm và các vị này đã
có những thỏa thuận về giá cả tương đối chấp nhận được.
- Đừng qua mặt
bác sĩ gia đình mà tự ý đi khám bệnh ở bác sĩ chuyên môn. Với
vấn đề giản dị như bị dị ứng mần ngứa trên da mà đơn phương đi
bác sĩ chuyên da liễu thì phải trả chi phí cao.
-
Gia nhập nghiệp đoàn nơi mình đang phục vụ, vì nghiệp đoàn
thường có hợp đồng chăm sóc sức khỏe giá vừa phải với nơi cung
cấp dịch vụ y tế.
-
Tìm mua bảo hiểm thích hợp với tình trạng tài chánh và sức khỏe
của mình và với công ty có uy tín, có tầm hoạt động mạnh, rộng
lớn.
Đọc
kỹ các điều khoản trong hợp đồng, coi xem mình được hưởng dịch
vụ nào, thanh toán tiền nong ra sao.
Mạnh dạn mặc cả để được giá hợp lý, nêu ra lợi điểm sức khỏe như
đời sống tốt, không rượu thuốc, vận động đều.
Kiểm soát giấy đòi tiền điều trị, nếu thấy có lầm lẫn, khiếu nại
ngay.
-
Duy trì bảo hiểm với cơ quan cũ khi nào về hưu, nghỉ việc.
- Nếu mình rất ít
khi bị bệnh và ít khi đi khám bác sĩ thì nên mua bảo hiểm với
bảo phí hàng tháng thấp (low- premium), trả tiền túi cao (high
co-payment), như vậy cũng tiết kiệm được một số tiền mỗi tháng.
Ngược lại, nếu
thường xuyên cần chữa trị lại nên mua bảo hiểm với low
co-payment và hơi cao premium. Nếu có hợp đồng với khoản khấu
trừ cao (high deductible), nên có
Health Savings Account (HSA) và đóng tiền tiết
kiệm đều đặn. Nên nhờ một chuyên viên bảo hiểm giúp ý kiến thực
hiện chương trình này.
-
Nếu đang là chủ nhân một xí nghiệp, cơ sở kinh doanh, thương
mại, nên thành lập công ty (incorporated), vì mình có thể được
giảm thuế lợi tức khi mua bảo hiểm sức khỏe cho nhân viên và chủ
nhân.
- Xin trợ cấp bảo
hiểm Medicare, Medicaid nếu hội đủ điều kiện, nhờ đó chi phí y
tế cũng giảm đáng kể.
- Nhiều người có thói quen cho là nếu vào phòng cấp cứu là không
phải chờ đợi lâu, được khám bệnh ngay. Đồng ý nhưng chỉ khi nào
bị bệnh trầm trọng, chứ với bệnh thông thường thì sẽ phải trả y
phí rất cao.
- Giới hạn việc nằm điều trị tại bệnh viện, nếu có thể, vì chi
phí sẽ cao hơn là ngoại trú hoặc phẫu thuật trong ngày (one day
surgery).
- Đừng
dùng thuốc với tên riêng (brand name), mà mua thuốc tên chung
(generic), giá tiền thấp hơn từ 30-50% , công hiệu cũng tương
đương.
Brand name là do
hãng sản xuất phải bỏ nhiều tiền tìm kiếm, nghiên cứu rồi cần
quảng cáo rộng rãi nên thường đắt hơn rất nhiều.
- Với các bệnh cần điều trị lâu dài, yêu cầu bác sĩ cho thuốc
mỗi 3 tháng thay vì mỗi tháng, như vậy sẽ bớt được tiền sai biệt
tới 30% mà mình phải trả.
Có thể mua loại thuốc mạnh hơn rồi cắt đôi hoặc mua thuốc theo
chương trình 4 đô la thuốc generic của nhiều trung tâm bán lẻ
(Wall-Mart, Target…) hoặc mua qua bưu điện, internet.
- Trường hợp bệnh
thông thường, ngắn hạn, xin bác sĩ cho ít ngày thuốc mẫu. Phòng
mạch nào cũng có một số thuốc này do viện bào chế cung cấp để
bác sĩ cho bệnh nhân dùng thử.
- Chi phí chữa
trị bệnh răng miệng rất cao. Nếu không mua được bảo hiểm, nên
đến trường đào tạo bác sĩ nha khoa. Nơi đây có sinh viên khám
chữa bệnh. Họ có mức độ chuyên môn khá vững và hành nghề dưới sự
hướng dẫn của các bậc thầy. Chi phí tại đây nhiều khi ít hơn ở
ngoài tới 50%.
Ngoài ra nên
thường xuyên đánh răng, giữ gìn vệ sinh răng miệng.
- Hỏi ước lượng
chi phí của phương thức trị liệu, chẩn đoán trước khi hẹn ngày
thực hiện. Nếu y phí quá cao, mặc cả giảm giá hoặc xin trả góp
làm nhiều kỳ. Thân thiện với nhân viên phụ trách thu y phí của
nơi cung cấp dịch vụ y tế để được hướng dẫn.
Một số bác sĩ
đồng ý giảm giá nếu trả tiền mặt hoặc bao khám chữa hàng tháng
với một khoản tiền nhất định.
- Cũng hỏi xem
các thử nghiệm sẽ làm có cần thiết không và mình phải trả bao
nhiêu phần trăm.
Và có ý kiến cho
là nên lập gia đình để hưởng bảo hiểm của người phối ngẫu có
bảo hiểm sức khỏe với cơ quan.
Tháng 9 năm 2009,
tổ chức Consumers Union Hoa Kỳ thực hiện một cuộc thăm dò 1002
người trưởng thành coi xem họ tiết kiệm chi phí y tế ra sao. Sau
đây là kết quả:
-28
% người hoãn ngày đi khám bác sĩ.
- 25% không đủ khả năng trả y phí và mua thuốc.
- 22 % trì hoãn các phương thức giải phẫu.
- 20 % từ chối làm thử nghiệm.
- 20% không mua thuốc.
- 15% dùng thuốc đã quá hạn.
-15% giảm số lần uống thuốc để tiết kiệm
Cá
nhân cần làm gì để giảm chi phí
Trên đây là kế
hoạch cắt giảm y phí chung cho mọi người.
Bây giờ xin đề
cập tới mấy phương thức mà mỗi cá nhân chúng ta có thể áp dụng
để cắt giảm y phí. Đó là:
- Hãy giữ gìn sức khỏe. Đây là cách hữu hiệu nhất để cắt giảm y
phí vì khỏe mạnh là không bệnh tật, không phải đi bác sĩ, không
nằm bệnh viện và có thể tiếp tục làm việc kiếm tiền.
Ngoài ra, công ty bảo hiểm sẽ căn cứ vào tình trạng sức khỏe,
tiền sử bệnh lý của người mua để định giá cả.
- Tích cực hợp tác với bác sĩ trong các quyết định chữa trị
bệnh.
- Lâu lâu, tự khám cơ thể coi có dấu hiệu bất thường ( vết lạ
trên da, u cục nhũ hoa…). Nếu có, đi bác sĩ ngay để thử nghiệm
thêm ngõ hầu có thể tìm ra bệnh trong giai đoạn mới bắt đầu,
điều trị mau lành mà ít tốn kém.
- Bỏ thuốc lá vì
thuốc lá là rủi ro gây nhiều bệnh. Ngoài ra, các công ty bảo
hiểm sức khỏe cũng như bảo hiểm nhân thọ có thể từ chối hoặc bán
với giá cao nếu biết mình ghiền thuốc lá.
- Nếu có nếp sống
lành mạnh, vận động cơ thể, giảm thiểu bệnh tật cũng là lợi điểm
khi tìm mua bảo hiểm.
- Giải tỏa căng
thẳng tinh thần. Stress là rủi ro gây ra nhiều chứng bệnh như
trầm cảm, lo âu, hoang tưởng mà chi phí điều trị và mua bảo hiểm
cũng tốn kém hơn.
- Tìm hiểu thêm
về nguyên nhân gây bệnh, cách phòng tránh qua tạp chí y học,
internet để bảo vệ sức khỏe.
-Nên giữ đúng hẹn
tái khám, vì khi bỏ hẹn, bệnh có thể trầm trọng hơn và tốn nhiều
tiền điều trị hơn.
- Sử dụng các
phương pháp trị bệnh theo kinh nghiệm cổ truyền, thầy thuốc dân
gian mà tiền nhân ta từ trước tới nay vẫn dùng.
- Giới hạn và
cẩn thận hơn với các rủi ro gây thương tích như leo núi, trượt
tuyết.
Kết
luận
Nói tóm lại, để
cắt giảm chi phí khám chữa bệnh, liệu chúng ta có nên áp dụng
bài học Sạch Sẽ, Điều Độ, Thể Thao trong sách Quốc Văn Giáo Khoa
Thư xuất bản năm 1948 do các bậc lão thành Trần Trọng Kim,
Nguyễn Văn Ngọc, Đặng Đình Phúc và Đỗ Thận biên soạn.
Bài học rất thực
tế, quý giá chắc chắn có thể giúp ta không rơi vào tình trạng
nay đau, mai bệnh, không phải đi bác sĩ, vào bệnh viện và bảo vệ
được cái “Sức Khỏe Là Vàng” mà ai ai cũng mong muốn.
Bác sĩ Nguyễn Ý Đức - Texas-Hoa Kỳ
|
VỀ MỤC LỤC |
Ràng Buộc - Chuyện phiếm của Gã Siêu |
Gã xin bắt đầu mục chuyện phiếm hôm nay
bằng một câu truyện vui như sau :
Ông vua xe hơi, Henry Ford, sau khi chết
được đưa lên thiên đàng. Tại cổng, thánh Phêrô đang chờ sẵn để
đón chào. Vừa gặp ông ta, thánh Phêrô cho biết :
- Hồi còn sống, ngươi đã thực hiện nhiều
việc công ích cho xã hội, như sáng chế ra phương pháp làm việc
dây chuyền, khiến kỹ nghệ xe hơi thay đổi cả thế giới. Với
thành quả như vậy, ngươi sẽ được một đặc ân là có thể chuyện
trò với bất cứ ai ở trên thiên đàng này.
Suy nghĩ vài giây, ông ta xin được gặp
Thượng đế, Thánh Phêrô liền dẫn ông ta đến gặp Thượng đế. Vừa
nhìn thấy Thượng đế, ông ta bèn hỏi ngay:
- Thưa Ngài, lúc chế tạo ra đàn bà, ngài đã
suy nghĩ những chi ?
Thượng đế nghe xong bèn hỏi lại:
- Ngươi hỏi như vậy là ý gì?
Ông ta trả lời:
- Trong sáng chế của Ngài có quá nhiều sơ
sót. Phía trước thì bị phồng lên, phía sau thì bị nhô ra. Máy
thường kêu to khi chạy nhanh. Tiền bảo trì và nuôi dưỡng quá cao.
Thường xuyên đòi hỏi nước sơn mới. Cứ đi hai mươi tám ngày là
lại bị chảy nhớt và không làm việc được. Chỗ bơm xăng và ống xả
lại quá gần nhau. Đèn trước thì quá nhỏ. Tiêu thụ nhiên liệu thì
nhiều khủng khiếp.
Thượng đế nghe qua liền bảo:
- Ngươi hãy đợi một lát để ta xem lại bản
thiết kế.
Ngài bèn cho gọi toàn bộ kỹ sư thiết kế và
cơ khí trên thiên đàng lại để xem xét quá trình. Sau một thời
gian, họ đã trình lên cho Thượng đế bản báo cáo.
Xem xong, Ngài bèn phán rằng:
- Những lời ngươi vừa nói hoàn toàn đúng,
bản thiết kế của ta thật có nhiều sai sót, nhưng nếu tính trên
phương diện kinh tế thì hiệu quả lại rất cao : Gần 98% đàn ông
trên thế giới xài sản phẩm do ta chế tạo, trong khi chỉ chưa đầy
10% đàn ông xài sản phẩm của ngươi.
Từ câu truyện kể trên, gã lan mam suy nghĩ
về tình nghĩa vợ chồng, cũng như về đời sống gia đình.
Tác giả Phu Chu trên báo “Tuổi Trẻ Cười” đã
viết như sau :
“Theo các bà vợ đã trải qua chinh chiến
ghen tuông, thì các ông bây giờ “ghê” lắm, “kinh” lắm. Chuyện bồ
bịch lây lan còn nhanh hơn cả dịch cúm gà, heo tai xanh… Vì thế,
phải tìm cách ràng buộc chứ.
Thế nhưng, thay vì ràng buộc nhau bằng sợi
tơ vàng óng ánh, hay dải lụa mềm mại, mát rượi, thì nhiều bà vợ
“chơi” luôn một cuộn dây thừng, hay dây thun gai để đối phương
dù có cố gắng giãy giụa, cũng không thể chạy thoát, mà càng giãy
càng thương tích đầy mình”.
Dĩ nhiên là có nhiều thứ dây thừng, thậm
chí có cả dây xích để ràng buộc lẫn nhau. Tuy nhiên, trong phạm
vi bài viết này, gã chỉ xin bàn tới một độc chiêu, đó là ràng
buộc nhau bằng…tiền.
Ngày xưa, ở Việt Nam người ta chưa có ngân
hàng để gửi tiền, cũng như chưa có két sắt đề mà cất tiền. Vì
thế, người ta thường đựng tiền trong những cái ruột tượng hay
những cái hầu bao.
Ruột tượng, theo nghĩa đen là ruột con voi,
thế nhưng mấy ai trên đời đã được nhìn thấy cái ruột ấy. Còn
theo nghĩa chuyên dùng, thì đó là một cái bao bằng vải, tuy nhỏ
nhưng dài, vừa làm dây lưng lại vừa đựng tiền bạc.
Theo Toan Ánh trong “Phong tục Việt Nam”
thì :
“Cùng với chiếc thắt lưng thường dùng, các
bà các cô còn dùng thêm chiếc thắt lưng bao, đây là cái bao dài
để các bà các cô đựng túi tiền.
Thắt lưng bao có chiều dài như một chiếc
thắt lưng, khâu hai mép lại với nhau, nhưng lúc khâu bao cũng để
lệch độ một khổ vải để miệng bao có hình chênh chếch, đút tiền
vào được dễ dàng.
Thắt lưng bao cũng được nhuộm các màu. Các
bà các cô thường ưa màu hoa lý và màu đỏ già gân chuyển sang màu
nâu. Thắt lưng bao cũng thắt quanh người và cũng thắt giống như
thắt lưng thường. Chiếc thắt lưng bao còn được mang tên là…ruột
tượng”.
Còn hai chữ “hầu bao”, mặc dù gã đã tìm
tòi, nhưng vẫn chưa được hiểu rõ chữ “hầu” ở đây nghĩa là gì.
Tuy nhiên “hầu bao” nói chung là cái túi hay cái bao để đựng
tiền.
Ngày nay chẳng còn ai dùng tới ruột tượng
hay hầu bao, mà người ta dùng ví hay bóp, tức là cái túi da, có
nhiều ngăn để đựng tiền và giấy tờ.
Thế nhưng, khi bảo nắm được ruột tượng, hay
quản lý được hầu bao của ai, thì có nghĩa là nắm được tiền bạc,
quản lý được vận mạng của người ấy và mình thì luôn ở vào cái
thế thượng phong.
Thực vậy, ai trong chúng ta cũng hiểu được
giá trị của tiền bạc, nó có một sức mạnh khả dĩ sai khiến được
người khác và bắt họ phải lệ thuộc vào mình :
- Miệng nhà giàu có gang có thép.
Hay :
- Nén bạc đâm toạc tờ giấy.
Nhiều lần gã cũng đã suy gẫm về những
chương trình viện trợ của những nước giàu đối với những nước
nghèo. Mặc dù nói rằng viện trợ không hoàn lại, hay viện trợ
không điều kiện. Thế nhưng, nếu tôi bảo mà anh không nghe, lúc
đó tôi sẽ cúp viện trợ và anh sẽ chết không kịp ngáp.
Nếu gã nhớ không lầm thì vào những ngày gần
giải phóng, chính phủ miền Nam năn nỉ ỉ ôi anh chàng Mỹ viện trợ
cho một khoản tiền là 360 triệu đô la. Số tiền này được qui ra
bằng vũ khí và tất cả những sự lỉnh kỉnh khác. Nhưng anh chàng
Mỹ đã từ chối và miền Nam đã đi tới chỗ sụp đổ. Dĩ nhiên là còn
nhiều nguyên nhân nữa, chứ không phải chỉ có bằng ấy mà thôi
đâu.
Thế nhưng, chỉ bằng ấy mà thôi cũng đủ cho
thấy sức mạnh vạn năng của tiền bạc :
- Mạnh vì gạo, bạo về tiền,
Có tiền có gạo là tiên trên đời.
Hay như một câu danh ngôn đã bảo :
- Khi đồng tiền đi trước, thì mọi cửa đều
mở rộng.
Tới đây gã xin đi vào một lãnh vực nhỏ bé
hơn, đó là lãnh vực gia đình. Mặc dù không nói ra, nhưng hình
như đã có một thỏa thuận ngầm với nhau rằng :
- Ai nắm giữ được túi tiền, thì người đó sẽ
làm chủ gia đình.
Vì thế, chị vợ ra sức ràng anh chồng và
ngược lại anh chồng cũng ra sức buộc chị vợ bằng…tiền.
Trước hết, chị vợ ràng buộc anh chồng
bằng tiền.
Rất nhiều chị vợ quan niệm rằng :
- Chồng mãi mãi là của riêng mình, nếu
trong túi anh ta không rủng rỉnh có nhiều tiền bạc.
Vì thế, chị vợ ra sức quản lý chặt chẽ mọi
nguồn thu nhập của anh chồng. Cụ thể là tiền lương hàng tháng
phải đòi cho bằng được tới tận đồng xu cuối cùng. Những lời nói
bùi hơn lạc, chẳng khác gì bàn tay sắt bọc nhung, chị vợ dùng
để mà bóp cổ, khiến anh chồng phải lè lưỡi :
- Cả hai chúng mình đã trở nên một, đâu còn
tiền anh, tiền em, mà là tiền chúng mình đấy chứ. Anh cứ để em
giữ, lúc nào cần em sẽ đưa ngay cho mà.
Với những lời lẽ ngọt hơn cả đường cát, mát
hơn cả đường phèn như vậy, anh chồng bỗng lạc vào mê hồn trận,
bấn loạn cả tâm thần, nhất là vào thuở tình yêu còn đang nồng
cháy. Và thế là cứ rui ríu nghe theo : giao nộp đầy đủ, chẳng
bao giờ dám tơ tưởng đến quĩ đen quĩ đỏ.
Thế nhưng, khi đã nắm được hầu bao rồi,
thái độ của chị vợ bỗng dưng đổi thay : chỉ biết có đầu vào, mà
luôn phớt tỉnh cái đầu ra, nhận thì cười cười nói nói, còn chi
thì day dứt và đay nghiến. Những anh chồng nhiều kinh nghiệm
thương đau đã nhận xét :
- Chị vợ chính là một thứ “ngân hàng”. Gửi
vào thì dễ, nhưng lấy ra thì khó khăn vô cùng.
Hầu như tất cả các chị vợ đều “ghét cay
ghét đắng, ghét vào tận tim” thói trăng hoa đèo bòng bồ nhí, và
tật ăn nhậu say xỉn của anh chồng. Mà hai thói tật này lại liên
hệ mật thiến đến túi tiền, cho nên cần phải quản lý một cách hết
sức chặt chẽ.
Thứ nhất là thói trăng hoa đèo bòng
bồ nhí.
Thực vậy, người xưa đã bảo :
- Có tiền mua tiên cũng được.
Với một chiếc ví dày cộm những xấp tiền mới
tinh, xem chừng bước đi của anh chồng trở nên mạnh mẽ khi bước
vào những chốn ăn chơi. Và lập tức được các nàng tiên nữ vây
quanh, chiều chuộng. Ăn thì có người gắp và đưa lên tận miệng.
Uống thì có người rót và mời mọc hết ly này tới ly khác. Xừng
xừng thì có người sẵn sàng cho mượn bờ vai hay bắp vế làm chỗ
gác chân gác tay. Mệt mỏi thì có người mát xa, mát gần…Cứ việc
chi cho thật đẹp, thì anh chồng dù xấu xí đến đâu cũng vẫn
nghiễm nhiên trở thành một…thượng đế.
Có những anh chồng, thuở còn hàn vi, thì
rất thương vợ thương con, chắt chiu từng đồng để mang về nuôi
sống những người thân yêu và gia đình chan hòa hạnh phúc, một
thứ hạnh phúc rất đơn sơ, theo kiểu :
- Râu tôm nấu với ruột bầu,
Chồng chan, vợ húp, gật đầu khen ngon.
Nhưng rồi cuộc đời bỗng mỉm cười, phát đạt
trong công ăn việc làm, trúng mánh trong nhiều vụ “áp phe” như
sang nhượng đất đai và nhà cửa, mà bây giờ người ta gọi là…cò
đất. Anh chồng cứ phất lên như diều gặp gió, tiền bạc chảy vô
như nước, đếm không xuể.
Tiền nhiều nên phát sinh chứng “rửng mỡ”.
Chị vợ ở nhà bỗng trở thành một thứ “bà lão” quá đát, cần phải
có thư ký trẻ đẹp, đễ giao dịch trong việc làm ăn. Rồi từ chỗ
tâm đầu ý hợp, anh chồng tậu ngay một căn phố, rồi bao thầu từ A
đến Z mọi chi phí cho cô thư lý riêng của mình, để rồi đèo bòng
bồ nhí lúc nào cũng chẳng hay.
Biết được cái thói trăng hoa ấy, nên chị vợ
lại càng kiểm soát ngân sách một cách thật nghiêm ngặt, bởi vì
theo chị nghĩ :
- Mấy con nhỏ xinh xinh ở hàng quán, có con
nào lại chịu đong đưa mời chào, hay liếc mắt gợi tình với một gã
bị viêm màng túi kinh niên, cho dù cái mã bên ngoài của gã ta có
đẹp trai đến mấy chăng nữa…
Chuyện ăn nhậu phè phỡn nơi hàng quán chỉ
là chuyện lẻ tẻ mà còn như thế, huống nữa là chuyện lập hẳn một
dinh cơ nho nhỏ cho cô bồ nhí. Không tiền, thì làm sao mua được
nhà cửa giữa thời buổi đất cát còn mắc hơn vàng. Không tiền, thì
làm sao có thể bao thầu mọi nhu cầu cần thiết giữa thời buổi vật
giá leo thang đến chóng cả mặt…Chỉ còn nước giơ tay lên trời mà
thề quyết trung thành với chị vợ :
- Bà xã muôn năm.
Thứ hai là tật ăn nhậu say xỉn.
Hầu như chị vợ nào cũng tỏ ra bực bội mỗi
khi anh chồng không về nhà ăn cơm. Trong khi chờ đợi mà chẳng
biết ly do, nhìn mâm cơm mình đã cẩn thận nấu mướng cứ lạnh tanh
lạnh ngắt mà muốn ứa nước mắt, rồi trong đầu óc xuất hiện những
câu hỏi :
- Giờ này anh ở đâu và anh ở với ai ? Nhỡ
bị tai nạn giao thông thì sao ?
Hầu như chị vợ nào cũng không chịu nổi cảnh
mãi tận khuya anh chồng mới trở về trong tình trạng say xỉn,
nồng nặc mùi bia rượu. Không cho chó ăn chè thì còn phúc tổ bảy
mươi đời.
Thế nhưng, trong mối liên hệ xã hội, anh
chồng nào mà chẳng có những người bạn. Bạn cùng học một trường,
bạn cùng làm một nghề, bạn cùng ở trong một công ty… Gặp nhau là
tay bắt mặt mừng, không rủ nhau đi nhậu, cho dù chỉ là một cái
lẩu dê vỉa hè, thì cũng cà phê cà pháo tí chút.
Ngoại trừ những anh chồng nghiện nặng, vốn
dĩ đã làm đệ tử của Lưu Linh, bữa nào cũng phải dùng vài ly cho
mở mang trí hóa hay cho giải bớt cơn sầu, còn phần đông các anh
chồng, khi ăn cơm ở nhà với chị vợ và xấp nhỏ, rất nghiêm chỉnh
chẳng đụng tới một giọt rượu, nhưng khi gặp bè bạn thì khác,
đúng như một kinh nghiệm về những điều kiện của việc uống rượu,
đó là phải tốt cái nhắm và phải lắm anh em.
Hai điều kiện này xem ra hơi bị hao tiền
tốn bạc. Hơn thế nữa, hôm nay người ta mời mình, thì ngày mai
minh phải mời lại người ta, như vậy mới là dân chơi thứ thiệc,
đúng điệu và đúng mốt, có đi có lại mới toại lòng nhau.
Tuy nhiên, nếu chiếc túi hơi bị rỗng, thì
chỉ có nước tan sở là ba chân chạy về nhà ăn cơm với bà xã, vừa
an toàn thực phẩm, lại vừa đầm ấm gia đình trong cảnh đoàn tụ
xum vầy. Hơn nữa, anh chồng cũng chẳng còn can đảm và mặt mũi
nào, để ăn ké hay nhậu chùa với bạn bè hoài hoài…
Cuối cùng thì câu điệp khúc của muôn đời
vẫn là :
- Mình về ăn bát cơm ta,
Mắm tôm cà ghém, cơm nhà vẫn hơn.
Phương án quản lý hầu bao, xiết chặt túi
tiền của các chị vợ đã đem lại những kết quả tuyệt vời, dồn anh
chồng vào thế việt vị, bất nhóc nhách. Tuy nhiên, các chị vợ
cũng cần phải xét lại một tí trước những nhu cầu chính đáng, kẻo
bị phản tác dụng, khi anh chồng biết mở mắr ra, mà gian dối, cắt
đầu nọ, bớt đầu kia, để lập quĩ đen quĩ đỏ cho riêng mình.
Đúng thế, một anh chồng đã tâm sự :
“Nghe những lời ngọt ngào, tôi đã tin tưởng
trao tất cả lương bổng của mình cho cô ấy giữ. Ai ngờ khi cần
tiền để đi đám cưới con của bạn, mừng tân gia cậu em, hay thăm
hỏi đồng nghiệp đau ốn, cô ấy lại giữ khư khư không đưa cho tôi
với lý do :
- Anh cứ tập trung vào công việc ở cơ quan,
còn mọi chuyện đối nội cũng như đối ngoại, thì hãy để đấy cho
em.
Lần khác cô em gái út của tôi phải vào bệnh
viện, muốn cho em chút tiền gọi là để bồi dưỡng sức khỏe, hỏi
đến thì lập tức cô ấy nổi cáu :
- Anh tưởng vài đồng bạc lương của anh là
đủ chi tiêu trong tháng hay sao ? Nếu không có em giữ thì bố con
anh làm gì có những bữa cơm ngon, canh ngọt như thế này. Hay là
từ nay, em trao lại cho anh giữ tiền, anh muốn ăn ở đâu thì tùy
anh.
Biết cô ấy nói dỗi, tôi không còn ý định
rút tiền từ túi của cô ấy nữa. (Báo Gia đình).
Tiếp đến, anh chồng ràng buộc chị vợ
bằng tiền.
Ngày hôm nay, phe đờn bà con gái đã được
giải phóng, không còn bị giam trong xó bếp, làm bạn với nồi niêu
xoong chảo, nhưng đã ngoi ra ngoài xã hội và đã gặt hái được
những thành quả đáng kể. Có người làm tới tổng thống, thủ tướng.
Có người làm tới bộ trưởng, nghị sĩ. Có người làm tới kỹ sư, bác
sĩ…
Tuy nhiên phần đông cánh đờn ông con giai,
nhất là các anh chồng, đều muốn chị vợ của mình ở lại nhà mà “tề
gia nội trợ”, chứ không mấy hứng thú khi thấy chị nợ bươm chải
ngoài xã hội.
Lý do thứ nhất, vì anh chồng sợ bị
phỗng tay trên.
Thực vậy, mặc dù nhiều lúc trong gia đình,
cơm chẳng lành và canh cũng chẳng ngọt, nhưng tận đáy lòng anh
chồng vẫn muốn chị vợ là của riêng mình. Ra ngoài đường, thiên
hạ nhìn chằm chặp bằng những cặp mắt cú vọ thì làm sao chịu cho
nổi.
Hơn thế nữa, như người ta vốn thường diễn
tả :
- Vợ là cơm nguội của ta,
Nhưng là phở tái, thằng cha láng giềng.
Lý do thứ hai, vì anh chồng lo bị mất
giá.
Thực vậy, nếu “chẳng may” chị vợ có chức to
hơn, hay kiếm được nhiều tiền hơn, thì anh chồng sẽ bị tụt hạng
và rớt giá không phanh. Lúc bấy giờ bậc thang giá trị trong gia
đình sẽ bị đảo lộn. Chị vợ sẽ lên ngôi bà chủ, còn anh chồng
thì chui xuống làm tên đầy tớ. Và sự thật đã xảy ra như vậy.
Nhiều chị vợ đã khinh anh chồng ra mặt, chỉ
vì anh chồng bị thất nghiệp, không còn kếm ra tiền :
- Cái nhà này, nếu không có bàn tay của tôi
thì sẽ như thế nào ? Anh biết đấy. Không có tôi, bố con anh chỉ
còn nước bị gậy mà ra ngoài đường.
Vì thế, những anh chồng khôn ngoan đã tìm
đủ mọi cách để chị vợ phải hoàn toàn lệ thuộc vào tiền bạc của
mình, phấn đấu trở thành cột trụ trong gia đình, không phải chỉ
để chứng tỏ bản lãnh đờn ông của mình, mà còn để chị vợ phải dựa
vào, bởi vì nếu không dựa vào cột thì biết dựa vào đâu bây giờ.
Các anh chồng ra sức dỗ ngon dỗ ngọt để cô
ta chịu ở nhà :
- Đi làm mệt mỏi lắm, nhất là khi em đã lớn
tuổi.
- Đi làm đầu óc căng thẳng, khó mà có…bầu.
Có rồi, thì cũng dễ dàng…tuột như chơi.
- Mình anh đi làm cũng đủ nuôi sống gia
đình này mà.
Quá cảm động, các chị vợ liền từ bỏ công
danh sự nghiệp để ở nhà chu toàn thiên chức “nội tướng”. Và thế
là chui đầu vào rọ. Lúc đầu còn tương đối rảnh rỗi, nhưng khi đã
có được một hay hai mặt con, bấy giờ chị vợ sẽ phải đầu tắt mặt
tối, làm không hết việc và nếu có mở miệng xin tiền, dù là tiền
mua sữa cho con, anh chồng vẫn cứ tỉnh bơ, bằng không thì lại
quạu cọ :
- Tôi có phải là máy đâu mà in ra tiền.
Bao nhiêu thói hư tật xấu của anh chồng,
chị vợ bèn phải cắn răng chịu đựng chứ làm sao bứt ra được một
khi đã dựa vào cột, hay đã lệ thuộc vào đồng tiền nhỏ giọt của
anh chồng.
Gã xin mượn trò chơi “thả diều” của tác giả
Phu Chu trên báo “Tuổi Trẻ Cười” như một kết luận :
Cánh diều và sợi dây không thể thiếu nhau.
Sợi dây phải mỏng manh nhưng rất dai. Căng quá, dây sẽ đứt.
Chùng quá, cánh diều sẽ đâm xuống đất. Ngoài ra, trò chơi này
cần phải có gió và khoảng trống. Đó mới chính là tình yêu vợ
chồng vậy.
Gã
Siêu
gasieu@gmail.com
|
VỀ MỤC LỤC |
|
- Mọi liên lạc: Ghi danh, thay đổi địa chỉ, đóng góp ý kiến,
bài vở..., xin gởi về địa chỉ
giaosivietnam@gmail.com
- Những nội dung sẽ được đề cao và chú ý bao gồm:
Trao đổi, chia sẻ những kinh nghiệm thực tế trong việc mục
vụ của Giáo sĩ; Những tài liệu của Giáo hội hoặc của các
Tác giả nhằm mục đích Thăng tiến đời sống Giáo sĩ; Cổ võ ơn
gọi Linh mục; Người Giáo dân tham gia công việc “Trợ lực
Giáo sĩ” bằng đời sống cầu nguyện và cộng tác trong mọi lãnh
vực; Mỗi Giáo dân phải là những “Linh mục” không có chức
Thánh; Đối thoại trong tinh thần Bác ái giữa Giáo dân và
Giáo sĩ… (Truyền giáo hay xây pháo đài?)
- Quy vị cũng có thể tham khảo những số báo đã phát hành tại
www.conggiaovietnam.net
Rất mong được sự cộng tác, hưởng ứng của tất cả Quí vị
Xin chân thành cám ơn tất cả anh chị em đã
sẵn lòng cộng tác với chúng tôi bằng nhiều cách thế khác
nhau.
TM. Đặc San Giáo Sĩ Việt Nam
Lm. Luca
Phạm Quốc Sử
USA
|
|
*************
|
|