Sắc Lệnh Về Tông Ðồ Giáo Dân
(Lời Mở Đầu) |
Thánh Công Ðồng Chung Vaticanô II
Sắc Lệnh Về Tông Ðồ Giáo Dân
Apostolicam Actuositatem
Prepared for Internet by Vietnamese
Missionaries in Asia
Lời Mở Ðầu
1*
1. Thánh Công Ðồng muốn phát
động mạnh mẽ hơn việc tông đồ của dân Thiên Chúa
1, nên chú tâm hướng về các Kitô hữu giáo dân, những
người có phần riêng biệt và cần thiết trong sứ mệnh của Giáo
Hội, như đã được nhắc đến trong những văn kiện khác
2. Bởi vì, vốn phát sinh từ ơn gọi làm kitô hữu, việc
tông đồ giáo dân không bao giờ có thể khiếm khuyết trong Giáo
Hội. Trong những buổi đầu Giáo Hội, việc tông đồ này thật là
hăng say và kết quả biết bao! Chính Thánh Kinh chứng minh cách
phong phú điều đó (x. CvTđ 11,19-21; 18,26; Rm 16,1-16; Ph 4,3).
Thời đại chúng
ta đòi hỏi người giáo dân phải nhiệt thành không kém, nhất là
những hoàn cảnh hiện tại càng đòi hỏi việc tông đồ của họ phải
hoàn toàn mạnh mẽ và sâu rộng hơn. Quả vậy, càng ngày dân số
càng gia tăng, khoa học và kỹ thuật càng tiến triển, những mối
tương quan mật thiết hơn giữa con người không những mở rộng môi
trường hoạt động tông đồ giáo dân đến vô hạn, môi trường mà phần
lớn chỉ dành riêng cho họ, mà còn tạo nên nhiều vấn đề mới đòi
họ phải đặc biệt lưu tâm học hỏi. Việc tông đồ này lại càng trở
nên khẩn trương hơn, vì sự biệt lập trên nhiều phương diện của
cuộc sống con người như thường thấy, càng gia tăng, đôi khi gây
nên một sự tách biệt với trật tự luân lý và tôn giáo, cũng như
tạo ra một sự nguy hiểm trầm trọng cho đời sống Kitô giáo. Hơn
nữa, trong những miền thiếu linh mục hay khi các ngài không được
tự do thi hành chức vụ, thì Giáo Hội khó có thể hiện diện và
hoạt động hữu hiệu nếu không nhờ giáo dân cộng tác.
Dấu hiệu cho
thấy nhu cầu muôn mặt và khẩn trương ấy chính là hoạt động tỏ
tường của Chúa Thánh Thần đang làm cho giáo dân hôm nay mỗi ngày
một ý thức hơn phần trách nhiệm riêng của mình và thúc bách giáo
dân mọi nơi phục vụ Chúa Kitô và Giáo Hội
3.
Trong Sắc Lệnh
này, Công Ðồng nhằm làm sáng tỏ bản chất, đặc tính và những cách
thế của việc tông đồ giáo dân, nêu lên những nguyên tắc căn bản
và ban bố những giáo huấn mục vụ để thi hành việc tông đồ ấy cho
hiệu quả hơn. Mọi điều trong Sắc Lệnh này phải được coi như
những tiêu chuẩn cho việc xét lại những khoản giáo luật có liên
quan đến việc tông đồ giáo dân.
Chú Thích:
1* Công Ðồng trình bày tổng
quát những lý do thuộc bình diện lý thuyết và những hoàn cảnh
khiến cho hoạt động tông đồ giáo dân cần thiết và cấp bách:
- Sự đòi hỏi
của ơn gọi Kitô hữu, như các tín hữu thời Giáo Hội sơ khai đã
minh chứng điều đó.
- Sự phát triển
dân số, tiến bộ khoa học và sự biệt lập của những thực tại trần
thế có thể tạo nguy hiểm cho đời sống Kitô hữu.
- Tình trạng
thiếu thợ tông đồ làm cho việc tông đồ giáo dân trở nên khẩn
thiết hơn.
1 Xem Gioan XXIII, Tông Hiến
Humanae Salutis, 25-12-1961: AAS 54 (1962), trg 7-10.
2 Xem CÐ Vat. II, Hiến Chế
tín lý về Giáo Hội, số 33tt: AAS 57 (1965), trg 39tt. - Xem thêm
Hiến Chế về Phụng Vụ Thánh, số 26-40: AAS 56 (1964), trg
107-111. - Xem Sắc Lệnh về Các Phương Tiện Truyền Thông Xã Hội:
ASS 56 (1964), trg 145-153. - Xem Sắc Lệnh về Hiệp Nhất: AAS 57
(1965), trg 90-107. - Xem Sắc Lệnh về Nhiệm Vụ Mục Vụ của các
Giám Mục trong Giáo Hội, số 16, 17, 18. - Xem Tuyên Ngôn về Giáo
Dục Kitô Giáo, số 3, 5, 7.
3 Xem Piô XII, Huấn từ ad
Cardinales, 18-2-1946: AAS 38 (1946), trg 101-102. - N.t. bài
giảng ad Juvenes Operatos Catholicos, 25-8-1957: AAS 49 (1957),
trg 834.
còn tiếp |
VỀ MỤC LỤC |
|
MỪNG NĂM THÁNH 2010, XEM LỊCH SỬ
TRUYỀN GIÁO VIỆT NAM - BÀI 4 : LỊCH SỬ TRUYỀN GIÁO VIỆT NAM THỜI
KỲ BẢO TRỢ, 1533-1659
|
Lời mở
Trong lịch sử truyền giáo dài gần 500 năm của mình, Giáo Hội
Công Giáo Việt Nam đã tiếp nhận hai sắc chỉ rất quan trọng mà
Tòa Thánh đã ban hành.
Sắc
chỉ thứ nhất tên là « Super Cathedram » do Đức Giáo Hoàng
Alexandre VII ban hành ngày 09.09.1659, bổ nhiệm hai đức cha
François PALLU và Pierre LAMBERT DE LA MOTTE làm giám mục Đại
Diện Tông Tòa và thiết lập hai giáo phận tông tòa đầu tiên ĐÀNG
TRONG
và ĐÀNG NGOÀI
tại Việt Nam.
Sắc
chỉ thứ hai tên là « Venerabilium Nostrorum », do Đức Giáo Hoàng
Gioan XXIII ban hành ngày 24 tháng 11 năm 1960 để Thiết lập PHẨM
TRẬT GIÁO
HỘI tại VIỆT
NAM, với việc
thành lập 20 giáo phận chính tòa, qui tụ trong
BA GIÁO TỈNH HÀ NỘI,
HUẾ và SÀI
GÒN.
Sắc
chỉ Super Cathedram xác định thời điểm phân chia thời kỳ BẢO
HỘ, 1533-1659 với thời kỳ
TÔNG TÒA, 1659-1960. Sắc
chỉ Venerabilium đánh dấu thời điểm phân chia thời kỳ tông tòa,
1659-1960 với thời kỳ CHÍNH TÒA,
1960 đến nay.
NĂM
THÁNH 2010, vừa được Giáo Hội Công Giáo Việt Nam khai mạc ngày
24/11/2009 tại Sở Kiện, thuộc Tổng Giáo Phận Hà Nội là để kỷ
niệm hai thời điểm này : 350 năm thành lập hai địa phận tông tòa
Đàng Trong và Đàng Ngoài vào ngày 09/09/1659 và 50 năm thành lập
Hàng Giáo Phẩm tại Việt Nam vào ngày 24/11/1960.
Đó
là lý do khiến trong phần thứ nhất của loạt bài « Mừng Năm
Thánh 2010, xem lịch sử truyền giáo Việt Nam » chúng ta đã
dành hai bài đầu tiên để xem lại nguyên bản của hai sắc chỉ định
hình của lịch sử Giáo Hội Việt Nam : Sắc chỉ Super Cathedram và
sắc chỉ Venerabilium Nostrorum.
Kỷ
niệm hai thời điểm trên, Năm Thánh 2010 nhằm 3 mục đích mà Nội
qui cử hành Năm Thánh xác định rõ rệt như sau :
1. Nhìn lại quãng đường lịch
sử gần 500 năm truyền giáo qua 3 thời kỳ: 126 năm Bảo Hộ
(1533-1659), 300 năm Tông Toà (1659-1960), đặc biệt là 50 năm
Chánh Toà (1960-2010). Nhìn lại lịch sử nhằm mời gọi cộng đồng
Dân Chúa Việt Nam cùng chung lòng tạ ơn Chúa đã thương ban cho
Dân Người được hình thành, tồn tại và phát triển qua những thăng
trầm của lịch sử, đồng thời bày tỏ lòng biết ơn đối với Toà
Thánh và các bậc tiền nhân đã góp phần tích cực vào việc loan
Tin Mừng và xây dựng Giáo Hội trên đất nước Việt Nam.
2. Nhìn lại lịch sử cùng với
những thẩm định về đời sống Giáo Hội nhằm rút ra những bài học
lịch sử cho việc thi hành sứ vụ yêu thương và phục vụ của Chúa
Kitô, trong cộng đồng dân tộc cũng như cộng đồng thế giới hôm
nay.
3.
Đồng thời cũng nhìn tới tương lai trong bối cảnh văn hoá xã hội
đang đổi thay của những thập niên đầu thiên niên kỷ III, nhằm
vận động cộng đồng Dân Chúa một lòng quyết tâm đáp trả tình
thương của Chúa, và làm mới hình ảnh gia đình Giáo Hội tại Việt
Nam theo hình mẫu mà Công đồng Vatican II 1965 đã phác hoạ như
sau : Giáo
Hội hiệp thông, Giáo Hội tham gia và Giáo Hội vì loài người (1).
Bám
vào những mục đích này, một cách tổng quát, tiếp tục phần thứ
nhất « Mừng Năm Thánh 2010, xem lịch sử truyền giáo Việt
Nam »,
chúng ta sẽ xem lại trang sử truyền
giáo Việt Nam ở mức độ ba thời kỳ :
Bảo Trợ,
Tông Tòa và Chính Tòa. Cho mỗi thời kỳ, chúng ta sẽ làm ba
việc : xem lại lịch sử, thẩm định rút ra bài học lịch sử và
phóng nhìn về tương lai dựa vào bài học lịch sử vừa rút ra.
Chúng ta sẽ khởi sự với việc xem lịch sử thời kỳ Bảo Trợ,
1533-1659.
Thời kỳ Bảo trợ trải dài
trên hai giai đoạn lịch sử việt nam : giai đoạn Nam Bắc Triều Lê
Mạc (1527-1592) và một phần giai đoạn Trịnh Nguyễn phân tranh
(1570-1786). Ba sự kiện quan trọng đáng ghi nhớ về thời kỳ Bảo
Trợ 1533-1659 :
1. Thế
kỷ XVI, Công giáo vào Việt Nam loan báo Tin Mừng. Bốn địa điểm
đã được đón nhận Tin Mừng.
Trong thế kỷ XVI, lịch sử
Việt Nam loạn lạc với những tranh chấp giữa nhà Mạc và nhà Lê
(1527-1592). Bắc triều nhà Mạc, cũng như Nam triều nhà Lê đều
mời đón người Âu châu vào buôn bán với mình. Làm tuyên úy cho
các thương thuyền người Âu, các giáo sĩ theo thương gia người Âu
bắt đầu đến và truyền giáo ở Việt Nam. Năm 1533, Khâm Định Việt
Sử Thông Giám Cương Mục, trong quyển XXXIII, đã ghi « Lời chua »
để cắt nghĩa lệnh cấm đạo Tây dương, Hoa lang, Gia tô. Trong lời
chua thứ ba về « Gia tô » chép rằng : « Gia
- tô: Theo sách Dã Lục, thì ngày tháng 3 năm Nguyên Hòa thứ nhất
(1533) đời Lê Trang Tông, người Tây Dương tên là Y-nê-xu lén lút
đến xã Ninh Cường, xã Quần Anh huyện Nam Chân và xã Trà Lũ huyện
Giao Thủy, ngấm ngầm truyền giáo về tả đạo Gia tô »
(2). Những nho sĩ chép sử có quan niệm chính sử, coi nhà Lê là
chính tông, còn nhà Mạc là phản nghịch, nên ghi niên hiệu Nguyên
Hòa Lê Trang Tông. Thực ra, vào năm 1533, các xã Ninh Cường,
Quần Anh và Trà Lũ (thuộc Nam Định ngày nay) đều thuộc trấn Sơn
Nam, vùng đất Bắc Triều do Nhà Mạc cai trị, đời Thái Tông Mặc
Đăng Doanh, niên hiệu Đại Chính (1530-1540). Nhà Lê vẫn còn ở
Sầm Châu, Ai Lao (3).
Địa điểm thứ hai đã được
tiếp nhận Tin Mừng là Thanh Hóa, với việc tòng giáo của công tử
Đỗ Hưng Viễn, con quan đại thần triều Lê trung hưng, vào khoảng
những năm 1560-1570, rồi với việc đến Việt Nam truyền đạo của
hai cha triều Alphonso de Costa và Juan Gonsalves vào năm 1590
và rửa tội cho công chúa Mai Hoa.
Cũng trong thế kỷ XVI, địa
điểm thứ ba đã được đón Tin Mừng là Quảng Nam - Thuận Hóa, với
việc hai linh mục dòng Daminh là cha Luis de Fonseca và Grégoire
de la Motte đến Quảng Nam năm 1580-1586, và sau đó, việc ba nhà
truyền giáo khác, thuộc dòng Đa Minh, là cha Alfonso Jímenez,
cha Diego và thầy trợ sĩ Juan Bautista Deza đến Cửa Hàn vào năm
1595 và đã khuyên được 2 tù nhân bị án tử hình ở Thuận Hóa theo
đạo và an táng theo lễ nghi công giáo.
Địa điểm thứ bốn được đón
tin mừng là Thăng Long. Theo lời mời của Mạc Mậu Hợp, một phái
đoàn các cha dòng Phanxicõ, gồm 4 linh mục là D. Operosa, B.
Ruiz, P. Ortis, Fr. Montila và 4 thầy trợ sĩ cập bến An Quảng
(Quảng Yên), ngày 01.05.1583. Nhưng khi vừa rời bến để lên Thăng
Long, thì tầu bị bão đánh dạt sang đảo Hải Nam. Hai năm sau, cha
Ruiz, đã 61 tuổi, trở lại được Thăng Long, được vua tôi Nhà Mạc
đối xử tử tế và được tự do giảng đạo, nhưng không có ai theo
đạo. Ngài chỉ rửa tội được cho một em bé sắp chết.
2. Thế
kỷ XVII, Công giáo hội nhập vào xã hội việt nam và thành lập
nhiều cộng đoàn.
Sang thế kỷ XVII, với phân
tranh Trịnh Nguyễn (1570-1786), xã hội Việt Nam vẫn còn loạn lạc
với bảy trận đánh Bắc Nam : 1627, 1630, 1635, 1648, 1655, 1661,
và 1672. Chúa Trịnh cũng như chúa Nguyễn, ai cũng muốn tiếp xúc
với người Âu Châu để võ trang cho mình.
Tiếp nối công việc tìm
đường truyền giáo của các cha Đaminh và Phanxicô đã thực hiện
trong thế kỷ XVI, sang thế kỷ XVII, các cha dòng Tên đã đến gieo
vãi Tin Mừng rộng rãi hơn trên khắp các miền Việt Nam. Từ năm
1615 đến 1643 ở Đàng Trong và từ năm 1627 đến 1663 ở Đàng Ngoài,
trên dưới 30 thừa sai dòng Tên đã đến truyền giáo ở Việt
Nam. Nhiều vị giảng đạo bằng tiếng việt và qua những giáo dân
việt nam ưu tú, gọi là thầy giảng. Tầt cả đều thích ứng Tin Mừng
vào phong tục việt nam, đặc biệt là tinh thần gia đình, làng
xóm. Đây là cử chỉ hội nhập văn hoá đầu tiên : dùng tiếng việt
để nói về giáo lý, dùng phong tục để diễn tả niềm tin, dùng
người việt để truyền đạo cho người việt, dùng gia đình và xóm
làng làm môi trường sống đạo.
Nhờ vậy, hạt giống Tin Mừng
đã được dễ dàng đón nhận : nhiều cộng đoàn đã được thành lập. Ở
Đàng trong, cha François Buzomi và các đồng bạn đã mang Tin Mừng
đến 5 cộng đoàn : Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên và
Thuận Hóa. Ở Đàng Ngoài, cha Đắc Lộ và đồng bạn đã mang tin mừng
đến 7 cộng đoàn : Thanh Hóa, Nghệ An, Thăng long, Kẻ Bắc, Kẻ
Đông, Kẻ Nam, Kẻ Tây.
3. Thế
kỷ XVII, Công giáo đã khai sinh ra chữ quốc ngữ cho văn học việt
nam.
Để loan báo Tin Mừng, tất
cả các linh mục dòng Tên đến Việt Nam, từ 1615 đến 1663, đều đã
học tiếng Việt. Nhiều vị rất thông thạo. Cha Francois de Pina là
người ngoại quốc thứ nhất rất thông thạo tiếng việt, người thứ
nhất giảng mà không cần thông dịch viên. Cha Gaspar d’Amaral đã
sáng tác từ điển Việt Bồ và cha Antonio Barbosa đã sáng tác từ
điển Bồ Việt. Cả ba đều là người Bồ Đào Nha.
Lưu lại và đi về, tiếp cận
với người Việt Nam dòng dã 12 năm, cha Đắc Lộ đã học tiếng việt
với cha François de Pina và với một cậu bé Việt Nam. Ngài lại
được thừa hưởng công trình nghiên cứu viết tay, một Từ điển Việt
Bồ của Gaspar d’Amaral và một Từ điển Bồ Việt của Barbosa. Nhờ
bốn yếu tố đó, cha Đắc Lộ đã sáng tác và cho in, năm 1651, hai
tác phẩm quốc ngũ đầu tiên : cuốn
Tự điển việt bồ latinh và
cuốn giáo lý công giáo Phép giảng tám ngày. Đấy là hai
cuốn sách quốc ngữ đầu tiên đã được in ra, phổ biến và lưu
truyến ; có thể được coi như tờ giáy khai sinh của chữ quốc ngữ
vậy.
Chữ quốc ngữ đã được người
công giáo việt nam tiếp nhận, học tập, xử dụng và phổ biến, mở
đường cho nền văn học quốc ngữ việt nam. Ba tài liệu đầu tiên
của người việt nam đã được viết bằng chữ quốc ngữ còn lưu lại
được là : bức thư hai trang của thầy giảng Igesico Văn Tín viết
tại Đàng Ngoài ngày 12-9-1659 cho linh mục dòng Tên G.F.de
Marini ; bức thư hai trang của thầy giảng Biển Đức Thiện (Bento
Thiện) viết tại Đàng Ngoài (ở Thăng Long) ngày 25-10-1659 cũng
gởi cho linh mục G.F.de Marini ; và tập Lịch sử Việt Nam đầu
tiên viết bằng chữ quốc ngữ mới, có lẽ cũng do thầy giảng Biển
Đức Thiện viết, dài 12 trang, soạn vào năm 1659 để gởi cho linh
mục G.F.de Marini, lúc đó đi La Mã (4).
Lời kết
THỜI KỲ BẢO TRỢ là thời kỳ
đầu tiên trong lịch sử truyền giáo ở Việt Nam. Gọi là bảo trợ,
vỉ trong thời kỳ này công việc truyền giáo được Giáo Hội ký thác
cho hai quốc gia bảo trợ thực hiện. Đó là nước Bồ Đào Nha và
nước Tây Ban Nha. Nước Việt Nam thuộc khu vực nước Bồ Đào Nha
bảo trợ.
Trong suốt thời gian dài
126 năm này, 82 năm đầu, từ 1533 đến 1615, kết quả truyền giáo
rất khiêm tốn. Nhưng 44 năm sau, từ 1615 đến 1659, các cha Dòng
Tên đã mang lại một kết quả truyền giáo tuyệt vời quan trọng.
Vào năm 1659, người công giáo Việt Nam, chưa có giám mục, linh
mục, tu sĩ, chủng sinh, nhưng có khoảng 100.000 tín hữu. 20.000
trong Nam ; 80.000 ngoài Bắc (5),
qui tụ quanh 340 nhà thờ (6).
Cùng với các thừa sai khác, cha Đắc Lộ đã khai sinh ra Chữ Quốc
Ngữ.
Như vậy, cho thời kỳ 126
năm Bảo Trợ (1533-1659), ba sự việc quan trọng đã được thực
hiện : 1- Công Giáo vào Việt Nam loan báo Tin Mừng ; 2- Công
Giáo hội nhập vào xã hội Việt Nam và 12 cộng đoàn đầu tiên đã
đón nhận và sống Tin Mừng, 3- Công giáo khai sinh chữ quốc ngữ
và văn học công giáo việt nam.
Hôm nay, lễ khai mạc NĂM
THÁNH 2010 đã hoàn thành, người công giáo việt nam nên làm gì ?
Trong Thư chung ngày 25.11.2009, gửỉ Dân Chúa Hà Nội nhân dịp
Năm Thánh, Đức TGM Ngô Quang Kiệt, Tổng Thư Ký Hội Đồng Giám Mục
Việt Nam, đã chia sẻ định hướng của Hội Đồng Giám Mục Việt Nam,
mà nhắc đến những việc tổng thể nên làm như sau : « Lễ
Khai mạc đã hoàn thành nhiệm vụ mở đầu. Nhưng để Năm Thánh đem
lại kết quả thiêng liêng mong muốn chúng ta cần phải sống tinh
thần Năm Thánh với ba phương diện : tâm tình, học hỏi và cử hành
». Tâm tình với những tâm tình tạ ơn Thiên Chúa, tri ân các bậc
tiền nhân và sám hối. Học hỏi với việc học hỏi lịch sử Giáo hội,
học hỏi gương mẫu tiền nhân để xây dựng giáo hội. Thực hành với
việc tham dự những cử hành phụng vụ, tích cực thực thi công bình
bác ái và dấn thân lên đường truyền giáo.
Riêng về Thời Kỳ Bảo Trợ,
Đức Tổng đã xa gần nhắc đến,
qua ba đoạn thơ, khi nói đến tâm tình tri ân các tiền nhân thừa
sai, đến việc soi mình vào lịch sử để học tấm gương sáng ngời
của các vị thừa sai và đến việc hành hương Nhà Thờ Chính Tòa,
nơi cha Đắc Lộ đã đến rao giảng Tin Mừng lần đầu tiên vào ngày
02.07.1627. Ngài viết :
« Một tâm tình không thể
thiếu đó là tri ân các bậc tiền nhân. Tri ân các vị thừa sai đã
quảng đại hi sinh, từ bỏ quê hương, gia đình, chấp nhận cuộc
sống vất vả thiếu thốn, gian nan thử thách và chấp nhận dâng
hiến cả mạng sống để gieo vãi hạt giống Tin mừng khắp nơi. Tri
ân tổ tiên chúng ta đã quảng đại đón nhận đức tin, kiêu hùng bảo
vệ đức tin và dũng cảm đổ máu đào minh chứng đức tin, để lại cho
chúng ta gia sản đức tin vô giá và một Giáo hội mạnh mẽ phát
triển không ngừng.
Soi mình vào lịch sử, ta
học được gương mẫu tiền nhân, nhất là của các vị thừa sai và các
thánh Tử đạo. Giáo hội phát triển như ngày nay nhờ sự quảng đại,
hi sinh của các ngài. Tấm gương sáng ngời của các ngài sẽ khơi
dậy lòng phấn khởi. Ơn phúc của các ngài sẽ giúp ta thêm hăng
hái quên mình xây dựng Nước Chúa. Sống theo gương các ngài ta sẽ
góp phần đưa Giáo hội vào một thời kỳ phát triển mới.
Riêng tại Tổng giáo phận
Hà nội, chúng ta có 4 điểm hành hương. Điểm thứ nhất là Nhà thờ
Chính tòa, nơi cha Đắc Lộ đã đến rao giảng Tin mừng lần đầu tiên
vào ngày 02-07-1627, có pháp trường Ô Cầu Giấy nơi cha thánh
Dũng Lạc chịu xử tử, có thành Cửa Bắc, nơi giam giữ và xử trảm
thánh Ven, có Kẻ Sét nơi thánh Thịnh sinh ra, có ngôi nhà nguyện
đầu tiên, có nhà đức cha Puginier Phước tức là nhà nguyện Fatima
hiện tại » (7).
Paris, ngày 10 tháng 12 năm
2009
Trần Văn
Cảnh
Ghi chú :
(1). Hội Đồng Giám Mục Việt Nam, «Cộng
Đồng Dân Chúa Việt Nam cử hành NĂM THÁNH 2010 :
Nội qui », trong
http://hdgmvietnam.org/News.aspx?Type=6&Act=Detail&ID=72&CateID=83
(2). Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục - Chính Biên - Quyển
XXXIII, trang 720, trong
http://www.viethoc.org/eholdings/sach/kdvstgcm.pdf
(3). (Trần Trọng Kim, VNSL, Q 2, tr. 18)
(4). Đỗ Quang
Chính, Tập lịch sử nước Annam, trong
http://www.dunglac.org/index.php?m=module2&v=detailarticle&id=64&ia=528
(5).
HĐGMVN, Giáo hội Công giáo Việt Nam, Niên giám 2004, tr. 189
(6).
Bentô Thiện viết trong « Lịch sử nước Anam (năm 1659) rằng : “Nghệ
an Xứ những nhà thánh thờ đức Chúa trời được bẩy mươi lăm
nhà thánh. Sơn nam Xứ được một trăm tám mươi ba nhà
thánh. Hải dương Xứ được ba mươi bẩy nhà thánh. Kinh
bắc Xứ được mười lăm nhà thánh. Thanh hoá xứ được hai
mươi nhà Thánh. Sơn tây xứ được mười nhà thánh”.
Trích trong Đỗ Quang Chính, Lịch sử chữ quốc ngữ, Sài Gòn :
Đường mới, 1972, tr. 129
(7).
TGM Giuse Ngô Quang Kiệt : Thư chung ngày 25.11.2009, gửi Cộng
Đồng Dân Chúa Hà nội nhân dịp Năm Thánh 2010, trong
http://vietcatholic.net/News/Clients/ReadArticle.aspx?ID=74002 |
VỀ MỤC LỤC |
|
NĂM THÁNH LINH MỤC - NIỀM HY VỌNG.
|
Một Linh Mục người
Pháp vừa chịu chức, sau những ngày lễ mở tay thật sốt sáng, cha
đã cùng các hướng đạo viên về vùng quê. Cha con vác Balô đạp xe
đến một xứ có tiếng là khô khan nguội lạnh. Vừa dựng trại ở bìa
rừng, cha con vào gặp cha sở xin dâng lễ tại nhà thờ. Cha xứ
nói:
Tốt lắm.
Tân linh mục hỏi: Thưa cha, nhà
tạm có đủ Mình Thánh Chúa cho các em chịu lễ không?
Cha xứ nói: Không, cha ơi, từ 10
năm nay, khi con về đây, không một ai chịu lễ cả.
Xin cha lấy bánh lớn chia cho các em. Sau đó, cha và các em quây
quần dâng lễ, hát kinh thật sốt sáng. Cha xứ qùy lặng lẽ và tâm
hồn xúc động mạnh. Đã mười năm qua, cha chưa thấy một thánh lễ
nào sốt sáng như thế. Lúc lễ xong, tân linh mục mới ngạc nhiên
thấy cha xứ quỳ xuống dưới chân mình. Ngài nói:
Xin cha giải tôi cho con.
Mười năm qua, con đã lỗi đức tin, đức cậy và đức mến.
Hôm nay được chứng kiến và tham dự
thánh lễ, nhờ ơn Chúa con lấy lại niềm HY VỌNG đã bị chôn vùi.
1. Gương
sáng
Niềm hy vọng của chúng
con ở nơi Danh Chúa.
Mỗi người Kitô hữu đều đã lãnh nhận ánh sáng của Chúa Kitô trong
ngày chịu phép Rửa Tội. Ánh sáng đó phải được tỏa lan ra chung
quanh để mọi người nhìn thấy mà ngợi khen Thiên Chúa. Anh em
linh mục chúng ta phải là ánh sáng trong đêm tối, là muối giữa
những thối nát đồi trụy và là hy vọng giữa con người đang thất
vọng. Niềm hy vọng của chúng ta được thể hiện qua đời sống cầu
nguyện và phục vụ hằng ngày. Con là linh mục Triều trực thuộc
Địa Phận Nữu Ước, nhưng con đang sống và làm việc chung với các
cha Dòng Thánh Augustinô tại vùng Bronx, Nữu Ước. Con đã học
được nhiều bài học cảm thương trong cuộc sống qua gương sáng của
các cha Dòng. Nói vậy, không phải cha Dòng nào cũng có cái tâm
tốt giống nhau.
Sống chung trong một
cộng đoàn nhỏ ở giáo xứ, con rất mến cha Roberto Terranova, ngài
có một trái tim nhân hậu và yêu mến tha nhân, đặc biệt với những
người không nhà, không cửa và những người nghiện ngập và bệnh
họan. Họ đến với ngài bất cứ lúc nào. Ngài không sợ bị họ quấy
rầy. Cha đón tiếp họ với thái độ niềm nở và cảm thông. Nhiều khi
con thấy ngài giúp đỡ tiền bạc và dọn bữa cho người nghèo ngay
trong phòng ăn nhà xứ. Cha ngồi chia sẻ và hỏi han những khó
khăn trong cuộc sống của họ. Tìm nơi cho họ cư trú và gởi họ đi
để chữa trị những sự nghiện ngập. Biết rằng cha cũng chẳng giải
quyết được gì hơn, nhưng một tấm lòng cảm thông thật đáng qúy.
Hằng ngày con cũng thấy và gặp gỡ người nghèo không có nơi ăn
chốn ở nhưng con đã không thể làm được. Con đã đưa ra nhiều lý
do để từ chối giúp đỡ họ như con thường nghĩ rằng họ lười biếng,
nghiện ngập và hút sách…Con muốn phục vụ nhưng sự phục vụ trong
tính toán. Con muốn nên thánh nhưng hình như con rất ngại nên
thánh vì tấm lòng của con quá hẹp hòi.
2. Bước
Theo Thầy
Anh em linh mục
chúng ta dĩ nhiên có đích điểm để hướng tới.
Chúng ta có Chúa Kitô
là trung tâm điểm và là đích điểm.
Chúng ta đừng bao giờ rời xa Chúa Kitô. Ngày xưa thánh Phêrô lo
sợ sóng gió đã không ngước nhìn và tin tưởng vào Chúa, ông đã bị
chìm. Chúng ta hãy ngước nhìn lên Chúa là nguồn của sự bình an
và yêu thương. Có bình an trong tâm hồn, chúng ta sẽ dễ vươn tới
những người chung quanh để yêu thương và gắn bó với họ. Giúp đỡ
những người cùng khổ, đó chính là niềm hy vọng của chúng ta.
Ngày sau, khi phán xét, Chúa chỉ xét đoán chúng ta về những việc
chúng ta đã làm cho các anh em bé mọn nhất của Chúa. Anh em bé
mọn lại chính là những người khố rách áo ôm, những người không
có nơi nương tựa và là những người bị ruồng bỏ.
Nên thánh đó là một
sự phấn đấu không ngừng. Từng giây phút trong cuộc đời đều nhắm
về một hướng. Phản ảnh câu truyện của một thanh niên trẻ muốn
trở thành thủy thủ. Một hôm trời mưa bão. Anh được lệnh trèo lên
cột buồm để sửa lại giây nối. Anh nhìn lên cột buồm và bắt đầu
trèo. Anh nhắm tới và trèo lên một cách dễ dàng. Khi anh leo
được nửa đoạn, anh nhìn xuống thì qúa sợ hãi vì thấy sóng biển,
gió thổi mạnh và thuyền lênh đênh. Anh cảm thấy choáng váng, và
hầu té xuống. Vị thuyền trưởng hô lớn:
Hãy ngước nhìn lên,
hãy ngước nhìn lên.
Anh ngước nhìn lên, tiếp tục leo tới đỉnh cột và anh đã hoàn tất
công việc một cách an toàn.
3. Hy
Vọng
Một điều con nhận ra trong đời phục vụ là nhiều anh em linh mục
chúng ta đã an vui với những thành qủa mình đã thực hiện. Cố
gắng hoàn tất một ngôi nhà thờ mới, nhà xứ mới và nhà hội mới.
Nhìn lại cơ sở và công trình vĩ đại, chúng ta cảm thấy thỏa mãn.
Trong khi có biết bao người nghèo xung quanh không được quan
tâm. Chúng ta dừng lại đó và vui với quá khứ và hiện tại. Chúng
ta biết tuổi trẻ sống vui vì luôn có niềm hy vọng. Người
ta nói rằng: Trẻ thì tính từng ngày,
từng tháng và từng năm lớn lên trong tuổi đời. Mong cho mau cho
tới ngày sinh nhật để ăn mừng. Hỏi em bao nhiêu tuổi?
Em trả lời gần 8 tuổi (thực ra moi 7
tuổi rưỡi). Trong khi các ông
bà ta lại muôn rút tuổi đi, gần bảy chục rồi. Hỏi bác bao nhiêu
tuổi? Bác trả lời, tôi mới ngoài
60.
Tuổi trẻ thì mong tới trong khi tuổi già thích nhìn lại. Tuổi
già ưa kể truyện cổ tích và truyện thời xưa, Tuổi già thì muốn
trao lại kinh nghiệm trường đời cho thế hệ sau. Tuổi trẻ thì tự
muốn khám phá những cái mới lạ qua kinh nghiệm của riêng mình.
Đức Cố Hồng Y
Phanxicô Xavier Nguyễn Văn Thuận viết:
“Cuộc đời con
người được liên kết bằng những hy vọng. Mỗi nhịp tim nối kết,
ngàn vạn nhịp làm thành một sự sống. Phút giây này nối kết phút
giây kia, muôn phút giây làm nên một cuộc sống. Sống mỗi phút
giây cho tốt và ý nghĩa, đời sẽ có giá trị. Đường hy vọng do mỗi
nhịp hy vọng. Đời hy vọng do mỗi phút hy vọng.”
Dù tuổi nào đi nữa, chúng ta sẽ
không già và không mất niềm hy vọng.
Một suy tư cuộc đời: Nếu đang đi trên chiếc tàu, người ta trao
cho chúng ta một chiếc ghế. Và để chúng ta tự do quyết định nên
đặt ghế hướng về phía trước hay đặt ghế quay lại phía sau tàu để
nhìn sóng bọt và rác rến trôi dạt.
Có lẽ các bạn cùng đồng ý với tôi là
các bạn sẽ đặt ghế hướng về phía trước. Hướng tới một chân trời
mới, đối diện với những thách thức mới.
Một cuộc mạo hiểm mở ra nơi chúng ta chưa biết. Chính nơi đó
chúng ta sẽ bị thách đố và vươn lên trong hy vọng. Biết rằng
chúng ta phải đối diện với muôn vàn chông gai và thách thức bất
ngờ. Thế giới chúng ta đang sống có nhiều bất ngờ xảy đến. Thời
đại văn minh hiện đại có những khuynh hướng và chủ trương của tự
do lẻn vào gây rối và tráo đổi giá trị của tất cả những ý nghĩa
của cuộc sống. Gây cho bao người rơi vào cảnh hỗn mang và giới
trẻ rơi vào bước hững. Họ đã không thể tìm nhận ra giá trị đích
thực một cách dễ dàng. Và rồi xâm mình chạy đua với những giá
trị giả tạo và phù vân.
4. Sứ
Vụ
Con xin chia sẻ vài kinh nghiệm mục
vụ tại Giáo Xứ, nơi con đang giúp. Xứ Thánh Nicholas of
Tolentine, Bronx, New York. Cộng đoàn Giáo Xứ có ba ngôn ngữ
chính: Tiếng Anh, Tiếng Tây Ban
Nha và Tiếng Việt. Trong lớp
Giáo Lý chuẩn bị cho các cha mẹ và những người đỡ đầu trong Bí
Tích Rửa Tội tại Giáo Xứ. Một kinh nghiệm thực tế không mấy
vui. Lớp học có khoảng 20 người nói tiếng Anh (English). Con hỏi
qúi ông bà và các anh chị có thường đi dự lễ Chúa Nhật không? Họ
trả lời: Thưa không.
Họ nói rằng: Họ đã không có thời
giờ. Và con bắt đầu nói về giá
trị của đời sống gia đình, về vai trò cha mẹ, con cái và xây
dựng gia đình tốt, đặc biệt gia đình người công giáo tốt.
Họ đã phản ánh cách tiêu cực,
vì đề tài không thích hợp với cuộc sống của nhiều người. Có 90
phần trăm, họ sống trong gia đình bất thường, chỉ có mẹ hay chỉ
có cha hoặc là cha mẹ sống chung với nhau, không hôn nhân, hoặc
bạn bè gặp gỡ qua đường rồi có con.
Họ nói tất cả những giá trị đời
sống gia đình chỉ là truyền thống.
Họ biện minh cho cuộc sống riêng và họ nói rằng họ cảm thấy vui
và bình an trong hiện tại. Họ buông xuôi theo trào lưu cuộc
sống. Sống trong sự hưởng thụ hiện tại. Cảm thương cho họ vì có
thể họ đã thất bại trong tình yêu vì một lần lầm lỡ hay muốn một
gia đình êm ấm mà không thể có được .
Con hỏi, qúy anh chị
có hướng gì cho tương lai?
Họ cười và họ
dừng lại đó. Họ phó mặc cho cuộc sống đưa đẩy. Không biết đi về
đâu. Không nghĩ về tương lai. Họ sợ trách nhiệm.
Sống một cuộc sống tiêu cực và nhiều ưu tư.
Cả một thế hệ bị ảnh hưởng qua sự đổi
thay nhanh chóng trong thế giới của hưởng thụ và quảng cáo.
Sự thoái hóa về luân lý gia đình có thể do những hướng dẫn sai
lầm của trào lưu xã hội hoặc chủ trương của các người lãnh đạo.
Những giá trị luân lý được đánh giá theo nhu cầu vật chất, kinh
tế và hưởng thụ. Một số người có trách nhiệm giáo dục đã đưa ra
những cách thế sống quá tự do dựa vào phò sự chọn lựa đã làm
băng hoại đời sống. Nhiều đại diện chính quyền chủ trương hợp
thức hóa hôn nhân đồng tính và tự do liên hệ tình dục với bao an
toàn. Là linh mục và những người lãnh đạo tinh thần, chúng ta có
trách nhiệm đối với những người đồng hành. Mỗi việc chúng ta làm
và mỗi lời chúng ta nói có sức khuyên dụ và gây ảnh hưởng lớn
tới người khác. Đời sống xã hội là một cuộc sống chung có ảnh
hưởng lẫn nhau. Xã hội bây giờ đang cần gương sáng hơn là những
lời nói suông. Anh em linh mục chúng ta phải là gương mẫu, là
đèn chiếu sáng, là men và là muối đem niềm hy vọng cho cuộc
sống.
5. Trách
Nhiệm
“Không ai là một hòn
đảo”.
Chúng ta sống là sống cùng và với người khác. Mọi việc chúng ta
thực hiện đều có ảnh hưởng đến những người khác. Người càng cao
danh vọng ảnh hưởng càng lớn. Một người cha, người mẹ trong gia
đình thì ảnh hưởng đến con cái, cháu chắt trong gia đình. Thầy
Cô giáo ảnh hưởng tới học sinh. Các cấp chính quyền có ảnh hưởng
tới dân chúng trong mọi lãnh vực. Trong vấn đề tinh thần đạo đức
và niềm tin, các giám mục, linh mục và tu sĩ có ảnh hưởng rất
lớn. Nếu chúng ta dẫn dắt giáo dân đi sai lạc con đường, hậu quả
vô cùng lớn lao. Người ta nói:
xảy một li, đi một dặm.
Vai trò lãnh đạo tinh thần rất quan trọng, chúng ta phải luôn
gắn bó với nguồn chân thật, đó chính là Đức Kitô.
Con kể câu truyện
một ông già đã cao niên gần đất xa trời. Ông già yếu mệt trên
giường bệnh. Có vẻ ông có gì khúc mắc trong tâm tư chưa được
giãi bày. Ông muốn nói điều gì đó trước khi nhắm mắt lìa đời.
Ông nói với nguời giúp ông dọn mình:
Khi tôi còn trẻ, tôi
thường chơi ở ngã tư đường cái, bên khu ruộng gần nhà tôi. Nơi
đó có một bảng chỉ đường. Tôi thường chơi nghịch, tôi xoay bảng
chỉ đường để đánh lừa nhiều người.
Giờ đây, tôi suy nghĩ, không biết bao nhiêu người đã vì bảng chỉ
đường này, đã bị lạc và đã gây biết bao nhiêu tai nạn và đã lỡ
biết bao nhiêu công việc. Chỉ vì hành động vô ý thức của tôi. Và
còn biết bao việc tôi làm và lời tôi nói trong cuộc sống hàng
ngày. Những lỗi lầm tôi đã gây ra cho con cái, cháu chắt, hoặc
những kẻ chung quanh tôi. Tôi hối hận về tất cả những hành động
tôi đã làm. Đây là một lời nhắc nhở mời gọi mỗi người chúng
trong cuộc sống, mọi việc dù lớn nhỏ, hành động riêng tư hay
công cộng. Lời nói đùa hay thật, đều có ảnh hưởng sâu xa nơi
người khác. Làm sao chúng ta có thể rút lại những lời chúng ta
đã nói hoặc việc chúng ta đã làm sai.
6. Nhập
Cuộc
Linh mục chúng ta
không thể khoanh tay ngồi nhìn. Chúng ta phải góp công và góp
sức để tạo sức mạnh xây dựng. Chúng ta không thể ngồi chờ đợi
một cách thụ động hay trốn tránh một cách vô trách nhiệm. Có
người chỉ biết nhìn lên để kêu cứu mà không biết nhìn tới để
tiến và không nhìn chung quanh để chia xẻ gánh vác. Chúng ta có
trách nhiệm xây dựng xã hội tốt đẹp để mọi người cùng hưởng nhờ.
Hãy đốt lên một ngọn nến còn hơn ngồi nguyền rủa bóng tối.
Trong cuộc nói
truyện với các thính giả tại Hội Trường Đại Học ở California.
Ông John Keller đã dùng thí dụ để diễn tả sự cần thiết của gương
sáng và lòng tốt của mỗi người. Ông lên tiếng đề nghị rằng: Giờ
đây tôi xin tắt tất cả các đèn trong hội trường và tôi sẽ bật
lên một diêm quẹt, nếu các bạn thấy ánh sáng, các bạn hô lớn:
"Đã thấy".
Ông đã tắt điện và bật quẹt, ánh sáng tỏa lan, và mọi người đã
hô lớn "đã thấy".
Ông tiếp tục: giờ tôi sẽ tắt tất cả các bóng điện và lần này ai
có quẹt xin cùng bật lên tất cả. Rồi điện tắt và tất cả các quẹt
đã bật sáng. Cả căn phòng chan
hoà ánh sáng.
Như thế nếu mỗi người chỉ cần góp nhặt một chút ánh sáng, chúng
ta sẽ làm cho thế giới đổi khác. Cho dù một việc nhân ái nhỏ bé,
cũng đốt lên và soi dọi vào thế giới đen tối này và có thể làm
thay đổi bộ mặt thế giới.
7. Tôn
Trọng
Anh em linh mục
chúng ta cũng đang có những khó khăn nho nhỏ xảy ra giữa các
linh mục với nhau nơi một số cộng đoàn và giáo xứ. Linh mục được
gọi là người của Chúa hay của chung. Các linh mục khách được đón
mời bất cứ lúc nào và nơi nào trong cộng đoàn giáo dân. Sự hiện
diện của linh mục là niềm vui và hãnh diện cho gia đình và cộng
đoàn. Linh mục được mời để thăm viếng, chia sẻ những vui buồn và
tham dự tiệc vui cùng gia đình, điều này rất hoan nghênh. Ai
cũng mong muốn được các linh mục ghé thăm gia đình. Nhưng rồi có
một vài điều không được thích hợp cho lắm khi các linh mục cử
hành các Bí Tích.
Chúng ta biết, các
linh mục cần có bài sai (assignment) và năng quyền (faculty) để
thi hành chức vụ. Không phải cứ làm linh mục là có thể cử hành
mọi Bí Tích.
Con xin có một góp ý
nhỏ nhưng rất tế nhị. Trong
Năm Thánh Linh Mục,
các linh mục cũng cần hỗ trợ nhau trong các sinh hoạt mục vụ
cộng đoàn và giáo xứ. Các linh mục đừng dẵm chân lên nhau và hãy
tôn trọng lẫn nhau, đừng làm khó cho nhau trong vấn đề điều hành
kẻo gây gương xấu cho giáo dân. Mỗi linh mục được lãnh nhận bài
sai đến một cộng đoàn hay giáo xứ, linh mục đó chịu trách nhiệm
hoàn toàn trước mặt bề trên. Đôi khi vì tình vì nghĩa, các linh
mục cử hành các Bí Tích như món quà biếu để đền ơn cho giáo dân
thì không chính đáng. Biết rằng người giáo dân thì luôn luôn
hãnh diện và vui mừng vì có cha khách nâng đỡ phía sau. Điều này
gây rất khó khăn cho những linh mục đang làm việc và phục vụ
cộng đoàn. Anh em linh mục nghĩ tình bác ái mà cư xử với nhau
cho phải phép. Cách thế ban phát và cử hành các Bí Tích ngoài
phạm vi của mình( trừ trường hợp khẩn cấp), không phải là sự
giúp đỡ anh em, mà chỉ là tạo sự phiền hà cho các anh em linh
mục đang làm việc mục vụ tại địa sở của mình.
Thay lời kết ,
đây là một vài suy tư góp nhặt, con xin chia sẻ với anh em linh
mục trong Năm Thánh Linh Mục
này. Con biết rằng mỗi anh em linh mục có những khả năng, chuyên
môn và đặc sủng khác nhau. Có những anh em linh mục sống trong
môi trường Nhà Dòng, có anh em đi Truyền Giáo, có anh em là giáo
sư dạy học nơi các trường Trung Học và Đại Học, có linh mục làm
việc nơi Bệnh Viện, có cha chịu trách nhiệm Giáo Dục Giới Trẻ,
Giảng Phòng và có cha coi sóc Cộng Đoàn Giáo Xứ… Mỗi anh em linh
mục đều có những niềm vui, những khó khăn và những ưu tư trong
cuộc sống phải đối diện và phải giải quyết. Nơi mỗi giáo xứ, mỗi
cộng đoàn và mỗi môi trường có những cách phục vụ trong những
môi trường khác nhau nhưng tựu chung
chúng ta có cùng một niềm tin, một
niềm hy vọng và một hướng đi tới.
Cùng đích của chúng
ta là gặp gỡ Đức Kitô và ngày sau cùng chung hưởng hạnh phúc bên
Chúa đời đời.
Nguyện xin Thánh Cả
Giuse và Mẹ Maria là Mẹ của Chúa Giêsu Linh Mục Thượng Phẩm đầu
tiên, cũng là Mẹ của mỗi anh em linh mục chúng ta, xin các Ngài
cầu thay nguyện giúp chúng ta nên chứng nhân đích thực của Chúa
giữa trần gian. Xin Thánh Gioan Maria Vianney là quan thày của
các linh mục bầu cử cùng Chúa cho mỗi anh em, để anh em linh mục
chúng ta luôn trở thành đèn sáng soi dọi gian trần. Xin Chúa
Giêsu Linh Mục ban ơn và chúc lành cho chúng con mọi ngày trong
đời sống.
Lm. Giuse Trần Việt
Hùng - Bronx, New York. |
VỀ MỤC LỤC |
|
CÂU CHUYỆN LỄ HIỂN LINH: ĐỪNG
TƯỞNG BỞ!
|
Th ật
ra không phải đợi đến hôm nay mới mừng Chúa Hiển Linh. Đêm Giáng
Sinh, ta đã mừng Chúa Hiển Linh rồi: hiển linh cho chính cha mẹ
Ngài, hiển linh cho những người chăn chiên ở ngoài đồng Bê-lem.
Hôm nay, Chúa hiển linh cho các đạo sĩ – là những người đến từ
xa, rất xa. Và Chúa còn tiếp tục hiển linh, ít là theo truyền
thống Giáo Hội Đông Phương vẫn gán cách riêng ý nghĩa ‘hiển
linh’ cho cả biến cố Chúa chịu Phép Rửa và biến cố ‘nước hóa
rượu’ ở tiệc cưới Ca-na nữa.
Câu chuyện về
các nhà đạo sĩ hôm nay là một câu chuyện rất lạ!
Rất lạ, vì các ông ở tận bên đông
phương, các ông không thuộc dân Chúa chọn, không biết truyền
thống Lời Hứa, không Lề Luật, không Thánh Kinh..., thế mà các
ông đã đi tìm và gặp được Chúa. Đúng người. Đúng nơi. Và đúng
lúc.
Rất lạ, vì các ông rong ruổi hành
trình chỉ bám vào một ánh sao. Mà ngôi sao ấy ở đâu vậy? Nó ở
trên trời! Vâng, nó không thể ở trong túi áo hay trong va li
hành lý của các ông; nó cũng không thể gắn trên lưng lạc đà (như
chiếc đồng hồ định vị gắn trên ô-tô ngày nay) để cho các ông có
thể độc quyền. Ngôi sao ở trên trời, nhưng chỉ các ông thấy, còn
bao người khác thì không thấy!
Rất lạ, vì những người được trang
bị ‘tận răng’ như Hê-rô-đê và giới lãnh đạo Do Thái, kể cả nhóm
Biệt Phái, Sa-đốc, và các kinh sư – có lịch sử Giao Ước, có Lề
Luật, có Thánh Kinh, có Đền Thờ, có phụng vụ – nhưng chẳng hay
biết gì và đã bắt hụt Đấng của Lời Hứa.
Song đó cũng là một câu chuyện rất
quen, vì đó vốn là ‘kiểu’ của Chúa. ‘Kiểu’ của Chúa, đó là những
người tưởng ‘ngon lành’ hóa ra ‘trớt quớt’, và những kẻ tưởng
chừng ‘trớt quớt’ lại hóa ra ‘ngon lành’!
“Chiếc cung những người chiến sĩ
đã bị bẻ gãy, và người yếu đuối được mạnh khoẻ thêm. Những kẻ no
nê phải làm thuê độ nhật, và những người đói khát khỏi phải làm
thuê; người son sẻ thì sinh năm đẻ bảy, còn kẻ đông con nay phải
héo tàn... Từ nơi cát bụi, Chúa nâng người yếu đuối; từ chỗ phân
nhơ, Chúa nhắc kẻ khó nghèo, để cho họ ngồi chung với các vương
giả, và cho họ dự phần ngôi báu vinh quang.” (1Sm 2,4-8)
‘Kiểu’ của Chúa, đó là cụ bà Sa-ra
héo úa vẫn mang thai và sinh được đứa con trai mang tên “tiếng
cười.” Đó là chú em Gia-cóp thừa kế Lời Hứa chứ không phải ông
anh Ê-sau. Đó là Giu-se bị vứt bỏ lại trở thành ‘phao cứu nạn’
cho cả gia đình. Đó là thằng út Đa-vít mỏng mảnh yếu ớt được
chọn chứ không phải các ông anh vai u thịt bắp của nó. ‘Kiểu’
của Chúa, đó là bà Ê-li-sa-bét son sẻ trở thành mẹ của vị Tiền
Hô dọn đường cho Đấng Thiên Sai. Đó là cô thôn nữ Maria rất vô
danh lẩn khuất, rất âm thầm khiêm hạ lại trở thành “có phúc nhất
giữa các phụ nữ” vì được chọn làm Mẹ của Con Chúa Trời.
“Phận nữ tỳ hèn mọn, Người đoái
thương nhìn tới;
từ nay, hết mọi đời sẽ khen tôi
diễm phúc.
Đấng Toàn Năng đã làm cho tôi biết
bao điều cao cả,
danh Người thật chí thánh chí tôn!
Đời nọ tới đời kia, Chúa hằng
thương xót những ai kính sợ Người.
Chúa giơ tay biểu dương sức mạnh,
dẹp tan phường lòng trí kiêu căng.
Chúa hạ bệ những ai quyền thế,
Người nâng cao mọi kẻ khiêm nhường.
Kẻ đói nghèo, Chúa ban của đầy dư,
người giàu có, lại đuổi về tay
trắng.” (Lc 1,48-53)
‘Kiểu’ của Chúa, đó là chính Con
Thiên Chúa đã làm người trong hình hài một đứa trẻ nghèo hèn –
nhỏ bé thôi, nhỏ bé thôi... Người “hoàn toàn trút bỏ vinh
quang, mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân. sống như
người trần thế. Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng
lòng chịu chết, chết trên cây thập tự.” (Pl 2,7-8)
‘Kiểu’ của Chúa, đó là tất cả công
cuộc sứ mạng của Chúa được đặt vào tay một nhóm môn đệ ‘tài ít
tật nhiều’ với thành phần xuất thân tối om om. Hình như Chúa
thích nhặt rác, và tái chế rác để làm ra vàng. Hình như Chúa
thích làm ‘fan’ của đội yếu, chứ không ủng hộ đội bóng ‘rừng
sao’! Hình như một thông điệp Chúa vẫn muốn nhắc đi nhắc lại từ
xa xưa, dọc theo suốt dòng lịch sử, cho tới hôm nay, và Ngài sẽ
còn tiếp tục nhắc mãi, đó là: Đừng tưởng bở!
Đừng tưởng bở.
Đừng tưởng mạnh là ngon và yếu là dở.
Ở đây, chợt nhớ một luận đề luân
lý của Cha James F. Keenan, S.J. trong quyển Moral Wisdom.
Nhà thần học luân lý người Mỹ này chỉ ra rằng không phải ta phạm
tội vì ta yếu đâu, mà vì ta mạnh. Mọi trình thuật trong Tin Mừng
về tội lỗi đều làm chứng rằng người ta phạm tội vì họ mạnh chứ
không phải vì họ yếu.
Khi người thu thuế và người
Pharisêu cầu nguyện trong đền thờ, tội của người Pharisêu nằm ở
chỗ ông ta mạnh, ông ta rất ý thức những gì ông có (Lc 18,9-14).
Khi người phú hộ dửng dưng đối với anh Ladarô đói rách trước cửa
nhà, tội của ông không nằm ở chỗ ông yếu mà ở chỗ ông mạnh; ông
có thể làm điều gì đó, thế nhưng ông đã không làm (Lc 16,19-31).
Người đầy tớ được tha món nợ lớn nhưng đã không tha cho bạn mình
món nợ nhỏ hơn nhiều, anh ta phạm tội chính từ cái thế mạnh chứ
không phải từ cái thế yếu của mình (Mt 18,21-35). Hay như trong
dụ ngôn người Samaritanô nhân hậu, tội nằm ở đâu? Ngay cả tội
của những tên cướp cũng không phải là tiêu điểm được ‘soi’ ở
đây, mà chính là tội của người Lê-vi và thầy tư tế. Họ có thể
làm điều gì đó, nhưng đã không làm; và vì thế họ phạm tội từ thế
mạnh của mình (Lc 10,25-37). Trong cảnh Phán Xét Chung cũng vậy,
chiên và dê được phân ra tùy theo khả năng đã có thể làm những
điều gì đó và đã thực sự làm hay không (Mt 25,31-46).
Từ những ghi nhận căn bản ấy, Cha
Keenan, trong quyển sách nói trên, đã không tiếp cận luân lý qua
ngả tự do hay sự thật theo cách thường tình, mà
ngài chọn tiếp cận qua ngả tình yêu. Người ta phạm tội vì
người ta mạnh mà người ta không yêu thương, không có khát vọng
hướng thiện, hành thiện!
Trở lại với câu chuyện ‘hiển linh’
hôm nay, ta thấy Hêrôđê và những người Do Thái ở thế mạnh, vì có
hầu như đủ mọi phương tiện (để tìm gặp Chúa) – nhưng lại thiếu
một cái gì đó... Còn các nhà đạo sĩ ở thế yếu, vì hầu như chẳng
có manh mối nào (để tìm gặp Chúa) – song các ông lại có một cái
gì đó... Sự khác biệt nằm ở chỗ có hay không có KHÁT
VỌNG, hay TẤM LÒNG, hay TÌNH YÊU!
Sự việc càng tệ hại hơn, khi người
ta không có khát vọng hướng thiện, hướng thiên, mà thay vào đó
là tham vọng và ích kỷ. Người ta sẽ dùng các phương tiện Chúa
ban cho, tức thế mạnh của mình, không phải để tìm và gặp
Chúa mà là để tìm và diệt Chúa. Đây chính là điều
Hê-rô-đê đã làm.
Bài học từ câu chuyện Lễ Hiển Linh
vẫn còn nóng hổi cho chúng ta, cho tôi, hôm nay! Chúng ta có
những thế mạnh, những phương tiện để tìm gặp Chúa? Hãy tạ ơn
Chúa, nhưng cũng ... đừng tưởng bở!
Lm. Lê Công Đức -
Lễ Hiển Linh 2010 |
VỀ MỤC LỤC |
|
CỜ THÁNH GIÁ PHẢI GIƯƠNG CAO !
|
Trong sân
trường đại học, tôi chợt chú ý đến một nhóm sinh viên đang thảo
luận sôi nổi và vui vẻ. Một cô gái nói: “Để tôi giải thích cho
ông. Lễ bổn mạng ca đoàn nghĩa là…” Tôi biết cô này có đạo, và
tôi hỏi anh chàng đang lắng nghe cô ấy: “Còn em thì…”. Cậu sinh
viên đáp: “Dạ em không có đạo”. Tôi bảo: “Em đừng nói vậy. Em
nên nói là em chưa có đạo mới đúng chứ”. Thế là cậu ấy hào hứng
hẳn lên: “Dạ, đúng thế.” Và cậu sinh viên kể về những người cậu
biết trước kia không có đạo mà đã xin theo đạo. Và cậu ta còn
bảo: “Hôm Giáng sinh em đi học, cô giáo nói “Không biết sao
nhiều người ở Việt nam sợ Chúa Giêsu quá”.
Tôi ngẫm
nghĩ, cô giáo của lớp ấy nói đúng. Cách đây ít lâu, Cha Giám
tỉnh Dòng Chúa Cứu Thế cũng đã nói: “Người ta sợ sự thật”. Chúa
Giêsu là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống. Thế gian hôm nay sợ sự
sống, biểu hiện qua nền “văn hoá sự chết”, phải nói đúng hơn là
“thoái hoá chết chóc” chứ sự chết, sự giết thai nhi sao gọi là
văn hoá được. Thế gian sợ sự thật nên thế gian mới kết án Đức
Giêsu và những ai bước theo Người. Và thế gian ở thời nào cũng
vậy, luôn muốn loại Giêsu ra khỏi lịch sử và khỏi cuộc đời của
mỗi con người đang sống giữa thế gian.
Có một điều
không ai thay đổi được nữa. Ấy là cột mốc thời gian. Nhiều người
không muốn dính dáng gì đến ngày Đức Giêsu xuống thế nên họ
không chấp nhận sử dụng dương lịch đang có (lịch Gregorian này),
và họ muốn đổi ngày tháng, đổi năm, muốn dùng lịch cách mạng Nga
chẳng hạn. Nhưng đã trễ. Chúa Giêsu là Chúa của thời gian, cho
nên khi năm hết Tết đến, dù ai có ghét Giêsu và có giận hờn Đức
Giáo Hoàng thì vẫn phải đồng thanh với thế giới mà tuyên xưng
“năm của Thiên Chúa chúng ta, A.D, năm nay là 2010”.
Loại Giêsu ra
khỏi thời gian là không được rồi, thế gian lại muốn tẩy xoá vết
tích của Người. Nhưng có một điều thế gian điêu ngoa không chịu
suy ngắm. Ấy là Lời Chúa Giêsu: “Ngày nào Ta bị treo lên cao
khỏi đất, Ta sẽ kéo mọi người lên cùng Ta”. Giêsu đã kéo con
người lên rồi, thì những người không muốn lên chỉ có thể đứng
lại mà kêu gào, chứ làm sao có thể kéo phần nhân loại được cứu
kia xuống với mình được?
Dấu vết rõ
ràng nhất của Giêsu trong dòng lịch sử này chính là Thánh Giá
của ơn cứu độ. Nơi đâu có con người, ở đó phải có Thánh Giá, bởi
vì đặc tính của ơn cứu độ là phổ quát và vĩnh tồn. Thánh Giá còn
là biểu tượng của các nền văn minh, biểu tượng của bác ái và
nhân hậu nữa. Hãy nhìn các kiến trúc qua bao nhiêu thế hệ thì
rõ. Hãy nhìn Hội Hồng Thập Tự (Chữ Thập Đỏ) thì biết. Nhưng
trong nhân loại đây đó vẫn có những con người dị ứng với Thánh
Giá. Có lẽ không cần lý giải nhiều. Chỉ cần xem ví dụ này: trong
những chỗ người ta giao tiếp với ma quỉ, người ta không đeo
Thánh Giá, vì quỉ sẽ sợ mà không xuất hiện.
Giáo Hội Việt
Nam đầu năm mới đã bàng hoàng với những lá thư kết tội các mục
tử nhân dũng và với hành vi xúc phạm đến Thánh Giá vinh quang
của Đấng Cứu Thế. Chẳng khác gì hai ngàn năm trước, giữa mùa
hồng ân của Lễ Vượt Qua trong dân thánh, có một con người chí
thánh đã phải chịu tử hình. Lúc ấy người ta dựng Thánh giá lên.
Rồi Thánh Giá vươn cao, cờ Thánh giá tung bay trên bầu trời nhân
thế. Dựng Thánh giá lên rồi, thế gian bấn loạn vì sức mạnh của
Thánh giá là vô cùng. Do đó nhiều năm sau, thế gian hốt hoảng hạ
Thánh giá xuống. Nhưng mà đã trễ.
Ba ngày sau
khi Tử nạn, Đức Giêsu phục sinh với toàn bộ ánh vinh quang của
Thiên Quốc. Hai ngàn năm sau ngày Phục Sinh ấy, ánh sáng vẫn
chiếu rực rỡ. Giáo Hội Việt nam vừa mới tưng bừng khai mạc Năm
Thánh, không lẽ thế gian quên mất hàng trăm ngàn anh hùng tử đạo
Việt nam đã can trường bảo vệ Thánh Giá Đức Kytô và bây giờ con
cháu các ngài cũng đang giương cao ngọn cờ Thánh Giá trên quê
hương này?
Thiên Chúa có
ngàn vạn cách để nhân loại nhận biết và tôn thờ Thánh Giá, chứ
không phải chỉ có một cách duy nhất là loan báo bằng lời. Lịch
sử ơn cứu độ đã chứng minh những cuộc lưu đày và những cuộc bách
hại là thời cơ cho dân Israel nhận biết tình thương yêu của
Ngài, chứ không phải chỉ có lời rao giảng của các ngôn sứ mới có
tác dụng răn dạy và tiên báo. Lịch sử Hội Thánh hai ngàn năm qua
cũng là minh chứng hùng hồn cho lời nói của sử gia Tertulianô:
“Máu các thánh tử đạo là hạt giống trổ sinh người tín hữu”. Việc
triệt hạ Thánh giá và ảnh tượng thánh là những việc khá bình
thường ở Tây phương ngày trước trong những xứ sở còn man di hay
trình độ người lãnh đạo xã hội thấp kém mà lại có cái tâm không
mấy trong. Những cuộc triệt hạ như thế thường giúp dựng lại
Thánh Giá trong tâm hồn người tin Chúa Giêsu.
Khi xã hội
tiến bộ hơn, người ta không dại gì phá bỏ Thánh giá các nơi, vì
trí khôn dạy họ rằng những hành vi ấy chỉ củng cố đức tin của
người môn đệ Đức Kytô. Xã hội văn minh có những cách khác, hữu
hiệu hơn và khoa học hơn. Nhưng cho dù cách thế nào thì cuối
cùng Thánh giá Chúa vẫn là biểu tượng của ơn cứu độ mà không có
quyền lực nào, dù là quyền lực hoả ngục, có thể phá huỷ được.
Tám triệu
người Công giáo Việt nam, hàng triệu những người theo các tôn
giáo thờ Chúa Giêsu trong nước và hàng tỉ người tin Chúa trên
thế giới đau lòng mỗi khi Thánh Giá Chúa bị xúc phạm. Người ta
sợ Chúa thì lẽ ra người ta nên đến với Người vì Người nhân hậu.
Chẳng lẽ cứ mãi đối đầu với Đấng có thể trong tích tắc biến họ
thành tro bụi muôn đời?
Chẳng bao lâu
nữa dân Chúa bước vào Mùa Chay Thánh. Mùa Chay năm nay dân Chúa
phải ăn chay nhiều hơn và cầu nguyện nhiều hơn để đền tội thay
cho những con người thế gian một lần nữa rút gươm đâm vào cạnh
sường Chúa. Nhưng dù sao thì người Công Giáo vẫn tin chắc rằng
khi máu và nước từ Thánh Tâm Chúa Giêsu đổ ra, nhiều tâm hồn sẽ
được cứu, nếu họ có thiện chí.
Khi kết thúc
bài viết này, chúng tôi muốn được nhắc lại thêm lời sử gia
Tertuliano khi ông nói với thế gian điêu ngoa lúc ấy: “Chúng tôi
cũng là anh em với quý vị vì thiên nhiên là bà mẹ chung của
chúng ta ; quý vị sẽ không là người nữa nếu quý vị không là anh
em tốt với nhau. Nhưng người ta càng có lý hơn nữa, khi gọi và
coi nhau như anh em vì cùng nhận một Thiên Chúa là Cha chung, vì
cùng được no thỏa bởi cùng một thần khí thánh thiện và cùng được
ánh sáng chân lý chiếu soi, sau khi đã cùng nhau ra khỏi vực sâu
u tối, mê muội.”
Lạy Mẹ Maria,
người đau lòng nhất khi Chúa Giêsu bị xúc phạm là Mẹ, người Mẹ
của Chúa và của cả nhân loại đang lưu đày này. Xin Mẹ là Nữ
Vương Công Lý cho chúng con được vững tin ngay cả khi thế gian
say sưa chống đối Con của Mẹ.
Gioan Lê
Quang Vinh
|
VỀ MỤC LỤC |
|
QUYỀN ĐƯỢC TIẾP CẬN THÔNG TIN DƯỚI
ÁNH SÁNG HỌC THUYẾT XÃ HỘI CỦA GIÁO HỘI
|
Trong đời
sống thường nhật, thông tin đóng một vai trò hết sức quan trọng.
Con người nếu không có thông tin coi như không biết gì cả và
không thể nào phát triển được. Với thời đại phát triển đến mức
chóng mặt như như hiện nay thông tin càng trở thành một trong
những nhu cầu sống còn của con người.
Tự do thông
tin là một trong những quyền căn bản của loài người. Không một
thế lực, tổ chức nào có quyền nhân danh bất cứ lý do gì để phủ
nhận hay bóp nghẹt quyền lợi chính đáng đó. Vì vậy, trong điều
19 của bản Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền Liên Hiệp Quốc, năm
1948 đã xác định: “Mọi người đều có quyền tự do ngôn luận và
bày tỏ quan điểm; kể cả tự do bảo lưu ý kiến không phụ thuộc vào
bất cứ sự can thiệp nào, cũng như tự do tìm kiếm, thu nhận,
truyền bá thông tin và ý kiến bằng bất cứ phương tiện thông tin
đại chúng nào và không giới hạn về biên giới”. Thế nhưng,
cho đến những năm đầu thế kỷ 22 này, vẫn còn một số nước, dẫu
rằng họ là thành viên của Liên Hiệp Quốc nhưng nhà cầm quyền vẫn
luôn tìm cách để cấm đoán, bóp nghẹt quyền tự do ngôn luận của
người dân. Có những nước được tự do ngôn luận nhưng có những
nước thông tin chỉ một chiều, một phía từ những người có thế lực
trong xã hội. Với nguồn thông tin một chiều, những người thấp cổ
bé họng sẽ bị thiệt thòi, sẽ bị đè nén, chà đạp đến tận xương
tận tuỷ.
Ta thử tìm
hiểu một số nét về quyền được tiếp cận thông tin khách quan về
các biến cố công cộng tại hông tin dưới ánh sáng của học thuyết
xã hội của Giáo Hội.
I – Quan điểm của học thuyết xã
hội của Giáo Hội khi bàn về quyền tiếp cận thông tin
Trước khi đi
vào tìm hiểu quyền tiếp cận thông tin dưới ánh sáng của học
thuyết xã hội của Giáo hội, chúng ta cần xác định: giáo huấn xã
hội của Hội Thánh là một phần quan trọng của nhận thức Kitô giáo
về cuộc sống;
nó đặt nền tảng trên mặc khải và luật tự nhiên.
Hơn nữa, vì nó áp dụng chân lý và luân lý Kitô giáo vào nhiều
hoàn cảnh lịch sử khác nhau trên thế giới, nên giáo huấn này
đáng nhận được sự đồng thuận của người tin như bất kỳ tuyên bố
nào khác của huấn quyền.
Đồng thời, những nguyên tắc rút ra từ đó cũng mang tính chất
hoàn toàn khách quan và đáng được áp dụng vào những hoàn cảnh xã
hội khác nhau.
Khi bàn về
quyền tiếp cận thông tin khách quan về các biến cố tại những
nước mà thông tin bị bóp méo, bị dị dạng dưới ánh sáng của học
thuyết xã hội của Giáo Hội, ta thấy một trong những nguyên tắc
căn bản liên quan đến truyền thông được giáo huấn xã hội của Hội
Thánh đề cập, đó là nguyên tắc công ích trong thông tin, truyền
thông. Giáo Hội luôn nhấn mạnh: “Thông tin do các phương tiện
truyền thông cung cấp phải nhằm phục vụ công ích. Xã hội có
quyền nhận được những thông tin căn cứ trên sự thật, tự do, công
lý và liên đới”.
Với nguyên tắc căn bản này, vấn đề chính yếu mà ta cần xác định
là liệu một hệ thống thông tin có góp phần làm cho con người trở
nên tốt hơn không, nghĩa là nó có giúp con người trưởng thành
hơn về tâm linh, ý thức hơn về phẩm giá con người của mình, chịu
trách nhiệm nhiều hơn hay cởi mở hơn đối với những người khác,
nhất là những người túng thiếu và yếu kém nhất hay không.
Bên cạnh
nguyên tắc công ích, các giáo huấn xã hội của Hội Thánh còn đề
cập đến nguyên tắc đạo đức trong truyền thông. Trong thế giới
thông tin, những khó khăn nội tại của việc truyền thông được
phóng đại do các ý thức hệ, do cạnh tranh và xung đột giữa các
tập thể và do những tệ đoan xã hội khác. Một vài nước đã không
cho tự do ngôn luận và đó là lối truyền thông sai lệch, một
chiều nhằm mục đích phục vụ cho đường lối riêng của đất nước.
Bởi thế, các giá trị và các nguyên tắc luân lý phải được áp dụng
cho các phương tiện truyền thông. Trong huấn thị Đạo đức trong
truyền thông, huấn quyền của Hội Thánh khẳng định: “Chiều hướng
đạo đức không chỉ có liên quan tới nội dung truyền thông (tin
tức, thông điệp) và quá trình truyền thông, mà còn liên quan đến
các vấn đề căn bản, liên quan đến cơ cấu và hệ thống, bao gồm cả
những vấn đề lớn như chính sách truyền thông…”.
Huấn quyền cũng nhấn mạnh rằng trong cả ba lãnh vực: thông điệp,
quá trình và các vấn đề cơ chế truyền thông, phải luôn áp dụng
một nguyên tắc luân lý căn bản đó là con người và cộng đồng nhân
loại phải là mục tiêu và thước đo của việc sử dụng các phương
tiện truyền thông. Một nguyên tắc thứ hai bổ sung cho nguyên tắc
thứ nhất: lợi ích của con người không thể nào đạt được một khi
tách khỏi lợi ích chung của cộng đồng mà con người thuộc về.
II– Thực trạng quyền được tiếp cận
thông tin tại những nước thiếu tự do về thông tin
Trước khi bàn
về thực trạng quyền được tiếp cận thông tin tại một số nước
thông tin bị bóp méo, thiết nghĩ chúng ta cần xác định với nhau
rằng: Là công dân của một quốc gia, (kể cả các tổ chức có tư
cách pháp nhân) chúng ta có quyền được tiếp cận những thông tin
liên quan đến, có thể ảnh hưởng tới cuộc sống, hoạt động của
chúng ta. Thông tin có thể là về một công ty, về một tổ chức,
thậm chí về một cá nhân. Tuy nhiên, có những thông tin mang tính
riêng tư mà không ai có quyền xâm phạm nếu không được người chủ
cho phép. Nhưng có những thông tin về một tổ chức, một cá nhân
có thể ảnh hưởng đến những người khác thì phải có cơ chế, quy
tắc cho những người có thể bị ảnh hưởng có thể tiếp cận đến…
Chúng ta có
thể xác định với nhau như vậy bởi vì: quyền được tiếp cận thông
tin là một quyền hiến định của công dân. Theo điều 69 của Hiến
pháp của hiện hành (1992) của Việt Nam nêu rõ: “Công dân có
quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí; có quyền được thông tin;
có quyền hội họp, lập hội, biểu tình theo quy định của pháp
luật”. Quả vậy, theo quan điểm của tiến sĩ Nguyễn Quang A trong
bài viết đăng trên tờ Lao Động cuối tuần ngày 8/2, ông đã viết :
''Nhà nước là “của dân, do dân và vì dân” nên công dân phải được
thông tin trung thực kịp thời về hoạt động, chính sách, chủ
trương của các cơ quan nhà nước, của các cơ quan “của mình”, “vì
mình”. Đấy là quyền của công dân, họ có quyền đòi hỏi (chứ không
phải xin) cơ quan nhà nước cung cấp thông tin và các cơ quan nhà
nước phải có nghĩa vụ cung cấp (chứ không phải ban phát). Đấy là
nguyên tắc''.
Quả thực, khi
nhìn vào thực trạng của những nước không có tự do thông tin hay
thông tin thiếu chính xác dưới ánh sáng của học thuyết xã hội
của Giáo Hội, ta thấy, quyền được tiếp cận thông tin của người
dân chưa bao giờ được tôn trọng một cách đúng mức. Theo Thiên Ân
nhận định: “đã có một thời, người dân của một nước thiếu tự do
trong lãnh vực thông tin có thể bị bỏ tù vì dám thu thập những
thông tin thời sự chính trị, xã hội trong nước cũng như thế giới
từ các đài báo nước ngoài. Đã có những người bị đi tù đến 10 năm
vì dám nghe đài BBC! Ngày nay, tình hình có lẽ không đến nỗi
trầm trọng, quá đáng như thế, nhưng dẫu sao, hằng ngày người dân
vẫn phải miễn cưỡng tiếp cận những thông tin đã qua sự kiểm
soát, kiểm duyệt của quyền lực chính trị, người dân vẫn phải
tiếp xúc (dù chấp nhận hay không chấp nhận) những thứ thông tin
lệch lạc, một chiều, có lợi và phục vụ cho chế độ chuyên quyền
cộng sản. Thậm chí, họ còn bị các cơ quan chủ quản bưng bít các
thông tin có liên quan, có ảnh hưởng tới đời sống của người
dân”.
Như chúng ta
đã biết, trong Hiến Pháp hiện hành nhiều nước nêu rất rõ: công
dân có quyền được thông tin. Tuy nhiên trên thực tế cho đến nay,
một số nước vẫn chưa thực hiện điều này theo đúng Hiến Pháp đã
đề ra. Có lẽ vì chưa có một đạo luật rõ ràng, nên quyền tự do
thông tin trong nước mà điển hình là quyền tiếp cận thông tin
của người dân vẫn ở trong tình trạng tranh tối tranh sáng.
Hậu quả là dân chúng bị nhiều hạn chế khi tiếp cận thông tin từ
các cơ quan công quyền, nếu không muốn nói rằng người dân ở
nhiều nơi còn bị bưng bít thông tin.
Và nếu được thông tin thì hầu hết là những thông tin sai lệch,
bị bóp méo, một chiều.
Gần đây,
những thông tin về tình hình tại Thái Hà, toà Khâm Sứ, Tam Toà…
vấn đề Bauxite ở Tây nguyên… đều chỉ là thông tin một chiều. Bên
cạnh đó, nếu không cẩn thận nhà báo có thể bị truy tố khi đưa
những tin tức liên quan, với lý do đó là thông tin "nhạy cảm",
có ảnh hưởng đến an ninh hay quyền lợi quốc gia, dù các thông
tin ấy phanh phui những vụ tiêu cực, tham nhũng.
Ngoài ra, như
chúng ta đã biết, đáng tiếc là một số nước còn nằm trong chế độ
xã hội chuyên chế, độc đảng, nếu không muốn nói người, mọi sự và
đó cũng là một tổ chức không bị ai kiểm soát đang tìm mọi cách
kiểm soát thông tin với hy vọng là độc tài. Trong thực tế, duy
chỉ một Đảng nắm trọn quyền lực chính trị, kiểm soát hết mọi
dùng độc quyền thông tin một chiều để điều kiện hóa dân, giúp
giữ được độc quyền chính trị. Chính vì vậy, tại một vài nước hết
sức buồn cười. Dẫu rằng nước đó có trên 700 tờ báo nhưng không
hề có bất cứ một tờ báo tư nhân độc lập với chính quyền. Buồn
cười hơn nữa là một đất nước mà không hề tìm thấy đài phát
thanh, truyền hình cũng như nhà in tư nhân.
Với vấn đề tự
do báo chí, phát biểu trong đại hội lần thứ 8 của Hội Nhà Báo
một nước nọ - nước ấy luôn đề cao quyền con người, tự do báo
chí, vào năm 2005, một “ông lớn” chỉ thị cho các nhà báo: “phải
tuyệt đối trung thành với đảng”. Và cuối tháng 11 năm 2006, một
“ông lớn” khác ra Chỉ thị : “Kiên quyết không để tư nhân hóa báo
chí dưới mọi hình thức”; rồi vào tháng 10 năm ngoái, Bộ Thông
tin và truyền thông thành lập một cơ quan mới để kiểm soát
internet gắt gao hơn; hoặc ngay từ căn bản luật pháp, “Luật báo
chí” hiện hành mặc nhiên thể hiện mục tiêu “quản lý” báo chí hơn
là phát huy quyền tự do báo chí, tự do ngôn luận mà Hiến pháp đã
minh định... tất cả những điều vừa kể không thấy bản bạch thư
nhân quyền đề cập đến, hoặc giải bắt bớ, trù dập các nhà báo,
bắt đình bản những tờ báo không đi theo “lề bên phải” của nhà
nước giải thích rằng chúng phục vụ cho tự do ngôn luận, tự do
báo chí ra sao... Đó là chưa kể đến vô số những vụ việc đã bị
dìm xuống đất đen.
Chính điều
này đã đi ngược lại hoàn toàn với hai nguyên tắc liên quan đến
vấn đề thông tin mà giáo huấn của Giáo Hội đã nêu ở trên. Vì vậy
hơn lúc nào hết chúng ta, những Kitô hữu cần phải tìm ra cho
mình và mọi người những giải pháp khả dĩ đảm bảo quyền cơ bản
của con người về việc tiếp cận thông tin khách quan về các biến
cố công cộng trong hoàn cảnh cụ thể của một nước mất tự do.
III – Phương hướng giải quyết
Trước hết, có
thể khẳng định sở dĩ có tình trạng thông tin, truyền thông một
chiều trong một số xã hội là vì ở những đất nước đó các phương
tiện truyền thông chỉ do một số ít người có quyền lực chi phối,
kiểm soát. Do đó, để bảo vệ quyền cơ bản của con người về việc
tiếp cận các thông tin khách quan, nhất thiết phải có sự đa
nguyên thật sự trong lãnh vực tế nhị này của đời sống xã hội,
đồng thời có nhiều hình thức và phương tiện thông tin và truyền
thông, vả lại cũng cần có sự bình đẳng trong việc sở hữu các
phương tiện ấy qua những luật lệ thích hợp.
Để có được sự
đa nguyên trong truyền thông, thì không phải là chuyện một sớm
một chiều. Do đó, một giải pháp tức thời được đề nghị là cần gây
ý thức cho người dân ngay lúc này về những quyền cơ bản của họ;
khơi gợi cho quần chúng về quyền cơ bản được tiếp cận thông tin
khách quan về các biến cố công cộng, cũng như những quyền lợi cơ
bản khác có liên quan, chẳng hạn quyền tự do ngôn luận, quyền tự
do lương tâm và tư tưởng, quyền phản đối theo lương tâm…
Khi đã ý thức
được những quyền cơ bản mà mình có, họ có thể chủ động tiếp cận
và biện phân các thông tin do các phương tiện truyền thông cung
cấp. Và một khi quần chúng có sự chủ động và có khả năng biện
biệt trong việc tiếp cận các thông tin, thì trong xã hội tất
nhiên sẽ hình thành được tiếng nói lành mạnh, tích cực của công
luận. Tiếng nói của công luận sẽ là yếu tố quan trọng làm thay
đổi bộ mặt xã hội, công phá chế độ chuyên chế độc tài về chính
trị, về truyền thông.
Điều cần
thiết nhất trong hiện tại đó là về giáo dục. Phải quan tâm đặc
biệt trong lãnh vực giáo dục con trẻ. Với một xã hội nhập nhằng
tranh tối tranh sáng, trong đó con người từ khi còn nhỏ đã bị
nhồi sọ bởi những thứ thông tin lệch lạc, một chiều, nếu trong
các gia đình, các bậc phu huynh không chủ động giáo dục, huấn
luyện con em mình về óc phán đoán và phê bình khi tiếp cận các
thông tin, thì chắc chắn có một hậu quả dây chuyền xảy đến: xã
hội từ thế hệ này tới thế hệ kia ù lì, thụ động, buông xuôi
trước một chế độ độc tài về chính trị nói chung và về truyền
thông nói riêng.
Những bậc
thầy trong lãnh vực giáo dục thế hệ mầm non cần trau dồi kiến
thức cũng như khả năng cảm thụ và biện phân các thông tin để rồi
truyền đạt lại cho thế hệ trẻ. Từ chỗ có một thế hệ trẻ biết chủ
động cảm thụ và biện biệt các thông tin do các phương tiện
truyền thông cung cấp, sẽ có được một xã hội sáng sủa trong
tương lai, trong đó tiếng nói tích cực, lành mạnh của công luận
sẽ hình thành; tiếng nói đó sẽ là yếu tố làm lộ diện ra một xã
hội thiếu công lý và sự thật.
Kết luận
Nói chung,
khi tìm hiểu về quyền tiếp cận thông tin khách quan về các biến
cố dưới ánh sáng của học thuyết xã hội của Giáo Hội trong tình
hình thực tế của một số xã hội, có lẽ ta không khỏi băn khoăn
suy nghĩ về các quyền cơ bản của con người, đặc biệt là quyền
được tiếp cận thông tin khách quan về các biến cố công cộng.
Với hệ thống
thông tin, truyền thông sai lệch, một chiều đang là yếu tố đe
dọa cách nghiêm trọng quyền cơ bản đó của con người. Có thể nói,
một trong những nguyên nhân sâu xa dẫn tới sự sai lệch, một
chiều trong truyền thông đó là sự tồn tại của một chế độ chuyên
quyền, độc tài. Vì thế, việc xóa bỏ một chế độ độc tài công khai
và kéo dài, gây thiệt hại lớn cho các quyền cơ bản của con người
và làm tổn thất nghiêm trọng cho ích chung của xã hội, là nhiệm
vụ của mọi người, nhất là của các Kitô hữu – những người có bổn
phận phải công bố Tin mừng giải thoát cho mọi loài thọ tạo.
Là một công
dân trong xã hội, đặc biệt lại là người Công Giáo, hơn bao giờ
hết những người Công Giáo được thúc bách sống Tin mừng giữa lòng
dân tộc. Tin mừng ấy là Chân Lý, là Sự Thật, là Tình Yêu của Đức
Kitô.
Nếu may mắn,
kitô hữu sống được trong những đất nước mà thật sự Công Lý và
Hoà Bình thịnh trị đang hiển hiện. Nếu kém may mắn sống trong
một đất nước mà thiếu sự thật, thiếu tự do thì kitô lại càng
phải làm gương, phải cố gắng mang Chân Lý, Sự Thật, Tình Yêu của
Chúa đến cho những người xung quanh họ sống. Dẫu biết rằng còn
nhiều chông gai, còn nhiều thử thách và thậm chí là phải đổ máu
đào để làm chứng cho Sự Thật nhưng kitô hữu không được nản lòng.
Biết đâu một ngày nào đó Thần Chân Lý, Thần của Sự Thật sẽ biến
đổi những “lòng chai dạ đá” để họ quay về với nguồn mạch Sự Thật
và Yêu Thương Vĩnh Cửu.
Ôi Thần Linh
Thánh Ái xin mở rộng lòng con, xin thương ban xuống những ai
lòng đầy thiện chí Ơn An Bình.
Lm. Anmai, DCCT
x. Đức Leô XIII, Thông điệp Rerum Novarum, 12; cũng x.
Đức Piô XI, Thông điệp Quadragesimo Anno, 17; Đức Gioan
XXIII, Thông điệp Mater et Magistra, 219
Giáo lý Hội Thánh Công Giáo, 2494; x. Công Đồng Vatican
II, Sắc lệnh Inter Mirifica, số. 11.
x. Hội đồng Giám mục Việt Nam, Tóm lược học thuyết xã
hội của Giáo hội, nxb tôn giáo, 2007, tr. 288.
Đức Phaolô VI, Thông điệp Populorum Progressio, 31
|
VỀ MỤC LỤC |
|
BẢNG CHỮ CÁI |
A i cũng biết cuộc đời không
hoàn hảo
B ởi nơi đâu cũng thấy lắm
buồn phiền
C ho dù thế bạn vẫn mãi ngợi
khen
D ù đang sống qua những ngày
khốn khổ.
Đ ừng hờn căm hoặc mở lời
than thở
E ngại gì khi Chúa ở cùng
ta?
G ió có to, cùng bão táp
phong ba...
H ãy trông cậy Đấng Toàn
Năng Bất Diệt.
I m lặng tin vào những điều
mình biết
K hông Tình Người cuộc sống
sẽ ra sao?
L ấy đâu ra niềm vui lẫn tự
hào?
M ãi cảm tạ vì những ơn quí
giá
N gười luôn ban, với tình
yêu cao cả
Ôi! hãy ra cho khỏi “chốn
thương đau”
P hải biết rằng khi tha
thiết nguyện cầu
Q uyền năng Người sẽ đem về
chiến thắng,
R ạng ngời lên trong bóng
đêm cay đắng.
S ao cứ chờ cứ đợi ở tương
lai
T hay vì nhìn hiện tại mỗi
ban mai?
Ư
ớc mong bạn sống tâm tình cảm tạ
V ào những ngày sung túc
hoặc tả tơi.
X ưng danh Người ở mọi lúc
mọi nơi
Y êu mến Chúa... Bạn không
còn buồn bã.
Trần Duy
Nhiên dịch -
http://www.moytura.com/reflections/alphabet.html
***********************************************
Lạy Cha
là Chúa tể trời đất, 365 ngày cũ với những dang dở thiếu sót đã
sang trang, nhường chỗ cho 365 ngày mới tốt đẹp hơn, thánh thiện
hơn! Xin cho con nhận ra sự hiện diện của Chúa từ chữ A đến chữ
Z mỗi khi con dùng ngôn ngữ để diễn tả tâm tình của mình. Xin
cho con luôn nhớ đến Chúa mỗi khi con khóc hay cười, buồn hay
vui; mỗi khi con thất bại hay thành công; trong những lúc con
giận giữ hay tuyệt vọng; trong mỗi cảm xúc con người của mình
đều có Chúa đang ở cùng con. 365 ngày trước mắt sẽ là một đoạn
đường ngập đầy hoa và tiếng chim hót nếu con tung tăng đi bên
Chúa mỗi ngày. Lạy Chúa, xin ở cùng con mỗi ngày trong suốt 365
ngày mới này. Amen!
LTCT
***********************************************
ALPHABET
A lthough things are not
perfect
B ecause of trial or pain
C ontinue in thanksgiving
D o not begin to blame
E ven when the times are hard
F ierce winds are bound to blow
G od is forever able
H old on to what you know
I magine life without His love
J oy would cease to be
K eep thanking Him for all the
things
L ove imparts to thee
M ove out of "Camp Complaining"
N o weapon that is known
O n earth can yield the power
P raise can do alone
Q uit looking at the future
R edeem the time at hand
S tart every day with worship
T o "thank" is a command
U ntil we see Him coming
V ictorious in the sky
W e'll run the race with
gratitude
X alting God most high
Y es, there'll be good times
and yes some will be bad, but...
Z ion waits in glory...where
none are ever sad !
Gs. Trần Duy Nhiên (dịch) |
VỀ MỤC LỤC |
|
TIÊU
CỰC & GIAN DỐI : ĐÂU LÀ NGUYÊN NHÂN CỦA MỌI NGUYÊN NHÂN ?
|
Có lẽ chưa bao giờ người dân Việt
Nam lại ngao ngán trước những tiêu cực, tệ nạn, bất công, gian
dối đầy dẫy trong xã hội như ngày hôm nay. Tiêu cực, tệ nạn có
mặt trong mọi lĩnh vực, kể cả 2 lĩnh vực được coi là thiêng
liêng nhất, đó là y tế và giáo dục. Nào là tệ nạn học giả bằng
thật, chạy trường, chạy lớp, chạy bằng cấp, đút tiền để được đi
dạy, đi làm… Nào là nạn nâng khống giá thuốc bảo hiểm y tế vô
tội vạ để hưởng lợi; nào là không khám lâm sàng mà bắt các bệnh
nhân đi xét nghiệm để thu thêm phí, bác sĩ bắt tay cùng nhà
thuốc để bóc lột người bệnh, v.v… Người dân phải chấp nhận sống
chung với gian dối, tiêu cực, tệ nạn như người miền Tây, miền
Trung được khuyên tập sống chung với lũ vậy.
Có nhiều nguyên nhân được đưa ra.
Và một trong những nguyên nhân chính là do quản lý yếu kém và
luật pháp không nghiêm minh : nhiều vụ việc phạm pháp nghiêm
trọng nhưng xử lí chỉ như gãi ngứa. Tuy nhiên, thiết tưởng
nguyên nhân sâu xa nhất, nguyên nhân của mọi nguyên nhân, chính
là sự vắng bóng Thiên Chúa, như nhận định của Đức Thánh Cha
Bênêdictô 16 trong một lần nói chuyện với các khách hành hương
vào trưa Thứ Tư hằng tuần.
Giáo lý Kitô giáo định nghĩa :
“Lương tâm là tiếng Chúa nói trong linh hồn bảo ta làm lành lánh
dữ”. Do đó, một khi vắng bóng Thiên Chúa thì vị thần lương
tâm đành phải đội nón ra đi; một khi phủ nhận Thiên Chúa thì
đương nhiên cũng phủ nhận tiếng lương tâm, coi “lương tâm
không bằng lương tháng”. Nói cách khác, đối với những kẻ chủ
trương vô thần, không tin có Thiên Chúa, lương tâm chẳng là gì
cả, chẳng đáng 700.000đ (mức lương cơ bản hiện nay)! Tất nhiên
khi lương tâm bị “hạ bệ” thì bất cứ việc gì xấu người ta cũng có
thể làm được, miễn sao che mắt được thiên hạ, giấu diếm được
người đời.
Một người sản xuất nước mắm hay
nước tương chẳng hạn, nếu người này tin thật có Thiên Chúa, có
Trời Phật, thì dù không bị các cơ quan chức năng giám sát, kiểm
định an toàn thực phẩm, họ vẫn không dám gian dối sử dụng các
hoá chất độc hại, đường hoá học, đạm kali… Vì họ xác tín rằng
lương tâm mình không cho phép, Trời Phật không cho phép. Ngược
lại, nếu người đó không tin có Thần Thánh, Chúa Mẹ gì hết thì
một khi che giấu được cơ quan chức năng, họ sẵn sàng sử dụng mọi
thủ đoạn để trục lợi.
Như vậy, đừng ngạc nhiên khi nghe
trong một đất nước chủ trương vô thần lời than trách vì sao
người ta làm ăn gian dối, thiếu lương tâm đến thế. Đã vô thần
thì có lương tâm đâu mà thiếu với vắng. Cũng đừng quá phàn nàn
nhà nước ta quản lí yếu kém. Muôn đời sẽ còn quản lí yếu kém trừ
phi mỗi người dân có một nhân viên giám sát, nhưng lấy đâu ra
đội ngũ quản lí bảy tám chục triệu người.
Sẽ không bao giờ giảm được tiêu
cực, cũng không bao giờ bớt được gian dối lọc lừa trong xã hội,
khi xã hội đó được đặt trên nền móng vô thần chủ nghĩa. Trong
một đất nước phủ nhận Thiên Chúa, không có gian dối tiêu cực mới
lạ !!!
Anh đại Trung Quốc kia là một bằng
chứng. Mặc dù chính quyền đã thẳng tay trừng trị tham nhũng, tử
hình hàng loạt quan tham, nhưng tham nhũng vẫn cứ phây phây
chẳng khác nào con bạch tuộc, chặt vòi này lòi vòi khác. Người
dân chỉ còn cách là chấp nhận thực tế sống chung với tham nhũng.
Còn gì nữa ? Dù đã huy động mọi nguồn lực quản lí thị trường,
nhưng hàng nhái, hàng giả, hàng giỏm vẫn tràn ngập thị trường,
đến nỗi họ được tặng những biệt danh là
“xứ sở hàng nhái”, “thánh địa hàng
giả”…
Chẳng phải chính phủ các nước Tây
Phương tài ba gì hơn đâu, cũng chẳng phải họ có 3 đầu 6 tay
trong việc quản lí đâu. Điều mà họ hơn, đó là họ có vị thần hỗ
trợ đắc lực là thần lương tâm. Cứ mỗi người dân đều có
một vị thần lương tâm giám sát, nên đất nước của họ ít tiêu cực,
ít gian dối, lừa gạt… Tất nhiên đây là lương tâm Kitô giáo đúng
nghĩa. Có lương tâm Kitô giáo chân chính ngay thẳng thì người ta
sẽ bớt làm những việc sai trái gian dối tiêu cực… và giả như vì
yếu đuối mà làm thì ngay lập tức họ bị toà án lương tâm xét xử
ngay, chứ chưa đợi đến toà àn hình sự, toà án đời.
Bao lâu một đất nước còn lấy học
thuyết duy vật vô thần làm nền tảng cho sự phát triển, bấy lâu
người dân sẽ còn phải chung sống với đủ loại tiêu cực và tệ nạn
dài dài !
Lm. Giuse Nguyễn
Thành Long |
VỀ MỤC LỤC |
“NĂM
LINH MỤC” HUẤN LUYỆN TÍNH DỤC TRONG NẾP SỐNG ĐỘC THÂN CỦA GIÁO
SĨ, TU SĨ
|
Linh Mục
ĐƯỜNG THI
Cuộc
“Nổi loạn Tính dục”(Sex Revoluton), tại Hoa Kỳ vào năm
1960, và trên thế giới gây nên tang tóc đổ vỡ trong các gia
đình, đặc biệt cuộc khủng hoảng đã xâm nhập cả nơi thánh thiêng,
tu trì, làm tiêu hao ngân quĩ của Giáo Hội, và giảm sút
Ơn Thiên Triệu Linh Mục, Tu Sĩ Nam Nữ.
Để giúp hiểu
biết và giải quyết vấn đề từ nguồn gốc, trước tiên, cần giải
thích về ý nghĩa của Tính Dục, hay Phái Tính,( Nam-Nữ)..,
khởi nguyên đã được Mặc Khải từ Kinh Thánh trong Sách Sáng Thế
và những Lời Giảng của Chúa Cứu Thế trong Sách Phúc Âm.
Ngoài ra, ta cũng hiểu rằng: số kiếp con người theo bản năng tự
nhiên, phú bẩm từ khi sinh ra, là một “hữu thể mang Phái
Tính”( a sexual person), không thể huỷ diệt Tính dục của
mình được, cho đến khi chết. Nhưng vì ý chí hùng mạnh của con
người, -và dĩ nhiên cần Ơn Trên phù giúp- con người có thể
“Thăng Hoa, hay Siêu Thoát”(Sublimation) Tính dục, như trong
kinh nghiệm của các vị Thánh đã sống nếp sống “Khắc Khổ, Thần
Nhiệm”(Ascetic and Mystic), chẳng hạn như gương Mẹ Chân
Phước Teresa, Calcutta, hay Đức Cố Giáo Hoàng Gioan Paulô I I.
Khía cạnh Huyền Nhiệm, Thần Bí này, mới thực sự là
phương cách Sống và Huấn Luyện cao nhất, để giúp Giáo sĩ, Tu sĩ
và những ai “tu tại gia”, độc thân, góa bụa, hay có đôi
bạn, muốn duy trì nếp sống Khiết Tịnh, Kết Nghĩa với Chúa.
Trong
bài khảo luận này,
xin bàn về hai khía cạnh đào luyện tự nhiên: triết lý,
giáo dục.
I/
Suy tư của các vị hiền triết, đặc biệt của Văn Hóa Việt Nam, đã
dùng Lý trí và Luơng Năng, Lương Tri, để tìm hiểu “Con Tim” của
con người ra sao ?
I I/Mấy
Kinh Nghiệm và Thực hành về
Nếp Sống Tu trì , Độc Thân, đặc biệt tại Chủng Viện XUÂN
BÍCH(Society of Priests of Saint Sulpice)
I. SUY LUẬN TRIẾT LÝ VỀ BẢN NĂNG
TÍNH DỤC CỦA CON NGƯÒI
Ngoài nguồn
Mặc Khải trong Kinh Thánh của Thiên Chúa Giáo, nhiều Tôn giáo
khác trên thế giới, từ xưa tới nay, và rất nhiều triết thuyết,
triết gia, …cũng đã đề cập đến vấn đề Tính dục của con người. Mỹ
Nghệ như Điện ảnh, Hội họa, Điêu khắc, Âm nhạc, nhất là Văn
chương Thi Phú, tiểu thuyết,v,v thật phong phú vô tận, để ca
tụng Tình Ái giữa Nam-Nữ, Vợ-Chồng, vì như đã định nghĩa về
yếu tính của Con Người là:”Một Hữu Thể mang Tính Dục,
Phái Tính”( a sexual being, a sexual person). Mọi suy
tư, cảm nghiệm, và hành vi cử chỉ đều biểu lộ đặc tính của Phái
tính riêng của mình.
Dùng Lý trí,
Lương Tri, Tình cảm để phân giải ý nghĩa về đời sống Tính dục
của con người một cách vừa chân thật, thanh cao, vừa quân bình,
tế nhị, thì ta phải kể đến Minh Triết ÂM-DƯƠNG,
trong nền Văn Hóa Việt Nam.
MINH
TRIẾT ÂM-DƯƠNG CỦA VĂN HÓA VIỆT
Trong một bài
báo viết trên tờ The New York Times, và đăng lại trên tờ The
Seattle Times( Dec/11/2005), nhan đề” Ơn Thiên Triệu gia
nhập Giáo Hội vẫn còn mạnh mẽ đối với một số người”(The
Call of Church remains strong for some) ký giả Neela Banerjee,
đại ý, đã có những
nhận xét khá xác đáng
về Ơn Thiên Triệu của chủng sinh gốc Việt Nam hiện đang tu luyện
tại các Chủng Viện tại Hoa kỳ. Họ chiếm tỉ lệ 12%, tức 397 chủng
sinh, trong tổng số 3.308. Được hỏi lý do tại sao, người Công
giáo Việt nam, và Cộng đồng Công giáo còn quí trọng Thiên Chức
Linh Mục trong Giáo Hội? Họ trả lời: Tội lạm dụng Tính dục làm
hoen ố cá nhân, chứ không giảm bớt giá trị của chính Ơn Gọi. Ơn
Thiên Triệu vẫn là tuyệt đỉnh về Phục vụ và Thành công. Đó là
một Hồng Ân của Chúa ban cho gia đình. Nếu được hỏi: muốn con
làm Tổng thống, làm Bác sĩ hay Linh Mục, thì phụ huynh có thể
sẽ trả lời: muốn con làm Linh Mục. Ký giả bài báo trên đã kết
thúc cuộc điều tra, đại ý viết: Sở dĩ một thiểu số người
Mỹ-Việt(chừng 1% tổng số người Công Giáo Hoa kỳ, hơn 50
triệu), đã cung cấp cho Giáo Hội một con số khá lớn về Ơn Gọi,
chứng tỏ người Việt-Mỹ vẫn còn bám vào Truyền thống, Gia
đình, và Đức Tin(the grip tradition, family, faith still
have on many Việtnamese-Americans).
Ở đây, xin
nhấn mạnh đến hai yếu tố : Truyền Thống và Gia đình,
tức là đặc điểm thuộc VĂN HÓA Việt. Về Đức Tin, Giáo Lý
thì người Công Giáo bất cứ ở đâu trên thế giới đều học và tin
như nhau, tuy cách sống Đạo có khác biệt tuỳ sắc thái địa
phương.
Trong vấn đề
tìm hiểu và huấn luyện về Tính Dục cho các giáo sĩ, tu sĩ, ta
không thể bỏ qua yếu tố Văn Hóa, tức Truyền thống và Gia
Đình của người dân Việt. Chính Văn Hóa Việt
đã giúp nẩy nở và nuôi dưỡng Ơn Thiên Triệu, trong khi Văn
Hóa sự Chết( lạm dụng dục tính, phá thai.. ) đã làm đui
chột mầm non Ơn Gọi nơi thanh thiếu niên.
Bởi vậy, việc
nghiên cứu Triết Lý Âm-Dương làm nền tảng cho mọi suy tư, sinh
hoạt văn hóa của dân tộc Việt nam, là hữu ích để giúp vào việc
tìm cách huấn luyện Tính Dục cho các chủng sinh. Vậy Minh Triết
ÂM –DƯƠNG là gì? Những đặc tính và âm hưởng của triết lý này
trong đời sồng như thế nào? ( Xin đọc thêm sách: “Thiên Chúa
Giáo và Tam Giáo”, trang, coi Index: Âm-Dương ; và sách“Đạo
Thiên Chúa và Dân Nước Việt” , trang 188-191; 276-282 )
ÂM-
DƯƠNG là gì?
Theo các nhà
dân tộc học, và khảo cổ, những chứng liệu khá vững chắc biện
minh cho nguồn gốc Minh Triết ÂM-DƯƠNG phát xuất từ dân Việt,
chẳng hạn, những bài khảo luận trong sách:” Tìm về Bản Sắc
Văn Hóa Việt Nam”(Trần Ngọc Thêm). Ngày nay, chẳng những
người Á đông, mà cả thế giới đều quen thuộc với hình vẽ”THÁI
CỰC ĐỒ”, được trưng bày khắp nơi, trong nhà, trên bàn thờ, ngoài
cửa tiệm. Đó là hình vẽ một vòng tròn lớn bên ngoài; bên trong
vẽ một hình tròn nhỏ, chia ra hai phần bằng nhau, một bên
màu đen chỉ ÂM, một bên màu trắng chỉ DƯƠNG;
trong mầu đen, có một chấm Trắng; trong mầu trắng có một
chấm Đen. Hai phần Đen-Trắng luôn bằng nhau về diện tích,
nhưng luôn vận chuyển, đắp đổi cho nhau khi đầy, khi khuyết,
nhưng vẫn giữ mực QUÂN BÌNH. Đây chính là biểu tượng cho Triết
Lý ÂM-DƯƠNG ĐIỀU HÒA , đã được Qui Nạp thành Nguyên Lý, sau khi
đã quan sát, và kinh nghiệm những hiện tượng thiên nhiên trong
vũ trụ, nhân sinh. Nguyên lý ÂM-DƯƠNG còn được trừu tượng hóa
bằng những nét gạch ngang: DƯƠNG là một nét gạch ngang
liền (____);ÂM biểu thị bằng nét gạch ngang đứt(__
__).
Qua biểu
tượng ”Thái Cực Đồ”, trong Triết Lý ÂM-DƯƠNG, ta có thể suy diễn
những đặc tính sau đây, có thể đem áp dụng để tìm hiểu đời sống
Phái Tính, Dục Tính:
1/.
Dân Việt, từ thượng cổ đã sinh sống gần thiên nhiên
vì làm nghề trồng Lúa-Nước, nên đã quan sát các hiện tượng
thiên nhiên như khí hậu, thời tiết trong trời đất, xoay vần nhịp
nhàng điều hòa: Một năm bốn mùa: Xuân, Hạ, Thu, Đông, ngày-đêm,
nắng –mưa, nóng-lạnh, giúp cho mùa màng, gặt hái được nhiều hoa
quả. Mọi loài sinh vật: thảo mộc, động vật, và cả Nhân loại,
cũng bị chi phối bởi Luật Âm-Dương: Nam-Nữ, Đực-Cái, Trống
–Mái.. để truyền sinh và gây nòi giống
Từ hiện
tượng thiên nhiên bước sang lãnh vực Nhân Sinh, Nhân Văn,
muốn cho đời sống được Điều Hòa, con người cũng cần áp dụng Luật
Âm-Dương trong cách giao tế xã hội, đặc biệt trong HÔN NHÂN như
câu thường nói: Có Âm –Dương, có Vợ-Chồng” . Theo
Văn hóa Việt Nam, Phái Tính Nam-Nữ, phải dẫn đến sự phối hợp
vợ-chồng, thì đời sống con người mới có sự Hòa hợp, Quân bình.
Âm-Dương, Vợ-Chồng.. tuy hai yếu tố khác nhau , nhưng bổ khuyết
cho nhau, nâng đỡ nhau, và không tiêu diệt nhau. Do đó, việc Hôn
Nhân, tức sự kết duyên của một Người Nam với Một Người Nữ, là
việc Tự Nhiên theo bản năng con người. Bởi vậy, Văn Hóa Việt Nam
không thể chấp nhận “hôn nhân của hai người đồng tính”(?), vì
trái luật tự nhiên Âm-Dương Điều Hòa. Hơn nữa, Hôn Nhân do Tạo
Hóa an bài, xếp đặt, với mục đích để hai người khác nhau về Phái
Tính, về thể lý, về tâm lý, nhưng bổ túc và tương trợ cho nhau
trong cuộc sống lứa đôi: “Hai mà Một, Một mà Hai.”
Trong
suốt dòng Lịch sử, từ khi lập quốc, Văn hoá Hài Hòa cùa dân
Việt, luôn ca tụng
Tình Yêu Lứa đôi, tức Phái Tính trong đời sống Hôn Nhân, bằng
những câu Ca dao, Tục ngữ, hoặc truyện Cổ tích như Trầu Cau, Sơn
Tinh Thủy Tinh, Hòn vọng phu.., những bài Hát Quan họ Bắc Ninh,
Hát Trống quân, Ca trù với tiếng đàn, điệu vũ, thanh cao thoát
tục, nhưng không kém lưu luyến tình ái, để ca tụng đời sống vợ
chồng, gia đình.
2./.
Ngày nay, người Việt trong nước và ngoài nước, còn giữ được nếp
sống Điều Hòa Quân Bình trong đời sống Lứa-Đôi,
Vợ-Chồng như Tổ Tiên xưa kia không?
Tại hải
ngoại, qua một thời
gian giao động khi mới tới định cư trên đất khách quê người,
nhưng sau 30 năm, người dân Việt chẳng những không mất bản lãnh,
mà còn bảo tồn và phát huy Văn Hóa Truyền thống ngày càng tốt
đẹp hơn, như bài báo của ký giả Neela Banerjee đã trích dẫn ở
trên về Ơn Thiên Triệu của các Giáo sĩ tu sĩ. Phong trào trở về
nguồn, học hỏi về Lịch Sử và Việt ngữ cũng được cổ động khắp
nơi. Về Văn Nghệ, đặc biệt về Âm nhạc, nhiều buổi
Trình Diển tân cổ nhạc, vũ điệu dân tộc được ghi thành những
CD, như: Thúy Nga Paris By Night, Asia,v,v giúp cho các
gia đình thưởng thức những giờ giải trí lành mạnh, và nhất là
giúp giáo dục thế hệ trẻ biết thông cảm với những tâm tình Yêu
Mến Quê Hương, Gia đình, đặc biệt là TÌNH YÊU LỨA ĐÔI,
trong Hôn Nhân, với hầu hết những bản tình ca, được các
ca sĩ, nghệ sĩ trình diễn một cách chừng mực, tế nhị, giầu tình
tứ, nhưng không suồng sã, “khiêu dâm”(sexy)như nhạc ngoại quốc
giật gân.
Tại quê
nhà, theo tin
tức lọt ra ngoài, các giới đồng hương Việt nam cảm thấy
thương xót cho tình trạng nghèo đói, tham ô, vô thần của một xã
hội xáo trộn, mất Điều Hòa, Quân Bình trong đời sống Tâm Linh
của cá nhân, hôn nhân, gia đình, nên mới gây nên những thảm cảnh
như:”lấy chồng Đài loan”, hoặc buôn bán trẻ gái làm mãi dâm, ăn
chơi trụy lạc, chuốc lấy bệnh HIV/AIDS đang lan tràn.
TÓM
LẠI, một cách
không quá đáng: nhờ Minh Triết Âm-Dương Điều Hòa soi sáng, ta
có thể giải nghĩa tại sao một số lớn những giáo sĩ can tội “lạm
dụng tính dục” , mà nạn nhân phần lớn lại là trẻ con, con trai,
cùng phái tính với giáo sĩ. Vì người có khuynh hướng” đồng
tính luyến ái”, mang một tâm trạng bất bình thường, nhất là
không hiểu biết, không cảm nhận được giá trị của Hôn Nhân,
của Cha-Mẹ, của Vợ-Chồng, của Con-Cái. Trong Văn hóa
Việt Nam, bất cứ ở đâu, hầu hết dân chúng vẫn còn coi người có
khuynh hướng “đồng tính”là chuyện bất thường và là một “tai
nạn” cho Gia đình. Bởi vậy, theo quan điểm Văn Hóa Việt, việc
Tòa Thánh không chấp nhận người có khuynh hướng đồng tính nhận
chức Linh Mục, là xác đáng để tránh hậu họa.
Không hiểu biết, không tôn trọng
giá trị thánh thiêng của đời sống Hôn Nhân, thì không thể sống
nếp sống độc thân, Khiết tịnh được.
I I. MẤY KINH NGHIỆM VỀ VIỆC HUẤN
LUYỆN TÍNH DỤC
Sau đây là
mấy cách Tu Thân đã thực hành, giúp cho con người giữ được thế
Quân bình, Điều hòa trong đời sống luân lý, và thể lý, đặc biệt
để TIẾT DỤC, trong nếp sống Độc Thân.
1/. Văn
Hóa Việt nam chịu ảnh hưởng giao lưu của Văn hóa Trung Hoa, đặc
biệt là Luân lý Khổng-Mạnh;
do đó, các nhà nho Việt nam đã áp dụng phương pháp Tu Thân của
các bậc hiền nhân quân tử, trong vấn đề chế ngự và điều hòa Dục
Tính, nghĩa là muốn gìn giữ sự Tiết Hạnh, thì cần phải
tránh những cám dỗ và “hấp dẫn”rất mạnh của luật Âm-Dương giữa
người khác phái. Người bình dân Việt có câu ca dao:” Lửa
gần rơm, lâu ngày cũng bén”, thì nhà nho cũng khuyên
giới thanh niên cường tráng, muốn “kiêng cữ”(abstinence) trước
khi cưới nhau, trai -gái không nên có những cử chỉ quá suồng sã,
quá thận mật. Những câu khuyên răn khôn ngoan, đề phòng sự yếu
đuối dễ sa ngã, gọi là “cẩu hợp”như:”Nam-Nữ thụ thụ bất
thân”, hay câu:”Sắc bất ba đào, dị nịch nhân”(Sắc
đẹp không phải sóng nước, nhưng dễ làm ta chết chìm, chết đuối)
Hơn nữa,
Khổng giáo đã được các vua quan Việt nam noi theo làm khuôn mẫu
cho việc tổ chức gia đình, làng Nước và chương trình đào luyện
cấp lãnh đạo. Vì thế mới có những khuôn vàng thước ngọc phải noi
theo như: Tam Cương, Ngũ Thường, tứ Đức tam Tòng . Có thể
một số lời khuyên răn đã lỗi thời, những mục đích của việc Tu
Thân, Tiết Dục vẫn không thay đổi. Vào thời buổi nào cũng
vậy, sự Tiết Hạnh của người con gái, hay con trai, trước khi
cưới nhau, vẫn là lý tưởng cao đẹp nhất
2/.“NHÀ
ĐỨC CHÚA TRỜI” Là Gì?
Ngày nay, cụm
từ”Nhà Đức Chúa Trời”, ra như xa lạ ngay cả đối
với người công giáo. Theo tài liệu của “Lịch Sử Giáo Hội Việt
Nam”, tổ chức”Nhà Tu” này có thể đã được sáng lập từ thời
các vị truyền giáo tiên khởi( Thời Cha Đắc Lộ..hay ĐGM Lambert
de la Motte). Tổ chức này vẫn hoạt động mạnh cho đến năm chia
đôi đất nước, năm 1954, tại các Giáo phận ngoài Bắc như: Hà Nội,
Phát Diệm, Thanh hóa, Vinh, Hưng Hóa, hoặc với một hình thức
tương tự như tại các Giáo phận: Bùi chu, Thái bình, Hải Phòng.
Mục đích của Nhà Tu này là qui tụ những người nam, tình
nguyện dấn thân lo việc truyền bá Phúc Âm trong Giáo Phận.
Thành phần Nhà Đức Chúa Trời(Domus Dei) gồm có: Đức Giám Mục,
các Linh Mục, các Thày Giảng, các Chủng sinh,( đang theo học tại
các chủng viện) các Chú(giúp lễ cho Cha Xứ), và các Bõ( các
người lớn tuổi giúp việc trong nhà Xứ). Tại các Giáo Xứ địa
phương, mỗi Nhà Xứ gồm có: Cha Chính Xứ, một hay nhiều Cha Phó,
các Thày giảng già, trẻ, một số đông các Chú giúp Lễ, và một số
các Bô Bõ giúp việc.
Nếp
sống tu trì như thế nào?
Họ cam kết sống theo lời Khuyên của Phúc Âm: Khiết Tịnh(Độc
Thân), Thanh bần, Vâng Lời. Mọi người sống chung trong một
Nhà Xứ do cha Chính xứ làm Quản nhiệm điều hành mọi hoạt động
mục vụ trong một Giáo Xứ. Mọi người cùng cầu nguyện chung, ăn
chung, cùng ở chung nhà, và cùng chia nhau các phận vụ để phục
vụ Giáo xứ. Vị Giám Mục cai quản toàn thể các Giáo Xứ trong Giáo
Phận, cắt đặt hay thuyên chuyển các vị Chánh Xứ. Vị Giám Mục ngụ
tại một trụ sở trung ương, thường gọi là “NHÀ CHUNG”, (ví dụ,
Nhà Chung Hà Nội) nơi có Giám Mục cư trú, nhưng cũng là
trụ sở vãng lai của các Linh Mục hay Thày giảng, chủng
sinh, khi có việc cần nghỉ lại ít ngày.
Phương
thức Huấn luyện nếp sống độc thân như thế nào?
Khi các phụ huynh muốn dâng con mình để phụng sự Chúa và Hội
Thánh, thì đem trình diện chú bé tuổi 12, 13 với một Linh Mục
nhận làm “Cha Bảo trợ”. Trong một Nhà Xứ, cha chính hay cha phó
được quyền “Làm cha quan thày” hay bảo trợ nhiều chú, tuỳ
hoàn cảnh tài chính cho phép. Nhiều giáo xứ giầu có thể nuôi
hàng chục chú bé cho ăn học, miễn phí. Cách thức bảo trợ, tuyển
lựa này đã tạo nên một hệ thống gia đình thiêng liêng, gọi là
“Linh Tông”, nghĩa là một Linh Mục từ khi chịu chức
Linh Mục bắt đầu nhận bảo trợ một số chú bé, sau này nếu chú trở
thành Linh Mục cũng sẽ nhận bảo trợ một số khác..thành ra có cha
Cố, cha Bác, cha Chú và anh em cùng một Cha Quan Thày. Ngoài
ra, các Linh Mục cũng được phép giới thiệu các thiếu nữ gia nhập
các Dòng Nữ, nên hệ thống Linh Tông càng được mở rộng thêm, có
Nam, Nữ đề huề.
Từ khi
bước chân vào Nhà Xứ,
Chú bé 12 tuổi đã có thể tham dự đầy đủ vào nề nếp sinh hoạt của
một Cộng đồng tu sĩ. Chú được hoàn toàn tự do muốn ở lại tu hay
xin trở về gia đình bất cứ lúc nào. Cho đến khi Chú được lên
chức Linh Mục, trong khoảng thời gian thử thách và tu tập, chùng
15 năm(8 năm tiểu, trung học, 3 năm triết học, 4 năm Thần học),
Chú có thể quan sát, chứng kiến nếp sống Độc thân của các Linh
Mục, và các Thầy. Theo luật lệ của Địa Phận Hà Nội, được thi
hành trong các Nhà Xứ, thì chỉ có người đi tu mới được sống
trong khuôn viên Nhà Xứ. Phòng khách đặt ở ngoài cổng chính. Các
Linh Mục không được phép tiếp phụ nữ trong phòng riêng-trừ bà
mẹ ruột mới được vào phòng ngủ-( khi một chị giúp việc dọn
phòng, thì Linh Mục phải ra khỏi phòng! Và ai sai lỗi luật này
sẽ bị phạt vạ). Theo thống kê, từ khi làm Chú Bé cho đến khi
chịu chức Linh Mục, tối đa chỉ được 4% , 5% là bền đỗ đến cùng.
Khi sống trong Nhà Xứ với cha bảo trợ hay sau này chú bé vào học
tại các Chủng Viện, câu châm ngôn làm khôun vàng thước ngọc là:”Nunquam
duo, semper tres”( nghĩa là: không bao giờ “Cặp đôi”,
nhưng luôn“Cặp ba”, trong khi giao thiệp, chơi hay nói
chuyện với bạn bè, để tránh dan díu” Đồng tính luyến ái”. Ngoài
ra, để tập luyện và tự lượng sức mình có thể sống độc thân trinh
khiết suốt đời được chăng, mỗi chủng sinh phải đi thực tập hai
ba năm tại các Giáo Xứ :một năm sau khi mãn Trung Học, một hai
năm sau khi tốt nghiệp Trường Triết học.
TÓM LẠI,
Hệ thống “Nhà Đức Chúa Trời”, tại các Giáo Phận Miền Bắc
Việt Nam, là một tổ chức mang nhiều sắc thái Văn hóa Việt, và
chịu ảnh hưởng của các đạo giáo địa phương như Khổng giáo, Phật
giáo, chẳng hạn danh từ: Cụ,(Cha) Thày, Cha Bác , Cha Chú , Chú
(chủng sinh), thì bên Nhà Phật có: Sư Cụ, Sư Ông, Sư Bác, và Chú
Tiểu..). Các Linh Mục trong Giáo Hội Công Giáo gồm có: các
Linh Mục Dòng(như ĐaMinh, Phan Sinh, Dòng Tên, Dòng Chúa
Cứu Thế..), và các Linh Mục Địa Phận(diocesan
Priest, tiếng bình dân gọi là “Cha Triều”). Các Cha Dòng do Nhà
Dòng đào tạo, nâng đỡ, và sống chung trong Tu Viện của
Dòng. Còn các Cha Địa Phận do Giám Mục huấn luyện trong
các Chủng viện, và sai đi quản nhiệm trong các Giáo Xứ. Như tình
trạng hiện nay, tại Hoa kỳ, Pháp..các Linh Mục Địa phận sống
trong các Giáo Xứ, vừa lẻ loi, cô độc, không có cộng đoàn
“Nhà Tu”( như kiểu: NHÀ ĐỨC CHÚA TRỜI”)nâng đỡ về nếp
sống độc thân, cho nên dễ sa ngã. Bởi vậy, Kinh Nghiệm Tu Thân
Tu Đức về Đức Trinh Khiết của NHÀ ĐỨC CHÚA TRỜI,
-dầu cần cải tiến về nhiều phương diện cho hợp thời-, là một Nếp
Sống Độc Thân của các Linh Mục Việt Nam, rất đáng trân trọng, vì
giúp bảo tồn, nuôi dưỡng và phát triển Ơn Thiên Triệu cho các
Giáo Phận hiện nay đang thiếu các Linh Mục coi các Giáo Xứ.
3/.
HUẤN LUYỆN NẾP SỐNG ĐỘC THÂN TRONG CHỦNG VIỆN XUÂN BÍCH
Hội các
Linh Mục Xuân Bích(
Dịch từ: Society of Priests of Saint Sulpice) là gì?
Hội này do
Linh Mục Jean-Jacques OLIER (1608-1657) sáng lập, năm 1641 tại “
Giáo Xứ Saint Sulpice ở Paris(Pháp), hiện vẫn còn hoạt động. Gần
400 năm nay, Mục đích của Hội, là qui tụ một số Linh Mục
đồng chí hướng, để cùng nhau, vừa làm việc mục vụ trong các Giáo
Xứ, vừa chuyên chú vào việc huấn luyện, đào tạo các Linh Mục cho
các Giáo Phận . Khẩu hiệu của Hội là”PER MARIAM AD
JESUM( Nhờ Mẹ Maria, đến cùng Chúa Cứu Thế). Hiện nay, Hội
Các Linh Mục Xuân Bích, quản trị và giảng dạy tại các Đại Chủng
Viện trên thế giới như: tại Pháp; tại VIỆT NAM( từ
năm1930, ở Hà Nội; năm 1954, ở Vĩnh Long, và Thị Nghè(Sàigòn),
từ năm 1960, ở HUẾ, và Đà Nẵng. Tại Trung Hoa(ở Côn Minh, năm
1930, đóng cửa năm 1949); tại HOA KỲ(ở Baltimore, ở Washington
D.C, Saint Patrick’Seminary, ở Menlo Park, CA,.: tại
Nhật(Fukuoka), tại Canada, Columbia, Venezuela, Brezil(Nam Mỹ),
Benin, Congo, Zambia(Phi Châu), Tahiti( Polynesie)
(Xin
Lưu Ý: Quí Vị
muốn biết thêm về Hội các Linh Mục Xuân Bích, tại HOA Kỳ,
xin liên lạc Địa chỉ: Rev. Thomas R. Ulshafer.S.S. Phone:
410-323-5972)
Hiện
nay, các Chủng Viện Xuân Bích, tại HOA KỲ, huấn luyện các chủng
sinh về Tính Dục trong Nếp Sống Độc Thân, Khiết Tịnh, như thế
nào?
Sau khi phát
hiện cuộc khủng hoảng về lạm dụng Tính dục nơi các giáo sĩ trong
các Giáo phận tại Hoa Kỳ, Toà Thánh và Hội Đồng Giám Mục Hoa Kỳ
đã làm việc tích cực để đối phó với các vụ kiện, và bồi thường
cho các nạn nhân. Hội Các Linh Mục Xuân Bích quan tâm đặc biệt
về tình trạng khủng hoảng này, vì Hội trực tiếp tham gia việc
huấn luyện, và giáo dục các chủng sinh cho các Giáo phận. Hội đã
mở những buổi Hội thảo, huấn luyện cho các hội viên và bắt buộc
các hội viện ký nhận cam kết thi hành “Chính Sách đối với
Hành Vi Cử Chỉ Xấu về Tính Dục”( Policy on Sexual
Misconduct)
a/
Sau đây chỉ xin
trích dẫn một số cách thức đề phòng, hoặc tránh những cử
chỉ, thái độ suồng sã, “khiêu gợi”,
khi tiếp xúc với giới phụ nữ, thanh thiếu niên nam nữ, vị thành
niên, hay trẻ nhỏ, (dưới 18 tuổi, Minors).Cũng kể vào
loại”Minors” là những người lớn, nhưng chậm tiến, mắc bệnh thần
kinh, hay khuyết tật.
-
Mọi người cộng tác với Hội Xuân
Bích trong các Chủng Viện, Chương Trình Huấn luyện.. đều bắt
buộc phải tham dự chương trình dạy cách phòng ngừa những Hành vi
cử chỉ xấu về Tính dục. Mọi Hội viên trong Hội Xuân Bích phải ký
một tờ Cam Kết chịu Trách Nhiệm( an Affidavit of
Responsibility), thi hành Chính Sách của Hội.
-
Hội Xuân Bích cam đoan tích cực
giáo dục các chủng sinh, đặc biệt các chủng sinh làm việc mục vụ
với trẻ nhỏ(Minors), cần phải tránh những Hành vi Cử chỉ xấu về
Tính dục, Sách nhiễu Tính dục, Động chạm, Khai thác, Lạm dụng
Tính dục.
-
Hành vi Cử chỉ Xấu về Tính dục
(Sexual Misconduct) là: những lời nói bất hợp pháp, bất xứng hay
những cách cư xử khiêu gợi dục tính- Sách nhiễu Tính dục(Sexual
Harassment) là dùng lời nói hay hành động khiêu gợi kích dâm để
tống tình, hay yêu cầu được chiều đãi thỏa mãn Dục Tính, để được
tăng lương, lên chức, thi đậu. .Sách nhiễu Tính dục sẽ tạo nên
tình trạng đe dọa, sợ sệt nơi sở làm việc, và phá rối công việc
học hành, hay tu trì.- Động chạm khêu gợi(Sexual
Contact)là những hành vi động chạm với mục đích kích dâm, khêu
gợi như sờ mó vào đùi, cơ quan sinh dục, mông hay ngực..-
Khai thác Dục Tính( Sexual Exploitation) là những đụng
chạm kích dâm giữa một vị giáo sư, Linh hướng, cố vấn..với sinh
viên, bất kể ai khêu gợi trước.-Lạm Dụng Tính Dục một Trẻ
Vị thành Niên(Sexual Abuse of a Minor) là dùng bạo lực,
đánh lừa, quyến dũ một thiếu niên làm Hành vi động chạm khiêu
dâm, bất kể ai khởi sự việc xấu đó.- Hành Vi Liên Hệ đến
việc Lạm Dụng Tính Dục đối với Trẻ vị thành niên(
Related Acts of Misconduct with a Minor) là những
hành vi cử chỉ, tự nó không phải là hành vi khiêu dâm, nhưng có
liên hệ, trong một bối cảnh mục vụ, giảng dạy, làm việc, chẳng
hạn như: đánh tát, phát vào mông, nói chuyện tiếu lâm gợi dục,
cho dùng dụng cụ khiêu dâm, khỏa thân, hôn môi, đấm bóp, vật
lộn, ngủ chung giường, hay chỗ ở chật hẹp, ngủ qua đêm không có
phép của phụ huynh, cố chấp trao đổi những hành vi, lời nói về
ái tình, nhưng gây khó chịu bất mãn cho người khác, cho phép
hoặc cung cấp rượu mạnh, cần sa ma tuý, hoặc giám sát thiếu niên
khi đang say rượu, say thuốc phiện.-Những Cử Chỉ tỏ Tình
Âu Yếm đối với Trẻ Nhỏ( Certains signs of affection or
approval in relation to a minor) vì không bất xứng, nên không
cấm như: vỗ vai, vỗ lưng, bắt tay, đập vào tay, khen ngợi, quàng
vai, và dắt tay em bé đi dạo chơi, cúi xuống ôm em bé. Trong
hoàn cảnh này, cần lưu ý đặc biệt đến sắc thái Văn Hóa, phong
tục tập quán của các sắc tộc
b/ Huấn
luyện chủng sinh hay nhân viên có trách nhiệm coi sóc các Trẻ
Nhỏ
Hội Xuân Bích
đặc biệt lưu tâm, và khuyến khích những chủng sinh hay nhân viên
tham dự những lớp huấn luyện chuyên môn do các Giáo phận địa
phương tổ chức. Ngoài ra, dầu chưa có lý do để tin là đã xẩy ra
việc “Lạm Dụng Tính dục đối với Trẻ Nhỏ”, nhưng
nếu ai khám phá thấy những dấu hiệu khả nghi về cách giao thiệp
không lành mạnh của một Hội Viên Xuân Bích, thì phải lập tức báo
cáo cho vị Bề Trên địa hạt hay Tỉnh Dòng biết liền.
c/ Xử
dụng Internet Hội
viên Xuân Bích, ban giáo sư, và chủng sinh phải dùng máy
computer thuộc Chủng Viện, hay của riêng cá nhân hay người khác,
một cách hợp pháp và hợp luân lý. Hội Xuân Bích
không dung thứ cho việc dùng Internet, e-mail vào những Hành vi
xấu về Tính dục, vô luân hay bất hợp pháp. Hội Xuân Bích dành
quyền khám xét
các tài liệu
dự trữ(files) của các nhân viên Văn phòng và các chủng sinh, khi
xét thấy cần phải làm, để bảo vệ sự an toàn, và lành mạnh của
một Cộng đoàn hay là để điều tra về những lời cáo buộc về Hành
vi xấu về Tính dục.
d/ Hội
Xuân Bích cam kết hợp tác thi hành những Điều Luật của Liên
Bang, của Tiểu Bang, của Địa phương và của Giáo Luật
và các thủ tục đã phác họa trong Chính Sách của Hội Xuân Bích.
Mỗi hội viên Xuân Bích có nhiệm vụ phải tránh những hành vi xấu
về Tính dục, lại phải phòng ngừa và bảo vệ các nạn nhân của Lạm
dụng Tính dục.
ĐỂ TẠM KẾT,
Cổ nhân đã nói:”
Thời thế nào , kỷ cương nấy”. Ngày trước, xã hội Việt nam
tương đối được an hòa, nề nếp, nhờ Minh Triết Âm-Dương Điều
Hòa:”Thuận Vợ thuận Chồng tát Biển Đông cũng cạn”. Người “xuất
gia tu hành”cũng được xã hội trọng vọng, không gặp nhiều khó
khăn, nhiều trở ngại, cám dỗ. Tổ chức”Nhà Đức Chúa Trời”
đã là nơi nương náu, tu trì của bao tâm hồn khát vọng đi tìm
Nguồn hạnh phúc chân thật nơi Nhà Chúa. Ngày nay, trong một thế
giới tục hóa, với cơn bão”cách mạng Dục Tính”làm tan hoang, xáo
trộn đến cả nơi thánh thiêng. Do đó, muốn cứu vãn tình thế, cần
những luật lệ chặt chẽ, nghiêm minh để bảo vệ Nếp sống tu trì,
độc thân khiết tịnh.Trên đây là những cố gắng và ưu tư của
Hội các Linh Mục Xuân Bích giúp huấn luyện hàng Giáo
sĩ đối phó với cuộc khủng hoảng về Tính dục. Những biện pháp
thực hành, những lời chỉ giáo rất hữu ích để nâng đỡ những ai
muốn cam kết chấp nhận nếp sống Khiết Tịnh Độc thân, vì Tình
Yêu Thiên Chúa và Tha Nhân.
Nhờ Ơn
Chúa phù giúp, với ý chí tự do kiên trì,
các vị Chân Tu đã có thể “Siêu Thoát”, hay “Thăng Hoa” đời sống
Tính dục tự nhiên, lên “Nếp Sống Khiết Tịnh” , chính là nếp
sống Khắc Khổ và Thần
Nhiệm( Ascetic and Mystic) để kết nghĩa hoàn toàn với Chúa.
Lm. Đường Thi |
VỀ MỤC LỤC |
|
ĐỨC TIN LÀ MỘT HỒNG ÂN
|
Thông thường
người Công giáo là người được sinh ra trong gia đình mà cha mẹ,
ông bà là người có đạo nên được rửa tội từ thuở nhỏ và lớn lên
mỗi Chúa nhật đều đi nhà thờ, tham dự thánh lễ là một chuyện tự
nhiên, bình thường. Hoặc khi lấy vợ, lấy chồng là người Công
giáo, rồi học đạo, làm lễ ở nhà thờ cũng trở thành người Công
giáo. Còn số người lớn cảm nhận về đạo Công giáo thấy yêu mến
đạo, yêu mến Chúa Kitiô và Đức Mẹ Maria, rồi theo đạo cũng không
phải là ít. Thường những người lớn tuổi này đến với nhà thờ Công
giáo, đến với Chúa Giê-su và Đức Mẹ thông qua nhiều nguyên nhân
thường do ảnh hưởng từ bạn bè là những người Công giáo sống đức
tin, đạo hạnh hay ảnh hưởng từ gương sống của các Thầy cô dạy ở
trung học hay Đại học hay gương lành của các tu sĩ, Linh mục hay
các Sơ đã hy sinh đời mình phục vụ cho tha nhân, nhất là phục vụ
cho những người kém may mắn như những người bị bịnh phong cùi,
người tàn tật đui mù, bịnh sida v.v…hoặc có được ơn riêng, Thiên
Chúa đánh động họ để họ tìm về cội nguồn yêu thương là Thiên
Chúa tình yêu.
Khoảng năm
1533, đạo Thiên Chúa truyền bá sang nước ta cho đến ngày hôm
nay, đã trải qua nhiều sự thăng trầm. Những lúc đạo Chúa bị bách
hại dữ dội nhất lại thường nuôi dưởng và phát triển tinh thần
bác ái, yêu thương và sản sinh ra nhiều vị Thánh tử đạo…
Bài này chỉ
nói đến một vài nhân vật đã đến với Đạo Chúa như sự kiện bình
thường nhưng ẩn tàng bên trong là một sự chuyển biến lâu dài về
tâm lý, tình cảm, lý trí rất phức tạp của con người để đến hay
nói đúng hơn trở về nguồn tình yêu vô biên của Thiên Chúa toàn
năng.
Minh Đức Vương Thái Phi:
(1558-1649)
Bà là vợ thứ
10 của Chúa Nguyễn Hoàng. Lúc sinh Hoàng Khê bà mới 21 tuổi,
chúa Nguyễn Hoàng 64 tuổi. Bà được lảnh bí tích Rửa tội vào năm
1625 (lúc ấy bà chừng 51, 52 tuổi) tên thánh là Maria
Ma-da-Lê-Na, tại Phước Yên do Cha Francesco di Pina, Dòng Tên
người Ý.
Theo cha Đắc
Lộ, người có mặt Lễ Rửa tội của bà Minh Đức, thì trước kia bà là
người rất sùng đạo Phật. Khi đã theo Công giáo bà lại đem hết
mình phụng sự đức tin mà còn sốt sắng hơn trước nữa. Cha Đắc Lộ
đã là nhân chứng về đời sống đạo của Bà:
“Trong Dinh
của bà, bà lập ra một ngôi nhà nguyện rất đẹp, mà bà vẫn cố duy
trì trong cơn cấm đạo ngặt nghèo. Bà mở rộng cửa cho các giáo
hữu của tỉnh đến cầu nguyện…Bà đã dùng các lời lẽ khôn ngoan làm
cho nhiều người rất sùng Phật trong nước trở lại với Đức tin
Công giáo trong số đó có cả những người họ hàng với nhà chúa.
Trong thời
gian này, ngày 26-7-1644 thầy giảng An rê chịu tử đạo làm bà
Minh Đức rất là đau đớn. Nhưng nỗi đau đớn nhất là con bà, ông
Hoàng Khê, để lấy lòng chúa Thượng, đã cho phá nhà nguyện của mẹ
ngày 20-2-1645. Năm sau, ngày 22-8-1646 ông Hoàng Khê qua đời
không được rửa tội. Cái chết chưa được rửa tội của con càng làm
cho bà Minh Đức đau đớn vô cùng.
Theo các tài
liệu bà Minh Đức chết vào khoảng cuối năm 1648 hay đầu năm 1649
như vậy bà thọ ngoài 80 tuổi.
nguồn:
http://www.dongcong.net/DoiSongKH/GuongTruyenGiao/14.htm
Thi
sĩ Nguyên Sa -
Giuse Trần Bích Lan:(1932
- 1988)
Nguyên Sa là
nhà thơ lớn, nhà giáo nổi tiếng dạy triết học tại trường trung
học Chu văn An và mở những lớp Triết riêng để luyện thi Tú tài
2. Ông dạy rất nhiều trường tư thục lớn ở Sài gòn. Tôi đã say mê
Nguyên Sa từ những bài thơ trong tạp chí Hiện Đại khoảng năm
1961, 1962. Những câu thơ như:
Nắng Sài gòn
anh đi mà chợt mát
Bởi vì em mặc
áo lụa Hà đông …
Hôm nay Nga
buồn như con chó ốm
Như con mèo
ngái ngủ trên tay anh
Đôi mắt cá
ươn như sắp sửa se mình
Để anh giận
sao chẳng là nước biển.
Hay:
Tôi đã gặp em
từ bao giờ
Kể từ nguyệt
bạch xuống đêm khuya
Kể từ gió
thổi trong vừng tóc
Hay lúc thu
về cánh nhạn kia.
Có phải em
mang trên áo bay
Hai phần gió
thổi một phần mây
Hay là em gói
mây trong áo
Rồi thở cho
làn áo trắng bay…
đã như đi sâu
vào tâm hồn của đa số người dân miền Nam yêu thơ thời đó nhất là
người Sài gòn thích thơ trong đó có tôi.
Trong bài
“Vài kỹ niệm với nhà thơ”, nhà văn Xuân Vũ Trần Đình Ngọc viết:
“Câu chuyện lan man đi qua vấn đề tôn giáo. Nguyên Sa nói: “Nhân
tiện có anh và anh Q.T. là người theo đạo Công giáo. Tôi hỏi các
anh, nếu tôi muốn theo đạo thì phải làm sao?”
Tác giả viết:
“Tôi nói: Dễ thôi. Anh Q.T. hoặc tôi sẽ giới thiệu anh đến một
vị Linh Mục, vị này là linh hướng cho anh….Vị Linh Mục sẽ giải
thích những lẽ chính trong Đạo và đưa anh một cuốn sách nhỏ dặn
anh về đọc và ghi nhớ. Rồi vị Linh Mục hỏi xem anh có nhập tâm
và tin - nhất là tin - những điều đó không? Sau khi đã qua những
chặng chuẩn bị tâm hồn anh được chịu phép Rửa tội và được rước
Chúa vào tâm hồn. Có 10 điều răn của Đức Chúa Trời và 6 điều răn
của giáo hội, anh cứ theo như thế, tức là trở thành tín hữu tốt.
Ngày thi sĩ Nguyên Sa chịu phép Rửa tội, anh có viết thiệp báo
tin cho tôi. ..”
Tác giả viết
tiếp: “Tôi biết anh đã ra đi yên ổn vì anh có tâm sự với tôi lúc
còn sống anh chỉ ước ao được chết Lành như một tín hữu Công
giáo. Năm đó là năm 1998, anh thọ được 66 tuổi”.
nguồn: http://www.dunglac.org/index.php?m=module2&v=detailarticle&id=294&ia=9417
Ca sĩ Duy Khánh:
(1936- 2003)
(Micae Nguyễn văn Diệp).
Trong báo:
“Nguyệt san Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp” số 200, tháng 3 năm 2003, Giáo
sư Nguyễn Lý Tưởng có viết bài: “Ca Sĩ Duy Khánh & Cuộc trở
lại Đạo cuối đời” cho biết Duy Khánh tên là Nguyễn văn Diệp,
sinh năm 1936 tại làng An Cư, Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị. Thân
sinh của Duy Khánh là Cụ Nguyễn văn Triển, Dân Biểu Hạ Nghị Viện
VNCH, pháp nhiệm 1 (1967-1971).
Giáo sư
Nguyễn Lý Tưởng viết: “Buổi tối ngày lễ Giáng sinh 25-12-2002
anh Văn Đức Thạnh đã gọi điện thoại cho tôi biết “Duy Khánh muốn
gặp một Linh Mục”.Vì là ngày lễ lớn nên các nhà thờ đều bận rộn…
mãi đến sáng hôm sau, ngày 26-12-2002 tôi mới liên lạc được với
Linh Mục Nguyễn Đăng Đệ, Quản nhiệm cộng đoàn Công Giáo Việt Nam
tại nhà thờ Anaheim.
Khoảng 9 giờ
sáng hôm đó, anh Văn Đức Thạnh đã lái xe đưa Linh Mục Nguyễn
Đăng Đệ đến tại bịnh viện Fountain Valley, phòng số 110 để gặp
Duy Khánh. Tôi cùng bà Thơm đi theo xe của anh Thạnh đến thăm
Duy Khánh luôn. Bên cạnh Duy Khánh lúc đó chỉ có người con gái
của anh (cô Tiên) và chúng tôi. Đây là lần đầu tiên trong đời
tôi gặp mặt và trực tiếp nói chuyện với Duy Khánh. Anh Thạnh
giới thiệu Linh Mục Nguyễn Đăng Đệ là người đồng hương đến
thăm.
Linh Mục đã
hỏi Duy Khánh:
-“Có phải anh
muốn gặp Linh Mục người Việt nam hay không?”
Anh Duy Khánh
trả lời:
-“Đúng như
vậy, tôi muốn gặp một Linh Mục Việt Nam để xin theo đạo Công
giáo”.
Linh Mục nói
chuyện với anh khoảng 15 phút xác nhận lúc đó anh còn tỉnh táo
và còn sáng suốt để trả lời những câu hỏi của Linh Mục. Sau đó
Linh Mục cử hành nghi thức “Rửa tội” cho anh Nguyễn văn Diệp tức
ca nhạc sĩ Duy Khánh. Người đỡ đầu là anh Văn Đức Thạnh.Tên
Thánh được chọn cho Duy Khánh là Micae (Michael) cũng là tên
Thánh của anh Thạnh…
Nghe tin anh
đã theo đạo Công giáo, một người bạn đến thăm và hỏi anh:
-“Bây giờ anh
có hối hận gì về quyết định xin theo đạo và chịu phép Rửa tội
hay không?”
Anh đã trả
lời:
-“Tôi không
hối hận gì.”
Mấy ngày sau
đó, sức khỏe của anh khả quan hơn trước nhiều.
Ngày mùng Một
Tết Nguyên Đán (Quý Mùi), Linh Mục Nguyễn Đăng Đệ và một số bạn
bè đến thăm, thấy sức khỏe của anh bình thường. Nhưng kể từ ngày
mồng hai Tết trở đi, sức khỏe của anh ngày càng xấu đi.
Lúc 12 giờ 05
trưa thứ tư, 12 tháng 02 năm 2003, Anh Micae Nguyễn văn Diệp tức
Ca Nhạc Sĩ Duy Khánh đã từ giả mọi người để vĩnh viễn ra đi qua
bên kia thế giới.
GS Nguyễn Lý
Tưởng viết: “Hơn hai mươi năm trước, khi nhạc sĩ Vũ Thành An trở
lại Đạo Công giáo ở trong nhà tù Cộng sản tại Hà Tây (miền Bắc
Việt nam), tôi có nói rằng người nghệ sỹ chân chính luôn khao
khát Chân, Thiện, Mỹ và họ sẽ được gặp Thiên Chúa. Vì Thiên Chúa
hay Thượng Đế hay ông Trời là nguồn của Chân, Thiện, Mỹ. Tôi
nghĩ rằng Duy Khánh cũng ở trong trường hợp đó.
Tang lễ của
anh được cử hành tại cộng đoàn tam biên (nhà thờ Sait Callitus)
lúc 9:30 sáng thứ bảy 22-2-2003.
Cựu hoàng Bảo Đại:
(1913 - 1997).
Trong bài “Bất
trắc và bất ngờ trong lịch sử ” đăng trên báo Dấn Thân, bộ 5
số 12 tác giả Linh Mục Nguyễn Thái Hợp có viết: “Sau khi bị
truất phế qua cuộc trưng cầu dân ý vào tháng 10 năm 1955 ông
sống lưu vong tại Pháp.
Vào giai đoạn
cuối đời ông sống đạm bạc ở Paris trong một căn hộ thuộc chung
cư ở đường Fresnel, quận 16. Chung cư này nằm cạnh khu đồi của
công viên Trocadero. Những ngày đẹp trời ông thường đi dạo chung
quanh khu công viên Trocadero. Thỉnh thoảng cũng ghé vào nhà thờ
Saint Pierre de Chaillot nằm gần đấy để thăm Linh Mục Argomathe,
chánh xứ Chaillot, một chuyên gia về lịch sử, khởi đi từ những
câu chuyện văn hóa và thời sự vô thưởng vô phạt. Cùng với thời
gian, cuộc đàm đạo càng ngày càng đi sâu vào lảnh vực tư tưởng
và tâm linh, đặc biệt về Kitô giáo. Cựu hoàng tìm gặp nơi niềm
tin Kitô giáo ý nghĩa, niềm vui và lẽ sống ở đời. Chính vì vậy
bất chấp ý kiến không đồng thuận của một số người, ông nhất
quyết xin gia nhập Đạo Chúa. Ngày 17 tháng 4 năm 1988 ông chịu
phép thanh tẩy tại nhà thờ Saint Pierre de Chaillot với tên
Thánh là Jean Robert. Liền theo đó, ông chịu phép thêm sức và cử
hành lễ hôn phối với bà Monique Baudot.
Năm 1995
chính cựu hoàng Bảo Đại với tư cách là vị vua cuối cùng của nhà
Nguyễn và đồng thời là người Công Giáo đã xin yết kiến Đức Giáo
hoàng Gioan Phao lô II đã chính thức thay mặt nhà Nguyễn nói lên
lời xin lỗi Chúa và Giáo hội.Trong lá thư đề ngày 31 tháng 03
năm 1995 gởi cho Giáo hoàng Gioan Phaolô II để xin yết kiến, cựu
hoàng đã viết: “Đây là dịp hạnh phúc cho chúng tôi được quỳ bên
cạnh Đấng kế vị thánh Phêrô để cầu nguyện cho Việt nam và Giáo
hội đang chịu đau khổ ở đó. Và qua sự kiện chúng tôi đã chịu
phép thanh tẩy đem lại cho đồng bào chúng tôi niềm xác tín vào
tình thương vô biên của Thiên Chúa qua Đức GiêSu Kitô, Đấng an
ủi những người đau khổ. Ngày 24-6-1995 ông và phu nhân được Đức
Gioan Phaolô II tiếp kiến riêng tại Vatican…
Linh mục
chánh xứ Chaillot cho biết sau khi gia nhập đạo cựu hoàng Bảo
Đại rất ngoan đạo. Ông thường đến nhà thờ cầu nguyện và đặc biệt
sùng kính Đức Mẹ Maria.
Cuối tháng 6
năm 1997 cựu hoàng Bảo Đại được đưa vào Quân Y Viện Val De Grace
ở Paris. Ông từ trần lúc 5 giờ sáng ngày 31- 7- 1997 hưởng thọ
84 tuổi.
Thánh lễ an
táng được cử hành tại nhà thờ Saint Pierre de Chaillot ngày 5
-8-1997 với sự chủ sự của Linh Mục Guyard, đại diện Hồng Y Giám
Mục Paris. Bài “Magnificat” mà ông thích nhất một lần nữa đã
trang trọng ngân vang trong thánh đường theo đúng ý nguyện của
người quá cố.
Chủ tịch nước Việt nam ông Hồ Chí
Minh cũng đã có Rửa tội?
Giám Mục
Phaolô Lê Đắc Trọng viết trong bài “Đi gặp Mác – Ănghen hay
lên Thiên đàng?” như sau:
“Có lời
đồn Bác đã chịu phép rửa tội Công giáo khi bị bắt ở Hồng Kông,
lời đồn đó có thể đúng, vì những người cộng sản họ có kiêng nể
gì đâu. Họ khai thác triệt để câu châm ngôn “Mục đích biện minh
cho phương tiện”. Có thể làm bất cứ cái gì, chịu phép rửa tội
đôi ba lần cũng được, miễn là đạt mục đích mong muốn. Chịu phép
rửa tội để ra khỏi tù chứ đâu là trở nên tín hữu công giáo.”…
“Vào năm
1986 có cuộc họp của Ban Thường Vụ Hội Đồng Giám Mục Việt Nam.
Không hiểu sao cha Huấn cũng có mặt ở Hà nội. Cha già Huấn là
người già lão, đã trăm tuổi, mặc dầu rất tinh khôn, nhưng người
ta vẫn cho Ngài là lẩm cẩm, lẩn thẩn. Ngài lại hay đi sâu vào
các vấn đề huyển bí. Những người đến hỏi số phận người nhà đã
qua đời lên Thiên đàng hay ở luyện ngục thì Ngài trả lời ngay
lập tức: thường là đang ở luyện ngục…. Hỏi về người đi vắng, như
bộ đội còn sống hay chết: Ngài cũng chỉ cho họ biết người đó
đang ở đâu, sắp về v.v. Rất nhiều người đến xin khấn để tìm thấy
của đã mất. Ngài cho biết hiện của lạc mất đang ở đâu.
Cha Huấn kể
việc Bác lên Thiên đàng: “Một hôm con làm lễ xong ra đến đầu nhà
thờ Kẻ Non, (nơi ngài đang ở, vừa làm việc, vừa hưu) chợt thấy
bác Hồ hiện ra nét mặt ủ rủ nói với con: Cụ quên tôi à? Tôi là
Hồ Chí Minh, tôi đã được rửa tội. Cụ không cầu nguyện cho tôi
à?. Sáng hôm sau, tôi làm lễ cho người. Lễ xong ra đến đầu nhà
thờ Kẻ Non, lại thấy Bác Hồ hiện ra, mặt mày vui vẻ người sáng
láng cám ơn con, rồi lên thiên đàng.”
Câu chuyện
cha Huấn làm lễ cho Bác là vì Bác yêu cầu. Bây giờ Bác ở đâu?
Bác ở lăng có thật không?. Còn linh hồn ở với Mác- Ănghen hay ở
trên Thiên đàng? Chỉ có Chúa biết. Nếu ở trên Thiên đàng thì
phục vụ cho dân tộc Việt nam nếu ở với Mác- Ănghen thì là tai
họa cho dân tộc khổ sở này, đem những thái quá của Mác-Ănghen
đến gây muôn vàn tai họa cho Việt nam.”
nguồn:
http://www.vietcatholic.net/News/Clients/ReadArticle.aspx?ID=73862
Linh Mục Sảng Đình Nguyễn văn Thích:
(1891-1978).
Nữ tu Mai
Thành viết: “Linh mục Nguyễn văn Thích là con thứ hai của cụ Lô
Giang Tiểu Cao Nguyễn văn Mại. Cụ Mại đỗ thủ khoa thi Hương, rồi
phó bảng khoa Kỷ Sửu (1889) Thừa Thiên, được bổ dụng Tri phủ An
Nhơn, Bình Định, làm quan đến chức Thượng thư. Cụ bà là Thân thị
Vỹ làng Nguyệt Biều, tỉnh Thừa Thiên một dòng họ danh tiếng với
các bậc khoa bảng như cụ Thân Trọng Huề, Thượng Thư dưới triều
Đồng Khánh, Khải Định.
Từ 4 tuổi cậu
ấm Thích đã được thân phụ dạy chữ Hán, rồi lớn lên vác lều chổng
đi thi Hương, cậu Thích cũng học chữ Pháp và chữ quốc ngữ rồi
vào trường Pelerin gọi là trường dòng do các sư huynh Lasan điều
khiển và giảng dạy. Trường này thành lập năm 1904 và học sinh
Nguyễn văn Thích được học cả đạo lẫn đời. Nơi đây cậu ấm được
học hỏi trau dồi tiếng Pháp và được khai tâm về giáo lý Kitô
giáo.
Trong thời
gian học tại Pelerin, học sinh Thích lại có những liên hệ ngày
càng mật thiết với Linh Mục tuyên úy Léculier hay cố Lựu nên đức
tin vào Đức Giê Su Kitô đấng Cứu thế con Thiên Chúa làm người
được thấu hiểu ngày càng thấm đậm trong tâm thức và trí tuệ của
chàng thư sinh khao khát Chân, Thiện, Mỹ.
Với bằng Cao
Đẳng tiểu học và một năm sư phạm, thầy Thích được bổ làm trợ
giáo tỉnh Khánh Hoà tháng 02 năm 1911. Bốn tháng sau ngày 29
tháng 6, thầy nhận bí tích rửa tội để trở nên con cái Chúa với
tên thánh là Giuse Maria tại nhà thờ Bình Cang, xã Vĩnh Trung,
thành phố Nha Trang do Linh mục Charles Eugène Saulcoy tên Việt
là Cố Ngoan.
Được tin sét
đánh này cụ Thượng cầm roi đánh nhừ tử “đứa con bất hiếu”. Sau
đó cụ Thượng nghĩ đến việc lập gia đình cho con trai đã 26 tuổi.
Cụ mời Đức Cha Lý (Cố Allys) đến nhà xin Đức Cha can thiệp làm
mai mối với con gái cụ Thượng Công giáo Nguyễn Hữu Bài để con
mình yên số phận. Nào ngờ đâu khi được “hung tin” này, môn đệ
của Đức GiêSu lấy quyết định từ giả gia đình quí tộc. Một đêm
thanh vắng thầy Giuse Maria hóa trang làm cô gái đội nón lá, mặc
áo dài tha thướt ra đi sáng sớm tháng 9 năm 1917, trực chỉ đến
tiểu chủng viện An Ninh tại cửa Tùng, tỉnh Quảng trị. Tiểu chủng
viện chỉ nhận từ 12 đến 14 tuổi mà thầy Thích đã 26 tuổi thì
phải làm sao đây? May mắn là Giám mục Lý (Allys) nắm rõ hoàn
cảnh nên nhận ngay người chủng sinh rất độc đáo này, vừa học
tiếng Latinh và chương trình đào tạo Linh mục, vừa được mời làm
giáo sư Pháp văn, Hán văn, Quốc văn cho chủng sinh. Sau đó thầy
được gởi vào Đại chủng viện Phú Xuân Huế, 6 năm sau được thụ
phong Linh mục ngày 18 tháng 12 năm 1926.
Cha là nhà
giáo từ lúc 20 tuổi. Cha dạy các Thiếu nhi Tiểu học ở Khánh Hoà,
dạy các tu sĩ dòng Thánh Tâm Huế, tiểu chủng viện An ninh, Quảng
trị, Trung học Khải Định.
Trong thời
gian làm Cha xứ họ Đạo Kim Long Huế, Cha dạy trường Quốc học và
các trường tư thục Công giáo Huế. Từ năm 1958 Cha dạy Hán văn
các trường Đại học Đà lạt, Huế Sài gòn. Năm 1959 dạy Triết Đông
tại viện Hán học. Cha có sáng tác nhiều bài thơ phổ biến trong
“Sảng Đình thi tập”.
Nữ tu Mai
Thành viết:“
Ngày 10 tháng 12 năm 1978 Linh mục Giuse Maria Nguyễn văn Thích
với tuổi hạc 87, giã từ trần thế để về cõi trường sinh, hội ngộ
cùng Đấng Chân- Thiện- Mỹ mà Linh mục đã hiến thân phục vụ đến
trọn đời, trọn tình, trọn nghĩa. Phút lâm chung Ngài còn vui vẻ
hát ca. Chắc hẳn là những ngày, những giây phút chuẩn bị cuộc ra
đi, ngài đã ngắm nhìn bức tranh Đức Maria mà chính tay Ngài đã
kính cẩn họa ra với lời ca Ngài đã sáng tác:
Bao giờ tôi được lên Trời,
Ở cùng Đức Mẹ thì tôi phỉ nguyền.
Nguon:
http://www.chungnhanduckito.net/tacgia/Mai%20Thanh/lm.nguyenvanthich.htm
Cựu Thủ Tướng Nguyễn Bá Cẩn.(1930-
2009)
Trong quyển “Đất
nước tôi”, Hồi ký chính trị của Cựu Thủ Tướng Nguyễn Bá Cẩn
đuợc biết ông sinh tại Cần Thơ năm 1930, năm 1951 động viên khóa
1 sinh viên Sĩ Quan Trừ bị Thủ Đức.1953 trúng tuyển khóa 1 Học
viện Quốc Gia Hành Chánh. 1957 tốt nghiệp Thủ khoa khóa 1 Học
Viện Quốc Gia Hành Chánh.
1958 Quận
Trưởng Cái Bè, Định Tường.
1959 -1967
Phó Tỉnh Trưởng Định Tường, Phước Tuy và Long An.
1967-1971 Dân
biểu Hạ Nghị Viện.
1971-1975 Chủ
tịch Hạ Nghị Viên.
1975 Thủ
tướng VNCH.
Ký giả Hạnh
Dương viết: “Trong cuộc phỏng vấn cựu Thủ Tướng Nguyễn Bá Cẩn đã
cho hay rằng dưới chế độ Đệ Nhất Cộng Hoà của cố Tổng Thống Ngô
Đình Diệm, lúc ông làm Quận trưởng Cái Bè, Phó Tỉnh Trưởng Định
Tường và Phó Tỉnh trưởng Phước Tuy, ông đã nhiều lần được đảng
Cần lao yêu cầu ông trở lại đạo Công giáo, ông đã quyết liệt từ
chối. Nhưng khi đến định cư tại Hoa Kỳ, sau khi con gái của ông
tử thương vì tai nạn, ông đã buồn, khóc rất nhiều và mắt của ông
gần như bị mù. Nghe nói Đức Mẹ Lộ Đức (Lourdes) tại Pháp là nơi
linh thiêng và nhiều người khấn xin, đuợc Đức Mẹ chửa lành, nên
phu nhân của ông đã đưa ông qua Pháp để đến cầu nguyện tại nơi
Đức Mẹ hiện ra với chị Bernadette từ ngày 11-2-1858 đến ngày
16-7-1858 trong 18 lần khác nhau. …
Cho
đến nay sau ba lần khai mở hầm mộ của nữ tu này để khám nghiệm,
làm thủ tục phong Thánh thì điều rất ngạc nhiên xác của nữ tu
Marie Bernard này vẫn nguyên vẹn và mềm mại như người đang ngủ.
Hiện nay thi thể của nữ tu được bỏ trong quan tài bằng kính
trong suốt và để trong nhà nguyện cho mọi người đến kính viếng
cầu nguyện.
Cựu Thủ Tướng
nói rằng ông chỉ đi theo đề nghị của vợ ông mà thôi chứ chẳng có
tin tưởng gì. Nhưng sau khi thấy những điều kỳ diệu như thế nên
ông đã cầu nguyện và không ngờ là sáng hôm sau, sau khi thức
dậy, hai mắt ông bừng sáng như chưa hề bịnh tật gì. Và từ đó ông
đã xin theo đạo Công giáo và được thanh tẩy tại Lộ Đức ở Pháp
và trở lại Hoa Kỳ đi nhà thờ mỗi ngày Chúa Nhật, rất sùng đạo,
sống bình dị cho đến giờ phút ông vĩnh biệt gia đình và cộng
đồng người Việt tự do tại Hoa Kỳ và Hải ngoại.
Ông mất ngày
thứ tư 20-5-2009.
Thánh lễ cầu
hồn cho linh hồn Phêrô tại nhà thờ Maria Goretti lúc 10 giờ ngày
thứ tư 27 tháng 5 -2009, hạ huyệt tại nghĩa trang Oak Hill, San
José.
nguồn:
http://ngothelinh.tripod.com/Nguyen_Ba_Can.html
Giáo Sư Nguyễn Khắc Dương.
Nguyên là
Giáo sư viện Đại Học Đà Lạt năm 1965-1976. Sinh ngày 24-9-1925
tại Vinh, nguyên quán Thịnh Xá, Hương Sơn, Hà Tỉnh.
Là bào đệ của
Bác sĩ Nguyễn Khắc Viện một đảng viên nồng cốt của đảng Cộng sản
Việt nam, thân phụ là Nguyễn khắc Niêm, nguyên Án Sát tỉnh Nghệ
an vào năm 1930, về hưu năm 1943 với phẩm hàm Hiệp Biện Thượng
Thư.
Năm 1938 đậu
tiểu học, theo học chương trình Pháp tại trường Thiên Hựu,
trường tư thục có giá trị nhất thời đó. Tác giả viết: “Cái quyết
định của mẹ tôi là do sự xếp đặt của Thiên Chúa, có vậy mới biết
đến Chúa Giêsu, mới là tín hữu của Ngài”.
Sau tú tài II
tác giả từ giả Huế về quê với tâm niệm mình là một Phật tử với ý
nguyện sẽ xuất gia khi gặp dịp thuận tiện. Trên đuờng về quê tác
giả ghé thăm anh Vương đình Lương, lúc ấy làm Hiệu trưởng trường
tư thục Đậu Quang Lĩnh Anh Lương mời cộng tác. “Thế là tôi lại
trở vế với môi trường tư thục Công giáo. Được trở về sống trong
cái khí quyển mà tôi hấp thụ sáu năm tại trường Thiên Hựu Huế.
Tôi như một cây héo rũ bỗng được hồi sinh. Ngoài các sinh hoạt
chức nghiệp, tôi thường liên lạc với các linh mục, các đại chủng
sinh giúp nhà xứ Nghĩa Yên. Dần dần tôi mới khám phá ra rằng chỉ
có môi trường Công giáo mới hợp với con người tôi”.
Vào năm 1948
tác giả quyết định gia nhập đại gia đình Công giáo. Trong tâm tư
thì vậy nhưng đi đến thực hiện quả là còn cách núi ngăn sông.
Trước hết là những khó khăn trong tâm tư của chính mình nhất là
cảm tưởng phải xa lìa tất cả, xa lìa gia đình, bạn bè, hàng xóm
rồi cả mấy mươi năm truyền thống văn hóa.” Trở ngại khách quan
khác lớn lao hơn nhiều: “Đối với nhà nho cỡ lớn ở đất Nghệ Tỉnh
có đứa con theo đạo là sự sĩ nhục… thằng con trai đã bỏ truyền
thống của cha ông để đi theo “Tây Dương Tả Đạo” nhất là tôi là
con là cháu được khen là hiếu thuận.”
Vào dịp Lễ
Giáng Sinh năm 1948, tôi đến Đức Thọ thăm gia đình anh Vương
Đình Lương. Ngày hôm sau được Linh mục Vương Đình Ái mời dự bửa
cơm mừng lễ với các giáo viên dạy trường Đậu Quang Lĩnh. Sau bữa
cơm tôi thưa với Cha Ái về ý muốn lảnh nhận bí tích rửa tội.
Và ngày Rửa
tội là ngày 9 tháng 1 năm 1949, Linh mục rửa tội là Linh mục
Nguyễn ngọc Bang cha xứ Nghĩa Yên. Cha đỡ đầu là Linh Mục Vương
đình Ái.
Nguyễn Khắc
Dương vào dòng Phanxicô sống đời dự tu đầu tiên khóa 1949-1950.
Tháng 04 năm 1954 rời khỏi nhà dòng vì bị động viên vào trường
Sĩ Quan Trừ Bị Thủ Đức. Trong thời gian này thân phụ bị đấu tố,
kết án 20 năm tù và đi cải tạo vài hôm thì từ trần.
Sau hơn hai
năm quân vụ, tháng 10 năm 1956 được tu viện Phanxicô cho sang
Pháp học thần học tại Paris (1956-1957). Ra khỏi dòng, học
Sarbonne 1957-1960, tốt nghiệp Cử nhân Triết học. Thử tu tại
dòng Biển Đức ở Pháp, Bỉ, Thụy Sĩ (1961-1963) nhưng không thành
vì lý do sức khỏe. Từ năm 1963 đến 1965 dạy học ở nhiều trường
trung học Công giáo ở Paris.
Cuối năm
1965 Nguyễn Khắc Dương trở về Miền Nam Việt nam. Năm 1966 Linh
Mục Nguyễn văn Lập Viện trưởng Viện Đại Học Đà Lạt mời ông lên
dạy triết tại đó.
Khi cộng sản
tiếp thu Viện Đại học Đà lạt ông cũng bị đi học tập cải tạo 16
tháng.
Năm 1975 đến
1986 đổi cư trú trên 10 lần, không nhà, không cửa, không tài
sản, không vị trí gì cả trong Giáo hội cũng như trong gia đình
và ngoài xã hội.
http://www.conggiaovietnam.info/index.php?m=module3&v=chapter&ib=46&ict=578
http://www.dunglac.org/index.php?m=module3&v=chapter&ib=197&ict=1409
Nhạc sĩ Vũ Thành An:
Theo ký giả
Hạnh Dương cho biết Nhạc sĩ Vũ thành An kể rằng: “Từ khi có trí
khôn tôi vẫn thao thức với câu hỏi: Mình ở cuộc đời này để
làm gì?”
Vũ Thành An
kể: “Tôi đã khốn đốn trong các trại giam tại Bắc Việt. Một trong
những khốn khổ mà tôi phải chịu là chứng mất ngủ. Từng đêm dài
tôi đã thức trắng, sức khỏe dần yếu đi, không có thuốc để chữa
chạy. Tình trạng này kéo dài cả năm từ đầu năm 1980 đến 1981.
Một tối kia đa số anh em trong phòng đã say ngủ tôi nghe hai anh
nói chuyện với nhau chỉ cách chỗ tôi nằm chừng hai thước. Tôi
nghe anh Nguyễn văn Lai nói: “Khi nào tôi khó ngủ tôi chỉ cầu
nguyện bằng cách chỉ đọc vài Kinh Kính Mừng là ngủ được ngay.”
Nhạc sĩ Vũ
Thành An kể tiếp mặc dầu anh chưa có đạo nhưng Kinh Kính Mừng
thì tôi đã biết. Năm 17 tuổi tôi có người bạn gái, lúc đó sự
liên lạc của chúng tôi là những trang thư và những buổi hẹn hò
trong sân nhà thờ. Gặp chỉ để nói với nhau đôi câu. Một hôm đôi
tay rất đẹp trinh trắng của Uyên đã trao tôi trang giấy có ghi
bài Kinh Kính Mừng với nét chữ thật nắn nót. Uyên bảo tôi học
thuộc đi và tôi đã thuộc. … Cho đến bây giờ tôi cũng không biết
Uyên ở đâu, nhưng Kinh Kính Mừng thì ở lại.” và trong cơn
tuyệt vọng ở trại tù Bắc việt, anh đã nhẩm đọc Kinh Kính Mừng và
đêm đó anh đã ngủ ngon.giấc. Và sau đó tôi đã ngủ khoảng một
tuần lễ liên tiếp. Một buổi sáng thức dậy nhìn qua cửa sổ phòng
giam thấy nắng xuân vàng ấm chiếu trên luống rau cải xanh do các
bạn tù trồng ngoài sân tự nhiên tôi nói với bố Vũ công Định nằm
bên cạnh:” Bố Định ơi, chắc là con theo đạo Chúa quá. Bố Định là
một tù nhân không có đạo, ít nói, nghe vậy bố chỉ cười. Bố Định
bảo Vũ Thành An đến gặp Thượng Nghị Sĩ Nguyễn văn Mân cùng ở
chung phòng 1 tại trại giam Hà Tây để hỏi vì cụ Mân là người
Công giáo.
Vũ Thành An
kể tiếp: “món quà đầu tiên sau khi tôi cầu cứu Đức Mẹ là bịnh
mất ngủ đã không còn hành hạ tôi nữa.”
Sau đó anh em
đạo Thiên Chúa đã cho tôi tình thân ái mà trước đó tôi không
có.và đã hướng dẫn cho tôi chờ ngày Rửa tôi. Nhưng đến ngày ấn
định tôi xin ngưng lại. Tôi chưa sẳn sàng về tâm lý và sợ...
Nhưng bắt đầu sáng tác thánh ca như “Cha là Ngôi Trời có thật”
“Mẹ ơi cứu con ra khỏi nơi này” “Hãy nhìn lên Trời cao”. Sau
hơn một tháng suy nghĩ, tôi đã xin anh em trong tù định ngày rửa
tội cho tôi là ngày 19-3-1981.
Buổi lễ diễn
ra nghiêm trang dường như cả phòng đều biết nên đã giữ yên lặng
khác thường. Khi bác Nguyễn thành Tiên vừa dội nước vừa đọc “Tôi
rửa anh nhân danh Cha và Con và Thánh Thần” thì chừng một hai
giây sau đèn điện chớp hai lần rồi bật sáng hẳn.
Sau buổi lễ
rửa tội đó, cán bộ trại đã gọi anh lên thẩm vấn anh lý do anh
“gia nhập “đạo Công giáo. Tìm xem Linh mục nào dám rửa tội trong
trại vì nếu truyền giáo và hành đạo ở trong trại sẽ bị cùm giam
vào sà lim.
Nhạc sĩ Vũ
Thành An qua định cư tại Portland, Oregan theo diện HO. Anh đã
xin đi tu và được tòa Giám Mục Portland cho theo khóa Đại học
thần học và được Đức Tổng giám Mục John G. Vlazny chủ tế lễ
truyền chức Thánh Phó tế vĩnh viễn ngày thứ bảy 23-11-2002.
Hiện nay Phó
tế Vũ Thành An sáng lập và phụ trách Quỹ từ thiện Têrêsa đang
trợ cấp cho trên 2000 cụ già ở Việt nam. Nếu tiếp tay cho Quỹ từ
thiện xin gởi về: TÊRÊSA P.O.Box 13237 Portland, OR 97213
nguồn:
www.vietbao.com/?ppid=45&pid=5&nid=65627
Linh Mục Nguyễn Viết Chung:
Một ngày vào
năm 1973 các tờ báo ở Sài gòn đồng loạt đưa tin vế cái chết của
Jean Cassaigne một giám Mục Công giáo người Pháp, nguyên làm
Giám Mục Sài gòn nhưng lại qua đời tại một trại phong ở Di Linh,
một nơi đèo heo hút gió trên đường từ Sài gòn đi Đà Lạt. Nguyễn
Viết Chung đọc tiểu sử của vị cố Giám Mục trên báo và không hiểu
do đâu anh lại mong muốn được nên giống Ngài ở chỗ phục vụ người
cùng khổ cho đến hơi thở cuối cùng. Anh chẳng biết gì về Đạo
Công giáo thế mà Đức Cha Cassaigne lại là thần tượng của anh.
Năm 1974.
Chung học Y Khoa Đại Học Đường Sài gòn. Tại đây anh gặp người
công giáo đầu tiên trong đời anh là giáo sư bác sĩ
Lichtenberger, người Bỉ, dạy môn Mô phôi học. Chung ngưởng mộ sự
uyên bác khoa học vô song của ông. Các bài giảng vô cùng sinh
động và phong phú của nhà khoa học uyên thâm một cách lạ lùng
làm cho Chung mê mẫn. Chung kinh ngạc khám phá vị Giáo sư khả
kính này là một Linh Mục dòng tên. Anh thường cùng các bạn
trường Y đến nhà thờ để xem Giáo sư Lichtenberger dâng lễ….
Những năm học
Y khoa không phải là dễ dàng đối với Nguyễn Viết Chung anh phải
làm thêm nhiều việc nặng nhọc kể cả đạp xích lô để kiếm tiền ăn
học và phụ giúp gia đình.
Năm 1984, bác
sĩ Chung khi đó 29 tuổi, xin được bổ nhiệm lên trại phong Di
Linh để thực hiện giấc mơ lớn nhất của đời anh. Nhưng theo đúng
thủ tục hành chánh thì anh phải trình diện và chịu sự điều động
của Sở Y tế Lâm Đồng.
Bà trưởng
phòng ngạc nhiên hỏi:
-“Anh có điên
không hay là anh bị cùi?”.
-“Nếu tôi cùi
thì bà đã thấỳ rồi.Còn có điên hay không thì tôi không biết
nhưng điều tôi biết là tôi mong muốn phục vụ những người cùi.”
Từ ngày
01-7-1986 anh về làm việc tại phòng chống sốt rét của tỉnh Đồng
Nai cho tới năm 1989. Từ năm 1990-1992 đổi về làm tại phòng xét
nghiệm của bịnh viện da liễu Sài gòn. Ở đây anh xin học thêm
chuyên khoa da liễu vì anh không bao giờ anh quên mộng ước của
mình.
Năm 1993 Bác
sĩ Chung tình nguyện lên công tác tại trại Phong Bến Sắn, Bình
Dương. Tại đây anh làm việc hăng say như để đạt được tâm nguyện
của mình giống như Đức Giám Mục Cassaigne trong việc phục vụ
bịnh phong cùi. Anh hết sức tận tụy không nề hà. Nhưng dù như
thế anh vẫn thấy mình thua xa các nữ tu nữ Tử Bác ái trong việc
yêu thương phục vụ người bịnh. Các nữ tu luôn nhẫn nại lắng nghe
phục vụ người bịnh hết lòng, không bao giờ làm họ buồn tủi. Tinh
thần hy sinh, quảng đại đó khiến cho anh cảm phục. Anh cho rằng
muốn có được tinh thần yêu thương người nghèo khổ như thế anh
phải trở thành một người giống như các nữ tu. Anh chưa phải là
người công giáo nên anh không thể hiểu được tinh thần làm việc
của các Sơ. Anh cũng muốn được phục vụ với tinh thần giống như
các Sơ.
Ngày
28-8-1993 bác sĩ Chung đến gặp Cha Hoàng văn Đoàn, dòng tên, tại
Bình Dương xin học giáo lý tân tòng. Ngày 15 tháng 5 năm 1994
bác sĩ Chung được cha chính xứ Bến Sắn, Linh mục Trần Thế Thuận
làm lễ rửa tội cho anh tại nhà nguyện trại phong Bến Sắn. Nhưng
bác sĩ Chung chưa hài lòng khi chưa được trở nên giống các Sơ để
có thể yêu thương phục vụ người nghèo. Ở tuổi tứ tuần theo đuổi
ơn gọi tu sĩ là một điều quá khó khăn.
Ngày
15.9.1994 bác sĩ Chung trở thành tập sinh lớn tuổi nhất của dòng
Vinh Sơn nam số 40 đườngTrần Phú, Đà Lạt. Ngày lễ truyền tin
25.3.2003 Giáo hội trao tác vụ Linh mục cho thầy Augustinô
Nguyễn Viết Chung qua lễ đặt tay của Giám mục Giuse Vũ Duy Thống
tại nhà thờ Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp Sài gòn.
Ngày
3.4.2003, Linh Mục Nguyễn Viết Chung quay về trại phong Bến sắn
dâng Thánh lễ tạ ơn trong sự hân hoan của các bịnh nhân phong
với sự hiện diện của cha sở Bến sắn, người mà 9 năm trước đây đã
làm lễ rửa tội cho cha. Vẫn thái độ khiêm nhường, yêu thương và
cung kính với các người bịnh vẫn xưng mình là “con” khi nói
chuyện với các bịnh nhân lớn tuổi.
Tháng 3 năm
2009 tôi có về Sài gòn có dẫn người cháu đến thăm Linh mục
Nguyễn Viết Chung, cha dong dõng cao, hơi ốm, nói năng nhỏ nhẹ:
“ “con” cũng chỉ là cái máng để hứng lấy tình yêu thương của mọi
người để mang đến cho những người kém may mắn”.
Nhà văn Hương
Vĩnh có viết: “Ba vị đã tác động mạnh mẻ trên ơn gọi của cha
Chung là Giám mục Jean Cassaigne, Linh mục Lichetenberger và Dì
hai Loan ( phục vụ trại phong Bến Sắn 17 năm, chết vì bịnh ung
thư ở tại trại này). Cả ba cùng có mẫu số chung - như lời cha
Chung - đó là họ đã rao giảng Tin Mừng cho cha bằng cuộc sống
chứ không phải bằng lời nói.
nguồn:
http://www.chungnhanduckito.net/chungnhan/saubathapnien.htm
Trong bài
“Nguyễn Viết Chung và tiếng gọi của Chân Thiện Mỹ” cố Giáo sư
Trần Duy Nhiên đã viết trong đoạn kết của bài này như sau:
“Thiên
Chúa đã đến trong cuộc đời Nguyễn Viết Chung bằng những bước đi
nhè nhẹ. Nhưng mỗi lần Ngài đến là Ngài để lại dấu ấn sâu sắc
trong một tâm hồn biết lắng nghe. Giữa bao nhiêu thần tượng trên
thế gian. Nguyễn Viết Chung biết chắc lọc một vài khuôn mẫu định
hướng cho cuộc đời mình: Đức Cha Cassaigne, Cha Lichtenberger,
Dì Hai Loan.. đấy là chưa kể đến nhiều người khác trong đó có
thân mẫu của mình một người mẹ đã suốt đời âm thầm chịu đựng cho
đến khi mù lòa. Giữa các gương mặt ấy có một nhân vật gần giống
như Nguyễn Viết Chung: Linh Mục Bác sĩ Marcel Lichtenberger. Thế
nhưng con đường Chúa dẫn hai vị đi thì hoàn toàn trái ngược
nhau. Năm 25 tuổi Cha Lichtenberger vì tình yêu Thiên Chúa thúc
bách phải đến với những con người bất hạnh tại Trung Hoa. Và
trước những thương tích của Chúa Kitô thể hiện trên hình hài các
bịnh nhân, cha đã trở về ngồi lại trên ghế nhà trường để rồi trở
thành bác sĩ năm 48 tuổi. Ngược lại, bác sĩ Nguyễn Viêt Chung
tốt nghiệp bác sĩ năm 25 tuổi, thế rồi muốn chia sẻ trọn vẹn sự
khốn cùng của bịnh nhân nên rốt cục đã gặp Chúa Kitô chiụ đóng
đinh trong những con người bất hạnh. Và điều này khiến cho vị
bác sĩ tận tâm kia từ bỏ mọi sự để trở thành Linh Mục của Chúa
vào tuổi 48.”
http://www.tiengnoigiaodan.net/lcht/lcht_098.html
Linh mục Nguyễn Viết Chung
479/15 Nguyễn Kiệm
Phường 9, Quận Phú Nhuận (Sài
Gòn)
Tạ
Phong Tần:
Tạ Phong Tần
là cựu Đại Úy? ngành Công an của nhà nước cộng sản Việt nam. Đã
rời khỏi cơ quan nhà nước và làm việc văn phòng luật sư Lê Trần
Luật. Bà đã được Rửa tội ngày 14 -6-2009 tại Giáo Xứ Đức Mẹ Hằng
Cứu Giúp, số 38 đường Kỳ Đồng Quận 3, Sài gòn, lúc bà 41 tuổi.
Bà đã viết nhiều bài báo về thực trạng xã hội Việt nam trong “
Blog Công lý và Sự Thật” mà bà đang chủ trương.
http://conglysuthat.blogspot.com/2009/07/thanh-le-rua-toi-cho-maria-ta-phong-tan.html
Nhiều trường
hợp gia nhập đạo với nhiều lý do khác nhau như Bác sĩ, Nghị sĩ
Đặng văn Sung, Chủ nhiệm báo Chính Luận trước năm 1975, ca nhạc
sĩ Nhật Trường Trần Thiện Thanh, ca sĩ Thanh Lan (chịu phép
thánh tẩy tại Vatican vào năm 2003)… Ở trong nước còn nhiều
người nữa như Học giả Cao Xuân Huy, Nhạc sĩ Văn Cao…
Theo
Vietcatholic news (18 Oct 2009) Giáo phận Xuân Lộc đón nhận 1114
tân tòng và hơn 2000 người là thân nhân, họ hàng, bạn bè của các
tân tòng. Chủ sự Thánh lễ, Đức cha Đaminh Nguyễn Chu Trinh chủ
chăn của giáo phận Xuân Lộc cùng đồng tế có Đức cha Micae Hoàng
Đức Oanh Giám mục giáo phận Kon tum v.v.… và hơn 50 cha trong
giáo phận.
nguồn:
http://www.vietcatholic.net/News/Clients/ReadArticle.aspx?ID=72201
Ở mỗi giáo xứ
hay mỗi nhà thờ hàng năm đều có làm lễ “Rửa tội” cho người lớn
thông thường con số cũng vài chục người. Trong số những người
nhận Bí tích thanh tẩy, con số không nhỏ là những người trí
thức.
Con đường đến
với Thiên Chúa tình yêu, đến với Hội Thánh Chúa bằng nhiều cách
khác nhau. Tất cả đều được Thiên Chúa yêu thương mời gọi tìm về
suối nguồn tình yêu là Thiên Chúa toàn năng, để được an ủi, để
được hạnh phúc đời này lẫn hạnh phúc vĩnh cữu đời sau, sau khi
mất.
Phùng văn Phụng
mùa Giáng
Sinh 2009 (27 tháng 12) |
VỀ MỤC LỤC |
|
SOI
GƯƠNG, SOI LÒNG
|
Ngày nọ, tôi gặp một
vị linh mục trung niên, tính tình vui vẻ hòa đồng. Lâu ngày
không gặp, tôi nhìn thấy nơi khuôn mặt vị linh mục những nét
phong sương, nếp nhăn xuất hiện trên vừng trán và khóe mắt, nụ
cười tuy vẫn tươi nhưng nét môi như chùng xuống. Tôi nói:
- Trông cha như già
đi...
Vị linh mục xác
nhận, ông nói:
- Soi gương thì thấy
mình già...
Nhưng ông tiếp ngay:
- Soi lòng thì
thấy vốn là thanh niên.
Rồi ông cười, giọng
đầy hào sảng.
Cuộc gặp gở ngắn
ngủi kết thúc. Buổi tối trở về nhà, tôi nhớ hoài đến câu thơ
''soi gương, soi lòng'' ấy. Và rồi tôi soi gương, soi lòng chính
tôi thật.
Tôi soi gương và
thấy khuôn mặt tôi trong đó. Tôi hôm nay khác hẳn tôi mấy chục
năm về trước. Đã có một thời xa xưa nào đó, tôi là một khuôn mặt
trẻ thơ, hiền lành, nhút nhát; có thể là một khuôn mặt ngây ngô,
không lanh lợi cho lắm. Nhưng dù sao đó cũng là một khuôn mặt
không mấy khó ưa. Thời đó, tóc tôi còn xanh, đôi mắt còn trong,
dĩ nhiên là không phải đeo kính như bây giờ. Thời đó tuy là con
trai nhưng da mặt của tôi mịn (da trẻ em nào mà không mịn), cánh
môi tôi cũng xinh; má tôi không phính, nhưng nhiều người lớn
thấy tôi cũng muốn ''véo má một cái''. Thời đó, trán tôi chưa hề
có nếp nhăn, lông măng phơn phớt, một vài đường gân xanh nhỏ bên
thái dương và những tia máu nhỏ chạy li ti trên đôi má, Thời đó
khuôn mặt tôi hiền hậu, dễ thương. Ít là tôi nghĩ như thế.
Rồi thời gian qua
đi. Khuôn mặt tôi biến đổi cho phù hợp với tuổi thiếu niên tôi
có. Tóc trở nên rậm và cứng hơn. Da không còn mịn nữa. Nó đã hơi
''gồ ghề'' và nhiều nơi có mụn trứng cá. Đôi má không còn hấp
dẫn để cho người lớn ''muốn véo một cái'' nữa. Cặp mắt tôi sâu
hơn, đen hơn và đôi lông mày rậm. Khuôn mặt tôi thuở ấy hình như
có những nét không cân đối và thiếu hòa hợp. Có lẽ không phải vì
những đường nét tự nhiên của khuôn mặt, nhưng do ảnh hưởng của
thể lí và sinh lí tuổi đang lớn.
Khuôn mặt tôi biến
đổi một lần nữa khi tôi bước vào tuổi thanh niên. Tôi không phải
là một người vạm vỡ, cao lớn. Nhưng dù sao ở tuổi ấy, khuôn mặt
tôi cũng có góc cạnh hơn, tóc tai "đâu vào đấy'' hơn. Tôi vốn
không phải là người chú ý đến diện mạo bên ngoài nên không nhớ
mình có "đẹp trai'' không. Những cô bạn gái của tôi không ai chú
ý đến khuôn mặt tôi cả, họ để tâm đến tính nết tôi hơn. Nhưng dù
sao tôi cũng không bị mang tiếng là người xấu xí.
Thế rồi thời gian cứ
trôi, khuôn mặt tôi vẫn cứ biến đổi. Không biết bao nhiêu lớp da
với những tế bào cằn cỗi đã bị đào thải, thay vào đó là những
lớp da mới. Đã nhiều lần khuôn mặt tôi trầy xước, xây xát vì
những vết thương; nhiều lần sưng phù, mọng đỏ, mụn mằn vì những
cơn bệnh; nhiều lúc hóp lại vì mệt nhọc, lo lắng, ưu tư. Cũng
đôi khi khuôn mặt ấy hồng hào vì khỏe mạnh, rạng rỡ vì niềm vui.
Tất cả những khuôn mặt ấy đều là ''TÔI'' cả .
Cho đến ngày hôm
nay, một buổi tối thinh lặng, tịch mịch, một mình tôi đối diện
với tấm gương. Tôi thấy là lạ vì không có thói quen soi gương
sửa soạn cho khuôn mặt. Tôi vốn có tính xấu: cẩu thả và luộm
thuộm; phải đi đâu vớ được bộ quần áo nào là xỏ vào ngay, không
chắc mặc nó ''hợp' hay ''không hợp''. Tóc thì chỉ cần đưa tay
lên "cào'' vài cái là xong. Chính vì vậy, hôm nay nhìn kĩ khuôn
mặt mình trong gương, tôi thấy nó kì kì. Tôi nhăn mũi, lè lưỡi
chọc ghẹo cái khuôn mặt trong gương ấy. Nhưng rồi tôi cũng quan
sát nó thật kĩ. Tôi, trong gương, bây giờ là một khuôn mặt trung
niên; mái tóc đã có một vài sợi bạc; trán có kha khá nếp nhăn;
lông mày còn rậm, nhưng đuôi lông mày bên trái bị đứt một đoạn
ngắn, hậu quả của một lần mí mắt bị sưng và làm độc. Da tôi
không đen nhưng sạm màu, làn da cũng có những nếp nhăn và không
còn phẳng phiu, mịn màng như ''ngày xưa còn bé ''.
Tôi nhìn tôi trong
gương, không thấy mình đáng ghét cho lắm, nhưng không còn chút
nào vẻ thơ trẻ hồn nhiên. Thời gian và những biến thiên dời đổi
của cuộc đời đã để lại trên khuôn mặt tôi nhiều vết tích không
phai mờ. Tôi thử cười một cái, nụ cười làm cho khuôn mặt tôi có
nhiều nếp nhặn hơn. Nụ cười không làm cho tôi trẻ đi, tươi hơn;
trái lại, hình như trông già hơn, héo hơn một chút.
Trong khoảnh khắc,
tất cả mọi khuôn mặt của tôi liên tiếp xuất hiện trong gương,
rất nhanh nhưng cũng rất rõ. Tất cả đều là tôi, là
"tôi-trong-cùng-một-lúc''; không có ''tôi" nào trước, ''tôi''
nào sau. Bởi vậy, nếu hỏi rằng tôi thích "tôi'' nào nhất thi tôi
không trả lời được.
Bỏ tấm gương đấy,
tôi muốn ''soi lòng". Tôi tắt đèn đi, ngồi thu lu trên giường,
đắm chìm trong bóng tối và sự tịch liêu. Lòng mình là cái rất
khó nhìn vào và rất khó thấy rõ. Bởi vậy, tôi cần sự trợ giúp
của bóng tối, che phủ tất cả những ngoại cảnh, ngoại vật, để tôi
không còn bị chi phối mà chú tâm vào lòng mình. Trong bóng đêm
thinh lặng, cõi lòng tôi mở ra, và tôi soi tôi trong cõi lòng
ấy.
Tôi nhìn lại cõi
lòng tôi, lúc thiếu thời mở cửa cho tuổi hoa niên. Khi ấy cõi
lòng tôi phơi phới nở hoa. Bao nhiêu mơ mộng thần tiên với những
hoa và bướm. Tôi lớn lên với những giấc mộng đẹp và lí tưởng cao
trong đáy trái tim. Lòng tôi đã bao phen reo vui và ngây ngất
với những tâm tình hướng thượng. Tuổi trẻ nào cõi lòng cũng đẹp
và lí tưởng nào cũng tuyệt vời. Nhưng nhiều người tuổi trẻ khi
lớn lên đã thấy mình lầm, vì bị lợi dụng để phục vu cho những
mục tiêu cá nhân, vụ lợi:
"Nhân Ái,
Công Bình, Yêu Thương, Bất Khuất,
Viết chữ hoa
trong óc tuổi mười lăm.
Khi ba mươi biết
được chuyện xưa lầm
Thì đau khổ đã hằn
trên trán nhỏ,
Thì uất hận vạch
trời nhưng chẳng tỏ,
Rồi cô đơn như một
kẻ chăn cừu,
Trên đường về nhìn
tinh
tú luân lưu...''
Tạ Ký (Sầu Ở Lại)
Rất may cho riêng
tôi ! Qua tuổi mười lăm, mười bảy; đến tuổi hai mươi, hăm lăm;
rồi tuổi ba mươi, rồi lớn hơn nữa... chưa bao giờ tôi thấy
"chuyện xưa lầm'' và cũng chưa bao giờ ''uất hận vạch trời nhưng
chẳng tỏ. ''Lí tưởng và những giấc mơ đẹp có khi bùng cao, chói
sáng; có khi trầm lắng, giấu ẩn... nhưng lúc nào ước vọng làm
đẹp cho đời, cho người cũng vẫn còn đấy. Bao nhiêu người đã than
thở: "Mộng bền năm xưa chỉ là mơ qua''. Tôi chưa hề một
lần than thở, dù rằng đau khổ không những "hằn trên trán nhỏ''
mà đôi khi còn tạo nên những lết thương làm tan nát cõi lòng.
Tôi soi lòng, và
nhìn thấy trong đó những đam mê cuồng nhiệt của tình cảm; những
nhớ nhung đằm thắm; những mong đợi thiết tha. Tôi soi lòng tôi
và thấy cả những ''bối
rối bồi hồi, ráo riết
miệt mài''
khi yêu lần cuối, những "bỡ ngỡ xôn xao, cuống quít dạt dào''
khi yêu lần đậu
(Phạm Duy, Giọt mưa trên lá).
Tôi soi lòng, và cảm
nhận những chao nghiêng, vùi lấp; nghe thấy những tiếng: sóng
lúc rì rào, khi ào ạt. Những cơn sóng lòng đôi khi như bị nhân
chìm tôi vào biển tình cảm.
Tôi soi lòng lôi, và
may mắn không thấy hiện lên những hận thù, cũng không có cả
những mưu mô gian ác, những tính toan bất chính, những lường gạt
phi nhân. Nhưng tôi thấy trong lòng. đôi khi có những ghét ghen
nhè nhẹ, những bực dọc âm thầm, những trách cứ nghiêm khắc và
những đòi hỏi sự lưu tâm.
Tôi soi lòng tôi và
tìm thấy ở nhiều lúc có những nỗi chán chường, những cơn buồn
dày dặc; và những sự tủi thân, âm thầm, không muốn cho ai biết.
Những cơn buồn và sự tủi thân gặm nhấm lòng tôi, làm cho đắng
cay, đau đớn.
Tôi soi lòng tôi, và
bắt gặp những thân thương, ấm áp của tình yêu, tình bạn, tình
người. Những tình cảm nồng nàn và ân cần, làm cho tôi thấy cuộc
đời tươi đẹp, hạnh phúc và đáng sống.'
Tôi soi lòng tôi và
cũng thấy những nỗi cô đơn. Có những phút giây cõi lòng tôi
hoang lạnh, tưởng chừng như không có ai và cũng chẳng biết đến
ai.
Tôi soi lòng tôi,
thấy hết trong cùng một lúc niềm vui nỗi buồn, khổ đau và hạnh
phúc; tâm tình hướng thượng và tư tưởng thấp hèn; cô đơn và thân
ái; chấp nhất và thứ tha; hăng say và buồn chán; bất ổn và bình
an.
Và tôi thấy lòng tôi
để rồi thấy trong đó một chú bé, chú bé ''tôi-ngày-xưa". Chú bé
thân quen và dễ thương. Vị linh mục tôi mới gặp ''soi lòng thì
thấy vẫn là thanh niên''. Tôi, tôi thấy mình không còn là thanh
niên nữa. Tôi già giặn, chín chắn và trầm tĩnh hơn tuổi thanh
niên ngày trước rất nhiều, nhưng trong lòng tôi vẫn có một
chú bé, và tôi muốn chơi
với chú. Tôi nhớ lại bạn tôi
nói: ''Trong lòng
mỗi người chúng ta đều có một chú bé hay một cô bé , và rất
nhiều khi chúng ta phải mở cửa cho em bé ấy ra ngoài chơi. "Tuổi
thơ đẹp, không phải chỉ ở trong quá khứ. Tuổi thơ có thể được
gọi về, bất cứ lúc nào; nếu chúng ta gọi với đúng ngôn ngữ và
tâm tình của tuổi thơ, những tín hiệu mà tuổi thơ có thể ''bắt'
được.
Hôm nay, một buổi
tối cuối năm, tôi ngồi ''soi gương'' và "soi lòng''. Chẳng mấy
khi trong đời tôi làm được như thế. Soi gương, với tôi, có lẽ
không cần thiết lắm. Nhưng soi lòng, tôi mong rằng tôi thực hiện
mỗi ngày, vào những buổi tối trước khi tôi thiếp vào giấc ngủ,
để thấy những gì mình làm vui lòng Chúa và vui lòng người khác;
những gì mình làm buồn lòng Chúa và buồn lòng người khác. Nếu
tôi thực hiện được như vậy, chắc cuộc đời tôi sẽ dễ thương hơn,
hữu ích hơn và đáng sống hơn một chút.
Nhà Văn Quyên Di |
VỀ MỤC LỤC |
|
THẬN TRỌNG VỚI THUỐC HO, CẢM LẠNH
|
Cảm Lạnh
(Common Cold) là bệnh thường xảy ra nhất là từ tháng 11 tới
tháng 4.
Trong khoảng
thời gian này, bệnh xuất hiện với ba cao điểm: vào mùa Thu khi
trẻ em bắt đầu đi học rồi giữa mùa Đông và cuối cùng là vào mùa
Xuân khi mà mọi người tưởng là đã không còn bị cảm lạnh viếng
thăm.
Cũng như bệnh
Cúm (Flu), Cảm lạnh do virus gây ra với cả vài trăm loại khác
nhau nhưng nhóm rhinovirus ( virus mũi) là thường thấy hơn cả.
Như tên gọi,
virus này xâm nhập cơ thể qua mũi và miệng.
Virus nằm
trong các giọt nước nhỏ li ti từ miệng mũi bệnh nhân thoát ra
khi họ ho, hắt xì hơi hoặc nói. Chúng bay lởn vởn trong trông
khí cả mấy tiếng đồng hồ và người lành hít phải là mang bệnh.
Virus cũng
lây lan qua các đồ dùng của bệnh nhân như điện thoại, khăn mặt,
bát đĩa, bàn viết máy vi tính…Sờ đụng vào các vật dụng đó rồi
đưa tay lên miệng, lên mũi là mắc Cảm lạnh ngay.
Hiện nay,
chưa có vaccine ngừa cảm lạnh.
Phương thức
phòng bệnh giản dị và hữu hiệu là không tiếp cận quá gần với
người bệnh, bệnh nhân che miệng mũi khi ho; rửa tay thường
xuyên; không dùng chung cật dụng với bệnh nhân, nghỉ ngơi tại
nhà khi mắc bệnh, uống nhiều nước.
Trẻ em từ 1
tới 5 tuổi thường hay bị cảm lạnh cả chục lần mỗi năm và cũng
thường hay bị các biến chứng như sưng phổi, viêm tai trong, viêm
phế quản. Lý do là hệ miễn dịch của các em chưa mạnh, các em
cũng hay tụ tập tại nhà giữ trẻ, mẫu giáo, rồi cũng chưa có thói
quen rửa tay, che mũi miệng như người lớn.
Người lớn ít
bị cảm lạnh hơn, nhưng cũng được virus tới thăm dăm sáu lần mỗi
năm. Với họ, sự mệt mỏi thể xác, căng thẳng tinh thần, kém dinh
dưỡng là những rủi ro khiến cảm lạnh dễ xảy ra, vì sức đề kháng
miễn nhiễm suy giảm.
Cũng có nhiều
ngộ nhân cho là gặp luồng gió độc từ phương bắc thổi tới, phơi
dầu trong mưa, tắm nước lạnh buổi sang gây ra Cảm lạnh. Nhưng
đó cũng chỉ là do truyền khẩu kể lại, chứ nếu không có virus thì
cũng không bị bệnh này.
Kể từ khi xâm
nhập mũi miệng, virus cần từ 1 đến 4 ngày để âm thầm bố trí rồi
ra mặt gây bệnh. Đây là thời kỳ mà y học gọi là ủ bệnh
(incubation period) và cũng là lúc mà bệnh lan truyền mạnh mẽ
sang người khác.
Mới đầu, bệnh
nhân cảm thấy một chút mơ hồ uể oải mệt mỏi, giảm năng lực hoạt
động, nhức xương nhức thịt…Vài ngày sau thì sự hành hạ của virus
rõ ràng, khó chịu hơn.
Khởi thủy là
mũi nghẹt và khô. Nghẹt vì sung huyết tĩnh mạch màng niêm ở mũi
khiến cho bệnh nhân khó thở.
Rồi tới chẩy
nước nhớt từ mũi, dấu hiệu tiêu biểu của Cảm lạnh. Nước mũi có
thể loãng rồi trở nên đặc xệt, màu vàng hoặc xanh có lẩn bạch
huyết cầu chông cự với virus. Khi vi khuẩn trong mũi tái hoạt
động thì nước mũi chuyển sang mầu xanh nhạt. Hiện tượng này tuy
gây khó chịu nhưng công bình mà nói nó lại có ích để loại bỏ các
virus mai phục trong mũi. Nếu không bị tống xuất, chúng sẽ xâm
nhập cuống họng, lan ra các xoang ở mặt hoặc chạy tọt vô phổi
gây viêm nhiễm.
Vào thanh
quản, virus gây viêm cơ quan phát âm này, dọng nói khan khan.
Xuống họng, virus gây đau khiến cho bệnh nhân không muốn cả nuốt
thức ăn lẫn nói. Xương mặt có mấy cái xoang thông với mũi và
miệng. Rhinovirus cũng có thể lan tới và gây viêm xoang, tắc
nghẽn ống thông. Bệnh nhân cảm thấy đầy đầy và đau nhức trên
đầu, trên mặt. Phù viêm xoang cũng là dấu hiệu khó chịu nhất cho
người bệnh.
Ngoài ra bệnh
nhân cũng bị ho, lên cơn nóng số nhẹ (102◦F hoặc 39◦C), chẩy
nước mắt, mệt mỏi, không muốn làm việc gì, chỉ muốn nằm. Ho là
phản ứng tự nhiên của cơ thể khi có vật gì như đàm nhớt, bụi bặm
hiện diện ở họng. Ho là để tống xuất vật này ra.
Thường thường
các dấu hiệu của Cảm lạnh chỉ kéo dài từ 5 tới 7 ngày. Một số ít
bệnh nhân có biến chứng như viêm tai trong, viêm xoang, viêm
họng, sưng phổi, viêm phế quản, khò khè như hen suyễn.
Người lớn nên
đi bác sĩ khám bệnh nếu có các dấu hiệu như nóng sốt trên 102◦F
hoặc 39◦C, đau nhức cơ thể, đổ mồ hôi, ho ra đàm có màu xanh,
sưng hạch cổ, đau xoang mặt.
Với cháu bé,
đi bác sĩ ngay nếu có nóng sốt cao, run lạnh, ho liên tục, nôn
ói, đau tai, đau bụng, khó thở, không ngủ được, khóc luôn
miệng.
Về điều trị
Cảm lạnh, có mấy điều quan trọng cần được mọi người lưu ý:
- Không có
phương thức nào trị khỏi được Cảm lạnh
- Kháng sinh
không công hiệu với virus gây Cảm lạnh.
- Thuốc chống
cảm, ho, nghẹt mũi trên thị trường không những không làm cảm
lạnh lành hoặc mau chấm dứt mà còn có nhiều tác dụng phụ cần
biết để tránh.
Trên thị
trường có cả trăm loại thuốc chữa Cảm lạnh được quảng cáo, vì
nhu cầu của dân chúng quá cao và là có thực. Cứ thấy hắt hơi sổ
mũi ho là bổ nháo bổ nhào ra tiệm thuốc tây mua thuốc. Thuốc do
các viện bào chế uy tín sản xuất cũng có mà thuốc rỏm vô danh
cũng nhiều. Lại còn thuốc quáng cáo là có thêm vitamin, khoáng
chất, antioxidant. Bệnh nhân hoa cả mắt không biết lựa thứ nào.
Theo các nhà
chuyên môn y tế, trong đa số các trường hợp, không cần thuốc men
mà chỉ cần áp dụng vài sự tự chăm sóc là bệnh cũng qua đi. Vì
bản chất của Cảm lạnh là vậy: có vẻ như hung dữ nhưng hiền như
“ma sơ”, tiền hung hậu cát. Nếu thấy cần có thuốc để giảm bệnh
thì cân nhắc coi dấu hiệu nào cần đến thuốc, thuốc gì, dùng bao
lâu và liệu có phản ứng phụ nào không.
Có 3 loại
thuốc để giảm dấu hiệu cảm lạnh:
1- Thuốc chống nghẹt mũi
Hoạt chất
chính của thuốc này là một chất tổng hợp tương tự như
epinephrine (adrenaline) do phần tủy tuyến thượng thận tiết ra.
Cả hai thứ có tác dụng làm co mạch máu. Tại mũi, thuốc làm giảm
sung huyết, niêm mạc xẹp xuống, lỗ mũi thông, bệnh nhân thở dễ
dàng. Nhưng thuốc cũng làm nhịp tim nhanh, tăng áp xuất huyết ở
người đang bị cao huyết áp, kích thích thần kinh với sợ hãi,
nóng nảy, run tay, khó ngủ, chóng mặt, nhức đầu, đổ mồ hôi, nôn
ói…Đang bị cao huyết áp, bệnh tim mạch, tiểu đường không nên
uống thuốc này nếu chưa hỏi ý kiến bác sĩ.
Có hai dạng
thuốc: thuốc uống hoặc nhỏ xịt vào mũi.
a- Thuốc nhỏ xịt, hít vào
mũi
Nhiều người,
ngay cả bác sĩ dược sĩ, thích dạng này vì thuốc tác dụng trực
tiếp vào mũi nhanh hơn, ít gây ra tác dụng phụ cho cơ thể cũng
như ít có tương tác với thuốc trị bệnh khác.
Tuy nhiên
dạng này thường gây ra mấy rủi ro như:
- Tác dụng
ngược lại (rebound action), mũi nghẹt hơn khi tác dụng của thuốc
hết. Để bớt nghẹt mũi, bệnh nhân phải dùng thuốc thường xuyên
hơn, thậm chí tăng liều lượng. Lâu ngày có thể ghiền thuốc xịt,
thuốc nhỏ mũi.
- Một vấn đề
nữa là dùng nhiều, các sợi tóc bé tí ở mũi có nhiệm vụ ngăn cản
vi khuẩn, bụi bậm vào mũi, sẽ bị hủy hoại, con người dễ bị bệnh.
Đó là hiện tượng viêm mũi do thuốc (Rhinitis medicamentosa)
Thuốc không
nên dùng ở cháu bé, trẻ em vì thường gây ra nhiều tác dụng ngoại
ý như tăng huyết áp, ảnh hưởng tới tim. Với các em, nghẹt mũi
được giải quyết dễ dàng với vài giọt nước muối sinh lý, nhỏ vào
lỗ mũi dăm lần trong ngày.
b- Thuốc uống
Thuốc uống có
thể là nước hoặc viên. Khi uống vào, thuốc sẽ đi qua qua nhiều
cơ quan trong cơ thể trước khi có tác dụng trên mũi. Do đó,
thuốc sẽ gây ra tác dụng phụ tại các nơi này.
Lợi điểm
trước hết của thuốc uống là không gây ra hiện tượng nhờn thuốc
và viêm mũi do thuốc. Ngoài ra, tác dụng của thuốc lâu hơn, có
khi cả 12 giờ, bệnh nhân chỉ uống hai lần/ngày là đủ. Thuốc ảnh
hưởng lên niêm mạc ở mũi, miệng, các xoang cho nên người bệnh
bớt khó chịu hơn.
Thuốc chống
nghẹt mũi thường dùng là pseudoephedrine hoặc phenylephrine.
2- Thuốc chống đau, giảm nóng sốt.
Đau mình,
nhức đầu là chuyện thường xảy ra khi bị cảm lạnh, nhưng may mắn
là chúng không kéo dài quá vài ngày và không quá dằn vặt.
Thuốc thường
dùng là acetaminophen, ibuprofen rồi đến aspirin.
Aspirin
thường gây ra xuất huyết bao tử nên cần dè dặt. Cũng nên nhớ là
không bao giờ cho các cháu dưới 12 tuổi dùng aspirin, vì có thể
gây ra hội chứng Reye, tổn thương thần kinh, đôi khi chết người.
Acetaminophen
hoặc paracetamol được dùng nhiều hơn vì tương đối an toàn. Tuy
nhiên không dùng quá thường và quá liều lượng chỉ định để tránh
tổn thương cho gan. Thuốc có trong nhiều dạng thuốc chống cảm
lạnh khác nhau, cho nên cần coi kỹ nhãn hiệu để tránh ngộ độc do
quá liều lượng cho trẻ em.
3- Thuốc ho
Ho không phải
là một bệnh mà chỉ là triệu chứng của một bệnh nào đó trong cơ
thể. Ho cũng là một phản ứng tự nhiên khi có chất kích thích ở
họng, như nhớt từ mũi từ miệng, vật lạ từ ngoài bay vào họng. Ho
là để tống xuất các vật này ra ngoài. Nhiều bệnh nhân sau giải
phẫu còn được khuyến khích ho để thông đàm, loại vi khuẩn.
Nhưng cảm
lạnh mà ho liên tục thì quả là cũng đau ngực, khó chịu. Do đó
mới có thuốc chống giảm ho.Có thể là ho khan hoặc ho ra đàm và
với nhiều người, thuốc ho đều có thể phần nào làm nhẹ.
Tuy nhiên,
nhiều bác sĩ có ý kiến là không nên uống thuốc ho, vì thuốc
không chữa được nguyên nhân gây ra ho, hôi khi lại tạo ra tác
dụng phụ không muốn, đặc biệt là ở trẻ em.
Cơ quan Thực
Dược Phẩm Hoa Kỳ khuyến khích không nên dùng thuốc cảm ho ở trẻ
em dưới 2 tuổi. Các viện bào chế cũng tự nguyện ghi cảnh báo lên
nhãn hiệu là không nên cho trẻ em dưới 4 tuổi dùng thuôc cảm ho
bán tự do trên thị trường. Sự ngộ độc khi các em uống quá liều
lượng có thể đưa tới tử vong.
Ho khi cảm
lạnh chỉ kéo dài vài tuần. Nếu ho quá lâu, lại ra đàm có màu thì
nên đi khám bệnh ngay, vì có thể bị bội nhiễm, vi khuẩn, sưng
phổi.
Thuốc ho thường dùng là Dextromethorphan,
Guaifendesin.
Ngoài các
thuốc kể trên, một số người còn dùng thêm thuốc chống dị ừng
diphenhydramine, sinh tố C,
kẽm (zinc), và cho hay cảm lạnh cũng bớt quấy rầy.
Kháng sinh
tuyệt đố không có vai trò nào, trừ khi bị bội nhiễm vi khuẩn,
sưng phổi.
Cảm lạnh ở trẻ em
Với trẻ em,
các nhà chuyên môn đề nghị là:
- Để các cháu
nghỉ ngơi thoải mái. Nếu ở tuổi mẫu giáo, đi học nên giữ em ở
nhà. Không tiếp xúc với em bé khác để tránh lan truyền.
- Tránh sống
trong môi trường có khói thuốc lá.
- Cho các
cháu uống nhiều nước (cam…) để làm loãng đàm rãi, nước
mũi cũng như tránh khô nước vì nóng sốt, chẩy nước mũi, nhất là
khi cháu tiêu chẩy, nôn ói..
- Cho các
cháu dùng thêm nước
súp gà nóng có chất cysteine có tác dụng giảm nghẹt mũi.
- Với cháu
không bú sữa mẹ và bú bình, nên giới hạn sữa vài ngày, vì sữa
làm nhớt mũi khô, khó loại bỏ.
- Không khí
trong phòng khô làm giảm sức đề kháng với bệnh nhiễm. Dùng máy
phun bụi nước để giảm kích thích mũi, tránh khô khó thở. Nhớ
không hướng
bụi nước
vào giường
các cháu. Muốn tránh meo mốc, nên thay nước
mỗi ngày và rửa máy bơm
bụi nước
theo đúng hướng
dẫn của nhà sản xuất.
- Khi cháu bị
nghẹt mũi, nhỏ vài giọt nước
muối sinh lý vào một lỗ mũi để làm loãng nhớt, rồi cũng làm như
vậy ở lỗ mũi bên kia. Hút nhớt mũi với ống hút làm bằng cao su.
Nước muối này có thể mua ở tiệm thuốc tây hoặc làm lấy ở nhà với
một chút muối và nửa ly nước
lã tinh khiết. Có thể dùng nước muối ở mọi tuổi, ngay cả bé sơ
sinh.
- Cũng có thể
đặt cháu nằm úp trên đùi mình, lấy bàn tay vỗ nhẽ vào lưng hoặc
để cháu ngồi trên lòng, hơi cong người về phía trước, lấy bàn
tay dập nhẹ lên lưng.
- Thoa một
chút petroleum gel Vaseline quanh lỗ mũi để tránh cho da khỏi bị
viêm do nước mũi kích thích.
- Để bớt ho:
½ thìa mật ong cho bé từ 2-5 tuổi, 1 thìa từ 6-11 tuổi, 2 thìa
cho cháu từ 12 tuổi trở lên. Đừng cho trẻ dưới 1 tuổi dung mật
ong vì không an toàn.
- Với trẻ
trên 4 tuổi có thể cho kẹo ho (không bao giờ cho trẻ dưới 4
tuổi, sợ hóc nghẹn).
- Nếu các
cháu kêu đau khô cố: cháu lớn cho súc miệng với nước
muối hoặc vài giọt dung dịch 1 thìa nước chanh pha với 2 thìa
mật ong để họng bớt kích thích. Trẻ trên 4 tuổi có thể ngậm kẹo
ho.
- Giữ đầu
cháu cao và ở vị trí ngồi nhiều hơn để giúp loại đàm nhớt.
Nếu sau ba
bốn ngày mà cháu không bớt, lại có nóng sốt cao, đau họng, nôn
ói…nên đưa cháu đi bác sĩ ngay.
Bác sĩ Nguyễn
Ý-Đức M.D. - Texas-Hoa Kỳ
|
VỀ MỤC LỤC |
NGƯỜI VIỆT…XẤU XÍ
Chuyện phiếm của Gã Siêu |
Tiếng hát Khánh Ly vang lên thật day dứt
từ một quán nước bên đường :
- Một ngàn năm nô lệ giặc Tàu,
Một trăm năm đô hộ giặc Tây,
Ba mươi năm nội chiến từng ngày…
Suy nghĩ về lời ca của Trịnh Công Sơn, gã
cảm thấy thương thay cho số phận nghiệt ngã của dân tộc mình.
Chính cái số phận nghiệt ngã này đã để lại biết bao nhiêu hậu
quả tai hại, mà dấu ấn đã in sâu vào tận cõi lòng và làm thành
cái bản chất thâm căn cố đế của con người Việt Nam hôm nay.
Thực vậy, dù sống dưới trào Tàu hay trào
Tây, người dân vẫn bị bóc lột tới tận xương tủy. Nào là sưu cao
thuế nặng, để vơ vét về mà cống nạp cho mẫu quốc. Nào là phu
phen tạp dịch để cung phụng cho những vị tai to mặt lớn.
Ấy là gã chưa nói tới một hệ thống luật
pháp chặt chẽ và nghiêm khắc, nhằm củng cố và giữ vững chế độ.
Người dân trật me một tí là tù tội mọt gông như chơi.
Mặc dù gặp phải những khó khăn, nhưng với
bản năng sinh tồn, người dân vẫn phải tìm cách luồn và lách để
sống còn, vẫn phải tìm cách che đậy và dấu giếm để qua mặt luật
pháp cũng như chính quyền, hầu kiếm chút lợi nhuận cho bản thân
và gia đình. Vì thế, cái khó không còn bó cái khôn, nhưng trái
lại, cái khó đã ló cái khôn.
Tuy nhiên, cái khôn được ló ra trong những
hoàn cảnh đen tối như vậy, thường là cái khôn lỏi, khôn vặt và
khôn ranh…chỉ thấy cái lợi trước mắt mà quên mất cái hại sau
lưng, chỉ thấy cái lợi của cá nhân, mà quên mất cái hại của đất
nước. Có khôn mà lại không có ngoan.
Hầu như bàn dân thiên hạ trên khắp cùng bờ
cõi trái đất đều ca ngợi sự đoàn kết nhất trí của mọi tầng lớp
nhân dân Việt Nam khi đứng trước những khó khăn gặp phải : Giặc
đến nhà, đàn bà cũng phải đánh.
Chính nhờ sự đoàn kết nhất trí này, mà biểu
tượng là Hội Nghị Diên Hồng, dân Việt chúng ta đã chiến thắng
những đế quốc sừng sỏ và hùng mạnh nhất thế giới như Tàu, Tây và
Mỹ, hầu đem lại nền độc lập tự do cho quê hương.
Cũng vậy, mỗi khi tai ương hoạn nạn xảy ra
cho một phần đất nào đó của xứ xở này, chúng ta lại được chứng
kiến tình tương thân tương ái tuôn chảy tràn trề, bởi vì một con
ngựa đau cả tàu không ăn cỏ.
Người ta rộng rãi cứu trợ đúng với tiêu
chuẩn :
- Một miếng khi đói, bằng cả một gói khi
no.
Người ta hào phóng giúp đỡ trong tinh thần
lá lành đùm lá rách, còn lá đã rách thì cũng cố gắng đùm lá te
tua.
Thế nhưng, khi hòa bình trở lại, hay khi đã
tai qua nạn khỏi, những bất ổn bắt đầu xuất hiện trong cuộc sống
đời thường, khiến cho đất nước phải xất bất xang bang và dân tộc
phải lao đao cùng khốn.
BẤT ỔN THỨ NHẤT LÀ GIAN THAM
Theo định nghĩa thì gian là xảo quyệt và
dối trá, còn tham là lấy thật nhiều cho riêng mình, bất chấp cả
lương tâm, coi thường cả liêm xỉ.
Nếu suy nghĩ một chút, gã thấy được rằng
hai hành động này luôn gắn bó và cấu kết mật thiết với nhau : Vì
tham lợi lộc, nên người ta mới đưa ra mọi mánh mung và tìm đủ
mọi phương cách để lừa gạt lẫn nhau.
Ngoài Bắc, khi còn chế độ hợp tác xã, người
nông dân nhiều lúc đã phải cắt xén phần hoa lợi bằng cách khai
gian hay nói dối, để gia đình có cái mà nhồi nhét vào chiếc bao
tử rỗng tuếch.
Trong Nam, khi nhà nước còn thu thuế bằng
sản phẩm, gã thấy có những người đã trộn cát vào lúa thóc, hay
tưới thêm nước vào đay bô để được nặng ký hơn một chút, trước
khi mang đi nộp thuế.
Hiện nay, sự gian tham dường như đã trở
thành một tiêu chuẩn hướng dẫn cho mọi hành động. Dối trá và xảo
quyệt thì được coi là khôn ngoan và tài giỏi. Còn thành thực đơn
sơ thì bị chê là khờ dại và ngu đần. Chính vì thế, sự gian tham
đã có mặt trên mọi lãnh vực.
Chẳng hạn trong lãnh vực học hành : Hơn bao
giờ hết, hiện nay nghệ thuật quay cóp trong phòng thi đã phát
triển tới bến. Những tài liệu được in ấn thật nhỏ và gọn, được
gọi là “phao” và được thí sinh nhét vào cạp quần, hay được thân
nhân liệng vào để cứu cho con em mình một bàn thua trông thấy.
Thậm chí, có những thí sinh còn xài cả điện thoại di động để tìm
kiếm sự hỗ trợ từ bên ngoài. Nếu chẳng may thi rớt, ít tiền thì
xài bằng giả. Nhưng bằng gải thì lại rất nguy hiểm khi bị phát
giác. Còn nhiều tiền thì phải chịu khó vất vả lo lót để mua lấy
một mảnh bằng thứ thiệc, có gốc gác hẳn hoi, mà nghênh ngang với
đời.
Chẳng hạn trong lãnh vực buôn bán : Bước
vào phố chợ, chúng ta sẽ bắt gặp vô số hàng giả, hàng nhái, hàng
dổm, hàng kém chất lượng. Vì tham lợi nhuận, người ta sẵn sàng
trộn hàn the vào bánh phở để được dẻo và dai, sẵn sàng ướp thịt
bằng “phọc môn” để giữ được lâu, bất chấp sự nguy hại đến sức
khỏe của người tiêu dùng. Còn việc sử dụng cân thiếu và thước
hụt chỉ là chuyện thường ngày ở huyện và xưa rồi…Diễm ơi.
Chẳng hạn trong lãnh vực làm ăn và liên hệ
: Cũng vì tham cái lợi mà biết bao xí nghiệp, công ti đã thua
chổng vó, đã lỗ sặc gạch hay đã biến thành một thứ “công ti năng
tan” chỉ vì ngài giám đốc hay cô thư ký biển thủ. Biết bao
đường giây hụi bị bể, chỉ vì người cầm trịch ẵm tiền bỏ trốn.
Chẳng hạn trong lãnh vực điều hành đất nước
: Một tệ trạng đang bành trướng hiện nay và gây nên nhiều phiền
hà cũng như đau khổ cho người dân, đó là tệ trạng ăn hối lộ.
Sách Cổ học tinh hoa có kể lại một câu
chuyện như sau :
Một viên quan mới được bổ nhiệm về huyện.
Ngay tối hôm đầu tiên, có một đại gia đã lén lút tìm đến hối lộ
cho ông một món tiền lớn. Người ấy nói :
- Trời thì tối, không một ai biết được, vậy
xin quan nhận cho.
Thế nhưng, viên quan vốn là một người liêm
khiết, đã trả lời :
- Trời biết, đất biết, ông biết và tôi cũng
biết, sao lại bảo không ai biết được. Vậy ông hãy mang tiền về
đi.
Cách cư xử của người xưa hoàn toàn khác với
cách cư xử của các viên chức ngày nay. Nhiều lúc gã có cảm tưởng
những người có chức có quyền thường lợi dụng địa vị của mình để
vơ vét về cho đầy túi tham, hầu bù lỗ những công lao chạy chọt
của mình. Bởi đó, nhiều vị tai to mặt lớn mới ung dung ăn hối lộ
một cách trắng trợn.
Thí dụ như muốn mua chức quan đầu tỉnh thì
phải tốn mất bao nhiêu cây vàng. Vì thế, một khi đã ngồi vào cái
ghế đầu tỉnh thì phải ra sức vơ vét, hầu bù lỗ cho những cây
vàng đã bỏ ra.
Bình thường làm cán bộ vốn nghèo với tiền
lương ba cọc ba đồng, thế nhưng có nhiều vị quan sau một thời
gian nắm giữ quyền hành, đã có dư tiền bạc để mua đất, làm nhà
và cho con cái đi du học tận nước ngoài…Vậy hối lộ là gì ?
Hối lộ là lợi dụng quyền hành và chức vụ để
lấy tiền của người dân bằng cách đòi họ phải lo lót khi nhờ cậy
việc nọ việc kia. Hình như việc lo lót bây giờ đã trở thành một
thông lệ,một thói quen, một điều kiện không thể thiếu. Thực vậy,
nếu người dân không chịu lo lót thì công việc cứ dẫm chân tại
chỗ và gặp nhiều khó khăn. Nhưng nếu có tí tiền “bôi trơn” thì
tất cả sẽ êm xuôi và mau chóng :
- Có tiền việc ấy mà xong nhỉ.
Tiền bạc làm cho các quan chức mờ cả mắt để
rồi đã có những quyết định sai lạc, làm thiệt hại cho dân lành.
Chẳng hạn quan tòa ăn hối lộ cho kẻ có tội được thắng kiện như
tục ngữ vốn diễn tả :
- Nén bạc đâm toạc tờ giấy.
BẤT ỔN THỨ HAI LÀ CHIA RẼ
Sống trong một chế độ hà khắc, người dân
không phải chỉ gian tham, mà còn nghi ngờ lẫn nhau. Nghĩ rằng
người này là chỉ điểm và người kia là “ăng ten” của công an.
Luôn nhìn nhau bằng cặp mắt “đề cao cảnh giác”, kẻo bị tố giác.
Chính vì vậy, mà người Việt Nam thường hay chia rẽ và thiếu tinh
thần cộng tác.
Một giáo sư ngoại quốc đã nhận xét về các
sinh viên Việt Nam như sau :
- Sinh viên Việt Nam rất giỏi, chỉ số thông
minh của họ rất cao, nếu một chọi một, nghĩa là một sinh viên
Việt Nam địch với một sinh viên ngoại quốc, họ dễ dàng nắm phần
thắng. Thế nhưng một nhóm sinh viên Việt Nam đấu trí với một
nhóm sinh viên ngoại quốc, thì họ lại thua xa. Sở dĩ như vậy là
vì họ không biết hay không thể cộng tác với nhau.
Cũng vì sự thiếu cộng tác này mà cho đến
ngày hôm nay dân tộc mình không để lại được cho đời một công
trình nghệ thuật tầm cỡ nào.
Thí dụ như về kiến trúc : các lăng tẩm ở
Huế còn quá nhỏ nhoi so với khu đền Ăng ko của người anh em
Campuchia. Về văn học, hiện giờ chúng ta chưa có được một bộ
bách khoa tự điển đầy đủ…Mạnh ai, người ấy viết. Mạnh ai người
ấy làm. Mà sức làm, sức viết của mỗi cá nhân thì thật hạn hẹp.
Một cái đầu làm sao bằng hai cái đầu.
Một bộ tự điển “Larousse” của Pháp mà thôi
cũng đã có biết bao nhiêu người cộng tác, rồi từ năm này qua năm
khác, họ vẫn luôn duy trì sự cộng tác chặt chẽ ấy, để có những
bổ túc cập nhật hóa, khỏi bị lỗi thời. Thấy mà thèm.
Điểm qua những sinh hoạt của cộng đồng
người Việt ở hải ngoại, gã ghi nhận được không biết bao nhiêu tờ
báo, không biết bao nhiêu trang Web, không biết bao nhiêu đảng
phái và cũng không biết bao nhiêu khuynh hướng chính trị. Anh
này chửi anh kia và anh kia chửi lại anh này.
Hơn thế nữa, với sự hỗ trợ của internet,
của mạng lưới thông tin toàn cầu, sự chửi bới lẫn nhau được phổ
biến một cách mau lẹ và rộng rãi khắp bốn phương trời. Bàn dân
thiên hạ, sau khi đọc có kẻ bỗng cả thấy ngứa miệng và ngứa tay,
nên cũng tung lên mạng mà chửi theo. Và vì thế, đạo cũng chửi mà
đời cũng chửi, người người cùng chửi bới lẫn nhau, nhưng lại
chẳng làm được một cái quái gì cụ thể cho quê hương đất nước.
BẤT ỔN THỨ BA LÀ THIẾU Ý THỨC CỘNG ĐỒNG
Cũng vì gian tham, chỉ biết nhắm tới những
cái tiện và lợi cho bản thân hay gia đình, nên ý thức cộng đồng,
hay nói cách khác, cái tình thần chung cũng như cái tinh thần
trách nhiệm tụt xuống rất thấp, thấp tới mức đáng báo động.
Thực vậy, nhiều người vốn thầm nghĩ :
- Làm gì thì làm, miễn là được việc cho
mình thì thôi.
Chẳng hạn sau khi tan sở, ta muốn mau chóng
trở về nhà. Vào giờ cao điểm, xe cộ ùn tắc, ta chỉ sợ có ông
cảnh sát, còn hệ thống đèn xanh đèn đỏ chỉ là chuyện nhỏ, ta coi
như pha, để rồi mặc sức luồn lách mà ngoi lên phía trước. Nếu
không luồn lách được, thì ta leo lên cả vệ đường, hầu tranh thủ
vượt qua đoạn đường đầy ắp những đoàn xe còn đang kẹt cứng.
Chẳng hạn khi ngồi trên xe hơi, nhất là với
mấy cô bạn gái, ta được xơi đủ thứ, từ nhãn, chôm chôm, bắp
luộc…đến kẹo bánh hầm bà lằng. Khi xơi xong, ta cứ vô tư ném ra
ngoài các thứ rác rưởi từ vỏ nhãn, vỏ chôm chôm, lõi bắp…đến
giấy gói bánh kẹo, có khi trúng cả vào đầu khách đi đường thì
cũng…mặc kệ.
Một hướng dẫn viên du lịch đã tâm sự trên
báo Phụ Nữ Chủ Nhật, số 32, ra ngày 21 tháng 8 năm 2005, như sau
:
Một hôm, đoàn khách nước ngoài đang chụp
hình lưu niệm tại nhà thờ Đưc Bà, bỗng có một chiếc xe @ chở hai
thanh niên tấp vào bên hông nhà thờ, trước con mắt ngạc nhiên
của những du khách, hai thanh niên kia vẫn cứ vô tư “trút bầu
tâm sự” vào tường, rồi lên xe bỏ đi. Sự ngạc nhiên của những du
khách đã được chuyển thành câu hỏi dành cho tôi :
- Bộ đó là thói quen của người thành phố
bạn hả ?
Tôi chẳng biết giải thích ra sao, chỉ biết
chống chế :
- Chắc hai người đó say rượu.
Sau đó, tôi mau chóng chuyển qua đề tài
khác và tôi biết họ không hài lòng với cách trả lời của tôi.
Khi đoàn qua đường Đồng Khởi – Nguyễn Du,
bỗng hai du khách lại gần tôi với dáng vẻ bối rối, họ nói ra
chuyện họ đang cần :
- Xin lỗi! Bạn có thể cho tôi biết nhà vệ
sinh ở đâu ?
Chẳng biết chỉ cho họ nhà vệ sinh nào, vì
quanh đấy không có lấy một nhà vệ sinh công cộng, tôi đành dẫn
hai du khách vào một quán ăn gần nhất, giải thích với họ để họ
hiểu, rồi kêu một chai nước uống ngồi chờ. Xong việc trở ra, họ
nói nhỏ với nhau :
- Thật kinh khủng.
Saigon, một thành phố xinh đẹp, vốn được
gọi là hòn ngọc Viễn Đông, với những con đường rợp bóng cây, vậy
mà lâu lâu ta vẫn bắt gặp đâu đó đây trên các bức tường hàng chữ
“Cấm đái” một cách thô thiển. (trang 7).
Thiết tưởng hai chữ “kinh khủng” trên đã
quá đủ để diễn tả tình trạng thiếu trách nhiệm, thiếu tinh thần
chung của những người sử dụng nhà vệ sinh nơi đó.
BẤT ỔN SAU CÙNG, ĐÓ LÀ THÍCH XÀI
CỦA…CHÙA.
Từ tình trạng thiếu trách nhiệm, cũng như
thiếu tinh thần chung trên đây, gã ghi nhận thêm cái khuynh
hướng thích xài của…chùa.
Chữ “chùa”ngày nay vốn được sử dụng như một
tĩnh từ, ám chỉ những gì là của chung, mà chẳng có ai chịu trách
nhiệm trông coi và quản lý, theo kiểu cha chung không ai khóc.
Vì là của chung miễn phí, nên cứ vô tư và mặc sức xài và sử
dụng.
Chẳng hạn đến cơ quan, bao nhiêu bóng điện,
bao nhiêu quạt máy, bao nhiêu máy lạnh ta cứ việc mở tối đa,
thậm chí khi ra về cũng chẳng cần phải tắt, bởi vì đó là
điện…chùa mà.
Tới công sở, ta thoải mái rửa tay rửa mặt,
vòi nước mở hết cỡ, rồi khi dùng xong, ta bỗng dưng ta quên,
không chịu đóng lại. Ôi dào, nước… chùa mà.
Thậm chí có người còn quan niệm : bất cứ
cái gì của nhà nước đều là của chùa, ta cứ mặc sức lấy, ta cứ
mặc sức vơ, vì ăn trộm ăn cắp của nhà nước, thì không tội vạ chi
cả.
Tuy nhiên, phải khôn ranh một tí để khỏi bị
sờ gáy và tóm cổ. Nếu lỡ bị sờ gáy hay tóm cổ, thì hãy liệu mà
chạy thuốc, lo lót càng sớm càng tốt, vì đồng tiền đi trước,
đồng tiền khôn. Tiền bạc có một sức mạnh vạn năng, khả dĩ bẻ
cong được cả cán cân công lý, nên ta còn phải sợ gì nữa.
Cũng do chủ trương như vậy, mà một số người
đã tìm mọi cách để ăn cắp điện, ăn cắp nước, bởi vì điện nước
đối với họ đều là của chùa.
Một số người khác, mặc dù vẫn may gia công
ở nhà, hay làm nghề tự do, nhưng lại khai với nhà nước rằng mình
đang thất nghiệp, để được hưởng trợ cấp. Tiền chùa mà, không
hưởng cũng uổng.
Tiền của nhà nước đều là tiền chùa và đã
trở một mảnh đất màu mỡ cho tệ nạn tham nhũng phát triển. Vậy
thế nào là tham nhũng ?
Gã xin thưa :
- Tham nhũng là lợi dụng quyền hành và chức
vụ để lấy tiền của nhà nước bằng cách ăn gian, ăn bớt hay rút
ruột những công trình xây dựng…
Chẳng hạn mỗi khi hộp họp, những người tham
dự đều được hưởng chế độ của mình, như tiền đi lại, tiền ăn
uống…Vì thế, mặc dù chỉ có 50 đến họp, nhưng ban tổ chức bèn kê
lên thành 100 người. Làm như vậy, đại hội vừa thành công tốt đẹp
và số tiền phụ trội được chia đều cho mỗi người. Ai cũng có lợi
và ai cũng vui vẻ.
Chẳng hạn để thực hiện một công trình nào
đó, như xây dựng một cây cầu, trước hết muốn được trúng thầu thì
công ty phải lo lót với các quan chức. Tiếp đến, trong thời gian
thi công, quan chức và công ty luôn cấu kết với nhau để mà rút
ruột bằng cách bớt xén vật tư, nâng cao giá mua… để hưởng lợi.
Vì thế mới xảy ra tình trạng cột ci măng
cốt tre, cầu vừa mới làm xong đã vội sụp lún, đường vừa mới
khánh thành đã loang lổ những ổ gà và ổ vịt, thậm chí có cả ổ
trâu và ổ voi.
Có những quan chức còn bạo phổi ăn bớt, ăn
xén cả tiền cứu trợ những đồng bào gặp phải thiên tai bão lụt.
Số tiền giúp đỡ của bá tánh gửi về rất nhiều, thế mà những nạn
nhân lại chẳng được bao nhiêu, vì những đồng tiền ấy đã chui tọt
vào túi của những vị quan tham.
Các vị ấy luôn ghi nhớ trong lòng hai
nguyên tắc :
Nguyên tắc thứ nhất, đó là có làm thì mới
có ăn. Càng vẽ ra nhiều, thì lại càng được xơi nhiều. Mỗi công
trình, chi phí bị bốc hơi lên tới ba bốn chục phần trăm cũng chỉ
là chuyện nhỏ. Tiền chùa mà, dại gì không ăn. Mình không ăn,
người khác cũng ăn.
Nguyên tắc thứ hai, đó là của chung ai khéo
vẫy vùng thành riêng. Chỉ cần một chút khôn khéo, biết điều với
cấp trên, hào phóng với cấp dưới, mọi sự sẽ êm ru bà rù.
Những quan chức tham nhũng ấy được sánh ví
như một loài sâu mọt, đục khoét công quĩ, làm nghèo đất nước và
làm khổ người dân.
Lâu lắm rồi gã có đọc cuốn “Người Mỹ xấu
xí”, bây giờ cũng chẳng nhớ nội dung của nó là gì và tác giả của
nó là ai. Tuy nhiên, qua những điều vừa trình bày, gã cũng xin
ăn theo mà đặt tựa đề cho chuyện phiếm này là “Người Việt xấu
xí”.
Tuy nhiên, cái vẻ xấu xí này thật đáng
thương và tội nghiệp, bởi vì nó xuất phát từ thân phận nghiệt
ngã của một dân nước nhược tiểu, từng bị bóc lột suốt một ngàn
năm nô lệ giặc Tàu, một trăm năm đô hộ giặc Tây và ba mươi năm
nội chiến từng ngày…
Gã Siêu gasieu@gmail.com
|
VỀ MỤC LỤC |
|
- Mọi liên lạc: Ghi danh, thay đổi địa chỉ, đóng góp ý kiến,
bài vở..., xin gởi về địa chỉ
giaosivietnam@gmail.com
- Những nội dung sẽ được đề cao và chú ý bao gồm:
Trao đổi, chia sẻ những kinh nghiệm thực tế trong việc mục
vụ của Giáo sĩ; Những tài liệu của Giáo hội hoặc của các
Tác giả nhằm mục đích Thăng tiến đời sống Giáo sĩ; Cổ võ ơn
gọi Linh mục; Người Giáo dân tham gia công việc “Trợ lực
Giáo sĩ” bằng đời sống cầu nguyện và cộng tác trong mọi lãnh
vực; Mỗi Giáo dân phải là những “Linh mục” không có chức
Thánh; Đối thoại trong tinh thần Bác ái giữa Giáo dân và
Giáo sĩ… (Truyền giáo hay xây pháo đài?)
- Quy vị cũng có thể tham khảo những số báo đã phát hành tại
www.conggiaovietnam.info
Rất mong được sự cộng tác, hưởng ứng của tất cả Quí vị
Xin chân thành cám ơn tất cả anh chị em đã
sẵn lòng cộng tác với chúng tôi bằng nhiều cách thế khác
nhau.
TM. Đặc San Giáo Sĩ Việt Nam
Lm. Luca
Phạm Quốc Sử
USA
|
|
*************
|
|