Sắc Lệnh Về Tông
Ðồ Giáo Dân |
Thánh Công Ðồng Chung Vaticanô II
Sắc Lệnh
Về Tông Ðồ Giáo Dân
Apostolicam Actuositatem
Prepared for Internet by Vietnamese
Missionaries in Asia
Lời Giới Thiệu
Ðôi dòng lịch sử
Năm 1960, Ðức Gioan
XXIII thiết lập Ủy Ban Giáo Hoàng về hoạt động tông đồ giáo dân.
Và sau 200 lần hội, Ủy Ban đã hoàn tất việc soạn thảo một lược
đồ gồm 200 trang.
Ủy Ban gồm tất cả
39 thành phần, trong số có 11 Giám Mục. Bên cạnh Ủy Ban còn có
29 vị cố vấn, mà 14 vị cũng là Giám Mục. Ngoài ra, các đại diện
của 26 quốc gia và của nhiều tổ chức quốc tế cũng đến tham dự.
Ngay từ ban đầu,
Hồng Y Cento, chủ tịch Ủy Ban, đã đề nghị mời giáo dân tham dự,
ít nhất với tư cách cố vấn. Trong kỳ họp đầu tiên, Ðức Gioan
XXIII đã chính thức mời Jean Guitton tham dự Công Ðồng với tư
cách là dự thính viên giáo dân.
Rồi trong những
phiên họp khoáng đại về sau, Ðức Phaolô VI cũng đã đề cử nhiều
dự thính viên giáo dân khác, nam giới vào năm 1963 và cả nữ giới
vào năm 1964 tham dự. Như vậy Sắc Lệnh về Tông Ðồ Giáo Dân đã
được thành phần giáo dân cộng tác hoàn thành.
Trong suốt thời
gian tranh luận, bản văn được sửa đổi và soạn thảo lại nhiều
lần. Ban đầu lược đồ đề cập hết sức bao quát về vai trò của
người giáo dân trên thế giới và trong Giáo Hội. Về sau các Nghị
Phụ đã cố gắng thu hẹp lại vào một khía cạnh tiêu biểu nhất:
tông đồ giáo dân.
Thực ra lược đồ đã
được đem bàn cãi từ những phiên họp ở năm 1963, và Ủy Ban liên
hệ đã phải rút ngắn lại còn 48 trang, rồi 15 trang ở năm 1964.
Vì các Nghị Phụ nhận thấy rằng lược đồ chưa thỏa mãn đủ cho sự
đòi hỏi cần thiết, nên nhiều lần cuộc tranh luận đã gặp những
khó khăn đáng kể. Và như vậy, để được chấp thuận lược đồ đã phải
trải qua những "cơn sốt" trầm trọng.
Ở đây chúng ta cố
gắng đưa ra một vài lý do của những trở ngại đó. Trước hết,
chúng ta nhận thấy rằng "Tông Ðồ Giáo Dân" là một đề mục hoàn
toàn mới lạ, chưa có một sắc lệnh hay một văn kiện nào trước
Công Ðồng Vaticanô II đã đề cập tới. Ðàng khác vấn đề tự bản
tính đã là khó khăn, phức tạp; thật vậy, chưa có một quan điểm
thần học căn bản Công Giáo nào nói về những thực tại trần thế
cũng như về hành động của Kitô hữu trong thế giới.
Sau nữa, muốn tìm
một định nghĩa đứng đắn cho "tông đồ giáo dân" thì tự nó không
thể cung cấp đủ nhưng người ta còn phải đi tìm những minh chứng
và cảm hứng bên ngoài và phải đặt nền tảng ở Giáo Hội cũng như
nương tựa vào nhân chủng học (x. René Rémond,Introduction du
Décret, Ed. du Centurion).
Tính cách độc đáo
Ðây là lần đầu tiên
trong lịch sử, một Công Ðồng Chung đã quan tâm đặc biệt tới vấn
đề tông đồ của giáo dân, cũng như đã dành nhiều nỗ lực cho sự
xác định lại sứ mệnh của giáo dân trong Giáo Hội và trong thế
giới.
Nhưng điều đó không
có nghĩa là Giáo Hội chưa bao giờ ý thức sự hiện diện mật thiết
của giáo dân trong Giáo Hội. Bởi Giáo Hội được thiết lập vì các
tín hữu là con cái mình, và ngay từ ban đầu thời Giáo Hội sơ
khai, giáo dân không những là đối tượng cho hoạt động của các
Tông Ðồ, mà còn là những cộng tác viên đắc lực của các ngài. Như
phần mở đầu của Sắc Lệnh có nhắc đến, những hoạt động tông đồ
giáo dân xuất hiện tự nhiên từ giai đoạn đầu của Giáo Hội và đã
đem lại những kết quả phong phú. Rồi qua dòng lịch sử, chúng ta
thấy rằng có nhiều tu hội và hiệp hội tông đồ phát sinh do cảm
hứng của giáo dân hay do họ điều khiển.
Tuy nhiên, phải
công nhận rằng cho tới Vaticanô II địa vị của người giáo dân vẫn
chỉ được xem như một ngoại lệ do ơn sủng đặc biệt hay riêng tư
nào đó; và như vậy sự có mặt của họ chưa bao giờ được nhìn nhận
như một hàng riêng biệt. Hơn nữa, với ý niệm hầu như hoàn toàn
tiêu cực, hình như Giáo Luật đã không quan tâm tới việc đề cao
và công nhận giá trị của người giáo dân.
Ðàng khác, tình
trạng của giáo dân lại luôn lệ thuộc vào hàng Giáo Phẩm và Giáo
Sĩ. Chúng ta có thể nói rằng quan niệm thế quyền từ nhiều thế kỷ
về đây liên lạc giữa chính quyền với công dân được đưa ra áp
dụng vào trong Giáo Hội khi qui định mối tương quan giữa Giáo Sĩ
và Giáo Dân. Lại nữa trong số các hình ảnh dùng diễn tả bản tính
Giáo Hội, hình như người ta vẫn còn giữ lại hình ảnh có chiều
hướng Trung Cổ: mục tử và đoàn chiên. Quyền bính và trách nhiệm
hướng dẫn là việc của các mục tử; đoàn chiên giáo dân chỉ việc
vâng theo những chỉ dẫn của chủ chăn.
Công Ðồng Vaticanô
II đã nỗ lực xét lại hoàn toàn quan niệm tổng quát về sự liên
lạc giữa Giáo Hội và các tín hữu. Công Ðồng xác nhận rằng người
giáo dân phải được đánh giá như cộng tác viên đích thực trong sứ
mệnh duy nhất của Giáo Hội là cứu độ mọi người. Ðây là một thành
quả tốt đẹp của Công Ðồng trong việc quan niệm địa vị người giáo
dân trong Giáo Hội.
Sau đó, Công Ðồng
giải quyết một vấn nạn đươc đặt ra từ đầu: đó là việc phân chia
hoạt động tông đồ ra "tông đồ trực tiếp và gián tiếp", hoặc,
theo nhiều người, phân biệt ra "tông đồ chuyên biệt và không
chuyên biệt".
Lúc ấy người ta
quan niệm rằng hoạt động tông đồ trực tiếp là tất cả những
phương cách truyền bá Phúc Âm và thánh hóa các Kitô hữu hay
những người ngoài Kitô hữu bằng sự loan báo Chúa Kitô, loan báo
Phúc Âm hay bằng chính đời sống.
Hoạt động tông đồ
gián tiếp, trái lại, được cho rằng đó là những hoạt động hệ tại
sự bảo đảm và làm hoàn hảo trần thế, cho thấm nhuần tinh thần
Phúc Âm và nhờ vậy tạo nên bầu khí thích hợp cho việc rao giảng
Phúc Âm và thánh hóa con người.
Như vậy, theo các
quan niệm nầy, tất cả những hoạt động tông đồ có tính cách xã
hội chỉ được coi như là tông đồ gián tiếp. Rất nhiều Nghị Phụ
không đồng ý quan niệm nầy.
Về sau, Ủy Ban liên
hệ bàn cãi lại và quyết định không dùng những từ ngữ phân biệt
đó ở trong Sắc Lệnh.
Những nét chính
Nhìn vào Sắc Lệnh,
chúng ta nhận thấy điều được Sắc Lệnh nhấn mạnh trước hết là xác
định lại giáo lý về tông đồ giáo dân đã trình bày trong Hiến Chế
Tín Lý về Giáo Hôi: theo đó, Giáo Hội được thành lập với mục
đích đem đến cho mọi người ơn cứu chuộc và cứu rỗi.
Sau đó, Sắc Lệnh đề
cập tới vấn đề chính là tông đồ giáo dân trong khi vẫn dựa vào
những gì đã trình bày ở Hiến Chế về Giáo Hội. Nhưng điều quan
trọng là Sắc Lệnh phân biệt "chức linh mục thừa tác" và "chức
linh mục cộng đồng". Với "chức linh mục thừa tác", các giám mục
và từ đó các linh mục có quyền thi hành những chức vụ tông đồ
"nhân danh Chúa Kitô Thủ Lãnh Hiện Thân" (x. Sắc Lệnh về Linh
Mục) và do đó các ngài trở nên như Mục Tử chăn dắt. Còn các tín
hữu, nhờ "chức linh mục cộng đồng", thi hành những việc tông đồ
riêng biệt của họ trong Giáo Hội. Sắc Lệnh đã nhắc lại nhiều lần
rằng vì giáo dân tham dự vào chức vụ tư tế, ngôn sứ và vương giả
của Chúa Kitô theo cách thế của họ, cũng phải nắm giữ vai trò
riêng do phép Rửa Tội, Thêm Sức và nhất là do các đặc sủng riêng
biệt của họ.
Thứ đến, Sắc Lệnh
nói đến một vấn đề đã gây nên nhiều khó khăn cho việc tông đồ
giáo dân: sứ mệnh của Giáo Hội. Sắc Lệnh xác định rằng sứ mệnh
của Giáo Hội vẫn là duy nhất, nhưng có thể được diễn tả bằng
những hình thức tông đồ khác nhau với những thành quả khác nhau.
Như vậy người giáo dân sẽ thi hành việc tông đồ trong các cộng
đồng của Giáo Hội mà họ sống trong gia đình, ở môi trường xã
hội, môi trường giới trẻ, hay trong lãnh vực quốc gia hoặc quốc
tế. Bởi đó, việc tông đồ của người giáo dân cũng có thể đem lại
những thành quả phong phú. Nhờ hoạt động tông đồ, họ sẽ loan báo
Phúc Âm cho người khác, hoặc thánh hóa họ. Họ cũng có thể nhờ
hoạt động mà đem tinh thần Phúc Âm thấm nhuần lãnh vực trần thế.
Ðề cập tới việc
thực hiện tông đồ giáo dân, Sắc Lệnh nhắc tới hai phương pháp
hoạt động trong Giáo Hội: tông đồ tập thể và tông đồ cá nhân. Cả
hai đều là những cách thế hoạt động của giáo dân; tuy nhiên,
theo Sắc Lệnh, hoạt động tông đồ có tổ chức qui củ sẽ đáp ứng
hữu hiệu hơn cho nhu cầu của con người và của tín hữu. Bởi thế,
phương pháp hoạt động tập thể này cần được phát động và khích lệ
nhiều hơn trong các lãnh vực hoạt động của giáo dân.
Sắc Lệnh đã đặc
biệt lưu ý tới những hội đoàn mới xuất hiện vào quãng mươi năm
nay, dưới danh hiệu Công Giáo Tiến Hành.
Sau hết, Sắc Lệnh
nhấn mạnh tới việc cần thiết huấn luyện cho những hoạt động tông
đồ này cũng như những phương tiện sử dụng.
Chiều hướng nền tảng
Ðể thấu triệt hơn ý
nghĩa Sắc Lệnh, ở đây chúng ta cố gắng đưa ra một vài tư tưởng
chủ điểm và độc đáo, dựa vào những nét chính vừa nêu trên.
Trước hết, chúng ta
nhận thấy rằng ý tưởng "tham dự vào" trước đã có tiếng vang đáng
kể trong Thông Ðiệp "Pacem in terris", giờ đây được Sắc Lệnh
Tông Ðồ Giáo Dân nhắc lại và nhấn mạnh trong tầm mức ý nghĩa của
nó, từ đầu cho đến cuối bản văn. Thật vậy, trước hết và trên
hết, Giáo Hội có sứ mệnh giúp mọi người tham dự vào ơn cứu độ và
giáo dân là thành phần được tham dự vào chức vị tư tế, ngôn sứ
và vương giả của Chúa Kitô. Họ được mời tham dự vào sinh hoạt
của Giáo Hội, trong sứ mệnh rao giảng Phúc Âm; cho nên đối tượng
của Sắc Lệnh về Tông Ðồ Giáo Dân là xác định những hình thái và
điều kiện cho việc tham dự nầy. Thời gian mà các tín hữu chỉ
đóng vai trò thụ động đã qua rồi. Ngày nay Giáo Hội đặt niềm tin
ở sự can thiệp, ở sáng kiến cũng như nơi sự tuân phục của con
cái mình.
Nguồn gốc sự tham
dự đó phát sinh từ địa vị, hoàn cảnh khác nhau của mỗi người
trong thế giới. Người giáo dân sống trong thế giới và giữa những
thực tại trần gian; cho nên ơn gọi của họ là thánh hóa những gì
trần tục. Chính ơn gọi này với hoàn cảnh riêng biệt của mỗi
người sẽ định hướng cho đời sống tôn giáo của họ.
Bởi thế, đời sống
đạo đức cá nhân của người giáo dân sẽ nhận được cảm hứng từ đời
sống hoạt động của họ giữa người khác và giữa cuộc đời; như vậy,
với những yếu tố của các hoàn cảnh cụ thể của cuộc sống, của đời
vợ chồng, gia đình, nghề nghiệp và xã hội, họ sẽ tạo cho mình
khoa tu đức hữu hiệu cho bậc sống. Như vậy sự chạm trán với
những vấn đề không ngừng đặt ra do cuộc sống hiện tại và theo sự
phán đoán trong tầm mức Kitô hữu, là cơ hội quí báu cho người
giáo dân để kiểm điểm lại cuộc sống.
Ðịnh nghĩa và quan
niệm về ơn gọi của người giáo dân như thế, hàm chứa một cách nào
đó, quan niệm thần học về những thực tại trần thế; quan niệm nầy
hòa hợp với quan điểm được trình bày ở Hiến Chế nầy, trật tự
trần thế có giá trị riêng của nó và người giáo dân sử dụng trật
tự đó với trách nhiệm của mình. Thế giới chưa hoàn tất và khuôn
mặt của nó tùy thuộc vào hoạt động tự do và ý thức của con
người. Như vậy, đứng trước thế giới, người giáo dân có sứ mệnh
phải kiến tạo, hoàn hảo hóa sao cho nó trở nên hấp dẫn đối với
mọi người và thích hợp với ý định của Thiên Chúa.
Một chiều hướng
quan trọng khác của Sắc Lệnh là đặc biệt chú tâm tới thực tại cụ
thể của thế giới hiện đại. Bản văn của Sắc Lệnh đã dùng lại ý
niệm "dấu chỉ thời đại" mà Thông Ðiệp "Pacem in Terris" đã sử
dụng và xem như là một ý niệm quan trọng của Thông Ðiệp. Sắc
Lệnh Tông Ðồ Giáo Dân đã đề cập nhiều lần tới tình trạng biến
chuyển của thế giới, những điều kiện sống mới mẻ, những đổi thay
bất ngờ, tình trạng tăng gia dân số, sự tiến bộ của khoa học và
kỹ thuật.
Những phân tích nầy
không khác mấy với những điều đã trình bày ở "Hiến Chế Mục Vụ về
giáo Hội trong thế giới ngày nay"; nhưng nét đặc biệt của Sắc
Lệnh là niềm khát vọng khám phá ra ngôn ngữ của các dấu chỉ thời
đại, là sự coi trọng những thực tại trần thế, là nỗi băn khoăn
tìm cách thích ứng việc tông đồ giáo dân với hoàn cảnh, nhu cầu
và khả năng của thế giới hiện đại.
Trong những đặc
điểm chính của thế giới văn minh có lẽ sự liên đới ngày càng gia
tăng giữa các dân tộc là một đặc điểm quan trọng nhất. Thật vậy,
Thánh Công Ðồng đã đặc biệt chú tâm tới chiều hướng quốc tế đó,
và Sắc Lệnh nầy là một trong những bằng chứng của sự chú tâm
trên. Hoạt động tông đồ giáo dân phải nhằm tới viễn ảnh quốc tế
và thực hiện thế nào để giúp cho các dân tộc gần gũi nhau hơn.
Có lẽ sự quan tâm
tới hoạt động tông đồ phổ quát của Sắc Lệnh là một đặc điểm hấp
dẫn nhất. theo đó, mọi giáo dân trên thế giới đều được kêu mời
tới công việc ấy, và hoạt động tông đồ nầy nhằm đến hết mọi
người, làm thế nào để người giáo dân có thể đối thoại với tất cả
dù có đức tin hay không.
Như thế, hoạt động
tông đồ giáo dân sẽ lan rộng tới mọi khía cạnh của cuộc đời thực
tế, tới bất cứ bậc sống nào cũng như nhu cầu nào của nhân loại.
Ðứng trên phương diện nầy, Sắc Lệnh về Tông Ðồ Giáo Dân đã trở
nên một trong những thành quả cũng như một trong những khát vọng
chính yếu của Thánh Công Ðồng Vaticanô II.
còn tiếp
|
VỀ MỤC LỤC |
|
SẮC
CHỈ VENERABILIUM NOSTRORUM NGÀY 24-11-1960 - THIẾT LẬP PHẨM TRẬT
GIÁO HỘI TẠI VIỆT NAM |
MỪNG NĂM
THÁNH 2010, XEM LỊCH SỬ TRUYỀN GIÁO VIỆT NAM
« Năm
2010 ghi dấu những sự kiện quan trọng trong lịch sử Giáo Hội
Việt Nam : 350 năm thiết lập hai giáo phận tông tòa Ðàng Ngoài
và Ðàng Trong (1659-2009), 50 năm thiết lập hàng giáo phẩm tại
Việt Nam (1960-2010). Ðây là thời điểm cho chúng ta nhìn lại quá
khứ để tạ ơn Chúa và lắng nghe bài học lịch sử, nhìn vào hiện
tại để nhận diện những thuận lợi và thách đố, nhìn tới tương lai
để cùng nhau canh tân đời sống và xây dựng Giáo Hội theo đúng
thánh ý Thiên Chúa
». (Thư Hội đồng Giám mục Việt Nam gửi Cộng
đồng Dân Chúa công bố Năm Thánh 2010 », ngày 09.10.2009)
Trong chiều hướng nhìn lại quá kh ứ lịch
sử ấy, để MỪNG NĂM THÁNH 2010, mời bạn đọc lùi về dĩ vãng, « XEM
LỊCH SỬ TRUYỀN GIÁO VIỆT NAM »,
từ năm 1659.
Bài
3 :
SẮC
CHỈ VENERABILIUM NOSTRORUM NGÀY 24-11-1960 - THIẾT LẬP PHẨM TRẬT
GIÁO HỘI TẠI VIỆT NAM
300 năm sau ngày thành
lập hai Giáo Phận Tông Tòa đầu tiên ở Việt Nam, từ 1659 đến
1960, Giáo Hội Việt Nam đã phát triển và lớn mạnh rõ rệt. Về số
tín hữu, từ 100.000 đã tăng lên tới 2.096.540. Về số giáo phận,
từ 2 đã tăng lên đến 20.
Sắc chỉ Venerabilium
Nostrorum, do Đức Thánh Cha Gioan XXIII ban hành ngày 24 tháng
11 năm 1960 đã là một tiếng nói chính thức và oai nghiêm của
Giáo Hội để công nhận sự tăng trưởng và lớn mạnh của Giáo Hội
tại Việt Nam .
Sắc chỉ đã nâng 17 giáo
phận tông tòa hiện hữu lên hàng giáo phận chính tòa và thành lập
thêm 3 giáo phận chính tòa mới. Mỗi Giáo Phận Chính Tòa đều có
một Nhà Thờ Chính Tòa.
Tất cả 20 giáo phận
chính tòa được tổ chức thành 3 Giáo Tỉnh.
GIÁO TỈNH HÀ NỘI qui tụ
10 giáo phận, là Hà Nội, Lạng Sơn, Hải Phòng, Bắc Ninh, Hưng
Hóa, Thái Bình, Bùi Chu, Phát Diệm, Thanh Hóa, Vinh.
GIÁO TỈNH HUẾ có 4 giáo
phận : Huế, Quy Nhơn, Nha Trang, Kon Tum.
GIÁO TỈNH SÀI GÒN gồm 6
giáo phận : Sài Gòn, Vĩnh Long, Cần Thơ, và 3 giáo phận mới lập
là Đà Lạt, Mỹ Tho, Long Xuyên.
Mười lăm Giám Mục Đại
Diện Tông Tòa hay Giám Quản Tông Tòa được thăng thành Giám Mục
Chính Tòa. Bốn Giám Mục Chính Tòa mới được bổ nhiệm. Mỗi Giám
Mục Chính Tòa sẽ là Giám Mục Chính Tòa của một Giáo Phận Chính
Tòa. Trừ Đức Giám Mục Phêrô Khuất Văn Tạo, Giám quản Hải Phòng
với hiệu tòa Caralliensi từ nay là Giám mục Chính tòa Địa phận
Hải Phòng đồng thời kiêm Giám quản Địa phận Bắc Ninh. Trên tổng
số 19 Giám Mục Chính Tòa, 17 là Giám Mục người việt nam, chỉ có
hai là người pháp và thuộc Hội Thừa Sai Hải Ngoại Paris. Đó là
Đức cha Marcellô Piquet, Nha Trang và Đức Cha Phaolô Seitz,
Kontum.
Ngoài việc thành lập Ba
Giáo Tỉnh với 20 Giáo Phận Chính Tòa và việc đặt để 19 Giám Mục
Chính Tòa, Sắc Chỉ còn nêu lên 7 điểm liên hệ đến việc điều hành
giáo phận của các Giám Mục Chính Tòa :
·
Ta cũng ban cho
các Địa phận vừa nói và các Địa phận khác đã kể trên, cho các
nhà thờ Chính tòa cũng như các Giám mục lãnh đạo được mọi quyền
lợi, danh dự, đặc ân thích xứng.
·
Đối với các Giám
mục lãnh đạo, Ta còn đặt thêm trọng trách và nhiệm vụ.
·
Tất cả các Địa
phận trên đây sẽ tiếp tục trực thuộc Thánh Bộ Truyền Giáo,
·
Trong các Địa
phận mới này, thuộc Giám mục Chính tòa cũng như Tổng Giám mục
Chính tòa, nếu vì hoàn cảnh sự vụ hay địa phương, chưa thể thành
lập Kinh Sĩ Hội, thì phải lựa đặt Ban Cố vấn Địa phận theo Giáo
luật, và một khi Kinh Sĩ Hội được thành lập, Ban Cố vấn tức khắc
chấm dứt nhiệm vụ.
·
Các vị lãnh đạo
cũng phải đặc biệt lưu ý việc đào luyện thanh niên có triển vọng
lên chức Linh mục : họ là hướng đạo tương lai của giáo dân.
·
Ngân quỹ Giám tòa
thành bởi của cải Địa phận hiện có, lợi tức Giám tòa, tặng vật
người ta tự cúng và tiền Thánh Bộ Truyền Giáo trợ cấp.
·
Việc cai quản và
điều hành Địa phận, quyền lợi Giáo sĩ và Giáo dân, bổ nhiệm vị
đại diện Kinh Sĩ Hội khi trống ngôi và mọi việc khác, thì cứ
chiếu Giáo luật mà thi hành
Sắc chỉ đã được viết như
sau :
Gioan Giám mục,
Tôi tá các tôi tá
Thiên Chúa để ghi nhớ muôn đời.
Chư huynh đáng kính,
vị hồng y Giáo hội Roma, phụ trách tại Thánh bộ Truyền giáo, sau
khi tham thảo ý kiến hiền tử Mario Brini, Khâm sứ Tòa Thánh tại
Đông Dương, đã nghĩ việc thiết lập phẩm trật Giáo Hội tại
Việt Nam là thích thời và tối lợi cho giáo sự. Ta đây cũng
đồng ý, lại tự suy xét chín chắn và thêm ý kiến những người liên
hệ, Ta lấy quyền Tông Tòa mà quyết định và truyền thi hành như
sau : Tại Việt Nam sẽ thành lập ba Giáo Tỉnh, tức là :
GIÁO TỈNH HÀ NỘI :
gồm Tổng giám mục Hà nội, tới nay chỉ là đại diện tông tòa, với
nhà thờ chính tòa danh hiệu Thánh Giuse, và thêm những giám tòa
thuộc hạt từ nay cũng hết là Đại diện Tông tòa, để trở nên địa
phận chính tòa, tức là :
·
Lạng Sơn với
nhà thờ chính tòa danh hiệu Thánh Đa Minh hiển tu;
·
Hải Phòng và
Bắc Ninh với hai nhà thờ chính tòa danh hiệu Nữ Vương rất thánh
Văn côi;
·
Hưng Hóa với
nhà thờ chính tòa danh hiệu Đức Mẹ Lên Trời;
·
Thái Bình với
nhà thờ chính tòa danh hiệu Thánh Tâm Chúa Giêsu;
·
Bùi Chu với
nhà thờ chính tòa danh hiệu Nữ Vương rất thánh Văn côi;
·
Phát Diệm với
nhà thờ chính tòa danh hiệu Nữ Vương rất thánh Văn côi;
·
Thanh Hóa với
nhà thờ chính tòa danh hiệu Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội;
·
Vinh với nhà
thờ chính tòa danh hiệu Đức Mẹ Lên Trời;
GIÁO TỈNH HUẾ :
gồm Tổng giám mục Huế, trước đây chỉ là đại diện tông tòa, với
nhà thờ chính tòa danh hiệu Trái Tim Cực Sạch Đức Mẹ, và thêm
các giám tòa thuộc hạt để được trở thành địa phận chính tòa:
·
Qui Nhơn với
nhà thờ chính tòa danh hiệu Đức Mẹ Lên Trời;
·
Nha Trang với
nhà thờ chính tòa Chúa Giêsu Vua;
·
KonTum với nhà
thờ chính tòa danh hiệu Đức Mẹ vô nhiễm Nguyên tội.
Sau cùng,
GIÁO TỈNH SÀIGÒN :
gồm Tổng giám mục Sài Gòn, trước đây chỉ là đại diện tông tòa,
với nhà thờ chính tòa danh hiệu Đức Mẹ Vô nhiễm Nguyên Tội, và
thêm các địa phận thuộc hạt trước kia chỉ là đại diện tông tòa,
tức là:
·
Vĩnh Long với
nhà thờ chính tòa danh hiệu Bà Thánh Anna, thân mẫu Đức Maria;
·
Cần Thơ với
nhà thờ chính tòa danh hiệu Thánh Tâm Chúa Giêsu.
Và các địa phận mới
được thành lập:
·
Đà Lat với nhà
thờ chính tòa danh hiệu Thánh Nicola Bari;
·
Mỹ Tho với nhà
thờ chính tòa danh hiệu Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội.
·
Long Xuyên với
nhà thờ chính tòa sắp được xây dựng.
Ta cũng lệnh cho các
địa phận Lạng Sơn, Hải Phòng, Bắc Ninh, Thanh Hóa, Thái Bình,
Huế, đến nay vẫn do Hội Thừa Sai BaLê và Dòng Đa Minh điều
khiển, và các Địa phận mới Đà Lạt, Mỹ Tho, Long Xuyên, tất cả
các địa phận kể trên từ nay sẽ trao cho giáo sĩ triều Việt Nam
quản nhậm. Ta cũng ban cho các địa phận vừa nói và các địa phận
khác đã kể trên, cho các nhà thờ Chính tòa cũng như các Giám mục
lãnh đạo được mọi quyền lợi, danh dự, đặc ân thích xứng. Đối với
các Giám mục lãnh đạo, Ta còn đặt thêm trọng trách và nhiệm vụ.
Tất cả các địa phận trên đây sẽ tiếp tục trực thuộc Thánh bộ
Truyền giáo, còn các giám mục lãnh đạo thì ta thuyên chuyển như
sau:
·
Thân huynh
đáng kính Giuse Maria Trịnh Như Khuê, trước đây là Đại diện Tông
tòa với hiệu tòa Synaitana, từ nay là Tổng giám mục Hà Nội.
·
Thân huynh
đáng kính Vicentê Phạm văn Dụ, Giám quản Lạng Sơn với hiệu tòa
Bosetana từ nay là Giám mục chính tòa địa phận Lạng Sơn.
·
Thân huynh
đáng kính Phêrô Khuất Văn Tạo, Giám quản Hải Phòng với hiệu tòa
Caralliensi từ nay là Giám mục chính tòa địa phận Hải Phòng đồng
thời kiêm Giám quản địa phận Bắc Ninh.
·
Thân huynh
đáng kính Phêrô Nguyễn Huy Quang, Giám quản Hưng Hóa với hiệu
tòa Claudiopolitana xứ Isauria, từ nay là Giám mục chính tòa địa
phận Hưng Hóa.
·
Thân huynh
đáng kính Đaminh Đinh đức Trụ, Giám quản Thái Bình với hiệu tòa
Cataquensi, từ nay Giám mục chính tòa Địa phận Thái Bình.
·
Thân huynh
đáng kính Giuse Phạm Năng Tĩnh, Giám quản Bùi Chu với hiệu tòa
Bernicensi, từ nay là Giám mục chính tòa Địa phận Bùi Chu.
·
Thân huynh
đáng kính Phaolô Bùi Chu Tạo, Giám quản Phát Diệm với hiệu tòa
Numida, từ nay là Giám mục chính tòa Địa phận Phát Diệm.
·
Thân huynh
đáng kính Phêrô Phạm Tần, Giám quản Thanh Hóa với hiệu tòa
Justiniapoli bên Galatia, từ nay làm Giám mục chính tòa Địa phận
Thanh Hóa.
·
Thân huynh
đáng kính Gioan Baotixita Trần Hữu Đức, Đại diện Tông Tòa ở Vinh
với hiệu tòa Niciotana, từ nay là Giám mục chính tòa Địa phận
Vinh.
·
Thân huynh
đxng kính Phêrô Martinô Ngô Đình Thục, Đại diện Tông Tòa tại
Vĩnh Long với hiệu tòa Saesinensi, từ nay là Tổng Giám mục Địa
phận Huế.
·
Thân huynh
đáng kính Phêrô Phạm Ngọc Chi, Đại diện Tông Tòa tại Bùi chu và
Giám quản Tông Tòa ở Qui Nhơn với hiệu tòa Sozopolitana bên
Haemimonto, từ nay là Giám mục chính tòa Địa phận Qui nhơn.
·
Thân huynh
đáng kính Marcellô Piquet, Đại diện Tông Tòa tại Nha Trang với
hiệu tòa Erizê, từ nay là Giám mục chính tòa Địa phận Nha Trang.
·
Thân huynh
đáng kính Phaolô Seitz, Đại diện Tông Tòa tại Kontum với hiệu
tòa Catulensi, từ nay là Giám mục Chính tòa tại Địa phận Kontum.
·
Thân huynh
đáng kính Phaolô Nguyễn Văn Bình, Đại diện Tông Tòa tại Cần Thơ
với hiệu tòa Agnusiensi, từ nay là Tổng giám mục Địa phận
Saigon.
·
Thân huynh
đáng kính Simon Hòa Nguyễn Văn Hiền, Đại diện Tông Tòa ở Saigon
với hiệu tòa Sagalassê, từ nay là Giám mục Chính tòa Địa phận
Đàlạt.
Và Ta đặt các Hiền
tử:
·
Giuse Trần Văn
Thiện làm Giám mục Chính tòa Địa phận Mỹ Tho;
·
Antôn Nguyễn
VănThiện làm Giám mục Chính tòa Địa phận Vĩnh Long;
·
Philippê
Nguyễn Kim Điền làm Giám mục Chính tòa Địa phận Cần Thơ;
·
Micae Nguyễn
Khắc Ngữ làm Giám mục Chính tòa Địa phận Long Xuyên.
Trong các địa phận
mới này, thuộc giám mục chính tòa cũng như tổng giám mục chính
tòa, nếu vì hoàn cảnh sự vụ hay địa phương, chưa thể thành lập
Kinh Sĩ Hội, thì phải lựa đặt Ban Cố vấn Địa phận theo Giáo
luật, và một khi Kinh Sĩ Hội được thành lập, Ban Cố vấn tức khắc
chấm dứt nhiệm vụ. Các vị lãnh đạo cũng phải đặc biệt lưu ý việc
đào luyện thanh niên có triển vọng lên chức linh mục : họ là
hướng đạo tương lai của giáo dân. Ngân quỹ Giám tòa thành bởi
của cải địa phận hiện có, lợi tức Giám tòa, tặng vật người ta tự
cúng và tiền Thánh Bộ Truyền Giáo trợ cấp. Việc cai quản và điều
hành địa phận, quyền lợi giáo sĩ và giáo dân, bổ nhiệm vị đại
diện Kinh Sĩ Hội khi trống ngôi và mọi việc khác, thì cứ chiếu
Giáo luật mà thi hành.
Sắc chỉ của Ta đây sẽ
được niêm ấn chì và Ta truyền cho vị Khâm sứ Tòa Thánh tại Đông
Dương Ta đã nói trên, phải đích thân hay ủy nhiệm người khác thi
hành, miễn là người ây có chức vị trong Giáo hội. Nếu trong thời
gian thi hành, vị khác sẽ nhậm chức vụ Khâm sứ Tòa Thánh tại
Đông Dương, thì vị ấy sẽ thi hành lệnh của Ta. Vị thi hành phải
thận trọng lập biên bản đầy đủ khi việc đã hoàn tất và kíp đệ
lên Thánh Bộ Truyền Giáo các văn kiện đã ký nhận chắc chắn. Ý Ta
là Sắc chỉ này có hiệu lực tức khắc và mãi về sau, cho nên tất
cả những gì được ấn định trong Sắc này phải được những người
liên hệ tôn trọng thi hành và như thế là có hiệu lực. Không một
luật lệ nào nghịch lại có thể ngăn cản hiệu lực của Sắc Chỉ nầy
: chính Sắc Chỉ này hủy bỏ các luật lệ ấy. Vì thế bất kỳ ai, ở
chức vị nào, hữu ý hay vô tình nghịch lại những sự Ta vừa nói
trên, thì Ta luận phi và kể là vô giá trị.
Lại nữa, không ai
được phép xé hủy hay giả mạo Sắc Chỉ này của Ta và nếu công bố
hoặc là ấn loát hay viết tay thì những bản đó phải được chức vị
trong Giáo Hội đóng ấn và đồng thời phải mang chữ ký của một Vị
Chính thức coi giữ văn kiện thì mới đáng tin. Nếu ai dám khinh
dễ hay khước từ cách nào toàn Sắc Chỉ này thì hãy biết rằng sẽ
bị những hình phạt Giáo luật đã ra cho những người không tuân
lệnh các Đức Giáo Hoàng.
Làm tại Roma nơi đền
thờ Thánh Phêrô, ngày hai mươi bốn tháng mười một, năm một ngàn
chín trăm sáu mươi, cũng là năm thứ ba Triều đại của Ta.
Ký tên
Thay Đức Hồng Y
Chưởng Ấn Giáo Hội Roma:
Đôminicô Tardini,
Hồng Y Quốc vụ Khanh.
Grêgorio P.
Agagianian,
Hồng Y và Tổng Trưởng T.B.T.G.
Phanxicô Tinello ,
Nhiếp chính Chưởng Ấn Tông Tòa.
Phanxicô Annibalê
Ferretti,
Tổng lục sự Tông Tòa.
Albertô Serafini,
Tổng Lục sự Tông Tòa.
Gửi đi ngày
24-11-1960, năm thứ ba Triều đại Giáo Hoàng.
D. Rodomon
Galligani,
thay người ấn chì.
Ghi tại Chưởng Ấn
Tông Tòa, cuốn 105, (col CV) số 31.
[nguồn : Văn Phòng Tổng
Thư Ký HĐGMVN ; Giáo Hội Công Giáo Việt Nam, Niên giám 2004 ; Hà
Nội : NXB Tôn Giáo, 2004 ; tr. 235-239]
Ngày 24/11/2009, trong
diễn văn khai mạc Năm Thánh 2010 tại Sở Kiện, Tổng Giáo Phận Hà
Nội, Đức cha Nguyễn Văn Nhơn, Chủ Tịch HĐGM VN, đã xác nhận
rằng : « năm
1960, vào ngày 24-11, Đức Chân Phước Giáo Hoàng Gioan XXIII đã
ký Tông sắc thiết lập Hàng Giáo Phẩm Việt Nam, đánh dấu sự
trưởng thành của Giáo Hội Chúa Kitô trên đất nước chúng ta”.
K ỷ
niệm ngày trọng đại ấy, chúng ta cử hành Năm Thánh 2010
“trong niềm tri ân cảm tạ cùng với quyết tâm xây dựng Giáo Hội
như lòng Chúa mong muốn và tin tưởng bước tới tương lai. Ngài
đề nghị toàn thể Giáo Hội Việt Nam cùng nhau làm bốn việc :
·
chúng ta phải
cất cao lời cảm tạ: “Hãy tạ ơn Chúa vì Chúa nhân từ, muôn ngàn
đời Chúa vẫn trọn tình thương” (Tv 118,1).
·
chúng ta đã
long trọng cử hành nghi thức tôn vinh Các Thánh Tử Đạo Việt Nam.
Đồng thời, cũng để bày tỏ niềm tri ân đối với các ân nhân, chúng
tôi đã mời các vị hồng y, giám mục – đại diện các Giáo hội đã và
đang góp phần xây dựng và phát triển Giáo hội tại Việt Nam – đến
tham dự Thánh Lễ khai mạc này.
·
Cử hành lễ
Khai Mạc Năm Thánh tại Tổng giáo phận Hà Nội nhắc chúng ta nhớ
đến cộng đoàn tín hữu đầu tiên trên đất Thăng Long. Các tín hữu
thời ấy đã yêu thương gắn bó với nhau đến nỗi người ngoài gọi họ
là những người theo “Đạo của Tình yêu”.
·
hồng ân đức
tin Chúa đã ban cho chúng ta cũng cần được chia sẻ cho người
khác, nhất là cho đồng bào của mình, những người cùng sống trong
một đất nước, cùng chia sẻ một lịch sử, cùng chung một vận mệnh
quê hương.
Paris, ngày 03 tháng 12
năm 2009
Gs.
Trần Văn Cảnh |
VỀ MỤC LỤC |
|
NĂM THÁNH LINH MỤC - CANH TÂN.
|
Cha Anthony de Mello trong cuốn
“The Song Of The Bird” viết câu truyện về Sufi Bayazid, ông nói
về chính mình như sau: Tôi là nhà cách mạng, khi tôi còn trẻ và
tất cả lời cầu nguyện của tôi với Chúa là: “Lạy
Chúa, xin ban cho con nghị lực để con thay đổi thế giới.”
Khi tôi tới tuổi trung tuần và nhận thấy rằng nửa đời người đã
qua đi mà không đổi thay được một tâm hồn nào. Tôi đã thay đổi
lời cầu nguyện: “Lạy Chúa, xin cho con
ân sủng để thay đổi những người liên hệ và gặp gỡ con, như gia
đình và bạn bè của con và con sẽ được an lòng.”. Bây giờ,
tôi đã già và ngày giờ sắp hết, lời cầu của tôi:
“Lạy Chúa, xin cho con ân sủng để thay
đổi chính con.” Nếu con cầu nguyện điều này ngay từ khởi
đầu, con đã không phí uổng cuộc đời của con.
1. Thay
Đổi
Chúng ta biết vũ trụ vận hành
thay đổi từng ngày, từng giờ. Mọi sinh vật trong vũ trụ cũng
thay đổi và phát triển. Chúng ta không thể nhận biết sự đổi thay
chung quanh nếu chúng ta không biết thay đổi chính mình. Sự sống
là một tiến trình thay đổi và vận hành liên tục. Từ vũ trụ khổng
lồ tới những vi nguyên tử nhỏ tí luôn luôn di chuyển. Chúng ta
đang sống trong thế giới động. Thân xác con người của chúng ta
làm việc liên tục để hấp thụ và sa thải. Chúng ta lớn lên mỗi
ngày và chúng ta cũng đang chết đi từng giây phút. Chúng ta tự
hỏi: Tại sao chúng ta cứ phải thay đổi
chứ? Thay đổi để nên trọn hảo hơn. Đời sống cần canh tân
và đổi mới. Xã hội thay đổi, hoàn cảnh thay đổi, con người cũng
cần thay đổi, Mỗi một đổi thay là một
bước tiến, tiến đến Chân, Thiện, Mỹ.
Dám
thay đổi có nghĩa là chúng ta dám mở cửa tâm hồn để đón nhận
những cái mới. Cái mới
hướng tới sự thật và sự tốt lành. Có nhiều khi chúng ta mở mắt
nhìn nhưng chúng ta vẫn không nhận ra những thay đổi của vạn vật
chung quanh. Con kể câu truyện của Helen Keller, một cô gái bị
mù từ khi mới sinh. Vào một ngày, Helen Keller hỏi ngườì bạn:
Chị mới đi vào rừng cắm trại, chị có
thấy gì lạ không? Cô bạn trả lời:
Tôi chẳng thấy gì đặc biệt cả.
Helen tự hỏi: Sao lại thế?
Trong khi tôi bị mù, tôi còn cảm nhận
biết bao thứ rất hấp dẫn và mới lạ mỗi ngày. Qua việc
đụng chạm, sờ mó, tôi cảm được những hình dáng khác nhau của
những chiếc lá. Tôi dùng bàn tay cảm được sự nhẵn nhụi, mền mại
của những búp non hay những bông hoa hoặc những sự nhám nhúa của
những vỏ cây chung quanh. Tất cả những sự kiện này đã thuyết
phục tôi rằng: Sự bất hạnh lớn lao nhất
của con người là không phải người ta bị mù từ sơ sinh nhưng là
họ có mắt mà không nhận ra được những giá trị của thiên nhiên và
các dấu chỉ của sự sống.
2. Thích
Ứng
Trong thời đại thông tin khoa học
tiến bộ vượt bực. Vấn đề truyền thông cực kỳ mau lẹ và rộng rãi.
Mạng lưới điện toán phát tán nhanh nhạy các vấn đề thời đại như
các mạng lưới
http://Vietcatholic.net/;
www.Conggiaovietnam.info/;
www.Dunglac.org/;
www.tamlinhvaodoi.net/;
http://liendoanconggiao.net; Tin tức mau lẹ và chính
xác cùng các video hình ảnh trực tiếp. Sự hiểu biết của mọi
người cũng nhờ đó mà cập nhật tin tức một cách nhanh chóng. Mọi
sự thật mau chóng được phơi bày và truyền rao khắp chốn. Các anh
em linh mục chúng ta cần cập nhật hóa sự hiểu biết và suy tư.
Mau nhạy bén với các vấn đề thời sự để hướng dẫn và chăm lo đời
sống đức tin cho giáo dân, nhất là giới trẻ. Sự thay đổi cách
sống và cách hành xử trong sinh hoạt mục vụ của cộng đoàn. Sự
khiêm tốn học hỏi là đầu mối của sự khôn ngoan. Học hỏi sẽ giúp
chúng ta nhìn và giải quyết vấn đề một cách bén nhạy và chính
xác. Chúng ta phải thoát ra khỏi cái vỏ cứng bao trùm của tổ
kén. Hãy mở cửa đón nhận sinh khí mới.
Đôi khi một số linh mục chúng ta
vẫn còn não trạng kẻ cả. Lời của cha xứ là đúng nhất. Cha có
quyền hành xử theo ý mình, mà không tìm hiểu những nhu cầu thực
tế của giáo dân. Câu truyện nhỏ của người bạn linh mục chia sẻ
với con: Cha H. từ Hoa Kỳ về thăm quê hương Việt Nam, bà con có
nhờ cha mang một số tiền về cho cha Bề Trên nhà dòng. Khi cha H.
về tới nhà thì vội vàng mang quà đến cho cha Bề Trên. Nhưng đâu
có dễ mà gặp mặt ngài, khi cha H. vào, gặp ông từ nhà thờ nói:
Anh đứng đó, chờ tôi vào báo cho ngài.
Đứng đợi gần nửa tiếng, cha bề trên đi ra nhưng còn gặp một bà
khách trò chuyện chi đó. Thái độ dửng dưng. Sau cùng, cha bề
trên đã gặp và hỏi: Anh cầm tiền về hả,
bao nhiêu? Cha
nhận và đếm tiền. Ngài cũng
không thèm ngó mặt lên nhìn. Khốn nỗi cha H. mặc quần short, vì
trời Sàigòn nóng quá. Cha Bề trên không biết vị linh mục trẻ
này và ngài không mời ngồi và chẳng có nước non chi cả. Sau vài
câu xã giao, cha Bề Trên nói sắp khánh thành nhà thờ, nếu anh
muốn có thể đi tham dự. Cha H. trả lời:
Vâng, con sẽ ra dâng lễ đồng tế với qúy cha. Cha Bề Trên
chỉ biết cúi mặt xuống mà không nói chi cả.
Sự thể như thế này xảy ra không
ít. Con cũng đựợc nghe nhiều câu truyện khác nữa, cả với các
đấng bậc cao hơn. Anh em cùng lớp, lâu ngày không gặp, cha PT.
từ nước ngoài mới về, tưởng đâu chút quà mọn ra mắt anh em cũng
là lịch sự lắm rồi, nhưng với các đấng bậc chức cao quyền trọng,
cha T. chẳng được một lời hỏi han hay vấn an sức khỏe.
Thật buồn! Còn nữa, cách đây
mấy năm, cha NT. bạn con, sau nhiều năm vất vả hoàn tất việc
kiến thiết và xây dựng giáo xứ tại quê nhà Việt Nam, cha đã tự
thưởng cho mình một chuyến du lịch sang Hoa Kỳ để học hỏi, thăm
bà con và bạn bè. Vào một chiều Chúa Nhât, cha NT. muốn chu toàn
bổn phận dâng lễ Chúa Nhật tại giáo xứ có cha cùng Địa Phận nhà.
Cha NT. cùng gia đình người bạn đến cha sở và xin được đồng tế.
Cha sở phán ngay một lời: Không được,
mọi sự đã sắp xếp, không xin xỏ gì hết (ý nói xin tiền).
Cha đi xuống dự với giáo dân. Vâng lời cha sở, cha NT đi xuống
tham dự thánh lễ như mọi người.
Một ấn tượng khắc ghi
trong lòng không đẹp lắm!
Anh em linh mục chúng
ta cần thay đổi tư duy.
Tôi nhớ lời Đức Cố Hồng Y Edward O’Connor khuyên dạy các linh
mục ở Nữu Ước là hãy luôn: “Be kind, be
kind and be kind”. Nhẹ nhàng, khoan thai và lịch sự trong
bất cứ hoàn cảnh nào, chúng ta sẽ không bị hối tiếc. Lời giảng
dạy và khuyên răn của các linh mục nên đi đôi với việc làm. Giáo
dân rất qúy trọng và yêu mến các linh mục. Đôi khi họ có gây gỗ
đấy nhưng họ luôn cộng tác và sống đạo tốt. Giáo dân bổn đạo là
một cộng đoàn của niềm tin. Họ chính là Giáo Hội của Chúa Kitô.
3. Tự
Kiểm
Một câu truyện vui xảy ra là khi
một linh mục thuộc Tổng Giáo Phận Nữu Ước qua đời, được xếp hàng
chờ tại cổng thiên đàng. Đứng trước ngài là một thanh niên đeo
kính râm, mặc áo da va quần Jeans. Chờ đợi hồi lâu, Thánh Phêrô
ra mở cửa, nhìn thấy anh thanh niên ngầu tướng, ngài hỏi,
Anh là ai? Làm nghề gì? Anh đáp:
Thưa thánh Phêrô, con làm nghề lái Taxi
ở Nữu Ước. Thánh Phêrô mỉm cười và nói:
Tốt, con vào đi. Ngài trao cho anh một
chiềc áo cẩm bào, một cây gậy vàng và anh hân hoan bước vào cửa
thiên đàng. Tới phiên linh mục, thánh Phêrô lật dở danh
sách, linh mục hãnh diện tự giới thiệu, con là
Cha Xứ của Xứ Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp, Nữu
Ước, con đã phục vụ ở đó 40 năm. Thánh Phêrô lược qua
tiểu sử và nói với cha rằng: Tốt lắm.
đây là áo bông và gậy gỗ của con. Linh mục ngạc nhiên
hỏi: Sao lại thế? Anh lái Taxi được gậy
vàng kia mà. Thánh Phêrô nói:
Trên thiên đàng, chúng ta làm việc tính theo hoa trái đã được
sinh lợi. Cha nhớ rằng khi cha giảng trong các thánh lễ thì có
nhiều người ngủ gật. Trong
khi anh lái taxi, vì phải chạy đua với thời gian và tranh dành
kiếm sống, anh phải đua chen lái xe và vì thế nhiều người đã
phải chăm chú, nhiệt tâm cầu nguyện và luôn ăn năn tội sẵn sàng.
Câu chuyện vui nhưng nói lên được ý nghĩa đích thực của công
việc mình làm.
Có lẽ anh em linh mục chúng ta còn
nhớ lời của Đức Giám Mục truyền chức cho các thày Phó tế khi
ngài đọc:
Các con
hãy tin điều các con đọc, dạy điều các con tin và thực hành điều
các con dạy.
Vì sao khi linh mục giảng lại có nhiều giáo dân ngủ gật? Có lẽ
bài giảng không được chuẩn bị kỹ lưỡng. Có khi bài giảng không
là bữa ăn tinh thần thực sự hoặc lời giảng không đi đôi với việc
làm. Có thể bài giảng không được thấm nhuần và không đi vào cụ
thể cuộc sống của lòng người. Và cũng có khi bài giảng không
diễn đạt Lời của Chúa mà chỉ là lời của con ngườì.
4. Thách
Đố
Để trở thành chứng nhân trong hoàn
cảnh xã hội hiện nay là một thách đố lớn lao. Linh mục trở thành
mũi dùi cho biết bao sự đàm tiếu bởi vì sự yếu đuối và sự bất
toàn của con người. Linh mục sống giữa dòng đời. Linh mục mang
sứ mệnh thánh thiêng trong một thân xác yếu đuối của một con
người thật người. Linh mục hòa đồng trong cuộc sống phục vụ sẽ
không tránh khỏi những lời kêu ca, trách móc và than phiền. Sau
đây là một vài dí dỏm diễn tả một linh mục thời đại:
- Nếu cha giảng qúa 10 phút, nói
rằng cha nói thao thao bất tuyệt.
- Nếu cha nói về thần học, nói rằng cha nói trên mây trên gió.
- Nếu cha đề cập đến vấn đề xã hội, nói rằng cha khuynh tả.
- Nếu cha luôn ở lại nhà xứ, nói rằng cha cắt đứt liên lạc với
thế giới bên ngoài
- Nếu cha dễ dãi thi hành các Bí Tích, nói rằng cha bán tống bán
tháo các Bí Tích
- Nếu cha đòi hỏi dự các lớp giáo lý, nói rằng cha muốn giáo hội
toàn người trọn lành.
- Nếu cha đi thăm giáo dân, nói rằng cha chẳng bao giờ ở nhà xứ.
- Nếu cha thành công với thiếu nhi, nói rằng đạo của cha là ấu
trĩ.
- Nếu cha đi thăm bệnh nhân, nói rằng cha phí thời giờ, không đi
sát thực tế.
- Nếu cha sửa sang nhà thờ, nói rằng cha ném tiền qua cửa sổ.
- Nếu cha không sửa sang nhà thờ, nói rằng cha bỏ bê tất cả.
- Nếu cha cộng tác với Hội Đồng Giáo Xứ, nói rằng cha để người
ta xỏ mũi.
- Nếu cha không lập Hội Đồng Giáo Xứ, nói rằng cha độc tài.
- Nếu cha hay mỉm cười, nói rằng cha qúa dễ dãi
- Nếu cha bận bịu không nhìn người nào, nói rằng cha qúa xa cách
- Nếu cha còn trẻ, nói rằng cha thiếu kinh nghiệm
- Nếu cha có tuổi, nói rằng cha nên về hưu là vừa.
Nhìn lại những năm trong chức vụ
linh mục, con cảm nghiệm sự yếu đuối của chính con. Chúa vẫn mời
gọi con để rao giảng Tin mừng của Chúa Kitô. Sự rao giảng về
Chúa và cuộc sống hiện tại của con còn một khoảng cách quá lớn.
Cuộc sống cứ lôi kéo trì độn, nên con cứ phải cố gắng không
ngừng để bám sát theo Thầy Chí Thánh. Một cố gắng không ngừng
nghỉ như người chèo thuyền ngược giòng về thượng nguồn. Nếu con
buông xuôi mái chèo bất cứ lúc nào, thuyền sẽ lại xuôi dòng. Đời
linh mục đòi nhiều hy sinh để trở thành men khơi dậy lòng người
và nên như muối ướp mặn đời.
5.
Thành Quả
Trong một bài báo con đọc đã lâu.
Một tác giả viết: Tôi theo đạo gần 60
năm, tôi đã nghe không biết bao nhiêu bài giảng, có lẽ khoảng
3000 bài giảng, nhưng cho tới hôm nay, tôi cũng chẳng còn nhớ
được bài nào và nội dung là gì. Tôi nghĩ rằng tôi đã uổng
công lắng nghe và tiêu phí thời gian. Và cả các linh mục cũng
uổng công dọn bài và giảng dạy. Sau đó có nhiều người phản ứng,
mỗi người một ý kiến khác nhau. Sau vài tuần lễ, có một người
viết bài đáp lại. ông viết rằng: Tôi đã
lập gia đình 30 năm. Vợ tôi đã nấu cho tôi trên 20,000 bữa ăn.
Tới nay, tôi cũng không nhớ mỗi bữa có món ăn gì, thực đơn ra
sao! Nhưng tôi biết chắc chắn một điều là tôi còn sống
tới hôm nay và tôi khỏe mạnh. Đó chính là nhờ từng bữa ăn mà vợ
tôi đã dọn ra để nuôi dưỡng tôi. Cũng thế chính những bữa ăn
tinh thần hằng ngày và hằng tuần trong các giờ phụng vụ đã giúp
cho mỗi người tín hữu hiểu đạo, giữ đạo và sống đạo.
Suy niệm Lời Chúa mỗi ngày cũng là
những món ăn tinh thần quý báu. Món ăn cho chính mình và cho
người khác nữa. Phải thấm nhuần nơi lòng mình và phải canh tân
đổi mới cuộc sống của mình trước, rồi sau đó chúng ta mới có thể
giúp người khác canh tân. Con nhớ đến một dòng tư tưởng rất am
hợp trong cuốn "Với Những Trái Tim Bừng
Cháy" của Henri J. M. Nouwen. Ông ghi lại bài suy niệm
qua đài truyền hình, khi người xuớng ngôn viên lấy nước đổ trên
khoảng đất khô cằn. Xướng ngôn viên nói rằng giờ đây các bạn hãy
quan sát: "Đất cằn khô chai lì không
thể thấm nước và hạt giống không thể nẩy mầm." Rồi sau
đó, ông dùng đôi bàn tay xới đất lên và một lần nữa, ông tưới
nước trên đất mềm. Ông nói, "Chỉ có đất
đã được cầy vỡ, xới lở mới có thể thấm nhập nguồn nước và hạt
giống có thể nẩy mầm và sinh hoa kết trái."
6. Nhật
Nhật Tân
Anh em Linh Mục chúng ta được mời
gọi để khơi dậy và xới lên trong lòng mình những thói hư và tật
xấu đã bị chôn vùi thành thói quen. Hãy canh tân tâm hồn cho
nguồn ân sủng của Chúa tuôn tràn và hạt giống Lời Chúa có cơ hội
nẩy mầm và sinh hoa kết trái. Năm Thánh
Linh Mục là cơ hội rất tốt giúp chúng ta nhìn lại mình và
thay đổi chính mình. Thay đổi nên giống Chúa Kitô mỗi ngày. Thật
ra, suy nghĩ và bàn luận thì xem ra dễ dàng nhưng cụ thể đi vào
canh tân đời sống là cả một thách đố vô cùng khó khăn. Chúng ta
nhớ ngày xưa khi Chúa Giêsu rao giảng Tin Mừng cứu độ cho muôn
dân. Chúa đã bị chống đối kịch liệt vì sự cứng lòng và não trạng
không thể thay đổi của các Luật Sĩ, Biệt Phái và các Tư Tế.
Chính Chúa đã giảng, đã sống và thực hành lời giảng dạy. Lời
Chúa có sức mạnh cải đổi và canh tân tận đáy tâm hồn. Chúng ta
cùng đọc và suy gẫm lời Chúa và đem áp dụng vào cuộc sống đời
thường.
Chúa Giêsu nói rằng: “Không
có Thầy, chúng con không thể làm gì được”. Chúng con cầu
xin ân sủng của Chúa để giúp chúng con thay đổi chính chúng con.
Dù ngại ngùng hay dù bị đau đớn nhưng chúng con sẽ không bị
hoang phí thời gian. Cầu xin ơn Chúa Thánh Thần là nguồn đổi mới
và là sự tươi mát của tâm hồn. Xin Ngài đốt lửa mến yêu để sưởi
ấm, đổi mới và canh tân tâm hồn chúng con. Xin cho mỗi linh mục
chúng con là ngọn đèn cháy sáng soi dọi vào đêm tối và là muối,
là men ướp cho mặn đời.
Lạy Chúa,
Chúa là Đường, là sự Thật và là Sự Sống. Xin Chúa dẫn dắt
chúng con đi theo con đường của Chúa, để mỗi anh em linh mục
chúng con trở nên chứng nhân đích thực của Chúa giữa mọi người.
Xin Chúa thương chúc lành cho chúng con.
Lm. Giuse
Trần Việt Hùng - Bronx, New York. |
VỀ MỤC LỤC |
|
NGÀI ĐẾN ĐÂY
LÀM GÌ? |
Câu hỏi trên đây là tựa đề một bài viết của
Cha Nguyễn Công Đoan, S.J., cho tờ Đứng Dậy, số Giáng Sinh năm
1978, cũng là số cuối cùng của tờ báo này. Tôi còn nhớ rõ, đó là
một số báo Giáng Sinh tuyệt vời, và chẳng thấy dấu vết gì của
những điều tiếng nào đó vốn đã nghe nói nhiều về tờ báo. Nhiều
cây bút bậc thầy của các dòng tu cùng góp mặt, y như một cuộc
tổng động viên để ‘đánh một trận’ rồi giải tán vậy. Số báo ấy
gồm toàn những bài ‘chất lượng cao’ xung quanh chủ đề Giáng Sinh
– mà ám ảnh tôi nhiều nhất chính là bài “Ngài đến đây làm gì?”
Từ đó đến nay đã 31 năm, bao nhiêu nước chảy dưới cầu, song cứ
mỗi độ Giáng Sinh về, nhìn vào Hài Nhi Giêsu trong máng cỏ, tôi
lại thấy mình vẫn còn đứng trước dấu hỏi miên man: Ngài đến đây
để làm gì vậy?
Để cứu độ, dĩ nhiên. Tôi nhớ ít nhất hai
điều mà tác giả bài viết rất hay ấy muốn nhấn mạnh. Một là, Đức
Giêsu đã không chờ cho đến khi chịu đóng đinh và chết trên thập
giá mới cứu độ, mà ngay từ cuộc Nhập Thể của Ngài, sự cứu độ đã
bắt đầu hiện thực rồi. Tất cả mầu nhiệm Đức Kitô là mầu nhiệm
cứu độ. Như lời tuyên xưng đức tin: “Vì loài người chúng tôi,
và để cứu rỗi chúng tôi, Người đã từ trời xuống thế...”
Vĩnh Cửu đi vào thời gian, đó là cứu độ.
Vô Hạn đảm nhận hữu hạn, đó là cứu độ.
Thiên Chúa ở trong xác phàm, đó là cứu độ.
Và đó là lý do vì sao gọi đêm Giáng Sinh là
Đêm Thánh.
Hai là, Chúa làm người để cứu độ loài người
chứ không để chỉ cứu một nhóm người, và Ngài cứu độ con người
một cách toàn diện chứ không chỉ cứu linh hồn người ta mà thôi.
Đây cũng là niềm thâm tín được nêu rõ trong chính lời tuyên xưng
ấy: “Vì loài người chúng tôi, và để cứu rỗi chúng tôi...”
chứ nào phải “Vì linh hồn chúng tôi, và để cứu rỗi linh hồn
chúng tôi...” đâu!
Và như vậy, tôi trộm nghĩ rằng không chỉ có
đêm ấy hay một khoảnh khắc của đêm ấy là thánh, mà toàn bộ dòng
thời gian kể từ đêm ấy, kể từ khoảnh khắc ấy đã trở thành thời
gian thánh. Chúa chào đời ở một nơi tầm thường nhất, để từ đây
không chỉ trong Đền Thờ mới có nơi Thánh hay nơi Cực Thánh, mà
bất cứ xó xỉnh nào, dù hôi hám tối tăm bần cùng nhất, cũng được
ướp tràn sự thánh thiện của Thiên Chúa rồi. Bầu không khí nhiều
ô nhiễm này tôi đang hít thở, bữa cơm đạm bạc này tôi đang ăn,
trang sách hay này, lời phiền trách kia, những con người xung
quanh tôi đây – dễ thương hay dễ ghét – tất cả đang chìm ngập
trong sự thánh thiện của Thiên Chúa, vì Thiên Chúa đã đảm nhận
phận người, trong chính không gian và thời gian này.
Quả là Ngài đến đây để cứu độ và quả là
năng lực cứu độ nằm ngay trong sự hiện diện của vị Thiên Chúa
Nhập Thể. Nhưng tất cả câu chuyện không chỉ sơ sài có vậy. Thiên
Chúa đã không hiện diện trong xác phàm theo kiểu bất kỳ (nghĩa
là không kiểu này thì kiểu ... khác!) Nơi con người Giêsu, Thiên
Chúa đã hiện diện, thánh hóa, cứu độ theo kiểu của Ngài. Mượn
ngôn ngữ thời thượng hôm nay, có thể nói rằng kiểu làm người của
Đức Giêsu có ‘nhãn hiệu cầu chứng’, có ‘thương hiệu’ hẳn hoi.
Nếu điều này vô tình bị bỏ qua, thì câu chuyện Đức Giêsu sẽ trở
thành khá tẻ nhạt, vì nó mất đi một phần thiết yếu, ví như một
bài văn vụng về chỉ có nhập đề và kết luận. Câu hỏi “Ngài đến
đây làm gì?”, vì thế, vẫn còn y nguyên đó. Nó đòi một câu trả
lời đủ rõ, một câu trả lời được đầu tư và được quan tâm đủ. Câu
trả lời ấy, dĩ nhiên, tiên vàn không ở đâu khác ngoài các trang
Sách Tin Mừng.
Nhớ hồi còn bé mới bảy, tám tuổi, tôi học
giáo lý về Chúa Giêsu: Hỏi, trong Ba Ngôi, Ngôi nào ra đời?
Thưa, Ngôi thứ Hai ra đời... Hỏi, Chúa Giêsu có mấy bản tính?
Thưa, Chúa Giêsu có hai bản tính, một là bản tính Đức Chúa Trời;
hai là bản tính loài người ta. Thế là thằng bé được nghe
giải thích dông dài về ‘ngôi vị’ và ‘bản tính’, về sự phân biệt
giữa hai đàng, và về sự thật “hai bản tính trong một ngôi vị”
của Đức Giêsu. Nói theo ngôn ngữ giới trẻ bây giờ là thằng bé
‘hiểu chết liền’! Mà thật, đến nay đã là một ông linh mục, những
ý niệm triết học Hy Lạp ấy vẫn còn chưa hết đánh đố tôi. Tôi tự
hỏi: Phải chăng câu chuyện Đức Giêsu trong Tin Mừng (vốn không
hề dùng những ý niệm ấy) không có sức chuyển tải cùng một chân
lý đức tin kia?
Thật may là các em thiếu nhi học giáo lý
ngày nay xem ra được tiếp cận nhiều hơn với câu chuyện Đức Giêsu
trong Tin Mừng, chứ không chỉ bám vào những câu giáo lý đôi khi
đầy gai góc. Tuy nhiên, vẫn còn đó băn khoăn. Hình như các bản
tuyên tín (truyền thống) của mình vẫn chưa đủ bao hàm, trong đó
câu chuyện Đức Giêsu – vốn là trọng tâm qui chiếu của đức tin –
hơi bị cụt ngủn? Phải chăng vì khuôn khổ của một công thức cô
đọng bắt phải thế? Tôi không biết. Chỉ biết là:
- Kinh Tin Kính Ni-xê:
[Chúa Giêsu Kitô] ... đã nhập thể và
sinh bởi Đức Trinh Nữ Maria, và đã làm người. Người chịu đóng
đinh vào Thập Giá ...
- Kinh Tin Kính Các Tông Đồ:
Bởi phép Đức Chúa Thánh Thần mà Người xuống
thai, sinh bởi Đức Bà Maria trọn đời đồng trinh, chịu nạn
đời quan Phong-xi-ô Phi-la-tô...
- Kinh Tin:
Ngôi thứ Hai đã xuống thế làm người, chịu nạn chịu chết
mà chuộc tội...
- Kinh Ăn Năn Tội (cũng bao gồm phần tuyên
tín): Lạy Chúa, Chúa là Đấng trọn tốt trọn lành vô cùng. Chúa
đã dựng nên con, và cho Con Chúa ra đời chịu nạn chịu chết
vì con...
Nghe dễ có ấn tượng rằng Chúa sinh ra làm
người là để ... chịu chết! Mà đó nào phải là sự thật! Sự bất cập
này cũng được thấy trong Kinh Mân Côi truyền thống, vốn gồm Năm
Mầu Nhiệm Vui (Chúa sinh ra, Chúa còn bé) rồi chuyển sang Năm
Mầu Nhiệm Thương (Chúa chịu khổ nạn) và Năm Mầu Nhiệm Mừng (Chúa
sống lại, lên trời...) Còn cả một ‘đời người’ của Chúa thì dường
như không phải là mầu nhiệm! Điều đáng nói là nếu bỏ qua cái
‘khúc giữa’ của cuộc đời Chúa, thì không dễ gì hiểu được ý nghĩa
cái chết và sự phục sinh của Ngài. Dường như chính vì nhìn ra lỗ
trống ấy mà Đức Gioan Phaolô II đã đưa thêm Năm Sự Sáng vào Kinh
Mân Côi, để thúc đẩy việc chiêm ngắm Chúa Giêsu trong đời thường
của Ngài, cũng chính là trong hành trình sứ mạng. Không chạm đến
câu chuyện cuộc đời của Đức Giêsu, nhất là không chạm đến sứ vụ
của Ngài, là đã bỏ qua một phần thiết yếu, và như vậy chưa trả
lời đúng mức cho câu hỏi “Ngài đến đây làm gì?”
Ở đây, tôi chợt nhớ một đoạn Tin Mừng thú
vị trong tuần III Mùa Vọng. Khi Gioan sai các môn đệ đến hỏi Đức
Giêsu về căn tính của Ngài: “Thầy có phải là Đấng phải
đến không?” (Lc 7,19) – thì Chúa đã không nói Ngài là ai hay
không là ai, Ngài chỉ yêu cầu các môn đệ ấy về kể lại cho Gioan
một câu chuyện, câu chuyện Ngài đang làm gì làm gì, và là câu
chuyện mà chính họ trực tiếp kinh nghiệm: “Các anh cứ về
thuật lại cho ông Gioan những điều mắt thấy tai nghe: người mù
được thấy, kẻ què được đi, người cùi được sạch, kẻ điếc được
nghe, người chết trỗi dậy, kẻ nghèo được nghe tin mừng, và phúc
thay người nào không vấp ngã vì tôi.”(Lc 7,22-23).
Ngài đến đây làm gì? Câu hỏi không khó, câu
trả lời cũng không.
Khó chăng là tôi có dám đối diện với câu
trả lời, và đưa ra câu trả lời của chính mình, ở đây và hôm nay,
cho câu trả lời ấy. Cũng ví như mùa Thường Niên rồi sẽ về sau
mùa Giáng Sinh này vậy, khó chăng là nhận ra rằng ngay cả những
ngày những tháng gọi là ‘thường’ ấy thực sự chẳng thường chút
nào – chẳng thường chút nào như cuộc đời thường của Con Thiên
Chúa.
Giáng
Sinh 2009
Lm. Lê Công Đức |
VỀ MỤC LỤC |
|
CHỦ QUÁN TRỌ THỜI
MỚI VÀ DÂN CHÚA |
Cách đây ít lâu trong một bài viết chúng tôi có đề cập đến một
cô giáo lớn tuổi ở Khoa Nga trường Đại Học Sư Phạm tuyệt thực
mấy ngày chỉ vì vị trưởng khoa đưa vào chương trình học bộ giáo
trình mới của Nga, trong đó có bài nói về Thiên Chúa (!). Bây
giờ không biết còn ai tuyệt thực nữa không, nhưng vẫn có người
phản đối khi biết Quốc ca mới của nước Nga có câu “Хранимая
Богом родная земля!”, “Quê hương yêu dấu của chúng ta được Thiên
Chúa che chở.” Những hành vi ấy là một vài ví dụ trong muôn vàn
cách thế con người nhỏ bé đang muốn vung tay không những hái
trái cấm mà còn muốn nhổ cả mọi cây trái trong Vườn Địa Đàng, và
loại Đấng Tạo Thành ra khỏi khu vườn tình yêu mà Ngài đã tác
tạo.
Các chủ quán trọ Bêlem thuở ấy chỉ nghĩ ra một cách chống Chúa
là xua đuổi người nghèo, và có lẽ họ cũng chưa hẳn là họ cố ý
chống lại Thiên Chúa. Ngày nay người ta chống đối Chúa bằng
nhiều cách, nào là việc bách hại Dân Chúa, nào là kết án tôn
giáo, nào là chửi bới, và có khi họ dùng những cái tưởng như là
cao đẹp. Xây công viên cho dân chúng có nơi vui chơi là đẹp lắm
chứ, nhưng đàng sau công viên ấy có bao giá trị xếp hàng để đòi
chỗ: công lý, sự thật, lòng bao dung. Một trường đại học mới ra
thông báo cấm sinh viên nghỉ lễ Giáng Sinh với lý do “để bảo đảm
cho việc học”. Nếu cụ Phan Châu Trinh còn sống, cụ sẽ lặp lại
“Ôi thời đại chưa khai hoá”. Chua chát thật.
Ngạn ngữ tiếng Anh có câu rất hay “All that glitters is not
gold”, nào có phải cái gì lấp lánh là vàng cả đâu. Câu này nhắc
chúng ta nhớ đến Lucipher, ánh chớp từ Trời sa xuống. Ánh chớp
của Lucipher là loại chớp của sấm sét và giông bão, loại ánh
chớp mà trẻ con nhìn thấy phải ré lên và người lớn thì hoang
mang tìm chỗ tránh. Những ánh chớp ấy không phải là ánh sáng chỉ
đường, nhưng qua mọi thời đại, được con người dùng để chống lại
“nguồn ánh sáng và ơn Cứu độ” của chúng ta (x.Ga 3,14-21).
Mặc dù những nỗ lực của thế gian loại trừ Thiên Chúa ra khỏi
quán trọ trần gian này được các thế lực đen của ma quỉ cổ vũ và
cung cấp khí giới đã thất bại, vẫn còn quá nhiều những chủ quán
trọ Bêlem muốn tiếp tục xua đuổi Chủ nhà khi Người về nhà mình.
Đêm Giáng Sinh là đêm của hồng ân và bình an, nhưng có những con
người không thể nhận được tình yêu huyền diệu ấy, bởi vì họ khoá
cửa nhà lại và xua đuổi Thánh Gia ra khỏi nhà họ. Các phương
tiện truyền thông ai cũng biết là còn nhiều điều phản lại sự
thật, bỗng nhắc về Lễ Giáng Sinh là Lễ của Tình Yêu và Sự Thật,
làm cho người nghe, người xem cảm thấy đàng sau đó có một mục
đích gì khó nhận biết. Ánh chớp đó. Ánh chớp chứ không hề là ánh
sáng.
Điều làm chúng ta thấy an ủi nhiều là dù gặp những ngăn trở mọi
cách, dân Chúa vẫn hy vọng, vẫn hăng say và can đảm sống cho
chân lý. Hãy xem video khai mạc năm thánh ở Sở Kiện, hãy nhìn
các mục tử can đảm, hãy nhìn đoàn dân Chúa hăng say đi tìm Chúa
để hoà vào trong dòng chảy nhiệm mầu ấy.
Khi chúng tôi đang viết những dòng này thì nhận được điện thoại
của Soeur Tống Thị Hường (Dòng CDMVN) từ giáo xứ Thượng Thuỵ Hà
nội gọi vào. Soeur kể về những học viên giáo lý với lời kết luận
rất dễ thương “họ khao khát Chúa lắm”. Ôi thật là niềm vui lớn
cho những ai thao thức với Giáo Hội. Nếu trên Thánh giá, Chúa
Giêsu đã lấy hết hơi sức cuối cùng để kêu lên “Ta khát”, thì khi
dòng Cứu độ đã khai thông, nhiều tâm hồn nhờ ơn huệ Thánh Thần
đến lượt mình cũng khao khát Chúa là Đấng giải thoát họ. Những
nỗ lực loại bỏ Đấng Cứu độ là hành vi cản trở hạnh phúc con
người, không cho con người giảm cơn khát thánh thiêng, và như
vậy, những nỗ lực ấy là hành vi báng bổ chống Thiên Chúa và cũng
là “tội phạm chống lại loài người”.
Trước lễ Giáng Sinh, Cha Lê Quang Uy DCCT có thực hiện một video
clip với tựa đề “Một ngày mưu sinh của người xa quê”. Xem xong
clip ấy, tôi có cảm giác việc “mưu sinh” của những anh chị em ấy
không đơn thuần là việc kiếm tiền sống cho cuộc đời tạm này, mà
là những thao thức và khát vọng tìm kiếm những giá trị cao cả và
vĩnh viễn. Cái đọng lại nơi người xem là điều không nói rõ trong
đoạn video “Cha đã mạc khải cho những người bé mọn nhất”. Những
anh chị em nghèo xa quê ấy tôi có hân hạnh quen biết nhờ Cha Uy,
và nơi họ tôi học được bài học “hãy luôn tìm kiếm Thiên Chúa”.
(x. Mt.6,33).
Giáng Sinh là một mầu nhiệm cao cả và tội lỗi cũng là mầu nhiệm.
Tất cả những gì lố lăng và tàn nhẫn mà thế gian cùng các đồng
minh của nó tạo ra để nhắm bắn vào Mặt Trời công chính sẽ bị
thiêu tàn trong ánh sáng vĩnh cửu. Mừng Lễ Giáng Sinh là mừng
luồng ánh sáng muôn đời đang chiếu giãi vào bóng tối. Chúng ta
tin rằng những nỗ lực của bóng tối rồi cũng sẽ biến tan.
Lạy Mẹ Maria là Đấng đã giúp chúng con đón nhận Đức Kytô giáng
trần, xin Mẹ cho thế gian được thánh hoá nhờ “Vinh quang Thiên
Chúa trên cõi trời”. Amen.
Gioan Lê Quang Vinh |
VỀ MỤC LỤC |
|
LINH MỤC LÀ NGƯỜI
CỦA MỌI NGƯỜI
|
(Bài giảng
Lễ Tạ Ơn Tân linh mục Phêrô Vũ Nhật Trí, tại giáo xứ Thuận
Nghĩa, Giáo phận Phan Thiết)
Trọng kính
Đức Ông, kính thưa cha Quản hạt, quý cha đồng tế, trong tâm tình
của một người anh em trong gia đình linh tông của cha mới Phêrô,
con xin được phép chia sẻ đôi điều với cộng đoàn trong ngày Lễ
Tạ Ơn của ngài hôm nay.
Kính thưa quý
thầy, quý xơ, cùng toàn thể quý ÔBACE . Trong một lớp GLHN, một
bạn trẻ đặt câu hỏi thắc mắc tại sao cũng là một bậc sống, nhưng
các linh mục có được ngày thụ phong tưng bừng và hoành tráng :
nào là Giám Mục, đông đảo các linh mục đồng tế, nam nữ tu sĩ và
nhiều giáo dân cùng tham dự; trong khi đối với những người sống
đời hôn nhân, lễ cưới của họ không được như vậy. Ngay cả việc
đồng tế cũng không được. Nếu họ hỏi quý ÔBACE như thế, ÔBACE trả
lời ra sao ?
Con trả lời
vui với các anh chị ấy rằng sở dĩ Giáo Hội cử hành Lễ Truyền
Chức linh mục, cũng như Lễ Tạ Ơn long trọng như vậy là để dụ các
bạn trẻ đi tu đó các anh anh chị ạ! Thế mà có mấy ai đi tu, có
mấy ai chọn “con đường chẳng mấy ai đi” này đâu.
Tuy nhiên,
thưa quý ÔBACE, nếu nghiêm túc mà trả lời thì việc tổ chức long
trọng lễ truyền chức hay tạ ơn linh mục là có lí do của nó. Giáo
Hội muốn đề cao thánh chức linh mục của Chúa Kitô. Hơn nữa long
trọng đâu phải cho bản thân người tân linh mục đâu, mà chức linh
mục là cho cộng đoàn và vì cộng đoàn. Một khi lãnh nhận chức
thánh, thì linh mục đã là người của Chúa, người của Giáo Hội và
là người của mọi người rồi. Đó cũng là những ý tưởng chính mà
con muốn chia sẻ với cộng đoàn trong ngày Lễ Tạ Ơn hôm nay.
- Trước
hết, linh mục là người của Chúa.
Một khi khước từ hạnh phúc của đời sống hôn nhân gia đình, kể cả
niềm vui thú của tình yêu đôi lứa mà lẽ ra mình được hưởng, để
rồi chấp nhận đời độc thân khiết tịnh vì Nước trời, người linh
mục hoàn toàn thuộc trọn về Chúa cả tâm hồn, cả thân xác và cả
con tim. Điều này hoàn toàn tự nguyện, tự nguyện dâng hiến cuộc
đời cho Chúa với con tim không san sẻ. Thánh Phaolô đã bộc bạch
với giáo đoàn Côrintô rằng : “Nhờ bậc độc thân khiết tịnh,
các linh mục được thánh hiến cho Chúa Kitô với một lý do mới mẻ
và tuyệt hảo, được dễ dàng kết hiệp với Người bằng một trái tim
không chia sẻ” (1Cor 7, 32-34).
Khi công bố
danh sách các thầy chính thức vào Đại Chủng Viện, thường thì có
3 điều làm cho các thầy ngạc nhiên : (1) Có những thầy, mình
nghĩ chưa được vào ĐCV lại có tên trong danh sách. (2) Có những
thầy, mình đoán chắc là được vào ĐCV, nhưng lại không thấy tên
đâu cả. (3) Đây là điều nhạc nhiên lớn nhất : chính mình cũng có
tên trong danh sách ấy. Điều đó cho thấy ơn gọi hoàn toàn đến từ
Thiên Chúa và là hồng ân mà Thiên Chúa ban cách nhưng không, chứ
không phải là do tài năng đức độ, công trạng (đẹp trai con nhà
giàu học giỏi..). Chúa Giêsu đã hơn một lần quả quyết :
“Không phải các con đã chọn Thầy, nhưng chính Thầy đã chọn các
con”. Chính Chúa chọn gọi nên đó cũng là lí do tại sao linh
mục là người thuộc trọn về Chúa.
- Thứ
đến, linh mục còn là người của Giáo hội.
Qua việc
đặt tay, linh mục đã trở thành người của Giáo hội. Nói cách
khác, kể từ ngày chịu chức, linh mục hoàn toàn là người của Giáo
hội. Giáo Hội trở thành mẹ của các ngài. Các ngài sống là sống
cho Giáo hội, làm việc là làm việc cho Giáo hội, ngay cả việc ăn
cũng là ăn vì Giáo hội. Mọi thành công hay thất bại của các ngài
cũng là thành công thất bại của Giáo hội. Mọi vui buồn của các
ngài cũng là vui buồn của Giáo hội…. Và vì là người của Giáo
hội, nên ta không lạ gì khi thấy các ngài được Giáo hội lo lắng
chăm sóc từ A đến Z : từ nơi ăn chốn ở, đến bệnh tật, hưu dưỡng
và cả việc tang chay khi đã qua đời.
- Sau
nữa, linh mục còn là người của mọi người.
Khi được đứng vào hàng ngũ linh
mục, các ngài trở nên họ hàng thiêng liêng rất gần gũi với dân
Chúa khắp nơi. Đi đến đâu, người ta cũng gọi các ngài là cha,
người cha thiêng liêng. Tắt một lời, linh mục là người của mọi
người, chứ không phải của riêng ai, hay của riêng gia đình nào.
Chẳng thế
trong ngày chịu chức linh mục của một người em trai, người chị
gái khuyên : “Em cố gắng trong đời linh mục đừng bao giờ sờ
ai và cũng đừng bao giờ để người khác sờ mình”. Có thể thoạt
nghe, quý ÔBACE cho rằng lời khuyên ngớ ngẩn, nhưng đây là
chuyện nghiêm túc mà người chị này đã chia sẻ với các thầy ở
ĐCV. Xem ra vế đầu thì người em có thể cam kết với chị được; còn
vế sau khó quá, chắc có lẽ người em không dám, vì vế sau
mình đâu chủ động được. Người ta chủ động “tấn công” mình cách
bất ngờ thì sao, có khi là bó tay.com, thậm chí là bó cả
chân.com nữa. Xin được dẫn chứng : một cô gái vào toà giải
tội, thổn thức :
-
Thưa cha, con đau khổ lắm vì đã lỡ
yêu một người.
-
Cha chưa hiểu ý con lắm. Ý con nói
là lỡ yêu một người đã có vợ con rồi ạ ?
-
Không không thưa cha, anh ấy sống
độc thân một mình.
-
Hay là anh ta vũ phu, rượu chè cờ
bạc ?
-
Thưa cha không. Anh ta ta rất hiền
lành, và không hề biết đến rượu chè cờ bạc gì hết.
-
Hay là anh ta đang thất học ?
-
Dạ không. Anh ta có học thức cao,
lại đẹp trai phong độ nữa là khác.
-
Ô la la, vậy là con vớ được vàng 4
số 9 rồi đấy con ạ !
-
Nhưng mà,…nhưng mà thưa cha, bố mẹ
con lại cấm con.
-
Sao lại có chuyện cấm lạ đời như
vậy. Bố mẹ con cấm tào lao rồi đó. Để cha gặp bố mẹ con, cha nói
cho.
-
Nhưng thưa cha, có một điều con
cảm thấy khó nói lắm.
-
Con cứ nói đi, không sao đâu. Ạ
anh ta có ở gần đây không?
-
Dạ anh ấy ở rất gần con, ngay
trong giáo xứ này cha ạ.
-
Vậy thì số con sướng quá rồi còn
gì. Khỏi phải tốn kém việc đi lại, thời buổi xăng cọ lên giá.
Thế anh ta là ai vậy con?
-
Dạ… dạ, thưa cha… thưa cha, anh ấy
là người đang giải tội cho con đấy ạ !
Người ta chủ
động tấn công, linh mục chống đỡ vất vả lắm đấy. Không ai được
phép sở hữu linh mục và linh mục cũng không được quyền chiếm hữu
ai. Linh mục có quyền yêu hết mọi người, nhưng không được giữ
lại riêng ai; được phép bắt tay mọi người nhưng không được phép
giữ lại đôi tay của ai. Chiếm giữ ai hay giữ lại ai là có
chuyện, chuyện to nữa là khác.
Trong một dịp
giao lưu với các bà mẹ Công giáo Sài Gòn tại ĐCV thánh Giuse,
một thầy đặt câu hỏi : “Nếu một ngày nào đó, Toà Thánh cho
các linh mục lấy vợ, các bà mẹ có đồng ý và ủng hộ không ?”
Tất cả đều đồng loạt nhao nhao phản đối. Có bà còn bộc bạch rằng
: “Chúng con thương quý cha quý thầy vì quý cha quý thầy sống
độc thân, không vợ không con. Còn nếu cha nào có vợ thì để cho
vợ ổng thương, chúng con không thương đâu”.
Thế đó, thưa
quý ÔBACE. Nếu sống được căn tính linh mục một cách rốt ráo,
đừng sợ, đừng lo không được mọi người yêu mến. Người ta yêu mến
linh mục vì các ngài là người của Chúa, của Giáo Hội và của mọi
người.
Đáng
thương thay, linh
mục không còn là người của Chúa nữa mà là người của Satan, người
của thần Mamon. Đáng tiếc thay linh mục không còn
là người của Giáo Hội nữa, mà là người của một thể chế chính
trị, hay một giáo phái nào đó. Và đáng buồn thay,
linh mục không còn là người của mọi người nữa, mà là người của
một quý bà, quý cô nào đó. Khi đó, các ngài đã đánh mất căn tính
của mình rồi.
Xin quý ÔBACE
tiếp tục cầu nguyện nhiều và thật nhiều cho các linh mục, vốn là
những con người đầy yếu đuối và bất xứng trước thánh chức cao cả
mà các ngài đã lãnh nhận, như cảm nghiệm của cha Grêgôriô Phan
Thanh Quảng, đan viện Xitô Châu Thuỷ, nhân ngày mừng Kim Khánh
Linh Mục :
Chức Linh
mục, chức siêu phàm :
“Con
là Thượng tế phẩm hàm Sê-đê”.
Chức Linh mục
Chúa truyền cho.
Đựng trong
bình gốm, con người mỏng manh.
Có lẽ cũng vì
cảm nghiệm được sự yếu đuối và giới hạn của phận người, nên cha
mới của chúng ta đây mới chọn khẩu hiệu cho đời linh mục của
mình : “Không có Thầy các con không làm được việc gì”,
không làm được việc gì cho ra hồn. Vậy xin quý ÔBACE hãy cầu cho
các tân linh mục được luôn trung thành đi theo Chúa,
nhiệt thành phụng sự Giáo Hội và chân thành phục vụ
mọi người trong tình yêu thương.
Thỉnh thoảng,
chúng con vẫn được nghe đó đây rằng : “Ông cha nọ, ông cha
kia khi còn làm thầy thì dễ thương ơi là dể thương, nhưng khi
làm cha rồi thì sao mà khó ưa vô cùng! Thấy mà ghét…”. Cha
mới của chúng ta đây, khi đang làm thầy đi giúp xứ, đâu đâu cũng
được tiếng là dễ thương. Vậy chúng ta hãy cầu chúc cho ngài luôn
giữ được tiếng thơm đó mãi. Dễ thương không chỉ đối với Chúa,
đối với Giáo hội, mà còn đối với tất cả mọi người. Amen.
Lm. Giuse Nguyễn
Thành Long |
VỀ MỤC LỤC |
|
Đám cưới nhỏ bên hang
đá nghèo |
Cũng đã khá lâu không có dịp trở lại với mái ấm nghèo ngụ tại
mảnh “đất thép thành đồng”. Hôm nay, trở lại đây không phải do
lời mời của vị phụ trách mà từ phía những học trò nghèo. Chuyện
là sau một thời gian dài cầu nguyện và suy nghĩ, hai học trò
nghèo ngày xưa đi đến quyết định cử hành bí tích Hôn phối. Bí
tích hôn phối lại được chọn cử hành vào cái ngày áp lễ Chúa
Giáng Sinh.
Vừa qua đoạn đường dài đầy bụi bặm cộng chút sương mù của chút
chút gì đó gọi là mùa đông nên dừng chân một chút. Trong lúc
nghỉ ngơi chợt nhớ đến người anh em ngày xưa cùng đồng hành bao
năm tháng nơi mái ấm nghèo này. Chú rể ngày hôm nay cũng là học
trò nghèo của người anh em ngày xưa cùng công việc mục vụ. Gọi
để báo tin vui cho thầy biết hôm nay trò cũ lên “xe bông”.
Dẫu đoạn đường khá dài từ Bắc Sài về Nam Sài khá mệt nhưng hình
ảnh của những người bị bỏ rơi đã làm vơi đi những mệt nhọc của
phận người. Con đường quá quen thuộc này làm nhớ lại ngày dầm
mưa dãi nắng để gắn kết với mái ấm này. Hình ảnh của những người
nghèo đang sống lại trong tâm trí của hai anh em. Chẳng hiểu sao
hai anh em lại được phục vụ ở mái ấm nghèo trên vùng đất “cày
lên sỏi đá” đây.
Vừa đến mái ấm cũng là lúc bài ca nhập Lễ được ca lên : “Ngày
hôm nao tiếng hát bay cao, quỳ bên nhau trước Đấng Tối Cao, hứa
yêu nhau trao câu thề chung sống trọn đời …”.
Cũng hay đấy chứ ! Giữa một cõi mà người ta thường chứng kiến
cái chết, sự ra đi, sự buồn bã ấy vậy mà hôm nay lại có một đám
cưới, có một niềm vui. Đám cưới, niềm vui ấy lại là niềm vui của
đôi vợ chồng nghèo đang mang trong mình căn bệnh hiểm ác lại
càng có ý nghĩa hơn.
Anh Lui và chị Anna sau những năm tháng trôi dạt theo dòng đời
đã được về với mái ấm. Hai người chẳng hề biết nhau và cũng chưa
bao giờ biết Chúa. Vào mái ấm này, kín múc được dòng chảy tình
yêu, sự chăm sóc của các nữ tu nên tình Chúa và tình người chẳng
biết thấm nhập vào đôi bạn tự lúc nào.
Từ ngày vào mái ấm này cho đến ngày hôm nay tính ra cũng non kém
5 năm trời. 5 năm trời tìm hiểu Chúa và tìm hiểu nhau cũng chưa
gọi là bao nhưng đáng là bao so với cái xu thế xã hội thời nay
là “yêu cuồng - cưới vội”. Và cũng nên nói rằng đôi bạn can đảm
tín thác vào tình thương của Chúa để dẫn nhau đến trước bàn thờ
Chúa xin Chúa chúc phúc và thánh hoá cho tình yêu của đôi bạn
trong khi không ít người cứ vô tư chung đụng với nhau.
Tình Chúa và tình người cứ hoà quyện vào nhau để rồi hôm nay lại
có một Thánh lễ hôn phối được cử hành ngoại lệ. Không những
ngoại lệ mà còn hết sức đặc biệt ở cái mái ấm này vì lẽ từ xưa
đến nay ở đây chỉ cử hành “đám chết” chứ chưa bao giờ có cử hành
“đám cưới”.
Đám cưới này phải nói là hết sức, hết sức đặc biệt vì đây là đám
cưới giữa hai con người tạm gọi là bị đẩy ra ngoài lề của xã
hội. Thường thì những người nghèo, những người bị bỏ rơi chẳng
ai ngó ngàng đến nhưng ở mái ấm này người nghèo được trân trọng,
người nghèo được các nữ tu lo cho cả đến cái việc “dựng vợ gả
chồng”.
Đám cưới nghèo này một lần nữa minh chứng rằng : Tình Yêu vượt
thắng sự chết ! Cũng vì yêu, Giêsu đã chịu chết trên cây thập
giá. Cũng vì yêu, đôi vợ chồng trẻ này đã cố gắng để đến với
nhau dẫu cái chết cũng gần kề.
Sau đám cưới nghèo thì cũng có tiệc cưới như ai ! Tiệc cưới hôm
nay vỏn vẹn với vài ba chiếc bánh mì kẹp chả cộng với tách cà
phê pha vội mà thôi ! Những chiếc bánh mì, những ly cà phê hôm
nay nhỏ bé thật nhưng chắc có lẽ chúng hạnh phúc hơn vì đã được
hân hạnh phục vụ cho những người nghèo, những người bị bỏ rơi.
Nhìn đến đôi bạn, tôi chợt nhớ đến lời kinh của Mẹ Maria thuở
nào : “Linh hồn tôi hớn hở vui mừng trong Chúa. Ngài đã thương
đến phận hèn tôi tớ !
Vâng ! Thiên Chúa luôn luôn thương người nghèo và đặc biệt những
người bị bỏ rơi. Tình thương ấy được diễn tả qua sự hiện diện
của 4 hội dòng cùng với nhiều và nhiều con người nghèo trong mái
ấm này.
Đám cưới của đôi học trò nghèo bên hang đá nghèo hôm nay sao mà
thấy thương quá !
Giữa chốn tuyệt vọng vẫn còn đó một chút của tình người.
Tan lễ, vị phụ trách ghé vào tai nói nhỏ “cha kiếm chút gì cho
hai đứa sinh sống với !”.
Phải chăng đó là điều bận tâm của con người, còn với Chúa, ngày
hôm nay có được như vậy quả là ngoài sức tưởng tượng của đôi
bên. Chú rể và cô dâu đã được Chúa cưu mang suốt chặng đường dài
đối chọi với những đau đớn bệnh tật của kiếp người lẽ nào Ngài
lại bỏ họ khi họ mang tính yêu của họ gửi gắm vào lòng bàn tay
của Chúa mà sao sơ phải lo ?
Vẫn tin rằng Thiên Chúa luôn luôn thương người nghèo để rồi Chúa
sẽ có cách với cái gia đình nhỏ bé mới nảy sinh ngày hôm nay. Vả
lại, chắc gì ở cái cuộc đời này giàu là hạnh phúc. Nếu chỉ nhắm
đến tiền tài, danh vọng và địa vị thì ngày hôm nay chẳng có cái
đám cưới này. Đôi bạn ngày hôm nay cũng thừa biết mình là nghèo.
Họ có thể nghèo tiền nghèo bạc nhưng không bao giờ nghèo tình
nghèo nghĩa. Điều ấy đã được chứng minh trong Thánh Lễ sáng nay
hết sức đơn sơ nhưng cũng quá sức long trọng.
Thiên Chúa khác người đời, Thiên Chúa vẫn luôn gìn giữ, luôn
chúc phúc cho những tâm hồn nghèo khó, những con người bơ vơ tất
bạt.
Chuyện quan trọng trước mặt Chúa vẫn là chuyện sống yêu thương
hạnh phúc chứ chẳng phải là chuyện giàu, chuyện nghèo.
Giáng sinh năm nay, Hài Nhi Giêsu lại có thêm một niềm vui nho
nhỏ : một đám cưới nhỏ bên hang đá nghèo. Hai vợ chồng nghèo hôm
nay cũng có niềm vui tương tự : một hang đá nhỏ cạnh đám cưới
nghèo.
Dự đám cưới nghèo này, lại một lần nữa mình học được bài học
nghèo. Nghèo : nhưng hồn vẫn an và xác vẫn vui. Bài học nghèo
này tuy nhỏ nhưng giá trị của nó hết sức lớn giữa cuộc đời mà
người ta cứ loay hoay mãi để đi tìm vật chất và danh vọng.
Lm. Anmai DCCT |
VỀ MỤC LỤC |
|
SUY NIỆM MÙA VỌNG GIÁNG
SINH |
Bác sĩ Nguyễn Tiến Cảnh, MD
Lễ Giáng Sinh sắp
tới, mọi người nói về Chúa hài đồng và Mẹ Maria nơi máng cỏ ở
Bethlehem. Đó là nhắc lại một lịch sử và khởi điểm ơn cứu độ
loài người của Chúa Kitô.
Để đào sâu ý nghĩa
Đức Mẹ cưu mang Chúa Giêsu và hạ sinh ra Người làm đấng cứu
chuộc nhân loại, chúng ta thử tìm hiểu Chúa Giêsu Kito là ai với
màu nhiệm nhập thể của Chúa qua hai thánh Phaolo và Gioan.
Mùa Vọng là mùa
chúng ta sửa soạn tâm hồn để đón nhận Chúa Cứu Thế đến với chúng
ta.. Mọi người quyết noi gương Đức mẹ và Chúa Giêsu, sống làm
sao để ơn phúc và gương đức của các ngài được chiếu sáng lan tỏa
trong mọi môi trường, nơi những người anh em huynh đệ và tất cả
mọi người, nhất là những người không phải là Kitô hữu.
CHÚA GIÊSU KITÔ LÀ AI?
MÀU NHIỆM NHẬP THỂ THEO THÁNH PHAOLO VÀ GIOAN
Chúng ta thử đọc
đoạn thư thánh Phaolo gửi tín hữu Galát: “…Khi
nghĩa tử (người thừa kế) chưa đến tuổi thì nó không khác gì một
tên nô lệ, mặc dù nó vẫn làm chủ tất cả mọi của cải, nhưng ở
dưới sự coi sóc của người giám hộ và viên quản lý cho đến khi đủ
tuổi do người cha định đoạt. Chúng ta cũng vậy, khi chúng ta còn
vị thành niên, chúng ta bị nô lệ bởi những yếu tố quyền lực của
vũ trụ. Nhưng khi thời gian đến hồi viên mãn, Thiên Chúa sai Con
mình đến, sinh ra bởi một người đàn bà và sống dưới lề luật, để
chuộc những ai sống dưới lề luật, hầu chúng ta có thể được ơn
nhận làm nghĩa tử. Để chứng thực anh em là con cái, Thiên Chúa
đã sai Thần Khí của con mình đến ngự trong lòng anh em mà kêu
lên “Áp-ba, Cha ơi!”. Thế là anh em không còn là nô lệ nữa,
nhưng là con. Và đã là con thì cũng là người thừa kế nhờ Thiên
Chúa” (Galatians 4: 4-7)
Đoạn văn trên có ý
nghĩa gì?
Chúng ta thường
nghe đoạn thánh thư này trong Mùa Giáng sinh, khi bắt đầu sắp
sửa long trọng mừng Chúa ra đời. Cứ theo mạch văn, thì đây là
lúc chúng ta tiến đến gần nhất tư tưởng hằng hữu / hiện hữu từ
trước (preexistence) và nhập thể (incarnation) của Thiên Chúa. Ý
nghĩa tiếng “sai đến” (Thiên Chúa sai con mình
đến), được đặt song song tương ứng với tiếng “sai Thần
Khí của con mình đến” ở câu kế tiếp. Trong Cựu ước sách Khôn
Ngoan ta cũng thấy một điệp khúc tương đồng như vậy: “Thiên
Chúa sai đấng Khôn Ngoan và Thánh Thần đến thế gian” (Wisdom 9:
10,17). Sự phối hợp liên hoàn này giữa cựu ước và tân ước
cho ta thấy tiếng “sai đến” có ý nghĩa không phải từ
“dưới đất” như trường hợp sai các tiên tri, mà là từ “trên trời”
xuống…
Tư tưởng về Chúa
Kito hằng hữu, theo mạch văn trong thư thánh Phaolo thì
Chúa Kito là đấng tạo dựng nên trời đất. “…nhưng đối với
chúng ta, chỉ có một Thiên Chúa là Cha, đấng tạo thành vạn vật
và là cùng đích của chúng ta; và cũng chỉ có một Chúa là Đức
Giêsu Kitô, nhờ Người mà vạn vật được tạo thành, và nhờ Người mà
chúng ta được hiện hữu”(1Corinthians 8:6) hoặc: “..Thánh
Tử là hình ảnh Thiên Chúa vô hình, là trưởng tử sinh ra trước
mọi loài thụ tạo, vì trong Người muôn vật được tạo thành trên
trời cùng dưới đất, hữu hình với vô hình. Dầu là hàng dũng lực
thần tiên hay là bậc quyền năng thượng giới, tất cả đều do Thiên
Chúa tạo dựng nhờ Người và cho Người” (Colossians
1:15-16) Và khi thánh Phaolo nói rằng “tảng đá đi theo dân
trong sa mạc thì ngài có ý nói tảng đá là Chúa Kito: “ …tất
cả cùng uống một thức uống linh thiêng, vì họ uống nước chảy ra
từ tảng đá linh thiêng ấy vẫn đi theo họ. Tảng đá ấy chính là
Đức Kitô” (1Corinthians 10:4). Còn về màu nhiệm nhập
thể thì được nêu lên trong bài thánh thư gửi tín hữu Philiphê. “Đức
Gêsu Kitô, vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ nhất thiết phải
duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn
trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ trở nên giống
phàm nhân, sống như người trần thế” (Philippians 2: 6-7).
Bản văn thì viết
như vậy, nhưng chúng ta cũng nhận thấy rằng theo thánh Phaolo,
tính hằng hữu và màu nhiệm nhập thể là một sự thật, nhưng vẫn
còn đang được cưu mang, chưa hoàn toàn hiện hình. Lý do: Đối với
thánh Phaolo, điểm quan trọng và là khởi điểm của hết mọi sự là
màu nhiệm Chúa Phục Sinh; nghĩa là thánh Phaolo coi việc
làm / hành động của đấng cứu thế hơn là con người đấng cứu thế.
Ngược lại với thánh Phaolo, thánh Gioan lấy khởi điểm và trọng
tâm của vấn đề là tính hằng hữu và nhập thể của con Thiên
Chúa.
Như vậy rõ ràng
chúng ta thấy có hai cách để khám phá ra Chúa Giêsu Kito là ai.
Một đằng theo thánh Phaolo, ngài bắt đầu từ loài người vươn tới
Thiên Chúa, nghĩa là từ thân xác thực đi đến thần linh Chúa, từ
Chúa Kitô lịch sử đi tới sự hằng hữu của Người. Đằng khác, cách
của thánh Gioan thì ngược lại, khởi đầu từ “Ngôi Lời” Thiên Chúa
đi tới xác định bản tính người của Ngài, nghĩa là từ tính hằng
hữu (tức Thiên Chúa) đi tới sự hiện hữu của con người Thiên Chúa
trong không gian và thời gian, tức Chúa Kitô lịch sử.
Thánh Phaolo chứng
minh Chúa Kito bằng sự Chúa Phục Sinh khải hoàn qua hai giai
đoạn. Thánh Gioan nhìn Chúa Kito qua màu nhiệm nhập thể.
Hai phương cách này
cuối cùng đã làm nảy sinh ra hai trường phái Kito học. Phái
Antiochene ảnh hưởng bởi thánh Phaolo và phái Alexandria ảnh
hưởng bởi thánh Gioan. Nhưng không có phái nào đứng trung dung ở
giữa. Trái lại mỗi phái đều dùng luận lý của cả hai thánh Phaolo
và Gioan. Điều này chứng tỏ là họ đã chịu ảnh hưởng của cả hai
thánh nhân, giống như hai giòng sông phối hợp với nhau thành một
để rồi không còn có thể phân biệt, xác định được nước của giòng
sông nào nữa.
Sự khác biệt này
đáng cho chúng ta suy nghĩ, chẳng hạn như hai phái đã cắt nghĩa
khác nhau về sự hạ mình làm người của Chúa Giêsu ở đoạn 2: 6-9
của thư thánh Phaolo gửi tín hữu Philippians. Từ thế kỷ I và II,
và ngay cả hiện nay, hai cách trình bày và đọc sách thánh khác
nhau đó vẫn có thể được chấp nhận. Theo phái Alexandria, đề mục
khởi đầu của bài ca thánh thư là Con Thiên Chúa hằng hữu hiện
diện dưới hình thức Thiên Chúa. Nghĩa là sự hạ mình xuống
thế làm người của Chúa bao hàm trong màu nhiệm nhập thể
để trở thành phàm nhân. Theo phái Antiochene, đề mục duy
nhất của bài thánh ca, từ đầu cho đến cuối, là Chúa Kito lịch
sử, Giêsu thành Nazareth. Nghĩa là Chúa tự hạ mình xuống thế
làm người để trở thành nô lệ và tự mình chịu khổ hình và chịu
chết.
Thực ra sự khác
biệt giữa hai trường phái không phải ở chỗ phái này theo thánh
Phaolo, phái kia theo thánh Gioan, mà là nhóm này cắt nghĩa ý
tưởng của thánh Gioan theo cách suy tư của thánh Phaolo, nhóm
kia cắt nghĩa tư tưởng của thánh Phaolo theo suy nghĩ của thánh
Gioan.. Có chăng sự khác biệt giữa hai phái là họ đã dùng những
chi tiết và cấu trúc luận lý khác nhau để làm sáng tỏ màu nhiệm
Chúa Kito. Chúng ta có thể nói rằng những nét chính về tín điều
của Giáo Hội cũng như khoa thần học đã được tạo thành từ những
tranh luận của hai trường phái này mà cho đến nay vẫn còn ảnh
hưởng.
ĐƯỢC SINH RA BỞI MỘT NGƯỜI ĐÀN BÀ TUYỆT VỜI.
Dù sao thì cả hai
thánh Phaolo và Gioan đều công nhận màu nhiệm nhập thể của Chúa
Kitô. Nhưng thánh Phaolo rất ít nói tới màu nhiệm nhập thể, còn
về Đức Maria, Mẹ Ngôi Lời nhập thể, thì ngài lại hoàn toàn im
lặng. Nhưng khi ngài nói “con người kiệt tác được sinh ra bởi
một người đàn bà (factus sub muliere) thì rõ ràng người đàn bà
đó là Đức Maria. Cũng như trong thư gửi dân Roma, cùng tư tưởng
đó nhưng đựoc diễn tả một cách khác: “….Xét như một người
phàm, Đức Giêsu Kitô xuất thân từ dòng dõi vua David” (Romans 1:
3).
Tuy ngắn gọn
như vậy, nhưng cách tuyên xưng của thánh Phaolo rất quan trọng.
Nó là một trong những đề mục nòng cốt của cuộc tranh luận chống
lại nguyên tắc ngộ đạo của thuyết vô nhân tính
về Đức Kito từ thế kỷ II. Thực ra, chúa Giêsu không phải từ
thiên đàng hiện xuống; mà Chúa được sinh ra bởi một người đàn
bà. Chúa hoàn toàn mặc lấy xác của một con người lịch sử.“giống
như mọi người phàm nhân” (Philippians 2: 7).
Về vấn đề
này, Terbullian đã đặt vấn đề: “ Tại sao chúng ta nói rằng Chúa
Kitô là người, nếu không phải vì Chúa sinh ra bởi bà Maria là
con người thụ tạo?”.
Một tư tưởng nữa là vì “Chúa Kitô sinh ra do một người đàn
bà”. Cách nói này diễn tả nhân tính của Chúa Kitô hay
hơn là cách nói “Ngài là con của một người đàn ông”.
Nếu hiểu theo nghĩa đen câu nói này thì Chúa Giêsu đâu phải là
con một người đàn ông, bởi lẽ không có người đàn ông nào là cha
Ngài cả, mà Ngài thực sự là “con một người đàn bà”.
Bài thánh thư
Phaolo gửi tín hữu Galat cũng là trung tâm điểm của cuộc bàn cãi
về tước hiệu Đức Maria là “Mẹ Thiên Chúa” trong các cuộc tranh
luận sau này liên quan đến Kitô học. Vì lý do đó mà thư thánh
Phaolo gửi tín hữu Galat được chọn làm bài đọc II trong lễ kính
Đức trinh Nữ Maria, Mẹ Thiên Chúa vào ngày 1 tháng giêng hàng
năm.
Còn một chi tiết
nữa chúng ta cần phải để ý. Giả sử thánh Phaolo nói: “Chúa Giêsu
sinh ra ‘do bà Maria’” thì cách nói này chỉ đơn giản nhắc
đến một sử liệu có tính tiểu sử. Nhưng thánh Phaolo đã nói: “Đức
Kitô sinh ra do ‘một người đàn bà’” thì tiếng “người đàn
bà” có một nghĩa rất rộng và phổ quát. Và người đàn bà này hay
bất cứ người đàn bà nào đã được nâng lên địa vị cao vời tột đỉnh
của Đức Maria rồi. Chính Maria này là một người đàn bà tuyệt
vời.
ĐỨC MARIA CÓ Ý NGHĨA GÌ ĐỐI VỚI CHÚNG TA?
Đọc bài thánh thư
của thánh Phaolo khi Giáng Sinh gần kề, chúng ta không thể chỉ
để ý đến những lời chú thích nói về những sự kiện, nhưng phải
cẩn trọng suy niệm nghiêm túc ý nghĩa thần học chất chứa trong
đó hầu rút ra một bài học làm kim chỉ nam cho đời sống thiêng
liêng của chúng ta, làm sao để Lời Chúa được chiếu tỏa và sống
động nơi mỗi người chúng ta.
Lời Origen
nói, cũng được thánh Augustin, thánh Bernard, thày dòng Luther
và nhiều người khác nhắc tới rất đáng cho ta để ý: “Tôi nghĩ
gì khi mà Chúa Kito lại một lần nữa được sinh ra ở Bethlehem bởi
bà Maria nhưng niềm tin lại không được phát sinh ra trong tâm
hồn tôi?”
.
Đức Maria Mẹ Thiên
Chúa được thể hiện dưới hai thình thức: thể chất và tinh thần.
Ngài là Mẹ Thiên Chúa không phải chỉ vì đã cưu mang Chúa trong
bụng 9 tháng 10 ngày mà trước tiên còn vì Mẹ đã chấp nhận ấp ủ
Chúa trong trái tim mẹ với một niềm tin sắt son. Khi sứ thần
Chúa đến với Đức Maria và báo tin bà sẽ mang thai và sinh một
con trai tên là Giêsu, là đấng Cao Cả, là Thiên Chúa thì bà rất
bối rối vì bà không hề biết đến việc vợ chồng. Nhưng khi nghe sứ
thần xác định là quyền năng đấng tối cao, Thánh Thần Chúa sẽ ngự
xuống trên bà. thì Maria hoàn toàn tin tưởng và trả lời:“XinVâng”(Luke1:28-38).
Hai tiếng Xin Vâng chứng tỏ một Niềm Tin tuyệt đối của Mẹ Maria
nơi Thiên Chúa. Dĩ nhiên chúng ta không thể bắt chước Đức Mẹ tái
sinh ra Chúa lần nữa, nhưng ta có thể noi theo niềm tin sắt son
đó của Đức Mẹ.
Chúa Giêsu đã là
người đầu tiên đặt cho Giáo Hội tước hiệu là “Mẹ Chúa Kitô” khi
Ngài nói: “Mẹ ta, anh em ta chính là những người biết nghe
lời Thiên Chúa và đem ra thực hành”. (Luke 8: 21; Mark 3:
35; Matthew 12: 50). Theo truyền thống, thực tế này đã được áp
dụng theo hai phương cách: mục vụ và tu đức. Trong tinh thần mục
vụ, chúng ta thấy Giáo Hội đã áp dụng tình Mẫu tử của mình bằng
cách ban phép “bí tích phổ quát của ơn cứu độ” thật
nhiều, càng nhiều càng tốt.. Vế tu đức thì tất cả mọi người,
từng mỗi cá nhân, mỗi tâm hồn hay những ai thành tâm tin cậy nơi
Chúa đều có lòng sốt sáng được Chúa yêu thương che chở.
Thánh Isaac
of Stella, một nhà thần học thời Trung Cổ đã làm một tổng hợp
tất cả những yếu tố đó trong một bài giảng huấn nổi danh. Ngài
viết: “ Đức Maria và Giáo Hội là một người Mẹ hơn một người
mẹ, là một Trinh Nữ hơn một trinh nữ….Do đó những điều được nói
trong Kinh Thánh, những điều được nói về Giáo Hội phổ quát, về
đức Trinh Nữ, về Thánh Mẫu thì cũng được nói về chính cá nhân
Đức Maria. Và những điều đặc biệt nói về Đức Maria thì phải hiểu
một cách tổng quát là “Đức Nữ Đồng Trinh Mẹ Giáo Hội”…..Cuối
cùng, tất cả những ai có lòng tin nơi Chúa đều là bạn trăm năm
của Lời Chúa, là mẹ, là ái nữ và chị em của Chúa Kitô. Tất cả
những tâm hồn, những ai tin tưởng nơi Chúa, hiểu theo đúng nghĩa
của nó, đều là trinh nữ và đầy ẩn sủng.”
Công đồng
Vatican II trong viễn kiến đầu tiên đã nói: “Giáo Hội….chính
mình đã trở thành hiền mẫu. Nhờ việc rao giảng và ban phép bí
tích thánh tẩy, Giáo Hội đã mang lại một đời sống mới bất tử cho
con cái mình là kẻ được cưu mang bởi Chúa Thánh Thần và được
Chúa sinh ra”
.
Để áp dụng
cho từng cá nhân, thánh Ambrose đã viết: “Những ai tin vào
Chúa thì sẽ cưu mang lời Chúa trong lòng và phát khởi, truyền bá
ra ngoài trong cuộc sống hàng ngày….Nếu chỉ có một người là Mẹ
Chúa Kitô theo nghĩa xác thịt thì tất cả mọi người, theo nghĩa
đức tin, có thể phát sinh ra Chúa Kito khi mà họ chấp nhận lời
Chúa hằng sống”
.
Một Giáo
Phụ Đông phương đã lặp lại ý lời thánh Ambrose như sau: “ Đức
Kitô luôn luôn được sinh ra trong tâm hồn mỗi người một cách
nhiệm màu, mặc lấy xác thịt của những ai được cứu rỗi và trở
thành mẹ đồng trinh, đấng đã sinh ra Chúa Kito”.
Muốn trở thành Mẹ
Chúa Giêsu một cách cụ thể thì chúng ta phải làm gì? Hãy đọc lại
Tin Mừng thánh Luca:…Lắng nghe Lời Chúa và thực hành Lời
Chúa (Luke 8:21; Mark 3:35; Matthew 12: 50). Để tìm
hiểu ý nghĩa lời thánh kinh đó, chúng ta thử nghiệm xem Đức
Maria trở thành Mẹ Thiên Chúa như thế nào. Mẹ cưu mang Chúa
trong lòng và sinh ra Chúa. Qua đó, chúng ta thấy hai dữ kiện
cần để ý: Lời sách Isaiah “Đúng như lời Chúa phán, trinh nữ
sẽ thụ thai và sẽ sinh hạ một con trai”, và
lời thiên thần Gabriel nói cùng Maria: “Ngươi sẽ thụ thai
và sinh con trai đầu lòng”.
Để có tước hiệu mẹ,
người đàn bà phải mang thai và sinh hạ hài nhi. Không hoàn chỉnh
hai giai đoạn đó, tư cách hiền mẫu bị gián đoạn hoặc bất toàn.
Chúng ta thử tưởng tượng khi người đàn bà mang thai, nhưng vì
một lý do nào đó thai bị hư (miscarriage) hoặc vì tội lỗi xui
khiến không muốn sinh con nên phá hủy thai (abortion). Đứa trẻ
chết không được diễm phúc chào đời.
Hai hiện tượng thai
hư đó đã làm cho tước hiệu Hiền Mẫu của người đàn bà có thai trở
nên bất toàn. Nhưng từ khi có kỹ thuật thụ thai nhân tạo lại
nảy ra một loại hiền mẫu đối ngược với loại hiền mẫu bất toàn
trên là người đàn bà có sinh hạ ra hài nhi nhưng không thụ thai.
Đó là những hài nhi được thụ thai trong ống nơi phòng thí nghiệm
rồi đem cấy vào tử cung người đàn bà được thuê mướn. Những đứa
con này sinh ra không phải do máu mủ của họ, vì họ không thụ
thai, không do trái tim, lòng ao ước của họ và thân xác họ.
Hai loại hiền mẫu
bất toàn này chúng ta cũng thấy xuất hiện trong đời sống thiêng
liêng. Những người nghe lời Chúa nhưng không thực hành. Những
người có đời sống tâm linh bị hư hoại nhiều lần; họ toan tính
hoàn lương trở lại đường ngay chính nhưng chỉ được nửa đường lại
gẫy gánh. Họ cưu mang Chúa nhưng không sinh hạ ra Chúa. Họ là
những kẻ chỉ đọc lời Chúa nơi cửa miệng nhưng tâm hồn rỗng
tuếch, như thoáng coi hình họ trong gương rồi ra đi mà không để
ý coi mặt mũi họ thế nào.(James 1:23). Tóm lại họ có đức tin
nhưng là đức tin chết.
Nhưng trái lại, ta
thấy có những người sinh hạ ra Chúa Kito nhưng lại không cưu
mang Người. Họ sinh hoạt, làm việc đạo rất hăng say, cả những
việc tốt lành nhưng không do từ tâm, không vì tình yêu Chúa và ý
ngay lành mà chỉ vì thói quen, giả hình nhân đức, với mục đích
biểu diễn phô trương vì lợi ích riêng tư cá nhân mình…hoặc đơn
giản chỉ để thỏa mãn tự ái mà thôi. Tóm lại, họ là những kẻ hành
động nhưng không có niềm tin.
Thánh Francis
thành Assisi đã tóm lược ý nghĩa của hiền mẫu thực một cách tích
cực như sau: “Chúng ta là mẹ Chúa Kitô –ngài nói- khi chúng
ta ôm ấp Người ở trong tâm, trong lòng chúng ta, nơi thân xác
chúng ta bằng một tình yêu Chúa với một lương tâm trong sáng và
chân thành. Chúng ta phát sinh, biểu hiện ra Chúa qua những hành
động thánh khả dĩ có thể chiếu tỏa, soi sáng làm gương cho mọi
người chung quanh chúng ta…. Thánh đức và êm đềm, khiêm tốn, an
bình, dễ thương và mong ước thay khi chúng ta có một người anh
em huynh đệ, một người con như vậy là Đức Giêsu Kito”
.
Thánh nhân cũng nói cho chúng ta biết là khi chúng ta cưu mang
Chúa Kitô là khi chúng ta yêu thương Người với tất cả chân tình
và lương tâm ngay chính. Chúng ta sinh ra Chúa Kitô khi chúng ta
chu toàn những hành vi thánh khiến Chúa được chiếu tỏa ra muôn
nơi cho muôn dân. Khi người ngoài nhìn vào ta là nhìn thấy
chính Chúa Kitô trong ta.
ĐÔI LỜI KẾT: “XIN VÂNG, FIAT, AMEN”
Mẹ Maria đã cho
chúng ta một tấm gương sáng ngời. Mẹ thụ thai / cưu mang Chúa và
sinh hạ ra Chúa cho chúng ta trong ngày Giáng Sinh. Mẹ thực sự
là Hiền Mẫu toàn vẹn. Mẹ là Mẹ Thiên Chúa. Hai tiếng “Xin
Vâng / Fiat / Amen” đã gói gém đầy đủ ý nghĩa. Mẹ đã
thực sự thụ thai Chúa trong bụng và trong trái tim. Rồi 9 tháng
10 ngày sau, Mẹ đã hạ sinh ra Chúa Giêsu tai Bethlehem nơi máng
cỏ. Ngay từ giờ phút đó ơn cứu độ của Chúa ban cho loài người,
mỗi người chúng ta đã bắt đầu và hoàn chỉnh khi Chúa chịu chết,
phục sinh và lên trời.
Nhưng Chúa đòi hỏi
có sự cộng tác của mỗi cá nhân chúng ta thì ơn cứu độ đó mới
hoàn chỉnh đối với bản thân chúng ta. Chúng ta phải chấp nhận
lời Chúa và thực thi lời Chúa để ơn cứu độ Chúa được vẹn toàn.
Thánh Phaolo nói:
“….Thiên Chúa yêu thương những ai vui vẻ dâng hiến”
(2Corinthians 9: 7). Mẹ Maria trả lời Chúa “Xin Vâng” với tâm
hồn vui mừng hớn hở. Chúng ta hãy cầu xin Mẹ ban ơn phúc cho
chúng ta để nói một cách vui vẻ lời hứa Xin Vâng với Chúa để
canh tân đời sống, cưu mang và hạ sinh Chúa Giêsu Kito trong mùa
Giáng Sinh này và mãi mãi trong cuộc đời chúng ta.
Fleming Island,
Florida 20 Dec. 2009
NTC
|
VỀ MỤC LỤC |
|
LÀM SAO CHỌN
NGƯỜI YÊU MÀ KHÔNG SỢ CHỌN LẦM? (2) |
CÓ PHẢI LÝ
TRÍ LÀ NỀN TẢNG CHO SỰ LỰA CHỌN KHÔNG?
Lý trí đóng vai trò gì trong
việc chọn lựa một người phối ngẫu? Vì cảm giác của chúng ta
không bảo đảm đúng hướng, người ta có khuynh hướng thích cho lý
trí làm căn bản cho hôn nhân. Tuy nhiên, lý trí không thể dùng
nếu không được nâng đỡ bỡi cảm tính. Nếu sự chọn lựa đặt trên
nền tảng những khuynh hướng xã hội và cộng tác, cảm tính sẽ theo
sau. Cảm tính như thế sẽ không phải là trận bão có sức thuyết
phục như một đam mê thu phục lương tri và mọi cản trở. Những cảm
tính phù hợp với lý trí chúng ta thì thuộc một loại khác. Tình
cảm âm thầm và sự yêu thích sâu xa xem ra là nền tảng đáng tin
cậy hơn là sự cuồng nhiệt mảnh liệt. Nhưng nếu lý trí không được
nâng đỡ bỡi một cảm giác nào thì không thể có lý vì nếu tính
toán quá thì sẽ loại bỏ cá nhân con người. Người bạn được chọn
chỉ bỡi lý trí mà không chút tình cảm, chứng tỏ chính mình không
thích hợp. Nó được chọn cho một khoảng cách. Một hôn nhân như
thế tạo nên nhiều khoảng cách, không sản xuất sự gần gũi thân
mật. Tuy nhiên khoảng cách về tinh thần và tình cảm được dùng
như một phản ứng đề phòng, bỡi người bạn có lý trí có thể được
quên lãng trong giòng hôn nhân nếu người bạn thông minh, thành
công trong việc phát triển sự tin tưởng và can đảm.
Loại đoàn tụ theo lý trí nầy
là luật trong xã hội ngày xưa khi kết hôn được thiết lập bỡi cha
mẹ có địa vị thường được đặt nền tảng trên sự dễ dàng hứa hẹn.
Trong nhiều thế kỷ, tình yêu không có trước hôn nhân và chỉ phát
triển sau đám cưới. Trong kỷ nguyên chúng ta, một người đi đến
hôn nhân với thái độ tính toán lạnh lùng thì thường phải chờ dịp
thình lình bỗng si mê một người nào.
Không thể nói tình cảm hoặc
lý trí, cái nào là nền tảng đáng tin cậy hơn cho hôn nhân hạnh
phúc của mỗi người mà không có cái kia. Tình cảm tự nó thì không
đáng tin nếu nó không tỏ cho thấy khuynh hướng xây dựng bỡi sự
phù hợp với lý trí và lý luận. Còn lý trí trở nên vô lý nếu
không đi với tình cảm chân thành. Những chân lý nầy được nhận
thấy dễ dàng hơn và vấn đề lý trí nghịch với tình cảm không
thường xảy ra nếu thế hệ chúng ta không bị làm đảo lộn bỡi những
thay đổi hiện tại trong nền văn hóa chúng ta đặc biệt trong
tương quan giữa hai giới.
TẠI SAO TÌM
HOÀI, TÌM MÃI MÀ VẪN KHÔNG TÌM ĐƯỢC MỘT Ý TRUNG NHÂN?
Không nhận ra được thái độ
sai lầm của họ, nhiều người nam cũng như nữ cố gắng đi tìm một ý
trung nhân—và vẫn còn tìm hoài mà tìm vẫn không ra, nên họ vẫn
cứ độc thân và cô đơn mãi. Họ không thể và ít ra là họ không
yêu. Họ không thuộc về một ai và cũng không ai thuộc về họ. Họ
không biết được lý do tại sao họ tìm mãi nhưng không tìm được
một ý trung nhân. Sao họ không thành công trong việc tìm một
người để kết hôn. Có cô thì cho rằng họ nghèo. Cô khác cho rằng
sức khỏe không tốt. Cô gái nghèo cho rằng thiếu quần áo hấp dẫn
nên không có khả năng lôi cuốn là câu trả lời tại sao họ không
gặp được một người đàn ông. Những cô giàu sang thì bảo tất cả
các ông chỉ muốn của cải của cô chứ không muốn gì cô. Cô khác
thì cho rằng mình quá xấu không thu hút được. Người đẹp thì cho
rằng chính cái đẹp của cô làm cô thất vọng. Thỉnh thoảng có
những cô bị khước từ khi đi xin việc chỉ vì họ quá đẹp. Những cô
gái đẹp thường có khuynh hướng coi thường sự chú ý của quí ông
như một biểu lộ sự quí mến cá nhân của họ dành cho cô. Các cô
cảm thấy như bị lợi dụng vì các cô nghĩ rằng không phải họ thích
thú những tư tưởng hoặc những ý nghĩ của các cô mà chỉ thích sự
lôi cuốn của các cô mà thôi. Những lý do đó nghe có lý nhưng
không có gì là thật vì có những cô gái nghèo cũng như giàu đi
đến hôn nhân hạnh phúc. Có những cô xấu lấy ông chồng đẹp trai
và có những cô đẹp thành công trong hôn nhân của họ. Sự sai lầm
của họ là ở chỗ nầy: cô nầy cho mình quá thấp còn cô khác đánh
giá mình quá cao. Cô khác nữa cho mình có lỗ mũi tẹt hay có mồm
rộng. Mỗi cô đổ lỗi cho khiếm khuyết của mình.
Các ông cũng vậy, cũng có
những lý do giống vậy: nào là không có khả năng lôi cuốn, không
có tiền, không đẹp trai. Tất cả đều đổ lỗi cho cái khiếm khuyết
của mình hoặc cho kinh tế hay cho hoàn cảnh gia đình. Trong khi
các bà đòi quyền bình đẳng với các ông và bắt chước cách thức
suy nghĩ cũng như làm việc của các ông, họ có khuynh hướng cắt
nghĩa sự cô đơn của họ là do con số các ông có tư cách thì quá
ít. Thật ra, lý do chính tại sao các ông cũng như các bà không
tìm được một ý trung nhân là chỉ vì nhút nhát hay thiếu can đảm.
Họ sợ hôn nhân giống như một bài khảo hạch mà họ sợ không thành
công. Họ đòi hỏi phía bên kia một sự bảo đảm cho họ vì họ thấy
không có gì nơi họ. Đây là lý do căn bản cho sự đắn đo suy nghĩ
quá đáng và sự thích thú ngắn ngủi của họ. Đòi hỏi của họ quá
lớn và xem ra không có chất lượng nào có thể bảo đảm được những
đòi hỏi đó.
TÌM ĐÂU RA
MỘT ĐIỀU HOÀN THIỆN
Thái độ của họ được diễn tả
trong câu chuyện dưới đây:
Hai người đàn ông găp nhau
trên đường: “Hello Bằng, cái gì xảy ra cho anh? Tại sao anh xem
ra buồn rầu thế?” Bằng thú nhận đã gặp một người con gái mà Bằng
mong tìm kiếm từ bao lâu nay. Một người con gái tuyệt vời. Anh
ta kể: đẹp, hấp dẫn, thông minh, bản tính tốt, hiểu biết, và
khiêm tốn, lại giàu có. Cuối cùng thì ông bạn cắt ngang: rồi sao
nữa? Không có gì sai. Chỉ có tao không có số may. Cô ta đi tìm
một người đàn ông hoàn hảo. Có đàn ông cũng như đàn bà nào toàn
hảo không? Một lần kia một thuyết trình viên căt nghĩa: Sự toàn
hảo không thể kiếm ra, và để chứng tỏ điều đó, thuyết trình viên
mới hỏi cử tọa: có ai đã nghe về một người đàn bà nào toàn hảo
chưa? - Không có ai. Hoặc về một người đàn ông nào toàn thiện
chưa? Một giọng yếu ớt vang lên từ trong một góc: Có, thưa ông.
Tôi đã nghe về một người đàn ông nhỏ bé, hiền lành, và chịu
khuất phục. Như thế, ông đã nghe về một người đàn ông toàn thiện
phải không? Ai thế? Và giọng người đó đáp trả: Người chồng đầu
tiên của người vợ tôi.
Sự hoàn thiện không có trong
thực tế nhưng chỉ có trong mộng. Thật là điên cuồng nếu trong
quá khứ chúng ta nghĩ là có một con người như thế. Nhưng cái
quan niệm về sự hoàn thiện thì rất thật và nó có một sức mạnh
mãnh liệt thuyết phục chúng ta, làm triệt hạ mọi cái chúng ta
đang có trong tay.
LÀM SAO ĐỂ
TÌM CHO RA ĐƯỢC ĐÚNG NGƯỜI YÊU CỦA MÌNH?
Tìm không được một người phối
ngẫu sẽ mang đến kết quả là bất hạnh cá nhân, thất vọng, và tự
cô lập. Dầu sự cô đơn không hẳn chỉ có nơi người không có gia
đình, nhưng giữ mãi tình trạng độc thân sẽ tăng thêm sự chán nản
và bất tiện.
Vấn đề rắc rối cho nhiều
người là: làm cách nào để tìm được đúng người hoăc làm cách nào
để biết được nếu chọn một người nào đó là một sự chọn lựa đúng?
Không may mắn cho chúng ta là không có một công thức nào để mà
theo. Bằng cách theo sự thích thú hoặc không thích thú của một
người, người ta sẽ theo thứ tự: Cá tính. Và cái gì khác nữa
chúng ta có thể làm được? Chúng ta phải hòa giải chúng ta với sự
kiện nầy là: bất cứ cái gì chúng ta tìm được đều tốt như chúng
ta đáng được. Vấn đề là khả năng của người kia thì ít hơn chúng
ta và cũng ít muốn cố gắng phát triển với cái đầu óc họ đang có.
Điều lẫn lộn lớn lao: ai là người mà ta muốn tìm? Điều nầy càng
được làm lẫn lộn thêm bỡi phim ảnh, tiểu thuyết, văn thơ, tôn
giáo, và quan niệm lãng mạn…đóng góp vào giả thuyết cho rằng:
hôn nhân được phối hợp bỡi một nhiệm mầu nào đó trên trời—bỡi sự
tiền định—đưa chúng ta đến với nhau và không sức mạnh nào có thể
làm ngưng được. Vì thế, người ta chờ đợi sự tiền định hay duyên
kiếp của họ đưa họ đến hôn nhân vì tự người ta hoặc là không tìm
được hoặc là không nhận ra được.
Nhưng rất tiếc, không có ai
được tạo ra để xếp đặt hôn nhân cho họ. Không có ai trong thế
giới nầy mang một nửa nầy đến với một nửa khác để làm thành hôn
nhân cho họ. Nên khi người ta bỗng nhiên si tình, người ta nghĩ
đó đúng là người của họ. Nếu đúng vậy, tại sao có nhiều người
tỉnh giấc mộng với sự nhức nhối trong tim cũng như trong đầu óc
của họ? Vâng, những chuyện tình lãng mạn như thế là những chuyện
tình chỉ có trong giấc mộng, được vẽ vời bỡi mộng tưởng, văn
thơ, huyền thoại, và ảo tưỡng. Khoa học chứng tỏ rằng sự chọn
lựa nầy có thể tốt hơn sự chọn lựa khác. Chính nền tảng xã hội,
căn bản tôn giáo, học vấn, giáo dục, sở thích không là những yếu
tố tiền định huyền diệu sao? Theo những khám phá khoa học, có
nhiều người khác nhau để chọn lựa thì đó là một sự chọn lựa
thích hợp và tốt. Và ngay cả một sự chọn lựa không mấy ưng ý
cũng chỉ cho thấy ít hạnh phúc hơn một chút mà thôi chứ không
phải là không có hạnh phúc. Yếu tố chính cho việc lựa chọn thích
hợp là muốn chọn—cộng với tri thức chung chung bình thường và sự
quyết định cố gắng làm hết sức với cái mình có. Những ai hành
động như vậy sẽ luôn tìm thấy đúng người bạn mình muốn tìm. Còn
những người khác không bao giờ cảm thấy thõa mãn. Người ta càng
ít can đảm, sự lựa chọn càng nghèo nàn, vì bấy giờ người ta tìm
lý lẽ để xin chối từ hơn là tìm cơ hội may mắn. Nhưng mỗi sự
chọn lựa cho phép một vài cơ hội thuân lợi thích hợp. Không ai
hoàn toàn xấu, cũng không ai hoàn toàn lý tưởng. Tất cả tuỳ
thuộc vào cái chúng ta nhìn thấy và để ý nơi người bạn chúng ta.
CẢI THIỆN
THÌ TỐT HƠN LÀ LY DỊ RỒI TÁI HÔN
Hai người sống trong tình
trạng hôn nhân bất hạnh có thể sửa đổi cái sai lầm của việc chọn
lựa bằng cách tiếp tục và dần dần cải thiện, hay lại phạm lấy
một lỗi lầm khác bằng cách phá vỡ mối liên hệ mà họ đã thiết
lập. Việc cắt đứt liên hệ hôn nhân sẵn có thì dễ dàng hơn là tạo
một liên hệ mới và tốt hơn. Việc chọn lấy một người phối ngẫu
một lần nữa không dễ hơn là cố gắng thích nghi vào hoàn cảnh
hiện tại. Mỗi người chúng ta là nguồn chính của sự thành công
hay thất bại. Chúng ta không thể chạy trốn và cũng không thể
thăng tiến điều kiện sống bằng cách bỏ chạy. Nếu tương quan của
chúng ta với người khác phái là không được may mắn, chúng ta
phải bắt đầu khám phá chính mình. Nếu người ta lạnh lùng trong
hôn nhân không tình yêu, họ không cần tìm bạn mới để khơi dậy
cảm giác. Họ có thể cố gắng để tái khám phá ra người bạn hiện
tại và với sự hiểu biết hơn trong sự lựa chọn lần hai nầy cùng
một người bạn đó, có thể chứng tỏ là một cái gì may mắn hơn. Có
những hoàn cảnh sự phân ly có thể chấp nhận được để sống còn,
nhưng ly dị không phải luôn chỉ sự bất tương hợp. Nhiều cặp hôn
nhân có thể được cứu sống và nhiều chọn lựa sai lầm được biến
chuyển thành chọn lựa đúng nếu người ta hiểu biết hơn về cách
thế để chung sống với nhau.
Lm. Lê văn
Quảng , tiến sĩ tâm lý |
VỀ MỤC LỤC |
|
RƠM
|
Do
một tình cảm đơn sơ, thuần khiết lúc ấu thơ, tôi rất thích rơm.
Trong những năm tuổi
nhỏ được ở thôn quê, tôi thấy rơm và thích rơm một cách tự
nhiên, không tìm biết lí do. Tôi thích rơm như cậu bé khác thích
cái kèn làm bằng lá tre, như cô bé nọ thích con búp bê làm bằng
những sợi len xanh đỏ kết lại. Tôi thích rơm, cái thích đơn
thuần giản dị. Có lẽ đó là bản chất của tôi, bởi vì khi đã lớn
lên, tình yêu của tôi cũng là một tình yêu giản di. Tôi yêu vì
yêu, không hỏi lí do, không cần biện bạch.
Sau ngày mùa, khi
những bông lúa vàng trĩu đã được nhà nông cắt đem về kho lẫm,
cánh đồng chỉ còn trơ lại rơm và rạ. Thân lúa xanh tốt ngày nào
dẫn chất bổ dưỡng lên làm căng phồng những hạt lúa thơm ngát
hương đồng nội, nay trở thành những cọng rơm khô vàng, rỗng và
nhẹ. Tôi thích cái màu vàng ấy. Nó tươi và óng ánh như có tráng
một lớp men. Màu vàng của rơm rực rỡ dưới ánh nắng mặt trời, làm
cho cánh đồng sau mùa gặt có một nét đẹp riêng, mà trí óc non
nớt của tôi chỉ có thể cảm nhận mà không biết tìm cách mô tả cho
trọn vẹn được.
Thế rồi rơm cũng
được người ta đem về như một thứ phó sản của vụ mùa. Lúa vì quí
nên được cất vào bồ. Rơm không quí nên chỉ được đánh đống thành
từng đụn ở ngoài sân, dưới gốc những cây cau, hoặc cũng nhiều
khi được dùng để phủ kín những bồ lúa của nhà nông.
Những ngày mùa đông
giá rét, khi những cánh đồng cỏ trơ trụi phô ra mặt đất nâu cứng
nứt nẻ, trâu bò ở trong chuồng cũng run lên vì lạnh, mẹ tôi và
người nhà đem rơm ra cho trâu, bò ăn. Món ăn không ngon như
những ngọn cỏ xanh mượt nõn nà ngoài đồng, nhưng cũng đủ làm cho
trâu, bò no lòng và ấm áp.
Riêng tôi, những
ngày mùa đông giá rét ấy, lại càng thấy gần rơm và thích rơm.
Đang khi những ngọn gió rét buốt chạy đuổi nhau ngoài đồng hoặc
tinh nghịch chui vào những mái nhà làm tốc lên lớp cỏ tranh;
đang khi những chú chim sẻ trốn thật kín trong những ống nứa ống
tre, tránh cái lạnh tê buốt cắt da, thì tôi thu mình nằm gọn
trong ổ rơm mà mẹ tôi đã đon sẵn ở góc nhà. Hơi ấm tự nhiên,
thơm mùi lúa chín và cánh đồng còn vương vấn, tỏa ra thật dễ
chịu. Tôi nằm lim dim trong trạng thái nửa thức nửa ngủ, để cho
trí tượng tưởng miên man. Tôi thấy như được nằm gọn trong bàn
tay từ ái của đất trời. Tình yêu của đất trời nồng nàn và bát
ngát, ôm ấp và sưởi ấm con người, nhưng cũng giản dị mộc mạc như
cánh đồng, ngọn cỏ, sợi rơm, tiếng chim hót, làn gió nhẹ hay ánh
nắng chiều. Dù chỉ là một chú bé con, nhưng tôi cũng cảm nhận
được niềm hạnh phúc được làm người và được sống trên cái trái
đất dễ thương, đẹp đẽ này. Về sau khi đã lớn, tôi đã nằm trên
những chiếc giường tân tiến và tiện nghi, nhưng chưa một lần nào
tôi tìm lại được cái cảm giác ấm áp, an toàn và hạnh phúc như
khi nằm trên cái ổ rơm của ngày xưa còn bé.
Nằm trong ổ rơm
chán, tôi ngồi dậy, co ro đi xuống bếp xem chị tôi thổi lửa nấu
cơm. Chị cho rơm vào trong bếp làm mồi, ngọn lửa bùng lên rực
rỡ, rồi tàn đần. Lửa rơm rất mau tàn. Nhưng ngọn lửa ấy đã bắt
qua những cục than đen bóng. Chị kê cái ống thổi lửa vào bếp,
chụm môi thổi. Làn hơi của chị làm cho những cục than dần dần
hồng lên, cho đến lúc những cục than đen biến thành những cục
than hồng rục rỡ. Hai má của chị tôi khi ấy cũng hồng, làm cho
khuôn mặt thiếu nữ đương xuân của chị thêm tươi đẹp và duyên
dáng...
Xem vậy mà rơm còn
được dùng vào nhiều việc khác. Bạn có bao giờ thưởng thức món
chân giò nấu măng chưa? Trước khi cho vào nồi nấu, người ta thui
cái chân giò trong đống rơm cháy đỏ, mùi thơm trong khói lan tỏa
khắp xóm. Mẹ tôi bảo chân giò không thui bằng rơm thì sẽ không
thơm như vậy. Tôi kể chuyện này nghe có vẻ ''phàm phu'' quá phải
không? Nhưng đó là một trong những niềm vui tuổi nhỏ của tôi.
Có khi rơm còn được
ở... trên đầu người ta nữa. Ở trên đầu không giống như kiểu
"trên đầu những rạ cùng rơm,
chồng yêu chồng bảo hoa thơm cài đầu
" đâu, mà là ở trên
đầu mặt cách thật nghiêm chỉnh. Năm ấy bác tôi mất, cả họ để
tang. Ngày đi đưa đám, tôi thấy các chị con bác mặc áo sô đội
mấm trắng; các anh tôi cũng mặc áo sô chít khăn tang
trắng. Anh con cả của bác thì mặc áo tang, và đội trên đầu một
vành rơm, chống gậy đi giật lùitrước quan tài. Mẹ tôi giải thích
cho tôi biết bác mất là chuyện đau buồn cho gia đình, không còn
ai vui thích trong việc trang điểm lộng lẫy, áo quần bảnh bao
nữa. Mặc áo sô, đội vành rơm để biểu lộ ra bên ngoài nỗi đau
buồn bên trong. Như thế, dù được ở trên đầu người ta, rơm cũng
vẫn bị xem như là một vật tầm thường, xấu xí.
Từ khi rời quê lên
thành phố, rồi trối nổi theo những chuyển biến của hách sử, cuối
cùng thành một gã lưu vong, tôi không còn dịp nào được gần gũi
với rơm nữa. Nhưng mỗi khi tìm lại tuổi ấu thơ trong cơn mơ hay
trong những lúc thả hồn theo kỉ niệm thiếu thời, lôi lại thấy
rơm. Những sợi rơm vàng óng, nồng nàn mùi thơm
hoang dã và hương lúa ngạt ngào như quấn lấy thân tôi. Hình như
rơm muốn che chở cho tôi, ấp ủ lấy tôi để truyền cho tôi sự ấm
áp và tình thân. Bây giờ đã lớn, nên tôi biết phân tích tình cảm
của tôi để thấy rằng chính cái giản dị của rơm tạo nên một vẻ
quyến rũ và làm tôi tưởng nhớ mãi, cho dù bao nhiêu hình ảnh
khác của quá khứ hầu như đã tan biến trong tôi. Tôi cũng cảm
nghiệm rằng tình yêu đơn sơ giản dị chính là thứ tình yêu đẹp
nhất và lôi cuốn nhất.
Dịp lễ Giáng Sinh
năm ngoái, tự nhiên tôi được một người bạn nhắc cho những hình
ảnh về rơm, và qua bạn, tôi học được những bài học của rơm, Bạn
tôi hiền như một con chim sẻ, ngây thơ như bồ câu, dễ thương như
thỏ, nhưng đôi khi cũng biết tự phòng thủ như một con nhím. Và
một điều chắc chắn là bạn có đời sống nội tâmthật sâu thẳm, sâu
như lòng giếng nhìn không thấy đáy.
Bạn tôi sống trong
một cộng đồng. Cộng đồng này có một tục lệ dễ thương lắm, cứ vào
dịp Giáng sinh, mọi người bắt thăm để nói về một vật gì đó có
liên quan đến máng cỏ. Bạn tôi bắt được lá thăm yêu cầu nói về
rơm. Và sau dịp trình bày ấy, bạn đã nói lại cho tôi nghe những
gì bạn nghĩ về rơm.
Bạn nói rằng bạn
cũng đã nghĩ đến sự tầm thường của rơm, tầm thường đến độ khi đề
cập đến những gì thấp kém, vô dụng, người ta gọi đó là những thứ
"rơm rác'. Nhưng dù tầm thường đến thế nào đi nữa, rơm
cũng không thật sự vô dụng đâu. Rơm sẵn lòng làm những công việc
tầm thường nhất, khi mà người ta không có phương tiện để làm cho
khá hơn. Nếu có chăn êm nệm ấm, chắc người ta không nghĩ đến
chuyện nằm ổ rơm. Nhưng khi không có chăn êm nệm ấm, ổ rơm đã là
nơi sưởi ấm con người trong những ngày tháng mùa Đông. Nếu có cỏ
non thơm ngọt, người ta đã không nghĩ đến chuyện nuôi trâu hò
bằng rơm. Nhưng khi chẳng còn cỏ non, rơm đã trở thành món ăn
cho trâu bò no bụng. Không biết rằng người ta có ai hiền lành và
có tinh thần phục vụ như rơm, sẵn lòng làm cho người khác những
việc mà ''không còn biết chạy vào đâu nữa người ta mới nhờ đến
mình''.
Bạn nóị rằng khi đề
cập đến lửa rơm, ai cũng có vẻ xem thường. Nhưng bạn nhìn lửa
rơm ở một khía cạnh khác, và bạn thấy lửa rơm đáng quí lắm. Đáng
quí vì lửa rơm mang ý nghĩa của sự hi sinh và khiêm tốn. Truớc
khi có lửa củi, lửa than, người ta phải có lửa rơm. Lửa rơm tàn
nhanh lắm, nhưng nếu không có lửa rơm, làm sao củi, than bén
lửa? Và khi bếp đã cháy hồng, rơm chỉ còn là một nắm tro, không
ai biết đến rơm nữa, người ta chỉ trầm trồ ngắm nghía những
thanh củi, hòn than cháy hồng rực rỡ. Chẳng biết có mấy ai dám
hi sinh và khiêm tốn như rơm, khởi đầu công việc, nhưng sau đó
âm thầm lui đi và nhường lại vinh quang cho người khác?
Bạn nói đến một điều
mà tôi chưa bao giờ nghĩ tới. Đó là sự trống rỗng của rơm. Trong
lòng cọng rơm không chứa gì. Chính cái trống rỗng ấy làm cho rơm
trở nên hữu ích. Bạn kể cho tôi nghe ngày xưa khi chưa có những
địa bàn tối tân như ngày nay, người Trung Hoa đã xỏ kim nam châm
vào trong một cọng rơm và thả xuống mặt nước yên lặng. Cọng rơm
sẽ chỉ cho người ta biết hướng Nam hướng Bắc. Từ hình ảnh ấy,
bạn nói cho tôi nghe cái cần thiết của sự trống rỗng. Hầu như ít
có người biết tự làm trống mình, để cho ơn Chúa tràn vào, chan
chảy. Tâm trí người ta thường chất chứa nhiều thứ lắm: tham
vọng, mưu tính, hận thù, tranh chấp, thiên kiến... Những thứ ấy
làm cho đầu óc và trái tim người ta chật chội, từ đó khó có
những nhận định chính xác. Khi không có được nhận định chính
xác, người ta không thể tứ hướng dẫn mình và hướng đẫn người
khác. Cọng rơm mà đặc thì không thể dùng để xỏ kim nam châm vào,
để chỉ cho người ta biết hướng Bắc, Nam.
Và bạn nói với tôi
về sự đáng yêu trong cái tầm thường của rơm. Chúa Hài Nhi yêu sự
khiêm hạ. Nên khi giáng thế Ngài đã chọn một hang đá nghèo hèn
lạnh lẽo, và ngự trên một máng đựng cỏ, rơm. Vinh dự thay cho
rơm, thụ tạo tầm thường ''rơm rác'' của trái đất, lại là vật đầu
tiên được đụng chạm đến Thánh Thể Hài Nhi. Đâu còn vinh dự nào
sánh bằng ?
Tôi không nói với
bạn lời cảm ơn khi bạn chia sẻ cho tôi những ý nghĩ ấy. Nhưng
trong đáy lòng, tôi cảm động và thấy quí bạn hơn. Tôi biết những
ý nghĩ này phát xuất từ trong đời sống nội tâm sâu thẳm ''như
lòng giếng'' của bạn.
Và với rơm, tôi thấy
thích rơm hơn nữa. Tôi muốn giống rơm. Vì thế, tôi đã cầu nguyện
với Chúa rằng:
''Lạy Chúa, xin cho con biết
hiền lành, khiêm tốn như một cọng rơm, để con được gần Chúa và
được Chúa yêu. Xin cho trái tim con trống rỗng như một cọng rơm,
để tình Chúa đổ xuống ngập tràn con tim ấy".
Nhà Văn Quyên Di |
VỀ MỤC LỤC |
|
PHO - MÁT
|
Theo huyền thoại thì pho mát được một nhà
kinh doanh tình cờ khám phá ra cách nay nhiều ngàn năm. Nhân dịp
một chuyến đi buôn xa, ông mang theo nhiều lương thực, trong đó
có sữa dê mới vắt đựng trong một cái bao tử lạc đà đã phơi khô.
Một hôm, lấy sữa ra uống thì thấy sữa đã
đông đặc dưới ảnh hưởng của hơi nóng mặt trời và vài hóa chất
còn dính lại ở bao tử lạc đà. Nếm thử “cục sữa” ông ta thấy ngon
và béo. Thế là ông ta tìm hiểu thêm rồi sản xuất món sữa đóng
cục này tung ra thị trường và kiếm nhiều lợi nhuận tài chính. Đó
là pho mát, phiên âm tiếng Pháp chữ Fromage, tiếng Anh gọi là
cheese.
Từ đó pho mát được nhiều quốc gia trên thế
giới sản xuất và trở thành món ăn rất phổ thông trong bữa ăn
chính, để tráng miệng, ăn khai vị cũng như ăn vặt trong ngày.
Cách làm
Pho mát có thể làm từ bất cứ loại sữa động
vật nào như cừu, dê, trâu, lạc đà, lừa... nhưng thông thường
nhất vẫn là từ sữa bò.
Nguyên tắc làm cũng giản dị.
Sữa
được làm đông đặc với một loại enzym
(rennet)
lấy từ dạ dày động vật có vú
hoặc chế biến từ nấm và vi khuẩn, đun ở nhiệt độ thích hợp.
- Phân tách cục sữa chứa nhiều đạm chất với
phần chất lỏng .
- Thêm chút muối vào cục sữa để tạo hương
vị, độ ẩm..
- Ép cục sữa thành
những hình dạng tùy theo ý muốn, đồng thời cũng chắt bò chất
lỏng còn sót lại.
Thế là ta đã có miếng pho mát ngon miệng.
Loại pho mát này chưa ngấu, dễ hư nên cần được để trong tủ lạnh
và chỉ dùng trong dăm ngày.
Muốn có phó mát
ngấu, phải lấy bớt chất lỏng ra bằng muối rồi chế thêm vi khuẩn
Penicillum Camembert ( pho mát Camembert, Brie), vi khuẩn
Penicillium Roquefort ( pho mát Roquefort, Blue cheese),
Propionibacterium shrmanii cho Swiss pho mát, Brevibacterium
linens cho pho mát Brick…
Quý bà nội trợ có
thể làm pho mát tươi tại nhà như sau:
- Đun 1 lít sữa nóng 60◦C, hòa cùng 200ml
sữa chua, nhè nhẹ khuấy cho đều để tránh cháy dưới đáy, rồi ủ
nóng trong nồi cơm hay đặt cạnh lò sưởi khoảng 8giờ cho sữa đông
thành sữa chua.
- Dùng dao rọc sữa chua theo ô cờ nhỏ.
- Đun sữa chua nóng lại 60◦C, ủ tiếp 2-3
giờ để sữa chua tách nước.
- Gói hỗn hợp trên với 1 tấm vải màn, treo
cho ráo nước.
- Nếu muốn pho mát khô hơn, thì đè thêm vật
nặng lên.
- Để trong tủ lạnh vài giờ đến khi khô hoàn
toàn.
- Thêm mùi vị cho pho mát, cất trong tủ
lạnh ăn dần.
Chế biến pho mát là phương thức giúp chúng
ta chuyển một thực phẩm dễ hư là sữa, sang một thực phẩm ít bị
hư hơn và đồng thời cũng là cách để dành sữa dưới dạng có thể
giữ được lâu.
Các loại pho mát
Pho mát được phân loại theo nhiều cách.
Pho mát tươi như cream, cottage cheese và
pho mát ngấu như Chedda, Swiss, Camembert, Gorganzola.
Thông thường nhất là phân loại tùy theo sự
cứng mềm hoặc độ ẩm của pho mát:
Pho mát mềm như Cottage, Ricotta, Impasta,
Neufchatel, cream;
Mềm trung bình như Morazella, Blue,
Camembert, Pizza, Edam, Swiss, Chedda, Provolone;
Cứng như Dry Ricotta, Mysost, Romano,
Parmesan.
Đó là pho mát tự
nhiên (natural cheeses) trực tiếp từ sữa.
Còn loại pho mát
chế biến (processed cheese) làm bằng cách pha trộn trong hơi
nóng một vài loại pho mát tự nhiên. Pho mát chế biến có thể để
dành lâu ngày và thường là mặn hơn pho mát tự nhiên.
Và giả pho mát
(Imitation cheeses) do chất đạm của sữa và dầu thực vật tạo
thánh. Vì là giả nên pho mát này rẻ hơn, ít chất dinh dưỡng và
có chỉ có 10% cholesterol so với các pho mát khác.
Mua pho mát
Bộ Canh Nông
Hoa Kỳ đã phân định giá trị của các loại pho mát Swiss và
Cheddar, căn cứ trên hương vị, cấu trúc và hình dáng bên ngoài.
Nhóm AA là tốt nhất,
nhóm A là trung bình.
Khi
mua cũng nên để ý tới cách trình bày : Pho mát cắt thành viên
nhỏ, sợi hoặc miếng mỏng thường đắt hơn cục to. Pho mát đựng
trong vật chứa lớn rẻ hơn trong vật chứa nhỏ. Mua vừa đủ dùng
trước khi hết hạn, mất hương vị.
Pho mát mềm như
cottage, cream cheese rất mau hư. Nhiều loại pho mát ghi rõ số
lượng muối và chất béo.
Khi mua, lựa pho mát bầy trong ngăn tủ
lạnh, coi kỹ ngày bán và ngày tiêu thụ; không mua loại bị mốc
meo, ngoại trừ khi meo là thành phần cấu tạo của pho mát như
blue cheese.
Về nhà nên cất pho mát vào tủ lạnh, gói kín
để khỏi khô. Cất gói cẩn thận, pho mát rắn có thể để dành sáu
tháng, còn pho mát mềm nên dùng trong vòng một tuần.
Pho mát khối đặc có
thể mọc mốc meo ở phía ngoài nhưng sau khi gọt bỏ meo, vẫn còn
dùng được.
Dinh dưỡng
Pho mát giữ nguyên được các chất dinh dưỡng
từ sữa đã sản xuất ra chúng: chất đạm với các amino acid cần
thiết, ít chất béo và cholesterol hơi cao. Chất đạm trong pho
mát là cô đọng từ sữa mà ra cho nên rất phong phú và được coi
như có thể thay thế cho thịt.
Hầu hết pho mát có nhiều sinh tố A. Calci
và phospho có nhiều trong pho mát rắn, ít trong pho mát mềm. Pho
mát cũng là nguồn cung cấp riboflavin quan trọng.
Trung bình 30gr pho mát cung cấp 100
calori, 180mg calci, 8gr chất béo, 9gr chất đạm.
Chất béo làm pho mát có hương vị hấp dẫn
đặc biệt nhưng cũng gây ra vài không tốt cho sức khỏe. Ngày nay
có pho mát ít chất béo hoặc pho mát làm từ sữa đậu nành.
Ăn pho mát
Pho mát được ăn chung với sà lách, bánh mì
hoặc để nấu.
Pho mát thường được dùng như món ăn chơi
hoặc trộn lẫn với thực phẩm khác như đậu, rau, mì sợi, bánh mì ,
chứ không dùng làm món ăn chính, mặc dù có nhiều chất dinh
dưỡng.
Khi nấu với món ăn
khác, cần đun nhỏ lửa và trong thời gian ngắn để chất đạm không
cứng, dai đồng thời cũng để chất béo không thoát ra ngoài. Chẳng
hạn khi làm trứng ốp la với pho mát thì phủ pho mát trên trứng
đã chiên chín.
Vài điểm cần lưu ý.
a- Một vài loại pho mát như Cheddar, Swiss,
Rocquefort có thể bảo vệ răng khỏi bị sâu. Pho mát kích thích
nước miếng tiết ra để trung hòa acid do vi sinh vật trong miệng
tác dụng trên thức ăn kẹt trong răng. Acid này ăn mòn men răng,
khiến răng mau hư. Calci và phosphore trong pho mát cũng giúp
răng chắc bền hơn.
b- Bác sĩ thường khuyên người bị cao huyết
áp, cao cholesterol, nặng quá ký không nên ăn nhiều pho mát vì
có nhiều chất béo và muối sodium.
c- Bị dị ứng với Penicillin không nên ăn
blue cheese vì pho mát này được làm với tác dụng của nấm
penicillin.
d- Pho mát có nhiều tyramine, một hóa chất
làm động mạch co thắt và có thể gây ra cơn cao máu bất thình
lình, nhất là ở bệnh nhân dùng thuốc trị trầm cảm dạng ức chế
monoamine oxidase inhibitors (MAO inhibitor).
Tyramine có nhiều trong các loại pho-mát
Camembert, Cheddar, Roquefort, Blue; rất ít trong Cottage, cream
cheese.
đ- Nhiều loại pho
mát có rất ít hoặc không có đường lactose, rất thuận lợi cho
người không tiêu hóa được đường này.
e- Pho mat có nhiều
calci sẽ là món ăn tốt cho bệnh nhân bị loãng xương.
Lời kết
Trên đây là nói về
món ăn pho mát, một món ăn ngon, bổ dưỡng. Pho mát rất phổ biến
khắp thế giới, nhất là ở nước Pháp với hàng trăm loại khác nhau.
Cứ mỗi mùa trong năm thì họ lại sản xuất một loại pho mát riêng
cho thời gian đó để dân chúng thưởng thức.
Pho mát cũng đã đi
vào văn học Pháp quốc qua bài thơ ngụ ngôn của văn hào La
Fontaine. Bài thơ mang nhiều ý nghĩa xử thế, khuyên đời.
“Một bác quạ đen
đậu trên cành cây cao, miệng đang nhâm nhi miếng pho mát thơm
phức. Chú Cáo lém lỉnh đói bụng đi qua, nhìn thấy miếng pho mát
mà thèm nhỏ dãi. Y bèn “tán dương”: Sao mà bác nom quá lộng lẫy
đẹp hình đẹp dáng. Giá kể bây giờ mà bác cất tiếng hát thì thiên
thần cũng phải ngưng mọi công việc, lắng nghe dọng hát Phượng
Hoàng khu vực. Khoái quá, quạ bèn lánh lót nhả ngọc phun châu.
Vừa mở miệng, miếng pho mát rơi tọt xuống đất. Cáo ta bèn đớp
vội miếng pho mát, ngấu nghiến ăn, tắc lưỡi khen ngon. Rồi lên
mặt dạy đời. Là hãy đề phòng những kẻ nịnh bợ, khen mình quá lố
kẻo mà lại thiệt vào thân. Quạ ta tiu nghỉu, chịu trận, xấu hổ,
lủi thủi vỗ cánh bay xa”.
Rổi pho mát cũng
được nêu ra trong một tác phẩm ngắn nhưng nhiều ẩn dụ về đời
sống, về nhu cầu thay đổi, thích nghi: Who Moved My Cheese của
bác sĩ người Mỹ Spencer Johnson. Nếu không chịu thay đổi thì sẽ
bị hủy diệt. Chẳng khác chi cứ tiếp tục ăn miếng cheese cũ đã
bắt đầu mốc meo, có mùi chua ôi. Xin quý thân hữu kiếm đọc, có
bản dịch sang tiếng Việt. Chỉ với 94 trang nhưng sách cho nhiều
bài học đáng giá để đối phó với tình huống khó khăn, mang lại
hạnh phúc, bình an.
Bác sĩ Nguyễn Ý-Đức M.D.
Texas-Hoa Kỳ
www.nguyenyduc.com
|
VỀ MỤC LỤC |
DUYÊN SỐ
Chuyện phiếm của Gã Siêu |
Trong thời gian gần đây, nơi gã đang
cắm dùi đã xảy ra nhiều chuyện tình thật là buôn cười.
Gã sẽ liệt kê một số chuyện điển hình để bàn dân thiên
hạ cùng đọc cho vui
Nơi gã đang cắm dùi thuộc đồng bằng
Sông Cửu Long và nằm ở phía Tây của thành phố Saigon.
Tại đây, mỗi năm đều có một mùa lụt. Thiên nhiên rất
nguyên tắc, cứ đúng hẹn lại lên. Vì thế, khoảng giữa
tháng tám, nước bắt đầu vô đồng, rồi lên tới cao điểm
vào đầu tháng mười một, sau đó rút dần cho tới lễ
Giáng Sinh.
Dân chúng sinh sống bằng nghề nông.
Trước kia trồng lúa mùa, mỗi năm một vụ. Còn bây giờ
trồng lúa thần nông, mỗi năm hai hay ba vụ, tùy địa
phương.
Khi mùa gặt về, những người thợ cắt
lúa từ khắp các nơi kéo đến. Già có và trẻ cũng có.
Nam có và nữ cũng có. Đôi khi họ còn mang theo cả gia
đình. Bình thường họ dựng lều trên phần đất của chủ
ruộng.
Chính vì thế, con trai chủ ruộng nhiều
lúc đã liếc mắt đưa tình với cô nàng thợ gặt, còn con
gái chủ ruộng thì đá lông nheo với anh chàng thợ gặt.
Tình yêu bắt đầu từ đôi mắt đã nảy mầm và đâm bông kết
trái bằng một đám cưới. Gã xin gọi những cuộc tình loại
này là…tình cắt.
Cắt lúa xong, người ta sẽ xuốt lúa ở
ngoài ruộng và sau đó chở lúa hạt về nhà để phơi
trước khi…dí bồ. Và thế là những người có trâu, có bò
hay có máy kéo ở những nơi khác cũng rủ nhau tới để
làm thuê kéo lúa, còn được gọi là…cộ lúa.
Khi vụ gặt hoàn tất, người nông dân
thường phải sửa lại thửa ruộng của mình, bằng cách lấy
đất chỗ cao đổ xuống chỗ thấp. Trâu bò và máy móc lại
được sử dụng để kéo đất và còn được gọi là…cộ đất.
Có lẽ vì cảm phục tính cần cù lao
động, không quản ngại nắng nôi vất vả, mà chủ ruộng đã
âm thầm chấm anh chàng cộ lúa, hạy cộ đất vốn siêng
năng cho cô con gái của mình.
Và để được đẹp lòng chủ ruộng, những
anh chàng này đôi lúc cũng tỏ ra “ga lăng” không kém,
bằng cách kéo lúa hay cộ đất không công cho ông bố vợ
tương lai. Rồi cũng được kết thúc bằng một đám cưới.
Sau đó, có những anh chàng lại còn
sẵn sàng ở rể, chọn nhà vợ làm quê hương cho mình. Gã
xin gọi những cuộc tình loại này là…tình
cộ, hay tình kéo.
Sau khi gặt lúa, người ta thường hay bán
đồng cho chủ vịt. Thực vậy, trong khi thu hoạch, thế nào
cũng có những hạt lúa rơi rụng trên ruộng đồng. Ấy là
gã chưa nói tới những bông lúa chau, hay những bông lúa
chét, đâm lên từ những gốc rạ vừa mới được cắt. Và thế
là chủ vịt thương lượng với chủ đất, cho vịt vào ruộng
để ăn những hạt lúa rơi rụng ấy, cùng với sâu bọ và ốc
tép. Mỗi đàn vịt có tới cả ngàn con.
Những anh chàng chăn vịt cũng thường
cắm lều ở bờ ao, bên cạnh khóm chuối hay bụi tre. Thỉnh
thoảng chủ vịt sai họ mang vài chục trứng vô biếu cho
chủ ruộng. Ấy là gã chưa nói tới những bữa nhậu thân
hữu giữa hai bên. Có khi bên vịt đãi bên ruộng. Có khi
bên vịt bỏ mồi, còn bên ruộng bỏ rượu. Sự giao lưu, đi
lại giữa hai bên xem ra có mòi thắm thiết.
Cũng chính vì sự giao lưu thắm thiết
này, mà có những anh chàng chăn vịt không những đã chiếm
được tình cảm của chủ ruộng mà thậm chí còn…”phỗng”
được cả cô con gái chủ ruộng, để rồi tình yêu của họ đã
trở thành sự thật. Gã xin gọi những cuộc tình này là…tình
vịt.
Vào tháng mười, thì mực nước trong
đồng đã dâng lên khá cao. Nước về không phải chỉ mang theo
phù sa cho ruộng đất, mà còn mang theo cá múa và tôm
tép cho dân nghèo. Vì thế, những năm gần đây đã nảy sinh
một nghề mới, đó là nghề tép. Nghề tép được chia làm
hai thành phần.
Trước hết là những người bán tép. Để
có được tép mà bán, họ thường đặt lọp hay giăng “dớn”
ngoài ruộng cho tép lọt vào. Nhưng cũng có những người
ban đêm rủ nhau đi kéo tép. Số tép họ đánh bắt được
nhiều hay ít tùy theo mỗi ngày. Có ngày dăm ba chục ký.
Có ngày lên tới cả trăm ký. Số tép này được bán cho
“mối ruột”, tức là cho những khách hàng quen thuộc của
mình.
Tiếp đến là những người mua tép. Họ
thường trang bị cho mình một chiếc tác ráng với máy nổ
nhiều mã lực, để có thể dọt thật nhanh, thật lẹ, bởi vì
họ phải đi từ cánh đồng này qua cánh đồng khác để thu
gom tép. Mỗi ngày họ mua tới cả tấn tép tươi.
Tép mua về phải được luộc cho chín,
rồi phơi khô và đóng bao mang lên bán ở Saigon. Không biết
thiên hạ dùng tép khô này để làm gì, mà bao nhiêu thiên
hạ cũng mua. Có người bảo tép khô ấy được dùng để chế
biến mì tôm, hay xuất khẩu qua Đài Loan…Chuyện này thì
gã không rõ.
Để luộc tép, phơi tép, cũng như lựa
vỏ ốc ra khỏi tép, thì cần phải thuê người làm. Và những
công việc này vốn thích hợp với đờn bà con gái nhiều
hơn. Có những cô gái từ Tam Nông, thuộc tỉnh Đồng Tháp,
tới phơi tép mướn và đã nên duyên vợ chồng với một anh
chàng nào đó tại đây. Gã xin gọi những cuộc tình loại
này là…tình tép.
Văn học sử có nói tới cuộc tình
giữa Nguyễn Trãi và Thị Lộ. Theo sách “Công Dư Tiệp Ký”
thì ngày kia, trong lúc đi chầu về, trên đường Nguyễn
Trãi đã gặp một người con gái rất đẹp gánh chiếu đi
bán. Muốn bỡn cợt người con gái nọ, Nguyễn Trãi liền
đọc một bài thơ :
- Ả ở đâu mà bán chiếu gon?
Chẳng hay chiếu ấy hết hay còn?
Xuân thu nay độ bao nhiêu tuổi?
Đã có chồng chưa, được mấy con?
Người con gái không do dự, họa lại ngay
bài thơ ấy :
- Tôi ở Tây Hồ bán chiếu gon,
Nỗi chi ông hỏi hết hay còn?
Xuân thu tuổi mới trăng tròn lẻ,
Chồng còn chưa có, có chi con.
Rất ngạc nhiên về sự thông minh của cô
gái, Nguyễn Trãi hỏi :
- Tên cô là gì?
Cô gái đáp :
- Tên là Thị Lộ.
Nguyễn Trãi bèn lấy nàng làm hầu
thiếp.
Cách đây hơn chục năm, một số gia đình
trong ấp, ngoài nghề nông, còn làm thêm nghề dệt chiếu.
Ăn theo nghề dệt chiếu là nghề đổi chiếu lấy chó. Những
anh chàng thanh niên chỉ cần trang bị cho mình một chiếc
xuồng máy với cái cũi chó. Đầu tuần anh ta lấy chiếu,
rồi chở tới các thôn ấp xa xôi, nhất là các sóc Miên,
để đổi lấy chó. Chó mang về bán cho các gia đình đang
cần đến, hay đem bán ngoài chợ, thậm chí còn được “xuất
khẩu” lên tận Hố Nai và Xóm Mới.
Có lúc trong ấp gã đếm được cả thảy
hơn năm mươi xuồng chiếu chó. Gã thử ngồi nhẩm tính :
Thứ hai khởi hành và thứ sáu trở về, ít nhất mỗi
xuồng cũng được một trăm ký chó. Mà năm mươi xuồng, vị
chi là năm tấn chó chỉ trong vòng một tuần lễ. Rồi một
năm, cứ thế mà nhân ra. Mỗi chuyến chiếu chó như thế,
anh ta kiếm được cả chỉ vàng!!!
Cũng vì đi nhiều nơi, nên những anh
chàng chiếu chó được mở rộng tầm nhìn và quen biết
nhiều hơn. Do đó cũng đã xảy ra những cuộc tình giữa
những kẻ mang chiếu và những người có chó. Gã xin gọi
những cuộc tình loại này là…tình
chiếu chó.
Hiện nay, đời sống nông thôn còn nhiều
vất vả, nên một số thanh niên thiếu nữ lên thành phố để
đi học hay đi làm tại những xí nghiệp. Và từ đó nảy
sinh những mối tình sinh viên, hay những mối tình công nhân.
Anh miền Nam mà lấy chị miền Bắc, hay chị miền Nam lấy
anh miền Trung cũng không phải là họa hiếm. Ấy là gã
chưa muốn nói đến những cô gái muốn đổi đời, nhờ những
trung tâm mai mối, đã lấy chồng Việt kiều, chồng Đài
Loan, chồng Hàn Quốc với những cuộc tình xuyên lục địa.
Và như vậy làm sao cắt nghĩa được
hiện tượng hai người từ những phương trời cách biệt, xa
lắc xa lơ, bỗng gặp nhau rồi thành vợ thành chồng. Phải
chăng là do duyên số?
Bên phương Tây cũng như bên phương Đông,
người ta chủ trương việc tình duyên, cũng như việc trở
thành vợ thành chồng với nhau là do ông trời ấn định.
Và người ta đã gọi việc ấn định này là duyên số.
Thực vậy, bên phương Tây người ta cho rằng
việc hôn nhân là do thần Cupidon. Theo thần thoại Hy Lạp,
thì Cupidon chỉ là một em nhỏ, con của nữ thần Venus. Em
nhỏ này cầm trong tay một chiếc cung với những mũi tên.
Khi bắn đi, mũi tên sẽ xuyên qua một trật hai trái tim. Và
thế là chủ nhân của hai trái tim này nghiễm nhiên trở
thành vợ thành chồng với nhau.
Còn người Á Đông thì cho rằng việc
tình duyên là do Nguyệt lão, tức là ông già ngồi dưới
trăng ấn định.
Có sách chép rằng : Vi Cố, người đời
Đường, ở trọ tại Tông Đô. Ngày kia, Vi Cố trông thấy một
ông lão đầu tóc bạc phơ, ngồi dưới ánh trăng và đang xem
sách, bên cạnh có một cái giỏ đựng những sợi chỉ đỏ.
Vi Cố đến bên ông già, thi lễ và hỏi :
- Ông là ai?
Ông lão đáp :
- Ta là Nguyệt Lão, sách này là sách
ghi chép sẵn tên họ những cặp vợ chồng kết duyên với
nhau.
Vi Cố hỏi tiếp :
- Còn chỉ kia là chỉ gì?
Ông lão đáp :
- Chỉ kia là chỉ dùng để cột chân vợ
chồng lại với nhau.
Vi Cố hỏi đến người vợ tương lai của
mình, thì ông lão cho biết :
- Đó là con của người ăn xin, đang ngồi
ở ngoài chợ.
Vi Cố nghe vậy lấy làm buồn và qua
ngày hôm sau rắp tâm định giết đứa bé ấy đi, để mình
khỏi phải kết hôn với con nhà ti tiện. Vi cố thi hành
thủ đoạn, nhưng may thay, cô bé ăn mày kia bị một nhát dao
trúng đầu, nhưng không chết và mẹ nó bồng nó chạy
thoát.
Về sau Vi Cố kết hôn với cô gái, con
nhà quan. Nhân một hôm tình cờ nhìn thấy cái sẹo trên
đầu vợ, hỏi ra mới biết sự tình. Chính vợ mình là cô
con gái ăn mày, bị mình chém trước kia, và được ông quan
nhạc phụ bây giờ xin về làm con nuôi.
Do điển này, ngày sau hễ thấy vợ
chồng cưới hỏi nhau, người ta liền bảo :
- Nguyệt Lão đã xe duyên, cột chỉ rồi
khó mà thoát khỏi.
Ca dao Việt Nam cũng đã phần nào diễn
tả được những ý tưởng trên :
- Nấu chè van vái Nguyệt bà,
Khiến cho chung hiệp một nhà phượng
hoa.
Đồng thời cũng nói lên số phận bấp
bênh của người con gái :
- Thân em như hạt mưa sa,
Hạt vào đài các, hạt ra ruộng cày.
Từ hai huyền thoại giữa Đông và Tây,
gã thấy người xưa đã coi tình duyên như là một sự gì đã
được tiền định, mà con người không thể nào xoay chuyển,
không thể nào đổi thay, không thể nào quyết định.
Còn hôm nay thì sao?
Có một vài quan niệm mà ngày xưa rất
thịnh hành, nhưng bây giờ đã bị giới trẻ cho là lỗi
thời và không còn áp dụng nữa.
Chẳng hạn như quan niệm “nam nữ thọ
thọ bất thân”. Ngày xưa trai gái không được gặp gỡ, thân
mật trò chuyện với nhau.
Còn ngày nay thiên hạ chủ trương cần
phải gặp gỡ, tìm hiểu, thông cảm với nhau trước, rồi
mới tiến đến hôn nhân. Thậm chí có cặp còn “tiền dâm
hậu thú”, “ăn cơm trước kẻng”, khiến cho Việt Nam trở
thành một trong những nước đứng hàng đầu thế giới trong
phạm vi nạo phá thai.
Chẳng hạn như quan niệm “cha mẹ đặt
đâu, thì con cái phải ngồi đó”. Ngày xưa việc hôn nhân
phần lớn là do cha mẹ chọn lựa và ấn định. Sự chọn
lựa và ấn định của cha mẹ thường chú trọng tới vấn đề
“môn đăng hộ đối”, nghĩa là hai bên xui gia với nhau phải cân
bằng trong mọi lãnh vực : tuổi tác, địa vị…
Còn ngày nay, thiên hạ tự tìm kiếm
lấy nửa chiếc xương sườn của mình, để rồi cuối cùng
“con cái đặt đâu, thì cha mẹ phải ngồi đó”. Cho dù sự
tìm kiếm này lắm lúc cũng nhiêu khê vất vả :
- Yêu nhau tam tứ núi cũng trèo,
Thất bát sông cũng lội,
Tứ cửu tam thập lục đèo cũng qua.
- Yêu nhau chẳng quản xa gần,
Mấy sông cũng lội, mấy ngàn cũng
qua.
Hơn thế nữa, ngày nay người ta còn có
rất nhiều phương tiện hiện đại trợ giúp cho việc tìm
kiếm này, chẳng hạn như : điện thoại, email, blog…ngon bổ
rẻ, vừa tiện lợi, vừa nhanh chóng, lại vừa đỡ tốn
kém.
Nếu trong lãnh vực tình yêu, có được
một sự tiền định, một sự an bài nào đó, thì sự tiền
định và an bài ấy cũng chẳng ảnh hưởng gì tới sự tự
do của chúng ta. Mỗi người đều có quyền chọn lựa và
quyết định, đồng thời phải hoàn toàn chịu trách nhiệm
về những hành động của mình.
Đây là một sự chọn lựa có ý thức
giữa hai người nam và nữ. Mà chọn lựa thì vừa có nghĩa
là từ bỏ, lại vừa có nghĩa là chấp nhận.
Thực vậy, chúng ta phải từ bỏ tất cả
những gì đi ngược lại với tình yêu và làm cho tình yêu bị
rạn vỡ. Đó có thể là những kỷ niệm êm đềm trong dĩ vãng
của mối tình đầu. Đó có thể là những liên hệ thầm kín
và vụng trộm trong hiện tại. Tất cả đôi khi đã trở nên
những trận cuồng phong, giật sập căn nhà hạnh phúc.
Đồng thời, chúng ta còn phải chấp nhận
người chúng ta yêu với tất cả những ưu điểm và khuyết
điểm, những tính tốt và những tật xấu, bởi vì “nhân vô
thập toàn”, chẳng ai là một người hoàn toàn cả. Với
những ưu điểm và tính tốt, thì giúp nhau thăng tiến. Còn
với những khuyết điểm và tật xấu, thì giúp nhau uốn
nắn sửa đổi.
Như vậy, tình yêu là cả một nghệ
thuật, hay nói đúng hơn, là cả một quá trình phấn đấu,
để được liên tục phát triển. Kinh nghiệm cũng cho hay :
- Xin cho con lấy được người con yêu.
Lời cầu nguyện này xem ra có vẻ dễ
dàng và không đòi hỏi nhiêu cố gắng.
Thế nhưng :
- Xin cho con yêu được người con lấy.
Lời cầu nguyện này mới thực sự là
quan trọng và không ngừng đòi hỏi những giọt máu hy sinh
từng ngày.
Để kết luận, thiết tưởng trong mọi
lãnh vực, chúng ta nên ghi nhớ câu danh ngôn sau đây :
- Hãy tự cứu lấy mình, rồi trời sẽ
cứu.
Gã Siêu
gasieu@gmail.com
|
VỀ MỤC LỤC |
|
- Mọi liên lạc: Ghi danh, thay đổi địa chỉ, đóng góp ý kiến,
bài vở..., xin gởi về địa chỉ
giaosivietnam@gmail.com
- Những nội dung sẽ được đề cao và chú ý bao gồm:
Trao đổi, chia sẻ những kinh nghiệm thực tế trong việc mục
vụ của Giáo sĩ; Những tài liệu của Giáo hội hoặc của các
Tác giả nhằm mục đích Thăng tiến đời sống Giáo sĩ; Cổ võ ơn
gọi Linh mục; Người Giáo dân tham gia công việc “Trợ lực
Giáo sĩ” bằng đời sống cầu nguyện và cộng tác trong mọi lãnh
vực; Mỗi Giáo dân phải là những “Linh mục” không có chức
Thánh; Đối thoại trong tinh thần Bác ái giữa Giáo dân và
Giáo sĩ… (Truyền giáo hay xây pháo đài?)
- Quy vị cũng có thể tham khảo những số báo đã phát hành tại
www.conggiaovietnam.info
Rất mong được sự cộng tác, hưởng ứng của tất cả Quí vị
Xin chân thành cám ơn tất cả anh chị em đã
sẵn lòng cộng tác với chúng tôi bằng nhiều cách thế khác
nhau.
TM. Đặc San Giáo Sĩ Việt Nam
Lm. Luca
Phạm Quốc Sử
USA
|
|
*************
|
|