Các Giáo Hội Và Cộng Ðoàn Giáo Hội Ly
Khai Với Tông Tòa Roma |
Sắc Lệnh Về
Hiệp Nhất
Unitatis
Redintegratio
Bản dịch Việt
Ngữ của Giáo Hoàng Học Viện Piô X
Prepared for
Internet by Vietnamese Missionaries in Asia
Chương III
Các Giáo Hội Và
Cộng Ðoàn Giáo Hội
31*
Ly Khai Với
Tông Tòa Roma
13. Phân
loại. Giờ đây, chúng ta đưa mắt nhìn đến hai khối
phân ly chính xúc phạm đến chiếc áo liền một tấm của Chúa Kitô
32*.
Khối phân ly thứ nhất đã nẩy sinh ở Ðông
Phương, hoặc vì để phản đối các công thức tín lý của các Công
Ðồng Ephêsô
33* và Calcedonia
34*, hoặc sau này vì sự cắt đứt
35* hiệp thông Giáo Hội giữa các Giáo Chủ Ðông Phương
và Tòa Thánh Roma.
Thứ đến, hơn bốn thế kỷ sau, khối phân ly
thứ hai phát sinh ở Tây Phương do những biên cố cùng được mệnh
danh là Cải Cách. Từ đó, nhiều Cộng Ðoàn, quốc gia hoặc giáo
đoàn đã ly khai với Tòa Thánh Roma. Trong số ấy còn có những
Cộng Ðồng duy trì phần nào những truyền thống và cơ cấu công
giáo, đáng kể nhất là Cộng Ðoàn Anh Giáo.
Các mối chia rẽ ấy rất khác nhau chẳng
những về nguồn gốc, không gian và thời gian, nhưng nhất là về
bản chất và tầm quan trọng của các vấn đề liên hệ đến đức tin và
cơ cấu Giáo Hội.
Vì thế, tuy không coi thường những hoàn
cảnh dị biệt của các Cộng Ðoàn Kitô hữu khác nhau ấy, tuy không
bỏ qua những mối liên lạc còn đang nối kết họ với nhau, bất chấp
những mối chia rẽ hiện có, Thánh Công Ðồng này quyết định đề ra
những nhận định sau đây để mọi người biết khôn ngoan hành động
mưu cầu hiệp nhất.
I. Nhận Ðịnh Ðặc
Biệt Về Các Giáo Hội Ðông Phương
14. Tính
chất lịch sử riêng biệt của các Giáo Hội Ðông Phương.
Trong nhiều thế kỷ, các Giáo Hội Ðông và Tây Phương đã đi theo
đường lối riêng của mình, nhưng vẫn liên kết với nhau trong tình
huynh đệ nhờ hiệp thông trong đức tin và đời sống bí tích; do sự
thỏa thuận chung, Tòa Thánh Roma can thiệp mỗi khi các Giáo Hội
ấy bất đồng quan điểm với nhau về đức tin hay về kỷ luật. Thánh
Công Ðồng hân hoan nhắc lại cho mọi người một trong những điều
quan trọng là, ở Ðông Phương đang phát triển nhiều Giáo Hội
riêng biệt hay địa phương
36*, đứng đầu là các Giáo Hội có Thượng Phụ
37*, trong đó có nhiều Giáo Hội hãnh diện vì được
chính các Tông Ðồ thiết lập
38*. Vì thế các tín hữu đông phương đã và đang mang
nặng mối bận tâm và âu lo duy trì những liên lạc thân hữu trong
hiệp thông đức tin và đức ái, là những liên lạc phải có giữa các
Giáo Hội địa phương như giữa anh em ruột thịt
39*.
Cũng đừng quên rằng, các Giáo Hội Ðông
Phương từ khởi đầu đã từng có một kho tàng cống hiến cho Giáo
Hội Tây Phương nhiều yếu tố về phụng vụ, về truyền thống tu đức
và luật pháp. Còn một sự kiện khác không nên coi thường là,
những tín điều căn bản về đức tin Kitô giáo như Thiên Chúa Ba
Ngôi, Ngôi Lời Thiên Chúa Nhập Thể bởi Ðức Trinh Nữ Maria, đã
được định tín trong các Công Ðồng Chung khai diễn tại Ðông
Phương
40*. Các Giáo Hội ấy đã và đang chịu nhiều khổ đau để
gìn giữ đức tin ấy.
Di sản do các Tông Ðồ truyền lại đã được
đón nhận qua nhiều hình thức và cách thế khác nhau, do ngay từ
thuở ban đầu của Giáo Hội, di sản ấy cũng được giải thích khác
nhau đây đó tùy theo thiên tài và cảnh sống riêng. Không kể
những nguyên nhân ngoại tại, bấy nhiêu yếu tố
41*, cộng với sự thiếu bác ái và thông cảm lẫn nhau,
đã mở đường cho nhiều mối chia rẽ phát sinh.
Vì vậy, Thánh Công Ðồng khuyến dụ mọi
người, đặc biệt là những ai muốn hoạt động tái lập sự hiệp thông
trọn vẹn như các Giáo Hội Ðông Phương và Giáo Hội Công Giáo hằng
mong mỏi hay nhận định chính xác về hoàn cảnh cá biệt đã khai
sinh và phát triển các Giáo Hội Ðông Phương, và về đặc tính của
mối liên lạc đã có giữa các Giáo Hội ấy với Tòa Thánh Roma trước
thời phân ly cũng như hãy tạo cho mình một quan niệm chính đáng
về tất cả những điểm nêu trên. Chu đáo giữ được những điều ấy là
đã đóng góp rất nhiều cho cuộc đối thoại mong muốn kia
42*.
15. Truyền
thống phụng vụ và tu đức của các Giáo Hội Ðông Phương.
Mọi người đều thấy hiển nhiên là các tín hữu đông phương rất mộ
mến cử hành phụng vụ Thánh, nhất là việc cử hành Phép Thánh Thể,
nguồn sống của Giáo Hội và đảm bảo vinh quang đời sau, nhờ đó
các tín hữu hiệp nhất với giám mục được đến gần Thiên Chúa Cha,
nhờ Chúa Con Ngôi Lời Nhập Thể đã chịu đau khổ và được hiển
vinh, trong ơn tràn trề của Chúa Thánh Thần họ được thông hiệp
cùng Thiên Chúa Ba Ngôi rất thánh và "thông phần bản tính Thiên
Chúa" (2P 1,4). Vì vậy, nhờ việc cử hành Thánh Thể trong từng
Giáo Hội ấy, Giáo Hội Thiên Chúa được xây dựng và bành trướng
1, và sự thông hiệp giữa các Giáo Hội ấy tỏ rõ qua
việc đồng tế.
Trong nghi lễ phụng vụ này, Ðức Maria trọn
đời đồng trinh hằng được các tín hữu đông phương ca ngợi bằng
những bài thánh ca tuyệt diệu. Công Ðồng Chung Ephêsô đã long
trọng tuyên bố Ngài là Mẹ Thiên Chúa Rất Thánh, để Chúa Kitô
được nhận thật là chính Con Thiên Chúa và là Con Người theo
Thánh Kinh. Họ cũng ca tụng nhiều vị thánh, trong số ấy có các
Thánh Giáo Phụ của toàn thể Giáo Hội.
Vì các Giáo Hội ấy, mặc dù ly khai, vẫn có
các bí tích đích thực nhờ sự kế vị các Tông Ðồ, nhất là Chức
Linh Mục và Phép Thánh Thể, bởi đó, họ còn liên kết chặt chẽ với
chúng ta; cho nên một vài hình thức thông dự vào sự thánh, trong
những trường hợp thuận tiện và với sự chấp thuận của giáo quyền,
chẳng những là có thể thực hiện mà còn đáng khuyến khích nữa
43*.
Ở Ðông Phương cũng còn thấy nhiều truyền
thống tu đức phong phú, tiêu biểu nhất là đời sống đan viện, vì
tại đây, nền tu đức đan viện đã phát triển ngay từ thời vang son
của các Thánh Giáo Phụ, và về sau, còn lan tràn sang nhiều nơi ở
Tây Phương. Ðịnh chế dòng tu Latinh phát xuất, và sau đó, không
ngừng nhận được sinh lực mới từ nền tu đức ấy như từ nguồn mạch
của mình. Vì vậy, thiết tha kêu mời những người Công Giáo hãy
nâng tìm đến kho tàng thiêng liêng của các Thánh Giáo Phụ Ðông
Phương hơn vì kho tàng ấy nâng toàn thể con người đến chỗ chiêm
ngưỡng những sự thần linh.
Mọi người đều biết rằng: thông hiểu, kính
trọng, giữ gìn và phát triển di sản phụng vụ và tu đức rất phong
phú của các tín hữu đông phương là việc tối quan trọng để trung
thành bảo toàn truyền thống Kitô giáo và để thực hiện sự giao
hòa các Kitô hữu đông phương với tây phương.
16. Quy luật
riêng của các Giáo Hội Ðông Phương. Hơn nữa, ngay
từ buổi đầu, các Giáo Hội Ðông Phương đã theo những qui luật
riêng được các Thánh Giáo Phụ, các Công Ðồng và cả các Công Ðồng
Chung phê chuẩn. Vì sự khác biệt về phong tục và tập quán đã
nhắc tới trên kia chẳng những rất ít cản trở sự hiệp nhất mà còn
tăng thêm vẻ đẹp của Giáo Hội và góp phần không nhỏ vào việc chu
toàn sứ mệnh của Giáo Hội, nên để đánh tan mọi nghi ngờ, Thánh
Công Ðồng tuyên bố: các Giáo Hội Ðông Phương, đang khi nhớ đến
sự hiệp nhất cần thiết của toàn thể Giáo Hội
44*, vẫn có quyền tự trị theo các kỷ luật riêng, vì
điều này phù hợp với đặc tính của tín hữu họ và có thể mưu ích
cho các linh hồn hơn. Ðây là một nguyên tắc truyền thống người
ta thường không noi giữ, nhưng, giữ trọn được là đã thỏa mãn một
trong những điều kiện tối cần để tái lập hiệp nhất.
17. Tính
chất đặc biệt của các Giáo Hội Ðông Phương về những vấn đề giáo
lý. Những gì đã trình bày về sự dị biệt chính
đáng trên kia cũng áp dụng được cho những phương thức trình bày
giáo thuyết thần học khác nhau. Thực thế, trên đường đi tìm chân
lý mạc khải, ở đông cũng như ở tây phương, có nhiều phương pháp
và tiến trình khác nhau để nhận thức và tuyên xưng những sự thần
linh. Do đó, không đáng ngạc nhiên khi thấy có vài khía cạnh của
mầu nhiệm mạc khải đôi khi được một bên hiểu đúng và trình bày
sáng sủa hơn bên kia, thành thử những công thức thần học khác
nhau ấy phải được coi là bổ túc hơn là đối lập nhau. Còn về
những truyền thống thần học chân chính của các tín hữu đông
phương, phải công nhận là chúng ăn rễ cách tuyệt hảo trong Thánh
Kinh, lại được khai triển và biểu hiện trong đời sống PhụngVụ,
được nuôi dưỡng bằng truyền thống Tông Ðồ, sống động trong các
văn phẩm của các Thánh Giáo Phụ Ðông Phương cũng như của các tác
giả tu đức, chúng giúp xây dựng một cuộc đời chính trực và giúp
chiêm ngưỡng đầy đủ chân lý Kitô giáo.
Tạ ơn Chúa vì nhiều tín hữu đông phương con
cái Giáo Hội Công Giáo đang sống hoàn toàn hiệp thông
45* với các anh em thuộc truyền thống tây phương, mà
vẫn giữ gìn và tha thiết sống phần gia sản ấy cho tinh ròng và
đầy đủ hơn, Thánh Công Ðồng này tuyên bố rằng: toàn bộ di sản tu
đức và phụng vụ, kỷ luật và thần học trong các truyền thống ấy
thuộc về đặc tính công giáo và tông truyền trọn vẹn của Giáo
Hội.
18. Kết luận.
Sau khi nhắc tất cả những điều ấy, Thánh Công Ðồng này lập lại
những gì đã được các Thánh Công Ðồng trước cũng như các Ðức Giáo
Hoàng Roma tuyên bố: để tái lập và duy trì sự thông hảo và hiệp
nhất, "chẳng còn buộc anh em gánh nặng nào khác ngoài những sự
cần thiết" (CvSđ 15,28). Công Ðồng cũng tha thiết ước mong từ
đây, mọi cố gắng đều nhằm thực hiện dần dần sự hiệp nhất
46* trong những định chế và hình thức khác nhau của
đời sống Giáo Hội, nhất là trong kinh nguyện và đối thoại huynh
đệ về giáo lý và về các nhu cầu mục vụ khẩn thiết hơn của thời
đại chúng ta. Cũng thế Công Ðồng khuyên các chủ chăn và tín hữu
của Giáo Hội Công Giáo hãy giao hảo với những kẻ không còn ở
đông phương nhưng sống xa quê nhà,
47* để gia tăng sự cộng tác thân ái với họ hơn trong
tinh thần bác ái và loại trừ những hình thức ganh đua, tranh
tụng. Nếu mọi người hết lòng xúc tiến công cuộc này, Thánh Công
Ðồng hy vọng rằng, sau khi bức tường ngăn cách Giáo Hội Ðông Tây
bị phá đổ, sẽ chỉ còn ngôi nhà duy nhất được củng cố trên đá góc
là Chúa Giêsu Kitô, Ðấng sẽ làm cho cả hai nên một
2.
II. Các Giáo Hội
Và Cộng Ðoàn Giáo Hội Ly Khai Tây Phương
19. Tình
trạng chung. Các Giáo Hội Cộng Ðoàn Giáo Hội đã
ly khai với Tông Tòa Roma trong thời khủng hoảng trầm trọng nhất
phát sinh ở Tây Phương từ cuối thời Trung Cổ hoặc mãi về sau
này, vẫn còn liên kết với Giáo Hội Công Giáo bằng một mối dây
thân thích và một sự liên lạc đặc biệt vì lớp dân Kitô giáo ấy
đã sống hiệp thông với Giáo Hội rất lâu trong những thế kỷ
trước.
Các Giáo Hội và Cộng Ðoàn Giáo Hội ấy vì sự
dị biệt nguồn gốc, giáo lý và đời sống tu đức chẳng những khác
với chúng ta mà còn khác biệt với nhau nữa, nên rất khó diễn tả
cho đúng các Giáo Hội ấy và chúng tôi có ý làm điều ấy nơi đây.
Mặc dù phong trào hiệp nhất và ước vọng
sống hòa bình với Giáo Hội Công Giáo chưa được đề cao khắp nơi,
nhưng chúng tôi cũng hy vọng rằng ý thức hiệp nhất và sự tôn
trọng lẫn nhau sẽ dần lớn lên trong mọi người.
Phải nhìn nhận rằng, có nhiều dị biệt quan
trọng giữa các Giáo Hội và Cộng Ðoàn Giáo Hội ấy với Giáo Hội
Công Giáo, chẳng những về phương diện lịch sử, xã hội, tâm lý,
văn hóa, nhưng nhất là về cách giải thích chân lý mạc khải. Ðể
có thể thiết lập cuộc đối thoại hiệp nhất dễ dàng hơn, bất chấp
những dị biệt đó, sau đây chúng tôi muốn đề ra một vài điểm có
thể và phải là nền tảng và yếu tố thúc đẩy cho cuộc đối thoại ấy
48*.
20. Việc
tuyên xưng Chúa Kitô. Chúng tôi đặc biệt nghĩ đến
những Kitô hữu đang công khai tuyên xưng Chúa Giêsu Kitô là Chúa
và là Thiên Chúa, Ðấng trung gian duy nhất giữa Thiên Chúa và
loài người, để làm vinh danh Thiên Chúa độc nhất là Cha, Con và
Thánh Thần. Thực ra chúng tôi biết nơi họ có nhiều khác biệt
quan trọng với giáo lý của Giáo Hội Công Giáo, khác biệt ngay cả
về Chúa Kitô Ngôi Lời Thiên Chúa nhập thể, về công trình cứu
chuộc, và do đó, về mầu nhiệm và chức vụ của Giáo Hội cũng như
về vai trò của Ðức Maria trong công cuộc cứu thế. Nhưng chúng
tôi vui mừng khi thấy các anh em ly khai hướng về Chúa Kitô như
là nguồn mạch và trung tâm của sự hiệp thông Giáo Hội. Xúc động
vì ước vọng kết hiệp với Chúa Kitô, họ được thúc đẩy để càng
ngày càng tìm về hiệp nhất và làm chứng đức tin của mình khắp
muôn dân thiên hạ.
21. Học hỏi
Thánh Kinh. Lòng yêu mến, kính trọng và gần như
tôn sùng Thánh Kinh khiến các anh em của chúng ta bền chí và
hăng say học hỏi Sách Thánh: vì Phúc Âm "là quyền năng Thiên
Chúa để cứu rỗi mọi tín hữu, trước tiên là Do Thái, kế đến Hy
Lạp" (Rm 1,16).
Nhờ cầu khẩn Thánh Thần,
49* họ tìm Thiên Chúa ngay trong Thánh Kinh, Ðấng như
nói với họ trong Chúa Kitô, Ðấng các tiên tri loan báo trước và
là Ngôi Lời Thiên Chúa nhập thể vì chúng ta. Trong Thánh Kinh,
họ chiêm ngưỡng cuộc đời Chúa Kitô và những gì Thầy Chí Thánh đã
dạy và đã làm để cứu rỗi loài người, họ cũng chiêm ngưỡng các
mầu nhiệm, nhất là mầu nhiệm sự chết và phục sinh của Người.
Tuy các Kitô hữu ly khai với chúng ta xác
nhận thần quyền của Sách Thánh, nhưng mỗi người mỗi khác, họ cảm
nghĩ khác chúng ta về sự liên quan giữa Thánh Kinh và Giáo Hội;
trong đó theo đức tin công giáo, giáo huấn đích thực đặc biệt có
thẩm quyền trong việc giải thích và rao giảng Lời Chúa đã được
ghi chép.
Tuy nhiên trong chính việc đối thoại, Lời
Chúa là dụng cụ tuyệt hảo trong bàn tay toàn năng của Thiên Chúa
để đạt tới sự hiệp nhất được Ðấng Cứu Thế tỏ bày cho mọi người.
22. Các bí
tích. Nhờ Phép Rửa được ban đúng như Chúa đã
thiết lập và được lãnh nhận với đủ dự kiện tâm hồn cần thiết,
con người thật sự được tháp nhập vào Chúa Kitô đã chịu đóng đinh
và vinh hiển, và được tái sinh để thông phần sự sống Thiên Chúa
theo lời Thánh Tông Ðồ: "Anh em được mai táng với Người trong
phép Rửa, anh em cũng sẽ được sống lại với Người bởi đã tin vào
Thiên Chúa tác thành, chính Ðấng đã khiến Người từ trong kẻ chết
sông lại" (Col 2,12)
3.
Vậy phép Rửa tạo nên mối dây hiệp nhất tất
cả những kẻ đã được tái sinh. Nhưng phép Rửa, tự bản tính, mới
chỉ là bắt đầu và khởi điểm, vì phép Rửa trọn vẹn nhằm đạt tới
sự sống sung mãn trong Chúa Kitô. Như thế, phép Rửa qui hướng về
việc tuyên xưng trọn vẹn đức tin, sát nhập trọn vẹn vào định chế
cứu rỗi như chính Chúa Kitô đã muốn và sau cùng kết nhập trọn
vẹn vào sự hiệp thông thánh thể.
Những cộng đoàn Giáo Hội ly khai với chúng
ta, mặc dù không hiệp nhất đầy đủ với chúng ta như phép Rửa đòi
hỏi, và mặc dù chúng ta tin họ không còn giữ được bản chất đích
thực và nguyên vẹn của Mầu Nhiệm Thánh Thể nhất là vì thiếu bí
tích Truyền Chứa Thánh
50*, nhưng khi tưởng niệm sự chết và sự sống lại của
Chúa trong Tiệc Thánh họ đã tuyên xưng rằng sự sống chỉ có nghĩa
nhờ hiệp thông với Chúa Kitô và họ mong đợi ngày trở lại vinh
quang của Người. Do đó, phải dùng giáo lý về Tiệc Thánh của
Chúa, về các bí tích khác, về việc phụng tự cũng như về các thừa
tác vụ của Giáo Hội làm đối tượng cho cuộc đối thoại.
23. Cuộc
sống với Chúa Kitô. Ðời sống Kitô hữu của các anh
em ấy được nuôi dưỡng bằng đức tin vào Chúa Kitô và được duy trì
nhờ ân sủng của phép Rửa và nhờ nghe Lời Thiên Chúa. Ðời sống ấy
biểu lộ trong kinh nguyện riêng, trong việc suy niệm Thánh Kinh,
trong đời sống gia đình Kitô giáo, trong việc phụng tự của cộng
đoàn tụ họp để ngợi khen Thiên Chúa. Hơn nữa, đôi khi trong các
nghi lễ phụng tự của họ cũng thấy có những yếu tố nổi bật thuộc
nền phụng vụ cổ kính chung.
Ðức tin vào Chúa Kitô đã kết quả trong
những lời ngợi khen và cảm tạ vì các ơn lành nhận được do Chúa
ban; thêm vào đó là ý thức mạnh mẽ về đức công bình và tình yêu
chân thành đối với tha nhân. Ðức tin sống động ấy cũng phát sinh
nhiều tổ chức nhằm xoa dịu sự cùng khổ tinh thần và thể xác,
giáo dục, tuổi trẻ, cải tiến những hoàn cảnh xã hội của cuộc
sống thành nhân đạo hơn và củng cố nền hòa bình thế giới.
Mặc dù, trước các vấn đề luân lý, có nhiều
Kitô hữu không luôn hiểu Phúc Âm cùng một cách như người công
giáo và không cùng nhận những giải pháp giống nhau trước những
vấn đề khó khăn của xã hội hiện đại. Tuy nhiên, như chúng ta, họ
cũng muốn giữ vững lời Chúa Kitô như là nguồn mạch của đức hạnh
Kitô giáo và tuân theo lời Thánh Tông Ðồ dạy: "Hết thảy công
việc anh em làm, bất cứ lời nói hay hành động, hãy thực hiện tất
cả nhân danh Chúa Giêsu Kitô và nhờ Người cảm tạ Thiên Chúa Cha"
(Col 3,17). Từ đó, có thể bắt đầu cuộc đối thoại hiệp nhất về
việc áp dụng Phúc Âm vào các vấn đề luân lý.
Kết Luận
24.
Sau khi đã vắn tắt trình bày những điều kiện và các nguyên tắc
chỉ đạo để thực hiện công cuộc hiệp nhất, chúng tôi tin tưởng
hướng về tương lai. Thánh Công Ðồng này khuyến cáo các tín hữu
hãy tránh mọi sự nhẹ dạ và nhiệt thành thiếu khôn ngoan có thể
phương hại tới việc phát triển công cuộc hiệp nhất. Thật vậy,
hoạt động hiệp nhất của họ không thể thành tựu được, nếu nó
không hoàn toàn và thực sự là công giáo, nghĩa là trung thành
với chân lý do các Tông Ðồ và các Giáo Phụ
51* truyền lại và phù hợp với đức tin luôn được Giáo
Hội Công Giáo tuyên xưng, đồng thời hướng tới sự sung mãn nhờ đó
Chúa muốn Thân Thể Người được lớn lên qua các thời đại.
Thánh Công Ðồng này luôn khẩn khoản ước
mong cho các sáng kiến của con cái Giáo Hội Công Giáo được tiến
triển hòa hợp với các sáng kiến của anh em ly khai mà không cản
trở đường lối của Thiên Chúa Quan Phòng, cũng như không gây
thiên kiến làm phương hại đến những ơn Chúa Thánh Thần thúc đầy
sau này.
52* Hơn nữa Thánh Công Ðồng cũng tuyên bố là mình luôn
ý thức rằng ý nguyện thánh thiện giao hòa toàn thể Kitô hữu
trong sự hiệp nhất của Giáo Hội duy nhất và độc nhất của Chúa
Kitô vượt quá sức lực và khả năng loài người. Vì thế, Thánh Công
Ðồng đặt hết hy vọng vào lời Chúa Kitô nguyện cầu cho Giáo Hội,
vào tình thương của Chúa Cha đối với chúng ta và vào quyền lực
của Chúa Thánh Thần. "Hy vọng không bị hổ thẹn: vì tình yêu của
Thiên Chúa giãi khắp lòng ta nhờ Chúa Thánh Thần Ðấng đã được
ban cho ta" (Rm 5,5).
Tất cả và từng điều đã được ban bố trong
Sắc Lệnh này đều được các Nghị Phụ Thánh Công Ðồng chấp thuận.
Và dùng quyền Tông Ðồ Chúa Kitô trao ban, hiệp cùng các Nghị Phụ
khả kính, trong Chúa Thánh Thần, Chúng Tôi phê chuẩn, chế định
và quyết nghị, và những gì đã được Thánh Công Ðồng quyết nghị,
Chúng Tôi truyền công bố cho Danh Chúa cả sáng.
Roma, tại Ðền Thánh Phêrô, ngày 21 tháng 11
năm 1964.
Tôi, Phaolô Giám Mục Giáo Hội Công Giáo.
Tiếp theo là chữ ký của các Nghị Phụ.
Chú Thích:
31*
Tĩnh từ "Giáo Hội" (ecclesilis) ở đây là một ngôn từ mới, phát
xuất từ giáo phái Tin Lành, chỉ một điều gì liên quan đến Giáo
Hội trong tư thế một mầu nhiệm siêu nhiên. Theo dụng ngữ công
giáo, tiếng này không bao hàm ý tưởng một Giáo Hội thuần túy vô
hình và thiêng liêng. Chữ "thuộc Giáo Hội" (ecclesiasticus)
thường chỉ nghĩa diều gì thuộc riêng của Giáo Hội Công Giáo.
32*
Sau khi đóng đinh Chúa Kitô, lúc chia nhau y phục của Người, mấy
người lính chợt nhận thấy tấm áo dài liền kim không có đường may
(Gio 19,23). Ngay từ thời sơ khai Kitô giáo, người ta đã thấy
qua tấm áo không đường may này một hình ảnh của Giáo Hội không
phân rẽ do Chúa Giêsu Kitô thiết lập. Nhưng thực tế đã có nhiều
cộng đoàn Kitô giáo tách rời khỏi Giáo Hội chân thực của Chúa
Kitô, và như vậy mở đường cho những cuộc phân ly. Trong chương
này, sắc lệnh lưu ý tới hai khối phân ly chính: một ở Ðông
Phương và một ở Tây Phương (gồm Tin Lành và Anh Giáo).
33*
Công Ðồng Ephêsô (năm 431) đã truyền dạy một cách bất khả ngộ
rằng Chúa Giêsu Kitô là một Ngôi Vị đơn nhất, Con Thiên Chúa làm
người và Ðức Maria thật sự là Mẹ Thiên Chúa. Phái Nestorianô đã
chối bỏ những chân lý ấy và tự tách khỏi Giáo Hội phổ quát.
34*
Công Ðồng Calcedonia (năm 451) tuyên bố rằng Chúa Giêsu Kitô là
Thiên Chúa thật cũng là Người thật và trong Người có hai bản
tính, thần tính và nhân tính, hoàn hảo, phân biệt chứ không hòa
trộn lẫn nhau. Song có những cộng đoàn địa phương quả quyết nơi
Chúa Kitô chỉ có một bản tính. Ðó là những người theo nhất tính
thuyết, họ cũng đã ly khai khỏi Giáo Hội Công Giáo.
35*
Sự cắt đứt này đã xảy ra năm 1054 khi Ðặc Sứ của Ðức Giáo Hoàng,
Hồng Y Humbert, dứt phép thông công Thượng Phụ thành
Constantinopla là Micae Cerulariô. Ðáp lại, Thượng Phụ Cerulariô
cũng dứt phép thông công vị Ðặc Sứ đó và tách khỏi Roma. Sự cắt
đứt này đã thành toàn diện và dứt khoát vào thế kỷ XIII. Ngày 7
tháng 12 năm 1965 tại Roma, Ðức Giáo Hoàng Phaolô VI và tại
Constantinopla Ðức Thượng Phụ Athenagoras long trọng hủy bỏ sự
dứt phép thông công lẫn nhau ấy.
36*
Giáo Hội riêng biệt là một cộng đoàn hay một giáo khu gồm mọi
tín hữu cùng theo một lễ chế phụng vụ, cùng giữ một quy luật
giáo hội và cùng chịu một quyền quản trị như nhau. Chỗ này chữ
"địa phương" hiểu theo nghĩa rộng, vì một Giáo Hội riêng biệt có
các tín đồ ở rải rác nhiều nơi.
37*
Giáo Hội này là một Giáo Hội riêng biệt mà thủ lãnh là một
thượng phụ như Giáo Hội Nga, Giáo Hội Constaninopla... Hiện nay,
có ít nhất là 9 Giáo Hội có Thượng Phụ thuộc Ðông Phương ly
khai.
38*
Vì dụ như Giáo Hội Giêrusalem và Antiokia.
39*
Những Giáo Hội Ðông Phương ly khai sống độc lập nhau. Họ coi
nhau như những Giáo Hội huynh đệ, không có và không nhận một thủ
lãnh chung trên họ. Trái lại, những Giáo Hội riêng biệt (địa
phương) Công Giáo lại có cùng một thủ lãnh cao cấp chung: Ðức
Giáo Hoàng. Ngài có quyền trên tất cả các Giáo Hội Công Giáo
riêng biệt Ðông phương cũng như Tây Phương.
40*
Những điều này quy chiếu về thời các Giáo Hội này còn liên kết
với Roma. Lúc ấy, 7 Công Ðồng Chung đầu tiên đều nhóm họp ở
phương Ðông.
41*
Giáo Hội Ðông Phương càng phát triển, những người Tây Phương
càng ít cảm thông tâm thức Ðông Phương, cũng như ngược lại; sự
kiện đó đưa tới nhiều hiểu lầm và khi thị đáng tiếc ở cả hai bên
và khích động thêm sự chia rẽ.
42*
Ðoạn này đề cập đến những Giáo Hội Ðông Phương không công giáo
(ly khai), không nói về các Giáo Hội liên kết với Roma. Công
Ðồng đã công bố một sắc lệnh đặc biệt bàn tới những Giáo Hội
Công Giáo Ðông Phương nhan đề "Giáo Hội Công Giáo Ðông Phương".
1
Xem T. Gioan Kim Khẩu, In Joanem, Homelia, XLVI: PG 59,260-262.
43*
Những tiêu chuẩn về sự tham dự hỗ tương trong các sinh hoạt tôn
giáo này đã được trình bày cặn kẽ trong sắc lệnh về những Giáo
Hội Công Giáo Ðông Phương (số 26-29).
44*
Toàn thể Giáo Hội chính là Giáo Hội phổ quát Công Giáo, Giáo Hội
duy nhất Chúa Kitô sáng lập. Lúc Ðông Phương còn liên kết với
Tông Tòa Roma, những Giáo Hội riêng biệt Ðông Phương đã hưởng
dụng một quyền tự trị thật đáng kể. Ðức Giáo Hoàng ít khi can
thiệp vào việc quản trị của họ. Sắc lệnh tuyên bố rằng quyền tự
trị ấy vẫn được duy trì nếu họ liên kết lại với Giáo Hội phổ
quát. Sự liên kết này bao hàm việc thừa nhận tối thượng quyền
nơi Ðức Giáo Hoàng kế vị thánh Phêrô, Ðại Diện tối cao của Chúa
Kitô. Tuy nhiên việc thừa nhận ấy vẫn dung hợp tốt đẹp với một
quyền tự trị rất lớn của các Giáo Hội riêng biệt.
45*
Nói về những Giáo Hội Công Giáo Ðông Phương, nghĩa là có liên
kết với Roma.
46*
Những dự tính liên kết giữa Ðông Phương và Giáo Hội Công Giáo
của Công Ðồng Lyon II và Công Ðồng Firenze đã thất bại, bởi vì
tâm thức tín hữu đông phương ly khai lúc ấy chưa được chuẩn bị
sẵn để đón nhận việc liên kết. Ở đây sắc lệnh nhắm tới việc
chuẩn bị tinh thần và thiêng liêng cho các dân tộc Kitô Giáo
Ðông Phương hầu đạt đến một mối liên kết tốt đẹp.
47*
Ðây là những người Ðông Phương không công giáo di trú trong
nhiều miền khác nhau tại Âu Châu, Mỹ Châu. Việc họ tiếp xúc với
người công giáo tại đó có thể giúp đôi bên xích lại dần nhau dễ
dàng hơn.
2
Xem CÐ Firenze, khóa VI (1439), Ðịnh tín Laetentur caeli: Mansi
31, 1026E.
48*
Trong số này Sắc Lệnh chứng tỏ rằng có nhiều điểm dị biệt giữa
anh em "ly giáo" tây Phương và Giáo Hội Công Giáo hơn là giữa
Ðông Phương ly khai và Công Giáo Tây Phương. Do đó việc liên kết
càng khó khăn hơn, tuy thế cũng cần phải mở một cuộc đối thoại.
Trong những số tiếp theo, Sắc Lệnh nêu lên một vài học thuyết
chung có thể làm khởi điểm cho cuộc đối thoại ấy.
49*
Do lời yêu cầu Ðức Phaolô VI, người ta thay đổi hai điểm trong
câu này. Thay vì tiếng "được tác động bởi Chúa Thánh Thần" bây
giờ đổi lại thành "Nhờ cầu khẩn Chúa Thánh Thần", và chữ "họ
tìm" thay thế cho "họ gặp thấy". Sở dĩ thay đổi như vậy là cốt
tránh dáng vẻ chấp nhận giáo thuyết của những người cải cách.
Theo giáo thuyết này, mọi tín hữu đều được Chúa Thánh thần ban
cho đầy đủ ánh sáng để hiểu thấu ý nghĩa mạc khải của Thánh Kinh
và để nhờ thế gặp thấy Thiên Chúa trong Sách Thánh, không cần
nhờ đến quyền Giáo Huấn của Giáo Hội. Thực sự, người ta có thể
gặp được Thiên Chúa trong Sách Thánh; nhưng không gặp Ngài một
cách tất nhiên và trong bất cứ lúc nào; lý do là vì những ngăn
trở về tâm tính chủ quan người ta có thể không gặp thấy Ngài.
3
Xem Rm 6,4.
50*
Những cộng đoàn giáo hội Tin Lành không có bí tích Truyền Chức
Thánh. Vì thế, các thừa tác viên của họ không có quyền thánh
hiến bánh rượu thành Mình Máu Chúa Kitô. Lễ tiệc ly Tin Lành
không bao hàm sự hiện diện thật sự; nó không phải là một hy lễ
đích thực. Do đó, anh em Tin Lành đã không bảo tồn được "bản
chất đích thực và nguyên vẹn của mầu nhiệm Thánh Thể". Công thức
này đã được Ðức Phaolô VI minh nhiên ưng thuận.
51*
Giáo Phụ là những văn sĩ công giáo thuộc thời kỳ đầu của Giáo
Hội, từ thế kỷ I thới thế kỷ VIII.
52*
Ðoạn này bộc lộ niềm hy vọng vào tương lai. Ðường lối của Chúa
Quan Phòng thật lạ lùng. Người ta không thể biết trước những ơn
Chúa Thánh Thần thúc đẩy. Tuy nhiên, mỗi tín hữu nói riêng và
mỗi cộng đồng nói chung phải luôn luôn tuyệt đối vâng theo Chúa
Thánh Thần.
|
VỀ MỤC LỤC |
|
CHÀO MỪNG NĂM THÁNH 2010 CỦA HỘI THÁNH VIỆT NAM -
NHỚ VỀ QUÊ HƯƠNG: XỨ SỞ KIỆN |
Khi đặt bút
viết mấy dòng tâm tư, hồi kí về một dĩ vãng xa xôi, (hơn 70
năm), những hình ảnh như luỹ tre xanh, bờ đê, ao rạch, và những
con đường đá dăm(đá xay nhỏ) quanh co, khúc khuỷu chạy quanh
làng.., đặc biệt Ngôi Nhà Thờ Lớn vào bậc nhất Việt Nam,
những dinh thự, tòa nhà cổ của Tòa Giám mục đầu tiên trên đất
Bắc, và những nhân vật thân thương, họ hàng bà con trong Làng,
như vẫn còn ẩn hiện chưa phai mờ, trong tâm trí và nỗi nhớ
nhung, khiến tôi ngậm ngùi, ngâm lại bài thơ “Hoài
cổ về Thăng Long” :
“
Tạo Hóa gây
chi cuộc hí trường
Đến nay thấm thoát mấy tinh
sương
Lối xưa xe ngựa hồn thu thảo
Nền cũ lâu đài bóng tịch dương
Đá vẫn trơ gan cùng tuế nguyệt
Nước vẫn cau mặt với tang
thương
Ngàn năm gương cũ soi kim cổ,
Cảnh đấy , người đây, luống
đoạn trường! “
( Bà Huyện
Thanh Quan)
Được tin Hội
Thánh Công Giáo Việt nam đã chọn địa điểm Sở Kiện, làm
nơi Khai Măm Năm Thánh , để Kỉ niệm 350 năm, Đạo
Thiên Chúa Hội Nhập vào Nước Việt( 1659-2009), và 50 năm(
1960-2010), thành lập Hàng Giáo Phẩm bản xứ., tâm trí tôi
thật mừng rỡ, vì Ơn Chúa đã soi sáng hướng dẫn các vị hữu trách
tìm về chính cái nôi, từ đó đã gieo vãi hột giống Phúc Âm ra
khắp miền đất Bắc thân yêu.
Thật
vậy, cách đây hơn 70 năm,
khi còn sống tại Làng quê xứ Sở Kiện, tôi đã được chứng kiến
những cảnh vắng vẻ, tiêu điều của một Trung tâm Truyền giáo một
thời gian dài rất náo nhiệt, sầm uất, nơi chôn cất bốn Vị Giám
Mục trong Ngôi Thánh Đường lớn vào bậc nhất Việt Nam(1884, Tòa
Giám Mục đóng đô mãi tới năm 1886 mới chuyển về Hànội, nơi đào
tạo hàng ngàn Linh Mục cho các Giáo Phận Đàng Ngoài tại Trường
Lý Đoán, Trường Triết Lý mãi tới năm 1935 mới rời về Liễu giai,
Hà Nội trao cho Hội các Linh Mục Xuân Bích quản
trị, cũng là nơi đã hội họp Công Đồng Bắc Kỳ 2, năm 1912...
Nhìn
vào Hoạ đồ tổ chức Ngày Khai Mạc,
ngày 23 và 24 Tháng Mười Một, năm 2009, tôi còn đủ trí
nhớ để vẽ lại cho quí vi hành hương tham dự Đại Hội, những vết
tích điêu tàn của một dĩ vãng vàng son. Địa thế Sở Kiện, thuận
tiện cho việc lưu thông vì nằm giữa Quốc Lộ 1A, và sông Đáy
bắt ngưồn từ Việt Trì, Sơn Tây.. và chảy ra tới Biển Nam Hải,
vùng Kim Sơn, Tiền Hải.. qua Gián Khẩu, hang Địch Lộng, Non Nước
Ninh Bình, Phát Diệm.. Bên kia sông là dẫy núi đá vôi trùng điệp
nối nhau bằng những thung lũng, rộng lớn, nhiều thú rừng như cọp
beo, gấu(chó), hươu, nai, hoãng.., cũng là nơi cư trú của nhiều
sắc tộc thiểu số( cùng chung chủng tộc với người Việt); dãy núi
đá vôi chạy qua miền Nho Quan( có Dòng Châu Sơn) và tiếp nối vào
dãy Trường sơn. Nhờ “địa lợi” của Xứ Sở Kiện, đặc biệt
trong thời cấm đạo, cần chỗ lẩn tránh trong rừng sâu, nên các
vị Bề Trên đã chọn làm chỗ dung thân. Theo truyện các ông bà vẫn
kể lại và lưu truyền cho con cháu trong làng, thì tên “Sở-Kiện”
là danh xưng gộp lại hai làng khác nhau: làng Kiện, hay Kiện
Khê về phía sông Đáy(phía tây), làng Sở hay Ninh Phú
(về phía đông), nơi tọa lạc Nhà Thờ Lớn, và Nhà Chung. Hai làng
làm hai nghề khác nhau: dân làng Kiện, chuyên về buôn bán, hay
nung vôi., còn làng Sở chuyên về canh nông.
Tổ tiên
Làng SỞ này,
không biết từ đâu tới định cư ở đây, nhưng có một đặc điểm là
“toàn tòng theo Công Giáo”, cả dân làng đều mang tên Họ
TRƯƠNG, một số nhỏ Họ Viên và Họ Quan,
không có các Họ khác như Trần, Lê, Nguyễn...Dân làng SỞ đã cống
hiến một diện tích đất rộng bằng một nửa làng, để xây Thánh
Đường, Nhà Nguyện Các Thánh Tử Đạo, kế bên Núi Đá Đức Mẹ Lộ Đức,
Nhà Xứ và các cơ sở như:
Trường Lý
Đoán(Thần Học, TriếtLý), Toà Giám Mục, Nhà In, Trường Thày
Giảng, Nhà Hưu trí của các giáo sĩ , tu sĩ. Ngoài ra, còn những
cơ sở cho hơn một trăm Nữ tu Nhà Dòng Mến Thánh Giá. Một Nhà Cơm
rất lớn để mỗi ngày ba-bốn trăm cha thầy tới dùng cơm.
Công viếc
tiếp tế thực phẩm do các trại trồng lúa và chăn nuôi như Trại
Khắc Cần, Trung Hiếu..và những thửa vườn rất rộng tọa lạc chung
quanh Nhà Chung. Cũng như các thôn làng Việt nam, để đề phòng
trộm cướp, giặc giã, khu vực Nhà Chung được bao bọc bằng những
luỹ tre, một đường đê lớn và những hàng kênh ngòi, ao thả cá và
trên bờ, trồng những cây chanh, cam, bưởi, khế, cây nhãn, cây
thị, cây vải, cây sấu, cây vối(dùng để lấy nụ, lấy lá làm nước
uống).
Ngày
nay, khách hành hương không còn
tìm được những dấu tích một thời đã qua, chỉ còn là:” hồn thu
thảo, và bóng tịch dương”. Nhưng khi nhìn trên Hoạ đồ tổ
chức Ngày Khai Mạc Năm Thánh 2010, tôi có thể nhận
ra vị trí khu vực Công Trường, nơi cử hành các Thánh Lễ, Diễn
Nguyện, nơi dân chúng tập họp, trên sân Vận động, thì ngày
xưa là một thửa ruộng trồng lúa, trồng ngô bắp về phía Bắc của
Nhà Chung, gần Nghĩa Trang đã chôn cất cả trăm vị Thừa
sai, và các Linh Mục Tu sĩ . Khán Đài, nơi cử hành Lễ Nghi
Phụng Vụ là địa điểm gần Nhà Nguyện Trường Lý Đoán,
ngày xưa chứa nhiều Bộ Xương các Thánh Tử Đạo,( như Thánh
Ven(Vénard), Thánh Phao Lô Tịnh, Thánh Thi, Thánh Đường. ..).
Nhà Nguyện này và Nhà Cơm, Tháp Đồng Hồ..đã bị bom phá sập vào
năm 1952-53). Ngày nay, đã trùng tu lại Nhà Trường Lý đoán chạy
dài(phía sau Khán Đài, Nhà Triết Lý (nhà 18 gian, nơi một vị
thừa sai bị bắt đem đi cho trôi sông, năm 1946), Nhà Đức Cha,
Nhà Nguyện Thánh Tâm, và Khu vực Nhà Xứ Sở Kiện, nơi Cha Chính
Xứ, Cha Phó Xứ cư ngụ. Một nhà mới xây, tọa lạc trên phần đất
Nhà In, dùng làm Nhà cho các Đức Cha cư ngụ.
Đền
Thánh Trương Văn Thi và Trương Văn Đường,
mới được xây cất đúng một năm, 2008, trên thửa đất kế bên Nhà
Thờ Lớn.
Trong các di
tích còn lại, ”Đá vẫn trơ gan cùng tuế nguyệt”, phải kể
Ngôi Thánh Đường nguy nga, được xây cất xong năm
1884, theo kiến trúc “gothic”, giống như Nhà Thờ “Đức
Bà tại Balê”(Notre Dame de Paris). Nhà Thờ Lớn rộng năm “lòng”(
aisle:lòng rộng ở giữa, và mỗi bên cánh phải, cánh trái, thêm
hai “lòng” nhỏ nữa;( Nhà Thờ Lớn ở Hà Nội, chỉ có
ba”lòng”). Kĩ thuật kiến trúc thời xưa, như vật liệu xây cất
là gạch nung đỏ, và vôi trộn với cát và mật mía( theo truyền
khẩu, thời bấy giờ chưa có xi măng). Trần Nhà Thờ lợp bằng gỗ
vàng tâm, và Toà Giảng, Bàn Thờ, Nhà Tạm, các Tòa Đức Mẹ Ban Ơn,
Tòa các Thánh đều được “sơn son thiếp vàng”, với những
tấm kính mầu,( theo mẫu Nhà Thờ Thành Chartres,) lóng
lánh mầu sắc lung linh, khi thắp đèn, hoặc khi ánh mặt trời
chiếu vào mỗi buổi sáng và buổi chiều. Ngoài ra, Nhà Thờ còn
trang bị một bộ đàn Đại-Phong- Cầm( đàn organ), với những
ống kim loại, phát ra những âm thanh vang dội, réo rắt; một bộ
chuông”khổng lồ”, theo hòa âm(”Đố - son- mi- đồ”), tiếng
chuông vang lừng khắp miền, hàng mấy chục cây số vẫn nghe ngâm
vọng, mỗi khi có Thánh Lễ trọng thể, hay Rước Kiệu.
Vào
những năm, từ 1940 đến 1952,
tôi và một anh bạn thân cùng lớp, cùng là nghĩa tử của Cha Xứ,
lại cùng quê, nên mỗi kỳ nghỉ Hè, trong ba tháng, chúng tôi được
thảnh thơi, ngủ nghỉ tại các gian nhà vẫn còn đẹp, sạch sẽ,
nhưng bỏ trống không ai ở. Mỗi ngày chúng tôi và một số bạn,
được tự do đi lại trong khu vực Nhà Chung: tìm trái cây, câu cá,
tắm hồ..Vào thời đó, chúng tôi cũng đã trưởng thành, học xong
Trường Thử và đang Học Trường Latinh tại Hoàng Nguyên, kiến thức
về ngôn ngữ như Latinh, Pháp,.Nho.cũng khá đủ để giúp tìm tòi
những tủ sách còn lưu lại tại các căn nhà, các phòng của các
Linh Mục Thừa sai, các Cha Giáo sư, đã chết hoặc thuyên chuyển
đi chỗ khác. Chúng tôi thích tìm kiếm, lục lọi và chọn lựa những
cuốn thật giá trị để coi. Nhiều bộ sách thật quí giá như những
bộ sách Kinh Thánh Cựu Ước và Tân Ước có chú giải của Cố
Chính Linh,(Albert Schlickin), Bộ sách Luân Lý học của Cố
Thịnh(sau làm Đức Giám Mục Chaize), của Cố Thành( sau làm Giám
Mục ,Alexandre Marcou) và cuốn Tự Vị “Latino-Annamiticum(Cố
Khánh , Marcel Henri Ravier)., và nhiều sách Giáo lý, Lịch sử
Hội Thánh, Truyện các Thánh..khác đều in tại nhà in
“Ninh Phú Đường”, tức là KẺ SỞ.
(Chú
thích:
Anh bạn tôi tên là Nguyễn Hoài Chiên, bút hiệu Nguyễn Nam Châu.
Anh cùng học với tôi cho đến hết 4 năm Thần học, nhưng không
chịu chức, không tiếp tục đời sống tu trì. Anh đi du học tại Bỉ,
Pháp và làm Giáo sư tại Đại Học ở Congo, Kishinsa nhiều năm cho
đế khi về hưu. Sau gần 40 năm mất liên lạc, mãi năm 2007, anh
sang Hoa kỳ, tại Orange County, để nhờ bạn bè in sách, và anh
đã tặng tôi một cuốn, hẹn sang năm sẽ gặp nhau, nhưng anh đã qua
đời vào năm 2008. Anh rất thông minh, đọc sách rất nhanh, và nhớ
mọi tình tiết của câu truyện khi thuật lại. Ngoài ra anh còn là
nhạc sĩ sáng tác các bản nhạc phổ thông trong Nhạc Đòan Lê Bảo
Tinh)
Nhạc
Đoàn Lê Bảo Tịnh,
một Nhạc Đoàn tiên phong trong Phong trào Thánh Nhạc Việt Nam,
sau năm 1945, cũng đã được khởi xướng lên từ Trường Thầy
Giảng Kẻ Sở. Vào thời kỳ đó, Thầy Hường, tức Nhạc sĩ
Hùng Lân đang làm giáo sư dạy tại Trường Thầy Giảng ,
cùng với Thầy Hoan, tức Thi sĩ Hùng Thái Hoan. Do thời thế thúc
bách, Thầy Hùng Lân đã mời một số bạn có khiếu về Âm Nhạc, để
sáng tác và phổ biến Thánh Ca Việt Nam , thay thế các bản nhạc
bằng tiếng Latinh hay tiếng Pháp. Thầy Nhạc Trưởng đã tụ tập
được tại Kẻ Sở những nhạc sĩ như Nguyễn Khắc Xuyên, Hoài Đức ,
Duy Tân, Thiên Phụng, Hoài Chiên..để thành
Lập Nhạc Đoàn
Lê bảo Tịnh.
Nhân dịp
trọng đại về Ngày Khai Mạc “Năm Thánh 2010” tại Sở Kiện,
tôi cũng muốn góp phần xây dựng Hội Thánh Việt Nam vì đã nuôi
dưỡng và huấn luyện tôi để làm tông đồ, theo chân các Vi Thừa
sai, và đặc biệt là NHỊ VỊ THÁNH TỔ: TRƯƠNG VĂN THI và
TRƯƠNG VĂN ĐƯỜNG, mà tôi được phước là hậu duệ . Do đó,
tôi xin góp một vài ý kiến như:
Làm thế
nào để Truyền Đạo trong Xã Hội Việt Nam? Theo chân các vị Tiền
Bối như Cha ĐẮC LỘ..đã đề xướng phương pháp”Hội Nhập Đạo Chúa
vào Văn Hóa Việt Nam” như thế nào? Ngày nay, Hội Thánh Công
Giáo Việt nam, đặc biệt hàng Giáo Phẩm, các Linh Mục, Tu sĩ,
trong hoàn cảnh hiện tại vẫn cần nỗ lực theo đường hướng gì, để
giúp cho Dân tộc, cho người đồng hương,hoan hỉ tiếp nhận TIN
MỪNG của CHÚA CỨU THẾ?
Đó là mấy câu
hỏi sẽ bàn giải sau đây:
TIN MỪNG HỘI NHẬP VÀO VĂN HOÁ và
XÃ HỘI VIỆT NAM
Phần trên
trong những dòng hồi kí này, tôi đã biểu lộ những cảm tình yêu
mến và luyến tiếc những cảnh vật của một Trung Tâm Truyền
Giáo, mà nay đã theo thời gian trôi qua , đã biến thiên, như
mọi sự đều là “vô thường” trên cõi đời tạm này.
Sau đây, tôi
cũng không thể quên những NHÂN VẬT thuộc thế hệ đàn anh
đã khổ công gây dựng, lèo lái con Thuyền Hội Thánh trong những
năm gần đây. Vào năm từ 1940- 1954, tôi đã trưởng thành, học hết
Trung Học, đã giúp Xứ, làm Thày Giảng, và bắt đầu bước chân vào
Đaị Chủng Viện Xuân Bích tại Hà Nội, là những năm thay đổi lớn
lao, cả ngoài Xã hội, lẫn trong Giáo Phận Hà Nội. Ở đây, tôi chỉ
đề cập đến những biến chuyển trong giới Lãnh đạo, một lớp Giáo
sĩ trẻ người Việt Nam, tiếp nối công việc Truyền giáo, và điều
hành các chức vụ quan trọng Tòa Giám Mục Hà nội.
Khi tôi
về học năm thứ nhất( năm 1951),
tại Đại Chủng Viện do các Linh Mục Xuân Bích quản trị,
tôi được gặp cha
Giám đốc Tín(
P.Gastine) và nhiều cha Giáo sư trẻ trung như Cha Thành(
Raymond Deville, sau này làm Bề trên Tổng Quyền), Cha Vi
(Villard), cha Lịch (Courtois), cha Xuân (Corpet) và cha Thu.
Đặc biệt, lần đầu tiên, một số Cha Giáo sư người Việt như Cha
Nhân, Cha Vinh, Cha Mai, Cha Khiết, Cha Lý. Những Cha Việt Nam
làm Giáo sư, cũng là cựu sinh viên Xuân Bích học ở
Issy-lesMoulineaux, bên Pháp, mới trở lại Việt Nam, sau nhiều
năm du học.
Nhờ bằng cấp
cao, nhất là tài năng đức độ, và thánh thiện, các cha đã cộng
tác rất đắc lực với Đức Giám Mục người Việt, tiên khởi của Địa
Phận Hà Nội là ĐGM. Giuse Maria Trịnh Như Khuê,
sau năm 1960, làm Tổng Giám Mục, và Hồng Y tiên Khởi của Việt
Nam. Ngài là một Giám mục đạo đức khôn ngoan và cương nghị
trong các quyết định mục vụ, nhằm bảo vệ Đức Tin tinh tuyền của
Hội Thánh, trong những năm khó khăn, bi đát nhất của Lịch Sử
Giáo phận, như các Linh Mục tài đức (cha Vinh, cha Oánh, cha
Thông) đã phải chết hoặc bị cầm tù, quản chế gần suốt đời,
không được đem tài năng ra thi thố giúp việc Truyền giáo..
Thế hệ đàn
anh đã qua đi, từ các vị Giám Mục như ĐHY Trịnh Văn Căn, Phạm
Đình Tụng, ĐGM Lê Đắc Trọng...đến các Linh Mục đã được đào
luyện trong Chủng Viện Xuân Bích cũng dần dần được Chúa gọi về
Nhà Cha Trên Trời.
(Chú
Thích:
Cha Lê Văn Lý, năm 1954, đã di tản xuống miền Nam theo Chủng
viện Piô XII. Ngài làm giáo sư Chủng viện, và Đại học Văn Khoa,
rồi Viện Trưởng Đại Học Công Giáo Đà Lạt. Tôi đã cùng sống chung
với cha tại Nhà Hưu Dưỡng tại Carthage. Ngài đậu tiến sĩ quốc
gia(Docteur d’État) về Văn chương, tại Đại Học Paris, và xuất
bản luận án bằng Pháp và Việt văn:” Sơ Thảo Ngữ Pháp Việt
Nam”. Ngài tỏ ý vui vì biết tôi, trong thời gian du học cũng
đã học cùng Trường với Ngài khi xưa, là “École Nationale des
Langues Orientales Vivantes..”( ban Hán Văn), ở rue de
Lille(Paris) . Tôi cũng được vinh dự, đại diện Địa Phận Hà Nội,
trong Thánh Lễ An Táng của Ngài. Cha Lê văn Lý là một bậc Thầy
vừa đạo đức vừa cương trực, đã có óc sáng tạo, và nghiên cứu về
Ngôn Ngữ Việt Nam
)
Trong dịp “Năm
Thánh 2010”, tôi nhớ lại đã gặp một Linh Mục trẻ, chưa
đầy 30 tuổi, mới ở Pháp về Hà Nội, vào năm1951. Tôi hân hạnh
vừa được đọc bài Phỏng Vấn của Cha Nguyễn Hân
Quynh , năm nay Ngài 83 tuổi, đã làm Cha Chính Giáo
Phận Hải Phòng, sau năm 1954. Ngài đã bị quản chế hơn 28 năm..
Qua cuộc
Phỏng vấn, tôi nhận thấy, tinh thần Cha còn sáng suốt khi bàn
luận về tình trạng Đức Tin của Hội Thánh Việt nam, đặc biệt
về việc giáo dục hàng Giáo sĩ. ( La Croix 22/06/ 2009) . Xin
trích đọan cuối bài Phỏng vấn, nguyên văn như sau:
“ Theo cha
Quynh, để người Việt Nam không mất Đức Tin, trước hết cần phải
cầu nguyện và giáo dục. Việc rao giảng Tin Mừng phải thông qua
con đường giáo dục.Trong 30 năm, vì các Chủng viện bị đóng cửa
trình độ trí thức của hàng giáo sĩ và các tín hữu KiTô đã xuống
thấp. Từ một chục năm nay, các ĐGM Việt nam được đào luyện kỹ
hơn, vì các vị đã có thể đi du học. Nhưng cũng cần phải cả chục
năm nữa, các vị mới có thể làm “công việc của giám mục”. Về phần
các Linh Mục, theo cha Quynh, nói chung không được huấn luyện
đầy đủ; ngay cả văn chương và văn hóa của xứ sở, các vị cũng còn
thiếu hiểu biết. Do đó, thế hệ trẻ cần phải có được một nền tảng
vững chắc về triết lý và thần học. Phần lớn các ĐGM Việt nam đã
hiểu được điều đó cho nên đã cố gắng gởi các chủng sinh du học
tại Paris, Roma, hay Hoa Kỳ” (Chu Văn)
Sau đây chỉ
xin góp một vài ý kiến thô thiển về vài nhận định của bậc đàn
anh trong Giáo Phận Hà Nội, nhân dịp Ngày Khai Mạc Năm Thánh
2010, tại điạ điểm SỞ KIỆN.:
“Việc rao giảng Tin Mừng phải
thông qua con đường giáo dục”
Vấn đề
GIÁO DỤC các Tín hữu, đặc biệt các Linh mục, Tu sĩ là
một đề tài rất mênh mông bao gồm nhiều phạm vi học thức để mở
mang trí tuệ của con người như: Đạo Lý, Luân Lý, Triết Lý, Văn
chương, Khoa học., Cha Quynh đã giới hạn vào việc giáo dục các
linh mục , giám mục, bằng cách mở các chủng viện,.. và đi du
học nước ngoài, nhấn mạnh về giáo dục “văn chương và
văn hóa của xứ sở”. Ngài cũng tỏ ra phàn nàn, lo ngại vì
trong tình huống hiện nay, các giám mục và linh mục vẫn còn
thiếu hiểu biết.
Danh từ
VĂN HÓA, hay Văn Minh của một dân tộc, hàm ẩn một nội dung
rộng lớn bao gồm: tôn giáo, luân lý, ngôn ngữ, văn chương, địa
lý, lịch sử, phong tục, xã hội, kinh tế, và thể chế, chính
trị..
Những ý tưởng
của Cha Quynh khá chính xác vì phát xuất từ kinh nghiệm bản thân
trong những năm bị cầm tù, trong những ngày tháng Hội Thánh bị
cấm cách, kì thị, đàn áp, và vu khống. Dầu dân tộc Việt nam đã
đón nhận Tin Mừng hơn 350 năm, nhưng tỉ lệ người tín hữu theo
Chúa Cứu Thế, đối với đa số dân chúng, vẫn còn là con số khiêm
nhượng(8%).
(coi:
Nguyễn Ngọc Sơn:” Hiệu quả Truyền Giáo ở Việt Nam, trong những
năm gần đây”Định Hướng, số 56, Mùa hè 2009)
Bởi vậy,
trong dịp “Năm Thánh 2010”, toàn thể Hội Thánh Việt Nam cần bàn
luận về những thiếu sót, bất cập trong quá khứ, để kịp thời sửa
chữa.
Việc giáo dục
toàn diện của người Công Giáo , các giáo sĩ, tu sĩ Việt nam,
trong hoàn cành ngày xưa, hay hiện nay, mà đa số dân chúng là
không-Công giáo, và dưới những chế độ quân phiệt, hay vô thần,
thù nghịch với Thiên Chúa Giáo, thì truyền bá Tin Mừng, Đức Tin
Công Giáo, luôn phải bao gồm hai khía cạnh không thể rời nhau
được:
Đối Thoại giữa ĐỨC TIN và
VĂN HÓA luôn
giao thoa với nhau
Thời kì
Đạo Thiên Chúa bằt đầu Hội Nhập vào Việt Nam,
các vị Thừa sai đã áp dụng Phương Pháp Đối Thoại với Văn Hóa
Việt Nam”, như sẽ bàn luận ở dưới.
Danh từ ĐỐI
THOẠI có nghĩa là hai bên nói chuyện, trao đổi, bàn luận với
nhau. (dialogue, dia-Logos, dia= đôi, hai
chiều: bên nói, đề nghị và bên nghe, nói lại; Logos=Thoại
là lời Nói) ;
nếu “đối
thoại” mà một bên hoàn toàn im lặng, không nói gì hết,
thì nên dùng danh từ khác, chứ đừng dùng từ” Đối Thoại”
nữa!)
Chính Thiên
Chúa cũng đã “Đối Thoại” với loài người, bằng miệng lưỡi của các
Ngôn Sứ(Tiên Tri), sau cùng, Chúa đã cho Con Chúa “Nhập
Thể”, làm Người, như mọi người, trừ tội lỗi. Chúa Cứu
Thế cũng phải ăn uống, chịu đói khát..và Chúa cũng đã“Nhập
Thế”nói tiếng bản thổ, quan sát tình trạng tôn giáo,
chính trị, kinh tế, xã hội đương thời, dùng làm”dụ ngôn”, để
khuyên răn, cảnh cáo dân chúng sửa soạn đón nhận TIN MỪNG.
Chúa Giêsu đã
chịu chết đề minh chứng SỰ THẬT, để đền tội gian dối của
Nhân loại.
Thánh
Phao Lô Tông Đồ dân ngoại(gentiles)
cũng đã “Đối Thoại”với hai nền văn hóa, Hi lạp và Lamã,
khi trình bày Đạo của Chúa Cứu Thế. Sau này, các Giáo Phụ như
Thánh Augustin, Thánh Thomas Aquinas..cũng đã dùng
Triết Lý của Platon, Aristotle..để giải thích, hay chứng minh
Tin Mừng cho văn minh Âu-Mỹ. Vậy, tại sao ngày nay các nhà
truyền giáo không dùng Văn Hóa, Triết Lý của các dân tộc Á Đông
như Ân Độ, Việt Nam, Trung Hoa, Nhật Bản..để “Đối Thoại”,
để diễn giảng và minh chứng Đạo của Chúa Cứu Thế cho dân bản xứ?
Ngày nay, các
nhà viết sử đã nhìn nhận những thành quả khá lớn lao còn lưu
lại cho hậu thế, do trí óc sáng suốt và tài đức của các Thừa
Sai, rao giảng Tin Mừng của Chúa Cứu Thế cho miền Á Đông, như
Thánh Phanxicô Xavie, Cha Matteo Ricci, và tại Việt Nam là Cha
Đắc Lộ.
(coi bài:
“Ba Cống Hiến quan trọng của Công Giáo” của Phan Thế Hải,
đã đăng trên nhiều tạp chí và báo)
Các Vị
Thừa sai, đặc biệt Cha Đắc Lộ đã học hỏi tường tận ngôn ngữ Việt
Nam,
phong tập tục quán, văn hóa, tam giáo, xã hội, tình hình chính
trị tại Việt Nam thời Nam-Bắc phân tranh, thời kì thống nhất
quốc gia..để có thể so sánh những giá trị tâm linh, nhân bản
giữa Thiên Chúa Giáo và Tam Giáo, cốt làm sao đem
Tin Mừng rao giảng cho mọi người thiện chí có thể hiểu được và
mộ mến những Giáo lý, Luân Lý mới du nhập vào Xã hội Á Đông.
Ngày nay, sau 350 năm nhìn lại, chúng ta thấy các vị tiền nhân
đã không thể “ĐỐI THOẠI” về tôn giáo với người bản xứ,
một cách hiệu quả, nếu đã không học biết những giá trị, những
điểm tương đồng, dị biệt trong nền văn hóa bản xứ.
Lịch sử cho
biết: vào thời kì đó, các vị Thừa sai, Cha Đắc Lộ, và Đạo Thiên
Chúa đã luôn bị cấm cách, các tín đồ bị cầm tù, giết chết, nhưng
các vị Thừa sai vẫn can đảm vượt mọi khó khăn để thật sự đem Tin
Mừng cho dân tộc Việt Nam.
(coi: Nhà
Truyền Thống tại Sở Kiện, hiện nay còn lưu trữ hơn(71 Bộ) các
Thánh Tích, Xương Thánh , của các Vị Tử Đạo)
Đọc lại
Lịch Sử Hội Thánh Công Giáo Việt Nam,
người ta thấy việc “Đem ĐẠO vào ĐỜI” hay Hội Nhập Đao vào
Văn Hóa Việt nam”, hình như ngưng lại, không còn”Đối
Thoại”, không còn những công trình lớn lao nghiên cứu về văn
hóa, xã hội nữa. Do đó, Tin Mừng của Chúa Cứu Thế ngày càng trở
nên xa lạ với người đồng hương. Những bài giảng thuyết, dạy Giáo
lý, Kinh Thánh, rước kiệu..chỉ giới hạn trong khu vực Thánh
Đường; báo chí truyền thông chỉ quanh quẩn đăng tin về các sinh
hoạt trong các Cộng đồng Công giáo. Ngày nay, người ta coi việc
“giữ Đạo” quan trọng hơn là
“truyền Đạo”
Cũng vì thờ ơ
với công việc học hỏi Giáo Lý của Hội Thánh ,đặc biệt am tường
“HỌC THUYẾT XÃ HỘI” của các ĐGH Lêô XIII,
Gioan Phaolô II, và Benedito XVI và thông hiểu ngôn ngữ ,
văn hóa của dân tộc, nên công việc truyền giáo, và ảnh hưởng của
Hội Thánh Công Giáo không xâm nhập được vào các cơ cấu của Xã
hội Việt Nam . Đôi khi cũng lên tiếng bênh vực cho quyền lợi
riêng của Giáo phận, hay giáo xứ bị xâm phạm, nhưng không điều
tra, bênh vực hay phê phán về tình trạng suy đồi về luân thường
đạo lý, những bất công xã hội chung cho toàn quốc đối với các
đồng hương khác. Do đó, Tin Mừng của Chúa Cứu Thế không thể Hội
Nhập một cách sâu rộng như “men”, như “muối”, như “ánh sáng” vào
Xã hội hiện nay.
Nếu mất tình
tự Dân tộc, thiếu tình nghĩa đồng hương, đồng bào với nhau, thì
ai sẽ đem TIN MỪNG cho ai?
Công việc
phiên dịch Sách Kinh Thánh, Sách Kinh, Phụng vụ, Sách Lễ..là
những công tác tương đối được tự do hoạt động trong nội bộ,
nhưng thiếu người có khả năng”Hội Nhập Văn Hóa Việt Nam”,
để công việc phiên dịch được hoàn chỉnh tốt đẹp, và mang sắc
thái văn hóa Việt Nam.
“Vấn đề du học sinh ra ngoại quốc
học tập”
Vấn đề gửi du
học sinh ra ngoại quốc để học các Khoa Thần Học, Triết học, cũng
cần có kế hoạch và hướng dẫn, để giúp cho công cuộc Truyền bá
Đức Tin được hiệu quả tốt đẹp. Việc thu thập kiến thức về Giáo
lý của Hội Thánh Công giáo hoàn vũ, các Tài Liệu của Công Đồng
Vaticno II, các Thông Điệp của các Đức Giáo Hoàng, theo kịp đà
tiến triển của thời đại tòan cầu hóa, là cần thiết. Nhưng không
phải bất cứ điều gì học hỏi được của ngoại quốc cũng có thể ứng
dụng một cách thích ứng vào Xã hội, Văn hóa Việt nam, vì mỗi
nơi, mỗi nền văn hóa đều có những cách tiếp nhận TinMừng
khác nhau. Do đó, nhiều kiến thức đã thu nhặt được của
ngoại quốc, nhưng không thể áp dụng cho hoàn cảnh Việt Nam được,
vì muốn phổ biến cho Xã hội, Cộng Đồng Việt nam, vẫn cần phải óc
sáng tạo và thông thạo ngôn ngữ, và văn hóa bản địa.
Trong thực
hành, điều cần học hỏi của Âu-Mỹ là:
Phương Pháp Nghiên cứu, Luận lý học, Biện Chứng Pháp, Phương
pháp Phân tích các dự kiện, và cách thức Tổng hợp thành hệ
thống, để biết cách điều tra, tìm hiểu môi trường địa phương.
Kinh nghiệm
cho thấy trước mắt chúng ta: ngày nay hàng ngàn giáo sĩ,
tu sĩ nam nữ gốc Việt, học hành sinh sống , làm việc mục
vụ ở ngoại quốc, nhưng đã không sáng tác được những tác phẩm có
giá trị, làm giầu cho kho tàng tôn giáo, văn chương, văn hóa của
quê hương Việt Nam, để truyền bá và thuyết phục các đồng hương
chấp nhận giá trị của Tin Mừng. Bởi vậy, công việc rao giảng Tin
Mừng, muốn có hiệu quả vẫn cần một sự “Đối Thoại”,
giữa người rao giảng và người tiếp nhận. Nếu không, chỉ
là cuộc “độc thoại” vô vị vô ích mà thôi.
Tạm
Kết.
Theo Truyền Thống của Hội Thánh Công Giáo, từ đời Trung Cổ,
những cuộc HÀNH HƯƠNG(pilgrimage)thăm viếng Đất Thánh,
các Di Tích của các Thánh.thì.khách hành hương(pilgrims)
cần bỏ nhà cao cửa rộng để “nằm gai nếm mật, chung
nỗi ân ưu”, mặc áo nhặm, đi bộ, chống gậy, và “đánh
tội”..Cuộc hành hương của cả ngàn Linh Mục Tu sĩ, cả chục ngàn
giáo hữu đổ về Xứ Sở Kiện chật hẹp, nghèo, thiếu mọi tiện
nghi..không như những nơi quí khách đi hành hương tại Roma, Lộ
Đức, Fatima, Lisieux..Vậy xin quí Khách Hành Hương cũng cảm
thông cho hoàn cảnh, thời thế của xứ sở, đất nước hiện nay.
Nhưng, thật là đúng với ý nghĩa “Hành Hương”của Truyền
Thống trong Hội Thánh là: Đền Tội, Ăn Bận nhiệm nhặt, đánh tội,
hối lỗi, để lãnh ƠN CHÚA thứ tha các lỗi lầm quá khứ, và dốc
lòng “CANH TÂN đời sống mới, rồi lại tiếp tục
“LÊN ĐƯỜNG”vác Thánh Giá , “RA KHƠI”, đi Rao Truyền TIN MỪNG
của Chúa cho Dân Tộc và Đồng Hương thương mến của chúng ta.
Lm. Đường Thi
|
VỀ MỤC LỤC |
|
THƯ THỨ BA
CỦA CHA GIÁM TỈNH DCCT TỪ RÔMA
|
Kính thưa anh em,
Qua các mạng thông tin, anh em biết được Tổng Công Hội 24 của
toàn Dòng chúng ta đã kết thúc tuần lễ hội họp thứ ba vào ngày
thứ sáu 6 tháng 11 năm 2009. Tuần lễ thứ ba kết thúc trong bầu
khí vui vẻ cởi mở và nhẹ nhàng, những vấn đề quan trọng đã lần
lượt được trao đổi và biểu quyết, trọng tâm của Tổng Công Hội 24
trong tuần lễ thứ ba cũng đã hoàn tất, chúng ta đã có Tân Bề
trên Tổng quyền và Tân Ban Cố vấn Trung ương. Chúng ta tiếp tục
tạ ơn Thiên Chúa, Đấng đã kêu gọi và luôn ban những ơn lành cần
thiết cho chúng ta, cám ơn Đức Trinh Nữ Maria Mẹ Hằng Cứu Giúp
là Mẹ của chúng ta, Thánh Anphong và các thánh trong Dòng đã
chuyển cầu và phù hộ cho Tổng Công Hội và cho tất cả chúng ta.
Từ Rôma, tôi xin tiếp tục chia sẻ những thông tin cần thiết cho
anh em. Với bức thư này, tôi chia sẻ những suy nghĩ của cá nhân
mình về những diễn tiến của Tổng Công Hội, tri thức hạn hẹp và
chủ quan là những hạn chế không tránh khỏi, xin anh em cảm
thông.
Tân Bề trên Tổng quyền
Sau 9 vòng bầu chính thức chúng ta đã có một vị Bề trên mới.
Diễn tiến 5 vòng đầu luôn xuất hiện những tên tuổi nổi bật:
Michael Brehl (Giám Tỉnh Edmonton-Toronto), Enrique Lopez (Tổng
cố vấn), Serafino Fiore (Phó Bề trên Tổng quyền) và Jacek Dembek
(Tổng cố vấn), trong đó luôn đứng đầu với số phiếu tranh chấp là
Michael Brehl và Enrique Lopez. Người ta dễ dàng nhận ra Michael
Brehl người của vùng Bắc Mỹ và vùng nói tiếng Anh, Enrique Lopez
là người vùng Nam Mỹ và vùng nói tiếng Tây Ban Nha, Serafino
Fiore người Ý và vùng Nam Âu, Jacek Dembek là người vùng Bắc Âu
và vùng nói tiếng Slav.
Vì đã qua năm vòng bầu phiếu nhưng chưa có kết quả, Tổng Công
Hội đã dành cả buổi sáng để trao đổi về gương mặt của vị Bề trên
mới, tất cả chia ra làm ba nhóm: nhóm nói tiếng Anh, nhóm nói
tiếng Tây Ban Nha và nhóm nói tiếng Pháp. Trong buổi trao đổi,
mọi người đều nhận ra đây là những gương mặt quá tốt cho vị trí
bề trên, nhưng làm sao để có thể chọn ra một vị theo thánh ý
Chúa, có những đại biểu nóng lòng đã có những phát biểu tương
đối căng thẳng. Tuy nhiên, trong nhóm nói tiếng Anh, cha Lasso
đã nhẹ nhàng cho ý kiến: cha nhận thấy quá trình bầu cử có những
tiến triển chậm rãi, tập trung phiếu không tản mác, như thế là
dấu hiệu tốt và lành mạnh, xin mọi người bình tĩnh, cha Joseph
Tobin trong Tổng Công Hội lần trước phải vào vòng thứ 10 mới có
kết quả!
Sau cuộc bầu phiếu vòng thứ sáu vẫn như cũ. Buổi chiều nhóm họp
lại, cuộc bầu phiếu vòng thứ bảy có thay đổi chút ít, số phiếu
dành cho cha Michael Brehl có vươn lên một chút nhưng chưa rõ
nét. Vào phiên cuối buổi chiều, vòng bầu thứ tám cho kết quả đậm
đà, cha Michael Brehl đã vươn lên rõ ràng (70 phiếu), chủ tọa
đoàn hỏi ý kiến Tổng Công Hội nên tiếp tục bầu hay ngưng để sáng
mai bầu tiếp, tuyệt đại đa số đã giơ tay biểu quyết tiếp tục.
Nhưng có vị cho ý kiến luật không cho phép bầu hai vòng trong
một phiên khoáng đại. Phản ứng rất nhanh, cha Bề trên Joseph
Tobin hội ý và quyết định, nghỉ hai phút để sang một phiên khác
hầu có thể bầu theo luật định, tuy cũng có vị cho rằng hai phút
không đủ để làm giãn tâm lý hầu sang một phiên khác. Chủ tọa
đoàn vẫn quyết định bầu trong sự đồng ý vui vẻ của gần như toàn
Tổng Công Hội. Vòng thứ chín được tiến hành, khi ban kiểm phiếu
công bố đến phiếu thứ 72 (số phiếu cần và đủ để đắc cử) của cha
Michael Brehl, toàn thể nghị trường đã đứng lên vỗ tay chúc
mừng. Cuộc vỗ tay kéo dài hơn năm phút, sau đó ban kiểm phiếu
tiếp tục nhiệm vụ cho đến hết. Khi công bố kết quả, một lần nữa
mọi người đứng lên vỗ tay chúc mừng.
Sau những chúc mừng của anh em với vị đắc cử, toàn thể Tổng Công
Hội bước vào nhà nguyện hát kinh Te Deum, vị Tân Bề trên Tổng
quyền tuyên thệ nhận chức, các nghi lễ kéo dài đến 9g00 đêm, sau
đó là tiệc liên hoan.
Kính thưa anh em,
Có những lúc người ta nhận định: cha Brehl chưa hề có tên tuổi
trong hoạt động của Trung ương, trình độ ngoại ngữ hạn chế (ngài
chỉ biết tiếng Pháp và tiếng Anh), trong khi các vị kia là những
vị đã có thâm niên trong Ban Tổng Cố vấn, ai cũng biết ít nhất 4
ngoại ngữ (ngoài tiếng mẹ đẻ của mình). Ai cũng có một nhóm làm
việc thân quen và hợp ý ở cấp trung ương. Cha Michael Brehl được
xem như một người hiền hòa, không mạnh mẽ, có thể sẽ không có
những giải pháp mạnh rất cần trong giai đoạn mới, trong khi đó,
trừ cha Fiore hai vị kia là những vị quyết đoán, tinh thần Nam
Mỹ (cha Enrique Lopez) và tinh thần Đông Âu (cha Jacek Dembek)
rất mạnh mẽ và cương quyết, khá đủ kinh nghiệm và sức mạnh để
đối diện với những khó khăn của giai đoạn Tái cấu trúc. Cha
Michael Brehl cũng không có những tương quan với các dòng tu
khác và với cả Tòa Thánh, ngài đi tu và học ở Canada mà thôi,
chưa hề theo học hay hoạt động trong vùng Roma. Nhưng cuối cùng
thì Chúa và anh em lại chọn ngài, Ý Chúa nhiệm mầu và
không như ý của thế gian.
Tân Ban Tổng Cố vấn
Khác với việc bầu Bề trên Tổng quyền, Ban Tổng Cố vấn đã được
bầu một cách dễ dàng. Chỉ sau vòng tham khảo, vòng bầu chính
thức đầu tiên đã cho đầy đủ kết quả, toàn thể Tổng Công Hội đã
rất thoải mái để tham dự vòng bầu này, số phiếu đắc cử rất đậm
đà bày tỏ sự chọn lựa dứt khoát. Hình như người ta tìm người tài
dễ hơn tìm người mục tử!
Một trong những vị có mặt trong Ban Tổng Cố vấn đã gây chú ý rất
nhiều cho Tổng Công Hội đó là thầy Jeffrey Rolle: thầy sinh ngày
05.04.1965 tại Commonwealth thuộc Dominica, gia nhập Dòng Chúa
Cứu Thế thuộc Tỉnh Dòng Baltimore, khấn dòng 1991. Những ngày
tham dự Tổng Công Hội thầy rất lặng lẽ, khiêm tốn và đạo đức,
khi cha Bề trên Giám Tỉnh Tỉnh Dòng Baltimore giới thiệu thầy
với Tổng Công Hội, lập tức thầy chiếm được cảm tình của cả nghị
trường, người ta đã dồn phiếu cho thầy gần như tuyệt đối. Lần
đầu tiên một anh em trợ sĩ được tín nhiệm bầu vào Ban Tổng Cố
vấn, trước đây và ngay cả trong hiện tại, vẫn có những ý kiến đề
nghị nên có đại diện các thầy trong Ban Tổng Cố vấn, ý kiến này
chưa bao giờ được đồng ý. Jeffrey Rolle được bầu vào Ban Tổng Cố
vấn vì anh em tín nhiệm Jeffrey Rolle bất kể Jefffrey
Rolle là linh mục hay không. Tuy nhiên, Jeffrey Rolle
đã là Tổng Cố vấn và Jeffrey Rolle đang là một anh em không chức
linh mục trong gia đình Dòng Thánh của chúng ta. Chúc
mừng Jeffrey Rolle, chúc mừng các thầy. Tôi đã chính
thức mời Thầy Jeffrey Rolle sắp xếp đến thăm Việt Nam, hy vọng
chúng ta sẽ tiếp đón thầy trong một cuộc viếng thăm tình nghĩa
tại Việt nam.
Và những gương mặt nổi bật khác
Bên cạnh những tên tuổi vang danh về tri thức hoặc đạo đức như
Marciano Vidal Garcia (Madrid), Cornelius Casey (Dublin),
Andrzej Stefan Wodka (Warsawa-Ba Lan), Luis Alberto Roballo
Lozano (Bogota-Colombia), Brendan Callanan (Suriname), Jose
Ulysses Da Silva (Sao Paulo-Brasil), Sean Wales (South Africa),…
trình diện trước Tổng Công Hội những gương mặt trẻ khác nổi bật:
Ronald Mcainsh (Giám Tỉnh London), Michael Kelleher (Giám Tỉnh
Dublin), Joseph Apisit (Cựu Giám Phụ tỉnh Bangkok), Assisi
Saldanha (Bangalore-India), Manuel Rodriguez Delgado (Porto
Rico),... Chúa hứa hẹn cho chúng ta một tương lai tốt
đẹp.
Kính thưa anh em,
Tổng Công Hội sẽ tiếp tục với tuần lễ thứ tư. Khởi đầu tuần lễ
này, tất cả Tổng Công Hội sẽ đến Pagani, dâng lễ trước những di
tích của Thánh Tổ phụ chúng ta. Với Thánh lễ tạ ơn này chúng ta
như muốn đoan hứa cùng Thiên Chúa về ơn gọi của chúng ta,
chúng ta được mời gọi hiện diện vì ơn cứu rỗi cho người
nghèo và người bị bỏ rơi hơn cả. Rời Pagani, các nghị
viên sẽ đến viếng và dùng cơm ở Materdomini nơi đặt thánh tích
của Giêrado, rồi sẽ trở về Rôma trong ngày.
Xin tiếp tục cầu nguyện cho Tổng Công Hội được thành công tốt
đẹp theo thánh ý Chúa.
Xin chúc lễ anh em nhân ngày sinh nhật nhà Dòng (9/11).
Chân thành cám ơn anh em.
Roma, ngày 7 tháng 11 năm 2009
Lm. Vinc. Phạm Trung Thành, dcct.
Giám Tỉnh
|
VỀ MỤC LỤC |
|
VÀI SUY TƯ VỀ THÔNG ĐIỆP “YÊU
THƯƠNG TRONG SỰ THẬT” CARITAS IN VERITATE
|
Bác sĩ Nguyễn Tiến
Cảnh, M.D.
Tư tưởng của Đức
Thánh Cha (ĐTC) Benedict (Biển Đức) XVI rất cao siêu. Cách viết
của ngài lại rất khó hiểu, thành thử muốn hiểu thông điệp của
ngài đòi hỏi người đọc phải đọc đi đọc lại thật cẩn thận nhiều
lần. Thông điệp Yêu Thương trong Sự Thật / Caritas in Veritate
của ĐTC Biển Đức XVI có rất nhiều vấn đề cần phải suy nghĩ và
học hỏi. Người viết chỉ xin đóng góp vài suy tư mà thôi.
THÔNG ĐIỆP LINH HỨNG, KHÔNG PHẢI CHÍNH TRỊ.
Thông điệp
Yêu Thương và Sự Thật / Caritas in Veritate của ĐTC Biển
Đức XVI không phải là một thông điệp chính trị mà đúng ra là một
linh hứng
diễn tả tình Yêu Thương trong Sự Thật để hướng dẫn đời sống cá
nhân của mỗi người chúng ta và của cả cộng đồng xã hội. Nó cũng
không phải là giải pháp thứ ba khác với giải pháp của Tư Bản và
Cộng Sản để tìm kiếm một loại “thiên đàng địa giới”.
Đây chính là học
thuyết xã hội của Giáo Hội, một phần của phương pháp hoành dương
Tin Mừng là tuyên xưng “Chúa Kitô Chịu Chết và Sống lại”
mà Giáo Hội đã, đang và sẽ rao truyền cho mọi người trên mặt đất
này qua mọi thời đại và là biểu tượng của đời sống xã hội.
Vì vậy thông điệp
không thể đọc ngoài khung cảnh của Tin Mừng Phúc Âm Chúa. Linh
hứng hay Mạc khải cũng là chìa khóa hướng dẫn mở ra cho đời sống
người dân. Nguyên tắc của học thuyết xã hội này không đơn thuần
có tính triết lý mà nó bắt nguồn từ Chúa Kitô và Lời của Người.
NIỀM TIN NHẬP THỂ
Thông điệp Yêu
Thương trong Sự Thật là thông điệp tiếp nối vấn đề ĐTC Biển Đức
XVI đã nói tới trong thông điệp Thiên Chúa là Tình Yêu / Deus
Caritas est. “Tình Yêu Thương là chính lộ mà học thuyết xã hội
của Giáo Hội đã vạch ra”. Học thuyết xã hội công giáo không đề
nghị một hệ thống chính trị hay lý tưởng nào, nhưng vẽ ra một
Con Đường mà mọi Kitô hữu phải thề hứa nhập tâm tin theo khi
chấp nhận phép thánh tẩy.
Điểm chính yếu
trong học thuyết này là Sự Quan Trọng của Con Người. “Yếu
tố chính và tiên khởi cần phải được bảo toàn và giữ vững giá trị
của nó là Con Người, một con người toàn vẹn xác hồn với
đầy đủ các yếu tố nhân phẩm, nhân vị, nhân quyền và tự do….”.
Con người là hình ảnh Thiên Chúa. Do đó “vấn nại xã hội nguyên
thủy đang trở thành một vấn nạn về phát triển con người về mọi
phương diện từ văn hóa, xã hội cho đến thể chất và vật chất, bao
gồm cả nguồn gốc, tiến hóa, phân phối, phong tục tập quán và
niềm tin tôn giáo….” .
Tuy nhiên không thể
coi con người đơn giản chỉ là vật chất mà không đếm xỉa đến khía
cạnh tinh thần. Do đó ĐTC đã quả quyết “Phát triển không thể
thành công được nếu không giúp đỡ để đưa con người đi đến thiện
hảo”. ĐTC đã kết thúc thông điệp là phải cầu nguyện, xin
Chúa canh tân con người chúng ta để chúng ta có thể sống và được
sống trong tình yêu thương và công lý.
Người Kitô hữu
không đơn giản –ĐTC nói- là những kẻ bị thấm nhập lôi kéo bởi
một nền văn hóa hiện đại chuyên phê bình chỉ trích, chỉ biết
ngồi quan sát và phản đối,. Chúng ta phải tự mình sửa đổi, cải
tiến và dấn thân tích cực hành động để tạo dựng một nền văn hóa
mới trong Chúa. Điều này trong thực tế chúng ta đã thấy nơi cả
những thành viên cao cấp của Giáo Hội cũng như từng cá nhân và
đoàn thể / hội đoàn”.
TƯ BẢN HAY CHỐNG TƯ BẢN: Loại bỏ cấu trúc của tội lỗi
Yêu Thương trong
Sự Thật không phải là một thông điệp chống tư bản, nhưng nó
“kết án tư bản khi mà tư bản trở thành chuyên chế”. Stefano
Zamagni, giáo sư kinh tế đại học Bologna và là tham vấn của Ùy
Ban Công Lý và Hòa Bình nhận xét “thông điệp nhắm vào tư bản chủ
nghĩa trong hoàn cảnh lịch sử của nó” và lặp lại rằng “không có
một hệ thống kinh tế nào có thể bảo đảm cho hạnh phúc con
người”.
Về mặt này, giáo sư
nhận định: “Giáo Hội không đề nghị cũng như không khai triển
những phương pháp thực hành để giải quyết những xáo trộn kinh
tế, nhưng Giáo Hội nhìn thẳng vào nguyên cớ của những xung đột
va chạm trong xã hội. Lấy thí dụ nếu chúng ta hủy bỏ một món nợ
mà không thay đổi căn nguyên phát sinh ra nợ nần thì trong vòng
chừng 15 năm sau, chúng ta lại mắc vào một món nợ khác như cũ.
Vậy thì vấn đề là “phải phân tích rồi thay đổi những
căn nguyên / cấu trúc của tội lỗi và sai lầm”.
Làm thương mại để
sinh lời thì lợi nhuận không phải chỉ chạy vào túi của ông chủ
hay hệ thống tổ chức tư bản mà còn phải được san sẻ cho những
người tham dự vào thị trường. Đừng ngoài miệng tuyên bố là “xã
hội chủ nghĩa”, nhưng thực tế lại thi hành độc tài, ức hiếp, bóc
lột lao công thợ thuyền….
Như vậy thì là Tư
Bản hay Xã Hội? Nên nhớ đặc tính của học thuyết xã hội là mọi
cấu trúc, yếu tố tạo thành xã hội phải luôn luôn hiện diện trong
mọi sinh hoạt tập thể..
Tổ chức nào là đại
diện cho cả thế giới? Phải chăng là Liên Hiệp Quốc (LHQ)?
CẢI TỔ LIÊN HIỆP QUỐC
ĐTC Biển Đức XVI đã
gợi ý cần phải cải tổ lại cơ cấu tổ chức của LHQ như ngài đã nêu
lên trong phần cải tổ cấu trúc kinh tế tài chính thế giới. Ngài
quả quyết đây là điều kiện cần “để điều hành nền kinh tế thế
giới, để khôi phục lại nền kinh tế hiện đang bị tuột dốc, để
tránh những xáo trộn và mất thăng bằng có thể xẩy ra do cuộc
khủng khoảng kinh tế thế giới hiện nay. Có vậy mới có thể sửa
chữa kịp thời và trọn vẹn hầu có được đảm bảo thực phẩm và hòa
bình thế giới cũng như bảo vệ được môi trường và điều hòa di
dân”.
LHQ hiện có 191
nước thành viên, trong đó quá nửa là những nước đã có mặt từ khi
LHQ mới thành lập. Vậy là không cân xứng và công bằng. Việc này
đã được ĐTC Gioan XXIII nói tới trong thông điệp Hòa Bình dưới
thế / Pacem in Terris và ĐTC Biển Đức XVI đã nhắc lại trong
thông điệp Yêu Thương trong Sự Thật / Caritas in Veritate. Ngài
yêu cầu phải khẩn cấp tìm một đường lối canh tân tổ chức này với
tinh thần trách nhiệm cao, công bằng để bảo vệ những quốc gia
nghèo đói nhất, đồng thời cho họ có tiếng nói trong những quyết
định chung.
THÔNG ĐIỆP KHÔNG CHỈ DÀNH RIÊNG CHO NGƯỜI CÔNG GIÁO
Vì vậy thông điệp
Yêu Thương trong Sự Thật không chỉ dành riêng cho người Công
Giáo. Nó đề cập trực tiếp đến những người tín hữu tin vào Thiên
Chúa cũng như những người không tin vào Chúa, bởi vì đây là
luật tự nhiên. Đức Thánh Cha đã khéo léo phối hợp hai đề tài
với nhau để làm đầu đề của thông điệp thứ ba của ngài: “Caritas”
và “Veritas” Yêu Thương và Sự Thật.
Đức Thánh Cha đã
cho chúng ta thấy rằng hai thực tế căn bản này không phải là yếu
tố ngoại tại hay là được gán ghép cho con người nhân danh một lý
tưởng tuyệt vời nào đó, mà thực sự nó đã bám rễ ăn xâu nơi chính
con người. Sự Thật này không chỉ được minh xác trong sách Khải
Huyền mà tất cả mọi người có thiện tâm đều có thể hiểu và quán
triệt được nếu họ biết dùng lý trí bình tâm suy niệm về chính
bản thân mình.
Những thí dụ và đề
nghị mà ĐTC nêu ra trong thông điệp của ngài đều dựa vào luật tự
nhiên như trong Sách Giáo Lý Công Giáo đã cắt nghĩa: Cảm quan tự
nhiên của con người khi dùng lý trí thì sẽ phân biệt được giữa
Thiện và Ác, giữa dối trá và thành thật.
Nhân Quyền, như ĐTC
đã nói tới trong trường hợp này, là một quyền tự nhiên đã được
Thiên Chúa ghi khắc vào tâm khảm con người và nó hiện diện trong
mọi nền văn hóa và văn minh cho dù nó có khác nhau.
ĐTC cho rằng “Nếu
lấy nhân quyền ra khỏi khung cảnh này thì đã giới hạn ý nghĩa và
phạm vi thực hành của nó đồng thời biến đổi nó, cho nó một ý
nghĩa / quan niệm tương đối. Lúc đó ý nghĩa và diễn giải về nhân
quyền sẽ bị thay đổi; nó sẽ mất đi tính phổ quát của nó và người
ta sẽ nhân danh sự khác biệt về văn hóa, chính trị, xã hội và cả
cách nhìn khác biệt của họ về tôn giáo mà ngụy biện cho lập
trường của mình”. Đây chính là lập luận mà nhà cầm quyền CSVN
thường nêu ra khi biện luận cho những vi phạm nhân quyền của họ
đối với người dân và tôn giáo.
Quan niệm và ý
nghĩa về nhân quyền cũng được ghi trong tài liệu của Hội Đồng
thần học và được diễn nghĩa rõ ràng. Sự Thật và Tình Yêu Thương
phải được hiên diện và thực thi thế nào cho tất cả mọi người
không chừa một ai và nó đã đựơc bám rễ ăn xâu thế nào nơi con
người. Để hướng thiện, con người nhân bản nhận ra cái gì họ có
và biết được những khuynh hướng cơ bản của bản năng mình khả dĩ
có thể chuyển đổi con người họ hướng về điều thiện cần thiết cho
việc hoàn thành nhiệm vụ luân lý của mình.
Vì vậy, con người
được tạo dựng nên là để hiểu biết “Sự Thật với tất cả sung mãn
của nó, nghĩa là con người không bị giới hạn chỉ để thu thập
những kỹ thuật làm sao có thể thống trị được thực tế vật chất,
mà còn mở rộng, đi sâu vào đấng Siêu Việt để vui sống trọn vẹn
một Tình Yêu với mọi chiều kích của nó, không phải chỉ có tình
liên đới cá nhân với nhau như tình bằng hữu, tình gia đình và
đoàn thể, mà còn phải có sự tương quan với nhau như tương quan
xã hội, kinh tế và chính trị nữa”.
Rõ ràng Sự Thật
(Veritas) và Tình Yêu Thương (Caritas) là những đòi hỏi
của luật tự nhiên mà ĐTC đã trình bày trong thông điệp của ngài.
Đó là những tiêu chuẩn cơ bản để mọi người suy nghiệm về luật
luân lý trong thực tế kinh tế xã hội hiện nay.
Thực vậy, những đề
nghị trong thông điệp không phải là những điều cao siêu lý
tưởng, cũng không phải nó chỉ dành cho những người có niềm tin
vào Thiên Chúa Mặc khải, mà đúng ra nó dựa trên những thực tế
căn bản về nhân chủng học, như Sự Thật và Tình Yêu.
THÔNG ĐIỆP CŨNG ĐƯA RA MỘT TÍN HIỆU VỀ GIÁO HỘI Á CHÂU
Đức Thánh Cha đã
không quên những quốc gia nghèo như Á Châu và Châu Phi. Ngài đã
đưa ra những tín hiệu đặc biệt cho Giáo Hội ở những vùng này.
Trong thông điệp,
ĐTC đã nêu lên những điểm như là qui luật để thi hành cho giáo
hội Á Châu. Chẳng hạn: “Vấn đề lương thực đòi hỏi một giải
pháp dài han để khuyến khích, nâng đỡ sự phát triển nông nghiệp
nơi các nước nghèo”. Giải pháp này có thể là: “phân phối
đất đai một cách công bằng, truyền thông báo chí sẵn sàng, thiết
lập hệ thống dẫn thủy nhập điền, phương tiện giao thông chuyên
chở tiện lợi, tổ chức thị trường và huấn luyện kỹ thuật canh
nông”.
Có vậy viện trợ mới
đạt được mục đích và ý nghĩa của nó là giúp những quốc gia nghèo
chậm tiến nhận viện trợ đi đến tự lực tự cường. Nếu không, viện
trợ sẽ làm cho người nhận bị lệ thuộc, mất tự chủ, trở thành ỷ
lại và bị lợi dụng.
Ngoài ra: “Làm
kinh tế cần phải có đạo đức nhất là những người hoạch định và
thi hành chương trình và kế hoạch”.
Nếu không một khi
lợi nhuận trở thành mục đích chính của thương mại thì “tự nó
sẽ làm mất đi sự phồn vinh thịnh vượng mà còn tạo nên cảnh nghèo
đói”. ĐTC quả quyết: “Viện trợ kinh tế đòi hỏi sự can dự
của nhà nước và xã hội dân sự, gồm có các Giáo Hội địa phương và
những nhân vật cốt cán có uy tín”. Đồng thời, theo ĐTC thì “thị
trường quốc tế cần phải mở rộng để đón nhận hàng hóa, sản
phẩm của những nước kém mở mang mới mong bảo đảm cho sự sống còn
và tự chủ của họ”.
Ngoài ra phát triển
sẽ bị cản trở nếu tôn giáo và những nguyên tắc căn bản về tôn
giáo bị “gạt ra khỏi sinh hoạt công cộng”. Đồng thời nhà nước
“phải cổ võ, bảo vệ hệ thống gia đình và hôn nhân giữa người nam
và người nữ, cung ứng cho họ đầy đủ những nhu cầu kinh tế cần
thiết cũng như tôn trọng mối tương quan liên hệ giữa họ với
nhau”. Nhà nước không thể “cổ võ ngừa thai, phá thai và khuyến
khích an tử”.
Phát triển thực sự
-theo như ĐTC Biển Đức XVI- không thể bỏ qua đời sống thiêng
liêng, niềm tin tôn giáo và sự quan phòng giúp đỡ của Thiên
Chúa, tình yêu thương bác ái, lòng tha thứ, quên mình chấp nhận
tha nhân, công lý và hòa bình.
KẾT LUẬN
Con người là yếu tố
căn bản của gia đình, xã hội, quốc gia và thế giới. Nếu không có
con người thì sự khổ nạn cứu độ của Chúa Kitô không thể thực
hiện được. Phát triển xã hội, văn hóa, kinh tế tài chánh, kỹ
thuật, chính trị, nếu không lấy con người là chính và trọng thì
phát triển không thể thành công. Vì vậy trọng điểm của thông
điệp Yêu Thương và Sự Thật của ĐTC Biển Đức XVI là CON NGƯỜI.
Con người được Thiên Chúa dựng nên giống như hình ảnh của Người.
Con người gồm có Xác và Hồn vẹn toàn với đầy đủ mọi đặc tính
nhân phẩm, nhân vị, nhân quyền và tự do…từ khi mới thụ thai. Con
người phải được bảo vệ trong mọi hoàn cảnh, mọi không gian và
thời gian, không phân biệt màu da tiếng nói, sắc tộc, địa
phương, tôn giáo, giàu nghèo, sang hèn… Không tôn trọng và bảo
vệ con người thì đừng nói đến phát triển con người hay văn hóa,
kinh tế, chính tri, xã hội, quốc gia hay thế giới.
Con người cần phải
được bảo trọng và thương yêu, cũng như cần phải yêu thương và
tôn trọng tha nhân trong Thiên Chúa là Tình Yêu. Đó là tín hiệu
tự nhiên từ ngàn đời.
Fleming Island,
Florida
4-11-2009
NTC
|
VỀ MỤC LỤC |
|
VÀI NHẬN XÉT VỀ THÔNG ĐIỆP CARITAS
IN VERITATE CỦA ĐGH BENEDICTÔ (BIỂN ĐỨC) XVI
|
Bùi Hạnh Nghi (Đức quốc)
I Dẫn nhập
Thông điệp của các Giáo Hòang thường được bắt đầu bằng một cụm
từ La-tinh. Thông điệp thứ ba của ĐGH Biển Đức cũng không ra
ngòai thông lệ này và được khởi đầu bằng cụm từ Caritas in
Veritate (CiV). Nghĩa của 3 từ này ai cũng biết nhưng tưởng cũng
nên nhắc lại để dễ theo dõi phần sau của bài này: Caritas là
Tình yêu, Veritas là Sự Thật là Chân Lý. In là trong. Caritas in
Veritate là Tình Yêu trong Chân Lý (trong Sự Thật).
Dịch Caritas là bác ái?
Thoạt tiên khi nghe danh từ Caritas chúng ta liên tưởng đến „bác
ái“, đến lòng thương người, thương tha nhân, đồng bào, đồng lọai
và những việc làm từ thiện của cá nhân hay của cơ quan như
Caritas chẳng hạn. Và nhiều người đã vội dịch Caritas in
Veritate là “Bác ái trong Sự Thật”. Nhưng „bác ái“ chỉ diễn tả
được cảm xúc và việc làm giữa người với người mà không thâu tóm
được tất cả mọi khía cạnh của từ La-tinh Caritas. Danh từ
Caritas của Thông điệp không thu gọn trong nghĩa bác ái mà bao
gồm cả Tình Yêu Chúa đối với ta và ta đối với Chúa và từ nguồn
gốc này nảy sinh bác ái giữa người với nguời. Tình yêu đối với
tha nhân là hậu quả của tình yêu Thiên Chúa dành cho chúng ta và
của tình yêu chúng ta đáp lại và
cũng
là thước đo thực chất
tình yêu chúng ta dành cho chính Thiên Chúa (x. 1 Ga 4, 19-20).
Dịch caritas là bác ái e rằng sẽ làm què quặt ý niệm bao quát
của từ này trong Thông điệp. Chính ĐTC cũng nhấn mạnh trong phần
dẫn nhập CiV rằng phải hiểu Caritas theo nghĩa của từ này trong
Thông điệp Deus Caritas est (nên dịch Chúa là Bác Ái hay chỉ có
thể dịch Chúa là Tình Yêu???) ngài ban bố năm 2005. Trong bản
La-tinh của Thông điệp Caritas in Veritate (CiV) nhiều khi từ
„Amor“ được dùng thay cho từ Caritas hoặc là được ghi thêm bên
cạnh từ Caritas.
Chỉ xin đan cừ vài ví dụ:
„Amor – « caritas » – magna est vis ...(CiV 1) ;
Caritas amor est acceptus itemque donatus ... Ad
Dei amorem destinati, homines caritatis obiectum sunt
facti ...„ (CiV 5). Và bản dịch của các ngôn ngữ khác cũng dùng
danh từ Liebe, Amour, Amor, Amore, Love. Vậy có lẽ chúng ta cũng
không nên e
ngại dịch
Caritas
là „Tình Yêu“ và
chỉ
dành từ „bác ái“ cho
những câu những đọan trong Thông điệp nói về bác ái giữa nguời
với ngừời như trong câu trích dẫn trên đây: „...homines
caritatis obiectum sunt facti“.
Tựa
đề đầy đủ của Thông điệp là
”Thông điệp Caritas in Veritate của ĐTC Bênêđictô XVI về sự phát
triển toàn diện của con người trong tình yêu và trong sự thật
gửi các Giám mục, Linh mục, Phó tế, các Tu sĩ, các Tín hữu giáo
dân và tất cả mọi người thiện tâm”.
Điều đáng chú ý là khác với hai Thông điệp trước đây của ĐTC
Biển Đức chỉ được gởi đến các thành phần Dân Chúa, Thông điệp
thứ ba này còn được nới rộng đến „tất cả mọi người thiện tâm“.
Đây cũng là một truyền thống
Thông điệp
của các Giáo Hòang: khi nói về một đề tài tín lý, giáo lý hoặc
mục vụ thì chỉ gởi đến các con cái của Giáo hội còn những Thông
điệp xã hội với đề tài nhân sinh chính trị kinh tế xã hội tức
là liên quan đến tòan thể nhân lọai thì các Thông điệp - ngọai
trừ Thông điệp đầu tiên Rerum Novarum - còn được gửi thêm cho
„những người thiện tâm“, chứng tỏ ý hướng muốn cống hiến cho tất
cả mọi thành phần trong cũng như ngòai Giáo Hội những suy tư và
hướng dẫn về một vấn đề liên quan đến tòan thể nhân lọai. Nội
dung Thông điệp không chỉ thu gọn trong lãnh vực tín lý mục vụ
của đạo Công Giáo mà được bao trùm lên vấn đề sinh tồn của mỗi
người và của cả nhân loại, gồm cả hai khía cạnh đạo đời, vật
chất và tâm linh. Trong ngữ cảnh Thông điệp người có thiện tâm
được hiểu là người cảm thấy mình tha thiết và có trách nhiệm đối
với sự phát triển của con người, là người có lương tâm và cố
gắng sống theo các tiêu chuẩn và giá trị luân lý.
Thông điệp
CiV
được ĐTC ký ngày 29. tháng 6, 2009.
Lúc đầu Ngài dự định công bố năm 2007 kỷ
niệm tứ thập chu niên Thông điệp
Populorum progressio
(phát triển các dân tộc) của
ĐGH Phao-Lô VI – nhưng
Ngài
đã hõan lại 2 năm, vì còn muốn đưa vào Thông điệp những quan
sát và suy tư về
nguyên nhân của cơn lốc tài chánh và kinh tế
với những hậu quả tai hại cho công trình phát triển.
Qua đó ĐTC Biển Đức
thi
hành huấn thị của Công Đồng Chung Vaticano II là quan sát, phân
tích những dấu chỉ của thời đại và lấy ánh sáng Phúc âm mà soi
dẫn. Và việc công bố
Thông điệp một ngày trước ngày khai mạc cuộc họp thượng đỉnh G8
tại Aquilà từ 8 đến 10 tháng 7 năm 2009 cũng là một sự sắp xếp
thời gian rất có ý nghĩa.
Thông điệp CiV tiếp nối truyền thống học
thuyết xã hội của Giáo hội Công giáo, khởi đầu với Thông điệp
Rerum Novarum (Tân
Sự)
của Đức Giáo Hoàng Leô XIII ban hành năm 1891, với
chủ đề
„Vấn
đề
công nhân thợ
thuyền“.
Đức Leô XIII cho biết
nguyên
nhân khiến ngài ban
hành Thông điệp này là sự thay đổi ồ ạt của cục diện kinh tế và
xã hội thời đó với sự bành trướng của nền công nghệ và sự xuất
hiện của nhiều phương thức sản xuất mới mẻ, sự biến thể của
tương quan giữa tầng lớp chủ nhân và công nhân, tình trạng tài
nguyên và vốn sản xuất tập trung vào tay một thiểu số giàu có,
còn công nhân thì ngày càng nghèo đi, sự xung khắc giữa hai giai
cấp này ngày càng gay go và đang được làm đề tài cho nhiều cuộc
hội thảo và tranh luận. Trong hòan cảnh đó ĐGH Leô XIII ban bố
Thông điệp Rerum Novarum nhằm đề ra một số nguyên tắc làm chỉ
nam cho hành sử đúng đắn và hợp lý về vấn đề công nhân. Các Đức
GH trước đó cũng đã nhiều lần đề cập đến vấn đề kinh tế xã hội
nhưng đây là lần đầu tiên vấn đề này, đặc biệt là vấn đề công
nhân,
đuợc làm đề tài cho nguyên một Thông điệp. Một điểm đặc biệt
nữa là Thông điệp Tân Sự phản bác và lên án chủ nghĩa xã hội
Mác-xít chủ trương xóa bỏ quyền tư hữu, công hữu hóa các phương
tiện sản xuất và đấu tranh giai cấp.
Sau
Rerum novarum
của Đức Leô XIII từ năm 1891 đến nay các ĐGH đã lần
lượt cho ra 8 Thông điệp và tông thư xã hội khác. Đó là
Quadragesimo anno (QA)
của Đức Piô
XI, năm 1931, kỷ niệm tứ thập chu niên Rerum Novarum;
Mater et Magistra (MM)
của Đức Gioan XXIII , 1961;
Pacem in terris (PT)
của Đức Gioan XXIII, 1963 ;
Populorum progressio
(PP) của Đức Phao-Lô VI, 1967 ;
Octogesima adveniens
(OA) Tông thư của Đức Phao-Lô VI, 1971, kỷ
niệm bát thập chu niên Rerum Novarum;
Laborem exercens (LE)
của Đức Gioan Phao-lô II, 1981 ;
Sollicitudo rei socialis
(SRS) của Đức Gioan Phao-lô II, 1987, kỷ
niệm nhị thập chu niên Populorum Progressio;
Centesimus annus (CA)
của Đức Gioan Phao-lô II, 1991, kỷ niệm bách chu niên Rerum
Novarum.
Trong các Thông điệp và tông thư vừa kể thì quan trọng nhất đối
với chủ đề của Caritas in Veritate là Thông điệp của ĐGH Phaolô
VI với đề mục “Phát triển các Dân Tộc” (Populorum Progressio),
một văn kiện khai triển huấn thị Công Đồng Chung Vaticano II
chủ trương công bình và bác ái trong nền kinh tế quốc gia và
thế giới, nhấn mạnh về quyền của công nhân được có công ăn việc
làm với các điều kiện làm việc xứng đáng và quyền lập nghiệp
đoàn để tranh đấu cho quyền lợi chính đáng của mình.
ĐTC Biển Đức
dành nguyên chương đầu của CiV cho Thông điệp Populorum
Progressio vì không những Thông điệp này có cùng một chủ đề với
CiV là „phát triển“ mà còn được ngài xem là Rerum Novarum của
thời đại mới (CiV 8). Theo phương châm « ôn cố tri tân“ ĐGH Biển
Đức trình bày tường tận nội dung của Populorum Progressio và đem
áp dụng vào tình trạng kinh tế và xã hội trong thời đại mới. ĐTC
ca tụng tầm nhìn xa rộng sâu sắc của Đức Phao-Lô VI về một nền
kinh tế thị trường mẫu mực trong đó các dân tộc được đối xử công
bằng đúng theo tinh thần Rerum Novarum của GH Leô XIII.
II Những trọng điểm của
Thông điệp CiV
Chỉ
nhìn vào tiêu đề Thông điệp cũng đủ thấy văn kiện xoay quanh 3
trọng điểm then chốt: Tình Yêu, Chân Lý và Phát triển. Trước hết
để có một cái nhìn tổng quát về Thông điệp và mục đích của
ĐTC Biển
Đức,
xin dịch lại diễn từ của
Ngài trong cuộc tiếp kiến chung một ngày sau khi Thông điệp ra
mắt:
„Anh chị em yêu qúi,
Hôm
qua Thông điệp mới của tôi Caritas in Veritate đã được công bố.
Chủ đề của Thông điệp này là sự phát triển tòan diện của con
người. Nhưng tôi không nhằm mục đích cống hiến cho công chúng
những giải pháp kỹ thuật thực tiễn để giải quyết những vấn nạn
kinh tế to lớn hiện nay. Những vấn đề quan trọng của xã hội
chúng ta vượt lên trên bình diện của những họat động thông
thường và phải được nhìn trong khung cảnh rộng lớn hơn. Vì vậy
tôi muốn nhắc nhở mọi người rằng sự phát triển tòan diện của mỗi
người và của tòan thể nhân lọai chỉ được thành tựu trong Chúa
Kitô và trong cuộc đồng hành của tất cả chúng ta mà điểm đến là
Chúa Kitô. Động lực chính của chiều hướng phát triển này là Tình
Yêu trong Chân Lý, nghĩa là sẵn sàng chấp nhận Lô-gíc của sự
trao tặng, sự dâng hiến nhưng không và lấy những nguyên tắc
quan trọng sau đây làm kim chỉ nam cho việc tổ chức đời sống xã
hội: Kính trọng sự sống của con người, bào tòan các quyền lợi và
nghĩa vụ đích thực của con người, những người có trách nhiệm
chính trị phài có đức độ, mọi nguời phải dốc lòng phục vụ công
ích trên bình diện quốc gia cũng như tòan cầu, đặt nặng vấn đề
đạo đức luân lý trong việc xử dụng kỹ thuật và truyền thông. Xã
hội của chúng ta đang lâm bệnh, liều thuốc chữa phải được tìm ra
trong sư suy tư nghiêm chính về ý nghĩa sâu xa của kinh tế, tài
chánh và chính trị. Sự suy tư này phải đặt nền tảng trên chân lý
về con người và trên mối liên hệ giữa mỗi người với đồng lọai.
Con người không phải chỉ có thể xác mà còn có linh hồn, do đó sự
phát triển tòan diện của con người phải bao gồm cả sự lớn mạnh
của tinh thần. Các vấn đề xã hội của thời đại này đòi hỏi chúng
ta phải lớn lên trong Công lý và Tình yêu và phải dấn thân cho
tha nhân trong tinh thần thực hành đức tin. Trong những ngày này
chúng ta hãy đặc biệt cầu nguyện cho những người gánh vác trách
nhiệm lớn lao trong lãnh vực kinh tế và chính trị đang dự cuộc
họp thượng đỉnh tại L’Aquilà, chúng ta hãy cầu nguyện cho công
việc của họ đẩy mạnh sự phát triển tòan diện của các dân tộc
trên thế giới.“
1)
Ánh sáng Chân lý trên Tình Yêu
ĐTC Biển Đức đã lấy
cụm
từ Caritas in Veritate - Tình Yêu trong Chân Lý
(trong Sự Thật) làm đầu đề cho Thông điệp. Chữ „trong“ ở đây
phải được hiểu như thế nào? Theo nghĩa thông thường „trong sự
thật“ nghĩa là không dối trá, không méo mó, không sai lệch.
Nhưng chữ „trong“ của Thông điệp không đơn giản như vậy. Để
giải thích, ĐTC cho biết: Tình yêu trong Sự Thật có nghĩa
là Tình yêu được soi sáng, được hướng dẫn bởi ánh sáng của Chân
Lý, mà dưới con mắt đức tin, Chân Lý đó là Phúc Âm, là chính
Chúa Giêsu như Chúa đã nói: Ta là Đường, là Sự Thật.
ĐTC
nhắc lại lời Thánh Phao-Lô nói về
tương quan giữa Tình Yêu và Sự Thật trong thư
gửi Giáo hữu thành Êphêsô
(Eph. 4,15) . Thánh Phao-Lô
cũng dùng hai chữ Caritas và Veritas nhung sắp đặt hai từ này
theo thứ tự „Veritas in Caritate“, Sự Thật trong Tình Yêu, có
thể hiểu là “sự chân thành trong tình yêu “ (“wahrhaftig in der
Liebe” theo bản dịch của Martin Luther). Cũng có thể dựa vào bản
dịch Vulgata (veritatem autem facientes, “thực hiện“ Chân Lý)
để hiểu rộng ra là sự rao truyền Chân Lý phải được soi dẫn bởi
Tình Yêu, Chân Lý phải được thực hiện (facientes) trong tinh
thần yêu thương thì mới có thể đi vào lòng người, mới được dễ
dàng chấp nhận.
ĐGH Biển Đức giải thích câu nói của Thánh Phao-Lô là phải nhờ
vào Tình Yêu, phải nhìn với con mắt của Tình Yêu mới tìm ra và
diễn tả được Chân Lý một cách thấu đáo. Nhưng ĐGH cũng muốn bổ
túc thêm một khía cạnh khác là chính Tình Yêu cũng cần đựoc Chân
Lý soi sáng. Phải nhờ vào sự hướng dẫn của Chân Lý chúng ta mới
biệt đón nhận, mới hiểu đuợc và thực hiện được Tình Yêu. Một
mặt, nhờ vào Tình Yêu, Chân Lý thu phục được lòng tin cậy và
thêm sức thuyết phục khi đề cập đến các vấn đề cụ thể trong đời
sống xã hội (Veritas in Caritate của Thánh Phao-Lô), mặt khác,
nhờ vào ánh sáng Chân Lý, Tình Yêu được sáng tỏ và hữu hiệu
thêm (Caritas in Veritate của
ĐTC Biển
Đức )
(CiV 2). Nếu thực hiện đúng phương châm Tình Yêu trong Chân Lý
sẽ nhận ra rằng các giá trị của Ki-Tô giáo rất hữu ích, rất cần
thiết cho hòai bão xây dựng một xã hội tốt đẹp lành mạnh bảo đảm
sự phát triển tòan diện cho con người và cho nhân lọai (CiV 4).
Tình Yêu phải được Chân Lý soi sáng mới đạt được ý nghĩa đích
thực và giá trị của nó. Chân Lý phát xuất từ 2 nguồn là lý trí
tự nhiên và Đức Tin. Nếu Tình Yêu chỉ được giới hạn vào những
cảm tình tự nhiên tuy tốt đẹp, tuy hữu ích cho cuộc sống chung
trong gia đình, trong xã hội, nhưng nếu không ở trong Chân Lý
Đức Tin thì tình yêu không thể làm nền tảng cho sự phát triển
đích thực, tạo thành một xã hội xứng với phẩm giá con người.
2)
Tình yêu: Mến Chúa Yêu Người
Như
trên đã nói, Caritas
là Tình Yêu, là một sức mạnh lớn lao („magna est vis“) (CiV 1)
phát nguồn từ Thiên Chúa. Trong trang đầu của Thông điệp „Deus
Caritas est“ (Chúa là Tình Yêu) ĐTC trích dẫn hai câu từ Cựu
Ước: „Hỡi Israel, hãy yêu Chúa hết sức mình với tất cả tâm hồn“
(Sách Đệ Nhị Luật [Deuteronomium] 6, 4-5) . Và « Hãy yêu người
như yêu mình.»(Sách Lê-Vi [Levitikus] 19,18) Hai câu trên nằm
trong hai tác phẩm khác nhau của Cựu Ước được Chúa Giêsu kết
hợp thành một điều luật duy nhất là „mến Chúa yêu người“ và
khẳng định rằng tòan bộ lề luật được thu gồm vào điều duy nhất
đó (CiV 1). Cũng trong phần Dẫn Nhập ĐTC đề ra một số nguyên tắc
thiết yếu về Tình Yêu đại để như sau:
-
Tình Yêu là con đường
chính yếu của học thuyết xã hội Công giáo.
-
Tình Yêu là ân huệ, được
ban phát và đón nhận từ Thiên Chúa qua Chúa Giê-Su. Nhân ân huệ
đó, chúng ta phải lấy tình yêu mà đáp lại, đó là mến Chúa, và
tình yêu nhận được phải chia sẻ, đó là bác ái, là thương người.
-
Tình Yêu phải được Chân
Lý soi sáng mới đạt được ý nghĩa đích thực và giá trị của nó.
-
Tình Yêu trong Sự Thật
là nguyên tắc hướng dẫn các họat động luân lý mà trong hòan cảnh
tòan cầu hóa phải qui tụ vào hai điểm chính, đó là thực hiện
công bằng và phục vụ công ích. Công bằng được thực hiện khi mọi
người và mọi dân tộc được nhận, được hưởng những điều thuộc về
mình, những gì là của mình. Tình Yêu cao qúi hơn công bằng, vì
thực hiện công bằng chỉ là cho tha nhân có được những của cải
những quyền lợi đương nhiên là của họ còn Tình Yêu lại thúc đẩy
chúng ta phải tự động trao tặng tha nhân những điều vốn là của
chúng ta, trao tặng nhưng không, không tính tóan vị kỷ , không
chờ đợi hoặc đòi hỏi người nhận phải đền đáp, trao tặng trong
tinh thần bác ái và trong ý thức liên đới cộng đồng (CiV 5).
Tình Yêu đến từ Thiên Chúa là một ân huệ, không phải vì chúng ta
xứng đáng hay có công trạng gì mà là một ân huệ nhưng không.
Chúng ta không những chỉ phải đáp lại mà còn phải trở thành dụng
cụ của ân huệ đó để quảng bá Tình Yêu của Thiên Chúa và đan dệt
mạng lưới tình yêu giữa người với người, áp dụng Tình Yêu trong
Chân Lý vào các mối liên hệ xã hội (CiV 5). Đó là liên hệ mật
thiết giữa Tình yêu Chúa và bác ái. Bác ái là cách đáp lại Tình
yêu của Chúa. Vì yêu Chúa nên phải yêu người, và yêu người là
phải làm người mình yêu được hạnh phúc, được triển nở viên mãn,
„phát triển toàn diện“. Tình yêu không chỉ được giải thích như
một phạm trù thần học mà được dùng làm nền tảng cho giáo huấn xã
hội.
Danh từ tình yêu được dùng để chỉ nhiều tình cảm tốt đẹp khác
nhau: yêu vợ, yêu chồng, yêu cha mẹ, con cháu, yêu quê hương ,
yêu nghệ thuật, yêu công việc. Tình yêu, nhất là tình yêu nam
nữ, cho ta nếm trứớc niềm hoan lạc vĩnh cữu trong Chúa sau này.
Nhưng tình yêu cũng có thể bị làm hư hỏng: nếu giới hạn tình yêu
vào việc thỏa mãn lạc thú nhục dục thì đã làm què quặt tình yêu
và chỉ còn là một tình yêu bịnh hoạn, bị thúc đẩy bởi một động
lực duy nhất là ích kỷ, xem con người như một thứ hàng hóa có
thể mua bán đổi chác được. Tình yêu đích thực phải lướt thắng
được vị kỷ, phải biết hy sinh để người mình yêu được hạnh phúc.
Và đặc tính của tình yêu đích thực là suốt đời chỉ có duy nhất
một đối tượng: Chỉ yêu duy nhất một Chúa và chỉ có duy nhất một
vợ một chồng, hôm nay và mãi mãi.
Yêu
Chúa và bác ái là hai khía cạnh của một thực thể. ĐTC mượn ngụ
ngôn người Samarita để nhắc nhở chúng ta rằng tình yêu bác ái
không thu hẹp vào phạm vi một cộng đồng, một dân tộc mà tỏa rộng
đến tất cả mọi thành phần của nhân loại. Đối tượng của bác ái
Kitô giáo là bất cứ ai đang cần mình thương yêu giúp đỡ lúc này
và nơi này, không phân biệt giàu nghèo sang hèn, mầu da chủng
tộc mà chỉ đặt ưu tiên vào những người nghèo hèn nhất, tồi tàn
nhất mà Chúa Giêsu đã tự đồng hóa với họ. ĐTC đả kích lập luận
của chủ nghĩa Mác xít cho rằng giới nghẻo khổ của nhân loại
không cần bác ái mà chỉ cần công bằng vì bác ái là hành vi bố
thí, nhằm mục đích làm yên tiếng lương tâm của giới giàu có để
họ tiếp tục bóc lột và tuớc đọat quyền lợi của người nghèo.
Cơ
cấu và hành vi bác ái của Giáo Hội phát xuất từ chí hướng làm
chứng tá cho tình yêu của Thiên Chúa, Đấng đã muốn kết hợp nhân
loại thành một gia đình duy nhất trong Chúa Kitô, Con Một của
Ngài. Tất cả hoạt động của Giáo Hội được thâu tóm vào hai yếu
tố : một là truyền bá và sống Tin Mừng bằng ngôn ngữ và qua các
bí tích và hai là hỗ trợ thúc đẩy sự phát triển tòan diện của
mỗi người và của nhân loại.
3) Phát triển
Ngay trong lời đầu tiên của phần Dẫn Nhập CiV, ĐTC nêu rõ tương
quan giữa Tình Yêu và sự phát triển và tóm lược bàng một câu
ngắn gọn chủ đề của Thông điệp mà Ngài sẽ khai triển trên 160
trang sách: „Tình Yêu trong Sự Thật mà Chúa Giêsu đã lấy cuộc
đời mình, lấy cái chết và sự sống lại để làm chứng là động lực
chủ yếu để đạt được phát triển đích thực cho mỗi người và toàn
thể nhân loại”.
Thông điệp CiV gồm 6 chương:
-
Chương 1
Sứ điệp của Thông điệp Populorum
Progressio “Sự Phát triển của các Dân tộc”;
-
Chương 2 : Sự phát
triển của con người trong thời đại chúng ta;
-
Chương 3: Tình huynh đệ,
phát triển kinh tế và xã hội dân sự;
-
Chương 4: Phát triển
các dân tộc, quyền lợi và nghĩa vụ, môi sinh;
-
Chương 5: Sự hợp tác của
gia đình nhân loại;
-
Chương 6: Sự phát
triển các dân tộc và kỹ thuật.
Chỉ
đọc lướt qua tiêu đề của các chương cũng đủ thấy vấn đề phát
triển là trọng điểm then chốt của Thông điệp. Phát triển phải
được hiểu như thế nào mới gọi được là phát triển toàn diện và
phát triển toàn diện có tương quan nào, liên hệ nào với Tinh Yêu
và Chân Lý?
a) Phát
triển tòan diện
ĐTC không
ngại nhắc đi nhắc lại rằng phát triển đich thực phải là phát
triển tòan diện. Phát triển là mối quan tâm của tất cả các quốc
gia nhưng đa số đều chỉ chú trọng vào khía cạnh kinh tế (với
những khẩu hiệu, những chiêu
bài „dân giàu nước mạnh“, „dân tộc phú cường“ …) mà lãng quên
hay ít chú trọng đến sự phát
triển về mọi mặt của mỗi người.
Ngay cả khi nhấn mạnh về
việc phát
triển
những
lãnh vực
ngoài kinh tế như giáo dục, văn hóa v. v. thì cũng chỉ xem chúng
như những dụng cụ, những phương tiện giúp cho phát triển kinh
tế. Sự bành trướng
của phát minh kỹ thuật đã mang lại cho phát triển kinh tế những
bước nhảy vọt. ĐTC xem kỹ thuật là phương tiện giúp con
người thêm tự chủ và tự do. Nhưng Ngài cũng khuyến cáo không nên
khóan trằng mục tiêu phát triển cho kỹ thuật, xem tiến bộ kỹ
thuật là điều kiện cần và đủ để bảo đảm phát triển tòan diện.
Chủ nghĩa vị kỹ thuật phát sinh từ một quan niệm phi nhân bản.
Ngoài lợi ích kỹ thuật còn phải quan tâm đến phúc lợi thiêng
liêng và phát triển tinh thần của con người vừa có hồn vừa có
xác.
Phát triển
toàn diện bao gồm nhiều yếu tố nhưng có thể thâu tóm vào ba lãnh
vực chính: phát triển vật chất, phát triển tinh thần (trí tuệ,
kiến thức, luân lý, đạo đức, trách nhiệm, ý thức cộng đồng, tinh
thần xã hội ...) và phát triển tâm linh theo chiều
kích siêu nhiên.
Theo
ĐTC Biển
Đức
chiều kích siêu nhiên bảo đảm cho phát triển đi đúng hướng và
đạt được hiệu quả. Giáo
Hội không thể và không muốn thay thế chính quyền, các
chính trị và kinh tế
gia để giải quyết những khó khăn tài chánh kinh tế. Nhưng Giáo
Hội có bổn phận khuyến cáo thế giới đặt suy tư và hành động tài
chánh kinh tế của mình trên một nền tảng siêu nhiên. ĐTC gọi bổn
phận này là „sứ mạng Chân lý“ (Missio Veritatis, CiV 9). Tuyên
xưng đức tin không phải chỉ để cứu linh hồn mà cũng là để cứu
rỗi nhân loại ngay cả trong phần đời. Lý trí và luân lý tự nhiên
không đủ để tạo thành những định chế kinh tế xã hội xứng đáng
với nhân vị và phù hợp với giá trị con ngừoi cao cả hơn tất cả
mọi vật mọi loài trong vũ trụ vì được tạo ra giống hình ảnh
Thiên Chúa.
ĐTC
nhắc lại một số nhận định của Hiến chế mục vụ Gaudium et Spes
(Vui mừng và Hy vọng) của Công Đồng Vaticano II. Khi phân tích
về thân phận con người trong thế giới ngày nay Hiến chế vạch rõ
những đổi thay sâu sắc đang lan rộng khắp hòan cầu nguợc lại với
nhân vị con người, đặc biệt là những biến đổi xã hội và văn hóa
đang xâm nhập cả đời sống tôn giáo. Khủng hoảng dồn dập, chênh
lệch giàu nghèo, nạn đói, nạn mù chữ, sự xuất hiện những chế độ
nô lệ mới về mặt xã hội cũng như tâm lý … Trong lúc đó thì người
ta lại không lo tới sự phát triển tinh thần tương xứng và không
nhận chân được những giá trị trường cữu để tạo ra một tổ chức
trần thế hòan hảo hơn
ĐTC
khuyến cáo chúng ta thể hiện Tình Yêu đối với gia đình nhân loại
bằng cách dốc lòng phục vụ con người và phục vụ công ích, xem
việc canh tân xã hội loài nguời cũng là một cách thực hành sứ
mạng cứu rỗi. Trong tinh thần đó, lấy ánh sáng Phúc Âm mà soi
dẫn tư tưởng và hành động nhằm thiết lập một trật tự chính trị,
xã hội và kinh tế để phục vụ con người đắc lực hơn, giúp mỗi cá
nhân, mỗi tập thể ý thức phẩm giá của mình để nỗ lực thăng hoa
đời sống về cả hai mặt vật chất và tâm linh. Có thế mới thực
hiện được tình huynh đệ, mới làm cho các hoạt động kinh tế xã
hội đạt được kết quả thực sự nhân bản. Phát triển cần chú trọng
đến việc chiến thắng đói nghèo, bệnh tật và mù chữ. Sinh hoạt
kinh tế phải đặt trên nguyên tắc bình đẳng giữa các cá nhân và
giữa các dân tộc, nhằm tạo thành những cộng
đồng văn minh thấm nhuần
tinh thần liên đới, thực hiện nền dân chủ trong tự do và hòa
bình.(CiV 20-21)
b) Thách thức tòan cầu
hóa.
ĐTC nhắc
lại lời GH Gioan Phao lô II là hiện tượng toàn cầu hóa tự nó
không phải tốt hấy xấu. Tiêu cực hay tích cực chỉ là do quan
niệm về giá trị và nhân vị của con người và cách thực hiện tòan
cầu hóa như thế nào. Tòan cầu hóa phải được lệ thuộc vào sự phát
triển toàn vẹn và đích thực. Sự lệ thuộc lẫn nhau và lệ thuộc
vào những họat động hỗ tương có nhiều khía cạnh tích cực và có
thể đẩy mạnh phát triển, miễn là phải đề cao tinh thần liên đới,
chiến thắng lòng vị kỷ cá nhân và quốc gia.
Tòan cầu hóa phải được thực hiện dưới ánh sáng của chân lý và
tuân theo những tiêu chuẩn luân lý bảo đảm cho việc hòan thành
một nhân lọai hợp nhất với sứ mạng tiến tới trên đường hoàn
thiện. Giáo hội có trách nhiệm cống hiến cho cộng đồng nhân lọai
nền tảng chân lý khả dĩ giải quyết những điểm tiêu cực, hóa giải
nguy cơ đi lạc hướng của tòan cầu hóa. Người tín hữu Kitô được
thấm nhuần Tình yêu và Chân lý của Phúc âm có trọng trách góp
phần tích cực vào việc làm cho tòan cầu hóa thực hiện chương
trình của Thiên Chúa, làm cho các dân tộc trên toàn cầu qui về
một mối, trở thành một gia đình duy nhất. Đìều này mới nghe qua
có vẻ không tưởng nhưng xét cho cùng thì chỉ là một hệ luận hòan
tòan lo-gic, nếu tin rằng tất cả mọi người là con của một Chúa
Cha.
c) Tương quan giữa phát triển và tình yêu
„Tình yêu trong Chân lý“
là động lực thúc đẩy xã hội phát triển tòan vẹn trong mọi khía
cạnh nhân bản. ĐTC Biển Đức khẳng định cần phải cho sự tòan cầu
hóa một chiều hướng siêu hình mà Ngài gọi là văn hóa tình
yêu (« cultus amoris », „civiltà dell'amore“ CiV 33) mà hạt
giống đã được Thiên Chúa gieo vào thửa đất của mỗi dân tộc và
mỗi nền văn hóa. Bản chất văn hóa tình yêu là tinh thần liên
đới, ý thức cộng đồng, sẵn sàng chia sẻ và phục vụ công ich.
Phải phát huy „văn hóa tình yêu“ thì sự tòan cầu hóa mới đưa đến
phát triển tòan diện mà Đức Paul VI đã truyền bá trong Populorum
Progressio năm 1967 (CiV 33). Thông điệp này là văn kiện quan
trọng nhất trong tòan bộ giáo huấn xã hội của Giáo hội về vấn đề
phát triển tòan diện và đã được các ĐGH kế tiếp tuyên dương và
khai triển. Đặc biệt là Đức Gioan Phaolô II đã ban hành Thông
điệp Sollicitudo Rei Socialis (Ưu tư
về vấn đề xã hội) năm 1987 nhân ngày kỷ niệm nhị thập chu
niên Populorum Progressio. Đức Gioan Phaolô II tuyên bố: Truyền
thống của Giáo hội luôn tôn trọng và phát huy nhân vị, do đó
luôn lưu tâm đến sự phát triển đích thực và tòan diện của con
người. Đến lượt
ĐTC Biển
Đức
cũng muốn ban hành Thông điệp Caritas in Veritate vào năm 2007
để kỷ niệm tứ thập chu niên
Populorum Progressio nhưng sau đó đã hõan lại đến 2009 vì những
lý do nêu trên.
Theo GH Biển-Đức, Thông điệp năm 1967 của Đức Phaolô VI chứa
đựng giáo huấn xã hội của Giáo hội Công giáo nhằm đáp ứng nhu
cầu của thời đại ấy và cũng quan trọng không kém gì Rerum
Novarum đối với thời đại ĐGH Leô XIII. Vì thế Ngà i gọi
Populorum Progressio là Rerum Novarum của thời hiện đại. (Lm.
Thomas William LC, giáo sư chuyên về học thuyết xã hội công
giáo cho rằng việc ĐGH Biển Đức gọi Populorum Progressio của
Giáo Hòang Phao-Lô VI là Rerum Novarum của thời hiện đại chỉ
đúng một phần [Xin
xem bàn dịch bài phỏng vấn giáo sư Williams của Phạm Hồng Lam
đăng trên Diễn Đàn Giáo Dân số 93 tháng 8/2009].
Theo tôi thì nhận định của ĐGH Biển Đức về Populorum Progressio
hòan tòan đúng, vì “như Giáo hòang Lê-ô XIII, ĐGH Phao-Lô
VI đã đem ánh sáng Phúc Âm chiếu dọi vào những vấn đề xã hội của
thời đó” (CiV 16). Giáo Hòang Phao-Lô VI đã dựa vào Phúc Âm đề
ra những nguyên tắc chỉ đạo và lập luận tổng qúat về vấn đề phát
triển tòan diện, chúng vẫn còn giữ nguyên tính thời sự cho đến
ngày nay. ĐGH Biển Đức đã dành nguyên chương đầu của CiV tóm
lược và khai triển Populorum Progressio và khẳng định rằng Đức
Phao-Lô VI để lại cho chúng ta 2 nguyên tắc bất biến: Một là
tất cả mọi họat động truyền giáo, mục vụ và bác ái của Giáo Hội
đều qui về một điểm, đó là hỗ trợ sự phát triển tòan diện của
nhân loại. Hai là sự phát triển đích thực của con nguời phải
được đặt trên nền tảng nhân vị của mỗi người. Mỗi người được ơn
gọi hòan thành phát triển tòan diện cho chính mình và góp phần
vào việc phát triển nhân lọai. Noi gương Đức Phao-Lô VI, GH Biển
Đức cũng lấy ánh sáng Phúc Âm - Tình Yêu và Chân Lý - làm linh
dược chữa lành những căn bệnh của thời nay. Mặc dầu hòan cảnh
mỗi thời mỗi khác và mỗi thời lại xuất hiện nhiều vấn nạn mới,
ví dụ thời GH Phao-Lô VI tòan cầu hóa ngày càng bành trướng còn
thời Lê-ô XIII chưa có hiện tượng này, nên giáo huấn của Ngài
chưa đề cập đến. Vì thế, tuy hòan cảnh cụ thể mỗi thời mỗi khác,
nhưng vẫn có thể áp dụng danh hiệu “Rerum Novarum của thời đại
mới” không những cho Thông điệp của GH Phao-Lô VI mà cả cho
Thông điệp CiV của GH Biển Đức).
Niềm xác tín của Đức Phao-Lô VI là chỉ có Tình Yêu mới bảo đảm
cho công tác xã hội được đúng đắn và xứng đáng với nhân phẩm.
Phải được Tình yêu hướng dẫn người ta mới có thể khám phá được
các nguyên nhân sâu xa của nghèo đói, của bất công và tìm ra
những phương cách chữa trị.
Phát triển tòan diện đòi
hỏi phải
đánh giá đúng mức giá
trị lao động của con người dưới ánh sáng của Tình Yêu. Giáo huấn
xã hội Công giáo đả kích quan niệm vô nhân đạo của chủ nghĩa tư
bản quá khich xem lao động của con người như một thứ hàng hóa
trên thị trường và lạm dụng thị trường này để vi phạm quyền lợi
chính đáng của người lao động (ví dụ chuyển cơ sở sản xuất đến
những vùng có thể mua được món hàng lao động với giả rẻ hơn hoặc
lợi dụng thế mạnh trên thị trường để bắt người lao động phải
chấp nhận mức lương không đủ nuôi sống mình và gia đình). ĐGH
Biển Đức nhắc lại yêu cầu của Rerum Novarum là phải thành lập
nghiệp đòan và hỗ trợ cơ quan này trong công tác tranh đấu cho
quyền lợi của công nhân. Phúc lợi của xã hội được tạo thành bởi
sự hợp tác của lao động và tư bản, của công nhân và chủ nhân. Vi
thế lợi nhuận phải phân phối công bằng cho cả đôi bên.
Công bằng là ngưỡng cửa phải bước qua trước mới đến được
Tình Yêu. Theo lời
Đức Giáo Hoàng Phaolô VI Công lý là
“tiêu chuẩn tối thiểu” của bác ái (CiV 6).
ĐTC
Biển Đức phê phán sự phát triển không đồng đều trên thế giới:
“Thông điệp Populorum Progressio đã đựoc ban bố trên 40 năm
nay, nhưng vấn đề phát trỉển chẳng những chưa được giải quyết
thỏa đáng mà còn gặp nhiều trở ngại lớn hơn do khủng hỏang kinh
tế và tài chánh hiện tại. ” (CiV 33). Trong khi một số vùng
trước kia nghèo giờ đây đã phát triển thì vẫn còn những vùng
khác chưa thóat khỏi cảnh nghèo mà có khi lại còn túng quẫn hơn.
Trở ngại của phát triển đồng đều là sự ích kỷ của các nước giàu
đối xử bất công với các nước nghèo trên thương trường. Và tệ
đoan này ngày càng bành trướng theo sự bành trướng của tòan cầu
hóa. Ngòai ra việc giải phóng các nước thuộc địa tuy là điều tốt
nhưng nhiều khi đã được thực hiện với nhiều hiệu qủa tiêu cực
một phần do những hình thức thực dân mới cọng
với tình trạng lệ thuộc vào những ngọai bang giàu mạnh cũ cũng
như mới, một phần
là do sự vô trách nhiệm của các nhà lãnh đạo những nước đã dành
được độc lập.
Theo ĐTC không thể có phát
triển tòan diện nếu không tôn trọng, không sẵn sàng đón nhận và
bảo vệ sự sống. Qui chiếu Thông điệp Humanae Vitae của Đức
Phao-Lô VI, ĐTC Biển
Đức
nhấn mạnh rằng việc
bảo vệ sự sống phải được nhìn dưới ánh sáng của một quan niệm
tòan diện về con người và về sứ mạng của con người, không những
trong chiều kích tự nhiên mà cả trong chiều kích siêu nhiên. Đặc
biệt là tình dục trong đời sống vợ chồng phải kết hợp hai yếu
tố: cho nhau hạnh phúc và truyền
đạt sự sống. “Nền tảng của một xã hội
sẽ bị lung lay tận gốc rễ khi người ta một đàng đề cao những giá
trị như phẩm giá con người, công lý và hòa bình, nhưng đàng
khác, lại tự mâu thuẫn khi chấp nhận hay dung túng những hình
thức khinh rẻ và chà đạp sự sống của con người, nhất là sự sống
của những người yếu đuối hay bị hất ra ngòai xã hội” (CiV 15).
ĐTC
lên án những hành vi phản lại sự sống đang bành trướng hiện nay
như áp đặt chính sách dân số bất nhân, thụ thai nhân tạo, phá
thai, dùng phôi người cho việc nghiên cứu, tự quyết về mạng sống
và ngày giờ sống chết của mình... Phát minh khoa học hiện đại
khiến cho những hành vi vừa kể được dễ dàng và được đánh giá là
„tiến bộ“, nhưng chúng chỉ là phương tiện của
“nền văn hóa sự chết“ («mortis
culturae ») (CiV 75).
Sự
gia tăng dân số không phải là nguyên nhân chính làm ngưng trệ
phát triển kinh tế, như nhiều người lầm tưởng. Nhiều nước đã đạt
được phát triển mặc dầu dân số gia tăng nhờ vào tỉ số hài nhi tử
vong giảm thiểu và tuổi thọ trung bình gia tăng. Ngược lại tại
nhiều vùng khác mặc dầu dân số giảm thiểu vì tỷ lệ sinh sản đang
xuống dốc một cách đáng ngại thì lại có nhiều triệu chứng khủng
hoảng (CiV 44). Một giáo sư kinh tế tại Ðại học Công giáo
Milano, Bắc Ý, ông Tedeschi, ca tụng
ĐTC Biển
Đức
là người duy nhứt cho thấy có một liên hệ chặt chẽ giữa sự sút
giảm mức sinh sản tại những nước công nghiệp tiên tiến và cuộc
khủng hoảng kinh tế hiện nay.
Tại
nhiều nước, nhất là những nước đã phát triển,
luật pháp bài trừ sự sống rất phổ
biến và ảnh hưởng lớn trên tập quán và đời sống thực tế, góp
phần tạo thành não trạng chống sinh sản mà người ta tìm cách
truyền bá ra cả nước ngòai, vì xem đó là một tiến bộ văn hóa.
ĐTC Biển
Đức nhận định: “Sẵn
sàng đón nhận sự sống là rường cột của sự phát triển đích thực.
Xã hội nào chủ trương chối bỏ hay kìm hãm sự sống thì sớm muộn
gì cũng sẽ không còn tìm được động lực và năng lực cần thiết để
dấn thân phục vụ hạnh phúc đích thực của con người“ (CiV 28).
Chủ
đề phát triển của Thông điệp được
ĐTC Biển
Đức diễn
giải bình luận với những tư tưởng vô cùng súc tích và phong phú.
Không những Ngài đã đào sâu nền tảng thần học, triết học của vấn
đề mà còn tiến sâu vào các ngõ ngách thực tế cụ thể trong các
lãnh vực chính tri, kinh tế, xã hội, để mở ra những chân trời
mới, những hướng đi phù hợp với nhân phẩm và xứng đáng với con
ngừơi đã được tạo dựng giống hình ảnh Chúa ... Phạm vị của bài
này chỉ cho phép trình bày một cách sơ lược. Xin hẹn độc giả bài
sau sẽ khai triển chủ đề
phát triển
của Thông điệp tường tận
hơn.
III Kết luận
Tình Yêu là động lực chính thúc đẩy sự phát triển đích thực của
mỗi người và của nhân lọai (CvT 1). Phúc Âm cho ta biết động lực
này xuất phát từ Chúa Giê-su là Tình Yêu và là Chân lý. Đó là
niềm tin của chúng ta, tín đồ Kitô giáo.
Nhưng với
những người không tin Chúa, không xem
Phúc Âm là chân lý tuyệt đối và phổ quát mà ta lại đem
chính Chúa và chân lý Phúc Âm ra để
làm cơ sở biện luận cho cả những nhận định và đề nghị về chính
trị, kinh tế, xã hội thì có thể thuyết phục họ được? Câu
hỏi này đã có người trả lời là không và đã nghi ngờ tính thuyết
phục của Thông điệp. Như Giáo Sư Hengsbach, linh mục Dòng Tên
người Đức vốn là giáo sư về luân lý xã hội và kinh tế rất nổi
tiếng với cả giới trí thức ngoài công giáo đã phê bình ít nhiều
điểm mà ông cho là tiêu cực trong Thông điệp. Tuy LM cũng ca
ngợi Đức Gíáo Hòang lên án chủ nghĩa tư bản quá khích và
nhấn mạnh về việc mọi người phải có trách nhiệm luân lý và đóng
góp vào việc xây dựng xã hội tốt đẹp. Nhưng theo LM lập luận của
ĐTC không thuyết phục, nội dung của Thông điệp không được
trình bày rõ ràng. Những vấn nạn của thị trường tài chánh chỉ
được lướt qua một cách sơ sài thiếu sâu sắc, thiếu những hứơng
dẫn và giải pháp cụ thể. Chỉ có những
nhà thần học Kitô giáo và những người thực sự tin vào Chúa Giêsu
mới hiểu được và tin được Chân lý Phúc âm dưới ngòi bút
của ĐGH. Còn đối với người ngoài mà
ngài nói là muốn đối thoại thì Thông điệp đã không thành công.
Nhận xét
của LM Hengsbach có thể được chia sẻ bởi những ai chỉ đọc lướt
qua Thông điệp một cách hời hợt. Nếu
đọc kỹ Thông điệp sẽ thấy phê bình của LM Hengsbach không những
quá đáng mà còn vô căn cứ. Có lẽ vì sự thúc bách phải trả lời
phỏng vấn của báo chí ngay khi vừa công bố Thông điệp nên LM
chưa có thì giờ đọc kỹ. Còn đại đa số những bài bình luận xuất
hỉện trên truyền thông ngay sau ngày Thông điệp ra mắt và thời
gian sau đó đều thán phục GH Biển Đức và ca tụng Thông điệp là
một văn kiện rất có giá trị và sẽ gây nhiều ảnh hưởng tích cực
trong nỗ lực giải quyết khủng hỏang hiện nay. Thậm chí Giáo sư
Tedeschi (đã đuợc nhắc đến ở trên) còn cho rằng ĐGH đáng được
trao giải Nobel Kinh tế (!).
ĐTC tuy
dùng chân lý Phúc âm để biện luận vẫn có sức thuyết phục đối với
cả những người không thừa nhận Phúc Âm, vì những luận cứ Ngài
đưa ra có thể được xem là kim chỉ nam mà nhân loại hôm nay đang
cần để bảo đảm cho các cuộc cải tổ chính trị kinh tế xã hội cũng
như sự phát triển mà mọi người mong muốn được thực hiện theo
chiều hướng tốt nhất.
Việc ĐTC tuyên xưng đức tin lúc bàn về phát triển không nhằm mục
đích thuyết phục lôi cuốn người ta tin vào Chúa và gia nhập Giáo
Hội, mà chỉ cống hiến những liều thuốc rút ra từ đức tin để cải
thiện và hòan thiện đời sống thực tế. Không một triết thuyết hay
một nền thần học nào ngòai Kitô giáo có một hình ảnh tốt đẹp và
cao trọng về con người và từ hình ảnh đó rút ra những hệ luận
hiệu quả nhất cho sự phát triển của mỗi người và của nhân loại.
Ánh sáng Phúc Âm đem lại kết quả tốt, nâng cao giá trị và thăng
hoa đời sống và giúp tránh được những cạm bẫy, những vực sâu thì
cho dầu không châp nhận hay còn xa lạ với nền tảng Phúc Âm cũng
có thể xử dụng những hoa trái của Phúc Âm đem áp dụng vào quyền
lợi thế tục của con người. Ngoài việc mời gọi xử dụng những hệ
luận thực hành của lý tưởng Phúc Âm ĐTC còn vạch trần những tai
hại mà chủ nghĩa duy vật và chủ trương hưởng thụ ích kỷ gây ra
cho kinh tế và cho đời sống.
Nói
đến hoa trái Phúc Âm cần nhắc lại một sự kiện lịch sử: Mặc dầu
Tây phương đã thế tục hóa và ảnh hưởng Thiên Chúa giáo ngày càng
giảm bớt, công luận vẫn thừa nhận rằng tinh thần nhân bản của
Văn hóa Tây phương là hoa trái của tôn giáo này. Chẳng hạn câu
„Nhân phẩm con người là bất khả xâm phạm và phải được tất cả mọi
quyền lực quốc gia tôn trọng và bảo vệ“ trong điều 1, 1 Hiến
pháp Cộng Hòa Liên Bang Đức là một trong vô số ví dụ cho thấy
hình ảnh con người căn cứ vào Kinh Thánh của Do Thái/Kitô giáo
đã ảnh hưởng sâu rộng trên nền văn minh Tây phương.
Để
tìm ra thuốc chữa sự thóai hóa luân lý và suy đồi nhân bản tại
Tây phương do thế tục hóa mang lại, người ta, cả những người vô
tín, đang đề cao những giá trị như công bằng, bình đẳng trứớc
pháp luật, nhân quyền, liên đới, lòng nhân đạo ... là những giá
trị xuất phát từ niềm tin Thiên Chúa giáo. Dòng chảy của Thiên
Chúa giáo qua hai ngàn năm lịch sử đã để lại cho nên văn hóa Tây
phương hàng hàng lớp lớp phù sa chở nặng nhiều giá trị nhân bản
mà Tây phương tự hào và đang được cả thế giới văn minh thừa
nhận. Các công ước của Liên Hiệp Quốc và hiến pháp hiện đại của
các nước Tây phương đầy dẫy dấu vết của những phù sa giá trị đó.
Những nhà sử học và xã hội học khách quan không thể phủ nhận
Kitô giáo là nguồn sản xuất và là định chế cống hiến nền tảng
nhân bản cho văn hóa nhân loại. Giáo hội Công giáo có sứ mạng
chỉ đường dầu không tự gán cho mình trọng trách và khả năng giải
quyết những vấn đề chính trị và xã hội trong thực tế.
Tuần báo „Die Zeit“ - một trong những tuần báo lớn nhất nước Đức
với cựu thủ tướng Đức Helmut Schmitt làm đồng chủ nhiệm - số 45
ra ngày 29.10.2009 có một bài nói về cuốn sách „Một thời đại thế
tục hóa“ mới xuất bản của nhà văn lão thành Gia-Nã-Đại Charles
Taylor. Tác giả cuốn sách dày hơn một ngàn trang này đã chứng
minh thuyết phục rằng dầu thế tục hóa đến mấy nền văn minh Tây
phương vẫn không chối bỏ được nguồn gốc Do Thái/Kitô giáo của
mình.
Các
danh từ „Tình Yêu“, Chân Lý, Phát triển, v. v. vốn không mới lạ
gì và không phải chờ đến Thông điệp
chúng ta
mới được biết đến mà
trước đó nghe đã nhàm tai, từ lập luận chân thành của những
người thiện tâm đến chiêu bài giả dối của những kẻ họat đầu
chính trị dùng làm mánh khóe để dành quyền lực. Nhưng Thông điệp
đã chiếu lên những phạm trù quen thuộc ấy một luồng ánh sáng
mới, khiến những điều mình đã nghe đã biết từ lâu bỗng ngời tỏa
lên, kiến thức của mình được sung mãn thêm. Một cánh cửa vừa
được mở ra và sau cánh cửa có một người cha, một vị thầy đang
chờ sẵn để đưa mình đến những chân trời mới lạ.
Thông điệp đã làm nổi bật mối tương quan mật thiết giữa một phía
là phát triển, phía kia là Tình Yêu và Chân Lý và đã cho chúng
ta thấy chỉ có Tình Yêu và Chân Lý được định nghĩa theo giáo lý
của đạo Thiên Chúa đặc biệt là học thuyết xã hội công giáo mới
bảo đảm được phát triển tòan diện của mỗi người và của cả lòai
người khi mà việc tòan cầu hóa dầu muốn dầu không cũng đang được
nhanh chóng thực hiện.
Xin
được kết thúc bài này bằng một câu hỏi thực hành. Vấn đề phát
triển là vấn đề to lớn và là trách vụ của các nhà lãnh đạo, các
chính trị gia và xã hội học trong lãnh vực công cọng. Còn đối
với cá nhân chúng ta trong hòan cảnh riêng tư, trong vị thế nhỏ
bé của mình, Thông điệp cho ta bài học nào và giao phó cho ta
trách nhiệm nào trong vấn đề phát triển? Thông điệp cho ta thấy
rõ phát triển là một thiên chức, một lời mời gọi được gửi đến
từng cá nhân mà điểm then chốt của thiên chức ấy là tình yêu.
Mọi người có trách nhiệm đáp lại lời mời gọi đó. Công Đồng
Vatican II đã minh định không phải chỉ riêng hàng giáo phẩm mà
chính giáo dân cũng có ơn gọi, cũng được Chúa mời gọi vừa cố
gắng đạt được phát triển tòan diện cho chính mình vừa làm chứng
tá cho Chúa, đem Tình yêu và Chân lý đến cho mọi người. Thông
điệp CiV đã cho chúng ta thấy rằng rao truyền và làm chứng tá
cho Tình yêu và Chân lý là đáp lại lời mời gọi cộng tác vào sự
phát triển toàn diện của nhân loại.
Nếu
phát triển không được thực hiện theo ánh sáng Phúc Âm thì sự
toàn cầu hóa, theo lời ĐTC, chỉ làm cho mọi người, mọi nước trở
thành láng giềng, nhưng chưa trở thành huynh đệ trong một gia
đình. Muốn đạt được giấc mơ gia đình nhân loại thì phải nhấn
mạnh chiều hướng siêu hình của sự phát triển, mọi người và mọi
dân tộc phải đáp lại lời mời gọi của Chúa liên kết với nhau
trong tinh thần trách nhiệm và liên đới của anh em một nhà. Hòai
bão xây dựng Gia đình nhân lọai đã từng được nói đến trong
phương châm « Tứ hải giai huynh đệ ». Nhưng đó chỉ là một kiểu
nói nghe cho vui tai mà không ai tin là nên và có thể thực hiện.
Còn gia đình nhân loại của ĐTC là một gia đình trong đó mọi
người, mọi dân tộc đều là huynh đệ vì là anh em của Chúa Giêsu,
cùng cố gắng thi hành lý tưởng „Tình Yêu trong Sự Thật“, để được
thực sự trở thành con cái của một Cha chung trên Trời.
|
VỀ MỤC LỤC |
|
TRUYỀN GIÁO ?
|
Tại thời điểm đầu tháng 11-2009, nếu gõ hai chữ “truyền giáo”
vào Google, thì sau 1/3 giây trang tìm kiếm này sẽ trình ra
1.890.000 kết quả. Kiểm tra 50 kết quả đầu tiên, có đến 45
trường hợp thuộc ngữ cảnh Kitô giáo, chỉ 2 trường hợp thuộc các
tôn giáo khác (1 Hồi giáo, 1 Phật giáo), 3 trường hợp còn lại
thì không kể (vì không phải “truyền giáo” mà là “tuyên truyền
giáo dục”!) Như vậy, tỉ lệ là 45/47.
Khi nói về sứ mạng Kitô giáo, hai tiếng “truyền giáo”
được dùng thật phổ biến trong ngôn ngữ của chúng ta, đến mức
dường như đã trở thành tự nhiên. Người viết mong đóng góp vài
ghi nhận về việc dùng từ như thế, không chủ ý săm soi chuyện chữ
và nghĩa, mà chỉ muốn nhân chuyện chữ nghĩa để nối tiếp câu
chuyện về … một tầm nhìn sứ mạng.
Hai Nghĩa Của “Truyền
Giáo”
Truyền giáo là “truyền bá tôn giáo” (Thanh Nghị, Việt Nam Tân Tự
Điển Minh Hoạ. Saigon: Khai Trí, 1964, tr. 1437.) Coi như cụm
bốn từ rút lại thành hai từ: “truyền” là truyền bá, và
“giáo” là tôn giáo. “Tôn giáo” ở đây có thể hiểu là đạo,
là con đường sống, là niềm tín ngưỡng. Và “tôn giáo” cũng có thể
hiểu theo nghĩa thứ hai, là tổ chức tôn giáo. Như vậy,
“truyền giáo,” trong ngữ cảnh Kitô giáo, có hai nghĩa:
- nghĩa thứ nhất: truyền giáo là truyền đạo, truyền một con
đường sống, tức là
làm cho các giá
trị Tin Mừng được thấm nhập sâu rộng – nghĩa này thuộc phẩm
tính;
- nghĩa thứ hai: truyền giáo là làm cho tổ chức tôn giáo của
mình, tức Giáo Hội
hữu hình, lan
rộng ra – nghĩa này thuộc lượng tính.
Hẳn ai cũng mong muốn phẩm tăng theo lượng. Nhưng trong thực tế
thì rất có thể, thậm chí rất thường, lượng đi một đàng phẩm đi
một nẻo.
Thường Nhắm Nghĩa Nào?
Nói “truyền giáo,” chúng ta thường thiên về nghĩa nào trên đây?
Cứ thăm dò, sẽ rõ. Đơn giản thôi, chẳng hạn đặt câu hỏi: Bạn
được yêu cầu làm bản báo cáo về thành quả truyền giáo tại giáo
xứ bạn trong một năm qua, tự nhiên bạn sẽ nghĩ đến điều gì trước
nhất? Kể từ năm 2006 đến nay, người viết bài này đã có dịp
thăm dò 4 lần như thế, với 4 nhóm khác nhau ở Huế, Đà Nẵng và
Sài Gòn (nhóm ít nhất 25 người, nhóm đông nhất 70 người, thuộc
thành phần linh mục, tu sĩ, chủng sinh.) Cả 4 lần đều có trên
90% số người nhất trí trả lời rằng “để báo cáo thành quả
truyền giáo, tôi sẽ nghĩ trước hết đến con số người lớn được
rửa tội tại giáo xứ trong năm qua.” Rõ ràng, “truyền
giáo” ở đây thiên về việc mở rộng Giáo Hội theo lượng tính.
Cũng khá dễ hiểu, nếu ta ghi nhận rằng không có tôn giáo nào có
đặc tính tổ chức rõ rệt bằng Giáo Hội Công Giáo. Nói đến tôn
giáo của mình, chúng ta thường nghĩ ngay đến Giáo Hội Công Giáo
hữu hình - một tổ chức với phẩm trật, cơ chế, cơ sở, sinh hoạt
rất chặt chẽ. Giáo Hội học của Công Đồng Trentô, nhấn mạnh tính
cơ chế của Giáo Hội, có vai trò rất lớn trong việc củng cố ấn
tượng này suốt trên 400 năm. Hai tiếng “truyền giáo,” quả thật,
dễ gợi liên tưởng tức thời đến việc tăng số tín hữu trong sổ
nhân danh, việc thiết lập cộng đoàn mới và xây dựng nhà thờ mới
ở nơi chưa có.
Những Hàm Ý Của
“Mission”
Trong phần lớn các trường hợp, chúng ta dùng từ “truyền giáo”
hoặc để dịch trực tiếp hoặc để chuyển tải hàm ý tương ứng với
những từ như “mission” của tiếng Anh/Pháp, “missio” của La ngữ,
vv. Từ “mission,” trước Vatican II, có thể liên hệ đến rất nhiều
ý nghĩa khác nhau như: việc gửi các thừa sai đến một vùng đất
nào đó, hoạt động của các thừa sai, những vùng đất mà các thừa
sai được gửi đến, các dòng thừa sai, và thậm chí “mission” cũng
có nghĩa là toàn bộ thế giới ngoài Kitô giáo. Theo thần học
truyền thống kể từ thế kỷ 16 thì ý niệm “mission” bao gồm: việc
truyền bá đức tin, việc mở rộng triều đại của Thiên Chúa, việc
làm cho người ngoại giáo trở lại, việc trồng Giáo Hội tại những
miền đất mới.
Như vậy, các hàm ý của “mission” cũng có cả yếu tố phẩm và lượng
như “truyền giáo.” Tuy nhiên, có điều đáng lưu ý, đó là từ
“truyền giáo” chỉ chuyên biệt có nghĩa là “truyền giáo;” còn từ
“mission” ở đây là một từ được vận dụng, dựa vào một nội hàm
rộng hơn mà nó vốn có. Thử mở từ điển Lạc Việt, cả Anh lẫn Pháp,
ta thấy nghĩa thứ nhất của “mission” là “sứ mệnh, nhiệm vụ,”
nghĩa thứ hai là “sự đi công tác,” và nghĩa thứ ba mới là “sự
truyền giáo.” Trong ngôn ngữ thần học cho tới thế kỷ 16, từ
“mission” chỉ được dùng với nghĩa thứ nhất, là sứ mệnh,
để trình bày giáo lý về Thiên Chúa Ba Ngôi: Chúa Cha sai Chúa
Con, và Chúa Thánh Thần được sai bởi Chúa Cha và Chúa Con.
Chúa Cha Sai Chúa Con Đi
Truyền Giáo?
Với lai lịch của việc dùng từ “mission” như thế, ta dễ hiểu tại
sao một luận đề căn bản của sứ mạng học là: Chỉ có một
“mission,” đó là “mission” của Thiên Chúa (missio
Dei). Không phải “mission” của Chúa Con, vì Chúa Con là nhà
thừa sai nhận “mission” từ Cha. Rồi, cũng để thực hiện “mission”
độc nhất ấy mà Chúa Thánh Thần được sai đến để cùng với Giáo Hội
đi vào thế giới. (Ở đây tưởng cần mở ngoặc để nhấn mạnh rằng
Chúa-Thánh-Thần-cùng-với-Giáo-Hội được sai đi để làm sứ mạng,
chứ không phải như lời của những bài hát nào đó rằng “Thần
Khí Chúa đã sai tôi đi” vốn không chính xác là lời cũng
chẳng phải là ý của bản văn Luca 4,18 hay Isaia 61,1.) Chỉ có
missio Dei, cho nên “mission” mà Đức Giêsu trao cho các môn
đệ để họ đảm nhận trong Thánh Thần, đó là chính “mission” của...
Thiên Chúa. Vì thế thật khó mà dịch “mission” là “truyền giáo,”
bởi sẽ lủng củng biết bao nếu nói “Thiên Chúa truyền giáo” hay
nói “công cuộc truyền giáo của Thiên Chúa”!
Đức Giêsu – như được trình bày trong các Sách Tin Mừng – xem ra
cũng không hề “truyền giáo” theo nghĩa là truyền bá một tổ chức
tôn giáo. Nhiều năm sau khi Ngài về trời, người ta mới gọi các
môn đệ của Ngài là “Kitô hữu.” Và Kitô giáo, xét như một tổ chức
tôn giáo, chỉ tách ra khỏi lòng Do Thái giáo do những yếu tố
lịch sử nhất định (mà xem ra không tất định!) Nếu nói rằng Đức
Giêsu đã lập ra “Kitô giáo,” thì “Kitô giáo” ấy phải hiểu trước
hết là Nước Trời, hay Nước Thiên Chúa, hay Triều Đại Thiên Chúa,
với những đặc tính được mô tả rành rọt trong các Sách Tin Mừng.
“Kitô giáo” ấy là loan báo Tin Mừng (nhất là cho người nghèo và
những kẻ bị bỏ rơi), là yêu thương và phục vụ, là tha thứ và hòa
giải, là chữa lành, là giải phóng... Đức Giêsu quan tâm ưu tiên
đến phẩm tính của đời sống con người và của các mối tương quan,
chứ Ngài không lấy cơ chế hay lấy tổ chức làm cứu cánh, cũng
không chạy theo số lượng. “Mission” của Đức Giêsu, vì thế, rất
khó mà dịch là “truyền giáo” theo nghĩa mà ta thường nhắm khi
nói “truyền giáo”.
Từ Một Phong Trào Trở
Thành Một Cơ Chế
Cũng thật khó để nói rằng công việc của các nhóm cộng đoàn tín
hữu sơ khai tiên vàn là công việc bành trướng một tổ chức tôn
giáo. Ta thấy sau biến cố Lễ Ngũ Tuần, Phêrô và các Tông Đồ đứng
lên rao giảng cho các đám đông về Đức Giêsu Kitô, về sự cần
thiết của “conversion” theo nghĩa là “hoán cải, trở về
với Thiên Chúa.” Mãi sau này mới thấy lộ rõ dần ý nghĩa của “conversion”
là “cải giáo, trở thành thành viên của Giáo Hội.” Các Tông Đồ
lúc ban đầu vẫn vào ra Đền Thờ cầu nguyện như bất cứ con dân nào
của cộng đồng Do Thái. Kitô giáo đã bắt đầu với tính ‘phong
trào’ tối đa và tính ‘cơ chế’ tối thiểu.
Và dần dần, tính ‘cơ chế’ của Giáo Hội tăng lên, còn tính ‘phong
trào’ giảm xuống. Đâu là những khác biệt giữa một phong trào và
một cơ chế? Thật rõ, một phong trào thì tiến bộ, năng động, gây
ảnh hưởng; nó nhìn về tương lai và sẵn sàng đón nhận các rủi ro,
sẵn sàng vượt qua các biên giới... Trong khi đó, một cơ chế thì
thiên về bảo thủ, thụ động, phòng thủ; nó nhìn về quá khứ và cố
giữ những vành đai.
Dù sao thì thực tế là Kitô giáo đã khá sớm trở thành một cơ chế,
với tổ chức ngày càng chặt chẽ và kích thước ngày càng lớn. Ngay
cả dù vấp phải mấy vụ ly khai (Chính Thống Đông Phương hồi thế
kỷ 11, Tin Lành và Anh Giáo hồi thế kỷ 16), thì Giáo Hội Công
Giáo Rôma vẫn chứng tỏ mình là một cơ cấu vừa bề thế vừa tinh vi
mà khó có tôn giáo hay tổ chức nào khác sánh kịp. Trong bối cảnh
đó, “mission” của Giáo Hội Công Giáo mặc nhiên là “truyền giáo”
hiểu theo cả hai nghĩa của từ này trong Việt ngữ, trong đó nghĩa
thứ hai (thiên về lượng tính) mặc nhiên được dành ngày càng
nhiều sự quan tâm. Mọi sự diễn ra khá xuôi chèo mát mái trong
mười mấy thế kỷ ở Âu Châu, Mỹ Châu và phần nào đó ở Phi Châu,
trong đó công việc của sứ mạng Kitô giáo thường đơn giản là
“chinh phục và lật đổ.” Kitô giáo trở thành tôn giáo và văn hóa
thống trị trên nhiều vùng rộng lớn. Nhưng khi đặt chân đến Á
Châu, câu chuyện trở nên hoàn toàn khác.
Câu Chuyện Ở Á Châu
Lần nọ, nói chuyện với một nhóm linh mục và tu sĩ Việt Nam tại
hội trường đài phát thanh Veritas Asia ở Manila, nhà thần học Mỹ
gốc Việt Peter C. Phan đã hóm hỉnh nhận định rằng: Con số không
nói hết chuyện nhưng con số cũng nói được phần nào câu chuyện.
Nếu một công ty có sản phẩm rất tốt đến tiếp thị tại một khu vực
dân cư đông đúc, và sau hơn 400 năm chào hàng, chưa tới 4 phần
trăm dân số ở đó chịu mua sản phẩm, thì chắc chắn công ty ấy đã
làm ăn quá dở và cần xem lại cách làm ăn của mình. Đó là một
phóng họa lịch sử loan báo Tin Mừng ở Á Châu. Và Việt Nam có
phần của mình trong phóng họa này.
Sự kiện Á Châu bướng bỉnh không chịu ‘mua hàng’ chắc hẳn có liên
hệ rất nhiều đến cung cách Giáo Hội ‘chào hàng’ trong tâm thức
“truyền giáo” hiểu là “mở rộng một tổ chức tôn giáo,” và trong
cách thức đã từng tỏ ra hiệu quả ở các nơi khác, đó là “chinh
phục và lật đổ”! Tâm thức và cách thức này như bị dội lại khi
gặp hai cột trụ sừng sững của các dân tộc Á Châu: tức các tôn
giáo lớn và các nền văn hóa kỳ cựu tại lục địa này, kỳ cựu hơn
Kitô giáo rất nhiều. Chỉ xét về mặt tâm lý ứng xử thôi, thì một
tín đồ cắm sâu trong truyền thống Ấn giáo, Phật giáo, Khổng giáo
hay Lão giáo, chẳng hạn, chắc chắn sẽ cảm thấy bị tổn thương và
do đó sẽ đề kháng khi họ nhận ra các Kitô hữu đến để “truyền
giáo” cho họ, theo nghĩa là để chinh phục họ, để xóa tôn giáo và
văn hóa của họ và thay vào đó bằng Kitô giáo. Họ sẽ lịch sự nói
cám ơn và quay đi chỗ khác khi nhận ra các Kitô hữu đến với họ
trong tư thế của ông nhà giàu tự tôn và trịch thượng chỉ biết
dạy và cho mà thôi chứ không hề biết học và nhận.
“Cuộc Tranh Cãi Về Nghi Thức Trung Hoa” hồi đầu thế kỷ 17 và
những diễn biến sau đó là một bài học ‘xương máu’ cho sứ mạng
của Giáo Hội, không chỉ ở Trung Hoa hay Ấn Độ mà còn tại nhiều
nước khác nữa. Phải mất ba thế kỷ, Giáo Hội mới ‘nghĩ lại’ mà
chấp thuận cho người Công Giáo Trung Hoa (từ 1939) và Việt Nam
(từ 1964) có những thực hành tôn kính tổ tiên, thì ta đừng ngạc
nhiên và cũng đừng phiền trách tại sao nhiều anh chị em lương
dân ngày nay vẫn còn nghĩ rằng “theo đạo là bỏ ông bà.”
Vì đâu mà Giáo Hội phạm sai lầm quá lớn và quá lâu dài như vậy?
Vì ảnh hưởng của chế độ thực dân tây phương, và vì cảm thức tự
tôn văn hóa nơi người tây phương. Thời ấy, các Kitô hữu tây
phương không hề ý thức rằng thần học của họ đã bị điều kiện hóa
bởi bối cảnh văn hóa; họ đơn sơ nghĩ rằng thần học ấy có hiệu
lực phổ quát và siêu văn hóa. Và vì văn hóa tây phương được coi
là văn hóa Kitô giáo, nên rõ ràng là văn hóa này phải được ‘xuất
khẩu’ cùng với đức tin Kitô giáo!
Hội Nhập Văn Hóa và Đối
Thoại Tôn Giáo
Rất may là Giáo Hội ngày nay đã ‘nghĩ lại’ và - ít ra trên
nguyên tắc - đã nhìn nhận nhu cầu khẩn thiết phải hội nhập văn
hóa và đối thoại tôn giáo. Về hội nhập văn hóa, Công Đồng
Vatican II khẳng định rằng cuộc gặp gỡ giữa truyền thống Kitô
giáo với quan niệm về cuộc sống và các cấu trúc xã hội của các
dân tộc khác nhau là điều cần thiết để đạt tới một áp dụng sâu
xa đời sống Kitô giáo vào các đặc điểm riêng của mỗi nền văn hóa
(Ad gentes, 22). Nếu Tin Mừng phải thấm nhập vào trái tim
của người ta, thì điều này chỉ có thể xảy ra xuyên qua các giá
trị văn hóa và các truyền thống sống động của những con người
ấy. Về đối thoại tôn giáo, Vatican II tuyên bố càng hùng hồn hơn
nữa: “Giáo Hội Công Giáo không bác bỏ bất cứ điều gì là chân
thật và thánh thiện nơi các tôn giáo” (Nostra aetate,
2). Đây là lần đầu tiên, sau ngót hai mươi thế kỷ, Giáo Hội
chính thức nhìn nhận giá trị và hiệu lực của các tôn giáo ngoài
Kitô giáo.
Những luồng sáng của Công Đồng Vatican II đã thực sự khơi nguồn
cảm hứng. Chưa bao giờ hội nhập văn hóa và đối thoại tôn giáo
được nói đến nhiều như bốn thập niên qua. Ngay trong thời gian
diễn ra Công Đồng, Đức Phaolô VI đã công bố thông điệp
Ecclesiam Suam (1964), một giáo huấn chuyên đề về đối thoại,
trong đó ngài khẳng định rằng đối thoại là cách thi hành
bài sai của Đức Kitô: “Hãy ra đi và làm cho muôn dân trở
thành môn đệ” (x. số 64). Ba năm sau, năm 1967, cũng chính
từ nhãn giới mới này về sứ mạng Kitô giáo mà Đức Phaolô VI đã
quyết định chính thức đổi Bộ Truyền Bá Đức Tin (hay Bộ
Truyền Giáo) thành Bộ Loan Báo Tin Mừng Cho Các Dân Tộc.
Chữ “đức tin” (fide) chẳng có ‘tội’ gì ở đây; hẳn là vị
giáo hoàng nhìn thấy vấn đề ở chữ “truyền” (propaganda),
nhất là ở cách thức “truyền” vốn không mấy kiến hiệu, cách riêng
tại Á Châu là nơi chiếm đến hơn một nửa dân số thế giới. Một sự
thay đổi đầy hàm ý của vị giáo hoàng! Tuy nhiên, ở Việt Nam thì
cụm từ “Bộ Truyền Giáo” vẫn còn tiếp tục được dùng một cách rất
tự nhiên và nhiều khi ngay cả trong các bản văn chính thức, cho
đến tận hôm nay.
Có Những Căng Thẳng, Xôn
Xao
Câu chuyện về hội nhập văn hóa và đối thoại tôn giáo là câu
chuyện ‘ruột’ của các giám mục FABC (Liên Hiệp Các Hội Đồng Giám
Mục Á Châu). Đó là hai trong ba cuộc đối thoại mà các ngài xác
lập là đường hướng căn bản của mình. Có thể nói, trong bốn mươi
năm qua, không ở đâu khác mà đề tài hội nhập văn hóa và đối
thoại tôn giáo được suy tư, thảo luận dày công cho bằng ở FABC.
Nhưng câu chuyện này cũng không hề đơn giản. Đã có những căng
thẳng, trong một bối cảnh mà thẩm quyền cao nhất trong Giáo Hội
thường xuyên tỏ ra đặc biệt nhạy cảm và dè dặt đối với hai lãnh
vực này. Như người ta còn nhớ những phản ứng mạnh mẽ đối với
Lineamenta, hồi chuẩn bị synod 1998, từ phía các hội đồng
giám mục của FABC, nhất là các hội đồng giám mục Nhật Bản,
Indonesia, và cả Việt Nam. Cũng trong những năm 97 và 98 ấy, đã
xảy ra một loạt các vụ cảnh cáo hay phạt vạ đối với một số tác
giả linh đạo hay thần học gia viết về ‘tôn giáo’ như Tissa
Balasuriya, Perry Schmidt-Leukel, Jacques Dupuis, Anthony de
Mello. Mới đây hơn, Roger Haight, Jon Sobrino, Peter C. Phan...
nối vào danh sách đó, cũng vì những vấn đề ‘dầu sôi lửa bỏng’ là
thần học tôn giáo và Kitô học.
Sứ Mạng Ở Giữa Lương Dân
(inter gentes) của FABC
Thật không dễ dàng chút nào! Nhưng từ kinh nghiệm hiện thực, từ
niềm xác tín sâu xa, và cả từ sự kiên nhẫn và mềm mỏng cần
thiết, các giám mục FABC vẫn tiếp tục định hình ngày càng rõ tầm
nhìn sứ mạng của mình. Tầm nhìn này mới đây được Jonathan Yun-ka
Tan tổng kết trong cụm từ “missio inter gentes” – và ông
ghi nhận:
“Đối với FABC, loan báo Tin Mừng không phải là ‘con đường một
chiều’ hay ‘sự rao giảng một chiều’ về những nguyên tắc tín lý
hay những chân lý đức tin trừu tượng... Sứ mạng là một cái gì
lớn rộng hơn việc trồng một Giáo Hội địa phương mới ở nơi mà nó
chưa hiện diện. Các giám mục Á Châu không coi các dân tộc Á Châu
như những đối tượng của sứ mạng, theo nghĩa là phải được giúp
cải giáo và đưa vào Giáo Hội, mặc dù các Kitô hữu sẵn sàng mời
gọi họ như thế. Đúng hơn, đích nhắm của sứ mạng inter gentes
của các Giáo Hội địa phương Á Châu được đồng hóa với chính đích
nhắm của sứ mạng Đức Giêsu: đem Nước Thiên Chúa đến giữa đồng
bào mình.
“Hơn nữa, FABC nghĩ về sứ mạng của Giáo Hội như là được cảm hứng
từ hoạt động trước của Thiên Chúa trong thế giới, xuyên qua sứ
mạng của Chúa Cha và Chúa Thánh Thần. Thực vậy, theo nhận định
của FABC, những nền móng cứu độ học sâu sắc của các tôn giáo và
triết học Á Châu - vốn truyền cảm hứng cho vô số người Á Châu -
không phải là những sự dữ, nhưng xuất phát từ chính Thiên
Chúa... Kho tàng khôn ngoan của các triết học và các tôn giáo Á
Châu được tác động bởi chính Chúa Thánh Thần, Đấng hoạt động
vượt quá các ranh giới của Giáo Hội cơ chế.
“Phương thế chủ yếu của missio inter gentes là đối thọai,
một cuộc gặp gỡ hai chiều giữa Tin Mừng Kitô giáo với các thực
tại ba mặt của Á Châu: các nền văn hóa, các tôn giáo, và người
nghèo. Ở đây, rõ ràng là không chỉ các thực tại xã hội tôn giáo
Á Châu được nên phong phú hơn nhờ Kitô giáo, mà Kitô giáo cũng
được phong phú hơn nhờ các thực tại này. FABC xem đối thọai và
hòa điệu là điều thiết yếu...”
Điểm chung giữa tầm nhìn missio inter gentes (của FABC)
và tầm nhìn ad gentes (truyền thống) là cả hai cùng khẳng
định mạnh mẽ sự cần thiết của sứ mạng. Nhưng có những khác biệt
trong một số sự nhấn mạnh và trong các mối ưu tiên. Có thể đối
chiếu như sau:
missio
AD gentes |
missio
INTER gentes |
1. Xác nhận sự cần thiết của sứ
mạng.
2. Nhấn mạnh khía cạnh tại sao, cái
gì, và ai của sứ mạng.
3. Giả thiết Âu Châu (hay Rôma) là
trung tâm của chân lý – và các nhà thừa sai từ đó đi đến
với các vùng ngu dốt, tối tăm...
4. Khó chịu với bối cảnh đa nguyên
tôn giáo ở Á Châu.
5. Ưu tiên rao giảng bằng lời nói.
Phương thức sứ mạng có nhiều tính đối đầu.
6. Mục tiêu sứ mạng nghiêng về trồng Giáo Hội.
7. Có xu hướng đo lường thành quả
sứ mạng bằng những con số (lượng tính).
|
1. Xác nhận sự cần thiết của sứ
mạng.
2. Nhấn mạnh khía cạnh thế nào của
sứ mạng.
3. Nhìn nhận Thần Chân Lý vốn hoạt
động trong các nền văn hoá và các tôn giáo.
4.
Thoải mái với bối cảnh đa nguyên tôn giáo ở Á Châu.
5. Ưu tiên rao giảng bằng chứng tá.
Phương thức sứ mạng nhắm làm cho Tin Mừng Kitô giáo thấm
nhập vào trong các thực tại Á Châu.
6. Mục tiêu sứ mạng là: xây dựng
Nước Thiên Chúa.
7. Chọn phương thức phẩm tính để
tiếp cận và đánh gí thành quả sứ mạng. |
Thay Lời Kết
Trong bối cảnh Việt Nam, nếu thêm một mục thứ 8 nữa vào hai cột
đối chiếu trên, đề cập về từ ngữ để gọi sứ mạng Kitô
giáo, chắc hẳn ta có thể ghi vào cột ad gentes là “truyền
giáo,” còn cột inter gentes có thể là “sứ mạng” hay “làm
chứng” hay hình tượng hơn: “làm muối,” “làm men,” “làm ánh
sáng”... Đó là những hình ảnh chính Chúa Giêsu đã dùng khi trao
sứ mạng cho các môn đệ. Muối, men, ánh sáng thì không ồn ào áp
chế - công việc của nó là âm thầm hiện diện, và chỉ cần hiện
diện đúng như bản chất của mình, tự khắc môi trường xung quanh
nó sẽ thấm mặn, sẽ dậy men, và sẽ đầy ánh
sáng.
Linh mục Lê Công Đức
(joslcd@yahoo.com) |
VỀ MỤC LỤC |
|
NHỮNG TÊN LÝ HÌNH THỜI ĐẠI
|
SUY NIỆM LỄ CÁC
THÁNH TỬ ĐẠO VIỆT NAM 2009
Mừng kính lễ
các Thánh Tử Đạo Việt Nam, chúng ta không chỉ tự hào về đức tin
kiên cường của Cha ông chúng ta, không chỉ tự hào sống trong đất
nước của các thánh tử đạo, không chỉ hãnh diện vì được là con
cháu của các Thánh Tử Đạo, không chỉ tri ân những giọt máu trổ
sinh mầm sống mới Đức Tin nơi chúng ta, mà thiết thực hơn, chúng
ta cần noi gương các Ngài: tử đạo hằng ngày.
Nếu thời Cha
ông ta đã sống trong một thời kỳ bách đạo cách tàn bạo, từ việc
cấm cản, khủng bố đến việc bắt bớ, bỏ tù tra tấn dã man, cho đến
những án tử hình ghê rợn nhất: xử giảo, lăng trì, bá đao, thiêu
sống, xử trảm, rũ tù…thì thời chúng ta, những tên lý hình thời
đại với cách bức bách còn kinh khủng hơn: làm cho con người
không còn yêu mến Chúa Giêsu và Thập giá của Ngài.
Những tên lý hình thời đại: Ngoài
ta
Những người
chủ trương không có Thiên Chúa đang cầm quyền sinh tử nơi đất
nước của các Thánh Tử đạo, đưa Giáo Hội Việt Nam vào một thách
đố mới, vào cuộc tử đạo mới: Truyền giáo cho người không tin có
Thiên Chúa hay là để cho người không tin có Thiên Chúa truyền
chủ thuyết của họ?
Tư tưởng “Tôn
giáo là liều thuốc phiện” vẫn đã thấm trong máu thịt của họ và
đã chỉ đạo cả cuộc đời họ, cả việc họ làm, đến nỗi khi con người
gần đất xa trời, chờ phút “qui tiên” cũng chẳng chấp nhận một
cõi nào linh thánh. Một cuộc đời bồng bềnh theo năm tháng lơ
lững không định hướng, vì chỉ tin được cái hiện hữu của thân xác
mà không tin có linh hồn bất tử. Một cuộc đời không có chuẩn
mực Chân, Thiện, Mỹ, nào hơn là theo cái chuẩn mực mà mình tự
đặt định. Đạo đức xã hội là làm sao đem lại lợi ích trần thế
nhiều nhất cho xã hội mà chính mình là trước tiên!
Họ không đặt
Thánh Giá trước mặt chúng ta, và yêu cầu chúng ta bước qua,
nhưng họ đã gieo vào lòng tín hữu bề bộn những chủ thuyết vật
chất, và cuộc tử đạo mới, tử đạo hằng ngày, đã bắt đầu bằng
việc không đồng thuận với những chủ trương không Thiên Chúa:
- Các em học
sinh ở nhà trường phải tử đạo khi không chấp nhận bài học nguồn
gốc con người bởi khỉ, bài học không có Chúa nào tạo hóa tác
sinh…
- Các em
thanh niên vào đời phải tử đạo khi không theo cách sống thử tự
nhiên được xã hội mặc nhiên cổ xúy, để giữ vững đức khiết tịnh
vì biết rằng: sống thử - sinh con thật - giết người thật.
- Các gia
đình công giáo phải tử đạo khi lao vào cuộc sống kinh tế. Biết
rằng có thực mới vực được đạo, và để ổn định phát triển kinh tế,
phải giảm sinh, nhưng cương quyết không giảm sinh theo kế hoạch
không tự nhiên – vì chẳng khác nào giết con người từ trong trứng
nước, và tự tẩy chay nhân phẩm quí giá của mình.
- Giá trị hôn
nhân đặt trên căn bản là kinh tế, là của cải vật chất, là hưởng
thụ…tạo điều kiện cho trào lưu ly thân ly dị cách dễ dàng, và
tạo nên một sự hỗn độn về đời sống các gia đình không đáng có:
chồng trước, vợ sau, con chung, con riêng, con bỏ, con nuôi… hỗn
độn…. Biết như thế, các gia đình công giáo phải tử đạo khi không
bị cuốn vào trào lưu tục hóa giá trị hôn nhân.
- Khi có của
ăn của để, thì việc hành đạo hầu như không cần thiết hơn việc
giải trí tiêu khiển, và việc giữ lễ Chúa nhật có thể trở thành
việc chiếu lệ, nhưng người công giáo đã tử đạo khi vẫn một lòng
yêu mến Chúa Giêsu, khao khát kết hiệp cùng Chúa Giêsu Thánh Thể
qua việc tham dự Thánh lễ và việc rước lễ hằng ngày.
- Người ta
muốn giam các tín hữu trong trại giam mới là chính cái biệt thự
sang trọng, hay ít là căn phòng đầy đủ tiện nghi vật chất thơm
phức nệm êm chăn ấm máy lạnh máy nóng …để mà hưởng thụ cuộc đời
nầy, mà quên đi cái đời sau ảo tưởng… nhưng không, họ đã lầm,
khi các tín hữu Việt Nam vẫn quí mến một cuộc vượt qua, và sẵn
sàng cho cuộc vượt qua của chính mình…..
- Giữa những
suy đồi, các tông đồ của Chúa không đành lòng bó tay, nhưng tích
cực gia tăng đời sống đạo đức gương mẫu, đời sống cầu nguyện, có
sáng kiến phong phú để khắc phục, chận đứng, những trào lưu suy
đồi của những tên lý hình thời đại làm tha hóa các phần tử trong
giáo hội. Họ thiết thực trở nên những con người hướng dẫn thời
đại đi vào đúng đường lối của Chúa. Họ thực sự đang ôm lấy Thánh
Giá Chúa Giêsu với lòng quí mến thiết tha nhất. Họ đang tử đạo
trên đất nước của các Thánh Tử đạo, cùng với đoàn chiên tử
đạo..
Chúng ta tin
rằng các Thánh Tử Đạo Việt nam vẫn luôn phù hộ, tiếp sức cho các
tín hữu Việt Nam chiến đấu trong cuộc bức bách mới của những tên
lý hình thời đại mới đầy mưu ma chước quỉ của Satan luôn chủ
trương chống lại Thiên Chúa.
Tên lý hình thời đại: Trong ta
Truyện rất
ngắn “Lòi Cái Tôi Ra” của tác giả Anh-em-của-mọi-người, viết:
-Thưa cha
khi chủng viện xây xong, người ta chặt cây cho lòi nhà ra nên
chủng sinh phải chịu nắng nóng mấy năm nay. Bây giờ giáo xứ
xây xong nhà gíao lý, lại chặt cây cho nhà giáo lý lòi ra làm
thiếu nhi phải chịu nắng nóng!
-Không
phải lòi nhà ra đâu mà lòi cái tôi ra đấy ! Để lòi cái tôi ra
nguời ta dám chặt bất cứ thứ gì kể cả cây thập giá nữa chứ cây
xanh, bóng mát cho giáo dân là cái gì ?
“ …Tôi
đến để chiên được sống và sống dồi dào”
(Ga
10,10)
Chiến đấu với
những tên lý hình thời đại ngoài ta có thể không khó khăn lắm,
nhưng chiến đấu và chiến thắng với tên lý hình trong ta, có vẻ
không dễ dàng tí nào!
Phải khiêm
tốn mà nhận ra rằng, có nhiều người, trong đó có thể có tôi, có
bạn, đã không bước qua thập giá, nhưng đã chặt và quăng cây
thánh giá đi rồi. Khi đã chặt và quăng đi, thì còn đâu mà bước
qua! Khi đề cao cái tôi một cách quá đáng, người ta chối bỏ Đức
Giêsu Kitô và khổ đau của Ngài một cách không thương tiếc, và
cũng không hay biết!
Sự nhàn hạ,
thanh thản, phương tiện tiện nghi, hưởng thụ… đã “lấn sân” tâm
linh, tạo cho người ta cái hạnh phúc thật êm dịu, không còn cảm
giác khổ đau của cây thập giá nữa. Và vì thế, khó mà chấp nhận
sự khốn khó gian nan. Sướng quen rồi. Đây mới thực sự là trại
giam mới, trại giam của của danh vọng, của quyền lực, của sự an
thân an vị an nhàn và … rồi an nghĩ trong trại giam ấy.
Bỗng dưng,
chính ta, đã trở nên những tên lý hình thời đại. Ta xử trảm
chính ta và xử trảm mọi người khi cách sống “không Kitô”,
“không Thập Giá” trở thành gương xấu cứ lan nhanh lan nhanh đến
nhiều người.
Vâng, không
ai bắt ta làm nô lệ, chỉ vì ta bằng lòng để mất tự do. Không ai
làm ta mất tự do, chỉ vì ta bằng lòng làm nô lệ! Nô lệ cho chính
cái tôi của mình.
Yêu mến Chúa Giêsu và Thập Giá
Chúa Giêsu
Thiết tưởng
lòng yêu mến Chúa Giêsu và thập giá của Ngài, sẽ giúp tôi, giúp
bạn vượt qua những cuộc bức bách ngoài ta, trong ta, sẽ giúp
chúng ta vượt qua, giúp chúng ta được hồng phúc tử đạo hằng
ngày, với Chúa.
Xin chia sẻ
một phần câu chuyện về Thánh Tử Đạo Anrê Nguyễn Kim Thông (Anrê
Năm Thuông) lý trưởng, thầy giảng; sanh 1790 tại Gò Thị, Bình
Ðịnh; chết 15 tháng Bẩy, 1855, tại Mỹ Tho. Ngài chết rũ tù vì
kiệt sức và đói khát trên đường di tán tại Mỹ-Tho
“Bị điệu ra
trước tòa quan tỉnh tra vấn về các điều tố cáo. Ông Trùm khiêm
tốn, bình tĩnh ung dung trả lời bằng lời lẽ đanh thép: “Trong
nhà tôi không có đạo trưởng. Còn việc tậu thuyền, mãi mã, sắm
ghe, tích trữ lương thực, tôi chẳng hề có, xin quan cho đi khám
xét. Tôi chỉ chuyên cần lo việc nông gia. Tôi không biết Tây
Dương, không đem đường chỉ nẻo cho họ. Tôi cũng chẳng hề đi đâu
mà mở đường sơn thủy, vận lương, chuyển binh cho giặc”.
Không tìm ra chứng cớ về các điều cáo giác trên, bọn quan lại
bèn truyền cho Ông Trùm “quá khóa”, tức là bước qua Thánh Giá,
thì sẽ được tha về. Ông nhất quyết không tuân.
Quan bảo: “Kín
đáo đạp lên thập giá đi, rồi về xưng tội”.
Ông Trùm đáp:
“Thạch tín là thuốc độc, uống vô là chết, nhưng cũng có thuốc
giải. Thế nhưng có ai liều mình uống thạch tín bao giờ? Việc xúc
phạm Thánh Giá cũng vậy”. (http://www.vncatholic.org/thanhtudaovn/070.htm)
Lạy Chúa, xin
cho chúng con biết yêu mến Chúa Giêsu và yêu mến Thập Giá của
Ngài, để được hồng phúc tử đạo với Chúa mỗi phút giây trong cuộc
đời chúng con. A men.
Pm. Cao Huy
Hoàng
|
VỀ MỤC LỤC |
|
TẠI
SAO GIÁO HỘI CÔNG GIÁO KHÔNG CHO NỮ GIỚI LÀM LINH MỤC?
|
Hỏi:
Trong quá khứ có thời Giáo Hội
phong chức cho Nữ Phó Tế. Vậy tại sao bây giờ không cho nữ giới
làm linh mục?
Trả lời:
Sự thật Giáo Hội chưa hề phong chức hay
truyền chức (ordain) cho phụ nữ làm Phó Tế (deaconess). Sở dĩ
có danh xưng “nữ phó tế” là vì một số phụ nữ đã được chọn
để đóng vai Phó tế do nhu cầu rửa tội cho người tân tòng trong
mấy thế kỷ đầu mà thôi.
Thật vậy, trong mấy thế kỷ đầu của Giáo
Hội, việc rửa tội cho người tân tòng (Catechumems) được thực
hiện trong đêm Vọng Phục Sinh với nghi thức dìm mình xuống nước
(immersion) thay vì đổ nước trên đầu hay trên trán như ngày
nay. Trong đêm này, các người tân tòng được hướng dẫn đên giềng
nước rửa tội ở phía cuối nhà thờ dưới ánh đèn lu mờ. Người tân
tòng phải cởi bỏ hết quần áo đang mặc, rồi lội xuống giếng
nước trong khi Đức Giám Mục chủ tế Lễ vọng Phục Sinh và Nghi
thức Rửa tội
từ trên Cung Thánh đọc công thức rửa tội cho họ và họ phải
dìm mình xuống nước ba lần. Sau đó, từ giếng nước bước ra, họ sẽ
được các phó tế đỡ lên khỏi giếng nước và trao cho bộ đồ trắng mặc
vào để nói lên sự sống mới được tái sinh qua nước rửa tội. Rồi
họ được hướng dẫn đến trước mặt Giám Mục để được xức dầu thánh
và trao nến tượng trưng cho Ánh Sáng Chúa Kitô.
Nhưng nghi thức trên có điều bất tiện về
phía nữ tân tòng. Họ cũng phải cởi bỏ hết y phục và lội xuống
giếng nước, dĩ nhiên là trong khu vực dành riêng cho ho. Điều
bất tiện là khi ra khỏi giếng nước rửa tội, nam phó tế không thể
đỡ họ lên và trao bộ đồ trắng như cho các nam ứng viên được. Vì
thế, một số phụ nữ đã được tuyển chọn để làm công việc của nam
phó tế trong hoàn cảnh khó khăn trên của nghi thức rửa tội cho
người tân tòng trong đêm Vọng Phục Sinh (Easter Vigil). Những
người nữ được tuyển chọn để làm công việc trên không phải là nữ
phó tế (deaconess) đúng nghĩa, vì họ không được truyền chức như
các nam phó tế. Điều này đã được minh chứng qua giáo luật số 19
của Công Đồng Đại Kết họp lần thứ nhất (First Ecumenical
Council) tại Nicea năm 325, theo đó các người nữ trên chỉ được
gọi là các giáo dân (laypersons) chứ không được gọi là nữ phó tế
(deaconess), vì họ không hề được chịu chức phó tế.
Tóm lại, Giáo Hội chưa hề phong chức phó tế
cho phụ nữ để thi hành tác vụ của phó tế theo giáo luật.
Về câu hỏi chính được nêu lên là tại sao
Giáo Hội không truyền chức linh mục cho phụ nữ, tôi xin được
giải thích như sau:
Từ bao lâu nay, các giáo phái ngoài Công
Giáo, đăc biệt là anh em Tin Lành, đều dùng Kinh Thánh (Sola
Scriptura) làm nền tảng để chi trích Giáo Hội Công Giáo là không
theo sát Kinh Thánh, nên đã sai lầm trong nhiều lãnh vực, điển
hình là gọi Đức Giáo Hoàng là Đức Thánh Cha (Holy Father) cũng
như gọi các linh mục là Cha (Father). Họ cũng cãi rằng trong
Kinh Thánh không có từ ngữ nào là “Công giáo” (= Catholic), cũng
như không có bằng chứng nào cho phép tuyên bố Đức Mẹ trọn đời
đồng trinh và lên trời cả hồn xác (assumption) như Giáo Hội Công
Giáo tuyên bố bằng tín điều
(dogma) buộc mọi tín hữu phải tin. Đăc biệt một số giáo phái
như Methodist, Lutheran, Evangelist, Episcopal, Anh Giáo
(Anglican Communion) v.v... còn truyền chức cho cả nữ giới
làm linh mục nữa!
Sự kiện này cho thấy là chính họ đã không
theo sát Kinh Thánh như họ thường tự hào.
Vì nếu họ đọc kỹ Kinh Thánh Tân Ước, thì
họ không thể chối cãi được sự kiện hiển nhiên sau đây:
Chúa Giêsu chỉ ăn Bữa sau hết với Nhóm 12 mà thôi. (Mt
26:20; Mc 14:17).
Nghĩa là với 12 Tông Đồ là những người
đàn ông mà Chúa đã chọn từ đầu để tham gia vào Sứ Vụ rao
giảng Tin Mừng của Chúa. Không phải Chúa không nhìn thấy trước
đòi hỏi của thời đại ngày nay về việc cho nữ giới làm linh mục.
Thực ra, chúng ta phải tin rằng Chúa không hề sai lầm, hay sơ
sót khi chỉ qui tụ Nhóm 12 trong Bữa Ăn cuối cùng đó. Sự kiện
Mẹ Maria và một vài phự nữ vẫn đi theo hầu Chúa đã vắng mặt
trong bữa Ăn trên không phải là việc ngẫu nhiên ngoài ý muốn
của Chúa. Chính Người đã cố ý không mời họ mà chỉ muốn qui tụ
riêng Nhóm 12 trong Bữa ăn này để họ được tham dự trước tiên
vào hai việc trọng đại Chúa làm trong bữa ăn cuối cùng này: đó
là việc Chúa thiết lập bí tích Thánh Thể, để “Và đây,
...Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế.” (
Mt 28:20) Đồng thời, Người cũng lập Chức Linh Mục Thừa tác
(Ministerial priesthood)) qua đó Chúa đã truyền chức linh mục
đầu tiên cho 12 Tông Đồ hiện diện để từ đó về sau “anh
em hãy làm việc này mà nhớ đến Thầy” ( Lc
22: 19; 1Cor 11:25).
Như thế, rõ ràng Chúa Giêsu chỉ chọn người
nam (đàn ông) để truyền chức linh mục, chứ không hề chọn phụ nữ
nào kế cả Mẹ Maria, Mẹ Người, là Đấng “đầy ơn phúc”hơn mọi
người nữ (Kinh Kính Mừng).
.Ai dám nói là Chúa Giêsu đã coi thường
Mẹ của Người hay sơ sót không mời Đức Mẹ hay một vài phụ nữ
khác vào tham dự bữa ăn lịch sử nói trên?
Một chi tiết không kém quan trọng khác nữa
là việc Chúa Giêsu cũng chỉ rửa chân cho 12 Tồng Đồ hiện diện
mà thôi (x. Ga 13:3-5). Vì thế cho đến nay, mỗi khi cử hành
Phụng vụ ngày Thứ Năm Tuần Thánh ở Rôma, các Đức Thánh Cha
chỉ rửa chân cho 12 người đàn ông được tuyển chọn mà thôi.
Nghĩa là chưa có Giáo Hoàng nào chọn phụ nữ để rửa chân trong
dịp này bao giờ
Như vậy, ở đâu chọn thêm phụ nữ hoặc cho
mọi người trong nhà thờ rửa chân cho nhau là đã tự ý “phăng” ra
ngoài truyền thống của Giáo Hội dựa trên bằng chứng Kinh Thánh
Tân Ước mà Tòa Thánh Rôma luôn thi hành trung thực từ xưa đến
nay.
Giáo Hội Công Giáo và Chính Thống Giáo Đông
Phương (Eastern Orhodox Churhes) đã căn cứ vào chính lời nói và
việc làm của Chúa Giêsu trong Bữa Ăn sau hết để từ chối việc
truyền chức linh mục cho nữ giới hầu được trung thành và trung
thực với ý muốn của Đấng đã chia sẻ Chức Linh Mục đời đời của
minh đầu tiên cho các nam Tông Đồ và những người kế vị.
Cũng vì trung thành với ý muốn của Chúa
Giêsu về việc chỉ truyền chức linh mục cho nam giới, nên khi
chọn người thay thế Giuđa cho đủ con số 12, các Tông Đồ cũng đã
rút thăm để chọn ông Mathia, chứ không chọn một phụ nữ nào cả. (
Cv 1:23-26) )
Lại nữa, sau khi Chúa Giêsu về Trời, khi
hiện ra với Saolê trên đường đi Đamát, Chúa đã đích thân
chọn thêm Saolê, tức Phaolô, là Tông Đồ cho dân ngoại và cũng
là một đại Tông Đồ đã có công lớn trong việc xây dựng Giáo Hội
sơ khai cùng thời với Nhóm 12, măc dù ngài không thuộc nhóm
này từ đầu.
Chính ngài cũng đã đặt tay để truyền chức
cho Timôthê, một môn đệ thân tín, như ta đọc thấy trong thư mục
vụ sau đây:
“Vì lý do đó, Tôi nhắc anh phải khơi
dậy đắc sủng của Thiên Chúa, Đặc sủng mà anh đã nhận được khi
tôi đặt tay trên anh” (
2Tm 1: 6).
Và công tác với Phaolô trong hành trình
truyền giáo lúc ban đầu cũng chỉ có những người thuộc nam giới
như Timôthê, Luca, Mác cô, Xốt Tê Nô, Titô, Ê-páp-rô-đi-tô,
Ty-khi-cô v.v…
Nhưng chắc chắn đây không phải là việc đề
cao nam giới và coi thường nữ giới trong Giáo Hội
Nữ giới có vai trò riêng của họ trong
chương trình sáng tạo và cứu chuộc của Thiên Chúa.
Cụ thể, những phụ nữ như Thánh Catarina,
Têrêsa Giêsu Hài Đồng, hay Mẹ Têrêxa Calcutta đâu cần phải là
linh mục mà vẫn làm được bao việc vĩ đại hơn cả biết bao linh
mục hay Giám mục.
Và cao trọng hơn hết là vai trò của Đức Mẹ,
một người nữ duy nhất mà Chúa Giêsu đã chọn làm Mẹ của Giáo Hôi
khi Người trao Gioan cho Mẹ từ trên thánh giá (Ga 19:25-27).
Mẹ không cần phải chia sẻ chức Linh Mục đời
đời của Chúa Giêsu, nhưng Mẹ đã “đồng công cứu chuộc”
với Chúa từ khi Mẹ “xin vâng” làm Mẹ Ngôi Hai, cho đến khi đứng
dưới chân thập giá, chia sẻ những thống khổ của Chúa và chứng
kiến cái chết của Người để hoàn tất công cuộc cứu chuộc nhân
loại. Và từ khi nhận lãnh sứ mệnh là Mẹ Giáo Hội cho đến nay, Mẹ
đã đồng hành và không ngừng nâng đỡ đắc lực cho Giáo Hội được
thăng tiến vượt bực để chu toàn sứ vụ rao giảng và làm chứng
cho Tin Mừng Cứu độ mà Chúa Kitô đã trao phó trước khi Chúa về
Trời.
Tóm lại, Giáo Hội có lý do vững chắc để
không trao chức linh mục cho nữ giới, và chắc chắn đây không
phải là việc coi thường phụ nữ như những người đòi hỏi đã và
đang chỉ trích Giáo Hội về vấn đề này.
Là tín hữu Chúa Kitô trong Giáo Hội Công
Giáo, chúng ta phải vâng phục và tuân thủ những gì Giáo Hội
dạy bảo nhân danh Chúa vì lời Người đã nói với các môn đệ
xưa kia: “Ai nghe anh em là nghe Thầy; và
ai khước từ anh em là khước từ Thầy; mà ai khước từ Thầy là
khước từ Đấng đã sai Thầy.”( Lc 10:16)
Lm Phanxicô Xaviê Ngô Tôn Huấn |
VỀ MỤC LỤC |
|
CUỘC CHIẾN TRƯỜNG KỲ GIỮA HAI PHÁI NAM VÀ NỮ
|
“CHIẾN TRANH VÀ CHIẾN TRANH”
Mỗi khi gia đình có sự bất hòa,
chúng ta thường hay nhắc đến lời nói danh tiếng của một nhân vật
nào đó: “Người đàn ông có hai ngày hạnh phúc nhất trong đời. Một
là ngày lấy vợ. Hai là ngày vợ chết”. Lý do? Vì không ai ham
muốn chiến tranh. Cuôc chiến tranh lạnh kéo dài mãi khiến người
ta cảm thấy cuộc đời bất hạnh và vì thế họ ao ước có hòa bình
trong cuộc sống, khi người yêu của họ đã âm thầm ra đi.
Chỉ cần nhìn vào một số gia đình
Việt Nam ở trên đất Mỹ, chúng ta cũng có thể thấy những gì đang
xảy ra: Chiến tranh và Chiến tranh. Chính nó đã khiến hàng trăm,
ngàn người lấy làm ân hận hối tiếc vì đã dại dột lấy nhau. Đi xa
hơn, hãy nhìn vào những gia đình Việt Nam trên thế giới, hoặc
hãy nhìn về quê hương Việt Nam yêu dấu của chúng ta trong thời
buổi hiện tại, và chúng ta nhìn thấy gì ngay lúc nầy?
Hàng triệu người đau khổ do tình
yêu, hàng triệu người bị quấy rầy bỡi căn bệnh ghen tương, hàng
triệu người cảm thấy chán chường, bất hạnh với cuộc hôn nhân
không có niềm vui, trống rỗng, cô đơn trong thanh vắng. Tình
trạng nầy không phải chỉ riêng với những người Việt Nam mà với
hầu hết mọi dân tộc trên toàn thế giới. Chính vì thế, nó không
thể được cắt nghĩa là do sự không thích nghi của một vài cá
nhân. Bất cứ một vấn đề nào liên quan đến một phần lớn dân
chúng, chúng ta phải tìm một nguyên nhân sâu xa hơn hoặc do cách
cấu trúc xã hội hoặc do môi trường không được may mắn, là những
nguyên nhân chính thường mang lại ảnh hưởng trong những mực độ
khác nhau. Vậy, cho dẫu là cá nhân người đàn ông hoặc người đàn
bà hành động, nhưng họ biểu tượng cho phái họ. Những rắc rối
trục trặc trong hôn nhân của ông Hưng cũng như sự xung khắc giữa
cô Xuân Hương và bạn trai của cô, nếu đem so với sự trục trặc
của hàng ngàn người đàn ông và đàn bà khác ta thấy có sự giống
nhau, và vì thế trở nên một dấu hiệu có tính cách đặc biệt của
một sự xung khắc chung giữa hai phái. Ngay cả những người phủ
nhận sự hiện hữu của trận chiến giữa hai phái cũng không thể
tránh khỏi một sự vương vấn. Những người khác thì ý thức về vấn
đề đó nhưng lại ít nhận ra lý do thật cho cuộc chiến tranh. Phải
chăng cuộc chiến đó là do sự khác biệt tâm lý và sinh học tự
nhiên giữa nam và nữ không? Hay là nó được gây nên bỡi sự căng
thẳng chung của đời sống xã hội hiện tại?
Dường như có một sự hận thù tự
nhiên giữa nam và nữ là nguyên cớ đã gây nên sự xung đột và
chiến tranh ở bất cứ nơi nào có đàn ông và đàn bà. Si tình, ghen
tương, và ngoại tình là những chuyện cổ như con người. Nhưng sự
thường xảy ra và những tín hiệu cho thấy một sự khác biệt. Chúng
ta có lý do để tin rằng trong quá khứ – chúng ta chỉ cần nói một
hoặc hai trăm năm cách đây thôi – cả nam và nữ đều cảm thấy thỏa
mãn và gần gũi với nhau hơn chúng ta cảm thấy ngay hôm nay. Ngày
nay, sự không thỏa mãn về phái tính và sự không thích nghi trong
cuộc sống hôn nhân thường xảy ra hơn bao giờ hết. Trên bề mặt
xem như là những yếu tố nhân chủng và địa lý quyết định những
khác biệt nầy. Vấn đề hôn nhân ở Âu châu khác với Á châu, Nam Mỹ
không giống với Bắc Mỹ, Kitô giáo khác với Hồi giáo, Phật giáo
khác với công giáo, nhưng nếu so sánh những khác biệt nầy, chúng
ta thấy rằng một yếu tố quan trọng mà ở đâu chúng ta cũng đều
gặp thấy trong những xung đột hôn nhân là: vị thế của người đàn
bà trong những xã hội được kính trọng. Tiến xa hơn, tất cả những
căng thẳng cũng như những trục trặc gia tăng đáng được cảnh báo
trong vấn đề hôn nhân đều phù hợp với sự thay đổi trong tương
quan xã hội của hai phái.
VỊ THẾ XÃ HỘI CỦA NGƯỜI PHỤ NỮ
Ngày nay, ngay lúc chúng ta nhìn,
vị thế xã hội của người phụ nữ đang thay đổi và chúng ta phải
hiểu bản chất và chiều hướng của những thay đổi nầy để đánh giá
một cách thích hợp. Rõ ràng là các bà không còn lệ thuộc vào các
ông như trước nữa và các bà đang vui hưởng nhiều quyền lợi hơn
trước. Nhiều ông cũng như nhiều bà tin vào sự thống trị của đàn
ông đều nhìn sự độc lập của các bà như là nguyên nhân của mọi sự
xáo trộn. Họ tin rằng hạnh phúc của hôn nhân sẽ trở lại, hòa
bình giữa hai phái sẽ được khôi phục nếu các bà được phục hồi
trở lại vị thế lệ thuộc của họ ngày xưa, không có sự tự do về xã
hội, phái tính, nghề nghiệp mà ngày nay họ đang hưởng. Những
người chủ trương dựa vào sự khác biệt hiển nhiên giữa hai phái,
nhìn sự bình đẳng đang lớn dần trong hiện tại như một tai họa và
không tự nhiên. Họ viện dẫn những khiếm khuyết về thể lý của các
bà như: vóc dạng, bắp thịt, và bộ não nhỏ bé như một bằng chứng
đủ cho thấy các bà như là những thuộc thể. Nhà chủng học Đức
Waldeyer nói rằng: “Một sự so sánh về kích thước cho thấy đàn bà
có bộ óc nhỏ hơn, yếu sức hơn, có nhiều nét trẻ con hơn trong
đời sống thường ngày.” Vì thế, họ đi đến kết luận: tất cả những
cố gắng thiết lập bình đẳng giữa hai phái và mở cho các bà tất
cả những con đường hoạt động được nhiều ông ủng hộ là một sự sai
lầm và sẽ thất bại.
Tuy nhiên, lịch sử cho thấy quan
niệm mặc cảm về sự thua kém của phái nữ thì không đúng. Những
người chủ trương theo quan điểm trên đây không biết rằng các bà
không luôn luôn là giới phụ thuộc mà nhiều người đã trở thành
những rường cột chính của gia đình.
BỐN QUYỀN LỢI CỦA PHÁI
THỐNG TRỊ
Mặc cảm tự tôn của phái nầy trên
phái kia có thể được phân biệt bỡi những đặc quyền. Nhờ những
đặc quyền nầy, vị thế thống trị của một người được thiết lập
trong cộng đồng bao gồm những quyền lợi chính trị, xã hội, kinh
tế, và phái tính. Cho đến cách đây khoảng 100 năm, quyền lợi
chính trị tuyệt đối nằm trong tay các ông. Đàn bà được nắm quyền
lúc bấy giờ là một luật trừ và những luật trừ nầy chỉ xảy ra
trong một số trường hợp đặc biệt mà thôi. Các bà không được nhận
vào trong những văn phòng chính trị và hành chánh.
Những quyền lợi xã hội phù hợp với
quyền tối thượng chính trị. Các bà không có bất cứ quyền xã hội
nào. Họ chỉ hưởng được quyền nầy từ vị thế của người chồng,
người cha, hoặc người anh. Tình trạng xã hội của các bà thay đổi
với tình trạng xã hội của các ông mà họ lệ thuộc vào. Các bà tự
mình không thể có địa vị trong xã hội, nhưng nhờ hôn nhân các bà
có thể vươn mình lên nhờ vào vị thế của các ông.
Tình trạng kinh tế của các bà gắn
liền với sự lệ thuộc vai trò xã hội của các bà. Không có sức
mạnh kinh tế nào dành cho các bà. Các bà chỉ có thể làm việc cho
các ông hoặc trong gia đình hoặc như người giúp việc trong nhà
người khác. Các bà không thể thừa hưởng tài sản. Tiền kiếm được
thuộc về gia chủ. Chỉ có chủ nhà mới có quyền giữ tài sản, làm
giao kèo, kiện tụng, hay bị kiện.
ƯU THẾ CỦA PHÁI NAM ĐANG MẤT DẦN
Một sự thay đổi tận căn rễ suốt
hàng trăm năm gần đây là ưu thế của phái nam đang dần dần biến
mất. Vị thế của các bà tuy chậm nhưng đang từ từ tiến lên. Những
quyền chính trị của phụ nữ đã bắt kịp với những quyền nam giới.
Các bà có mọi quyền xã hôi và kinh tế. Họ vui hưởng tình trạng
xã hội và làm mọi nghề nghiệp. Nhiều đàn ông ngày nay trở nên lệ
thuộc vào vợ về kinh tế và xã hội. Khoảng giữa thế kỷ 20 bắt đầu
phát triển quyền phụ nữ như một phần của sự chuyển hình về kinh
tế và xã hội trong cấu trúc của xã hội chúng ta. Giống như kỷ
nguyên của tư sản ảnh hưởng vị thế của các bà và kết thúc tình
trạng mẫu hệ, một lần nữa sự thay đổi kinh tế ảnh hưởng tình
trạng của các bà. Trong ảnh hưởng của chủ nghĩa tư bản, mỗi cá
nhân có thể có đầy đủ quyền công dân cũng như những đặc quyền
như quyền sở hữu một số tiền cần thiết. Cấu trúc xã hội mới đánh
giá cá nhân trong từ ngữ Mỹ kim. Điều nầy dẫn tới sự kết thúc
chế độ phong kiến và đưa đến sự thiết lập nhân quyền.
Chủ nghĩa tự do cho mỗi cá nhân cơ
hội công bằng để đạt được vị thế xã hội. Ý tưởng về “con người
được sinh ra thì bình quyền” dẫn tới sự giải thoát và giải phóng
khỏi những nhóm bị đàn áp trước đây. Công nhân, dân da màu, trẻ
con, đàn bà bắt đầu được xem như là con người với tất cả những
quyền lợi căn bản. Sau đó, đặc quyền dành cho người đàn ông bớt
dần. Ở Âu châu, thế chiến thứ nhất đẩy mạnh sự phát triển nầy.
Thay thế các ông, các bà đi vào làm những nghề nghiệp mà trước
đây họ không được làm và dần dần họ có được nhận thức mới về xã
hội. Với sự độc lập về kinh tế, họ bắt đầu phát triển cách vội
vã. Tình trạng mới nầy đã khiến cho họ có tự do hơn trong cuộc
sống xã hội cũng như trong những liên hệ phái tính với người
khác phái.
YÊU LÀ CHIẾN ĐẤU
Vào thời mà người đàn bà bị khuất
phục và coi thường, sự tranh chấp giữa hai phái có thể dễ hiểu
trong từ ngữ một cuộc cách mạng của người bị áp bức chống lại
bạo chúa của họ. Danh từ chiến tranh được dùng trong bất cứ ngôn
ngữ nào để diễn tả sự liên hệ tình yêu. Nó phản chiếu chiến
tranh muôn thuở. Một người xem ra đẹp và hấp dẫn là nguy hiểm.
Sự tán tỉnh đầu tiên được gọi là chiến thuật. Người đàn bà là
một pháo đài bị bao vây và cuối cùng bị chinh phục bỡi người đàn
ông trong khi bà phải cố gắng kháng cự. Dưới sự tấn công, bà có
thể suy yếu, và chấp nhận địch thủ của bà cách hoàn toàn được
gọi là ngã gục. Nếu những từ ngữ nầy được dùng trong trào phúng,
chúng cho thấy tinh thần chiến tranh thống trị trò chơi tình
yêu. Sự chiến đấu để chiếm hữu một người khác phái mang đặc tính
sự hiệp nhất giữa người mạnh hơn và người yếu hơn là kẻ bị chinh
phục.
Người ta tưởng rằng khi sự đàn áp
của phái nầy đối với phái khác ngừng, sự căng thẳng giữa họ sẽ
giảm một cách cân xứng. Tuy nhiên, thực tế không phải như vậy,
và sự ngược lại thì đúng hơn. Vào lúc mà các bà phải vâng lời,
họ không có sự chọn lựa và vì thế họ chấp nhận tình trạng của họ
như một vấn đề đương nhiên. Chẳng hạn, trong những thế kỷ trước,
không phải không thông thường xảy ra trong vài thôn làng nhỏ ở
Đức là: một người chồng bị thống trị có thể nhận một chỉ thị từ
những người láng giềng rằng: nếu ông không muốn hay không thể
khuất phục được bà vợ, ông phải rời khỏi làng cùng với gia đình.
Nếu bà thống trị chồng bà, thế đứng của những người đàn ông khác
sẽ xem là rất nguy hiểm bỡi mẫu gương bà. Người đàn ông luôn
được xem là người thống trị trong gia đình. Đó là quyền lời và
bổn phận của người đàn ông.
Trong thời buổi hiện tại, quan
niệm người đàn ông phải thống trị và đàn bà phải vâng lời thì
đang trở nên lỗi thời. Trong tình trạng mới, các bà nổi lên
chống sự áp bức. Các bà đòi hỏi quyền lợi và sẵn sàng chiến đấu
cho những quyền đó. Kết quả, sự liên hệ giữa hai phái đã trở nên
căng thẳng hơn bao giờ hết. Cuộc chiến giữa hai phái đã đến chỗ
bạo động và đe dọa cắt đứt mọi cộng tác và cảm thông giữa họ với
nhau.
(còn tiếp)
Lm. Lê văn
Quảng, tiến sĩ tâm lý |
VỀ MỤC LỤC |
|
NHỮNG GIỌT NƯỚC
|
Đêm
qua trời mưa. Cơn mưa trái mùa khiến tôi trăn trở, thao thức.
Tôi ngồi dậy, kéo màn cửa sổ nhìn ra bên ngoài. Mưa không lớn,
nhưng đủ cho tôi thấy qua ánh đèn đường, những sợi tơ trời lóng
lánh. Mưa ân cần thấm ướt mềm mặt đất, mưa dịu dàng tưới gội cỏ
cây. Mưa âm thầm, khe khẽ như không muốn làm xáo động giấc ngủ
của con người, và chỉ những ai ngóng chờ mưa, mong đợi mưa, ước
ao mưa mới biết là mưa đã đến. Mưa đến, nhẹ nhàng, kín đáo như
bước chân êm của người tình muôn đời chung thuỷ.
Những giọt nước mưa âm thầm rơi
xuống khiến tôi liên tưởng đến những giọt nước của đất trời và
những giọt nước của con người.
Những giọt nước mưa! Đó quả là
những giọt nước cần thiết. Trái đất này sẽ ra sao nếu không có
mưa! Mọi sự đều khô cằn, héo úa. Đất sẽ nứt nẻ, cây sẽ tàn lụi,
chim muông
cầm thú và cả con người sẽ mất dần sinh lực. Tôi hình dung đến
những cuộc lễ cầu đảo của con người thuở bán khai. Tôi hình dung
đến niềm vui điên cuồng của những người dân quê khi cơn mưa đổ
xuống sau cơn hạn hán. Tôi hình dung đến những cánh đồng lênh
láng nước, đến những tàu lá cau hứng nước mưa chảy vào chum,
vại, đến những ngụm nước mưa ngọt ngào, trong lành, mát mẻ người
ta uống trong những buổi trưa hè . Và tôi hình dung ra tôi thời
niên thiếu, cùng chúng bạn tắm mưa ngoài trời một cách hồn
nhiên, thỏa thích.
Nước mưa khiến tôi
nghĩ đến những nguồn nước khác: nước giếng, nước sông, nước
biển, nước suối, nước thác...
Nước giếng thẳm sâu
như người có cuộc sống nội tâm ẩn chìm mà phong phú. Người ta
không thể biết được dưới lòng giếng sâu hun hút có chứa đựng bao
nhiêu lượng nước. Lòng giếng sâu mà miệng giếng hẹp. Giếng không
ồn ào khoe mẽ, giếng không phô trương thanh thế. Nhưng những khi
các nguồn nước đều khô cạn, người ta tìm đến giếng, và giếng sẵn
sàng cung cấp cho con người bao nhiêu nước mà con người muốn.
Tôi nghĩ cách sống hữu ích cho người có đời sống nội tâm là cũng
biết âm thầm nhưng đại lượng như giếng.
Nước sông cuốn phù
sa vào bờ, bồi đắp cho đất đai con người thêm màu mỡ, đem cá tôm
làm thực phẩm nuôi sống con người. Con người không đòi hỏi, và
cũng không có quyền đòi hỏi dòng sông cung hiến cho mình phẩm
vật nào, phù sa cũng như tôm cá, người ta chỉ ước ao mong muốn;
và dòng sông đã ân cần làm thỏa mãn con người những điều ước ao,
mong muốn ấy. Dòng sông có khả năng dẫn dắt, đưa con người từ
nơi này tới nơi khác.
Khi dòng sông di
chuyển, dòng sông không ngại giúp người khác cũng di chuyển với
mình, dòng sông không ghen tương, không ích kí, sẵn sàng chia sẻ
và nâng đỡ. Dòng sông như người khôn ngoan và nhân ái, dạy cho
tôi sống yêu thương và dạy nhiều bài học khác về cuộc đời.
Nước biển bao trùm
ba phần tư diện tích trái đất, chứa đựng trong nó bao nhiêu điều
bí mật của đại dương. Hiền hòa và đại lượng nhất cũng là biển;
cuồng nộ dữ dội nhất cũng là biển. Biển luôn luôn mang một vẻ
quyến rũ khiến người ta say mê. Bao nhiêu người yêu thích cuộc
sống hải hồ cũng vì vẻ quyến rũ của biển. Cũng như sông, và có
thể còn hơn sông, biển có nhiều tặng vật dành cho con người.
Những quà tặng vật chất và những quà tặng tinh thần. Có lẽ không
một người nào sống trên trái đất này lại chưa từng hưởng dùng
những quà tặng vật chất của biển. Nhưng những quà tặng tinh
thần, biển chỉ dành tặng cho riêng ai biết nghĩ đến biển, tìm
hiểu về biển, học hỏi với biển, soi lòng mình trong lòng biển.
Và trên hết, lòng biển mở rộng như lòng người Mẹ Việt Nam với
tình mẫu tử mênh mang không bờ bến.
Nước còn là những
dòng suối trong vắt, thanh thản chảy trong rừng sâu, bình an và
tươi mát. Chính sự bình an, trong trẻo, tươi mát đó khiến cho
người ta có thể nhìn được khuôn mặt mình dưới dòng suối. Người
nào có được sự bình an, trong trẻo, tươi mát của dòng suối,
ngứời đó có khả năng làm cho người khác nhận chân được họ khi họ
đối diện và đối thoại với mình. Người có được sự bình an, trong
trẻo, tươi mát của dòng suối sẽ giữ được những hình ảnh đẹp đẽ
nhất của cuộc đời. Bạn tôi nói rằng "nào ai giữ được ánh trăng
trong mái tóc của mình, '' nhưng suối, suối giữ được ánh trăng
trong lòng nó.
Nước còn là những
ngọn thác mạnh mẽ và hùng vĩ. Thác nước là một phản ảnh rõ nét
về sức mạnh của thiên nhiên. Thác nước không những chi phô
trương sức mạnh, thác nước biết dùng sức mạnh của mình cung ứng
cho con người năng lượng. Người mạnh mẽ mà không biết dùng sức
mạnh của mình vào việc hữu ích thì người đó chưa thể có được vẻ
đẹp của một thác nước.
Nước cũng còn khiến
tôi nghĩ đến bao nhiêu con kênh, bao nhiêu ao, hồ, chuôm, rạch;
tôi nghĩ đến những mạch nước ngầm âm thầm trong lòng đất, làm
tươi mát cỏ cây, làm xanh tươi trù phú cả những bình nguyên rộng
lớn mà không cần được ai biết đến. Những mạch nước ngầm, đẹp âm
thầm và hữu ích, nhưng có mấy ai trong cuộc đời thích sống như
những mạch nước ngầm.
Những giọt nước mưa
khiến tôi liên tướng đến những giọt nước mắt. Trời mưa tức là
trời khóc! Có thể là khóc vì vui mừng, khóc vì thương xót, khóc
vì buồn tủi, khóc vì đau khổ... Trí tưởng tượng khiến tôi mỗi
lúc nhìn mưa rơi, thường tự hỏi Trời đang nghĩ gì về tôi, đang
buồn hay đang vui vì tôi mà khóc?
Riêng những giọt
nước mắt của con người, tôi cho đó là ngôn ngữ âm thầm nhất mà
cũng mãnh liệt nhất, hiển hiện nhất mà cũng sâu kín nhất, con
người dùng để bày tỏ tình cảm của mình. Phạm Duy khi viết tâm ca
''Giọt Mưa Trên Lá '' đã nhắc đến ''nước mắt mẹ già lã chã đầm
đìa trên xác con lạnh giá '', ''nước mắt mặn mà thiếu nữ mừng vì
tan chiến tranh chồng về.'' Phạm Duy còn nhắc tới nhiều giọt
nước mắt khác, những giọt nước mắt biểu lổ niềm vui và nỗi buồn,
khổ đau và hạnh phúc của kiếp người. Riêng tôi, nhiều khi tôi
cũng khóc. Mỗi khi tôi xúc động vì tình cảm người nào đó dành
cho tôi, tôi khóc. Mỗi khi tôi cảm thấy thương một người nhiều
quá, không biết diễn tả thế nào bằng lời cho đủ, tôi khóc. Dự
đám tang, tôi cũng dễ khóc, khóc vì nhớ người đã khuất với những
kỉ niệm người đó đã ghi lại trong trái tim tôi, khóc vì thương
những người còn sống. Tôi cho rằng giọt nước mắt là những hạt
ngọc quí giá, khi mình thương ai thì lấy ra tặng cho họ. Chính
vì thế, cũng đã nhiều lần tôi khóc với Chúa Kltô, người mà tôi
thương, thương lắm.
Nhưng thực ra không
phải bao giờ nước mắt cũng là những hạt ngọc. Đó là khi nước mắt
đổ ra vì nỗi tủi hờn của một kiếp người cực nhục, bị đè nén,
khinh khi, bóc lột. Đó là khi nước mắt đổ ra vì những thất bại ê
chề, đắng cay, chua xót. Đó là lúc nước mắt đổ ra vì quá đau đớn
về thể xác, tinh thần hay tình cảm. Những lúc đó, nước mắt quả
thực là những giọt lệ mặn chát vị khổ đau. Thật đáng trách cho
những aì làm cho đồng loại phải đổ những giọt nước mắt đắng cay
như thế.
Những giọt nước còn
khiến tôi nghĩ đến những giọt mồ hôi cần lao con người đã đổ ra
để kiến tạo và làm thăng tiến bộ mặt trái đất. Những giọt mồ hôi
đổ xuống luống cày: Những giọt mồ hôi rịn ra trên thân thể người
công nhân trong xưởng máy. Những giọt mồ hôi đầm đìa trên trán
người cha lao nhọc, đổi sức lao động nuôi vợ nuôi con. Những
giọt mồ hôi đọng trên má người mẹ tảo tần khuya sớm... Những
giọt mồ hôi tạo nên của cải vật chất và hạnh phúc tinh
thần.
Những giọt nước...
Tôi nghĩ đến những
giọt máu Chúa Ki tô đã đổ ra để cứu tôi khỏi chết đời đời. Tôi
nghĩ đến dòng nước tuôn đổ ra từ vết thương nới cạnh sườn Ngài
như một dòng suối Tình Yêu. Dòng suối ấy chảy mãi không ngừng,
từ thế hệ này sang thế hệ khác, để cho Tình Yêu Cứu Chuộc tràn
trề khắp mặt đất, đem lại nguồn ơn cứu thoát cho những thê hệ
con người nối tiếp nhau.
Những giọt nước...
Tôi nghĩ đến dòng
nước Rửa Tội vị Linh mục đổ trên đấu em bé sơ sinh và những
người tái sinh trong nguồn ơn Cứu chuộc. Mỗi khi chứng kiến hình
ảnh cảm động ấy, tôi thường có ý nghĩ nước đó chính là Thiên
Chúa. Ngài lấy chính Ngài để xóa sạch tội lỗi con người.
Những giọt nước quả
là đẹp đẽ và hữu ích. Tôi biết nói gì để cảm tạ Thiên Chúa đã
ban những giọt nước cho con người.
Mưa vẫn lặng lẽ rơi,
và tôi chìm trong suy tư về những giọt nước.
Nhà Văn Quyên Di |
VỀ MỤC LỤC |
|
HỘI CHỨNG “ NGỒI LÊ ĐÔI MÁCH”
|
“Kinds words can be short and easy to speak, but their
echoes are truly endless”-
Mother Teresa
Sách Thần Y
Hoang Đường Cổ Bản có ghi vắn tắt về Hội chứng như sau:” Đây là
chứng bệnh của người ướt miệng, mỏng môi, lưỡi không xương. Khi
hớt lẻo thì mắt la mày lét, ngó trước ngó sau với nhiều tà ý; xì
xào to nhỏ vào tai người nghe. Khi dối trá tới cao độ thì tim
đập nhanh, hơi thở rộn ràng, cặp mắt láo liên gian dối. Dối riết
thành kinh niên, bất trị. Trưởng Lão Danh Y đề nghị phương thuốc
“Á Khẩu Liệt Dương Hoàn” hoặc “Mặc y dối mãi thành điên cho
rồi”.
Con người đang sống
vào thời đại với kỹ thuật truyền thông nhanh và mạnh nhưng sự
giao tế giữa người với người có vẻ ít phần tình cảm. Bi kịch xã
hội dường như khuyến khích những lời nói làm tổn thương người
khác. Trên diễn đàn công luận, những mẩu chuyện tào lao không có
xuất xứ được nhiều người để ý. Đến nỗi một cựu Giám Đốc Báo chí
Bạch Cung phải lên tiếng rằng “ Không ai tin lời nói của phát
ngôn viên chính thức nhưng mọi người đều tin nguồn tin đưa ra từ
kẻ không tên”.
Có ý kiến cho rằng
gossip không những đã trở thành một sinh hoạt của con người mà
lại còn là một món hàng có giá. Truyền thanh, báo chí, truyền
hình và ngay cả trên internet đã có biết bao nhiêu gossip đủ
loại, thực giả về mọi người, từ những danh nhân tới người không
tên tuổi. Và ai cùng tò mò muốn nghe, muốn đọc. Rồi tự do “mao
tôn cương”. Với các cụ ta thì “miếng trầu là đầu câu chuyện”.
Ngày nay thì trước khi bàn chuyện doanh thương, quốc gia đại sự,
thiên hạ có mươi phút mách lẻo chuyện người.
Giám Đốc Irvin
Kassof của tổ chức Words Can Heal cho hay Mách Lẻo làm tổn
thương cả triệu người Mỹ mỗi tuần lễ. Tổ chức này hiện đang
quảng bá một chiến dịch để giảm lạm dụng ngôn từ, cải thiện dân
chủ, tạo sự tương kính giữa người với người và mang lại uy tín
cho đất nước.
Theo kết quả thăm
dò ý kiến của Luntz/Lazlo cho tổ chức Words Can Heal ngày 17-21
tháng 8 năm 2001 thì: 117 triệu người Mỹ nghe hoặc chia sẻ
gossip về người khác ít nhất một hoặc hai lần trong tuần; 51
triệu nhận là nói điều không hay sau lưng người khác một-hai
/tuần; 63 triệu người cho hay người khác nói xấu về mình một-hai
lần /tuần; 68% nói gossip là một vấn nạn tại trường học; 79% tại
nơi làm việc; 80% trong chính trường; 84% trong tin tức truyền
thông.
Đọc lại Luân Lý
Giáo Khoa Thư của Việt Nam xuất bản trên nửa thế kỷ trước, thấy
câu chuyện đáng suy gẫm sau đây:
“Anh Nhị nghỉ
học một ngày. Hôm sau đến trường nói dối thầy rằng: “Hôm qua con
sốt, không đi học được”. Nghiêm ngồi ở cuối lớp, muốn làm cho
Nhị phải phạt, đứng dậy mách rằng:” Thưa thầy, anh Nhị nói dối
đấy ạ, hôm qua con trông thấy anh ấy đi câu với một người nữa ở
ngoài bờ sông.” Thầy giáo ngoảnh lại mắng Nghiêm rằng:
“ Tao có hỏi mày
đâu, mà mày nói? Thằng Nhị nói dối, có tội đã đành, nhưng mày
mách lẻo như thế thì mày là đứa vô hạnh”.
Cả lớp nhìn
Nghiêm ra dáng khinh bỉ lắm. Nghiêm thẹn đỏ mặt, cúi gầm đầu
xuống”.
Tác giả kết
luận: “Đứa trẻ hay mách lẻo làm cho anh em bạn phải phạt là đứa
trẻ bụng dạ hèn mạt, làm điều đáng khinh bỉ. Ta không nên mách
lẻo”.
Đó là bài học đời
xưa, bên ta.
Mới đây, bên Mỹ,
đọc trong tạp chí The Opral Magazine, thấy người nghệ sĩ tài
danh Opral Winfrey có tâm sự rằng:
“ Bản thân tôi đã
biết những lời nói tiêu cực đó có hại như thế nào. Ngay từ khi
mới vào nghề, các báo lá cải đã bắt đầu tung ra vô số điều không
thực về tôi. Tôi choáng váng và cảm thấy bị ngộ nhận quá nhiều.
Và tôi đã hoang phí nhiều sức lực để lo nghĩ rằng không hiểu mọi
người có tin ở những điều mách lẻo đó không.
Tại sao họ lại có
thể in những lời lẽ vu vơ như vậy nhỉ? Tôi phải tự chiến đấu lắm
mới không kêu từng người để phân trần và bào chữa. Đó là trước
khi tôi ý thức được điều mà bây giờ tôi hiểu. Khi kẻ nào đó tung
tin thất thiệt về bạn, xin hãy quên nó đi, đừng sa vào cạm bẫy.
Dù dưới hình thức một tin đồn lan truyền mọi nơi hoặc một bàn
tán phàn nàn của bạn bè, lời thêu dệt đều phản ảnh sự bất an của
người khởi sự loan tin. Khi nói xấu sau lưng một người nào đó là
họ muốn tỏ rằng họ mạnh nhưng thực ra thì họ yếu kém, không giá
trị, không có can đảm nói sự thực.
Mách lẻo cũng nói
lên cho bản thân đương sự và cho người khác biết họ là người
không đáng tin cậy. Gossip có nghĩa là đã không có can đảm nói
thẳng với người mà họ muốn thảo luận mà quay ra mách lẻo để hạ
giá trị người ta, điều mà Jules Feiffer gọi là đã phạm một tội
sát nhân nhẹ.
Nói rõ ra, mách lẻo
là một vụ giết người do một kẻ hèn nhát thực hiện. Chúng ta sống
trong một nếp sống đầy những điều thêu dệt. Hôm nay anh ta mặc
quần áo mầu gì; cô đó hẹn hò với kép nào; ai mới đây được nhắc
nhở vì quá lăng nhăng tình ái.
Chuyện gì sẽ xẩy ra
nếu ta tạo ra một gia đình, một quan hệ bạn bè, một đời sống
không mách lẻo chen vào?! Chúng ta sẽ rất ngạc thấy rằng ta sẽ
có biết bao nhiêu thì giờ để làm nhiều việc ích lợi, quan trọng
khác thay vì làm hại người ta. Sẽ có tràn đầy gia đình ta với
những chân tình mà bạn bè muốn tới và ở lại với ta mấy ngày. Và
ta cũng nhớ rằng nếu lời nói có thể hủy hoại thì cũng có sức
mạnh hàn gắn”.
Và Opral đã làm
theo lời khuyên của người bạn Maya Angelou: “Tôi tin là những
lời nói xấu đều có một sức mạnh và nếu bạn để chúng xâm nhập vào
gia đình bạn, trong tâm trí bạn, trong đời sống bạn, chúng sẽ
thao túng bạn. Những lời nói tiêu cực đó sẽ ngấm vào đồ đạc bàn
ghế nhà bạn rồi vào da thịt bạn. Chúng là những liều thuốc độc”
Vậy mách lẻo là
gì mà ác hại thế nhỉ?!
Theo tự điển Việt
Nam, Mách là nói cho người khác biết điều gì; Lẻo có nghĩa nhanh
mồm miệng nhưng không thật. Mách lẻo là nói hoặc bàn tán chuyện
riêng tư của người khác với người này người nọ, gây nghi kị mất
đoàn kết-
Ý kiến chung cho
mách lẻo là nói bất cứ điều tiêu cực, đúng hoặc sai của một
người cho người khác nghe. Nhiều người nghĩ khi nói tốt về người
nào đó thì cũng tốt đi.. Nói như vậy thì hợp pháp và không sao
nhưng vẫn là ngồi lê mách lẻo và không đúng quy tắc xử thế.
Theo Lisa Kirk,
người mách lẻo chuyên môn đưa chuyện người khác; kẻ vô duyên chỉ
nói về mình; người lịch duyệt thì nói nhiều về bạn.
Jack Canfield, tác
giả loạt sách The Chicken Soup for the Soul góp ý:“ Bằng cách
nghĩ và nói tốt về người khác, mỗi chúng ta sẽ là vật xúc tác
cho các cảm nghĩ tốt về mình, tăng niềm vui cho người và khích
lệ sự hài hòa xã hội. Nhưng buồn thay, những lời tiêu cực về
người khác, trước mặt hoặc sau lưng đều đưa tới sự băng hoại, sự
mất vui, làm đau lòng mọi người. Dù lời hớt lẻo có là sự thực
chăng nữa thì khi đi rêu rao, ta đã hạ phẩm giá của ta, của
người và của tập thể”.
Cách ngôn Tây Ban
Nha có câu “ Ai mách lẻo với bạn thì họ cũng mách lẻo về bạn”
Trong Thánh kinh ta
học được: “Nói sai sự thực có chủ ý làm hại thanh danh của người
khác là kẻ mách lẻo- Thượng Đế rất buồn lòng đối với kẻ nói xấu
sau lưng người khác”.- Psalms 101:5.
Và “Biết điều riêng
tư dù đúng hay sai của một người mà vội vàng kể cho người khác
nghe là kẻ ngồi lê đôi mách”-Proverbs 11:13.
Ngũ Giới là cơ bản
đạo đức của người Phật tử với điều Bốn: Không Nói Dối,
nói trái với sự thật để hại người, mưu cầu lợi cho mình. Người
nói như thế là mất cả lòng nhân, không xứng đáng là một Phật tử.
Sao
lại Ngồi Lê
Ấy vậy mà tại sao
người ta hay lăng ba vi bộ đưa chuyện nhỉ?.
Các nhà tâm lý, xã
hội học và biết bao nhiêu sách báo đã tìm hiểu về chứng tật này,
để coi tại sao hay lan truyền, tại sao có người thích nghe. Có
người nói nó như là một thứ dầu bôi trơn các thành phần trong xã
hội khi mọi người giao tế với nhau; hoặc vì thế nhân đều bận bịu
không có thì giờ gặp nhau thì cũng tò mò muốn biết xem người kia
ra sao, có gì mới lạ không.
Nói chung mục đích
kẻ mách lẻo thường là:
Để chứng tỏ mình là
người giao thiệp rộng, thành thạo mọi sự việc;
Để nâng cao vai trò
của mình, hoặc lôi cuốn chú ý về mình;
Để mua ảnh hưởng
tạo cảm tình gắn bó với người khác;
Để tỏ tài dí dỏm
của mình về chuyện tào lao của người khác;
Để che đậy sự thiếu
khả năng nói chuyện của mình;
Để biểu lộ sự tức
giận và trả thù đối với một người;
Để gieo rắc nghi kỵ
giữa mọi người, hy vọng mang phần lợi cho minh
Để lòe lại khi bị
thất thế, uy hiếp;
Để giấu giếm sự
mình ghét người đó; vì họ điên khùng -Proverbs 10:18; vì họ
không có việc gì để làm-Timothy 5:13
Như một bệnh kinh
niên, mách lẻo cũng đưa tới nhiều hậu quả xấu, cho nạn nhân. Và
cho kẻ đưa tin.
Trong mách lẻo có
sự bội ước, loan truyền ý tưởng có hại tới danh dự của người
khác có thể đưa tới tan vỡ hạnh phúc gia đình, sự nghiệp, việc
học của nạn nhân. Khi ta ngồi lê đôi mách là ta đã lấy đi cái
quyền đáng lẽ được nói sự thực của người đó
“Con người thường
rất thích nghe chuyện thêu dệt, với cái vị ngọt và hậu quả cay
đắng của nó. Những lời gossip giống như miếng trái cây ngon
ngọt, nó đi lần vào nội tâm xâu nhất của con người”- Proverbs
18.8.
Có người tự hỏi nếu
đời không có gossip thì tẻ nhạt biết mấy, sẽ nói gì với nhau bây
giờ. Có người coi chúng như một thứ giải trí, đưa đà câu chuyện
làm ăn. Nhưng nhiều khi cũng gây khó khăn giao tế, vì nghe một
người nói xấu về người khác thì mình lại tự hỏi bao giờ đến lượt
mình bị thêu dệt đây?!. Thế là giao tế trở thành dè dặt hơn.
Câu chuyện một bà
nọ truyền lan bịa đặt về một người đàn ông. Khi biết rằng mình
đã làm hại thanh danh người đó, nữ nhân xin lỗi và hứa làm bất
cứ điều gì để bù đắp. Ông ta đưa cho bà một túi lông gà, bảo ra
góc phố tung lông trong gió. Làm xong, nữ nhân hỏi như vậy đã đủ
để tạ tội chưa. Sẽ đủ nếu bà lượm lại được hết lông. Chúng bay
tứ tán khắp nơi, làm sao lượm lại được. Thưa rằng: những lời bịa
đặt của bà đã gây ra những thiệt hại không lấy lại được cho tôi.
Chẳng khác gì những cái lông gà đã tung đi trong gió không sao
nhặt lại được.
Muốn hóng
chuyện người, hãy sẵn sàng khi
ai đó mở đầu:
-Này bà có biết
chuyện gì xẩy ra cho con Xuân không?!
-Mày có muốn nghe
tin cuối cùng về vợ chồng con Bích không?
-Tao muốn hỏi ý
kiến mày về vụ ông xếp lăng nhăng vơi cô Tình..
-Này, tớ chỉ nói
cho cậu nghe thôi đấy nhé..
Mà không muốn nghe
hoặc là nạn nhân thì cũng dễ thôi. Bản tính nhiều người là thích
đưa chuyện. Nhưng nên nhớ rằng mọi sự việc đều có mặt trái mặt
phải; rằng dù chỉ là một chi tiết nhỏ cũng đủ làm hại người
khác; rằng mách lẻo thường bắt nguồn ở sự không cởi mở. Ai trong
chúng ta chẳng có một số lỗi lầm lớn nhỏ nào đó. Nói cho nhau
hay để thông cảm, rằng ta cũng chỉ là con người thì có thể giảm
những soi mói, bâng quơ bóng gió về mình. Có người cho là cứ
Gossip với God là thượng sách.
“Nếu thấy ai định
nói lén về một người khác thì chẳng nên nghe” -Timothy 5:19
Tác giả”Words That
Hurt, Words That Heal” Rabbi Joseph Teluskin : “Gossip là một
hình thức khủng bố bằng lời nói. Mà “ Hủy hoại thanh danh của ai
là phạm một tội sát nhân”.
Cách hữu hiệu nhất
để chứng tỏ điều đó là dối trá là đối diện với sự việc bằng việc
làm của mình; chạy trốn có thể bị hiểu nhầm là điều đó có thực”.
Theo Mark Twain :
“Cần hai người để làm tổn thương trái tim của ta: người lén lút
nói xấu ta và người thuật lại hành động đó với ta”.
Nếu có người hỏi có
biết X nói gì về mình không, thì hãy can đảm trả lời: không biết
và cũng không muốn nghe kể lại. Làm được như vậy thì không những
đời ta thanh thản hơn mà cũng cho kẻ đó hay ta không muốn nghe
chuyện thị phi tào lao.
Cho đỡ bực mình.
Và chờ Thượng Đế
phán xét.
Bác sĩ Nguyễn Ý-ĐỨC
M.D. Texas -Hoa Kỳ
|
VỀ MỤC LỤC |
DẾ CON
Chuyện phiếm của Gã Siêu |
Trong những năm gần đây, tại Việt
Nam bỗng dưng bùng nổ “hiện tượng điện thoại di động”. Người ta
gọi chiếc “têlêphôn” nho nhỏ xinh xinh này bằng một danh từ thật
dễ thương, đó là…con dế. Từ đứa trẻ nít, đến dân choai choai và
ngay cả những nông dân cũng đều muốn trang bị cho mình một…con
dế. Và đã xảy ra những chuyện cười rơi nước mắt chung quanh con
dế này.
Theo Bách khoa tự điển
Universalis 2004, thì vào ngày 14 tháng 2 năm 1876, một người Mỹ
gốc Ăng Lê, tên là Alexander Graham Bell đã đệ trình sáng kiến
của mình về một hệ thống truyền đạt tiếng nói. Thế nhưng, chỉ
vài giờ sau, một người đồng hương với ông, tên là Elisha Gray
cũng đã giãi bày một đề tài như thế. Thời bấy giờ, với sự thành
công điện tín, người ta tìm cách chuyển đi cùng một lúc nhiều
thư từ, nhiều thông tin trên cùng một đường dẫn.
Ngày 10 tháng 3 năm ấy, ông Bell
đã thành công trong việc dùng dòng diện truyền đi trọn vẹn một
câu nói và Thomas Watson, người tham dự thí nghiệm đang ở phòng
bên cạnh, đã nghe được rõ ràng.
Nhưng rồi ông Bell và ông Gray đã
tranh chấp với nhau về phương diện pháp lý. Cả hai lôi nhau ra
ba tòa quan lớn để được xét xem ai là người sáng chế đích thực.
Một người thì tìm cách truyền đi tiếng nói ? Một người thì khai
triển những yếu tố kỹ thuật mà sau này sẽ được áp dụng vào điện
thoại ? Cuối cùng tòa án đã dành phần thắng cho ông Bell.
Thuở ban đầu, điện thoại được sử
dụng như một hệ thống loan báo thông tin theo kiểu truyền thanh,
truớc khi trở thành một dụng cụ để mọi người trò chuyện với
nhau.
Vào năm 1982, Hội nghị Âu châu về
viễn thông đã thành lập một nhóm qui tụ những nhà chuyên môn để
nghiên cứu về một hệ thống di động chung cho mọi nước, hầu đáp
ứng nhu cầu khẩn thiết mỗi ngày một gia tăng. Cuối cùng, vào
tháng giêng năm 1992, hệ thống điện thoại di động đầu tiên được
lắp đạt tại Phần Lan. Và từ đó cho đến nay, dế con không ngừng
phát triển trên toàn thế giới.
Ngày xưa còn bé, gã cùng bọn nhóc
tì trong xóm cũng đã chơi trò…têlêphôn với nhau. Bọn gã lấy hai
chiếc lon sữa bò, đục bỏ phần nắp cũng như phần đáy, sau đó lấy
da ếch hay bong bóng lợn, gã nhớ không rõ, bọc một đầu mỗi chiếc
lon, rồi nối hai đầu này lại bằng một sợi chỉ dài tới mười mấy
hai chục mét. Và thế là hoàn thành chiếc điện thoại. Hai đứa
đứng cách xa nhau, chõ miệng vào chiếc lon sữa bò và gân cổ lên
mà alô, alô loạn cào cào…
Hồi trước năm 1975, điện thoại
còn rất hiếm. Chỉ những vị tai to mặt lớn hay những đại gia mới
lắp đặt điện thoại tại nhà. Vì thế, mỗi khi cần liên lạc bằng
điện thoại với ai, người ta phải chạy ra “nhà dây thép”, tức là
bưu điện, vì chỉ ở đây mới có điện thoại công cộng. Gã cũng
chẳng rõ tại sao người ta gọi bưu điện là nhà dây thép ? Rất có
thể vì tất cả những đường dây điện thoại đều được làm bằng thép
và đều được dẫn tới tổng đài nằm ở bưu điện chăng ?
Cách đây hơn chục năm, điện thoại
bàn bắt đầu được phát triển, dĩ nhiên là dân thành phố được
hưởng dùng trước nhất. Hồi đó cứ mỗi tuần hai lần, gã đi chợ
ngoài thị trấn, rồi tới nhà một người quen chờ điện thoại. Bởi
vì gã đã thông báo cho đám bạn bè xa gần : Ai muốn liên hệ thì
bấm số ấy, từ lúc 9g đến 10g vào những ngày thứ tư và thứ bảy.
Như thế, nhà người quen bỗng dưng trở thành…văn phòng hai của
gã.
Ngày đầu tiên được lắp đặt điện
thoại tại nhà gã cảm thấy thật vui vì thấy mình bỗng dưng văn
minh hơn. Và thế là gã bèn gọi đi khắp nơi, vừa để báo số điện
thoại của mình, vừa để khoe khoang với bàn dân thiên hạ.
Tại vùng nông thôn, không phải
nhà nào cũng có điện thoại, vì thế đôi khi cũng gặp phải những
phiền phức nho nhỏ.
Chẳng hạn người hàng xóm có việc
cần, chạy sang gọi nhờ một tí. Một tí ấy đôi khi kéo dài tới cả
tiếng đồng hồ, như muốn nấu cháo hay ninh nhừ chiếc điện thoại.
Nhung rồi sau đó lại lờ tít cái khoản tiền phải thanh toán với
nhân viên bưu điện.
Chẳng hạn vào những lúc mưa gió
xập xùi, thiên hạ gọi nhờ chuyển lời tới người nọ người kia.
Không đi thì nghĩ ngợi, còn đi thì chỉ rước lấy sự nặng nhọc
vào thân. Ngán nhất là những cú điện thoại vào lúc đêm hôm khuya
khoắt báo tin người chết hay đang hấp hối…
Sau điện thoại bàn, thì tới điện
thoại di động. Cách đây ba bốn năm, để tỏ ra mình là dân chơi
thứ thiệc, đám choai choai thuộc hàng quí tộc đều tậu cho mình
một con dế. Đi tới đâu cũng “Alô”. Ở chỗ nào cũng “Hai, bai” ỏm
củ tỏi, nhiều lúc cố tình quên không tắt máy, khiến dế cứ mặc
sức kêu inh ỏi trong lớp học và ngay cả trong nhà thờ giữa bầu
khí trang nghiêm của một thánh lễ.
Và bây giờ thì…dế đã thực sự lên
ngôi. Dế không phải chỉ có mặt tại thành phố, bên cạnh những cô
chiêu cậu ấm, mà dế đã bò về làng nằm, trong túi quần, túi áo
của những anh chàng nông dân cần cù.
Báo “Tuổi Trẻ Cười” đã ghi nhận
như sau :
“Vài năm trở lại đây, khi sóng
điện thoại di động phủ gần như kín địa bàn các tỉnh khu vực đồng
bằng sông Cửu Long, thì phong trào “Hai Lúa” sử dụng dế càng trở
nên phổ biến. Những anh nông dân tay lấm chân bùn, những chị cấy
lúa quanh năm “bán mặt cho đất bán lưng cho trời” sau những giờ
lao động vất vả trên ruộng đồng về đến nhà là sà ngay vào làm
bạn với…ông Táo, cũng bắt đầu tập tành xài điện thọai di động để
tỏ ra mình là người…”sành điệu”.
Dế đã trở thành phương tiện liên
lạc với nhau vừa gọn nhẹ lại vừa thân mật, chỉ tội hơi bị hao
tiền một chút mà thôi. Nơi gã đang ở, có một thời thịnh hành cái
nghề không giống ai, đó là là…nghề chiếu chó. Mang chiếu đi để
đổi lấy chó về.
Hiện nay, nghề này đã bị tàn lụi
vì người ta thích nằm nệm hơn nằm chiếu, nên chẳng còn mấy ai
cặm cụi ngồi dệt chiếu nữa. Thế nhưng, nghề lái chó vẫn cứ phất
lên trông thấy, bởi vì “mộc tồn” hay “cờ tây” vốn là món khoái
khẩu của dân bợm nhậu. Từ thành thị cho đến thôn quê, trên khắp
các nẻo đường đất nước, đi tới đâu cũng thấy mọc lên những quán
thịt chó với những tên gọi thật thân thương : Nó Kìa, Đây Rồi,
Sống Trên Đời…
Dân lái chó bây giờ không còn
phải vất vả chèo thuyền, mà cứ phom phom trên chiếc xe Honda với
điện thoại di động cầm tay để liên hệ với những người bán chó và
những người mua chó. Nếu trúng mánh, thì chỉ cần hú một tiếng
vào chiếc điện thoại, lập tức các chiến hữu bạn bè đều có mặt
đông đủ bên bàn…nhậu.
Gã không nhớ một nhà thơ nào đã
viết : “Nghề chơi cũng lắm công phu”. Cũng vậy, người ta có thể
chơi dế bằng nhiều hình thức khác nhau, nhất là đối với dân
mới…nhớn.
Trước hết là chơi…loại dế. Người
ta tìm mua những loại dế xịn, dế chiến mới ra lò với nhiều chức
năng khác nhau, cho dù những chức năng ấy chẳng bao giờ dùng
tới, bởi vì đối với họ, tiền bạc không thành vấn đề, miễn sao
chứng tỏ được đẳng cấp và thứ bậc của mình.
Tiếp đến là chơi…số dế. Người ta
tìm cách mua cho mình cái thẻ sim bằng bất cứ giá nào, miễn có
được những con số tuyệt vời, chẳng hạn số gánh, số chín nút, số
hên, số dễ nhớ.
Ngoài ra là chơi…chuông dế. Người
ta tìm cách cài đặt cho con dế của những bản nhạc mình ưa thích,
thay cho chuông báo điện thoại hay tin nhắn gửi đến.
Có anh chàng đã dùng một giọng nữ
thật đỏng đảnh thay cho nhạc chuông :
- Anh ơi anh à, em nhớ anh lắm,
nghe diện thoại của em đi…
Cũng vì thế mà anh chàng này đã
bị bà vợ hay ghen chửi bới và hạch hỏi cho một trận tơi bời hoa
lá, phải cầu cứu bạn bè đến thanh minh thanh nga, mới giải được
nỗi oan.
Sau cùng là chơi…hình dế. Người
ta tìm cách tải vào bộ sưu tập của điện thoại di động những hình
ảnh độc, để lâu lâu mở ra ngắm nhìn và coi chơi. Những hình ành
độc này có thể là những hình ảnh khỏa thân và những đoạn phim
sex ngăn ngắn.. Xem chán và coi chán, thì “bắn” sang cho bạn bè,
gọi là để trao đổi hàng hóa hai chiều. Và như vậy, khó mà lường
nổi hậu quả của những hình ảnh và những đoạn phim độc này đã
tác hại như thế nào.
Dế con ngày nay đã trở thành vật
bất khả ly thân của nhiều người thời nay, vì đó là một phương
tiện liên lạc với nhau vừa gọn nhẹ, lại vừa đạt hiệu quả cao.
Tuy nhiên, cũng có một số người lại sử dụng dế vào những ý đồ
hắc ám.
Chẳng hạn chị vợ sắm cho anh
chồng một con dế, cốt để kiểm soát đường đi nước bước của anh
chồng, xem anh chồng có thực sự ở công sở hay lại đang xơi…”phở”
tái ở một xó góc tăm tối nào đó. Còn anh chồng thì tậu cho mình
một con dế, để dễ bề tâm sự và hẹn hò với cô bồ nhí. Những lúc
rảnh rỗi anh ta bèn lôi con dế ra để tỉ tê đầy vơi, hay viết
những dòng nhắn tin thật lâm ly bi đát mà gửi cho người yêu bé
bỏng.
Tới đây, gã xin lượm lặt qua bao
chí, những sự việc vui buồn xảy ra cũng vì con dế.
Trước hết là đối với dân nhậu.
Chiếc điện thoại di động đã giúp họ liên lạc với nhau một cách
kín đáo và mau chóng. Tuy nhiên, khi đã xừng xừng họ mới bày ra
những trò nghịch ngợm.
Chẳng hạn thấy bà xã ông nào có
máu “Hoạn Thư”, thì liền gửi vào máy của ông ấy những tin nhắn
đầy ắp những thương nhớ của một “cô gái ảo” với tên gọi thật mỹ
miều. Tin nhắn này chẳng may bị bà xã vớ được, chắc chắn bà ấy
sẽ nổi trận lôi đình cho ông ta một vố còn đau hơn cả trời
giáng.
Tiếp đến là đối với những người
hảo ngọt, mất cảnh giác nên dễ dàng trở thành những nạn nhân bị
lừa gạt. Cái chiêu thông thường vốn được xử dụng đó là gọi nhầm
máy, sau đó xin làm quen, rồi hẹn gặp gỡ. Trong lúc gặp gỡ, lấy
cớ có việc cần, hay vì điện thoại của mình hết pin, bèn mượn tạm
dế con để liên lạc, rồi lặn mất tiêu. Gã xin kể lại ba trường
hợp “dính chấu” điển hình được đăng tải trên báo “Công An Thành
Phố” :
Trường hợp thứ nhất :
Anh S dang ngồi trong phòng làm
việc thì nhận được bốn cuộc điện thoại gọi nhầm số của một cô
gái lạ có giọng nói dịu dàng. Sau lần thứ tư, cô gái nhẹ nhàng
xin lỗi và không quên làm quen :
- Anh em mình hẳn có duyên với
nhau nên em mới gọi nhầm số hoài. Vậy khi nào em buồn, cho phép
em gọi điện để chia sẽ với anh nhé ?
Anh S tỏ ra ga lăng :
- Được tiếp chuyện người đẹp là
một diễm phúc cho anh, chỉ sợ em chê anh nói chuyện vô duyên,
nên không gọi nhầm số nữa.
Rồi một ngày kia, anh S chủ động
hẹn cô gái đi uống cà phê. Khi gặp mặt, anh S nhận thấy cô gái
vừa trẻ lại vừa đẹp, ăn nói lưu loát, đồng thời tỏ ra là người
có học thức. Khi hai người đang chuyện trò vui vẻ thì cô gái có
điện thoại, rồi máy của cô gái hết pin. Sẵn cơ hội ngàn vàng,
anh S bèn móc ngay con dế của mình ra cho cô gái mượn. Mãi không
thấy cô gái quay lại, anh S vội ra ngoài tìm, nhưng người giữ xe
cho biết cô gái đã đi được một lúc.
Trường hợp thứ hai :
Một tuần liền, chị B liên tiếp
nhận được những tin nhắn thân mật như của một người bạn lâu ngày
chưa gặp từ một số máy lạ. Rồi một ngày chủ nhân số máy lạ ấy
trực tiếp gọi điện cho chị B. Sau vài lời thăm hỏi vồn vã, người
ấy xin lỗi vì đã nhầm máy của chị với máy của một người bạn
thân và nhận khuyết điểm với một giọng khá chân thành :
-Trước lạ sau quen, từ nay nếu em
đồng ý, chúng ta sẽ coi nhau như những người bạn mới được không
?
Sau đó, người ấy thường xuyên
điện thoại hay nhắn tin hỏi thăm chị. Rồi một ngày kia, người ấy
đột ngột đến thăm chị. Biết chị đang sống đơn côi với cô con gái
nhỏ, người ấy ngỏ ý muốn chia sẻ mọi vui buồn…Và những ngày sau
đó, người ấy thường xuyên đến nhà đưa cô con gái nhỏ đi học,
giúp chị làm một số việc lặt vặt. Tình cảm của họ ngày càng thêm
khắng khít…
Một buổi sáng Chúa nhật, trong
lúc chị căm cụi trong bếp, thì người ấy tranh thủ sửa lại cầu
thang lên gác. Sau bữa cơm trưa, người ấy nói có việc phải về.
Chiều đến, cô con gái nhỏ đòi xem phim họat hình, chị lên gác và
phát hiện chiếc máy quay phim cùng với một số đồ vật quí giá đã
không cánh mà bay. Chị điện thoại thì máy của người ấy luôn ở
trong tình trang không liên lạc được.
Nhưng có lẽ đau hơn cả là trường
hợp thứ ba sau đây :
Anh T là giám đốc một công ty vận
tải đang độ ăn nên làm ra. Một ngày đẹp trời nọ, điện thoại của
anh liên tiếp nhận được những tin nhắn xin làm quen. Không chịu
nổi trò đùa này, anh quyết định gọi để dạy cho đối phương một
bài học. Thế nhưng một giọng nói ngọt ngào vang lên. Cô nàng
xưng tên là TH và lên tiếng biện hộ cho mình : sở dĩ cô nàng
“dai như đỉa” chỉ vì quá ngưỡng mộ anh trong một bữa tiệc của
người bạn, nên cố tình làm quen…
Và thế là cá đã cắn câu và nai đã
sập bẫy. Họ hẹn nhau tại một quán cà phê. Cô nàng trong bộ trang
phục khá trang nhã, nói chuyện rất lôi cuốn và đã giới thiệu
mình là một sinh viên vừa tốt nghiệp, đang tập sự cho một công
ty nước ngoài, trong khi chờ hoàn tất thủ tục du học tại Úc. Cô
nàng rất ít nói về mình, mà chủ yếu ngồi chớp mắt lắng nghe như
bị hút vào câu chuyện của T… Và lẽ dĩ nhiên, các cuộc hẹn hò như
thề tiếp diễn liên tục trong những tuần sau.
Điều gì đến phải đến. Một buổi
tối cuối tuần, sau một bữa ăn thật lãng mạn với rượu vang, nến,
hoa và tiếng dương cầm dặt dìu ở một nhà hàng đắt đỏ nhất
Saigon, chàng lưu luyến cho biết muốn ở lại bên nhau trong một
không gian khác, ấm cúng hơn, riêng tư hơn. Cô nàng do dự một
lúc rồi nhẹ nhàng thưa :
- Em phải về xin phép mới được đi
khuya. Anh cứ chọn nơi và đến trước đi. Nếu được mẹ cho phép, em
sẽ điện xem anh ở đâu, rồi mình gặp nhau.
Trên đường đến điểm hẹn tình yêu,
có đôi lần anh T nghĩ đến hình ảnh vợ và hai đứa con xinh xắn
đang ngồi đợi mình ở nhà bên bàn ăn, khiến anh muốn quay trở
về…nhưng rồi có gì đó cứ thôi thúc, lòng anh như dậy sóng. Anh T
chặc lưỡi, tự trấn an rằng mình đã chu toàn mọi thứ với vợ con ở
nhà và tự dối lòng bằng lời hứa “chỉ một lần mà thôi”.
Vừa lấy chìa khóa phòng khách
sạn, thì điện thoại reo lên, cô nàng hồ hởi :
- Mẹ cho em đi đến 11g30. Anh ở
đâu em đến ngay.
Đọc số phòng và tên khách sạn
xong, anh lâng lâng xả nước vừa tắm vừa hát nho nhỏ một bản
tình ca. Khoảng 30 phút sau, có tiếng gõ cửa và cô nàng xuất
hiện với vẻ e lệ rất con gái, khẽ bước vào và cánh của nhẹ nhàng
khép lại phía sau…
Đang lúc họ âu yếm, thì cửa phòng
khách sạn bật mở, một gã đàn ông lăm lăm tiến tới. Đèn flash nhá
liên tục. Gã đàn ông vừa thao tác vừa luôn miệng chửi bới :
- Mày dám lấy vợ ông à.
Cuối cùng anh T phải ngồi xuống
thương lượng. Cái giá phải trả là tất cả những gì anh đang có,
gồm xe gắn máy, chiếc ví với hơn 1000 đô Mỹ, máy tính xách tay,
đồng hồ và nhẫn cẩm hột xoàn.
Gần mười hai giờ đêm anh T mới
thất thểu về đến nhà, bộ dạng xơ xác hớt hả của một người “vừa
bị cướp tấn công trên đường”. Chị vợ nước mắt ngắn nước mắt dài
khóc lóc, thắp nhang tạ ơn ông bà đã “giữ mạng” cho anh…Của đi
thay người!
Để kết luận, gã xin ghi lại phản
ứng của một người vợ, do Lê Minh Thủy diễn tả và được đăng trên
báo Phụ Nữ Chủ Nhật, số 32 ra ngày 13.8.2006 :
Hầu như cả nhân loại đều phải cám
ơn các nhà khoa học đã sáng chế được chiếc điện thoại. Nhưng
riêng chị lại “oán trách” ai đó đã phát minh ra chiếc điện thọai
di động, để chị phải khốn đốn trong những ngày “khai hoa nở
nhụy”.
Chị và anh đều là công chức bình
thường, với một cuộc sống cũng rất bình thường. Không có nhu cầu
buôn bán làm ăn gì thêm, nên việc anh mua cho mình một chiếc
ĐTDĐ làm chị bắt đầu thắc mắc :
- Anh à, khi làm việc ở cơ quan
đã có ĐT cơ quan, về nhà lại có ĐT nhà. Anh mua làm chi ĐTDĐ cho
tốn kém, hàng tháng lại phải trả thêm một khoản tiền không nhỏ.
Con của mình có thêm khoản tiền phí hàng tháng đó của anh, chắc
sẽ tươm tắt hơn.
Anh như có phần đuối lý trước lập
luận hết sức chặt chẽ của chị. Tặc lưỡi, anh nói liều :
- Thì những lúc anh đi uống bia,
có di động em sẽ biết anh ở đâu mà kêu anh về, khỏi phải lo
lắng, tiện lợi quá còn gì…
Chị đăm chiêu truớc từ “tiện lợi”
của anh.
Một tháng trôi qua từ khi chồng
chị sử dụng ĐTDĐ, hình dáng chị cũng ngày càng nặng nề hơn. Sự
nặng nề của người phụ nữ sắp đến kỳ sinh nở không làm chị mệt
nhọc cho bằng sự đè nặng tâm can, khi chị bắt gặp những hành vi
sử dụng điện thoại không bình thường của anh. Anh cất chiếc ĐTDĐ
như một báu vật bất ly thân. Chị không có thói quen lục túi quần
chồng, vậy mà chiếc ĐTDĐ của anh lúc nào cũng chỉ nằm trong túi
quần hoặc túi áo anh.
Khi chuông ĐTDĐ reo, anh mang ra
tít ngoài vườn hoặc lên tận sân thượng mà thì thầm. Nếu được hỏi
:
- Điện thoại của ai đó ?
Anh vắn tắt trả lời :
- Bạn anh.
Chị thẳng thắn :
- Anh không được sử dụng điện
thoại như vậy. Bạn anh cũng là bạn em. Không việc gì mà anh lại
phải nói chuyện lén lút to nhỏ như vậy. Nếu anh không để ĐTDĐ
trên mặt tủ mỗi khi đi làm về, thì em khẳng định anh có điều cần
che đậy không minh bạch.
Chị làm căng quá. Anh đành phải
bỏ ĐTDĐ trên mặt bàn, hay trên mặt tủ mỗi khi đi đâu về. Chị yên
tâm hơn, nhưng bỗng thấy…ghét ghét chiếc ĐTDĐ. Chị cảm thấy từ
khi nó xuất hệin, anh trở thành một người khang khác. Và rồi,
thời gian anh bỏ điện thoại trên mặt tủ không bao lâu, thì chị
vô tình phát hiện : Chiếc di động của anh chỉ mở chuông kêu
những lúc anh đi vắng. Còn về đến nhà, nó biến thành di động hết
tiền, hoặc ngoài vùng phủ sóng. Anh tắt máy. Chị càng có nguyên
nhân để ghét chiếc ĐTDĐ.
Hơn lúc nào hết, chị cần sự quan
tâm chăm sóc của anh, vậy mà…chiếc ĐTDĐ đã trắc nghiệm đúng cho
chị điều chị lo sợ nhất. Nó phục vụ anh cho một mục đích không
chính đáng. Mục đích đó là gì ? Chị dễ dàng đoán ra, khi một lần
chị gọi lại số anh vừa nghe. Giọng một cô gái lạ hoắc sửng sốt
khi chị tự xưng :
- Mình là vợ của anh ấy.
Sau lần đó, anh đã dùng ĐTDĐ như
những người đàn ông “chân chính”. Tuy nhiên, chị vẫn chưa thể
yêu ngay chiếc ĐTDĐ nho nhỏ, có những điệu chuông thật hay.
Không biết đến bao giờ chị mới có thể hoàn toàn tin tưởng và yêu
được chiếc ĐTDĐ chỉ bé bằng hai ba đầu ngón tay đó ? Điều này
hẳn phải tùy thuộc vào anh.
Từ câu chuyên trên, gã xin góp
một lời bàn :
- Con dế chẳng tội tình gì. Nó
xấu hay nó tốt là do người sử dụng nó mà thôi.
Gã Siêu
gasieu@gmail.com
|
VỀ MỤC LỤC |
|
- Mọi liên lạc: Ghi danh, thay đổi địa chỉ, đóng góp ý kiến,
bài vở..., xin gởi về địa chỉ
giaosivietnam@gmail.com
- Những nội dung sẽ được đề cao và chú ý bao gồm:
Trao đổi, chia sẻ những kinh nghiệm thực tế trong việc mục
vụ của Giáo sĩ; Những tài liệu của Giáo hội hoặc của các
Tác giả nhằm mục đích Thăng tiến đời sống Giáo sĩ; Cổ võ ơn
gọi Linh mục; Người Giáo dân tham gia công việc “Trợ lực
Giáo sĩ” bằng đời sống cầu nguyện và cộng tác trong mọi lãnh
vực; Mỗi Giáo dân phải là những “Linh mục” không có chức
Thánh; Đối thoại trong tinh thần Bác ái giữa Giáo dân và
Giáo sĩ… (Truyền giáo hay xây pháo đài?)
- Quy vị cũng có thể tham khảo những số báo đã phát hành tại
www.conggiaovietnam.net
Rất mong được sự cộng tác, hưởng ứng của tất cả Quí vị
Xin chân thành cám ơn tất cả anh chị em đã
sẵn lòng cộng tác với chúng tôi bằng nhiều cách thế khác
nhau.
TM. Đặc San Giáo Sĩ Việt Nam
Lm. Luca
Phạm Quốc Sử
USA
|
|
*************
|
|