Sắc Lệnh Về Tông Ðồ Giáo Dân:
Mục Tiêu Phải Ðạt Tới |
Thánh Công Ðồng Chung Vaticanô II
Sắc Lệnh Về Tông Ðồ Giáo Dân
Apostolicam Actuositatem
Prepared for Internet by Vietnamese
Missionaries in Asia
Chương II
Mục Tiêu Phải
Ðạt Tới
5*
5. Nhập đề.
Công trình cứu chuộc của Chúa Kitô cốt yếu nhằm việc cứu rỗi
nhân loại, nhưng cũng bao hàm việc canh tân tất cả trật tự trần
thế. Do đó sứ mệnh của Giáo Hội không những là đem Phúc Âm của
Chúa Kitô và ân sủng của Người cho nhân loại, mà còn đem tinh
thần Phúc Âm thấm nhuần và hoàn thiện những thực tại trần thế.
Bởi vậy, trong khi thi hành sứ mệnh này của Giáo Hội, người giáo
dân làm việc tông đồ trong Giáo Hội cũng như giữa đời, trong
phạm vi thiêng liêng cũng như trong phạm vi trần thế. Hai phạm
vi tuy khác biệt, nhưng trong ý định duy nhất của Thiên Chúa,
chúng được liên kết với nhau đến nỗi chính Thiên Chúa muốn thâu
tóm vũ trụ lại trong Chúa Kitô thành một tạo vật mới, khởi sự ở
trần gian và hoàn tất trong ngày sau hết. Trong cả hai phạm vi,
người giáo dân, vừa là tín hữu vừa là công dân, phải được hướng
dẫn liên tục bằng một lương tâm Kitô giáo duy nhất.
6. Việc Tông
đồ nhằm rao giảng Phúc Âm và thánh hóa. Sứ mệnh
của Giáo Hội nhằm cứu độ con người, sự cứu độ thành đạt được nhờ
đức tin vào Chúa Kitô và nhờ ân sủng Người. Vậy việc tông đồ của
Giáo Hội và của tất cả các chi thể trong Giáo Hội trước hết nhằm
loan báo sứ điệp của Chúa Kitô bằng lời nói, việc làm và nhằm
chuyển thông ân sủng của Người cho trần gian. Công việc này được
thực hiện chính là do tác vụ giảng lời Chúa và ban các bí tích,
đặc biệt được trao phó cho hàng giáo sĩ, trong tác vụ đó, cả
giáo dân cũng phải hoàn tất phần quan trọng của mình để trở nên
"những kẻ hợp tác với chân lý" (3 Gio 8). Nhất là trong lãnh vực
này, việc tông đồ giáo dân và tác vụ chủ chăn bổ túc cho nhau.
Người giáo dân có rất nhiều cơ hội làm việc
tông đồ: rao giảng Phúc Âm và thánh hóa. Chính chứng tá của đời
sống Kitô và những việc lành được làm với tinh thần siêu nhiên
có sức lôi kéo người ta đến đức tin và đến với Thiên Chúa, vì
Chúa phán: "Sự sáng các con phải soi trước mắt người ta, như vậy
để họ xem thấy việc lành các con mà ngợi khen Cha các con ở trên
trời" (Mt 5,16).
Tuy nhiên việc tông đồ này không chỉ ở tại
việc làm chứng bằng đời sống. Người tông đồ đích thực còn tìm
dịp loan truyền Chúa Kitô bằng lời nói hoặc cho người chưa tin
để đưa họ đến đức tin, hoặc cho tín hữu để giáo huấn họ, củng cố
và thúc đẩy họ sống sốt sắng hơn "vì tình yêu Chúa Kitô thôi
thúc chúng ta" (2 Cor 5,14) và trong lòng mọi người phải âm vang
lời Thánh Tông Ðồ: "Thật khốn cho tôi nếu tôi không rao giảng
Phúc Âm" (1Cor 9,16)
1.
Ở thời đại chúng ta phát sinh nhiều vấn đề
mới và nhiều sai lầm trầm trọng đang hoành hành nhằm khuynh đảo
tận gốc tôn giáo, trật tự luân lý và chính xã hội nhân loại, nên
Thánh Công Ðồng này hết lòng khuyên nhủ giáo dân mỗi người tùy
tài năng và vốn liếng giáo lý, phải theo tinh thần của Giáo Hội
mà ân cần chu toàn phận vụ của mình trong việc làm sáng tỏ, bảo
vệ các nguyên tắc Kitô giáo và áp dụng đúng đắn những nguyên tắc
đó vào những vấn đề của thời đại này.
7. Canh tân
trật tự trần thế theo tinh thần Kitô giáo. Hẳn
thật ý định Thiên Chúa về thế giới là loài người đồng tâm canh
tân và liên tục làm cho trật tự trần thế thêm tốt đẹp.
Tất cả những gì tạo nên trật tự trần thế
như giá trị của cuộc sống và của gia đình, văn hóa, kinh tế,
nghệ thuật và nghề nghiệp, tổ chức cộng đồng chính trị, bang
giao quốc tế, và những thực tại tương tự khác, cũng như sự biến
chuyển và tiến bộ của chúng, tất cả những thực tại đó, hoặc xét
ngay trong chính bản tính của chúng, hoặc xét chúng như thành
phần của toàn thể trật tự trần thế, chẳng những chúng là phương
thế giúp con người đạt tới mục đích tối hậu, mà chúng còn có giá
trị riêng do Thiên Chúa phú bẩm: "Vì Thiên Chúa nhìn thấy vạn
vật Ngài đã tạo thành thảy đều rất tốt đẹp" (Stk 1,31). Sự thiện
hảo tự nhiên ấy của vạn vật còn có thêm một giá trị đặc biệt do
sự liên lạc của chúng với con người, vì chúng được tạo dưng để
phục vụ con người. Sau cùng, Thiên Chúa đã vui lòng qui tụ mọi
loài, tự nhiên cũng như siêu nhiên, nên một trong Chúa Giêsu
Kitô "để Người được nắm quyền tối cao trên hết thảy" (Col 1,18).
Nhưng sự đặt định này chẳng những không làm cho trật tự trần thế
mất sự tự lập, mất cứu cánh riêng cũng như các định luật và
những phương tiện riêng, hay mất tầm quan trọng đối với ích lợi
của con người, mà trái lại còn làm cho sức mạnh và giá trị riêng
của trật tự đó thêm hoàn hảo, đồng thời nâng cao cho hợp với
thiên chức toàn vẹn của con người trên trái đất.
Qua dòng lịch sử, việc sử dụng những sự vật
trần thế mắc phải những sai lạc trầm trọng, bởi vì loài người đã
bị nhiễm tội nguyên tổ, thường sa vào nhiều lầm lẫn về Thiên
Chúa đích thực, về bản tính con người và về những nguyên tắc của
luật luân lý: do đó, phong hóa và những định chế của loài người
bị hư hỏng, và chính nhân vị đôi khi cũng bị chà đạp. Ngày nay
cũng vậy, nhiều người vì quá tin tưởng vào tiến bộ khoa học và
kỹ thuật, nên dường như muốn tôn thờ sự vật trần thế, đến nỗi
trở thành nô lệ sự vật hơn là làm chủ chúng.
Công cuộc hoạt động của toàn thể Giáo Hội
là phải làm cho con người có khả năng xây dựng đúng đắn toàn thể
trật tự sự vật trần thế và qui hướng chúng về Thiên Chúa nhờ
Chúa Kitô. Các vị chủ chăn có nhiệm vụ trình bày rõ ràng các
nguyên tắc về mục đích việc tạo dựng và việc xử dụng sự vật trần
thế được canh tân trong Chúa Kitô.
6*
Còn giáo dân phải đảm nhận việc canh tân
trật tự trần thế như là nhiệm vụ riêng, và trong nhiệm vụ đó,
nhờ được ánh sáng Phúc Âm soi chiếu tinh thần của Giáo Hội hướng
dẫn, và bác ái Kitô giáo thúc đẩy, họ phải trực tiếp và cương
quyết hành động. Với tư cách là công dân, họ phải đem khả năng
chuyên môn cùng tinh thần trách nhiệm để cộng tác với các công
dân khác. Họ phải tìm sự công chính nước Thiên Chúa ở mọi nơi và
trong mọi sự. Phải canh tân trật tự trần thế cách nào để vẫn tôn
trọng toàn vẹn các định luật riêng của nó mà vẫn làm cho trật tự
đó phù hợp với các nguyên tắc cao cả của đời sống Kitô giáo,
cùng thích nghi với các hoàn cảnh khác nhau của các địa phương,
các thời đại và các dân tộc. Trong những công cuộc của việc tông
đồ này nổi bật hơn cả là hoạt động xã hội của người Kitô hữu.
Thánh Công Ðồng ước ao hoạt động đó lan đến mọi lãnh vực trần
thế kể cả lãnh vực văn hóa
2.
8. Công cuộc
bác ái dấu hiệu của việc tông đồ. Mọi hoạt động
tông đồ phải bắt nguồn và lấy sức mạnh từ đức ái
7*. Nhưng một vài công việc tự bản chất của chúng có
thể biểu lộ tình yêu cách sống động. Chúa Kitô đã muốn những
việc đó là dấu chỉ của sứ mệnh cứu độ (x. Mt 11,4-5).
Giới răn quan trọng nhất trong lề luật là
yêu mến Thiên Chúa hết tâm hồn và yêu tha nhân như chính mình
(x. Mt 22,37-40). Thật vậy, Chúa Kitô đã làm cho giới răn bác ái
đối với tha nhân thành một giới răn riêng của Người và mặc cho
nó một ý nghĩa mới phong phú hơn, khi Người muốn đồng hóa mình
với anh em như chính đối tượng của bác ái, Người nói: "Bao nhiêu
lần các ngươi làm những việc đó cho một trong những người hèn
mọn là anh em Ta đây, tức là các ngươi làm cho Ta vậy" (Mt
25,40). Bởi vì khi nhận lấy bản tính nhân loại chính Người đã
nối kết toàn thể nhân loại với Người thành một gia đình bằng một
tình liên đới siêu nhiên, và Người đã dùng đức ái làm dấu chỉ
của các môn đệ Người, khi Người nói: "Nếu các con yêu thương
nhau, thiên hạ cứ dấu ấy mà nhận biết các con là môn đệ Thầy" (Gio
13,35).
Trong thời sơ khai, Giáo Hội thánh đặt bữa
ăn thân tình "agapê" đi liền với bữa tiệc Thánh Thể để biểu lộ
sự hiệp nhất hoàn toàn trong tình yêu thương chung quanh Chúa
Kitô. Như vậy, bất cứ thời đại nào, người ta cũng nhận ra Giáo
Hội nhờ dấu chỉ tình yêu này, và Giáo Hội đã tự đảm nhận những
công cuộc bác ái như là nhiệm vụ và quyền lợi bất khả di nhượng
của mình, dấu Giáo Hội vẫn hân hoan trước những sáng kiến của
người khác. Vì thế, Giáo Hội đặc biệt đề cao lòng xót thương đối
với người nghèo đói, bệnh tật, cũng như những công cuộc mệnh
danh là từ thiện và tương trợ để xoa dịu mọi nỗi thống khổ của
nhân loại
3.
Thời nay nhờ những phương tiện giao thông
dễ dàng và nhanh chóng hơn, khoảng cách giữa loài người hầu như
không còn nữa, và dân chúng trên hoàn cầu được coi như những
người cùng sống trong một gia đình, nên những hoạt động và những
công cuộc bác ái càng trở nên khẩn thiết và cần được tổ chức
rộng lớn hơn. Ngày nay, hoạt động bác ái có thể và phải nhắm tới
tất cả mọi người và mọi nhu cầu. Ở đâu có người thiếu ăn, thiếu
uống, thiếu mặc, thiếu nhà ở, thiếu thuốc men, thiếu việc làm,
thiếu giáo dục, thiếu những phương tiện cần thiết để sống xứng
danh con người, ở đâu có người bị đau khổ vì nghịch cảnh, ốm
yếu, chịu cảnh lưu đày, tù ngục, thì ở đó bác ái Kitô giáo phải
tìm gặp, ân cần săn sóc, ủi an và xoa dịu họ bằng những trợ giúp
thích đáng. Thi hành bổn phận này trước hết là bổn phận của
những người giàu và các dân tộc giàu
4.
Ðể thực thi bác ái mà không bị chỉ trích và
để tỏ ra là bác ái đích thực, cần phải nhìn nhận nơi tha nhân
hình ảnh Thiên Chúa vì họ đã được dựng nên giống hình ảnh Ngài
và nhìn nhận nơi họ chính Chúa Kitô, bởi vì bất cứ sự gì được
tặng cho người nghèo là đã thực sự được dâng cho Người. Phải hết
sức tế nhị tôn trọng tự do và nhân phẩm của người được trợ giúp.
Ðừng làm hoen ố ý hướng ngay lành vì mưu cầu tư lợi hay vì một
tham vọng thống trị nào
5. Phải thỏa mãn những đòi hỏi công bình trước đã kẻo
những tặng phẩm đem cho tưởng là vì bác ái, mà thực ra phải đền
trả vì đức công bằng. Phải tổ chức giúp đỡ sao cho những người
được trợ giúp dần dần thoát khỏi sự lệ thuộc người khác và có
thể tự túc.
Vậy người giáo dân phải quí trọng và tùy
sức giúp vào các việc từ thiện và những sáng kiến nhằm cứu trợ
xã hội của tư nhân cũng như của quốc gia, kể cả quốc tế. Nhờ
những công cuộc đó, người ta mới trợ giúp hữu hiệu cho mỗi người
và mỗi dân tộc đang lâm cảnh khốn cùng. Trong việc này, giáo dân
cần cộng tác với mọi người thiện chí
6.
Chú Thích:
5*
Công đồng nêu lên nguyên tắc hướng dẫn tổng quát cho việc tông
đồ này: trật tự siêu nhiên và tự nhiên, tuy vẫn phân biệt nhau,
nhưng cùng hợp nhất trong một ý định của Thiên Chúa, là Ngài
muốn qui tụ toàn thế giới trong Chúa Kitô, và chính do ý định
này mà hoạt động tông đồ giáo dân cần thiết có mặt trong lãnh
vực trần tục.
Ðức Phaolô VI, vào ngày 3 tháng Giêng năm
1964, đã nói với những người tốt nghiệp khóa "Công Giáo Tiến
Hành": "Chúng con phải ý thức về hai xã hội khác biệt nhau này,
chúng luôn đi đôi với nhau và liên hệ với nhau. Và chính khi
chúng con nhìn nhận cả hai quyền hành này, quyền của Giáo Hội và
quyền của trần gian, mà chức vụ của chúng con được phát triển...
chúng con trở nên chứng nhân Kitô giáo trong lãnh vực nghề
nghiệp của chúng con và là công dân gương mẫu trong đời sống
công giáo".
1
Xem Piô XI. Tđ Ubi arcano, 23-12-1922: AAS 14 (1922) trg 659. -
Piô XII, Tđ Summi pontificatus, 20-10-1939: AAS 31 (1939), trg
442-443.
6*
Ðể bảo đảm giá trị ơn gọi trần thế của người giáo dân, Công Ðồng
đã nhắc lại những nguyên tắc nền tảng của giá trị trần thế. Ðã
từ lâu, nhiều Kitô hữu và trường phái tu đức tỏ ra coi thường
những giá trị nhân bản, và thường họ chỉ đánh giá của cải vật
chất như những phương tiện giúp cho việc cứu rỗi cũng như cho
mục đích siêu nhiên của người Kitô hữu.
Công Ðồng xác định rằng những tài sản của
đời sống và gia đình, nền văn hóa, kinh tế, chánh trị, hay những
liên lạc quốc tế v.v... đều có những giá trị riêng của chúng do
ý muốn của chính Thiên Chúa (x. MV 36).
Nhưng bậc thang giá trị đúng đắn đòi hỏi
rằng những tài sản vật chất ấy, thay vì trở nên thần tượng hay
những ông chủ độc tài của con người, phải tùy phục vài lý trí
con người cũng như vào những nguyên tắc của đời sống luân lý. Vì
chưng, do sự liên lạc mật thiết với nhân phẩm con người mà những
tài sản vật chất ấy giữ giá trị của chúng.
2
Xem Leô XIII. Tđ Rerum Novarum: AAS 23 (1890-91), trg 647. - Piô
XI, Tđ Quadragesimo Anno: AAS 23 (1931), trg 190. - Piô XII,
Nuntius radiophonicus, 1-6-1941: AAS 33 (1941), trg 207.
7*
Hoạt động bác ái nằm trong lãnh vực siêu nhiên và trần thế, vì
thế tự nó, hoạt động tông đồ giáo dân luôn bao hàm hoạt động bác
ái. Tuy nhiên hoạt động bác ái này vẫn luôn có đặc tính thúc đẩy
tự nhiên trong mọi lãnh vực, và điều này chứng tỏ cách đặc biệt
tinh thần của Chúa Kitô.
3
Xem Gioan XXIII, Tđ Mater et Magistra: AAS 53 (1961), trg 402.
4
Xem n.v.t. trg 440-441.
5
Xem n.v.t. trg 442-443.
6
Xem Piô XII, Huấn từ ad Pax Romana MIIC, 25-4-1957: AAS 49
(1957), trg 298-299. Và nhất là Gioan XXIII, ad Conventum
Consilii "Food and Agriculture Organisation" (F.A.O.),
10-11-1959: AAS 51 (1959), trg 856,866.
|
VỀ MỤC LỤC |
|
NOI GƯƠNG CÁC CHA DÒNG TÊN THỜI
BẢO TRỢ 1615-1659, CHƯƠNG TRÌNH TRUYỀN GIÁO HIỆN NAY NÊN TỰA VÀO
HÀNG GIÁO SĨ TRUYỀN GIÁO TRÁCH NHIỆM
|
(Mừng Năm Thánh 2010, xem lịch sử truyền giáo Việt Nam,
Bài 7)
Kinh nghiệm truyền giáo thời Bão Trợ, đặc biệt kinh nghiệm của
các cha Dòng Tên (bài 5 và 6), từ 1615 đến 1659, đã tạo cho Giáo
Hội Việt Nam một cộng đoàn tân tòng đông đếm được 100.000 giáo
hữu và có tinh thần hiệp nhất và yêu thương, là một kinh nghiệm
rất quý giá cho Giáo Hội Việt Nam hiện nay. Tựa vào kinh nghiệm
này và kinh nghiệm của các cha Thừa sai Hải Ngoại Paris, trong
thời Tông Tòa, từ 1659 đến 1960, đã làm lớn mạnh Giáo Hội, đem
số giáo dân lên tới số 2.096.540 giáo hữu, chẳng những có tinh
thần hiệp nhất và yêu thương mà còn can trường tuyên xưng đức
tin, Hàng Giáo Phẩm Việt Nam đang hé cho chúng ta thấy một đề
nghị mà các ngài đang muốn phác thảo cho dự án truyền giáo ở
Việt Nam cho những thập niên đầu của thế kỷ XXI.
Dự
án truyền giáo này có mục tiêu
nhiều tham vọng,
là làm lớn mạnh giáo hội hơn nữa, với một lớp giáo hữu chẳng
những có tinh thần hiệp nhất, yêu thương và can trường tuyên
xưng đức tin, mà còn có tinh thần truyền giáo nữa. Đó là điều mà
HĐGMVN đã nhiều lần công bố vào dịp Năm Thánh 2010.
Trong thư HĐGMVN gửi Cộng Đồng Dân
Chúa ngày 17/04/2009, về việc chuẩn bị Năm Thánh 2010, Đức cha
Chủ Tịch Nguyễn Văn Nhơn viết : « Cử hành Năm Thánh 2010 là
dịp để chúng ta cùng nhau nhìn lại chặng đường lịch sử đã qua
trong tâm tình tạ ơn về biết bao hồng ân Chúa ban, tạ ơn vì
những hy sinh của các bậc tiền nhân, các ân nhân cũng như các
chứng nhân đức tin ; đồng thời tạ lỗi vì đã chưa bày tỏ được
hình ảnh Giáo Hội như lòng Chúa mong ước. Dây cũng là cơ hội cho
ta nhìn vào hiện tại với cặp mắt đức tin để phân định những
thách đố cũng như những thuận lợi cho đời sống và sứ mạng của
Giáo Hội. Đây còn là thời điểm thúc đẩy chúng ta nhìn tới tương
lai với quyết tâm xây dựng một Giáo Hội như gia đình của
Chúa, như cộng đoàn hiệp thông huynh đệ, và là cộng đoàn loan
báo Tin Mừng Chúa Kitô nhằm phục vụ sự sống và phẩm giá của mọi
người, nhất là những người nghèo khổ ». Mục tiêu truyền
giáo này, Đức Giáo Hoàng Bênêđictô XVI rất tán đồng, qua sứ điệp
Ngài gửi cho Đức cha Chủ Tịch, ngày 17/11/2009, với những lời
như sau : « Năm Thánh là
một thời điểm chứa chan ân sủng, thuận lợi cho việc hòa giải với
Thiên Chúa và anh em đồng loại. Trong ý hướng đó, chúng ta nên
nhìn nhận những sai lỗi chúng ta đã phạm trong quá khứ và hiện
tại, đối với anh em đồng đạo và anh em đồng bào, và xin mọi
người tha thứ. Đồng thời, chúng ta nên quyết tâm đào sâu và
phong phú hóa sự hiệp thông trong giáo hội và xây dựng một xã
hội công bằng, liên đới và bình đẳng, bằng con đường đối thoại
chính thực, tôn trọng lẫn nhau và hợp tác cách lành mạnh với
nhau. Năm Thánh cũng là một thời gian đặc biệt dành cho chúng
ta để làm mới lại công việc loan báo Tin Mừng cho anh em đồng
bào, và để chúng ta ngày càng trở nên một giáo hội của Hiệp
Thông và Sứ Vụ ».
Để
đạt mục tiêu có tham vọng tương đối cao này, chương trình nào sẽ
phải được thiết kế ? Để thiết kế được những công việc phải làm
trong một chương trình nào đó, phương pháp dự án đưa ra hai
nguyên tắc. Thứ nhất phải tìm ra những nguyên nhân của tình
huống hiện tại hầu sửa đổi hay cải tiến tình huống này. Thứ hai
phải dựa
vào những nguyên nhân của tình huống hiện tại và dựa
theo mục tiêu của tương lai để tìm ra
chương trình những công
việc phải làm hầu đạt mục tiêu đã xác định mà loại bỏ được những
nguyên nhân xấu đã tạo nên tình huống hiện taị, hay tối ưu hóa
những nguyên nhân hữu hiệu đã làm tốt tình huống hiện tại.
Giữa những nguyên nhân của tình huống
hiện tại và chương trình thực hiện của đường hướng tương lai có
một liên hệ nhân quả rất mật thiết. Nói
như vậy, lần lượt chúng ta sẽ cứu xét hai điểm sau đây :
1- Những nguyên nhân của
tình trạng truyền giáo hiện nay ; 2. Noi
gương các cha Dòng Tên thời
Bảo Trợ, chương
trình truyền giáo hiện
nay nên tựa vào hàng giáo sĩ truyền giáo trách nhiệm.
1. Những nguyên nhân
của tình trạng truyền giáo hiện nay
Trong các doanh nghiệp, khi xét đến tình trạng ở một giai đoạn
nào đó, thường thì ba kết quả sẽ được đưa ra : số lượng sản
phẩm, số lượng khách hàng và số lượng tài chính. Trong
việc truyền
giáo, dẫu theo quan niệm
« Ở giữa lương dân (inter gentes) » hay « «Đến với lương dân (Ad
gentes) », thì số giáo dân vẫn là một yếu
tố căn bản mà tất cả các thống kê đều ghi nhận, vì nó là một yếu
tố quan trọng đo lường sự hiện hữu mạnh yếu của một tôn giáo.
Năm loại nguyên nhân phương tiện (les 5
Moyens) thường được dùng để phân tích
tình trạng của một kết quả : chất liệu (matière),
thiết bị
(Matériel), nhân sự (Main d’œuvre), phương pháp (Méthode) và môi
trường (Milieu).
Thời Bảo
Trợ, dẫu về thiết
bị là cơ
sở và phương tiện eo hẹp, dẫu về môi trường là thái độ ganh ghét
của một số nho sĩ và phật tử, nhưng nhờ nhân sự là các cha dòng
Tên có tài năng và trách nhiệm, cũng như các thầy giảng có nhiệt
thành, nhờ phương pháp là sự tôn trọng và hội nhập văn hóa việt
nam và nhờ chất liệu là người việt nam có tâm tình tôn giáo cao,
một kết quả ngoài tưởng tượng đã đạt được. Đó là sự gia nhập của
100.000 tân tòng có tinh thần hiệp nhất và yêu thương nhau.
Vậy
nguyên nhân nào đã đưa đến kết quả truyền giáo hiện nay ? Cha
Antôn Nguyễn Ngọc Sơn đã nhận định rằng « Việc truyền giáo (hiện
nay) ở Việt Nam có hiệu quả chưa cao, vì số tăng trưởng tỷ số
công giáo / toàn dân chỉ được 0.22% từ 1960 đến 2007. (Tỷ số này
hẳn thật sẽ đã cao hơn, nếu không có cuộc vượt biên từ 1975 của
trên 1.000.000 người, trong đó có rất nhiều người công giáo). Và
cha Sơn đã đưa
ra ba nguyên nhân : 1- Chưa có một nhận thức đầy đủ về việc loan
báo Tin Mừng ; 2- Thiếu nền tảng Kitô học vững chắc ; 3- Thực
trạng sống đạo chưa đáp ứng với yêu cầu của Tin Mừng.
Cả ba nguyên nhân
mà cha Sơn đã phân tích
đều qui về một. Đó là nhân sự. Dĩ
nhiên ai cũng thấy rằng, trong việc truyền giáo, yếu tố nhân sự
là quan trọng hơn cả. Nhưng, để có một cái nhìn
toàn diện, có lẽ cả năm
yếu tố phương tiện sẽ cần phải được gợi ra.
Về chất liệu :
con người việt nam, lương và giáo, dẫu vẫn còn tâm tình tôn giáo
cao, nhiều người hiện nay đã bị chủ nghĩa vật chất chiếm đoạt,
mà biến tính, thành ra gian dối, giả hình, ích kỷ…Đó là một
trong những lý do khiến có những người trở lại đạo chỉ vì để
được làm lễ cưới với người công giáo, chứ
chưa thật tình muốn
theo đạo.
Về môi trường,
những người chống tôn giáo, và chống công giáo, có quyền lực
nhiều hơn, có tổ chức chặt chẽ và thống nhất hơn, có lực lượng
mạnh và đông hơn, và có kỹ thuật đàn áp tinh xảo hơn,…
Về nhân sự,
số cán bộ công giáo là giáo sĩ, tu sĩ và giáo dân đông hơn, sánh
với thời Bảo Trợ. Nhưng ba sự kiện mới. Trước nhất là sĩ số giáo
sỹ giảm hẳn xuống, vì những lý do khác nhau, trong thời gian gần
50 năm ở miền Bắc, từ 1954 đến 2000, và gần 30 năm ở miền Nam,
từ 1975 đến 2000. Từ đó, sự kiện mới thứ hai là ý thức sứ mệnh
thay đổi. Thời Bảo trợ và Tông Tòa, tất cả các giáo sỹ ngoại
quốc đều cho mình có sứ mệnh trước nhất là truyền giáo ra ngoài
cho lương dân, trong khi đó, sang thời Chính Tòa, nhất là trong
ba thập niên 70,
80 và 90, các giáo sỹ việt nam thấy sứ mệnh cai trị nội bộ giáo
phận và giáo xứ là quan trọng hơn, để bảo vệ đức tin. Rồi, sự
kiện mới thứ ba, xuất hiện rõ nét từ thập niên 2000, là thay đổi
về trách nhiệm và công việc ưu tiên. Các giáo sĩ và những giáo
dân nhiệt thành đã chuyển hướng ưu tiên
sang những công việc về tổ chức và sinh
hoạt nội bộ họ đạo : xây cất, trang trí và làm đẹp thánh đường,
lo việc ca hát, lễ lậy, lập các hội đoàn, tổ chức hội họp,….
Một số xí
nghiệp mà nhân viên rất giỏi và chuyên tâm về việc sản xuất các
sản phẩn có chất lượng rất cao, nhưng sao nhãng việc chinh phục
khách hàng để bán sản phẩm ra bên ngoài. Kết quả là các sản phẩm
chất lượng cao ấy bị tồn kho, ứ đọng trong nội bộ, không được
hoặc rất ít được lưu hành ra bên ngoài. Khó khăn rồi khủng
hoảng. Nếu biết thức tỉnh giao dịch, lối thoát sẽ được mở ra,
rồi sự sinh tồn được duy trì và phát triển. Nếu không, một tương
lai khác sẽ khó lường.
Về cơ sở thiết bị và phương pháp dụng cụ,
từ 1954 đến 1975, trong hai tổng giáo phận Sài Gòn và Huế, các
cơ sở và thiết bị của Giáo hội đã được xây dựng hoặc tái thiết
rất nhiều, ở thành phố cũng như ở thôn quê. Vào năm 1967, trong
hai giáo tỉnh Huế và Sài Gòn, có 1.406 trường tiểu học qui tụ
311.000 học sinh, 188 trường trung học qui tụ 254.801 học sinh,
1 viện Đại Học Đà Lạt. Năm 1970, mở thêm 2 đại học khác : Viện
Đại Học Minh Đức Sài Gòn do Lm Bửu Dưỡng và Viện Đại Học Thành
Nhân Sài Gòn do các sư huynh Lasan (Lange, Claude : Ecole
catholique et Mission de l’Eglise au Vietnam (1860-1975), trong
Echos de la rue du Bac, n°237, mars 1989, tr. 88-96). Năm 1969,
trong hai giáo tỉnh Sài Gòn và Huế, có 41 bệnh viện với 7000
giường, 239 trạm phát thuốc, 36 nhà hộ sinh, 9 trại cùi với
2.500 bệnh nhân, 82 cô nhi viện với 11.000 trẻ mồ côi, 29 viện
dưỡng lão (Linh mục nguyệt san, số 105 ; 1970, tr. 618-619).
Từ
1975, hầu hết các cơ sở văn hóa giáo dục và xã hội y tế đều đã
bị tước đoạt, tịch thu hay mượn tạm. Cho đến nay, chúng vẫn chưa
được hoàn trả. Hai phương tiện truyền giáo ưu tiên của giáo hội
đã bị chặt cụt. Phương pháp truyền giáo hữu hiệu nhất của Giáo
Hội Việt Nam, đã được đào luyện
từ thời Bảo Trợ, dựa vào giáo dục đào tạo, hội nhập văn hóa và
bác ái xã hội đã bị tịch thu để xử dụng vào việc khác.
Như
vậy, hai phương tiện có gốc từ bên ngoài là chất liệu và môi
trường, dường như bất lợi hơn cho việc truyền giáo. Ba phương
tiện phát xuất từ nội bộ là nhân sự, cơ sở và phương pháp, do
thời thế, cũng bị rất nhiều nghịch cảnh, đe dọa và tai họa.
Trước những bất lợi, nghịch cảnh, đe dọa và tai họa trên đối với
các phương tiện, để đạt được mục tiêu mà HĐGMVN đã hé mở ra,
việc truyền giáo trong tương lai
phải đua ra chương trình nào ?
Phải tựa
vào điều chủ yếu nào ?
2. Noi
gương các cha Dòng Tên thời
Bảo Trợ,
chương trình truyền giáo hiện
nay nên tựa vào hàng giáo sĩ truyền giáo trách nhiệm
Dường như một luồng gió
mới Thánh Linh đang thổi vào giáo hội, từ những năm 2000 và nhất
là từ ngày khai mạc Năm Thánh tại Sở Kiện, ngày 24/11/2009.
Năm 1980, khi thành lập
HĐGMVN, các chủ chăn chỉ nghĩ tới việc thành lập 3 ủy ban là 1-
Phụng tự, 2- Linh mục, tu sĩ và chủng
sinh, 3-
và
Giáo dân.
Năm 2001,
thời cơ thuận lợi hơn, các ngài đã nghĩ đến việc
tìm một giải đáp tổ chức cho việc
truyền giáo
bằng cách thành
lập 4 ủy ban mới.
Đó là 1-
Loan báo Tin Mừng
2- Giáo lý Ðức tin
và Thánh Kinh,
3-Văn Hoá và 4- Bác Ái Xâ hội.
Qua bốn ủy ban này, một
dự án truyền giáo đã được gợi ý, xoay quanh ba trục : trục hành
động là truyền giáo, trục nội dung rao truyền là giáo lý, đức
tin và kinh thánh, trục phương pháp là bằng văn hóa và bác ái xã
hội. Cũng năm
2001 này, Ủy Ban Linh mục, tu sĩ và chủng sinh, được thành lập
từ 1980, đã được chia làm hai Ủy Ban : Tu sĩ và Giáo sĩ Chủng
sinh. Từ đây, số lượng chủng sinh và linh mục tăng dần lên. Hiện
nay, số tân linh mục hằng năm đếm được cả trăm vị. Số linh mục
được gởi đi tu nghiệp, chuẩn bị các học vị thạc sĩ và tiến sĩ
cũng tăng hẳn lên.
Năm 2003 ,
qua thư mục vụ, HĐGMVN đã đưa
ra một giải đáp chi tiết hơn cho việc truyền giáo bằng cách
mời gọi mọi tín
hữu « hãy đáp lại lời gọi “Ra khơi” của Đức Thánh Cha, qui
hướng lời cầu nguyện và hoạt động của Hội Thánh tại Việt Nam vào
việc “Loan báo Tin Mừng” (HĐGMVN, Sứ mạng loan báo Tin Mừng
của Hội Thánh Việt Nam Hôm Nay, Thư mục vụ năm 2003 c ủa
HĐGMVN).
Và để thực hiện việc
loan báo Tin Mừng, thư mục vụ đã nêu ra bốn tiếp cận : 1-
Chúng ta hãy tiếp bước các vị thừa sai đầy nhiệt tình tông đồ,
hãy phát triển truyền thống kiên cường của các bậc tiền nhân anh
hùng tử đạo ; 2- Sống hoà thuận thương yêu nhau (x. Cv 2, 44-46)
và rao truyền đức tin trong tất cả mọi hoàn cảnh của cuộc sống ;
3- đến với những môi trường mới, đến với những con người chưa
được nghe rao giảng Tin Mừng, Tin Mừng phải hội nhập vào mọi
lãnh vực của con người ; và 4- biết sử dụng ngôn ngữ, cách diễn
tả phù hợp với văn hoá và tâm lý người đương thời.
Theo những tiếp cận này, một chương trình gồm ba nhóm việc
làm đã được HĐGM đề nghị : 1- Về phương diện thiêng liêng :
Cầu nguyện cho việc truyền giáo, Nêu gương sống lương tâm công
giáo ; 2- Về phương diện đối thoại : Thăm viếng thân hữu các
thành viên tôn giáo bạn, Trao đổi với người ngoài công giáo về
một đề tài chung ; 3- Về phương diện thực hành : Thiết
lập ban truyền giáo, kết nghĩa và làm việc bác ái.
Năm 2009, hai tài liệu chuyên biệt về việc truyền giáo đã
được hai Ủy Ban Giám Mục của HĐGMVN phổ biến.
Tiếp nối đường hướng của Thư Mục
Vụ 2003 của HĐGMVN,
Ủy Ban Loan
Báo Tin Mừng trực thuộc Hội Đồng Giám Mục Việt Nam, qua cuộc
hội thảo với chủ đề “Người thừa sai trên cánh đồng sứ vụ” từ
ngày 23 đến ngày 25.03.2009, tại Trung Tâm Văn Hoá Đức Tin Công
Giáo Sài Gòn đã đưa ra một chương trình hành động cụ thể cho
việc truyền giáo hiện nay ở ba cấp. Cấp gia đình và giáo xứ :
Gia đình cầu nguyện, Phổ biến
Lời Chúa, Xứ đạo truyền giáo. Cấp giáo phận : Củng cố
UBLBTM, Thực hiện chương trình :
“Người người Tân
Ước, nhà nhà Kinh Thánh”. Cấp toàn quốc : thiết lập Ban
Thường Vụ UBLBTM ; tìm cách
thực hiện chương trình: “Người người Tân Ước, nhà nhà Kinh
Thánh” ; Tìm cách phối hợp chặt chẽ với các UB khác như
UBTT, UBBAXH-Caritas, UBVH, UBĐT… ; Quan tâm và giúp đỡ việc đào
tạo giáo dân dấn thân tham gia trực tiếp vào công việc truyền
giáo ; Nghiên cứu và cung cấp tài liệu truyền giáo…
Tiếp nối công việc
« Sống Lời Chúa » đã được HĐGMVN nói đến trong thư mục vụ 2005,
Ủy Ban Kinh Thánh vửa phổ biến một nghiên cứu dưới chủ đề « Rao
giảng Lời Chúa tại Việt Nam trong 50 năm qua (1960-2010) ». Nói
về việc định hướng tương lai, Ủy Ban đã đưa ra 6 đề nghị, trong
đó về đề nghị thứ sáu là « Quan tâm
đưa Lời Chúa hội nhập vào trong môi trường văn hoá », việc
đào tạo các nhà truyền giáo đã được nhấn mạnh. Ủy Ban viết :
« Nhằm một việc hội nhập văn hoá trung thực sứ điệp Tin Mừng,
ta phải đảm bảo việc đào tạo các nhà truyền giáo bằng những
phương tiện thích hợp để hiểu biết tận chiều sâu môi trường
sống, hoàn cảnh văn hoá xã hội, sao cho họ có thể tháp nhập vào
trong môi trường, trong ngôn ngữ cũng như trong các nền văn hoá
bản địa. Trách nhiệm đầu tiên của Hội Thánh địa phương là làm
cho sứ điệp Tin Mừng có thể hội nhập văn hoá trung thực, trong
khi dĩ nhiên vẫn lưu ý đến nguy cơ chiết trung. Phẩm chất của
công việc hội nhập văn hoá tùy thuộc mức độ chín chắn của cộng
đoàn có nhiệm vụ loan báo Tin Mừng ».
Nhìn qua ba thời điểm 2001, 2003 và 2009, ta có thể bảo rằng đó
là ba tiền chương trình đã và đang được gợi ra. Những chương
trình này có thích hợp với dự án truyền giáo mà Giáo Hội Việt
Nam đang muốn xây dựng cho tương lai, nhân dịp Năm Thánh 2010
không ? Chúng có khả năng loại bỏ được những nguyên nhân khiến
việc truyền giáo chưa tiến nhanh hơn không? Phải tựa vào đâu để
thiết lập chương trình làm việc phát triển việc truyền giáo cho
những thập niên đầu thế kỷ XXI ? Để trả lời những vấn đề này
trước nhất chúng ta thử so sánh những nguyên nhân đã nhận ra và
những (tiền) chương trình đã được gợi ra.
|
Nguyên nhân nhận
ra |
Chương trình đã
gợi ra |
Chất liệu |
Con
người việt nam, lương và giáo, dẫu vẫn còn tâm tình tôn
giáo cao, nhưng
nhiều người hiện
nay đã bị chủ nghĩa vật chất chiếm đoạt, mà biến tính,
thành ra gian dối, giả hình, ích kỷ… |
|
Môi trường |
Những
người chống tôn giáo, và chống công giáo, có quyền lực
nhiều hơn, có tổ chức chặt chẽ và thống nhất hơn, có lực
lượng mạnh và đông hơn, và có kỹ thuật đàn áp tinh xảo
hơn,… |
|
Nhân sự |
Nhân sự giáo sĩ
sụt số lượng trong những năm 1954-1999, sứ mệnh thiên về
quản trị giáo xứ, giáo phận hơn là hướng về truyền giáo
cho lương dân, và ưu tiên công việc dành cho tổ chức họ
đạo, giáo phận. |
1.
2001 UB Giao sĩ chủng
sinh : tăng việc
đào tạo giáo sĩ.
2.
2009 UBTK : Đào tạo các
nhà truyền giáo
|
Phương pháp |
Phương pháp
truyền giáo hữu hiệu nhất của Giáo Hội Việt Nam, đã được
đào luyện
từ thời Bảo Trợ, dựa vào giáo dục đào tạo, hội nhập văn
hóa và bác ái xã hội đã bị tịch thu để xử dụng vào việc
khác.
|
1.
2001 : Tổ chức việc truyền
giáo qua việc lập 4 ủy ban mới : LBBTM, GLĐTKT, BAXH,
VH
2.
2003 : phương pháp thiêng
liêng, đối thoại, tổ chức giáo họ và bác ái
3.
Biết xử dụng ngôn ngữ,
cách diễn tả phù hợp với văn hóa và tâm lý người đương
thời.
4.
2009 UBLBTM : tổ chức ba
cấp truyền giáo : giáo xứ, giáo phận và toàn quốc
|
Thiết bị |
Các cơ sở văn
hóa giáo dục và y tế xã hội đều bị tước đoạt, tịch thu
hay mượn tạm |
|
Nhìn bảng so sánh này, ba nhận xét dễ dàng nẩy ra. Thứ nhất là
ba nguyên nhân : chất liệu, môi trường và thiết bị còn trống,
chưa có chương trình nào cải tiến. Đó là một thiếu sót mà chương
trình tương lai cần phải cứu xét và bổ khuyết, tùy theo hoàn
cảnh và khả năng.
Ngược lại, rõ rệt tác nhân phương pháp đã được đặc biệt lưu tâm
trong ba tiền dự án 2001, 2003 và 2009. Chẳng những hai phương
pháp cổ điển là văn hóa đào tạo và y tế xã hội đã được đề nghị,
mà đặc sắc nhất là khía cạnh tổ chức truyền giáo ở ba cấp giáo
xứ, giáo phận, toàn quốc đã được tỷ mỉ phác thảo. Chương trình
tương lai cần giữ lại và thực hiện ba công việc này. Đó là nhận
xét thứ hai. Nhận xét thứ ba, là về vấn đề nhân viên giáo sĩ
truyền giáo, có lẽ ba tiền dự án 2001, 2003 và 2009 chưa nhấn
mạnh cho đủ.
Về
ba nguyên nhân liên hệ đến nhân sự truyền giáo, nguyên nhân thứ
nhất là sự giảm sút số lượng đào tạo giáo sĩ trong những năm
1954-2000 đã đang được cải tiến khả quan từ năm 2000. Với hoàn
cảnh đổi mới hiện nay, có nhiều hy vọng để việc đào tạo giáo sĩ
vẫn có điều kiện thuận lợi để phát triển trong tương lai.
Nguyên nhân thứ hai liên hệ đến sự chuyển hướng sứ mệnh từ
« truyền giáo cho lương dân » sang « quản trị giáo phận và giáo
xứ » và nguyên nhân thứ ba dành ưu tiên cho công việc « tổ chức
giáo phận, giáo xứ » hơn là « gặp gỡ, đối thoại với lương dân »
chưa có biện pháp nào đã được đưa ra để sửa đổi và cải tiến. Sứ
mệnh và công việc ưu tiên là những điểm rất quan trọng mà chỉ
các giáo sĩ lãnh đạo mới có khả năng lấy những quyết định có
thẩm quyền. Trong những chương trình truyền giáo tương lai,
sứ mệnh « truyền giáo cho lương dân » và công việc « gặp gỡ, đối
thoại với lương dân » có sẽ được ưu tiên không ?
Về
nhân sự truyền giáo, còn một điều rất quan trọng khác cần phải
nói rõ. Đó là sự kiện phải phân biệt hai lớp nhân sự : lớp giáo
sĩ lãnh đạo là HĐGMVN, giám mục chính tòa và linh mục chính xứ,
và lớp tu sĩ và giáo dân cộng tác viên.
Truyền giáo là một công việc, hay đúng hơn là một công trình.
Giáo sĩ lãnh đạo truyền giáo, cũng như bất cứ lãnh đạo nào khác,
có thể ủy quyền trong mọi sự, nhưng phải đảm trách hai việc là
định hướng và kiểm soát. Công việc truyền giáo chỉ có thể
được thực hiện tốt khi có giáo sĩ lãnh đạo nhận lãnh trách nhiệm.
Tiêu chuẩn chất lượng ISO 9001 đưa ra 6 trách nhiệm mà một lãnh
đạo phải thực hiện. Áp dụng vào giáo sĩ lãnh đạo truyền giáo ta
có thể ghi ra sáu trách nhiệm sau đây :
·
làm lời cam kết làm việc
truyền giáo,
·
theo dõi và lắng nghe
nhu cầu của lương dân và của giáo dân,
·
thiết kế một chính sách
truyền giáo,
·
thiết lập một chương
trình làm việc truyền giáo,
·
quản trị công việc
truyền giáo và
·
duyệt xét công việc và
kết quả truyền giáo.
Khi
ta có giáo sĩ lãnh đạo truyền giáo lãnh nhận và thực hiện sáu
trách nhiệm lãnh đạo này, thì ta sẽ có giáo sĩ truyền giáo trách
nhiệm và gương mẫu. Người lãnh đạo gương mẫu, nhờ có tinh thần
trách nhiệm lãnh đạo, lo lắng để ban lãnh đạo và toàn thể cơ
quan đều nhằm cùng một mục đích chung và tạo mọi điều kiện để
các cộng tác viên có thể dấn thân thực hiện mục đích chung của
cơ quan. Khi ta có giáo sĩ truyền giáo trách nhiệm thì ta sẽ có
một yếu tố quyết định để có được kết quả truyền giáo có chất
lượng cao. Đó là lý do khiến chúng ta dám đề nghị rằng :
« Noi gương các cha Dòng Tên thời
Bảo Trợ, chương
trình truyền giáo hiện
nay nên tựa vào hàng giáo sĩ truyền giáo trách nhiệm».
Đó
cũng là kinh nghiệm mà các cha Dòng Tên thời Bảo Trợ đã truyền
lại cho Giáo Hội Việt Nam.
KẾT
LUẬN
Đọc
lại lịch sử truyền giáo thời Bảo Trợ, đặc biệt là giai đoạn
1615-1659, người đọc không khỏi ngỡ ngàng
vể những kết quả vượt
tưởng tượng mà các cha Dòng Tên đã đạt được. Nhưng khi tìm hiểu
thêm về cách làm việc và tinh thần trách nhiệm của họ, thì ta
thấy quả thật họ xứng đáng với những kết quả đã đạt được. Nói
theo tiêu chuẩn chất lượng ISO 9000, thì :
·
Là giáo sĩ lãnh đạo
truyền giáo, mỗi cha Dòng Tên đều nêu gương lãnh đạo truyền
giáo.
·
Họ tìm hiểu những biến
đổi của môi trường truyền giáo và của xã hội việt nam để thích
ứng theo.
·
Họ theo dõi nhu cầu của
mọi phần tử liên hệ đến việc truyền giáo, từ lương dân, giáo hữu
cộng sự viên, đến quan quyền và các thàng phần xã hội khác, về
văn hóa, tôn giáo, kinh tế, chính trị.
·
Họ nhìn ra hướng đi rõ
rệt cho việc truyền giáo trong tương lai.
·
Họ xác định được những
giá trị và một cư xử chung cho đoàn truyền giáo.
·
Họ gây được tín nhiệm và
loại bỏ được những nghi nan.
·
Họ cung ứng cho các cộng
sự viên những phương tiện cần thiết và tin tưởng cho họ tự do
lấy sáng kiến hành động một cách trách nhiệm.
·
Họ biết nhìn nhận công
lao của các cộng sự viên và khích lệ họ.
·
Họ đào tạo, huấn luyện
và hướng dẫn các cộng sự viên.
·
Họ dám xác định những
mục tiêu truyền giáo cao
·
Và họ tìm cách thiết kế
một chiến thuật thực hiện những mục tiêu đã ấn định.
Trong việc truyền giáo tại Việt Nam thời Bảo Trợ, tất cả các cha
dòng Tên đều đã
tích cực và hy sinh đủ điều, chấp nhận mọi khó khăn để loan báo
Tin Mừng. Cha Đắc Lộ
được coi là biểu tượng
của các cha Dòng Tên ở Việt Nam thời đó. Ngay từ khi có ý định
gia nhập Dòng Tên ở Roma, cha đã muốn sau này được đi truyền
giáo ở Đông Á. Vào truyền giáo ở Việt Nam, cha hoạt động truyền
giáo ở Đàng Trong qua hai thời kỳ : 1624-1626 và 1640-1645. Là
một trong hai người đầu tiên chính thức mở ra cuộc truyền giáo ở
Đàng ngoài từ 1627-1630, cha Đắc Lộ có nhiều sáng kiến, nhiệt
tình, can đảm trong sứ vụ. Cha là thừa sai đi lại nhiều nơi nhất
ở Việt Nam thời đó (Đỗ Quang Chính, Dòng Tên trong xã hội Đại
Việt 1615-1773, 2007, Texas, tr. 76). Có thể nói rằng cha đã làm
tất cả 11 điều nêu trên đây. Cha rao giảng Tin Mừng theo phương
pháp thích hợp với văn minh và văn hóa việt nam. Cha xây dựng
giáo hội hòa nhập với văn hóa gia đình việt nam : hiếu thảo với
ông bà cha mẹ, đọc kinh sáng tối trong gia đình, lập tổ chức Nhà
Đức Chúa Trời, linh tông, …Có thể bảo rằng cha Đắc Lộ xứng đáng
làm mẫu gương cho tất cả các giáo sĩ truyền giáo trách nhiệm
việt nam trong mọi thời, ngay cả thời hiện đại.
Giáo hội đang chuẩn bị hồ sơ phong
thánh cho ba vị : Đức Hồng Y Phanxicô Xaviê Nguyễn văn Thuận
(đại diện cho thời Chính Tòa). Hai Đức cha François Pallu và
Pierre Lambert de la Motte (đại diện cho thời Tông Tòa).
HĐGMVN có nên đề nghi với Dòng
Tên cùng gửi Thỉnh Nguyện Thư xin mở án phong chân phước cho cha
Đắc Lộ (đại diện cho thời Bảo Trợ) không ?
Paris, ngày 14 tháng 01 năm 2010
Trần
Văn Cảnh |
VỀ MỤC LỤC |
|
LỄ PHỤC SINH Ở CAM-PU-CHIA
|
(trích hồi
ký)
Những trang
hồi ký này, nguyên bằng tiếng Anh, là của Cha T., một linh mục
thừa sai người Philippines, phục vụ tại Cam-pu-chia vào thập
niên 1980.
Trong một
giảng khóa thần học Đối Thoại Tôn Giáo tại UST, Manila, Giám mục
Teodore Bacani đã trao cho các sinh viên bản ‘copy,’ đề nghị rút
ra và nhận định tầm nhìn của Cha T. về đối thoại tôn giáo, về
hội nhập văn hóa, và về sứ mạng Kitô giáo nói chung.
Xin giới
thiệu bản tiếng Việt đến bạn đọc, để những ai quan tâm có thể
cùng tham gia nhận định và trao đổi.
Lm. Lê Công Đức
Đó
là buổi chiều Chủ Nhật Phục Sinh tại làng Chomnaon. Cuối cùng,
các cử hành Tuần Thánh đã trôi qua. Trời rất ẩm ướt. Tôi tự buộc
mình ngả lưng trên chiếu và nghỉ một chút trước khi lái xe trở
về Battambang. Bác Kiel, trưởng ban mục vụ giáo xứ, khẽ đánh
thức tôi dậy:
- Thưa Cha,
ông Lo đang hấp hối. Bà Lo muốn Cha ghé lại chút xíu ạ.
Tôi bật dậy,
lau mặt, lấy vội áo alba, dây stola và sách nguyện. Tôi thầm cảm
thấy vui, vì trong giờ phút hệ trọng này đôi vợ chồng Phật tử ấy
lại muốn mời một linh mục Công Giáo đến nâng đỡ tinh thần.
Ông
Lo 65 tuổi, không con cái. Bà Lo có được 5 người con từ đời
chồng trước; tất cả đều đã có gia đình riêng, và tất cả đều quá
nghèo túng nên không giúp được gì cho bố dượng và mẹ mình.
Ông bà Lo
nghèo tận cùng. Túp chòi lá của hai vợ chồng chỉ rộng có 7,5 mét
vuông; sàn kết bằng nẹp tre, yếu đến nỗi oằn xuống khi có người
bước lên. Bạn phải khéo léo đặt chân đúng vào những chỗ có đà
chống đỡ bên dưới. Mái lá thủng lỗ chỗ, nên mặt trời chiếu xuyên
qua khắp nơi. Hai ông bà không có mùng ngủ, không có hòm đựng
quần áo, không một tấm chiếu sạch để mời khách ngồi. Cũng chẳng
có xoong nồi hay bát đĩa, ly tách gì cả. Cứ tới mỗi bữa ăn, ông
bà nhận được phần ăn từ một trong những người con; và ăn xong,
chén đĩa lại được giao trả.
Còn nhớ hồi
tháng trước, Janty, một giảng viên giáo lý của chúng tôi, đã mời
tôi đến thăm ông Lo. Khi gặp ông lần đầu, tôi hầu như không thể
ngồi bên cạnh ông. Ông bốc một mùi hôi thối rất khó chịu. Khối
hoại tử dưới bụng ông đã lan rộng và khoét sâu. Và đã ngót 6
tháng ông không thể ăn gì, chỉ uống một thứ nước chè mà Bà Lo
nấu bằng vỏ và lá cây.
Tôi đề nghị
đưa ông về Battambang, nơi chúng tôi có một Mái Ấm tiếp nhận
những người bệnh. Tôi cũng dàn xếp để một số tình nguyện viên sẽ
đưa ông Lo đi bệnh viện và được khám bệnh. Khi tôi gửi một tài
xế đánh xe tới, không ai trong xóm chịu giúp một tay đỡ ông Lo
lên xe. Anh Phannit, đặc trách giới trẻ của chúng tôi, đã phải
một mình bế xốc ông già tội nghiệp. Những người hàng xóm chỉ
đứng nhìn một cách hờ hững.
- Con cảm
thấy rất hạnh phúc ở đây! Ông Lo thốt lên khi tôi đến ngồi bên
ông tại Mái Ấm - Cha và bà con ở đây thật tốt với con. Các nhà
sư của chúng con không bao giờ săn sóc con như thế này. Còn ở
đây thì con được chùi rửa vết thương, lại được nuôi ăn hàng ngày
nữa. Ông Lo vừa nói vừa đưa tay quệt mồ hôi rịn trên trán.
Tôi vỗ vai
ông:
- Ồ không,
ông đừng bao giờ nói rằng các nhà sư Phật giáo không quan tâm.
Này, đất nước đang còn trong thời gian hồi phục sau chiến tranh,
và chính phủ không đủ sức để đáp ứng các nhu cầu của tất cả mọi
người.
- Nhưng Cha
thì khác. Thưa Cha, con muốn trở thành một người Công Giáo.
- Haha! Tôi
cười vang - Không đâu. Ông là Phật tử, đạo Phật rất tốt đẹp. Ông
phải là một Phật tử tốt. Nếu ông thật sự muốn trở thành một Kitô
hữu, chúng ta sẽ nói chuyện về điều đó sau. Hơn nữa, nếu ông
nghĩ rằng ông phải theo tôn giáo của tôi chỉ bởi vì tôi đang
giúp đỡ ông, thì tôi sẽ không đồng ý. Điều duy nhất tôi muốn ông
làm bây giờ là nghỉ ngơi để hồi phục. Chúng tôi sẽ đưa ông đi
bệnh viện để gặp bác sĩ.
Tại bệnh
viện, các bác sĩ phát hiện rằng khối hoại tử của ông Lo đã biến
thành ung thư và không còn hy vọng chữa trị. Rất buồn trước kết
quả chẩn đoán này, tôi giữ ông Lo ở nán lại thêm ít ngày tại Mái
Ấm. Tôi tự nhủ mình sẽ ghé thăm ông và pha trò cho ông được vui.
Rồi đến một
hôm, ông Lo quyết định trở về nhà. Ông nói:
- Thưa Cha,
giá mà ở đây có nước chè, con sẽ ở lại đây mãi mãi. Con rất vui
được ở đây, nhưng con cần phải trở về nhà vì con nhớ món nước
chè lắm.
Tuần sau đó,
tôi ghé thăm ông Lo tại nhà ông.
- Thưa Cha -
ông nói - Con rất sung sướng được Cha đến thăm. Cha đã quan tâm
giúp đỡ con quá mức con dám mơ. Con không mong hơn gì nữa. Cha
ạ.
Trước khi giã
từ ông, tôi dúi vào tay bà Lo 2,5 đô la và nói:
- Bà hãy mua
thêm lá để vá những chỗ thủng trên mái nhà. Tôi thấy ông ấy nhìn
lên các chỗ thủng và rất ưu tư. Có lẽ ông lo mùa mưa sắp đến...
Chuyện
là như thế. Giờ đây, sau khi lấy sách nguyện và dây các phép,
tôi phóng nhanh đến nhà ông Lo.
- Ông ấy mất
rồi! Một bà cụ thốt lên khi tôi vừa đến nơi.
Tôi bước lên
sàn tre, thận trọng từng bước một. Đầu tôi đụng phải xà nhà. Bà
Lo ngồi bên cạnh chồng mình, đang được đắp trong tấm chăn của
bệnh viện mà chúng tôi trao cho hôm ông trở về từ Battambang.
Tôi chào bà theo cung cách người Cam-pu-chia và vỗ vai bà. Bà
bắt đầu bật khóc.
- Thưa Cha,
ông ấy vừa mới trút hơi tức thì đây thôi. Bà nói trong đầm đìa
nước mắt.
Tôi sờ trán
ông Lo, vẫn còn nghe chút hơi ấm còn sót lại. Tôi quay ra nói
với mọi người:
- Thưa bà con
cô bác, xin cho phép tôi dâng một lời nguyện Kitô giáo để cầu
cho ông Lo, bởi vì ông ấy là bạn tôi.
- Cha cứ việc
làm thế, thưa Cha. Họ trả lời.
Sau khi dâng
lời cầu nguyện, tôi gọi bà Lo và các bà con thân quyến đến. Tôi
rảy nước thánh chúc lành cho họ. Rồi tôi thắp 3 cây nhang cắm
bên thi hài người quá cố.
- Thưa Cha,
chúng tôi xin ký thác cho Cha và cộng đoàn Công Giáo việc ma
chay đám này. Một ông già lên tiếng, với giọng van xin.
Mới ít lâu
trước đó, tôi trông thấy chính người đàn ông này là thủ lĩnh
trong một vụ xô xát tôn giáo ở vùng này. Giờ đây, khuôn mặt tái
nhợt của ông biểu lộ sự bất lực hoàn toàn. Tôi cảm thấy sửng
sốt. Tại sao những người này muốn bỏ truyền thống Khmer trong
một biến cố quan trọng như vậy được nhỉ?
- Bà nghĩ sao
đây bà Lo? Tôi hỏi.
- Thưa Cha,
sao cũng được Cha ạ. Chúng con để Cha định liệu tất cả. Bà trả
lời.
Và mọi người
đều đồng thanh rằng tốt hơn nên để cho bên Công Giáo lo việc ma
chay và hoả táng. Ông già khi nãy lên tiếng giải thích:
- Thưa Cha,
vợ chồng ông Lo quá nghèo. Chúng tôi không có đủ khả năng để làm
các nghi thức theo truyền thống chúng tôi.
Tôi nhận ra
mối ưu tư của họ. Và tôi nói:
- Nếu bà con
lo lắng về cỗ quan tài, thì chúng tôi có mấy tấm ván ở nhà thờ
có thể đóng quan tài được. Tôi sẽ yêu cầu ban bác ái xã hội của
chúng tôi cho mượn xoong nồi, bát đĩa của nhà thờ. Chúng tôi sẽ
cho mượn dàn âm thanh để bà con có thể chơi nhạc đám ma đúng
theo truyền thống. Và tôi cũng sẽ sắp xếp để ban bác ái xã hội
giúp cho đám ma này 20 kí lô gạo. Tôi yêu cầu bà con tổ chức các
nghi thức đám ma và hoả táng theo truyền thống Phật giáo. Hãy
mời các nhà sư đến cầu kinh cho ông Lo. Tôi mong tất cả bà con
hàng xóm hãy giúp đỡ tang gia. Đừng như bữa trước, khi chúng tôi
đưa ông Lo đi Battambang, không ai trong các bạn buồn giúp một
tay; mọi người khi ấy chỉ đứng xa mà nhìn!
- Chúng tôi
sẽ cố gắng giúp, thưa Cha. Họ đáp.
Trong ánh mắt
mọi người, tôi trông thấy sự đồng tình chấp nhận tất cả những gì
tôi nói. Tôi gọi một chức sắc giáo dân của mình, trao cho chị
20.000 Riels (tương đương với 5,13 đô la) để phụ giúp về các chi
phí. Chị kín đáo trao số tiền cho bà Lo.
Nhưng thật
khó mà giữ bất cứ gì kín đáo trong làng này. Bà Lo chạy lại với
tôi để bày tỏ lòng biết ơn. Nắm những tờ giấy bạc giữa hai bàn
tay ấp vào ngực, bà cầu phúc cho tôi trước đám đông:
- Cầu chúc
Cha tiếp tục công việc tốt lành của Cha. Cầu Trời Phật ban cho
Cha mạnh khỏe và bình an.
- Sato, sato!
Tôi trả lời và mỉm cười chào bà theo cung cách Khmer.
Mọi người xì
xào:
- Ồ, ông Cha
cũng biết nói ‘Sato, sato’!
Tôi trở về
nhà thờ cùng với Phannit. Phannit nói: “Ở đây, ở làng này, Kitô
hữu và Phật tử sống chung hài hoà. Chúng con làm việc với nhau
và giúp đỡ nhau.”
Dù
rất mệt mỏi sau Tuần Thánh và Tết Khmer, tôi vẫn cảm thấy
dạt dào niềm vui. Chính trong cảnh nghèo của mình, ông Lo đã
cho tôi món quà Phục Sinh tuyệt đẹp.
Hậu
chú: Ít lâu sau
những sự việc này, xe của Cha T. đã vướng phải mìn trên một hành
trình sứ vụ, và ngài đã ra đi vĩnh viễn trên mảnh đất
Cam-pu-chia đầy cạm bẫy nhưng cũng đầy niềm vui dấn thân ấy.
Lm. Giuse Lê Công Đức |
VỀ MỤC LỤC |
|
CÓ CÒN "MONG MANH" NỮA KHÔNG ?
|
Trước ngày kỷ niệm ba năm linh mục, tôi dành hai
ngày đi tĩnh tâm. Khi bước vào bầu khí thinh lặng của một Đan
Viện, việc đầu tiên tôi trình bầy với Chúa cuộc đời ba năm linh
mục và tôi đã xin Chúa mở đường tương lai cho tôi. Tôi hay bị
giằng co giữa công việc phục vụ, không biết phải làm gì cho rõ
đường lối, chứ không cứ nhập nhằng lẩn quẩn vụn vặt chẳng ra
đâu, đôi lúc làm cho lòng tôi rối bời lên và tôi cần một việc
giải gỡ nào đó nên tôi đã tha thiết xin Chúa cho tôi biết được ý
của Chúa như thế nào. Đây là một chặng đường dừng chân, một giai
đoạn cần nhận định lại, xin Chúa soi sáng để tôi đi vào việc
chuyên môn, không phải lo lắng bối rối lựa chọn nữa, để tôi an
tâm không còn nghĩ ngợi gì nữa và tôi nghĩ như thế là hợp lý
thôi, có lẽ Chúa cũng đồng ý với tôi như vậy. Tôi im lặng lắng
nghe xem Ngài nói gì, đánh động tôi điều gì... thế rồi từng bước
từng bước thầm tôi đi vào "giấc mộng vàng" êm ả... Một lúc sau
tỉnh dậy thấy mình "buồn cười lạ..." giấc ngủ không mời mà đến.
Thế nhưng nhờ
đó mà thấy tâm thần khỏe khoắn khác thường, tỉnh táo sảng khoái
nhẹ nhàng nhưng vẫn không thấy câu trả lời đâu, chờ một lúc lâu
nữa cũng không thấy gì. Tôi ra ngoài, mang sách ra đọc, trí khôn
còn đang vu vơ đâu đó thì đột nhiên cảm nhận được câu trả lời :
Hãy tin đi, hãy yêu mến hết linh hồn, hết sức, hết trí
khôn đi... đó là điều cần thiết nhất và là điều mà tôi
còn yếu lắm, rồi sau đó việc làm sẽ đến. Tôi nhận ra điều Chúa
khẽ nhắc bảo cho riêng tôi, và tôi nhận ra mình tối dạ quá,
bài học này học mãi mà không thuộc. Tại sao tôi cứ đặt điều
cho Chúa như vậy ? Không thể áp đặt, chỉ vạch đường lối để Chúa
phải theo mình, phải phân xử cho mình mà không để Ngài tự do
hành động, Ngài dẫn lối. Điều tôi càng "muốn" thì Ngài lại càng
dậy tôi cho đến khi tôi nhận ra không phải là tôi muốn mà là
Ngài muốn, không phải là tôi làm mà là Ngài làm, Ngài là người
có sáng kiến trước và tôi không làm gì cho Ngài được hết, tôi
chỉ đón nhận mọi sự nơi Ngài mà thôi. Tôi tưởng tôi ngon lành
rồi chăng mà đặt điều cho Ngài ? Điều căn bản nền tảng chân đế
chưa vững chắc thì làm sao có thể chuyên ngành gì được, bởi vì
làm gì rồi cũng sẽ mau chán, sẽ bỏ cuộc hoặc chỉ vinh vang cho
cái tôi của mình cho mà xem. Tôi lặng thầm cám ơn Chúa, và ba
năm linh mục vẫn chưa là gì cả, cuộc sống vẫn còn "vụng dại"
quá, tình yêu vẫn còn "mong manh" quá.
Quá trưa,
kiến bò bụng, tìm vào một quán cơm bình dân, tương đối vắng vẻ,
thấy có hai anh chị trẻ đang dùng cơm và thì thầm với nhau
chuyện gì đó. Dẫy bàn bên này là một cô gái đầu tóc bù sù, áo
quần dơ dáy, một mắt nhắm ghiền và một mắt mở hé, tôi đoán ngay
là người "ăn xin". Người bán quán hỏi tôi dùng gì ? Tôi chỉ vào
dĩa cơm cô "ăn xin" đó đang sắp ăn, một cái trứng và một miếng
đậu hũ chiên (trong thâm tâm tôi muốn dùng bữa cơm của người
nghèo). Khi đang ăn tôi nhìn thấy cái nhìn của người bán quán
phần thương hại, phần như kinh tởm cô gái "ăn xin" dơ bẩn đó.
Tôi chợt nẩy ra ý nghĩ là tôi ăn thật nhanh sau đó ra trả tiền
cho người chủ quán gấp đôi (bởi vì hai dĩa cơm giống nhau mà) và
dặn người chủ quán đừng thu tiền cô gái "bất hạnh" kia. Tôi nghĩ
tôi sẽ bao cô một bữa cơm, tôi sẽ đem hạnh phúc đến cho cô... và
chắc là cô vui lắm, rồi cô cũng chẳng biết ai đã trả tiền giúp
cô bởi vì lúc đó tôi đã "biến mất" rồi.
Thế nhưng mọi
chuyện xẩy ra đều trái ngược với điều tôi dự tính, mặc dù tôi ăn
vội thế mà cô "ăn xin" vẫn xong trước tôi, cô trả tiền ba ngàn,
một sập dầy bởi vì toàn là tiền giấy hai trăm, chắc có lẽ cô mới
xin được. Ngạc nhiên, bởi vì đĩa cơm của cô mới ăn có nửa nên
xong trước tôi là vậy. Tôi nghĩ cô này bỏ phí thế, nghèo mà chơi
sang. Thế nhưng có phải vậy đâu. Cô kêu chủ quán cho thêm hai
trăm vào đĩa cơm dở ấy vì còn người bạn nữa, rồi cô chạy ra
ngoài ; một lát sau cô dắt một chàng trai đeo kính dâm đen
nghịt, anh chàng mù hoàn toàn vào ăn đĩa cơm ấy, chàng ta cúi
gầm mặt ăn ào ào, có lẽ vì đói chăng, chị ta ngồi đối diện cười
nói huyên thuyên, nụ cười thật dễ thương thật hạnh phúc, vui ơi
là vui ; mấy người vô quán cơm sau zòm anh chị mù này ái ngại
giễu cợt nhưng chị ta chẳng quan tâm, nụ cười vẫn vui hồn nhiên,
đôi môi vẫn tươi tắn lạ... (không biết là bởi cùng đồng cảnh ngộ
mù lòa ăn xin, hay họ là người tình không chân dung (mù) mà
thương mến nhau thế ?)
Tôi tưởng tôi
đem hạnh phúc đến cho chị ta, hóa ra chị ta lại làm cho tôi
thèm... và tôi được hạnh phúc lây. Tôi tưởng tôi "giầu" hơn chị
ta, hóa ra chị ta lại "giầu" hơn tôi (mặc dù tôi chẳng mất tiền
bao cơm). Tôi tưởng chị ta bất hạnh mà hóa ra lại là...tôi, đời
tu mà không "biết" Chúa thì là kẻ bất hạnh hơn hẳn ấy chứ còn
hoài nghi gì nữa.
Người giầu có
và hạnh phúc nhất trần gian này là người giầu tình yêu đấy.
Ai nhận ra
Tình Yêu của Chúa trong tâm hồn mình thì sẽ có một cuộc sống
tuyệt vời đấy thôi, đúng không nào?
Và rồi một
buổi chiều âm thầm lặng lẽ bên Chúa, kết thúc một ngày hồi
tâm....
Chữa trị tâm hồn Điếc,
Mù, Câm
Hố Nai 21 -
12 - 1995
Đó là cuốn
sách mà trước ngày lãnh thừa tác linh mục đã được anh em gói
ghém viết tặng cho, có những tâm tình, những lời nhắn nhủ, những
lời khuyên răn, những lời chia sẻ.... đủ thứ. Những thời gian
đầu, khi mới lãnh tác vụ linh mục, có nhiều nguồn vui chơi, nên
xếp nó vào một "xó", buị bám nhện giăng... Thế nhưng mọi vinh
quang khi đã nguôi ngoai ; bếp hồng "nướng", than lửa "lẩu" đã
lịm dần, trở về cuộc sống hằng ngày có những lúc âm thầm lặng lẽ
một mình mới đem ra nghiền gẫm. Ôi ! thật thấm thía làm sao, cảm
động thân thương như thế nào ấy ; nhận ra mình được anh em
thương thực tình, ai cũng quan tâm tới mình, chẳng ai tiếc gì
với mình cả, những tâm tình, chia sẻ... gửi gấm cho riêng một
mình mình. Thỉnh thoảng mang ra đọc, lại thấy ngày ấy như mới
ngày này, giúp tôi lấy lại sức sống mới, năng động mới, cố gắng
hơn... một kỷ niệm như bài ca không bao giờ
quên................. Tôi đọc, tôi ghiền gẫm, tôi "nuốt" những
tâm tình ngọt ngào của anh em gửi gấm cho ; trong giây phút đó
làm tôi say mê với giấc mộng, với những cảm giác bay bổng, những
tâm tình lý tưởng tuyệt vời và với những công việc "hăng tiết
vịt" sẽ được mở ra. Và ngay lúc đó tôi nhớ lại những ngày tháng
qua : Nào là tôi có ước vọng từ lâu sẽ qui tụ những người nghèo,
những người ăn mày ăn xin, những người khố rách áo ôm... thành
một "cái bang" để tạo công ăn việc làm cho họ, giúp họ sống hạnh
phúc, mái ấm gia đình tập thể, chia vui sẻ buồn với nhau của
những ngày lang thang đầu hè xó chợ... nhưng rồi mộng chẳng
thành vì nhiều chuyện phức tạp quá, vả lại với những người tha
phương cầu thực không phải là những người dễ thương, dễ mến, họ
quen kiếp giang hồ, lang bạt gió sương, nằm gai nếm mật đã
chai... Dù sao chăng nữa lý do cuối cùng và quan trọng đó vẫn là
tôi không có sức mạnh của thánh nhân.
Thế nhưng đầu
óc tôi, trái tim tôi chưa ngủ yên, tôi lại định lập một nhà tình
thương cho các em khuyết tật, điếc mù, chậm phát triển, sẽ cử
người đi học... thế rồi cũng thấy khựng lại, quanh quẩn, và cứ
loay hoay mãi. Cuối cùng thì mộng cũng tan thành mây khói.
Sau những
"mộng mị" tan tành xí goách một người giáo dân đến gặp tôi, tiện
dịp tôi nói với họ về những ước muốn của mình và họ đã phản ứng
mãnh liệt mà rằng là xin ngài hãy chữa trị những tâm hồn điếc mù
câm đi, những niềm tin "chậm phát triển", ngài đừng mơ với mộng,
hãy mở banh mắt ra mà nhìn, ngài có thấy không, hỡi linh mục ?
Điếc câm mù, chậm phát triển tâm hồn những hạng giáo dân như
chúng tôi còn cần thiết và quan trọng hơn nhiều, gấp bội phần
đấy, thưa ngài linh mục. Xã hội, đoàn thể ngày nay họ ồn ào làm
những việc từ thiện vật chất đó rồi, nhất là lại được hưởng một
số lợi lộc đáng kể, thì chẳng ai cho mình xía vào đâu.
Ngài có thấy
sự nghèo đói của con người thế giới vật chất hôm nay không ?
Chẳng có sự nghèo đói cùng kiệt nào cho bằng nghèo đói tình yêu,
tình yêu với Chúa, tình yêu con người. Ngài hãy nói cho mọi
người Tình Yêu, cho mọi người Tin Mừng là Thiên Chúa, một ông Bố
yêu thương người nghèo và cả người giầu nữa, người vui lẫn người
buồn, người tội lỗi lẫn người được gọi là "đạo đức".... Người
nghèo thiếu tình yêu nên hay làm càn, phản kháng chống đối ;
người giầu có về vật chất lại quá nghèo tình yêu nên mới có tình
trạng người nghèo, nhà nghèo, nước nghèo... Người vui thiếu tình
yêu nên chỉ là những trò vui hời hợt bên ngoài đang khi muốn che
đậy, trốn chạy chính mình bằng những tiền bạc, bằng những cuộc
ăn chơi xả láng bừa bãi ; người buồn vì để cho nỗi thất vọng
cuộc sống đè bẹp, vai gánh nặng đau thương chồng chất, cuộc sống
hụt hẫng, bất lực...
Từ đấy tôi
nghĩ về đời mình bởi vì có thể là tôi cũng đang điếc mù câm, què
quặt, chậm phát triển về niềm tin, về tình yêu chăng ? Sao không
chữa chạy cho cho người khác được, sao tôi không thấm nhuần,
nghiệm ra được câu "Chân Lý sẽ giải thoát anh em"? Sao tôi không
có được một niềm tin, một tình yêu tương quan đến quên mình, mà
có khi chỉ là những tính toán vụ lợi ích kỷ cá nhân hay những
suy đoán đường hướng hẹp hòi của cái tôi mà không phải phát xuất
từ Tình Yêu ?
Thu thập
những mớ kiến thức, "dùi mài" sách vở, hình như làm cho tôi bị
xa cách cuộc đời, xa cách con người làm sao ý? Tôi không còn
"cúi" xuống được để làm bạn với những người tội lỗi, những người
bần cùng, những tâm hồn tật nguyền bệnh tật. Đôi lúc tôi cũng
xót vó lên, "chữa cháy" bằng cách cung cấp tiền bạc thuốc men
quần áo đồ dùng cho những con người thân xác tật nguyền để được
yên lương tâm. Còn những con người tật nguyền tâm hồn thì tôi
lại không màng tới, họ đông lắm, đủ mọi cấp bậc, chức vụ, đủ mọi
thành phần... họ nhan nhản ngay bên cạnh, ngay chung quanh đây
chỗ nào cũng có. Tiền bạc thuốc men những người này họ không cần
những thứ đó nhưng họ cần nhận ra ơn Cứu Độ, nhận ra Tình Yêu.
Những lời nói
bài giảng lý thuyết rỗng tuếch không đi vào cuộc sống cụ thể,
không tác động đến thẳm sâu tâm hồn người nghe thì cuộc sống của
họ chẳng có gì thay đổi, chẳng có gì để chữa lành. Qua thái độ
cử chỉ lời nói của người làm chứng người ta nhận ra được ngay
thật đến đâu, bằng tấm lòng hay bằng mớ kiến thức, bằng sự yêu
thương âu yếm cảm thông hay chỉ là những lời răn đe áp đặt....
Một cuộc sống
cộng đoàn cũng có thể làm chậm chân chùn bước ; một tổ chức cơ
cấu và những công việc lặt vặt tỉ mỉ hằng ngày trong một tu viện
cũng đủ để mệt phờ hết ngày và chẳng còn tâm trí đâu mà học hành
cầu nguyện và tiếp xúc gặp gỡ những người bạn điếc mù câm què,
chậm phát triển tâm hồn. Vậy thì còn đâu hình ảnh Thánh Đa Minh
hân hoan vui tươi hát xướng nghèo nàn tung tăng ra đi thuở ban
đầu nữa ?
Một cộng đoàn
có những vị hay sốt ruột vì anh em vắng mặt, vẫn muốn anh em
luôn phải ở nhà để nhà cửa khỏi trỗng rỗng, các giờ kinh lần hạt
phải râm ran, giờ cơm đông đủ ì sèo.... Vậy thì còn đâu là sứ vụ
người Đa Minh ?
Thánh Đa Minh
không sai đi để chữa bệnh nhân, không sai đi tranh đấu bất công
xã hội... nhưng Ngài sai đi băng bó chữa trị tâm hồn, những tật
nguyền sai lạc, những tội lỗi u mê không nhận ra được lòng
thương xót của Chúa nên lời cầu nguyện ban đêm của Ngài với Chúa
là "Lậy Chúa hằng xót thương, các người có tội sẽ ra như thế nào
?
Nhân khi rảnh
rang hướng về ngày kỷ niệm lãnh thừa tác linh mục 21/12. Ít tâm
tình "vớ được" trong cuốn Hành Trình Chân Lý. Cuốn sách này
không phải là một mà là nhiều thời để nhớ để thương nó, bởi vì
một thời quà cáp tiền bạc... tiêu tán tan tành sạch bách hết từ
lâu rồi. Cuốn sách gửi gấm cho những tân linh mục và nó sẽ còn
mới mãi. Khi nào tôi còn trung thành trong chức vụ thì nó còn là
món quà đắt giá đấy !
Tôi yêu một Đức Kitô
đang sống:
Linh mục, chứng nhân
của Chúa
Chúng tôi
không phải là những nhân viên bảo vệ có bảng hiệu đeo trước ngực
đúng quy cách để lo gìn giữ những di tích của một vĩ nhân đã
khuất. Và rồi mỗi ngày chúng tôi tiếp đón những du khách đến
tham quan. Chúng tôi sẽ hãnh diện và thú vị khi thấy những kinh
ngạc ngỡ ngàng với đôi mắt xoe tròn bởi tính hiếu kỳ, đầu óc tò
mò của những du khách về cách sinh hoạt và những đồ vật sang
trọng quý hiếm của bậc vĩ nhân đã để lại, nay được lau chùi bóng
láng và được giữ gìn canh chừng tối đa
Chúng tôi
không phải là những người đi viếng mộ của thiên tài tôn giáo với
nắm xương hài cốt đã thành tro bụi đặt trong tiểu mạ vàng. Tới
đó để đọc vài câu kinh, xướng lên mấy bài hát hoặc nhớ lại mấy
lời của nhân vật vĩ đại đó đã nói và nếu cần thì nhỏ vào giọt
nước mắt để tỏ ra tiếc thương. Những nghi thức, lễ lạc càng rầm
rộ đình đám càng gây phấn khích lòng người vì tìm thấy ở đó an
ủi phần nào những lúc cơ cực đời thường, hoặc được thỏa mãn chút
ít gì đó phần thiếu thốn bên trong.
Chúng tôi
không phải là những người thành lập hiệp hội hoặc các câu lạc bộ
để quản lý và để tiếp tục công việc của người đã khuất. Nhờ
những phiên họp khoáng đại, thành lập một văn phòng, ra một tờ
nội san, ký những hợp đồng... rồi muốn phát triển hùn nhau đầu
tư góp vốn. Những thành viên là những con người rơm rớm nước mắt
và luôn tỏ ra thổn thức xao xuyến mỗi lần gặp nhau.
Chúng tôi
không phải là những đứa trẻ mồ côi trong tôn giáo. Một đứa trẻ
cô độc lang thang bơ vơ, không tình thương, không nơi nương
tựa... Lạc loài đầu làng cuối phố ăn xin tình người, tấm thân
bầm dập đối chọi với những sóng gió bụi mù cát bay và chỉ được
nghe nói mịt mờ về cuội nguồn đời mình. Được sinh ra trong nền
tôn giáo non nớt, hoặc bị hướng dẫn sai lệch, hoặc chỉ là giữ
thói quen máy móc tẻ nhạt.
Chúng tôi
không phải là những kẻ goá bụa của cái xác đã được ngâm trong bể
phoóc-môn, đã làm đông cứng lại vì được ướp trong thùng lạnh để
giữ mãi hình ảnh đáng kính, sau những lần kết ước. Và sau những
lần hôn ước ấy, vẫn cứ sống một thân một mình, lẻ loi như kẻ
phận hẩm duyên ôi. Cô thế cô thân bẳn gắt cáu kỉnh, lẩm cẩm lắm
điều ; luôn phải đối phó một mình với những sóng gió, thử thách,
truân chuyên tủi phận.
Chúng tôi
không phải là những hoàng tử, những công chúa sống hưởng thụ
trong những lâu đài nguy nga tráng lệ được trần gian ưu đãi mọi
mặt. Ngày ngày ung dung yên ổn trong những giờ giấc kỷ luật cơ
cấu nhất định chẳng có gì phiền toái cũng chẳng có chuyện gì
phải bận tâm. Lạc vào mê hồn trận không ngõ ra.
Chúng tôi
không phải là những người đi chào hàng, nhân viên tiếp thị,
quảng cáo thuộc lòng một món hàng với giá hời. Chúng tôi không
muốn dùng đến những sóng truyền hình, phát thanh để làm ăn kinh
doanh thương mại về một món đồ cổ với giá cả đã được xếp đặt.
Chúng tôi không muốn dùng đến máy vi tính để thành cái máy loan
báo cung cấp cho người ta những sứ điệp mà chúng tôi không cần
mở miệng nói năng, rồi sau đó tính toán lời lỗ.
*o*o*o*o*
Nếu Thiên
Chúa ở xa tít mù khơi, Người an tọa trên một khoảng không của
bầu trời bao la mênh mông không ngõ vô, không cửa mở... thì cho
dù Người có được gọi là Đấng Giàu Lòng Từ Bi Xót Thương, thì
Người cũng chẳng ăn nhập gì tới đời con người, con người chả cần
Người. Nhưng, Người chẳng bao giờ như thế cả vì Người đã “ướt
đẫm”... mồ hôi và máu nơi Vườn Cây Dầu cơ mà. Người đã quỳ gối
xuống rửa chân cho con người cơ mà. Và hôm nay chúng tôi vẫn
không cạn tiếng Halêluia. Chúng tôi vẫn có một Đức Kitô Giêsu
hết sức sống động, một Đức Kitô có thể ăn được và có thể hấp thụ
được, một Đức Kitô đi vào trong máu, nếu được phép nói như vậy,
nhờ Thánh Thần.
Tôi yêu một
Đức Kitô đang sống, Người trong tôi hơn tôi trong tôi, Người yêu
tôi hơn tôi yêu tôi, Người còn sống động hơn khi Người sống tại
Galilê. Tôi biết rằng trái tim của Ngài vẫn còn đập mãi và tôi
nghe được Trái Tim của Đấng đã Phục sinh vẫn đang đập, Trái Tim
ấy chẳng hề khô queo đi trong cái hòm thánh tích. Tôi tin rằng
Người tự hiến mình cho tôi trong Bí Tích Thánh Thể, không một
chút nghi nan nên mỗi khi tôi cầm “Tấm Bánh” giơ lên cho mọi
người trông thấy, tôi nói với mọi người : Đây là Chúa Giêsu. Và
mọi người đồng thanh xác nhận : Đúng như vậy. Tôi kết hợp với
Người : thân xác với Thân Xác. Khi đó Người trở thành “Đấng ở
trong tôi, còn là chính tôi hơn tôi”, “không còn phải tôi sống,
mà là Đức Kitô sống trong tôi” (Gl 2,20)
Chúng tôi là
Hiền Thê không hề phiền muộn của Người. Chúng tôi không hề cô
độc lẻ đơn trên trần đời này. Người đồng hành với chúng tôi,
chia vui sẻ buồn với chúng tôi, gánh vác đỡ đần chúng tôi, đồng
lao cộng khổ với chúng tôi. Chúng tôi hạnh phúc ấm cúng sung
sướng muốn điên lên vì có Người luôn gần kề.
Trong thinh
lặng Người vẫn rỉ rón thì thầm lời lẽ yêu thương ngọt ngào trong
tâm hồn chúng tôi. Người nói với chúng tôi là Người thương yêu
âu yếm chúng tôi. Người vẫn chỉ dẫn cho chúng tôi đường đi nước
bước trên những nẻo đường gập ghềnh sỏi đá chông gai, đôi lúc
mịt mù tăm tối.
Ý của Người
bao giờ cũng tốt đẹp hơn ý chúng tôi mặc dù hiện tại có thể có
những ngáng trở khó khăn. Trong khó khăn thử thách thì Người vẫn
là Đấng luôn hấp dẫn chúng tôi nên chúng tôi dám can đảm đối
diện với những khó khăn thử thách và mau chóng vượt qua.
Chúng tôi
không làm gì cả không phải chúng tôi ngồi ỳ ra đó mà chờ đợi,
cũng không phải chúng tôi ươn lười khườn khĩnh mà là chúng tôi
“nên một” trong Người nên việc gì cũng chỉ thấy Người làm mà
thôi.
Chúng tôi là
những người bằng xương bằng thịt, tay không, nhưng vẫn cảm thấy
náo nức muốn đến với người khác để chia sẻ một Tình Yêu, Tình
Yêu cho không biếu không. Tình Yêu mà chúng tôi đang sống với
những kinh nghiệm của chúng tôi.
Nhân dịp kỷ
niệm ngày lãnh tác vụ linh mục :
Thế ! như thế
đấy chứ còn như thế nào ?
Phạm Quang
Hố Nai 21.12.1994 |
VỀ MỤC LỤC |
|
TUỔI THỌ
|
Mừng thọ là
một nét đẹp của truyền thống văn hoá Việt Nam. Một số giáo xứ ở
miền Nam (tôi không biết rõ ở miền Bắc) có tục mừng thọ cho các
cụ ông cụ bà trong giáo xứ trên bảy mươi tuổi trong thánh lễ
sáng ngày mùng 2 Tết nguyên đán, với một lời cầu nguyện riêng
(tuỳ nghi), những lời chúc tụng và tri ân, có thể kèm theo một
món quà nhỏ tượng trưng dâng các cụ, và tất nhiên cha xứ không
quên nhắc nhở con cháu phải hiếu thảo tôn kính đối với ông bà
cha mẹ. Trong xã hội, nơi một vài cơ quan hoặc trường học, đôi
khi người ta cũng tổ chức mừng thọ cho một thành viên hoặc thầy
cô lớn tuổi nào đó vì công lao đóng góp đặc biệt của người ấy
cho tập thể. Nhưng lễ mừng thọ thông thường là do con cháu trong
gia đình tổ chức để thể hiện đạo hiếu đối với bậc sinh thành.
Theo một cách
sắp xếp tuổi thọ trong văn hoá Việt Nam thì 60 tuổi là hạ thọ,
70 tuổi là trung thọ, 80 là thượng thọ, 100 là đại thọ. Nhưng
người ta cũng thường coi tuổi bảy mươi đã là tuổi thượng thọ
rồi. Sống thọ là một ơn Trời và là một phúc lớn, - phúc lớn ấy
trước nhất là của chính người cao tuổi nhưng đồng thời cũng là
cho con cháu, bởi vì cha mẹ có sống lâu, con cháu mới được phụng
dưỡng và thể hiện lòng hiếu thảo. Dù không phải là một điều bắt
buộc nhưng mừng thọ là một tập tục thật đáng quí chuộng trong
thời buổi toàn cầu hoá, thực dụng và duy vật chất ngày nay!
Bất cứ truyền
thống văn hoá nào cũng dành cho người cao tuổi một lòng tôn kính
trọng vọng đặc biệt. Kính lão đắc thọ. Theo quan niệm
chung, người cao tuổi là người từng trải, kinh nghiệm và khôn
ngoan. Vì thế tiếng nói của họ thường có uy tín trong gia đình,
giữa làng nước. Ngày nay là thời của những tiến bộ và thay đổi
chóng mặt, nhưng đó là nói về kỹ thuật, về công việc, về vật
chất, còn về sự khôn ngoan, về cách sống và cách cư xử ở đời …
thì xem ra càng ngày càng thoái lùi hơn là tiến lên. Vì thế, có
lẽ gia đình xã hội vẫn cần, càng cần hơn sự hiện diện và sự khôn
ngoan của bậc lão thành từng trải. Tôi thấy, ngay trong đời tu,
trong một cộng đoàn gồm toàn là những anh em trẻ, khoảng từ 30
đến 40 tuổi, thì có khi chính những anh em ấy xin bề trên gởi
thêm cho họ một hai người lớn tuổi, không phải để làm việc này
việc kia cho bằng để hiện diện, góp ý và góp phần làm cho đời
sống chung được nề nếp, ổn định và quân bình hơn. Tục ngữ nói:
hơn một ngày hay một việc. Người cao tuổi cũng là một
gạch nối giữa quá khứ và tương lai, liên kết hiện tại với truyền
thống. Trong xã hội ta, hãy nghĩ xem, trong lúc cha mẹ lo xuôi
ngược làm ăn, nếu không có người ông, nhất là người bà luôn ở
gần các cháu nhỏ, chăm sóc chúng, cho chúng ăn, ru chúng ngủ,
thỏ thẻ chuyện trò, chỉ vẽ cho chúng điều hay lẽ phải, (người
công giáo còn dạy đạo, dạy kinh nữa) … thì việc giáo dục các
cháu vào đoạn đầu đời sẽ thiếu sót biết bao! Vú nuôi hay nhà trẻ
cũng khó bù đắp được.
Những điều
tốt lành như trên hoàn toàn không xa lạ với Đạo Chúa, lại còn
được nâng lên cao hơn. Kinh Thánh rất trân trọng người già. Dù
cuộc đời con người không thiếu đau khổ và luôn bị cái chết đe
doạ nhưng sự sống vẫn là một ân huệ Chúa ban, -một ân huệ mà
chúng ta không ngừng phải cảm tạ.
“Lạy Chúa
tôi, Chúa là Đấng trọn tốt trọn lành vô cùng, Chúa đã dựng
nên tôi” …Chúng ta nhìn nhận như thế trong kinh Ăn năn
tội. Và trong kinh Cám ơn: “Tôi cám ơn Đức Chúa Trời là Chúa
lòng lành vô cùng, chẳng bỏ tôi chẳng để tôi không đời đời, mà
lại sinh ra tôi cho tôi được làm người…”… Chúa không
bỏ ta không đời đời, nghĩa là hư vô đời đời. Nếu
Chúa không dựng nên ta thì ta là hư vô, ta không bao giờ hiện
hữu, không bao giờ có mặt trên cõi đời này để mà biết Chúa, hy
vọng sống hạnh phúc nuôn đời với Chúa, cũng như ngay bây giờ
được hưởng vô vàn điều tốt lành của cuộc sống, của tình yêu, của
thiên nhiên vũ trụ… Chúa cho ta sống, là do lòng Chúa yêu thương
ta chớ không phải như tác giả Cung Oán Ngâm Khúc chua chát trách
móc Tạo hoá: “Trẻ tạo hoá đành hanh quá ngán, Chết đuối người
[dìm chết người] trên cạn mà chơi”. Dìm chết người
dưới nước thì đã là tàn ác rồi, đàng này lại dìm nó trên cạn như
một trò chơi, giống như trẻ con chơi chọc một con côn trùng, hay
như con mèo vồ được con chuột rồi chưa thèm ăn liền mà còn vờn
nó, dỡn với nó cho đến khi nó ngắc ngoải mới chịu xơi!
Vì cuộc sống
là một ân huệ của Chúa nên sống trường thọ vẫn là một điều đáng
ước ao. Được sống thọ cũng như được đông con lắm cháu và giàu có
sung túc là những dấu hiệu được Chúa chúc phúc (x. sách Châm
Ngôn, 3,16; 10,17; 13,21-23; 16,31 và 17,6). Trong Kinh Thánh
Cựu Ước, các Tổ phụ trước thời Lụt hồng thuỷ sống lâu “khủng
khiếp”, như Ađam đến 130 tuổi mới sinh con là Seth (Xét), sau đó
còn sống 800 năm nữa, tổng cộng 930 năm! Hay Seth sinh ra Ênốc ở
tuổi 105, rồi sống thêm 807 năm nữa. Chiếm kỷ lục sống thọ là cụ
Mêthusala sống đến 969 năm, hơn chín thế kỷ rưỡi! Các số tuổi
khó tin này chắc không thể hiểu theo nghĩa đen được…
Kinh Thánh
Cựu và Tân Ước đều dạy: Con cái phải tôn kính hiếu thảo với cha
mẹ, nhất là khi cha mẹ già nua lú lẩn; khi làm như thế, chính
con cái cũng sẽ được phúc lành trường thọ (x. sách Huấn Ca,
3,2-6,12-14; x.Ep 6,2-3).
Đề cao tuổi
già, nhưng Kinh Thánh cũng không tuyệt đối hoá tuổi thọ ở đời.
Nó chỉ là một điều đáng ước ao tương đối mà thôi. Điều đáng ước
ao hơn nữa là cuộc sống công chính, thánh thiện, đẹp lòng Chúa
để đáng được Người ban cho đời sống vĩnh cửu, vì nói cho cùng,
cuộc đời này chỉ là bước tiến tới hạnh phúc thật đời đời. Vì
thế, người mệnh yểu cũng như người hiếm muộn hay neo đơn và
người nghèo khó hèn mọn không phải là người vô phúc. Người ta
quen nói về tuổi già là: tuổi gần đất xa trời, người tin
Chúa có thể nói ngược lại, là gần trời xa đất.
Phúc-Lộc-Thọ đích thực của con người là ở nơi Thiên Chúa.
Bài thơ sau
đây với tựa đề Đường Đời của thi sĩ Pháp Marie Noel, mô
tả tuổi già vừa như là một sự suy giảm về mặt thể lý, tâm lý và
trí tuệ vừa như một cuộc thăng tiến đi về với người Cha vĩnh cửu
trên trời:
Đường đời
vòng quanh như một con rắn tự ngoạm lấy đuôi.
Con người
trần trụi vào đời từ lúc bắt đầu mở mắt, năm này qua năm khác
học đi lên cho tới giữa cuộc đời, vào tuổi trung niên, rồi dần
dần đi xuống, rốt cuộc với tấm hình hài trần trụi, trở về vị trí
khởi hành.
Dần dần
con người đã tăng trưởng, tầm vóc cao lên, rồi dần dần con người
lưng thêm cong, gối thêm mỏi, thân hình thấp dần, cuối cùng cúi
xuống cát bụi.
Dần dần
con người đã phát triển ngũ quan, mở rộng tầm nhìn, tầm nghe,
những quan năng khác tăng tiến hoàn chỉnh, như thể buổi sáng mở
rộng các cánh cửa sổ, rồi mỗi ngày mắt thêm mờ, tai thêm lãng,
khép ngũ quan lại như thể đóng cửa về đêm.
Mỗi ngày
một chút, kiến thức đủ loại tích lũy trong trí nhớ, đến lúc về
già, nói trước quên sau, để đâu quên đấy.
Mỗi ngày
một chút chân thêm vững, tay thêm khéo, miệng thêm lưu loát, tới
ngày xế bóng tay chân run rẫy, vụng về, nói năng chậm chạp lúng
túng.
Một ngày
trước kia, rời vòng tay mẹ, chập chững biết đi, một ngày sau này
không còn sức một mình xê dịch, phải vịn cánh tay con cháu.
Thuở còn
nằm nôi, mẹ cho bú mớm, thay lót đổi tã, rồi sẽ tới ngày nằm
liệt giường, con cháu chăm nom, lau mặt thay áo, xúc cơm đổ
thuốc.
Một ngày
trước kia, mở mắt chào đời, làm quen với thế giới xung quanh,
rồi sẽ tới ngày nhắm mắt buông xuôi, vĩnh biệt dương thế.
Một ngày
trước kia, lần đầu hô hấp, con người sinh ra , rồi sẽ tới ngày
thở ra lần cuối, đi vào cõi chết.
Một ngày
xa xưa, trước khi ra đời, chín tháng mười ngày nằm trong bụng mẹ
ấm áp, thêm thịt, thêm xương, hình thành cơ thể. Tới ngày cuối
cùng đi vào lòng đất lạnh giá, hình hài dần dần phân hóa, thịt
xương trở về cát bụi.
Một ngày
xa lắm, con người xuất phát từ cha như một hạt giống truyền
sinh. Tới ngày chấm hết cuộc đời trần thế, con người lại trở về
trong Cha của mọi người cha phàm trần, để tái sinh trên cõi
trường sinh.
Tới lúc
đó, trong một bản thể mới, tất cả lại bắt đầu.
Một nét đẹp
của tuổi già là sự bình an thanh thản trong tâm hồn sau khi đã
cố gắng sống tốt cuộc đời theo các điều kiện riêng của mình và
làm xong các bổn phận mình ở đời. Một người già có đức tin cũng
vậy, nhưng sự bình an thanh thản của họ còn có một nền tảng khác
sâu xa hơn, đó là sự phó thác cho tình yêu và lòng thương xót
của Cha trên trời, phó thác ngay cả những lỗi lầm yếu đuối của
mình. Đọc thơ của thi sĩ Xuân Ly Băng, tức linh mục Lê Xuân Hoa,
Tổng Đại diện giáo phận Phan Thiết, tôi thấy đó chính là tâm
tình của ngài trong bài Lên Tám Mươi , xin đọc vài câu:
Sáng ngày
con thức dậy, Bảy chín lên tám mươi, Lạy Chúa trăm muôn lạy, Cảm
tạ Chúa muôn đời. - Con có là gì đâu, Mà Chúa ban tuổi thọ, Con
nằm dưới vực sâu, Giữa tro tàn phân thố.- Cho con sống đức mến
Hôm nay và ngày mai, Bão giông đời lắm chuyện Chỉ sống phó
thác thôi.- Vĩnh hằng là của Chúa Cát bụi là thân con, Con
không xin gì nữa, Ý Chúa miễn vuông tròn.
Hạnh phúc của
tuổi già có lẽ là tiếp tục được sống bình an, thanh thản và hạnh
phúc giữa đàn con cháu trong khi vẫn luôn sẵn sàng ra đi bất cứ
khi nào Chúa gọi. Người công giáo chúng ta chẳng quen nói: “chết
là trở về Nhà Cha” đó sao?
(03-01-2010)
Lm Nguyễn Hồng Giáo OFM |
VỀ MỤC LỤC |
|
HÃY NÂNG TÂM TRÍ LÊN CAO!
|
Muà Xuân năm
1995, lúc còn ở trong trại tù Z30D ở Hàm Tân Phan Thiết, tôi có
làm được một bài thơ song ngữ Việt - Anh nhan đề : “ Nói với Bạn
Trẻ “ (A Message to Youth). Bài thơ gồm 4 đoạn. Xin được trích
một đoạn như sau :
Bạn trẻ
cuả tôi ơi!
Hãy nâng
tâm trí lên cao
Để tạo cho
cuộc sống thêm ý nghiã
Hãy chịu
trả đắt giá
Để có được
sự cao cả nơi tâm hồn.
(Toàn văn bài
thơ xin được ghi nơi phần Phụ Lục kèm theo bài viết này.)
Tôi chú ý đến
chuyện “Nâng cao tâm trí” này ngay từ hồi mới có 9-10 tuổi còn ở
bậc tiểu học trước năm 1945, khi được say mê đọc cuốn sách “Tâm
hồn cao thượng” cuả nhà giáo Hà Mai Anh dịch từ bản tiếng Pháp
“Grands Coeurs” cuả tác giả người Ý Edmond De Amicis. Sau này
lên bậc trung học ở Hanoi, tôi lại được coi bản tiếng Pháp
“Grands Coeurs” này nưã. Cuốn sách gồm những chuyện rất cảm động
và hấp dẫn xung quanh một thiếu niên cũng cùng một lứa tuổi như
chúng tôi, biểu lộ một lối sống cao thượng thanh nhã, một quan
niệm lành mạnh về cuộc đời cuả một học sinh con nhà có nền nếp
gia giáo, mà lại được thày giáo ở nhà trường chỉ bảo hướng dẫn
rất tận tình về đức dục, về công dân giáo dục. Lời giáo huấn hàm
chứa trong cuốn sách này cũng phù hợp với lời cha mẹ tôi thường
nhắc nhủ trong gia đình, nhất là vì ông nội tôi lại là một ông
đồ nho, nên anh chị em chúng tôi luôn được khuyên bảo là phải
noi gương các bậc thánh hiền trượng phu quân tử, phải ra sức mà
“rèn tâm luyện chí”, chứ không được buông thả bưà bãi như kẻ
tiểu nhân hạ cấp.
Và nhất là
khi đọc kinh dâng thánh lễ ở nhà thờ, thì chúng tôi luôn đọc câu
: “Hãy nâng tâm hồn lên”, mà thời đó người giáo dân còn hay đọc
bằng tiếng La tinh : “Sursum corda”. Mấy bà cụ già như mẹ tôi
thường không biết đọc, không biết viết chữ quốc ngữ, nhưng các
bà vẫn luôn đọc lớn tiếng câu kinh bằng tiếng Việt như sau :
“Xin hãy nâng lòng chúng ta lên những sự cao cả ở trên trời”.
Lớn lên, biết suy xét nhiều hơn, tôi thấy cái lối dịch câu kinh
như vậy là tuyệt diệu, vì nó làm cho người bình dân vẫn có thể
hiểu và cảm thông được ý nghiã sâu xa cuả lời kinh trong đạo như
thế. Sau năm 1975, tôi có kể cho nhà báo Nguyễn Ngọc Lương, bút
hiệu Nguyễn Nguyên về câu kinh này, mà ngày trước các bà già lớp
tuổi bà mẹ tôi vẫn thường đọc hồi ở nhà quê, thì anh Lương tuy
là một cán bộ cộng sản, anh cũng cho là lối dịch như thế cuả các
cố đạo xưa là quá hay, rất gần gũi với nhu cầu cảm thụ tôn giáo
cuả số đông quần chúng bình dân.
Sau này, tôi
được đọc những bài viết cuả triết gia người Anh là Bertrand
Russell, và tôi rất tâm đắc với lời khuyên nhủ cuả ông trong câu
văn thật súc tích như sau : “ You should have the Right Thinking
and the Nice Feeling”.Và tôi cũng đã mượn ý tưởng này cuả tác
giả để đưa vào đoạn đầu cuả bài thơ “Nói với Bạn Trẻ”, như đã
ghi ở trên đây.
Vào hồi năm
1965-66 lúc đã tới tuổi trưởng thành chững chạc và dấn thân hoạt
động hăng say trong công tác xã hội tại chương trình phát triển
quận 8 Saigon, tôi lại rất tâm đắc với lời kêu gọi cuả Tổng
thống De Gaulle nói với thanh niên sinh viên nước Pháp là : “
Các bạn phải có một tầm nhìn vũ trụ “ (vision cosmique). Tức là
phải có một nhãn quan mở rộng, một cái nhìn toàn cuộc, bao quát
toàn thể thế giới. Lời kêu gọi này rõ rệt là biểu lộ trung thực
cái niềm xác tín cuả ông về sự cao cả cuả nước Pháp (grandeur de
la France) mà suốt cuộc đời ông luôn ôm ấp và rắp tâm góp phần
vun đắp xây dựng. Cái ý niệm về sứ mệnh cao cả này, Tướng de
Gaulle đã ghi thật rõ nét ngay trong chương đầu cuả cuốn Hồi ký
nổi danh cuả ông về cuộc chiến tranh giải phóng nước Pháp do ông
lãnh đạo hồi thế chiến thứ hai 1939-45.
Rồi vào năm
1970, khi tôi được mời tham dự một hôi nghị quốc tế tại Paris
nhằm thành lập “Viện Đại kết Phát triển các Dân tộc” (INODEP =
Institut Oecuménique au service du Développement Des Peuples),
thì cũng được nghe một thuyết trình viên nhấn mạnh đến tính chất
toàn diện và bao quát cuả công cuộc giải phóng mà bất cứ sự phát
triển đích thực nào cũng phải nhắm tới (libération totalisante
et globalisante). Lời phát biểu này làm cho tôi nhớ lại chủ
trương cuả nhóm “Kinh tế và Nhân bản” (Économie et Humanisme) mà
tôi đã say mê tìm hiểu hồi còn là một sinh viên trường Luật
Saigon hồi giưã thập niên 1950. Đó là chủ trương “Phát triển
toàn diện và điều hoà” (Développement total et harmonisé). Chính
cái đường hướng phát triển này đã thúc đảy tôi tự nguyện cùng
với các bạn trẻ khác dấn thân tham gia vào công cuộc phát triển
cộng đồng tại các quận 6,7 và 8 Saigon từ năm 1965 đến 1971. Nhờ
chính bản thân mình đã có hoạt động cụ thể tại điạ phương như
vậy, nên tôi dễ tiếp thu được kinh nghiệm cuả các thức giả quốc
tế như đã được phát biểu trong cuộc họp mặt trao đổi keó dài cả
hai tuần lễ như đã nói trên ở Paris.
Vào năm 1972
-74, khi nhận cộng tác với Hội Đồng Tôn giáo Thế giới ( WCC
=World Council of Churches) có trụ sở chính ở Geneva Thuỵ sĩ,
tôi lại được dịp học hỏi và biết được nhiều việc có tầm ảnh
hưởng toàn cầu do những hoạt động cuả trên 350 tổ chức tôn giáo
tại nhiều quốc gia trên thế giới mà là thành viên trong hệ thống
cuả Hội Đồng này. WCC được thành lập từ năm 1948 nhằm kết hợp
các nhà thờ thuộc nhiều giáo phái Tin lành và Chính thống tại
nhiều quốc gia, kể cả trong khối cộng sản, nhằm tiến tới một số
hành động chung có tầm vóc toàn cầu mà vẫn trung thành với đường
hướng cuả Tin Mừng đã được khai sáng bởi Chuá Giêsu Cưú thế. Hệ
thống này hoàn toàn nằm ngoài Giáo hội công giáo La mã do Toà
thánh Vatican lãnh đạo, nhưng giưã hai phiá không hề có sự phân
chia hay đối kháng mâu thuẫn gì với nhau. Ngược lại hai bên vẫn
có sự giao hảo, tôn trọng lẫn nhau và hợp tác với nhau trong một
số lãnh vực cụ thể. Sinh hoạt cuả WCC rất phong phú đa dạng và
có tầm vóc toàn cầu. Đó là sự tiếp nối công trình cuả nhiều thế
hệ các nhà hoạt động tôn giáo, các vị thưà sai cuả Thiên chuá
giáo. Người viết xin trình bày chi tiết hơn về hoạt động cuả WCC
trong một dịp khác. Trong bài này, tôi chỉ có ý trình bày về
khiá cạnh suy nghĩ và hành động có phạm vi toàn cầu cuả các tổ
chức, mà bản thân mình có duyên được quen biết và tham gia cộng
tác với họ mà thôi.
Viết đến đây,
tôi lại nhớ đến lời phát biểu cuả nhà bác học chuyên về khảo cổ,
đó là linh mục thuộc Dòng Tên rất nổi danh Teilhard de Chardin.
Ông nói : “Tất cả cái gì hướng thượng, thì đều gặp gỡ đồng quy
với nhau” (nguyên văn tiếng Pháp : Tout ce qui monte, converge).
Cũng giống như người Pháp thường hay nói : “Những đầu óc lớn thì
hay gặp gỡ nhau” ( Les grands esprits se rencontrent). Điều này
chẳng khác gì với thái độ cuả cha ông chúng ta trong truyền
thống nho giáo ở Á Đông, thì luôn đề cao và cổ võ cái tinh thần
hoà ái và bao dung cuả người trượng phu quân tử, mà điển hình là
những lời khuyên đã biến thành những câu tục ngữ rất phổ biến
trong dân gian như : “Quân tử hoà nhi bất đồng”, “Dĩ hoà vi
quý”, “Lượng cả bao dung” v.v...
Như đã ghi từ
mấy dòng đầu cuả bài viết này, tác giả là người đã ở vào cái
tuổi “thất thập cổ lai hy” rồi, nên muốn giãi bày tâm sự với lớp
người trẻ thuộc thế hệ con cháu cuả mình, qua những kinh nghiệm
bản thân đã tích luỹ được trong suốt mấy chục năm sinh sống, học
tập và hoạt động cuả bản thân trên mảnh đất quê hương, cũng như
tại nước ngoài. Do vậy mà lời phát biểu có tính cách thân mật tự
nhiên, chứ không có dụng ý phải trau chuốt, giuã gọt như một bài
văn bình thường. Trong bàu không khí thân thương nồng ấm cuả gia
đình như thế, người viết xin gửi đến các bạn trẻ cái tâm tình
chân chất ngay thẳng cuả mình với niềm mong ước là các bạn sẽ
văn minh hơn, nhân ái hơn, hoà nhã hơn so với thế hệ cha bác cuả
mình. Vì lẽ nếu các bạn mà có được sự tiến bộ khởi sắc như thế,
thì quê hương dân tộc chúng ta mới thật sự tươi đẹp và hạnh
phúc, đúng như cha ông chúng ta vẫn thường nhắc nhủ : “Con hơn
cha, nhà có phúc” vậy./
California,
đầu năm 2010
Đoàn Thanh
Liêm
Phụ lục
Bài thơ : Nói với Bạn
trẻ
1 -
Bạn trẻ cuả tôi ơi
Hãy suy nghĩ
chính xác
Để khám phá được
Những điều kỳ
diệu
Trong Thiên
nhiên
Và Xã hội loài
người
Hãy có lòng nhân
hậu
Để yêu thương
tất cả mọi người
Kể cả thù địch.
2 –
Bạn trẻ cuả tôi ơi
Hãy nâng tâm trí
lên cao
Để tạo cho cuộc
sống thêm ý nghiã
Hãy chiụ trả đắt
giá
Để có được sự
cao cả nơi tâm hồn
3 –
Bạn trẻ cuả tôi ơi
Hãy chia sẻ
những phúc lộc
Cùng với tất anh
chị em mình
Hãy đích thực là
mình
Với phong cách
tốt đẹp xưa nay
Giữa lòng cái
thế giới hỗn độn này.
4 –
Bạn trẻ cuả tôi ơi
Hãy có hành động
thích đáng
Trong giờ phút
đày thử thách
Cuả Lịch sử vinh
quang chúng ta
Hãy sống thật
sung mãn
Bằng Yêu thương
trọn vẹn
Và thụ hưởng sự
An bình ngây ngất
Trong sâu thẳm
nội tâm chúng ta./
( Làm tại Hàm
Tân, Muà Xuân 1995)
Luật sư Đoàn Thanh Liêm |
VỀ MỤC LỤC |
|
THUYỀN ĐỜI TÔNG ĐỒ
|
Người tông đồ
của Chúa dù ở bất cứ thời đại nào cũng phải đối diện với những
khó nhăn nhất định tuỳ thuộc vào từng bối cảnh lịch sử đặt ra.
Điểm chung trong những khó khăn ấy chính là thử thách về niềm
tin của người tông đồ trước lời mời gọi làm chứng cho tình yêu
thập giá.
1. Từ kinh nghiệm của Phêrô
Phêrô là một
trong những người đầu tiên đã mau mắn đáp trả lời kêu gọi làm
tông đồ của Chúa Giêsu. Ngài đã sống kinh nghiệm đáp trả cách
mãnh liệt và sinh động nhất.
Như bao con
người bình thường khác, Phêrô cũng từng trải qua những thất bại
cay đắng của cuộc sống. Việc ngài cùng những đồng nghiệp “đã
vất vả suốt đêm mà không bắt được gì cả”, đó chỉ là một
trong muôn vàn những éo le thường ngày. Tuy nhiên,vấn đề được hé
mở từ đây, là niềm tin tuyệt đối của Phêrô khi được Đức Giêsu
mời gọi.
Sự vâng phục
là điểm nổi bật trong niềm tin của Phêrô. Trải nghiệm của một
ngư phủ chuyên nghề lẽ ra đã khiến ngài phớt lờ lời chỉ dẫn của
Chúa Giêsu. Nhưng không, Phêrô đã mau mắn nghe theo, mà không
biện lý hay chống đối: “Thưa Thầy, chúng tôi đã vất vả suốt
đêm mà không bắt được gì cả. Nhưng vâng lời Thầy, tôi sẽ thả
lưới” (Lc 5, 5). Dấu lạ “hai thuyền đầy cá” là kết
quả của niềm tin vâng phục của Phêrô vào lời Chúa Giêsu. Ý nghĩa
biểu tượng này được làm tiền đề cho việc phát triển giá trị tâm
linh về niềm tin của người tông đồ Chúa trong sứ vụ.
Niềm tin nơi
Phêrô không dừng lại ở một vài lợi ích vật chất cá nhân. Mà sâu
xa, nó là dấu chỉ thúc đẩy ngài nhận ra thế giá của chính Đấng
có khả năng cải hoá những quy luật tự nhiên. “Sự kinh ngạc”
của Phêrô và các đồng nghiệp trước mẻ cá lạ cho thấy chiều sâu
hoá nội tâm, giúp họ vượt qua ngưỡng cảm thức tự nhiên để vươn
tới đích điểm của lời mời gọi tông đồ.
Khi được
chứng thực mẻ cá lạ lùng, Phêrô đã kịp thời nhận ra bàn tay
quyền năng, đầy yêu thương của Thiên Chúa nơi Đức Giêsu đang tác
động lên cuộc đời ông. Do vậy, Phêrô đã “sấp mặt dưới chân
Đức Giêsu và nói: “Lạy Chúa, xin tránh xa con, vì con là kẻ tội
lỗi” (Lc 5, 8b). Thái độ khiêm tốn này đã giúp cho đức tin
của Phêrô được củng cố đến mức có thể“bỏ hết mọi sự” để
đi theo Đức Giêsu.
2. Thuyền đời tông đồ
Trên con
thuyền mưu sinh đời thường, Phêrô đã nhận ra Đức Kitô và mau mắn
đáp trả bằng cả cuộc sống của mình. Kinh nghiệm ơn gọi tông đồ
của vị Tông Đổ Cả đã hướng chúng ta tới việc nhận diện và có
thái độ cần thiết, xứng hợp trước lời mời gọi của Thiên Chúa
trong cuộc sống hôm nay.
Những khó
khăn trong công cuộc rao giảng Tin Mừng mà Giáo hội đang phải
đối diện ở giai đoạn hiện tại quả thực đã khiến cho nhiều người
cảm thấy bi quan. Họ khác nào những ngư phủ xưa trong Tin Mừng
“đã ra khỏi thuyền và đang giặt lưới” (Lc 5, 2b). Tuy
nhiên chính Thiên Chúa vẫn không ngừng đồng hành và mời gọi
chúng ta, như Đức Giêsu đã từng bảo Si-mon: “Chèo ra chỗ nước
sâu mà thả lưới bắt cá” (Lc 5, 4).
Giáo hội hôm
nay với biết bao con người nhiệt tâm, không quản ngại khó khăn,
đã “vâng lời Thầy” đến những nơi hiểm nghèo nhất để đem
nhiều linh hồn về cho Chúa. Họ sẵn sàng “chèo” đến những vùng
“sóng cả” do nạn kỳ thị Ki-tô giáo để dựng xây hoà hợp, công
bình, yêu thương.
Giữa một xã
hội chạy theo trào lưu hưởng thụ, vẫn có nhiều bạn trẻ biết đặt
niềm tin mãnh liệt vào lời mời gọi của Thầy Chí Thánh. Các bạn
là hiện thân của những “Si-mon Phêrô” nhỏ giữa lòng đời hôm nay.
Niềm tin vào
chính Đấng là chủ tể của tự nhiên và lịch sử sẽ giúp chúng ta
lạc quan hơn nhiều trong việc cộng tác thông truyền ơn cứu độ
của Chúa cho đồng loại. Nó được bắt đầu từ thái độ vâng phục và
khiêm tốn của chúng ta trước tình thương và quyền năng của Thiên
Chúa. Hoạt động tông đồ không thể là công việc của những kẻ nhát
đảm, thiếu tin tưởng vào Thiên Chúa. Và nó càng không thể tiếp
nhận những đối tượng kiêu căng, tự cho mình hoàn toàn có khả
năng vực dậy những yếu đuối của nhân loại này.
Thuyền đời
tông đồ chỉ có thể nhẹ nhàng lướt sóng khi chúng ta “bỏ hết
mọi sự” không cần thiết trên đó để hướng về lý tưởng là tình
yêu Đức Kitô. Như những tông đồ đầu tiên đã được mời gọi, chúng
ta luôn tin tưởng và sống cho mục đích cao đẹp duy nhất là lợi
ích các linh hồn.
Thuyền đời
tông đồ sẽ cập bến khi chúng ta được kết hợp mật thiết với Đức
KiTô trong quyền năng và tình thương của Ngài. Vấn đề là chúng
ta biết để cho Ngài hành động và thánh hoá những nỗ lực của
chúng ta khi truyền rao Lời Hằng Sống.
J.B. Nguyễn Quốc Tuấn
(Đại Chủng
viện Vinh – Thanh) |
VỀ MỤC LỤC |
|
PHẢI THỰC HÀNH ĐỨC TIN NHƯ THẾ
NÀO?
|
Hỏi:
Có rất nhiều người Công giáo ngày nay không xưng tội, không đi
lễ ngày Chúa Nhật và các ngày lễ buộc vì nhiều lý do. Nhiều
người nghĩ rằng chỉ cần giữ đức tin trong lòng và đọc Kinh Thánh
ở nhà là đủ, không cần phải đi nhà thờ nữa! Như vậy có được
không?
Trả lời :
Thực trạng sống
và hành Đạo của rất nhiều người Công giáo ở khắp nơi trên thế
giới ngày nay (trong đó có người công giáo ViệtNam ở hải ngoại)
quả thật là điều đáng buồn. Con số người đi xưng tội chiều thứ
bảy, tham dự Thánh lễ ngày Chúa Nhật và các ngày lễ buộc đã
giảm rất nhiều theo các thống kê đáng tin cậy. Có nhiều lý do để
giải thích thực trạng này. Nào vì hấp lực của văn minh vật chất
đã lôi cuốn nhiều người bỏ Chúa để chậy theo những quyến rũ của
“văn hóa sự chết” như Đức cố Giáo Hoàng Gioan-Phaolô II
đã cảnh giác.Đó là những người đang mê mải kiếm tiền để làm giầu
bằng mọi phương tiện và tìm vui trong trong việc ăn uống, nhẩy
nhót, cờ bạc, du hí những nơi sa dọa, và do đó bỏ quên hay lơ là
việc sống Đạo, cần thiết hơn.
Mặt khác, cũng
vì tình trạng tha hóa về luân lý, đạo đức ngày một bành trướng ở
nhiều quốc gia vốn tự nhận là thuộc về Kitô Giáo (Christian
countries) như Pháp, Ý, Đức , Tây Ban Nha, Canada và Hoa kỳ
nhưng nay lại dung dưỡng hay cho phép những thực hành phản Kitô
Giáo như phá thai, chết êm dịu (Euthanasia) ly dị, hôn nhân đồng
tính (same sex marriage) và làm ngơ hay tiếp tay cho kỹ nghệ dâm
ô (pornorgraphy), phát triển làm đồi trụy không những người
lớn mà đặc biệt là thanh thiếu niên vì những kỹ thuật và hình
ảnh kích thích dâm đãng công khai bầy bán trong các tiệm DVD for
Adults và trên mạng vi tính toàn cầu.
Sau hết, vì
cuộc sống tương đối đễ dàng, thoải mái cộng với tự do quá trớn ở
các nước Âu Mỹ đã làm cho nhiều người không còn cảm thấy cần
Chúa nữa mà chỉ muốn vui sống cho thỏa thích trong giây phút
hiện tại mà thôi. Cứ đi một vòng quanh những nơi tụ họp công
công để thấy trẻ già, trai gái, xồn xồn ôm nhau nhẩy nhót trong
những chương trình gọi là “văn nghệ cuối tuần” trong đó chắc
chắn có những người công giáo không đi lễ ngày Chúa Nhật nhưng
lại có mặt đúng giờ để tham dự các cuộc vui thâu đêm suốt sáng
này! Thêm vào đó, còn có rất nhiêu người không đi Lễ mừng Chúa
Giáng Sinh nhưng lại tích cực tổ chức và tham dự những buổi ăn
uống, dạ vũ vui chơi trong đêm Giáng Sinh !!!
Nhưng đáng buồn
thay là đứng trước thực trạng này, những người có trách nhiệm
giáo dục luân lý và đạo đức – kể cả hàng giáo sĩ với sứ mệnh
rao giảng Tin Mừng Cứu Độ, chăm lo cho phần rỗi của các tín hữu
được trao phó cho mình dạy dỗ, và hướng dẫn về mặt thiêng liêng,
lại không có can đảm nhìn vào sự thật và mạnh mẽ lên án những
nguy cơ đe dọa đức tin Công Giáo dẫn đến sự thờ ơ sống Đạo của
nhiều tín hữu trong Giáo Hội ngày nay.
Để bào chữa cho
việc không muốn tham dự các nghi thức phụng vụ của Giáo Hội – cụ
thể là tham dự Thánh Lễ các ngày Chúa Nhật và Lễ buộc – nhiều
người nghĩ rằng chỉ cần tin và đọc Kinh Thánh ở nhà, hay nghe
những chương trình giảng Kinh Thánh của các mục sư Tin Lành
trên truyền hình là đủ, không cần phải năng xưng tội hoặc tham
dự Thánh Lễ hàng tuần nữa!
Chúng ta phải
nghĩ thế nào về quan niệm này của những người nói trên?
Chắc chắn đây
không phải là cách sống Đạo đúng nghĩa của người tín hữu Chúa
Kitô trong Giáo Hội Công Giáo.
Thật vậy, trước
hết là vấn đề đức tin. Thế nào là tin? Tin có Thiên Chúa tốt
lành thì phải yêu mến Người. Mà yêu mến thì phải thể hiện bằng
hành động cụ thể chứ không thể nói là tin mà không có việc làm
nào bên ngoài để chứng minh.
Một truyện vui
kể rằng, ở một giáo xứ kia, Cha Xứ chợt lưu ý đến một ông già
nọ vốn thường sốt sắng tham dự không những Thánh Lễ ngày Chúa
Nhật mà còn siêng năng đi lễ mỗi ngày nữa. Nhưng bẵng đi một
thời gian lâu, ông cụ vắng bóng ở nhà thờ. Cha Xứ lấy làm lạ,
tưởng ông cụ bị đau ốm hay đã di chuyển đi nơi khác. Cha bèn đến
nhà thăm ông xem sao. Đến nơi cha vẫn thấy ông ở nhà. Hỏi lý do
vì sao ông vắng mặt ít lâu nay ở nhà thờ thì ông trả lời cha như
sau:
“Con thấy không
cần phải đi lễ, đọc kinh chung nữa. Con ở nhà đọc kinh Thánh và
nhớ đến Chúa trong lòng là đủ rồi.
Cha mỉm cười và
hỏi ông: “Thế các con cháu cụ bây giờ ở đâu?”
Ông cụ đáp:
“Chúng ở xa con lắm nhưng hàng năm cứ vào dịp Lễ Giáng Sinh và
Tết thì đều trở về thăm con và cho quà tử tế.”
Nghe xong cha
xứ nói: “Tốt lắm, nhưng cụ làm ơn cho tôi xin địa chỉ hay số
phôn của của các con cháu cụ đi. ”
“Để làm gì thưa
cha?” Ông cụ hỏi.
Cha trả lời
ngay: “Để tôi viết thư hay phôn cho các con cháu cụ bảo họ đừng
tốn công và tiền bạc về thăm cụ nữa. Bảo họ chỉ cần nhớ đến cụ
trong lòng là đủ rồi; không cần thiết phải về thăm cụ nữa. Nói
xong cha xứ cáo từ ra về trong khi ông cụ ngồi suy nghĩ những
lời của cha vừa nói. Và mấy hôm sau, người ta lại thấy ông cụ
xuất hiện ở nhà thờ như cũ.
Câu truyện trên
có thể chỉ là tưởng tượng, nhưng cũng giúp minh chứng phần
nào điều Thánh Gia-cô-bê Tông Đồ dạy như sau về sự cần thiết
phải thể hiện đức tin qua hành động cụ thể:
“Hởi người
đầu óc rỗng tuếch, bạn có muốn biết rằng đức tin không có hành
động là vô dụng không? Ông Abraham tổ phụ chúng ta đã chẳng được
nên công chính nhờ hành động khi ông hiến dâng con mình là
I-xa-ác trên bàn thờ đó sao?
Bạn thấy đó:
đức tin hợp tác với hành động của ông, và nhờ hành động mà đức
tin nên hoàn hảo.”
(Bc 2:20-22)
Chúa Kitô đã
thiết lập Giáo Hôi hữu hình của Người trên trần thế và ban các
bí tích làm phương tiện hữu hiệu vá cần thiết để thông ban ơn
cứu độ của Chúa cho những ai muốn gia nhập Giáo Hội qua Phép
Rửa Tội và có thiện chí muốn được cứu rỗi nhờ phương tiện hữu
hiệu này. Nhưng không phải cứ rửa tội rồi là sẽ được cứu rỗi.
Cũng không thể nói khơi khơi như anh em Tin Lành rằng “tôi tin
Chúa Kitô” là xong, không cần phải làm gì nữa, Tôi đã hơn một
lần nói rõ là: theo Thần học và giáo lý của Hội Thánh,
dựa trên Kinh Thánh và ơn mạc khải của Chúa Thánh Thần, thì
muốn được cứu rỗi, nghĩa là được sống hạnh phúc đời đời với
Thiên Chúa trên Thiên Quốc, đòi hỏi chúng ta trước hết phải
cậy nhờ lòng thương xót vô biên của Thiên Chúa và
công nghiệp cứu chuộc vô giá của Chúa Kitô cộng thêm phần đóng
góp của cá nhân con người vào ơn thánh..
Chính yếu tố
cần đóng góp thêm của con người vào ơn cứu độ, mà người tín
hữu không thể thờ ơ với nhu cầu tối quan trọng là phải sống và
thực hành đức tin trong Giáo Hội sau khi được lãnh Phép Rửa.
Thật vậy, đức
tin Công Giáo được ví như hạt giống gieo vào tâm hồn trẻ nhỏ hay
người tân tòng khi lãnh nhận bí tích Rửa Tội. Hạt giống này
không thể tự nó lớn lên và sinh hoa kết quả được, nếu không có
sự vun xới, tưới bón của những người có trách nhiệm hỗ trợ về
mặt thiêng liêng là cha mẹ và người đỡ đầu đối với trẻ em, và
của cộng đoàn đức tin đối với người tân tòng.
Do đó, nếu cha
mẹ không lo giáo dục đức tin cho con cái trong gia đình, nhất là
cho con cái được tiếp cận với một cộng đoàn đức tin – cụ thể là
một giáo xứ – để con em được học hỏi giáo lý và lãnh nhận các bí
tích quan trọng và cần thiết như xưng tội, rước lễ lần đầu, và
thêm sức thì đức tin của các em sẽ không thể lớn lên được.
Đối với người
tân tòng (catechumens) và những người lớn (adults) đã lãnh nhận
bí tích Thánh Tẩy từ ngày sơ sinh, thì việc nuôi dưỡng và thực
hành đức tin trong Giáo hội cũng cần thiết không kém. Cụ thể,
nếu không tham dự việc cầu nguyện chung với cộng đoàn đức tin là
giáo xứ, và nếu không tin – hay không nhìn nhận lợi ích của bí
tích hòa giải để năng đi xưng tội, nhất là không tham dự Thánh
Lễ, là “nguồn suối và đỉnh cao của đời sống Giáo Hội” thì
người ta lấy gì để nuôi dưỡng và lớn lên trong đức tin?
Đành rằng tin
có Chúa là điều quan trọng và đọc Thánh Kinh là cần thiết và bổ
ích, nhưng đức tin phải được nuôi dưỡng sung mãn với ơn Chúa
đặc biệt thông ban qua các bí tích quan trọng như Phép rửa, Thêm
sức, Hòa giải và nhất là bí tích Thánh Thể là nguồn mạch chính
nuôi dưỡng đời sống thiêng liêng của Giáo Hội nói chung và của
cá nhân mỗi tín hữu nói riêng. Vì thế nêu không tham dự mọi cử
hành phụng vụ thánh của Giáo Hội mà đỉnh cao là Thánh Lễ Tạ Ơn
thì làm sao đức tin và đời sống thiêng liêng của chúng ta được
tăng trưởng và có đủ sức để sống đức tin ấy trước những thách đố
của sự dữ đầy dẫy trong trần thế này, nhất là những mưu chước
thâm độc của ma quỉ “Thù địch của anh em như sư tử
gầm thét rảo quanh tìm mồi cắn xé”? ( 1Pr 5: 8)
Kinh nghiệm cá
nhân và phổ quát chứng minh rằng muốn được thăng tiến trong bất
cứ lãnh vực nào, người ta cần phải cố gắng học hỏi và trau giồi
kiến thức và kỹ năng chuyên môn của lãnh vực ấy. Một lực sĩ
không thể giữ được thành tích của mình nếu không chuyên cần tập
luyện mỗi ngày. Chân lý này hoàn toàn đúng trong lãnh vực thiêng
liêng, đạo đức. Một người siêng năng cầu nguyện nhất là tham dự
Thánh Lễ và rước Minh Thánh Chúa sẽ tăng lòng yêu mến và gần
Chúa hơn người làm biếng hay không cầu nguyện và rước Minh
Thánh Chúa. Tình trạng “nguội lạnh thiêng liêng” này sẽ
dẫn đến sự sa sút đức tin, đức cậy và đức mến.
Đó chính là
điều Chúa Giêsu đã nói vói các môn đệ xưa: “Và phàm ai đã có
thì được cho thêm và sẽ dư thừa; còn ai không có thì ngay cái
đang có, cũng sẽ bị lấy đi.” (Mt 25:29)
Nói khác đi,
chính nhờ siêng năng làm việc đạo đức và hiệp thông với Giáo
Hội trong mọi cử hành phung vụ như cầu nguyện đọc kinh chung,
đi Đàng Thánh Giá, chầu Thánh Thể, năng xưng tội, nhất là tham
dự Thánh Lễ để được rước Mình Máu Thánh Chúa Kitô, mà đời sống
thiêng liêng của chúng ta được lớn lên, đưa chúng ta đến gần
với Thiên Chúa Ba Ngôi mà chúng ta tin có thật, Người đang yêu
thương và muốn “đến và ở lại trong chúng ta” ( Ga 14:23)
nếu chúng ta thực tâm yêu mến Người.
Nhưng yêu mến
Chúa thì không thể coi nhẹ đời sống thiêng liêng, coi thường các
phương tiện hữu hiệu và cần thiết để lãnh ơn cứu độ là các bí
tích mà Chúa Kitô đã thiết lập cho Giáo Hội cử hành để mưu ích
thiêng liêng cho phần rỗi của mỗi người chứng ta bao lâu còn
sống trên trần gian này.
Do đó, không
thể “sống Đạo” một mình mà không cần đến Giáo Hội, không tham
gia đời sống bí tích và phụng vụ của Giáo Hội như thực trạng
sống Đạo hiện nay của rất nhiều người..
Sau hết, liên
quan đến việc đọc Kinh Thánh, có thể nói vắn tắt như sau: đọc
Kinh Thánh là cần thiết và hữu ích. Tuy nhiên, không thể tự đọc
mà hiểu đúng được Lời Chúa trong Kinh Thánh.
Vì thế, cần
thiết phải tham dự Thánh lễ để được nghe và giải nghĩa lời Chúa
qua các bài đọc, đặc biệt là bài Phúc Âm. Nhưng muốn được hiểu
biết thêm về Kinh Thánh thì có thể tham dự những lớp học hỏi về
Kinh Thánh do những người có khả năng chuyên môn hướng dẫn ở các
giáo xứ, hoặc tốt nhất đi học một khóa về Kinh Thánh ở Đại Học
hay Chủng Viện. Ở Mỹ, có nhiều chủng viện thâu nhận cả học viên
bên ngoài vào học các lớp Thần học và Kinh Thánh dành cho chủng
sinh chuẩn bị làm linh mục. Nghĩa là không thể tự học Kinh Thánh
để hiểu cho đúng lời Chúa được.
Tóm lại, quan
niệm sống Đạo tách rời khỏi hay không cần hiệp thông hữu hình
với Giáo Hội là rất sai lầm, là tự lừa dối mình nếu không muốn
nói là tự kiêu tự đại, cho mình có đủ khả năng để tìm đến với
Chúa, không cần phương tiện hữu hiệu mà Chúa Kitô đã có ý ban
cho chúng ta là Giáo Hội, được ví như “con Tàu của ông Nô-e”
trong thời đại ngày nay để cho những ai muốn vào sẽ được cứu
sống giữa cơn phong ba đại hồng thủy đang nổi lên để cuốn đi vào
lòng đại dương mọi sinh vật bên ngoài con Tàu cứu nguy này.
Lm Phanxicô
Xaviê Ngô Tôn Huấn
|
VỀ MỤC LỤC |
|
CHUNG SỐNG |
Người Việt chúng ta có câu: “Ở bầu
thì tròn, ở ống thì dài”. Trước năm 1975 tôi đã có dịp học và
sống ở Huế 3 năm. Tôi đã từng thấy nhiều gia đình ở Xóm Đò sống
trên những chiếc thuyền. Mái ấm gia đình của họ là một chiếc
thuyền nho nhỏ với tất cả mọi thứ được chất chứa trong đó. Để có
thịt gà ăn, họ cố gắng nuôi một vài con gà. Vì không có đủ chỗ,
nên họ cho gà con vào ống tre hoặc trái bầu treo vào mái thuyền
để nuôi, đầu gà thò ra ngoài để ăn uống, còn thân mình nằm bên
trong. Khi lớn lên, những con gà trong ống thì dài ra theo hình
thể của ống, còn những con gà trong bầu thì tròn trịa. Đó là
những chuyện đặc biệt ở Huế. Có lẽ vì thế nên ta có câu: “Ở bầu
thì tròn ở ống thì dài.” Nhưng câu nầy cũng có nghĩa là: “Xã hội
nào cũng tạo nên những con người mang nhiều đặc nét của xã hội
đó.” Xã hội cộng sản tạo nên những người cộng sản và xã hội tư
bản tạo nên những con người tư bản. Những người cộng sản dễ dàng
sống chung với những người cộng sản và những nhà tư bản dễ chung
sống với những người tư bản hơn cộng sản. Xã hội góp phần trong
việc làm nên cá tính con người. Alfred Adler là người đầu tiên
đã khám phá ra xã hội tính của mỗi người có ảnh hưởng rất nhiều
đến sự hài hòa và hạnh phúc của cuộc đời chung sống trong đời
sống hôn nhân của họ.
Đối với các nhà tâm lý, tất cả
những trục trặc trong vấn đề hôn nhân đều phản ảnh chính con
người của họ dưới hai khía cạnh. Khía cạnh thứ nhất liên quan
đến những cá nhân liên hệ và cá tính của con người họ. Khía cạnh
thứ hai liên quan đến kỷ thuật và phương cách họ dùng trong việc
đối xử với nhau. Có thể thấy được lý do cho những hành động của
mỗi người và bản chất của những khó khăn bằng cách hiểu rõ sự
phát triển của cá nhân mình, mẫu sống của cuộc đời mình, sự huấn
luyện và mức độ hiểu biết của mình. Cũng vậy, vì những khó khăn
mang đặc tính xã hội nên việc nhận biết những tương quan hành
động cũng như những tương quan liên hệ giữa con người với nhau
rất cần thiết để giúp chúng ta hiểu thêm vấn đề. Alfred Adler là
người đầu tiên đã cho thấy những trục trặc và những xung đột cá
nhân có liên quan đến bản tính xã hội của họ. Trong cố gắng để
tìm hiểu nguyên nhân của bệnh nhân, ông đã khám phá ra cái đạo
lý của cuộc sống chung. Ông chủ trương cần phải có những luật lệ
và phải được tuân giữ cho cuộc sống chung nếu người ta muốn có
sự hài hòa sum hợp với nhau. Những qui luật cộng tác thật rất
cần cho sự bảo tồn các liên hệ tốt đẹp của con người. Mọi thất
bại và bất hạnh trong cuộc sống có thể là hậu quả của sự bất
kính và bất tuân những luật lệ của sự cộng tác. Nhưng cộng tác ở
đây có nghĩa là gì? Đó có phải là bổn phận bắt buộc của người
bạn chúng ta đối với chúng ta không? Thật dễ cho chúng ta để
nhận thấy sự vắng mặt của nó nơi những người khác và bấy giờ
chúng ta nhận thức được sự quan trọng của nó. Nhưng thật khó để
nhận thấy sự thiếu cộng tác ở nơi chính chúng ta. Dầu chúng ta
có hiểu cộng tác là gì đi nữa, chúng ta cũng chỉ áp dụng nó vào
trong mức độ giới hạn cho chính chúng ta.
CỘNG TÁC VÀ XÃ HỘI TÍNH
Bản tính con người mang tính chất
xã hội và bản chất con người đến từ sự giao tiếp xã hội. Con
người bị cô lập một thời gian sẽ mất tất cả phẩm chất con người.
Chẳng hạn, một cô bé Campuchia 8 tuổi đi chăn trâu bị thất lạc
trong rừng. Bố mẹ tưởng rằng cô bé đã bị thú dữ ăn thịt. Mọi
người trong nhà đều lập bàn thờ để tưởng nhớ cô ta. Và rồi hình
bóng của cô ta dần dần cũng bị xóa mờ với thời gian. Ba mươi năm
sau, trong lúc mọi người không còn để ý gì đến cô bé ngày xa xưa
ấy nữa thì cô ta xuất hiện dưới hình thức nửa người nửa ngợm.
Đầu tóc dài phết đất. Cô ta đi đứng như những con khỉ, thân mình
trần trụi, từ trong rừng đi ra lấy trộm những thức ăn của người
đi làm trong rừng để ăn. Và vì thế, cô ta đã bị phát giác. Người
ta đã báo cho cảnh sát và cô đã bị cảnh sát bắt về. Cô hoàn toàn
không biết nói. Cách sống đi đứng, ăn uống như một con vật. Cô
không muốn giao tiếp với ai. Suốt ngày chỉ ngồi khóc, nhớ cánh
rừng ngày xưa và chỉ còn ước muốn trở lại với cuộc sống hoang dã
ngày trước. Sau đó mấy ngày thi bố mẹ đến nhìn nhận đó là đứa
con gái của mình ngày xưa đã bị thất lạc trong rừng. Cô đã được
bố mẹ đưa về nhà nuôi dưỡng nhưng dường như cô đang sống trong
một thế giới khác. Điều đó cho thấy bản tính của con người mang
đậm tính chất xã hội. Con người không thể sống một mình mà không
cần đến người khác. Và sự đáp trả đối với sự tiếp xúc giữa con
người có nền tảng trên cảm giác bẩm sinh về xã hội. Đây cũng là
kết quả của nhiều trăm ngàn năm chung sống thành cộng đoàn, mà
giờ đây chúng ta được thừa hưởng như một di sản và cần phải được
phát triển cho một trật tự xã hội của nền văn hóa chúng ta.
Cảm giác xã hội có nghĩa là sự
thích thú về mặt xã hội. Nó là một diễn tả của cảm giác thuộc về
một cộng đoàn nào đó trong mỗi người chúng ta. Thiếu cảm giác
nầy sẽ làm giảm đi sự cộng tác. Nhưng những đồng bạn thì rất dễ
dàng xuất hiện như những người chống đối mà vì sự bảo vệ chính
mình nên khiến chúng ta phải chống trả. Chính cảm giác thù hận
nầy làm ngăn cản sự cộng tác, trái lại cảm giác xã hôi lại làm
gia tăng.
Cảm giác thuộc về khiến chúng ta
tin tưởng nơi người khác, những người mà chúng ta đón nhận như
những đồng bạn, và cũng khiến chúng ta tin tưởng vào chính mình
như nguồn sức mạnh làm tăng nghị lực khiến chúng ta có thể đối
diện với bất cứ sự gì có thể xảy ra. Chính sự sợ hãi cũng là một
cản trở lớn đối với sự cộng tác. Con người dễ dàng phát triển
cảm giác xã hội và hành động cộng tác bao lâu con người không có
sự sợ hãi vì sự sợ hãi sẽ làm mất đi cái khuynh hướng hồn nhiên
của họ. Ước muốn cộng tác bị bóp nghẹt bỡi mặc cản tự ti vì mặc
cảm nầy luôn sản xuất một sức lực để bảo vệ chính mình. Rất
thường, thái độ tự vệ được nghĩ là để đối phó với những nguy
hiểm tưởng tượng như khi người ta cảm thấy một đe dọa đối với
danh tiếng cá nhân. Cứ bình thường thì mọi người đều thích cộng
tác và sẽ cảm thấy đau khổ nếu mình không thể làm được điều đó.
Vì sự sợ hãi là ngăn trở lớn lao
cho sự cộng tác, vậy làm cách nào chúng ta có thể tránh nó được?
Thiết lập một cảm giác an toàn là phương cách hữu hiệu nhất.
Nhưng an toàn tự nó không đủ. Chính sự chết, sự đau ốm, và các
tai họa luôn đe dọa và sẽ còn đe dọa mãi mãi. Chúng ta không thể
thiết lập được sự an toàn vì chúng ta không thể khống chế được
những đe dọa nầy. Tuy nhiên chúng ta có thể tin tưởng ở nơi
chúng ta và nơi những người bạn láng giềng của chúng ta. Chỉ có
tự tin mới có thể giúp chúng ta ứng phó với mọi nghịch cảnh xảy
ra ngoài sự kiểm soát của chúng ta. Tự tin xuất hiện dưới những
sợ hãi lo toan là một điều can đảm. Chính cái can đảm và tự tin
đó thiết lập một nền tảng cho cảm giác an toàn, là cái đặt nền
tảng trên sự nhận thức rằng bất cứ cái gì cũng có thể vươn lên,
cũng có thể hữu ích nếu người ta biết xử dụng nó cho một mục
đích tốt đẹp.
HAI THÁI ĐỘ NỀN TẢNG ĐỐI
VỚI SỰ CỘNG TÁC
Chúng ta thấy rõ sự khác biệt giữa
hai thái độ hợp tác hay không hợp tác:
Cảm giác xã
hội Thù nghịch
Tin tưởng vào kẻ
khác Bất tín và nghi ngờ
Tự
tin Mặc cảm tự
ti
Can đảm
Sợ hãi
Cảm giác xã hội có nghĩa là tin
tưởng nơi người khác, điều đó không thể có được nếu chúng ta
thiếu sự tự tin. Bốn đặc tính trên đây là nền tảng cho hành động
cộng tác. Trái lại, những đặc tính đối ngược lại là nguyên nhân
chính cho sự không cộng tác. Từ những thái độ nền tảng đó, một
mẫu hạnh kiểm sẽ có mà chúng ta coi đó như là những nét chính
đáng ghi nhớ, chẳng hạn như thù ghét, ganh tỵ, tham lam, khoa
trương, khuếch đại là những phản ứng tự vệ được dùng bỡi cá nhân
để củng cố sự không muốn tham dự vào sinh hoạt xã hội. Sự hiền
hòa, từ tâm, quảng đại, chịu đựng trái lại biểu lộ một khuynh
hướng cộng tác.
Hai quan niệm sai lầm đến từ ý
tưởng sai lầm về sự cộng tác của con người. Một là tin rằng sự
giận dữ có thể dẫn đến sự thăng tiến, hoặc tin rằng đó là một
điều kiện tiên quyết cho những hành động hướng đến sự thăng
tiến. Người ta không ý thức về cấu trúc tâm lý của sự giận dữ để
nhìn thấy điều nầy là: sự giận dữ chính là một cảm xúc thù hận
đựợc hướng dẫn để chống lại một cái gì không hài lòng. Nhưng
chúng ta có cần những cảm giác hận thù để cung cấp những tình
thế và những điều kiện không vừa ý không? Mọi người đều có
khuynh hướng nghĩ như thế. Họ sai biết mấy! Những thay đổi cơ
cấu không đòi hỏi sự hận thù. Trái lại, những hành động hận thù
thường làm rối loạn hơn là thăng tiến vì chúng là kết quả của
tưởng tượng và bất đồng. Chúng ta không phát triển những cảm
giác hận thù vì lý do thăng tiến. Sự hận thù xuất hiện chỉ khi
chúng ta mất đi sự tin tưởng vào sự thành công của chúng ta. Bao
lâu chúng ta tin rằng chúng ta có thể thay đổi, chúng ta sẽ
không còn thù ghét tình trạng bất ổn trước đây. Nhưng bao lâu sự
nghi ngờ lại nổi lên trong lúc còn giải quyết vấn đề, sự thù
ghét cũng lại xuất hiện. Mặc dầu một người vợ có thể không thích
những thói quen của ông chồng, nhưng bao lâu còn có hy vọng rằng
ông ta có thể thay đổi, bà sẽ không cảm thấy giận dữ. Sự giận dữ
của bà cho thấy sự thất vọng trong bà đang lớn mạnh. Vì sự giận
dữ đặt nền tảng trên sự sợ hãi và sự thiếu tin tưởng, nó làm mất
đi sự giải quyết thõa đáng. Sự thăng tiến không thể được hoàn
tất mà không có sự chấp nhận.
Chấp nhận thì không giống với đồng
ý. Nếu chúng ta chỉ chấp nhận khi chúng ta hoàn toàn đồng ý, rất
ít cơ hội cho chúng ta chấp nhận. Không ai có đủ tư cách để
chúng ta thích, nhưng điều đó không có nghĩa chúng ta không thể
không chấp nhận ai hết. Chấp nhận gồm một cái gì khác hơn đồng
ý. Nó diễn tả một thái độ tích cực đối với một ai hoặc một cái
gì không kể khuyết điểm hoặc thiếu sót của họ. Khả năng làm việc
hiệu quả của chúng ta đòi hỏi một thái độ thân thiện và thông
cảm. Chỉ như vậy, bấy giờ chúng ta mới có thể ảnh hưởng người ta
đến với sự cộng tác. Chỉ như vậy, chúng ta mới có thể phát triển
những chương trình xây dựng để tháng những trở ngại. Người chồng
sẽ vui lòng thích nghi với những ước muốn của người vợ nếu ông
cảm thấy hoàn toàn được chấp nhận bỡi nàng, nhưng ông có thể đi
vào một hướng đối nghịch nếu ông cảm được sự giận dữ và khước từ
của nàng dành cho ông.
Quan niệm sai lầm thứ hai về những
nguyên tắc của sự cộng tác nằm trong niềm tin tổng quát rằng khi
những quyền lợi xung đột nhau , sẽ không làm được gì ngoại trừ
chống nhau hoặc nhượng bộ. Tuy nhiên, trong bất cứ trường hợp
nào đi nữa thì sự cộng tác cũng sẽ bị tiêu diệt và không có gì
chiến thắng. Nhượng bộ có nghĩa là bị khuất phục, là nhục nhã,
và cuối cùng là nổi loạn và đối nghịch. Chống cự thường kết thúc
trong sự đè nén. Ở đây cũng vậy, sự giận dữ xuất hiện trong
người bị khuất phục, và sự bất an, sợ sệt lại có trong kẻ chiến
thắng. Có những hoàn cảnh xem ra cần tranh chấp, nhưng những
hoàn cảnh như thế thường là kết quả của những thù hận trước đây.
Giao chiến tự nó không bao giờ kết thúc hận thù. Nó chỉ kết thúc
chiến tranh cho một giai đoạn nào đó mà thôi. Ngay cả nó mang
lại chiến thắng bằng cách đánh bại đối phương, chúng ta cũng hãy
chuẩn bị cho sự bộc phát của những hận thù đang âm ỷ, ngoại trừ
chúng ta thiết lập được một quan hệ mới của sự bình đẳng và tin
tưởng lẫn nhau.
Cũng vậy, trong quan hệ giữa bố mẹ
và con cái hay vợ với chồng đều đúng như vậy. Rất ít người trong
thời đại hôm nay được chuẩn bị để thõa đáp những lợi ích khác
nhau trong tinh thần cộng tác. Sự thiếu cảm giác xã hội, thiếu
can đảm, và thiếu tin tưởng là nguyên nhân của niềm tin sai lầm
nầy là: một sự giải quyết có thể được tìm thấy bằng cách chống
đối nhau hoặc nhượng bộ nhau. Thật ra, một thái độ thích hợp thì
cần thiết để giải quyết những khác biệt nhau mà không xúc phạm
đến phẩm giá và sự tự trọng của những người liên quan. Dầu con
người đã chung sống với nhau rất lâu, chúng ta vẫn là những
người mù trong nghệ thuật sống chung. Và dầu chỉ xuất hiện ở
chân trời của xã hội con người cách đây 5 hoặc 6 ngàn năm, nó
vẫn còn là một lý tưởng đáng để chúng ta nhận thấy và học hỏi,
đó là tâm lý và tâm thần có thể làm thăng tiến những liên hệ dân
chủ bằng cách phân tích và sửa sai những cá nhân và những liên
hệ của họ.
Lm.
Lê Văn Quảng, tiến sĩ tâm lý
|
VỀ MỤC LỤC |
|
THÁO GIẦY
|
Tôi nhớ lại một câu
truyện rất lí thú về sự tích đôi giày. Truyện kể rằng ngày xưa
có một ông vua, sống rất xa xỉ. Mỗi khi đến đâu, ông bắt dần
chúng nơi ấy phải trải thảm nhung trên tất cả những con đường
ông đi qua. Càng được đón tiếp long trọng, ông càng thích đi; và
ông càng đi, người ta càng phải trải nhiều thảm nhung cho ông
bước lên. Cho đến một ngày, người ta không kịp sản xuất nhung để
lót đường cho ông vua. Điều này làm ông tức giận và ra lệnh rằng
ông đến đâu mà không có thảm nhung lót đường, cả dân vùng ấy sẽ
bị giết chết hết. Thế nhưng đã có một người đến xin yết kiến
vua, ông ta cam đoan rằng nếu vua theo ý ông, vua đi đâu thảm
nhung cũng có sẵn mà không phải huy động một ai cả. Vua bằng
lòng, và ông nọ dùng hai mảnh nhung nho nhỏ, khâu thành một đôi
giày nhung rồi mời vua xỏ chân vào. Thế là từ đó, vua đi đâu
''thảm nhung'' đi theo đến đấy. Kĩ nghệ làm giày từ đó dần dần
thành hình và phát triển.
Câu truyện này khiến
tôi suy nghĩ và cảm thấy có liên hệ tới tính chất của những đôi
giày. Đôi giày tượng trưng cho sự giàu có, hay ít ra cũng là đủ
ăn đủ mặc, đôi giày làm cho người ta trở nên chững chạc, lịch
sự. Đi đến nơi nào có vẻ quan trọng một chút, người ta xỏ chân
vào đôi giày, tự nhiên trông có vẻ tươm tất ngay. Bà phu nhân
của cố tổng thống Phi Luật Tân Marcos có tới vài trăm đôi giầy
đắt giá. Tôi không biết có ai trong chúng ta có tới vài trăm đôi
giày như vậy không, nhưng chừng vài chục đôi thì tôi cũng đã
biết có người. Có những người ham thích mua giày, dư tiền một
chút, họ đi sắm giày. Những đôi kiểu mới, họ mang vào chân, ngắm
nghía rồi mua đem về, dù rằng những đôi cũ còn rất tốt, lại có
những đôi họ chưa xỏ chân vào lần thứ hai. Chính vì có nhiều
người ham thích mua giày, đóng giày mà kĩ nghệ sản xuất giày
phát triển rất mạnh, với nhiều hãng giày nổi tiếng. Có những đôi
giày trị giá mấy trăm Mĩ kim, trong khi một đôi dép dùng hằng
ngày trong nhà có thể chỉ phải mua với giá hai, ba đồng.
Đôi giày làm nên
ranh giới của người nọ đủ và người nghèo đói. Đôi giày cũng
..làm nên ranh giới của người tự do và người nô lệ. Ngày xưa,
trong một số xã hội nào đó chỉ những người tự do mới được quyền
đi giày, còn người nô lệ phải đi đất. Dụ ngôn ''đứa con hoang
đàng'' trong Phúc Âm cũng có hình ảnh của đôi giày. Khi đứa con
hoang trở về, nghèo đói, rách nới qùi xuống chân cha nói lời tạ
tội và chỉ mong cha cho trở về, nhận làm kẻ hầu người hạ trong
nhà chứ không dám mơ được nhận làm con như trước; người cha nhân
lành đã đỡ con dậy, gọi gia nhân đem áo cho mặc, nhẫn cho đeo,
giày cho đi. Đôi giày ấy thay cho lời người cha, nói với người
con rằng: ''Con là con cha, là người tự do, con không phải là kẻ
ăn người ở, không phải là hạng nô lệ trong nhà này.''
Nhưng đôi giày cũng
là vật tượng trưng chơ sự gò bó. Đôi giày trở nên nỗi cực hình
đối với những ai thích cho đôi chân mình được thoải mái. Tôi vốn
thích đi dép hoặc xăng đan ''cho nó mát". Ngày đầu tiên đi dạy
học, tôi cũng định lê đôi dép vào trong lớp, nhưng mẹ tôi đã đe:
''Nếu con không chịu mua giày và không chịu đi giày, mẹ không
cho con tới trường dạy học.'' Tôi hoảng quá, đành phải đi sắm
giày mà trong lòng lấy làm đau khổ vô cùng. Bây giờ, tôi vẫn có
thói quen đi dép hay đi xăng đan. Và đang khi có đôi chân thoải
mái như thế, tôi nhìn những người bạn phải đi giày suốt từ sáng
đến tối mà thương cho họ. Nhất là những cô phải xỏ chân vào đôi
giày cao gót và để đôi giày ấy đeo cứng chân mình, dù đi, dù
đứng, dù ngồi; chắc là bí bức, gò bó lắm. Nhưng nói vậy thôi, có
nhiều người sẵn sàng chịu sự gò bó để cảm thấy mình đẹp và được
khen là đẹp. Tuy nhiên, tôi cũng thấy có nhiều người, nhất là
những người trẻ, bước đi trên đường phố bằng những đôi chân trần
không giày dép. Những người trẻ này có lẽ không thích sự gò bó,
dù là sự gò bó của đôi giày hay sự gò bó của những luật lệ, định
chế xã hội.
Có một khoa nhìn
giày để đoán ra tính nết người đi đôi giày đó. Người ta nhìn đôi
giày mòn ở mũi hay ở đế, mòn phía trong nhiều hay mòn phía ngoài
nhiều, rồi từ đó đoán ra người đi đôi giày ấy tính hướng nội hay
hướng ngoại, bình tĩnh hay hấp tấp, cương quyết hay e dè v,v...
Tôi không biết những điều ước đoán ấy đúng, sai ra sao, nhưng từ
lâu tôi vốn thích ngắm những đôi giày mòn vẹt hơn là nhìn những
đôi giày bóng loáng chưa đụng đất trong tiệm bán giày. Giày đẹp
mấy mà chưa dùng đến thì cũng chưa đem lại chút lợi ích gì cho
con người. Giày càng_mòn, càng vẹt bao nhiêu, càng chứng tỏ nó
đã giúp cho con người đi chuyển nhiều bấy nhiêu. Đẹp mà không
giúp ích cho đời, cũng không quí bằng dù tàn tạ nhưng đã đem lại
ích lợi cho đời sống con người.
Chính vì thế đã có
người rất quí trọng đôi giày mòn, vẹt của mình. Người ta kể rằng
một tu viện nọ tổ chức một cuộc tĩnh tâm. Cuối ngày, cha tu viện
trưởng nói với mọi người để lên bàn vật mình cho là quí nhất.
Các tu sĩ lần lượt để lên bàn những báu vật của mình. Người thì
đặt lên một cây thánh giá bằng vàng, người khác là một cuốn
thánh kinh đóng bìa da công phu, người khác nữa là một tràng hạt
bằng bạc... Đến lần vị tu sĩ kia, ông thản nhiên cúi xuống tháo
đôi giày cũ kĩ, mòn vẹt của ông và trịnh trọng đặt lên bàn. Mọi
người ồn ào, bất mãn, người ta cho rằng vị tu sĩ kia ngạo mạn và
bất kính đối với người khác và đối với những báu vật của họ. Tu
viện trưởng ra lệnh cho vị tu sĩ kia giải thích tại sao lại cho
đôi giày cũ kĩ bụi bặm kia là vật quí nhất, vị tu sĩ trả lời:
''Vì chính nhờ nó, con đã đem được Tin Mừng của Chúa Ki tô đến
biết bao con người ở những miền đất xa xôi. '' Câu truyện này
khiến tôi liên tưởng đến lời của tiên tri Isaia: ''Đẹp thay bước
chân người đi gieo rắc Tin Mừng.''
Ai từng đi giày cũng
có một đôi giày mình ưng ý nhất, đôi giày ấy đi vào vừa vặn,
bước đi thật êm, nó không cọ xát khiến đôi chân đau bỏng, nó
không bó đôi chân lại khiến chân bị tê biết, nó cũng không lỏng
lẻo khiến cho đôi chân muốn tuột ra ngoài. Khi có một đôi giày
ưng ý rồi, ta không thích đi đôi giày khác, nhất là không thích
dùng giày của người khác. Đôi giày khi đó trở thành vật biểu
tượng cho sở thích, cho bản tính của mình. Có lẽ chính vì thế mà
lâu nay người ta có thành ngữ ''đi giày nhiều người''. Thành ngữ
này có nghĩa là khi làm việc, ta phải chiều theo tính nết của
quá nhiều người thì việc mới thành tựu được. Phải ''đi giày
nhiều người '' là một tình trạng rất khổ tâm của những người
muốn hoạt động hữu hiệu cho một mục tiêu cao đẹp, mà cứ phải
chiều ý hết người này tới ngườii khác. Mặt khác, ''đi giày nhiều
người '' cũng là câu chê bai dành cho những ai không dám tự
quyết không dám can đảm dấn thân, bất chấp những nhân sự ''cản
mũi kì đà '', mà cứ luôn luôn phải làm theo ý người này, người
nọ.
Dịp lễ Phục Sinh vừa
qua, tôi được dịp ''tháo giày'' một cách hết sức thoải mái.
Chuyện ''tháo giày '' của tôi không liên quan gì đến việc các
viên chức đóng vai mười hai tông đồ, tháo giày ra cho vị linh
mục chủ tế, bắt chước Chúa Giê su, rửa chân cho mình. Chuyện
''tháo giày?' của tôi hoàn toàn khác. Tôi được gọi đến dự một
cuộc tĩnh tâm của giới trẻ. Sau những nghi thức và những bài
giảng, đêm đã về khuya. Đây là thời điểm thuận tiện nhất để
những người trẻ ngồi lại với nhau, tâm sự về những thao thức,
những ước vọng, những suy tư của mình. Để tạo bầu không khí thân
mật, vị linh mục phụ trách kêu gọi mọi người ngồi xuống đất bên
nhau thành vòng tròn, thay vì ngồi trên ghế. Muốn ai cũng có thể
ngồi thoải mái, vị linh mục xin mọi người tháo giày ra trước khi
ngồi. Khi được lệnh ''tháo giày'', tôi là người sung sướng nhất.
Lúc nào tôi cũng mong đợi chân mình được tự do! Vừa tháo giày,
tôi vừa quan sát những người trẻ chung quanh. Một số tháo giày
ra ngay; một số khác còn ngần ngừ, như còn e dè, nuối tiếc gì
đó. Nhưng rồi cuối cùng ,ai cũng tháo giày ra hết. Với đôi chân
thoải mái, mọi người ngồi xuống đất, vòng tròn thu hẹp dần, thu
hẹp dần, cho đến khi vai người này có thể chạm được vai người
khác, đầu người nọ có thể chụm vào đầu người kia. Và họ bắt đầu
chia sẻ với nhau về những ưu tư, khát vọng, mơ ước, hạnh phúc,
đau khổ của mình. Đúng lúc ấy tôi nghĩ tới đôi giầy mọi người
vừa tháo khỏi chân. Đôi giày, nhìn dưới một khía cạnh nào đó,
chính là bản chất riêng của mỗi người. Để có thể ngồi sát bên
nhau, vai chạm vai, đầu chụm đầu, nghe được nơi nhau những lời
chia sẻ thân tình, chúng tôi phải tháo đôi giày, phải cởi bỏ bản
chất riêng của mình trước đã, rồi mới có thể hòa đồng trong một
bầu khí chung, một tâm tình chung. Những giọt lệ nơi khóe mắt
tôi ứa ra một cách kín đáo.
Tôi ước mong trong
cuộc sống, tôi và các bạn tôi biết nhận thức rằng:
rất nhiều lúc, chúng tôi phải tập ''tháo
giày" tập cởi bỏ bản chất riêng để cùng nhau theo đuổi một mục
đích chung. Cùng nhau đi chân trần trên đường hướng về lí tưởng,
có lẽ thích thú hơn lộp cộp với đôi giày để bước những bước độc
hành.
Nhà Văn Quyên Di |
VỀ MỤC LỤC |
|
QUYẾT TÂM ĐẦU NĂM
|
Chắc cũng chưa quá
trễ để nêu ra những điều muốn thực hiện trong năm sắp tới. Vì
bây giờ mới là giữa tháng Giêng dương lịch và còn hơn một tháng
nữa mới Tết Nguyên Đán Việt Nam, năm của Chúa Sơn Lâm, Ông Ba
Mươi, Ông Hổ.
Quyết tâm là sự cố
gắng thực hiện cho bằng được một điều gì dù là có gặp khó khăn
trở ngại. Sự cố gắng này diễn ra hàng ngày trong sinh hoạt
thường lệ của con người, vì cổ nhân đã nói “ Sống cho có sống mà
không cố gắng là sống vô vị”.
Tuy nhiên, vào mỗi
dịp đầu năm, thì nhiều người vẫn có thói quen tính sổ, ôn lạị
chuyện vui buồn, thành công, thất bại trong năm cũ rồi đưa ra
những ước vọng sẽ thực hiện vào năm sắp tới. Đó là “Quyết Tâm
Đầu Năm- New Year Resolutions”.
Theo một số nghiên
cứu, tập tục này đã xuất hiện từ nhiều ngàn năm về trước ở triều
đại Babylon. Ước muốn của dân chúng lúc đó rất ư giản dị là họ
sẽ hoàn trả dụng cụ canh nông như cầy cuốc mà họ đã mượn của
hàng xóm hoặc trang chủ. Đối với nông dân, các dụng cụ canh tác
rất quý, mượn phải trả.
Rồi tới đế chế La
Mã, quyết tâm đầu năm là tìm kiếm sự tha thứ từ đối phương cho
các lỗi lầm đã gây ra trong khi bành trướng.
Việt Nam mình có
phong tục chúc mừng Tết Nguyên Đán. Người lớn chúc nhau được
khang an thịnh vượng; trẻ em được ông bà cha mẹ mừng tuổi, mau
ăn, chóng lớn. Con cháu cảm ơn, chúc thọ ông bà cha mẹ và cũng
hứa sang năm sẽ ngoan hơn, học hành chăm chỉ hơn.
Về lãnh vực tôn
giáo, lời hứa không ăn thịt, uống rượu trong Mùa Chay của Cơ Đốc
Giáo hoặc suy gẫm lại những lầm lẫn đã phạm trong năm trước rồi
tha thứ và xin tha thứ của Do Thái Giáo trong dịp đầu năm cũng
có những tác dụng tương tự để tự sửa mình.
Ngày nay, lời tự
hứa hoặc cam kết sẽ làm của dân chúng thường rất thực tế. Quá
mập phì ư? Thì quyết tâm năm tới sẽ giảm cân. Bỏ thuốc lá để
khỏi ho hen, tránh ung thư phổi. Tiêu pha phung phí thì sẽ cố
gắng giảm chi, tiết kiệm trả hết nợ cũ…
Thực hiện được
“quyết tâm đầu năm” cũng mang lại niềm vui tâm lý cho bản thân.
Những điều muốn làm là những thách thức để mình cố gắng vượt
qua.Ta phải vận dụng trí óc, tìm kiếm phương thức thực hiện. Đó
là những động lực thúc đẩy ta, khiến ta cương quyết hơn để kết
luận “cố gắng là mẹ thành công”, chẳng khó khăn nào mà không
vượt qua được.
Về phương diện xã
hội, có những lúc mình cảm thấy thấp kém về vai vế, về tính
tình, về hình dáng so với người khác thì mình quyết tâm thay
đổi. Để bằng người. Thực hiện được quyết tâm thì niềm tự tin
cũng cao hơn.
Tuy nhiên, dù có
nhiều người muốn quyết tâm, nhưng các thăm dò cho hay, tỷ lệ
thành công không cao lắm: chỉ 20-30% mà thôi. Lý do bỏ cuộc là
không có kế hoạch cụ thể, thực tế và không kiên tâm. Lập một
danh sách thì dễ nhưng thực hiện mới khó.
Muốn Quyết Tâm được
kết quả như ý muốn cũng công cần lưu ý mấy điều:
1-Trước hết là cần
thoải mái, cân nhắc viết ra những khó khăn, thành công trong năm
vừa qua. Nghiền ngẫm đọc đi đọc lại rồi lựa xem vấn đề nào là
quan trọng nhất, không thay đổi không được và phải thực hiện với
bất cứ giá nào.
2- Nêu rõ lý do
thất bại của từng vấn đề trong quá khứ, rút ưu khuyết điểm. Thất
bại vì mình hoặc vì ngoại cảnh, vì không có phương tiện, thì
giờ, vì nhiều cạnh tranh…
3- Đặt thứ tự ưu
tiên vấn đề nào cấp bách thì làm trước.
4- Ghi rõ chi tiết
các vấn đề một cách chính xác, rõ ràng
5- Nếu thấy cần,
hoàn tất từng vấn đề chứ chẳng nên ôm đồm nhiều việc một lúc.
6- Chương trình
thực hiện quyết tâm rõ ràng. Làm như thế nào, ở đâu, có cần sự
tiếp tay của người khác. Nêu ra những phương thức thực tế, có
thể thực hiện được.
7- Đặt thời gian
thực hiện. Ghi kết quả của từng giai đoạn.
8- Chia xẻ với
người thân về ý muốn của mình và nhờ hỗ trợ tinh thần.
9- Cần phải tự kỷ
luật, tuân theo phương thức hành động đã nêu ra và làm việc có
nguyên tắc
Lấy một vài thí dụ:
Để giảm mập, phải
ghi rõ là làm cách nào để giảm cân thì phải suy nghĩ không
ngoan, ăn uống đúng cách, vận động nhiều hơn với mục tiêu là
giảm 1,2,3.. kí trong 2 tuần lễ. Chứ không phải chỉ khơi khơi
nói là sẽ giảm mập.
Để kiếm nhiều tiền
thì cũng có nhiều phương thức khác nhau nhưng điểm quan hệ là
phải cố gắng, làm việc hết sức mình một cách có tổ chức và tính
toán chi tiêu đúng với nhu cầu. Chứ không phải chỉ nêu ra ước
muốn rồi “há miệng chờ sung”.
Muốn bỏ thuốc lá ư?
Thì hãy nghĩ tới hậu quả hen suyễn như gà mắc dây thung mỗi khi
hít khói thuốc vào phỗi, hoặc nghĩ tới Hội Ung Thư Hoa Kỳ cho
hay 90% tử vong ở nam giới, 80% ở nữ giới vì ung thư phổi là do
cả mấy ngàn hóa chất trong thuốc lá gây ra. Muốn tránh các hiểm
nguy trên, cần phải ngưng hút thuốc lá. Có nhiều phương thức,
dược phẩm do các cơ quan y tế công tư sẵn sàng tiếp tay. Chỉ
cần cương quyết là “giã từ khói thuốc” được ngay.
Rồi lại còn quyết
tâm dành nhiều thì giờ cho vợ chồng, con cái; giảm căng thẳng
trong đời sống, học thêm vi tính, làm việc thiện nguyện…Kể ra
thì có nhiều quyết tâm muốn làm.
Nhưng có lẽ “Quyết
Tâm cho Mỗi Buổi Sáng của Năm Mới, do nhà giáo dục và lãnh đạo
tôn giáo Hoa Kỳ, Giám Mục John H. Vincent (1832-1920) viết ra,
là khá thực tế, có thể thực hiện được. Xin lược dịch gửi quý
thân hữu.
“Hôm nay tôi sẽ cố
gắng giản dị, chân thật và trong sáng, xua đuổi mọi tư tưởng bất
mãn, lo âu, chán nản, đen tối, vụ lợi; nuôi dưỡng sự hào hứng,
cao thượng, bác ái và thói quen im lặng thần thánh; áp dụng cần
kiệm chi tiêu, dè dặt trong đối thoại, siêng năng với nhiệm vụ
được giao phó, trung thành với sự thực và đặt trọn niềm tin nơi
Thượng Đế”.
Ước muốn chỉ có vậy
mà quá ư xúc tích, làm được thì cuộc đời nhẹ nhàng biết là bao.!
Bác sĩ Nguyễn Ý Đức M.D.
Texas-Hoa Kỳ
|
VỀ MỤC LỤC |
CỌP - CHUYỆN PHIẾM CỦA GÃ SIÊU
|
Năm Canh Dần
cầm tinh con cọp, vì thế trong mục chuyện phiếm hôm nay, gã xin
bàn về một vài đặc tính của cọp.
Theo gã được
biết, thì hổ, cọp hay hùm…là một loài thú vừa lớn lại vừa dữ,
thuộc nhà mèo. Thân dài, cổ ngắn, đầu tròn, râu cứng, răng nhọn.
Lông màu vàng đỏ và có nhiều vằn đen. Sống trong các khu rừng,
kể cả rừng đầm lầy có lau sậy. Chúng thường ăn thịt hươu nai,
lợn rừng, thậm chí có khi bắt cả trâu bò mà ăn. Mỗi bữa dùng tới
30, hay 50 ký lô thịt. Sau đó, có thể nhịn trong nhiều ngày…(Từ
điển Bách khoa Việt Nam).
Như vậy, xét
theo chính tông dòng họ “miêu” thì có đủ các loại mèo, từ mèo to
đến mèo nhỏ, từ mèo mun đến mèo mướp, từ mèo nhà đến mèo rừng…Đây
là những loài mèo con nhà “mão”. Bên cạnh đó còn có những con
tương cận, tuỳ theo vóc dáng, và nhất là bộ lông, người ta có
thể chia thành:
1- Hổ, cọp,
hay hùm.
2- Báo hay
beo.
3- Sư tử.
Tóm lại, cọp
beo và sư tử đều có liên hệ dây mơ rễ má với nhau, vì cùng chung
một gốc gác là mèo. Chẳng thế mà dân bợm nhậu hiện nay vốn gọi
mèo là tiểu hổ. Ngoài ra, trong dân gian người ta thường gọi hổ,
cọp, hùm là…ông ba mươi. Số là ngày xưa, hễ ai giết được một con
cọp, thì sẽ được nhà nước thưởng cho ba mươi quan tiền!
Nói tới hổ,
cọp hay hùm là người ta nghĩ ngay tới cái dáng dấp hào hùng mạnh
mẽ, cái khí thế oai phong lẫm liệt. Vì vậy, hình ảnh của loài
thú này vốn được dùng làm biểu tượng cho các vị tướng lãnh và
các bậc anh hùng. Chẳng hạn người ta dùng danh từ “hổ tướng” để
nói về một viên võ tướng có dáng điệu uy nghi, oai vệ, trông rất
hùng dũng:
- Ra oai hổ
tướng đoạt thành,
Ngói tan,
trúc chẻ, tan tành thịt xương.
Còn hai chữ
“hổ trướng” có ý nói tới nơi đóng quân của viên chủ tướng. Nơi
đây thường có vẽ hình con hổ. Tục truyền rằng vua nước Lương là
Từ Tri Ngạc, trong những cuộc chinh phạt, thường dùng da hổ vây
quanh trướng để họp với các thuộc hạ, luận bàn về quân sự. Vì
thế nơi này được gọi là hổ trướng:
- Họp trong
hổ trướng luận bàn quân cơ.
Cũng vì thế,
mà người dân Việt Nam đã gọi ông Hoàng Hoa Thám, hay Đề Thám,
người anh hùng đất Yên Thế là Hùm thiêng Yên Thế.
Theo sử sách
ghi lại, ông là người thôn Lang Trung, thuộc tỉnh Bắc Giang. Tên
thật là Trương Văn Thám. Cha là Trương Văn Vinh, còn mẹ là người
làng Ngọc Cục, gần thôn Lang Trung. Năm 20 tuổi, Thám tình
nguyện xung vào đoàn nghĩa binh của Trần Quang Soạn để chống
Pháp. Năm 23 tuổi, theo cha nuôi là Ba Phúc đi Vân Nam vận động
nghĩa binh, rồi về giúp việc cho Cai Kinh, được phong làm Đề đốc
và từ đó được gọi là Đề Thám.
Ngày
06.7.1888, Cai Kinh bị giết ở Lạng Sơn, Đề Thám tụ tập nghĩa
quân chống Pháp suốt vùng Võ Giang, Hiệp Hoà, Việt Yên…Tháng 4
năm 1889, binh lính được khoảng 500 tay súng, tụ tập ở làng Đình
Tảo, làm lễ tế cờ, cùng nhau uống máu ăn thề, rồi lập đồn ải
khắp vùng Phủ Lạng Thương, Vĩnh Phúc Yên, Thái Nguyên, Bắc Giang
và đặt tổng hành dinh tại Yên Thế. Lúc mạnh thì đánh. Lúc yếu
thì trá hàng, làm cho Pháp rất cực nhọc, dẹp không được, mà cầm
cũng không yên.
Chính trong
lần trá hàng chót vào năm 1905, Đề Thám cho tổ chức đảng Nghĩa
Hưng để hoạt động trong hàng ngũ của địch, rồi ngày 17.11.1907
làm một vụ nội công ngoại kích tại cửa Nam, Hà nội và ngày
27.6.1908 đầu độc công binh Pháp. Năm 1909, Pháp phải huy động
hết lực lượng đánh vào Yên Thế, làm cho Đề Thám phải chiến đấu
rất cam go. Nghĩa quân, lớp tử trận, lớp ra hàng, số còn lại
cũng dần dần mất hết tin tưởng nơi chủ tướng. Các con lớn đều
chết, chỉ còn người con gái nhỏ tên Hoàng Thị Thế, là con bà vợ
ba, cũng cùng mẹ bị bắt vào tháng 11 năm 1909.
Mặc dù đã ở
vào đường cùng, ông vẫn còn cố gắng hoạt động ở Thượng Yên. Ngày
21.11.1911, Pháp đem quân đến bao vây ngọn đồi gần Yên Lê, làm
bị thương 7 người và giết chết 5 người khác. Riêng ông thì thoát
khỏi vòng vây. Từ đó, hay tin ông ở đâu là Pháp liền đem quân
truy nã, nhưng không thể nào bắt được ông. Cuối cùng, Pháp phải
nhờ đến Lương Tam Kỳ là một tên giặc khách cho người trá hàng,
lừa thế giết ông trong đêm ngày 9.2.1913, để lãnh tiền thưởng.
Cuộc kháng
chiến chống Pháp của nghĩa quân và đảng Nghĩa Hưng bị chấm dứt.
Tuy nhiên, người anh hùng đất Yên Thế hay con hùm thiêng Yên Thế
vẫn sống mãi trong tâm khảm của người dân Việt Nam.
Thực đúng như
người xưa đã từng nói:
- Hổ tử hùng
tâm tại. Có nghĩa là cọp tuy chết, nhưng cái khí thế hùng mạnh
của nó vẫn còn đó. Người anh hùng tuy chết, nhưng danh tiếng vẫn
lưu truyền muôn đời.
Hay như:
- Hổ tử lưu
bì, nhân tử lưu danh, có nghĩa là hổ chết để da, người ta chết
để tiếng.
Cũng giống
như cọp, người anh hùng đôi lúc cũng gặp phải hoạn nạn theo
kiểu: hùm thiêng mắc bẫy mọi, có nghĩa là người tài ba mà sa cơ
vì mưu kế của một kẻ vô danh.
Đời Tam Quốc
bên Tàu, Quan Vân Trường đứng đầu ngũ hổ tướng của Hán Trung
Vương. Khi thủ Kinh Châu, đã từng bắt Vu Cấm, giết Bằng Đức là
tướng tài của Tào Tháo. Nhưng rồi lại bị Lữ Mông, một viên tướng
tầm thường của Ngô Quyền triệt hạ các phong hoả đài, đoạt Kinh
Châu trong lúc Quan Công đi đánh Phàn thành, rồi phục binh bắt
Quan Công nơi Quyết Thạch.
Và một khi
dậu đổ thì bìm leo. Hổ lạc bình dương, khuyển khi. Có nghĩa là
cọp xuống đất bằng thì bị chó khinh. Người anh hùng một khi đã
hết thời, thì ngay cả những kẻ chẳng ra gì cũng dám mở miệng chê
bai.
Còn đâu nữa
cái thời oanh liệt, bọn tiểu nhân kéo đến núp bóng, lợi dụng
danh nghĩa mà ra oai theo kiểu “cáo mượn oai cọp”. Truyện rằng:
Tuyên Vương
làm vua cả nước Sở. Chiêu Hề Tuất chỉ là một kẻ bầy tôi. Thế mà
người phương bắc, hễ nghe thấy nói về Chiêu Hề Tuất cũng đều
phải kính sợ. Vua lấy làm lạ, một hôm hỏi quần thân là vì cớ làm
sao? Không ai trả lời nổi. Chỉ có Giang Nhất thưa được rằng:
- Con hổ hay
bắt các giống thú để ăn thịt. Một hôm bắt được con cáo. Cáo bảo:
Liệu đó! Chớ có động chạm đến ta mà chết ngay bây giờ. Ta là
Trời sai xuống, cầm quyền coi hết cả bách thú. Ngươi ăn thịt ta
là ngươi trái mệnh trời, hại đến thân ngay lập tức. Không tin,
cứ để ta đi trước, ngươi theo hầu sau, xem có con thú nào trông
thấy ta mà lại không sợ hãi tìm đường trốn cho mau hay không!
Hổ cho cáo là
nói thật, bèn theo cáo đi. Quả nhiên bách thú trông thấy đều sợ
mà chạy cả. Hổ vẫn không biết rằng bách thú sợ mình mà chạy, cứ
tưởng là sợ cáo. Nay nhà vua nước mạnh, quân nhiều mà vua giao
cả quyền thế cho Chiêu Hề Tuất, người phương bắc sợ Hề Tuất,
nhưng kỳ thực là sợ vua, cũng như bách thú sợ cáo vậy.
Những kẻ tầm
thường mượn quyền thế người trên để hống hách, doạ nạt người ta.
Nếu không biết, thì người ta còn sợ, chứ khi “hổ mà thêm cỏ, lừa
mà thò tai”, thì chẳng những người ta đem lòng khinh, mà còn làm
đê nhục cho bõ ghét. (trích trong Cổ Học Tinh Hoa).
Còn đâu nữa
cái thời oanh liệt làm bá chủ cả sơn lâm, như Thế Lữ đã từng
diễn tả qua bài “Nhớ rừng”:
Gậm một khối
căm hờn trong cũi sắt,
Ta nằm dài,
trông ngày tháng dần qua.
Khinh lũ
người kia ngạo mạn, ngẩn ngơ,
Giương mắt bé
riễu oai linh rừng thẳm
Nay sa cơ, bị
nhục nhằn tù hãm
Để làm trò lạ
mắt, thứ đồ chơi.
Chịu ngang
bầy cùng bọn gấu dở hơi,
Với cặp báo
chuồng bên vô tư lự.
Ta sống mãi
trong tình thương nỗi nhớ,
Thủa tung
hoành, hống hách những ngày xưa.
Nhớ cảnh sơn
lâm, bóng cả, cây già,
Với tiếng gió
gào ngàn, với giọng nguồn hét núi,
Với khi thét
khúc trường ca dữ dội
Ta bước chân
lên, dõng dạc, đường hoàng,
Lượn tấm thân
như sóng cuộn nhịp nhàng,
Vờn bóng
âm-thầm, lá gai, cỏ sắc.
Trong hang
tối, mắt thần khi đã quắc
Là khiến cho
mọi vật đều im hơi.
Ta
biết ta chúa tể muôn của loài
Giữa chốn thảo hoa, không tên không tuổi.
(……..)
Tiếp đến, gã xin trình bày về cái tình của loài cọp. Cọp tuy dữ,
thế nhung nhiều lúc cái tình của nó cũng thật đậm đà và dễ
thương, nó chẳng bao giờ ăn thịt con của mình.
Đối
với con người, cọp thường là một mối đe doạ và để lại những hậu
quả thảm khốc. Thế nhưng đôi lúc cọp cũng tỏ ra quí mến và biết
ơn người đã từng giúp đỡ nó, như câu truyện « Người nuôi cọp »
dưới đây:
Ngày xưa, ở huyện Tống Sơn, tỉnh Thanh Hóa có một ông lão tiều
phu tên Nguyễn Quốc Oai, tính khí ngông nghênh. Ông lão không có
con, chỉ có hai vợ chồng trơ trọi. Nhà làm ở trong núi, hàng
ngày kiếm củi bán để sống.
Một
hôm, ông lão đi vào rừng trông thấy ở dưới đèo có một con cọp
con lông vuốt chưa mọc mà mình mẩy thì đầm đìa máu. Đoán chừng
là cọp mẹ cõng con đánh rơi xuống không lấy lên được, bèn trèo
xuống bắt lên đem về nuôi, lấy thuốc bôi cho khỏi chỗ đau. Bà vợ
thấy thế, can chồng rằng:
-
Cọp là giống hung tợn, nuôi thế nào được, hãy thả nó ra, kẻo lại
mắc họa về sau.
Ông
lão không nghe, nói rằng:
-
Giống vật cũng có linh tính, biết đền ơn trả nghĩa. Như trước
kia có người đàn ông kiếm củi ở làng Thuận Lộc chữa cho cọp khỏi
hóc, người đàn bà bán rượu ở làng Trung Hà giúp cọp sinh đẻ, đến
bây giờ những người ấy vào rừng không lo gì cọp nữa. Những người
ấy làm ơn trong một lúc mà con cháu còn được đền ơn đến bây giờ.
Huống chi là ta nuôi từ lúc yếu đến lúc mạnh, coi nó như là con.
Từ
đó, ông nuôi cọp như con. Lúc ăn uống, cho ngồi ở bên, lấy thức
mình ăn thừa cho cọp ăn. Dần dần, lông cọp mỗi ngày một dài,
nanh vuốt đầy đủ, mà cọp lại hiểu ý người ta, lúc thì múa, lúc
thì nhảy làm trò cho vui.
Thấy thế, ông lão càng yêu nó lắm. Đi đâu, ông cũng bảo nó đi
theo hầu mang đồ nhắm và đeo bầu rượu. Lúc uống rượu xong thì
ông lại cưỡi cọp mà đi lăng nhăng ở trong rừng núi, ai trông
thấy cũng lấy làm lạ, sợ hãi.
Buổi tối ông thường đơm đó ở dưới khe suối lấy cá, thỉnh thoảng
bị kẻ khác lấy đi mất. Vì thế đêm đêm ông dặn cọp cứ ra đấy mà
giữ. Khi nào ông đến thì ho lên mấy tiếng cho nó biết. Hễ cọp
nghe thấy tiếng thì ra đón rước. Ông xuống khe, đổ đó lấy cá đem
đổi lấy thịt để nuôi cọp.
Cứ
như thế được nửa năm. Một đêm, ông say rượu, ra chỗ đơm đó quên
không lên tiếng, con cọp ngờ là người khác liền cắn ngay một
miếng. Đến lúc trông mặt, biết là cha nuôi mình thì đã muộn. Cọp
liền cõng xác cha nuôi lên bờ rồi về nhà, đến trước vợ ông lão,
cọp phục xuống mà chảy nước mắt ra, như là kẻ đến thú tội. Người
vợ thấy thế lấy làm ngạc nhiên, đốt đuốc đi theo cọp.
Khi
đến nơi, thấy chồng nằm trên bờ suối, áo quần đầm đìa những máu,
bà liền kêu lên rồi trỏ vào mặt con cọp mà mắng:
-
Mày đã quên cái ơn nuôi nấng mà đã vội cắn trả lại chủ mày thế
ư? Tao không muốn trông thấy mặt mày nữa, đi đâu thì đi.
Cọp
cúi đầu xuống mà ra đi. Sáng hôm sau, người vợ khiêng xác chồng
đi chôn.
Đến
ngày thành phục thì con cọp đem một con lợn về để ngoài sân, đến
ngày cất đám, cọp lại đem về một con bò để cúng chủ. Lại
đến
ngày tiểu tường, các cọp rủ nhau đến quấy, bắt những súc vật
trong làng. Dân chúng sợ hãi xem bói bảo rằng:
- Ấy là cọp
muốn báo ơn ông ấy đấy. Các ông nên làm đền mờ thờ Hổ ông. Hễ
ông ấy được cúng tế thì yên.
Bấy giờ làng
mới đem thờ ông Nguyễn Quốc Oai ở bên tả đình, tôn làm hậu thần,
đèn hương ngày đêm cúng tế, gọi là đền Hổ ông.
Quả nhiên từ
đấy trong làng được bình yên. (trang Quê Hương)
Cũng vậy,
trâu đi, cọp về, mong rằng đất nước sẽ được an bình và dân tộc
sẽ được ấm no hạnh phúc.
Gã
Siêu
gasieu@gmail.com
|
VỀ MỤC LỤC |
|
- Mọi liên lạc: Ghi danh, thay đổi địa chỉ, đóng góp ý kiến,
bài vở..., xin gởi về địa chỉ
giaosivietnam@gmail.com
- Những nội dung sẽ được đề cao và chú ý bao gồm:
Trao đổi, chia sẻ những kinh nghiệm thực tế trong việc mục
vụ của Giáo sĩ; Những tài liệu của Giáo hội hoặc của các
Tác giả nhằm mục đích Thăng tiến đời sống Giáo sĩ; Cổ võ ơn
gọi Linh mục; Người Giáo dân tham gia công việc “Trợ lực
Giáo sĩ” bằng đời sống cầu nguyện và cộng tác trong mọi lãnh
vực; Mỗi Giáo dân phải là những “Linh mục” không có chức
Thánh; Đối thoại trong tinh thần Bác ái giữa Giáo dân và
Giáo sĩ… (Truyền giáo hay xây pháo đài?)
- Quy vị cũng có thể tham khảo những số báo đã phát hành tại
www.conggiaovietnam.info
Rất mong được sự cộng tác, hưởng ứng của tất cả Quí vị
Xin chân thành cám ơn tất cả anh chị em đã
sẵn lòng cộng tác với chúng tôi bằng nhiều cách thế khác
nhau.
TM. Đặc San Giáo Sĩ Việt Nam
Lm. Luca
Phạm Quốc Sử
USA
|
|
*************
|
|