Đặc San Giáo Sĩ Việt Nam

 

 

 

ĐỰƠC CHỌN GIỮA LOÀI NGƯỜI
VÀ CHO LOÀI NGƯỜI  (x. Dt, 5.1)

 

GIÁO SĨ:

Xuất phát từ giáo dân, hiện diện vì giáo dân và cậy dựa vào giáo dân

 

ĐỂ CÙNG LÀM VINH DANH THIÊN CHÚA

 

www.conggiaovietnam.net                          giaosivietnam@gmail.com

Đặc San Điện Tử    Giáo Sĩ Việt Nam    Số 113, Chúa Nhật 21.02.2010


MỤC LỤC 

Các Môi Trường Hoạt Ðộng Tông Ðồ                                                                      Vatican 2

MỪNG NĂM THÁNH 2010, XEM LỊCH SỬ TRUYỀN GIÁO VIỆT NAM (BÀI 8) THỜI KỲ
TÔNG TÒA, 1659-1960, XÂY NỀN PHÁT TRIỂN GIÁO HỘI
                   Gs. Trần Văn Cảnh

NGÀY XUÂN TẢN MẠN CHUYỆN CÚI ĐẦU                                          Gioan Lê Quang Vinh

TRẢI NGHIỆM CHAY LẠT CỦA MỘT LINH MỤC                                 Lm. TRĂNG THẬP TỰ

CHÚT NIỀM VUI CỦA NHỮNG MẢNH ĐỜI MONG MANH                          Lm. Anmai, DCCT

CỨU CÁNH TỐT CÓ BIỆN MINH CHO PHƯƠNG TIỆN XẤU KHÔNG? Lm PX. Ngô Tôn Huấn

CÁM DỖ VÀ PHẠM TỘI                                                                Lm. Giuse Trần Việt Hùng

MÙA CHAY, TUẦN THÁNH – NHỮNG TẬP TỤC VÀ TRUYỀN THỐNG         Lm. Lê Công Đức 

CHUNG SỐNG (2)                                                                                    Lm. Lê Văn Quảng

TUYẾT XUỐNG ĐÊM QUA                                                                         Nhà Văn Quyên Di

TẢN MẠN VỀ BIA                                                                          Bác sĩ Nguyễn Ý-Đức M.D.

CỌP VÀ NGƯỜI -                                                                        Chuyện phiếm của Gã Siêu


Các Môi Trường Hoạt Ðộng Tông Ðồ

 

Thánh Công Ðồng Chung Vaticanô II

 

Sắc Lệnh Về Tông Ðồ Giáo Dân

Apostolicam Actuositatem

 

Prepared for Internet by Vietnamese Missionaries in Asia

 

Chương III

Các Môi Trường Hoạt Ðộng Tông Ðồ 8*

 

9. Nhập đề. Giáo dân thi hành việc tông đồ muôn mặt của mình trong Giáo Hội cũng như giữa đời. Trong cả hai lãnh vực này, nhiều môi trường hoạt động tông đồ khác nhau được khai mở. Ở đây chúng tôi muốn nhắc tới những môi trường chính yếu hơn cả là: các cộng đoàn Giáo Hội, gia đình, giới trẻ, môi trường xã hội, các lãnh vực quốc gia và quốc tế. Ngày nay phụ nữ càng ngày càng góp phần tích cực vào tất cả đời sống xã hội, cho nên điều quan trọng là làm sao cho họ tham gia nhiều hơn vào cả những lãnh vực tông đồ của Giáo Hội.

10. Các cộng đoàn trong Giáo Hội. Giáo dân góp phần tích cực vào đời sống và hoạt động của Giáo Hội, nhờ được tham dự vào chức vụ của Chúa Kitô là tư tế, ngôn sứ và là vua. Trong những cộng đoàn của Giáo Hội, hoạt động của họ cần thiết đến nỗi nếu không có hoạt động đó, chính hoạt động tông đồ của các vị chủ chăn thường không thể đạt được đầy đủ kết quả. Cũng như giáo dân nam nữ đã giúp Thánh Phaolô trong việc rao giảng Phúc Âm (x. CvTđ 18,18-26; Rm 16,3), những người giáo dân có tinh thần tông đồ đích thực cũng đang trợ giúp những anh em thiếu thốn và nâng đỡ tinh thần các vị chủ chăn và các tín hữu khác (x. 1Cor 16,17-18). Vì được nuôi dưỡng nhờ tham dự cách tích cực vào đời sống phụng vụ của cộng đoàn, chính họ nhiệt thành góp phần vào những công cuộc tông đồ của chính cộng đoàn đó: họ đem những người có lẽ đang xa lạc trở về với Giáo Hội. Họ cộng tác đắc lực vào việc rao truyền lời Chúa nhất là bằng việc dạy giáo lý. Họ đem khả năng của mình làm cho việc coi sóc các linh hồn và cả việc quản trị tài sản của Giáo Hội sinh hiệu quả hơn.

Giáo xứ là một hình thức tông đồ cộng đồng kiểu mẫu, vì đó là nơi qui tụ mọi hạng người thành một cộng đoàn và đem họ vào tinh thần đại đồng của Giáo Hội 1. Giáo dân nên tập thói quen cộng tác chặt chẽ với các linh mục của mình để hoạt động trong giáo xứ 2. Họ cũng nên có thói quen trình bày với cộng đoàn Giáo Hội những vấn đề riêng của mình hay của cả thế giới hoặc những vấn đề liên quan tới phần rỗi mọi người để cùng nhau góp ý kiến, nghiên cứu và giải quyết. Họ cũng phải tùy sức mà cố gắng đóng góp vào mọi công cuộc tông đồ và truyền giáo của gia đình Giáo Hội địa phương.

Giáo dân phải luôn luôn nuôi dưỡng ý thức về giáo phận vì giáo xứ như một tế bào của giáo phận. Họ phải luôn mau mắn đáp lại tiếng gọi của Chủ Chăn và tùy sức tham gia những sáng kiến chung của giáo phận. Hơn nữa, để đáp ứng những nhu cầu nơi thành thị cũng như ở thôn quê 3, họ không chỉ hạn hẹp sự cộng tác của mình trong giới hạn giáo xứ hay giáo phận nhưng họ cố gắng mở rộng phạm vi tới cả các lãnh vực liên xứ, liên giáo phận, quốc gia hay quốc tế. Hơn nữa, việc di dân mỗi ngày một nhiều, những mối tương giao gia tăng, và việc giao thông dễ dàng đã không để một thành phần xã hội nào sống đóng kín cho riêng mình. Vì thế người giáo dân phải quan tâm đến những nhu cầu của dân Thiên Chúa ở rải rác trên khắp địa cầu. Nhất là họ phải coi những công cuộc truyền giáo như việc của chính mình, bằng cách đóng góp về vật chất hay về cả nhân sự. Vì chưng nhiệm vụ và vinh dự của người Kitô hữu là trả lại cho Thiên Chúa phần của họ đã nhận nơi Ngài.

11. Gia đình trong việc tông đồ. Vì Ðấng Tạo Hóa đã đặt cộng đoàn hôn nhân làm nguồn gốc và nền tảng cho xã hội loài người và dùng ơn thánh Ngài nâng lên hàng bí tích cao cả trong Chúa Kitô và trong Giáo Hội (x. Eph 5,32) cho nên việc tông đồ của vợ chồng và của các gia đình có tầm quan trọng đặc biệt, đối với Giáo Hội cũng như đối với xã hội dân sự.

Những đôi vợ chồng Kitô giáo là những người cộng tác với ơn thánh và chứng nhân của đức tin đối với nhau, cũng như đối với con cái và những phần tử khác trong gia đình họ. Chính họ là những người đầu tiên phải rao truyền và giáo dục đức tin cho con cái họ. Bằng lời nói và gương sáng họ huấn luyện con cái sống đời Kitô giáo và làm việc tông đồ. Họ thận trọng giúp đỡ con cái trong việc lựa chọn ơn kêu gọi, và nếu thấy chúng có ơn thiên triệu, họ tận tình nuôi dưỡng ơn kêu gọi đó.

Tất cả những việc ngày xưa vốn là bổn phận vợ chồng, ngày nay còn phải được coi là phần quan trọng nhất của việc tông đồ. Ðó là phải biểu lộ và chứng minh bằng đời sống tính cách bất khả phân ly và sự thánh thiện của dây hôn phối. Phải mạnh mẽ nói lên rằng quyền lợi và nhiệm vụ đã được trao ban cho bậc cha mẹ và những người bảo trợ là giáo dục con cái theo Kitô giáo. Phải bảo vệ phẩm giá và quyền tự trị hợp pháp của gia đình. Vì vậy chính họ và những tín hữu khác phải cộng tác với mọi người thiện chí để những quyền trên đây được dân luật bảo vệ hoàn toàn, nghĩa là trong việc cai trị, chính phủ phải quan tâm tới những nhu cầu của gia đình liên quan tới nơi cư ngụ, việc giáo dục trẻ em, điều kiện làm việc, an ninh xã hội và thuế khóa. Khi phải tổ chức di dân, đời sống chung của gia đình phải được hoàn toàn bảo đảm 4.

Chính gia đình đã lãnh nhận từ Thiên Chúa sứ mệnh trở nên tế bào đầu tiên và sống động của xã hội. Gia đình sẽ chu toàn được sứ mệnh đó nếu gia đình tỏ ra như một đền thờ của Giáo Hội trong nhà mình nhờ yêu thương nhau và cùng nhau dâng lời cầu nguyện lên Thiên Chúa, nếu toàn thể gia đình cùng tham dự vào việc phụng vụ của Giáo Hội, sau cùng nếu gia đình tỏ ra hiếu khách và cổ võ đức công bằng cũng như những việc thiện khác giúp các anh em đang túng thiếu. Trong các việc tông đồ của gia đình cần phải kể đến những việc như: nhận làm con những đứa trẻ bị bỏ rơi, ân cần tiếp đón những khách lạ, cộng tác với học đường, khuyên bảo và giúp đỡ thanh thiếu niên, giúp những người đã đính hôn chuẩn bị cho việc hôn nhân của họ được tốt đẹp, giúp dạy giáo lý, nâng đỡ những đôi vợ chồng cũng như những gia đình khi họ gặp khó khăn về vật chất hay tinh thần, lo cho người già cả không những có những điều cần thiết, mà còn cung cấp cho họ những tiện nghi chính đáng của tiến bộ kinh tế.

Ở mọi nơi và mọi lúc, nhất là trong những miền mà hạt giống Phúc Âm vừa được gieo vãi, hoặc trong những nơi Giáo Hội mới được thành lập hay trong những nơi Giáo Hội đang gặp những trở ngại lớn lao, những gia đình Kitô giáo vẫn là chứng nhân quí giá nhất của Chúa Kitô đối với thế gian bằng tất cả đời sống gắn liền với Phúc Âm và tỏ ra là gia đình Kitô giáo gương mẫu 5.

Ðể dễ dàng đạt tới những mục đích tông đồ này các gia đình nên qui tụ thành những nhóm 6.

12. Giới trẻ hoạt động tông đồ. Trong xã hội ngày nay, giới trẻ làm thành một sức mạnh rất quan trọng 7. Những hoàn cảnh sống của họ, những nếp sống tinh thần và cả những tương quan của họ với gia đình đã thay đổi rất nhiều. Thường thường họ chuyển quá nhanh sang một hoàn cảnh xã hội và kinh tế mới. Hơn nữa, vai trò xã hội cũng như chính trị của họ mỗi ngày một thêm quan trọng, nhưng họ không được chuẩn bị đầy đủ để đảm nhận những trọng trách mới này cách xứng hợp.

Trọng trách của họ trong xã hội gia tăng, đòi hỏi họ gia tăng hoạt động tông đồ. Vả lại, chính bản tính tự nhiên của họ vốn hướng về hoạt động đó. Nhờ trưởng thành trong ý thức về nhân vị và được thúc đẩy do sức sống hăng say và tính ham mê hoạt động, họ nhận lãnh trách nhiệm của mình và ước muốn góp phần vào đời sống xã hội và văn hóa. Nếu lòng nhiệt thành này được thấm nhuần tinh thần Chúa Kitô và được thúc đẩy do sự tuân phục và yêu mến các vị chủ chăn của Giáo Hội thì có thể hy vọng nơi họ những thành quả phong phú. người trẻ phải trở nên những tông đồ đầu tiên và trực tiếp của giới trẻ trong khi chính họ hoạt động tông đồ giữa người trẻ và nhờ người trẻ tùy theo môi trường xã hội họ đang sống 8.

Người lớn cần quan tâm để tạo cuộc đối thoại thân hữu với giới trẻ, vì cuộc đối thoại cho phép cả hai giới vượt qua sự ngăn cách về tuổi tác, hiểu biết lẫn nhau và thông cho nhau sự phong phú riêng của mỗi giới. Người lớn hãy thúc đẩy giới trẻ làm tông đồ trước hết bằng gương sáng và tùy dịp bằng ý kiến khôn ngoan và giúp đỡ thiết thực. Còn giới trẻ cũng phải nuôi dưỡng lòng trọng kính và tín nhiệm đối với người lớn, dầu theo tính tự nhiên họ ham thích những điều mới lạ, tuy nhiên họ cũng phải tôn trọng những truyền thống đáng quí trọng.

Trẻ em cũng có hoạt động tông đồ riêng của chúng. Tùy khả năng, chúng co thể thực sự là những chứng nhân sống động của Chúa Kitô giữa các bạn hữu.

13. Môi trường xã hội. Làm tông đồ trong môi trường xã hội là cố gắng đem tinh thần Kitô giáo thấm nhuần não trạng, phong tục, luật lệ và cơ cấu của cộng đoàn nơi họ sống: đó là bổn phận và trách nhiệm của người giáo dân mà không ai có thể làm thay họ cách đầy đủ. Trong lãnh vực này, người giáo dân có thể làm tông đồ cho người đồng cảnh ngộ với mình. Ở đó lấy lời nói bổ túc cho bằng chứng của đời sống 9. Cũng ở đó, họ dễ dàng giúp đỡ anh em trong môi trường làm việc hay nghề nghiệp, môi trường học vấn, cư ngụ, giải trí cũng như trong sinh hoạt địa phương.

Người giáo dân chu toàn sứ mệnh này của Giáo Hội nơi trần gian: trước tiên bằng đời sống hòa hợp với đức tin, để nhờ đó họ trở thành ánh sáng thế gian; bằng đời sống lương thiện trong bất cứ công ăn việc làm nào để làm cho mọi người yêu mến sự thật, sự thiện và cuối cùng đưa họ tới Chúa Kitô và Giáo Hội; bằng đời sống bác ái huynh đệ qua việc họ thực sự chia sẻ với anh em trong hoàn cảnh sống, trong đau khổ cũng như trong mọi ước vọng, và như thế họ âm thầm chuẩn bị cho ơn cứu rỗi hoạt động trong tâm hồn mọi người; bằng cuộc sống ý thức đầy đủ về vai trò của mình trong việc xây dựng xã hội, họ cố gắng chu toàn hoạt động nơi gia đình, ngoài xã hội, trong nghề nghiệp với lòng quảng đại của Kitô giáo; như thế phương thức hành động của họ dần dần thấm nhập vào môi trường sống và cả môi trường làm việc.

Việc tông đồ này phải nhắm tới hết mọi người trong môi trường hoạt động và không được loại bỏ bất cứ lợi ích thiêng liêng hay vật chất nào có thể làm cho họ. Nhưng người tông đồ đích thực không chỉ hài lòng với hoạt động này, họ còn phải quan tâm đến việc rao giảng Chúa Kitô cho anh em bằng cả lời nói nữa. Bởi vì nhiều người chỉ có thể nghe Phúc Âm và nhận biết Chúa Kitô nhờ những người giáo dân sống gần họ.

14. Trên bình diện quốc gia và quốc tế. Môi trường hoạt động tông đồ mở rộng bao la trên bình diện quốc gia và quốc tế, trong đó, hơn ai hết, giáo dân là những người nắm giữ và phân phát sự khôn ngoan Kitô giáo. Tận tâm đối với quốc gia và trung thành chu toàn những nhiệm vụ công dân, người công giáo cảm thấy bó buộc phải cổ võ cho công ích thực sự, và họ phải làm sao cho ý kiến của họ ảnh hưởng tới chính quyền để quyền hành được thực thi chính đáng và để luật lệ đáp ứng được những đòi hỏi của luân lý và công ích. Những người công giáo có khả năng làm chính trị và đã được huấn luyện đầy đủ về đức tin và giáo lý đừng từ chối tham gia việc nước, bởi vì nhờ thi hành nhiệm vụ cách tốt đẹp, họ có thể đóng góp vào công ích và đồng thời mở đường cho Phúc Âm.

Người công giáo phải tìm cách cộng tác với tất cả mọi người thiện chí để cổ động cho bất cứ những gì là chân thật, công bằng, thánh thiện và đáng yêu quí (x. Ph 4,8). Người công giáo hãy đối thoại với họ, hãy đến với họ cách khôn ngoan và tế nhị, hãy tìm cách kiện toàn những định chế xã hội và quốc gia theo tinh thần Phúc Âm.

Trong các dấu chỉ của thời đại chúng ta, phải đặc biệt chú ý tới ý nghĩa ngày một gia tăng và không thể tránh né về sự liên đới giữa các dân tộc mà nhiệm vụ của hoạt động tông đồ giáo dân là phải lo lắng cổ động và biến nó thành một khát vọng chân thành và thiết thực về tình huynh đệ. Hơn nữa giáo dân còn phải ý thức về lãnh vực quốc tế và ý thức về những vấn nạn cũng như những giải pháp trên lý thuyết hay trong thực hành đang được đề ra, nhất là về những vấn đề liên quan tới các dân tộc đang nỗ lực phát triển 10.

Tất cả những ai làm việc ở các nước khác hay đang trợ giúp những nước ấy phải nhớ rằng những mối bang giao giữa các dân tộc phải là cuộc trao đổi huynh đệ đích thực, trong đó, cả hai bên cùng cho và cùng nhận. Còn những ai xuất ngoại để lo công chuyện hay để giải trí phải nhớ rằng dù họ ở đâu họ cũng vẫn là sứ giả lưu động của Chúa Kitô và họ phải sống đúng danh hiệu đó.

 


Chú Thích:

8* Ở đây Sắc Lệnh nói đến tinh thần hoạt động phổ quát của việc tông đồ giáo dân. Chính tinh thần này đã đem lại nhiều cảm hứng cho Hiến Chế về Giáo Hội. Tầm hoạt động tông đồ sẽ không giới hạn ở giáo xứ, trong giáo phận hay nơi quốc gia nào.

Tính cách phổ quát này của việc tông đồ giáo dân có nền tảng ở sự ý thức hơn về Giáo Hội như Nhiệm Thể mà Kitô hữu là những chi thể sống động, cũng như ý thức về sự thích ứng cần thiết của Giáo Hội đối với những hoàn cảnh hiện tại của thế giới ngày nay (x. số 10).

1 Xem Piô X. Tông thư Creationis duarum novarum paroeciarum, 1-6-1905: AAS 38 (1905), trg 65-67. - Piô XII, Huấn từ ad fides paroeciae S. Saba, 11-1-1953: Discorsi e Radiomessaggi di diocesi suburbicaria Albanesi, ad Arcem Gandulfi habita: 26-8-1962: AAS 54 (1962), trg 656-660.

2 Xem Leô XIII, Huấn từ 28-1-1894: Acia 14 (1894), trg 424-425.

3 Xem Piô XII, Huấn từ Ad parochos, etc... 6-2-1951: Discorsi e Radiomessaggi di S.S. Piô XII, 12 (1950-1951), trg 437-443; 8-3-1952: n.v.t. 14, (1952-1953), trg 5-10; 27-3-1953: n.v.t. 15 (1953-1954), trg 27-35; 28-2-1954: n.v.t. trg 585-590.

4 Xem Piô XI, Tđ Casti Connubii: AAS 22 (1930), trg 554, - Piô XII, Nuntius Radiophonicus, 1-1-1941: AAS 33 (1941), trg 203. - n.t. Delegatis ad conventum unionis internaltionalis sodalitatum ad iura familiar tuenda, 20-9-1949: AAS 41 (1949), trg 552. - n.t. Ad patresfamilias e Galia Romanperegrinantes, 18-9-1951: AAS 43 (1951), trg 731. n.t. Nuntius radiophonicus in Natali Domini 1952: AAS 45 (1953), trg 41. - Gioan XXIII, Tđ Mater et Magistra, 15-5-1961: AAS 53 (1961), trg 429, 439.

5 Xem Piô XII, Tđ Evangelii Praecones, 2-6-1951: AAS 43 (1951), trg 514.

6 Xem Piô XII, Delegatis ad Conventum Unionis internationalis sodatiatum ad iura familiae tuenda, 20-9-1949: AAS 41 (1949), trg 552.

7 Xem Piô X, Huấn từ ad Catholicam Associationem Iuventutis Gallicae de pietate, scientia et actione, 25-9-1904: AAS 37 (1904-1905), trg 296-300.

8 Xem Piô XII, Thư Dans quelques semaines, gởi Ðức Tổng Giám Mục Montréal: de conventibus a iuvenibus operaiis christianis Canadiensibus indictis, 24-5-1947: AAS 39 (1947), trg 257. - Và sứ điệp truyền thanh Ad J.O.C. Bruxelles, 2-9-1950: AAS 42 (1950), trg 640-641.

9 Xem Piô XI, Tđ Quadragesimo anno, 15-5-1931: AAS 23 (1931), trg 225-226.

10 Xem Gioan XXIII, Tđ Mater et Magistra, 15-5-1961: AAS 53 (1961), trg 448-450.

 

còn tiếp

 
VỀ MỤC LỤC
MỪNG NĂM THÁNH 2010, XEM LỊCH SỬ TRUYỀN GIÁO VIỆT NAM (BÀI 8) THỜI KỲ TÔNG TÒA, 1659-1960, XÂY NỀN PHÁT TRIỂN GIÁO HỘI
 

Trong lịch sử việt nam, thời kỳ Tông Tòa trải dài trên 5 giai đoạn : Trịnh Nguyễn phân tranh (1570-1786), Tây Sơn (1786-1802), Nhà Nguyễn (1802-1884), Bảo hộ Pháp (1884-1954), Quốc Cộng Nam Bắc (1954-1975). Nhiều biến cố quan trọng trong lịch sử tranh quyền cai trị, mở rộng bờ cõi và giữ nước, phát triển quốc gia, mất độc lập và dành lại chủ quyền, chia rẽ và thống nhất quốc gia,…

Trong lịch sử giáo hội công giáo, thời kỳ Tông Tòa đánh dấu một đường hướng truyền giáo mới. Rút lại quyền Bảo Trợ truyền giáo của hai quốc gia Bồ Đào Nha và Tây Ban Nha, thành hình từ thế kỷ XV. Trao việc truyền giáo cho một cơ quan mới là Thánh Bộ Truyền Giáo, thành lập từ ngày lễ Ba Vua 06.01.1622.

Đây là một thay đổi rất lớn. Để giảm bớt và tránh những lạm dụng tiêu cực của các quốc gia bảo trợ, có nhiều quyền lực và tư lợi khác nhau, Tòa Thánh đã muốn đứng ra lãnh trách nhiệm trực tiếp và toàn bộ trong công việc truyền giáo. Nhờ những khám phá các vùng đất mới, từ thế kỷ XV, một ý thức mới đang thành hình trước những ngỡ ngàng mới : thế giới bao la với nhiều dân tộc khác nhau, với những nền văn minh to như Ấn Độ, Trung Hoa,…với những tôn giáo lớn, như Ấn giáo, Phật giáo, Lão giáo, Khổng giáo,… Công việc truyền giáo cần phải có kế hoạch và phương pháp, tổ chức và thống nhất lãnh đạo, do chính Giáo triều điều hành.  

Sau gần 50 năm truyền giáo ở Đàng Trong và Đàng Ngoài, các cha Dòng Tên bị trục xuất khỏi Việt Nam. Cha Đắc Lộ được lệnh bề trên về Âu Châu vận động Giáo Hội gởi giám mục đi truyền giáo ở Việt Nam. Trong ba năm 1649-1652 ở Rôma, cha đã không tìm ra ứng viên giám mục. Hai năm 1653-1654 ở Paris, cha đã gặp may mắn hơn. Cha đã tìm được các ứng viên giám mục. Kết quả là ngày 29.07.1658, ÐTC Alexandre VII bổ nhiệm cha François Pallu làm giám mục hiệu tòa Héliopolis, cha Pierre Lambert de la Motte làm giám mục hiệu tòa Béryte và cả hai làm Giám Quản Tông Tòa cho các sở truyền giáo Trung Hoa và Việt Nam. Rồi ngày 09.09.1659, ÐTC Alexandre VII ban sắc chỉ « Super Cathedram » bổ nhiệm ÐC François Pallu làm Đại diện Tông Tòa Đàng Ngoài và ÐC Pierre Lambert de la Motte làm Đại Diện Tông Tòa Đàng Trong. Từ đây, ngày 09.09.1659 được coi là ngày mở đầu cho thời kỳ thứ hai trong lịch sử truyền giáo ở Việt Nam : thời kỳ TÔNG TÒA, kéo dài 300 năm, từ 1659 đến 1960. Đây là thời kỳ dài nhất trong lịch sử truyền giáo ở Việt Nam. Rất nhiều công việc đã được thực hiện, vừa đặt nền tảng vừa cất cao và xây lớn Giáo Hội Việt Nam.

Ba việc đã được mở đầu ở thời Bảo Trợ vẫn được tiếp tục thực hiện : đưa Tin Mừng đến các địa điểm mục vụ mới, hội nhập công giáo vào xã hội Việt Nam và thành lập những cộng đoàn mới, củng cố và phát triển chữ quốc ngữ cho văn học việt nam.

Thêm vào đó, tám việc quan trọng đáng ghi nhớ khác đã được thực hiện trong thời kỳ Tông Tòa : Tổ chức công đồng xây dựng chương trình truyền giáo ; Thành lập và tổ chức các giáo phận tông tòa ; Thành lập chủng viện đào tạo hàng giáo sĩ việt nam ; Thành lập dòng nữ Mến Thánh Giá ; Huấn luyện đội ngũ các cán bộ giáo dân ưu tú giúp việc truyền giáo cho lương dân và điều hành xứ đạo ; Tăng lượng và tăng phẩm giáo hữu, nhiều người dám chết vì đạo ; Mời sự cộng tác tham dự của nhiều dòng tu và tổ chức khác nhau ; Đóng góp xây dựng văn hóa và xã hội cho Việt Nam. 

1. Tổ chức công đồng xây dựng chương trình truyền giáo. Được bổ nhiệm rồi, hai tân giám mục, trước sau lần lượt lên đường đi nhận nhiệm sở. Vì tình hình cấm đạo ở Việt Nam, hai đức cha Pallu và Lambert đều dành phải lưu lại ở Ayuthia, thủ đô Thái Lan. Ở đây, hai đức cha, cùng với bốn linh mục thừa sai hiện diện lúc đó là các cha Deydier, Hainques, Brindeau và Laneau đã họp Công Ðồng Thừa Sai Hải Ngoại đầu tiên vào năm 1664, xác định những nguyên tắc và chương trình làm việc thừa sai. Năm hồ sơ đã được thảo luận và quyết định : một linh đạo tông đồ, một thứ hội đoàn tông đồ « Dòng Mến Thánh Giả », chỉ dẫn các thừa sai, cơ sở thường trực tại Ayuthia, trường sinh ngữ Đông Á và chủng viện thánh Giuse. Trong năm hồ sơ này, dưới khía cạnh chương trình truyền giáo, hồ sơ về « Chỉ dẫn các thừa sai » là quan trọng hơn cả, vì nó vạch ra một hướng đi cho việc truyền giáo, về 1- con đường tu đức, cuộc sống thánh hoá mà nhà thừa sai, người truyền giáo cần phải có ; 2- về việc giảng dậy cho lương dân và những cách thế phải dùng đến : giảng dậy bằng gương sáng, bằng bác ái, bằng khôn ngoan, bằng trung dung ; 3- và về việc tổ chức giáo hội, qua 3  khía cạnh : tổ chức giáo xứ, các thầy kẻ giảng và việc đào tạo linh mục bản xứ.

Sau Công Đồng Ayuthia 1664, nhiều công đồng khác đã được tổ chức, để định hướng và kiểm điểm công việc truyền giáo : Công Đồng Nam Định (Dinh Hiến) 1670, Công đồng Hội An I (Hải Phố) 1672, Hội An II (Hải Phố) 1682, CĐ Thợ Đúc Huế 1747, CĐ Bắc Kỳ 1753, CĐ Hà Nội 1795, Công Đồng Trung Việt 1803, CĐ Nam Kỳ Gò Thị 1841, CĐ Bùi Chu 1854, CĐ Nam Kỳ Sài Gòn 1880, CĐ Bắc Kỳ Kẻ Sặt 1900, CĐ Kẻ Sở 1912, CĐ Đông Dương 1934. 

2. Thành lập và tổ chức các giáo phận tông tòa ở Việt Nam. Như chúng ta đã biết, Vùng Đông Ấn là một vùng truyền giáo thuộc Bảo Trợ Bồ Đào Nha, theo đó giáo phận Goa đã được thành lập ngày 31/01/1533. Đàng Trong và Đàng Ngoài đều thuộc địa phận này. Từ ngày 04/02/1558, giáo phận Malacca được thành lập. Cả hai miền Việt Nam thuộc giáo phận mới. Ngày 23/01/1576, giáo phận mới Macau (Áo Môn) được thành lập. Đàng Ngoài thuộc giáo phận mới. Đàng Trong vẫn thuộc giáo phận Malacca. Cả ba giáo phận này đều là chính tòa và tùy thuộc qui chế Bảo Trợ Bồ Đào Nha.

Ngày 09.09.1659 Ðức Thánh Cha Alexandre VII ban sắc lệnh thiết lập 2 giáo phận truyền giáo đầu tiên tại Việt Nam : Ðức Cha François Pallu được bổ nhiệm làm Giám Quản Tông Tòa Đàng Ngoài, thêm quyền cai quản 5 tỉnh Vân Nam, Quí Châu, Hồ Nam, Hồ Bắc và Tứ Xuyên của Trung Quốc và nước Lào ; và Ðức Cha Pierre Lambert de la Motte được bổ nhiệm làm Giám Quản Tông Tòa Đàng Trong, thêm quyền cai quản các tỉnh Chiết Giang, Phúc Kiến, Quảng Đông, Quảng Tây và Đảo Hải Nam của Trung Quốc và gồm luôn cả Chiêm Thành.

Hai mươi năm sau, vào năm 1679, Giáo phận Đàng Ngoài (1659) được chia làm hai giáo phận mới : giáo phận Đông Đàng Ngoài (Hải Phòng) từ sông Hồng ra phía biển với tân Giám mục Deydier và giáo phận Tây Đàng Ngoài (Hà Nội), từ sông Hồng đến biên giới Lào, đặt dưới quyền của Giám mục J. de Bourges. Giáo phận thứ ba được thành lập : Hải Phòng. Thế kỷ XVIII không một địa phận mới nào đã được thành lập. Lý do chính yếu vì những cấm cản, bắt bớ, giết hại đã bắt đầu nghiêm trọng. Sang thế kỷ XIX, 6 giáo phận mới được thiết lập : Sài gòn (1844), Vinh (1846), Bùi Chu (1848), Huế (1850), Bắc Ninh (1883) và Hưng Hóa (1895). Rồi trong đầu thế kỷ XX, 8 giáo phận mới đã được thiết lập : Phát Diệm (1901), Thanh Hóa (1932), Kon Tum (1932), Thái Bình (1936), Vĩnh Long (1938), Lạng Sơn (1939), Cần Thơ (1955) và Nha Trang (1957). 

3. Thành lập chủng viện đào tạo hàng giáo sĩ việt nam. Một trong những sứ mệnh hàng đầu của hai giám mục tông tòa là đào tạo linh mục bản xứ. Bởi vậy, việc đầu tiên khi mới tới Thái Lan, Đức cha Lambert đã nghĩ đến chuyện lập chủng viện. Năm 1666, ngài đã xây cất cơ sở chủng viện thánh Giuse tại Ayuthia. Hai năm sau, năm 1668, Đức cha đã truyền chức linh mục cho hai vị việt nam đầu tiên Ðàng Trong : cha Giuse TRANG và cha Luca BỀN. Vài tháng sau cùng năm 1668 này, Ðức cha cũng đã truyền chức linh mục cho hai vị đến từ Ðàng Ngoài. Ðó là cha Gioan HUỆ và cha Bênêditô HIỀN. Cùng năm 1666, sau khi đã đến Đàng Ngoài gần ba tháng, ngày 04.11.1666, cha Deydier đã lập một chủng viện (nổi) đầu tiên trên đất Việt. Trong chuyến kinh lý Đàng Ngoài, 1669-1670, Đức cha Lambert đã truyền chức linh mục cho 7 vị mới trong chủng viện nổi này vào tháng giêng 1670. Đó là các cha : Mactinô MÁT(1670-1684), Giacôbê CHIÊU (1670-1683), Philiphê NHÂN (1670-1672), Antôn QUẾ (1670-1685), Simon KIÊN (1670-1684), Lêôn TRỤ (1670-1692), và Vitô TRI (1670-1705). Cũng dịp này, Ðức cha Lambert de la Motte đã ban các chức nhỏ cho 20 vị khác và phép cắt tóc cho khoảng 20 chủng sinh trẻ hơn. Hàng giáo sĩ Việt Nam đã thực sự được thành lập.

Sau đó, lần lượt các chùng viện khác đã được thành lập. Kiên Lao 1683, Lục Thủy 1686, Vĩnh Trị, Kỳ Lân, Trang Nứa 1691, Kẻ Lò 1697, Thợ Đúc 1740, Hòn Đất 1765, Cây Quao 1775, Mặc Bắc 1782, Lái Thiêu 1789, Dinh Cát 1782,… 

4. Lập dòng nữ Mến Thánh Giá. Cũng trong chuyến kinh lý Đàng Ngoài 1669-1670 này, ngày thứ tư lễ tro, 19.02.1670, Ðức cha nhận lời khấn của 2 nữ tu Mến Thánh Giá đầu tiên. Ðó là chị Agnès và chị Phaolô tại Phố Hiến, trên một chiếc thuyền neo tại sông Hồng, đối diện với làng Bái Vàng. Hai tu viện Mến Thánh Giá đầu tiên đã được thành lập ở xứ Ðàng Ngoài, một ở Kiên Lao, tỉnh Nam Ðịnh, nay thuộc địa phận Bùi Chu, một ở Bái Vàng, tỉnh Hà Nam, nay thuộc địa phận Hà Nội. Dòng Mến Thánh Giá đã được thành lập, mở đầu việc đào tạo tu sĩ tận hiến.

Từ cuối tháng 8/1671 đến tháng 3/1672, Ðức cha Lambert kinh lý Đàng Trong lần I và lập Hội Dòng Mến Thánh Giá ở An Chỉ, Quảng Ngãi. Cuối tháng 3/1672, ngài trở về Thái Lan. Ngài đã thực hiện một số công việc quan trọng, trong đó có việc thành lập Hội Dòng Mến Thánh Giá tại Ayuthia với bản luật như ở Việt Nam.

Dòng Mến Thánh Giá phát triển và tăng trưởng không ngừng, dẫu gặp rất nhiều khó khăn, đặc biệt trong thời cấm đạo, từ cuối thế kỷ XVII đến đầu XX.

Nhờ những cải tổ của Đức cha Louis de Cooman (Hành) trong những năm 20 và của Đức cha Phan-xi-cô Chaize (Thịnh) trong những năm 30 và 40, Dòng MTG Việt-nam dần dần đi vào nề nếp qui củ và phát triển mạnh. Hiện nay, trên toàn cõi Việt-nam, có 23 Hội Dòng, phục vụ trong 16 giáo phận. Cuối năm 2004, tổng số Nữ tu khấn trọn là 3.092 chị và khấn tạm là 1.428 chị. 

5. Huấn luyện đội ngũ cán bộ giáo dân ưu tú giúp việc truyền giáo cho lương dân và điều hành xứ đạo. Bên cạnh việc đào tạo linh mục bản xứ và việc lập dòng nữ Mến Thánh Giá, việc huấn luyện đội ngũ cán bộ giáo dân giúp việc truyền giáo là công việc mà các thừa sai đã rất quan tâm. Đội ngũ này gồm hai nhóm khác nhau : nhóm Thầy Giảng và nhóm Quý chức. Các thầy giảng là thành viên của Tu hội Thầy giảng, được thành lập ở Kẻ chợ ngày 27/04/1630 và ở Hội An ngày 31/07/1643. Thầy giảng, cộng tác viên kế cận của các linh mục « là những cộng tác viên và những thợ rao giảng tin mừng, phải trổi vượt kẻ khác về tính trung thực và chuyên cần ». Sống trong Nhà Đức Chúa Trời với các linh mục, các thầy giảng sẵn sàng thi hành mọi sứ mệnh mà linh mục trao phó : làm quản gia Nhà Đức Chúa Trời, đi mọi nơi mà linh mục sai phái để dạy giáo lý, ban phép rửa tội, an ủi kẻ liệt, chuẩn bị tuần làm phúc,…Tất cả 11 linh mục việt nam đầu tiên được thụ phong trong các năm 1668 và 1670 đều xuất thân từ thầy giảng mà lên.

Các Quý Chức là « người có hiểu biết giáo lý, có lòng đạo đức và có đời sống gương mẫu », được chọn từ những gia trưởng có học thức, có lòng nhiệt thành trong họ đạo, để đảm đương tất cả những gì không đòi hỏi phải có chức năng linh mục, hầu giúp đỡ các cha điều hành họ đạo và truyền giáo cho lương dân. Tùy số giáo dân đông ít khác nhau, các quý chức có thề từ vài đến dăm ba người trong các họ đạo. Được xác định do 3 Công Đồng Ayuthia 1664, Nam Định 1670 và Hội An 1672, qui chế Hội Đồng Quý Chức đã được cải tiến liên tục : năm 1884 với Đức cha Colombert, năm 1899 với Đức cha Pierre Marie Gendreau, năm 1900 và 1912 với Công Nghị Miền của các giáo phận Bắc Kỳ tại Hải Phòng và Kẻ Sở, và năm 1934 với Công Đồng Đông Dương.    

6. Tăng lượng và tăng phẩm giáo hữu, nhiều người dám chết vì đạo. Nhờ đã được đào tạo kỹ lưỡng và có nhiệt tình truyền giáo, các thừa sai hải ngoại Paris đã gặt hái nhiều kết quả tốt đẹp : số giáo dân tăng trưởng không ngừng. Vào năm 1659, Giáo Hội Việt Nam có 100.000 giáo dân. 300 năm sau, năm 1960, số giáo dân việt nam đã tăng lên 21 lần, đạt con số 2.096.540 tín hữu công giáo.

Nhưng niềm hãnh diện nhất của Giáo Hội Việt Nam là đức tin vững mạnh của tín hữu. Dòng dã trong 5 thế kỷ, từ thế kỷ XVI đến XX, rất nhiều lần giáo dân việt nam bị cấm cản, bắt bớ, giết hại vì đức tin. Dưới thời Trịnh Nguyễn và Tây Sơn, 30.000 tín hữu tử đạo ; Dưới thời ba vua nhà Nguyễn Minh Mạng, Thiệu Trị và Tự Đức, 40.000 tín hữu bị giết vì đạo ; Và với Phong trào Văn Thân, 60.000 tín hữu đã bị giết hại vì đức tin công giáo. Tổng cộng, 130.000 người tử vì đạo vì xưng và làm chứng cho đức tin. 

7. Mời sự tham dự đóng góp của nhiều dòng tu và tổ chức khác nhau. Trong thời Bảo Trợ, 1533-1659, các cha Dòng Tên là những thừa sai được biết đến nhiều hơn cả. Các ngài ở Việt nam từ 1615 đến 1802. Ngoài ra còn hai cha Daminh đến Quảng Nam năm 1580 và một phái đoàn dòng Phanxico đến An Quảng năm 1583.

Thời Tông Tòa, 1659-1960, các cha Thừa Sai Hải Ngoại Paris là những vị liên tục hơn cả, đông hơn cả, và đóng những vai trò chủ chốt hơn cả. Nhưng, trên cánh đồng truyền giáo mênh mông và rất phì nhiêu ở Việt Nam, các cha Thừa Sai Hải Ngoại đã ý thức được, ngay từ ban đầu, nhu cầu cần nhiều nhà truyền giáo. Năm 1671, khi đi kinh lý Đàng Trong lần I, Đc Lambert đã sai cha Bouchard sang Manila xin dòng Đaminh đến giúp việc truyền giáo. Ba năm sau, trên đường đi Đàng Ngoài, bị bão đánh dạt vào Phi luật Tân, Đức cha Pallu đã đích thân đến gặp các bề trên dòng Daminh ở đây sang Việt Nam cộng tác vào việc truyền giáo. Kết quả là từ năm 1676 các cha Đa Minh đã trở lại Việt Nam, đóng góp truyền giáo. Ngoài ra còn các cha dòng Phanxicô, trở lại Đàng Ngoài vào năm 1701, và Đàng Trong từ năm 1719, hoạt động rất khởi sắc với cha Jose Garcia.

Từ cuối thế kỷ XIX, khi cơn bách đạo nguôi đi, thì rất nhiều các dòng tu và tổ chức khác nhau đã đến Việt Nam, góp công vào việc truyền giáo. Nữ tu Thánh Phaolô 1860, Nữ Dan sĩ Carmel 1861, Sư Huyh Lasan 1866, Nữ tu Chúa Quan Phòng Portieux 1876, Nữ tử Đức Bà Truyền Giáo 1924, Chúa Cứu Thế 1925, Nữ tử Bác Ái Thánh Vicentê Phaolô 1928,

Không kể những dòng tu và tổ chức đến từ bên ngoài, nhiều dòng tu và tổ chức đã được thành lập ngay ở Việt Nam. Dòng Mến Thánh Giá 1670, Dòng Kín 1862, Dòng Xitô Phước Sơn 1920, dòng Sư Huynh Kitô Vua Cái Nhum 1924, Dòng Con Đức Mẹ Vô Nhiễm Phú Xuân 1931, Dòng Sư Huynh Thánh Giuse Nha Trang 1931,…

Trong « Giáo Hội Công Giáo Việt Nam, niên giám 2004 », người ta đếm được 90 tổ chức tu trì tại Việt Nam ; 29 cho nam giới và 61 cho nữ giới. 

8. Đóng góp xây dựng văn hóa và xã hội cho Việt Nam. Tiếp nối con đường hội nhập văn hóa mà cha Đắc Lộ đã vạch ra, các cha thừa sai hải ngoại Paris tiếp tục đóng góp rất nhiều vào việc xây dựng và phát triển văn hóa việt nam.

Trong lãnh vực văn học, nhiều sách nghiên cứu về ngôn ngữ việt nam, đặc biệt các tự điển đã được tiếp tục. Tự điển Việt Latinh của Pierre Pigneaux (1772), Latinh Việt của Jean-Louis Taberd (1838), Việt Latinh của Joseph Theurel (1877), Việt Pháp của Jean Génibrel (1898), Tự điển Việt Hoa Pháp của Gustave Hue,… Nhiều sách đạo bằng chữ nôm và chữ quốc ngữ đã được sáng tác, nhiều sách về văn hóa giáo dục bằng chữ quốc ngữ đã được sáng tác (10).

Trong lãnh vực chính trị kinh tế, một sự kiện lịch sử khác, dẫu không thuộc sứ mệnh của giáo hội, nhưng đã được một trong những giám mục thừa sai thực hiện, đó là việc Đức cha Bá Đa Lộc (1741-1799) đã giúp Nguyễn Vương lập nên Nhà Nguyễn và tham chính, làm Đại thần với chức Sư Phó. Ngài đích thân tham gia vào binh đoàn trong cuộc tấn công quân Tây Sơn tiến chiếm và bảo vệ thành Diên Khánh (Nha Trang), 1792-1794 (11).

Trong lãnh vực giáo dục, Nhiều trường đã được thiết lập, mà đầu tiên là các trường chủng viện đào tạo chủng sinh và linh mục đã được thành lập. Cha François Deydier đã lập « chủng viện nổi » ngay năm mới đến Việt Nam, 1666.  Tiếp theo đó, nhiều chủng viện khác đã được thành lập : Kiên lao, Kẻ Cốc (1683), Lục Thủy (1686), Kẻ Lò (1697), Lái Thiêu (1789),… Sau đó, là các trường học ngoài đời : tiểu học và trung học. Vào năm 1939, ở Đông Dương, người ta đếm được 1.783 trường công giáo, thâu nhận 121.172 học trò.

Trong lãnh vực xã hội, nhiều cơ sở từ thiện đã được thành lập : trường câm điếc Lái Thiêu lập năm 1866, trại phong Qui Hòa lập năm 1929, …Tiếp theo đó, nhiều cơ sở xã hội khác dần dà đã được giáo hội thành lập, cô nhi viện, bệnh xá, trại cùi, nhà hộ sinh, phòng phát thuốc,…   

LỜI KẾT 

Bốn đặc tính rất nổi đã định hình cho công cuộc truyền giáo trong Thời Kỳ Tông Tòa. Thứ nhất : Cách làm việc có phương pháp, một phương pháp dựa vào 4 giai đoạn : phác thảo chương trình, thực hiện, kiểm kê và cải tiến qua một chương trình mới. Thứ hai : Vâng lời Tông Tòa một cách hầu như tuyệt đối, nhờ vậy, ở địa phương có sự thống nhất lãnh đạo và tổ chức : Giám mục, linh mục, tu sĩ và giáo dân hành động như một khối nhất thể, không có chia rẽ. Thứ ba : cán bộ các cấp đều đã được huấn luyện và chọn lựa một cách kỹ lưỡng, cả về trình độ văn hóa, về khả năng chuyên môn và về tâm tình đạo đức, tạo được kết quả mong muốn và được kính nể. Thứ tư : Khả năng lãnh đạo và tổ chức cao, biết đưa ra những phương thức hành động hữu hiêu, như tổ chức Nhà Đức Chúa Trời, rất hợp với tâm tình gia đình Việt Nam và giúp các cán bộ Giám Mục và linh mục biết dấn thân cho nhà Chúa hơn là gia đình riêng của mình, gây được sự kính trọng và nhiệt thành của giáo dân. 

Kết quả là 300 năm sau, vào năm 1960, Giáo hội Việt Nam có 17 giáo phận, có 130.000 người tử vì đạo, có 23 giám mục, 1.914 linh mục, 5.789 tu sĩ, 1.530 đại và tiểu chủng sinh, có 2.096.540 tín hữu, trên tổng số 29.200.000 dân, chiếm tỷ số 7.17% dân số. Số giáo hữu tăng gấp 21 lần. Giáo Hội, dẫu không ngừng bị bách hại bởi chính quyền, đã tạo ra một nền văn học quốc ngữ mới cho Việt Nam, đã tham gia tích cực vào việc xây dựng và cải tiến văn hóa, giáo dục và xã hội cho Việt Nam.  

Thời TÔNG TÒA là giai đoạn dài nhất và quan trọng nhất trong lịch sử Truyền Giáo Việt Nam, đáng để ta dừng lại lâu hơn. Trong những bài sau, chúng ta sẽ lần lượt trở lại 8 công việc chính đã được thực hiện. Thêm vào 8 đề tài này, 3 đề tài khác cũng sẽ được đề cập thêm. Về hai Đức cha François Pallu và Pierre Lambert de la Motte, hai giám mục Tông tòa đầu tiên ở Việt Nam. Và về các thừa sai đã đến Nha Trang, là địa phận cuối cùng đã được thành lập trong thời Tông Tòa vào năm 1957, và cũng là một trong hai địa phận cuối cùng còn do các giám mục Thừa sai Hải Ngoại Paris điều hành vào năm 1960. Nói như vậy, chúng ta sẽ lần lượt xem qua lịch sử Truyền Giáo Thời Tông Tòa, qua những điểm sau đây :

·        Tổ chức công đồng xây dựng chương trình truyền giáo.

·        Thành lập và tổ chức các giáo phận tông tòa ở Việt Nam.

·        Thành lập chủng viện đào tạo hàng giáo sĩ việt nam. 

·        Lập dòng nữ Mến Thánh Giá.

·        Huấn luyện đội ngũ cán bộ giáo dân ưu tú giúp việc truyền giáo cho lương dân và điều hành xứ đạo.

·        Tăng lượng và tăng phẩm giáo hữu, nhiều người dám chết vì đạo.

·        Mời sự tham dự đóng góp của nhiều dòng tu và tổ chức khác nhau.

·        Đóng góp xây dựng văn hóa và xã hội cho Việt Nam

·        Đức cha François PALLU

·        Đức cha Pierre LAMBERT DE LA MOTTE

·        Các thừa sai Giáo phận NHA TRANG

Paris, ngày lễ thánh Thomas d’Aquin, 28/01/2010

Gs. Trần Văn Cảnh

VỀ MỤC LỤC
NGÀY XUÂN TẢN MẠN CHUYỆN CÚI ĐẦU

 

Xin bắt đầu bằng việc nói chuyện xưa một chút. Năm tốt nghiệp đại học tôi thất nghiệp, nhưng nhờ mấy truyện ngắn đăng báo, tôi được mời đi dự trại sáng tác Hội Nhà văn thành phố. Trong trại sáng tác năm ấy, tôi chỉ còn nhớ mỗi bài nói chuyện của tác giả Hương Rừng Cà Mau, nhà văn Sơn Nam. Ông bảo: “Văn hoá chúng ta ảnh hưởng Kytô giáo rất nhiều. Đan cử cái ghế dựa. Người Á đông ngồi trước mặt vua quan thì phải ngồi thẳng lưng nên ghế không có dựa. Kytô giáo dạy con người bình đẳng, cho nên đã ngồi ghế thì dựa người ra, không phải dựa thẳng đứng mà là ngã người ra sau”. Tôi nhớ Sơn Nam nhiều là vì thế. Mà Sơn Nam đã nói về văn hoá thì có ai dám phản đối.

Ngày đầu năm đi lễ minh niên với gia đình, tôi chú ý cha chủ tế cúi đầu rất sâu khi hát kinh Vinh Danh đến đoạn “Chúa Giêsu Kytô”. Tôi nhớ lời Thánh Phaolô: “Để khi nghe Danh Giêsu thì mọi loài trên Trời dưới đất và cả trong hoả ngục đều phải quỳ xuống mà thờ lạy Người”. Vậy mà nhiều người giáo dân lại không để ý.

Cũng thế, trong Thánh Lễ khi đọc Kinh Tin Kính đến đoạn nhắc về Mầu Nhiệm Nhập Thể: “Bởi phép Đức Chúa Thánh Thần…” thì giáo dân phải cúi mình, bởi vì con người phải ca ngợi thán phục và thờ lạy mầu nhiệm cao cả ấy, nhưng nhiều khi thấy giáo dân mình đọc mà không quan tâm cho lắm.

Vậy có gì trái ngược giữa sự bình đẳng mà giáo lý Công giáo đề cao với việc cúi mình thờ lạy Đấng Tối Cao? Không những chẳng có gì trái ngược, mà phải nói rằng chính sự cao sang của Thiên Chúa đã làm cho con người được nâng lên cao.

Những năm tháng theo học và nghiên cứu Học Thuyết Xã Hội Công Giáo với một nhóm anh em trí thức Công giáo đã giúp tôi nhớ thuộc lòng rằng “Giáo Hội nhìn thấy nơi mỗi người, nam cũng như nữ, hình ảnh sống động của chính Thiên Chúa. Hình ảnh này mỗi ngày được triển khai thêm một cách trọn vẹn và sâu sắc hơn nơi mầu nhiệm Đức Kitô, hình ảnh tuyệt hảo của Thiên Chúa, Đấng duy nhất đã mạc khải Thiên Chúa cho con người và mạc khải con người cho chính con người”.

Nói cách khác, Thiên Chúa cao sang mà con người phải cúi mình và quỳ gối thờ lạy ấy đã hoá thân làm người để con người vốn phải khom lưng uốn gối thì nay có thể đứng thẳng mà kêu lên rằng “Abba, Cha ơi.” Ôi sự bình đẳng lạ lùng quá.

Giữa Đấng Tạo Hoá cao cả quyền năng với con người tội lỗi đã có mối giao hảo kỳ diệu như thế, mà con người hèn kém với nhau lại cư xử y như chúa và tôi, nghĩa là làm sao? Gần đây xã hội Việt nam xôn xao tự hào vì có một chủ chăn uy dũng lên tiếng cho quyền con người, ấy là Đức Tổng Giám Mục Hà Nội Giuse Ngô Quang Kiệt. Ngài bảo tự do tôn giáo là cái đương nhiên, không phải chuyện xin cho. Nói cách khác, ngài muốn cho xã hội dân sự có một chỗ đứng xứng hợp với phẩm giá làm người.

Đức Tổng kính yêu muốn nói lên rằng con người có phẩm giá nên không cần chuyện xin xỏ. Tiếng Việt hay ở chỗ là hễ có xin là có xỏ. Anh xin tôi là tôi xỏ mũi anh. Xỏ rồi thì đứng hay ngồi hoặc quỳ thì cũng giống nhau. Nếu nhà văn Sơn Nam bảo văn hoá Việt ảnh hưởng bởi văn hoá Kytô giáo, sớm nhìn thấy bình đẳng, thì không ai có thể tin rằng chuyện xin-cho lại được đề nghị bởi chính người có đạo.

Nhưng mà thôi, không nói gì đến chuyện con người với nhau. Có nhiều điều phải nói về chuyện con người cúi đầu trước Thiên Chúa. Có khi người ta sẵn sàng quỳ gối trước mặt người đời mà lại e dè khi cúi mình trước Đấng Tối Cao. Người ta sẵn sàng quỳ xin chuyện này chuyện nọ, mà lại không chịu cúi đầu khi đọc đến Danh Thánh Đấng Cứu Thế hay không chịu cúi mình khi tuyên xưng mầu nhiệm Nhập Thể trong kinh Tin Kính.

Chuyện Thánh Giá Chúa bị những con người xấu xa, tay sai của quỷ hoả ngục đập phá làm cho thế giới rúng động. Khi anh vào nhà người ta đập cái cục gạch ở góc vườn, có thể anh cũng bị tóm và bị bắt đền bồi. Mấy vị giáo dân can trường đập bỏ vài viên gạch tường khu đất nhà Dòng cũng là của mình, cũng bị nhà cầm quyền bắt phải đền tiền triệu. Vậy mà người ta dám đập phá Thánh Giá cứu độ muôn dân. Kiêu ngạo và bất lương đến thế là cùng.

Lịch sử đã có những con người nói hăng, làm dữ để chống đối Đấng Tạo Hoá. Nhưng lịch sử cũng cho thấy những kẻ ngạo mạn ấy chết thê thảm trước khi đụng đến Thánh Giá Chúa uy quyền. Có điều lạ là ở Việt nam có những kẻ “làm nên lịch sử” cho hoả ngục. Satan ghi vào cuốn “Sa triều lịch sử biên niên” rằng vào năm thứ hai ngàn lẻ mấy… sau khi Herôđê băng hà, có người tên là Nguyễn X, Phạm Y… đã hung hãn đập  nát Thánh Giá của Giêsu” (nhưng khi ghi và đọc đến Danh Thánh Chúa Giêsu, toàn thể hoả ngục phải quỳ xuống thờ lạy).

Chuyện đó chưa phải là lạ lùng. Chuyện lạ là có nhiều người không nhận ra rằng đập phá Thánh Giá Chúa là tội ác ghê rợn nhất của lịch sử loài người. Các vua quan triều Nguyễn chỉ nghĩ đến chuyện quá khoá, bắt người có đạo bước qua Thánh Giá là ghê lắm rồi. Các ông ấy còn lương tri để nhận ra rằng “đập phá Thánh giá chính là xây nhà cho tử thần”.

Vậy mà nhiều người còn cả nghĩ “ấy là chuyện đất đai, là tranh chấp dân sự”. Khi người ta nhào vô nhà anh, đánh cha mẹ anh tan nát, anh vẫn bảo là chuyện tranh chấp dân sự, thì thiên hạ nghĩ gì về anh? Người ta đánh cả bố mẹ anh, anh lại ngồi suy tư “nói hay im”, thì dù lý luận có hay thuộc loại “kim khẩu” thì cũng là lý cùn mà thôi.

Khi kẻ lạ mặt nhảy vào chuồng chiên đánh cho chiên tan nát, anh ngồi đó mà lý luận “đây là tranh chấp hay là chanh muối” thì người ta đã uống hết nước của dòng sông êm đềm rồi. Nhiều người không chịu cúi đầu khi tuyên xưng Danh Chúa, mà thích cúi đầu để được ai đó nhoẻn miệng với mình.

“Phúc cho các ngươi khi bị bắt bớ bách hại vì Danh Thầy”, Lời Chúa của ngày minh niên nhắc cho con cái Ngài nhớ rằng không phải phúc là cười cợt là bắt tay, mà phúc là bị lên án xỉ vả. Tại sao lại ngược đời thế? Lý luận thần học thì cao sâu, nhưng nếu dùng hình ảnh đơn giản diễn tả thì thấy Chúa Giêsu giảng bằng những câu chuyện rất gần gũi. Khi người ta bắt cha mẹ mình, thì đứa con vỗ tay cười là vô phúc, đứa con buồn bã để người ta trói tay vì muốn ở bên cha mẹ là đứa con có phúc. Đứa con cúi đầu thần phục kẻ giết cha mẹ mình là đứa vô lại, nhưng đứa con ngẩng đầu lên và can đảm làm chứng rằng cha mẹ tôi vô tội, ấy là đứa con có phúc.

Nhà văn Sơn Nam đã đi xa. Có lẽ trước Toà Chúa ông vui vì đã từng nói lên tiếng nói của văn hoá Công giáo dù ông không Công giáo. Cuộc đời người Kytô hữu xét cho cùng là cuộc đời của con người được bình đẳng với nhau vì cùng được Thiên Chúa nâng lên cao và cùng hướng về siêu việt. Khi biết ơn Đấng đã đưa mình lên, thì việc cúi đầu trước Ngài là hành vi tri ân và khiêm hạ.

Ngày Xuân chúng con xin được cúi mình trước Thánh Giá Chúa. Chúng con cúi mình ăn năn vì chính chúng con đã làm Chúa phải chịu treo lên Thánh giá. Nhưng chúng con cũng vui mừng cảm tạ Chúa vì nhờ Thánh Giá Chúa mà chúng con được kéo lên cùng Chúa. Xin cho chúng con ngẩng đầu chờ ngày Chúa vinh hiển quang lâm.

Gioan Lê Quang Vinh

 

    MỨT ĐẮNG

 

Này này anh ăn Tết có vui không?

Câu hỏi lạ, đã là vui như Tết

Sao còn hỏi Tết đến vui hay buồn

Ừ thì Tết, nhưng ngày vui ngày buồn, thấm mệt.

 

Ngước nhìn lên, Thánh Giá Người còn đổ sập,

Mở e-mail, đọc tin muốn khóc đất lành.

Có những người đi dáng người như cúi rạp

(Lợi mà chi, danh mà chi rồi cũng vút qua nhanh).

 

Tết dân nghèo chìa tay nơi phố chợ

Tết quyền uy chớp nháy những ánh đèn

Tết suy tư mắt buồn người mục tử

Tết hả hê kẻ được mướn chăn chiên.

 

Miếng mứt đường bỗng thành chua và rất đắng.

Như những lời “đối thoại” được bọc nhung.

Hạt dưa nhạt màu không ai buồn cắn.

Bánh chưng dày biết có phải “nhân trung”?

 

Mồng bốn Tết ăn chay dọn lòng mùa cứu độ.

Màn nhà thờ như được xé làm đôi.

Chia nỗi đau cùng dân thánh của Người.

Mùa chay đến trước rồi, từ những ngày thống khổ.

 

Rồi cũng qua những ngày xuân mai nở

Hoa mai vàng rụng xuống khóc ven đường.

Nếu ngày mai Giuđa hiên ngang vào hôn chủ

Biết ai còn vội tuốt những thanh gươm?

 

Chúa dạy con “Hãy tra gươm vào vỏ”,

Nhưng cũng rằng “Hãy đứng dậy ngẩng lên”.

Đường bình an đi lên từ gian khổ,

Khắc ghi Lời “Ai vì Ta mà thân ấy dám quên”. 

 

Gioan Vinh

VỀ MỤC LỤC
NẺO ĐƯỜNG HỒN NHIÊN CỦA TIN MỪNG (9):  TRẢI NGHIỆM CHAY LẠT CỦA MỘT LINH MỤC
 

Xin cảm ơn những bạn đọc đã gửi thư bày tỏ đồng cảm về nẻo đường chay lạt. Mùng 4 Tết, Lễ Tro, Mùa Chay của Năm Thánh 2010 khởi đầu. Tôi xin được tiếp nối câu chuyện bằng trải nghiệm của chính mình.

Cái khó của tôi là làm sao có thể theo đuổi thực đơn chay khi hằng ngày phải dùng cơm chung với cộng đoàn. Khoảng năm 1985, tôi đang sống với anh em Don Bosco Đà Lạt, dịp may đã đến. Một số anh em rủ nhau “vô thất”, tuyệt thực theo tân dưỡng sinh Osawa – 7 ngày, 14 ngày, 21 ngày. Ba bốn nhóm, tổng cộng trên mười người, trong đó có tôi. Sau khi nhịn đói, mỗi người phải dùng gạo lứt muối mè với thời gian dài hơn số ngày đã nhịn ăn. Quan niệm dưỡng sinh Osawa được cả cộng đoàn trân trọng. Sau “phong trào” ấy, tôi có thể ăn chay mà không sợ bị tiếng là lập dị. Tôi không xin nhà bếp nấu riêng. Tôi chấp nhận một giới hạn: dùng chung thức ăn với anh em nhưng không gắp thịt cá.

Cuối năm 1996, về Sài Gòn sống chung với các sinh viên dự tu Dòng Cát Minh Về Nguồn, trong nhà chỉ có mấy người, tự nấu ăn với nhau, tôi có thể theo thực đơn chay cách triệt để hơn. Có chút đáng trách là tôi đã vô tình khiến một số bạn trẻ ngộ nhận không dám vào Dòng, tưởng rằng vào Dòng này phải ăn chay trường. Năm 2000, sang Tây Ban Nha, vào Nhà Tập Dòng Cát Minh, tôi đã xin và cha Tập sư đã đồng ý cho tôi ăn chay trường: “Anh có thể tùy ý chọn những gì được dọn ra trong nhà cơm, trên bàn ăn cũng như nơi bàn phục vụ, nhưng không được tự tiện lục tủ lạnh”. May mắn, thầy già Domingo phụ trách nhà bếp đã biết ý nên luôn dọn đủ các loại rau quả và phó mát ở bàn phục vụ, còn trên bàn ăn lúc nào cũng có dầu ôliu. Có một đồng bạn phản đối, sợ tôi không đủ sức khỏe, nhưng tôi bảo anh ta: “Bạn thấy đó, các bạn vào phòng ăn phải cầm theo thuốc, còn tôi thì không” – và anh ta thua! Thời gian học viện tại Philppines, tình cảnh dễ hơn. Trước khi tôi đến cộng đoàn, cha Thomas Martin, người Mỹ, đã dùng thực đơn vegeterian. Tôi chỉ đơn giản là đệ tử của ngài (đồng thời ngài cũng là cha giáo tập của tôi). Vào nhà cơm, hai cha con chúng tôi mỗi người nhận được một tô rau quả còn sống, những gì cần hấp chín thì chúng tôi cho vào lò vi ba. Cuối năm 2005 tôi bị đau nhức nặng. Lúc đầu bác sĩ chẩn đoán tôi bị bệnh gút. Một số anh em trong nhà kết luận vì tôi dùng nhiều đậu nành khiến lượng acid uric tăng cao. Để khỏi phụ lòng cộng đoàn, tôi chấp nhận ăn lại thịt cá. Thế nhưng cuối năm 2006, thực đơn chay tôi được minh oan. Một bác sĩ khác chứng minh rõ rằng tôi chỉ bị đa khớp thấp chứ không bị bệnh gút và chỉ cần kiêng những gì mình không thích. Thế là tôi được quyền quay về với thực đơn chay.

Bây giờ tôi ở nhà hưu dưỡng linh mục tại Qui Nhơn. Khi ăn cơm khách, khi dùng bữa chung với anh em, tôi ăn những gì người ta dọn để không gây phiền cho ai (Để mưu tìm ơn cứu rỗi cho những người tâm trai thiện chí khắp nơi, phải sống chan hòa với anh em đồng đạo bên cạnh mình trước đã). Còn khi dùng cơm riêng, tôi dần dần thuyết phục nhà bếp loại bỏ thịt và cá ra khỏi bữa ăn của tôi. Có một điều lạ: với người đời, khi tôi ngỏ ý dùng thực đơn chay thì được vui vẻ chấp thuận ngay, còn với các nữ tu, thuyết phục cho được rất khó. Có vẻ như phần đông các nữ tu lo cơm nước cho khách vẫn nghĩ rằng phải là thịt cá mới bổ dưỡng (và mới là trọng khách) còn rau quả thì không. Họ có ngờ đâu với những người xác tín thực đơn chay thì không gì chán ngán cho bằng nhìn thấy thịt, cá, tôm, cua! Chỉ một số cộng đoàn thân quen, coi tôi như người nhà, vui vẻ dọn cho tôi rau quả, đậu phụ, tương chao và nấm…

Vừa qua có những bài báo nhấn mạnh rằng việc truyền giáo tại Việt Nam ít kết quả và nêu lên những nguyên do. Với kinh nghiệm riêng, có thể chủ quan chăng, tôi nghĩ có hai điều sẽ đem lại kết quả lớn: Nhiệt tình truyền giáo của người tông đồ và kinh nghiệm chay lạt. Hồi trước tôi chỉ biết làm thơ mới. Khi làm linh mục rồi, dấn thân truyền giáo, gặp một số vị cao niên thích thơ Đường, tôi học làm thơ Đường để xướng họa với họ và dần dần nói cho họ nghe về Chúa. Khi bị bệnh khớp rồi được lành, chạy bộ ở bờ biển, tôi nói chuyện với những người đang tập đi về vật lý trị liệu. Đã tha thiết muốn chia sẻ Tin Mừng thì chuyện gì cũng có thể thành nhịp cầu, tuy nhiên mỗi lần chia sẻ bắt đầu từ kinh nghiệm chay lạt với những người ăn chay, bao giờ tôi cũng được đón nhận nồng nhiệt, và từ chuyện chay bắt sang chuyện đạo thật hồn nhiên. Tôi ăn chay lạt để tự nhắc mình nhớ đến ơn cứu rỗi của một lớp rất đông những người ăn chay lạt trên đất nước này và nhiều nơi khác tại châu Á…

Trong thời gian bị kìm chân vì bệnh khớp, khi cầm đũa gắp cọng rau miếng đậu, tôi thường có một cảm giác êm đềm. Không còn được rong ruổi như Phanxicô Xaviê cũng chẳng được chôn mình trong cõi vắng như Têrêxa Hài Đồng Giêsu, cũng chẳng sao, tôi vẫn có thể góp phần truyền giáo cách bình thường lặng lẽ, hướng về những người đang cần ơn cứu rỗi trong tâm tình tạ ơn và khẩn nguyện của phút tâm trai. Và lòng lại dâng lên một khát khao mãnh liệt: phải chi ngày càng có nhiều chủng sinh, đệ tử, nam nữ tu sĩ và linh mục Công giáo cụ thể hóa lời nguyện truyền giáo bằng phát nguyện tâm trai đồng cảm với anh chị em phương Đông, mỗi tuần một ngày chẳng hạn. Chắc hẳn mùa gặt sẽ bội thu thấy rõ. Rồi lại theo một ước vọng khác: ước chi rồi sẽ có một thư mục vụ của Hội Đồng Giám Mục mời gọi tự nguyện ăn chay theo phương Đông! Tại sao lại không? Phải chăng vì quên nhấn mạnh lời mời gọi tự nguyện của Tân Ước, khoa giáo lý Công giáo đã vô tình đẩy tín hữu vào não trạng tiêu cực, loay hoay mãi với câu hỏi cái gì được phép, cái gì không, và vì thế khó vươn lên được những tầm cao trưởng thành? Khi phát nguyện ăn chay, người phương Đông chẳng vướng mắc gì với chuyện “bị cấm” hoặc “tội nặng” nhưng họ chỉ tự nguyện, tự răn, tự cấm lấy mình. Biết đâu nhờ phát huy tâm tình tự nguyện này mà Trưởng Nữ của Giáo Hội tại châu Á có thể góp phần tích cực vào việc phục hưng Giáo Hội tại Âu Mỹ!...

Tôi nghĩ vấn đề nghiêm túc lắm. Khi nâng bánh rượu lên hiến thánh thành thịt máu Chúa, tôi hình dung thấy Thiên Chúa Tân Ước là Thiên Chúa của chay lạt. Giữa những tháng ngày rao giảng, vị Chúa làm người đã hòa mình với đám đông tội nhân, ăn uống như họ, đến độ bị mang tiếng là “tay ăn nhậu” (Mt 11,19). Thế nhưng Ngài đã vào bằng cửa của chúng ta và ra bằng cửa của Ngài. Trong bữa ăn thịt chiên Vượt Qua cuối đời, Ngài mở trang sử mới. Dấu chỉ của bí tích không phải thịt cá mà là bánh và rượu. Ngài tự nguyện nộp mình và đổ máu cho người người được ơn tha tội và, cùng lúc, chấm dứt việc đổ máu những con vật vô tội theo nghi lễ Cựu Ước.

Hơn kém nửa thế kỷ qua, Cha Maria Maximô Đỗ Chính Thống ở đan viện Xitô Vũng Tàu, đã đi đầu trong kinh nghiệm trường trai. Rải rác đây kia hẳn vẫn có những người theo bước chân ngài, tu sĩ cũng như giáo dân. Có điều là, như lời chia sẻ của chị Đông A, giữa hàng trăm người đi qua kinh nghiệm này, chưa chắc đã có một người mạnh dạn viết lên kinh nghiệm. Cũng chính vì thế, tôi ước mong được nói lên tiếng nói của một số người thầm lặng. Và vui sao, một câu lạc bộ để chia sẻ kinh nghiệm về chay lạt Công giáo đang từng bước thành hình.  

Linh mục TRĂNG THẬP TỰ

gopnhattho@yahoo.com

 
VỀ MỤC LỤC
CHÚT NIỀM VUI CỦA NHỮNG MẢNH ĐỜI MONG MANH

 

Sống trên đời ai cũng mong cho mình có được niềm vui dù niềm vui ấy lớn hay niềm vui nhỏ. Người nào có niềm vui và khi niềm vui mà mình có thì niềm vui ấy sẽ nhân đôi, nhân ba và nhân nhiều nhiều thêm nữa.

Niềm vui, ít nhiều gì ai cũng có cả nhưng chuyện quan trọng là có sẻ chia, có phân phát hay không mới là điều quan trọng. Có những người có niềm vui to, niềm vui lớn ấy nhưng lại cứ khư khư giữ cho riêng mình. Và ngược lại, có những người nghèo, có những người nhỏ bé nhưng lại biết cho đi, biết chia sẻ.  

Sáng hôm nay, ngày giáp Tết, một chút niềm vui được chia sẻ từ nhiều tấm lòng bé nhỏ. Những tấm lòng ấy là tấm lòng của Hội Compassion - Vietnam, trong đó có bác sĩ Phan Minh Hiển (Paris) - người “khuấy động” chương trình, là tấm lòng của vị sư trụ trì ngôi chùa nhỏ bé Liên Trì nằm ở góc đường Lương Định Của, là tấm lòng của những phật tử quen biết với vị sư trụ trì Chùa … Khuôn viên, diện tích của nhà Chùa nhỏ thật nhưng lòng của nhà Chùa cũng như những vị sư ở đây thật lớn. Dẫu nhỏ bé, dẫu còn nghèo nhưng cảm được niềm vui mà mình có nên hôm nay Thầy trụ trì cùng các thầy trong Chùa và những tấm lòng nhỏ bé, thiện nguyện đã chung chia niềm vui ấy.

Niềm vui của nhà Chùa vẫn thường chia sẻ với những người nghèo, bất hạnh. Hôm nay niềm vui ấy cách riêng được gửi đến những bệnh nhi ung bướu và thương phế binh.

Với những người lành lặn, với những người khá giả thì một con gấu bông, một hộp mức và một phong thư lì xì chẳng là gì cả nhưng với những mảnh đời mong manh như các em bệnh ung bướu hay của các thương phế binh thì thật là lớn.

Từ sáng sớm, các em nhỏ được cha mẹ dắt díu nhau tự mãi trung tâm Ung Bướu ngược về ngôi chùa nhỏ ở quận 2. Không phải “hành” những mảnh đời tất tưởi nhưng vì hoàn cảnh éo le. Nhà Chùa đã nhiều lần vào tận trung tâm ung bướu chia sẻ niềm vui nhưng rồi phát trong “ấy” nó làm sao ấy để rồi còn giải pháp duy nhất là về Chùa. Giá như mà “người ta” tạo điều kiện thuận lợi cho người chia sẻ thì cả bệnh nhân và người sẻ chia ấy vơi đi phần mệt nhọc. “Người ta” đâu có ở trong nỗi đau, trong sự thiếu thốn nên đâu hiểu sự chia sẻ, sự cho đi là gì.

Nghĩ đến chuyện này cũng buồn cười ! Đi cho mà cũng phải vất vả ! Người ta đa phần muốn đứng ra lãnh lại cái phần cho nhưng thường thì người cho không chịu vì kinh nghiệm cho thấy khi đến tay người nhận còn chẳng được là bao. Thôi thì vất vả một chút nhưng phần quà, phần tiền đến tận tay các cháu là được rồi.

Đồng hồ chỉ con số 9 giờ, như đã “hò hẹn”, hoà thượng Thích Không Tánh bắt đầu chương trình vui Xuân cho các em bệnh nhi. Trẻ con vốn dĩ nhỏ bé nay mang trong mình chứng bệnh ung thư trông tiều tuỵ hơn nữa. Hầu như các em hình như chưa sống ở nhà chùa ngày nào nhưng đầu chẳng còn chút tóc do ảnh hưởng của những đợt thuốc hoá trị trong cơ thể các em. Tội nghiệp nhất là có những em đã bị biến chứng mắt bị kéo lệch một bên. Cũng thương lắm khi chìa tay ra nhận quà mà trên tay của bé còn cả miếng băng keo kẹp ống dẫn để cho y bác sĩ dễ tiêm thuốc !!!  

Về phần quà thì những ai đi làm từ thiện chắc cũng chẳng thấy làm lạ. Chuyện xảy ra “thường ngày ở huyện” đó là phần quà chuẩn bị được gói ghém ở mức chưa đến 200 ấy vậy mà khi “xuất đầu lộ diện” chẳng hiểu sao nó lại lên đến 350. Chẳng lẽ để kẻ có người không ra về trong buồn bã, Thầy Không Tánh đã phải “bỏ tiền túi” cũng như tấm lòng đại từ bi hỉ xả của Thầy để chia vui cho các em.

Một cụ già ở cái độ tuổi “thất thập cổ lai hy” như thầy Thích Không Tánh đóng vai trò MC thì đủ hiểu cái mệt, cái nhọc nó lên đến mức nào. Chánh điện thật nhỏ bé nhưng lại “ôm trọn” mấy trăm con người đã tăng thêm phần mệt mỏi. Ai cũng thương cho thầy già nhưng ngược lại, thầy già lại lo cho các em. Hình như hôm nay thầy không biết mệt thì phải. Thầy đã quên đi cái mệt khi nhìn thấy các em được vui.

Quà hết mà tiền cũng chẳng còn. Sau khi nhận lời chúc Xuân của Thầy trụ trì chùa, cha mẹ và các em lại lục tục kéo nhau về “tổ ấm” nơi góc phòng chật hẹp ở trung tâm Ung Bướu. Niềm vui của phần quà nho nhỏ nhưng cũng một chút gì đó mang lại niềm vui cho những mảnh đời bất hạnh. Chỉ có ai ở trong hoàn cảnh bệnh tật của các em thì mới hiểu nỗi đau do chứng bệnh ung thư hành hạ là dường nào.

Những ai có người thân, người quen mắc phải chứng bệnh ung thư thì mới hiểu nỗi đau là gì. Với chứng bệnh quái ác này có chăng kéo dài được đôi ba tháng hoặc dăm ba năm chứ không được hơn nữa. Và, trong đôi ba tháng dăm ba năm ấy bệnh nhân phải gánh chịu biết bao nhiêu đau đớn hành hạ do chứng bệnh cay nghiệt này. Vì vậy, với những bệnh nhân ung thư thôi thì ngày nào vui được bao nhiêu thì hay bấy nhiêu thôi.

Cuộc vui nào rồi cũng phải đến lúc chia tay. Sau những giờ phút vất vả để chia sẻ thì hầu như kẻ nhận cũng như người phát cũng mệt nhưng hình như cái mệt ấy được bù đắp bằng nụ cười sẻ chia. Nụ cười ấy hôm nay nở rạng hơn vì ít là Tết năm nay vui với con gấu bông trên tay với hộp mức và một khoảng tiền nho nhỏ để bù lại những gì là thiệt thòi, là mất mát nơi những phận đời nghiệt ngã.

Ước gì có nhiều và nhiều tấm lòng của Hội Compassion - Vietnam cứ tiếp tục, cứ tiếp tục góp một chút gì đó để làm vơi đi nỗi đau của chứng bệnh ung thư nơi trẻ thơ. Ước gì, ước gì có nhiều và nhiều tấm lòng nữa góp phần nhỏ để lan toả tình Chúa – tình Phật – tình người nơi những mảnh đời nhỏ bé mong manh.

Lm. Anmai, C.Ss.R.

VỀ MỤC LỤC
CỨU CÁNH TỐT CÓ BIỆN MINH CHO PHƯƠNG TIỆN XẤU KHÔNG ?

 

Hỏi: xin cha giải thích : có được phép dùng mọi phương tiện để làm việc bác ái, hay bảo vệ sự sống không?

Trả lời: Nhiều người nghĩ rằng để đạt mục đích (cứu cánh) tốt, có thể xử dụng mọi phượng tiện cần thiết.Thí dụ, đi casino đánh bạc để lấy tiền giúp trẻ em nghèo hay xây nhà thờ, giúp Dòng Tu , xây trường học v.v

Thực tế, có những người  mở tiệm  bán sách báo, phim ảnh dâm ô, buôn bán ma túy , hàng lậu  hoặc trồng cây thuốc phiện dưới nhãn hiệu “trồng và tưới cỏ” để làm giầu nhanh chóng. Và  để được an tâm về những việc làm ăn thiều lương thiện và phi pháp của mình, nhiều  người đã  mang dâng cúng cho nhà thờ hay giúp các linh mục , các nữ  tu những món tiền lớn hy vọng sẽ được công phúc, bù vào việc làm ăn không chính đáng của mình.

Mặt khác, cũng có những người vì chống  tội ác phá thai, giết hại thai nhi, nên đã nổi giận muốn đạp phá những nơi hành nghề phá thai hay  tịm giết các bác sĩ hay y tá hành nghề  này, như đã xẩy ra mới đây ở Florida, nơi môt bác sĩ phá thai  đã bị bắn chết.

Đứng về mặt luân lý , dựa trên giáo lý của Giáo Hội Công Giáo, chúng ta nghĩ thể nào về những sự kiện kể trên đây:?

Trước hết phải nói ngay rằng, về phương diện luân lý, đaọ đức, thì  mục đích tối hậu (cứu cánh) muốn đạt được, cho dù tốt đẹp đến đâu cũng không thể biện minh (Justify) cho những phương tiện mà bản chất không không thể chấp nhận được về mặt luân lý (morally unacceptable). Thí dụ, không thể ăn cắp tiền của người khác để làm việc bác ái, như giúp xây nhà thờ, trường học, cô nhi viện.v.v. Cũng vậy, không thể cờ bác, đỏ đen,nhất là mở tiệm bán những sách báo, phim ảnh dâm ô để lấy tiền cho các công tác từ thiện. Mục đích ở đây thì tốt nhưng phương tiện lại  quá xấu, trái với luân lý đạp đức.(x SGLGHCG,số 2413)

Thật vậy, những ai tiếp tay cho những kẻ khai thác kỹ nghệ dâm ô bằng cách bầy bán những sản phẩm vô luân ,làm cớ cho người khác sa ngã cần đọc lời cảnh cáo sau đây của chính Chúa Giê su:

  “ Không thể không có những cớ làm cho người ta vấp ngã;  nhưng khốn cho kẻ làm cớ cho người ta vấp ngã.Thà buộc cối  đá lớn vào cổ nó và xô xuống biển, còn lợi cho nó hơn là để nó làm cớ cho một trong những kẻ bé nhỏ này vấp ngã.” ( Lc 17: 1-2)

Như thế có nghĩa là nguyên việc buôn bán những sản phẩm dâm ô là đã phạm tội mà Chúa Giêsu đã cảnh cáo trên đây.

Do đó  dù có dùng tiền kiếm được nhờ dich vụ phi luân này để giúp bao nhiêu cho  nhà thờ, chủng viện , Dòng tu  v.v thì cũng không thể biện minh được cho tội  làm “cớ cho người ta vấp ngã” vì  đã  tiếp tay với những kẻ sống  và làm giầu bằng  nghề vô luân là  khai thác dâm ô qua  sách báo, phim ảnh hiện nay.

Cũng được kể vào tội làm cớ cho kẻ khác vấp ngã là việc sản xuất và buôn bán các loại ma túy, (narcostics, marijuana) , các loại thuốc ngừa và phá thai nhất là dich vụ “ buôn bán phụ nữ” dưới chiêu bài “môi giới hôn nhân nước ngoài” rất thinh hành hiện  nay ở ViệtNam.. Các dịch vụ này tự bản chất là phi  luân và vô đạo. Cho nên, những  người kiếm được nhiều tiền nhờ làm các dich  này  dù có dâng cúng  bao nhiêu cho các tổ chức  bác ái để  giúp nuội trẻ mồ côi, người già, người bệnh  hoặc giúp các linh mục, nữ tu đang cần tiền để xây nhà thờ , nhà tu v.v  thì cũng không thể biện minh hay “xí xóa” được tội tiếp tay đưa người khác vào vòng sa đọa , tội lỗi vì hậu quả kinh doanh phi luân của mình.

Và người – hay tổ chức -  được dâng cúng tiền bạc,  nếu biết rõ  xuất xứ của loại  “tiền nhơ bẩn này” thì,  vì lương tâm đạo đức,  cũng không nên nhận, dù nó  hậu hĩ đến đâu , và dù cho nhu cầu cần tiền của mình có cấp bách  thế nào chăng nữa , thì cũng không thể nhắm mắt  mà nhận những số tiền quá  “nhơ nhuốc đó”, vì nó xuất phát từ những phương tiên vô luân, vô đạo  nên không thể biện minh cho mục đích tốt là từ thiện và bác ái  được..

Sau hết, liên quan đến tội phá thai, tội giệt chủng, (genocide)  tội kỳ thị chủng tộc, Giáo Hội lên án những tội này vì nó xúc phạm năng nề Thiên Chúa là nguồn mạch của  sự sống, sự thiện và công lý. Cho nên, phá phai hay tiếp tay vào việc này là một trọng tội.

Những người  tham gia vào việc này có kết quả nghĩa là giết chết thai nhi sẽ tức khắc bị vạ tuyệt thông tiền kết. ( x giáo luật số 1398).

Nhưng  không thể vì muốn bảo vệ sự sống (pro-life) chống phá thai mà được phép hãm hại hay giết người giúp phá thai như đã sẩy ra một đôi lần ở Mỹ. Nghĩa là mục đích bảo vệ sự sống không biện minh được cho phương tiện giết người giúp phá thai

Vì sự sống thuộc về một mình Thiên Chúa là nguồn phát sinh và kết thúc mà thôi. Đối với những kẻ làm sự dữ như giết người thì việc báo thù là thuộc quyền Thiên Chúa như Người đã phán qua miêng ông Mô sê như sau :

                          “ Chính Ta sẽ  báo thù và đáp trả

                         Vào lúc mà chân  chúng lảo đảo té xiêu

                          Vì ngày chúng lâm nạn đã  gần

                          Và vận hạn chúng đang sầm sập tới.” ( Đnl 32:35)

Khi xuống trần gian rao giảng Tin Mừng Cứu Độ, Chúa Giêsu cũng dạy phải yêu thương và cầu nguyện cho cả kẻ thù, cho kẻ bách hại mình , thay vì thù ghét  hoặc tìm  cách báo thù người nào::

anh  em đã nghe Luật dạy rằng : Hãy yêu đồng loại và hãy ghét kẻ thù. Còn Thầy, Thầy bảo anh  em: hãy yêu kể thù và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi anh  em.” ( Mt 5:43-44)

Do đó, không thể vì mục đích tôt là bảo vệ sự sống mà được phép làm điều xấu ,hay sự dữ là trả thù hay giết hại ai.

Đối với những người coi thường Thiên Chúa và làm sự dữ, sự tội  thì họ phải chịu trách nhiệm trước Thiên Chúa là Vị Thẩm Phán chí công vô tư.  Và qua luật pháp của xã hội loài người, Thiên Chúa sẽ trừng phạt những kẻ gian ác như Thánh Phaolô nói rõ  sau đây:

 “ Vì chánh quyền là người thừa hành của Thiên Chúa sẽ giúp bạn làm điều thiện; Nhưng nếu bạn làm điều ác thì hãy sợ, vì họ mang gươm không phải không có lý do. Thật vậy, họ là người thừa hành của Thiên Chúa để  giáng cơn thịnh nộ của Người xuống kẻ làm điều ác.” ( Rm 13:4)

Tóm lại, là người tín hữu Chúa Kitô, chúng ta phải sống sao cho phù hợp với đức tin Công Giáo. Nghĩa là phải  tuân giữ Luật của Chúa và những gì Giáo Hội dạy bảo đặc biệt trong hai phạm vị tín lý (dogma) và luân lý (moral) để làm chứng nhân cho Chúa Kitô trong trần thế này.

LM Phanxicô Xaviê Ngô Tôn Huấn
 

VỀ MỤC LỤC
CÁM DỖ VÀ PHẠM TỘI
 

Anh em hãy canh thức và cầu nguyện, để khỏi lâm vào cơn cám dỗ. Vì tinh thần thì hăng say, nhưng thể xác lại yếu hèn."(Mt. 26:41)

Truyện kể vào một đêm nọ, có một nhóm cướp đã đột nhập vào một tiệm vàng. Nhưng thay vì ăn cướp tất cả vàng bạc châu báu trong tiệm, chúng chỉ đơn giản tráo đổi tất cả các bảng giá của các món hàng. Ngày hôm sau, mọi người đến, không thể định lượng được giá trị của các món hàng trong tiệm. Những món mắc tiền và có giá trị, bây giờ trở nên rẻ mạt. Những món hàng rẻ, bây giờ có bảng giá đắt tiền. Khách hàng lo lắng và bối rối vì tất cả những món hàng đã mua sắm. Những bảng giá đã bị tráo đổi.

Các giá trị vật chất bị tráo đổi vì mắt con người không nhận ra được giá trị đồ thật hay giả thế nào. Ngày nay các giá trị luân lý đạo đức cũng thế, nhường cho những giá trị hưởng thụ trần thế đo bằng tiền bạc. Nhiều người tìm hưởng thụ chấp nhoáng qua danh vọng, tiền tài và dục vọng. Giá trị tạm thời đó vẫn luôn quyến rũ làm chúng ta say mê đi tìm kiếm. Chúng ta dùng mọi nỗ lực để phấn đấu và không ngừng nghỉ để chiếm đoạt. Chúng ta được dẫn vào thế giới quảng cáo thế tục mới với muôn vàn cạm bẫy. Những thay đổi thích ứng và thỏa mãn do óc thông minh và những nỗ lực sáng tạo, làm chúng ta quay cuồng và mất hút trong cuộc chạy đua.

1. Cớ Vấp Phạm

Cám dỗ là một sự kéo lôi và hướng chiều về sự dữ. Thường thì chúng ta nói rằng chúng ta bị cám dỗ phạm tội hay phạm một điều luật luân lý nào đó. Cám dỗ tự bản chất chưa phải là xấu, vì nếu chúng ta biết phấn đấu vượt qua, chúng ta sẽ thắng được chính sự yếu đuối của mình. Có khi chúng ta còn lập được nhiều công đức. Ca dao nói rằng: Lửa thử vàng, gian nan thử đức. Cám dỗ có thể đến tự nhiên qua hoàn cảnh sống hằng ngày, cũng có khi chúng ta bị cám dỗ bởi chính chúng ta mở cơ hội cho sự cám dỗ len lỏi vào.

Tội nguyên tổ được gọi là tôi bất phục tùng, kiêu căng, kết quả là sự khổ đau và mất ơn nghĩa với Thiên Chúa. Trong cơn cám dỗ: Rắn nói với người đàn bà: "Có thật Thiên Chúa bảo: "Các ngươi không được ăn hết mọi trái cây trong vườn không? Người đàn bà nói với con rắn: "Trái các cây trong vườn, thì chúng tôi được ăn. Còn trái trên cây ở giữa vườn, Thiên Chúa đã bảo: "Các ngươi không được ăn, không được động tới, kẻo phải chết." Rắn nói với người đàn bà: "Chẳng chết chóc gì đâu! Nhưng Thiên Chúa biết ngày nào ông bà ăn trái cây đó, mắt ông bà sẽ mở ra, và ông bà sẽ nên như những vị thần biết điều thiện điều ác." (STK 3:1-5)

Người đàn bà thấy trái cây đó, nghĩ rằng ăn thì ngon, trông thì đẹp mắt và đáng quý vì làm cho mình được tinh khôn. Bà liền hái trái cây mà ăn, rồi đưa cho cả chồng đang ở đó với mình; ông cũng ăn. Bấy giờ mắt hai người mở ra, và họ thấy mình trần truồng: họ mới kết lá vả làm khố che thân (Stk. 3:1-7). Sau khi sa ngã vì cơn cám dỗ, ông bà đã đổ tội cho nhau và cho con rắn. Ma quỉ đã lén gieo vào đó sự chia rẽ: cứ ăn đi, chẳng chết chóc gì đâu. Cứ làm đi, cứ phạm lỗi gì, chẳng hề hấn gì đâu. Thật là khôn lanh.

2. Khuynh Hướng Xấu

Chúng ta thường đổ tội cám dỗ là do ma qủy. Ma qủy cám dỗ chúng ta làm điều tội lỗi và xấu xa. Đôi khi chúng ta cũng thấy tội nghiệp cho ma qủy. Vì rõ ràng mình mở cửa và tự đi vào cơn cám dỗ gọi là thử sức mình, nhưng hầu như thử lần nào cũng bị thua. Nhất là khi chúng ta muốn thử sức mình về vấn đề thú vui xác thịt. Thú vui có thể đi qua ngũ quan, từ mắt nhìn, tai nghe, mũi ngửi, môi miệng, tay chân và còn thêm suy tưởng và ước muốn thể xác. Rồi trí tưởng tượng và những ước muốn thèm khát cứ khơi dậy qua mọi ngõ ngách của cuộc sống. Chúng ta không muốn dừng lại và rất khó mà bỏ qua. Và cứ thế chúng ta đã dần dần rơi vào cạm bẫy của ma quỉ. Có bao nhiêu thứ ước muốn là có bấy nhiêu thứ bị cám dỗ. Cuộc sống con người không thoát khỏi những cám dỗ đầy hấp dẫn này. Chúng ta thường rơi vào những mưu mô của cơn cám dỗ về danh vọng, tiền tài và sắc dục. Những dục vọng khát khao của thân xác cũng như những ước vọng của tinh thần cứ luôn réo gọi và mời mọc. Đôi khi chúng ta cảm thấy nó là những nhu cầu thường ngày cần thỏa mãn.

3. Sự Cám Dỗ

Trước khi Chúa Giêsu ra công khai rao giảng Tin Mừng Cứu Độ, Chúa đã vào nơi hoang địa để ăn chay và cầu nguyện. Bốn mươi ngày chay, Chúa đã đối diện thực sự với bản tính của con người. Chúa cảm thấy đói và các dục vọng của thân xác bắt đầu thách thức tinh thần của chay tịnh. Ma qủi đã lần mò đến để cám dỗ Chúa qua những đòi hỏi rất ư là hấp dẫn nhẹ nhàng. Ma quỉ đã cám dỗ Chúa về những nhu cầu tự nhiên của thân xác, những tham vọng của tinh thần và những khát vọng của linh hồn. Chúa đã thắng vượt tất cả các cơn cám dỗ trên qua chay tịnh và cầu nguyện. Chính Chúa Giêsu cũng bị ma quỉ cám dỗ. Thánh Marcô viết: Thần Khí liền đẩy Người vào hoang địa. Người ở trong hoang địa bốn mươi ngày, chịu Xa-tan cám dỗ, sống giữa loài dã thú, và có các thiên sứ hầu hạ Người. (Mc 1:12-13). Ma quỉ khôn lanh đã từng bước đưa Chúa Giêsu vào những cơn cám dỗ thật hấp dẫn.

a. Nhu Cầu Thể Lý.

Bấy giờ Đức Giê-su được Thần Khí dẫn vào hoang địa, để chịu quỷ cám dỗ. Người ăn chay ròng rã bốn mươi đêm ngày, và sau đó, Người thấy đói. Bấy giờ tên cám dỗ đến gần Người và nói: "Nếu ông là Con Thiên Chúa, thì truyền cho những hòn đá này hoá bánh đi! "Nhưng Người đáp: "Đã có lời chép rằng: Người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh, nhưng còn nhờ mọi lời miệng Thiên Chúa phán ra." (Mt 4:1-4). Đói thì phải ăn. Khát phải uống. Ma quỉ nhằm khi Chúa đói mới gợi ý Chúa hóa đá thành bánh mà ăn. Xem ra sự cám dỗ không có chi xúc phạm tới Chúa mà hình như còn quan tâm tới Ngài. Không phải thế đâu. Ma quỉ muốn Chúa tỏ ra ham ăn uống. Cũng như bà Evà xưa, ma quỉ mon men nói về sự thèm khát ăn uống. Evà đã mắc bẫy. Đã có nhiều người trong chúng ta bị rơi vào cám dỗ của việc ăn uống. Đã có những người ăn uống say mèm, đi đứng lạng quạng và ăn nói bừa bãi cũng chỉ vì vài lời khích của đám trẻ hoặc muốn chứng tỏ mình cũng là dân chơi, uống được

b. Uy Quyền

Ma quỉ đâu dễ chịu thua. Thua keo này bày keo khác. Ma quỉ cũng tinh rành Kinh Thánh. Thử thách Chúa cũng có bài bản và ăn hợp với Kinh Thánh. Thánh Matthew diễn tả quỷ kế tiếp theo: Sau đó, quỷ đem Người đến thành thánh, và đặt Người trên nóc đền thờ, rồi nói với Người: "Nếu ông là Con Thiên Chúa, thì gieo mình xuống đi! Vì đã có lời chép rằng: Thiên Chúa sẽ truyền cho thiên sứ lo cho bạn, và thiên sứ sẽ tay đỡ tay nâng, cho bạn khỏi vấp chân vào đá." Đức Giê-su đáp: "Nhưng cũng đã có lời chép rằng: Ngươi chớ thử thách Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi." (Mt 4:5-7). Chúa uy quyền trên mọi loài thụ tạo nhưng Chúa đâu tỏ quyền năng khi sự đòi hỏi không chính đáng. Trong khi con người chúng ta mắc phải bao lầm lỗi. Chúng ta lạm dụng danh tánh để kéo lôi và lừa đảo nhiều người, khi chúng ta nghĩ là chúng ta có quyền năng. Có những người xem mình như người giữ kho tàng để phân phát ân sủng của Chúa, chứ không phải là máng chuyển ơn.

c. Danh Vọng

Có những trao đổi gần như thuận mua vừa bán. Tôi cho anh tiền bạc và của cải, anh đền bù lại một vài đặc quyền cho tôi. Của cải, tiền bạc, thế gian vẫn là những món hàng hấp dẫn dễ lôi kéo nhiều người. Ma quỉ không loại trừ một phương cách nào, miễn là đạt mục đích. Thánh Matthew viết tiếp: Quỷ lại đem Người lên một ngọn núi rất cao, và chỉ cho Người thấy tất cả các nước thế gian, và vinh hoa lợi lộc của các nước ấy, và bảo rằng: "Tôi sẽ cho ông tất cả những thứ đó, nếu ông sấp mình bái lạy tôi." Đức Giê-su liền nói: "Xa-tan kia, xéo đi! Vì đã có lời chép rằng: Ngươi phải bái lạy Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi, và phải thờ phượng một mình Người mà thôi." (Mt 4:8-10).

Chúng ta cũng thường bị cám dỗ qua ba vấn đề này: Vật chất, uy quyền và danh vọng. Có nhiều bài viết về các mẫu gương linh mục hay giáo dân tốt lành và thánh thiện. Điều này chứng minh chắc chắn trong cuộc sống đã có rất nhiều những tâm hồn quảng đại, xả thân giúp đỡ đồng lọai. Nhưng đây cũng là những bài viết khách quan. Một cuộc đời nổi như một tảng băng sơn, có đến 90 phần trăm chìm dưới nước. Viết về một con người sống gần một thế kỷ hay trên nửa thế kỷ, chúng ta nhìn thấy nhiều điểm tốt lắm nhưng sau cái bề nổi có cả một cõi lòng thẳm sâu. Một cuộc chiến nội tâm kiên cường, các ngài cũng đã nhiều cơn thất bại và thua cuộc.

4. Thắng Vượt Cám Dỗ

Chúng ta dễ bị cám dỗ lập lại những tật xấu mà chúng ta đã nhiễm phải. Tôi kể câu truyện vui: Có ba linh mục cùng nhau đi cấm phòng. Các linh mục cùng chia sẻ những khó khăn và vấn nạn phải đối diện trong cuộc sống. Bầu khí rất thân tình và thông cảm, an toàn để các linh mục có thể chia sẻ những tâm tình thẳm sâu nhất của mình. Một linh mục xưng thú rằng, tôi bị nghiện rượu rất nặng và tôi đã tìm cách giải thích để dấu diếm và qua mặt mọi người. Linh mục thứ hai xưng thú rằng ngài bị nghiện đánh bạc, có khi lấy cả tiền của nhà xứ để giải thoát cơn nghiền. Ngài nói rằng ngài rất sợ cho tới lúc không thể dấu diếm được nữa và sự thật sẽ bị phơi bày. Linh mục thứ ba do dự để chia sẻ lỗi lầm của mình. Sau khi được khuyến khích, ngài mạnh dạn nói lên yếu điểm của mình, ngài không thể chừa được tật nói truyện tầm phào. Ngài chưa bao giờ có thể giữ được điều gì bí mật. Lạy Chúa, xin đừng để chúng con sa chước cám dỗ, nhưng cứu chúng con cho khỏi sự dữ. (Mt 6:13). Chúng ta không thể thả một trái bom hay bắn một viên đạn nhưng chúng ta có thể làm hại người khác chỉ vì một lời nói.

5. Hãy Tỉnh Thức

Thánh Matthew viết rằng Chúa Giêsu mời gọi các môn đệ: Anh em hãy canh thức và cầu nguyện, để khỏi lâm vào cơn cám dỗ. Vì tinh thần thì hăng say, nhưng thể xác lại yếu hèn." (Mt 26:41) Khi đọc kinh lo ra, chúng ta cũng nói bị ma quỉ cám dỗ. Khi phạm luật ăn chay kiêng thịt, cũng đổ cho ma quỉ cám dỗ. Khi phạm các điều răn cũng vậy, cứ đổ cho anh quỉ là xong tội. Chúng ta biết có sự cám dỗ ẩn ngầm trong chính con người của chúng ta. Thánh Phaolô nói: Tôi biết rằng sự thiện không ở trong tôi, nghĩa là trong xác thịt tôi. Thật vậy, muốn sự thiện thì tôi có thể muốn, nhưng làm thì không. Sự thiện tôi muốn thì tôi không làm, nhưng sự ác tôi không muốn, tôi lại cứ làm (Rm 7:19-20).  Hình như tội lỗi gắn liền với cuộc sống, thiếu tội, sống mất vui. Cũng như chúng ta thường thấy trong nhóm khi nói nhỏ mà cười to hay một đôi khi chúng ta nói rằng phải có một chút truyện mù khú nó mới vui. Cũng lạ thật. Đây lại là sự thật.

Làm sao chúng ta có thể phân định đúng sai, tốt xấu, tội và phúc. Để phân biệt trắng đen giữa cuộc sống trần gian này, đâu có dễ. Có những người lương tâm rộng rãi, nói rằng chẳng có tội lỗi chi cả. Những người có lương tâm hạn hẹp thì cái gì cũng lỗi, cũng tội và xấu. Tiếng nói lương tâm làm sao phân định rõ ràng được. Chúng ta không thể dựa vào phán đoán chủ quan để phán xét. Bởi thế, mức độ sai trái còn tùy thuộc hoàn cảnh và ý hướng nội tâm. Nhất là cầu nguyện luôn để không bị sa vào các cơn cám dỗ. Truyện kể ngày xưa có một anh quỉ hiện đến báo cho người đàn ông biết rằng ông sắp chết. Nhưng quỉ lại bảo ông rằng nó có thể cứu ông nếu ông chịu làm một trong ba điều kiện sau: Một là giết tên đầy tớ, hai là hãy đánh đập vợ con và ba là hãy uống rượu. Ông ta nói rằng tôi không thể giết người đầy tớ trung thành và cũng không thể đánh đập vợ con yêu dấu. Vậy tôi sẽ uống rượu, ông uống say quá không con tỉnh táo nên đã đánh vợ. Tên đầy tớ nhào vô can bị ông cho một đao chết tốt.

6. Xa Tránh Dịp Tội

Một bà đến xưng tội và xưng rằng bà đã nhiều lần nói hành nói tỏi về người khác. Phần đền tội, linh mục nói với bà ra ngoài chợ mua một con gà sống và trên đường về nhà, bà vặt từng chiếc lông thả ra trước gió. Bà đã hoàn thành việc đền tội và trở lại bá cáo với linh mục. Linh mục khen bà đã hoàn thành rất tốt và nói: Bây giờ bà còn một việc phải làm. Tôi muốn bà trở lại và gom nhặt tất cả những chiếc lông của con gà. Người đàn bà lặng im. Việc này không thể được. Giờ này, gió đã thổi đi khắp nơi biết đâu mà thu gom. Linh mục nói: Đúng thế! Bây giờ bà biết cái gì đã xảy ra khi bà đi nói hành và nói xấu người khác. Bà sẽ không bao giờ có thể rút lại được khi bà đã nói nó ra. Hãy cẩn thận về lời bà nói và đặc biệt là lời nói tầm phào. Không thể nào chúng ta có thể chữa lành được những thương đau đã gây ra cho người khác.

Dịp tội đến với chúng ta qua mọi ngõ ngách của đời sống. Những vị quyền cao chức trọng thì dịp cám dỗ sẽ tế nhị và tinh vi hơn. Những người tín hữu bình dân đối diện với những cám dỗ rất nhẹ nhàng qua sự giao tế, qua sự phê bình chỉ trích, qua lời ăn tiếng nói và qua các câu truyện làm quà. Đôi khi chúng ta nghĩ có một món qùa giật gân muốn chia sẻ với người khác nhưng đó chính là món qùa của ma quỉ muốn chúng ta loan truyền. Đó chính là tội dèm pha, nói qua nói lại, thêm bớt chút hương vị cho câu truyện thêm đậm đà. Thành ra chính chúng ta tạo ra câu truyện mới với nội dung nói hành, nói xấu người khác. Thánh Phaolô viết thơ gởi cho Timôthêô với lời lẽ rất chân tình: Phần anh, hỡi người của Thiên Chúa, hãy tránh xa những điều đó; hãy gắng trở nên người công chính, đạo đức, giàu lòng tin và lòng mến, hãy gắng sống nhẫn nại và hiền hoà (1Tm. 6:11).

 Quyết Tâm

Chúng ta bước vào Năm Thánh 2010, Năm Hồng Ân của Giáo Hội Việt Nam. Mỗi người chúng ta hãy chuẩn bị tâm hồn lãnh nhận ơn Toàn Xá qua việc ăn chay, hãm mình, cầu nguyện và làm việc bác ái. Ơn Thánh sẽ tuôn đổ xuống những tâm sẵn sàng đón nhận. Giáo Hội Viêt Nam đã trải qua lịch sử 350 năm truyền đạo và 50 năm thành lập Hàng Giáo Phẩm, giáo hội đã trải qua muôn vàn cạm bẫy. Cha ông của chúng ta đã thắng vượt biết bao cám dỗ để gìn giữ đức tin tinh tuyền. Là con cháu của những bậc hiền nhân, chúng ta cũng luôn phải đối diện với các cám dỗ của uy quyền, danh vọng và thế tục. Chúng ta phải vượt thắng qua lời cầu nguyện và tỉnh thức. Thánh Giacôbê khuyên dạy chúng ta đừng chán nản hãy can đảm giữ vững niềm tin: Thưa anh em, anh em hãy tự cho mình là được chan chứa niềm vui khi gặp thử thách trăm chiều. Vì như anh em biết: đức tin có vượt qua thử thách mới sinh ra lòng kiên nhẫn (Giacobê 1:2-3). 

Giuse Trần Việt Hùng - Bronx, New York.

VỀ MỤC LỤC
MÙA CHAY, TUẦN THÁNH – NHỮNG TẬP TỤC VÀ TRUYỀN THỐNG
 

Mùa Chay là mùa “nhập hạ,” mùa tịnh tâm của Giáo Hội. Mùa Chay bắt đầu khoảng một tháng rưỡi sau Mùa Giáng Sinh. Đây là một cuộc tĩnh tâm thường niên, cuộc canh tân tinh thần để đón mừng mầu nhiệm nền tảng nhất của Kitô giáo: Chúa Giêsu được Phục Sinh từ cõi chết và hôm nay Ngài đang là Đấng Kitô, Chúa chúng ta. Vì thế, nếu không hướng tới Lễ Phục Sinh, tới cuộc sống mới, Mùa Chay sẽ mất ý nghĩa. Từ những thế kỷ đầu, Kitô giáo đã hình thành nhiều tập tục, truyền thống sống động về Mùa Chay để thể hiện những ý nghĩa chính yếu này :

* Mầu nhiệm Khổ Nạn của Chúa Giêsu.

* Mầu nhiệm Khổ Nạn và Phục Sinh đối với người sửa soạn lãnh Phép Rửa.

* Cuộc hoán cải trong đức tin.

Thời điểm

Mùa Chay diễn ra trong mùa xuân, thời gian ngày dài hơn đêm từ sau ngày đông chí.

Thế kỷ thứ hai, các tín hữu đã ăn chay hai ngày để chuẩn bị mừng Lễ Phục Sinh mỗi năm.

Thuở đó họ nóng lòng đợi chờ Chúa lại đến, nên hai ngày chay tịnh trước Lễ Phục Sinh là thời điểm thích hợp để chuẩn bị cho thời gian thánh thiêng nhất: ngày Chúa lại đến. Thế kỷ thứ ba, thời gian chay tịnh trải dài cả Tuần Thánh. Tới thế kỷ thứ tư Lễ Phục Sinh được chuẩn bị bằng cả một Mùa Chay đầy ý nghĩa.

Mùa Chay và Phép Rửa

Mùa Chay đặc biệt nhấn mạnh chủ đề Phép Rửa. Khoảng từ thế kỷ thứ ba, Phép Rửa gắn liền với đêm Canh Thức mừng Chúa Phục Sinh (Vọng Phục Sinh). Những thế kỷ đầu việc chuẩn bị cho Phép Rửa trải dài nhiều năm. Thuở đó những người trưởng thành muốn gia nhập Giáo Hội thì không thể gia nhập ngay. Họ cần tới ba năm thử thách. Trong thời gian này họ được hướng dẫn, nâng đỡ để từ bỏ nếp sống lương dân và tập sống nếp sống mới. Sau đó, họ được nhận vào làm ứng viên bí tích Phép Rửa. Cuối cùng, vào một thời điểm đặc biệt, sau này gọi là Mùa Chay, họ được học hỏi sâu rộng hơn, được lãnh nghi thức trừ tà, tham dự một số các nghi thức khác, giữ chay tịnh Thứ Sáu, Thứ Bảy Thánh và được lãnh Phép Rửa vào đêm Phục Sinh. Khi cuộc bắt đạo tại Rôma chấm dứt vào năm 313, Giáo Hội bắt đầu xác định rõ ràng hơn tiến trình cử hành công khai thời gian dự tòng (Katechein: giảng dạy), tiến trình đón nhận các dự tòng nhập đạo. Và giai đoạn chuẩn bị cuối cùng để lãnh Phép Rửa luôn bao gồm một giai đoạn chay tịnh để củng cố nếp sống mới.

Ban đầu, theo nghi thức, thời gian chuẩn bị Lễ Phục Sinh là thời gian đặc biệt chỉ dành cho các dự tòng; về sau, trở thành phổ thông. Mọi tín hữu đều dự vào truyền thống chay tịnh. Đầu thời Trung Cổ, những nghi thức dự tòng cũ biến mất để lại truyền thống bốn mươi ngày Mùa Chay, mùa chuẩn bị Lễ Phục Sinh.

Sám hối

Thế kỷ thứ tư, việc chuẩn bị cho dự tòng lãnh Phép Rửa được kết hợp với việc chay tịnh và những thực hành sám hối khác trước Lễ Phục Sinh, để chuẩn bị cho những hối nhân phạm tội công khai hay phạm tội ác được lãnh ơn tha thứ. Những thực hành này cũng mở rộng dần tới các tín hữu khác và vào thời Trung Cổ đã lan cả Giáo Hội. Thời này nghi thức sám hối nhấn mạnh tới tội riêng tư. Do đó trong phụng vụ, Mùa Chay là “mùa tím,” tím màu sám hối, nên Lời ngợi khen Alleluia Kinh Vinh Danh bị hủy bỏ. Phụng vụ cũng cấm cử hành những cuộc cưới xin trong Mùa Chay. Ở vài nơi còn có cả nghi thức “chôn táng” bài ngợi ca Alleluia.

40 ngày chay tịnh

Thuở đầu Mùa Chay kéo dài suốt 40 ngày dành cho các dự tòng. Sau, mọi Kitô hữu khác cũng ăn chay 40 ngày để bắt chước Chúa Giêsu chay tịnh 40 ngày trong sa mạc (Mt 4,2). Trong Cựu Ước, chúng ta cũng gặp 40 ngày của Môsê trên núi Sinai (Xh 34,28), 40 ngày của Êlia trên núi Horeb (1 V 19,8) và 40 năm dân Chúa lang thang trong sa mạc. Từ ngữ chính thức của Giáo Hội chỉ Mùa Chay là Quadragesima (Mùa 40).

Từ đầu, 40 ngày ăn chay được tính ngược từ chiều Thứ Năm Thánh (ngày đầu trong Tam Nhật Vượt Qua) – nghĩa là ngày đầu tiên trúng vào Chúa Nhật thứ nhất Mùa Chay. Tuy nhiên, tín hữu không bao giờ ăn chay trong những Chúa Nhật Mùa Chay, vì Chúa Nhật được kể là ngày tưởng nhớ Chúa Phục Sinh (còn được gọi là Lễ Phục Sinh nhỏ). Do đó khoảng thế kỷ thứ bảy, Mùa Chay sáu tuần lễ tính sớm hơn: từ thứ tư Lễ Tro, và gồm cả Thứ Năm và Thứ Sáu Thánh, để tròn 40 ngày ăn chay. Giáo Hội Đông Phương không kể ngày thứ Sáu và Thứ Bảy Thánh là ngày chay, nên Mùa Chay bắt đầu sớm hơn một tuần.

Phụng vụ Chúa Nhật Mùa Chay luôn duy trì tiến trình của thời gian dự tòng, nhấn mạnh cuộc hành trình vào bí tích Phép Rửa. Năm 1972, Giáo Hội công bố “Nghi Thức Khai Tâm Kitô Giáo Cho Người Trưởng Thành,” làm sống lại thời gian dự tòng thuở trước.

Theo đó, cả hai thành phần, dự tòng và tín hữu, được hướng tới hành trình của Phép Rửa gồm: nghi thức tuyển chọn, cử hành Tin Mừng, tuyên xưng đức tin, kinh Lạy Cha, công bố từ bỏ ma quỷ (thay thế việc trừ quỷ ngày xưa). Việc di chuyển tân tòng (sau bài giải thích Lời Chúa) tới một nơi khác trong nhà thờ để được hướng dẫn đặc biệt về bài đọc Thánh Kinh của ngày hôm ấy.

Cũng như lòng mộ mến của các tín hữu, phụng vụ Mùa Chay gắn bó với nỗi đau và cái chết của Chúa Giêsu.

‘Thứ Ba Béo’

Ngay trước Mùa Chay, tuy không có trong niên lịch Giáo Hội, nhưng theo thói quen, dân chúng có ngày “thứ ba béo,” ngày vui vẻ hội hè. Đó là “cuộc vui” cuối cùng trước khi bước vào mùa ăn chay kiêng thịt nhiệm nhặt từ hôm sau, Thứ Tư Lễ Tro. Thói tục này tuy không được Giáo Hội khuyến khích nhưng vẫn lưu truyền trong dân chúng với mục đích thực tế. Hồi đó, những thức ăn mà luật chay tịnh nghiêm ngặt của Giáo Hội cấm là những thức ăn cần ướp lạnh. Vì kỹ thuật ướp lạnh đã không hề được phát minh mãi cho tới thế kỷ XIX nên thật ý nghĩa việc dân chúng mang ra ăn hết những thức ăn nào sẽ bị hư, nếu để qua sáu tuần lễ ăn chay. Đồng thời họ chia sẻ những thức ăn này với gia đình khác. Vì thế những bữa ăn chung vào Thứ Ba trước Lễ Tro mang không khí vui vẻ của ngày lễ hội. Thế kỷ 14, ngày “thứ Ba Béo” đã được tổ chức khá phổ biến. Lễ hội này cũng phản ảnh những cuộc chè chén, hóa trang và những thói tục lương dân mừng mùa xuân hay ngày xuân phân. Phải chăng vì Giáo Hội cấm những cuộc truy hoan trong suốt Mùa Chay nên dân chúng dễ bù trừ bằng một lễ hội “vọng chay”?

Thứ Ba xá giải

Ngày trước Thứ Tư Lễ Tro còn mệnh danh là Thứ Ba xá giải. Nhóm từ này xuất phát từ tập tục xưa: giáo hữu thường tới lãnh bí tích xá giải để chuẩn bị bước vào Mùa Chay Thánh.

Thứ Tư Lễ Tro

Thứ Tư Lễ Tro chính thức đưa tín hữu vào Mùa Chay và Mùa Phục Sinh. Theo thói quen, tro được đốt từ những cành lá trong Lễ Lá năm trước còn lại. Tro này sẽ được bỏ trên trán các tín hữu. Việc đổ tro lên đầu và mặc áo nhặm là nghi thức sám hối chung trong dân Do Thái xưa (Giôna 3,5-9 / Giêrêmia 6,26 / Matthêu 11,21 ...).

Thuở đầu, nghi thức xức tro cùng với ý nghĩa Thánh Kinh không có trong nghi thức mở đầu Mùa Chay. Sớm nhất là vào những năm 300, nghi thức này được một số Giáo Hội địa phương áp dụng trong việc ra vạ tuyệt thông tạm thời hoặc trục xuất các tội nhân đã phạm tội hoặc gây gương mù công khai như chối đạo, lạc đạo, giết người, ngoại tình.

Vào thế kỷ 7 nghi thức xức tro lan rộng. Trước nhất, hối nhân phải xưng thú cá nhân. Tiếp theo họ được giới thiệu với đức giám mục và được ghi nhận vào thành phần những người sám hối để chuẩn bị lãnh bí tích Hòa Giải vào Thứ Năm Thánh. Sau việc đặt tay và xức tro, họ bị đuổi khỏi cộng đoàn. Việc xua đuổi này mô phỏng Ađam và Eva bị đuổi khỏi Vườn Địa Đàng. Hối nhân bị xua đuổi cùng với lời nhắn nhủ rằng sự chết là hình phạt do tội: “Hãy nhớ người là tro bụi, người sẽ trở về với bụi tro” (Sáng Thế 3,19). Họ phải sống tách rời gia đình, họ đạo trong 40 ngày Mùa Chay (quarantine). Khi mặc áo nhặm và xức tro, họ được mọi người nhận ra là hối nhân trong cộng đoàn, đôi khi họ phải đứng trên những bậc thềm, trên lối vào nhà thờ. Những hình phạt chung chung dành cho họ là kiêng thịt, rượu, không được tắm gội, hớt tóc, cạo râu, quan hệ vợ chồng và giao dịch buôn bán. Tùy mỗi địa phận hình phạt có thể kéo dài nhiều năm, có khi trọn đời! Thời Trung Cổ, tội riêng được chú ý hơn tội công khai. Do đó, những tập tục về ngày Thứ Tư Lễ Tro đỡ khắc nghiệt hơn và được thực hiện phổ thông cho mọi tín hữu trưởng thành trong họ đạo. Những truyền thống tương tự như thế được tuân giữ trong toàn Giáo Hội từ thế kỷ 11. Gần đây Giáo Hội đưa ra công thức xức tro khác, có ý nghĩa tích cực hơn về Mùa Chay: “Hãy từ bỏ tội lỗi và trung thành với Tin Mừng (Máccô 1,15). Công thức mới này, trước đây lã được sử dụng trong một tu viện ở Giáo Hội Celtic thuộc Anh từ thế kỷ 6 đến thế kỷ 8. Đây là công thức sám hối riêng tư dành cho tội nhẹ có vẻ thích hợp với diễn biến của bí tích Hòa Giải hơn là nghi thức xức tro.

Có ba loại truyền thống xác định ý nghĩa Mùa Chay:

- Truyền thống giữ bầu khí chay tịnh trầm buồn.

- Truyền thống thực hành sám hối đặc biệt là ăn chay kiêng thịt.

- Những việc đạo đức tỏ lòng yêu mến Chúa Giêsu thương khó.

Những truyền thống này, nối kết với những truyền thống mới, mang lại cho Mùa Chay những chiều kích tích cực hơn.

Bầu khí chay tịnh

Bầu khí chay tịnh mang sắc thái trầm buồn. Trong phụng vụ, lời ca Alleluia và Kinh Vinh Danh bị tạm bỏ. Màu tím được sử dụng trong phụng vụ và trong những hình thức trang trí thánh đường. Mọi sự trang trí cách long trọng trong cung thánh được tháo gỡ. Tiếng nhạc cũng trầm lắng.

Gần đây trong Giáo Hội có thói quen che các ảnh tượng và tượng Chịu Nạn bằng tấm màn tím thẫm như tín hiệu u buồn khóc than. Khoảng đầu năm 900 tại một số Giáo Hội địa phương, từ đầu Mùa Chay nhà thờ treo một tấm màn lớn ngăn cách bàn thờ và giáo dân. Việc này nhằm tạm thời che khuất vinh quang thiên quốc minh họa do các ảnh tượng. Đồng thời, tấm màn che cũng tượng trưng việc tách rời tội nhân khỏi bàn thờ, giống như các tội nhân công khai bị tuyệt thông. Từ những năm 1600 việc che màn chỉ còn thực hiện từ Chúa nhật thứ năm Mùa Chay - ngày xưa gọi là “Chúa Nhật Vượt Qua.” Vào Chúa nhựt này, bài Tin Mừng kết thúc với câu sau đây:

Lúc đó họ lượm đá ném Chúa Giêsu, nhưng Ngài đã ẩn mình và lướt qua khỏi hành lang đền thờ (Ga 8,59) (bây giờ đoạn Tin Mừng này chỉ còn trong chu kỳ năm B).

Kiêng thịt

Ăn chay và kiêng thịt luôn nối kết nhau. Nhưng có những quy định riêng. Ăn chay là ăn ít hay không ăn gì. Kiêng thịt là hạn chế một số loại lương thực - thí dụ thịt. Ăn chay là hình thức đạo đức phổ thông ngay từ Giáo Hội sơ khai. Việc từ chối một nhu cầu nhân bản trong một giai đoạn, mang nhiều ý nghĩa khác nhau: ăn chay để chuẩn bị cho một ngày đại lễ, để tự kềm chế bản thân, để nâng đỡ lời cầu nguyện. Ăn chay cũng giúp thanh tẩy bản thân khỏi những lạm dụng và tội lỗi. Những ý nghĩa này thành động lực đưa tới truyền thống chay tịnh trong Mùa Chay. Một động lực khác cũng góp phần trong truyền thống chay tịnh là: làm phước. Làm phước là trao tặng cho người thiếu thốn những gì ta dành dụm được nhờ ăn chay và kiêng thịt, hoặc cho đi phần thặng dư.

Ăn chay và kiêng thịt thuở đầu là những thực hành tự nguyện. Sau dần thành nghiêm nhặt và thành quy định của Giáo Hội. Từ những năm 400 tới 800. Giáo dân chỉ ăn một bữa mỗi ngày thường vào buổi chiều tùy tập tục địa phương. Phải cữ những thức ăn như thịt, cá tươi, rượu. Nhiều nơi giáo dân phải cữ cả trứng và những sản phẩm từ sữa. Từ đầu thế kỷ 10, giáo dân có thói quen khi ăn chay chỉ ăn bữa trưa. Thế kỷ 14, giáo dân được ăn thêm một bữa nhẹ vào buổi chiều. Thời Trung Cổ luật cấm ăn cá và các sản phẩm từ sữa bị hủy bỏ.

Quy chế ăn chay kiêng thịt khá nhiệm nhặt còn hiệu lực mãi tới 1966.  Giáo dân từ 21 đến 59 tuổi chỉ được ăn một bữa chính suốt cả Mùa Chay, trừ ngày Chúa nhật. Tuy nhiên ta cũng được phép dùng hai bữa phụ khác không có thịt, để có đủ sức khỏe; nhưng hai bữa này cộng lại phải kém hơn một bữa ăn no đủ. Việc ăn chay đi kèm với kiêng thịt, nước cốt thịt, thịt xay vào Thứ Tư Lễ Tro và tất cả các thứ Sáu (luật kiêng thịt áp dụng với giáo dân từ 7 tuổi trở lên). Vào những ngày thường trong Mùa Chay, chỉ được ăn thịt trong bữa chính.

Những việc sám hối phổ thông

Những hình thức sám hối khác không được Giáo Hội quy định nhưng đã phổ thông trong nhiều thế kỷ nay. Phần lớn là những hình thức tư riêng trong các gia đình nhưng đang được nhiều tín hữu thực hành: không ăn món tráng miệng, kẹo bánh, nước ngọt, rượu. Ngoài ra, còn việc để dành tiền tặng người nghèo, hạn chế xem phim ảnh, truyền hình cũng là thái độ chay tịnh tốt đẹp.

Đàng Thánh Giá

Mùa Chay, giáo dân thường đi đàng thánh giá. Ngược dòng lịch sử, ta biết vào thời Thập Tự Quân (1095-1270) nhiều giáo dân có thói quen đi hành hương Đất Thánh và đi bộ theo bước chân Chúa Giêsu lên đồi Canvê. Trong hai thế kỷ tiếp theo, sau khi người Hồi giáo tái chiếm Đất Thánh, những cuộc hành hương tại đây rất nguy hiểm. Thời gian này, để thay thế việc hành hương, khắp Âu Châu giáo dân thiết lập những chặng đàng thánh giá ngoài trời, những chặng này nêu lên những biến cố thương đau dựa theo Thánh Kinh hay truyền thống về con đường thập giá của Chúa Giêsu. Giữa thế kỷ 18, những chặng đàng thánh giá được phép thiết lập ngay bên trong nhà thờ và thành nét đặc trưng của các nhà thờ Công Giáo. Vào những năm 1960, các nhà thờ thường thêm vào chặng thứ 15: Chúa Phục Sinh.

Đầu thập niên 60, Giáo Hội chú trọng tới mặt tích cực của quy luật Mùa Chay và những công trình bác ái, Đức Thánh Cha Phaolô VI đã chính thức chuẩn nhận chiều hướng này qua Tông Huấn Paenitemini. Theo đó, tín hữu chỉ buộc kiêng thịt vào Thứ Tư Lễ Tro và các thứ Sáu trong Mùa Chay. Việc ăn chay chỉ buộc vào Thứ Tư Lễ Tro và Thứ Sáu Thánh. Các tín hữu cần lưu ý các hình thức chay tịnh tự nguyện. Những định hướng chung trong tinh thần Mùa Chay vẫn đề cao ý nghĩa bí tích Phép Rửa, cuộc trở về của bản thân, sám hối và sống mầu nhiệm thương khó, tử nạn của Chúa Giêsu.

Tuần lễ Thánh

Ý nghĩa và nghi thức trong tuần lễ Thánh theo sát những biến cố lịch sử. Giáo Hội Công Giáo Đông Phương mệnh danh đây là tuần lễ của Ơn Cứu độ. Tên gọi này cũng làm nổi bật ý nghĩa của Tuần Thánh.

Tuần Thánh là trung tâm năm phụng vụ. Những nghi lễ chính thức và những truyền thống của Giáo Hội nhắc nhớ và hiện thực hóa cuộc Vượt Qua của Chúa Giêsu: đi qua cái chết nhục nhằn để đạt tới cuộc sống mới vinh quang. Theo đó, con người và mọi tạo vật cũng được vượt qua với Ngài.

Những nghi thức chính yếu, trước tiên được cử hành ở Giêrusalem. Ở đây các tín hữu được sống giữa khung cảnh thực nơi xảy ra các biến cố lịch sử cuộc đời Chúa Giêsu, cuộc thương khó, cái chết và cuộc Phục Sinh của Ngài. Năm 313 khi đạo Chúa được công khai thừa nhận, các tín hữu đã thanh tẩy công khai về tụ họp tại Giêrusalem hoặc gần Giêrusalem trong ngày kỷ niệm những biến cố trọng đại, tại chính nơi theo truyền thống là những “nơi thánh.” Họ cảm nghiệm sống động những biến cố đó. Họ hát, tuyên đọc những truyện tích (kể lại bài thương khó), đi rước kiệu và canh thức. Nhiều truyền thống tôn giáo cổ xưa về Tuần Thánh và Lễ Phục Sinh được Egeria viết lại chi tiết trong nhật ký của chị. Chị là một lữ khách hành hương từ miền Tây Bắc Tây Ban Nha tới Đất Thánh vào năm 381-384. Những nghi thức Tuần Thánh được phổ biến khắp Châu Âu thời đó, qua những khách hành hương Đất Thánh như Egeria. Với thời gian, những nghi thức này được Giáo Hội đón nhận và trở nên nghi thức chính thức của Giáo Hội: nghi thức “Tuần Thánh”!

Mầu nhiệm Vượt Qua

Ban đầu Giáo Hội cử hành Lễ Vượt Qua như một mầu nhiệm thống nhứt, gồm mầu nhiệm cuộc khổ nạn và Phục Sinh của Đức Kitô. Giáo Hội không phân chia từng ngày trong Tam Nhật Vượt Qua để tưởng niệm riêng từng mầu nhiệm. Ngày lễ Vượt Qua trọng đại nhất trong Kitô giáo liên kết chặt chẽ với lễ Vượt Qua, lễ trọng đại nhất của Do Thái. Dân Do Thái xưa được giải thoát khỏi cảnh nô lệ khi thiên thần vượt qua cửa nhà người Do Thái để tiêu diệt các con trai đầu lòng của người Ai Cập. Do đó việc tưởng niệm hoạt động giải phóng của Thiên Chúa trở thành kinh nghiệm sâu sắc và nền tảng nhất của dân Do Thái.

Lễ Vượt Qua của Do Thái là một hòa trộn hai lễ hội cổ Do Thái. Lễ hội mùa xuân để dâng con chiên hy tế mùa xuân cho Thiên Chúa trong thời gian du mục. Lễ hội bánh không men vào thời gian sau lưu đày ở Aicập. Vào thế kỷ 7 trước Chúa Giáng sinh. Khi Giêrusalem trở thành thánh cung duy nhất của dân Do Thái, hai lễ hội này hòa làm một đại lễ: lễ Vượt Qua. Lễ Vượt Qua được mừng ngày 14 tháng Nisan (tên gọi một tháng trong năm theo lịch Do Thái) gồm nghi thức tế chiên trong đền thờ và bữa tiệc thánh tại các gia đình.

Chính vào dịp lễ Vượt qua của Do Thái, Chúa Giêsu đã vượt qua cuộc thương khó và sự chết để đạt tới cuộc sống mới. Cuộc vượt qua này cũng là hoạt động thần linh của Chúa để cứu cả nhân loại và các thụ tạo khỏi trầm luân trong vực thẳm của sự chết.

Tam Nhật Vượt Qua

Thuở Giáo Hội sơ khai chưa có Tuần Lễ Thánh, mầu nhiệm Vượt Qua được mừng trong một ngày: Canh Thức Phục Sinh. Lễ mừng bắt đầu từ lúc hoàng hôn ngày Sa-bát và kéo dài đến bình minh ngày thứ nhất trong tuần (Chúa Nhựt). Tới thế kỷ 5, mầu nhiệm được tưởng niệm trong ba ngày như nghi thức được cử hành ở Giêrusalem. Ba ngày tưởng niệm này mệnh danh là Tam Nhật Vượt Qua từ Thứ Sáu Thánh đến sáng Chúa Nhựt Phục Sinh. Tam Nhật Vượt Qua tưởng niệm cái chết, cuộc mai táng và biến cố Phục Sinh. (Thời gian từ Thứ Sáu tới Chúa Nhựt được tính là ba ngày theo lối tính của Do Thái: một ngày tính từ lúc mặt trời lặn của buổi chiều hôm trước). Về sau Thứ Năm Thánh cũng được nhập vào Tam Nhật Vượt Qua.

Sau cuộc bách hại Kitô giáo, các hoàng đế theo đạo đã cấm làm việc và vui chơi dưới mọi hình thức trong Tuần Thánh. Thuở đó cũng có tập tục ân xá, phóng thích các tù nhân vào dịp này. Với các Kitô hữu, Tam Nhật Vượt Qua được coi như những ngày linh thánh nhất trong năm.

Chúa Nhật Lễ Lá

Tuần Thánh bắt đầu bằng Chúa Nhật Lễ Lá, ngày nay Giáo Hội gọi là Chúa Nhật Thương Khó. Trong phụng vụ Chúa Nhật này, phần đầu lễ có nghi thức làm phép lá và rước lá để nhớ ngày Chúa Giêsu bước vào Giêrusalem vinh quang. Tại đây dân chúng cầm cành lá tung hô Chúa. Tiếp theo trong thánh lễ, là phần tuyên đọc bài thương khó. Rõ ràng phụng vụ ngày lễ lá muốn chú trọng cuộc thương khó của Chúa Giêsu hơn cuộc tiếp đón mà dân Giêrusalem dành cho Chúa. Nhìn chung, Giáo Hội muốn chú trọng tới ý nghĩa của Tuần Thánh hơn là giới thiệu một tiến trình lịch sử chính xác của những biến cố cứu độ. Ngày lễ lá được coi là bước đầu trong chặng đường vượt qua của Chúa.

Riêng tại Do Thái, vào Lễ Lá dân chúng thường xếp hàng đi kiệu trên con đường từ ngôi làng nhỏ Bêtania vào thành phố Giêrusalem theo vết chân Chúa xưa. Họ đi rước, tay mang tàu lá thiên tuế hoặc một nhánh ô-liu, một loài cây thường gặp nhất  ở vùng Palestin (Mat 21,18) (ngày nay, tùy địa phương, giáo dân có thể cầm nhành dương liễu, cành đào, lá dừa, nhánh thông... để đi kiệu lá).

Những ngày chuẩn bị

Thứ hai, ba, tư trong Tuần Thánh là những ngày chuẩn bị cho Tam Nhật Vượt Qua. Theo truyền thống, vào những ngày này, giáo dân thường tìm đến tòa cáo giải lãnh bí tích Hòa Giải để tâm hồn bình an bước vào những ngày đại lễ.

Xưng tội rước lễ mùa Phục Sinh

Thời Trung Cổ, xuất hiện khuynh hướng từ chối đón nhận bí tích Thánh Thể. Họ suy nghĩ Thánh Thể quá cao sang, con người chỉ nên chiêm ngắm và tôn thờ hơn là “cầm lấy mà ăn.” Do đó nhiều người trở thành xa cách Thánh Thể. Công Đồng Latêranô 1215 dạy giáo dân phải rước lễ ít là một lần mỗi năm vào Chúa Nhựt Phục Sinh. Từ giáo huấn này, hôm nay Giáo Hội đòi các tín hữu phải rước lễ mùa Phục Sinh (mùa Phục Sinh kéo dài từ Chúa Nhật thứ nhất Mùa Chay đến Lễ Chúa Ba Ngôi).

Lãnh bí tích Hòa Giải cũng là bổn phận của người tín hữu trong mùa Phục Sinh. Giáo Luật hiện hành qui định (khoản 989): mọi tín hữu tới tuổi trưởng thành ít nhất phải xưng thú tội nặng một năm ít nhất một lần. Rõ ràng vào thế kỷ 8 đã hình thành việc xưng thú cá nhân trong bí tích Hòa Giải. Thời này, có việc xá giải cho các hối nhân phạm tội công khai.

Thứ Năm Thánh

Thứ Năm Thánh bắt đầu Tam Nhật Vượt Qua. Ban đầu, Tam Nhật chỉ gồm Thứ Sáu Thánh và Thứ Bảy Thánh (theo cách tính của người Do Thái là ba ngày). Sang thế kỷ 4 gồm thêm ngày Thứ Năm Thánh. Trước đó Thứ Năm Thánh có tên là thứ năm Lễ Tiệc Ly. Ngày này tưởng niệm bữa tiệc ly của Chúa và kỷ niệm Chúa lập bí tích Thánh Thể. Và thứ năm này cũng có tên khác là thứ năm của giới răn mới: “Thày ban cho anh em một giới răn mới” (Ga 13,34). Trong nghi lễ thứ năm có nghi thức rửa chân, để nhớ mãi giới luật tình yêu Chúa đã dạy trong đêm tiệc ly này.

Nguyên thủy Thứ Năm Thánh chỉ là ngày chuẩn bị lễ mừng mầu nhiệm Vượt Qua. Vào ngày này, các hối nhân được xá giải và tái nhập vào cộng đoàn để họ được tham dự vào lễ Vượt Qua. Từ hôm nay, dầu thánh cũ bị hủy bỏ, các nhà thờ sẽ sử dụng dầu thánh mới để cử hành bí tích Thánh Thể và Thêm Sức vào đêm Phục Sinh.

Truyền thống cử hành nghi thức Lễ Tiệc Ly tại Giêrusalem, là địa điểm và thời điểm tiến hành bữa tiệc ly của Chúa theo tương truyền. Về sau cả Giáo Hội đã áp dụng nghi thức Thứ Năm Thánh tương tự truyền thống ở Giêrusalem. Thứ Năm Thánh tưởng niệm Chúa lập bí tích Thánh Thể. Màu sắc, khung cảnh hôm nay rất rực rỡ. Kinh Vinh Danh đã vắng lặng từ Thứ Tư Lễ Tro nay lại vang lên rộn rã. Nhà tạm được để trống sau Thánh Lễ. Bánh thánh được truyền phép nhiều hơn để giáo dân rước lễ hôm nay và hôm sau. Để tưởng niệm cuộc thương khó nhục nhã, đớn đau, kể từ sau Kinh Vinh Danh ngày thứ năm, tất cả đờn chuông sẽ vắng lặng. Tập tục này có từ thế kỷ 9.

Nghi thức rửa chân

Nghi thức rửa chân trong Thánh Lễ hôm nay được chính chủ tế cử hành để học và sống bài học khiêm nhu, phục vụ của Chúa trong bữa tiệc ly. Nghi thức này được cử hành rải rác tại một vài địa phương hồi thế kỷ 5 và đến thế kỷ 12 đã phổ biến trong toàn Giáo Hội. Theo tập tục chung sẽ có 12 người được chọn rộng rãi trong giáo dân hoặc chọn trong những người đứng đầu các xóm họ để được “rửa chân.” Một số nơi chọn “người được rửa chân” từ những người nghèo hèn, những người bị xã hội bỏ rơi...

Nhà tạm suy tôn Thánh Thể

Cuối Thánh Lễ, Mình Thánh Chúa còn lại sau rước lễ sẽ được đưa tới nhà tạm suy tôn Thánh Thể. Theo truyền thống, các giáo hữu sẽ thay nhau cầu nguyện và tôn thờ trước Thánh Thể tới nửa đêm.

Lễ truyền dầu

Từ rất sớm Thánh Lễ Truyền Dầu đã cử hành trong nhiều địa phận. Hôm nay ngày Thứ Năm Thánh, khắp các địa phận, tại nhà thờ chính tòa hoặc một nhà thờ trong giáo phận, đức giám mục địa phận cùng với các linh mục, giáo sĩ, tu sĩ và đại diện giáo dân tụ họp để cử hành Thánh Lễ Truyền Dầu theo một nghi thức long trọng. Có ba thứ dầu được thánh hiến để sử dụng trong một số bí tích tại các nhà thờ:

1/ dầu dự tòng: dùng để xức cho dự tòng khi họ được chuẩn bị lãnh bí tích Phép Rửa.

2/ dầu bệnh nhân: dùng trong bí tích Xức Dầu Bệnh Nhân.

3/ dầu rửa tội và thêm sức: dùng trong bí tích Phép Rửa và Thêm Sức.

Thứ Sáu Thánh

Thứ Sáu Thánh là ngày kỷ niệm cái chết của Đức Giêsu trên thập giá ngoài thành Giêrusalem. Những khoảnh khắc hôm nay sẽ được hoàn thành trọn vẹn vào ngày hôm sau - khi đêm tối Thứ Bảy nhường chỗ cho ngày Chủ nhật và khi sự chết chuyển hóa thành cuộc Phục Sinh. Nói “Thứ Sáu Thánh” là nhằm để nhấn mạnh giá trị cứu độ của biến cố lịch sử là cái chết thập giá của Đức Giêsu. Trong suốt giòng lịch sử của nó, ngày Thứ Sáu Thánh bao giờ cũng mang sắc thái trầm lặng u buồn và thương tiếc Đức Giêsu chịu đóng đanh và chịu chết.

Đây là ngày duy nhất trong năm không có cử hành Bí Tích Thánh Thể. Trong các thế kỷ đầu tiên, người ta không cử hành Thánh Thể vào những ngày trong tuần. Tập tục này càng mang ý nghĩa đặc biệt đối với Thứ Sáu Thánh khi mà chiều kích hy tế của Thánh Lễ bắt đầu được nhấn mạnh. Việc không cử hành Thánh Thể nhằm nêu bật hành vi hiến tế của Đức Giêsu trên thập giá. Vì vậy, Giáo Hội nhấn mạnh một phụng vụ Lời Chúa bao gồm một trình thuật khổ nạn và những thánh vịnh tiên báo cuộc thương khó của Đức Giêsu.

Phụng vụ Thứ Sáu Thánh của Giáo Hội diễn ra trong khoảng giữa buổi chiều. Đây là thời gian lý tưởng nhất để đọc kinh thần vụ trong các nhà thờ xứ đạo hồi cổ thời - khi chưa có thói quen dâng Thánh Lễ hằng ngày. Trọng tâm của cử hành được tập trung vào việc đọc Thánh Kinh và cầu nguyện. Các bài đọc, cả Cựu Ước lẫn Tân Ước, xoáy vào cuộc khổ nạn và cái chết của Đức Giêsu. Các lời nguyện vốn xuất phát từ những lời nguyện chung cổ xưa, nay trở thành một phần của mọi Thánh Lễ - tức Lời Nguyện Tín Hữu.

Suy tôn thánh giá

Vào cuối thế kỷ 4, việc suy tôn thánh giá được đưa vào truyền thống Thứ Sáu Thánh ở Giêrusalem. Truyền thuyết kể rằng trước kia bà Helen, mẹ của Constantine, vị hoàng đế Kitô hữu đầu tiên, đã khám phá thấy tại khu vực Giêrusalem chính cây thập tự mà người ta đã dùng để đóng đanh Đức Giêsu trên đó. Thế là hằng năm, tại Giêrusalem, thánh tích này được đưa ra để các tín hữu đến hôn kính và suy tôn. Về sau, cả thánh tích lẫn thói quen này được phổ biến rộng ra khắp đế quốc Rôma. Việc thực hành này được đưa vào phụng vụ Rôma hồi thế kỷ 8. Một giòng người nối đuôi nhau chầm chậm tiến lên hôn kính một cây thánh giá trên tay vị thừa tác viên, đó là hình ảnh vẫn còn mang nét đặc thù của việc cử hành ngày Thứ Sáu Thánh trong thời đại chúng ta hôm nay. Cho đến gần đây, người ta vẫn còn duy trì thói quen bước tới hôn kính thánh giá bằng chân trần, bái gối nhiều lần trước khi đến chỗ thánh giá và cung kính hôn nó.

Thánh Lễ không có truyền phép Thánh Thể

Trong thời Trung Cổ, việc rước lễ (chỉ thuần túy rước lễ thôi) của phụng vụ Thứ Sáu Thánh đã chuyển biến thành “Thánh Lễ” không có truyền phép Thánh Thể (tức “Thánh Lễ” với bánh đã được truyền phép ngày hôm trước). Nghi thức này bắt chước một dạng Thánh Lễ được cử hành không có kinh nguyện Thánh Thể. Ban đầu, giáo dân ngưng không rước lễ trong các cử hành Thứ Sáu Thánh. Vì vậy, chỉ có linh mục được rước lễ vào ngày này. Năm 1955, nghi thức truyền thống được tái lập lại: bắt đầu là phụng vụ Lời Chúa, rồi suy tôn thánh giá và sau đó cả cộng đoàn rước lễ.

Việc giữ chay

Việc giữ chay Thứ Sáu Thánh diễn tả sự đền tội cá nhân và nỗi đau buồn về cái chết của Đức Giêsu. Ngay từ thế kỷ thứ 2, truyền thống chay tịnh (đôi khi kiêng hết mọi thức ăn thức uống) đã được thực hành trong bốn mươi tiếng đồng hồ. Việc giữ chay này chuẩn bị cho niềm vui Phục Sinh và luôn luôn là một đặc nét của ngày Thứ Sáu Thánh. Tại nhiều nơi trong Giáo Hội, việc giữ chay này được thực hành rất nghiêm ngặt, nghiêm ngặt hơn cả sự qui định chính thức của Giáo Hội. Ngày nay chúng ta vẫn còn thấy rất rõ các dấu vết của truyền thống nghiêm ngặt ấy. Trong ngày hôm nay, một số gia đình không chỉ kiêng thịt (như qui định của Giáo Hội) mà còn kiêng cả những thức ăn thông thường khác như sữa, bơ, phô mai... Một số tập tục kỳ lạ - đối với con mắt của người không quen - vẫn còn rất phổ biến đến tận thời nay, chẳng hạn, bánh được cố tình nướng đến cháy khét.

Trong nhiều gia đình, một bầu khí thinh lặng phủ trùm. Người ta nhịn xem tivi, nhịn nghe radio, nhịn thưởng thức nhạc đời. Cho đến gần đây, người tín hữu vẫn coi trọng tinh thần ngày Thứ Sáu Thánh trên mọi sắc thái văn hóa thế tục. Phần lớn các cơ sở buôn bán làm ăn đều đóng cửa từ giữa trưa cho đến 3 giờ chiều. Ngày nay tập tục này chỉ còn được nhận thấy ở rải rác vài nơi.

Ba Giờ tưởng niệm

Nhiều tín hữu vẫn còn nhớ việc cử hành Ba Giờ Tưởng Niệm của ngày Thứ Sáu Thánh trong nhà thờ xứ đạo của mình. Truyền thống này đã được hội nhập vào phụng vụ chính thức của ngày Thứ Sáu Thánh và được kéo dài trong ba giờ, tương ứng với khoảng thời gian mà Đức Giêsu đã trải qua trên cây thánh giá. Việc cử hành này bao gồm việc đọc kinh nguyện chung và các việc đạo đức như đi đàng thánh giá, lần hạt Mân Côi, suy niệm về những lời nói cuối cùng của Đức Giêsu trước khi tắt thờ. Những việc đạo đức này vẫn còn khá phổ biến tại nhiều giáo xứ. Xuất phát từ Lima, Pêru vào năm 1732, truyền thống này đã lan đến các quốc gia Mỹ la tinh khác, rồi đến Anh, Ý và Hoa Kỳ. Còn các nơi khác trên thế giới, thực hành này không mấy phổ biến.

So với các tập tục ở các nơi khác, truyền thống cử hành Ba Giờ Tưởng Niệm xem ra nhẹ và thoáng hơn nhiều. Ở một số nước, nhất là ở Mỹ la tinh, người ta có thói quen tổ chức một đám táng vào ngày Thứ Sáu Thánh này. Thi hài được khiêng đi là một bức tượng di hài của Đức Giêsu. Điểm đến là một “mồ huyệt,” nơi người ta sẽ tiếp tục đến viếng như thể viếng một người thân của mình mới qua đời.

CANH THỨC PHỤC SINH  

Từ giữa màn đêm mới vừa buông xuống, một ánh lửa bén lên bên ngoài thánh đường. Ngọn lửa ấy được dùng để thắp cây Nến Phục Sinh, một cây nến đính các dấu biểu hiệu của con số chỉ năm dương lịch hiện tại, của thần tính Đức Kitô và của cuộc khổ nạn vinh quang của Ngài. Cây nến được trịnh trọng đem vào giữa đám đông đang qui tụ. Tại đây, cây nến được giới thiệu bằng lời ca hân hoan: “Ánh sáng Chúa Kitô... Tạ ơn Chúa.” Hàng trăm cây nến của các tín hữu tham dự được thắp sáng lên từ ngọn lửa của một cây nến duy nhất này, cho đến khi cả thánh đường chan hòa ánh sáng mới. Đứng trước cây Nến Phục Sinh đang bùng cháy, người lĩnh xướng cất tiếng hát bài Exultet - một bài ca cổ điển và hùng tráng công bố Tin Mừng Phục Sinh. Tiếp theo là các bài đọc Thánh Kinh đầy ấn tượng về nước và về công cuộc sáng tạo mới. Kinh Cầu Các Thánh được hát lên trong khi giếng nước Phục Sinh được làm phép bằng dầu thánh mới được thánh hiến chỉ vài hôm trước. Những người dự tòng bước tới, tuyên hứa các lời hứa Phép Rửa hòa trong tiếng nói đồng tình của toàn thể cộng đoàn vây quanh họ; và Phép Rửa được cử hành. Chuông bắt đầu đổ liên hồi. Hoa đèn rực rỡ cung thánh. Bài ca Alleluia uy phong vút lên sau sáu tuần lễ im bặt. Đức Giêsu Kitô đã sống lại từ cõi chết!

Không một khoảnh khắc nào khác của năm phụng vụ uy hùng và súc tích ý nghĩa cho bằng Đêm Canh Thức Vọng Phục Sinh này. Đây là đêm mẹ của mọi đêm. Đây là trái tim của Kitô giáo. Chúa đã sống lại trong đêm này.

Những giờ khắc ban ngày của ngày Thứ Bảy Thánh tiếp nối bầu khí mặc niệm của Thứ Sáu Thánh - và ngay từ những thế kỷ đầu, những giờ khắc ấy được xem như thời gian để thinh lặng và chay tịnh. Bản thân ngày Thứ Bảy Thánh không có phụng vụ hay truyền thống tôn giáo nào. Tất cả bầu khí nhằm sửa soạn để đón màn đêm buông xuống và cuộc cử hành mừng Chúa sống lại.

Canh thức Phục Sinh

Ngay từ thế hệ Kitô hữu đầu tiên, đã có việc cử hành hằng năm mừng Chúa sống lại. Trong suốt ba thế kỷ đầu, đây là lễ hội duy nhất được ghi nhận trong Giáo Hội. Việc cử hành nguyên thủy - tiền thân của Lễ Phục Sinh sau này - được thực hiện bằng hình thức một cuộc canh thức (vigilia trong tiếng La tinh có nghĩa là “sự tỉnh thức” hay “đợi chờ”). Thật dễ hiểu tại sao các Kitô hữu đã chọn những giờ khắc của ban đêm để cử hành cảm nghiệm tôn giáo của mình về cuộc khải thắng của Đức Kitô trên sự chết và tội lỗi - đồng thời đó cũng là cuộc khải thắng của chính họ, cùng với Đức Kitô. Chính trong những giờ khắc  của đêm tối trước ngày thứ nhất trong tuần (ngày Chúa Nhật) mà mầu nhiệm này đã diễn ra. (Matthêu 28,11; Máccô 16,1; Luca 24,1; Gioan 20,1).

Vào thời Giáo Hội sơ khai, có một niềm tin rất phổ biến rằng Chúa Phục Sinh sẽ trở lại trong chính những giờ khắc đêm tối này của Đêm Canh Thức Phục Sinh. Vì vậy, điều đương nhiên là tất cả mọi người cùng có mặt và chờ đợi. Đây sẽ là sự trở lại cuối cùng trong vinh quang của Người, và ngày nay trong mỗi Thánh Lễ, lời loan báo về sự cáo chung của thời gian vẫn còn vang lên để xác tín: “Đức Kitô đã chết, đã sống lại và sẽ đến!”.

Ngoại trừ một số thay đổi, nhất là thay đổi về thời lượng, nghi thức đã được canh tân ngày nay phản ảnh rõ chính nghi thức của những thế kỷ ban đầu. Vừa khi sao hôm xuất hiện trên bầu trời, các nghi thức bắt đầu được cử hành và kéo dài suốt cả đêm. Những khoảnh khắc đầu tiên dành cho việc đọc các bài đọc Thánh Kinh và những lời nguyện. Các bài đọc Thánh Kinh - thường gồm 12 bài - nhấn mạnh ý nghĩa tiên tri về một công cuộc sáng tạo và cứu độ mới bằng nước. Đó là những bản văn nói về cuộc tạo dựng ban đầu, sự sa ngã, trận lụt hồng thủy, câu chuyện sát tế Isaac, biến cố các thiên thần vượt qua cửa nhà người Do Thái để tàn sát các con trai đầu lòng của người Ai Cập, cuộc vượt qua Biển Đỏ và hành trình tiến vào Đất Hứa.

Khi bóng tối đã trùm kín không gian cũng là lúc chủ đề nói trên được thể hiện bằng nghi thức sáng tạo mới qua nước của Phép Rửa, nhất là Phép Rửa cho người trưởng thành. Vốn là một nét đặc trưng của Đêm Canh Thức Phục Sinh, nghi thức này bắt đầu với việc làm phép nước Phục Sinh một cách trọng thể. Trong khi cộng đoàn hát Kinh Cầu Các Thánh, cây Nến Phục Sinh cháy sáng được cắm vào nước, và dầu thánh cũng được chế vào hòa lẫn với nước. Giờ đây, những người dự tòng - thường đã được chuẩn bị từ vài năm trước - sẽ tuyên hứa từ bỏ mọi ảnh hưởng của Satan trên con người cũ của mình; họ tuyên xưng đức tin, lãnh nhận Phép Rửa, được xức dầu và mặc áo trắng. Vào thế kỷ thứ 5, trong Giáo Hội Rôma có thực hiện việc xức dầu lần thứ hai do đức giám mục - và đây chính là dạng ban đầu của bí tích Thêm Sức.

Trong những thế kỷ đầu tiên, người ta có thói quen trao sữa và mật ong đã được làm phép cho những người mới lãnh nhận Phép Rửa. Cử chỉ này có ý nghĩa rằng người mới lãnh Phép Rửa là người còn non nớt trong đức tin, gọi là tân tòng. Cử chỉ ấy cũng ám chỉ rằng họ vừa mới tiến vào miền Đất Hứa mới “chảy tràn sữa và mật ong”. Việc thực hành nói trên, có tầm vóc đánh dấu một mốc điểm quan trọng trong cả đời sống, vốn là một thực hành được vay mượn từ các thần thoại ngoại giáo.

Cuối cùng, gần lúc tờ mờ sáng, những người mới lãnh Phép Rửa sẽ rước Thánh Thể lần đầu - cùng với cộng đoàn tín hữu.

Lửa Phục Sinh

Nghi thức làm phép và thắp lửa Phục Sinh đầy ấn tượng, vẫn còn được duy trì cho đến ngày nay để bắt đầu mỗi đêm Vọng Phục Sinh, vốn không hề được nhận thấy trong nghi thức cổ thời. Trước kỷ nguyên Kitô giáo, người Germanic đã có thói quen đốt lửa tôn vinh thần minh để loan báo mùa xuân đã bắt đầu, và để cầu xin cho mùa màng được bội thu. Khi Kitô giáo được truyền bá đến với các sắc dân này, Giáo Hội cấm việc đốt lửa đầu xuân vì cho rằng đó là một thực hành ngoại giáo. Tuy nhiên, trong các thế kỷ 6 và 7, các nhà thừa sai người Ailen đã mang vào lục địa châu Âu một truyền thống làm Phép Rửa bên ngoài thánh đường vào tối Thứ Bảy Thánh. Truyền thống này đầu tiên do thánh Patrick khai mào để phản ứng lại ảnh hưởng của tập tục đốt lửa đầu xuân đang phổ biến giữa các tăng lữ vùng Celtic. Rồi truyền thống này trở thành quen thuộc trong đế quốc Caroling, lan tràn đến Rôma, và cuối cùng được đưa vào phụng vụ Đêm Canh Thức Phục Sinh.

Nến Phục Sinh

Việc thắp Nến Phục Sinh dường như bắt nguồn từ nghi thức Lucernare được thực hiện hằng ngày hồi cổ thời (“lucernare” có nghĩa là “thắp đèn”) mỗi khi màn đêm buông xuống. Còn truyền thống thắp nến trên tay những người hiện diện thì bắt đầu ở Rôma trong các thế kỷ đầu tiên. Bóng tối của Đêm Canh Thức được tràn ngập bởi áng sáng muôn ngọn nến tượng trưng cho Đức Kitô sống lại.

Trong vương quốc Frankish, nhiều ý nghĩa biểu tượng được gán thêm vào cho cây Nến Phục Sinh và tiếp tục đến ngày hôm nay, tùy theo sự thẩm định của vị mục tử. Một dấu thánh giá được khắc hay vẽ lên cây nến, kèm theo lời công bố: “Đức Kitô hôm qua và hôm nay, nguyên thủy và cùng đích,” rồi hai mẫu tự đầu tiên và cuối cùng của tiếng Hi Lạp được khắc lên: “Alpha và Omega.” Các con số chỉ năm dương lịch hiện tại được ghi nơi bốn góc tạo ra bởi hình thánh giá: “Thời gian là của Chúa, và mọi thế hệ là của Chúa; vinh quang và quyền lực là của Chúa qua mọi thế hệ đến muôn đời. Amen.” Bốn hạt trầm hương đính sẵn với những chiếc đinh bằng sáp màu đỏ được gắn lên bốn đỉnh thánh giá, hạt thứ năm được đính vào chỗ tréo ngang - với lời nói kèm theo: “Nhờ các dấu thương tích thánh và vinh hiển của Ngài... xin Chúa Kitô ... gìn giữ.... và bảo toàn chúng con. Amen.”

Phụng vụ buổi sáng Thứ Bảy Thánh

Khoảng đầu thế kỷ thứ 5, con số người lớn lãnh Phép Rửa giảm dần và việc rửa tội trẻ em trở thành điều thông thường. Vì Đêm Canh Thức Phục Sinh không còn cần quá nhiều giờ như trước nữa, nên vào thế kỷ 6 việc cử hành Thánh Thể được bắt đầu trước lúc nửa đêm, đến giữa thế kỷ 8 thì việc cử hành này được lui về sớm hơn nữa - ngay sau khi trời sập tối. Trong thế kỷ thứ 6, một Thánh Lễ cử hành vào buổi sáng Chủ Nhật Phục Sinh đã trở thành thông thường. Càng về sau, việc canh thức càng được cử hành sớm hơn nữa. Trong Lễ Qui của Đức Piô V (1570), luật Giáo Hội qui định việc Canh Thức thành một phụng vụ sáng Thứ Bảy Thánh, lưu giữ nguyên hình thức nguyên thủy của nó, chỉ trừ có việc cử hành Phép Rửa. Vì dài dòng - thường là vài tiếng đồng hồ - và cũng vì đã đánh mất ý nghĩa gốc của nó là cử hành mừng Chúa Phục Sinh, việc Canh Thức Phục Sinh không được mấy tín hữu tham dự. Không phải là chuyện quá xa lạ việc các giáo hữu tà tà đến vào lúc sắp vãn các nghi thức, đem theo bình chứa để lấy một ít nước Phục Sinh mới về nhà sử dụng như một á bí tích. Phần đông giáo hữu xem Thánh Lễ sáng Chủ nhật Phục Sinh là việc cử hành chính yếu mừng Chúa sống lại.

Canh tân việc Canh Thức Phục Sinh

Ngày nay, việc Canh Thức Phục Sinh đã lấy lại chỗ đứng xứng đáng của nó như nghi thức quan trọng bậc nhất của cả năm và như cuộc cử hành thứ nhất để mừng Chúa sống lại. Đầu tiên, vào năm 1951, sự canh tân này được áp dụng thử nghiệm. Đến năm 1955, nó được thiết định dứt khoát. Đêm Canh Thức Phục Sinh trong hình thức canh tân cũng gần giống hoàn toàn với hình thức nguyên thủy của nó trong các thế kỷ ban đầu, ngoại trừ là các nghi thức giờ đây chỉ kéo dài chừng hai tiếng đồng hồ thay vì suốt cả đêm. Các nghi thức bao gồm bốn phần rõ rệt: nghi thức làm phép và rước Nến Phục Sinh, phụng vụ Lời Chúa, cử hành Phép Rửa, và cử hành Thánh Thể.

Sự canh tân việc Canh Thức Phục Sinh đã đem lại ấn tượng cơ hồ như có hai Lễ Phục Sinh khác nhau. Tuy nhiên, mỗi năm càng có nhiều tín hữu ý thức cuộc canh thức Phục Sinh theo nguồn gốc của nó hơn: đây là đêm mẹ của mọi đêm và là cuộc cử hành thứ nhất để mừng Chúa sống lại. Sự canh tân trong việc dạy giáo lý cho người lớn dự tòng ở các giáo xứ cũng đã tái lập một nét đặc biệt cho Đêm Canh Thức Phục Sinh sau nhiều thế kỷ bị đánh mất: đó là việc cử hành Phép Rửa cho người trưởng thành. Đối với nhiều giáo hữu khác, Thánh Lễ sáng Chủ Nhật Phục Sinh vẫn là dịp chính để mừng Chúa sống lại.

Để có được những nghi thức mạch lạc và trang trọng cho đêm Canh Thức Phục Sinh, cần phải có sự chuẩn bị rộng rãi của những người hữu trách trong giáo xứ và của nhiều giáo hữu khác. Phải chuẩn bị sẵn lửa củi, nước, trầm hương, dầu thánh và các thứ trang hoàng thánh đường; nghi thức phụng vụ phải được dợt đi dợt lại. Còn những người lớn dự tòng thì bước vào những khoảnh khắc cuối cùng của quá trình sửa soạn lãnh nhận Phép Rửa.

Cho tới những thập niên gần đây, ngày Thứ Bảy Thánh là ngày giữ chay và kiêng nhịn một phần (chỉ được ăn thịt trong bữa ăn chính thôi) để sửa soạn đón mừng lễ trọng nhất trong năm. Quy định giữ chay này vẫn được duy trì ngay cả vào thời mà cuộc Canh Thức Phục Sinh long trọng được cử hành vào sáng ngày Thứ Bảy Thánh, và do đó đã tràn ngập bầu khí vui mừng của Lễ Phục Sinh rồi. Điều ấy cho thấy rằng mầu nhiệm Phục Sinh vẫn gắn kết chặt chẽ với những giờ khắc của buổi tối hôm trước và buổi sáng sớm ngày Chúa Nhựt.

Trong những năm gần đây, truyền thống giữ chay này đã được tái lập cùng với sự canh tân việc dạy giáo lý dự tòng cho người lớn. Những người lớn dự tòng chuẩn bị lãnh Phép Rửa trong đêm Canh Thức Phục Sinh thường dành ra một thời gian để tĩnh tâm kèm với việc giữ chay và cầu nguyện trước khi đi vào với cuộc Canh Thức Phục Sinh.

Làm phép giỏ thức ăn Phục Sinh

Các truyền thống phổ biến của ngày Thứ Bảy Thánh thường gắn liền, cách nào đó, với việc sửa soạn mừng lễ hội Phục Sinh. Vào ngày này hoặc trong suốt những ngày trước đó nữa, người ta chuẩn bị các thứ thức ăn. Việc làm phép những thức ăn đặc biệt mừng Lễ Phục Sinh hiện vẫn còn là một truyền thống phổ biến, nhất là đối với những người gốc Ba Lan. Người ta mang các giỏ thức ăn đến nhà thờ và chúng sẽ được cha sở ban phép lành.

Phục Sinh

Sáu tuần lễ trôi qua thật căng thẳng. Tiếng gọi hoán cải vang lên dồn dập. Một mùa đền tội, chẳng có chi là “thú vị” lắm! Mọi hình thức trang trí đều bị khống chế. Các nghi thức trong Tuần Thánh vừa qua đầy ắp tính biểu tượng. Những cành lá thiên tuế xếp lại, nhường chỗ cho tấn kịch đau thương. Bữa Tiệc Vượt qua rộn ràng rồi cũng đến hồi tàn, nhường chỗ cho thập giá. Và đêm qua, thập giá nhường chỗ cho lửa mới, dầu mới, nước mới - và sự sống mới.

Rõ ràng là một điều gì đó thật tuyệt diệu đã xảy ra khi người ta bước vào bên trong thánh đường. Họ được chào đón bởi một thánh đường lộng lẫy những dấu hiệu của sự sống mới: những sắc màu rực rỡ và những đóa huệ Phục Sinh xinh tươi. Điệp khúc Alleluia vang vọng dập dìu. Buổi sáng Phục Sinh đã đến rồi!

Đối với nhiều tín hữu - nếu không nói là đa số - đây là cuộc cử hành chính mừng Phục Sinh. Tuy nhiên, trong nhiều giáo xứ, cuộc cử hành chính đã diễn ra tối hôm trước với các nghi thức Canh Thức Phục Sinh. Thánh Lễ Phục Sinh vào sáng Chủ Nhật đã xuất hiện trong lịch sử khi cuộc Canh Thức mừng Chúa sống lại được dời lui về buổi sáng ngày Thứ Bảy Thánh.

Bầu khí của buổi sáng Phục Sinh cũng âm vang lại bầu khí của đêm Canh Thức tối hôm trước. Trong buổi sáng này, người ta tưởng niệm và cử hành chính nền tảng của Kitô giáo: Đức Giêsu đã được Phục Sinh từ cõi chết và Ngài là Chúa. Những ai tin và nhận lãnh Phép Rửa đều thông dự vào cuộc Phục Sinh này để hướng tới sự sống mới. Tiêu điểm này sẽ tiếp tục trong năm mươi ngày tiếp theo - tức mùa Phục Sinh.

Thật dễ hiểu tại sao ngay tự ban đầu các Kitô hữu đã xem khoảnh khắc này là khoảnh khắc linh thánh. Đây chính là khoảnh khắc kỷ niệm buổi sáng hôm nào khi họ cảm nghiệm được rằng Ngài đã sống lại và đang hiện diện giữa họ. Ngài đã chết vào dịp đại lễ Vượt Qua. Và sự sống lại của Ngài đã hoàn thành trọn vẹn ý nghĩa của lễ Vượt Qua theo nhận thức của họ trong tư cách là người Do Thái. Đó là một cuộc xuất hành, một chuyến đi bỏ lại sau lưng ách nô lệ xưa cũ để tiến đến với sự tự do đích thực của tâm hồn. Giêsu, Con Chiên Vượt Qua, đã bị sát tế để đạt đến tự do này.

Sự sống lại của Đức Kitô là dấu chỉ của những khởi đầu mới: một mùa xuân. Ý nghĩa này vốn đã được ghi nhận trong lịch sử của lễ Vượt Qua từ rất lâu trước cuộc Xuất Hành ra khỏi Ai Cập. Tổ tiên của người Do Thái đã cử hành lễ hội mừng hoa quả đầu mùa bằng việc dâng tiến bánh và ngũ cốc, và mừng lứa con đầu tiên của đàn súc vật bằng việc sát tế chiên con. Theo sự chỉ dẫn của Môsê, những lễ hội này được kết hợp lại trong một cuộc tưởng niệm hằng năm về cuộc trốn thoát lạ lùng của họ ra khỏi Ai Cập, và tưởng niệm biến cố thiên thần tru diệt đã vượt qua chứ không ghé vào nhà họ. Ngót 3000 năm và mãi đến hôm nay, người Do Thái vẫn còn cử hành cuộc giải cứu kỳ diệu này bằng việc nhắc lại câu chuyện ngày xưa ấy qua các bài ca, bài đọc và những thức ăn đầy tính biểu tượng: bữa tiệc Chiên Vượt Qua. Ngày nay, cũng như trong suốt giòng lịch sử vẫn thế, nghi thức này diễn ra vào buổi chiều ngày mười bốn tháng Nisan theo lịch Do Thái.

Truyền thống Ngày Chủ Nhật

Chính trong bữa tiệc Chiên của lễ Vượt Qua này mà Đức Giêsu đã cùng với các bạn hữu Ngài cử hành buổi tối trước cuộc khổ nạn, với lời yêu cầu rằng biến cố ấy sẽ được cử hành lại bằng một cách thức mới mẻ để tưởng nhớ Ngài. Và họ đã thực hiện lời yêu cầu ấy trong dịp kỷ niệm hằng tuần cuộc Phục Sinh của Ngài: ngày thứ nhất trong tuần, hay Chủ Nhật. Đương nhiên là dịp kỷ niệm hằng năm sẽ dành được sự nhấn mạnh nhiều hơn, với sự trang trọng đặc biệt.

Ngày Lễ Phục Sinh

Vào thời sơ khai của Kitô giáo có nảy lên một cuộc tranh luận về việc thiết định ngày Lễ Phục Sinh hằng năm. Một số người, thuộc khuynh hướng Quartodecimans (từ La ngữ có nghĩa là “thứ mười bốn”) cho rằng nên chọn đúng ngày Vượt Qua của Đức Giêsu trong lịch sử  tức ngày 14 tháng Nisan - và như vậy sẽ thường rơi vào một ngày trong tuần thay vì là Chủ Nhật. Những người khác thì cương quyết bảo vệ quan điểm rằng đó phải luôn luôn là một ngày Chủ Nhật, vì Đức Kitô đã chỗi dậy từ cõi chết vào ngày thứ nhất trong tuần. Cuộc tranh luận này đã trở thành điểm ưu tiên trong chương trình nghị sự tại Công Đồng Nicêa do Hoàng Đế Constantine triệu tập vào năm 325. Cuối cùng, ngày đó được quyết định là ngày Chủ Nhật tiếp theo sau ngày trăng tròn đầu tiên sau ngày xuân phân. Ở Tây phương, chỉ có Giáo Hội Celtic tại Anh là từ chối không chấp nhận quyết định ấy cho đến năm 664.

Sự phong phú, phì nhiêu - một ý nghĩa

Ngay từ thuở ban đầu, Phép Rửa cho các Kitô hữu mới đã diễn ra trong nghi thức cử hành hằng năm này. Việc thực hành này xuất hiện do có mối liên hệ thâm sâu giữa cuộc Phục Sinh của Đức Giêsu trong sự sống mới và cuộc tái sinh của những người lãnh nhận Phép Rửa. Ý nghĩa về sự sống mới này của Lễ Phục Sinh có liên quan tới ý nghĩa về sự phong phú, phì nhiêu. Khi Kitô giáo bắt đầu được truyền bá, cũng có một phong trào tôn giáo được phổ biến trong đế quốc Rôma. Phong trào này liên quan tới những thần thoại ngoại giáo về năng lực sinh sản phong phú. Không có mấy chứng cứ về việc Kitô giáo đã chủ ý vay mượn các điều tin tưởng và các thực hành từ những truyền thống này. Dẫu sao, điều tự nhiên là Kitô giáo đã nhận ảnh hưởng từ các truyền thống ấy - cũng như nó vẫn luôn luôn chịu tác động bởi thế giới thực tế xung quanh nó.

Một ví dụ về chủ điểm năng lực sinh sản phong phú được ghi nhận trong nghi thức Canh Thức Phục Sinh: sự nhấn mạnh được dành cho lửa và nước. Đây có lẽ là một ảnh hưởng từ lễ hội xuân mừng lửa và nước của người Rôma thời bấy giờ, một lễ hội đầy âm hưởng đề cao năng lực sinh sản dồi dào: lửa tượng trưng cho nam tính và nước tượng trưng cho nữ tính. Người ngoại giáo có cử hành một nghi thức trong đó một ngọn đuốc đang cháy bùng được cắm vào nước. Cho tới thời gần đây, việc làm phép giếng nước Phục Sinh của Giáo Hội vẫn có bao gồm ba lần cắm cây Nến Phục Sinh đang cháy vào trong nước. Sau đó, nước sinh sự sống này được dùng để tái sinh những người lãnh Phép Rửa. Hiện nay, cử chỉ cắm cây nến vào nước không còn có tính bắt buộc nữa.

Thánh Lễ Chủ Nhật Phục Sinh

Trong Giáo Hội sơ khai không hề có việc cử hành Lễ Phục Sinh vào ngày Chủ Nhật. Việc cử hành mà ngày nay chúng ta gọi là mững Lễ Phục Sinh đã diễn ra trong đêm trước Chủ Nhật, tức đêm Canh Thức Mừng Chúa Sống Lại. Thật vậy, Chủ Nhật Phục Sinh chính là Chủ Nhật thứ nhất của mùa Phục Sinh, bởi lẽ Lễ Phục Sinh tự nó đã diễn ra rồi. Thánh Lễ Chủ nhật Phục Sinh chỉ xuất hiện khi cuộc Canh Thức Phục Sinh được cử hành sớm vào buổi sáng ngày Thứ Bảy Thánh. Không có nghi thức đặc biệt nào gắn riêng với Thánh Lễ Chủ Nhật Phục Sinh ngoại trừ những gì đã được cử hành hết sức trang trọng trong cuộc Canh Thức tối hôm trước: cũng là những bài ca Mừng Chúa Phục Sinh (nhất là điệp khúc Alleluia), cũng là việc cử hành Phép Rửa và nhắc lại lời tuyên hứa Phép Rửa, cũng là việc rảy nước thánh trên cộng đoàn, cũng là cờ quạt trùng giăng và những đoá huệ Phục Sinh mơn mởn.

Không phải tất cả các truyền thống tôn giáo gắn liền với Lễ Phục Sinh đều có nguồn gốc Kitô giáo. Nhưng đa số các truyền thống ấy trải qua các thế kỷ đã nhận được một sự diễn dịch theo tinh thần Kitô giáo. Sắc thái của mùa này rõ ràng khác với sắc thái của Mùa Giáng sinh. Tuy nhiên, niềm vui cũng rộn ràng không kém; bởi vì đất trời đã vào xuân, bỏ lại sau lưng những tháng mùa đông lạnh giá; bởi vì người ta cảm nghiệm được sự sống lại của riêng mình sau những nỗ lực sống mùa chay tịnh; cũng bởi vì Mùa Chay đầy căng thẳng đã trôi qua

Con Chiên Phục Sinh

Con Chiên bị sát tế là biểu tượng chính yếu của bữa ăn Vượt Qua. Nó tiếp tục là biểu tượng của Đức Giêsu, Con Chiên Thiên Chúa, bị hành quyết và được Phục Sinh từ cõi chết để đem lại tự do cho tất cả những ai ở trong vòng nô lệ của tội lỗi và của sự mê muội về mặt tinh thần. Con Chiên Phục Sinh đã trở thành m ột biểu tượng quan trọng trong nghệ thuật Kitô giáo. Việc đưa biểu tượng này vào các kiểu trang hoàng Lễ Phục Sinh và việc nướng bánh Phục Sinh trong hình dạng con chiên cũng đã trở nên một truyền thống quen thuộc.

Tuần Bát Nhật Phục Sinh

Lễ Phục Sinh không chấm dứt một cách bất thần. Nó mở ra một mùa. Cũng như mọi đại lễ khác trong năm phụng vụ, Lễ Phục Sinh được mừng với một Tuần Bát Nhật, một lễ hội kéo dài cả tuần lễ. Trong những thế kỷ đầu những người lãnh Phép Rửa trong đêm Canh Thức Phục Sinh sẽ qui tụ lại với nhau hằng ngày trong suốt Tuần Bát Nhật Phục Sinh để được hướng dẫn thêm trong đời sống đức tin Kitô giáo. Những sự hướng dẫn đặc biệt này được gọi là mystagogia (truyền bí pháp). Ngày nay, việc “truyền bí pháp” này được khôi phục lại ở các giáo xứ. Một lần nữa, nó trở thành một nếp quan trọng trong hành trình đức tin của những người lớn mới lãnh nhận Phép Rửa.

 

Lm. Lê Công Đức tổng hợp,

theo Catholic Customs & Traditions của Greg Dues,

do  Twenty-Third Publications xuất bản.
 

VỀ MỤC LỤC
CHUNG SỐNG (2)

 

NHỮNG LIÊN HỆ CỦA HỌ TUỲ VÀO NHỮNG HÀNH ĐỘNG CỦA HỌ  

Bất cứ cái gì xảy ra giữa 2 người đều cho thấy sự liên hệ giữa họ với nhau. Không sự kiện nào xảy ra như gây khó chịu hay làm vừa lòng nhau có thể được đỗ lỗi chỉ cho một bên thôi. Cả hai bên tiếp tay nhau không kể người nầy là chủ động và người kia xem ra là thụ động. Cả người đày đọa và người bị đày đọa đều có lỗi vì người bị đày đọa đã cho phép sự ác tiếp tục xảy ra. Sự bạo chúa trong hôn nhân không thể được duy trì mà không có sự tùng phục của bên kia. Sự can đảm và tự trọng là khí giới hữu hiệu nhất trong việc đối đầu và ngăn chặn với bạo chúa.  

Không may, vì không ai ý thức được việc mình làm nên cả 2 bên đều lâm chiến, mà không nhận ra sự đóng góp và ảnh hưởng của mình trên cuộc chiến. Cuộc chiến làm nhức nhối nhau đó mang lại một hình ảnh phức tạp hơn khi vòng đai gia đình bao gồm nhiều người hơn. Điều đáng tiếc là sự đối phó với cuộc chiến nầy chính là một đặc nét nổi bật của đời sống gia đình chúng ta hôm nay, ở đó sự cạnh tranh lẫn nhau là một liên hệ tiêu biểu giữa vợ và chồng, con cái và bố mẹ, lớp già với lớp trẻ. Kết quả của những xung khắc chỉ làm xáo trộn sự bình an trong gia đình, mà không được hiểu một cách thõa đáng từ quan điểm của người đúng cũng như của người sai. Chúng ta phải nhận thấy ý nghĩa tâm lý của vấn đề liên hệ tới những người tạo nên nó. Không có gì khác biệt giữa những xung đột lớn hay nhỏ, có nguy hiểm hay không. Chúng ta phải phân biệt giữa nội dung có lý và ý nghĩa tâm lý. Sự giải quyết phải được quan tâm với những luật lệ tổng quát của nhân phẩm cũng như với những cơ cấu tâm lý của nguyên tắc.  

LÝ TRÍ NGHỊCH VỚI TÂM LÝ  

Ông chồng về nhà sau một ngày làm việc mệt mỏi bỡi những chuyện không vui ở sở. Bà vợ ở nhà suốt ngày mong đến chiều, dự định đi thăm một vài người bạn, nhưng ông chối từ vì tâm hồn không được thoải mái. Bà vợ phản ứng: “Đúng, ông luôn quá mệt khi tôi muốn đi ra ngoài. Lần nầy, tôi nhấn mạnh: Ông phải đi với tôi”. Cuộc cãi lộn xảy ra. Cô nàng sẽ khóc và cuối cùng anh chàng sẽ nhường nhịn, mặc quần áo và đi với nàng. Nhưng đó không là lối giải quyết dẫu có đi hay ở nhà. Nếu chàng nhường nhịn, chàng cảm thấy mình là nạn nhân, và phải đi trong lúc giận dữ thì không thể vui hưởng buổi tiệc. Nếu không đi, cuộc chiến sẽ kéo dài, có thể tranh cãi suốt cả đêm, rồi không ngủ được, và sáng hôm sau chổi dậy sẽ cãi nhau tiếp.  

Tất cả những yếu tố của một cuộc xung khắc xung khắc tiêu biểu có thể được nhận thấy trong biến cố nhỏ nầy. Sự cộng tác xem ra không phải dễ dàng nhưng cũng không biết đổ lỗi đó cho ai. Nếu cả hai vợ chồng ở trong tình trạng tử tế với nhau, họ sẽ không có cảm giác rằng người kia không hiểu và không quan tâm. Rất tiếc không được như vậy, nên theo lý luận cả hai đều bị phán đoán dựa trên đòi hỏi của họ. Ở đây không có sự khác biệt giữa ai đúng hoặc ai sai. Nếu họ thân tình với nhau, họ dễ dàng tìm thấy một sự đồng ý phù hợp với ước muốn mỗi người. Nếu sự viếng thăm là một trường hợp ngoại lệ, người chồng có thể khuất phục sự mệt mỏi và vui hưởng sự không mấy thích thú đó. Nhưng nếu sự chán nản và kiệt sức đáng quan tâm, người vợ nên chăm sóc anh ta hơn là đi viếng thăm những người bạn. Nếu sự viếng thăm và sự mệt mỏi quá mức ngoại thường, có thể khó quyết định, nhưng sự quyết định dẫn đến sự tranh cãi là một điều hoàn toàn không nên làm. Sự quan tâm đến nhu cầu của người khác xem ra dễ đi đến sự đồng ý hơn là khăng khăng bảo vệ ý kiến riêng của mình.  

Ý nghĩa tâm lý của vấn đề có thể được khám phá một cách sâu xa trong cảm giác cảm thấy bắt buộc tham gia vào công việc xã hội của ông chồng và sự thiếu khả năng để làm cho cuộc đời vui và có ý nghĩa của người vợ. Hay có khi bà vợ thuộc loại người hay yêu sách, không bao giờ cảm thấy thõa mãn với những cung cấp và chìu chuộng của ông chồng, lúc nào cũng chỉ muốn ông chồng dành tất cả sự chú ý và thời gian cho nàng. Và sự kiện được miêu tả chỉ là một dịp cho sự giận dữ đã được chấp chứa sâu xa bên trong bộc phát.  

Bất cứ lúc nào nổi lên một sự xung khắc, quyết định đầu tiên mà cả hai đều làm dầu không ý thức là có nên dùng những sự kiện nầy như một cơ hội để giao tranh và làm khổ nhau hay là chân thành cố gắng giải quyết vấn đề. Nếu có khuynh hướng cãi nhau thì sẽ không có giải quyết nào tốt đẹp. Ở đây chúng ta gặp một trong những cản trở quan trọng đối với sự hạnh phúc của hôn nhân là: có nhiều người tin rằng giao tranh sẽ mang lại cho họ một cái gì lợi cho họ. Cả hai đỗ lỗi, mắng chưởi nhau và sau khi chấm dứt họ lại chuẩn bị chiến trường cho lần tới. Họ ít thích thú trong việc tìm một  giải đáp hơn là thấy mình hoàn toàn có lý.  

Thật ra, thắng hay thua trận chiến không giúp được gì cho nhau. Điều xem ra hữu ích cho cả hai là cảm giác xã hội, cảm giác thuộc về nhau. Cảm giác nầy biến mọi xung khắc trở thành vấn đề chung chứ không phải vấn đề chàng hoặc nàng muốn gì. Cảm giác xã hội tạo nên một cái “chúng ta” mà nàng và chàng là một phần trong đó. Những xung đột vì quyền lợi trở thành những cơ hội cho sự xác định hợp nhất qua những cố gắng hỗ tương, và cho sự thiết lập những điều kiện mà cả hai đều vui hưởng – trong trường hợp nầy – hoặc ở nhà hoặc đi ra ngoài. Sự tin vào nhau kích động sự tin tưởng và ước muốn nâng đỡ nhau. Nếu chàng đặt lợi ích vào bàn tay nàng, nàng càng quan tâm đến ước muốn của chàng hơn là của nàng. Điều nầy xem ra cũng đúng đối với con trẻ tự nguyện muốn thay đổi sự cứng đầu để được quan tâm hơn nếu chúng được hỏi điều gì nên làm. Những người lớn cũng không có gì khác.  

PHỦ NHẬN ƯU THẾ HƠN ĐÒI HỎI  

Nhiều người tin rằng sức mạnh có ích lợi. Nếu họ không thể dùng sức mạnh thể xác để ép buộc một vấn đề nào đó như họ thường làm đối với trẻ con, họ muốn làm như vậy đối với người lớn về phương diện luân lý hoặc tinh thần. Ở đây chúng ta phải nhận thấy đặc tính tấn công bằng sức mạnh thì ngược lại với sự chống đối bằng thụ động. Cưỡng chế luôn có nghĩa là tỏ ra không kính trọng đối với một người nào. Sự kháng cự không là một cưỡng chế, trái lại nó chỉ bảo toàn nhân vị của mình mà thôi. Vì thế, sự phủ nhận của một người luôn mạnh hơn nhu cầu của người kia. Cái mà người nầy muốn thì không đáng kể nếu người kia không thích. Điều đó nên là luật cho cuộc sống gia đình. Trong trường hợp nầy, người vợ muốn đi ra ngoài trong lúc người chồng muốn ở nhà. Nàng muốn làm một cái gì, còn chàng thì không muốn. Phủ nhận của người chồng thì nặng ký hơn là yêu sách của người vợ. Điều đó có nghĩa là để làm một cái gì chàng không muốn xem ra thì khó hơn việc nàng rút lại điều nàng thích, ngoại trừ nàng có thể thuyết phục được chàng.  

Không may, những quy luật như thế thì ít được áp dụng. Thật khó để phân biệt giữa áp đặt và nhường nhịn. Nếu họ không được cái họ muốn, họ cảm thấy mình bị lạm dụng và cưỡng chế. Trong biến cố của những xung đột vì quyền lợi của nhau, dường như được khuyên là nên để người ta làm điều họ thích: không được áp chế nhưng cũng không cho phép nhường nhịn. Thường chúng ta không nhận ra sự phân biệt giữa hai ranh giới và những áp dụng thực tế của nguyên tắc nầy. Đằng sau những khó khăn nầy là sự thiếu kính trọng nhau. Họ chỉ không kính trọng nhau dẫu cho tình yêu và sự tận hiến cho nhau không có gì đáng chê trách.  

NGUỒN GỐC CỦA SỰ THIẾU KÍNH TRỌNG  

Có nhiều lý do tại sao người ta cảm thấy khó khăn đối xử với những phần tử khác trong gia đình với sự kính trọng thích hợp. Bất cứ là lý do gì, điều đó có thể cho thấy những sự sợ hãi cá nhân và những mặc cảm tự ty. Chúng ta có khuynh hướng phê bình những khiếm khuyết của bà con vì chúng ta nhận thấy chúng ta giống với họ. Khiếm khuyết của họ phản ảnh tình trạng và giá trị của chúng ta. Chúng ta cảm thấy xấu hổ về lầm lỗi của họ, dường như đó là lỗi lầm của chúng ta. Nếu chúng ta có cái gì chắc chắn, bảo đảm hơn về chúng ta, về giá trị cũng như địa vị riêng của chúng ta, chúng ta có thể chấp nhận khiếm khuyết chúng ta và khiếm khuyết của những phụ tá thân cận chúng ta một cách dễ dàng hơn, vì chúng ta không xem họ như biểu lộ của giá trị và ý nghĩa của chúng ta. Một người tự tin có thể xem những lỗi lầm, những giới hạn, những khuyết điểm trong một cái nhìn thích hợp mà không coi chúng như những hạch sách, lên án của xã hội. Vì thế, sự kính trọng đối với những phần tử trong một gia đình được nối kết với sự tự trọng. Người sợ sự thất sủng và sự nhục mạ thì rất nhạy cảm với sự bất toàn của những người bà con mình. Hơn nữa, nếu một người cảm thấy vô dụng trong tương quan với những khuyết điểm như thế, họ cảm thấy giận dữ những người đó và sẽ tỏ sự giận dữ hoặc bằng cách thụ động hoặc bằng cách hung hăng và bạo động. Cả hai cách đều dẫn tới sự thiếu kính trọng phẩm cách và giá trị của người khác.  

Một lý do khác dẫn tới sự thiếu kính trọng trong nhiều gia đình là tình trạng cạnh tranh trong gia đình cũng như ở thế giới bên ngoài. Chúng ta đã miêu tả tại sao vợ chồng trong thế giới hôm nay nhìn nhau như những người cạnh tranh. Con trẻ cũng vậy, cũng cạnh tranh với nhau. Chúng chống nhau để tranh giành sự chú ý cũng như tình thương của bố mẹ. Mỗi đứa nhìn đứa kia như một đe dọa đối với vị thế riêng của nó. Cũng có sự cạnh tranh như vậy giữa bố mẹ và con cái. Hai thế hệ già trẻ cũng cạnh tranh nhau cho sự danh tiếng. Trong một thế giới ít mang lại sự an toàn và sự bảo đảm về sự tôn trọng và quí mến lẫn nhau, cha mẹ cố gắng gây ấn tượng về ưu thế của họ đối với những đứa trẻ tỏ ra ít kháng cự nhất. Nhiều cha mẹ không nhận thấy những hành động hận thù và chống cự thường được cải dạng như tình yêu sung mãn hoặc tình cảm tràn đầy. Tại sao chúng ta không đối xử với những người thân yêu chúng ta như đã xử thế với nhũng người quen biết chúng ta gặp ngoài xã hội. Chúng ta được huấn luyện để đáp trả cho những lịch sự, tế nhị, yêu thương, và trọng kính. Tại sao chúng ta không dùng những kỷ thuật và kiến thức đó để phục vụ cho những người trong gia đình chúng ta?  

Lm. Lê văn Quảng, tiến sĩ tâm lý 

VỀ MỤC LỤC
TUYẾT XUỐNG ĐÊM QUA

 

Tôi cư ngụ ở California mười mấy năm, chưa bao giờ ị nhìn thấy tuyết. Khí hậu California ấm áp, nơi cư ngụ lí tưởng của người Việt tị nạn. Vào những ngày mùa Đông, khi tôi rét run, thì những người bạn ở tiểu bang xa về chơi, cứ khen ầm lên là trời mát. Nếu Californịa này có tuyết đi nữa, thì cũng ở những vùng rất cao, như Big Bear chẳng hạn, mà tôi thì lười đi chơi nên chẳng mấy khi lên vùng ấy.

 

Phải đợi đến chuyển đi Paris vừa qua, mắt tôi mới thấy tuyết thật sự chứ không phải thấy trong xi nê hay trên truyền hình. Paris đang trong những ngày cuối Thu, trời xám và buồn, tuy vẫn đẹp. Nhiều con phố hai bên đường cây cối đã rụng hết lá, còn trơ trọi những cành khẳng khiu. Vườn Lục Xâm Bảo vắng người và vắng luôn cả chim chóc, khác hẳn những ngày nắng ấm, người ta đến đó đông như đi hội, trong lúc những đàn chim họp bạn trên cây hay những bồn hoa, hót ca ríu rít. Chương trình khí tượng trên đài truyền hình loan báo nhiệt độ đã xuống dưới không độ bách phân đến năm, bảy độ. Đi dạo phố, tôi mặc áo ấm hai ba lớp, trông người to gần gấp rưỡi bình thường, cổ quấn khăn quàng, kéo mũ trùm đầu che kín má yà hai tai, vậy và tôi vẫn run lập cập, đôi tai thì lạnh buốt, xem ra muốn rụng rớt xuống đường. Paris có vẻ muốn bắt nạt người ở xa lớ ngớ mới tới.

Buổi sáng hôm ấy, tôi và một người bạn ra khỏi nhà. Chúng tôi sẽ lấy xe buýt ra nhà ga, từ nhà ga đáp xe điện đi một vùng ngoại ô Paris. Đã bảy giờ sáng mà trời còn tối như bưng. Người bạn đưa tôi đi trên những lối nhỏ quanh co dẫn ra trạm xe buýt ở ngoài lộ chính. Đang khi đi dưới những vòm cây, tôi thấy có những vật trăng trắng nhỏ li ti rơi trên đầu. Tưởng là hoa rụng về đêm, tôi ngạc nhiên vì không ngửi thấy mùi hương. Đi qua một ánh đèn đường, tôi mới biết đó không phải là hoa, mà là những bông tuyết. Tôi hỏi người bạn xem có đúng là tuyết không thì anh gật đầu và nói: "Phải, tuyết đã âm thầm rơi từ suốt đêm qua. ''

 

Chúng tôi chờ xe điện dưới ánh đèn vàng vọt. Tuyết mỗi lúc một xuống nhiều. Qua ánh đèn, tôi thấy tuyết bay tơi tả. Tuyết xuống rất êm, không gây nên tiếng động như mưa. Chính vì tuyết rơi âm thầm và êm đềm như vậy, cả đêm qua tuyết xuống mà tôi vẫn ngon giấc, không hay biết chút gì. Tuyết chẳng hề gây kinh động cho bất cứ ai, nhưng kết quả tuyết đem tới thì thật rõ rệt: chỉ một đêm tuyết xuống, sáng ra các mái nhà, mui xe, ngọn cây, cánh đồng... đều phủ đầy tuyết trắng xóa. Cảnh vật trông khác lạ hoàn toàn. Trong âm thầm, tuyết đã thực hiện những việc lớn lao và đổi mới tất cả.

Tôi ngồi trên xe điện, trầm ngâm nghĩ đến hai chữ ''âm thầm'' mà anh bạn vừa nói về tuyết, và tôi bắt đầu cảm thấy sức mạnh của sự âm thầm.

 

Tôi nghĩ đến những mạch nước ngầm âm thầm chảy trong lòng đất. Có thể người ta không biết hoặc không nghĩ đến những mạch nước ấy, nhưng những mạch nước vẫn âm thầm chảy, để một ngày kia vọt lên thành con suối trong hay dâng lên thành lòng giếng ngọt. Cũng có thể mạch nước ngầm ấy chẳng bao giờ thành suối thành giếng, nhưng mạch nước vẫn nuôi sống mặt đất bằng sự tươi mát của mình. Những cánh đồng cỏ xanh tốt, những thảo mộc đâm chồi nảy lộc, những thân cây đâm cành, đơm bông kết trái dấng hiến cho con người hương thơm ngào ngạt và vị ngọt tuyệt vời... đó là những kết quả được tạo nên bằng sự âm thầm của những mạch nước ngầm. Ngọn sóng có thể quét đi khỏi mặt đất mọi thứ, nhưng mạch nước ngầm âm thầm nuôi dưỡng vạn vật.

 

Tôi nghĩ đến những con sâu âm thầm cuốn mình trong lòng kén. Sâu ẩn mình đi, co rút lại, hầu như bất động trong một thời gian dài. Kết quả của sự âm thầm ấy là một ngày kia sâu cắn tổ kén, mọc cánh thành bướm. Những cánh nhiều màu rực rỡ, nâng thân sâu lên cao, thênh thang bay lượn giữa bầu trời rục nắng. Nếu sâu không tự nguyện chui vào lòng kén, không âm thầm và kiên trì ,''tu luyện'' trong kén, chẳng bao giờ sâu có thể tự biến đổi thành bướm. Sâu sẽ chết ở một góc tối nào đó với kiếp sâu.

Tôi nghĩ đến những con người âm thầm theo đuổi một mục tiêu, một lí tưởng cao đẹp. Họ không khua chiêng đánh trống, cũng không cần ai biết đến việc làm của họ để mà khen ngợi. Trong âm thầm, họ phục vụ lí tưởng; trong âm thầm, họ tiến dần tới mục tiêu. Nếu không có sự âm thầm ấy, chưa chắc họ đã đạt được đích điểm. Biết bao điều có thể cản trở họ, kể cả ca con người của họ.

Tôi nghĩ đến những tình bạn, nảy nở và thể hiện trong âm thầm, tươi đẹp và hữu ích. Trong tất cả những câu chuyện về tình bạn trên thế giới, kể cả tình bạn tri âm ''Bá Nha - Chung Tử Kì'', có lẽ không câu chuyện nào đẹp bằng câu chuyện ''Lưu Bình - Dương Lễ ". Nếu sau khi Lưu Bình thất bại ở trường thi, Dương Lễ làm vui lòng bạn bằng đón tiếp nồng hậu, đon đả giúp đỡ Lưu Bình, hậu đãi Lưu Bình bằng tiền bạc, vật chất, Lưu Bình đã không thành công sau đó. Nhưng trong âm thầm, Dương Lễ đã hi sinh để giúp Lưu Bình một cách hữu hiệu. Tình bạn ấy đẹp đẽ và hữu ích quá.

Tôi cũng có những người bạn, trong âm thầm sửa đổi những nết xấu của tôi, nâng đỡ tôi trên đường bước theo lí tưởng, bênh đỡ tôi khi tôi gặp gian nguy, cầu nguyện cho tôi được ơn lành trong mọi lúc. Những người bạn ấy không cần để ý xem tôi có biết đến sự nâng đỡ của họ không. Chính sự âm thầm của những người bạn ấy đã giúp tôi một cách hữu hiệu.

 

Tôi nghĩ nhiều hơn nữa đến những bài học âm thầm mà Chúa Ki tô và Giáo hội đã nêu gương và dạy bảo tôi.

Chúa Ki tô dạy tôi bài học âm thầm khi Ngài giáng thế một cách đơn sơ, nghèo hèn trong máng cỏ Bê-lem. Nếu không có sự giáng sinh âm thầm ấy, ơn cứu chuộc đã không đến với con người, trong đó có tôi.

Chúa Ki tô dạy tôi bài học âm thầm khi Ngài sống ẩn dật suốt ba mươi năm tại vùng quê hẻo lánh Nazareth. Trong âm thầm, kế hoạch cứu chuộc nhân loại bằng yêu thương đã hình thành, để rồi sau đó Ngài đem ra thực thi và rao giảng.

Chúa Ki tô dạy tôi bài học âm thầm khi Ngài chấp nhận ẩn mình trong hình bánh, nép thân trong Nhà Tạm, ở lại với con người ''mọi ngày cho đến tận thế''. Không có sự âm thầm đó của Chúa Ki tô, làm sao con cái của Giáo Hội có được diễm phúc kết hợp cụ thể và mật thiết với Ngài?

Giáo Hội cũng đã dạy tôi nhiều bài học âm thầm.

 

Nếu không có những giáo hữu sóng âm thầm trong các hang toại đạo hết năm nọ sang năm kia, chắc chắn đã không có Giáo hội Ro ma ngày hôm nay. 

Nếu không có các vị truyền giáo chấp nhận sống cuộc sống âm thầm giữa những nơi rừng già núi thẳm hay giữa những xã hội bán khai, Tin Mừng của Chúa làm sao có hi vọng ''loan truyền khắp mọi nơi trên mặt đất.''

Nếu không có những tu sĩ, nữ tu âm thầm cầu nguyện Iiên lỉ trong các nhà dòng, hành trình truyền giáo của các vị thừa sai chưa chắc đã thành công.

 

Nếu không có những nữ tu tươi tắn. xinh đẹp cả tâm hồn lẫn thể xác, tự nguyện sống âm thầm trong những trại phong cùi, ai sẽ là người săn sóc, an ủi, nâng đỡ những con người phong cùi đau khổ đó?

 

Nếu không có những thánh lễ được dâng lên âm thầm hằng ngày, hằng giờ tại khắp mọi nơi trên thế giới, Giáo hội làm sáo đứng vững trước mọi cuộc bách hại của trần gian, và làm sao thực hiện sứ mệnh rao truyền Tin Mừng cứu độ của mình?

Giáo hội đã âm thầm sống giữa lòng những chế độ công khai bách hại mình. Giáo hội cũng đã âm thầm sống giữa lòng những xã hội mà tư tưởng vô thần, phủ nhận Thượng Đế được công khai cổ võ.

Trong âm thầm, Giáo hội đã gieo xuống lòng đất hạt giống Tin Mừng, để một ngày nào trổ sinh thành cây lúa trĩu nặng hạt vàng. Trong âm thầm, Giáo hội đã làm mọc lên cho nhân loại và thế giới những cây trái tươi tốt, đem lại vị ngon ngọt và sức bổ dưỡng cho con người.

Bài học của Chúa Ki tô và Giáo hội giúp tôi thêm cảm phục những gương sống âm thầm.

Tôi cảm phục những ''Martha của thời đại", âm thầm phục vụ cộng đồng. Tôi ý thức rằng khi bất cứ một môi trường, một tổ chức nào được thăng tiến, trong đó chắc chắn đang có những con người thiện chí đang âm thầm hi sinh.

Tôi cảm phục những người cha, người mẹ âm thầm hi sinh cho con cái, chịu đựng mọi vất vả để mua lấy tương lai tươi sáng cho các con, không cần biết các con có đền ơn hay biết ơn mình không.

Tôi cảm phục những con người, những tổ chức, trong âm thầm dọn một con đường tươi sáng hơn, vinh quang hơn cho dân tộc tôi. Tôi kính trọng những anh hùng vô danh, những vị không được nêu tên trên bảng vàng, bia đá, nhưng trong âm thầm đã dâng hiến những hi sinh lớn lao vì đại nghĩa dân tộc:

"Họ là những anh hùng không tên tuổi,

Sống âm thầm trong bóng tối mông mênh,

Không bao giờ được hưởng ánh quang vinh,

Nhưng can đảm và tận tình giúp nước.''

(Đằng Phương)

Tôi cảm phục những người trong âm thầm, dùng gương sống của chính mình, chứ không bằng những lời tuyên bố, cải thiện khuôn mặt của môi trường mình đang sống.

Trên chuyến xe điện lao đi trong cơn mưa tuyết ngày hôm ấy, tôi đã suy nghĩ nhiều đến những khía cạnh cao quí và hữu ích của sự âm thầm. Và rồi ngồi trên chuyến xe ấy, nghĩ đến một bến đỗ đang đợi chờ, tôi cũng nghĩ về một chuyến đi dài nhất trong cuộc đời tôi mà bến đỗ là cuộc đời vĩnh cửu. Kiểm điểm lại, tôi nhớ rằng trên chuyến đi này, nhiều khi tôi đã chạy một cách ồn ào, hay đã vừa đi vừa hò hét. Cũng có khi tôi đã chán nản đứng lại hay mệt mỏi ngồi bệt xuống vệ đường. Nhưng nghiệm lại, những bước chân làm kinh động người khác, những bước chân hối hả vội vã, những bước chân có kèm theo tiếng kèn tiếng trống, có lẽ không ích lợi và hữu hiệu bằng "những bước chân âm thầm " nhưng kiên trì và nhẫn nại.

 

Dĩ nhiên, đi với những bước chân âm thầm không có nghĩa là tôi bước đi trong lẻ loi cô độc. Bởi thế, tôi mong rằng sẽ có những người bạn cùng tôi đồng hành với những bước chân âm thầm ấy.

Nhà Văn Quyên Di

VỀ MỤC LỤC
TẢN MẠN VỀ BIA

 

Lại một tình cờ đã đưa tới sự khám phá ra cách chế biến món nước “Tinh Thần”, uống cho tới tận cùng say xỉn này.

Truyền thuyết kể lại là cách đây trên mươi ngàn năm, một cô bé đang ăn miếng  bánh mì khô uống với ly nước lạnh, thì có bạn gọi đi chơi trò nhẩy dây. Cô ta ném  miếng bánh vào ly nước, để trên mặt bàn rồi chạy ra ngoài.  Đó là miếng bánh cũ bỏ quên trong cặp  sách đã lâu, có bám bụi xanh.

Mấy ngày sau bà mẹ dọn  bàn thấy ly nước trong trong, có mùi thơm thơm. Đang khát nước, bà bèn uống. Một lúc sau cảm thấy trong người sảng khoái, lên tinh thần. Bà khoe với ông chồng và ngỏ ý muốn có thêm. Chiều vợ, ông chồng  làm nước đó cho vợ và gia đình. Lối xóm bắt chước và thiên hạ cũng làm theo. Thế là Bia  ra đời. 

Anh ngữ gọi là Beer, Pháp ngữ là Biere từ chữ Latin “Bibere” nghĩa là Uống.

Người Việt ta phiên âm là LA DE  từ chữ La Biere cho tiện việc sổ sách.

Tiếng Đúc Baere, từ chữ Barley là loại lúa mạch dùng nhiều nhất để làm la de.

Trung hoa gọi  bia là Ty tửu vì có ít ethanol. 

Theo các nhà khảo cổ, thì la de được dân chúng thành phố Babylon chế ra đầu tiên một cách khá quy mô, cách đây trên  6000 năm. Họ ngâm  nước  cho hạt lúa mạch lên mốc xanh, nghiền nát,  trộn với nước, để dăm ngày rồi uống. Khi đó, la de rất được dân chúng ưa thích, mà khả năng biến chế giới hạn nên các Lãnh Chúa bèn đặt chế độ khẩu phần. Dân lao động chỉ được mỗi ngày hai lít, công nhân viên nhà nước ba lít, quan chức cao cấp và quý ngài tu sĩ năm lít.  

Từ Ai Cập, la de lan tràn ra các nước khác và được phổ thông trước khi nho được trồng làm rượu vang, vào thời kỳ đế quốc La Mã. Con dân đế quốc coi la de như thứ nước uống của người man di, còn họ uống thứ nước dành cho Thần Linh, ấy là rượu vang.  

Cũng nên nhắc là việc nấu la de, theo luật đời xưa, là việc làm của nữ giới. Đến sau Thiên Chúa giáng sinh thì la de được đưa vào thị trường thương mại, ai mua cũng được.

Chuyện này cũng có lý do. Vì đã có một thời kỳ,  làm la de được các tu viện hầu như dành quyền ưu tiên chế biến và là nguồn lợi tức đáng kể cho cơ sở tôn giáo. Ngoài lợi tức, các tu sĩ còn muốn tự do dùng la de  chung với thực phẩm ngon mà họ được cung cấp. Đồng thời la de không bị cấm trong thời gian ăn chay, nên các ngài tự do dùng và mỗi tu sĩ được chia tới 5 lít một ngày.

Chỉ sau thời kỳ Cải Cách giáo hội Thiên Chúa Giáo La Mã, đưa đến sự thành lập các giáo hội Tin Lành vào thế kỷ 16, sự ưu đãi độc quyền làm bia này cho tu viện mới được bãi bỏ. Bia được các nhà sản xuất thương mại trách nhiệm.

Nhưng phải công nhận là nhờ kiến thức của các tu sĩ mà kỹ nghệ làm bia tiến bộ rất nhiều, từ việc một miếng bánh rơi vào ly nước tới những máy móc, tuy thô sơ, nhưng mau lẹ, làm được nhiều  lại an toàn vệ sinh, có phẩm chất ngon hơn.

Kỹ nghệ sản xuất bia thực sự  cải thiện vào đầu thế kỷ thứ  19 với sự sáng chế ra máy hơi của James Watt và hệ thống làm lạnh của Carl von Linde. Trước đó, bia thường được làm vào mùa Đông, thuận tiện cho sự lên men của bánh. Từ  khi khám phá ra hệ thống làm lạnh, bia được sản xuất quanh năm. Đầu máy hơi nước của James Watt giúp sự sản xuất bia từng loạt với số lượng nhiều hơn.

Trong việc làm bia, nhà bác học Pháp Louis Pasteur cũng cống hiến một khám phá quan trọng: Đó là sự tìm ra những nấm lên men mà ông đã trình bày trong nghiên cứu tựa đề “ Etude de la Bierre”, vào năm 1876. Nhờ khám phá này mà ngày nay ta đã nuôi được men và dùng rộng rãi trong kỹ nghệ làm bia và rượu vang.

Một khoa học gia khác người Đan Mạch, Christian  Hansen, đã thành công trong việc tách  một thứ nấm, trồng trong dung môi dinh dưỡng và dùng  hàng loạt vào việc lên men lúa mạch để làm bia. 

Làm bia.

Muốn có một lon bia, ta cần bốn vật liệu chính yếu: Nước, ngũ cốc, men và cây Hoa Bia (Hop= Houblon).

a- Ngũ cốc

Bia có thể được làm từ gạo (Việt Nam,Trung Hoa Nhật Bản), ngô (Thổ dân American Indian), mì ( Đức wheat), lúa mạch đen ( Nga, ryes) yến mạch ( Oats) nhưng thông thường nhất vẫn là bằng hạt lúa mạch ( Barley) rồi đến lúa mì. Ngô và gạo cho loại bia kém phẩm chất.

Lúa mạch có nguồn gốc từ Châu Á và Ethiopia và là loại ngũ cốc được sản xuất đứng hàng thứ tư sau lúa mì, gạo và ngô. Lúa mạch có lượng carbohydrates khá cao, tới 67% và 13% chất đạm.

Trước hết, mạch được ngâm trong nước độ một tuần cho nẩy mầm đồng thời tinh bột của mạch được  chuyển hóa thành đường maltose. Sau đó mạch có mầm được đun chín rồi sấy khô, say khỏi vỏ rồi ngâm trong nước nóng. Đường trong mạch sẽ hòa vào nước cho một dung dịch có vị ngọt.

Dung dịch này  được đun sôi khoảng hai giờ  để diệt hết vi khuẩn. Đây là lúc mà Hoa Bia được thêm vào để tạo ra vị đắng  cho bia. 

b- Hoa bia

Houblon là loại cây leo có hoa mọc thành từng chùm. Hoa được sấy khô để tạo vị đắng cho bia. Đun càng lâu thì chất đắng của hoa bia càng tan nhiều trong nước, bia sẽ đắng hơn.

Nghiên cứu ở Mỹ cho biết cây Hoa Bia có chất  chống oxy hóa Antioxidant Prenylated Flavonoids rất tốt để giúp cơ thể giảm nguy cơ bị các bệnh tim, ung thư, sa sút trí tuệ và cao cholesterol.

Dung dịch được để nguội, vớt hết lá hoa bia và cặn bã ra rồi men được thêm vào

c- Men

 Men bia là những nấm nhỏ li ti có khả năng chuyển đổi tinh bột ra đường. Nấm có nhiều trong thiên nhiên.

Hai loại men thường dùng  trong kỹ nghệ bia là Sacchromyces cerevisiae nổi lên mặt dung dịch  và  loại Saccharomyces uvarum, chìm dưới đáy. Mươi ngày sau men sẽ chuyển hóa hầu hết đường maltose và lúc đó ta đã có một lon bia.

Nhưng chưa đủ, muốn có hơi sủi bọt, bia được chuyển vào một bình điều hòa để lên men lần thứ hai và có hơi carbonates.Vì  còn vẩn đục, nên  bia được  lọc.

Bia vô lon hoặc chai được  đun nóng ( Pasteurized) để diệt hết các vi khuẩn còn sót và để chặn sự lên men.

Draft bia không đun nóng nhưng phải giữ ở nhiệt độ lạnh cho tới khi dùng để bia thôi lên men. Uống ngay sau khi sản xuất, Draft bia  ngon hơn vì trong khi chuyên trở đi xa, sự thay đổi nhiệt chung quanh ảnh hưởng tới phẩm chất của bia. 

 đ- Nước

Nước dùng để làm bia cũng rất quan trọng. Nước có nhiều khoáng chất thì bia đắng hơn là nước có ít khoáng chất.

Beer cũng như rượu vang có từ 2-6% Ethanol trong khi đó rượu mạnh như wisky, gin, vodka có tới 45-50% ethanol. 

Một vài loại  bia

Như đã nói ở trên, bia có thể làm từ lúa mì, ngô, gạo nhưng lúa mạch thường được dùng nhiếu nhất.

Ngay cả làm từ lúa mạch, bia cũng có nhiều loại tùy theo  men nổi hay chìm, nhiệt độ và thời gian để mạch lên men, số lượng Hoa bia, thời gian và nhiệt độ nơi cất giữ bia. Theo luật, bia không được có quá 5% chất rượu ethanol.

- Ale nặng hơn beer và dùng men nổi mà beer thì dùng men chìm dưới đáy.

- Bitter là la de có nhiều Hoa bia nên đắng hơn và được dân Anh rất thích.

- Lager  cũng là la de nhẹ, mầu lạt, rất phổ thông bên Đức.

- Malt liquor mạnh hơn beer.

- Shandy là hỗn hợp beer với nước chanh (lemonade) hoặc ginger beer)

- Sake của Nhật được chế từ gạo, có nồng độ ethanol từ 14-%, nên thường được gọi là rượu gạo rice wine. Nhưng thực ra sake là một loại beer vì cũng được làm bằng sự lên men của gạo. Sake không có mầu, không có hơi, hâm nóng uống ngon hơn, trong khi đó beer phải uống lạnh mới đã. 

Dinh dưỡng

Về phương diện ăn uống, ngoài nước,  bia có một số lượng các chất dinh dưỡng rất khiêm nhường vì đa số đã  bị tiêu hủy trong quá trình chế biến.

Một ly 360 cc (12 Oz)  cho 140 calories mà 60% là do chất rượu ethyl alcohol của bia; 17mg calcium; 28mg magnesium; 40mg phosphore; 85mg potassium; rất ít Zinc, sinh tố B.

Các chất đạm, chất béo, sinh tố C và sinh tố hòa tan trong chất béo đều có rất ít nên bia được nhiều người coi  như chẳng bổ dưỡng gì ngoài một số calories. Chẳng thế mà  bác sĩ David Williams của đại học Wales, Anh Quốc đã cổ võ là trong chương trình giảm béo, nên uống nửa lít  bia một ngày  vì bia có tới 93% là nước lã, không đường, không chất béo.

Bia còn giữ hương vị thơm ngon nếu tiêu thụ trong vòng  hai tháng sau khi làm, do đó  không nên mua tích trữ quá nhiều và quá lâu. Cất bia ở chỗ mát, không có ánh nắng mặt trời để bia khỏi lên mùi.

Ly để uống bia cần sạch, không vết mỡ  vì mỡ làm bia hết bọt.

Cũng không nên uống bia quá lạnh vì nhiệt độ thấp làm  giảm mùi thơm của bia.

Bia với Sức Khỏe

Trang báo  Forbes ngày 17 tháng 3 năm 2008, tác giả Allison Van Dusen có nêu ra 8 lý do lành mạnh để uống bia, căn cứ vào một số nghiên cứu khoa học. Đó là  từ 30-35% ít bị heart attack, tăng chất béo lành HDL, giảm rủi ro máu cục, giảm hóa già, bảo vệ khỏi tử vong vì bệnh tim mạch, tăng trí tuệ giảm Alzheimer, giúp xương chắc mạnh, giảm biến chứng tiểu đưởng.

Nhưng Allison nhấn mạnh ở chữ vứa phải moderation. Vừa phải là 240 cc, ngày hai lần, quý bà thỉ chỉ ½ mà thôi.

Lưu ý là uống bia mãn ngày mãn tháng, lon trước rước lon sau thì hậu quả tai hại cũng nhiều. Chẳng hạn như trở thành bét nhè nghiện rượu, xơ cúng ung thư gan, ung thư miệng…Ấy là chưa kế phá rối an ninh trật tự công công khi say xỉn, gây gổ hận thù, than chủ thường xuyên của khám nhỏ khám lớn. Ngoài ra, có nghiên cứu cho là uống vài ly bia/ngày có thể tăng rủi ro ung như nhũ hoa nữ giới.

Thành ra bia không phài là tốt cho mọi người.

Như giáo sư Charlie Bamforth, Đại học California ở Davis, nhắc nhở là không nên coi bia như một dược phẩm. Uống bia vì ý thích nhưng vừa phải là điều cần nhớ.

Bác sĩ Nguyễn Ý-Đức M.D.

Texas-Hoa Kỳ

VỀ MỤC LỤC
CỌP VÀ NGƯỜI - Chuyện phiếm của Gã Siêu

 

Theo Từ Điển Bách Khoa Việt Nam, thì hổ, cọp hay hùm là loài thú ăn thịt, họ mèo. Thân dài, cổ ngắn và to. Đầu gọn, có răng khoẻ. Bàn chân trước rộng, có vuốt sắc. Lông vàng đỏ, có nhiều vằn đen. Vai cao 95-110 cm. Nặng 250-280 kg. Hổ đực lớn hơn hổ cái. Sống trong các loại rừng, kể cả rừng đầm lầy có lau sậy. Ăn hươu nai, lợn rừng; có khi bắt cả trâm, bò, thỏ. Có thể ăn tới 30-50 kg thịt một bữa, sau đó nhịn nhiều ngày.

Con cái ba năm sinh một lần. Động đực 4-8 ngày. Chửa 93-114 ngày. Đẻ 1-5 con. Sau 5-6 tháng cai sữa. Hổ con thành thục khi 3-5 tuổi. Sống khoảng 20-30 năm.

Ngày xưa ở Việt Nam, hổ có mặt từ Bắc chí Nam. Da hổ đẹp, có giá trị trang trí cao, nên bị săn bắt mạnh. Trên thế giới, dự đoán chỉ còn 6000-7000 con. Riêng tại Việt Nam, chỉ còn vài trăm con.

Hổ bị săn bắn nhiều để lấy xương, nấu thành “cao hổ cốt”. Trung bình mỗi bộ xương hổ nặng từ 10-12 kg. Cứ khoảng 100 kg xương hổ, thì nấu được 30 kg cao. Bộ phận sinh dục của con đực được dùng làm thuốc.

Hổ là động vật quí hiếm đang có nguy cơ tuyệt chủng, nên cần được bảo vệ.

Từ bài nghiên cứu trên, gã xin bàn tới loài hổ, bằng cách lươm lặt đó đây những mẩu truyện, để bàn dân thiên hạ cùng đọc cho vui, nhân dịp đầu xuân năm mới.

Trước hết là tài nói dóc của bác Ba Phi được đăng trên trang “Đất Mũi”. Truyện rằng: Hai đứa con thằng Tư Mít, cha mẹ đi làm bỏ chúng trên sàn gác, gặp cọp vô nhà chơi hoài. Chúng nó vắt cơm cháy, thảy xuống cho cọp ăn. Ăn quen. Lần đó thằng Tư Mít núp trên sàn gác, đốt đỏ cái ống ngoáy trầu của bà, rồi thảy xuống, cọp hả họng ra hứng liền. Lần ấy, nó chạy, la vang rừng suốt mấy bữa.

Lại có truyện rằng: Bà Tám ở xóm trên, đêm ngủ ngoài bụi ráng, vì bữa chiều hôm trước, bà uống rượu ở đám giỗ xóm dưới, say quá không về tới nhà. Sáng ra, bà thấy cái đầu mình trọc lóc như trái bưởi, thì ra đêm hôm đó, bà bị một con cọp đến liếm đầu!

Như tất cả chúng ta đều biết hổ là một loại thú dữ, vừa khoẻ lại vừa mạnh, nên hổ trở thành một mối nguy hiểm cho những người đi rừng, một nỗi sợ hãi cho những người dân sống ở miền núi, mỗi khi hổ về làng.

Truyện rằng: Làng Bung Koong, thuộc xã Đăk Blô là một trong những làng có số lượng trâu bò nhiều nhất xã. Tập quán chăn nuôi của đồng bào từ xưa tới nay vẫn theo kiểu “nhờ trời”, trâu bò thả ngoài rừng, cách làng khoảng 5 cây số. Lâu lâu người ta mới lên thăm đàn trâu bò của mình, cho ăn ít muối để chúng nhớ hơi người, khỏi trở thành vật hoang.

Một ngày đầu tháng năm, gia đình A Ná lên thăm bò. Như thường lệ, ngửi thấy hơi muối, đàn bò lại chúi mõm vào bàn tay chủ. A Ná đếm thử thấy thiếu hai con bò, anh nhờ người làng tìm kiếm mãi nhưng không thấy.  Liền đó, các nhà Y Vác, A Đảng, A Sáng, A Pel… cũng kêu mất trâu bò.

Thấy sự bất thường, già làng huy động mọi  người cùng tìm kiếm. Trong đầu ai cũng cho là có kẻ trộm. Sau nửa ngày truy lùng, đến gần trưa thì phát hiện xác một con bò đã bị ăn mất phần sau. Cái mõ đeo ở cổ đã giúp A Ná nhận ra bò nhà mình. Dấu răng gặm nham nhở cho thấy thủ phạm đích thị là “ông cọp”. Nhà A Ná vẫn may vì bò còn “khúc giữa”. Nhiều nhà chỉ tìm thấy vài mẩu xương bò sắp mủn.

Chị Y Nghiếp nói giọng thảng thốt:

- May mà Yang (Trời) thương nên giúp con trâu mình chạy kịp. Đêm vẫn nghe tiếng cọp gầm ở cánh rừng phía trước. Sợ nó lại mò về làng bắt trâu. Nhiều đêm nay mình không dám ngủ.

Không riêng làng Bung Koong, mà các làng khác trong xã cũng vậy. Đi tới đâu chúng tôi cũng nghe bà con than thở chuyện trâu bò bị cọp ăn thịt. Người dân các làng cùng hợp sức chống cọp. Họ đã tìm ra “căn cứ địa” của cọp. Anh A Dem ở làng Bung Tôn kể:

- Khi chúng tôi vào chân núi Piêng Ôi, nhiều nơi dấu chân cọp vẫn còn mới; có những dấu chân to gần bàn tay người lớn xòe ra, đường kính khoảng 20cm. Ngày hôm qua, vào rừng mang theo sáu con chó săn, nhưng khi ngửi thấy mùi cọp, cả đàn sợ rúm quẩn quanh chân mình, tru lên thống thiết.

Bà con còn cho biết, qua dấu chân để lại thì đây là một con cọp ba chân. Khả năng con cọp này bị mắc bẫy, đã tự cắn đứt chân mình để thoát thân. Đó có thể là một con cọp rất lớn và khá tinh khôn, bởi khi bắt trâu bò, nó nhấc bổng để tha vào rừng chứ không kéo lê dưới đất. Có con trâu nặng vài tạ nhưng nó “xơi” chỉ còn mấy khúc xương to và cái đầu.

Người dân hoang mang: đàn cọp có mười con. Nhưng theo kinh nghiệm của những người thợ săn, cọp không bao giờ sống thành bầy đàn. Hiện tại ngoài con cọp ba chân này, bà con chỉ xác nhận thêm được con nhỏ hơn, thường quẩn quanh con cọp lớn có lẽ để “hưởng sái” thức ăn thừa.

Cũng theo sự phản đoán thì đôi cọp này là “công dân” của vùng núi Ngók Linh, lần lượt “ghé thăm” các làng theo chu kỳ nhất định. Cách đây hơn mười năm, Đăk Blô cũng đã xảy ra họa trâu bò bị cọp vồ. Theo thống kê, lần này cọp đã về tha mất 15 con trâu bò của xã Đăk Blô. Tính chung cả Đăk Man thì toàn huyện Đăk Glei đã có 23 con trâu, bò bị cọp về bắt đi, ăn thịt (trang Dân Trí).

Tuy nhiên, dầu khoẻ đến đâu, con cọp con hổ cuối cùng cũng vẫn thua con người, vì thế nên mới tiến dần tới chỗ tuyệt chủng.

Truyện rằng: Vào một buổi trưa hè oi bức, bác nông phu cùng với con trâu đang cố gắng cày nốt thửa ruộng ven rừng. Mồ hôi mồ kê nhễ nhại và chảy xuống đầy mặt ròng ròng.

Sau khi công việc xong xuôi, bác nông phu ngồi nghỉ dưới bóng một cây đa và bắn một điếu thuốc lào kêu ro ro. Còn trâu thì được đằm mình trong một vũng nước gần đấy.

Một chú hổ từ trong rừng bước ra. Chú đến bên trâu và nói:

- Trâu ơi, sao mày ngu thế. Mày vừa to lại vừa khỏe, thế mà lại để cho cái thằng người vừa nhỏ lại vừa yếu bắt phải làm những công việc nặng nhọc, nào cày sâu, nào bừa nát…mày không biết xấu hổ hay sao?

Trâu lắc đầu và bảo:

- Chú nói khe khẽ thôi, đừng để cho bác nông phu nghe thấy.

Rồi với dáng điệu bí mật, trâu bật mí cho chú hổ hay:

- Chú biết không, bác nông phu mà chú gọi là cái thằng người ấy có cái này thật là tuyệt vời.

Chú hổ bèn tò mò hỏi tiếp:

- Thế thì đó là cái gì vậy?

- Cái trí khôn đó mà.

- Thế thì cái trí khôn ấy nó ra làm sao?

Trâu trả lời:

- Tôi đành phải chịu thua, không thể diễn tả được.

Chú hổ tỏ ra bực bội và tức tối:

- Rõ đồ ngu như trâu!

Sau đó, chú hổ mon men đến bên cạnh và gợi chuyện với bác nông phu:

- Này bác, tôi nghe người ta nói bác có cái trí khôn thật là cực kỳ. Vậy bác làm ơn cho tôi xem tí nhé.

Bác nông phu trả lời:

- Rất tiếc. Hôm nay ta lại để nó ở nhà mất rồi.

Chú hổ năn nỉ ỉ ôi:

- Thế thì bác chịu khó chạy về lấy mang ra đây, tôi sẽ xin hậu tạ.

Bác nông dân lắc đầu quầy quậy:

- Đâu có được. Vì nếu ta chạy về lấy, thì ở đây ngươi sẽ xơi tái con trâu của ta mất thôi.

Suy nghĩ một lúc, bác nông phu nói tiếp:

- Nếu ngươi bằng lòng, tạm thời ta sẽ trói ngươi lại, trong lúc ta chạy về nhà. Được không?

Chú hổ miễn cưỡng trả lời:

- Thế thì cứ tạm là như vậy.

Bác nông phu bèn mượn đỡ sợi dây thừng cột trâu trói nghiến chú hổ lại. Vừa trói xong, thì nhanh như chớp, bác lấy chiếc đòn càn đập túi bụi vào chú hổ. Vừa đập vừa la hét:

- Cái trí khôn của ta đây này, cái trí khôn của ta đây này.

Chính nhờ trí khôn, con người không phải chỉ tập cho cọp làm được những động tác kỳ lạ, như ngồi trên ghế, nhảy qua vòng lửa…mà chúng ta vốn thường thấy qua việc trình diễn của các gánh xiếc, hơn thế nữa con người còn lợi dụng sức mạnh của cọp để làm những công việc hữu ích cho mình, như xay lúa giã gạo…

Bác Ba Phi kể lại rằng: Có một đêm, tui cũng ngủ trên sàn gác, khoảng gà gáy hiệp ba, bỗng nghe con heo khoảng một tạ ngoài chuồng kêu éc éc. Biết là “ông ba mươi” đến viếng rồi, tui liền xách cây mác thong phóng xuống, đuổi theo. Rượt đến sáng mới giật lại được xác con heo, tôi vác về.

Để con heo đó, lum khum nhóm lửa nấu nước, tui bỗng nghe tiếng động rột rẹt trong lùm ráng. Liếc mắt nhìn qua, tui thấy rõ ràng là “anh ta”. Vì hụt mất miếng mồi nên con cọp tức, trở lại rình mò. Đó là một con cọp cái bụng đang có chửa. Tui thấy nó ngồi nhìn xác con heo, mà thèm đến nhểu nước miếng. Không được ăn thịt heo, con cọp đâm ra thù tui.

Trưa bữa sau, hai vợ chồng tui khiêng cối ra xay lúa. Cái giằng xay tui làm bằng cây tràm suồi, thịt gỗ thật dẻo. Đang xay lúa ì xèo, tui lại nghe sau bụi ráng có tiếng động rột rẹt.

- Giống con cọp cái này thù vặt quá!

Tui nói trong bụng:

- Bữa nay, bắt mày xay lúa một trận cho biết tay.

Tui kêu vợ tui xúc sẵn hai chục giạ lúa để gần bên cối xay đó. Vừa xay, tui vừa liếc chừng vô bụi ráng, giả bộ như không hay biết gì. Chờ lúc cọp nhảy ra phủ đầu, tui hụp xuống, trịch ngang. Hai bàn tay cọp bấu tám móng cứng ngắc vào cán giằng xay. Sẵn trớn cái cối đang quay, con cọp kéo lui hết vòng thì bị cái cối theo quán tính quay tới, mà hễ cái cối quay tới hết vòng thì bị con cọp ghị lui. Cứ như vậy mà cọp ta theo đà cối quay đẩy tới kéo lui hoài. Tui đứng một bên, cứ xúc lúa châm vô cối liên tục.

Đến lúc con cọp xay hết hai chục giạ lúa, tui kêu vợ tui vô bồ xúc thêm lúa nữa. Thấy con cọp có chửa nên cũng động lòng thương, vợ tui bảo thôi, tha cho nó. Tui nắm tay cối xay ghìm mạnh lại cho dừng trớn quay. Con cọp bị hụt đà, vuột tám móng ra khỏi cán giằng xay, chúi đầu về phía trước. Nó lồm cồm ngồi dậy, mệt thở muốn hết ra hơi, lệt bệt bỏ đi vô rừng. Không tin thì hỏi bả coi. (Trang Đất Mũi)

Ngoài sức mạnh của chúa sơn lâm, người ta còn sử dụng tất cả mọi sự của loài thú quí hiếm này, từ răng nanh đến móng vuốt, từ bộ da đến bộ xương, không bỏ đi một chút nào cả.

Trước hết là thịt cọp, thịt hổ. Đã lâu lắm rồi, kể từ hồi gã còn bé tí ti, có một người bà con đi làm ăn và lập nghiệp mãi tận Buôn Ma Thuột, về thăm dân làng ở vùng đồng bằng sông Cửu Long. Người ấy đã biếu ông ngoại gã một gói…khô hùm để nhắm rượu. Gã cũng được ông ngoại chia cho vài miếng, nhưng thú thực là cho đến bây giờ, gã không còn nhớ khô hùm mùi vị như thế nào? Ngon hay dở?

Cũng vì hổ cọp là loài động vật quí hiếm, nên các nhà hàng, quán nhậu không ghi tên món thịt hùm vào thực đơn những món đặc sản của mình. Tuy nhiên, trong bài nghiên cứu của Từ Điển Bách Khoa Việt Nam, thì bộ phận sinh dục của con đực được dùng làm thuốc. Chắc hẳn đây là một thứ độc chiêu giúp cho mấy anh đờn ông chu toàn bổn phận làm chồng của mình.

Tiếp đến là móng cọp và nanh cọp. Hình như thiên hạ thích dùng những thứ hàng độc này để chuyên trị tà mà, bùa phép…cho bản thân mình được bình an may mắn, không bị mấy thứ hắc ám của những kẻ mang ý đồ đen tối làm hại. Còn da cọp, người ta thường dùng để trang trí nội thất, cho thêm phần oai phong và hùng dũng. Nhưng đặc biệt hơn cả thì phải kể đến xương cọp.

Thực vậy, từ lâu xương hổ, xương cọp hay xương hùm đã được dùng để chế tạo cao hổ cốt. Và cũng theo một bài viết trong Từ Điển Bách Khoa Việt Nam, thì Cao hổ cốt là một vị thuốc rất thông dụng trong dân gian. Để chế tạo loại cao này, người ta lấy xương hổ, nấu lên, cô đặc, rồi đóng thành bánh, mỗi bánh khoảng 70-100 gr. Cao có độ rắn cứng, màu đen, vị tanh, chứa axit amin cần thiết cho cơ thể. Tỷ lệ đạm thành phần khá cao.

Về cách dùng: người ta thái nhỏ ăn với cháo, ngâm với mật ong hay ngâm với rượu để làm thành rượu hổ cốt. Theo y học dân tộc, cao hổ cốt chữa được nhiều chứng bệnh như tê thấp, đau khớp…Thành phần hoá học và thành phần tác dụng của nó chưa được xác định rõ. Người ta thường nấu thêm với với xương khỉ, sơn dương. Vì thế, hiếm có loại cao hổ cốt thuần nhất xương hổ.

Để kết thúc mục chuyện phiếm hôm nay, gã xin ghi lại bài viết của Lương Lệ Huyền Chiêu trên trang Văn Tuyển với tựa đề là “Cọp Ninh Hoà” như sau:

Thuở nhỏ tôi thường nài nỉ bà tôi kể chuyện cọp Ninh Hòa. Những câu chuyện ấy hầu như tôi đã thuộc lòng nhưng tôi vẫn thích được nghe bà kể lại để tôi vừa có cảm giác run sợ vừa thấy lòng hãnh diện vì quê hương mình từng có…nhiều cọp.

- Hồi bà còn nhỏ, quê mình cọp nhiều lắm. Thời đó nhà cửa, dân cư thưa thớt, không biết chừng Cọp nhiều hơn người. Cọp dạn lắm. Mấy "ổng" nghênh ngang muốn đi đâu thì đi, muốn ở đâu thì ở, coi người như rác. Trời tối, cọp bắt đầu túa về làng. Cháu thấy đó, quê mình như cái lòng chảo, bốn bề núi non. Cọp từ Suối Ré tuôn ra, cọp từ Hòn Hèo lần tới, cọp từ dốc Đá Trắng, Dục Mỹ, núi Vọng Phu cũng kéo nhau xuống.

- Mấy ổng về làng làm gì hả bà?

- Thì mấy ổng buồn buồn đi rong chơi, gặp heo thì bắt heo, gặp chó bắt chó, có khi rinh cả bò, ngựa. Cọp ở Ninh Hòa mình chắc lúc đó có cả ngàn con.

Tôi bắt đầu thấy run run:

- Vậy mình trốn đi đâu hả bà?

- Thì chiều xuống mình lo nấu cơm ăn rồi đóng cửa đi ngủ sớm. Nói vậy chứ có ngủ được đâu, ở trong nhà nghe tiếng “À nôm“ của mấy ổng mà phát run, lại còn tiếng mấy con chó đi chơi về muộn chui rèn rẹt qua lỗ chó chui nữa chớ. Ban ngày thì đỡ hơn, mấy ổng về nằm ngủ trong mấy bụi tre rừng – Không hiểu sao cọp thích ở rừng tre - Vậy nên mới có câu chuyện này:

Một bữa, mấy người trong xóm rủ nhau lên rừng bẻ măng. Mấy bà già sợ cọp nên hay ở quanh quẩn bên mấy mấy đứa trai tráng. Hôm đó thằng Lực, đứa khỏe nhất trong bọn, đang thò cây sào, một đầu có gắn câu liêm, vào một bụi tre rừng, bỗng nó đứng bật dậy thét lên một tiếng “A. Cọp“, rồi nó trợn mắt chết trân. Té ra là nó chọt trúng một ông cọp đang nằm ngủ. Ông cọp bị đánh thức, vươn vai chui ra khỏi bụi tre rừng, đứng nheo mắt nhìn thằng Lực. Nghe tiếng thét, bà lão Mịch, hàng xóm của thằng Lực, xăm xăm bước tới. Thấy tình cảnh thằng Lực, bà nóng ruột xỉa cây gậy về phía ông cọp và quát:

- Tổ cha mày, mày không thấy nó sợ chết điếng rồi sao mà còn đứng đó. Tìm chổ khác chơi đi .

Vậy mà ông cọp lại bỏ đi mới ngộ chớ. Cọp đi rồi, bà Mịch bước đến bên cạnh thằng Lực, tay vuốt ngực miệng hô “ba hồn chín vía mầy tỉnh dậy Lực ơi !” Phải một hồi lâu hồn thằng Lực mới nhập về xác của nó. Từ đó thằng Lực coi bà Mịch như là người đẻ nó lần thứ hai.

- Cọp cũng sợ bị chửi hả bà ?

- Không phải đâu, cọp nó thấy bà Mịch không sợ nó, nên nó nghi ngờ đây là kẻ mạnh.

Để bà kể tiếp chuyện mày nghe:

- Hồi đó đâu có máy xay gạo như bây giờ. Tối tối, trời có trăng, người ta xúm lại một sân nhà để xay lúa, giã gạo. Xóm đó có thằng đui chuyên giữ một tay chày. Bữa đó đang kẻ xay người giã, bỗng tất cả đều nhìn thấy một ông cọp đang ngồi rình sau bụi chuối. Mấy người sáng mắt bỏ chạy không kịp kêu một tiếng. Tội nghiệp thằng đui, nó đứng dang chân, chày giơ lên trời, chờ một tiếng “thịch“ để hạ chày mà chờ hoài không thấy. Ông cọp biết có người không thèm bỏ chạy, lại còn giơ chày định phang nó, nên nó lặng lẽ bỏ đi mất.

Những câu chuyện của bà tôi có thể là chuyện hoang đường, nhưng có một điều thực, đó là Ninh Hòa quê tôi ngày xưa là giang sơn của hàng ngàn con cọp. Mẹ tôi thường than thở “Chiến tranh! Cọp sợ súng đạn đi hết!“ Tôi không tin rằng cọp đã bỏ đi. Tôi nghĩ rằng cọp đã đến thời kỳ diệt chủng. Những con vật to lớn, mạnh mẽ nhất như khủng long, voi ma mút, cá voi, sư tử, cọp, beo ...và cả loài người nữa sẻ lần lượt biến mất trên trái đất này do một quy luật huyền bí của thiên nhiên.

Văn minh của loài người nếu thiếu tình yêu thương, tính nhân bản chắc chắn sẽ đưa loài người gần đến sự hủy diệt hơn là sự trường tồn. Có lẻ một ngày nào đó, trái đất này chỉ còn lại cây cỏ và những côn trùng bé nhỏ nhất. Cầu trời cho ít nhất cũng còn sót một Adam và một Eva.

Cọp Ninh Hòa,

Ma Đồng Cọ,

Gió Tu Bông,

Mới đó mà nay đã hoá thành truyện cổ tích!!!

Gã Siêu   gasieu@gmail.com


VỀ MỤC LỤC

- Mọi liên lạc: Ghi danh, thay đổi địa chỉ, đóng góp ý kiến, bài vở..., xin gởi về địa chỉ

giaosivietnam@gmail.com

- Những nội dung sẽ được đề cao và chú ý bao gồm:

Trao đổi, chia sẻ những kinh nghiệm thực tế trong việc mục vụ của Giáo sĩ;  Những tài liệu của Giáo hội hoặc của các Tác giả nhằm mục đích Thăng tiến đời sống Giáo sĩ; Cổ võ ơn gọi Linh mục; Người Giáo dân tham gia công việc “Trợ lực Giáo sĩ” bằng đời sống cầu nguyện và cộng tác trong mọi lãnh vực; Mỗi  Giáo dân phải là những “Linh mục” không có chức Thánh; Đối thoại trong tinh thần Bác ái giữa Giáo dân và Giáo sĩ… (Truyền giáo hay xây pháo đài?)

- Quy vị cũng có thể tham khảo những số báo đã phát hành tại

www.conggiaovietnam.net

Rất mong được sự cộng tác, hưởng ứng của tất cả Quí vị

Xin chân thành cám ơn tất cả anh chị em đã sẵn lòng cộng tác với chúng tôi bằng nhiều cách thế khác nhau.

TM. Đặc San Giáo Sĩ Việt Nam

Lm. Luca Phạm Quốc Sử  USA

 

 

Duoc chon giua loai nguoi va cho loai nguoi; GIAO SI: Xuat phat tu giao dan, hien dien vi giao dan va cay dua vao giao dan, de cung lam VINH DANH THIEN CHUA

*************