Ơn Gọi Làm Tông Ðồ Giáo Dân |
Thánh Công Ðồng Chung Vaticanô II
Sắc Lệnh Về Tông Ðồ Giáo Dân
Apostolicam Actuositatem
Prepared for Internet by Vietnamese
Missionaries in Asia
Chương I:
Ơn Gọi Làm Tông Ðồ Giáo Dân
2. Giáo dân tham dự vào sứ mạng của
Giáo Hội. Giáo Hội được khai sinh là để làm cho
nước Chúa Kitô rộng mở trên khắp hoàn cầu, hầu làm vinh danh
Thiên Chúa Cha: tức là làm cho mọi người tham dự vào việc chuộc
tội và cứu rỗi
1, để rồi nhờ họ, toàn thể vũ trụ thực sự được qui
hướng về Chúa Kitô. Mọi hoạt động của Nhiệm Thể hướng về mục
đích này gọi là việc tông đồ, công việc mà Giáo Hội thực hiện
nhờ tất cả các chi thể, tùy theo những cách thức khác nhau. Thật
ra ơn gọi làm Kitô hữu tự bản chất cũng là ơn gọi làm tông đồ.
Cũng như toàn bộ một cơ thể sống động,
2* không chi thể nào hoàn toàn thụ động, nhưng cũng
tham dự vào đời sống và công việc của toàn thân. Cũng thế, trong
Nhiệm Thể Chúa Kitô tức Giáo Hội, toàn thân tùy theo công dụng
khả năng từng phần tử khiến thân thể này gắn bó và liên kết chặt
chẽ với nhau (x. Eph 4,16), đến nỗi chi thể nào không hoạt động
đúng tầm mức của mình trong việc tăng triển toàn thân đều bị coi
là vô dụng đối với Giáo Hội cũng như với chính mình.
Trong Giáo Hội
có nhiều tác vụ khác nhau nhưng đều cùng chung một sứ mệnh. Chúa
Kitô đã trao phó cho các Tông Ðồ và những người kế vị các ngài
nhiệm vụ nhân danh và lấy quyền Người mà giảng dạy, thánh hóa và
cai quản. Còn phần giáo dân, vì họ tham dự thực sự vào nhiệm vụ
tư tế, tiên tri và vương đế của Chúa Kitô, nên họ chu toàn phần
việc của mình trong sứ mệnh của toàn dân. Thiên Chúa trong Giáo
Hội và ở giữa trần gian
2. Giáo dân thực sự thi hành việc tông đồ bằng công
việc của mình để rao giảng Phúc Âm và thánh hóa nhân loại, đem
tinh thần Phúc Âm thấm nhuần và hoàn hảo hóa những việc thuộc
phạm vi trần thế, sao cho công việc của họ thuộc lãnh vực này
làm chứng tỏ tường về Chúa Kitô và góp phần vào việc cứu độ nhân
loại. Vì bản chất riêng biệt của người giáo dân là sống giữa đời
và làm việc đời nên chính họ được Thiên Chúa mời gọi để một khi
tràn đầy tinh thần Kitô giáo, họ làm việc tông đồ giữa đời như
men trong bột.
3. Nền tảng của việc tông đồ giáo dân.
Giáo dân có bổn phận và quyền làm tông đồ do chính việc kết hợp
với Chúa Kitô là Ðầu. Họ được chính Chúa chỉ định làm việc tông
đồ, vì phép Rửa Tội sát nhập họ vào Nhiệm Thể Chúa Kitô, phép
Thêm Sức làm cho họ nên mạnh mẽ nhờ quyền năng của Chúa Thánh
Thần. Họ được thánh hiến vào chức vụ tư tế vương giả và dân tộc
thánh (x. 1P 2,2-10), hầu trong mọi việc họ dâng những lễ vật
thiêng liêng và làm chứng cho Chúa Kitô ở mọi nơi trên hoàn cầu.
Ðàng khác, đức ái như là linh hồn của tất cả việc tông đồ, được
chuyển thông và nuôi dưỡng nhờ các bí tích nhất là bí tích Thánh
Thể
3.
Việc tông đồ
được thực thi nhờ đức tin, đức cậy, đức ái
3*, là những nhân đức mà Chúa Thánh Thần đổ đầy
tâm hồn mọi phần tử của Giáo Hội. Lại nữa, nhờ giới răn tình
yêu, giới răn cao thượng nhất của Chúa, mọi tín hữu được thúc
đẩy để tìm vinh danh Thiên Chúa bằng cách làm cho nước Ngài trị
đến và mưu tìm sự sống đời đời cho mọi người để họ nhận biết một
Thiên Chúa chân thật và Ðấng Ngài đã sai đến là Chúa Giêsu Kitô
(x. Gio 17,3).
Vì vậy hết mọi
tín hữu đều có bổn phận rất cao cả là hoạt động để mọi người
trên khắp hoàn cầu nhận biết và đón nhận Phúc Âm cứu độ của
Chúa.
Ðể thể hiện
việc tông đồ này, Chúa Thánh Thần thánh hóa dân Chúa qua tác vụ
và các bí tích. Ngài cũng ban cho các tín hữu những ơn đặc biệt
(x. 1Cor 12,7), "phân phát những ơn đó cho mọi người tùy ý Ngài"
(1Cor 12,11) để "mỗi người tùy theo ơn đã nhận mà giúp đỡ nhau"
và chính họ trở nên như những người quản lý trung tín giữ mọi
thứ ơn của Thiên Chúa" (1P 4,10) hầu xây dựng toàn thân trong
đức ái (x. Eph 4,16). Do sự đón nhận những đoàn sủng này dẫu là
những đoàn sủng thông thường, mỗi tín hữu có quyền lợi và bổn
phận sử dụng những ơn đó trong Giáo Hội cũng như giữa trần gian
để mưu ích cho mọi người và xây dựng Giáo Hội trong tự do của
Chúa Thánh Thần, Ðấng "muốn thổi đâu thì thổi" (Gio 3,8) và đồng
thời sử dụng trong sự hiệp thông với anh em trong Chúa Kitô,
nhất là với các bản tính đích thực và việc sử dụng thích hợp
những đoàn sủng đó, không phải để dập tắt Thánh Thần, nhưng để
thử nghiệm mọi việc và điều nào tốt thì giữ lấy (x. 1Th 5,12;
19,21)
4.
4. Ðường lối tu đức của người giáo dân
hướng đến việc tông đồ. Vì Chúa Kitô, Ðấng được
Chúa Cha sai đến, là nguồn mạch nguyên ủy của mọi việc tông đồ
trong Giáo Hội, nên hiển nhiên là kết quả phong phú của việc
tông đồ giáo dân tùy thuộc ở sự kết hiệp sống động của chính họ
với Chúa Kitô, Ðấng phán rằng: "Ai ở trong Thầy và Thầy ở trong
kẻ ấy, như vậy mới sinh được nhiều hoa trái vì ngoài Thầy ra các
con chẳng làm gì được" (Gio 15,5). Ðời sống kết hiệp mật thiết
với Chúa Kitô trong Giáo Hội được nuôi dưỡng bằng sự phù giúp
thiêng liêng chung cho mọi tín hữu, nhất là bằng việc tham dự
tích cực vào Phụng Vụ
5. Người giáo dân phải làm thế nào để nhờ những phương
tiện ấy mà chu toàn nhiệm vụ trần thế trong những hoàn cảnh
thường xuyên của cuộc sống mà vẫn không tách khỏi đời sống mình
sự kết hiệp với Chúa Kitô, nhưng càng kết hiệp mật thiết hơn
chính khi thi hành công việc của mình theo ý Thiên Chúa. Bằng
phương thức này, những người giáo dân phải hăng hái và vui vẻ
tiến bước trên đường thánh thiện, với sự khôn ngoan và nhẫn nại,
họ cố gắng thắng vượt những khó khăn
6. Những việc trong gia đình cũng như những việc ngoài
xã hội không được tách rời khỏi động lực siêu nhiên của cuộc
sống, theo lời Thánh Tông Ðồ: "Hết thảy công việc anh em làm
trong lời nói hay việc làm, hãy nhân danh Chúa Giêsu Kitô mà
thực hành, nhờ Người để cảm tạ Chúa Cha là Thiên Chúa" (Col
3,17).
Ðời sống như
thế đòi hỏi việc thực hành liên tục đức tin, đức cậy và đức ái
4*.
Chỉ nhờ ánh
sáng đức tin và nhờ suy niệm lời Chúa mỗi người mới có thể nhận
ra Chúa trong mọi nơi và mọi lúc, vì trong Ngài "ta sống, ta
hoạt động, ta hiện hữu" (CvTđ 17,28). Tìm ý Chúa trong mọi biến
cố, thấy Chúa Kitô trong mọi người, dù là kẻ thân hay người lạ,
phê phán đúng đắn về ý nghĩa đích thực và giá trị của sự vật
trần thế, xét nơi chính nó và xét theo tương quan với cứu cánh
của con người.
Những người có
đức tin này, trong khi tưởng niệm Thánh Giá và sự Phục Sinh
Chúa, họ sống trong niềm hy vọng mạc khải của con cái Thiên
Chúa.
Trong lúc đời
sống lữ hành này, họ được giấu ẩn trong Thiên Chúa cùng với Chúa
Kitô và được giải thoát khỏi nô lệ của cải trần thế, đang khi họ
tìm kiếm của cải tồn tại vĩnh viễn, với lòng quảng đại họ sẽ
hoàn toàn hiến mình để mở rộng nước Thiên Chúa và đem tinh thần
Phúc Âm thấm nhập và cải tạo lãnh vực thực tại trần thế. Giữa
những cơn thử thánh đời này họ tìm thấy sức mạnh trong niềm hy
vọng vì họ nghĩ rằng: "Những đau khổ hiện thời chẳng thấm vào
đâu so với vinh quang sắp tới sẽ được giải bày cho chúng ta" (Rm
8,18).
Lòng yêu thương
phát xuất từ Thiên Chúa thúc đẩy họ làm việc thiện cho hết mọi
người, nhất là cho những người có cùng một niềm tin (x. Gal
6,10), từ bỏ "mọi gian ác, mọi lường gạt, giả trá, lòng ghen
ghét và mọi lời nói hành" (1P 2,1) và như vậy họ lôi kéo mọi
người đến với Chúa Kitô. Hơn nữa tình yêu của Chúa "giải khắp
lòng ta do Chúa Thánh Thần đã ban cho ta" (Rm 5,5) làm cho giáo
dân có sức biểu lộ thực sự trong đời sống mình tinh thần các mối
Phúc Thật. Theo Chúa Giêsu khó nghèo, họ không tuyệt vọng khi
thiếu thốn, cũng không kiêu căng khi dư dật. Bắt chước Chúa Kitô
khiêm hạ, họ không háo danh (x. Gal 5,26) nhưng chuyên lo làm
đẹp lòng Thiên Chúa hơn làm đẹp lòng người ta. Họ luôn sẵn sàng
bỏ mọi sự vì Chúa Kitô (x. Lc 14,26), và chịu bách hại vì sự
công chính (x. Mt 5,10) vì nhớ lời Chúa: "Nếu ai muốn theo Ta,
phải từ bỏ mình, vác thập giá mình mà theo Ta" (Mt 16,24). Sống
với nhau trong tình thân hữu của Chúa Kitô, họ sẵn sàng giúp đỡ
nhau khi cần thiết.
Nguyên lý đời
sống thiêng liêng của mỗi người giáo dân phải mang sắc thái đặc
biệt tùy theo bậc sống: đời sống hôn nhân và đời sống gia đình,
đời sống độc thân hay góa bụa, trong tình trạng đau yếu, tùy
sinh hoạt nghề nghiệp và xã hội. Vậy mỗi người phải phát triển
không ngừng những đức tính và tài năng ban cho mình, thích ứng
với hoàn cảnh của mỗi đời sống, và biết lợi dụng những ơn huệ
Chúa Thánh Thần ban riêng.
Ngoài ra, giáo
dân theo ơn gọi của mình, gia nhập vào một trong những hiệp hội
hay tu hội được Giáo Hội nhìn nhận, họ cũng cố gắng trung thành
thể hiện những đặc tính của đời sống thiêng liêng đó.
Họ cũng nên
kính trọng nghề nghiệp chuyên môn, ý nghĩa gia đình và ý nghĩa
công dân cũng như những đức tính liên quan tới đời sống xã hội,
chẳng hạn sự liêm khiết, tinh thần công bình, lòng thành thực,
lòng nhân hậu, lòng quả cảm; không có những đức tính đó, không
thể có đời sống Kitô hữu đích thực.
Gương mẫu hoàn
hảo của đời sống thiêng liêng và đời sống tông đồ ấy chính là
Ðức Trinh Nữ Rất Thánh Maria, Nữ Vương các Tông Ðồ: khi sống ở
trần gian. người đã sống cuộc đời như mọi người, vất vả lo lắng
cho gia đình, nhưng luôn luôn kết hợp mật thiết với Con mình và
đã cộng tác vào công việc của Ðấng Cứu Thế một cách riêng biệt;
còn bây giờ, sau khi đã được đưa lên trời, "với tình yêu thương
của người mẹ, Người săn sóc những đứa em của Con Mẹ, đang trên
đường lữ hành, gặp nhiều nguy hiểm và thử thách, Người lo lắng
cho tới khi họ về tới quê hương hạnh phúc"
7. Mọi người hãy hết lòng tôn sùng Mẹ và phó thác đời
sống và cả việc tông đồ của mình cho Mẹ coi sóc.
Chú Thích:
1 Xem Piô XI, Tđ Rerum
Ecclesiae: AAS (1926), trg 65.
2* Là nhiệm thể của Chúa
Kitô, Ðấng vừa là Linh Mục, vừa là Vua, vừa là ngôn Sứ. Giáo Hội
trở thành một cộng đồng tư tế, vương giả và ngôn sứ. Trong đó,
có chức linh mục cộng đồng và chức linh mục thừa tác. Chức linh
mục thừa tác được dành riêng cho hàng giáo phẩm và cho các ngài
quyền tham dự vào chức linh mục của Chúa Kitô trong chức thánh.
Gọi là chức
linh mục cộng đồng vì tất cả các tín hữu (giáo dân hay giáo sĩ
thuộc hàng giáo phẩm) đều được tham dự vào nhờ phép Rửa Tội. Sự
tham dự này cho mọi tín hữu khả năng tự mình dâng lên Chúa lễ tế
Thánh Thể, nhờ tay linh mục thừa tác cũng như họ có thể kết hợp
với lễ vật hy sinh là Chúa Kitô trong khi rước lễ, và như vậy
được dâng chính mình lên như lễ thiêng liêng cho Thiên Chúa. Các
tín hữu cũng tham dự quyền vương giả của Chúa Kitô nhờ phép Rửa
Tội và Thêm Sức. Quyền vương giả cho họ sức mạnh tinh thần để
chế ngự bản tính riêng của họ, bắt nó tùng phục quyền bính Thiên
Chúa để chinh phục mọi người cho Nước Trời và chiếu sáng tinh
thần Phúc Âm trong lãnh vực trần thế.
Sau cùng, các
tín hữu cũng tham dự quyền ngôn sứ. Mọi tín hữu có quyền làm
chứng cho Chúa Kitô bằng lời nói và bằng chính đời sống Kitô
hữu.
2 Xem CÐ Vat. II. Hiến Chế
tín lý về Giáo Hội số 31: AAS 57 (1965), trg 37.
3 Xem n.v.t. số 33, trg 39;
x. thêm số 10, trg 14.
3* Ðối với giáo dân, việc
tông đồ là bổn phận thiết thực phát sinh do đòi hỏi ơn gọi Kitô
hữu. Bổn phận tông đồ này không tùy thuộc những hoàn cảnh như
thiếu linh mục hay tình trạng xã hội đang mất đạo, mặc dầu những
hoàn cảnh đó có thể khiến cho hoạt động tông đồ giáo dân khẩn
thiết hơn.
Ơn gọi làm tông
đồ phát sinh từ bí tích Tửa Tội và Thêm Sức; và do đức ái mà
Chúa Thánh Thần đổ tràn trong tâm hồn, các tín hữu được thúc đẩy
giúp mọi người tham dự vào cuộc sống của Thiên Chúa.
Ðể thực thi
việc tông đồ này, người tín hữu dựa vào ân sủng của các bí tích
mà họ đã lãnh nhận cũng như vào các đoàn sủng ban cho mỗi người,
vì mưu ích cho toàn thể Giáo Hội. Các đoàn sủng có thể là khác
thường như ơn nói tiếng lạ hay ơn nói tiên tri, hoặc thông
thường như sự trực giác các chân lý của Chúa hay tài năng khôn
ngoan để hướng dẫn các linh hồn. (Trở
lại đầu trang)
4 Xem n.v.t. số 12, trg 16.
5 Xem CÐ Vat. Vat. II Hiến
Chế về Phụng Vụ Thánh ch I số 11: AAS 56 (1964) trg 102-103.
6 Xem CÐ Vat. II Hiến Chế
tín lý về Giáo Hội số 32: AAS 57 (1965) trg 38: x. thêm số
40-41, trg 45-47.
4* Ở đây, Sắc Lệnh đã đưa ra
những nguyên tắc để huấn luyện đời sống tinh thần và cá nhân của
các giáo dân làm việc tông đồ:
- Hiệp nhất với
Chúa Kitô, nguồn mạch và nguyên nhân việc tông đồ của Giáo Hội;
thánh hóa đời sống gia đình: thánh hóa những lo âu trần thế hay
phàm tục. Mọi sự đều có giá trị riêng của nó và đời sống đạo đức
của giáo dân đời họ không được khinh chê những thứ đó.
- Suy gẫm lời
Chúa và bác ái với tha nhân là những nhân đức sẽ đem lại kết quả
phong phú cho việc tông đồ giáo dân.
- Ngoài những
nhân đức chung nói trên, phải thêm nhưng nhân đức riêng biệt do
hoàn cảnh sống của mỗi người: đời sống vợ chồng gia đình, độc
thân hay góa bụa, tình trạng ốm đau...
7 Xem n.v.t. số 62, trg 63;
x. thêm số 65, trg 64-65.
|
VỀ MỤC LỤC |
|
THẨM ĐỊNH VIỆC TRUYỀN
GIÁO THỜI KỲ BẢO TRỢ, 1533-1659 |
MỪNG
NĂM THÁNH 2010, XEM LỊCH SỬ TRUYỀN GIÁO VIỆT NAM
Bài 5 :
THẨM
ĐỊNH VIỆC TRUYỀN GIÁO THỜI KỲ BẢO TRỢ, 1533-1659
Lời mở
Đáp lời mời gọi của Hội
Đồng Giám Mục Việt Nam, chúng ta vừa cử hành lễ khai mạc Năm
Thánh tại Sở Kiện, ngày 24/11/2009. Theo tinh thần của Nội Quy
Năm Thánh, qua bài 4, chúng ta vừa nhìn lại quãng đường lịch sử
truyền giáo ở Việt Nam. Chúng ta đã khởi đầu nhìn lại đoạn đường
thứ nhất, đoạn đường dài 126 năm của thời kỳ Bảo Hộ (1533-1659).
Ba sự kiện khách quan
nổi bật trong thời kỳ này, thế kỷ XVI và XVII, đã sừng sững hiện
ra trước mắt mọi người : 1. Thế kỷ XVI, Công giáo vào Việt Nam
loan báo Tin Mừng. Bốn địa điểm đã được đón nhận Tin Mừng ; 2.
Thế kỷ XVII, Công giáo hội nhập vào xã hội việt nam và thành lập
nhiều cộng đoàn đầu tiên ; 3. Thế kỷ XVII, Công giáo đã khai
sinh ra chữ quốc ngữ cho văn học việt nam.
Hội Đồng Giám Mục
lại nhắn nhủ thêm : « Nhìn
lại lịch sử cùng với những thẩm định về đời sống Giáo Hội nhằm
rút ra những bài học lịch sử cho việc thi hành sứ vụ yêu thương
và phục vụ của Chúa Kitô, trong cộng đồng dân tộc cũng như cộng
đồng thế giới hôm nay » (Nội Quy).
Qua ba dữ kiện lịch sử
vừa nhìn lại trên đây, phải
thẩm
định thế nào về đời sống Giáo Hội của Thời Kỳ
Bảo Trợ ? Nhiều thẩm định có thể được đưa ra, nhưng thẩm định
nào cũng phải nhìn nhận rằng « khi
nhìn lại lịch sử Giáo Hội địa phương, chúng ta phải cất cao lời
cảm tạ: “Hãy tạ ơn Chúa vì Chúa nhân từ, muôn ngàn đời Chúa vẫn
trọn tình thương” (Tv 118,1) (Diễn Văn khai mạcNăm Thánh 2010,
tại Sở Kiện, ngày 24/11/2009, của Đúc Cha Nguyễn Văn Nhơn, Chủ
Tịch HĐGMVN) .
Đặc biệt cho Thời Kỳ Bảo
Trợ, thời kỳ mà lần đầu tiên Tin Mừng đã đến với người Việt Nam
và văn hóa Việt Nam. Đặc biệt, vì, như một phép lạ, người Việt
Nam đã đón nhận Tin Mừng một cách chân tình. Từ không có ai, đến
có vài ba người, rồi dăm bảy người, rồi vài ba chục, dăm bảy
chục. Như
hạt giống nẩy mầm, cần thời gian để nẩy mầm, nhưng khi đã nẩy,
thì mầm lớn mau. Từ năm 1533 đến năm
1615, Nhiều giáo sĩ, thuộc nhiều dòng khác nhau, triều, Đa Minh,
Phan Xi Cô, đã đến truyền giáo ở Việt Nam. Nhưng, giống như hạt
giống vừa gieo xuống, chưa mọc thành cây.
Từ năm 1615 đến năm 1659, trong khoảng thời gian
45 năm truyền giáo, các cha Dòng Tên đã thâu nhận một kết quả
ngoài sức tưởng tượng : 100.000 người đã được đức tin. Vì đâu mà
có két quả này ? Dĩ nhiên, trước nhất đó là nhờ Ơn Chúa. Nhưng
một phần cũng nhờ sự làm việc cần
cù, thông minh và phương pháp khôn khéo.
Đọc
lại lịch sử truyền giáo ở Việt Nam, nhất là những ký sự hành
trình truyền giáo của các giáo sĩ dòng Tên trong thời Bảo trợ
(1533-1659), hai phản ứng, cũng là hai tâm tình và nhận xét dầu
tiên, tự nhiên xuất hiện trong tâm tư chúng ta. Đó là, về việc
truyền giáo, các cha Dòng Tên đã là những giáo sĩ truyền giáo
trách nhiệm. Về sống đạo, các cộng đoàn công giáo tiên khởi lúc
đó sống trong một Giáo Hội có hiệp nhất và yêu thương.
A.
Giáo sĩ truyền giáo trách nhiệm
Theo phương pháp quản
trị chất lượng ISO 9000, tám nguyên tắc căn bản để thành công
trong việc quản trị đã được xác định. Trong 8 nguyên tắc này, 4
nguyên tắc liên hệ đến 4 tác nhân. Đó là : về khách hàng, làm
việc gì cũng phải hướng đến họ ; về người cung ứng, phải nghĩ
đến lợi nhuận của họ ; còn người làm chủ thì phải có trách
nhiệm ; người cộng tác thì phải nhiệt tình. Làm chủ trách nhiệm,
hiểu theo cả hai nghĩa đọc xuôi và đọc ngược : làm chủ có trách
nhiệm, dám cam kết, dám dấn thân, dám làm, dám tiêu dùng tài
lực ; và vừa có nghĩa là trách nhiệm làm chủ, là người xướng
xuất, chỉ đường, trông coi, kiểm soát, tổ chức, khuyến khích,
sửa bảo, thăng thượng, cải tiến,
làm gì cũng hướng đến « khách hàng ». Các
giáo sĩ Dòng Tên đến truyền giáo ở Việt Nam trong thời Bảo Trợ,
nói theo ISO 9000, quả thật đã là những giáo sĩ truyền giáo
trách nhiệm,
luôn luôn nghĩ đến việc truyền giáo cho lương dân.
Các nguyên tắc quản trị
chất lượng ISO 9000 hiện đang được áp dụng trên khắp hoàn cầu,
trong đó có các cơ quan và xí nghiệp Việt Nam. Thực ra, những
nguyên tắc này đã được Tôn Tử nghĩ đến ngay từ thế kỷ thứ -VI,
trước giáng sinh. Trở lại vấn đề các giáo sĩ truyền giáo trách
nhiệm, nếu lấy khung phương pháp của Tôn Tử, ta sẽ ngỡ ngàng tự
hỏi không biết các thừa sai truyền giáo đầu tiên ở Việt Nam,
nhất là các cha Dòng Tên, đã có đọc qua « Tôn Tử Binh Pháp »
chưa, mà sao áp dụng hay vậy ? Cả 6 nguyên tắc quản trị căn bản
của Tôn Tử, đều đã được các ngài áp dụng một cách tuyệt hảo.
A1.
Lập chính đạo
Chính đạo là đường ngay
ngõ chính, thuận với lẽ trời, đúng với sự thật, hợp với công lý,
thuận với lòng người. Để biết việc truyền giáo do các giáo sĩ
dòng Tên thực hiện có hợp với chính đạo hay không, ta phải biết
các ngài rao truyền điều gì ? Trong
sách
giáo lý « Phép
giảng tám ngày cho kẻ muốn chiụ phép rứa tội, ma /beào đạo thánh
đức Chúa blời »
in năm 1651, cha Đắc Lộ đã ghi rõ những điều ngài và các đồng
bạn đã rao giảng trong một khóa trình 8 ngày,
một kiệt tác, mà hẳn thật các nhà truyền giáo hiện đại cũng nên
đọc lại.
Khởi đầu cắt nghĩa
về Đạo
Thánh Đức Chúa Trời, chẳng
phải là đạo nước nọ nước
kia, nhưng là đạo
thánh và trước và trọng hơn mọi nước thiên hạ.
Ngày thứ hai giảng
về Đức Chúa
Trời là ai, Đức Chúa trời
ở đâu, bởi đâu mà có Đức Chúa trời. Ngày
thứ ba giảng về việc Đức Chúa Trời tạo dựng trời đất muôn loài
trong 6 ngày. Ngày thứ tư giảng về lịch sử loài người, con cháu
Adong, sinh ra nhiều đạo, với nhiều lầm lạc.
Song le đạo chính, là đạo thờ phượng một Đức
Chúa Trời, thì
nhận một Chúa Cả làm nên mọi sự, thật là cội rễ đầu.
Và xưng linh hồn ta là tính thiêng liêng
hằng sống vậy, chẳng hay chết ; Đó là
điều chẳng những đã do Đức Chúa
Trời truyền cho, mà lại
vì có lẽ trong ta dạy vậy.
Ngày thứ năm, giảng về
Một Đức Chúa Trời Ba ngôi. Ngày thứ sáu giảng về thầy thuốc cả.
Ngày thứ bảy giảng về con chiên lành và chó sói dữ. Ngày thứ tám
giảng về mười bậc thang (điều răn) lên thiên đàng. (Giáo sĩ Đắc
Lộ ; Phép giảng tám ngày ;
http://www.dunglac.org/index.php?m=module3&v=detail&ib=87)
Những điều mà các giáo
sĩ truyền giáo giảng dậy chẳng những là những điều mà các ngài
đã chân tình cảm nhận, mà còn được lương tri xác nhận và thuận
với lòng người.
Dấu chứng hợp với lòng người rõ nhất là việc lương dân xin trở
lại đạo. Cha Đắc Lộ đã kể lại cuộc ngài gặp gỡ lần đầu tiên
người Đàng Ngoài ở Thanh Hóa, ngày 19/03/1627, một cách đơn sơ
nhưng qua đó, rõ rệt người ta thấy được chính đạo trong công
việc của ngài : « Mãi
tới sáng ngày lễ thánh Giuse hiển vinh, trời trở nên quang đãng,
hình quái dị tan và sóng hạ, chúng tôi khám phá ra một cửa biển
người Đàng Ngoài gọi là Cửa Bạng. Chúng tôi muốn gọi là cửa
thánh Giuse, vì chúng tôi may mắn được vào bến đúng ngày lễ kính
Người và chúng tôi hy vọng Thiên Chúa để Ngài làm vị quan thày
bảo hộ và làm cha nuôi giáo đoàn Đàng Ngoài mới khai sinh này.
Viên hoa tiêu liền xuống một chiếc xuồng để thăm dò bến, khi
thấy là tốt và có thể cập bến được thì chúng tôi dễ dàng đi
xuống và cảm tạ Thiên Chúa đã dẫn chúng tôi may mắn tới nơi.
Chúng tôi vừa cập bến
thì một số đông dân xứ này thấy chúng tôi đến gần liền lấy
thuyền của làng lân cận đến mừng chúng tôi, chất vấn chúng tôi
xem chúng tôi là những người nào, từ đâu mà tới và đem những
hàng hóa mới lạ vào. Tôi làm thông ngôn cho tất cả đoàn thể, tôi
đáp đây là một chiếc tàu người Bồ, những người khắp vùng Đông
phương đều khá biết về giá trị võ khí và hàng hóa tinh xảo từ
lâu vẫn đem tới xứ này và nhân dịp này họ tới bán cho người Đàng
Ngoài một hạt trai quý mà không đắt để cho người nghèo khó nhất
cũng có thể mua được miễn là có ý ngay lành. Thấy dân chúng tỏ
ra muốn xem, thì tôi cho họ hiểu là hạt trai này không thể coi
bằng con mắt thân thể nhưng bằng con mắt tinh thần biết phân
biệt thật giả. Nói tóm lại, người ta đến giảng dạy đạo thật có
giá hơn hết các hàng hóa của người Ấn Độ và một mình nó có thể
mở đường tới cõi phúc đích thực và trường cửu.
Khi nghe nói về điều
mà họ thường gọi là đạo theo ngôn ngữ các nho sĩ và Đàng theo
ngôn ngữ bình dân có nghĩa là đường lối thì họ tò mò muốn tôi
cho biết đạo thật và đàng thật mà chúng tôi định rao giảng. Sau
đó tôi lấy đề tài thảo luận với họ về nguyên lý vạn vật, tôi
quyết định công bố dưới danh hiệu Chúa Trời đất, vì không tìm
được trong ngôn ngữ họ một tên riêng để chỉ Thượng đế, vì họ
thường gọi là Phật hay Bụt với nghĩa nơi họ là một thần. Nhưng
biết việc tôn thờ vị này không được trọng dụng nơi những người
quyền quí và các nho gia trong nước, nên tôi tưởng không nên
dùng danh hiệu ấy để xưng Thiên Chúa, nhưng tôi dùng danh hiệu
mà thánh Phaolô tông đồ đã xưng khi giảng cho người thành Atênê
đã dựng bàn thờ kính Thiên Chúa vô danh, Thiên Chúa mà theo như
ngài, đã nói với họ: các người thờ mà chẳng biết, đó là Đức Chúa
trời đất. Thế là dưới danh hiệu đầy uy nghi trong tâm trí lương
dân, ngay ban đầu tôi rao giảng đạo thật trước hết và chính yếu
nhất là thi hành nghĩa vụ chính đáng của ta đối với đức Chúa
trời đất theo cách thức Người mạc khải cho ta. Giảng cho họ như
thế, tôi tin là họ có đủ khả năng hiểu và hai người trong đám
thính giả đã động lòng, sau mấy ngày được dạy dỗ đầy đủ hơn về
những niềm tin của chúng ta và đã chịu phép rửa tội cùng cả gia
đình. Người thứ nhất chúng tôi gọi là Giuse để dâng kính bạn
thánh Đức Trinh Nữ mà ngày lễ Người là ngày chúng tôi cập bến,
còn người thứ hai là Inhaxu vị tổ phụ dòng chúng tôi.
(Đắc Lộ : Lịch Sử Vương
Quốc Đàng Ngoài, Q2, Ch.3
http://www.dunglac.org/index.php?m=module3&v=chapter&ib=111&ict=434)
A2,
A3. Lượng
thiên thời, Định địa lợi,
Lượng thiên thời và định
địa lợi là xem môi trường địa dư, lịch sử và xã hội, nhìn địa
hình, thế đất, lòng người ; quan sát văn hóa, đặc biệt là văn
hóa làng xã và gia đình Việt Nam, ghi nhận những chi tiết của
đời sống cụ thể hàng ngày. Một số tài liệu tiêu biểu nói lên ý
chí muốn lượng định thiên thời địa lợi và sự hiểu biết
của
các giáo sĩ truyền giáo
Dòng Tên về địa lý, lịch sử và văn hóa, đời sống Việt Nam :
Gaspar Luis, S.J. : Tường Trình về Đàng Trong, 1621 ; Giuliano
Baldinotti, S.J. : Tường Trình về Đàng Ngoài, 1626. A. Francisco
Cardim, S.J. : Tường Trình về Đàng Ngoài, 1595-1659. Gioan
Maracci, S.J. : Tường Trình về Đàng Ngoài, Đàng Trong, Cao-Miên
và Lào, 1649. Đắc Lộ : Lịch Sử Vương Quốc Đàng Ngoài, 1650, Đắc
Lộ : Hành trình và truyền giáo, 1951, Đắc Lộ : Phép giảng tám
ngày, 1651…
(Nguồn:
http://www.dunglac.org/index.php?m=module3&v=chapter&ib=77&ict=619).
Sự hiểu biết về thiên
thời địa lợi này đã được đem ra áp dụng ngay cả vào việc dậy
giáo lý. Trong « Phép giảng tám ngày », cha Đắc Lộ đã nhắc đến
quan niêm
« sinh quí, tử qui », đến tam giáo ở Việt
Nam.
Cho biết sự ấy tỏ
tường, thì phải nhớ lời đất Annam này nói liên: “Sống thì gửi,
chết thì về” (nói chữ: sinh là kí dã, tử là quy dã). Song le thì
phải hay đời sau có hai quê: một là quê lành, hai là quê dữ; quê
trên, quê dưới, thiên đàng, địa ngục. Vì chưng trên trời thì có
thiên đàng: ai đến được trên ấy thì chịu 3 hằng hằng vui vẻ vậy.
(Giáo sĩ Đắc Lộ, Phép giảng tám ngày, Ngày thứ nhất. Nguồn :
http://www.dunglac.org/index.php?m=module3&v=detail&ib=87)
Lộn lạo tiếng nói
đoạn, thì mới ra nước Đại minh, mà Annam thì chịu đạo bởi nước
ấy. Khi lộn lạo tiếng nói đoạn, mà Đại minh phải mất tiếng nói
trong đạo thật, mà lại chẳng còn có kính truyền đạo thật, thì
phải phân ra nhiều đạo vạy. Như thể kẻ lạc đàng thật, thì lạc đi
nhiều đàng, mà những đàng vạy. Song le Đại minh vốn thì có phân
ra ba đàng cả, những vạy chẳng kể nhiều đàng tiểu mọn khác, cũng
vạy vậy. Đàng thứ nhất là đàng về kẻ hãy chữ, gọi là đạo Nho.
Đàng thứ hai là đàng kẻ thờ quỷ, ma làm việc dối, gọi là đạo
Đạo. Đàng thứ ba là đàng kẻ thờ bụt, gọi là đạo Bụt.(
Ibid. ngày thứ bốn)
Ngài cũng nhiều lần nhắc
đến văn hóa gia đình việt nam :
Bây giờ ta phải hay có
ba đấng bề trên, gọi là ba cha, ta phải thờ, ở đấng nào, cho nên
đấng ấy. Đấng dưới là cha mẹ sinh thân xác cho ta; đấng giữa là
vua chúa trị nước; đấng trên là Đức Chúa trời đất, làm Chúa thật
trên hết mọi sự. Có ba đấng này ta mới được sống, được ở.
Vì chúng ta có cha
mẹ, thì mới được thân xác thịt này sinh ra mà chớ; song le linh
hồn ta chẳng phải bởi cha mẹ mà ra đâu. Ta chịu ơn mẹ vì có chịu
thai, mà ta ở trong lòng mẹ chín tháng mười ngày, chịu khốn khó
mà đẻ ta, đoạn ba năm bú mớm. Có khi thì mẹ cất của miệng mình
mà cho con ăn; cũn có khi mẹ ăn miếng đắng mà miếng ngon để dành
cho con ăn. Lại có khi mẹ nằm chốn ướt, mà chốn ráo để cho con
nằm. Cha đẻ con thì lo việc nuôi nấng. Vì vậy có khi thì cha
thức sớm chẳng ngủ, mà làm nghề nọ nghề kia, chạy xuôi chạy
ngược, kiếm của mà nuôi con. Thật con thảo kính cha mẹ thì thậm
phải, ví bằng có ai chẳng thảo kính, chẳng khứng vâng phép cha
mẹ, thật thì có tội trọng.
(Ibid, ngày thứ nhất)
Ay vậy mà lời răn thứ
bốn trong kinh Đức Chúa trời, gọi là răn thứ nhất trong Lời hứa,
thì dạy ta thảo kính cha mẹ cho nên. Mà hễ là kẻ bề trên, cũng
gọi là cha mẹ. Lại sự thảo kính thì hằng có bốn phần, là yêu
mến, kính dái, chịu luỵ, giúp cho mọi sự. Yêu mến là chớt ghét,
chớ muốn sự dữ cho người, lại ước mọi sự lành cho, mà cầu vậy
cùng Đức Chúa trời. Kính dái là ở khiêm nhường cùng, mà chớ mất
lòng người, dầu mình làm, dầu miệng nói. Chịu luỵ là vâng phép
người mọi việc khíên ta phải lẽ, huống lọ khi khiến ta sự về ích
cho ta lành đời đời. Mà giúp cho mọi sự người có dùng thể nào,
thì phải giúp, nhất là khi đã già cả, hay là phải đau nặng. Ví
bằng người còn thiếu sự về linh hồn cho lành, (như thể khi cha
mẹ chưa biết Đức Chúa trời, hay là có lạc đàng về cho được lành
đời đời), khi ấy càng phải giúp hết sức, càng việc về linh hồn
cho lành thì trong hờn việc về xác.
(Ibid, ngày thứ tám,
sđt)
A4.
Tạo nhân hòa,
Nội dung những điều các
giáo sĩ truyền giáo rao giảng cho dân chúng Việt Nam là những
điều hợp với lương tâm, hợp với lễ phải. Đó là điều chúng ta vừa
xem ở số A1 trên đây, khi nói về chính đạo. Ở đây, khi nói về
nhân hòa, ta có ý nói về hoàn cảnh chung quanh, về những người
có trách nhiệm trong quốc gia và trong xã hội. Trong tất cả thời
kỳ truyền giáo bảo trợ, chúng ta lưu ý rằng các giáo sĩ, lúc
khởi đầu, các giáo sĩ luôn luôn được các vua chúa kính trọng và
mến phục. Và trong các quan lại, nhân vật hoàng gia, nho sĩ, trí
thức, thậm chí cả những bậc tu trì phật giáo, có nhiều người đã
chấp nhận, thuân
theo và gia nhập
đạo Công Giáo. Ta có thể bảo rằng các giáo sĩ truyền giáo luôn
quan tâm đến việc tạo nhân hòa. Sau đó, vì những lý do khác
nhau, các vị có thể bị ghen tương, bị hiểu lầm, bị ganh tỵ.
Nhiều vị, vì vậy đã bị cấm giảng đạo, bị trục xuất.
Ngay từ khi mới tới Cửa
Bạng Thanh Hoá, Cha Đắc Lộ đã được dẫn đến gặp chúa Trịnh Tráng.
Ngài viết : « Người
ta dẫn chúng tôi tới phủ chúa, lúc đó chỉ nghĩ tới chiến tranh.
Chúa cầm đầu một đạo quân lớn gồm có một trăm hai mươi ngàn
người và bốn trăm thuyền chiến. Người Bồ đến lạy chúa và dâng
phẩm vật. Tôi cũng đi với họ. Ngoài những phẩm vật khác, tôi
dâng chúa một đồng hồ có bánh xe và một đồng hồ cát, nhưng chúa
không ngó tới vì còn mải sửa soạn cộc hành quân chống chúa Đàng
Trong. Chúa truyền cho chúng tôi đợi chúa trong tỉnh thành này,
nơi chúa để lại hết các hành trang và cung phi. Chúa cũng cho
một toán binh hộ vệ chúng tôi.
Trong hai tháng trời,
chúng tôi được thong dong thu lúa đầy kho Thiên Chúa, rửa tội
cho hai trăm người. Thật là được mùa dư dật. Khi chúa bại trận
nặng nề trở về thì chúng tôi ra mắt. Lúc này trí óc thảnh thơi,
chúa tiếp đón chúng tôi rất niềm nở. Tôi dâng chúa một cuốn sách
về toán học, bì nạm chữ vàng, in bằng chữ hán. Nhân dịp tôi cũng
cắt nghĩa cho chúa biết sự xoay vần trời đất cùng các tinh tú,
từ đó tôi đề cập tới Đức Chúa Trời. Chúa để ý nghe suốt hai
tiếng đồng hồ, ấy là đã mệt nhọc vì đường trường. Chúa tỏ ra hài
lòng được nghe nói về đạo thánh của ta, chúa cũng mời tôi năng
lui tới phủ chúa. Bài giảng thứ nhất này không vô ích, có một
quan sang trọng, sau khi nghe, đã thấy được ơn Thiên Chúa và đến
xin chịu phép rửa tội.
Tôi được hân hạnh
chúa vời tới thuyền chúa nhiều lần và còn mời tôi ngồi bàn tiệc
với chúa, theo kiểu dân xứ này, mỗi người một bàn riêng. Chúa để
tôi ngồi cạnh chúa và có nhã ý cho tôi dùng những món thịt ngon
nhất tốt nhất mà chúa có. Tôi phải vận động để được ở lại trong
đất nước này, khi tàu người Bồ lên buồm trẩy đi. Tôi liền kiếm
khắp nơi một người bạn nói dùm cho tôi một tiếng. Nhưng ai cũng
chối từ, chỉ có Thiên Chúa nói cho tôi và cho tôi thành công
không ai dự phần vào.
Chúa với tôi vào
thuyền để chỉ dẫn cho chúa biết đồng hồ dùng vào việc gì và đồng
hồ cát sử dụng thế nào, hai phẩm vật tôi đã dâng. Sau khi bái
chào chúa, tôi lên dây đồng hồ và cho đánh giờ, và đồng thời tôi
lất đồng hồ cát, cho chúa biết, khi tất cả cát rơi xuống đáy thì
đồng hồ lại đánh giờ. Chúa thấy rất lạ và hỏi xem tôi có nói
thật hay không. Tôi liền ngồi xa chiếc đồng hồ, vì sợ chúa tưởng
tôi xờ mó vào đồng hồ. Tôi cũng bắt đầu giảng về nguyệt thực
nhật thực, trong khi chờ đợi. Chúa vẫn đăm đăm vào đồng hồ cát
và khi cát đã rơi xuống đáy thì chúa cầm trong tay nói: hỏng
rồi, đồng hồ của khanh không đánh. Chúa vừa nói thì đồng hồ liền
đánh giờ như tôi đã báo trước. Chúa lấy làm thích thú và chúa
bảo tôi nếu tôi muôn ở đây hai năm với chúa, chúa vui lòng tiếp
tôi nhiều lần nữa.
(A
de Rhodes, Hành trình và truyền giáo, chương 8, sđd
http://www.dunglac.org/index.php?m=module2&v=chapter&id=85&ib=136&ict=319)
A5,
A6. Dụng tướng tài
và đặt
pháp minh
Trong công việc truyền
giáo, các giáo sĩ
truyền giáo thông minh, dấn thân và chuyên
nghiệp là chính yếu. Nhưng các ngài đã
ngay từ những lúc đầu nghĩ đến việc đào tạo các giáo dân ưu tú
Việt Nam và tuyển chọn họ làm những phụ tá và cán bộ dắc lực.
Cùng với các giáo sĩ truyền giáo, các giáo dân ưu tú này, gọi là
các thầy giảng, đã đóng một vai trò rất quan trọng trong việc
rao giảng tin mừng và trong những kết quả tốt đẹp đạt được. Các
thấy giảng có sứ mệnh truyền giáo trong gia đình họ, trong làng
xã họ, và xa hơn nữa trong những nơi mà các giáo sĩ gởi họ tới.
Các thầy giảng cũng là một trong yếu tố tổ chức quan trong trong
hệ thống Nhà Đức Chúa Trời của những địa điểm truyền giáo mà các
giáo sĩ đã đặt ra để làm vững giáo xứ, tạo ra một linh tông,
khích lệ việc đào tạo giáo sĩ bản địa. Về các thầy kẻ giảng này,
cha Đắc Lộ tỏ ra rất ưu ái và thán phục. Ngài viết : « Giáo
dân vẫn rất sốt sắng như mấy năm về trước. Vì thế tôi không nói
gì riêng ở đây, nhưng tôi không thể không nói tới ơn Chúa ban
cho tôi và đồng thời kích động mười người trai trẻ hợp tác với
tôi trong việc giảng đức tin cho dân xứ này. Tất cả đều ở nhiều
tỉnh khác
nhau mà tới, nhưng họ chỉ có một tâm hồn thuộc về Chúa và hoàn
toàn tận tuỵ ở Giáo hội. Trong số đó có ba người Chúa dành cho
phúc tử đạo: Anrê từ tỉnh Phú Yên tới tìm tôi, Inhaxu con nhà
sang trọng, vì là quan tòa, thông minh, rất thông thạo chữ Hán,
nhất là rất nhân đức, một vị thánh đích thực, gốc ở tỉnh miền
bắc, sau khi chịu phép rửa tội thì không muốn rời tôi, và thực
ra tôi được gặp Inhaxu thì không lấy gì làm sung sướng hơn.
Người thứ ba là
Vincentê, từ lâu nài xin tôi cho vào số những người khác. Thân
phụ anh là một giáo dân đạo cũ ở tỉnh Quảng Ngãi, ông đã đem đến
trình tôi, mặc dầu anh là cột trụ nâng đỡ gia đình và cây gậy
của tuổi già.
Còn bảy người khác
thì cũng tương tự như ba người trên. Tất cả chúng tôi cùng nhau
đi khắp các tỉnh, các làng các xã ở Đàng Trong. Thiên Chúa phù
hộ ban ơn giúp đỡ chúng tôi và số giáo dân trong một thời gian
ngắn đã thêm được hơn một ngàn. (Ibid,
ch 21)
Cũng trong tài liệu
« Hành trình và truyền giáo », trong hai chương sau, chương 23,
cha Đắc Lộ viết tiếp về các thấy giảng : « Sau
khi ở gần hai năm và đi thăm hết cả tỉnh Đàng Trong, không ra
mắt công khai, chỉ hoạt động ban đêm thì tôi được tin người Bồ,
trong khi tôi đi vắng, đã tới cửa Đà Nẵng, để rồi từ đó trẩy về
Macao. Trước khi họ khởi hành, tôi đã tới gặp họ và tất cả đều
muốn cho tôi cùng về với họ. Họ sợ chúa cả giận. Theo họ thì
chúa vui lòng để tôi ở lại ba tháng sau, như thế tôi giúp giáo
dân hơn là cứ phải lẩn tránh.
Tôi đồng ý và trước
khi ra đi, tôi nghĩ nên gắn bó mười thầy giảng bằng một lời
tuyên thệ cũng như tôi đã làm ở Đàng Ngoài khi tôi rời bỏ họ.
Chúng tôi chọn ngày lễ đấng thánh tổ phụ Inhaxu để cử hành nghi
lễ. Cả mười đầy tớ Chúa công khai đến nhà thờ, có mặt toàn thể
giáo dân. Họ cầm nến trắng trong tay, phục trước bàn thờ, rồi
thề sẽ phụng sự Giáo hội, không lập gia đình và vâng lời các cha
dòng đến giảng ở đất nước này hoặc những vị thay thế các ngài.
Họ đọc lời thề rất
sốt sắng và cảm động tới rớt nước mắt, làm cho tất cả cử tọa đều
phấn khởi. Còn tôi, đứng gần bàn thờ, tôi vui mừng quá đỗi, khi
thấy những người lành thánh hy sinh tận hiến cho Chúa một cách
rất thành thực, tâm trí tôi ngợi khen Chúa và mắt tôi tuôn trào
dòng châu lệ. Sau đó tôi ra lệnh cho họ phải theo khi tôi vắng
mặt. Tôi đặt Inhaxu là bề trên và ai cũng bằng lòng vì là người
lớn tuổi hơn cả, có khả năng hơn cả và thực ra cũng rất nhân đức
như các anh em đồng sự.
Tôi chia họ thành hai
toán, toán thứ nhất đi thăm các tỉnh phía bắc cho tới Đàng
Ngoài, Inhaxu là toán trưởng và đem theo Anrê, toán thứ hai thì
đi các tỉnh phía nam cho tới biên giới Chàm.
Thế là tôi trở về
Macao vào tháng 9 năm 1643 còn họ trung thành làm tròn nhiệm vụ
tôi uỷ thác cho. Thoạt đầu tất cả mười người đều cùng nhau ở lại
một tháng trong nhà chúng tôi ở Đà Nẵng mà vì lương dân đã phá
bình địa nên phải dựng lại. Trong khi đó, có mấy người ngã bệnh,
có Anrê trong số đó, người rất nhiệt tâm nhưng sức yếu. Inhaxu
là bề trên nhưng lại làm đầy tờ hầu hạ tất cả, đêm ngày săn sóc,
không quản khó nhọc và không ngại việc hèn việc mọn để chữa chạy
cho các tôi tớ tốt lành của thầy độc nhất là Chúa Kitô.
Khi khỏi bệnh, họ
chia tay đi các nơi như tôi đã chỉ định. Năm người trẩy về phía
nam và làm việc rất đắc lực, trong ba tháng đã rửa tội được hai
trăm chín mươi ba người lương dân. Họ thấy không nên hoãn việc
này để chờ tôi về. Họ còn chuẩn bị nhiều người khác để cho chính
tay tôi làm. Việc này có tiếng vang lớn trong tỉnh Phú Yên, làm
cho lương dân áy náy đến thưa với quan trấn thủ mới về trị nhậm
và rất ghét giáo dân.
Ông ta liền cho đi
lùng bắt hết các thầy giảng mới để trừng phạt. Họ cũng không còn
nể bà Mađalêna, có họ với chúa, vợ quan trấn thủ cũ, chúa đã
chuyển đi nơi khác 66. Bọn lính xấc láo ập vào nhà, lục soát các
phòng để tìm các thầy giảng, nhưng may mà các thầy không ở trong
thành này. Các thầy chỉ buồn vì đã bỏ lỡ dịp chịu khổ vì đức
tin, các thầy thích được chết vì đạo hơn là giảng. Bà Mađalêna
không buồn phiền vì chịu xỉ nhục đó, nếu vào trường hợp khác thì
bà rất bực bội.
Trong dịp này có hai
bà tỏ lòng kiên trung đặc biệt, một là bà Angela, bà đã khổ sở
vì thấy mẹ chồng tên là Monica đã cho hạ một nhà nguyện vì sợ
quan tòa tới phá. Do đó bà đã chết vì đau đớn. Bà không muốn
sống sau tội ác tày đình do một giáo dân phạm, mẹ chồng bà vậy.
Người thứ hai là một
bà quả phụ, bà cũng có một nhà nguyện. Kẻ địch muốn phá để đẹp
lòng quan trên. Nhưng bà can đảm chống cự, lúc cương lúc nhu vì
nhiệt thành tôn vinh Chúa. Cuối cùng nhà nguyện được an toàn cho
dù ma quỷ điên cuồng và lương dân ác ý.
Trong khi được nhiều
thành quả ở phía nam thì Inhaxu với bốn đồng sự cũng không kém
thành công ở phía bắc. Trong có ít ngày mà đã rửa tội được ba
trăm ba. Họ không ăn không ngồi rồi. Trước hết họ đến tỉnh chúa
ở là Thuận Hóa. Ở đây được mùa rất tốt đẹp, do sự chuẩn bị của
ba giáo dân can tràng. Ba người này đã lìa khỏi nhà, bỏ nơi sinh
quán để tránh đám lương dân tức giận và hành hung.
Trước đây gần hai
năm, khi đi qua xã Kẽ Đại, trong ba ngày tôi đã rửa tội được ba
trăm người do các thầy giảng dạy dỗ trước. Lương dân căm tức vì
thần giả trá của họ bị bại trận lớn. Chúng nhất định báo thù
giáo dân. Trước hết chúng hành hạ thầy Augustino là người đã
giảng dạy. Chúng trói thầy và để ở giữa chợ suốt một ngày, để
phơi nắng buổi trưa, nhưng đầy tớ trung thành của Chúa đã thấy
ánh sáng và một sức nóng bên trong mạnh hơn sức nóng thiêu đốt
bên ngoài.
Còn một người tên là
Phaolô, một người được kính nể trong xã này, nhưng vì thấy đức
tin bị xâm phạm nên không muốn ở lại. Ông bán hết tài sản và dẫn
con tên là Philipphê, cả hai rất sùng đạo, đi kiếm ăn nơi khác,
nơi người ta không làm hại sự đạo. Ông chọn kinh đô chúa ở để có
thể lẩn tránh trong đám quần chúng và đồng thời, có thể thu
hoạch được nhiều thành quả hơn. Ông mở trường dạy học, ông một
bên và con ông một bên, vì cả hai đều rất thông chữ Hán. Chỉ
trong ít lâu ông đạt được ý nguyện, sửa soạn cho mấy người theo
đạo và giao cho các thầy giảng làm phép rửa.
Hài lòng về can đảm
của hai đầy tớ Chúa, Phaolô và Philipphê, Thiên Chúa muốn thưởng
công cho vật chất ở đời này. Một hôm đi qua phố, tình cờ chúa
gặp Phaolô mà chúa đã biết và mến chuộng từ xưa. Chúa hỏi thăm
rất ân cần và giao cho chức quan tòa lúc này chưa có ai đảm
nhận. Phaolô bỡ ngỡ vì cơ hội may mắn. Ông nhận thấy mình vì
Thiên Chúa mà bỏ hết của cải nơi sinh quán nên Thiên Chúa đền bù
cho tất cả những gì đã mất. Ơn huệ vật chất lớn lao này làm cho
ông càng can đảm để giúp việc thiêng liêng và vật chất cho hết
các giáo dân. Ông càng sốt sắng hơn trước và có thể nói đây là
một Phaolô đích thực trong thành phố lớn này.
Còn về phần Inhaxu
với toán binh tinh nhuệ hằng kiện toàn công trình mà ba giáo dân
kia đã đặc biệt khởi sự. Thầy rửa tội, giảng và lấy lời đạo đức
củng cố tinh thần giáo dân. Sau đó tới quê quán nơi sinh trưởng
tên là Hemcun. Thầy thành thực muốn chinh phục đồng liêu, nhưng
đúng như chân lý Chúa đã nói, thầy không khuyên nhủ được ai trở
lại đạo. Người đồng hạng xưa kia vẫn quý chuộng thầy thì nay lại
cho thầy là kẻ cuồng tín. Công việc không tiến triển, ngoài hai
người thầy thương mến nhất, là mẹ và bà nội nay đã bát tuần.
Thầy rửa tội cho cả hai. Rồi khi thấy sắp đến thời lúc tôi hứa
trở lại, thì thầy rút lui về nơi tôi căn dặn để đón tôi: đó là
cửa biển Hội An. Ở đây, tất cả đã gặp nhau, đem theo bao nhiêu
của đã cướp được từ tay ma quỷ. (Ibid.
ch. 23)
B.
Giáo hữu sống đạo trong hiệp nhất và yêu thương
Giáo sĩ truyền giáo
trách nhiệm đã đem lại kết quả gì cho giáo hội ? Vì có trách
nhiệm, các giáo sĩ đã biết giảng giáo lý Đạo Đức Chúa Trời bằng
tiếng việt và theo lẽ phải, hợp với lòng người. Các ngài đã biết
đặt ra chính đạo. Đặt được chính đạo, trên một đường đi ngay
thẳng, các giáo sĩ lại biết dựa vào những nền tảng văn hóa việt
nam về gia đình, quốc gia, để chuyển trao Tin Mừng một cách dễ
hiểu và dễ tiếp nhận. Các ngài đã biết dựa vào thiên thời và tựa
vào địa lợi. Thêm vào đó, các giáo sĩ còn biết chinh phục các
quyền lực trong quốc gia xã hội, tránh chống đối và cấm cản, thù
nghịch, dệt được những liên hệ thuận lợi. Các ngài đã biết tạo
ra nhân hòa. Từ đó, có chính đạo, có môi trường thuận lợi, việc
thành công chỉ còn tùy thuộc vào sức mạnh nội bộ, dựa trên nhân
tài, cán bộ giỏi và tổ chức qui củ, thưởng phạt phân minh. Các
giáo sĩ đã làm được điều dó. Các ngài đã biết dụng tướng tài, là
thâu nhận các thầy giảng và tổ chức cộng đoàn theo khuôn mãu nhà
Đức Chúa Trời và linh tộc.
Kết quả của việc truyền
giáo trách nhiệm mà các giáo sĩ Dòng Tên đã mang lại cho Giáo
Hội Việt Nam trong buổi thành lập này là : 1- số giáo hữu tăng
rất nhiều ; 2- các giáo hữu sống đạo trong hiệp nhất và yêu
thương.
B1. Số giáo hữu
tăng rất nhiều
Chỉ nhìn công việc
truyền giáo ở Đàng Ngoài, ta dã thấy số lương dân Việt Nam đón
nhận Tin Mừng một cách hồ hởi. Ngay ngày đầu tiên đến Cửa Bạng,
Thanh Hóa, 19/03/1627, cha Đắc Lộ đã chinh phục được hai người
rất thông minh và gia đình họ : « Thế
là ngày 12 tháng 3 năm 1627, tôi rời Macao và sau tám ngày trên
biển với một cơn bão lớn tưởng nguy tới tính mạng, chúng tôi may
mắn cập bến cửa Bạng ở tỉnh Thanh Hóa, ngày 19 tháng 3, lễ thánh
Giuse, Đấng tôi nhận là quan thầy trong công trình lớn lao này.
Chúng tôi liền đặt tên cho cửa biển này và từ đó gọi là cửa
thánh Giuse.
Tàu chúng tôi chưa
vào tới bờ thì đã thấy rất đông người tụ tập để xem hàng hóa
trong tàu. Tôi liền bắt đầu giở hàng hóa của tôi ra và cho họ
biết tôi có một thứ hàng quý hơn và rẻ hơn tất cả những hàng
khác, tôi sẽ biếu không nếu ai muốn, đó là đạo thật, đường thật
ban hạnh phúc. Tôi giảng giải một bài ngắn, bởi vì đạo trong
ngôn ngữ của họ có nghĩa là đàng, đường. Chúa cho trong mẻ thứ
nhất này, ngay trước khi đặt chân lên đất, có hai người rất
thông minh sa lưới và nhất
quyết xin chịu phép rửa
tội. Tôi đã rửa tội cho họ sau đó ít lâu cùng tất cả gia đình…..
Trong hai tháng trời,
chúng tôi được thong dong thu lúa đầy kho Thiên Chúa, rửa tội
cho hai trăm người.
(Ibid, ch. 8)
Mấy tháng sau, khi
lên kinh đô Kẻ Chợ, kết quả cứ tiếp tục tăng trưởng : « Khi
chúng tôi tới kinh đô Đàng Ngoài tên là Kẻ Chợ, một kinh thành
rất lớn và rất đẹp, phố phường rộng rãi, dân cư đông đúc, lũy
thành dài tới hơn sáu dặm, tức thì chúa dựng cho chúng tôi một
nhà ở và một nhà thờ xinh đẹp. Thế là tiếng đồn đi khắp nước và
người ta tuốn đến rất đông, đến nỗi tôi phải giảng mỗi ngày ít
ra bốn lần và nhiều khi sáu lần.
Nhìn thấy kết quả,
tôi khó lòng tin cho nổi. Một bà em gái của chúa và mười người
họ hàng gần đã được rửa tội, có mấy tướng lãnh nổi tiếng cũng
xin theo đạo và nhiều binh sĩ nữa. Năm thứ nhất, số người chịu
phép rửa tội là một ngàn hai trăm người, năm sau, hai người và
năm thứ ba ba ngàn năm trăm.
Không gì làm tôi bỡ
ngỡ nữa, tôi thấy dễ dàng chinh phục các vị sư sãi (…) tôi đã
rửa tội được hai trăm, những người này rất đắc lực giúp tôi
chinh phục kẻ khác. Một trong số này đã dẫn đến tôi năm trăm
người xưa kia dạy điều dối trá, nay họ giảng chân lý đức tin và
từ đó chính họ là những thầy giảng nhiệt thành nhất của chúng
tôi.
Họ rất hài lòng khi
tôi trình bày đạo ta hợp với lẽ phải và nhất là họ phục mười
điều răn Chúa, cho rằng không có gì hợp lý hơn và đáng được công
bố bởi đấng thượng đế muôn dân muôn nước. Phương pháp tôi dùng
là luận về linh hồn bất tử và sự sống đời sau, từ đó chứng minh
về tính Thiên Chúa, về quan phòng của Người và dần dần mới đề
cập tới mầu nhiệm khó hơn. Theo kinh nghiệm chúng tôi thấy, cách
giảng dạy lương dân như thế rất có ích: tôi đã cắt nghĩa dài hơn
trong cuốn Phép giảng tám ngày trong đó tôi cố trình bày hết các
chân lý căn bản phải giảng dạy lương dân. (Ibid,
ch. 9)
Và những năm tiếp theo,
kết quả truyền giáo vẫn một mức tăng trưởng không ngừng. Cha
Antonio Francisco Cardim đã ghi nhận như sau :
Do những việc
xảy ra và những phép lạ khác mà ruộng nho Thiên Chúa sinh sôi
nảy nở đến nỗi trong nước này, năm 1631 đã rửa tội được 5.727
người, năm 1633 có 9.797, năm 1634 có 9.874, năm 1635 có 8.176,
năm 1636 được 7.121, năm 1637 được 9.707, năm 1638 được 9.076,
năm 1639 được 12.234, năm 1640 được 10.070 và năm 1641 tất cả
những người đã chịu phép rửa thì lên tới con số 108.000. Thêm
vào đó, trong những năm này đã được 235 nhà thờ trong nhiều nơi.
Thật là những kết quả lớn lao, nếu xét ra chỉ có một số thợ rất
ít được sai tới để gặt hái.
(Antonio
Francisco Cardim, Tường trình về Đàng Ngoài (a)
http://www.dunglac.org/index.php?m=module3&v=chapter&ib=77&ict=624)
B2. Giáo hữu trong
hiệp nhất và yêu thương sống đạo
Số giáo hữu tăng nhiều.
Đó là một kết quả tốt, đáng mừng. Nhưng điều đáng mừng hơn là
các giáo hữu tân tòng sống đức tin một cách rất sốt sắng đạo
đức. Cha Đắc Lộ rất cảm kích về cuộc sống hiệp thông và yêu
thương, bác ái này của giáo dân. Ngài coi đó như một phép lạ
Chúa ban : Đời
sống trong sạch và lòng sốt sắng của giáo dân tân tòng ở giáo
đoàn này còn là chứng cứ rõ ràng có tay Chúa hơn là các phép lạ.
Tôi nói thật, không gì làm cho tôi xúc động bằng thấy trong đất
nước này có bao nhiêu giáo dân là bấy nhiêu thiên thần và ơn
phép rửa đã tạo nên nơi mọi người một tinh thần đã phát sinh nơi
các tông đồ và các vị tử đạo thời Giáo hội sơ khai.
Họ có một đức tin
vững chắc đến nỗi không ai có thể nhổ ra khỏi lòng họ được. Có
một bà còn trẻ tên là Darie đã thà chết chẳng thà theo ý một vị
quan muốn làm mất danh giá bà. Bà sẵn sàng chết để khỏi bị ô uế
mất ơn phép rửa.
Một giáo dân khác tên
là Phanchicô làm việc khiêng cáng cho người em của chúa, theo
phong tục những kẻ cả trong nước. Ông này đành chịu chết hơn là
bỏ việc bác ái thường làm ngoài giờ hầu hạ chủ. Ông nhiệt tâm đi
chôn xác những giáo dân nghèo và việc bác ái này đã đưa ông tới
cái chết và cái chết là phần thưởng lớn nhất ông mong mỏi.
Vì quý trọng đức tin
mà họ rất chuộng các nghi lễ rất nhỏ có hệ đến đức tin. Họ coi
các cha giảng đức tin như các thiên thần và hân hạnh được vâng
lời trong hết mọi việc rất nhỏ mọn. Không bao giờ tôi giơ thánh
giá lên mà không thấy họ sụt sùi chảy nước mắt. Cứ mười lăm
ngày, họ lại đến xưng tội hoặc xem lễ. Mặc dầu xa nhà thờ chừng
từ năm sáu dặm đàng, họ không bao giờ quên những ngày lễ. Họ tới
vào ngày áp lễ để rồi trở về ngày hôm sau, sau các nghi lễ,
nghĩa là rất muộn. Họ ở nhà thờ từ sáng sớm cho tới chiều tà. Họ
thường quỳ, rất mực khiêm tốn. Thấy họ tôi không cầm được nước
mắt.
Mỗi người đeo hai ảnh
thánh giá, một ở cổ và một ở cổ tay. Họ nói ảnh thứ nhất làm
thuẫn, ảnh thứ hai làm gươm đao. Không bao giờ họ đi hoạt động
mà không đem theo một bàn thờ nhỏ, gấp lại khi tới nhà trọ. Mỗi
sáng họ không bao giờ quên nguyện ngắm một nửa giờ. Đa số suy
niệm về mầu nhiệm đạo thánh và họ được hưởng những êm ái Chúa
ban cho những linh hồn trong sạch.
Họ rất quý trọng nước
phép, cứ năm sáu ngày họ lại đến lấy, họ đeo một lọ ở cẳng tay
có dân buộc. Họ cho bệnh nhân uống với những thành quả lạ lùng.
Mỗi chủ nhật, tôi buộc lòng phải làm phép với năm vại lớn, để
thỏa mãn lòng sốt sắng của họ.
Tôi rất phấn khởi
thấy họ thận trọng dọn mình xưng tội và rước lễ. Họ có lòng quý
mến và trọng kính các bí tích một ngàn lần hơn tôi. Ngày hôm
trước, bao giờ họ cũng giữ chay và đánh tội. Nếu tôi không ngăn
cản thì họ sẽ rước lễ nhiều lần chứ không phải chỉ một tuần một
lần. Họ xưng tội mà khóc lóc như thể họ phạm tội tày đình và
thực ra tôi có thể nói, thường thường khi ngồi tòa, tôi khó thấy
gì là tội để làm phép giải, không phải ở một số ít mà thường là
cả một làng một xã. Tôi cũng nhận thấy không phải là họ không
biết, nhưng vì họ kính sợ Chúa.
(Hành tr
ình và truy
ền giáo,
ch. 10)
Qua cuộc sống đạo đức
này, một bản sắc văn hóa công giáo việt nam đang được bắt đầu vẽ
ra, trình bày chu kỳ năm sống đạo theo phụng vụ, khởi đầu từ Mùa
Chay đón mừng Lễ Giáng Sinh. Cha Đắc Lộ đã mô tả bức tranh ấy
như sau : « Chúng
tôi đã mừng lễ Giáng sinh hết sức long trọng, nghĩa là chúng tôi
bắt đầu rửa tội công khai mấy kẻ tân tòng, được tái sinh trong
Chúa Kitô vào chính ngày Người giáng sinh. Hơn nữa, trong đêm
Noen giáo dân tân tòng sốt sắng và hoan hỉ hát các bài ca sinh
nhật và những bài ca tôn giáo khác. Mà vì ban đêm, không cho
phép phái nữ vào nhà thờ theo thuần phong mỹ tục xứ này, nên mới
tảng sáng, họ đã dậy sớm và đến nhà thờ rất đông. Chúng tôi
trình bày ảnh Đức Giêsu hài đồng cho họ bái thờ và hôn kính, mọi
người đều tỏ ra xúc động và cảm mến không sao tả được.
Tới ngày đầu năm,
theo tục lệ lương dân, thường có những cúng bái mê tín dị đoan
trong ba ngày Tết. Chúng tôi truyền cho giáo dân làm những việc
đạo đức trong ba ngày này: để thay thế cái hộp treo ở đầu cây
nêu cao dựng ngay ở cửa nhà, như chúng tôi đã nói ở quyển 1, thì
chúng tôi khuyên họ đặt cây thánh giá: họ làm theo. Thế là trong
khắp phố phường trong kinh thành người ta xem thấy biểu hiện
đáng kính của việc cứu rỗi được dựng cao vót quá mái nhà làm cho
ma quỉ sợ hãi và các thiên thần vui mừng. Chúa cũng nhận thấy
khi vào ngày đầu năm ngài đi qua phố, trong đám rước long trọng
đã kể ở trên; thấy thánh giá cắm cao chót vót thì ngài nói: đây
là biểu hiện của giáo dân. Trong ba ngày đầu, chúng tôi đã cho
huấn dụ và cho giữ như sau. Ngày mồng một Tết kính công việc tạo
thành và gìn giữ (muôn loài), kính dâng Thiên Chúa Cha. Ngày
mồng hai, nhận biết ơn cứu chuộc, cao cả khôn sánh, kính dâng
Con Thiên Chúa và ngày mồng ba, khiêm tốn cảm tạ Chúa Thánh Linh
vì ơn được gọi vào đạo Đức Kitô. Và không ai là không hăm hở làm
các việc này, không ai là không vui mừng sung sướng.
Sau đó ít ngày là lễ
đức Trinh Nữ Dâng mình vào Đền thánh. Chúng tôi long trọng làm
phép nến. Mỗi giáo dân tân tòng đều cầm nến sáng bước vào nhà
thờ. Họ làm rất vui vẻ và với những tâm tình sốt sắng. Rồi họ
được đem nến về nhà dùng trong trường hợp có người chết để ghi
nhớ lại. Họ rất sung sướng. Lương nhân thường sợ không muốn nhắc
đến cái chết và không ai dám đọc tên đó ra trước một người quyền
quí, vì thế để khỏi làm phật ý, họ phải nói trại đi hoặc nói
quanh. Còn giáo dân, ngay cả những người cao sang, họ không còn
ngại nghe nói tới cái tên thướng làm cho người khác không bằng
lòng, họ còn lợi dụng để bọc cách dọn mình chết lành. Họ tin nến
làm phép này giúp họ trong giai đoạn tối hậu và nguy hiểm của
đời sống, để xua đuổi tướng lãnh tôi tăm và địch thù của ơn cứu
rỗi.
Tới mùa chay thánh,
trong giáo hội Kitô giáo người ta giữ chay rất sốt sắng, còn đối
với người Đàng Ngoài thì không khó khăn gì. Chúng tôi biết lương
dân giữ chay rất ngặt để tôn sùng tà thần, họ không những kiêng
thịt và trứng, lại kiêng cả sữa là thứ không thông dùng ở xứ
này, kiêng cả hết các thứ cá, và không phải trong một hay hai
tháng mà suốt đời, đến nỗi họ điên dại mê tín tin rằng họ phạm
một trọng tội nếu giết một con vật nào hay bất cứ một con chim
nào, vì không phân biệt giữa tội giết một người với giết một con
gà. Dẫu biết Giáo hội không bắt giữ chay nghiêm khắc như thế
song tất cả những người Giáo hội không chuẩn cho, đều giữ rất
sốt sắng trong suốt mùa chay. Vào đầu mùa Vọng thì tôi cho họ
biết là cũng nhiều người nhiệt tình ăn chay trong mùa này cho
tới lễ Sinh Nhật. Vì thế cũng không ít giáo dân nồng nàn giữ
chay.
Theo tục lệ trong
Giáo hội, vào cuối mùa chay, chúng tôi làm phép lá. Mà bởi vì
trong khắp nước Annam không có cây ôliu, chỉ có rất nhiều cây
dừa xanh tốt, nên chúng tôi sử dụng lá dừa trong nghi lễ. Không
những có rất nhiều giáo dân mà cả lương dân cũng đến dự nghi lễ
làm phép lá. Cả nhà thờ, cả ở ngoài cũng không đủ chứa, mặc dầu
có sân rất rộng, thành thử có ít người phải ra ngoài. Giáo dâns
ốt sắng giữ lá phép và đem về nhà dùng để xua đuổi tà ma và quỉ
ám. Trong thời gian thánh này, mọi người đều xưng tội rất sốt
sắng, nhưng tất cả không được rước lễ vì thiếu bánh thánh, tất
cả bánh chúng tôi lưu trữ đều bị hỏa tai đem đi hết. Không sao
nói hết tâm tình thương mến và khóc lóc khi họ đến thờ lạy ảnh
thánh giá ngày thứ sáu tuần thánh, nghi lễ này làm cho họ rất
động lòng sốt sắng và xót thương.
Chúng tôi không cử
hành nghi thức kinh đêm trong tuần thành vì chúng tôi có ít
người giáo dân tân tòng không giúp chúng tôi được việc gì vì
không hiểu biết sách (latinh). Để cho họ khỏi bị thiệt thòi, thì
chúng tôi đã chia các mầu nhiệm thương khó làm mười lăm đề tài
chính. Cứ sau khi đọc chung mười kinh chuỗi hạt thì ngắm một
đoạn và suy niệm một trong mười lăm sự thương khó, sau mỗi lần
như thế thì lại tắt một trong mười lăm ngọn nến sáng theo tục lệ
trong Giáo hội Rôma. Trong nghi lễ, họ khóc lóc, kêu gào và rên
rỉ tỏ lòng mến thương những thống khổ và cái chết Chúa Cứu thế
chịu, người lân cận cũng đến nghe. Vì thế phải khuyên họ kiềm
chế để làm cho lương dân không còn cớ phán đoán sai lầm về lòng
đạo đức của họ, chính lương dân làm gì có những tâm tình đó.
(L
ịch s ử
V ư ơng qu ốc
Đàng Ngoài, s Đd, ch. 22)
LỜI KẾT
Thời kỳ Bảo Hộ cách nay
đã 350 năm. Nhưng khi xem lại lịch sử truyền giáo đã được thực
hiện trong thời này, người đọc không khỏi ngỡ ngàng khi nhìn
thấy ở đó những công trình vĩ đại đã được các nhà truyền giáo
thực hiện.
Sự vĩ đại bên ngoài là
số giáo hữu tăng thêm nhiều, thì ai cũng nhận thấy. Rất nhiều
tài liệu đã đề cập đên.
Sụ vĩ đại về phương pháp
làm việc và quản trị truyền giáo, thì khó thấy hơn, nhưng một số
nhà nghiên cứu đã nhận ra. Trong « Lịch Sử truyền giáo ở Việt
Nam », linh mục Nguyễn Hồng đã xác nhận rằng : « Nhìn
lại hoạt động truyền giáo của các thừa sai dòng Tên trong 50 năm
ở xứ Nam (1615-1665) và 37 năm ở xứ Bắc (1626-1663) chúng ta
thấy gì? Chúng ta phải công nhận các ngài thực là những người có
công đầu trong lịch sử khai nguyên công giáo Việt Nam, những
người xây dựng nền móng một giáo hội, nếu so sánh với các giáo
hội miền Đông Á lúc đó, như Xiêm, Lào, Cao Miên, Trung Hoa,
không kể Nhật Bản đang bị bách hại và đang đi đến chỗ tắt thở,
có thể gọi là một giáo hội thịnh vượng nhất miền Đông Á, theo
lối gọi của cha Đắc Lộ ».
Sau đó, phân tích
về « Những lý do thành công », cha Nguyễn Hồng đã nêu ra ba lý
do, trong đó, « Lý do chính đưa đến thành công, đó là tinh
thần và phương pháp truyền giáo của các cha, mà trong đó, những
cha như Đắc Lộ, Majorica, De Pina và Buzomi là những vị tiêu
biểu ». (L.M Nguyễn Hồng, Lịch sử truyền giáo ở Việt Nam,
Q. I, Sài Gòn, Nxb Hiện Tại, 1959, tr. 263-281).
Sụ vĩ đại trong cách
sống đạo và truyền đạo của những giáo dân tiên khởi thời Bảo Hộ,
đây quả thật là một « hồng ân » Chúa ban, mà ta phải cất cao lời
cảm tạ. Các Giám mục trong Hội Đồng Giám Mục Việt Nam chắc chắn
đã nhận ra điều này, khi các ngài nhắn nhủ giáo dân « Nhìn
lại hành trình lịch sử ấy, chúng ta khám phá ra mầu nhiệm Giáo
Hội, mầu nhiệm của hạt cải thật bé nhỏ (x. Lc 13,18-19) khi gieo
xuống lòng đất, nhưng nhờ đâm rễ sâu trong đức tin nên đã không
ngừng lớn lên trong hi vọng và trở thành cây to, phủ bóng mát
tình yêu cho hằng triệu con người, trở thành một trong những
Giáo hội có số tín hữu đông đảo nhất tại Á Châu. Mầu nhiệm ấy
bắt nguồn từ Thiên Chúa, Đấng đã ban tặng cho ta món quà vô giá
là Đức Giêsu Kitô, Con chí ái của Ngài, và đã dùng sức mạnh Thần
Khí Ngài, thúc đẩy những bước chân thừa sai ra đi gieo vãi hạt
giống Tin Mừng trên quê hương chúng ta. Vì thế, khi nhìn lại
lịch sử Giáo Hội địa phương, chúng ta phải cất cao lời cảm tạ:
“Hãy tạ ơn Chúa vì Chúa nhân từ, muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn
tình thương” (Tv 118,1).
(Dc Nguyên Văn Nhơn, Diễn văn khai mạc Năm Thánh 2010).
Cách sống đạo và truyền
đạo của các giáo dân Việt Nam tiên khởi phải chăng đã là nguồn
hứng để Hội Đồng Giám Mục Việt Nam muốn trở về nguồn, để « nhìn
tới tương lai trong bối cảnh văn hoá xã hội đang đổi thay của
những thập niên đầu thiên niên kỷ III, nhằm vận động cộng đồng
Dân Chúa một lòng quyết tâm đáp trả tình thương của Chúa, và làm
mới hình ảnh gia đình Giáo Hội tại Việt Nam theo hình mẫu mà
Công đồng Vatican II 1965 đã phác hoạ như sau :
Giáo Hội hiệp
thông:
đào sâu mối hiệp thông giữa cộng đoàn tín hữu với Thiên Chúa
trong Đức Kitô nhờ Chúa Thánh Thần, củng cố sự hiệp thông giữa
các thành phần Dân Chúa, giáo sĩ, tu sĩ, giáo dân, trong mỗi
Giáo Hội địa phương, hiệp thông giữa các Giáo Hội địa phương với
nhau cũng như với Giáo Hội toàn cầu;
Giáo Hội tham
gia:
mọi thành phần Dân Chúa, giáo sĩ, tu sĩ, giáo dân, đều
có quyền và trách nhiệm tham dự vào mầu nhiệm, hiệp thông và sứ
vụ của Giáo Hội, mỗi thành phần theo đặc sủng của mình;
Giáo Hội vì
loài người:
quyền bính và sứ vụ của Giáo Hội là quyền và trách nhiệm yêu
thương và phục vụ cho sự sống của mọi người anh em đồng bào và
đồng loại.
Paris, ngày 17 tháng 12
năm 2009
Trần Văn Cảnh |
VỀ MỤC LỤC |
|
THÁNH GIÁ CUỘC ĐỜI ĐỒNG CHIÊM
|
Đời Sống Tâm Linh #
22
* Cảm
nghiệm: Hôm nay tôi
muốn lên Thiên đàng với Chúa; nhưng tôi lại không muốn vác Thánh
giá theo Chúa trong cuộc đời.
- Tôi muốn
ngồi ăn đồng bàn với Chúa; nhưng không dám vác Thánh gía để cùng
với Chúa chịu chết trên Núi Sọ.
- Tôi theo
Chúa đến lúc bẻ bánh; nhưng lại không muốn chịu đau khổ với Chúa
khi gặp những thử thách, gian nan.
- Tôi có thể
ca hát ngợi khen Chúa khi thành công, nhưng dễ bỏ cuộc khi không
chịu nổi khi gặp khó khăn trong cuộc sống.
- Tôi dễ vui
mừng khi gặp những điều may, vừa ý, nhưng rất dễ chán nản khi
Chúa lánh mặt chốc lát là những điều không vừa ý.
* Một
phút suy tư:
- Tôi rất khó
chịu khi nghe nói: Ai muốn theo tôi, hãy từ bỏ chính mình,
vác thập giá mình hằng ngày mà theo. (Lc 9, 23)
- Nhưng còn
khó nghe hơn khi ngày tận thế đến: “Quân bị nguyền rủa kia,
đi đi cho khuất mắt Ta mà vào lửa đời đời… (Mt 25, 41)
- Nếu tôi vui
lòng vác Thánh giá, cuộc sống tôi sẽ bình an và vui mừng, vì có
Chúa đang đồng hành cùng tôi qua mọi người.
- Ở đâu cũng
có Thánh giá, nếu bạn trốn Thánh giá này sẽ gặp Thánh giá khác.
Thánh giá là đường để tôi vào Nước Trời từ bây giờ.
- Nếu tôi
đóng đinh mình vào Thập gía là chết đi cho tội lỗi mỗi ngày, để
tự do sống hoàn toàn cho Chúa, thì Nước Trời ở trong tôi.
- Người Tín
hữu không phải chết khi tắt hơi, mà hằng ngày ta hằng chết. Khi
ta chết đi cho tội lỗi là ta đang sống cho Đức Chúa Trời.
- Sự chết và
sự chết tự động hằng ngày, là mặt trái của sự sống mới đang
chiếm hữu toàn thân tôi.
- Đúng vậy,
phải có Thánh giá là những ai cả đời mình đã sống cùng chịu
đóng đanh và chết với Chúa, thì có Nước Trời ngay hôm nay.
- Thánh giá
là sức mạnh của tâm hồn, là phần rỗi đời đời trong Nước Trời.
Tất cả nhân đức của tôi đều nằm trong Thánh giá.
- Chính Chúa
đã vác Thánh giá đi trước và chết cho tôi, để tôi cũng vui vẻ
vác Thánh giá, để chết đi và sống lại với Chúa mỗi ngày.
Danh Ngôn:
Đường đời những lúc gió táp sương sa, đó là những cảnh ngộ để
cho ta rèn luyện cải tâm. Khuyết Danh
Phó tế: Gioan
B. Maria Nguyễn Định / Huyền Đồng
|
VỀ MỤC LỤC |
|
Bài giảng của
Lm. Giuse Phạm Minh Triệu tại nhà thờ Đồng Chiêm
Thứ Tư ngày 06.01.2010 |
Kính thưa quý Cha đồng tế,
Kính thưa quý tu sĩ nam nữ,
Cùng toàn thể anh chị em,
Và chúng tôi cũng có lời chào với tất
cả các cán bộ, nhân viên an ninh đã trà trộn chung quanh nhà
thờ để cùng với chúng tôi chứng kiến cái biến cố đau thương
xảy ra trong ngày hôm nay.
Anh chị em thân mến,
Không phải phụng vụ Hội Thánh hôm nay
do chúng ta Mừng Lễ Suy Tôn Thánh Giá. Nhưng mà xét cho cùng
thì trong suốt cuộc đời và đức tin người tín hữu thì Thánh
Giá Chúa Giêsu Kitô là đời sống, là sự sống, là dấu hiệu, và
là hành vi suy tôn từng giây, từng phút, từng hơi thở của
chúng ta. Sáng sớm hôm nay, sau khi chúng tôi dâng Thánh Lễ
về đến phòng thì nhận được tin rằng chính quyền đã cho hơn
500 lực lượng quân đội, công an, cảnh sát, chó nghiệp vụ đến
để bao vây Núi Thờ và đã đập tượng Thánh Giá Chúa xuống,
trong đó có anh chị em chúng ta bị đánh trọng thương.
Chúng tôi lúc đó không ai nói điều gì;
cũng không ai than trách điều gì. Chúng tôi nhìn lên Thánh
Giá mà chúng tôi cảm nghiệm được rằng: "Lạy Chúa! Mầu
nhiệm cuộc tử nạn của con Chúa không chỉ xảy ra cách đây hơn
2000 năm. Nhưng ngày hôm nay, tại giáo xứ Đồng Chiêm, những
người con của Chúa, những người tín hữu của Chúa và chính
Chúa đang bị người ta chà đạp, bị người ta đập phá, bị người
ta chống đối".
Một tiếng sau, có một đài nước ngoài
gọi điện phỏng vấn tôi rằng: "Cha nghĩ thế nào về việc
người ta đập tượng Thánh Giá tại Núi Thờ, giáo xứ Đồng Chiêm?".
Tôi trả lời rằng: "Điều hợp pháp hay không hợp pháp,
không ai để ý đến. Nhưng một tổ chức, một chính quyền nào mà
xúc phạm đến biểu tượng tôn giáo thì chính quyền đó đang đi
dần vào sự tự sát!"
Mà quả thực, trong lịch sử dân tộc Việt
Nam người ta kể chuyện rằng tại núi Cùng, ngày nay được gọi
là công viên ở đường Hoàng Hoa Thám; cuối đời Lý khi mà Lý
Long Đỉnh là một ông vua tàn ác, ăn chơi,… đàn áp tôn giáo,
cụ thể là Phật Giáo, đã lên Chùa Núi Cùng bắt sư sãi nằm
xuống rồi róc mía trên đầu sư sãi. Và quả báo, đó là toàn bộ
gần trọn đời nhà Lý bị phân tán, và bị tan cơ sạt nghiệp chỉ
vì đã làm những điều thất đức.
Người ta hỏi: "Thế còn việc đập
tượng Thánh Giá thì Cha nghĩ thế nào về hậu quả của nó?".
Tôi trả lời: "Cái điều này không lạ
gì với người Công Giáo chúng tôi, là bởi vì đức tin của
chúng tôi là đức tin Mầu Nhiệm Thập Giá, Mầu Nhiệm Con Thiên
Chúa chịu đau khổ mà ngày hôm nay người ta đập tượng
Thánh Giá không có gì là ngạc nhiên đối với chúng tôi.
Nhưng, chỉ có một điều ngạc nhiên rằng, cái lưỡi của nhà
nước này, mới Lễ Giáng Sinh vừa qua vào Tòa Giám Mục, và
các nhà thờ bắt chân, bắt tay, tặng lẵng hoa chúc mừng, Mừng
Chúa Giáng Sinh. Và rồi mấy hôm sau chưa được hơn 10 ngày
người ta vác búa đến, lực lượng quân đội, cảnh sát, chó
nghiệp vụ đến, rồi mà […] kích tượng Thánh Giá xuống. Coi
như là một sự sỉ nhục vào chính bản thân mình. Chẳng khác
nào ngửa mặt lên trời nhổ nước bọt".
Điều đó là cái điều khó hiểu đối với
chúng ta.
Vậy thì tôi muốn chia sẻ với chúng ta
về nội dung chính của Thánh Lễ hôm nay. Đó là chúng ta Suy
Tôn Thánh Giá. Tất cả các biến cố xảy ra từ sáng đến giờ và
màu trắng khăn tang đội trên đầu ông bà và anh chị em, cũng
như là màu máu, màu đỏ của các Cha đồng tế hôm nay nói lên
rằng, một lần nữa Chúa lại chết cho thế gian và Chúa đã chọn
chính đất của anh chị em Đồng Chiêm ở đây để dâng Thánh Lễ
hy tế cứu độ trần gian;.
Để một lần nữa, Chúa cảnh báo những
quyền lực của tối tăm và sự dữ là hãy ăn năn sám hối vì tội
lỗi các ngươi. Một lần nữa, Chúa lại bị đóng đinh, bị đập
phá, bị giết chết. Thật vậy, Thiên Chúa đã yêu thế gian và
đã ban con một của Người cho chúng ta, như bài tin mừng
chúng ta vừa nghe. Mà con một Thiên Chúa đã không chọn gì
khác, không chọn ngai vàng, không chọn đất đai, không chọn
địa vị quyền tước. Nhưng con một Thiên Chúa đã chọn chính
cây thập giá -- là biểu tượng ô nhục đối với người Hy Lạp và
người Do Thái. Chính con Thiên Chúa đã chọn lấy để làm
phương tiện cứu độ trần gian.
Trong lời nguyện khi đi đàng Thánh Giá,
chúng ta đọc rằng: Thánh Giá là chìa khóa mở cửa Thiên Đàng
cho chúng con được vào. Thánh Giá là cờ vua cả toàn thắng
dẫn chúng con đến nơi kính quốc. Thánh Giá là tàu cả giúp
chúng con vượt qua biển cả.
Vậy thì, ngày hôm nay biểu tượng là
Thánh Giá của Chúa bị đập vỡ thì còn đâu là chìa khóa cho
chúng ta vào nước Trời nữa hay sao? Có phải là khi họ đập
Thánh Giá rồi thì không còn chìa khóa vào nước Trời, không
còn cờ chiến thắng nữa, không còn con tàu để cho chúng ta
vượt qua biển đỏ được hay sao? Không. Đối với thế gian họ
làm như vậy là một sự sai lầm. Bởi vì nếu Thiên Chúa đã dùng
chính thập giá làm biểu tượng của sự chiến thắng thì không
có một quyền lực nào từ hỏa ngục có thể dẫy lên để chiến
thắng được Mầu Nhiệm Thập Giá Con Thiên Chúa. Hơn 2000 năm
nay, Thánh Giá luôn là biểu tượng của tình yêu, của sự hòa
giải và tha thứ. Đồng thời, Thánh Giá cũng là biểu tượng của
sự hoán cải.
Chắc chắn quý ông bà và anh chị em đau
khổ rất nhiều, thất vọng rất nhiều. Nhưng đối với Đức Tin,
chúng ta biết rằng khi mà quyền lực bóng tối đã lợi dụng tối
tăm để làm những việc thất đức, bất nhân, bất nghĩa như thế
thì chính Thiên Chúa sẽ củng cố Đức Tin của chúng ta. Có thể
một thập giá bằng sắt, bằng đá trên Núi Thờ bị hạ xuống
nhưng sẽ nẩy sinh và làm lớn lên hàng trăm nghìn cây thập
giá trong tâm hồn của chúng ta.
Có thể nói rằng, trong số anh chị em ở
đây nếu mà chiều Thứ Tư này Cha Sở có về dâng Lễ thì cũng
được một hai chục người là cùng. Nhưng mà ngày hôm nay Chúa
Giêsu cùng với chúng ta trong Mầu Nhiệm Tử Nạn là biểu tượng
Cứu Độ của Chúa bị quyền lực bóng tối đập vỡ, thì Chúa đã
mời gọi tất cả chúng ta đông đảo quy tụ về đây và trên đầu
để những chiếc khăn tang để nói lên rằng: "Con yêu mến
Mầu Nhiệm Thập Giá của Chúa". Và chính sự đau khổ của
Chúa trên thập giá một lần nữa mời gọi chúng ta hãy nhìn lại
Đức Tin của chúng ta.
Đức Tin của chúng ta không phải là tin
vào cây thập giá bằng gỗ và bằng sắt. Nhưng, Đức Tin của
chúng ta tin vào cây thập giá mà Con Thiên Chúa đã dùng để
Chết và Sống Lại để cứu độ chúng ta. Và cây Thánh Giá của
chúng ta là cây Thánh Giá được ghi dấu ấn ngày chúng ta lãnh
nhận Bí Tích Rửa Tội. Chúng ta vẫn chú ý đến cây Thánh Giá
đó mới là điều quan trọng. Và làm cho cây Thánh Giá đó sinh
hoa kết trái; làm cho cây Thánh Giá trong cuộc đời của chúng
ta trở thành chìa khóa, trở thành lá cờ chiến thắng, và trở
thành con tàu vượt qua biển cả.
Đó mới là điều mà Giáo Hội muốn ta
hướng tới. Chứ không phải là cây Thánh Giá bằng gỗ, bằng xi-măng
mà quyền lực bóng tối ngờ nghệch bị lừa. Bởi vì chúng chỉ
tin rằng sự sống của chúng là đời này, và hơi thở của chúng
là tiền bạc. Trong Thánh Vịnh có câu rằng: "Kẻ ngu si tự
hỏi làm chi có Chúa Trời?". Chúng hư đốn không còn biết
làm những điều thiện.
Khi mà quyền lực bóng tối đã bao phủ
thì chúng không còn cơ hội để nhìn ra ánh sáng. Nhưng chúng
ta không chống đối. Chúng ta không cầu nguyện để rồi Chúa
làm cho những con người đã đập Thánh Giá của Chúa phải chết
một cách bất ưng hoặc là gặp sự khốn khó. Đức Tin Công giáo
của chúng ta không cho phép chúng ta làm điều ấy.
Nhưng Đức Tin và Mầu Nhiệm Chúa Kitô
Khổ Nạn và Phục Sinh mời gọi những con người đó hãy hoán cải
đời sống nội tâm. Những đau khổ Chúa chịu chưa đủ hay sao mà
còn chồng chất lên thân thể của Chúa những đau khổ khác.
Những con cái của Chúa ngày hôm nay quanh năm lũ lụt chưa đủ
hay sao mà còn tàn phá tâm hồn anh chị em nữa.
Tại sao không đi ra biên giới phương
Bắc mà đòi hải đảo Hoàng Sa đang bị Trung Quốc mở các tour
du lịch, lấn chiếm; rồi… các ngư dân của chúng ta đang bị
đánh đập. Tại sao lại đi đàn áp tôn giáo từ Thái Hà, tòa
Khâm Sứ, rồi xứ Loan Lý, rồi Tam Tòa,… Không chỉ Công Giáo
rồi còn chùa Bát Nhã nữa. Ngày hôm nay đến lượt giáo xứ Đồng
Chiêm chúng ta.
Người Việt Nam chúng ta nói rằng,
khôn ngoan đối đáp người ngoài, gà cùng một Mẹ chớ hoài đá
nhau. Nhiễu điều phủ lấy giá gương, người trong một nước
phải thương nhau cùng. Trong khi luồn cúi ngoại bang lại
đi đàn áp chính đồng bào của chúng ta. Tại sao phải gieo rắc
những khăn tang trắng trên khuôn mặt hiền từ của các bé thơ
nơi đồng quê chất phác của chúng ta. Tại sao lại chất những
gánh nặng nề đau khổ trên những tâm hồn tháo vác, quanh năm
lụt lội. Còn mỗi một Thánh Giá là biểu tượng của niềm hy
vọng để vươn lên sống làm người, làm con Chúa, làm công dân
tốt, làm một tín hữu tốt mà tại sao còn chà đạp lên cả biểu
tượng là niềm hy vọng của chúng ta nữa?
Nếu không phải là một chính quyền thì
là một tà quyền, mới làm những điều đó. Bởi vì một chính
quyền không bao giờ làm điều thất đức đó. Và không bao giờ
làm điều lén lút đó vào đêm tối. Chỉ có lực lượng của ma quỷ,
trộm cắp và phường cú vọ thì mới làm những chuyện đó vào đêm
tối. Còn con cái của ánh sáng chúng ta làm việc giữa ban
ngày để mọi người nhìn thấy việc lành của chúng ta mà ngợi
khen Thiên Chúa. Nói như thế là để cho mỗi người chúng ta
cám ơn Chúa.
Quan điểm cá nhân, Đức Tin của chúng ta
là cám ơn Chúa vì Chúa đã dùng Đồng Chiêm của chúng ta để
thực hiện một hy tế. Mặc dù hy tế không đổ máu, nhưng đã làm
cho tất cả các tín hữu Đồng Chiêm […], mà ngày hôm nay trong
vòng mấy chục phút mà toàn thế giới đã biết rằng chính quyền
cộng sản Việt Nam đã đập biểu tượng Thánh Giá, biểu tượng
của Công Giáo trên toàn cõi Việt Nam, và không phải là lần
thứ nhất mà nhiều lần khác. Thì những cái bắt tay, những
cuộc đi ra nước ngoài gọi là du hành, những cuộc thăm viếng
vào dịp Lễ Giáng Sinh, có phải là bàn tay sắt bọc nhung, có
phải là củ cà-rốt và cây gậy để rồi xoa dịu cái mưu đồ chính
trị không?
Còn nếu đúng là một thiện chí, nếu đúng
là một sự thương dân thì không bao giờ đập vỡ biểu tượng
niềm hy vọng sự sống của con người quanh năm chân đất, quanh
năm đau khổ vì thiên tai còn mỗi một cây Thập Giá trên Núi
Thờ là nơi linh thiêng thuộc miền quê yêu dấu thì người ta
cũng dập tắt niềm hy vọng của chúng ta. Có phải là một chính
quyền hay là một tà quyền? Có phải là những người nghiêm túc
hay là phường tội lỗi?
Cho nên, kính thưa quý ông bà cùng toàn
thể anh chị em,
Không phải hôm nay chúng ta trút giận
lên đầu chính quyền hay người đã thực hiện hành vi đồi bại
như thế. Nhưng, chúng ta quy tụ về đây để chúng ta một lần
nữa học hỏi về Mầu Nhiệm Thập Giá, để chúng ta phân biệt đâu
là ánh sáng và bóng tối.
Thứ nhất, để chúng ta một lần nữa được
củng cố nhờ lời Chúa, củng cố Đức Tin là Chúa Giêsu không
chọn vinh quang trần thế. Nhưng Chúa đã chọn Thập Giá -- Mầu
Nhiệm của Sự Đau Khổ -- làm phương tiện để cứu độ chúng ta.
Thì đến lượt chúng ta thì chúng ta hãy lấy biến cố đau
thương này như là chìa khóa, như là cờ chiến thắng, như là
tàu để vượt qua biển cả để cứu mình và cứu người khác khỏi
tội lỗi và khỏi chết muôn đời.
Thứ hai, chúng ta phải thấy rằng Chúa
đã chọn Đồng Chiêm của chúng ta để thực hiện những kỳ công
vĩ đại này, thì chúng ta phải tự hào mà an ủi lẫn nhau để
rồi chúng ta không chỉ trồng một cây Thánh Giá bằng gỗ, bằng
xi-măng, bằng sắt trên Núi Thờ, mà chúng ta sẽ trồng, không
những trong tâm hồn chúng ta, mà khắp vùng của khu vực này
những cây Thánh Giá thiêng liêng và bất tử. Những cây Thánh
Giá là tín lý công chính, bình an và yêu thương cùng với sự
hòa giải.
Và điều thứ ba, chúng ta không có ý
tưởng cầu nguyện cho những người đập phá phải gặp tai bay vạ
gió nhưng chúng ta xin Chúa Giêsu một lần nữa -- đã chịu đau
khổ vì nhân loại -- ban cho những người đã làm các việc hôm
nay xấu xa đó biết ăn năn hối cải, làm cho các nhà chính
quyền, những người mà suy nghĩ nhất thời chỉ vì quyền lợi
vật chất tiền bạc mà làm những điều xấu xa đó biết ăn năn
trở lại, để rồi được ơn cứu độ.
Và quan trọng nhất là mỗi người chúng
ta phải rèn giũa Đức Tin của chúng ta qua những biến cố này
để chúng ta trưởng thành hơn, trưởng thành hơn trong sự đau
khổ, trưởng thành hơn trong Mầu Nhiệm Thập Giá của Chúa. Và
đó mới chính là con đường mà người Kitô hữu chúng ta phải đi
qua. Bởi vì đó chính là con đường mà Giêsu -- Thầy Chí Thánh
-- của chúng ta đã đi qua.
Lạy Chúa Giêsu, chúng con đang mang
trên đầu những chiếc khăn tang màu trắng không phải chúng
con vô tình, nhưng chúng con tin rằng nhờ biến cố với sự đau
thương này, Chúa nhắc nhở tâm hồn mỗi người tín hữu chúng
con rằng, chỉ có bước vào con đường Thập Giá, chỉ có tình
yêu hy sinh của Thập Giá mới đem lại Ơn Cứu Độ cho con người.
Xin cho chúng con nhận rằng những đau
thương mà chúng con chịu trong ngày hôm nay, nếu máu của
chúng con đổ ra xuống đất Đồng Chiêm ngày hôm nay sẽ là hạt
giống, sẽ là sự bắt đầu của một mùa vụ thu nếu Năm Thánh Sở
Kiện vừa qua thật là hoành tráng, thật là sốt sắng trang
nghiêm thế nào, thì chúng ta phải biết rằng hàng hai trăm
năm trước, máu của các Anh Hùng Tử Đạo cũng đã đổ ra như
chúng ta này hôm nay, mà chúng ta tin chắc một điều là như
vậy.
Anh chị em có tin vào điều đó không?
CĐ (Cộng đoàn trả lời): Có!
Anh chị em có định xây dựng Thánh Giá
trong tâm hồn chúng ta không?
CĐ (Cộng đoàn trả lời): Có!
Anh chị em có cầu nguyện cho những
người đó ăn năn sám hối không?
CĐ (Cộng đoàn trả lời): Có!
Đó là con đường của chúng ta. Đó là Ơn
Cứu Độ của chúng ta. Vậy, lạy Chúa Giêsu, Chúa đã dùng Thánh
Giá mà cứu độ trần gian xin ban cho chúng con, và cho kẻ thù
chúng con nữa, được ơn ăn năn thống hối, để cùng nhau xây
dựng một Giáo Hội, một đất nước an bình để mọi người dân
Việt Nam chúng con được hưởng nền thái bình thịnh trị, nhờ
Mầu Nhiệm Sự Chết và Sống Lại của Con Một Chúa. Amen.
CĐ: (vỗ tay)
|
VỀ MỤC LỤC |
|
Thập Giá Buồn |
Nỗi buồn của
một chiều tím, hoang tàn sau bao lần tội lỗi đóng đinh con người,
nỗi buồn của một phận người trĩu nặng nhìn con người đang hò hét
đóng đinh Con Thiên Chúa. Nỗi buồn từ xa xưa vẫn nay một kiếp
buồn.
Nỗi buồn đóng
đinh.
Bao năm đã trôi qua,
con người vẫn cứ mãi tiếp diễn đóng đinh nhau, Con Thiên Chúa đã
được gỡ xuống, táng xác và đã sống lại, dường như lại tiếp tục
lại treo những phận người khác trên gỗ giá ấy. Con người ưa
thích bạo tàn và âm mưu đen tối vẫn là kẻ có quyền lực treo con
người vô tội trên gỗ giá.
Như xưa, khi tối trời,
bọn quan quyền mới đem lính đi bắt Chúa. Vẫn như hôm nay, những
khi vào tối trời những tội ác tiếp tục gia tăng tiếp diễn.
Bóng chiều vàng của
những buổi chiều hoang đàng, những chiếc xe mắc tiền rong ruổi
tìm chỗ ăn chơi trên những con đường tất bật của bao kẻ nghèo
đang lam lũ. Chiều hoàng hôn xuống, thập giá đời không còn ngả
bóng dưới ánh mặt trời mà ngả theo bóng những chiếc đèn cao áp
của những thác loạn; phận buồn của những con người mang kiếp
buồn vì miếng cơm manh áo của mình trở thành kẻ chịu đóng đinh
cho những kẻ tiền nhiều chức trọng. Buồn vào đêm của những buổi
tang thương, âm mưu của kẻ dữ bùng lên với ngọn lửa tham vọng
địa vị, quyền lực dày xéo.
Viết những dòng buồn
thập giá sao vẫn thấy nỗi buồn da diết của nỗi buồn năm xưa. Con
người vô tội vẫn chịu đóng đinh cách nhục nhã trên thập giá đời
với nhiều cách thức. Như chẳng tìm đâu lối thoát, nhọc nhằn của
cuộc sống vì vẫn còn nhiều kẻ chỉ mong giữ quyền đóng đinh, trấn
áp, tước đoạt người khác. Nỗi buồn của người này làm vui cho kẻ
khác, thực tế của thập giá buồn vẫn là như vậy. Kẻ đóng đinh vui
mừng với thành tích đóng đinh được bao người vô tội, cướp được
bao nhiêu của, vẫn giữ được cái ghế của mình, ngồi nhìn ngắm vui
thích người chịu đóng đinh, sỉ vả, lên án, mua vui, thỏa lòng
dục đen tối. Con người chịu đóng đinh vẫn buồn, nỗi buồn của
thập giá.
Con
Thiên Chúa.
Thập giá buồn
của chiều ấy im lặng trước bao thách thức, thập giá buồn chiều
nay cũng im lặng nhìn bao kẻ vênh váo, dương oai, tự đắc. Sao
Chúa im lặng, sao con người chịu đóng đinh vẫn im lặng?
Im lặng để mang lấy
sầu chất nặng, tủi buồn cũa những con người đang gánh nặng cuộc
sống với mưu sinh ít ỏi hằng ngày, gánh chịu tật bệnh, oan khiên,
đau khổ không thể lên tiếng. Im lặng để thấy nỗi đau tận sâu
thẳm không thể rên siết, không thể nói thành tiếng. Im lặng để
đủ sức còn ít ỏi để chịu thương đau đến tận cùng của nỗi khổ đau.
Im lặng để mang lấy tất cả của nỗi buồn trần gian mang đến. Im
lặng của nỗi buồn trĩu nặng của bao nỗi buồn dồn lại. Buồn, thập
giá buồn, có lẽ còn dài, có lẽ còn triền miên, có lẽ vẫn hoài
day dứt.
Im lặng bởi một điều
đơn giản không lấy bạo lực để chống lại bạo lực, không lấy bất
công để chống lại bất công, không lấy tham sống để chống lại kẻ
tham sống. Con đường của im lặng là còn đường chịu hy sinh nhiều
nhất, để lấy tình yêu xóa bỏ hận thù, để lấy tình người sống
tình người, để lấy tha thứ làm chất liệu dựng xây hòa bình.
Không có nỗi buồn nào
buồn hơn khi nhình thấy chính anh chị em đồng loại mình ức hiếp,
chà đạp nhau. Không gánh sầu nào nặng hơn gánh sầu của người
mình yêu thương lên án sát hại chính mình.
Xin Chúa hãy cho thập
giá thấy ngày nở hoa hòa bình, con người yêu thương con người,
con người tôn trọng sự sống của nhau, cho kẻ đi đóng đinh biết
đường trở lại, sống giao hòa; cho người chịu đóng đinh được gỡ
xuống khỏi thập giá và được sống lại.
Joshkimt |
VỀ MỤC LỤC |
|
BỐ ƠI IM LẶNG MÃI SAO BỐ?
|
Bố ơi,
Vậy là Bố đã
quyết định im lặng khi mọi người trong nhà lên tiếng. Bố đã
quyết định âm thầm cắn răng chịu đựng khi chúng con đang đau
lòng và buồn khổ vô cùng. Bố ơi, chúng con yêu quý Bố và vì lòng
yêu kính đó mà chúng con càng xót xa khi thấy Bố vẫn lặng lẽ một
mình, cúi đầu nhẫn nhục.
Chúng con còn
nhớ rất rõ ngày chúng con còn bé, Bố dạy dỗ chúng con bằng Lời
Chúa. Những ngày đó chúng con hạnh phúc biết bao. Bố nhắc cho
chúng con Lời Kinh Thánh: “Hãy nghe Lời Thiên Chúa hơn nghe lời
người ta”, “Đừng sợ kẻ giết được thân xác các con. Hãy sợ Đấng
có thể ném cả xác và hồn vào hoả ngục”. Trên hết, bố nhắc chúng
con hãy can đảm sống cho Lời Chúa dù phải chết như các tiền nhân
anh hùng tử đạo.
Rồi chúng con
lớn lên. Cuộc đời với những gai chông, những thử thách làm chúng
con sợ hãi. Nhưng khi nhìn lên Thánh Giá Chúa, chúng con thấy
an lòng. Chúng con an lòng cả khi hàng xóm chiếm đoạt của cải
nhà mình, chúng con an lòng khi trộm cuớp bao vây tứ bề. Bố bảo
đừng lo và cũng đừng nói gì cả, sống bình an là tốt nhất. Nhưng
rồi cái bình an vì khiếp hãi ấy cũng mau qua, khi mình chẳng còn
lại gì thì chúng con cũng vừa lớn đủ để thấy rằng bình an ấy là
phù du, hiền lành ấy là nhu nhược và nhẫn nhục ấy chỉ là cớ vấp
phạm cho người khác. Lúc ấy chúng con cũng vừa hiểu ra Lời của
Chúa Giêsu: “Nước Trời chỉ dành cho người có sức mạnh”.
Bố ơi, khi Bố
im lặng, chúng con cũng vui vì Bố không phải lo, Bố còn được
người khác ưu ái nhiều mặt. Có một điều Bố không biết, đó là khi
Bố yên ổn và thoải mái thì Mẹ con bị đánh bầm mặt, bị người ta
bêu rếu và bị vu oan giáng hoạ đủ điều, đến nỗi Mẹ mất ngủ triền
miên mà Bố nào có biết. Lời Mẹ nói bị cắt xén, ý tốt của Mẹ bị
chê trách. Mẹ còn bị doạ đuổi ra khỏi nhà Bố ạ. Và Bố cũng không
biết một điều, nếu con cái của Bố Mẹ phải chọn một trong hai mà
theo, chúng con theo Mẹ, tất cả chúng con Bố ạ. Xin Bố tha lỗi.
Rồi có một
điều chúng con không chịu đựng nổi nữa. Ấy là người ta đã đập
bàn thờ Chúa trong nhà chúng ta. Họ bẻ gãy Thánh Giá Chúa Kytô.
Bố vẫn im lặng. Ngày ấy Bố dạy chúng con “Thánh Giá là gia bảo
của dòng họ nhà mình. Chọn Thánh Giá hoặc là chết”. Cây Thánh
Giá là cây đã chuộc cho muôn dân được rỗi, cho kẻ có tội được
lòng trông cậy, cho kẻ yếu đuối được nhờ sức mạnh, cho kẻ khốn
nạn được sự an lành. Gia đình mình, dòng tộc mình và mọi người
đều nhờ cây Thánh Giá mà có được tất cả. Vậy mà Bố ơi, sao Bố
cũng lặng im và Bố bảo “chỉ là chuyện đất đai của cải…”? Không,
Thánh Giá Chúa không thể là của cải, mà là gia sản thánh thiêng
muôn đời.
Con viết cho
Bố những dòng này với nước mắt của tất cả anh chị em con nhiều
năm chưa một lần Bố nhìn thấy và cũng chẳng ai lau khô được cho
đến ngày “Chúa sẽ lau khô nước mắt trên mọi gương mặt”. Nhưng Bố
ơi, Bố có quyền nói mà. Bố chỉ cần nói một tiếng thôi, chúng con
sẽ được hạnh phúc hơn nhiều. Có thể Bố sẽ gặp chút khó khăn, có
thể những buổi gặp gỡ xã giao cười cười nói nói giả hình của
hành xóm sẽ bớt đi, nhưng chắc chắn con cái Bố, và Mẹ nữa, sẽ an
lòng và nhà ta lại hạnh phúc hơn xưa.
Cùng với
những dòng chữ này, con xin dâng lên Chúa lời cầu nguyện cho Bố
cho Mẹ và cho cả nhà mình. Cùng với những dòng chữ này, con cúi
mình hôn kính Thánh Giá Chúa đang bị chà đạp phạm thánh. Cùng
với những dòng chữ này, con gửi Bố muôn vàn nước mắt của anh chị
em con.
Gioan Lê
Quang Vinh |
VỀ MỤC LỤC |
|
“NĂM LINH MỤC” HUẤN LUYỆN GIÁO SĨ TU SĨ VỀ TÍNH DỤC: KHẮC KHỔ VÀ
THẦN NHIỆM (ASCETIC AND MYSTIC)
|
L.M. ĐƯỜNG THI
Như đã
trình bày trong bài thảo luận trước,
việc Huấn Luyện về Nếp Sống Độc thân, Khiết Tịnh, phải dẫn đến
một lý tưởng sống cao siêu, thoát tục để Kết Nghĩa với
Chúa trong đời sống Tâm Linh(Spiritual Life), Thần nhiệm(Mystic
Life) như kinh nghiệm sống của các vị Thần Nhiệm, Thần
Bí, chẳng hạn, Thánh nữ Têrêsa Avila, Thành nữ Têrêsa Lisieux,
hay Mẹ Têrêsa Calcutta...Vì nếp sống Thần Nhiệm cần phải được
thao luyện, lâu ngày lâu năm, cần “Linh Thao”(Spiritual
Exercises), nghĩa là cần một nếp sống Khắc Khổ, Tiết Dục,
thì mới mong thành công. Do đó, xin chia làm hai đoạn:
I/.
Cách Sống Khắc Khổ giúp chế ngự
ham mê và thăng hoa đời sống con người như thế nào?
I I/. Kết
Nghĩa với Chúa, trong Đời Sống Tâm Linh, Thần Nhiệm là làm sao?
Đây là một
đề tài vừa trừu tựợng, siêu nhiên nhưng lại phong phú vô tận, vì
là những kinh nghiệm sống của mọi nguời, mọi tôn giáo, mọi thời
đại. Những Kinh nghiệm của một Nhân Loại luôn khát khao đi tìm
về Cội Nguồn của mình, như Thánh Âu Cơ Tinh( St.
Augustin) đã nhận định một cách sâu xa:” Trái tim Con
Người vẫn còn khắc khoải xao xuyến, cho đến khi được An Tâm
trong Chúa”. Bởi vậy, trong bài này, chỉ xin nêu lên một
số Kinh Nghiệm Thao Luyện, mang tính chất khả thi, thực
hành, không diễn giảng dài về các lý thuyết, hay các
Trường phái Tu Đức. Vả lại, trong ít trang Điện Báo, chỉ có thể
cung cấp một số tài liệu, sách báo, hay giới thiệu tác giả..,
để thông tin và giúp độc giả sưu tầm thêm.
Trong
Lịch Sử Tu Đức của Thiên Chúa Giáo, đặc biệt của Công Giáo,
“Trào Lưu các Vị Ẩn Tu”(hermite), hay các Vị Tu Rừng(Desert
Fathers), đã xuất hiện từ thế kỷ 2, 3, tại miền Ai Cập. Các
vị Tu sĩ đó xa lánh cảnh đời phồn hoa, thị tứ, tìm đến chốn rừng
sâu, thanh vắng để sống gần thiên nhiên, chăm chú vào việc chiêm
niệm, cầu nguyện và tập tành các nhân đức, đặc biệt cam kết giữ
mình đồng trinh. Những Vị Ẩn tu danh tiếng còn lưu truyền như
Thánh An tôn, hay những mẩu truyện về cách tu luyện nhiệm
nhặt lạ thường như “Ông Simon Cột”. Trong tiểu sử của
Thánh Lê Bảo Tịnh, cũng đã thuật lại câu chuyện Ngài
đã bỏ Địa sở để trốn lên Rừng Bạch Bát( có thể là vùng Rừng Cúc
Phương , ngày nay), sống đời Ẩ n dật. Nhưng khi Bề Trên biết
được, thì đã buộc Ngài trở về Nhà Chung Kẻ Vĩnh, và làm Giám đốc
Chủng Viện ở đấy, cho đến khi bị bắt, rồi chịu chết vì Đạo.
Suốt dòng
Lịch Sử Hội Thánh, không thể kể hết những Trường Phái Tu
Đức như muôn hoa tươi nở trong Vườn Thiêng của Chúa. Về
lãnh vực đời sống Tâm linh, Giáo hội thường tôn trọng đường
hướng, cách thế tu luyện của cá nhân, chỉ can thiệp khi nghịch
lại Truyền Thống hay Giáo Lý của Hội Thánh. Do đó, mãi cho đến
ngày nay, ta thấy xuất hiện những Trường Phái Tu Đức lớn như:
Thánh Biển Đức(Benedictô), Thánh ĐaMinh( Dominicô)/ Thánh Phan
Sinh( Franciscô), Thánh Inhã( Ignatiô), Dòng Cát Minh(Carmelites)
như Thánh Têrêsa Avila, Thánh Têrêsa Lisieux. Ngoài ra, còn bao
la nhiều khuynh hướng đạo đức của các Dòng Nữ, không thể kể hết
được.
1./
Huấn Luyện Tu Đức cho các Chủng Sinh trong các Giáo Phận. Hội
các Linh Mục Xuân Bích,
chuyên chú vào việc Đào tạo các Linh Mục làm việc mục vụ quản
trị các Giáo Xứ, trong các Giáo Phận, nên cũng cần một Đường
Hướng Tu Đức thích hợp với đời sống hoạt động Tông đồ. Trong
nhiều năm, ở nhiều nước trên thế giới, các Chủng Viện Xuân Bích
đã dung một tài liệu giáo khoa để giảng dạy Khoa Tu Đức cho các
chủng sinh: Sách”TU ĐỨC HỌC” do Linh Mục Xuân Bích
Tanquerey sưu tập, soạn thảo. Sách giáo khoa này
đã phiên dịch từ nguyên bản Pháp văn ra nhiều thứ tiếng;( bản
dịch Việt ngữ có bán tại Regina Gift Shop, 1900 Grand Ave.
Carthage, Mo.64836). Ngày nay, nhất là sau cải cách của Công
Đồng Vatican I I, tình hình tôn giáo, xã hội thay đổi, nên
phương pháp Huấn Luyện về Tu Đức cho các Linh Mục Giáo phận
cũng cần phù hợp với hoàn cảnh mới. Vì thế, Hội Xuân Bích
tại Hoa Kỳ, đã gia nhập và hợp tác chặt chẽ với tổ chức”Liên
Hội các Dòng Tu Nam”, để kiện toàn phương pháp huấn luyện Tu
Đức, đặc biệt về Huấn Luyện Tính Dục cho các chủng sinh.
Hội các
Linh Mục Xuân Bích tại Việt Nam,
thuộc Tỉnh Dỏng Pháp, đã được các
Giám Mục Địa Phận Hànội cho phép xây một Chủng Viện tại Liễu
Giai, gần Hồ Tây, Hà nội, từ 1930 cho đến 1946, đóng cửa vì
chiến tranh. Năm 1950, mở lại với một ban giáo sư mới; di tản
vào Vĩnh Long, năm 1954; tạm cư tại Thị Nghè (Sài gòn) từ 1956
đến năm 1962, thì được Đức Giám Mục Giáo Phận Huế mời về cư trú
tại Kim Long, bên bờ Sông Hương, cạnh Thành Nội. Ngoài ra, Hội
Xuân Bích cũng phụ trách quản trị Chủng viện Thánh Gioan, và
Chủng Viện Hòa Bình( banTriết lý)tại Đà nẵng. Sau ngảy 30, tháng
tư,năm 1975, tất cả các Chủng Viện đều đóng cửa, và chỉ được
phép mở lại vào năm 1994 cho đến ngày nay. Trong suốt thời gian
hơn 70 năm hoạt động, Hội Xuân Bích Việt nam đả phụ trách đào
tạo được một số lớn các Vị trong Giáo Phẩm như: ĐHY Trịnh Văn
Căn, Phạm Đình Tụng, các Vị GM như: Nguyễn Huy Mai, Trịnh Chính
Trực, Nguyễn Tùng Cương, Lê Văn Trọng, Phạm Tần, Nguyễn Văn Dụ,
Nguyễn Sơn Lâm, Nguyễn Bình Tĩnh, Nguyễn Văn Sang, Nguyễn Quang
Tuyến, Nguyễn Văn Hoan…Và một số đông các Vị Linh Mục danh
tiếng như Cao Văn Luận, Lê văn Lý, Nguyễn Văn Vinh,..Và hàng mấy
ngàn các Linh Mục cho các Giáo Phận từ bắc chí nam.
2./ Hội
Xuân Bích đã theo đường hướng hay phương pháp Tu Đức, Linh Đạo
nào? Khi Đại Chủng
Viện Xuân Bích tại Giáo Phận Hà Nội được mở lại vào năm 1950, vị
Giám đốc và ban giáo sư mới đảm trách, thay thế ban Giám đốc
cũ. Do đó, đường hướng giáo dục và Linh Đạo cũng cải tiến theo
sự canh tân của Giáo Hội. Một đặc điểm nổi bật là khởi sự tuyển
chọn một số Linh Mục Việt Nam bổ sung vào Ban Giám đốc, và Giáo
sư. Cha Giám Đốc Pierre Gastine, (đã sang Việt Nam
từ 1930), đạm nhận chức Giám đốc từ 1951 đến 1970. Ngài thông
thạo Hán văn và Việt văn, có thể viết và giảng khoa Triết Lý
bằng Việt Ngữ. Ngài đã “nhập tịch” vào làng nước Việt và đổi
sang tên Việt là Phêrô Bùi Đức Tín.
Ngài đã có công lớn lao về việc đào tạo các Linh Mục Việt nam,
thế hệ 1950-1975. Nét nổi bật trong chiều hướng Tu Đức Linh Đạo
cho các chủng sinh là Cha Bùi Đức Tín đã từng liên hệ mật thiết
với các bạn học cũ như Cha Vuillaume, cựu Bề Trên của Dòng các
“Tiểu Đệ Chúa Giê su”(Petit Frères de Jésus)do Chân Phước
Charles De Foucauld sáng lập(1858-1916). Tôn chỉ của
Dòng là:”Chúa Giêsu là Tình Yêu”( Jésus est Caritas). Các
Anh Tiểu Đệ, các Chị Tiểu Muội nêu gương khó nghèo, kết hiệp với
Chúa và hòa mình với mọi người để sống thông cảm, yêu thương.
Một Linh Mục
Xuân Bích, Cha Khổng tiến Xuân, (quốc tịch Pháp)đã
từng làm giáo sư dạy tâm lý học tại Chủng Viện Xuân Bích, Ngài
đã gia nhập Dòng các Tiểu Đệ Chúa Giêsu, và hiện nay đang hoạt
động truyền giáo ở Đại Hàn. Ngoài ra, Anh Tiểu Đệ hay lui tới
thăm viếng Chủng Viện Xuân Bích là L.M Nguyễn Kim Điền, sau này
làm Giám Mục Cần Thơ, và TGM Giáo Phận Huế. Anh Tiểu Đệ này,
cũng đã nêu gương sáng về nhân đức khó nghèo, hy sinh tính mạng
vì bổn phận, và hòa hợp với nếp sống của giới lao động.
Hàng năm,
Ngày Giỗ Tổ, 21 Tháng Mười Một, Lễ Đức Mẹ Maria Dâng Mình trong
Đền Thánh, các Cựu Chủng Sinh Chủng Viện Xuân Bính khắp nơi
trong nước, thường tập họp để hâm nóng lại đời sống tận hiến cho
Chúa, theo gương Đức Mẹ Maria. Có thể nhận xét:
Lớp Giáo sĩ, Tu sĩ do Hội Các Linh
Mục Xuân Bích đào tạo, sống đơn sơ, (không quan liêu), dễ hòa
hợp với giới lao động, bình dân, và hăng hái hoạt động mục vụ,
truyền giáo.
I. SỐNG
KHẮC KHỔ TRONG NẾP SỐNG KHIẾT TỊNH
Như đã trình
bày ở trên, sống nếp sống Khiết Tịnh, không phải là một sự
nghịch lý, bệnh hoạn, hay không thể thực hiện được. Trái lại,
như gương sáng và kinh nghiệm rất phong phú của các vị Giáo Sĩ
Tu Sĩ minh chứng, nếp sống siêu nhiên này cùng với Ơn Trên phù
giúp, có thể hoàn thành được, miễn là người tu sĩ tự do chấp
nhận nếp sống “anh hùng” ấy, bằng cách sống KHẮC KHỔ, chay
tịnh, để tiết dục, và chú trọng vào việc chiêm niệm, Kết Nghĩa
với Chúa, gọi là THẦN NHIỆM. Tu Thân bằng nếp sống
Khắc Khổ, chay tịnh, thì có rất nhiều phương pháp khác nhau tùy
theo Trường phái Linh Đạo của các Dòng Tu như Linh Đạo của Thánh
Biển Đức, Thánh Phan Sinh, Thánh Inhã, Thánh Têrêsa Avila,v,v.
Sau đây, xin nêu ra một vài phương cách phổ thông, những lời
khuyên răn, chỉ giáo giúp các chủng sinh thực tập trong nếp sống
Khắc Khổ, chế ngự thân xác để tiến lên từng bậc thang Thánh
thiện,Toàn hảo( Perfection).
1/ Tính
chất “ Khả Thi” của nếp sống Độc Thân, Khiết Tịnh
Ngày nay, vì
thiếu những thanh thiếu niên tự nguyện dấn thân gia nhập các
Chủng Viện và các Dòng Tu Nam Nữ, vì gương xấu của một số giáo
sĩ lạm dụng tính dục đối với trẻ em, nên một số tín hữu lầm
tưởng rằng: chính nếp sống độc thân quá khắc khổ, “phi nhân
bản”(inhuman), đã là nguyên cớ gây ra cuộc khủng hoảng. Do đó,
họ đề nghị Tòa Thánh cho phép “các Linh mục được lấy vợ, thì sẽ
có nhiều người đi tu làm linh mục”. Nhưng gần đây, Tòa Thánh đã
nhất quyết duy trì nếp sống độc thân, khiết tịnh của các Linh
Mục trong Hội Thánh Công Giáo Rôma. Nếp sống độc thân, tuy là
một Lý tưởng cao cà, khó khăn, phi thường, nhưng không phải là
điều nghịch lý, trái với bản tính con người. Trong xã hội, dân
chúng vẫn cảm phục những vị anh hùng ái quốc, hy sinh đời sống
gia đình,”thê nhi”, để được thảnh thơi lo việc cứu nước; những
nhà khoa học tận tụy suốt đời cho việc nghiên cứu, cứu nhân độ
thế. Trong văn chương, thi ca, tuy là giả tưởng, “lý tưởng”,
nhưng không phải vô thực, như những truyện tình ái lâm ly giữa
“Lan và Điệp”, hay mối tình cao thượng giữa “Anh Gù Nhà Thờ Đức
Bà Paris, và nàng Du Ca”( Victor Hugo). Hàng ngày, ta có thể
chứng kiến những vị chân tu trong các tôn giáo như Mẹ Têrêsa
Calcutta, ĐGH Gioan Phao Lô I I, 22 vị Thừa sai Công giáo bị
giết chết trong năm 2005, hy sinh nếp sống gia đình để thực
hiện lòng Mến Chúa, Yêu Người. Các Ngài sống hạnh phúc, vui vẻ,
và điều hòa, quân bình. Trong tâm trạng của người dân Việt, đã
gọi là một vị chân tu”xuất gia tu hành”mà còn vương vấn cảnh
“thê nhi”tùm lum, là không đứng đắn, không nghiêm chỉnh. Do dó,
các Linh Mục, các tín hữu Việt Nam không đặt ra vấn nạn phi lý
này trong một xã hội vật chất dâm loạn, tỷ lệ ly dị lên tới 50%.
Có gì bảo đảm các “Linh Mục lấy vợ”sẽ trung thành với bà xã
suốt đời chăng? Trên cõi đời này, nhiều điều tưởng khó xẩy
ra, nhưng đã xuất hiện trước mắt chúng ta. Chẳng hạn, tại Trung
Tâm thương mại”Little SaiGon”, Phước -Lộc- Thọ, Bolsa, Santa
Ana, trong cảnh phồn hoa, nhộn nhịp, ăn nhậu, mỗi ngày khách du
lịch thường thấy tận mắt một thanh niên, một vị khất sĩ, chừng
trên 20 tuổi, vận áo vàng, đầu trọc, đứng ngoài nắng, ngay cửa
ra vào, để xin bố thí, khất thực.
2/ Nếp
sống chay tịnh, đơn sơ, giản dị, vận động, tập thể dục mỗi ngày
Con người có
Xác và Hồn, liên hệ mật thiết với nhau. Do đó, từ xưa tới nay,
trong mọi Trường phái Tu đức, đều tìm cách chế ngự thân xác để
việc “tu tâm dưỡng tánh” được dễ dàng tiến lên đới sống tinh
thần, siêu thoát. Lịch sử các Dòng Khổ Tu Công Giáo như Châu
Sơn (Ninh Bình), Phước Sơn, Phước Lý.. vẫn thực hành những
cách thế”hãm dẹp xác thịt” như ăn chay, đánh
tội( dùng giây thắt lưng quất vào lưng), kiêng thịt,
kiêng rượu và lao động chân tay, hay trí thức. Nhờ ăn chay
trường với thức ăn đạm bạc, nhưng nhiều chất dinh dưỡng như đậu
phụ, dưa chua, canh rau…mà nghị lực dồi dào, thân xác khoẻ mạnh,
cân đối, nhờ chơi thể thao, thể dục, bớt phì nộn, béo mập.
Ngoài ra, người tu hành cũng tránh ăn mặc sa hoa, nhà lầu, xe
hơi, tiện nghi đồ dùng đắt tiền. Ngày nay, khách hành hương vẫn
còn chứng giám những gian phòng nhỏ hẹp, tấm phản gỗ dùng làm
giường nằm, tại các Thí điểm truyền giáo của các vị Thừa sai
tiên khởi như Chân Phước Junipero Sierra,( Mt Carmel,
California). Cũng vì ăn uống”cao lương mĩ vị”, tiệc tùng, cùng
với tâm trạng cô đơn, nên một số giáo sĩ, tu sĩ đã rơi vào cạm
bẫy của nghiện rượu. Do say sưa, không còn kiểm soát được dục
tính, nên đã dùng bạo lực để hãm hiếp.
3/Ba
Lời Khấn : “Khiết Tịnh, Khó Nghèo, Vâng Phục”Ràng Buộc, Hỗ Trợ
nhau
Theo kinh
nghiệm Tu Thân của các Dòng Tu, ba lời khấn hứa, hay cam kết:
Khiết tịnh, Khó nghèo, Vâng phục, là phương pháp Khắc Khổ cao
quí nhất để giúp người tu sĩ được Tự Do, thảnh thơi tiến
lên bậc Thiện Toàn. Bộ Ba Nhân Đức này cấu kết lại để diệt tính
cái “giả Ngả”(false-Self), tức tính vị kỷ, “yêu
mình”, tự cao, tự đại, kiêu ngạo, ham sung sướng, giầu sang,
quyền cao chức trọng. Điều quan trọng là phải hiểu biết ý nghĩa
TÍCH CỰC của Ba Nhân Đức này.
Không lấy
vợ , lấy chồng để làm gì?
Có phải sợ gánh nặng gia đình
chăng? Có phải để được yên thân, yên phận? Đời sống Tận Hiến,
khiết Tịnh có tiêu diệt “Tình Yêu” không? Trái lại, một tu sĩ
Tận Hiến, vì muối noi Gương Thày Chí Thánh, tình nguyện,
tự do sống độc thân vì Nước Trời, để có thể luôn sẵn sàng phục
vụ và Yêu thương giúp đỡ mọi người, giầu nghèo, sang hèn.. Tình
BÁC ÁI luôn mở rộng và bao quát mọi người.con Chúa.
Thế nào là
sống “khó nghèo” một cách tích cực?
Người tu sĩ Tân Hiến không khinh chê việc mở mang kinh tế, giúp
cho nước giầu dân mạnh. Nhưng sống đơn giản, “hàng ngày dùng
đủ”, luôn biết dùng tiền bạc (“như đầy tớ”) để làm việc
Thiện, giúp đỡ người túng thiếu, bần cùng trong xã hội, thời đại
nào cũng đầy rẫy..
Vâng Lời
có phải là làm mất phẩm giá con người không?
Vâng lời, vâng phục lệnh của cấp trên chỉ vì LỢI ÍCH CHUNG
của Hội Thánh, của Hội Dòng hay Giáo Phận mà mình đang
phục vụ. Vâng Lời theo nghĩa Tích cực là PHỤC THIỆN, nghe
theo Lẽ Phải của người già người trẻ, không dộc tài, cố chấp,
kiêu ngạo.
Nhưng kinh
nghiệm tu đức cũng cho thấy:
ba tính xấu, quen goị là “BA THÙ” nghịch với ba
Nhân Đức kể trên, luôn cấu kết, và chuyển biến cho nhau, dưới
nhiều hình thức. Một tu sĩ sống nghiệm ngặt về Khiết tịnh, nhưng
để bù lại, lại khó tính khó nết, ham tiền, ham quyền. Nhiều
tiền, dễ :mua dâm”, nhiều quyền dễ “cưỡng hiếp”. Nhiều khi, cá
nhân tu sĩ thì không có của riêng, nhưng cơ sở chung của Dòng
quá lớn lao, nguy nga, đồ sộ, thật “khó mà nghèo” được! Do đó,
cần phải đề phòng để tiêu diệt cả ba nết xấu, luôn biến thể dưới
nhiều hình thức. Trong văn hóa, văn chương Việt Nam, nhà thơ
trào phúng Tú Xương(?)đã khéo bộc lộ tâm lý éo le của lòng ham
muốn vị kỷ như sau:
Một trà,
một rượu, một đàn bà,
Ba cái
lăng nhăng nó quấy ta.
Chừa được
món nào, hay món ấy,
Có chăng
chừa rượu với chừa trà.
Thầy Giảng
già, làm thơ, “nhái lại” như sau:
Một Tiền,
Một Quyền, một “Liền Bà”
Mưu chước
Ba thù, cám dỗ ta.
Trừ được
thứ nào, vui thứ nấy,
Nên chăng
phải trừ tất cả Ba.
4/ Tính
Dục và văn thơ “Hài” trong Văn Hóa Việt Nam
Triêt gia
Henri Bergson, thuộc Trường phái Triết học “Trực Giác”(Intuition).(
Theo học giả Trần Trọng Kim, các vị hiền triết Á đông, như Việt
Nam, cũng thường dùng Trực Giác, để tìm ra Chân lý). Ông
Bergson đã xuất bản cuốn sách nổi tiếng:”Le Rire”(
Cái Cười) để bàn luận về ý nghĩa của hài kịch, chuyện tiếu lâm,
pha trò: bản chất của Cười là gì? tại sao Cười? cách dàn dựng vở
hài kịch như thế nào? Sau khi khảo cứu những tác phẩm, và tác
giả nổi tiếng về hài hước như Molière.., ông Bergson đã định
nghĩa : cái Cười có Xã hội tính( Le Rire est
social). Ở đây, ý nghĩa tiếng Cười, không hẳn là “vui mừng, ngợi
khen”, nhưng là”CHÊ CƯỜI”. Tại sao, tự nhiên ta
bật cười khi thấy anh nghiện rượu, chân thấp chân cao, đi lẹo
xẹo, ngả nghiêng, hoặc chế nhạo khi gặp cảnh:” Bây giờ chồng
thấp vợ cao, Như đôi đũa lệch, so sao cho bằng!”…Lý do, tự
nhiên ta bật cười, vì cảm thấy nó “khác đời”, không bình
thường như mọi người vẫn thấy vẫn làm, nghĩa là nó “trật ra
bên lề xã hội, thói quen”; do đó, ta dùng tiếng Cười để chê
cười, nhạo cười, để bắt phải trở về với thói quen, với tập quán
trong xã hội. Bị làng xóm chê cười vì lối sống khác lạ, lệch lạc,
mất quân bình, thái quá. Áp dụng phương pháp của Henri Bergson
để khảo sát văn chương, nghệ thuật của Việt Nam, ta nhận thấy
tính chất HÀI rất sâu đậm trong những câu ca dao
tục ngữ, câu Hò, câu Đố(đố tục, giảng thanh, đố thanh giảng tục),
những chuyện Tiếu lâm, Trạng Quỳnh, Trạng Lợn..và loại thơ
phú “Hồ Xuân Hương”, Ba Giai Tú Xuất, Tú Xương, Tú Mỡ..Và
ngày nay, những ban “hài”như Vân Sơn, Tam ca, Hoài linh, Hồng
Đào, Quanh Minh..(trong các CD của Thúy Nga, Asia..) được
các gia đình ưa thích thưởng thức. Nhận xét chung, văn hóa và
tinh thần người dân Việt vẫn còn quân bình, không lệch lạc,
không ”LỐ BỊCH”(grotesque) đối với nhu cầu “Tính
dục”(Sex)của con người. Trong khi “cách mạng Tính dục”(sex
revolution) đề cao quá mức, tô điểm bộ phận sinh dục, khêu gợi,
kích thích dục tính cuồng dâm của văn minh tiêu thụ, thì dân
“Hài” Việt được dịp đem ra chế diễu những cái “Lố bịch”, thái
quá về “Sex”, để giúp người đời trở về với lương tri, với Xã
Hội lành mạnh. Bởi vậy, văn chương Hài Hước, châm biếm của tinh
thần Âm-Dương Điều hòa của Văn Hóa Việt, đã đóng góp vào việc
tìm hiểu giá trị cao quí thật của Tính Dục, và đả phá, chê cười
những thói rởm, khiêu dâm, làm rối loạn tâm thần. Người không
biết xấu hổ, tức người “vô liêm sỉ” là người nguy
hiểm đối với xã hội.
Nói tóm
lại, theo sinh lý,
con người và loài cầm thú rất giống nhau trong “hành vi tính
dục”(sexual act). Nếu có khác nhau, chỉ vì con người,
“linh ư vạn vật”, ban cho hành vi đó một ý nghĩa đặc biệt
cao quí là biểu lộ tình Yêu Mến, lòng Chung Thủy, và nghĩa
Vợ-Chồng.
5/
Người Lính Đào
Trong tập
sách Tự Thuật của Thánh Têrêsa thành Lisieux,
có đoạn tả tâm trạng của người “lính đào ngũ”(le soldat deserté).
Mới 16 tuổi, Têrêsa đã được phép vào sống trong Dòng Kín tại
Lisieux. Sống chung với các chị đã ngoài 70, 80 tuổi, rất khó
tính khó nết, không làm sao mà chiều chuộng cho nổi được. Một
chị già nua bệnh tật, có ác cảm , luôn trách móc, bắt bẻ Têrêsa
về những chuyện lặt vặt, không đâu. Nhưng vì lòng Bác ái, Têrêsa
luôn nhịn nhục, không cãi lại. Chịu đựng một thời gian khá lâu,
mỗi lần có việc phải gặp, là lại sinh chuyện la rầy, làm tâm
thần Têrêsa thêm mệt mỏi, căng thẳng vì sức chịu đựng đã kiệt
quệ. Một lần, vì nén cơn tức giận, Têrêsa, rung động, không
bước đi được, phải ngồi lại trên bậc cầu thang để nghỉ. Vì sức
yếu đuối của con người, để khỏi phải tranh cãi, giận dữ, đối đầu
với chị già khó tính, Têrêsa đã nghĩ ra mưu kế của “người Lính
Đào”, là chạy trốn chị ấy, để bảo toàn lòng bác ái, tha thứ.
Trong đường
Tu Đức cũng như trong phép “Binh Thư, Chiến Thuật”, cần phải
biết lượng sức mình và sức quân địch, thì mới mong thắng trận
được. Nếu sức quân mình yếu, khó có thể thắng, thì nên rút lui
để bảo toàn lực lượng, chờ dịp khác sẽ tấn công. Vì thế, có câu:”Tam
thập lục kế, đào vi thượng sách”( trong 36 kế, chạy trốn là kế
hoạch tốt nhất”).
Câu chuyện
ngưòi Lính Đào, cũng chính là lời cầu nguyện: “Xin chớ để
chúng con sa chước cám dỗ”, hay “tránh xa dịp tội”
. Kinh nghiệm cho thấy: các giáo sĩ tu sĩ sa ngã về “sex”, vì
coi thường sức cám dỗ của luật “Âm-Dương”, (vợ-chồng).
Về vấn đề”tránh xa dịp tội” của các tu sĩ, cần sự cộng tác của
gia đình cha mẹ, anh chị em, bà con thân quyến, các tín hữu, bạn
bè, nhất là nữ giới để ngăn ngừa, và đề phòng những “dịp
tội”.
Sau đây xin
trích mấy lời khuyên thực tế giúp tránh xa mưu chước của “Ba
Thù”:
“Xét theo quá
trình trong gia đình, phần đông các giáo sĩ xuất thân từ những
gia đình khiêm tốn trong xã hội, tính tham lam và hà tiện sẽ làm
chai lòng dạ của linh mục trước ân sủng của Thiên Chúa và nỗi
bất hạnh của người khác.
Ngày nay giáo sĩ cởi mở hơn đối với xã hội, vì thế họ có nhiều
cơ hội tiếp xúc với nữ giới. Khuynh hướng đeo đuổi một cuộc sống
thanh thản và tiện nghi cũng đẩy đưa đến việc kiếm tìm sự giải
trí và hoan lạc, nhất là khi họ có một khái niệm mơ hồ đến những
đòi hỏi của đức khiết tịnh. Ðó là tại sao ngày nay các linh mục
đi theo phụ nữ ra bải biển hay đi cắm trại thật là không hiếm.
Một số linh mục coi việc làm bạn với nữ giới là một chuyện bình
thường. Ðối với vài linh mục, hình ảnh khỏa thân và tài liệu dâm
ô không còn coi là điều cấm. Giáo dân và ngay cả linh mục dường
như không còn ác cảm tới các linh mục có con riêng và vẫn còn
thi hành chức linh mục. Tạ ơn Chúa, hầu hết các linh mục Việt
Nam vẫn sống theo nhân đức khiết tịnh”
(Trích Thông T ấn
Xã Á Châu, Nov/09/2002, Bài Phỏng Vấn
ĐGM Nguyễn Bình Tĩnh, Cựu Giám Đốc
CHỦNG VIỆN XUÂN BÍCH, HUẾ)
II. ĐỜI
SỐNG THẦN NHIỆM, KẾT NGHĨA VỚI CHÚA
Đời sống Thần
Nhiệm(Mystic), Thần Bí, Kết nghĩa với Chúa mới thật sự là tuyệt
đỉnh của nếp sồng Độc thân, Khiết tịnh. Con người không thể sống
hoàn toàn cô đơn, cô thế được. Con người có khả năng “thăng hoa”
đời sống dục tính tự nhiên lên nếp sống tâm linh, “Thần nhiệm”,
Kết nghĩa với Đấng Thiêng Liêng cao cả. Đây cũng là kinh nghiệm
vẫn tìm thấy trong các Tôn Giáo lớn như Phật giáo, như LM Thomas
Merton (và các Linh Mục thuộc Dòng Biển Đức , tại Tu Viện
Giệtsêmani(Kentucky)) đã viết trong sách:”Mystic and Zen
Masters”. Sau đây, là mấy phương thế thực hành do các vị
thần bí thường dùng để nuôi dưỡng đời sống Tâm linh.
1/Tính
Chất”Bí-Tích” Trong Thiên Chúa Giáo
Trong Công
Giáo, các tín hữu bắt buộc phải học biết ý nghĩa thiêng liêng
của “Bảy Phép Bí Tích” trước khi được lãnh nhận
như: Bí tích Thánh Tẩy(Rửa tội), Thêm Sức, Xưng tội, Rước Lễ,
Hôn phối, Truyền chức, và Sức dầu bệnh nhân. Theo Giáo lý, mỗi
BÍ-TÍCH đều có hai phần: Tích là Dấu Tích,
hữu hình, chỉ thể chất ngũ quan có thể cảm nhận được( trong
nguyên tự chữ Nho, chữ Tích vẽ hình một vết bàn chân); và Bí
là Bí Mật, vô hình, chỉ những thực tại thiêng liêng, là Ơn Thánh.
Người tín hữu Thiên chúa giáo, đặc biệt người Công giáo, ngay
khi còn nhỏ, đã được huấn luyện về tính chất
Bí-Tích(Sacramentality), trong đời sống Đức tin, Phụng vụ. Tinh
thần “Bí -Tích”này còn bao trùm lên ý nghĩa thiêng liêng của các
hiện tượng thiên nhiên, và xã hội, nhân sinh. Chẳng hạn, người
Công giáo tin rằng: Nhìn vũ trụ bao la, muôn muôn triệu tinh tú,
vạn vật vận chuyển ĐIỀU HÒA, thì liền nhận biết có MỘT ĐẤNG
THIÊNG LIÊNG điều khiển. Người theo Đạo Công Giáo cũng được đào
luyện một tinh thần trung hòa trong lý luận, cân đối, không
thái quá không bất cập. Sách Giáo lý dạy rằng: Con người có :Xác-
Hồn, Vật chất-Tinh thần, Thiên đàng-Hỏa ngục, Tự nhiên-Siêu
nhiên, Cá nhân-Xã hội… Những cặp “Song Trùng”(hay
Đạo Hai)này biểu lộ một tinh thần quân bình, điều hòa trong nhận
thức và cách tiếp cận với thế giới bên ngoài. Triết Lý Âm-Dương
Điều hòa của Văn hóa Việt Nam cũng giúp ta hiểu biết, và quen
thuộc với ý niệm về “Bí –Tích” trong Đạo Công Giáo. Trong
Bí-Tích Rửa tội(Baptism), nước lã, dầu thánh, lời đọc là phần
Hữu Hình, đồng thời ám chỉ, biểu trưng cho thực tại
Vô-Hình, chính là Ơn Nghĩa tử với Chúa tẩy sạch
mọi tội lỗi, và ban Ơn Chúa Thánh Thần để tăng cường đời sống
tâm linh, và bảo đảm cho người lãnh Bí-Tích Ơn Trường Sinh, Vĩnh
Phước.
2/Tình
Yêu Tự Nhiên và Tình Yêu Siêu Nhiên
Ngay trong
lãnh vực TÌNH ÁI, Kinh Thánh và Thần Học Công Giáo
cũng nhìn nhận những thực tại tự nhiên, vật chất làm biểu
tượng ám chỉ những thực tại thiêng liêng vô hình: Do đó,
Kinh Thánh Cựu Ước so sánh Tình ái của Vợ-Chồng với Tình Thương
của Giavê đối với dân Do thái. Các tiên tri đã sánh ví tội bất
trung của dân Do thái đối với vị Chú Tể như tội bội tín của một
người vợ ngoại tình. Thánh Tông Đồ Paulô đã viết, và so sánh
tình yêu Vợ-Chồng như Tình Thương của Chúa Cứu Thế đối với Hội
Thánh.
Như đã định
nghĩa:con người là một “nhân vị có tính dục”(a sexual
Person), nhưng con người cũng có khả năng “thăng hoa” đời sống
tính dục tự nhiên lên nếp sống Siêu Nhiên, để hoàn toàn dâng
hiến bản thân phụng sự Chúa và tha nhân. Bởi vậy, nếu một tu sĩ
thiếu Tình Yêu siêu nhiên, Kết Nghĩa với Chúa, thì đời sống tự
nhiên trở nên cô đơn, cô độc, cô thân, cô thế, vất vưởng, vì
thiếu nơi nương náu. Do đó, theo kinh nghiệm Tu Đức của các vị
Thánh nhân, để khỏa lấp vào nỗi trống rỗng của tâm hồn, hàng
triệu triệu tu sĩ đã chạy đến nhờ bàn tay Từ ái của MẸ
MARIA nâng đỡ, phù trì, trên bước đường gian lao, và HY
SINH vác Thánh Giá, theo Chân Thày Chí Thánh để cộng tác vào
công cuộc cứu chuộc nhân loại. Ngoài ra, gương sáng về Nhân Đức
Trinh Khiết của Thánh Cả Giuse, các Thánh Nam Nữ , của các vị
Thừa sai Truyền Giáo, (hơn 20 vị bị giết chết năm 2005), vì đem
Tin Mừng của Chúa đến những nơi hẻo lánh, nguy hiểm, cũng đem
lại nguồn an ủi lớn lao, và khích lệ cho những người trẻ đang
tập sự trong nếp sống độc thân, khiết tịnh. Tuy bề ngoài, vị
chân tu cũng ăn uống, nghỉ ngơi, làm việc sinh sống như mọi
người khác, nhưng đời sống Nội Tâm, và Ý nghĩa cuộc đời thì khác.
Thánh Phao Lô, nhà “Đại-thần-bí” đã diễn tả cuộc sống siêu nhiên
đó là”Chúa Sống trong
Tôi”
3/ Suy
Niệm và Bí –Tích Thánh Thể
Để nuôi dưỡng
nếp sống khiết tịnh, độc thân, các Trường phái Tu đức của các
Dòng Tu Công Giáo (như Thánh Beneditô, Thánh Ignatiô..) đã đặt
ra nhiều Phương Pháp Suy Niệm(Meditation) để thực hành, nhưng
mọi cách thế đều cùng chung một chủ đích là huy động toàn thân
con người, các giác quan, nhất là tập trung tư tưởng, tình cảm
và ý chí muốn KẾT HIỆP cùng Chúa Cứu Thế là cứu cánh của đời tận
hiến. Suy Niệm cũng là một hình thức Cầu Nguyện, nhưng đặc biệt
dùng Lý trí, để tìm hiểu và nghiền ngẫm những Chân Lý đã được
mạc khải trong Kinh Thánh.
Theo kinh
nghiệm của các vị Thánh Nhân, như Đức Cố Giáo Hoàng Gioan Phao
Lô I I, việc cầu nguyện, và suy niệm trước Thánh Thể là cách thế
tốt nhất để tăng cường sức mạnh thiêng liêng, để chống lại cơn
cám dỗ trong nếp sống độc thân, cô đơn và được Chúa an ủi khi
tâm trí hoàn toàn kết hiệp với Chúa đang hiện diện. Kinh nghiệm
trong các tuần Tĩnh Huấn của Phong Trào Cursillo cũng minh
chứng một hiện tượng tâm linh khác thường. Trong phòng tối, các
khóa sinh quì cầu nguyện, và bộc lộ tâm sự với Chúa Giêsu hiện
diện trong Thánh Thể, thì hầu hết mọi người đều tuôn trào nước
mắt vì quá xúc động, vì Tình Liên kết mật thiết với Thày Chí
Thánh. Do đó, Dòng “Anh Em Tiểu Đệ”hay “Tiểu Muội”do Chân Phước
Charles de Foucauld sáng lập đã coi việc chầu Thánh Thể, trong
sa mạc vắng lặng, hoặc dưới túp lều tranh tả tơi, nóng bức, là
nguồn sinh khí ban thần lực cho các tâm hồn khiêm nhu, nghèo khó,
khiết tịnh.
4/ Suy
Niệm và cuộc đời “Phù Vân”
Suy niệm về
cuộc đời “Phù Vân”( mây trôi nổi, chóng qua mau hết),
cũng là một nhận xét sâu xa về giá trị thật của đời người, và là
một phương thế Tu Thân khá hiệu nghiệm. Cho đời là “Bể khổ”, là
“Vô thường”, biến đổi luôn, chẳng có gì là “thường hằng bất biến”,
có thể bị người đời phê phán là bi quan, yếm thế, trốn tránh
cuộc đời. Nhưng theo quan niệm tu đức của Thánh Kinh, của Thánh
Phao Lô Tông đồ, thì là một nhận định thật tế, khôn ngoan, và
lạc quan, yêu đời.
Trong các
Sách dạy về Tu Đức, cuốn sách “GƯƠNG CHÚA GIÊSU”( Imitation of
Jesus Christ, thường gọi là:Sách Gương Phúc) mở đầu bằng những
lời khuyên như sau:
“ Mọi
sự đều giả dối, trừ ra yêu mến và làm tôi một mình Chúa mà thôi!”
Đây là một
châm ngôn và nguyên tắc để giảng nghĩa Sách Thánh như Sách GIẢNG
VIÊN( Ecclesiastes), Các Thánh Vịnh (Psalms), Thơ của Thánh Phao
Lô Tông Đồ. Thật vậy, mọi sự trên đời là mau qua may hết, nhưng
con người không bi quan như câu nói:”chết là hết”, hay”chó chết,
hết chuyện”. Đây chỉ là mối tuyệt vọng của kè vô tín ngưỡng.
Trái lại, niềm TIN bất biến vào Một Đấng Hằng Có, Vĩnh Cửu,
Trường Tồn, khiến ta càng lạc quan làm việc lành, phước thiện để
lập công nghiệp, để được sống trường sinh, vĩnh phước. Đây cũng
là phương thức suy luận điều hòa, quân bình, trong tư tưởng
triết lý của Thiên Chúa Giáo.
-
Trong Sách “GIẢNG VIÊN”:(
Đoạn 12, và Kết Luận, câu:8-13):
“ Giả trá,
phù vân, mọi sự đều là giả trá”(câu 8)..
“Hãy Kinh
sợ Chúa, và tuân giữ Lề Luật của Chúa, vì đây là tài sản của
con người, Chúa sẽ xét xử mọi việc làm, mọi việc thầm kín, tốt
hay xấu(Câu: 13-14)
- THÁNH VỊNH( Psalms). Đây là 150 Ca Vịnh, có thể nói
là những Thánh Thi được dùng trong Phụng vụ các Giờ Kinh, được
các Giáo si, Tu sĩ đọc hằng ngày, hằng giờ. Ý THƠ và lời văn của
mỗi Thánh Vịnh luôn nhắc nhở người tu sĩ độc thân nhận định một
cách sáng suốt về sự mong manh, hư nát của thân thể,
và vui thú trần gian, cùng với lòng trung thành, kiên tâm tin
tưởng và yêu mến Chúa. Bởi vậy, một tu sĩ độc thân bò đọc Thánh
Vịnh mỗi ngày, hay đọc một cách máy móc, thiếu cảm nghiệm, thì
khómà sống đời Khiết tịnh một cách vui tươi, hứng khởi, lạc quan
được.
-
THÁNH PHAO LÔ, đã viết :( 1 Cor .7,29-31):
“Thời giờ vắn vỏi; còn có cách là những ai có vợ, hãy ở như
không có; những ai than khóc, hãy ăn ỏ như không khóc; những kẻ
hân hoan, hãy ăn ở như không hân hoan; những người mua sắm hãy
ăn ở như không có gì; những ai dùng sự đời này, hãy ăn ở như
không tận hưởng, vì chưng bộ mặt thế gian này đang qua
đi.”
TẠM KẾT:
TU ĐỨC của HỘI XUÂN BÍCH
Tu đức được
giảng dạy và huấn luyện trong các Chủng Viện do Hội các Linh Mục
Xuân Bích quản trị, thuộc “Trường Phái Tu Đức Pháp quốc”(
French School of Spirituality, với các vị như Thánh John Eudes,
Thánh Vincent de Paul, Cardinal Bérulle, Thánh J.B de la Salle,
Jean Jacques Olier..) Chủ đích là huấn luyện cho các Linh Mục,
Giáo sĩ” đời sống nội tâm”( interior life) và”
tinh thần tông đồ, truyền giáo”( apostolic spirit).
Cha Jean Jacques Olier, vị Sáng lập Hội các Linh Mục Xuân Bích
đã viết:
“Chủng
Viện Xuân Bích.. đã thánh hiến và tận hiến mình để Tôn Thờ Chúa
Giêsu Kytô là Vị Thượng Tế và là Vị Tông Đồ cao cả của Chúa Cha;
và Tôn Kính Ngài đang sống động trong Hội Thánh( Phẩm trật Hội
Thánh). Hằng ngày, Chủng Viện Xuân Bích cầu nguyện cho mình và
cho toàn thể Hội Thánh được tinh thần tông đồ, để đổi mới nơi
chính mình Tình Yêu của Chúa Giêsu Kytô, và thái độ Tôn Thờ của
Người đối với Đức Chúa Cha; đặc biệt, cầu nguyện cho hàng
Giáo sĩ có tinh thần tông đồ, vì các vị này là nguồn mạch sự
thánh thiện, để các ngài phân phát cho giáo dân”( Divers
écrits, I, 67)
Qua bản
văn trên, có thể tóm lược:
Sứ Mệnh(Mission) của Chủng viện Xuân Bích là canh tân
tình yêu mến cúa Giêsu Kytô trong Hội Thánh, qua việc canh tân
lòng đạo đức của các Giáo sĩ Địa phận. Do đó, các Linh Mục, Giáo
sĩ phải là MÔ PHẠM, GƯƠNG MẪU cho đời sống của các Tín Hữu. Cũng
vì những lý do kể trên, Các Chủng Viện Xuân Bích đặc biệt quan
tâm về những tội phạm về”Lạm dụng tính dục đối với trẻ em”,
vì vi phạm nhân phẩm của nạn nhân, hơn nữa, vì mâu thuẫn với
niềm TIN NƠI CHÚA GIÊSU, là cùng đích của đời Sống Tận
Hiến, Khiết Tịnh. |
VỀ MỤC LỤC |
|
TẠI SAO GIÁO HỘI CỦA CHÚA KITÔ LÀ
DUY NHẤT, THÁNH THIỆN CÔNG GIÁO VÀ TÔNG TRUYỀN ?
|
Hỏi:
xin cha giải thich : Những người chỉ trích
Giáo Hội nêu lý do là trong Kinh Thánh không tìm đâu ra những
từ ngữ như: duy nhất ,thánh thiện , công giáo và tông truyền.
Vậy từ đâu Giáo Hội Công Giáo có những đặc tính trên đây ? và
nếu không gia nhập Giáo Hội Công Giáo thi có được cứu rỗi không?
Trả lời:
Các giáo phái ngoài Công Giáo từ
xưa đến nay vẫn thường chỉ trích Giáo Hội Công Giáo là thiếu
nền tảng Kinh Thánh nên đã phạm nhiều lầm lỗi. Sở dĩ thế vì
họ - các nhóm Tin Lành nói chung- chì tin có Kinh Thánh (sola
scriptura) nhưng họ cắt nghĩa Kinh Thánh theo cách đọc và hiểu
của riêng họ nên mới đả kích Giáo Hội như vậy. Thật ra, Giáo
Hội Công Giáo không những có Kinh Thánh mà còn có thêm những
nguồn suối chân lý khác như Mặc khải ( revelatio) Thánh Truyền
( Traditio) và Quyền Giáo Huấn (Magisterium) là những nền tảng
mà các giáo hội ngoài Công Giáo không có và cũng không nhìn nhận
giá trị. Vì thế, ta không ngạc nhiên khi có sự khác biết lớn lao
giữa Công Giáo và các giáo phái về nhiều lãnh vực của đức tin.
Liên quan đến bản chất và sứ mệnh của Giáo Hội, thì sau đây là
những lý do để trả lời câu hỏi nêu ra:
I.
Trong
Kinh Tin Kinh của Công Đồng Nicene đọc ngày Chúa Nhật và các
ngày lễ trọng, Giáo hội tuyên xưng “ có Hội Thánh duy
nhất, thánh thiện, công giáo và tông truyền”.
1-
Giáo Hội duy nhất
:
Giáo Hội là
duy nhất vì Chúa Kitô chỉ thiết lập Giáo Hội này một lần trên
nền tảng các tông đồ mà Phêrô là Đá Tảng :
“
Anh là Phêrô, nghĩa là Tảng Đá, trên tảng
đá này, Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy, và quyền lực tử thần
Sẽ không thắng nổi.”
( Mt 16:18)
Như thế, Giáo
Hội là duy nhất vì bắt nguồn từ “ Khuôn mẫu tối cao và nguyên
lý của mầu nhiệm này nằm trong Ba Ngôi của một Thiên Chúa duy
nhất là Cha và Con trong Thánh Thần” ( UR 2, SGLGHCG,
số 813).
Nói khác đi,
Giáo Hội là duy nhất vì Đấng sáng lập là Chúa Kitô cũng là Thiên
Chúa duy nhất cùng với Chúa Cha và Chúa Thánh Thần trong một
Thiên Chúa có chung một bản thể và uy quyền. như nhau. Như thế
đặc tính duy nhất của Giáo Hội thể hiện mầu nhiệm duy
nhất của một Thiên Chúa có Ba Ngôi Vị
Tính chất độc
nhất này của Giáo hội đã được Thánh Công Đồng Vatican II minh
xác như sau: “ Đó là Giáo Hội độc nhất của Chúa Kitô
mà chúng ta tuyên xưng trong Kinh Tin Kính là duy nhất. thánh
thiện, công giáo và tông truyền. Sau khi phục sinh, Đấng cứu
chuộc chúng ta đã trao phó cho Phêrô chăn dắt Giáo Hội đó.(Ga
21:17). Người phó thác cho Phêrô cũng như cho các Tông Đồ khác
truyền bá , cai quản (Mt 28:18 )…Như một xã hội được thiết lập
qui củ trên trần gian, Giáo Hội ấy “tồn tại trong Giáo Hội Công
Giáo” do Đấng kế vị Phê rô và các Giám Mục hiệp thông với ngài
điều khiển…(x. Lumen Gentium, số 8)
2- Giáo
Hội Thánh Thiện:
Giáo Hội
thánh thiện vì Chúa Kitô , Đấng sáng lập và là Đầu của Giáo Hội
được tuyên xưng là
“Đấng
Thánh suy nhất “ cùng với Chúa Cha và Chúa Thánh Thần, đã
yêu thương Giáo Hội như hiền thê của mình.. .vì thế Giáo Hội là
Dân thánh của Thiên Chúa và các thành viên của Giáo Hội được gọi
là “các thánh” (SGLGHCG số 823)
Tuy nhiên, do
bản chất loài người đã bị băng hoại vì tội nguyên tổ, cho nên
các thành viên lớn nhỏ của Giáo Hội chưa hoàn toàn là ‘các
thánh” như tước hiệu được ban cho. Nghĩa là Giáo Hội vẫn bao
gồm những người có tội đang cần sám hối để xin Chúa tha thứ và
thánh hóa hầu xứng đáng là “ Dân thánh của Người” trong Giáo Hội
có bản chất thánh thiện vì Chúa Kitô, Đầu của Giáo Hội là Đấng
Thánh, trọn lành.
3- Giáo Hội là công giáo
( catholic=universal) đặc
tính này bắt nguồn từ chính Chúa Kitô, Đấng sáng lập Giáo Hội,
qua hai sự kiện cụ thể được ghi lại trong Kinh Thánh Tân Ước như
sau:
a-Trược hết,
sau khi giáng sinh ở Bethlehem, Chúa đã tỏ mình cho dân ngoại
qua ánh sao lạ mời gọi và đẫn đường cho ba chiêm tinh gia cũng
quen gọi là Ba Vua, từ phương Đông đến thờ lậy Người. (Mt 2:
1-12)Sự kiện này cho thấy rõ tính phổ quát ( universality) của
Ơn Cứu Độ mà Chúa mang đến không phải chỉ dành riêng cho một
dân tộc nào, - kể cả dân Do Thái, vốn là Dân riêng của Thiên
Chúa,- mà dành cho hết mọi dân tộc , thuộc mọi ngôn ngữ và văn
hóa..
b- Thứ đến,
trước khi về Trời, Chúa Kitô đã truyền cho các môn đệ mệnh lệnh
sau đây: “ anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn
đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Cha và Co và Thánh Thần..”
( Mt 28:19).
Trước hết,
đây là lời Chúa mời gọi mọi người không phân biệt màu da,
tiếng nói , chủng tộc nhận biết Chúa và lãnh ơn cứu chuộc của
Người ,vì “ Thiên Chúa, Đấng cứu độ chúng ta muốn cho mọi
người được cứu độ và nhân biết chân lý.” ( 1Tm 2:
4).Đây cũng là lệnh truyền của Chúa Giêsu trước hết cho các Tông
Đồ và các người kế vị trong Giáo Hội từ thời sơ khai cho đên
ngày nay và cho đến ngày mãn thời gian, phải đi khắp nơi để rao
giảng Phúc Âm cho muôn dân để mời gọi họ đón nhận Tin Mừng hầu
được cứu rỗi như lòng Chúa mong muốn..
Thêm một lần
nữa, đây chính là nét phổ quát của Ơn Cứu Độ mời gọi hết mọi dân
tộc không phân biệt mầu da , tiếng nói và văn hóa đón nhận để
được sống hạnh phúc trường sinh trên Nước Trời.
Chúa đã thiếp
lập Giáo Hôi như phương tiện hữu hiệu nhất để chuyên chở Ơn Cứu
Độ của Người đến cho những ai có thiện chí muốn đón nhận.Và
phép Rửa là cửa ngõ đi vào Giáo Hội này.
Chính vì nét
phổ quát này của Ơn Cứu Độ mà Giáo Hội của Chúa được gọi
là Công Giáo ( Catholicam, Catholic, Catholique.=
Universal) vì mục đích mời gọi hết mọi người gia nhập để trở
thành Dân Thiên Chúa và hầu nhận lãnh Ơn Cứu Chuộc của Chúa Kitô
Hơn nữa, Giáo
Hội là Công Giáo vì có Chúa Kitô hiện diện trong Giáo Hội này :
“ đâu có Chúa Kitô thì đấy có Giáo Hội Công Giáo” theo
lời dạy của Thánh Ignatiô thành Antiokia ( Sđd, số 795 (830).
Người không những hiện diện mà còn là Đầu của Giáo Hội
như Thánh Phaolô đã dạy như sau:
“ Người (
Chúa Kitô) cũng là Đầu của thân thể; nghĩa là Đầu của Hội Thánh..”
( Cl 1:18; Ep 4: 15)
Tóm lại, Giáo
Hội là Công Giáo vì được Chúa Kitô thiết lập và sai đi rao giảng
Tin Mừng cho muôn dân trên khắp địa cầu cho đến thời viên
mãn.Cũng vì đặc tính phổ quát này mà Giáo Hội có bản chất truyền
giáo ( missionary, evangelical) trong sứ mệnh của mình..
Sau hết ,
cũng cần nói lại ở đây một lần nữa là từ ngữ “ Công Giáo”
ở đây hoàn toàn không có nghĩa là “công cộng=public” như
có người,vì kém hiểu biết, đã tự chế và dich sai ra Anh ngữ
như trên nhằm mục đích đả phá Giáo Hội, vì cho là Công Giáo
muốn trở thành Quốc Giáo nên mới tự xưng là “Đạo cộng cộng=Public
Religion”, một từ ngữ không hề có trong Tự điển các Tôn Giáo
trên thế giới..
4- Giáo Hội Tông Truyền
( Apostolic): Giáo Hội là Tông Truyền vì
được Chúa Kitô thiếp lập trên nền tảng các Tông Đồ mà Phêrô là
“Đá Tảng” ( Mt 16:18; Ep 2:20; Cv 21:14). Chúa đã sai các
Tông Đồ đi loan báo Tin Mừng Cứu Độ của Người cho mọi dân tộc,
tức là cho các ông được tham gia vào Sứ Vụ rao giảng và Cứu độ
của Chúa cùng mục đích như Chúa Cha đã sai Người đến trần gian:
“Như
Chúa Cha đã sai Thầy
Thí Thầy cũng sai anh
em “ ( Ga
20:21)
Như vậy các
Tông Đồ đã nhân lãnh trực tiếp từ Chúa Giêsu sứ mệnh cai quản
Giáo Hội để tiếp tục Sứ Vụ rao giảng và cứu độ của Chúa cho đến
ngày cánh chung. Các Tông Đồ đã chọn những người kế vị các ngài
là các Giám mục được tuyển chọn và truyền chức thánh qua việc
đặt tay ( 1 Tm 4: 14; 5: 22; 2Tm 1:6) để tiếp tục sứ vụ của các
ngài trong việc cai quản , dạy dỗ và thánh hóa Dân Chúa trong
Giáo Hội , với sự cộng tác và vâng phục của các linh mục và phó
tế, là những cộng sự viên đắc lực của các Giám mục.( Lumen
Gentium số 20). Các Giám mục cũng vâng phục và hiệp thông trọn
vẹn với Đức Thánh Cha là người kế vị Thánh Phêrô, Tông Đồ cả mà
Chúa Kitô đã đặt lên để “ chăn dắt các chiên con và chiên mẹ
của Thầy.” ( Ga 21: 15-17).Đức Thánh Cha cũng là Giám mục
Rôma và là Thủ Lãnh Giáo Hội Công Giáo hoàn vũ ( Universal
Catholic Church).Hiệp thông với Giáo Hội Công Giáo hoàn vũ là
các Giáo Hội Công Giáo địa phương ( Local Church) hay còn gọi lá
các Giáo Phận ( Diocese) do một Giám Mục chinh tòa ( Ordinary)
cai quản.
Đó là tất cả
ý nghĩa của đặc tính tông truyền của Giáo Hội Cộng Giáo. Các
giáo phái ngoài Công Giáo -trừ Chính Thống Giáo- thiếu đặc tính
quan trọng này nên không thể có các bí tích Thánh Thể, Hòa giải,
Thêm sức, và Sức dầu hữu hiệu ( valid) được vì họ không có Bi
Tích truyền Chức Thánh (Holy Orders) mà Chúa Giêsu đã thiết lập
trong Bữa Tiêc Ly để nhờ đó các thừa tác viên loài người là linh
mục và Giám mục được chia sẻ Chức Linh Mục đời đời của Chúa Kitô,
Thầy Cả Thượng Phẩm theo phẩm trật Men-ki-xê-đê” ( Dt 5:10). Nhờ
được chia sẻ Chức Linh Mục này mà Giáo Hội tiếp tục dâng Hy tế
đền tội của Chúa Kitô trên bàn thờ mỗi ngày khi các thừa tác
viên có chức linh mục là Giám mục và linh mục.cử hành Thánh Lễ
Tạ Ơn ( The Eucharist)
II-
Về câu hỏi thứ hai : nếu không gia nhập
Giáo Hội Công Giáo thì có được cứu rỗi hay không, xin được phân
biệt 2 điều quan trọng sau đây:
1-Thứ nhất,
đối với nhũng người không vì lỗi của họ mà không biết Chúa
Kitô và Giáo Hội Công Giáo là Giáo Hội thật được Chúa thiết
lập làm phương tiện hữu hiệu để ban ơn cứu chuộc, thì họ vẩn có
thể được cứu độ theo lời dạy sau đây của Giáo Hội:
“ Đúng thế,
những người không do lỗi của mình mà không biết đến Phúc Âm của
Chúa Kitô và Giáo Hội của Ngái, nhưng thành tâm tìm kiếm Thiên
Chúa và nhờ ơn sủng của Người mà hành động để làm trọn thánh ý
của Chúa theo như lương tâm của họ mặc khải cho họ và truyền
dạy họ , thì họ có thể đạt tới ơn cứu độ muôn đời. “ (
SGLGHCG số 847, LG 16)
Nói rõ hơn,
trước khi Đạo Công Giáo được các thừa sai tây phương đem sang
rao giảng ở ViệtNam vào cuối thể kỷ 16, thì tổ tiên chúng ta
không có cách nào biết được Chúa Kitô và Phúc Âm của Người.
Nhưng đó hoàn toàn không phải là lỗi của cha ông chúng ta vì
không có ai rao giảng hay nói cho biết thì làm sao các ngài
biết được. Tuy nhiên, nếu các ngài sống theo tiếng nói của lương
tâm mình để làm điều lành tránh sự dữ, sự tội thì Chúa vẩn có
thể cứu họ dù cho họ không được chịu phép rửa và gia nhập Giáo
Hội của Chúa Kiô.
2-
Ngược lại, “những người đã biết Chúa, biết
Giáo Hội của Chúa là Giáo Hội thật , là phương tện cứu rỗi cần
thiết mà vẩn không muốn gia nhập, hoặc đã gia nhập qua Phép Rửa
nhưng lại không kiên trì sống đức tin trong Giáo Hội này thì
không thể được cứu rỗi.”
(Sđd, số 846)
Nói khác đi,
những ai đã được rửa tội và sống trong Giáo Hội Công Giáo rồi
, nhưng vì một lý do bất mãn nào đó mà rời bỏ Giáo Hội để gia
nhập một giáo phái khác, hoặc chối bỏ đức tin Công Giáo để
sống như người vô thần, thì
“không thể
được cứu độ” như Giáo Hội dạy trên đây.
Nhưng cũng
cần giải thích thêm là tuy việc gia nhập Giáo Hội qua phép Rửa
là cần thiết cho sự cứu rỗi , nhưng gia nhập không thôi chưa đủ,
cũng như được rửa tội rồi cũng chưa chắc chung cuộc sẽ được cứu
rỗi , trừ các trẻ em nhỏ mới sinh hoặc chưa đủ trí khôn biết
lành biết dữ đã chết sau khi được rửa tội. Đối vói những người
đã có đủ trí khôn..thì gia nhập Giáo Hôi không giống như có
Passport và xin được Visa là chắc chắc chắn được du lịch đến
quốc gia nào đòi phải có Visa nhập cảnh. Được rửa tội và gia
nhập Giáo Hội mới chỉ là bước đầu cần thiết cho một tiến trình
dài để lớn lên trong đức tin và sống đức tin ấy qua nhiều thử
thách của đời sống Kitô hữu giữa trần gian.
Muốn được
cứu độ, thì trước hết phải có đức tin vì “ không có đức tin
thì không thể đẹp lòng Thiên Chúa, vì ai đến gần Thiên Chúa
thì phải tin là có Thiên Chúa và tin Người là Đấng ban phát phần
thưởng cho những ai tìm kiếm Người.” ( Dt 11:6)
Nhưng đức
tin phải đi kèm với hành động cụ thể nói lên niềm tin ấy , nếu
không thì “ đó là đức tin chết” như Thánh Gia-cô-bê Tông
Đồ dạy. ( Gc 2:17.).
Thật vậy, đức
tin phải được thể hiện cụ thể bằng đức mến. Nghĩa là tin có
Chúa thì phải yêu mến Người, cố gắng sống theo đường lối của
Chúa, cụ thể là thực thi mọi giới răn của Người như Chúa Giêsu
đã dạy các Tông Đồ xưa :
“
Ai yêu mến Thầy ,thì sẽ giữ lời Thầy
Cha của Thầy sẽ yêu mến người ấy
Cha của Thầy và Thầy sẽ đến ở với người ấy.(
Ga 14:23)
Giữ lời Thầy
có nghĩa là thực hành hai giới luật quan trong nhất là mến Chúa
và yêu người như Chúa Giêsu đã trả lời cho một kinh sư kia .( Mc
12:28-31)
Thực thi
những giới răn của Chúa là chứng minh cách cụ thể đức tin và
lòng mến Chúa thực sự của mình. Nếu không sẽ chỉ là người Công
giáo có tên ( Nominal Catholics) chứ không phải là người tín hữu
thực hành (practicing faithfuls).Và nếu chỉ là người tín hữu có
tên thì việc gia nhập Giáo Hội và lãnh phép rửa sẽ chẳng giúp
ích gì cho phần rỗi của ai, vì thiếu thiện chí cộng tác với ơn
thánh để được cứu rỗi. Nói rõ hơn, được rửa tội và gia nhập
Giáo Hội rồi , nhưng nếu không thi hành những cam kết (
baptismal promises) khi lãnh bí tích này là tin và yêu mến Chúa
hết lòng đi kèm với quyết tâm xa lánh mọi tội lỗi và sự dữ thì
ơn phép rửa cũng trỏ nên vô ích mà thôi.
Thật vậy,
Chúa là tình thương và giầu lòng tha thứ. Công nghiệp cứu chuộc
của Chúa Kitô có giá trị tuyệt đối. Nhưng nếu ta không cộng tác
với thiện chí muốn được cứu rỗi thể hiện qua nỗ lực chê ghét tội
lỗi và quyết tâm sống theo đường lối của Chúa như Giáo Hội dạy
thì Chúa không thể cứu ai được, căn cứ vào chính lời Chúa Giêsu
phán dạy sau đây:
“ Không
phải bất cứ ai thưa với Thầy : Lậy Chúa , lậy Chúa là được vào
Nước Trời cả đâu. Nhưng chỉ ai thi hành ý muốn của Cha Thầy,
Đấng ngự trên trời, mới được vào mà thôi.”( Mt 7:21)
Đó là tất cả
những gì người tín hữu chúng ta cần biết dựa trên giáo lý, tín
lý và Kinh Thánh của Giáo Hội để giúp chúng ta thêm yêu mến
Giáo Hội và vững tin để sống và thực hành đức tin trong Giáo
Hội là con Tàu đưa chúng ta đến bến bờ hạnh phúc, nhờ lòng
thương xót vô biên của Thiên Chúa và công nghiệp cứu chuộc vô
giá của Chúa Kitô được ban phát dồi dào cho chúng ta qua sứ vụ
của Giáo Hội là Thân Thể nhiệm mầu của Người ở trần gian.
Ước mong
những giải thích này thỏa mãn các câu hỏi được đặt ra.
Lm. Phanxicô
Xaviê Ngô Tôn Huấn. |
VỀ MỤC LỤC |
|
MỘT LỄ GIÁNG SINH TUYỆT VỜI NƠI XỨ
TRUYỀN GIÁO
|
Tiếng nhạc “Gloria inexcelsis Deo”
trổi lên làm cho bầu không khí đêm Giáng Sinh tưng bừng sống
động, khiến mọi người cảm thấy hân hoan, phấn khởi, và ấm lòng
cho dầu bên ngoài thánh đường đang là một bầu không khí lạnh lẽo
của đêm đông lạnh giá. Sau nghi thức xông hương thánh tượng Hài
Nhi, đoàn rước bắt đầu tiến vào nhà thờ. Đi đầu là hương và
Thánh Giá. Tiếp đến là 6 em bé trong bộ trang phục các bé Mục
Đồng trông thật duyên dáng và dễ thương. Chính những bộ mặt đơn
sơ, ngơ ngác, hồn nhiên, và thánh thiện đó đã mang lại cho mọi
người một niềm vui nhẹ nhàng, thanh thoát của ngày Sinh Nhật Con
Thiên Chúa. Những “cô cậu bé mục đồng tí hon” nầy chính là lớp
giáo lý Mầm Non từ 3 đến 5 tuổi. Cả giáo xứ gom lại chỉ vỏn vẹn
được 6 em. Năm trước, các em làm thiên thần. Năm nay cô phụ
trách lớp giáo lý nầy muốn thay đổi đề các em vui, nên cho làm
Mục Đồng. Lớp giáo lý Ấu Nhi từ 6 đến 8 tuổi thì giúp lễ. Lớp
nầy được 7 em rất sốt sắng phuc vụ bàn thánh. Lớp Thiếu Nhi từ 9
đến 13 tuổi gồm 6 em. Lớp nầy ngoài việc học giáo lý, các em còn
học thổi sáo. Đây là một đội sáo hùng hồn, phụ họa cho ca đoàn
rất nhiều và đã tạo cho những buổi phụng vụ một bầu không khí
thật sốt sắng và phấn khởi. Như mọi cuộc rước khác, đêm nay Ca
Đoàn và Ban Sáo cũng được xếp đi ở giữa để giúp mọi người dùng
lời ca tiếng hát tôn thờ Thiên Chúa. Cuối cùng là đoàn giúp lễ,
chủ tế, và kiệu.
Sau
cuộc rước là thánh lễ đêm Giáng Sinh. Thánh lễ đã được cử hành
trong bầu khí thật trang nghiêm và sốt sắng nhờ sự tập dợt và
chuẩn bị chu đáo của ca đoàn, ban sáo, và nhất là Vũ Điệu dâng
lễ rất đặc sắc của 2 lớp giáo lý Mầm Non và Ấu Nhi. Vũ khúc nầy
chúng tôi lấy lại từ buổi lễ khai mạc năm thánh Phao Lồ năm
ngoái cũng được tổ chức tại nhà thờ thánh Phao Lồ của giáo xứ
chúng tôi. Tôi còn nhớ rõ rằng: rất có thể đây là lần đầu tiên
mọi người được nhìn thấy một bầu không khí và một mầu sắc lạ
thường trong buổi phụng vụ là các em Mầm Non phụ trách Vũ Điệu
Dâng Lễ. Với những nét mặt xinh xinh, thơ ngây, và dễ thương,
cùng với những cử điệu đơn sơ, hồn nhiên, và thánh thiện hòa lẫn
với hương trầm và điệu nhạc du dương đã tạo được một bầu không
khí linh thiêng, sốt sắng, và cảm động khác thường, khiến cho
người người dẫu tâm hồn có chai đá cũng cảm thấy con tim dạt dào
rung động đến rướm lệ, để rồi đã để lại cho họ một kỷ niệm khó
quên mà nhiều người đã chia xẻ: “Suốt cuộc đời 8o năm qua, chưa
bao giờ chúng tôi được tham dự một thánh lễ cảm thấy sốt sắng,
linh thiêng, và cảm động như vậy.” Và thật vậy, sau thánh lễ thì
2 đức cha và một số linh mục đồng tế đến hỏi nhỏ như để khích lệ
chúng tôi rằng: làm sao có được những vũ điệu, khúc nhạc, và bầu
khí linh thiêng, tuyệt vời như vậy.
Đặc điểm ở đây không phải là phần
trình diễn vì phụng vụ không phải là trình diễn nghệ thuật. Hơn
nữa, ở các xứ truyền giáo, giáo xứ không có nhiều người. Mỗi
giáo xứ trung bình đi lễ ngày Chúa Nhật có khoảng từ 70 đến 80
người và hầu hết là những cụ già và con nít, vì những người trẻ
thường lên đô thị hay những thành phố lớn để học hành hoặc làm
ăn. Chính vì thế, chúng tôi phải cố gắng tận dụng những gì chúng
tôi đang có và chúng tôi tận tâm làm việc. Chúng tôi làm với tất
cả tấm lòng, tất cả con tim để phục vụ Thiên Chúa và con người.
Không có người lớn, chúng tôi nhờ đến những trẻ thơ. Chính sự
hồn nhiên, ngây thơ thánh thiện, và vẻ đẹp đơn sơ của chúng có
thể đánh động được lòng người, có thể khiến những tâm hồn chai
đá cũng biết rung động để lòng mình chấp cánh bay cao và tiếp
cận với Thiên Chúa, và đó chính là ý nghĩa của phụng vụ.
Thánh lễ có được bầu khí tưng bừng
trọng thể cũng là nhờ sự góp phần của ca đoàn Lão Thành và phần
phụ họa của Ban Sáo do các em giáo lý Thiếu Nhi phụ trách. Đây
là một ca đoàn rất đặc biệt của giáo xứ chúng tôi. Nó được thành
lập bỡi “hội người già và hội quân binh Đức Mẹ,” gồm tất cả 25
người mà hầu hết giọng ca của họ là giọng khàn khàn và giọng
trầm thấp. May mắn, trong số họ còn có một vài cô giáo về hưu có
trình độ âm nhạc nên họ có thể điều khiển ca đoàn và phụ trách
mỗi bè. Tuy sức khoẻ đã về chiều, hơi thở ngắn, và giọng ca
khàn, nhưng ca đoàn vẫn hát rất hăng say, hát hết mình. Có những
lúc, bài hát cao quá, họ không thể lên nổi, họ tự động xuống
giọng, hoặc nếu thấp quá họ lại tự động lên giọng để hát được
thoải mái, và trong sự thoải mái đó họ đã dùng hết sức mình, hết
tinh thần, và cùng với sự dạt dào của con tim, họ đã hát tận lực
để mang lại cho người khác một bầu khí phấn khởi, tưng bừng, và
thánh thiện của ngày đại lễ. Chính nhờ tinh thần hăng say và con
tim sốt sắng đó, họ đã chuyền cho những người tham dự giòng điện
sốt nóng của họ, khiến mọi người đều cảm thấy sốt sắng và thánh
thiêng của những buổi phụng vụ. Và muốn được như vậy, họ cần
phải có sự chuẩn bị tinh thần. Chính sự chuẩn bị những yếu tố
tâm lý tinh thần, tuy đơn sơ nhưng cần được chuẩn bị đầy đủ,
đãkhiến tâm hồn họ dễ dàng chấp cánh bay cao và cảm thấy phấn
chí một khi đã vào cuộc.
Đối với chúng tôi, trong cuộc sống
liên hệ giữa người với người, cũng như trong tương quan giữa
người với Thiên Chúa, chúng tôi không chú trọng nhiều đến khả
năng hoặc lý trí, vì chúng tôi không có nhiều khả năng hoặc kiến
thức, nên chúng tôi chú trọng nhiều đến con tim, đến tình cảm
con người. Chúng tôi dùng con tim, chúng tôi dùng tâm tình để
phục vụ, và chúng tôi phục vụ tận tâm, chúng tôi phục vụ hết
mình. Nhờ thế, chúng tôi đã phuc vụ không biết mệt mỏi và không
một ai mở miệng than phiền. Những người được chúng tôi phục vụ
cũng nhìn thấy được tấm lòng của chúng tôi nên họ rất cảm động,
và vì thế rất nhiều người trong giáo xứ đã tham gia những sinh
hoạt hội đoàn của chúng tôi. Châm ngôn của chúng tôi là: “Hãy
sống cho nhau trọn vẹn ngày hôm nay, kẻo ngày mai không còn có
dịp nữa, chúng ta sẽ không phải hối hận.” Do đó, chúng tôi cố
gắng làm những gì có thể làm được để phục vụ cho nhau. Ai có sức
làm được bao nhiêu thì làm. Không làm được thì nghỉ ngơi. Trẻ
làm nhiều. Già làm ít. Mệt thì nghỉ. Mọi người cùng làm việc,
cùng phục vụ để mang lại niềm vui và hạnh phúc cho nhau. Và kết
quả là những gì chúng tôi gặt hái được, thật đáng ngạc nhiên,
không ai ngờ được như chúng ta sẽ thấy dưới đây:
Sau thánh lễ là phần Văn Nghệ
Giáng Sinh. Khác với những năm trước, phần trình diễn ngày xưa
chỉ có các bà và các em bé giáo lý phụ trách. Năm nay, phần
trình diễn văn nghệ Giáng Sinh có cả các cụ ông tham dự. Đây là
kết quả lâu dài mà chúng tôi đã thâu đạt được nhờ những mẫu
gương nhẫn nại, hy sinh lớn lao của các bà. Chính cuộc sống các
bà đã dần dần ảnh hưởng được tinh thần các ông. Nếu được thưởng
thức buổi trình diễn, nhiều người sẽ phải nghĩ rằng đây là một
“Giấc Mộng” chứ không phải “Thực Tại” vì không ai nghĩ ra rằng:
Có những cụ ông đã 92 tuổi đời, những cụ khác 88 tuổi, 85 tuổi,
hoặc 83 tuổi … đã sẵn sàng đi bộ đến nhà thờ một cách hân hoan
phấn khởi trong những buổi chiều đông để tập dợt cho buổi trình
diễn văn nghệ Giáng Sinh, và họ đã tham gia một cách rất thích
thú và tích cực như một góp phần để làm quà Giáng Sinh cho giáo
xứ và cho Chúa Hài Nhi. Màn trình diễn của họ đã được mọi người
tán thưởng, hoan hô nồng nhiệt với những tràng pháo tay liên tục
không ngớt, và họ cũng cảm thấy vui sướng, hảnh diện vì đã làm
được một cái gì cho giáo xứ và nêu gương cho những lớp đàn em
cũng như cho đàn con cháu của họ.
Để khích lệ họ, cũng như để họ giữ
mãi được tinh thần hăng say, cởi mở, và thân thiện đó, tất cả
mọi sinh hoạt của họ tôi đều tham dự. Tôi cùng vũ với họ, cùng
hát với họ. Đôi khi một mình tôi phụ trách một bè để bài hát
được thêm phần rộn ràng thích thú. Và mỗi năm vào dịp lễ Giáng
Sinh, vì tôi còn trẻ so với lứa tuổi của họ, nên những gì họ
không thể làm được tôi đứng ra lãnh trách nhiệm, chẳng hạn họ có
thể trang trí bên trong nhà nhờ và các cây thông giáng sinh, còn
lại 2 hang đá trong và ngoài nhà thờ, cũng như chưng bày những
đèn điện trên tháp cao, tôi và một người thợ nữa phụ trách. Và
chỉ trong vòng một tuần là cảnh trí mùa Giáng Sinh xuất hiện với
màu sắc và ánh đèn rực rỡ. Nhờ thế, mọi người đều cảm thấy một
cái gì hân hoan và phấn khởi mỗi độ Giáng sinh về.
Niềm vui của Mùa Giáng Sinh chưa
được trọn vẹn, những điều không may lại xảy đến. Trong khi ngồi
viết những giòng nầy, có mấy người chạy đến báo tin buồn cho tôi:
một cụ già trong giáo xứ chúng tôi vừa mới qua đời, lòng chúng
tôi cảm thấy nặng trĩu, trầm buồn vì giáo xứ ngày càng ít dần đi.
Số người già ra đi mỗi năm nhiều hơn số người đến và số con trẻ
được sinh ra. Nhưng rồi mọi người yên ủi nhau: “Sự ra đi của họ
là sự an bài của Thiên Chúa, nằm ngoài tầm tay chúng ta. Điều
quan trọng đối với chúng ta là làm sao trong giáo xứ cố gắng giữ
được mối thân tình, sự liên đới, tình đoàn kết, biết yêu thương,
và sẵn sàng nâng đỡ nhau trong mọi lúc.” Chính vì thế, những
thánh lễ an táng của giáo xứ, hầu hết mọi người đều đến để thăm
lại người bạn của họ lần cuối và để tiễn đưa họ đến nơi an nghỉ
cuối cùng, cũng như để an ủi gia đình họ trước đau khổ lớn lao
do sự mất mát người thân yêu của họ. Thánh lễ an táng thường
được cử hành rất trọng thể bỡi sự góp mặt của hầu hết mọi người
trong ca đoàn. Do đó, những người trong gia đình tang quyến đều
cảm thấy ấm lòng bỡi mối tình người mà giáo xứ đã dành riêng cho
gia đình họ.
Lễ Giáng sinh đã qua đi nhưng
những kỷ niệm đẹp và niềm vui của đêm thánh Giáng Sinh vẫn còn ở
mãi trong tâm trí chúng tôi. Ước gì “Tinh thần Giáng Thế để phục
vụ và Sống trọn vẹn cho nhau” của ngày Con Thiên Chúa Giáng Sinh
sẽ ở mãi trong giáo xứ và trong lòng mỗi người chúng tôi, để rồi
từ đây mỗi người chúng tôi sẽ được nếm hưởng những hương vị ngọt
ngào của tình đoàn kết, yêu thương, hy sinh, và phục vụ mà chúng
tôi đã dành cho nhau trong đêm lễ Giáng Sinh. Ước gì niềm vui
tràn đầy và thanh thoát đó sống mãi trong mỗi người chúng tôi,
để từ nay mỗi ngày sống của chúng tôi sẽ mãi là một ngày lễ
“Giáng Sinh Tuyệt Vời” trong quãng đường đời còn lại của chúng
tôi trên trần gian nầy.
Taiwan mùa lạnh giá ngày 4/1/
2010.
Lê văn Quảng |
VỀ MỤC LỤC |
|
TÁCH CÀ PHÊ BUỔI SÁNG |
Ít khi tôi
uống cà phê, nên những tách cà phê thỉnh thoảng uống vào đầu một
ngày rảnh rỗi thường vẫn làm cho tôi được hưởng trọn vẹn cái...
ngất ngây của nó.
Sáng sớm, trời hơi
lạnh, tự tay đun một ấm nước nóng, mở nắp lọ cà phê, lấy muỗng
xúc một ít chất bột đen nhánh cho vào trong cái tách sứ, rót
nước sôi vào, thế rồi pha thêm đường, thêm sữa, thêm cream tùy
theo ý thích. Ngần ấy động tác làm một cách tuần tự, chậm rãi,
ta sẽ có được một tách cà phê thơm ngát, và rồi ta thường thức
cái hương vị quyến rũ ấy, vừa bằng khứu giác vừa bằng vị giác,
tưởng đó cũng là một niềm hạnh phúc, tuy nhỏ nhoi nhưng cũng rất
đậm đà.
Cà phê, tác dụng
trước nhất của nó là làm cho người ta tỉnh táo. Đang cơn buồn
ngủ, hoặc là để đề phòng cơn buồn ngủ kéo đến, người ta uống cà
phê. Nhờ tác dụng của nó, người uống sẽ không còn buồn ngủ để
rồi có thể làm những công việc cần thiết trong ngày
Thế nhưng, thật sự
nếu cà phê chỉ có tác dụng giúp người ta tỉnh táo, mà nó không
có mùi vị và hương thơm quyến rũ, chắc hẳn cũng chẳng mấy ai
thích uống cà phê. Người ta sẽ tìm một phương thức khác để tìm
sự tỉnh táo, tránh cơn buồn ngủ. Sở dĩ người ta thích uống cà
phê, bởi vì ngoài tác dụng giúp tỉnh táo, cà phê còn có một
hương vị thơm ngon, quyến rũ đặc biệt.
Điều này khiến cho
tôi nhận ra rằng: nếu lòng ta là lòng thiện, nhưng bên ngoài ta
khó ưa - do diện mạo hay do cử chỉ, lời nói - chưa chắc lòng
thiện của ta đã được người khác chấp nhận. Muốn lấy cái đẹp cái
tốt trong lòng ta ra phục vụ mọi người, ta cũng cần có hành vi,
cử chỉ, lời nói bên ngoài gây được thiện cảm, để người khác chấp
nhận ta trước đã. Chính vì thế, tôi thấy thật chí lí, khi trong
phần "xướng kinh" của những ván kinh người Công giáo thường đọc,
có lời cầu xin Chúa Thánh Thần
"sửa lại mọi
sự trong ngoài chúng con." Không những chúng ta xin Chúa
sửa tâm tính bên trong của mình cho tốt đẹp mà còn xin Ngài sửa
đổi cả hành vi, cử chỉ, lời nói bên ngoài của mình nữa, để mình
trở nên một người dễ ưa, và nếu dễ thương thì càng tốt.
Ngày xưa, tính tôi
bướng bỉnh. Khi tôi đã có ý hướng tốt, tôi cứ thế mà thực hiện
cái ý hướng tốt ấy, chẳng cần cái cung cách, dáng vẻ bên ngoài
của tôi có được chấp nhận hay không. Tôi sống theo chủ trương "tôi
vậy đó, chịu
thì chịu, không chịu thì thôi".
Nhưng bây giờ, tôi cố gắng thay đổi cả con người bên ngoài của
tôi, để người khác ''chịu'' tôi. Người khác có "chịu'' tôi, tôi
mới có cơ hội đem cái ý hướng tốt của mình ra để phục vụ .
Hồi trước ở Việt
Nam, nhà tôi nằm trong một khu chợ. Các bà các cô bán quán trong
chợ cũng thích uống cà phê lắm. Trong chợ có một chú bé bán cà
phê dạo. Khi có một bà hay một cô nào gọi, chú rót cà phê ra li,
để li trên một cái đĩa rồi bưng lại cho khách. Các bà các cô này
có một cách uống cà phê rất lạ lùng: thay vì uống cà phê trong
li, các bà các cô đổ cà phê từ li ra đĩa, rồi húp cà phê trong
cái đĩa ấy. Sở dĩ các bà các cô uống cà phê kiểu đó, vì các bà
các cô rất vội, phải uống cho lẹ để còn bán hàng, tiếp khách. Cà
phê đổ ra đĩa, vì có một diện tích bốc hơi rộng nên mau nguội,
dễ uống nhanh.
Trước đây tôi cứ lấy
làm buồn cười cho cái cách uống cà phê lạ lùng đó, nhưng sau này
tôi tìm trong đó một bài học lất hay về cách xử thế: muốn được
người khác chấp nhận mau chóng, mình cần mở lòng, trải lòng mình
ra một cách đơn sơ và chân thực. Y như người ta có thể uống thật
nhanh cà phê nóng, bởi vì cà phê nóng ấy đã được đổ ra cái đĩa
cho mau nguội. Ngược lại, chất nước cà phê nóng, đựng trong một
cái li sâu, độ nóng được giữ thật lâu, người ta không uống vội
được. Mà giả như vì lí do nào đó cần uống vội, người ta sẽ phỏng
môi, phỏng lưỡi. Nếu tôi cất giấu mọi cái thật sâu kín trong
lòng tôi, người khác khó chấp nhận tôi. Nếu tôi khăng khăng giữ
lấy cái gì của riêng tôi, mà không chịu mở lòng, trải lòng ra,
tôi sẽ gây đau khổ cho người khác.
Kĩ nghệ sản xuất cà
phê bây giờ rất tân tiến. Có những loại cà phê phải pha chế thật
cầu kì, nhưng cũng có những loại cà phê ''instant'', cà phê pha
chế sẵn. Tùy theo nhu cầu và sở thích, có người chỉ chấp nhận
một thứ cà phê nào đó và
chê các thứ khác. Có người chỉ chịu
uống cà phê phin,
chờ từng giọt cà phê đen nhánh nhỏ xuống li cho đến khi có một
tách cà phê đủ lượng, Những người này chê cà phê ''instant'',
cho đó là thứ cà phê uống ''cho có uống'', cứ chẳng ngon lành
gì. Nhất là uống cà phê ''instant'' thì chẳng có chút thi vị,
chút nghệ thuật nào.
Ngược lại, có những
người chỉ uống cà phê ''instant''. Họ chủ trương rằng uống cho
nó nhanh rồi còn làm việc. Cà phê phin pha chế cầu kì, tốn thì
giờ vô ích.
Ở
một phương diện khác, có người chọn lấy một cách, một khung cảnh
uống cà phê. Có người chỉ uống cà phê ngoài quán. Ngồi với vài
người bạn, ngắm cô tiếp viên xinh xắn, nghe tiếng nhạc dập dìu,
lâu lâu nhấp một chút cà phê, thấy thật là thi vị. Có người khác
chỉ thích uống cà phê trong phòng khách sau bữa cơm; nếu trời
lạnh, đốt lò sưởi lên, ngồi bên lò sưởi với tách cà phê trên tay
mà trầm ngâm mộng tưởng, thật không còn gì thú hơn.
Tôi được cái rất dễ
tính trong việc uống cà phê. Cà phê phin ngon, mà cà phê
''instant'' cũng vẫn ngon. Uống cà phê ngoài quán cũng thú mà
uống cà phê trong phòng khách cũng thú không kém. Cà phê uống
buổi sáng cũng hay mà cà phê uống sau bữa cơm chiều cũng chẳng
dở. Có người cho cách uống cà phê như vậy là quá xuề xòa bình
dân, và như thế là chưa hưởng được trọn vẹn cái hương vị tuyệt
vời của cà phê. Tôi nghĩ khác, chính vì cách uống xuề xòa như
thế, tôi dễ dàng được hưởng cái thú vị do li cà phê đem lại, dù
li cà phê ấy là loại gì, được uống trong thời điểm và khung cảnh
nào.
Tôi lại nghĩ, giá mà
trong cách cư xử với tha nhân, tôi cũng dễ dãi như vậy, dễ dàng
chấp nhận mọi người, mọi cảnh như vậy thì hay biết bao nhiêu.
Người nhạy cảm, bộc trực là người thuộc loại ''instant'', họ
phản ứng ngay trước mọi hoàn cảnh, hoặc xúc động ngay trước một
biến cố. Người thâm trầm, kín đáo giống như cà phê phin, họ chậm
rãi, đôi khi tính toán, phản ứng chừng mực nhưng kiên trì. Do
bản tính hoặc do cảm tình cá nhân, tôi thường chấp nhận người
này mà không chấp nhận người khác, chỉ muốn giao thiệp với loại
người này mà không thích giao thiệp với loại người kia, chỉ chấp
nhận hoàn cảnh này mà không chấp nhận hoàn cảnh khác. Những
thành kiến ấy chính là những hàng rào cản do tôi tự dựng lên,
khiến tôi trở nên xa cách với người đồng loại.
Tách cà phê là một
hợp chất với nhiều thành phần. Trong đó có chất lỏng và đắng của
cà phê, có chất ngọt của đường hay sữa, có chất béo của cream.
Tách cà phê, phải chăng là biểu tượng cho cuộc đời một người?
Trong cuộc đời ấy có những đắng cay đau khổ, có hương vị ngọt
ngào hạnh phúc, có những biến cố xảy ra làm cho cuộc đời thêm
phong phú. Giống như tách cà phê, mà trong đó chất đắng, chất
ngọt, chất béo hòa quyện với nhau; cuộc đời người ta cũng thế,
cay đắng thương đau hòa hợp với niềm vui và hạnh phúc. Nếu người
ta không uống xong một ngụm cà phê rồi cầm cục đường mà gặm, sau
đó nuốt thêm một muỗng cream, thì người ta cũng không thể đòi
hỏi mọi sự kiện, mọi hương vị cuộc đời phải tách biệt ra rành
mạch. Trong hạnh phúc có khổ đau, trong đắng cay có ngọt ngào,
trong đau đớn có ủi an. Khổ đau và hạnh phúc hòa hợp với nhau
mới tạo thành cuộc đời thực. Ân cần và phũ phàng là hai mặt phải
trái không thể tách rời của thái độ cuộc đời đối với tôi. Chấp
nhận cuộc đời là tôi chấp nhận mọi khía cạnh, mọi trạng huống,
mọi mùi vị của cuộc đời cùng một lúc.
Có những hôm ngồi
thưởng thức tách cà phê mà tôi mường tượng như được nhìn thấy
lại cái đồn điền cà phê của người bạn ở Ban Mê Thuật dạo nào.
Vào mùa hoa nở, hương hoa cà phê thơm ngát tỏa ra từ nhụy và
những cánh hoa cà phê trắng muốt, làm cho hành khách ngồi trên
những chuyến xe đò chạy ngang đồn điền ngây ngất. Ít lâu sau,
hoa cà phê kết quả, thành những trái cà phê chín đỏ. Rồi đến một
ngày nào đó, hạt cà phê được lấy về. Người ta rang cà phê trong
chảo nóng. Thế rồi cà phê còn phải được tán nhuyễn, mới có thể
trở thành một chất bột kì diệu đem ra pha thành cà phê thơm
ngon.
Tôi trộm nghĩ: để có
thể trở thành một con người phục vụ tha nhân, tôi cũng phải chịu
trải qua một tiến trình như thế. Tôi phải kiên nhẫn để được cải
biến từ giai đoạn này sang giai đoạn khác. Phải dám can đảm, dám
hi sinh để chấp nhận thảy lên lò lửa nóng, bị tán ra thành bột,
phải đánh mất chính hình thể nguyên thủy của mình; y như hoa cà
phê phát triển thành quả, hạt của quả được hái về, được rang
trong chảo nóng rồi được tán ra thành bột vậy.
Hôm qua bạn tôi lại
chơi, tặng tôi một gói cà phê, ân cần trao tận tay tôi và nói
rằng: ''Cà phê chính gốc Ban Mê Thuật đấy! Uống vào, bạn sẽ thấy
như được trở về với khung cảnh đồi núi cao nguyên của đất nước
Việt Nam ngày trước. ''
Tôi cảm động về mối
chân tình của bạn. Tuy nhiên trong thâm tâm, tôi muốn nói với
bạn rằng: ''Chẳng cần uống tách cà phê chính gốc Ban Mê Thuật,
tôi mới thấy như được trở về với vùng đồi cao nguyên Việt Nam.
Tôi ở xứ người đã ngót hai mươi năm, vậy mà lúc nào hình ảnh quê
hương cũng vẫn đậm nét trong trí và trong tim tôi. Bởi vì bạn ạ,
tôi yêu quê hương của tôi lắm.''
Bạn về , tôi vẫn còn
trầm ngâm suy nghĩ về câu nói âm thầm không thốt ra khỏi miệng
ấy. Tôi trầm ngâm suy nghĩ, bởi vì tôi liên tưởng đến một khía
cạnh khác của đời sống tôi: khía cạnh tâm linh. Tại sao trong
tôi hình ảnh Thiên Chúa vẫn còn mờ nhạt? Chung qui chẳng qua
cũng chỉ vì tôi yêu Ngài chưa đủ . Nếu tôi yêu Ngài, ít nhất
cũng chỉ bằng tôi yêu đất nước quê hương tôi, thì hình ảnh Ngài
đã đậm nét trong tôi lắm. Tôi thở dài nhè nhẹ . Hình như có một
nỗi buồn, mỏng manh nhưng kín và sâu
Tách cà phê chính
gốc Ban Mê Thuột! Giá mà mỗi khi uống một tách cà phê này, tôi
lại tự nhắc tôi làm đậm đà thêm mối tình giữa tôi và Thiên Chúa!
Nếu được như thế, tách cà phê ấy trở nên ích lợi và ý nghĩa cho
tôi biết bao!
Nhà Văn Quyên Di |
VỀ MỤC LỤC |
|
DƯỢC THẢO
|
Dược Thảo đã giữ
vai trò quan trọng trong việc bảo vệ sức khỏe con người từ nhiều
ngàn năm, khi mà y học tây phương chưa xuất hiện. Dược thảo dùng
cây thuốc để phòng bệnh và chữa bệnh.
Theo cơ quan Y tế
Thế giới, một sản phẩm được coi là dược thảo khi thành phần
chính gồm một bộ phận của thảo mộc nằm trên không hay dưới đất,
trong hình dạng nguyên thủy hay sau khi được chế biến. Khi có
pha lẫn hoá hay khoáng chất thì sản phẩm đó không còn là dược
thảo nữa.
Cũng theo cơ quan
này, hiện nay có tới 80% dân chúng trên thế giới dùng dược thảo.
Kỹ nghệ chế biến dược thảo, bốc thuốc rất phát triển, thịnh
vượng, thu vào nhiều chục tỷ mỹ kim.
Riêng tại Hoa Kỳ,
vào năm 1998, dân chúng Hoa Kỳ tiêu hơn 4 tỷ mỹ kim để mua các
lọai dược thảo. Từ năm 1990 tới 1997, số người dùng dược thảo
tăng 380%, số người đi khám bác sĩ giảm, mà số người đi khám
bệnh thầy thuốc không chính thống lại tăng.
Dược thảo được bầy
bán khắp nơi, ngay cả trong tiệm chuyên bán âu dược. Những môn
thuốc cuả Mẹ Thiên Nhiên như lá, củ, rễ, vỏ, hoa đã mau chóng
trở nên phương tiện trị liệu ưa thích của người dân. Họ mua để
chữa các bệnh như cảm cúm, đau nhức, tiểu đường, tới bệnh trầm
trọng hơn như ung thư các loại, tê liệt tứ chi.
Với cơ quan Thực
phẩm và Dược phẩm Hoa kỳ ( FDA ) thì dược thảo được xếp hạng
thực phẩm phụ, như đã quy định trong
Dietary Supplement Health and
Education Act năm 1994. Dược
thảo được bầy bán không cần thử
nghiệm, nghiên cứu như âu dược, mặc dù dược thảo có tính cách
trị bệnh và cũng có tác dụng phụ. Dược thảo không được quảng cáo
là có công dụng trị bệnh mà chỉ được nói chung chung về ích lợi
của sản phẩm, thí dụ thuốc làm lợi tiểu tiện, bổ gan, tăng cường
miễn nhiễm...
Khi thuốc bị coi là
không an toàn thì cơ quan này sẽ không cho bầy bán.
Đa số dược thảo
hiện có trên thị trường đều được sản xuất theo kinh nghiệm đã
dùng hay dựa vào những bài thuốc được lưu truyền trong giòng họ
và được coi như đáng tin cậy. Vì dược thảo không được cơ quan
FDA cấp bằng đặc quyền chế tạo, nên các nhà sản xuất không chịu
bỏ vốn cho chi phí nghiên cứu khoa học như âu dược. Ngoài ra còn
các vị lương y cổ truyền tiếp tục chẩn mạch, bốc thuốc phục vụ
bệnh nhân.
Để đáp ứng nhu cầu,
đòi hỏi cuả dân chúng, chính quyền các quốc gia cũng bắt đầu lưu
ý, dành ngân khoản, lập cơ quan nghiên cứu công dụng và an toàn
cuả dược thảo.
Gần đây, viện
National Institutes of Health, Hoa Kỳ, đã thành lập một trung
tâm nghiên cứu về dược thảo cũng như các phương tiện trị liệu
không chính thống, và đã dành nhiều ngân khoản cho việc nghiên
cứu này. Đó là do áp lực cuả người tiêu thụ dược thảo mồi ngày
một tăng, vì nhiều lý do như:
- âu dược quá đắt,
đôi khi không công hiệu, mà lại có nhiều tác dụng độc hại, không
muốn;
- dân chúng thích
dược thảo có nguồn gốc trực tiếp từ cây cỏ hơn là âu dược hóa
chất;
- bất bình với nhóm
tài phiệt bao thầu quản trị y tế giới hạn việc sử dụng tây y để
kiếm nhiều lợi nhuận.
Năm 2008, Cơ quan Y
tế Thế giới cũng lập một ủy ban để phối hợp với các quốc gia ngõ
hầu hệ thống hóa và hữu hiệu hóa môn trị bệnh cổ truyền giá trị
này.
Một vài đặc điểm về dược thảo.
Trước khi dùng dược
thảo để trị bệnh, tưởng cũng nên tìm hiểu một vài dữ kiện về
loại thuốc này:
1- Sự an toàn của dược thảo.
Ý kiến chung coi
dược thảo an toàn hơn âu dược, ít gây chứng bệnh phụ và rất ít
khi gây tai nạn tử vong.
Tuy nhiên dược thảo
vẫn là một loại thuốc, khi dùng ta cần cẩn thận, không nên nghĩ
vì nó là cây thiên nhiên thì không có hại.
Cam thảo ( licorice
) là một trong những thuốc cây cỏ dùng nhiều nhất trên khắp thế
giới để chữa bệnh lở bao tử, ho, suyễn, nhưng nếu dùng lâu ngày,
có thể gây cao huyết áp, nhức đầu, mệt mỏi. Khi mới dùng lần
đầu, nên dùng với phân lượng nhỏ rồi tăng dần cho tới liều chỉ
dẫn bởi nhà sản xuất.
Một thí dụ khác là
cà phê, một loại họ thảo ta dùng mỗi buổi sáng để nâng cao tinh
thần. Nếu uống hai ly mỗi sáng thì có tác dụng tốt như ý muốn,
năm ly là có nhức đầu, nóng nẩy, 15 ly thì bắt đầu thấy ù tai,
chóng mặt.
Dược thảo bán trên
thị trường không được thử nghiệm về sự tinh khiết và hiệu
nghiệm, nên đôi khi có lẫn chất không cần như phấn hoa, phấn lá
có thể gây dị ứng hoặc cây thuốc đã bị hư mục.
2- Công hiệu của
dược thảo.
Các nhà sản xuất
cũng như hơn 4 tỉ người đang dùng dược thảo đều cho là cây thuốc
công hiệu trong việc trị bệnh và ngừa bệnh. Đã có nhiều nghiên
cứu khoa học hỗ trợ ý kiến này.
Có điều là tác dụng
của dược thảo thường từ từ, nhẹ nhàng, cần thời gian lâu để có
hiệu quả, do đó tốt trong việc phòng bệnh.
Dược thảo, với
nhiều chất thuốc khác nhau, có tác dụng vào nhiều bộ phận cơ thể
hơn là âu dược, với một dược chất có tác dụng tập trung vào một
số dấu hiệu triệu chứng hoặc một bệnh .
Dược thảo thường
không đủ mạnh để trị cấp cứu, nhất là các bệnh do vi khuẩn gây
ra, do đó kháng sinh vẫn là thuốc căn bản.
3- Dược thảo không gây ghiền.
Thường thường cây
thuốc gây ghiền như cây á phiện, cần sa... không được phép bán
công khai tại tiệm thuốc âu dược hay tiệm thuốc thiên nhiên.
Ngoài ra dược thảo
không có kích thích tố hay chất chống viêm steroid, nhưng một
vài dược thảo có tác dụng hỗ trợ sự sản xuất các chất này trong
cơ thể.
4- Nguồn gốc dược thảo.
Theo các nhà sản
xuất, thì dược thảo đều do cây cỏ được trồng trong môi trường có
kiểm soát, đôi khi không dùng hoá chất diệt sâu bọ, cỏ dại hoặc
phân bón nên phẩm chất tốt, thiên nhiên. Nhiều khi cây mọc
hoang cũng được dùng để chế thành thuốc.
5- Chọn lựa dược thảo
Như đã nói ở trên,
nhà sản xuất không cần chứng minh sự an toàn và công hiệu của
dược thảo khi tung ra thị trường, mà chỉ khi nào có chuyện xẩy
ra thì thuốc đó mới bị bỏ đi.
Tiêu chuẩn bào chế
của mỗi nhà sản xuất đều khác nhau, nên tỷ lệ dược liệu đều thay
đổi. Tỷ lệ này cũng thay đổi tuỳ theo cây cỏ được trồng ở địa dư
nào, được hái vào mùa nào, được tồn trữ ra sao và phần nào ( rễ,
thân hay lá ) của cây được xử dụng để chế thuốc.
Những điều này gây
khó khăn không ít cho người tiêu thụ khi mua thuốc. Vì thế các
nhà sản xuất đã tổ hợp với nhau để thống nhất bào chế.
Khi mua, nên lựa
sản phẩm do sự liên kết với các công ty ở Âu châu, vì thường
thường họ có cơ sở nghiên cứu đầy đủ về phân lượng, tinh khiết
và công hiệu.
Cũng nên lựa sản
phẩm cũng có nhãn hiệu với chỉ dẫn cách dùng, tác dụng phụ, loại
cây cỏ, ngày hết hạn.
Những điều cần
lưu ý khi dùng dược thảo
Tại Hoa Kỳ, Tây y
được xây dựng trên căn bản sinh hóa học hiện đại. Cơ quan Thực
Phẩm và Dược Phẩm, với nhiệm vụ điều hợp thực dược phẩm, bảo vệ
sức khoẻ con người, thường nhìn dược thảo với con mắt dè dặt,
nghiêm khắc. Họ cho là dược thảo không có công dụng trị liệu và
nguy hiểm.
Một luật gia than
phiền là hiện giờ có hai chế độ dược phẩm: một chế độ muốn được
bầy bán phải chứng minh có công hiệu trị liệu và tuân theo luật
lệ; chế độ kia được bán tự do, không cần kê khai giá trị.
Bác sĩ Marcia
Angel, Chủ bút tập san Y học uy tín New England Journal of
Medecine khẩn khoản kêu nài dân chúng đừng tự chữa bệnh, dùng
dược thảo vì thuốc có nhiều thành phần không khai báo được pha
thêm vào như chì, thạch tín, rất nguy hiểm.
Còn giáo sư dược
khoa nổi danh Varro Tyler cho là sự nghiên cứu về dược thảo của
các quốc gia Âu Châu rất đáng tin cậy, tuy nhiên, độc tính dài
hạn của thuốc cần được theo dõi, tác dụng phụ có hại thường được
che dấu, giảm thiểu.
Dù vậy, dược thảo
vẫn được người dân tiêu thụ, vì niềm tin có bệnh thì vái tứ
phương, vì có ngay khi cần, không phải mất công lấy hẹn, ngồi
chờ bác sĩ, cũng như khi gặp trọng bệnh mà Tây Y bó tay. Tuy
nhiên cũng nên lưu ý mấy điều để tránh chuyện chẳng lành:
1- Thông báo cho bác sĩ nếu
đang dùng dược thảo để tránh tác dụng không tốt giữa âu dược và
thuốc cỏ cây. Không dùng ginkgo biloba (bạch quả ) với thuốc trị
đau nhức Aspirin, thuốc ngừa tai biến não Ticlid, Persantine; âu
dược trị trầm cảm với St John Wort...
2- Không dùng dược thảo khi
mang thai, nuôi con bằng sữa mẹ, không cho con nhỏ dùng dược
thảo vì ở trẻ em và thai nhi, gan chưa đủ sức vô hiệu hóa độc
chất cuả dược thảo. Xin đan cử một thí dụ: khi uống một ly cà
phê, người lớn chỉ cần 5 giờ để loại khỏi cơ thể mà con nít cần
đến cả 80 giờ.
3- Tuy dược thảo có nguồn
gốc thiên nhiên nhưng không thiên nhiên với cơ thể con người.
Cho nên thuốc có thể gây bất lợi khi dùng, nhất là vì thiếu
kiểm soát nên thành phần không thống nhất, phẩm chất không tinh
khiết, đôi khi pha lẫn chất có hại cho cơ thể.
4- Không nên dùng dược thảo
quá dăm tuần lễ vì an toàn dùng dài hạn chưa được chứng minh,
cũng như không dùng quá nhiều vì nguy cơ gây độc cho gan và thận.
Cũng không nên dùng nhiều dược thảo khác nhau một lúc vì tác
dụng tương phản của thuốc.
5- Dược thảo cũng có tác
dụng phụ như bạch quả gây xuất huyết; mã hoàng (ephedra ) gây
tăng huyết áp, nhức đầu, rối loạn nhịp tim; St John wort làm
chóng mặt, mệt mỏi khô miệng , mất định hướng...
Và cuối cùng là
không nên quá tin tưởng ở lời quảng cáo, giới thiệu của nhà sản
xuất vì những lời này không được cơ quan trách nhiệm xác định
giá trị, đồng thời cũng nên tìm hiểu về đặc tính trị liệu của
loại dược thảo đang dùng.
Bác sĩ Nguyễn Ý-ĐỨC M.D.
Texas-Hoa Kỳ
|
VỀ MỤC LỤC |
KIÊN NHẪN -
Chuyện phiếm của Gã Siêu |
Lâu lắm rồi hôm nay gã mới có dịp lên Đàlạt,
thăm lại thành phố cũ. Mặc dù thời gian rất hạn hẹp, gã vẫn cố
gắng ghé vào mái trường xưa, đi trên những con dốc đã từng mang
nhiều dấu ấn kỷ niệm.
Hồi đó, gã có một cái thú không giống ai,
đó là ăn vịt lộn trong khi dạo quanh bờ hồ.
Chiều xuống, gã cùng với một tên bạn vào
một quán cóc ở bên hông nhà thờ Con Gà, mỗi đứa mua bốn trái vịt
lộn nóng hổi, vì mới được vớt từ trong nồi ra. Bốn trái vịt lộn
ấy nằm gọn trong hai túi áo, tỏa ra hơi nóng, đủ sưởi ấm trước
những cơn gió lạnh.
Băng qua đường Yersin và đi xuống con dốc
của khách sạn Palace, hai đứa bắt đầu ăn vịt lộn. Cầm trái trứng
trong tay, đập lên đầu cho vỡ, khẽ bóc vỏ, húp nước trong trái
trứng trước, rắc vào một chút muối tiều, rồi mới ăn trứng sau.
Thỉnh thoảng lại điểm thêm đôi ba lá rau răm. Thật là tuyệt vời!
Từ nhà Thủy Tạ, qua cầu Ông Đạo, vòng bờ hồ,
lên con dốc đồi Cù, về tới nhà thì vừa hết bốn trái trứng vịt
lộn.
Chiều nay, từ vườn Bích Câu, mà hiện giờ
người ta gọi là Vườn hoa Thành phố, gã đi bộ về khu Hòa Bình.
Bất chợt gã nhìn thấy một ông già đang ngồi câu cá. Hình ảnh này
khiến gã nhớ tới Khương Tử Nha bên Tàu.
Ông là một danh tướng đời nhà Châu, tên chữ
là Lữ Vọng. Thuở còn cơ hàn, bị vợ bỏ đi lấy chồng khác, nên
ngày ngày ông bèn ngồi câu cá bên sông Vị. Mãi tới năm tám mươi
tuổi, ông mới được vua Văn Vương nhà Châu rước về làm Tướng
Quốc.
Tử Nha điều binh khiển tướng diệt vua Trụ.
Nhờ công gầy dựng của ông, mà cơ nghiệp của nhà Châu, tồn tại
được hơn tám trăm năm.
Vì thế, trong bài “Kẻ Sĩ”, Nguyễn Công Trứ
mới viết :
- Lúc vị ngộ hối tàng nơi bồng tất,
Hiêu hiêu nhiên điếu Vị canh Sằn.
Nhiều lần gã đã nhìn thấy những người ngồi
câu cá bên bờ hồ. Già có và trẻ cũng có. Nhưng chưa bao giờ gã
thấy một con cá nào đến ăn mồi.
Vừa đi, gã vừa thầm nghĩ :
- Không hiểu trong một ngày, họ câu được
mấy con cá. Chi bằng mắc mồi “bác Hồ”, ra chợ mà câu cho chắc ăn.
Thứ nào cũng có : to hay nhỏ. Và loại nào cũng có : rô hay lóc.
Tuy nhiên, nghĩ đi thì cũng phải nghĩ lại,
biết đâu câu cá chỉ là để giải trí, việc chính yếu là họ đang
chờ thời như Khương Tử Nha ngày xưa, hay ít nữa là họ đang tập
cho mình bài học kiên nhẫn.
Chính vì thế, gã xin bàn về đức kiên nhẫn
trong lãnh vực nghề nghiệp và trong lãnh vực tình yêu.
Trước hết là trong lãnh
vực nghề nghiệp
Kiên nhẫn là bền lòng chịu đựng và theo
đuổi.
Đây cũng chính là điều kiện cần thiết để
gặt hái những thành công trên đường đời, nhất là trong phạm vi
nghề nghiệp.
Thực vậy, tìm hiểu về những thiên tài trong
mọi lãnh vực, từ âm nhạc và hội họa đến văn chương và kiến trúc,
gã nhận thấy cái vốn trời ban cho, hay nói cách khác, cái khả
năng thiên phú chỉ có một phần, còn chín phần khác là do kiên
nhẫn trau dồi, kiên nhẫn tập luyện, kiên nhẫn học hỏi…cuối cùng
mới trình làng được những tác phẩm để đời, không bị mai một với
thời gian.
Chính vì thế, người xưa đã từng nói :
- Thành Rôma không phải được dựng lên trong
một ngày…và Hercule không phải được sinh ra trong một đêm.
Còn nếu tìm hiểu về những khuôn mặt tài
phiệt, những khuôn mặt tỷ phú quốc tế, gã nhận thấy họ không
phải là những người được thừa hưởng một gia tài kếch xù, hay lúc
nào cũng thành công rực rỡ.
Trái lại, rất nhiều người đã xuất thân từ
cảnh nghèo hèn cùng khốn, rất nhiều người đã gặp phải những thất
bại đắng cay. Họ cũng đã phải cam chịu cảnh xất bất xang bang,
ba chìm bảy nổi và chín cái lênh đênh, để rồi sau cùng thành
công mới mỉm cười với họ.
Chiếc chìa khóa mở ra cánh cửa cho thiên
tài và con đường dẫn tới thành công chính cho sự nghiệp chính là
sự kiên nhẫn.
Sự kiên nhẫn ở đây được hiểu như thái độ
bền lòng chịu đựng, không nản chí khi thất bại, nhu ca dao đã
diễn tả :
- Hãy cho bền chí câu cua,
Dầu ai câu trạch, câu rùa mặc ai.
- Chớ thấy sóng cả mà lo,
Sóng cả mặc sóng, chèo cho có chừng.
Ngoài thái độ không thất vọng nản chí, sự
kiên nhẫn còn được hiểu như thái độ bền lòng theo đuổi cho đến
cùng, như tục ngữ cũng đã xác quyết :
- Có công mài sắt, có ngày nên kim.
Tamerlan là một vị tướng đánh đâu thua đấy.
Đánh lớn thua lớn, đánh nhỏ thua nhỏ và càng đánh lại càng thua.
Trong một phiên họp với các sĩ quan chỉ huy để rút ưu khuyết
điểm, ông lơ đãng nhìn ra ngoài và thấy một con kiến đang bò lên
đỉnh lều. Bò lên gần tới nơi thì bị tụt xuống, bị tụt xuống rồi
lại cố bò lên. Cứ thế, cứ thế đến lần thứ năm con kiến mới tới
được đỉnh lều.
Như “ngộ” ra sự thật, ông tuyên bố với các
sĩ quan chỉ huy :
- Đánh, đánh mãi cho tới lúc nào thắng mới
thôi.
Và rồi cuối cùng đoàn quân của ông đã chiến
thắng vinh quang.
Cũng trong chiều hướng ấy, người Tàu thì
bảo :
- Thiên hạ vô nan sự, hữu chí giả cánh
thành. Thiên hạ không việc gì là khó, có chí thì làm xong.
Còn người Tây thì bảo :
- Hãy tự cứu lấy mình rồi trời sẽ
cứu…Thượng đế luôn ở bên cạnh những người kiên nhẫn.
Và như vậy, người kiên nhẫn không sớm thì
muộn cũng sẽ gặt hái được những thành công rực rỡ, bởi vì :
- Năng nhặt thì chặt bị.
- Kiến tha lâu cũng đầy tổ.
- Không phải sức mạnh, mà là sự kiên nhẫn
đã làm nên những công trình to lớn.
Sách “Cổ Học Tinh Hoa” kể lại như sau :
Nước Trịnh có người học nghề làm dù che
mưa, ba năm mới thành nghề. Trời đại hán, không ai dùng đến dù,
anh ta bèn bỏ nghề làm dù, đi học nghề làm gầu tát nước.
Lại học ba năm mới thành nghề làm gầu, thì
trời mưa luôn mãi, không ai dùng đến gầu. Bấy giờ anh ta lại
quay về nghề làm dù như trước.
Không bao lâu, trong nước có giặc, dân gian
nhiều người phải đi lính, mặc đồ nhung phục, không cần đến dù,
anh ta xoay ra nghề đúc binh khí thì đã già quách mất rồi.
Úc Tử Ly thấy anh, thương tình nên nói rằng
:
- Than ôi ! Bác chẳng đã già đời mất rồi ư
! Già hay trẻ không phải là tự người, mà là tự trời, điều ấy cố
nhiên. Nhưng nghề nghiệp thành hay bại, dù lỡ thời không gặp dịp,
cũng không nên đổ cả cho trời, tất có mình ở trong.
Ngày xưa nước Việt có một người làm ruộng,
cấy lúa chiêm ba năm đều hại vì lụt cả. Có kẻ bảo anh ta nên
tháo nước mà cấy lúa mùa. Anh ta không nghe, cứ cấy lúa chiêm
như trước. Năm ấy nắng to, mà nắng luôn ba năm, vụ chiêm nào
cũng trúng, thành ra anh ta kéo lại hòa cả mấy năm mất mùa trước.
Cho nên có câu rằng : Trời đại hạn, nghĩ đến sắm thuyền; Trời
nồng nực, nghĩ đến sắm áo bông. Đó là một câu thiên hạ nói rất
phải.
Tác giả còn thêm một lời bàn như sau :
- Người có gan, (người kiên trì), dù cho lỡ
thời cũng cứ vững dạ mà giữ lấy nghề. Vì nghề chắc đã thành, thì
tất cũng có chốn dụng, chẳng chóng thì chầy, chẳng nhiều thì ít.
Chớ cứ nay làm nghề này, mai xoay nghề khác, như hòn đá lăn mãi
không bao giờ mọc rêu, thì chỉ nhọc xác, già người mà vẫn không
ăn thua gì cả.
Tiếp đến là trong lãnh
vực tình yêu
Đang ngồi ngáp vặt vì buồn ngủ, bàn tay lơ
đãng mở cuốn sách trên bàn, bỗng mắt gã sáng lên vì một câu viết
được gã liệt vào hàng…”ranh ngôn”.
Câu viết ấy như thế này :
- Không gì làm vinh dự cho chị đờn bà cho
bằng sự kiên nhẫn của anh đờn ông.
Câu “ranh ngôn” này thật hợp với chủ đề,
khiến cho gã đã phải bận tâm suy gẫm. Và càng suy gẫm, gã lại
càng khám phá ra cái thân phận não nùng và bi đát của anh đờn
ông hôm nay.
Thực vậy, trong tình yêu anh đờn ông ngày
xưa chỉ cần kiên nhẫn một, thì anh đờn ông hôm nay phải kiên
nhẫn gấp mười lần. Phải kiên nhẫn từ khi được làm người yêu và
nhất là phải kiên nhẫn khi đã mang nhãn hiệu làm chồng, một nhãn
hiệu được trình tòa và được tòa chứng thực hẳn hoi.
Trong giai đoạn làm
người yêu, anh đờn ông phải biết kiên nhẫn.
Bước thứ nhất : Để được quen biết và khả dĩ
có thể đá lông nheo với cô nàng, anh đờn ông phải kiên nhẫn.
Một tên bạn đã kể cho gã câu chuyện tình
của gã với cô nàng bán thuốc lá ở đầu một con hẻm như sau :
Thấy cô nàng xinh xinh và lại ăn nói có
duyên, vi thế mình quyết định phải “cưa đổ” cô nàng cho bằng
được. Chiến thuật cưa của mình là kiên nhẫn.
Ngày thứ nhất, mình đến mua một điếu thuốc
lá lẻ và đưa cho cô nàng tờ năm trăm ngàn mới cáu cạnh. Cô nàng
tỏ ra bực bội, lục hết mọi ngăn, mọi xó để tìm tiền thối lại cho
mình.
Ngày thứ hai, mình cũng đến mua một điếu
thuốc lá lẻ và cũng trả cho cô nàng tờ năm trăm ngàn còn thơm
phưng phức. Cô nàng còn tỏ ra tức tối hơn nữa, thiếu điều muốn
gắt lên với mình.
Ngày thứ ba, mình cũng đến mua một điếu
thuốc lá lẻ và cũng trao cho cô nàng tờ năm trăm ngàn phẳng phiu
chưa bị gấp nếp. Lần này thì cô nàng im lặng, nhìn mình bằng cặp
mắt công an hình sự, nhưng vẻ bực bội tức tối đã giảm đi rất
nhiều.
Ngày thứ tư mình cũng đến mua một điếu
thuốc lá lẻ và đang định đặt tờ giấy năm trăm ngàn xuống quầy,
thì cô nàng đã nhoẻn miệng cười và nói :
- Ơ, cái anh năm trăm ngàn này !
Và thế là cá đã cắn câu. Cô nàng đã chịu
đèn. Mình đã cưa đứt được cô nàng với những điếu thuốc lá lẻ và
những tờ giấy bạc mới, mệnh giá năm trăm ngàn, được bà hàng xóm
thương tình đổi cho. Bây giờ, cô nàng đã là bà xã nhà mình rồi
đó.
Và hắn kết luận :
- Nước chảy thì đá cũng phải mòn kia mà.
Cho dù cô nàng có trái tim bằng đá thì cũng sẽ mềm nhũn như con
chi chi. Cho dù cô nàng có trái tim băng giá mùa đông, thì cũng
sẽ trở thành nóng ấm mùa hè. Tuy nhiên, điều khó là mình có đủ
kiên nhẫn hay không mà thôi.
Nhiều khi “mặt trong như đã, nhưng ngoài
còn e”, khiến cho cô nàng cứ dãy lên đành đạch và lắc đầu quầy
quậy :
- Em chả, em chả….
Trong trường hợp này, anh đờn ông lại càng
phải kiên trì và gan lì hơn nữa. Bằng không, nếu thất vọng nản
chí và bỏ cuộc, thì quả là công cốc :
- Dạ tràng xe cát biển Đông,
Nhọc nhằn mà chẳng nên công cán gì.
Bước thứ hai : Để được lọt vào gia đình cô
nàng và làm quen với ông già bà già… Anh đờn ông cũng phải kiên
nhẫn.
Chẳng hạn phải thường xuyên thăm viếng và
giúp đỡ những công việc lặt vặt. Thậm chí ở nông thôn, gã thấy
có những anh đờn ông khi mùa gặt trở về, chẳng chịu làm công
việc ở nhà mình, nhưng lại rất siêng năng làm mọi công việc nặng
nhọc ở nhà…người ta.
Đúng là :
- Ăn cơm nhà vác tù và đàng gái.
Ngoài ra, lại còn phải kiên nhẫn tỏ ra mình
là người tử tế. Có thèm rượu mấy đi nữa, thì khi được mời, cũng
vẫn ấp a ấp úng :
- Dạ, cháu không biết uống.
Bước thứ ba : Để có được một cái hẹn riêng
tư với cô nàng, anh đờn ông cũng phải kiên nhẫn.
Kiên nhẫn trong việc xin phép với ông già
bà già của cô nàng và nhất là kiên nhẫn trong việc chờ đợi.
Thực vậy, việc trễ hẹn chỉ là việc thường
ngày ở huyện. Chẳng có cô “người yêu bé bỏng” nào mà không trễ
hẹn ít nữa là một lần, bởi vì theo quan niệm của họ, sự trễ hẹn
này làm tăng thêm giá trị cho bản thân và làm cho đối phương
phải day dứt, như ngồi trên đống lửa hay như bị kiến bống đốt
cho.
Chính vì thế, một ông thi sĩ nào đó đã diễn
tả đại khái sự trễ hẹn như sau :
- Em cứ hẹn, nhưng em đừng đến nhé,
Để lòng sầu, anh dạo gót quanh sân.
Ngó trên tay, thuốc lá cháy lui dần,
Anh sẽ bảo : Gớm sao mà nhớ thế!
Chỉ ông thi sĩ mới thi vị hóa sự trễ hẹn
như thế, chứ còn gã mà ở vào tình trạng này, thì chỉ thêm bực
bội và tức tối mà thôi, thiếu điều muốn đá vào cây cổ thụ bên
đường mấy phát cho hạ hỏa :
- Này thì hứa với hẹn…
Vì thiếu kiên nhẫn, nên nhiều anh đờn ông,
dù trên đầu muối đã nhiều hơn tiêu, vẫn cứ phải cam chịu cảnh cô
đơn và miễn cưỡng tham gia binh chủng…phòng không.
Một thằng bạn vừa đến khoe với gã :
- Hôm rồi, tớ trễ hẹn với cô nàng những nửa
tiếng đồng hồ.
Gã hỏi lại :
- Thế cô nàng của cậu có tỏ vẻ hờn dỗi, hay
lườm nguýt gì không ?
Hắn trả lời :
- Không, bởi vì cô này còn đến điểm hẹn
sau tớ những một tiếng đồng hồ.
Trong giai đoạn làm
chồng, anh đờn ông lại càng phải kiên nhẫn hơn nữa.
Cuộc sống càng văn minh, thì lại càng phát
sinh ra nhiều nhu cầu cần thiết. Và để thỏa mãn những nhu cầu
cần thiết này, anh chồng lại càng phải kiên nhẫn, nếu muốn cho
gia đình mình được trong ấm ngoài êm và được phong làm…gia đình
kiểu mẫu, gia đình văn hóa!
Tác giả Đào Quang Bắc, trong một bài viết
ngăn ngắn trên báo Phụ Nữ Chủ Nhật, số 28 ra ngày 22 tháng 7 năm
2007, đã liệt kê một số những trường hợp đặc biệt mà một anh
chồng “ga lăng” phải tỏ ra hết sức kiên nhẫn.
Những trường hợp đặc biệt ấy là như thế này
:
- Mỗi tháng vài lần, anh chồng phải kiên
nhẫn ngồi đến cháy cả yên xe, gạt chân chống xuống, mà đợi chị
vợ vào mỹ viện tẩy da, nâng mũi, sửa cằm, cũng như đợi chị vợ
chăm sóc “một góc con người” tức là cái tóc, khi uốn, lúc duỗi,
khi xả lúc quăn, khi vàng lúc đỏ…
- Mỗi ngày, anh chồng phải kiên nhẫn không
biết mỏi mệt để ghi chép các quảng cáo mỹ phẩn làm mịn da, chắc
xương, tăng cường sức khỏe, chặn đứng lão hóa mà giữ nét thanh
xuân. Cũng như phải sưu tầm những cửa hàng có khuyến mãi, hay
bán đại hạ giá…để chị vợ dễ dàng lựa chọn mỗi khi cần tìm mua.
- Mỗi khi cùng đi phố, anh chồng phải kiên
nhẫn đợi chờ cả tiếng đồng hồ để chị vợ trang điểm, chọn lựa áo
quần. Mặt mũi lúc nào cũng phải tươi rói, không được phàn nàn
hay ca cẩm lấy nửa lời.
- Mỗi khi đi “sốp pinh”, anh chồng không
phải chỉ sẵn sàng hy sinh cả tháng lương, mà còn phải kiên nhẫn
để được lẽo đẽo theo chị vợ vào siêu thị, rồi đẩy xe cho chị vợ
lựa chọn và mua hàng. Rồi lại còn phải kiên nhẫn tay xách nách
mang cả đống hàng cao lút mặt, mà lên xuống taxi khi đi về nhà…
Tóm lại, trong thầm lặng và kiên nhẫn, anh
chồng phải sẵn sàng phục vụ chị vợ ở mọi nơi, trong mọi lúc và
bằng mọi hình thức khác nhau.
Để kết luận, gã xin ghi lại hai tư tưởng
lớn đã được viết ở trên. Tư tưởng thứ nhất của một tác giả nào
đó :
- Không gì làm vinh dự cho chị đờn bà cho
bằng sự kiên nhẫn của anh đờn ông.
Tư tưởng thứ hai của một thằng bạn nhiều
kinh nghiệm :
- Nước chảy thì đá cũng phải mòn kia mà.
Cho dù cô nàng có trái tim bằng đá thì với sự kiên nhẫn, cũng sẽ
mềm nhũn như con chi chi. Cho dù cô nàng có trái tim băng giá
mùa đông, thì với sự kiên nhẫn, cũng sẽ trở thành nóng ấm mùa hè.
Tuy nhiên, điều khó là mình có đủ kiên nhẫn
hay không mà thôi.
Gã
Siêu
gasieu@gmail.com
|
VỀ MỤC LỤC |
|
- Mọi liên lạc: Ghi danh, thay đổi địa chỉ, đóng góp ý kiến,
bài vở..., xin gởi về địa chỉ
giaosivietnam@gmail.com
- Những nội dung sẽ được đề cao và chú ý bao gồm:
Trao đổi, chia sẻ những kinh nghiệm thực tế trong việc mục
vụ của Giáo sĩ; Những tài liệu của Giáo hội hoặc của các
Tác giả nhằm mục đích Thăng tiến đời sống Giáo sĩ; Cổ võ ơn
gọi Linh mục; Người Giáo dân tham gia công việc “Trợ lực
Giáo sĩ” bằng đời sống cầu nguyện và cộng tác trong mọi lãnh
vực; Mỗi Giáo dân phải là những “Linh mục” không có chức
Thánh; Đối thoại trong tinh thần Bác ái giữa Giáo dân và
Giáo sĩ… (Truyền giáo hay xây pháo đài?)
- Quy vị cũng có thể tham khảo những số báo đã phát hành tại
www.conggiaovietnam.info
Rất mong được sự cộng tác, hưởng ứng của tất cả Quí vị
Xin chân thành cám ơn tất cả anh chị em đã
sẵn lòng cộng tác với chúng tôi bằng nhiều cách thế khác
nhau.
TM. Đặc San Giáo Sĩ Việt Nam
Lm. Luca
Phạm Quốc Sử
USA
|
|
*************
|
|