Đặc San Giáo Sĩ Việt Nam

 

 

 

ĐỰƠC CHỌN GIỮA LOÀI NGƯỜI
VÀ CHO LOÀI NGƯỜI  (x. Dt, 5.1)

 

GIÁO SĨ:

Xuất phát từ giáo dân, hiện diện vì giáo dân và cậy dựa vào giáo dân

 

ĐỂ CÙNG LÀM VINH DANH THIÊN CHÚA

 

www.conggiaovietnam.net                          giaosivietnam@gmail.com

Đặc San Điện Tử    Giáo Sĩ Việt Nam    Số 116, Chúa Nhật 04.04.2010


MỤC LỤC 

Huấn Luyện Làm Tông Ðồ                                                                                     Vatican 2

THÀNH LẬP CHỦNG VIỆN ĐÀO TẠO HÀNG GIÁO SĨ VIỆT NAM            Gs. Trần Văn Cảnh 

ÔNG THẤY VÀ TIN                                                                       Lm. Jos Phạm Ngọc Ngôn

NĂM THÁNH 2010 (bài 6) BÁC ÁI VÀ YÊU THƯƠNG                 Lm. Giuse Trần Việt Hùng

ĐIỀU KIỆN ĐỂ BÍ TÍCH THÀNH SỰ (CANONICAL VALIDITY)         Lm. PX. Ngô Tôn Huấn

CÂU CHUYỆN NGƯỜI PHỤ NỮ NGOẠI TÌNH TRONG PHÚC ÂM    Bác sĩ Nguyễn Tiến Cảnh

THA THỨ LÀ CHIẾN THẮNG CHÍNH MÌNH                                                  Br. Huynhquảng 

Đừng sợ làm nhân chứng cho phẩm giá của mỗi con người                Gioan Lê Quang Vinh

Ghen                                                                                                        Lm. Lê Văn Quảng

CẨM  NANG  HẠNH  PHÚC GIA  ĐÌNH  KITÔ                 D. WAHRHEIT (Lm. Minh Anh, tổng hợp biên tập)

PHÒNG TRÁNH BỆNH TRONG THÁNG BA                                    Bác sĩ Nguyễn Ý-Đức M.D.

NỊNH CHỒNG -                                                                            Chuyện phiếm của Gã Siêu


Huấn Luyện Làm Tông Ðồ

 

Thánh Công Ðồng Chung Vaticanô II

 

Sắc Lệnh Về Tông Ðồ Giáo Dân

Apostolicam Actuositatem

 

Prepared for Internet by Vietnamese Missionaries in Asia

 

Chương VI

Huấn Luyện Làm Tông Ðồ

 

28. Cần huấn luyện để làm việc Tông đồ. Việc tông đồ chỉ đạt tới kết quả mỹ mãn nhờ việc huấn luyện đầy đủ và chuyên biệt. Sở dĩ đòi hỏi phải được huấn luyện chu đáo như thế không những vì người giáo dân phải tiến bộ liên tục về đời sống thiêng liêng và về giáo lý, mà họ còn phải thích nghi trong khi hoạt động với những hoàn cảnh khác biệt tùy theo thực tại, nhân sự cũng như tùy theo nhiệm vụ. Việc huấn luyện này phải dựa trên những nền tảng đã được Thánh Công Ðồng đề xướng và công bố trong nhiều văn kiện khác 1. Ngoài việc huấn luyện chung cho mọi tín hữu, còn phải có thêm lớp huấn luyện chuyên biệt cho một vài đoàn thể tông đồ có nhiều đoàn viên và hoàn cảnh khác nhau.

29. Những nguyên tắc của việc huấn luyện. Vì giáo dân cũng được tham dự vào sứ mệnh của Giáo Hội theo thể thức riêng của họ, nên việc huấn luyện cho họ làm tông đồ phải căn cứ trên tính chất riêng biệt của người giáo dân là sống giữa lòng đời, và phải đặc biệt thích nghi với đời sống thiêng liêng của họ.

Việc huấn luyện để làm tông đồ cũng bao hàm việc huấn luyện toàn diện con người cho phù hợp với nhân cách và hoàn cảnh của mỗi người. Thực vậy, giáo dân nhờ việc hiểu biết thấu đáo về thế giới hiện đại, họ phải là một phần tử thích nghi với xã hội và với nền văn hóa riêng của họ.

Nhưng tiên vàn, người giáo dân phải học sao cho biết chu toàn sứ mệnh của Chúa Kitô và của Giáo Hội bằng sống đức tin vào mầu nhiệm Thiên Chúa sáng tạo và cứu chuộc dưới sự hướng dẫn của Thánh Thần, vì Thánh Thần là Ðấng làm cho Dân Chúa được sống, Ðấng thôi thúc mọi người yêu mến Thiên Chúa Cha cũng như mến yêu thế giới và nhân loại trong Ngài. Việc huấn luyện như thế phải được coi là căn bản và là điều kiện cho mọi hoạt động tông đồ có hiệu quả.

Ngoài việc huấn luyện về đời sống thiêng liêng, còn phải huấn luyện vững chắc về giáo lý, ngay cả về thần học, luân lý, triết học tùy theo tuổi tác, hoàn cảnh và khả năng. Cũng không thể coi thường việc giáo dục văn hóa tổng quát cũng như đào tạo về kỹ thuật và thực hành.

Ðể việc giao tế với người khác được tốt đẹp, cần phải phát huy những giá trị nhân bản thực, nhất là cách sống chung thân thiện, cộng tác và đối thoại với mọi người.

Bởi vì việc huấn luyện tông đồ không phải chỉ hệ tại việc huấn luyện về lý thuyết, nhưng phải dấn thân trọng tập cho người giáo dân, ngay từ bước đầu dưới ánh sáng đức tin, đồng thời trong khi hành động, biết tự luyện và nên hoàn thiện cùng với người khác. Ðược như vậy họ sẽ phục vụ Giáo Hội một cách tích cực 2. Việc huấn luyện này cần phải được hoàn hảo luôn mãi vì con người ngày một trưởng thành và vì những vấn đề luôn luôn biến đổi. Chính vì thế việc huấn luyện đòi hỏi một kiến thức mỗi ngày một sâu rộng, cũng như một hành động luôn luôn thích nghi. Ðể thỏa mãn những đòi hỏi muôn mặt trong việc huấn luyện, phải luôn lưu tâm tới tính cách duy nhất và toàn vẹn của con người để duy trì và gia tăng sự hòa hợp và thế quân bình nơi họ.

Như thế, người giáo dân mới dấn thân vào chính thực tại của trật tự trần thế một cách tích cực và sâu xa cũng như đảm đương vai trò của mình trong việc điều hành trật tự trần thế một cách hữu hiệu. Ðồng thời, như một phần tử sống động và là chứng nhân của Giáo Hội, họ làm cho Giáo Hội hiện diện và hoạt động ngay giữa lòng trần thế 3.

30. Người chịu trách nhiệm huấn luyện. Việc huấn luyện làm tông đồ phải bắt đầu ngay từ lúc mới giáo dục các trẻ em. Nhưng đặc biệt phải tập cho các thanh thiếu niên biết làm tông đồ và thấm nhuần tinh thần này. Việc huấn luyện này còn phải được tiếp tục trong suốt đời chúng tùy theo đòi hỏi của những trách nhiệm mới mà chúng lãnh nhận. Vậy những ai có trách nhiệm trong việc giáo dục Kitô giáo hẳn nhiên là phải coi trọng bổn phận huấn luyện tông đồ này.

Trong gia đình, bậc cha mẹ phải lo dạy cho con cái ngay từ khi còn thơ ấu nhận biết tình thương yêu thương của Thiên Chúa đối với hết mọi người, và dần dần, nhất là bằng gương sáng, phải dạy cho chúng biết lo lắng đến những nhu cầu vật chất cũng như tinh thần của người lân cận. Như vậy toàn thể gia đình và đời sống chung của gia đình phải nên như trường huấn luyện đầu tiên cho việc tông đồ.

Hơn nữa, trẻ em cần phải được giáo dục sao để vượt khỏi phạm vi gia đình, cho chúng biết nghĩ tới các cộng đoàn khác như Giáo Hội và xã hội. Chúng phải được tham dự vào đời sống cộng đoàn giáo xứ nơi chúng đang sống thế nào để cho chúng ý thức được mình là một thành phần sống động và hoạt động của toàn thể Dân Thiên Chúa. Các linh mục phải luôn nhớ đến việc huấn luyện tông đồ này trong khi giảng dạy giáo lý, trong các bài giảng, trong việc coi sóc linh hồn cũng như trong tất cả mọi hoạt động mục vụ khác.

Các trường học, các trường cao đẳng, các học viện công giáo nhằm mục đích giáo dục cũng có bổn phận phải giáo dục cho giới trẻ tinh thần công giáo và hoạt động tông đồ. Nếu thiếu việc huấn luyện này, hoặc vì thanh thiếu niên không học ở trường đó, hoặc vì một lý do nào khác, bậc cha mẹ và các vị chủ chăn cũng như các hội đoàn lại càng có bổn phận phải quan tâm đến vấn đề huấn luyện này. Do chức nghiệp và phận sự, các thầy dạy và các nhà giáo dục thực hành việc tông đồ giáo dân dưới một hình thức cao cả, do đó họ phải hấp thụ nền giáo lý cần thiết và phải thông thạo cao cả, do đó họ phải hấp thụ nền giáo lý cần thiết và phải thông thạo về khoa sư phạm để có thể giáo dục cách hữu hiệu.

Cả những tập thể hay các hội đoàn giáo dân, hoặc nhằm mục đích tông đồ hay nhằm những mục đích siêu nhiên nào khác, cũng phải tùy theo mục tiêu và phương thế riêng của mình mà chuyên cần hỗ trợ cho việc huấn luyện tông đồ này 4. Chính những tổ chức này thường là đường lối thông thường thích hợp cho việc huấn luyện làm tông đồ. Quả thật chính trong những tổ chức ấy người ta thấy có việc huấn luyện về giáo lý, về đời sống thiêng liêng và cả về thực hành. Cùng với những bạn hữu hay với các đồng chí hợp thành tiểu tổ, các đoàn viên của những tổ chức này kiểm điểm về những phương pháp, kết quả của hoạt động tông đồ của mình và cùng nhau đem đời sống hằng ngày của mình đối chiếu với Phúc Âm.

Việc huấn luyện này phải được tổ chức thế nào để bao gồm tất cả hoạt động tông đồ của người giáo dân. Vì không những họ hoạt động tông đồ giữa những tiểu tổ của các đoàn thể, mà còn phải hoạt động suốt đời trong mọi hoàn cảnh nhất là trong đời sống nghề nghiệp và trong đời sống xã hội. Hơn nữa, mỗi người giáo dân phải tích cực chuẩn bị để làm tông đồ. Việc chuẩn bị này càng cấp bách ở tuổi trưởng thành. Thực vậy càng lớn lên, trí khôn càng mở mang, vì thế mỗi người có thể khám phá thêm những tài năng Thiên Chúa phú bẩm cho, cũng như có thể sử dụng hữu hiệu hơn những đoàn sủng mà Chúa Thánh Thần ban cho để mưu ích cho các anh em mình.

31. Thích ứng việc huấn luyện với từng hình thức hoạt động tông đồ. Những hình thức hoạt động tông đồ khác nhau cũng đòi hỏi một sự huấn luyện đặc biệt tương ứng:

a) Ðối với việc tông đồ nhằm rao truyền Phúc Âm và thánh hóa mọi người, người giáo dân phải được huấn luyện đặc biệt để có thể đối thoại với người khác, với những người có đức tin hay với những người không tin, để bày tỏ sứ điệp Chúa Kitô cho mọi người 5.

Vì ở thời đại chúng ta, duy vật chủ nghĩa dưới mọi hình thức đang lan tràn khắp nơi, ngay cả giữa những người công giáo, nên người giáo dân không những phải chuyên cần học hỏi giáo lý công giáo, đặc biệt là những vấn đề đang được đem ra tranh luận, mà họ còn phải làm chứng bằng một đời sống Phúc Âm để chống lại với bất cứ hình thức duy vật chủ nghĩa nào.

b) Về việc cải tạo trật tự trần thế theo tinh thần Kitô giáo, người giáo dân phải được học hỏi về ý nghĩa đích thực và về những giá trị của những của cải trần gian, hoặc căn cứ ở chính những của cải ấy, hoặc căn cứ vào liên lạc giữa chúng với mọi mục đích của con người. Họ cũng phải được tập luyện để sử dụng đúng những của cải trần thế và biết tổ chức các cơ cấu, mà vẫn luôn luôn để ý đến công ích theo những nguyên tắc của học thuyết luân lý và xã hội của Giáo Hội, nhất là giáo dân phải lãnh hội những nguyên tắc và những áp dụng của học thuyết xã hội này để có khả năng không những góp phần vào việc phát triển học thuyết đó mà còn áp dụng đúng đắn học thuyết đó vào từng trường hợp cá biệt 6.

c) Vì những công cuộc bác ái và từ thiện là một bằng chứng hùng hồn về đời sống Kitô giáo, nên việc huấn luyện tông đồ cũng cần phải khuyến khích thực hiện những công cuộc đó, để các đồ đệ của Chúa Kitô, ngay từ thiếu thời, đã biết chia sẻ nỗi đau khổ của người anh em mình và rộng lòng giúp đỡ những anh em thiếu thốn 7.

32. Phương thế huấn luyện. Người tông đồ giáo dân hiện nay có nhiều phương thế, chẳng hạn: những khóa học tập, những kỳ đại hội, những cuộc tĩnh tâm, linh thao, những buổi họp mặt thường xuyên, những buổi thuyết trình cũng như sách báo và những sách giải thích: tất cả đều là những phương thế giúp họ trau giồi thêm kiến thức về Thánh Kinh cũng như về giáo lý công giáo, giúp họ nuôi dưỡng đời sống thiêng liêng cũng như giúp họ hiểu biết những hoàn cảnh sống của thế giới để khám phá và sử dụng những phương pháp thích ứng nhất 8.

Những phương thế huấn luyện này được sử dụng tùy theo các hình thức hoạt động tông đồ khác nhau cũng như tùy môi trường hoạt động.

Có nhiều trung tâm và nhiều viện cao đẳng cũng được thiết lập nhằm mục đích huấn luyện này đã đem lại nhiều kết quả mỹ mãn.

Thánh Công Ðồng hoan hỷ vì thấy những sáng kiến như thế đang thịnh hành nhiều nơi và mong muốn thấy người ta thiết lập những cơ sở như thế ở những nơi đang cần thiết.

Hơn nữa Thánh Công Ðồng cũng cổ võ sự thiết lập những trung tâm thu thập tài liệu và nghiên cứu cho hết mọi hoạt động tông đồ, không những về khoa thần học mà cả về các khoa học khác như nhân chủng học, tâm lý học, xã hội học, phương pháp học, để phát triển tài năng của giáo dân nam cũng như nữ, giới trẻ cũng như giới trưởng thành.

 

Lời Kêu Gọi

33. Vậy Thánh Công Ðồng nhân danh Chúa hết sức kêu mời tất cả các giáo dân, hưởng ứng sự thúc đẩy của Chúa Thánh Thần, hãy mau mắn, đại độ và sẵn sàng đáp lại tiếng gọi của Chúa Kitô, Ðấng giờ đây đang tha thiết mời gọi họ. Ước gì giới trẻ hiểu rằng lời mời gọi này được đặc biệt gởi tới họ và ước gì họ vui mừng và quảng đại đón nhận. Quả thật chính Chúa một lần nữa nhờ Thánh Công Ðồng này, mời gọi tất cả các giáo dân hãy kết hợp với Người ngày một mật thiết hơn và nhận thức được những gì của Người cũng là của chính mình (x. Ph 2,5), họ hãy tham gia vào sứ mạng cứu rỗi của chính Người và một lần nữa Người sai họ đi tới các thành và những nơi Người sẽ đến (x. Lc 10,1). Như thế giáo dân hãy chứng tỏ mình là cộng tác viên của Chúa, cộng tác vào cùng một công cuộc tông đồ của Giáo Hội bằng nhiều hình thức và phương tiện khác nhau. Những cộng tác viên phải luôn luôn thích nghi với những đòi hỏi mới của thời đại và không ngừng ra sức phục vụ Chúa bởi biết rằng khó nhọc của mình không phải là uổng phí trong Người (x. 1Cor 15,58).

 

Tất cả và từng điều đã được ban bố trong Sắc Lệnh này đều được các Nghị Phụ Thánh Công Ðồng chấp thuận. Và dùng quyền Tông Ðồ Chúa Kitô trao ban, hiệp cùng các Nghị Phụ khả kính, trong Chúa Thánh Thần, Chúng Tôi phê chuẩn, chế định và quyết nghị, và những gì đã được Thánh Công Ðồng quyết nghị, Chúng Tôi truyền công bố cho Danh Chúa cả sáng.

 

Roma, tại Ðền Thánh Phêrô, ngày 18 tháng 11 năm 1965.

Tôi, Phaolô Giám Mục Giáo Hội Công Giáo.

Tiếp theo là chữ ký của các Nghị Phụ.

 


Chú Thích:

1 Xem CÐ Vat. II, Hiến chế tín lý về Giáo Hội, ch II, IV, V: AAS 57 (1965), trg 12-21; 37-49. - x. thêm Sắc Lệnh về hiệp Nhất, số 4, 6, 7, 12: AAS 57 (1965), trg 94-96, 97, 99, 100. - x. thêm trên, số 4.

2 Xem Piô XII, Huấn từ ad IV Conferentiam internationalem "Boy-Scout", 6-6-1952: AAS 44 (1952), trg 579-580. - Gioan XXIII, Tđ. Mater et Magistra, 15-5-1961: AAS 53 (1961), trg 456.

3 Xem CÐ Vat. II, Hiến chế tín lý về Giáo Hội, số 33: AAS 57 (1965), trg 39.

4 Xem Gioan XXIII, Tđ. Mater et Magistra, 15-5-1961: AAS 53 (1961), trg 455.

5 Xem Piô XII, Tđ. Serium laetitae, 1-11-1939: AAS 31 (1939), trg 635-644. - Xem n.t., Ad "laureati" Act. cath. It, 24-5-1953: AAS 45 (1953), trg 413-414.

6 Xem Piô XII, Huấn từ ad Congressum universalem Foederationis mundialis juventutis femineae Catholicae, 18-4-1952: AAS 44 (1952), trg 414-419. Xem n.t. Huấn từ ad Associationem Christianam Operatiorum Italiae (X.C.I.I), 1-5-1955: AAS 47 (1955), trg 403-404.

7 Xem Piô XII, ad Delegatos Conventus Sodalitatum Caritatis, 27-4-1952: AAS 44 (1952), trg 470-471.

8 Xem Gioan XXIII, Tđ. Mater et Magistra, 15-5-1961: AAS 53 (1961), trg 454.

 

VỀ MỤC LỤC
MỪNG NĂM THÁNH 2010, XEM LỊCH SỬ TRUYỀN GIÁO VIỆT NAM (BÀI 11) THÀNH LẬP CHỦNG VIỆN ĐÀO TẠO HÀNG GIÁO SĨ VIỆT NAM
 

Sứ mệnh căn bản mà Tòa Thánh đã ủy nhiệm cho các Giám Mục Ðại Diện Tông Tòa thuộc Hội Thừa Sai Hải Ngoại Paris là thiết lập hàng giáo sĩ địa phương. : « Lý do chính yếu khiến Thánh Bộ gởi các ngài là những người có chức giám mục đến những vùng nói trên (Trung Hoa, Bắc Việt và Nam Việt) là để, bằng mọi cách thế và phương pháp có thể, các ngài nắm lấy trách nhiệm giáo huấn người trẻ hầu giúp họ thâu thập đủ các khả năng, để tiến tới chức linh mục. Truyền chức linh mục cho họ rồi, các ngài hãy sai họ về địa phương gốc của họ với sứ mệnh phục vụ đạo kitô hết lòng mình, dưới sự hướng dẫn của các ngài. Vậy xin các ngài hãy luôn ghi nhớ mục đích này trước mắt mình là dẫn đưa đến chức linh mục, một số đông càng nhiều càng tốt và càng có khả năng càng hay, những người có khả năng, đào tạo họ và giúp họ tiến triển trong môi trường của họ([1]) ».

Trong việc làm dầu tiên của các thừa sai khi đến Viễn Ðông là họp công đồng vào đầu năm 1664 ở Ayuthia để soạn thảo chương trình và xác định nguyên tắc hành động, không kể việc soạn bản « Chỉ dẫn thực hiện sứ mệnh truyền giáo », các thừa sai hiện diện, hai đức cha Ðại Diện Tông Tòa cũng như các linh mục thừa sai, tất cả đều đồng ý rằng việc lập chủng viện đào tạo linh mục địa phương là sứ mệnh hàng đầu và là điều khẩn cấp phải làm.  

1. Công đồng Ayuthia quyết định lập chủng viện đào tạo linh mục địa phương 

 « Chỉ dẫn thực hiện sứ mệnh truyền giáo », như chúng ta đã xem ở bài 9, đã được soạn thảo với 10 chương qui tụ trong ba phần. Ba chương đầu nói về con đường tu đức, cuộc sống thánh hoá mà nhà thừa sai, người truyền giáo cần phải có. Năm chương tiếp theo, các chương 4, 5, 6, 7 và 8, nói về việc giảng dậy cho lương dân và những cách thế phải dùng đến : giảng dậy bằng gương sáng, bằng bác ái, bằng khôn ngoan, bằng trung dung. Hai chương 9 và 10 nói về việc tổ chức giáo hội, qua 3  khía cạnh : tổ chức giáo xứ, các thầy kẻ giảng và việc đào tạo linh mục bản xứ. 

Về điểm cuối cùng liên quan đến việc đào tạo linh mục bản xứ việt nam, tất cả các thừa sai đều đồng ý lấy quyết định phải thành lập chủng viện. Trong tình trạng hiện thời, với số nhân sự thừa sai ít ỏi, lại phải bận bịu với công việc truyền giáo, chỉ cần lập một chủng viện.

Nhưng ở đâu ? Câu trả lời mau chóng đã được mọi người nhìn ra : phải đặt ở Xiêm La. Những tiêu chuẩn cần thiết để một chủng viện có thể sinh hoạt kết quả thì ai cũng thấy : phải có bình an và tự do giảng dậy, phải có  điều kiện di chuyển và phương tiện cũng như khả năng thâu nhận chủng sinh. Trong tình trạng bách hại hiện nay, Việt Nam không thuận tiện. Chỉ có Xiêm mới là nơi mà Công Giáo được tự do hành đạo và truyền đạo, nơi mà các người ngoại quốc đủ mọi quốc tịch, Âu châu hay Á châu, đều có thể ra vào dễ dàng, các chủng sinh có thể đi lại không có vấn đề, lại là nơi có các thuyền bè buôn bán di chuyển và chuyên chở thuận tiện nối liền các nước khắp vùng Viễn Ðông, Nhật, Tầu, Việt Nam,…với các nước Âu Châu, Pháp, Anh, Hòa Lan, Bồ Ðào Nha, Tây Ban Nha,…Thế là nơi đặt chủng viện đã được quyết định : ở nước Xiêm.

Ðiều thứ hai mà công đồng Ayuthia đã quyết định liên quan đến chủng viện là đưa ra những nguyên tắc tổng quát về tổ chức nội bộ. Thrước nhất về chủng sinh, chủng viện sẽ tiếp nhận các chủng sinh hay thừa sai Âu Châu để hoàn tất công việc đào tạo của họ , để họ cùng có chung một đường hướng và một phương pháp truyền giáo hữu hiệu và thích ứng với các xứ Viễn Ðông. Sau nữa, chủng viện, được thiết kế như « một trường đời sống hoàn hảo » lấy mẫu gương cuộc sống của Chúa với các tông đồ khi xưa, tiếp dón và đào tạo tất cả các chủng sinh địa phương mà các thừa sai gởi về. Không quên vấn đề vật chất cụ thể, công đồng đã quyết định bổ nhiệm một Tổng quản lý để quản trị các vấn đề vật chất tại chủng viện.

Chiếu theo những quyết định này, ở lại Ayuthia, đức cha Lambert đã đảm nhiện công việc thực hiện việc thành lập chủng viện đào tạo hàng giáo sĩ bản xứ Á Đông, mà Việt Nam là nước có nhiều nhu cầu cao.   

2. Ðức cha Lambert được vua Pha Narai cho đầt và vật liệu xây chủng viện 

Hai giám mục Ðại Diện Tông Tòa đến kinh đô nước Xiêm vào năm 1662 và 1664, đã tạo một tiếng vang, đồn khắp Ayuthia. Vua Phra Narai đang cai trị nước Xiêm lúc đó, là người lịch thiệp, có tinh thần cởi mở, khoan nhân với người ngoại quốc, tỏ ý muốn gặp các giám mục Pháp. Nghĩ rằng đây là dịp thuận tiện có thể làm tăng uy tín các vị thừa sai và hữu ích cho việc truyền giáo, Ðức cha Pierre Lambert de la Motte nhận lời mời và cùng đoàn tùy tòng đến gặp vua.

Vua Phra Narai đã tiếp đón các ngài một cách lịch thiệp và trang trọng, theo lễ nghi của nước Xiêm lúc đó. Ðức cha Lambert cám ơn lòng tốt của vua đã cho phép ngài và các linh mục cộng sự được lưu trú trong vương quốc Xiêm La, lại được đặc ân được vua tiếp kiến. Vua hỏi thăm Ðức cha về nước Pháp : địa thế thế nào, thương mại ra sao, tài nguyên giầu nghèo, quân đội mạnh yếu, …  Vua cũng hỏi thăm về lý do khiến Ðức cha và các cộng sự bỏ nước đi sang Viễn Ðông, mà đặc biệt là Xiêm La. Về vấn đề tôn giáo, vua hỏi đức cha : «  Ngài có nghĩ rằng đạo của ngài tốt hơn đạo của chúng tôi không » ? Không trả lời trực tiếp vào câu hỏi, Ðức cha Lambert kể cho vua nghe về những sự thật của đạo Kitô, về những phép lạ Chúa Giêsu đã làm, về sự phát triển của đạo công giáo ở Âu châu,…Bỗng vua Phra Narai ngắt lời đức cha và nói với ngài : « Tôi có một người anh em bị bại liệt tứ chi. Nếu ngài có thể chữa lành được cho em tôi, thì tất cả chúng tôi sẽ theo đạo ngài ». Nói thế rồi vua xin cáo từ Ðức cha và các linh mục cộng sự.

Trở về trại, Ðức cha liền triệu tập tất cả các giáo hữu lại và kể cho họ nghe lời vua Phra Narai đã hứa và xin mọi người cùng hiệp ý cầu nguyện với ngài. Trong suốt ba ngày, Ðức giám mục, các linh mục, các bổn đạo, mọi người cùng cầu nguyện. Sáng ngày thứ tư, mấy vị quan triều đến nhà nguyện, quì sập bái lậy Ðức cha Lambert và báo tin cho ngài hay rằng tình trạng sức khoẻ của hoàng tử anh em của vua tốt đẹp hơn. Hoàng tử có thể nhúc nhích được tứ chi, trái với tình trạng hoàn toàn tê liệt trước đây. Trong nhà nguyện nhỏ, mọi người cảm động khôn xiết. Ðức cha liền nói với các quan triều : « Các quan hãy về nói với vua rằng, với lời cầu nguyện, tôi chắc chắn Thiên Chúa sẽ nghe lời và hoàng tử sẽ được chữa lành và sẽ có một sức khoẻ tốt đẹp. Nhưng nếu thiếu tin thì vua nên bái sợ sự công thẳng của Chúa, vì Ngài sẽ để cho người anh em vua lại rơi vào tình trạng ốm liệt ».

Các quan triều đã về thuật lại với vua và theo lời người ta kể thì vua có vẻ lo lắng và đăm chiêu trong nhiều ngày. Ít lâu sau đó, vua Phra Narai sai gởi khoảng một chục trẻ con các quan triều đến theo học các khoa học Âu châu với các cha thừa sai.  

Trong tình trạng thuận lợi có tâm tình tốt đẹp của vua, Ðức cha Lambert đã biên một văn thơ ngày 29.05.1665, gởi lên vua Phra Narai, đề nghị mở một trường học, tại thủ đô Ayuthia hay một nơi nào khác ở ngoại ô cũng được, để dậy các khoa học cần thiết cho một quốc gia. Và để tránh nghi kỵ, Ðức cha đã thêm rằng « các thừa sai sẽ chẳng hề xen lấn vào chính sự quốc gia, cũng chẳng màng đến những sự thế gian ». Rồi ngài kết luận rằng : « hy vọng rằng lòng nhân từ của vua sẽ khấng ban cho chúng tôi một đền thờ để làm việc thờ kính tôn giáo ».

Mãi đến cuối tháng 12.1665, lá thơ của Ðức cha mới đến tay vua Phra Narai, vì vị quan triều chuyển thơ bị đau. Nhà vua đã chấp nhận những điều Ðức cha xin và đầu năm 1666, vua đã cấp cho các thừa sai người Pháp một mảnh đất khá rộng ở Bản (làng) Phahet, bên bờ sông Ménam[2], cạnh khu Việt kiều. Vua cũng hứa sẽ cung cấp vật liệu để xây cất một nhà nguyện và một chủng viện. Đc Lambert mừng lắm. Ðể đề phòng tránh nạn hỏa hoạn và bảo vệ các sách vở và đồ thờ, Ngài cho xây hai phòng nhà gỗ, lợp ngói. Ðồng thời Ngài cho xây một ngôi nhà lớn : tầng dưới bằng gạch, là nhà ở, có thể chứa dễ dàng vài chục người ; tầng trên bằng gỗ, là nhà nguyện. Phần đất còn lại chung quanh nhà thờ, Ðức cha trù tính sẽ để làm nghĩa địa và vườn cây, giống như mô hình các làng xứ đạo Pháp. Toàn khu đất đó của các thừa sai người Pháp, ngài muốn đặt dưới sự bảo trợ của thánh Giuse để tỏ lòng cám ơn thánh cả vì những bầu cử mà thánh cả đã làm cho các thừa sai và ngài đặt tên là Trại Thánh Giuse. Như vậy, vào năm 1666 này, nói được là tại kinh đô Ajuthia có thêm « Khu người Pháp » sau khi đã có những khu kiều dân khác như : Bồ Đào Nha, Hoà Lan, Trung Hoa, Nhật Bản, Việt Nam, vân vân.

Xin xác định rõ một chút rằng, tuy ở gần, nhưng « Khu người Pháp », hay « Trại Thánh Giuse », hay « Chủng Viện Thánh Giuse » là nơi cư trú của các đức cha, các linh mục thừa sai, các chủng sinh, các nhân viên phục vụ, bệnh xá, trường học, v.v. của người Pháp, khác với « Khu người Việt ». Khu người Việt tại Ajuthia là khu mà người Việt Nam cư ngụ, gồm cả lương lẫn giáo, có trên trăm người, đàn ông đàn bà, già trẻ lớn bé, trong đó một số khá đông có đạo. Đức cha Lambert vẫn đến đây dạy dỗ, cử hành thánh lễ và ban các bí tích cho giáo dân, cũng như gặp gỡ và rao giảng Tin Mừng cho lương dân. Trong khu này, người công giáo việt nam họp thành giáo xứ thánh Giuse, có nhà thờ và nhà xứ riêng.

Thế là từ năm 1666, cơ sở chủng viện thánh Giuse đã được xây cất tại Ayuthia, nước Xiêm La để đào tạo các linh mục bản xứ cho các giáo hội Viễn Ðông, ít nhất là các giáo hội mà Tòa Thánh đã ủy thác cho các Giám Mục Ðại Diện Tông Tòa. Từ nay, trong nhà này, các chủng sinh việt nam, trung hoa, xiêm la,… những thanh niên có hiểu biết, khả năng và đức độ,…sẽ có thể được đào tạo tại chỗ, để trở thành linh mục, tiếp tay cho các thừa sai trong việc loan báo Tin Mừng.

Cũng tại đây, như chung ta vừa nói qua ở trên, nhiều sinh hoạt bác ái cũng đã và sẽ được thực hiện, khiến có một số người cảm kích và xin trở lại đạo và khiến vua Phra Narai đã tiếp kiến đức cha Lambert lần thứ hai và hỏi chuyện ngài về đạo Công Giáo. Ðó là chuyện chúng ta sẽ bàn đến trong một dịp khác. Bây giờ xin trở lại vần đề truyền chức linh mục, thành lập chủng viện và đào tạo linh mục.  

3. Chủng viện thánh Giuse khai giảng đào tạo các giáo sĩ Việt Nam tiên khởi 

Sau quyết định của Công Ðồng Ayuthia năm 1664 về việc thành lập chủng viện, trong  năm 1665, một số đơn xin truyền chức đã đến từ các cộng đoàn không thuộc thẩm quyền Hội Thừa Sai. Vào năm 1665 chẳng hạn, Tòa Giám Mục Macao đã gởi ba thầy xin được phong chức linh mục. Ðức cha Lambert đã tiếp họ và thấy rằng họ đã chưa được chuẩn bị đủ, nên đã từ chối truyền chức ngay cho họ, mà đề nghị họ phải học thêm thần học. Rồi ba thanh niên khác cũng trình diện, xin học thần học, trong đó có François Pérez[3], sinh quán tại địa phận Méliapour, Ấn Ðộ, con của một gia đình hỗn hợp, cha là Bồ Ðào Nha, mẹ là Á châu. Sau đó, Macao đã gởi đến 6 thầy khác để xin được truyền chức linh mục. Ðức cha Lambert cũng đưa ra một đề nghi là học tiếp thần học trong một hay hai năm, trước khi nhận lãnh chức linh mục. Ba thầy đồng ý ở lại. Thế là lớp thần học đầu tiên đã được mở tại chủng viện thánh Giuse, vào năm 1665, với 9 chủng sinh, do một ban giáo sư gồm 3 vị là Ðức cha Lambert de la Motte, cha François Deydier và cha Louis Lanneau, mà cha Louis Laneau lãnh trách nhiệm giám đốc điều khiển.

Chủng viện Thánh Giuse đã tiếp đón và đào tạo các thanh niên địa phương, trong đó, ít nhất là lúc đầu, chính yếu là các thầy giảng, thanh niên Việt Nam. Ba năm sau khi thành lập khóa thần học đầu tiên, ngày 31.03.1668, Ðức Cha Lambert đã truyền chức cho hai linh mục, cha Giuse TRANG, vị linh mục Việt Nam tiên khởi đến từ Ðàng Trong và cha François Perez. Rồi cha Luca BỀN, một linh mục Ðàng Trong khác. Vào tháng sáu cùng năm 1668 này, Ðức cha cũng đã truyền chức cho hai vị linh mục việt nam đầu tiên đến từ Ðàng Ngoài. Ðó là cha Gioan HUỆ và Bênêditô HIỀN. Năm 1672, trong chuyến kinh lý Ðàng Trong lần thứ nhất, Ðức cha Lambert đã mang theo 10 người trẻ việt nam về học ở chủng viện Thánh Giuse.  

Không kể những linh mục dòng, hoặc triều cho các địa phận khác ở Viễn Ðông, nguyên cho hai Ðịa Phận Đàng Tropng và Ðàng Ngoài, trong những năm từ 1668   đến 1677, Ðức cha Lambert đã truyền chức cho 13 linh mục việt nam, trong đó 11 thuộc Địa Phận Đàng Ngoài[4]. Ðó là các vị sau đậy :  

1668 và 1669 ở Xiêm cho hai cha Đàng Trong

1.      Giuse Trang (người Đàng Trong) ngày 31.03.1668

2.      Luca Bền, năm 1669. 

1668, tháng sáu, ở Xiêm cho hai cha Đàng Ngoài :

3.      Gioan HUỆ, coi Thanh Hóa rồi Kiên Lao, Sơn Nam (1668-1671) và

4.      Bênêditô HIỀN, sinh tại làng Ðong Hiên, huyện Chân Phúc, (1668-1696) ; 

1670, ở Việt Nam cho bảy cha Đàng Ngoài :

5.      Mactinô MÁT(1670-1684), gốc là một nhà sư, coi sóc nửa tỉnh Thanh Hóa,

6.      Giacôbê CHIÊU (1670-1683), giám quản Hải Dương và Bắc Sơn Nam, rồi Nghệ An, Thanh Hóa,

7.      Philiphê NHÂN (1670-1672), chính xứ Kẻ Võ, coi sóc phần bắc tỉnh Thanh Hóa,

8.      Antôn QUẾ (1670-1685), sinh tại Bến Triều, Thanh Hóa, trong một gia đình nhà nho thượng lưu, coi sóc Hải Dương và Kinh Bắc,

9.      Simon KIÊN (1670-1684), sinh tại Kiên La, Sơn Nam, coi sóc làng Kiên Lao,

10.  Lêôn TRỤ (1670-1692), sinh tại làng Ðông Hồ, huyện Ðông Quan coi sóc địa hạt nửa tỉnh Nghệ An,

11.  Vitô TRI (1670-1705), coi sóc vùng nam tỉnh Thanh Hóa, rồi Nghệ An, Sơn Nam và Kinh đô 

1677 ở Xiêm cho hai cha Đàng Ngoài :

12.  Philiphê TRÀ (1677-1685), sinh quán Trà Lũ, Sơn Nam,

13.  Dominicô HẢO (1677-1697), sinh quán làng Thụy Nhai, tỉnh Sơn Nam  

Ðề tựa cho tập tài liệu của đức cha NÉEZ « Hàng Giáo sĩ Bắc Kỳ trế kỷ 17 và 18 » để xuất bản, đức cha J. de GUÉBRIANT, Nguyên Giám Mục Ðại Diện Tông Tòa, Giám Quản Canton và Bề Trên Tổng Quyền Hội Thừa Sai Hải Ngoại Paris 1921-1935 đã viết những dòng sau đây về Hội Thừa Sai Hải Ngoại Paris : « Hội ghi vào ở ngay những điều khoản đầu tiên của chương thứ nhất bản nội qui của Hội những dòng sau đây, những dòng trình bày sáng kiến vĩ đại của việc tông đồ hiện đại : Mục đích hàng đầu mà Thiên Chúa đã ban cho các Giám Mục và giáo sĩ Pháp, tập họp nhau thành hội, ở giữa thế kỷ 17, để hoạt động hoán cải các người ngoại giáo ở các nước ngoài, và ý định chính yếu của Tòa Thánh khi gửi họ đến các Miền Truyền Giáo, với các tước hiệu Ðại Diện Tông Tòa và Thừa Sai là để tiến hành nhanh chóng việc hoán cải các dân ngoại, không những bằng cách rao truyền cho họ Tin Mừng, mà còn nhất là bằng cách chuẩn bị với những phương thế tốt nhất để nâng lên hàng giáo sĩ những người trong số các tân tòng hoặc con cháu họ được xét thấy xứng hợp với chức bậc thánh thiện ấy, hầu tạo lập trong mỗi nước một hàng giáo sĩ, và một hàng giáo phẩm, như Chúa Giêsu và các tông đồ đã thiết lập trong Giáo Hội[5] ».      

Ðọc lại những dòng chữ này và nhìn lại lịch sử Giáo Hội Công Giáo Việt Nam, hẳn thật ai cũng sẽ phải nhận rằng người có công rất lớn trong việc xây dựng Giáo Hội Việt Nam là Hội Thừa Sai Hải Ngoại Paris. Chính Hội Thừa Sai Hải Ngoại Paris, từ 350 năm nay, 1659-2009, đã, cùng với nhiều hội dòng khác như Dòng Tên, Dòng Đaminh, góp phần thiết lập và đào tạo hàng giáo sĩ cho Việt Nam. Chính nhờ hàng giáo sĩ này mà các giáo dân được đào luyện, hiểu biết đạo hơn và  dám can đảm bảo vệ đức tin. Chính nhờ hàng giáo sĩ này mà Giáo Hội Việt Nam đã được hân hạnh có 117 thánh tử vì đạo. Chính nhờ hàng giáo sĩ này mà Tin Mừng vẫn tiếp tục được rao truyền cho lương dân. Chính nhờ hàng giáo sĩ này mà Giáo Hội Việt Nam được phát triển, chẳng những có linh mục mà có cả giám mục và hồng y, đủ khả năng để đi đến việc thành lập Hàng Giáo Phẩm vào năm 1960. Có giám mục là những vị kế nghiệp các thánh tông đồ, thì, như đàn ong có ong chúa, Giáo Hội Việt Nam có người lãnh đạo, chỉ đường, truyền sức sống, phát triển năng lực.

Nhờ các Thừa Sai Hải Ngọại Paris, hai giáo phận Ðàng Trong và Ðàng Ngoài đã được thiết lập vào năm 1659. Rồi hôm nay, 2010, đã lớn lên vói 26 giáo phận, qui tụ trong 3 tổng giáo phận và đã có 5 hồng y : Trịnh Như Khuê (1899-1978), Trịnh Văn Căn (1921-1990), Phạm Ðình Tụng (1919-2009 ), Nguyễn Văn Thuận (1928-2002) và Phạm Minh Mẫn (1934- ). Tạ Ơn Chúa ! Cám ơn các Thừa Sai Hải Ngoại Paris !    

Paris, ngày 11 tháng 03 năm 2010

Trần Văn Cảnh 


Ghi chú 

[1] Le Siège apostolique et les Missions – Textes et Documents pontificaux, 1959 : Union missionnaire du clergé ; Paris et Lyon ; t. 1, tr. 10

[2] Vào năm 1680, cha Louis Laneau đã quyết định lập thêm một cơ sở mới cho chủng viện ở Mahapram, cách Ayuthia chừng hai dậm, lấy tên là « Chủng Viện Các Thánh Thiên Thần », dành cho các chủng sinh bản địa. Còn Chủng Viện Thánh Giuse cũ, vẫn ở nguyên tại chỗ và dành cho các chủng sinh đến từ Âu Châu..

[3] François Perez sẽ chịu chức vào năm 1668, cùng lượt với cha Việt Nam đầu tiên, Giuse Trang. Và sẽ làm giám mục Ðàng Trong từ 1691 đến 1728.

[4] Ðức cha NÉEZ, Hàng giáo sĩ Bắc Kỳ thế kỷ 17 và 18, tr. 35-93

[5] Ibidem, tr. 6-7.

 

VỀ MỤC LỤC
ÔNG THẤY VÀ TIN

 

Chúa nhật Phục Sinh C

Ga 20, 1-9

Chúa nhật Phục Sinh, Giáo hội mời gọi chúng ta cùng đồng hành với những chứng nhân đầu tiên là Maria Mađala, Phêrô và Gioan xung quanh sự kiện ngôi mộ trống và cùng với họ khám phá ý nghĩa của phía sau sự kiện này là gì.

Maria Macđala: Thấy ngôi mộ trống, lo lắng và nghĩ ngợi.

Khi những vì sao hôm mọc lên báo hiệu một ngày mới, đồng thời cũng báo hiệu ngày nghỉ lễ Sabat chấm dứt, người ta trở lại cuộc sống và sinh hoạt bình thường, sáng sớm ngày thứ nhất, Maria Macđala đi ra mộ Chúa để kính viếng Người. Điều làm cho bà ngạc nhiên đó chính là sự kiện ngôi mộ bị mở tung, tảng đá lấp cửa mộ đã lăn ra khỏi mộ. Bà không khỏi lo lắng và nghĩ ngợi. Tất tã chạy về, bà báo cho Phêrô và người môn đệ Chúa yêu về sự kiện ngôi mộ trống với một nhận xét mà bà cho là không thể khác được: “Người ta đã đem Chúa đi khỏi mộ; và chúng tôi chẳng biết họ để Người ở đâu?”. Với bà, rõ ràng là có một ai đó lợi dụng đêm tối đến lăn tảng đá và lấy xác Chúa đi. Càng thương Chúa bao nhiêu, Maria Macđala càng thấy phải có trách nhiệm tìm cho bằng được “thủ phạm” gây nên “chuyện kinh thiên động địa” này. Thủ phạm là ai ? Theo bà, đó có thể là tất cả những ai thù nghịch với Chúa trong vụ án vừa qua. Mà như thế thì thật là đê tiện và không thể chấp nhận được. Chẳng lẽ như thế chưa đủ đối với họ hay sao mà lại còn đối xử với Chúa cách thậm tệ như vậy! Mà biết đâu cũng có thể cả người làm vườn nữa? v.v… Cuối cùng bà nghĩ chỉ có thể báo cho Phêrô và người môn đệ Chúa yêu và may ra mới có câu trả lời thoả đáng, và biết đâu, các ông lại chẳng truy tìm thủ phạm “đáng ghét” kia! Bước chân vội vã của bà trở về đủ cho chúng ta tìm ra lời giải đáp cho những lo lắng mà bà vẫn canh cánh bên mình.

Phêrô: Nhìn thấy tất cả, không bình luận.

Khi được Maria Macđala báo tin về sự kiện ngôi mộ trống, Phêrô và người môn đệ Chúa yêu dường như quên hết nỗi sợ sệt người Dothái, các ông lập tức rời bỏ nơi ẩn náu, ra khỏi sự e dè và sợ sệt để vội vã chạy đến xem và ghi nhận sự kiện này. Theo cách nhìn nhận vấn đề, chúng ta thấy Phêrô tuy là người đến sau nhưng lại là người vào ngôi mộ trước, do đó đương nhiên trở thành chứng nhân đầu tiên chứng kiến trọn vẹn sự kiện ngôi mộ trống. Phêrô đã thấy gì? Tin mừng Gioan phần nào đã cho chúng ta thấy cách thức tẩn liệm thời đó. Tấm khăn liệm và miếng vải dùng để che đầu là những vật dụng không thể thiếu trong việc tẩn liệm. Phêrô vào mộ và ông thấy tất cả các băng vải được xếp riêng ra, được cuộn lại cách ngay ngắn. Không giống như Maria Macđala đã vội sửng sờ và gán ghép cho một trò cỡn bợt gian lận hay âm mưu đê hèn nào đấy, Phêrô nhìn thấy tất cả và không đưa ra lời nhận xét nào. Lý giải thế nào trước thái độ này của Phêrô? Có người cho rằng đó chính là thái độ cần thiết của một nhà lãnh đạo. Với Phêrô ở cương vị Tông đồ trưởng, là thủ lĩnh thì cần phải thận trọng và dè dặt hơn nhiều trước những biến cố, những sự kiện mà lời nói và nhận xét của mình có liên quan, ít nhiều đều ảnh hưởng đến đời sống tinh thần của dân chúng. Lẽ dĩ nhiên chúng ta không phủ nhận tính đúng đắn của nhận định này. Tuy nhiên nếu căn cứ vào những gì Tin mừng Gioan trình bày, chúng ta sẽ thấy lý do vì sao Phêrô im lặng. “Trước đó, hai ông chưa hiểu rằng: Theo Kinh thánh, Đức Giêsu phải chỗi dậy từ cõi chết”. Thật thế, cho đến mãi sau này, khi đã được gặp Đấng Phục Sinh và đón nhận Thánh Thần, Phêrô mới hiểu vì sao ngôi mộ trống và tâm hồn ông lúc ấy mới bừng sáng để hiểu điều mà Kinh thánh từng loan báo. Phêrô im lặng là vì ông chưa hiểu. Con người của Phêrô là thế. Chưa hiểu thì im lặng chờ đợi. Không nghi ngờ. Không quy kết. Không chụp mũ bất cứ ai. Phải chăng đây cũng chính là thái độ cần có của một nhà lãnh đạo đúng nghĩa?

Người môn đệ Chúa yêu : Thấy và tin.

Người môn đệ được Chúa yêu đi vào mộ. Oâng nhìn thấy tất cả như Phêrô đã nhìn thấy. Tuy nhiên điều khác biệt duy nhất mà người môn đệ này cảm nghiệm được so với Phêrô đó chính là sự cảm nghiệm Phục Sinh: ông đã thấy và đã tin. Có thể nói đây chính là khuôn mẫu của người môn đệ tuyệt hảo. Gioan đã thấy gì? Thực ra ông chẳng thấy gì cả ngoài sự trống rỗng của ngôi mộ và vị trí gọn gàng của các băng vải. Thế nhưng bằng trực giác nhậy cảm của tâm hồn, ông đã nhận ra sự trống rỗng của ngôi mộ và những vị trí gọn gàng của các băng vải là vô số những thông điệp loan báo cho ông biết dấu chỉ về những thực tại siêu nhiên rất khác so với thực tại thông thường mà nếu không có đức tin, chắc chắn sẽ không cảm nhận được. Đức tin và sự cảm nghiệm Phục Sinh của ông thật chắc chắn. Đức tin và sự cảm nghiệm này một phần xuất phát từ trong cách quan sát và phân tích vấn đề một cách logic và biện chứng. Thật vậy, đối với ông, chẳng ai có thể lấy xác Chúa đi mà còn tử tế xếp tất cả các băng vải lại cách gọn gàng như vậy. Với ông, cái chết đã thất bại, nó đã bị sự Phục sinh tướt đoạt. Người Thầy và là người bạn của ông chẳng bị ai lấy đi mà chính Người tự đi ra khỏi nơi Người đã được an táng mà các khăn liệm được xếp gọn gàng là một minh chứng. Lẽ dĩ nhiên nguyên sự kiện ngôi mộ trống và nguyên các băng vải liệm được xếp gọn, dù khó hiểu, cũng không phải là bằng chứng cho sự sống lại của Chúa Giêsu mà đó chỉ là những dấu chỉ đưa đến niềm tin. Niềm tin đó sẽ được Đấng Phục Sinh và Chúa Thánh Thần củng cố và hoàn thiện nơi tâm hồn các môn đệ.

Chúa chúng ta Phục Sinh. Điều đó thật hiển nhiên trong niềm tin của chúng ta. Niềm tin đó dựa trên nền tảng thật vững chắc, được soi chiếu bởi chính Đấng Phục Sinh, được hướng dẫn và dạy dỗ của Chúa Thánh Thần và được rao truyền bởi chính các môn đệ là những chứng nhân đích thực. Chúng ta vui mừng và hân hoan vì Chúa đã chiến thắng tử thần, đem đến cho chúng ta đời sống mới. Niềm tin và lòng hân hoan này cần phải được nhân lên khi chính mỗi người chúng ta phải là những chứng nhân để loan báo Tin mừng Phục Sinh cho muôn dân.

Lạy Chúa Kytô Phục Sinh! Thế giới này hơn lúc nào hết cần đến ánh sáng Phục Sinh Chúa chiếu dọi. Và đời sống của chúng con sẽ ý nghĩa biết bao nếu chúng con biết tận dụng hầu hết mọi cơ hội trong cuộc sống để hát mừng Thánh danh và ca khen Chúa Phục Sinh, nhằm loan truyền cho mọi người nhận ra ánh sáng Phục Sinh và ơn cứu rỗi của Chúa.

Lm. Jos Phạm Ngọc Ngôn

VỀ MỤC LỤC
NĂM THÁNH 2010 (bài 6) BÁC ÁI VÀ YÊU THƯƠNG
 

Thầy ban cho anh em một điều răn mới là anh em hãy yêu thương nhau; anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em. Mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy ở điểm này: là anh em có lòng yêu thương nhau." (Jn 13:34-35)

Vào một ngày, khi thầy khổ tu kia bắt đầu cầu nguyện, thầy thấy một bà mẹ nghèo tàn tật cõng trên lưng một đứa con thiếu dinh dưỡng, gầy gò ốm yếu, em là nạn nhân của sự ruồng bỏ và đánh đập. Nhìn thấy thế, thầy ngước mặt lên thân thưa với Chúa: Lạy Chúa chí ái, tại sao Chúa Sáng Tạo yêu thương có thể nhìn cảnh khổ đau và đáng thương như thế mà không làm chi và sao Chúa vẫn cứ lặng thinh? Và trong tận đáy sâu thẳm tâm hồn, thầy nghe tiếng Chúa trả lời: Cha đã làm một vài điều, Cha đã dựng nên con.

1.      Yêu Thương

Chúa đã dựng nên chúng ta theo hình ảnh Chúa. Chúa cho mỗi người chúng ta một số nén bạc khác nhau và hy vọng mỗi người tự sinh hoa kết quả. Chúng ta được sinh ra làm người, được dưỡng nuôi trong tình yêu thương của Chúa, của gia đình và đồng loại. Mỗi người đều có trách nhiệm chung được mời gọi chia sẻ và cùng nhau xây dựng cuộc sống xã hội tốt đẹp để mai sau cùng chung hưởng hạnh phúc thiên đàng.

Chúng ta cần phải nhận diện hình ảnh của Chúa nơi những người anh chị em chung quanh và mỗi người trở thành Kitô với người khác. Thánh Thần bên trong mỗi tâm hồn sẽ biến mọi sự thành sự thật và sự có thể. Trong xã hội, nơi chúng ta đang sinh sống có rất nhiều người nghèo, người kém may mắn, họ rất cần sự giúp đỡ. Nếu chúng ta biết mở mắt tâm hồn trong tình yêu, chúng ta sẽ nhận ra chính Chúa Kitô đang hiện diện nơi những người cùng khốn nhất. Xã hội hiện nay vẫn có rất nhiều người tốt chung quanh. Truyện kể rằng: Trong cuộc đại khủng khoảng kinh tế tại Nước Mỹ, các cơ quan chính phủ đã phân tán khắp các vùng đồi núi để tìm kiếm các gia đình nghèo để họ có thể giúp cho chút vốn sửa sang nhà cửa và hạt giống để gieo trồng. Cơ quan từ thiện đến gặp một bà cụ già sống trong một mái nhà không sàn và nghèo nàn. Cửa sổ bị vỡ và được che đỡ bằng những miếng giấy cứng. Bà chỉ có những thứ đồ dùng căn bản và kiếm ăn từng ngày trên mảnh đất cằn khô. Một nhân viên nói với bà: Nếu chính phủ cho bà 200 đô, bà sẽ làm gì với số tiền này? Bà trả lời ngay: Tôi sẽ giúp cho người nghèo. Có rất nhiều người tốt thật giầu có nhưng lại ít tiền bạc.

2.      Phúc Lộc Chan Hòa

Đôi khi chúng ta đòi hỏi phải có công bằng về phần mình, nhưng chúng ta quên đi việc bác ái chúng ta cần phải thực hiện. Thử suy nghĩ xem chúng ta đã góp được góp bao nhiêu cho xã hội nơi chúng ta đang sinh sống. Khi chúng ta được sinh ra hoặc chúng ta đến cư ngụ nơi đây, thì hầu như mọi cái đã có sẵn. Chúng ta chẳng có công lênh gì cả, nhưng đôi khi chúng ta đòi hỏi thật nhiều. Chúng ta biết rằng ngay cả những cái chúng ta đang dùng như quần áo mặc trên người, đồ trang sức, những phương tiện cuộc sống đều là do sự cống hiến của rất nhiều người khác và từ đời này qua đời khác. Chúng ta không thể sống sót hay phát triển được nếu chúng ta không biết nhận lãnh và cho đi.

Chia sẻ sẽ có niềm vui và cho đi thì không bao giờ cạn. Truyện kể về lòng tốt đã cảm hóa được người xấu trở về. Thánh Phanxicô Salêsiô nổi tiếng là vị thánh hiền lành và có lòng tốt. Ngài có một người giúp việc rất nghiện rượu. Một hôm anh ta trốn chủ nhà ra quán nhậu say. Anh ta về khuya gõ cửa và không ai mở cho. Anh ta nằm lăn ra trước cửa và ngủ. Nghe tiếng động, thánh Phanxicô ra mở cửa và thấy anh ta nằm đó, ngài liền nhẹ nhàng bồng anh ta lên phòng và đặt trên chính giường của ngài. Còn ngài đi ngủ chỗ khác. Giường êm, nệm ấm khiến chàng ngủ say một giấc tới sáng. Vừa thức dậy, thấy mình nằm trên giường của chủ, anh ta hoảng hốt vội chạy đi tìm thánh nhân và sấp mình xin tha thứ và hứa cải thiện. Và anh đã giữ được lời hứa.

3.      Yêu Là Cho Đi

Từng giây, từng phút trong đời sống là từng giây phút chúng ta đón nhận hồng ân của Chúa. Từ khi chúng ta hiện hữu và có hơi thở cho tới khi chúng ta nhắm mắt xuôi tay, chúng ta sống trong biển hồng ân. Truyện kể về việc bác ái: Có một người đàn ông giầu có, thắc mắc về lời giảng của Chúa Giêsu về việc bố thí. Ông cảm thấy rất buồn nản bởi lời dạy này. Ông cầu nguyện và cầu nguyện để có thể chấp nhận lời dạy của Chúa nhưng càng cầu nguyện, ông càng cảm thấy buồn hơn. Một ngày, khi ông gần thất vọng, Thiên thần hiện đến an ủi ông và hỏi: “Tại sao ông lại buồn thế? Ông trả lời: Tôi buồn vì rằng tôi cứ phải cho, phải cho mãi không ngừng. Thiên thần nói: Ô, không, không phải thế đâu! Thiên Thần tiếp: Ông chỉ phải cho, khi Chúa còn cho ông. Nếu Chúa ngừng cho ông, rồi ông sẽ không phải tiếp tục cho người khác nữa. Giờ đây, Chúa vẫn tiếp tục cho ông mà – Chúa cho ông một cách dồi dào hơn cả ông có thể cho người khác. Chúa ban cho chúng ta khả năng, thời gian và gia sản, không phải cho chính chúng ta mà chúng ta dùng các khả năng Chúa ban sinh lợi cho đồng loại.

Yêu thương không có giới hạn. Một trái tim biết rộng mở yêu thương là một trái tim vĩ đại. Vĩ đại như trái tim của Đức cha Jean Cassaign và cha Đamien, tông đồ người hủi, trái tim của mẹ Têrêxa thành Calcutta và trái tim của không biết bao nhiêu linh mục , tu sĩ nam nữ và giáo dân đã chia sẻ cùng những kẻ nghèo nàn khốn khó. Hình ảnh mẹ Têrêxa, một nữ tu già nua tuổi tác, bệnh tật và yếu đuối. Làm sao mẹ có thể ôm ấp những thân xác ghẻ lở hôi thối, những vết thương rỉ máu và những quần áo dơ bẩn. Bởi đâu mẹ đã tiếp nhận những thây ma lạnh ngắt, mẹ ôm ẵm và mẹ chăm sóc. Người ta đâu phải là người thân hay ruột thịt của Mẹ. Mẹ đã đón nhận họ và yêu thương họ với một trái tim rộng mở và không so đo tính toán. Mẹ chỉ biết cho đi và cho đi. Thánh Matthew đã ghi lại lời Chúa Giêsu mời gọi cho đi: "Và ai cho một trong những kẻ bé nhỏ này uống, dù chỉ một chén nước lã thôi, vì kẻ ấy là môn đệ của Thầy, thì Thầy bảo thật anh em, người đó sẽ không mất phần thưởng đâu."(Mt. 10:42).

Không phải chúng ta chỉ cho, khi chúng ta có dư hoặc cho đi cái chúng ta không dùng. Cho đi chính cái mình đang cần, đang quí và đang xài mới là đáng qúi. Mẹ Têrêxa kể câu truyện, ngày nọ có một thiếu phụ và 8 đứa con nhỏ đến gỗ cửa nhà dòng xin gạo. Từ nhiều ngày qua, bà và các con không có được một hạt cơm trong bụng. Mẹ Têrêxa đã trao cho bà một túi gạo. Người đàn bà nhận gạo, cám ơn mẹ rồi chia gạo ra làm hai phần. Ngạc nhiên về cử chỉ ấy. mẹ Têrêxa hỏi tại sao bà lại phải chia làm hai. Người đàn bà nghèo khổ ấy trả lời: Tôi dành lại một phần cho gia đình người Hồi Giáo bên cạnh nhà, vì đã mấy ngày qua họ cũng không có gì để ăn. Sống tình bác ái là thế đó. Bà cho chính cái cần thiết để sống. Trong phúc âm, Chúa đã khen một bà góa cho hai đồng bạc vào thùng tiền. Bà cho chỉ có hai đồng xu nhưng đó là tất cả những cái bà có và bà cần dùng. Chúa đã khen lòng từ ái của bà.

4.      Cho Đi Là Có Thêm.

Chúng ta nhận lãnh thì nhiều nhưng cho đi thì ít. Nhìn lại mình, tất cả những cái chúng ta đang có đều là nhận lãnh. Chúng ta nhận lãnh sự sống con người từ Thiên Chúa và sự cộng tác của cha mẹ. Chúng ta nhận lãnh sự hiểu biết và khôn ngoan nơi người khác. Chúng ta lãnh nhận của ăn, thức uống, đồ dùng và mọi phương tiện của cuộc sống từ nơi những người xung quanh. Hầu như cái gì chúng ta cũng nhận.Chúng ta đã cống hiến được gì cho gia đình, xã hội và con người? Nhận lãnh cần phải trao ban. Nếu chúng ta không biết trao ban, chúng ta sẽ trở thành ao tù. Giống như khi chúng ta thở ra hít vào, khi chúng ta hít vào khí Oxy và thở ra thán khí, giúp con người sống còn. Cho và nhận trở thành quy luật của cuộc sống. Chúng ta đã lãnh nhận nhưng không thì hãy cho nhưng không. Chúng ta biết cho thì không mất, mà còn được thêm và thêm dư giả. Thánh Luca nhắc nhở cho quý hơn là nhận:"Tôi luôn tỏ cho anh em thấy rằng phải giúp đỡ những người đau yếu bằng cách làm lụng vất vả như thế, và phải nhớ lại lời Chúa Giê-su đã dạy: cho thì có phúc hơn là nhận"(TĐCV 20:35).

Mỗi người có những nhận thức và hành xử khác nhau trong đời sống. Người ta nói rằng: Cha mẹ sinh con, trời sinh tính. Chúng ta không biết những người tính tình hà tiện và sống keo kiệt ở đâu ra. Người ta thường chia ra ba hạng người làm phúc bố thí theo ba lối khác nhau. Nhóm người thứ nhất được ví như cục đá. Hễ muốn được gì, thì phải lấy búa mà đập. Song chỉ được đá vụn và tia lửa nẩy ra mà thôi. Nhóm người thứ hai ví như bọt biển. Nếu muốn được phải vắt và bóp. Nhóm người thứ ba ví như mật ong, không cần đập hay bóp, tự nhiên cũng được mật ngon chảy ra từ tàng ong. Chúng ta có thể hiểu được rằng: Nhóm thứ nhất là những kẻ cứng lòng và hà tiện, nếu không ép thì không chịu cho chút gì. Nhóm thứ hai là kẻ có lòng tốt, hễ ai quyên góp thì cho, càng quyên càng cho. Nhóm thứ ba là người vui lòng mà cho một cách ngọt ngào, chứ không đợi ai phải hỏi. Vậy chúng ta muốn gia nhập vào nhóm nào?

5.      Cho Qúy Hơn Nhận

Cho đi thì quý hơn nhận nhưng hàng ngày chúng ta nhận quá nhiều mà cho đi chẳng bao nhiêu. Từ khi mở mắt thức dậy chào đón một ngày mới là chúng ta bắt đầu nhận ơn. Không biết bao nhiêu thứ chúng ta nhận trong một ngày, chúng ta không thể kể hết. Chúng ta đóng góp được bao nhiêu cho xã hội và con người. Thật là quá ít ỏi. Câu truyện của một thi sĩ nằm mơ thấy ông thợ giầy đến nói với chàng: Từ nay xin ông tự đóng giầy lấy mà đi. Rồi người bán bánh đến nói: Tôi nghĩ, ông hãy tự làm bánh lấy mà ăn. Bác hàng thịt cũng thế nói rằng: Ông hãy nuôi heo mà giết thịt. Cô giúp việc thưa rằng: Từ nay ông tự dọn bữa, quét nhà, giặt quần áo, em xin nghỉ. Anh thi sĩ toát mồ hôi hột thầm nói: Trời ơi, mọi người nghỉ việc thì tôi sẽ chết mất. Thức giấc, à đây là giấc chiêm bao, mừng biết mấy. Từ đó, anh nhận ra mọi người đều là ân nhân của mình. Đây là bài học cho hết mọi người chúng ta. Chúng ta chịu ơn quá nhiều, nếu không có tha nhân, chúng ta sống đơn côi hay đã chết từ lâu.

Người ta vẫn nói: Lòng tham không đáy. Chúng ta nói rằng chúng ta không tham, nhưng ước muốn của chúng ta cũng không có cùng. Muốn có rồi lại muốn có thêm nữa. Chúng ta chắt chiu, thu quén của cải tiền bạc càng nhiều càng tốt. Chúng ta ai cũng muốn có chút gì để phòng cơ tích trữ hay chút vốn dự tính cho ngày mai. Nó là công lao mồ hôi nước mắt làm ra chứ đâu phải nhặt không ngoài đường. Cái gì của mình cũng qúy, nhất là tiền bạc. Đồng tiền nối liền khúc ruột mà. Đâu ai nỡ cắt đứt ruột mình. Nói thế thôi nhưng trên thực tế chúng ta thấy có rất nhiều tấm lòng hảo tâm và quảng đại. Họ sẵn sàng xả thân giúp đỡ và hy sinh cho đồng lọai. Có những người dám hy sinh cho đại nghĩa, lo việc chung trước và việc nhà sau. Nhìn xã hội chung quanh, chúng ta thấy sự cống hiến khả năng của biết bao nhiêu con người. Mỗi người được mời gọi góp phần của mình để xây dựng một xã hội và giáo hội tốt đẹp. Hãy cứ cho đi sẽ nhận lại gấp trăm. Chúa Giêsu đã hứa: “Anh em hãy cho, thì sẽ được Thiên Chúa cho lại. Người sẽ đong cho anh em đấu đủ lượng đã dằn, đã lắc và đầy tràn, mà đổ vào vạt áo anh em. Vì anh em đong bằng đấu nào, thì Thiên Chúa sẽ đong lại cho anh em bằng đấu ấy."(Lc 6:38)

6.      Đức Ái là Yêu Thương

Đức bác ái được thể hiện qua lời nói, cách cư xử và hành động giúp đỡ. Chúa Giêsu chú trọng đến những hành vi bác ái và cho đó chính là những hoa qủa để được lãnh phần thưởng quê trời. Người ta thường nói: Lời nói không mất tiền mua, lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau. Câu truyện kể:  Nơi góc hè phố, có một bác hành khất tê bại nằm co quắp, thấy một ông ăn diện bảnh bao đi qua, ông mở miệng xin bố thí. Người đó xỏ tay vào túi nhưng tìm mãi chẳng được gì. Rồi thành kính nói với bác ta: Này bác, tôi muốn biếu bác một chút, nhưng bất ngờ tôi chẳng có đồng nào trong túi mình cả. Xin lỗi. Người hành khất nói: Cám ơn ông, ông đã cho tôi nhiều hơn mọi của bố thí. Ông đã gọi tôi bằng “Bác”, thật chưa bao giờ trong đời tôi nhận được danh xưng đó trên môi miệng của một ông lớn nào cả.

Thật là giật mình. Nhìn lại thái độ của chính mình, nhiều lần chúng ta cũng đã cư xử thiếu lễ độ và có khi vô phép với những người kém may mắn. Chúng ta tìm cách tránh xa những người ăn xin và sợ bị phiền hà. Chúng ta khinh thường họ vì họ bị mù, bị què quặt, bị câm điếc và bị ngồi lê lết trên các vỉa hè. Đã biết bao lần chúng qua chỉ lướt nhìn qua rồi giả vờ như không trông thấy họ. Có khi nào chúng ta mở lời chào họ hay gọi họ là cô, chú, bác, hay ông bà chưa? Chúng ta thường thiếu xót trong việc bác ái này. Là con cái của Chúa, Chúa mời gọi chúng ta bước thêm một bước đến với tha nhân, thánh Matthew viết: Nếu anh em chỉ chào hỏi anh em mình thôi, thì anh em có làm gì lạ thường đâu? Ngay cả người ngoại cũng chẳng làm như thế sao? Vậy anh em hãy nên hoàn thiện, như Cha anh em trên trời là Đấng hoàn thiện (Mt. 5:47-48).

7.      Đón Nhận Anh Em

Ai là anh em của chúng ta. Chúa Giêsu đã kể cho chúng ta một câu truyện ngụ ngôn: "Một người kia từ Giêrusalem xuống Giêrikhô, dọc đường bị rơi vào tay kẻ cướp. Chúng lột sạch người ấy, đánh nhừ tử, rồi bỏ đi, để mặc người ấy nửa sống nửa chết (Lc 10:30). Các thầy tư tế, thầy Lêvi đi qua, giả lơ và tìm đường khác. Có một người ngoại nhìn thấy, động lòng thương xót: Ông ta lại gần, lấy dầu lấy rượu đổ lên vết thương cho người ấy và băng bó lại, rồi đặt người ấy trên lưng lừa của mình, đưa về quán trọ mà săn sóc (Lc 10:34). Chúa Giêsu đã lấy gương của một người ngoại giáo để dạy cho các tông đồ và cho chúng ta bài học về bác ái chính thực. Không chỉ bằng lời nói mà bằng chính việc thực hiện, dám xả thân cứu vớt anh em đồng loại. Có lẽ trái tim của chúng ta chưa mở rộng đủ để đón nhận anh chị em.

Ngày kia người ta kể câu truyện về Chúa giả làm bác hành khất đi ăn xin. Chiều đến, bác rảo qua các biệt thự, xin trú ngụ qua đêm. Kẻ thì bảo bác ra nhà sau ngủ, người thì nói bác xuống vựa lúa và kẻ khác thì cho một chỗ dưới gầm cầu thang. Nhưng xem ra bác hành khất không muốn nhận những tấm lòng tốt đó. Bác ra xóm lao động xin trọ và được lối xóm tiếp đãi tử tế. Họ cho bác ăn và cho ngủ cùng phòng. Sáng hôm sau thức dậy, bác ta biến đâu mất, nhưng chủ nhà thấy một bức thơ để lại, trong đó ghi câu: “Các con là bạn hữu của Đức Kitô”. Sau này, mấy kẻ nhà giầu nghe biết, lấy làm hổ thẹn. Thật vậy, càng có nhiều tiền của, càng có nhà cửa sang trọng càng khó đón tiếp khách nghèo hèn. Khi có của cải giầu sang, chúng ta lại muốn yên tĩnh, xây nhà lớn, tường cao, cổng kín và có chó giữ nhà. Chúng ta từ từ tránh xa những người hành khất sợ bị quấy rầy.

8.      Sống Bác Ái.

Truyện thường xảy ra tại các nhà xứ. Chúng ta phải đối xử thế nào? Một chiều nọ, khi cha quản sở đóng cửa nhà thờ, cha gặp một đứa bé đang ngủ ở hàng ghế sau cùng. Cha đánh thức cậu bé dậy và xin lỗi vì cha phải đóng cửa nhà thờ. Cậu bé liền thố lộ: Đêm nay con không có chỗ nào để trú ngụ và mong được lưu lại trong nhà thờ này. Cha trả lời là cha hy vọng cậu bé hiểu dùm, vì ngủ trong nhà thờ là không thể được. Thế là cha mời cậu tạm vào phòng tiếp tân chờ gọi điện thoại cho mấy trung tâm cư trú trong thành phố cố gắng kiếm một chỗ cho cậu bé qua đêm. Rủi thay đêm đó không có trung tâm nào còn chỗ trống cả. Vị linh mục liền xin lỗi cậu. Cậu bé biết mình phải ra đi và đã lầm lũi bước vào bóng đêm lạnh lẽo.

Về nhà xứ, ngồi vào chiếc ghế bành êm ấm, cầm Thánh Kinh lên đọc đoạn dành riêng cho ngày. Đó là bài dụ ngôn “Người Samaritanô nhân hậu”. Bỗng dưng vị linh mục nhận thấy cậu bé giống hệt như người bị thương tích trong dụ ngôn, cậu đang cần sự giúp đỡ. Cha nhận ra mình giống như các thầy tư tế và Lêvi đã bước qua một bên mà chẳng giúp được gì. Nói đến đây, tôi lại nghĩ đến chính mình. Rất nhiều lần, tôi đã gặp cảnh này trong nhà thờ sau lễ chiều Chúa Nhật. Một ông homeless hay một ông say rượu đang nằm ngủ ghế cuối nhà thờ, tôi chỉ đánh thức ông ta dậy và nói nhà thờ chuẩn bị đóng cửa, hãy đi ra. Tôi cũng chẳng hỏi han hay giúp đỡ gì cả. Tôi nghĩ, còn nhiều sự cố xảy ra như vậy trong tương lai. Tôi sẽ làm gi?

Quyết Tâm

Lạy Chúa, Mùa Chay sắp qua, chúng con đã có nhiều cơ hội suy gẫm về bản thân và về cách sống đạo. Chúng con đã bỏ qua biết bao nhiêu cơ hội để chia sẻ và giúp đỡ người khác. Chúng con dựa vào nhiều lý do để tránh khỏi phải giúp đỡ anh chị em kém may mắn hơn chúng con. Chúng con chẳng thiếu chi cả, chỉ thiếu tấm lòng bác ái và sự quảng đại. Chúa đã cho chúng con dư tràn phúc lộc, chúng con đã lãnh nhận quá nhiều. Đặc biệt trong Năm Thánh 2010 này, xin Chúa mở lòng chúng con để chúng con biết đón tiếp, chia sẻ và giúp đỡ những người anh chị em chung quanh chúng con. Chúa đã hứa Chúa chỉ chúc phúc cho những ai biết cho đi. Chúa Giêsu dạy rằng: “Ai cho anh em uống một chén nước vì lẽ anh em thuộc về Đấng Kitô, thì Thầy bảo thật anh em, người đó sẽ không mất phần thưởng đâu” (Mc 9:41).

Lm. Giuse Trần Việt Hùng - Bronx, New York.

VỀ MỤC LỤC
ĐIỀU KIỆN ĐỂ BÍ TÍCH THÀNH SỰ ( CANONICAL VALIDITY)
 

 

Hỏi: Một người đã làm linh nục giả trong nhiều năm ở một Tiểu bang kia trước khi bi khám phá. Như vậy những bí tích mà “ linh mục giả” này làm trong bao năm ở giáo xứ kia có thành hay không?

 

Trả lời : trước khi trả lời câu hỏi này, tôi thấy cần thiết phải nói qua về Chức Linh Mục (Priesthood) trong Giáo Hôi Công Giáo và Chính Thồng Giáo ( Orthodox Churches) vì chỉ có các Giáo Hội này có Chức Linh Mục của Chúa Kitô mà thôi.

 

Thật vậy, Chúa Giê su-Kitô được “ Thiên Chúa tôn xưng là Thượng Tế  theo phẩm trật Menki-xê-đê…và muôn thủa Con là Thượng Tế theo phẩm trật Menki-xê-đê” ( x. Dt 5: 6,10).

 

Như vậy Chức Linh Mục Thừa Tác ( Ministerial Priesthood) của hàng Linh mục và Giám Mục trong Giáo Hội bắt nguồn từ Chức Linh Mục đời đời của Chúa Kitô. Chính Chúa đã thiết lập Chức Linh Mục thừa tác này trong Bữa Tiệc Ly đêm thứ năm khi Người nói với các Tông Đồ hiện  diện : “ anh  em hãy làm việc này để tưởng nhớ đến Thầy.” ( Lc 22:19; 1 Cor 11: 24-25)

 

Theo tín lý  và giáo  lý của Giáo Hội, thì  chức Giám mục “ nhận lãnh trọn vẹn Bí tích Truyền Chức Thánh tức là Chức Tư Tế tôi cao” nghĩa là được chia sẻ trọn vẹn Chức Linh Mục đời  đời  của Chúa Kitô  “ Vị  Thượng Tế theo phẩm chật Menki-xê-đê”( LG.số 21, SGLGHCG ,số 1557) trong khi Linh mục,  phụ tá đắc lực của Giám mục,  chỉ chia sẻ một phần Chức Linh Mục tối cao đó , nhưng “ dù không có quyền thượng tế và tùy thuộc giám mục khi thi hành quyền bính, linh mục cùng hiệp nhất với giám mục trong tước vị tư tế” (Sacerdos)( LG. no. 28).

 

Đó là đại cương về Chức Linh Mục thừa tác của Giám Mục và Linh Mục trong Giáo Hội.

 

Chức Linh Mục phải được truyền chức ( ordain ) hữu hiệu hay thành sự ( validity) qua việc đặt tay của Giám Mục và lời cầu xin ơn thánh hiến của Chúa Thánh Thần theo đúng nghi thức Truyền chức thánh của Giáo Hội

 

Do đó nếu không có chức Linh mục hữu hiệu thì không thể có các bí tích sau đây:

                     

1- Bí tích Thánh Thể

                     

2- Bí tích hòa giải

                      

3- Bí tích Thêm sức ( được phép của Giám mục)

                     

4- Bí Tích sức dầu bênh nhân

                     

5- Bí Tích truyền Chức Thánh ( chỉ có giám mục được phong các chức Phó tế, Linh mục và Giám mục, vì Giám được chia sẻ trọn vẹn Bí tích Truyền Chức Thánh, Nhưng trước khi được  tấn phong làm Giám mục, nghĩa là được chia sẻ trọn vẹn Chức Linh Mục của Chúa Kitô, thì ứng viên phải là linh mục đã được chịu chức thành sự (validly ordained)

 

Như vậy , “linh mục giả” nghĩa là không có chức linh mục được truyền chức thành sự, thì không thể cử hành hữu hiệu bất cứ  bị tích nào trên đây, trừ hai bí tích Rửa tội và Hôn phối không đòi buộc thừa tác viên phải có chức linh mục. Dầu vậy,” linh mục giả” cũng không có tư cách đại diện Giáo Quyền để chứng hôn hay rửa tội với  cương vị  là linh

mục.

Hơn thế nữa, nếu không phải là tư tế, nghĩa là không có chức linh mục thực thụ mà dám cử hành bí tích Thánh Thể hoặc giải tôi  cho ai  thì không những bí tích không thánh sự mà người làm những việc này còn tức khắc  bị vạ tuyết thông  tiền kết nữa. ( Latae sententiae ) ( x.giáo luật số 1378, triệt 2&3).

                           

ĐIều kiện để bí tích thành sự

 

Như đã trình bày  ở trên, nếu không có chức linh mục hữu hiệu thì không thể cử hành thành sự  các bí tích Thánh Thể, Hòa giải , thêm sức và sức dầu bênh nhân được..

 

1-  Bí Tích Thánh Thể ( Eucharist)

 

Bí tích này chỉ được cử hành trong khuôn khổ Thánh Lễ Tạ Ơn hay còn gọi  là Lễ Mísa, và chỉ có Giám mục và Linh mục được phép cử hành mà thôi. Nhưng dù có chức linh mục thực sự mà cử hành không đúng với ý muốn và phương thức qui định của Giáo Hôi ( kỷ luật bí tích) thi bí tích vẫn  không thành sự được. Thí dụ, thay vì dùng bánh không men (unleavened Bread) và rượu nho như Giáo Hội qui định, giả sử có linh mục nào tự ý “phăng ra” luật riêng của mình để  dùng bánh đa (bánh tráng) và rượu đế  lấy cớ đó là sản phẩm của người Viêt Nam, nhất là  tự chế ra lời truyền phép (consecration) thay vì đọc đúng phần lễ qui này theo chữ đỏ (rubric) thì bí tích sẽ không thành (invalid). Lại nữa, không phải lúc nào đọc lời truyền phép thì cũng có Mình và Máu Chúa Kitô mà chỉ được đọc trong Thánh Lễ Ta Ơn ( Eucharist)  mới có Bí tích Thánh Thể mà thôi. Nói rõ hơn, không thể vào tiệm bánh mì  hay tiệm rượu rồi đọc lời truyền phép mà có Bí Tích được,  dù có chức linh mục. Tóm lại, không thể có bí tích Thánh Thể ngoài Thánh Lễ Tạ Ơn, là “đỉnh cao của đời sống thiêng liêng của Giáo Hội nói chung và của mọi tín hữu nói riêng’’.

 

2-  Bí Tích Truyền Chức Thánh ( Holy Orders) :

 

Chỉ có Giám mục thực thụ được phép cử hành bí tích này mà thôi. Có điều ngoại lệ ở đây  là nếu Giám mục  nào của Giáo Hội  mà  tự ý đặt tay truyền chức giám mục cho linh mục nào thì bí tích vẫn thành sự (validly) nhưng bất hợp pháp ( Illicitly) vì không có phép của Đức Thánh  Cha. Trong trường hợp này  cả giám mục truyền chức  và giám mục được thụ phong đều tức khắc bị vạ tuyệt thông tiền kết ( Latae sententiae) (x. Giáo luật  số 1382)

 

3- Bí Tích rửa tội:

 

Về  bí tích Rửa tội, nếu không dùng nước để đổ trên đầu hay trán của ứng viên ( hoặc dìm đầu xuống nước=immersion )  hay không đọc đúng công thức Chúa Ba Ngôi thì bí tích sẽ không thành sự được trong bất cứ trường hợp nào. Tóm lại, phải có nước lã và đọc đúng công thức “ Tôi ( cha) rửa con (em , anh chị, ông bà) Nhân danh Cha và Con và Thánh Thần.

 

Thừa tác viên chính thức của bí tích này là Giám mục và linh mục. Phó tế cũng được phép rửa tội, nhưng thông thường chỉ rửa tội cho trẻ em thôi. Sở dĩ phó tế không được rửa tội cho người lớn vì người lớn ( từ 18 tuổi trở lên) xin rửa tội là những tân tòng (catechumens) phải tham dự lớp giáo lý riêng ( RCIA) trước khi được rửa tội, thêm sức và rước Minh Thánh Chúa trong đêm vọng Phuc Sinh.Vì thế chỉ có linh mục được cử hành ba bí tích này dành cho người tân tòng mà thôi. Nhưng trong trường hợp khẩn cấp, nguy tử thì bất cứ ai – kể cả người chưa được rửa tôi- cũng có thể rửa tội thánh sự nếu làm theo ý Giáo Hội với nước và công thức Chúa Ba Ngôi. ( x. SGLGHCG, số  1256)

 

 4- Bí Tích Sức dầu bệnh nhân:

  

Chỉ có Giám mục  và linh mục được cử hành mà thôi. Và phải dùng dầu đã được làm phép cho mục đích này với công thức sức dầu qui định. Nếu không có dầu thì không thể có bí tích được. Ngoài Giám mục và linh mục ra, không ai được cử hành bí tích này trong bất cứ trường hợp nào. Sở dĩ phải nhấn mạnh điều này ở đây vì có linh mục đã làm phép dầu để bán cho giáo dân với lời dặn là họ có thể sức dầu cho nhau !

 

5- Bí Tích Hôn Phối :

 

Riêng bí tích hôn phối, mặc dù thừa tác viên chính của bí tích này là hai người phối ngẫu ( sx, SGLGHCG số 1623) và khi trao đổi lời ưng thuận kết hôn với  nhau, họ trao bí tích này cho nhau. Nhưng nếu thiếu một trong những điều kiện cần thiết sau đây thì bí tích sẽ không thành sự được:

 

a-      hai người phối ngẫu phải hoàn toàn tự do muốn kết hôn với nhau , ý thức rõ và thực tâm muốn sống trọn đời mục đích của giao ước này.  Hôn phối sẽ vô hiệu lực (không thành sự) nếu bị ép buộc, đe dọa  hay lợi dụng kết hôn làm phương tiện để ra nước ngoài, hoặc có ý lừa dối để lấy nhau. Thí dụ : đã có vợ hoặc chồng rồi nhưng khai là chưa từng kết hôn, hoặc không phải là người có danh vọng như bác sĩ, kỹ sư, giám đốc, chủ ngân hàng v.v  nhưng mạo nhận  để lừa dối người phối ngẫu. ( x. Giáo luật số 1097-98)

 

b-      cả hai đều bình thường (normal) về mặt tâm sinh lý ( không ai có bệnh  tâm thần, hoặc bất lực hay khiếm khuyết  về cơ năng sinh lý)

 

c-      Phải có hai người làm chứng (witness) trong lễ thành hôn.

 

d-      Hôn lễ phải được cử hành theo đúng nghi thức của Giáo Hội với sự chứng hôn của vị đại diện Giáo Quyền là  linh mục hay phó tế. (x. giáo luật số 1108). Đai diện Giáo Quyền sẽ nhận lời bảy tỏ ưng thuận kết hôn của đôi hôn phối và chúc lành cho họ. ( x. SGLGHCG, số 1630)

 

Bí tích là phương thế hữu hiệu nhất để được nhận lãnh ơn sủng đồi dào của Chùa ban cho chúng ta qua Giáo Hội là Thân Thể Nhiệm Mầu của Chúa Kitô trong trần gian. Nhưng muốn lãnh nhận ơn thánh Chúa qua qua các bí tích Thánh Thể, Hòa giải, Thêm sức  Sức dầu và Truyền  chức thánh,  thì tiên quyết đòi hỏi thừa tác viên các bí tích này  phải có chức linh mục thực thụ ( chức giám mục cho bí tích Truyền Chức thánh) như đã nói ở trên.

 

Đó  là về phía Thừa tác viên (Ministers). Về phần người muốn lãnh nhận ơn thánh qua các bí tích nói chung, thì điều kiện tiên quyết và  tối cần là phải được chuẩn bị kỹ về mặt giáo lý để hiểu rõ những lợi ích thiêng liêng của bí tích muốn lãnh nhận cũng  như có lòng ao ước được hưởng những lợi ích đó. Nếu không có sự chuẩn bị và ước ao này thì ơn thánh sẽ không thể tác động hữu ích trong tâm hồn của người lãnh nhận được. Cụ thể, nếu không được chuẩn bị kỹ để tin rằng bí tích Thánh Tẩy ( Rửa tội) không những tha tội nguyên tổ (trẻ em và người lớn ) và mọi tôi cá nhân (người lớn) cùng với mọi hình phạt hữu hạn của các tội này ( x SGLGHCG số 1263)  và có lòng ao ước như vậy thì  Ơn thánh Chúa ban qua bí tích này không thể hoạt động hữu hiệu nơi người được rửa tội. Nghĩa là không thể lấy nước đổ đại trên đầu bất cứ ai rồi đọc công thức rửa tội là người đó được ơn tái sinh của phép rửa.

 

Trong trường hợp này , việc đổ nước trên đầu cũng ví như đổ trên sỏi đá hay trên bụi gai và nước sẽ trôi đi mà thôi. Ngược lại , nếu được chuẩn bị chu đáo để có lòng tin và ước muôn lãnh nhận, thì tâm hồn sẽ ví như lớp đất xốp và nước tượng trưng cho ơn thánh sẽ thâm sâu vào tâm hồn để sinh ơn ích thiêng liêng trong tâm hồn ấy… Cùng vậy, nếu không tin Chúa Giêsu thực sự hiện diện trong hình bánh và rượu nho, và không có lòng khao khát muốn rước Chúa vào linh hồn mình đang sạch tội trọng, thì rước Lễ chỉ là ăn chút  bánh mì và uống tí rượu  trong bữa ăn thường ngày ở nhà mà thôi. Nghĩa là chẳng có lợi ích gì về mặt thiêng liêng cả. Cũng vì lý do này mà Giáo Hội không cho phép trao Minh Thánh Chúa cho người ngoài Công Giáo, dù họ tham dự Thánh lễ chung với tín hữu Công giáo, vì họ không hiểu mục đích và điều kiện của sự hiệp thông trọn vẹn này.

 

Tóm lại, Ơn Thánh Chúa thì lúc nào cũng dồi dào và hữu hiệu qua các bí tích. Nhưng hiệu quả này  không thể được ví như liều thuốc chích vào cơ thể ai  thì dù muốn hay không, thuốc vẫn tự tác động trong cơ thể của người ấy. Nếu chích lầm thuốc độc thì bệnh nhân sẽ chết dù  không hề mong muốn tai nạn này. Ngược lại, Ơn Thánh Chúa ban qua các bí tích không tự tác động như vậy trong tâm hồn người lãnh nhận nếu không có sự chuẩn bị chu đáo về mặt thiêng liêng để gịục lòng tin, lòng muốn và sạch tội trọng. ( nếu muốn rước Mình, Máu Thánh Chúa qua  bí tích Thánh Thể)

 

Lm. Phanxicô Xaviê Ngô Tôn Huấn

VỀ MỤC LỤC
CÂU CHUYỆN NGƯỜI PHỤ NỮ NGOẠI TÌNH TRONG PHÚC ÂM

 

Bác sĩ Nguyễn Tiến Cảnh, M.D.

 

 

Phúc âm Thánh Gioan có kể lại câu chuyện về người đàn bà ngoại tình (Ga 8:1-11). Câu chuyện làm tôi rất phấn chấn và thích thú, nên xin được chia sẻ những ý nghĩ về đoạn phúc âm tuyệt diệu này.

 

BỐ CỤC CỦA CÂU CHUYỆN

 

Câu chuyện được trình bày dưới hai khung cảnh thật linh động. Một là cuộc tranh luận giữa Chúa Giêsu với những nhà thông luật và người Pharisiêu liên quan đến một người đàn bà bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình mà theo luật Maisen có ghi trong sách Leviticus (20:10) thì người đàn bà phạm tội phải bị phạt ném đá. Hai là cuộc đối thoại ngắn ngủi nhưng sống động giữa Chúa Giêsu và người phụ nữ  tội lỗi.

 

Trong suốt thời gian rao giảng Tin Mừng của Chúa Giêsu ở trần thế, chúng ta thấy không có biến cố nào được diễn tả một cách trong sáng và rõ ràng hơn như trong câu chuyện này: Lòng khoan dung tha thứ của Chúa Giêsu đối với người phụ nữ phạm tội đã được đề cao vượt hẳn lên trên cả công lý và pháp luật như đã được mô tả.

 

Tình tiết câu chuyện cũng đã gây thắc mắc cho người đọc ở hai phương diện: Thứ nhất về văn-từ như của thánh Gioan thì không thấy có trong những bản viết tay cổ Hy Lạp, và chắc chắn cũng không có trong các bản thảo phúc âm của thánh Gioan. Nhưng về ngôn từ và cách hành văn thì lại có vẻ gần với thánh Luca hơn là thánh Gioan.

 

Ngôn từ và câu văn duy nhất không thấy dùng trong phúc âm thánh Gioan là “Núi Cây Dầu / Olives” (8:1), “các kinh sư / nhà thông luật” (8:3) và “Ta kết án” (8:11); nhưng lại thường thấy trong các phúc âm nhất lãm của ba thánh Mathêu, Mac-co và Luca.  Ngôn từ và câu văn như “tất cả mọi người” (8:2) và “các nhà kinh sư và pharisiêu” (8:3) thì thánh Luca thường hay dùng hơn. Tuy nhiên, dù có những từ của Luca được dùng trong câu chuyện, nhưng các câu văn lại không phải của Luca, chứng tỏ bản văn không phải của thánh Luca.

 

Mặt khác, một số từ trong câu chuyện lại không thấy trong bất cứ phúc âm nào khác, chẳng hạn như: “bắt quả tang…” (8:4), “không có tội” (8:7), “chỉ còn lại một mình Người” (8:9). Vậy thì chắc chắn những ngôn từ này chỉ thấy ở câu chuyện trong Tân Ước mà thôi. Tại sao?

 

Các học giả kinh thánh nhận thấy nơi Giáo Hội sơ khai, người ta coi tội ngoại tình là một tội rất nặng, do đó thái độ khoan dung tha thứ của Chúa Giêsu đối với người phụ nữ phạm tội đã gây bối rối thắc mắc cho mọi người rất nhiều. Phải chăng vì vậy mà trong nhiều năm, người ta không thấy câu chuyện này được ghi trong bản thảo viết tay của Tin Mừng thánh Gioan? Nó chỉ được lưu truyền bằng miệng và các nhà viết luật cũng không muốn nó bị mai một, lạt phai đi vào quên lãng.

 

Tình tiết thứ hai của câu chuyện đã gây thắc mắc là trong toàn bộ phúc âm, ta chỉ thấy có một lần duy nhất Chúa Giêsu cúi xuống lấy tay viết trên đất….Người viết cái gì thì không thấy các thánh sử nói. Đó là điều chúng ta cần phải suy nghĩ. Chúa không chỉ viết một lần mà những hai lần. Đọc đến đây tôi cảm nghiệm thấy hình ảnh Chúa cúi xuống lấy ngón tay viết trên đất thật là đắc địa. Nó thâm trầm, sâu sắc và ý nghĩa vô cùng. Tôi rất khoái cái thông điệp này của Chúa Giêsu. Tôi thường dùng nó như là mẫu mực để chúng ta đương đầu với tội lỗi, với kẻ thù, với phạm nhân và với chính bản tính tội lỗi người của mình.  Thông điệp này của Chúa  là một phương pháp “thực thi hòa giải” tuyệt diệu và rất thực tế, một hiệu lệnh mà Chúa đưa ra cho mỗi người chúng ta phải làm trước khi bước chân vào nhà thờ dâng của lễ hay tham dự thánh lễ hoặc xưng tội, hoặc đối thoại với tha nhân.

 

Hòa giải, đối thoại chỉ có ý nghĩa và đạt kết quả khi chúng ta sẵn sàng lắng nghe, cảm nhận nhau, khoan dung tha thứ cho nhau và chấp nhận nhau.

 

PHẢI CHĂNG CHÚA GIÊSU ĐÃ QUÁ NHẸ NHÀNG VỚI TỘI LỖI?

 

Đọc thật cẩn thận câu chuyện này (John 8:1-11), ta sẽ thấy là Chúa Giêsu cũng chẳng có gì là nhẹ nhàng đối với tội lỗi cả.  Thực ra là Ngài đã cảm thông và tha thứ cho kẻ phạm tội thì đúng hơn. Hành động này đã đặt Chúa ở một vị thế như thách thức, yêu cầu và răn dạy người phụ nữ từ rày về sau “đừng phạm tội nữa”.  Hình ảnh Chúa Giêsu hiện diện trước mặt người phụ nữ như một dấu chỉ Chúa thường xuyên kêu gọi và khuyên bảo các môn đệ của ngài cũng như toàn thể Giáo Hội qua mọi thời đại đừng có bao giờ làm điều gì xúc phạm đến Chúa và những người xung quanh mình.

 

Phê phán câu chuyện cũng có hai khuynh hướng. Một khuynh hướng cho rằng Chúa Giêsu quá nhân hậu và dễ dàng đối với kẻ phạm tội. Khuynh hướng khác cho là Chúa sử sự như vậy coi như là chấp nhận tội lỗi, không cần thiết phải có hành động cải tà qui chính và ân sủng thứ tha của Chúa. Cả hai khuynh hướng này đều sai. Bởi lẽ không chấp nhận bản tính và khuynh hướng tội lỗi của con người, không mở rộng lòng đón nhận ân sủng thứ tha của Chúa tức là chối bỏ thông điệp và lời yêu cầu của Đức Giêsu Kitô.

 

Là mục tử, là người công giáo trưởng thành chúng ta có nhiệm vụ  phải xác định khuynh hướng nào là chính và quan trọng. Tất cả mọi người chúng ta đều được mời gọi để chuyển đạt cái truyền thống ấy của Giáo Hội là một đại cộng đồng tín ngưỡng rất đặc thù về lòng khoan dung tha thứ trong sáng vô bờ bến ấy.

 

LÒNG KHOAN DUNG THA THỨ BAO LA CỦA CHÚA

 

Suy niệm về Tuần Thánh và cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu, chúng ta thấy càng ngày Chúa càng bị lôi cuốn vào cuộc tranh cãi với chính quyền địa phương và mỗi lúc càng trở nên găy gắt, biến thành mối đe dọa cho họ. Cuối cùng, chúng ta thấy cái rắc rối ấy đã dẫn đưa Chúa đến Núi Sọ và Thập Tự. Bài phúc âm này cho chúng ta thấy tính chất đặc biệt của lòng khoan dung tha thứ trong một quang cảnh thê lương ảm đạm cũng đặc biệt. Tội lỗi thì ghê tởm, kẻ phạm tội lại luôn luôn được thương sót.

 

Các nhà thông luật và Pharisiêu đem người đàn bà bị bắt vì tội ngoại tình đến trước mặt Chúa Giêsu để bắt bí Ngài, buộc Ngài phải phán xét và xử tội theo luật Maisen. Chúa bèn trả lời những kẻ cáo buộc người phụ nữ:

 

    - Ai thấy mình không có tội thì cứ việc ném đá người này trước đi.

 

Câu hỏi này đã buộc họ phải tự suy nghĩ về chính bản thân mình và thấy rằng mình cũng chẳng tài giỏi, tốt đẹp gì hơn ai, cũng là con người yếu đuối tội lỗi cả. Thế là họ từ từ từng người một, từ già đến trẻ lặng lẽ rút lui không ai dám ném đá người đàn bà. Nhìn quang cảnh này chúng ta thấy chính chúa Giêsu cũng đã biểu lộ cái bản tính người của ngài qua cung cách đối sử với người phụ nữ vô phúc đó. Dĩ nhiên cái tội bà phạm chắc chắn không thể chấp nhận được nên Chúa đã nói với bà: “Bà cũng đi đi và từ rày về sau đừng phạm tội nữa”.

 

Xem vậy, Chúa đã không thẳng tay đè bẹp bà ta vì cái tội tày trời đó mà không phán xét. Hai tiếng “đi đi” không có nghĩa là Chúa xua đuổi người phụ nữ như là kẻ đáng khinh ghét, nhưng hàm ý tội bà phạm nặng lắm đấy, bà phải ăn năn thống hối và đừng tái phạm nữa. Đọc câu chuyện Phúc Âm này, ta phải hiểu rằng tất cả chúng ta đều là con người bất toàn và tội lỗi, cần phải cải đổi để xứng đáng được lãnh nhận ơn bao dung tha thứ của Chúa nhân lành.

 

VÀ…CUỐI CÙNG CHỈ CÒN LẠI CÓ HAI NGƯỜI

 

Nhận được ra tội và biểu lộ cho mọi người biết cũng là một cách tự thú nhận mình là kẻ có tội và cần đến lòng khoan dung tha thứ vô bờ của Thiên Chúa. Rao giảng Tin Mừng Phúc Âm mà không nhận biết cần phải có sự ăn năn sửa đổi sâu sa của từng người cũng như ơn khoan dung tha thứ của Chúa tức là phủ nhận thông điệp Chúa đã truyền dạy cho chúng ta qua bài phúc âm Người đàn bà ngoại tình này: “Ăn năn thống hối và cải tà qui chánh”.

 

Thánh Augustine đã bình luận đoạn Phúc Âm này của thánh Gioan (Io.Ev.tract 33,5) một cách tuyệt vời: “Khi trả lời những kẻ tính bắt bí để qui tội Ngài, chúa Giêsu đã không tỏ ra coi thường luật lệ của Maisen, cũng không quá mềm yếu…”. Với những lời lẽ đó – thánh Augustine nói thêm- chúa Giêsu đã buộc những kẻ tố cáo người phụ nữ phải tự kiểm thảo, tự vấn lương tâm mình xem mình có thực sự là kẻ không bao giờ phạm tội không? “Như một mũi nhọn đâm thấu tim đen, như một tia sáng chiếu xuyên suốt qua bóng tối dày đặc, thế là họ từng người một từ từ rút lui….”.

 

Khi tất cả mọi người đã bỏ đi, chỉ còn lại một mình chúa Giêsu và người phụ nữ. Đây là một quang cảnh thiệt sắc bén, ngột ngạt và nhức nhối đã được thánh Augustine miêu tả một cách tuyệt vời: “relicti sunt duo, misera et misericordia” (chỉ còn lại hai người, một người thì bê bết tả tơi, một người thì nhân từ khoan dung đầy lòng tha thứ). Tôi nhớ lại khi nghiên cứu Tin Mừng thánh Gioan và đọc những lời bình của thánh Augustine, lòng tôi phấn kích cảm khoái thở phào nhẹ nhõm…

 

Một người thì cúi đầu xuống lấy tay viết trên đất, đoạn ngửng mặt lên và bắt gặp ánh mắt của người phụ nữ.  Chúa đã không hỏi tại sao. Cũng chẳng phải là có ý khôi hài châm biếm khi ngài hỏi người đàn bà: “ Họ đâu cả rồi? Không ai kến án bà hả?” (v10). Chúa Giêsu đã tự động nói với bà ta: “Ta cũng không kết án ngươi; thôi đi đi và đừng phạm tội nữa” (v11). Lại một lần nữa, thánh Augustine nhận định: “Chúa cũng đã kết án, nhưng là kết án tội lỗi chứ không kết án con người”. Bởi vì nếu Chúa dung dưỡng, chấp nhận tội lỗi thì Chúa sẽ nói: ‘Ta sẽ không kết tội ngươi, hãy đi đi và hãy sống như ngươi muốn; và cứ yên chí, ta đã giải thoát ngươi. Cho dù ngươi phạm tội tày trờ đi nữa, ta cũng sẽ giải phóng ngươi khỏi mọi hình phạt’. Nhưng  tìm cùng khắp mọi chỗ trong Phúc âm có thấy

Chúa nói như vậy bao giờ đâu.’” (Io Ev.tract.33, 6).

 

Kẻ thù đích thực và nguy hiểm nhất của chúng ta là ngoan cố, cứ bám lấy tội lỗi không chịu ăn năn thống hối và sửa đổi; nó sẽ đưa ta đến thất bại trong suốt cuộc đời. Chúa Giêsu đã biểu người phụ nữ phạm tội ngoại tình cũng đi đi với lời khuyên: “…Đừng phạm tội nữa” có nghĩa là Chúa tha thứ cho bà để “từ rày về sau” bà sẽ “không phạm tội nữa”.

 

Chỉ có sự tha thứ và tình yêu thương của Thiên Chúa, một khi ta đón nhận với tâm hồn cởi mở và chân thành hối cải mới có thể giúp ta có được sức mạnh hầu chống trả lại những cơn cám dỗ của xác thịt và ác quỉ để “không phạm tội nữa”, giúp ta bám chặt lấy tình yêu thương của Chúa để biến nó thành sức mạnh chiến thắng. Thái độ của Chúa Giêsu đã trở nên mẫu mực để cho mỗi người chúng ta, tất cả mọi cộng đồng chúng ta noi theo, những cộng đồng được Chúa kêu gọi lấy tình yêu thương và lòng khoan dung tha thứ làm châm ngôn cho cuộc sống hàng ngày của chúng ta.

 

 ĐÔI LỜI KẾT

 

Đến đây chúng ta phải tự hỏi chúng ta là ai và đang đứng ở đâu trên bước đường đời dương thế này? Trên toàn thế giới và ngay cả chính Giáo Hội chúng ta hiện nay cũng có không biết bao nhiêu là tội lỗi và thống khổ; cả hai đều đang rất cần đến sự thương sót thứ tha. Cộng đồng cần sự thương sót, con người cần được thương yêu và cảm thông tha thứ. Nhưng sự thương sót này không thể như là “nước đổ lá khoai”, cứ đọc Phúc âm, đọc thông điệp của Chúa là đủ, mà phải tự mình phấn đấu. Tình thương yêu này của Chúa không đơn giản và dễ dàng đâu, nó đòi hỏi chúng ta phải chiến đấu với ma quỉ, với chính bản thân chúng ta hàng ngày và liên lỉ.

 

Tôi xin chia sẻ với quí vị câu chuyện có thực do nữ tu Helen Prejean[1] viết trong cuốn sách nhan đề “Dead Man Walking” (Những bước đi cuối cùng của người tù tử tội) do chính nữ tu là tác giả. Sách thuộc loại bán chạy nhất khi vừa mới xuất bản năm 1993. Chuyện rất thích hợp với bài phúc âm này và ý nghĩa của cuộc hành trình mùa chay của chúng ta. Nó có thể là đèn soi sáng giúp cho cuộc phấn đấu để có được ơn tha thứ và sự hòa giải giữa chúng ta với nhau và với Thiên Chúa, làm trung tâm điểm của cuộc sống Kitô giáo của mỗi người chúng ta.

 

Chị (Sister) Helen Prejean viết:

-         Ông Lloy LeBlanc đã nói với tôi là chỉ cần người ta bỏ tù Patrick Sonnier, người đã giết đứa con trai của ông ta là ông đã thỏa mãn rồi. Nhưng khi ông đi dự kiến cuộc hành hình Patrick Sonnier -ông kể lại- không phải là để trả thù, nhưng ông hy vọng anh ta có được một lời xin lỗi.

 

Patrick Sonnier đã không làm ông LeBlanc thất vọng. Trước khi bị hành quyết trên ghế điện, anh ta đã nói:

-         Thưa ông LeBlanc, tôi xin ông tha thứ cho tôi và Eddie tất cả những gì chúng tôi đã làm cho ông phải đau khổ. Và ông Lloy LeBlanc đã gật đầu, làm dấu cho Sonnier biết ông đã chấp nhận sự xin lỗi của Sonnier.

 

Ông ta kể rằng khi ông đi cùng với cảnh sát đến cánh đồng mía để nhận diện xác con, ông đã quì gối xuống bên cạnh xác người con trai của ông đang nằm sóng sượt dưới đất với hai con mắt lòi ra ngoài và ông đã đọc kinh Lạy Cha. Khi đọc đến chỗ “Xin tha tội cho chúng con như chúng con cũng tha cho những kẻ có lỗi với chúng con”, ông không ngập ngừng thắc mắc gì cả, và ông nói tiếp: “ Bất cứ ai làm như vậy cho con thì con cũng đều tha thứ cho họ  hết”.

 

Nhưng ông đã nhận thức ra được rằng đó là một cuộc phấn đấu cực kỳ khó khăn để vượt thoát khỏi mọi đắng cay, đau khổ, phiền muộn và thù hận đang dâng cao, nhất là hàng năm mỗi khi nhớ đến ngày sinh nhật của con ông, ông có cảm tưởng như ông lại mất một đứa con trai nữa. Ông tưởng tượng David lên 20 tuổi, rồi 25 tuổi, rồi nó lấy vợ, có con, nó đứng ở cửa sau nhà với đàn con quấn quít chung quanh, rồi David lớn lên thành người lớn như ông, mà ông chẳng bao giờ được nhìn thấy….

 

“Khoan dung tha thứ quả là không dễ dàng như ta tưởng. Mỗi ngày, từng ngày, từng giờ chúng ta cần phải cầu nguyện, phải phấn đấu và phải quyết tâm để vượt thắng hầu có được lòng khoan dung, thứ tha và hòa giải.” (Dead Man Walking pp.244-245 New York: Vintage Book, Random House, 1993)

 

 

Fleming Island, Florida

Mùa Chay Thánh 2010

NTC


[1] Sister Helen Prejean,csj là  nữ tu thuộc dòng Thánh Joseph of Medaille ở Louisiana. Nhiều biến cố đặc biệt trong đời và ngoài xã hội đã đưa người nữ tu khả kính này trở thành cố vấn cho những người tù tử tội. Mục vụ chính của sister là chăm sóc, khuyên giải và cầu nguyện cho những người tù tử tội. Người ta đã gọi sister Helen là Mẹ Theresa của những người tù tử tội. Sister viết nhiều sách, trong đó cuốn NHỮNG BƯỚC ĐI CUỐI CÙNG CỦA NGƯỜI TÙ TỬ TỘI (DEAD MAN WALKING) xuất bản năm 1993 rất nổi danh và là sách bán chạy nhất, best seller, khi vừa mới xuất hiện. Sách không phải là tiểu thuyết giả tưởng, mà là câu chuyện thực nói về người tù tử tội tên Patrick Sonnier mà chính sister Helen đã theo dõi, săn sóc, khuyên giải và cầu nguyện giúp đỡ cho đến phút cuối cùng lúc hắn bước lên ghế điện. Năm 1995 câu chuyện Dead Man Walking đã được làm thành film đưa lên màn ảnh nổi bật nhất trong năm, miêu tả cuộc đời mục vụ của Sister Helen Prejean với những người tù tử tội. Nữ tài tử Susan Sarandon đóng vai Sister Helen Prejean và nam tài tử Sean Penn thủ vai người tù tử tội Patrick Sonnier đã được giải Oscar Academy Award là những diễn viên xuất sắc đặc biệt ; Tim Robbins cũng được giải Oscar là nhà đạo diễn nổi danh và xuất sắc. Bài hát Dead man walking được trình diễn bởi chính tác giả là Bruce Springsteen cũng được xếp loại bài hát tuyệt hay. Nữ tài tử  Sarandon, sau film Dead Man Walking đã đề nghị với Robbins làm thành film nhiều chuyện khác nói về nhà dòng của sister Prejean nhưng vì một số trở ngại ngoài ý muốn đã không hoàn thành được. Chúng ta cũng thấy Sister Helen Prejean thường xuất hiện trên vô tuyến truyền hình, cầm nến đứng bên ngoài nhà tù tử tội ở Baton Rouge đọc kinh và phản đối án tử hình.

 

Một nữ tu đã an ủi người tử tù làm tôi và rất nhiều khán thính giả cảm động không ít là: «Tôi không thể chịu nổi nếu ông chết đi mà không được nhìn một khuôn mặt thật dễ mến. Tôi sẽ đóng vai bộ mặt đó của Chúa Kito cho ông ». ( I can’t bear the though that you would die without seeing one loving face. I will be the face of Christ for you ).  

 

Nữ tu đó là Sister Helen Prejean. Tử tù đó là Sonnier, một trong 4 tên tử tù sát nhân mà Sister Helen Prejean đã theo sát đến phút cuối cùng nơi ghế điện tại phòng hành quyết ở Louisiana để giúp đỡ, cầu nguyện và an ủi.


 
 
VỀ MỤC LỤC
THA THỨ LÀ CHIẾN THẮNG CHÍNH MÌNH
 

Kính thưa qúi thính giả, mục Sống Sao Cho Đẹp tiếp tục gời đến quí vị đề tài: Tha Thứ Hòa Giải. 

Thánh Clêmentê Hofbauer, nổi tiếng là một người nóng tính.

Ngài được cử làm bề trên một cô nhi viện. Một hôm trong nhà không còn lương thực, Clêmentê đã phải đích thân đi xin ăn. Ngài vào nhà một người giàu có đang tổ chức một sòng bạc. Người chủ nhà vừa gặp cơn đen lại vừa bị người hành khất quấy rầy. Ông không kiềm nỗi cơn bực bội nên đã nhổ tung nước bọt vào mặt thánh nhân. Nếu bình thường có lẽ Clêmentê đã có phản ứng mạnh. Nhưng vốn luyện tập nhẫn nại và khiêm tốn, nên ngài đã đứng lên lau mặt rồi vui vẻ nói với người đã phỉ nhổ mình: "Ðó là qùa ông dành cho tôi, xin cảm ơn ông. Thế còn qùa của các trẻ mồ côi đâu?" Bị đánh động bởi cử chỉ điềm nhiên vui vẻ của thánh nhân, người chủ nhà đành phải lấy tiền trao cho ngài để giúp đỡ các em mồ côi.

Cái dũng của thánh nhân chính là biết dùng sự thinh lặng, nhẫn nhục và lòng khiêm tốn để biến cải tâm hồn con người. Cổ nhân thường nói: "Một câu nhịn bằng chín câu lành."

Không có sức mạnh nào có thể thắng nổi sự bạo động cho bằng lòng tha thứ. Bởi vì dù cho khí giới có tối tân và có sức đe dọa đến đâu cũng không thể thuyết phục được tâm hồn con người. Chỉ có lòng tha thứ mới có thể bẻ gãy những ranh giới cái tôi cổ hữu của con người.

Kính thưa quí vị và các bạn. Cái dũng của thánh nhân đó là biết tha thứ cho những ai đối xử không tốt với mình, và ngay cả khi họ có ý hãm hại mình. Vậy sức mạnh nào mà những con người trần mắt thịt như chúng ta đây có thể thực hiện được điều đó? Đó chính là lòng khiêm tốn.

Sự khiêm tốn được cho là đức tính căn bản trong quá trình học làm người, đặc biệt là học biết tha thứ. Chính sự khiêm tốn nhắc nhở chúng ta về thân phận thật sự của con người: Nay còn mai mất. Sự khiêm tốn cũng dạy cho chúng ta biết giá trị thật của con người không phải ở chỗ ai hơn ai thua, nhưng là sống làm sao cho đẹp tình người.

Trận động đất tại Haiti hôm ngày 12 tháng giêng vừa qua cho chúng ta thấy về sự thật của thân phận con người. Vậy nếu thân phận con người vốn mong manh như hoa cỏ, thì hơn thua nhau điều gì mà không làm hòa với nhau, không tha thứ cho nhau? Tác giả Ann Shields  trong cuốn sách Tại Sao Phải Tha Thứ, nêu lên sự thật rằng: Thảm họa và tai ương sẽ làm cho đầu gối chúng ta mềm ra và quì xuống. Nhưng thật không may, có những con người khi quì xuống để nói lời xin lỗi với người thân mình, thì người thân mình đã vĩnh viễn ra đi. Những lời xin lỗi muộn màng đối với những người đã khuất không những không mang lại ý nghĩa gì, nhưng còn để lại những vết thương khó được chữa lành cho chính mình trong suốt cuộc đời.

Bạn thân mến, nếu hôm nay bạn không biết nói lời xin lỗi với người thân của mình, thì bạn còn đợi đến bao giờ? Liệu rằng ngày mai bạn có còn cơ hội để nói hai tiếng xin lỗi? 

Thưa bạn, Tha thứ không phải là chịu thua kẻ đối đầu, nhưng chiến thắng - chiến thắng chính mình.

Br. Huynhquảng 

Kính mời quí vị nghe audio mục Sống Sao Cho Đẹp tại website: www.gdthanhgiusetampa.org

VỀ MỤC LỤC
ĐỪNG SỢ LÀM NHÂN CHỨNG CHO PHẨM GIÁ CỦA MỖI CON NGƯỜI (*)

 

(Viết kính tặng cha Giám Tỉnh và các Cha các Thầy

Dòng Chúa Cứu Thế Việt nam nhân dịp năm mới) 

1.      Tất niên với Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II

Những ngày cuối năm thật buồn. Tết năm nay thiên hạ nghèo hơn, buôn bán ế ẩm, đường phố vẫn lung tung, chẳng mấy ai đủ tiền sắm Tết cho thoải mái. Càng buồn thêm khi nghĩ đến những người anh em trong Giáo Hội Việt nam, những nạn nhân và cả những người có trách nhiệm, cả những chủ chăn anh dũng và những chủ chăn “dịu dàng quá mức”.

Lúc đang buồn buồn như thế thì tôi mở nghe một bản nhạc của linh mục nhạc sĩ Phaolô Hoàng Kim Tốt, và trùng hợp bất ngờ là sau đó nhận được điện thoại cha Tốt, cùng hẹn hò ra thăm xứ Ma Lâm của ngài.

Tôi mở tủ sách, lấy cuốn sách ngài tặng nhiều năm trước: “Bước Qua Ngưỡng Cửa Hy Vọng” của Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II. Bây giờ đọc lại cuốn sách vào dịp tất niên với cái nhìn mới và những biến cố mới trong Giáo Hội, tôi khám phá ra sự vĩ đại và tâm hồn cao cả của vị Giáo hoàng tuyệt vời.

Người Công giáo học giáo lý đến Thêm Sức là đã đủ. Nhiều xứ có lớp Kinh Thánh, lớp Đức Tin, lớp Vào Đời, nhưng dường như chưa có lớp giáo lý về Giáo huấn của Hội Thánh. Chúng ta vẫn nghĩ tư tưởng của các Đức Giáo Hoàng là xa vời, là cao siêu chẳng mấy ai có thể nắm được và cũng không mấy thực tế. Nhưng khi đọc “Bước Qua Ngưỡng Cửa Hy Vọng”, người ta nhận thấy vị Giáo hoàng của Hội Thánh đang hiện diện gần gũi và chia sẻ cuộc đời người tín hữu một cách thân thiết như cha con ruột thịt.

Do đó, những ngày cuối năm của tôi thật ấm áp với tác phẩm tuyệt vời của người Cha chung. Nhưng bài viết này không phải là bài điểm sách, mà chỉ là đôi chút suy tư về hai từ “Đừng sợ” được Đức Thánh Cha nhắc đi nhắc lại nhiều lần. 

2.      Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II dạy “Đừng sợ”

Phóng viên Vittorio Messori cơ quan R.A.I. Uno của đài truyền hình Ý đã phỏng vấn Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II những câu hỏi thẳng thắn và như Đức Thánh Cha nhận xét, những câu hỏi “một phần do thấm nhuần một đức tin sống động, còn phần kia biểu lộ một nỗi lo âu nào đó”. Và câu hỏi đầu tiên của ký giả đã khiến Đức Thánh Cha “nhớ ngay đến lời huấn dụ” khi ngài bắt đầu sứ mệnh trên ngai toà Phêrô: “Anh chị em đừng sợ”.

Đức Thánh Cha nhắc lại rằng đó là lời Thiên sứ nói với Đức Maria, với Thánh Cả Giuse và sau này Đức Giêsu cũng nói với Phêrô và các môn đệ nhiều lần. Hội Thánh cũng lặp lại lời ấy, bắt đầu từ bài giảng đầu tiên của Thánh Phêrô. Và Đức Thánh Cha hỏi: “Chúng ta không nên sợ gì?”.

Câu trả lời của chính ngài là trước tiên không nên sợ sự thật về chính mình. Sau đó ngài viết thêm: “Nói cách khác, đừng sợ người ta”.

Nỗi sợ bị người khác chê trách, bị lên án và bị ngược đãi v.v… là nỗi sợ gắn liền với phận người. Đa phần những việc con người làm là để hài lòng một ai đó. Càng thánh thiện người ta càng muốn làm hài lòng Thiên Chúa hơn là hài lòng người đời. Nhưng khổ thay, con người có lúc có cảm giác như lời Thánh Vịnh “kẻ thù bao vây tứ phía” (x.TV17,11) và họ lại quên rằng Chúa là Đấng “cứu ai trú ẩn dưới cánh tay Ngài khỏi quân thù xông đánh” (TV 17,7).

Vì sợ hãi, người ta có khi không dám đứng về phía kẻ yếu thế, cô thân. Lịch sử Hội Thánh minh chứng rằng dù có những lúc nhiều giáo sĩ đi với cường quyền, nhưng Hội Thánh xét như toàn thể thì luôn đứng về phía người nghèo, người bị áp bức, vì đó là sứ mệnh thuộc bản chất Hội Thánh.

Đức Thánh Cha thật sâu sắc khi ngài muốn diễn đạt rằng nỗi sợ hãi trước tiên là do con người quá biết rõ về chính mình. Lẽ ra lúc biết về sự yếu đuối của mình, con người phải tin cậy vào Thiên Chúa, đàng này nhiều người lại dựa vào sức mạnh thế gian!

Thứ hai, Đức Thánh Cha dạy “đừng sợ Thiên Chúa đã làm người, đừng sợ gọi Thiên Chúa là Cha và hãy nên hoàn hảo như Thiên Chúa là Đấng hoàn hảo”. Đức Thánh Cha bảo rằng “Phêrô không những không sợ vị Thiên Chúa làm người, ông còn lo sợ thay cho Đức Giêsu!”

Đức Thánh Cha muốn chúng ta hiểu rằng tương quan giữa Thiên Chúa với con người là tương quan cha con, và như vậy chúng ta cần vững lòng cậy trông. Chúa đã giao cho Phêrô và cho Giáo Hội trọng trách cao cả, thì những mục tử trong Giáo Hội cũng như Phêrô không thể chối Chúa lần nữa, mà kiên cường trong đức tin đến cùng.

Và Đức Thánh Cha nhắc nhở “đừng sợ làm nhân chứng cho phẩm giá của mỗi con người, từ lúc con người thụ thai cho đến khi chết”.

Có lẽ đây là điều mà hôm nay ngài muốn gợi lại cho Giáo Hội Việt Nam khi chúng ta đang hân hoan mừng Năm Thánh. Giáo lý của Giáo Hội Công Giáo đã dạy rằng “Giáo Hội chu toàn sứ mạng công bố Tin Mừng là Giáo Hội làm chứng cho con người, nhân danh Đức Kitô: làm chứng cho phẩm giá của con người, cho ơn gọi sống hiệp thông giữa mọi người với nhau. Giáo Hội dạy cho con người biết các đòi hỏi của công lý và hoà bình phù hợp với sự khôn ngoan của Thiên Chúa” (GLGHCG 2419).

Giáo Hội dạy “Thông điệp căn bản của Thánh Kinh cho biết con người là thụ tạo của Thiên Chúa (x. Tv 139,14-18), và theo thông điệp ấy, hình ảnh Thiên Chúa nơi con người chính là yếu tố định tính và phân biệt con người. (…) Bởi đó, “được tạo dựng theo hình ảnh Thiên Chúa, con người có phẩm giá của một ngôi vị” (HTXHCG, 108).

Như vậy, ơn cứu chuộc là ơn hoàn trả phẩm giá cao quý ấy cho con người sau ngày họ bất tuân lệnh Chúa. Và sứ mệnh Hội Thánh là gì nếu không phải là ra sức rao giảng cùng bênh vực cho phẩm giá cao quí của con người là hình ảnh của Thiên Chúa.

Mà rao giảng về phẩm giá con người sao được nếu cứ sợ hãi bóng tối của “thế gian điêu ngoa”? 

3.  “Việc loại trừ bất công làm thăng tiến tự do và phẩm giá con người”.

Học thuyết Xã Hội Công Giáo dạy rằng “Việc loại trừ bất công làm thăng tiến tự do và phẩm giá con người” (khoản 137).

Hội Thánh có “nghĩa vụ phải tố cáo mỗi khi tội có mặt: tội bất công và tội bạo lực, cách này hay cách khác, đang lan tràn qua xã hội và thâm nhập vào xã hội. Nhờ biết tố cáo, học thuyết xã hội trở nên giống các thẩm phán và các nhà bảo vệ những quyền lợi không được nhìn nhận và hay bị xâm phạm, nhất là các quyền lợi của người nghèo, người yếu kém”. (Hiến chế Mục Vụ Gaudium et Spes).

Nếu Hội Thánh im lặng trước bất công sự dữ, hay ngồi suy tư “nên nói hay nên im” thì Hội Thánh bắt đầu rời xa sứ mệnh làm ngôn sứ của mình. Như tiên tri Giôna ngày xưa, dù đã lỡ lánh mặt để trốn tránh sứ mệnh, thì phải có lúc Hội Thánh lên tiếng la lớn cho thế giới về Thiên Chúa, như cách diễn đạt của chị Chiara Lubich thuộc phong trào Focolare.

Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II được yêu mến là bởi vì ngài đã hết lòng sống cho Thiên Chúa và con người trong sứ mệnh của ngài. Các mục tử muốn được lòng thế gian thì chắc chắn dân Chúa không thể ngước lên nhìn như họ ngước nhìn Đức Gioan Phaolô II.

Đức Thánh Cha Benedicto nói về vị tiền nhiệm của ngài như sau:

“Trước ngôi mộ của ngài trong hầm mộ Vatican, nhiều tín hữu vẫn không ngừng tiếp tục tuốn đến kính viếng, và điều này cho thấy một dấu hiệu hùng hồn là Đức Gioan Phaolô II yêu dấu của chúng ta đã đi vào lòng người như thế nào, trước hết, là vì chứng từ yêu thương của ngài và việc ngài sẵn sàng chấp nhận khổ đau. Nơi ngài, chúng ta có thể ca tụng sức mạnh của đức tin và lời nguyện cầu của ngài, và cách ngài hoàn toàn phó thác bản thân ngài cho Đức Maria Rất Thánh, vị luôn đồng hành với ngài và bảo vệ chở che ngài, nhất là trong những lúc khốn khó nhất và bi thảm nhất cuộc đời của ngài” (Huấn Từ Truyền Tin).

Nhân dịp xuân về, con xin kính chúc quí mục tử trong Hội Thánh luôn bình an, vững tin vào Thiên Chúa và luôn can đảm nói lên sự thật để rao truyền Tin Mừng, nâng cao phẩm giá con người và có được niềm tin yêu của dân Chúa. 

Gioan Lê Quang Vinh

VỀ MỤC LỤC
GHEN

 

ỚT NÀO ỚT CHẲNG CAY - GÁI NÀO GÁI CHẲNG HAY GHEN CHỒNG (CD). 

Hai câu tục ngữ ca dao trên đây cho chúng ta thấy rằng bản tính tự nhiên được trời phú cho đàn bà con gái là hay ghen. Nếu mỗi lần trở về nhà, cảm thấy bầu không khí trong gia đình không được ổn thõa, hãy nhớ rằng trời cho bản tính của người phụ nữ là như vậy, nên không có gì đáng để chúng ta phải bực bội khó chịu để rồi lại tạo nên một sự căng thẳng hay tranh cãi vô ích. 

Ghen tương là cơn bệnh rất thông thường mà chúng ta thường hay gặp phải trong hôn nhân. Nó ám chỉ sự chiếm hữu và sự trung thành với nhau trong quan hệ hôn nhân, nhưng thường mang đến một sự quấy rầy và rối loạn hơn là sự cảm thông và hòa hợp. Sự ghen tương không phải chỉ xảy ra giữa nam và nữ, mà còn nam với nam và nữ với nữ sự ghen tương càng xảy ra ác liệt hơn, vì sự nghiên cứu về vấn đề nầy đã cống hiến nhiều cơ hội để thám hiểm nhiều nền tảng của những xung khắc trong hôn nhân, cũng như những khác biệt giữa sự đồng ý của họ về lý trí và tâm lý rất thuận lợi để dùng đề tài nầy như sự khởi đầu phân tích những vấn đề cụ thể. 

CÓ PHẢI GHEN LÀ DẤU HIỆU CỦA TÌNH YÊU? 

Chung chung người ta tin rằng ghen và yêu không thể tách rời nhau đến nỗi yêu mà không ghen không thể được. Ghen thường được xem là thước đo thật của mực độ và chiều sâu của tình yêu. Nhiều người nhận thấy rằng họ chỉ thật sự yêu khi họ cảm thấy ghen tương. Với họ sức mạnh bất khuất của tình yêu được mạc khải một cách có ấn tượng bỡi sự đau khổ bất hạnh của ghen tương. Họ không ngừng nhận ra biết bao nhiêu là dằn vặt, khổ đau, hận thù, giận dữ để khám phá ra tình yêu. Dẫu có người muốn trốn thoát kinh nghiệm đau thương sự ghen tương, khó có ai hiểu được ý nghĩa thật sự và cấu trúc của nó. Chúng ta mất tri thức khi chúng ta sa vào ghen tương và ngay cả sau khi chúng ta lấy lại được phán đoán bình thường chúng ta vẫn không hiểu được bản tính của ghen tương. Bản tính của những cảm giác thù hận thường ngăn cản một sự chấp nhận những khuynh hướng phù hợp với ước muốn bảo tồn ý kiến đáng kính về chúng ta. Chúng ta xử dụng một trong những ý hướng độc ác nhất để xúc phạm đến người chúng ta yêu, bằng cách chuyển sang những giá trị được chấp nhận cách rộng rãi nhất trong cuộc đời như: tình yêu, tận hiến, trong trắng, tin tưỡng. Người ghen tương biểu lộ quan tâm của họ về những bộ mặt đạo đức và luân lý trong khi quên mất qui luật căn bản nhất về ngôn từ như lịch sự, tế nhị cũng như những hành động thích hợp. 

Chúng ta hãy xem cách rõ ràng: Chúng ta có thể ghen tương mà không ở trong tình yêu. Đó là một sự thật không chỉ cho sự quan hệ giữa bạn bè, giữa những phần tử trong gia đình, và giữa hai người mà sự quan hệ không có liên hệ phái tính. Đàn ông và đàn bà thích nhau có thể trở nên ghen tương mà không dấu hiệu nào cho thấy một sự tận hiến sâu xa hơn. Một cô gái lôi cuốn được sự chú ý của nhiều người có thể trở nên ghen tương nếu một trong số đó bị quyến rũ bỡi sự hấp dẫn của một cô gái khác. Trái lại, sự bất trung tự nó không sản xuất sự ghen tương nơi ông chồng có người vợ phản bội. Một ông chồng vẫn yêu người vợ lèo tèo với người đàn ông khác. Vì thế, nền tảng tâm lý của việc ghen tương thì phức tạp hơn và không liên hệ tới vấn đề trung thành. 

VẤN ĐỀ TRUNG THÀNH 

Trung thành là một trong những vấn đề chính trong hôn nhân. Mặc dầu được chấp nhận như một giá trị tuyệt đối và tiền đề, sự nhận thức của nó ngày hôm nay lẫn lộn hơn bao giờ hết. Có lúc sự chiếm hữu thân xác của một người đàn bà thì có thể bằng sức mạnh của luật khắc khe hoặc bằng sự vũ phu. Ngày hôm nay, sự chiếm hữu người khác hoặc thể lý hoặc tinh thần đều hoàn toàn không thể. Không có một sự bảo đảm nào về sự trung thành của người bạn. Câu hỏi được đặt ra trước là: liệu con người có khả năng trung thành không? Sự nghi ngờ xuất hiện cách riêng về bản tính đơn thê của đàn ông. Các nhà khoa học cho thấy sự khác biệt sinh vật học cho phép người đàn ông có thể sinh vô số con trong khi điều kiện thể lý của các bà giới hạn mỗi năm sinh một đứa hoặc hai ngoại trừ đôi khi có trường hợp ngoại lệ. 

Những khác biệt sinh vật học không thể chối cãi—khả năng sinh học của một người đàn ông có 50 mươi đứa con một lúc là chuyện không có gì đáng nói trong khi họ có thể đè nén 49 ước muốn các bà khác và có thể điều khiển một ước muốn còn lại như họ muốn. Phụ nữ cố gắng đòi quyền lợi của người phụ nữ đối với vấn đề phái tính và họ có khả năng đòi hỏi về vấn đề đó hơn là đàn ông có thể cung cấp. Chúng ta phải biết: điều kiện của cuộc sống con người không bị điều khiển bỡi luật tự nhiên như là động lực sinh vật và thể lý nhưng bỡi qui ước xã hội. Đơn thê không có gì đối với cấu trúc bản năng của bản tính con người. Đàn ông có thể sống đơn thê hay đa thê tùy theo nền văn minh của xã hội họ đang sống. Sự phát triển chế độ đơn thê có thể được cắt nghĩa bỡi sự tiến triển của  nền văn minh con người. 

Lm. Lê Văn Quảng, tiến sĩ tâm lý

 

VỀ MỤC LỤC
CẨM  NANG  HẠNH  PHÚC GIA  ĐÌNH  KITÔ - MỤC VỤ HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH
 

LTS. Được sự chấp thuận của tác giả và người có công tổng hợp biên tập, cuốn sách nhỏ bé này được BBT Đặc San Giáo Sĩ Việt Nam chọn đăng trong nhiều kỳ liên tiếp, như là một món quà rất thiết thực, xin được dành riêng thân tặng tất cả các gia đình Việt Nam không phân biệt tôn giáo, đặc biệt là các bạn trẻ đang chuẩn bị bước vào đời sống gia đình. Rất trân trọng.

 

 Cẩm  Nang  Hạnh  Phúc Gia  Đình  Kitô  của D. Wahrheit được hiệu đính từ một tập sách rất khó đọc dạng ronéo. Sau một thời gian dài tìm tác giả cũng như người dịch, tôi được Đức Ông Phêrô Nguyễn Văn Tài, Giám Đốc Đài Chân Lý  Á Châu, cho biết: các sách có tên tác giả D. Wahrheit là những tác phẩm của Đài Chân Lý Á Châu đã phát thanh, được thính giả ghi lại trong thời gian khó khăn khi chưa có internet (D: Đài; Wahrheit: Chân Lý); và nay, được phép ngài cho phổ biến, tôi chân thành giới thiệu tập sách bổ ích Cẩm Nang Hạnh Phúc Gia Đình Kitô này cùng các bạn trẻ, cách riêng những bạn trẻ sắp bước vào đời sống hôn nhân.

Lễ Thánh Mônica, 27.8.2009

Lm. Minh Anh (Gp. Huế) 

Lời ngỏ 

Tập sách này không trình bày một nghiên cứu khoa học hay những suy tư uyên bác hoặc một lý thuyết cao xa.

Đây chỉ là những mẩu chuyện tâm tình, đơn sơ, vắn gọn và rất thực tế. Xin gởi đến:

Các bạn thanh niên nam nữ đã bắt đầu nghĩ đến cuộc sống hôn nhân,

Các bạn đang chuẩn bị lập gia đình,

Các bạn mới bước vào cuộc sống lứa đôi hay đã trải qua cuộc sống ấy từ nhiều năm.

Ước mong sao những mẩu chuyện này sẽ giúp phần làm cho đời sống hôn nhân và gia đình các bạn hiện thời hoặc trong tương lai gia tăng niềm vui, phấn khởi, hạnh phúc và thành công. Đó là những gì mà các bạn có quyền hưởng nhận trong tư cách là những Kitô hữu, những người con của Thiên Chúa.

Cũng xin được gửi những trang sách này tới quý Linh mục và tất cả những ai thiết tha góp phần xây dựng những gia đình Kitô thánh thiện, gương mẫu làm nền tảng vững chắc cho Giáo Hội và dân tộc.

Ước mong quý vị sẽ gặp được nơi đây đôi điều hữu ích cho sứ mệnh cao quý của mình.

MỤC LỤC   

A. TÂM LÝ VỢ CHỒNG TRẺ ...............................................        7

1. Những khác biệt nơi người vợ ................................................. 8

2. Người chồng muốn được làm đàn ông..................................    14

3. Hiểu và cảm thông với vợ....................................................... 20

4. Hiểu và cảm thông với chồng................................................. 26

5. Nhìn nhận sự bình đẳng của vợ............................................... 32

6. Cần hiểu chồng hơn nữa......................................................... 38

7. Kiên nhẫn tìm hiểu thêm về vợ mình.....................................   44

8. Làm mẹ nhưng vẫn tiếp tục làm vợ........................................  51

9. Coi vợ như người bạn đường..................................................  57

10. Cần cảm thông và nâng đỡ chồng hơn nữa..........................   63

11. Những khác biệt của vợ là bổ túc cần thiết cho chồng ......       69

12. Sống tốt mối tương quan với chồng là tự hoàn hảo hóa bản thân  74

13. Nghệ thuật làm chồng...........................................................   80

14. Bí quyết để giữ chồng..........................................................    86

15. Cư xử với vợ như một người chồng tốt...............................      92

16. Bí quyết chinh phục chồng...................................................    97

17. Địa vị của người chồng trong gia đình..............................         102

18. Giữ cho tình yêu luôn tươi thắm.......................................        108

19. Nuôi dưỡng và phát triển tình yêu.....................................        114 

20. Vai trò chủ động của người vợ trong hạnh phúc hôn nhân          118

21. Khi thử thách chớm nở, hãy nhớ lời chung thuỷ...............          124

22. Nguyên nhân khủng hoảng: Chưa đủ trưởng thành...........         131

23. Khủng hoảng cần cho trưởng thành...................................       137

24. Nguyên tắc hoà hợp và bổ túc............................................     142

25. Thử thách của ghen tương..................................................     148

26. Vượt qua khủng hoảng bằng cảm thông.............................      154

B. LINH ĐẠO ĐỜI HÔN NHÂN..........................................          160

1. Một nền tu đức cho bậc hôn nhân.......................................       161

2. Yêu nhau: đường nên thánh của đôi vợ chồng....................        166

3. Ơn gọi nên thánh của bậc hôn nhân.....................................      172

4. Đức khiết tịnh của bậc hôn nhân..........................................      178

5. Đức khó nghèo trong bậc hôn nhân.....................................      184

6. Đức vâng phục giữa vợ chồng .............................................      190

7. Sự cao trọng của đời sống vợ chồng...................................       195

8. Mục đích hôn nhân trong chương trình của Thiên Chúa ...            201

9. Ý nghĩa của bí tích Hôn Phối...............................................        207

10. Con đường khổ chế và thần nghiệm của bậc hôn nhân.....        212

11. Sống như Chúa Kitô...........................................................     218

12. Đọc Kinh Thánh trong gia đình.........................................        225

13. Đọc sách và suy niệm........................................................    231

14. Quan niệm Kitô giáo về tình yêu vợ chồng......................         237

15. Yêu thương đích thực.........................................................    244

16. Giá trị tuyệt đối của tình yêu.............................................      250

17. Học tập yêu thương............................................................   254

18. Quan hệ vợ chồng trong linh đạo hôn nhân......................       260

19. Quan hệ tính dục trong hôn nhân.......................................     265

20. Sự cao cả của tính dục trong đời sống vợ chồng..............       271

21. Vợ chồng giúp nhau nên thánh...........................................     277

 

D. WAHRHEIT (Lm. Minh Anh, GP. Huế tổng hợp biên tập)

 

VỀ MỤC LỤC
PHÒNG TRÁNH BỆNH TRONG THÁNG BA

 

Tại Hoa Kỳ,  mỗi tháng là có những ngày được các trổ chức y tế chỉ định để nhắc nhở người dân lưu tâm tìm hiểu về rủi ro, cách phòng ngừa, điều trị một số bệnh.  

Sự nhắc nhở này xét ra rất cần thiết. Lý do là vì bận rộn với công việc cho nên nhiều người cũng lơ là với chăm sóc sức khỏe. Chỉ khi nào bệnh đã xảy ra thì mới cuống cuồng tìm kiếm chữa trị.

Trong tháng Ba, những bệnh sau đây được nhắc nhở suốt thời gian 31 ngày. Đó là tháng của Ung thư Ruột già-Trực tràng; Dinh dưỡng ăn uống; bệnh Tiểu đường; Cứu Vớt  Thị Lực, An toàn Cặp Mắt tại sở làm.

- Từ 4-10 tháng 3 là tuần lễ An Toàn Người Bệnh;

- Từ 5-9 là tuần lễ Bữa Ăn sáng cho Học sinh;

- Ngày 5-11 dành cho Đa Xơ Cứng;

- Lưu tâm tới Não bộ là từ ngày 5-11;

- Để ý tới Trúng hóa chất Độc từ 18-24 

- và suốt ngày 23 tháng 3 dành riêng cho Bệnh Tiểu Đường. 

Xin cùng tìm hiểu những điểm đáng ghi nhớ về các bệnh này. Để cùng nhau “Phòng bệnh hơn chữa bệnh”. 

Bệnh Đa Xơ Cứng là bệnh tổn thương màng bọc dây thần kinh trung ương đưa tới dáng đi không vững, run tay chân, rung giật nhãn cầu, phát ngôn khó khăn.

Bệnh xảy ra ở mọi người nhưng thấy nhiều ở nữ giới hơn là nam giới.

Nguyên nhân gây bệnh chưa được biết rõ. Có giả thuyết cho rẳng bệnh là hậu quả của rối loạn tự miễn, nhiễm bệnh với virus, vi khuẩn hoặc do di truyền.

Hiện nay chưa có phương thức trị dứt bệnh nhưng có nhiều dược phẩm giúp họ giảm thiểu triệu chứng khó khăn, giúp người bệnh sinh hoạt thoải mái.  

Hiệp hội các Bác sĩ Kính Mắt American Optometric Association bảo trợ Tháng Cứu Vớt Thị Lực để nhắc nhở dân chúng nên đi khám mắt theo định kỳ để sớm tìm ra các rối loạn nhìn sự vật của “Hai mắt là Ngọc.

Tháng Cứu Vớt Thị Lực đã đều đặn diễn ra trong 80 năm qua.

Khám mắt có thể tìm ra các biến chứng của bệnh tiểu đường lên võng mạc, dấu hiệu của tăng áp nhãn (glaucoma). Các bệnh này có thể gây ra mù lòa, khiếm thị nếu để quá trễ.  

Tổ chức Prevent Blindness America là tổ chức thiện nguyện lâu đời tại Hoa Kỳ đã đề xướng tháng 3 là tháng “An toàn Cặp Mắt Nơi Làm Việc”, với mục đích phổ biến tới chủ và thợ các kiến thức bảo vệ thị lực cho công nhân.

Việc làm lớn nhỏ đều có rủi ro gây rối loạn cho cặp mắt nếu mắt không được chăm sóc đúng cách. Dùng máy vi tính liên tục làm mắt khô căng khó chịu. Một hạt bụi kim loại khi mài dũa thanh sắt cũng có thể bắn vào mắt nếu người thợ không mang kính che mắt. Một tia lửa chói chang cũng khiến mắt bị chóe.

Giảm thiểu rủi ro cho mắt giúp tránh khiếm khuyết thị giác, cắt giảm chi phí điều trị, nâng cao khả năng làm việc của công nhân và tăng sản xuất cho công ty.

Tháng Dinh Dưỡng cổ võ lựa chọn thực phẩm đa dạng, hợp lý và đầy đủ đồng thời cũng nhấn mạnh tới thói quen vận động cơ thể đều đặn.

Một trong những tiêu đề được nhiều người áp dụng là “Ăn Cầu Vồng”- "Eating the Rainbow", ngụ ý nên gia tăng tiêu thụ nhiều rau trái cây có các mầu sắc như chiếc cầu vồng ở chân trời.Các thực phẩm này chứa nhiều chất chống oxy hóa, giúp bảo vệ cơ thể với bệnh tật và có thể góp phần trì hoãn sự lão hóa. 

Tuần Lễ về bữa Điểm Tâm tại Học Đường National School Breakfast Week được khởi xướng từ năm 1989 để thông báo cho học sinh là đã có chương trình ăn điểm tâm tại trường học. Sau đó, cứ từ ngày 5-9 tháng Ba là dịp để nhắc lại, nhấn mạnh cho học sinh hay là ăn sáng đầy đủ giúp các cháu làm việc không biết mệt suốt ngày, giúp não bộ thu nhận kiến thức hữu hiệu hơn và nhắc nhở các cháu nên dinh dưỡng hợp lý và năng thể dục thể thao.

Ăn sáng cũng cung cấp cho tế bào thần kinh một số nhiên liệu cần thiết là glucose. Không có glucose, não như trì trệ, kém tinh nhanh.  

Tại Hoa Kỳ, mỗi năm có tới 2 triệu trường hợp trúng chất độc mà 90% xảy ra tại nhà với đa số nạn nhân là các cháu bé dưới 6 tuổi. Tử vong ở người lớn vì rủi ro này cũng là một trong những tử vong nhiều nhất tại Mỹ.

Ý thức được sự trầm trọng của vấn đề, vào ngày 16 tháng 9 năm 1961, Quốc hội Hoa Kỳ đã quyết định thiết lập Tuần Lễ Phòng tránh Ngộ Độc -National Poison Prevention Week vào tuần lễ thứ ba mỗi tháng Ba. Trong tuần lễ này, công chúng sẽ được hướng dẫn về sự nguy hiểm của các chất độc hại và làm sao phòng tránh chúng. Chất độc hại có thể là dầu săng, chất tẩy rửa, thuốc diệt sâu bọ, phân bón hóa học, chì trong sơn nhà…và ngay cả một số dược phẩm.

Hãy khóa chặt chất độc hại- "Locked Up Poisons" - là khẩu hiệu cần được phổ biến tới mọi gia đình, mọi cơ sở. 

Ngày 11 tháng 3 được dành đặc biệt cho Ngày Thế giới về Thận- World Kidney Day, trong đó có Hoa Kỳ.

Thận là bộ phận sinh tử của cơ thể. Không có thận, con người sẽ thiệt mạng vì các chất thải trong cơ thể không được loại ra ngoài và gây ra các bệnh trầm trọng.

Theo hội Thận Hoa Kỳ, có khoảng  29 triệu người bị bệnh thận mãn tính tại cường quốc này mà đa số đều không biết.

Ngày “cảnh báo” có mục đích nhắc nhở bà con  tìm hiểu những rủi ro gây ra bệnh thận, sớm tìm ra bệnh rồi điều trị để tránh bị suy thận.

Muốn tránh bệnh thận, cần duy trì đường huyết, huyết áp, sức nặng cơ thể  ở mức bình thường, không hút thuốc lá.

Ngày 17 tháng 2, 2010, nguyên Tổng Thống Bill Clinton tiết lộ trong một buổi nói chuyện với giới trẻ rằng trong hơn một tháng vừa qua, ông đã không ngủ đầy đủ vì công việc cứu trợ nạn nhân động đất ở Haiti. Do đó, sức khỏe ông có suy giảm và phải nhập viện điều trị.

Nêu ra câu chuyện thời sự này  là để nhắc nhở bà con về sự quan trọng của giấc ngủ đầy đủ. Và đó cũng là mục đích của Tuần Lễ Ý Thức về Giấc Ngủ- National Sleep Awareness Week từ 7-13 tháng Ba.

Suốt ngày, cơ thể làm việc liên tục, thần kinh mệt mỏi. Ngủ là lúc để cơ thể phục hồi, loại bỏ các chất phế thải có hại.

Nhu cầu ngủ thay đổi tùy từng người. Điều quan trọng là ngủ làm sao để cho ngày hôm sau ta cảm thấy có nhiệt huyết làm việc chứ không bải hoải, ngáp lên ngáp xuống,  muốn kiếm chỗ để ngủ.

Sau đây là vài mẹo để  có giấc ngủ tốt ban đêm: vận động cơ thể đều đặn nhưng nên hoàn tất 3 giờ trước khi đi ngủ; tạo thói quen đi ngủ vào giờ nhất định; phòng ngủ yên tĩnh, mát mẻ, thoải mái, hơi tối.  

Ý Thức vể Cờ Bạc- National Problem Gambling Awareness Week- được dành một tuần lễ từ ngày 7-13 tháng Ba để nhắc nhở bà con có máu đỏ đen về hậu quả tai hại của tệ đoan xã hội này.

Các cụ ta vẫn nói “Cờ bạc là bác thằng Bần; Cửa nhà bán hết, cho chân vào cùm”.

Theo thống kê, từ 2-3% dân chúng Mỹ có máu mê cờ bạc. Tỷ lệ bà con đổ bác ở bên nhà chắc là cao hơn nhiều.

Đam mê cờ bạc đã được coi là một bệnh tâm thần, với lo âu, trầm cảm, nghiện rượu thuốc, tự tử, cao huyết áp, bệnh tim mạch. Bệnh nhân cũng có những hành vi đưa tới bạo động gia đình, xã hội.

Ấy vậy mà rất ít bệnh nhân chịu tìm kiếm điều trị mặc dù có nhiều cơ quan sẵn sàng tư vấn, giúp đỡ.

Ngày Thế giới Bệnh Lao  vào 24 tháng Ba để lưu ý là hiện nay bệnh vẫn còn hoành hành trên thế giới, nhất là tại các quốc gia đang phát triển. Mỗi năm có 1,6 triệu tử vong vì vi khuẩn lao. Đây cũng là ngày để kỷ niệm thời gian mà bác sĩ Robert Koch tuyên bố tìm ra vi trùng lao, vào năm 1882. Sự khám phá này đã mở đường cho việc chẩn đoán bệnh và tìm ra thuốc đặc trị.

Tuy nhiên, một vấn đề khó khăn trong việc điều trị bệnh lao là hiện nay có nhiều trường hợp lao kháng thuốc, khó trị dứt được.

Tuần Lễ An Toàn Bệnh Nhận Patient Safety Awareness Week là chiến dịch cổ võ các bệnh viện, cơ sở y tế cải thiện lề lối làm việc để bảo đảm sự an toàn cho bệnh nhân và thân nhân người bệnh. Bệnh nhân cũng được mời tham dự với nhân viên y tế vào việc chăm sóc sức khỏe của mình.

Một trong những đề tài của chiến dịch là “Hãy cùng cởi mở tâm sự! Đối thoại lành mạnh để Chăm sóc sức khỏe an toàn hơn”-Let’s Talk! Healthy Conversations for Safer Healthcare.

Sau đây xin nhấn mạnh ở hai bệnh Tiểu Đường và Ung thư Ruột già-Trực tràng.

Ung thư ruột già-trực tràng là một trong những ung thư thường xảy ra nhất tại Hoa Kỳ và đứng hàng thứ nhì (sau ung thư phổi) trong số những nguyên nhân gây ra tử vong vì ung thư tại đây. Rủi ro ung thư tăng dần với tuổi cao. Hơn 90% nạn nhân ung thư ruột già ở tuổi từ 60 trở lên.

Tháng ý thức Ung thư Ruột già được khởi xướng vào năm 2000, để nhấn mạnh tới sự quan trọng của xét nghiệm sàng lọc, sớm tìm ra dấu hiệu bệnh, điều trị tức thì, giảm thiểu tử vong.

Trong đa số các trường hợp, ung thư ruột già xuất phát từ các cục thịt non (polyp) mọc ra ở ruột. Cắt bỏ chúng sẽ giảm thiểu rủi ro ung thư.

 Theo ước lượng, 60% tử vong vì ung thư ruột già có thể tránh được nếu quý vị trên 50 chịu khó thực hiện sự truy tìm này.

Các nhà chuyên môn y khoa đề nghị quý vị nam nữ từ 50 tuổi trở lên:

- Làm nội soi ruột già (colonoscopy) mỗi 10 năm.

- Xét nghiệm tìm máu trong phẩn mỗi năm.

- Nội soi trực tràng và đại tràng sigma (sigmoidoscopy) mỗi 5 năm. 

Ngày 23 tháng Ba dành riêng cho ý thức tới Bệnh Tiểu Đường.

Theo thống kê, hiện nay có trên 23 triệu người lớn nhỏ tại Hoa Kỳ đang bị bệnh tiểu đường, trong đó, có tới ¼ không biết là mình đang có bệnh. Tại Việt Nam, bệnh đái tháo đường cũng gia tăng khá nhanh, hậu quả của không chú tâm ăn uống đúng cách.

Với nhiều người, việc xác định bệnh thường rất trễ, có khi cả mươi năm sau khi bệnh manh nha.

Nhiều người có mức độ đường huyết trên mức trung bình, nhưng chưa hội đủ chẩn đoán bệnh tiểu đường. Họ ở trong tình trạng Tiền-Tiểu đường (Pre-diabetes). Nếu chịu khó dinh dưỡng hợp lý, tránh béo phì, vận động đều đặn thì có thể trì hoãn hoặc tránh tiểu đường loại 2.

Chẩn đoán sớm, điều trị ngay có thể tránh được các biến chứng  trầm trọng vì đường huyết cao ảnh hưởng tới tim, thận, mắt, thần kinh ngoại vi. 

Bác sĩ Nguyễn Ý-Đức M.D.

Texas- Hoa Kỳ.

VỀ MỤC LỤC

NỊNH CHỒNG - Chuyện phiếm của Gã Siêu

 

Có những lúc đang ngồi làm việc, gã bỗng mong có khách đến chơi, để được tạm thời nghỉ xả hơi.

Có những ngày gã mong được cúp điện để được rút chân ra khỏi nhịp điệu nhàm chám trong thoáng chốc, bằng cách ngồi đọc hết những tờ báo tồn đọng trong tuần.

Và hôm nay, gã được cái may mắn…bị cúp điện.

Trước mặt gã, có hai bài báo được gã cắt làm tài liệu. Một bài mang tựa đề là “Ngôn ngữ của các loài hoa”, trong đó tác giả cho biết ý nghĩa của từng loại, để khi cần tặng cho em út, thì nhớ lấy mà mua cho đúng, kẻo mà tiền mất tật mang, hay đi đoong cả mảnh tình còm vắt vai.

Chẳng hạn :

Hoa mai ám chỉ một tình thanh khiết và ước mong chúng mình đừng quên nhau nhé.

Hoa hồng màu đỏ ám chỉ một tình yêu nồng nàn và tha thiết.

Hoa hồng màu trắng ám chỉ một tình bạn sắp được chuyển hệ sang một tình yêu.

Hoa lan ám chỉ một tình yêu tha thiết ấp ủ trong lòng.

Hoa pensée ám chỉ nỗi Nhớ nhung tha thiết và sâu đậm, không bao giờ quên và sẽ còn mãi.

Hoa bất tử  nói lên những cố gắng vượt qua mọi khó khăn để tình yêu của chúng mình tồn tại mãi với thời gian.

Hoa anh đào ám chỉ việc ước mong được bỏ qua những lỗi lầm của nhau.

Hoa mười giờ ám chỉ việc hẹn hò  gặp nhau vào lúc mười giờ .

Hoa thiên lý ám chỉ thái độ đứng đắn và hiên ngang.

Hoa huệ ám chỉ tính cách cao thượng và trong trắng.

Hoa sen ám chỉ việc từ chối tình yêu.

Hoa mimosa ám chỉ việc cầu chúc cho nhau được  bình an.

Hoa phượng án chị việc cầu chúc cho nhau được thành công trong học hành và thi cử.

Còn một bài báo khác thì đề cập tới những nghiên cứu về tiếng nói nơi loài chim, loài khỉ và loài cá heo, để rồi đi tới kết luận :

- Động vật cũng có một thứ ngôn ngữ, một thứ tiếng nói nào đó.

Tuy nhiên, nếu hiểu một cách chặt chẽ, thì chỉ con người mới có tiếng nói và ngôn ngữ đúng nghĩa nhất. Bởi vì đó chính là một thứ quà tặng, Thiên Chúa đã trao ban cho con người để thông truyền những ý nghĩ cho nhau, nhờ đó hiểu biết nhau hơn, cũng như cảm thông và xích lại gần nhau hơn.

Qua dòng thời gian, tiếng nói và ngôn ngữ không ngừng phát triển. Người ta đã sáng chế ra chữ viết để ghi lại tiếng nói và ngôn ngữ. Người ta đã khám phá ra vần điệu để sáng tác ra những bài thơ. Người ta khám phá ra cung bậc để sáng tác ra những bản nhạc. Và tất cả những tác phẩm nghệ thuật này vẫn không ngừng được “chiềng làng”  và liên tục phát triển.

Thế nhưng, trong cuộc sống rất nhiều lần người ta đã sử dụng phương tiện này để chửi bới và lăng nhục, chê bai và chỉ trích, tạo nên những căng thẳngvà chia rẽ trong mối liên hệ với người khác, cũng như những rạn nứt và đổ vỡ trong tình nghĩa thân thương.

Chính vì vậy, các cụ ta ngày xưa đã khuyên nhủ con cháu :

- Lời nói chẳng mất tiền mua,

  Liệu lời mà nói cho vừa lòng nhau.

Hay như một câu danh ngôn đã bảo :

- Hãy ngoáy lưỡi bảy lần trước khi nói.

Tuy nhiên, chỉ vì muốn lấy lòng người khác, nhất là “bề trên” của mình, mà nhiều kẻ đã quá “liệu lời”. Họ cứ nhắm mắt tuôn ra toàn những lời ca tụng và khen ngợi vượt trên cả những mức độ cần thiết, trong khi đó cõi lòng thì lại chất đầy những ý đồ đen tối, chẳng mấy khi có được một chút mến yêu và chân thành. Những lời họ nói trong trường hợp này biến thành những lời ton hót và nịnh bợ.

Việt Nam Tự Điển của Lê Văn Đức đã định nghĩa như sau :

- Nịnh là dùng những lời lẽ dịu ngọt để tâng bốc, để nhờ vả hay để hãm hại người khác.

Như vậy,  tiến trình của việc nịnh bợ thường được chia làm hai giai đoạn :

Giai đoạn thứ nhất là dùng những lời lẽ dịu ngọt để tâng bốc.

Giai đoạn thứ hai là sau khi “đối tác” đã chịu đèn, đang “phê” với những lời tâng bốc ấy và hai lô mũi nở to như trái cà chua, thì ta mới lòi cái đuôi chuột là những ý đồ đen tối của mình.

Những ý đồ đen tối ấy có thể  nhờ vả việc nọ việc kia, có thể là che dấu những sai lỗi của mình và cũng có thể là hãm hại người khác…

Bình thường thì nịnh là thái độ của những kẻ bề dưới đối với đấng bề trên của mình. Và đấng bề trên ở đây được hiểu là những người có quyền và có thế, có chức và có vị hơn mình.

Ngày xưa, trong chế độ quân chủ nhà vua là người nắm giữ quyền hành tuyệt đối. Và theo quan điểm của Nho giáo, nhà vua chính là thiên tử, là con của trời, thay mặt cho trời để cai trị dân. Vì thế người dân phải tuyệt đối trung thành với nhà vua.

Trung thành với nhà vua trở thành một cái đạo. Trong tam cương, tức là ba giềng mối chính cho sinh hoạt xã hội, thì mối liên hệ “quân thần”, tức là cái đạo “vua tôi”, đã đứng hàng đầu.

Thậm chí, quân xử thần tử, thần bất tử bất trung. Vua bảo bày tôi phải chết, mà bày tôi không chịu chết, thì đó là bày tôi bất trung.

Cũng chính vì thế mà trong chốn triều đình, ít ai dám phát ngôn trái với ý muốn của nhà vua. Và từ đó  đã hình thành một tầng lớp quan lại vốn được gọi là  “nịnh thần”.

Sách “Cổ Học Tinh Hoa” kể lại rằng :

Ngày kia Văn Quân đất Lỗ Dương hỏi Mặc Tử :

- Có kẻ nói với ta rằng : Trung thần là người bắt cúi thì cúi, bắt ngẩng thì ngẩng, để thì im, gọi thì thưa, như thế có cho là trung thần được không ?

Mặc Tử nói :

- Bắt cúi thì cúi, bắt ngẩng thì ngẩng, như thế khác gì cái bóng ? Để thì im, gọi thì thưa, như thế khác gì tiếng vang ? Vua quan mà dùng đến những kẻ như cái bóng, như tiếng vang thì còn được ích gì ? Cứ như tôi đây, mà gọi là trung thần, khi vua có nhầm lỗi, thì phải liệu cách can ngăn đưa vào điều thiện, khi mình có điều hay, thì phải tìm đường bày tỏ, mà không lộ ra ngoài. Trên thì thành thực một lòng, một dạ với vua. Dưới thì không a dua vào bè kết đảng với ai. Những sự tốt lành yên vui thì để phần vua hưởng. Những điều oán thù, lo lắng thì mình hứng đựng. Có được như thế, tôi mới cho là trung thần.

Ai mà cứ theo mình như cái bóng, như tiếng vang, thì chỉ là kẻ ngu xuẩn và xiểm nịnh, vì kém cỏi không làm nên việc, nên chỉ biết chiều ý người trên để kiếm lợi.

Vì thế trong đạo dùng người, phải biết chọn những kẻ dám can ngăn điều dở của mình, bày tỏ điều hay của họ, hết lòng với mình, thì mới là những người có ích giúp mình được việc vậy.

Ngày nay, sống trong chế độ dân chủ, tuy nhà vua không còn nữa, nhưng vẫn tồn tại những người cầm quyền. Và để lấy lòng họ, gã thấy xuất hiện những kẻ được gọi là gia nô, chuyên môn phe phẩy các sếp của mình, thậm chí chưa bắt cúi thì đã cúi, và còn cúi gập cả mình xuống nữa. Chưa gọi mà đã thưa, và còn thưa to nữa là đàng khác. Sở dĩ họ làm như vậy, chỉ cốt để được hưởng nhờ tí bổng lộc hay chút ơn mưa móc.

Tuy nhiên, điều gã muốn bàn ở đây, đó là thái độ nịnh trong gia đình, giữa vợ chồng với nhau.

Ngày xưa, do ảnh hưởng của nền luân lý Khổng Mạnh, cũng như do ảnh của nền kinh tế nông nghiệp, cần phải có nhiều người để cáng đáng những công việc nặng nhọc trên ruộng đồng, bàn dân thiên hạ thường mang nặng trong đầu óc quan niệm trọng nam khinh nữ, như đã từng được phát ngôn :

- Nhất nam viết hữu, thập nữ viết vô. Một cậu con giai được kể là có, còn một cô con gái vẫn kể là không.

Và trong gia đình, anh chồng vốn thường cư xử với chị vợ theo kiểu “chồng chúa vợ tôi” :  Việc nhà phó mặc cho bu nó.

Tuy nhiên, ngày hôm nay thời vàng son ấy không còn nữa. Do ảnh hưởng của nền văn minh tây phương, cũng như do ảnh hường của quan niệm nam nữ bình quyền, người phụ nữ bắt đầu rời bỏ nồi niêu xoong chảo nơi xó bếp, để lăn xả vào những sinh hoạt xã hội và cũng đã gặt hái được những thành quả tốt đẹp.

Phe đờn ông con giai mỗi ngày một lép vế, cứ tụt dốc một cách không phanh và rớt giá một cách thê thảm, như một tác giả nào đó đã nhận định :

Có một thực tế là ngày càng có ít đờn ông con giai để…râu.

Một anh vui tính đã giả thích hiện tượng đó như thế này : 

Sở dĩ như vậy không phải lưỡi lam Gillette chất lượng cao nên quá sắc, quá bén, nhưng bởi vì đờn ông con giai sợ rằng dù có chăm chút tỉa tót cho khác người tới đâu chăng nữa, thì bộ râu của họ vẫn chỉ đạt tới một độ dài cố định, và nhất là có chiều hướng mang một kiểu dáng chung là…quặp xuống.

Phe đờn ông con giai sợ bộ râu ấy sẽ tố cáo cái tính sợ vợ của mình.

Mà sợ vợ mình thì đã sao ? Có chết chóc thằng tây đen nào không cơ chứ.

Đúng thế, sợ vợ không phải là một khuyết điểm, mà còn là một đức tính tốt, vì nó làm giảm đáng kể tỷ lệ những vụ ngoại tình và bạo hành. 

Những anh chồng nào biết sợ vợ, hay nói đúng hơn, những anh chồng nào biết nể vợ và biết chia sẻ việc nhà với vợ, thì không phải chỉ là một anh chồng chung thủy, mà còn là một anh chồng hiền lành, chẳng bao giờ dám giải quyết những căng thẳng bằng những cú đấm sái qua hàm, hay những cú đá như trời giáng, khiến chị vợ như trái banh, lăn tọt vào trong tủ…

- Kính vợ đắc thọ,

  Sợ vợ sống lâu,

  Nể vợ ta hết u sầu.

  Đội vợ lên đầu,

  Thì trường sinh bất lão.

Ấy là gã chưa nói tới những kẻ trung thành chạy theo giáo phái…thờ bà theo kiểu :

- Chồng ngoan phải biết…thờ bà,

  Kẻo bà ly dị, chia ba gia tài.

  Khôn ngoan lý lẽ người ngoài,

  Hỗn láo, cãi vợ có ngày nhà tan.

Từ chỗ nể vợ đi đến chỗ nịnh vợ thì chỉ cách nhau trong đường tơ kẽ tóc.

Thậm chí, việc nịnh vợ còn là khúc dạo đầu cần thiết và không thể thiếu của tình trạng nể vợ :

- Vuốt râu nịnh vợ con bu nó,

  Quắc mắt khinh đời cái bộ anh.

Bởi đó, trong dân gian mới phát sinh ra từ ngữ “nịnh đầm”, để chỉ những anh chồng không tiếc lời khen vợ, vì trong huyết quản của họ, độ “ga lăng” hơi bị đậm đặc trên cả mức độ bình thường. Cứ nhắm mắt khen tuốt luốt, tốt cũng khen, mà dở cũng khen, bởi vì cái định luật tâm lý thường tình nhất được tóm gọn như sau :

- Phàm đã là người, thì ai nấy bất luận già trẻ lớn bé, nam phụ lão ấu, cũng đều thích được…nịnh.

Cơm nhão thì khen :

- Đỡ đau bao tử.

Cơm khô thì khen :

- Nhai lâu thấyngọt.

Cơm khét, thì khen :

- Bảo đảm đường ruột.

Cũng giống như ca dao đã diễn tả :

- Lỗ mũi em mười tám gánh lông,

  Chồng yêu, chồng bảo “râu rồng trời cho”.

  Đêm nằm thì ngáy o o,

  Chồng yêu, chồng bảo “ngáy cho vui nhà”.

  Đi chợ thì hay ăn quà,

  Chồng yêu, chồng bảo “ về nhà đỡ cơm”.

  Trên đầu những rác cùng rơm,

  Chồng yêu, chồng bảo “hoa thơm rắc đầu”

  Chồng yêu, cái tóc nên dài,

  Cái duyên nên đẹp, cái tài nên khôn.

Tuy nhiên, có những trường hợp anh chồng trở chứng bỗng dưng nịnh chị vợ ra mặt và đột xuất có những thái độ ga lăng, thì chị vợ cũng nên đề cao cảnh giác, bởi vì rất có thể anh chồng đang theo đuổi những ý đồ mờ ám, như đèo bòng bồ nhí.

Những lời nịnh hót và những thái độ ga lăng ấy, là như một liều thuốc ngủ, làm cho chị vợ quên béng đi mất những thầm lén vụng trộm của anh chồng, hay làm  cho chị vợ cười tít cả mắt, chẳng còn biết anh chồng đang toan tính và âm mưu những gì.

Anh chồng mà nịnh chị vợ, thì chỉ là chuyện thường tình, nhưng chị vợ mà khen anh chồng, mới là chuyện đáng nói, chứng tỏ chị vợ là một tay cao thủ võ lâm, bản lãnh vững chắc, biết áp dụng chiến  thuật “mật ngọt chết ruồi”, như một câu danh ngôn đã nói :

- Người ta bắt được nhiều ruồi chỉ bằng một giọt mật, còn hơn bằng cả một thùng dấm chua.

Gã xin ghi lại nơi đây những lời tâm sự của bạn Minh Vũ trên báo “Phụ nữ Chủ nhật”, để các anh chồng cùng chia sẽ với nhau cái kinh nghiệm thương đau.

…Chồng là phái mạnh, được sinh ra để chăm sóc, chiều chuộng, chứ không phải là để được nịnh. Bởi thế lần đầu tiên được “nịnh”, tôi nào có biết, cứ sung sướng như người đi trên mây, khi nàng thả những lời ngọt lịm như mía lùi vào tai :

- Anh giỏi quá, thay hết đường dây điện trong nhà chỉ mất có một buổi. Gặp phải mấy thằng em thì cả tháng vẫn chưa xong.

Vì thế mà tôi ngoan ngoãn làm theo lệnh nàng…

Dựa vào lời nàng, thì tôi đúng là một người đàn ông toàn năng. Cái gì tôi cũng phải biết, để được nàng khen. Chỉ cần tôi hơi tròn miệng định nói chữ “không”, thì nàng liền mở to đôi mắt nai đen ngơ ngác :

- Việc này ngay cả anh cũng không biết thì con ai biết.

Thì ra nàng quả là một người phụ nữ tinh đời, đã nhận ra được cái sự toàn năng của một gã đàn ông bình thường như tôi.

Nàng vẫn cứ ngoan ngoãn ngây thơ, nịnh chồng như Tây. Việc nhà cửa vốn là chức năng và nhiệm vụ của nàng, thế mà nó đã được hoán đổi cho tôi lúc nào tôi cũng không hay, để rồi với tính vụng về cố hữu của đàn ông, tôi nấu cơm nhão nhoẹt. Nàng chẳng một lời chê mà còn âu yếm bảo :

- Hôm nay trời nóng nực, khó nuốt trôi cơm. Em cũng đang định ăn cháo trắng với hột vịt muốn. Anh đúng là hiểu ý em.

Cơm nhão nàng cũng ăn, cơm khô nàng cũng nuốt với lời khen nức cả lỗ mũi :

- Em đang ăn kiêng. Anh nấu cơm rời rạc như thế này em ăn từng hột, bảo đảm sẽ giảm mười ký lô trong một tháng.

Trời mưa, tôi quên mang quần áo vào, nàng cũng dịu dàng    bảo :

- Không sao đâu, mình giặt hai lần cho nó thật sạch.

Thậm chí có lần tôi làm rơi mất cả tiền lương, nàng cũng không cau mày nhăn mặt, mắng chồng sa sả như các bà vợ khác, mà chỉ ôn tồn khuyên :

- Thôi thì của đi thày người anh ạ. Đừng lo nghĩ chi nhiều cho mệt. Của mất thì cũng đã mất rồi. Mình dành tâm trí để kiếm khoản khác bù vô. Tháng này anh tạm khỏi lấy tiền tiêu vặt, cà phê cà pháo nữa nhé…

Thậm chí, có lần tôi quên hết những lời dặn dò của vợ, đi bia ôm với bạn bè, mãi đến nửa khuya mới về.

Cứ nghĩ rằng nàng sẽ đón tôi với đôi mắt đẫm lệ và cái miệng mở to tuôn trào xối xả những lời mạt sát. Nhưng không, nàng vẫn nhẹ nhà giúp tôi thay quần áo.

Thấy vết son và mùi nước hoa trên áo tôi, nàng vẫn không đổ đổi thái độ “khen” chồng bằng giọng…lạnh tanh :

- Anh giỏi thật đấy. Từng tuổi này và vẫn dư sức quyến rũ, có thêm nhân tình nhân ngãi. Em không ghen đâu. Em cho anh được tự do đi lại với nhiều cô, để chứng tỏ bản lĩnh đàn ông ngày nay. Từ giờ phút này anh được  thoải mái, không cần em có mặt, để ngăn cản bước đường của anh nữa.

Rồi nàng xách đồ về với…bu.

Có lần một anh bạn đã nói với gã :

- Cậu có biết tớ sợ cái gì nhất hay không ?

Gã lắc đầu và anh ta nói tiếp :

- Tớ sợ nhất hai chữ K của vợ, đó là vợ khóc và vợ khen. Vợ khóc thì tớ chẳng biết đường dỗ cho nín, chỉ còn nước đứng như trời trồng, đốt thuốc lá và nhìn ra ngoài đường. Còn khi vợ khen, thì biết chắc chắn là sẽ được nhờ vả chuyện nọ chuyện kia.

Từ những kinh nghiệm đau thương kể trên, gã đi tới một kết luận :

Khi được nịnh, anh chồng bỗng trở nên mềm nhũn như cái con chi chi.

Khi được uống nước đường, anh chồng bỗng trở nên yếu xìu, chui đầu vào rọ, chị vợ bảo gì cũng nghe, muốn gì cũng…chìu.

Gã Siêu    gasieu@gmail.com

VỀ MỤC LỤC

- Mọi liên lạc: Ghi danh, thay đổi địa chỉ, đóng góp ý kiến, bài vở..., xin gởi về địa chỉ

giaosivietnam@gmail.com

- Những nội dung sẽ được đề cao và chú ý bao gồm:

Trao đổi, chia sẻ những kinh nghiệm thực tế trong việc mục vụ của Giáo sĩ;  Những tài liệu của Giáo hội hoặc của các Tác giả nhằm mục đích Thăng tiến đời sống Giáo sĩ; Cổ võ ơn gọi Linh mục; Người Giáo dân tham gia công việc “Trợ lực Giáo sĩ” bằng đời sống cầu nguyện và cộng tác trong mọi lãnh vực; Mỗi  Giáo dân phải là những “Linh mục” không có chức Thánh; Đối thoại trong tinh thần Bác ái giữa Giáo dân và Giáo sĩ… (Truyền giáo hay xây pháo đài?)

- Quy vị cũng có thể tham khảo những số báo đã phát hành tại

www.conggiaovietnam.net

Rất mong được sự cộng tác, hưởng ứng của tất cả Quí vị

Xin chân thành cám ơn tất cả anh chị em đã sẵn lòng cộng tác với chúng tôi bằng nhiều cách thế khác nhau.

TM. Đặc San Giáo Sĩ Việt Nam

Lm. Luca Phạm Quốc Sử  USA

 

 

Duoc chon giua loai nguoi va cho loai nguoi; GIAO SI: Xuat phat tu giao dan, hien dien vi giao dan va cay dua vao giao dan, de cung lam VINH DANH THIEN CHUA

*************