Đặc San Giáo Sĩ Việt Nam

 

 

 

ĐỰƠC CHỌN GIỮA LOÀI NGƯỜI
VÀ CHO LOÀI NGƯỜI  (x. Dt, 5.1)

 

GIÁO SĨ:

Xuất phát từ giáo dân, hiện diện vì giáo dân và cậy dựa vào giáo dân

 

ĐỂ CÙNG LÀM VINH DANH THIÊN CHÚA

 

www.conggiaovietnam.net                          giaosivietnam@gmail.com

Đặc San Điện Tử    Giáo Sĩ Việt Nam    Số 104, Chúa Nhật 18.10.2009


MỤC LỤC 

Các Nguyên Tắc Công Giáo Về Hiệp Nhất                                                             Vatican 2

MỘT VÀI GHI NHẬN KHI ĐỌC THÔNG ĐIỆP BÁC ÁI TRONG CHÂN LÝ (CARITAS IN VERITATE)                                                                          Gm. Phêrô Nguyễn Văn Khảm

Lm. BÀNH GIÁM ĐẠO : ẢNH HƯỞNG CỦA LÁ THƯ MỤC TỬ CỦA ĐỨC GIÁO HOÀNG BIỂN ĐỨC XVI GỬI GIÁO HỘI TRUNG QUỐC                                        Lm. Phạm Vinh Sơn dịch

CHÀO MỪNG NĂM THÁNH 2010                                                                        Hương Quê

ỦNG HỘ VÀ CHỐNG ĐỐI                                                                   Lm. Trần Đức Phương

THÀ CHÚA ĐỂ CHÚNG CON CÂM ĐI                                                   Gioan Lê Quang Vinh

Tân phó tế vĩnh viễn Gioan Nguyễn Sơn cho chứng từ về ơn gọi của mình              Gs. Trần Văn Cảnh

NĂM LINH MỤC – NHẬT KÝ - NHỜ HAI NGƯỜI NÊN MỚI CÓ TÔI!             Lm Martino Nguyễn Bá Thông

GIẢI QUYẾT BẤT ĐỒNG GIA ĐÌNH TRONG TINH THẦN PHÚC ÂM HÓA             Trần Hiếu

NGƯỜI YÊU MÀU TRẮNG                                                                       Nhà Văn Quyên Di

KHOẢNG CÁCH THẾ HỆ                                                              Bác sĩ Nguyễn Ý-Đức M.D.

NỊNH…ĐẦM                                                                              Chuyện phiếm của Gã Siêu


Sắc Lệnh Về Hiệp Nhất (tiếp theo)

 

Unitatis Redintegratio

 

Bản dịch Việt Ngữ của Giáo Hoàng Học Viện Piô X

Prepared for Internet by Vietnamese Missionaries in Asia

 

Chương I

Các Nguyên Tắc Công Giáo Về Hiệp Nhất 7*

 

2. Giáo Hội hiệp nhất và duy nhất. Tình yêu Thiên Chúa đối với chúng ta đã hiển hiện trong việc Con Một Thiên Chúa đã được Chúa Cha sai đến thế gian, để một khi hóa thân làm người, Người tái sinh toàn thể nhân loại bằng cách cứu chuộc họ và đoàn tụ họ nên một 2. Trước khi tự hiến làm lễ vật tinh tuyền trên thánh giá, Người đã cầu cùng Chúa Cha cho các tín hữu rằng: "Xin cho hết thảy được hiệp nhất như Cha ở trong Con và Con ở trong Cha vậy, để chính họ cũng được nên một trong Ta và cho thế gian tin rằng Cha đã sai Con" (Gio 17,21). Người đã thiết lập trong Giáo Hội của Người nhiệm tích Thánh Thể kỳ diệu, vừa là dấu chỉ vừa thể hiện sự hiệp nhất của Giáo Hội. Người ban cho các môn đệ Người một giới răn mới là tình yêu thương nhau 3, và hứa ban Thánh Thần an ủi 4, Ðấng vừa là Chúa vừa ban sự sống để ở với họ mãi mãi.

Sau khi đã chịu treo trên thập giá và được vinh hiển, Chúa Giêsu ban Thánh Thần Người đã hứa. Nhờ Thánh Thần ấy, Người đã kêu gọi và đoàn tụ dân của Giao Ước Mới, tức là Giáo Hội trong cùng một đức tin, đức cậy và đức mến như Thánh Tông Ðồ dạy: "Chỉ có một thân thể và một Thánh Thần cũng như anh em được kêu gọi bằng một hy vọng của ơn kêu gọi anh em: một Chúa, một Ðức Tin, một phép Rửa" (Eph 4,4-5). "Thực vậy, những ai được rửa tội trong Chúa Kitô, đều mặc lấy Chúa Kitô... Vậy, tất cả đều là một trong Chúa Giêsu Kitô" (Gal 3,27-28), Bản Hy Lạp). Chúa Thánh Thần ngự trong lòng các tín hữu, đổ đầy ơn và cai trị Giáo Hội, Ngài thực hiện sự thông hiệp kỳ diệu ấy nơi các tín hữu, và liên kết tất cả trong Chúa Kitô cách mật thiết đến nỗi Ngài chính là Nguyên Lý Hiệp Nhất Giáo Hội. Ngài phân phát các ân sủng và phận vụ 5 để nhờ có nhiều chức vụ khác nhau mà Giáo Hội Chúa Kitô nên phong phú "hầu cho các thánh được hoàn thiện trong việc thi hành chức vụ và trong việc xây dựng thân thể Chúa Kitô" (Eph 4,12).

Nhưng để thiếp lập Giáo Hội thánh thiện của Người khắp nơi trên mặt đất cho tới tận thế, Chúa Kitô đã ủy thác 6 cho cộng đoàn mười hai Tông Ðồ nhiệm vụ giáo huấn, cai trị và thánh hóa. Trong số ấy Chúa đã chọn Phêrô và đã công bố xây dựng Giáo Hội trên Phêrô sau khi ông tuyên xưng đức tin. Người hứa trao 7 chìa khóa nước trời cho Phêrô và sau khi ông đã tuyên xưng tình yêu đối với Người, Người trao phó 8 toàn thể đoàn chiên cho ông để ông củng cố trong đức tin và chăn dắt 9 trong sự hiệp nhất hoàn toàn, trong khi ấy, Chúa Giêsu Kitô đời đời vẫn là đá góc 10 và chủ chăn linh hồn chúng ta 11.

Nhờ các Tông Ðồ và những người kế vị các ngài, là các Giám Mục cùng với thủ lãnh là đấng kế vị Thánh Phêrô, trung thành rao giảng Phúc Âm và ban phát các bí tích, lại nhờ sự điều khiển yêu thương dưới tác động của Thánh Thần, Chúa Kitô muốn dân Người lớn lên và hoàn thành sự thông hiệp trong hiệp nhất, nghĩa là: cùng tuyên xưng một đức tin, cùng cử hành một nghi lễ phụng tự, cùng hòa hợp trong tình huynh đệ của gia đình Thiên Chúa.

Như thế, Giáo Hội là đoàn chiên duy nhất của Thiên Chúa, như dấu chỉ nêu cao cho muôn dân 12, khi đem Phúc Âm hòa bình phục vụ toàn thể nhân loại 13. Giáo Hội hành trình trong hy vọng tiến về cùng đích 14 là quê trời.

Ðó là mầu nhiệm thánh của sự hiệp nhất Giáo Hội trong Chúa Kitô và nhờ Chúa Kitô, dưới tác động của Thánh Thần trong nhiều phận vụ khác nhau. Mẫu mực tối cao và nguyên lý của mầu nhiệm này là sự hiệp nhất trong Ba Ngôi của một Thiên Chúa duy nhất là Cha và Con trong Thánh Thần.

3. Tương quan giữa anh em ly khai và Giáo Hội Công Giáo. Ngay từ buổi sơ khai, trong Giáo Hội độc nhất và duy nhất của Thiên Chúa đã xuất hiện 15 ít nhiều rạn nứt mà Thánh Tông Ðồ đã nặng lời quở trách như là đáng kết án 16. Nhưng trong các thời đại kế tiếp, phát sinh nhiều phân rẽ trầm trọng hơn và nhiều cộng đoàn đáng kể đã hoàn toàn ly khai khỏi sự hiệp thông với Giáo Hội Công Giáo, mà đôi khi cũng tại lỗi những người ở cả hai bên. Vậy ngày nay, những người sinh trưởng trong các Cộng Ðoàn ấy và thấm nhuần đức tin nơi Chúa Kitô không thể bị kết tội chia rẽ và Giáo Hội Công Giáo kính trọng, yêu thương họ như anh em. Thật vậy những người tin ở Chúa Kitô và đã được rửa tội đúng phép vẫn còn hiệp thông với Giáo Hội Công Giáo một cách nào đó 8* cho dầu không được hoàn hảo. Hiển nhiên là các dị biệt dưới nhiều hình thức giữa họ và Giáo Hội Công Giáo về vấn đề giáo lý, đôi khi về kỷ luật hay cơ cấu Giáo Hội, gây cho việc hiệp thông đầy đủ với Giáo Hội khá nhiều trở ngại và có khi lại là những trở ngại lớn lao mà phong trào hiệp nhất đang cố gắng vượt qua. Tuy nhiên một khi đã được công chính hóa nhờ đức tin khi chịu phép rửa tội, họ đã được tháp nhập 17 vào Chúa Kitô và vì thế có quyền mang danh Kitô hữu 9* và xứng đáng được con cái của Giáo Hội Công Giáo nhìn nhận là anh em trong Chúa 18.

Hơn nữa, trong các yếu tố hoặc tài sản xây dựng và làm sống động Giáo Hội, một số khá nhiều và tuyệt hảo có thể không nằm trong bình diện hữu hình của Giáo Hội Công Giáo như: Lời Chúa ghi chép trong Thánh Kinh, đời sống trong ơn thánh, đức tin, cậy, mến và các ơn nội tâm do Thánh Thần ban, cùng những yếu tố hữu hình: tất cả đã phát sinh từ Chúa Kitô và dẫn đưa về chính Người, thì đương nhiên cũng thuộc về quyền Giáo Hội duy nhất của Người 10*.

Các anh em ly khai với chúng ta cũng cử hành nhiều lễ nghi phụng vụ của Kitô giáo. Những lễ nghi ấy, chắc chắn có thể thực sự phát sinh đời sống ơn thánh và phải được công nhận là đường đưa đến sự thông hiệp vào ơn cứu rỗi, tuy cách thức có khác nhau tùy hoàn cảnh của mỗi Giáo Hội hay Cộng Ðoàn.

Do đó, dù chúng ta tin là họ còn khiếm khuyết, nhưng chính các Giáo Hội 19 và các Cộng Ðoàn tách riêng 11* ấy vẫn chưa trở thành vô nghĩa và vô giá trị trong mầu nhiệm cứu rỗi. Thật vậy, Thánh Thần của Chúa Kitô không khước từ sử dụng họ như những phương tiện cứu rỗi mà năng lực phát xuất từ chính sự sung mãn của ơn thánh và chân lý đã được ủy thác cho Giáo Hội Công Giáo 12*.

Nhưng các anh em tách riêng khỏi chúng ta, cá nhân cũng như Cộng Ðoàn và các Giáo Hội của họ, không được hưởng sự hiệp nhất đã được Chúa Giêsu Kitô rộng ban cho những kẻ Người đã tái sinh và cho sống chung trong một thân thể duy nhất và trong đời sống mới, sự hiệp nhất mà Thánh Kinh và Truyền Thống đáng kính của Giáo Hội đều tuyên xưng. Chỉ nhờ Giáo Hội Công Giáo của Chúa Kitô là "phương thế cứu rỗi chung" 13* ta mới có thể đạt được đầy đủ các phương tiện cứu rỗi. Thật ra chúng tôi tin Chúa đã ủy thác cho Cộng Ðoàn Tông Ðồ được Phêrô lãnh đạo tất cả sản nghiệp Tân Ước để tạo thành một thân thể duy nhất của Chúa Kitô ở trần gian. Tất cả những ai đã thuộc về dân Chúa một cách nào đó đều phải tháp nhập vào thân thể ấy. Trên đường lữ thứ trần gian, mặc dù các chi thể 14* còn có thể phạm tội, dân Chúa vẫn lớn lên trong Chúa Kitô và được Thiên Chúa dịu dàng hướng dẫn theo chương trình nhiệm mầu của Người cho đến khi họ sung sướng đạt tới vinh quang trường cửu và sung mãn trong thành Giêrusalem trên trời.

4. Phong trào hiệp nhất. Vì ngày nay ở nhiều nơi trên thế giới, nhờ ơn Chúa Thánh Thần thúc đẩy, rất nhiều cố gắng nhằm tiến tới hiệp nhất đầy đủ theo ý muốn của Chúa Giêsu Kitô đang được thực hiện bằng kinh nguyện, lời nói, việc làm, nên Thánh Công Ðồng này khuyến khích tất cả mọi người công giáo hãy nhận ra các dấu chỉ thời đại để khéo léo tham gia vào công cuộc hiệp nhất. 15*.

Phải hiểu danh từ "phong trào hiệp nhất" là những hoạt động và sáng kiên được phát động và tổ chức nhằm cổ võ sự hiệp nhất các Kitô hữu, tùy theo những nhu cầu khác nhau của Giáo Hội và những thời cơ thuận tiện. Trước hết như là mọi cố gắng loại bỏ những lời nói, phán đoàn và việc làm không đúng với hoàn cảnh của các anh em ly khai xét theo công bình và chân lý, vì nếu không sẽ gây thêm khó khăn trong việc giao tiếp với họ. Thứ đến là trong các buổi hội thảo với tinh thần tôn giáo giữa các Kitô hữu thuộc nhiều Giáo Hội hay Cộng Ðoàn khác nhau, có sự "đối thoại" giữa các nhà chuyên môn thấu triệt vấn đề, và mỗi người sẽ giải thích cặn kẽ giáo lý của Cộng Ðoàn mình và trình bày minh bạch những nét độc đáo của giáo lý ấy. Có đối thoại như thế mọi người mới hiểu biết đúng hơn và tôn trọng đúng mức giáo lý cũng như đời sống của mỗi Cộng Ðoàn; cũng nhờ đó mà các Cộng Ðoàn dần dần hợp tác được với nhau rộng rãi hơn trong mọi công cuộc mưu ích chung mà lương tâm Kitô hữu nào cũng đòi hỏi; lại cũng nhờ đó, họ hợp nhau cầu nguyện chung mỗi khi có cơ hội thuận tiện. Sau cùng mọi người hãy kiểm điểm coi mình có trung thành với ý muốn của Chúa Kitô về Giáo Hội không, để rồi hăng hái tiến hành việc canh tân và cải tổ đúng như bổn phận đòi hỏi.

Khi các tín hữu của Giáo Hội Công Giáo khôn ngoan và kiên nhẫn thực hiện tất cả các điều ấy 16* dưới sự giám sát của các chủ chăn tức là họ đã đóng góp cho việc thực hiện công bình và chân lý, sự hòa thuận và hợp tác, tình huynh đệ và đoàn kết. Với đường hướng này, khi đã vượt được mọi trở ngại ngăn cản sự hiệp thông hoàn toàn của Giáo Hội, dần dần mọi Kitô hữu sẽ đoàn tụ qua việc cử hành Phép Thánh Thể duy nhất, hiệp nhất trong một Giáo Hội độc nhất; sự hiệp nhất mà Chúa Kitô từ ban đầu đã rộng ban cho Giáo Hội của Người. Chúng tôi tin rằng sự hiệp nhất ấy tồn tại mãi trong Giáo Hội Công Giáo và hy vọng rằng mỗi ngày sẽ bành trướng thêm cho đến tận thế.

Dĩ nhiên, công cuộc chuẩn bị và hòa giải của những cá nhân riêng rẽ 17*, những người ao ước hiệp thông trọn vẹn với Giáo Hội Công Giáo, tự bản tính khác với phong trào hiệp nhất; tuy nhiên, chúng không đối lập nhau vì cả hai đều do sự an bài kỳ diệu của Thiên Chúa.

Trong khi hoạt động cổ võ sự hiệp nhất, chắc chắn các tín hữu công giáo phải tỏ ra ân cần đối với các anh em ly khai, cầu nguyện cho họ, thông đạt cho họ các việc của Giáo Hội, khởi xướng bước đầu đi đến với họ. Trước hết cần thành thực và chú ý cân nhắc những gì phải canh tân và thực hiện trong chính Gia Ðình Công Giáo để đời sống của Giáo Hội làm chứng cách trung thành và rõ rệt hơn về giáo lý và những định chế do Chúa Kitô truyền lại qua các Thánh Tông Ðồ.

Dù Giáo Hội Công Giáo được thừa hưởng toàn thể chân lý do Chúa mạc khải và tất cả những phương tiện ban ân sủng, nhưng các phần tử của Giáo Hội lại chưa nhiệt thành sống các mầu nhiệm ấy cho đủ nên khuôn mặt của Giáo Hội ít chiếu giãi rực rỡ trước mặt các anh em ly khai và toàn thế giới, và nước Chúa cũng chậm bành trướng. Vì thế, tất cả mọi người Công Giáo phải hướng đến sự hoàn thiện Kitô giáo 20, mỗi người phải tùy theo hoàn cảnh của mình cố gắng làm cho Giáo Hội, tuy đang mang trên mình sự khiêm tốn và hy sinh của Chúa Kitô 21, mỗi ngày một thêm trong sạch và mới mẻ cho tới khi Chúa Kitô cho trình diện trước mặt mình Giáo Hội vinh quang không một vết ố, nét nhăn 22.

Khi bảo toàn sự hiệp nhất trong những điều thiết yếu, hết mọi người trong Giáo Hội, tùy theo chức vụ được giao phó, cần giữ sự tự do phải có trong những hình thức khác nhau về đời sống thiêng liêng và kỷ luật trong các lễ nghi phụng tự và ngay cả trong việc khảo cứu thần học 18* về các chân lý mạc khải: nhưng trong mọi việc, hãy thực hành đức bác ái. hành động như thế, chính họ sẽ biểu hiện càng ngày càng đầy đủ hơn tính cách công giáo và tông truyền chính danh của Giáo Hội.

Ðàng khác, người công giáo cần phải vui mừng nhìn nhận và tôn trọng những giá trị thật sự Kitô giáo, xuất phát từ cùng một gia sản chung được tìm thấy nơi các anh em ly khai. Nhìn nhận những kho tàng phong phú của Chúa Kitô và những hoạt động của quyền lực Người trong đời sống của những kẻ đang làm chứng về Người - và có khi phải đổ máu mới nói lên được - quả là chính đáng và có giá trị cứu rỗi: vì Thiên Chúa luôn đáng khâm phục và việc Ngài làm bao giờ cũng kỳ diệu.

Cũng đừng quên rằng những gì do ơn Chúa Thánh Thần thực hiện nơi các anh em ly khai cũng có thể góp phần xây dựng chúng ta. Bất cứ những gì thực sự Kitô giáo đều không bao giờ đối lập với những chân giá trị của đức tin, trái lại còn luôn luôn có thể giúp chúng ta đi sâu hơn vào chính mầu nhiệm của Chúa Kitô và Giáo Hội.

Tuy nhiên, sự chia rẽ giữa các Kitô hữu ngăn trở Giáo Hội thực hiện đầy đủ tính cách công giáo riêng biệt của mình nơi những con cái tuy đã thuộc về Giáo Hội nhờ phép Rửa, nhưng còn xa cách chưa hoàn toàn thông hiệp với Giáo Hội. Hơn nữa, chính Giáo Hội cũng diễn tả khó khăn hơn tính cách công giáo đầy đủ của mình dưới mọi khía cạnh trong đời sống thực tế.

Thánh Công Ðồng sung sướng nhận thấy sự tham gia hoạt động cổ võ việc hiệp nhất của các tín hữu công giáo đang ngày càng phát triển và giao phó công việc ấy cho các Giám Mục ở khắp nơi trên toàn thế giới để các ngài khéo léo cổ võ và khôn ngoan hướng dẫn công cuộc này.

 


Chú Thích:

7* Tựa đề của chương này lúc trước là "Các nguyên tắc về hiệp nhất công giáo". Qua đó, dường như người ta muốn nói rằng có nhiều "kiểu" hiệp nhất (Tin Lành, Công Giáo, v.v...). Thực ra chỉ có một sự hiệp nhất mà mỗi cộng đồng Kitô hữu tham gia vào theo những nguyên tắc riêng của mình. Bởi vậy người ta thay đổi tựa đề lại gọi là: "Các nguyên tắc công giáo về hiệp nhất". Ðoạn đầu của chương này (số 2) là một lời nhắc lại vắn tắt học thuyết Công Giáo về tính cách duy nhất và hiệp nhất của Giáo Hội do Chúa Kitô sáng lập. Phải tôn trọng những chân lý này trong cuộc đối thoại với anh em ly khai.

2 Xem Gio 4,9; Col 1,18-20; Gio 11,52.

3 Xem Gio 13,34.

4 Xem Gio 16,7.

5 Xem 1Cor 12,4-11.

6 Xem Mt 28,18-20, so sánh với Gio 20,21-23.

7 Xem Mt 16,19, so sánh với Mt 18,18.

8 Xem Lc 22,32.

9 Xem Gio 21,15-17.

10 Xem Eph 2,20.

11 Xem 1P 2,25; CÐ Vat. I, Hiến chế Pastor Aetermus; Coll, Lac, 7,482a.

12 Xem Is 11,10-12.

13 Xem Eph 2,17-18, so sánh với Mc 16,15.

14 Xem 1P 1,3-9.

15 Xem 1Cor 11,18-19; Gal 1,6-9; 1Gio 2,18-19.

16 Xem 1Cor 1,11tt; 11,22.

8* Sắc Lệnh này tránh gọi: những Kitô hữu không công giáo là phần tử của Giáo Hội, họ liên kết một cách nào đó với Giáo Hội Công Giáo nhất là nhờ phép Rửa Tội, nhưng họ không được hưởng dụng trọn vẹn sự sung mãn của Giáo Hội.

17 Xem CÐ Firenze, khóa VIII (1439), Sắc Lệnh Exultate Deo: Mansi 31, 1055A.

9* Tất cả những ai kết hiệp với Chúa Kitô qua phép Rửa Tội thành sự đều được gọi là Kitô hữu.

18 Xem T. Augustinô, In Ps. 32, Enarr, II 29: PL 36, 299.

10* Tất cả những tài sản thiêng liêng mà những người không công giáo thừa hưởng đã được Chúa Kitô trao gởi cho Giáo Hội Người là Giáo Hội Công Giáo.

19 Xem CÐ Lateranô IV (1215), Hiến chế IV: Mansi 22, 990. - CÐ Lyon II (1274), tuyên xưng đức tin của Michael Palaeologiô: Mansi 24, 71 E. - CÐ Firenze, khóa VI (1439), Ðịnh tín Laerentur coeli: Mansi 31, 1026 E.

11* Sắc lệnh này dùng tiếng latinh "seiunctae" nghĩa là "tách riêng", tiếng này có vẻ nhẹ hơn là "ly khai".

12* Ðức Giáo Hoàng đã thêm tiếng "Công Giáo"; quả thực Giáo Hội Công Giáo là chính Giáo Hội đã được Chúa Kitô sáng lập.

13* Câu này trích từ một bức thư Tòa Thánh gửi Ðức Hồng Y Cushing ở Boston (ngày 8 tháng 8 năm 1949) nói rằng Giáo Hội Công Giáo là một phương tiện cứu rỗi cần thiết; đồng thời tài liệu ấy cũng cho biết mối liên lạc nào với Giáo Hội Công Giáo đủ để được cứu rỗi. Dẫn chứng câu này, Công Ðồng chuẩn nhận học thuyết ấy làm học thuyết của mình.

14* Theo lời yêu cầu của Ðức Giáo Hoàng, tiếng các "chi thể" đã được thêm vào để nhấn mạnh rằng Giáo Hội "tự bản tính" không thể nhiễm tội (Eph 5,27), song chính các chi thể của Giáo Hội mới chịu trách nhiệm về tội lỗi của họ.

15* Sắc lệnh mời gọi tất cả những người công giáo góp phần tích cực và khôn ngoan vào công cuộc hiệp nhất.

16* Ðoạn này đề nghị vài phương thế có thể hỗ trợ cho nguyên nhân hiệp nhất: tránh tất cả những gì có thể đụng chạm tới các anh em ly khai, đối thoại, cầu nguyện, canh tân đời sống thiêng liêng và cải cách những gì cần thiết.

17* Trước tiên là vấn đề những người đi đến Giáo Hội với tư cách cá nhân. Người ta tránh dùng chữ "trở lại". Những đoạn tiếp, theo sự mô tả các phương thế khác nhau, biểu lộ một tâm thức hiệp nhất đích thực.

20 Xem Giac 1,4; Rm 12,1-2.

21 Xem 2 Cor 4,10; Ph 2,5-8.

22 Xem Eph 5,27.

18* Ðề cập đến các phương pháp và cách thức tìm hiểu, đào sâu và diễn tả những chân lý mạc khải mà ý nghĩa vẫn luôn đồng nhất đối với mọi người.

 
VỀ MỤC LỤC
MỘT VÀI GHI NHẬN KHI ĐỌC THÔNG ĐIỆP BÁC ÁI TRONG CHÂN LÝ (CARITAS IN VERITATE)
 

I. Lược đồ của thông điệp

Thông điệp gồm 79 số, được chia thành 6 chương như sau:

Phần mở (số 1-9)

Chương I Sứ điệp của Populorum progressio (số 10-20)

Chương II Phát triển con người trong thời đại chúng ta (21-33)

Chương III Tình huynh đệ, phát triển kinh tế, xã hội dân sự (số 34-42)

Chương IV Phát triển các dân tộc, quyền lợi và trách nhiệm, môi sinh (số 43-52)

Chương V Sự hợp tác của gia đình nhân loại (số 53-67)

Chương VI Phát triển các dân tộc và kỹ thuật (số 68-77)

Phần kết (số 78-79)
 

II. Một thông điệp xã hội

Sau khi ban hành thông điệp Thiên Chúa là Tình Yêu và thông điệp Được Cứu Độ trong Hi Vọng, nhiều người nghĩ rằng thông điệp thứ ba của Đức Bênêđictô XVI sẽ bàn về Đức Tin, thế nhưng thông điệp thứ ba lại là một thông điệp về xã hội. Vậy đâu là đặc điểm của thông điệp mang tính xã hội này? Nó có đem lại điều gì mới mẻ hay cũng chỉ lập lại những giáo huấn quen thuộc trong giáo huấn của Giáo Hội về xã hội?

Trước hết, phải ghi nhận rằng Caritas in veritate là thông điệp liên kết với toàn bộ giáo huấn xã hội của Giáo Hội. Đức Bênêđictô XVI nhấn mạnh tính liên tục trong giáo huấn của Đức Phaolô VI, vd. sự thống nhất giữa Humanae Vitae và Populorum progressio (số 15). Nhấn mạnh như thế là vì trong thực tế, có khuynh hướng tách hai thông điệp này ra tuỳ lập trường luân lý xã hội của mình, để một đàng ca tụng và đàng khác phê phán nặng lời. Chẳng hạn có những người hết sức ca tụng thông điệp Populorum progressio về sự dấn thân xã hội nhưng lại lên án thông điệp Humanae vitae, coi như Đức Phaolô VI phản bội Công đồng Vaticanô II. Ngược lại, có những người theo lập trường phò sự sống (pro life) hết sức ca tụng Humanae vitae nhưng lại phớt lờ giáo huấn xã hội của Populorum progressio. Đức Bênêđictô XVI cho thấy cần phải thấy tính liên tục về mặt tư tưởng và giáo huấn giữa hai thông điệp này cũng như các thông điệp khác của Đức Phaolô VI. Cũng thế, phải thấy sự liên tục của Populorum progressio với giáo huấn Công Đồng Vaticanô II (số 11). Nếu một số người cho rằng Đức Phaolô VI và cả các giáo hoàng kế tiếp đã phản bội Công đồng Vaticanô II, thì Đức Bênêđictô XVI nhấn mạnh sự liên tục giữa giáo huấn của Công đồng và giáo huấn của các vị giáo hoàng sau Công đồng. Từ đó, vấn đề đặt ra không chỉ là văn bản Công Đồng nhưng còn là cách giải thích những văn bản Công đồng. Xa hơn nữa còn là tính liên tục với toàn bộ lịch sử giáo thuyết của Giáo Hội từ thời các thánh tông đồ (12). Ở đây xuất hiện quan điểm mà nhà thần học Ratzinger từ lâu đã nhấn mạnh, được gọi là tính xuyên thời gian (dia-chronique), không chỉ là đồng thời gian (syn-chronique) khi trình bày giáo huấn của Giáo Hội.

Kế đó, Caritas in veritate là thông điệp quan tâm đặc biệt đến công lý và công ích (số 6). Đây là hai vấn đề lớn nhất của đời sống xã hội, cũng là hai đòi hỏi căn bản của bác ái : bác ái vượt trên công lý nhưng không thể có bác ái nếu không có công lý, đồng thời khao khát và nỗ lực vươn tới công ích chính là đòi hỏi của công lý và bác ái. Khi quan tâm đến công lý và công ích, Giáo Hội không muốn nhúng tay vào chính trị của Nhà Nước bằng bất cứ cách nào, nhưng cố gắng chu toàn sứ mạng phục vụ chân lý nhằm xây dựng một xã hội xứng với con người, với phẩm giá và ơn gọi của họ (số 9).

Cụ thể hơn, Caritas in veritate tiếp nối tinh thần thông điệp Populorum progressio của Đức Phaolô VI. Populorum progressio kêu gọi sự phát triển con người toàn diện và phát triển tất cả mọi người, mọi dân tộc : “Đức Phaolô VI đã soi sáng đề tài quan trọng về việc phát triển các dân tộc dưới ánh quang chân lý và ánh sáng tình yêu Chúa Kitô” (số 8). Populorum progressio nhấn mạnh hai chân lý quan trọng : (1) Toàn bộ hoạt động của Giáo Hội, từ rao giảng đến cử hành bí tích và thực thi bác ái, phải nhắm đến việc phát triển con người toàn diện; (2) sự phát triển đích thực con người phải quan tâm đến tính toàn diện của con người trong mọi chiều kích (số 11), đồng thời là sự phát triển cho mọi người chứ không chỉ cho một số người và quốc gia giàu có, còn những người khác thì bị gạt ra bên lề (số 20-22). Nếu chỉ phát triển về kinh tế và kỹ thuật mà thôi thì không đủ. Sự phát triển cần phải đích thực và toàn diện. Việc bước ra khỏi tình trạng chậm phát triển về mặt kinh tế là một sự kiện tích cực, tuy nhiên sẽ không giải quyết được những vấn đề phức tạp liên quan đến sự tiến bộ của con người (số 23).

Caritas in veritate tiếp nối, đồng thời hiện tại hoá giáo huấn của Populorum progressio như Đức Bênêđictô XVI khẳng định : “Bốn mươi năm sau ngày công bố thông điệp Populorum progressio… tôi muốn lấy lại những giáo huấn về việc phát triển con người toàn diện, và dõi theo con đường đã được vạch ra để áp dụng cho hoàn cảnh ngày nay” (số 8). Những giáo huấn căn bản của Đức Phaolô VI vẫn còn mang tính thời sự cho thế giới ngày nay vì nhiều lý do. Trước hết, sự phát triển của nhân loại trong những thập niên qua vẫn còn xa với mục tiêu thông điệp Populorum progressio đề ra. Một đàng, phải nhìn nhận rằng sự giàu có trên thế giới gia tăng rất nhanh, nhưng đàng khác sự bất bình đẳng cũng gia tăng ở tầm mức lớn. Đồng thời, bên cạnh sự nghèo khổ vật chất, lại xuất hiện những hình thức nghèo khổ mới (số 22). Do đó, Đức Bênêđictô XVI viết : “Sau bấy nhiêu năm, chúng tôi thực sự lo lắng khi thấy các cơn khủng hoảng cứ gia tăng tiếp nối trong thời đại chúng ta cũng như hậu quả chúng để lại; chúng tôi tự hỏi những sự mong chờ của Đức Phaolô VI đã được thoả mãn đến mức độ nào dựa theo mẫu thức phát triển được áp dụng trong những thập niên cuối cùng này” (số 21). Ngoài ra, thế giới trong những thập niên qua đã thay đổi rất nhanh. Vào thời của Đức Phaolô VI, dù xã hội đã tiến triển đến mức ngài có thể nói về vấn đề xã hội mang tính toàn cầu, nhưng vẫn chưa tiến triển như ngày hôm nay (số 24), đặc biệt là tiến trình toàn cầu hoá với những hệ luỵ của nó : sự di chuyển của công nhân (di dân), di chuyển cơ sở sản xuất, những tập đoàn tài chính và sản xuất lớn làm gia tăng tính máy móc vô hồn (impersonnel), sự bùng nổ những mối tương thuộc ở tầm mức toàn cầu…(số 23-27). Do đó, cũng cần những giải pháp mới : “Những giải pháp này cần được tìm hiểu cùng với việc tôn trọng các luật riêng của từng thực tại và dưới ánh sáng của một cái nhìn trọn vẹn về con người, phản ánh nhiều phương diện khác nhau của con người, và một cái nhìn được đức ái thanh lọc” (số 32).

III. Bác ái trong chân lý : sức mạnh điều hướng sự phát triển đích thực

Có thể nói điều mới mẻ mà Caritas in veritate đem tới chính là chỉ cho ta thấy : trọng tâm của giáo huấn Giáo Hội về xã hội là Bác ái cần được thực thi trong chân lý. Bác ái trong chân lý là sức mạnh điều hướng chính yếu cho sự phát triển đích thực mỗi người và toàn thể nhân loại (số 1). Thiên Chúa của Kitô giáo vừa là logos vừa là agape, cho nên tình yêu gắn liền với chân lý (số 3). Phải liên kết bác ái với chân lý, nếu không, hoặc chúng ta rơi vào chủ nghĩa duy cảm (đánh mất nội dung xã hội và tương giao) hoặc chạy theo chủ nghĩa duy tín (đánh mất chiều kích nhân văn và vũ trụ) : “Chỉ trong chân lý, bác ái mới có thể chiếu toả và được sống cách đúng đắn” (số 3). Đây là vấn đề lớn trong thế giới hôm nay khi con người có khuynh hướng tương đối hoá chân lý, có khi còn phủ nhận sự hiện hữu của chân lý tuyệt đối và khách quan.

Bác ái phải đi đôi với sự thật. Sự thật ở đây là chính thực tế và những gì đang diễn ra trong thực tế. Không thể chỉ dựa vào những thành quả đạt được mà phủ nhận thực tế này : tình trạng nghèo đói của một phần lớn nhân loại, sự chênh lệch giàu nghèo, sự phá huỷ môi trường sống…Ngoài ra sự thật nền tảng mà Đức Bênêđictô XVI nhấn mạnh là sự thật về con người, cho nên ngài khẳng định : “Vấn đề xã hội ngày nay đã trở thành vấn đề nhân học ở căn để “(số 75). Chính quan niệm lệch lạc hoặc quá đơn giản về con người đã đưa sự phát triển đến chỗ lệch hướng. An bên trong những phê phán của Đức Bênêđictô XVI về tài chính, chính trị, kỹ thuật….là quan niệm về con người. Ví dụ : con người của thế giới kỹ thuật chỉ biết đặt câu hỏi “Làm sao, làm thế nào?” mà không quan tâm đến câu hỏi “Tại sao?” trong khi câu hỏi đó mới định hướng cho hoạt động của con người (số 70). Chính cái nhìn toàn diện về con người đòi hỏi phải tôn trọng những giá trị đạo đức trong mọi lãnh vực của đời sống cá nhân và xã hội. Những giá trị này được xây dựng trên một nền đạo đức nhìn nhận phẩm giá bất khả xâm phạm của nhân vị và giá trị siêu việt của luật luân lý tự nhiên. Một nền đạo đức mà không nhìn nhận hai cột trụ này, chắc chắn có nguy cơ đánh mất ý nghĩa riêng của đạo đức và làm mồi cho những hình thức lạm dụng, có khi còn là phương thế biện minh cho những dự án phi đạo đức (số 45). Cho nên người ta có thể nói nhiều đến đạo đức kinh doanh, đạo đức sinh học, đạo đức chính trị mà có khi chỉ là phi đạo đức vì thiếu sự thật nền tảng về con người.

Để kiếm tìm sự thật về con người, cần có sự tương tác giữa các ngành tri thức : “Sự hiểu biết của con người không đầy đủ, và những kết luận của khoa học ở tự nó không thể dẫn đến sự phát triển con người toàn diện… Đứng trước tính chất phức tạp của vấn đề, rõ ràng các ngành khoa học khác nhau phải cùng cộng tác theo hướng trao đổi liên ngành… Giáo huấn xã hội của Giáo Hội có một chiều kích liên ngành quan trọng, cho phép đức tin, thần học, siêu hình học và khoa học tìm được vị trí của mình trong sự cộng tác để phục vụ con người” (số 30 và 31). Cũng ở đây, cần thấy mối tương quan giữa đức tin và lý trí. Đức tin không lý trí có nguy cơ xa rời cuộc sống thường ngày, đồng thời, lý trí mà không có đức tin có nguy cơ rơi vào ảo tưởng về sự toàn năng của kỹ thuật (số 74).

IV. Bác ái trong chân lý : nguyên tắc hướng dẫn mọi lãnh vực của đời sống

1. Đời sống kinh tế

Đức Bênêđictô XVI khai triển suy tư về hiện hữu nhân sinh như một quà tặng, từ đó ngài nói đến thứ lôgích của quà tặng. Bên cạnh lô-gích của thị trường (cho đi để có lại) và lô-gích của Nhà Nước (cho đi vì bổn phận), phải có chỗ cho lô-gích của quà tặng dựa trên nguyên lý nhưng không (principe de gratuité) : “Để chiến thắng tình trạng chậm phát triển, đòi hỏi phải có hành động không những làm cho tốt hơn hoạt động hoán chuyển dựa trên việc trao đổi sản phẩm và thiết lập những cơ cấu phục vụ phúc lợi chung, nhưng nhất là phải từ từ mở ra ở tầm vóc toàn cầu những hình thức hoạt động kinh tế được đánh dấu bằng tính nhưng không và tính xã hội” (số 39). Ngoài ra, để vận hành cách đúng đắn, kinh tế cần đến đạo đức, không phải bất cứ thứ đạo đức nào nhưng là nền đạo đức thân hữu với nhân vị (số 45), nền đạo đức tôn trọng phẩm giá con người và luật tự nhiên. Cũng thế, phải tôn trọng môi sinh vì thiên nhiên là quà tặng Thiên Chúa ban cho tất cả mọi người : “Thiên nhiên nằm trong tầm tay sử dụng của chúng ta không phải như ‘một đống đối tượng được tung rải cách ngẫu nhiên’ nhưng như là quà tặng của Đấng Sáng tạo” (số 48). Do đó, “Việc sử dụng môi trường đặt chúng ta trước một trách nhiệm đối với người nghèo, với thế hệ tương lai và với toàn thể nhân loại (số 48).

2. Cộng đồng chính trị

Để tiến đến sự phát triển toàn diện, nhân loại phải hợp tác với nhau như một gia đình : “Một trong những hình thức nghèo đói nhất mà con người có kinh nghiệm, đó là sự cô lập”. Thay cho sự cô lập đó, nhân loại cần “nhận thức mình là một gia đình duy nhất, cùng làm việc chung với nhau trong mối hiệp thông đích thực, chứ không chỉ đơn thuần là một nhóm người tình cờ sống kề cận bên nhau” (số 53). Chính trong tinh thần hợp tác này, thông điệp bàn đến nhiều vấn đề như sự tôn trọng các tôn giáo và các nền văn hoá, áp dụng nguyên tắc bổ trợ và liên đới, viện trợ, du lịch…Cũng trong tinh thần hợp tác, thông điệp đưa ra đề nghị cải tổ Liên Hiệp Quốc cũng như những cơ cấu kinh tế và tài chính quốc tế : “Để hướng dẫn kinh tế thế giới hòng chữa trị các nền kinh tế bị thiệt hại vì khủng hoảng, để báo trước sự gia tăng tệ hại của cuộc khủng hoảng và từ đó đưa đến sự bất bình đẳng, để thực hiện việc giảm thiểu hoàn toàn vũ khí, để tiến đến việc bảo đảm lương thực và hoà bình, để điều chỉnh việc bảo vệ môi trường và dòng người di tản, cần phải có một thẩm quyền thế giới về mặt chính trị” (số 67)

3. Kỹ thuật

Sự phát triển như vũ bão của kỹ thuật khiến nhiều người nghĩ rằng chỉ cần kỹ thuật là đủ và dần dần hình thành nền văn hoá kỹ trị, đồng hoá cái “thật” với cái “có thể làm ra” (số 70). Thực ra, kỹ thuật là nỗ lực của tinh thần muốn vươn lên trên những giới hạn của vật chất, là sự đáp trả của con người trước mệnh lệnh của Thiên Chúa trao cho con người (St 2,15). Chính vì thế, kỹ thuật cũng cần đến đạo đức : sự phát triển kỹ thuật chỉ có thể đem đến phát triển đích thực khi nó đi kèm theo những quyết định đúng đắn về mặt đạo đức (70). Tiêu chuẩn này cần được quan tâm đặc biệt trong lãnh vực sinh học cũng như trong việc xây dựng hoà bình, sử dụng các phương tiện truyền thông (số 70-74).

Kết luận

Trên đây chỉ là một vài ghi nhận mở đầu về một số tư tưởng chủ đạo trong thông điệp Caritas in veritate. Những tư tưởng này cần được triển khai sâu rộng hơn và áp dụng vào từng lãnh vực của đời sống cá nhân cũng như xã hội, đặc biệt trong Năm Thánh 2010 của Giáo Hội Công giáo tại Việt Nam. Nếu Đề Cương về Giáo Hội tại Việt Nam trình bày ba chiều kích mầu nhiệm, hiệp thông và sứ vụ, thiết nghĩ Caritas in veritate là tài liệu quý báu cho Giáo Hội Việt Nam trong việc suy tư, định hướng và sống sứ vụ của mình.

Gm. Phêrô Nguyễn Văn Khảm

VỀ MỤC LỤC
LM BÀNH GIÁM ĐẠO : ẢNH HƯỞNG CỦA LÁ THƯ MỤC TỬ CỦA ĐỨC GIÁO HOÀNG BIỂN ĐỨC XVI GỬI GIÁO HỘI TRUNG QUỐC

 

(UCAN – tin từ Hàm Đan, Trung Quốc) Hai năm sau ngày Đức Giáo hoàng Biển Đức XVI gửi lá thư mục tử cho Giáo hội Trung Quốc, cha Bành Giám Đạo (giáo phận Hàm Đan, tỉnh Hà Bắc) đã viết cho UCAN những quan sát của cha trong hai năm qua kể từ ngày Đức Giáo hoàng gửi thư mục tử cho Giáo hội Trung Quốc. Lá thư mục tử của Đức Giáo hoàng đã chỉ ra quan điểm thần học của Giáo hội, chẳng hạn như vấn đề bổ nhiệm các giám mục, đồng thời chỉ ra những hướng dẫn mục vụ cho đời sống đức tin và công cuộc truyền giáo tại Trung Quốc.

Cha Bành Giám Hoài năm nay 45 tuổi, lãnh bí tích Rửa tội năm 1982. Từ rất sớm, cha được đào tạo để trở thành linh mục trong Giáo hội hầm trú; năm 1990, sau khi lãnh tác vụ linh mục (không công khai), cha làm công việc mục vụ ở vùng Sơn Đông cho đến Hà Bắc, từng bị công an bắt giam hai lần. Sau này, cha trở lại giáo phận Hàm Đan công khai truyền giáo, hiện phụ trách một giáo xứ tại huyện Thành An.

Cha Bành Giám Đạo ham thích viết văn, trong blog của ngài thường có các bài viết chia sẻ kinh nghiệm mục vụ, phản tỉnh đời sống đức tin, các bài văn thơ rất phong phú. Sau đây là toàn văn bài bình luận của ngài:

Ảnh hưởng của lá thư mục tử của Đức Giáo hoàng gửi Giáo hội Trung Quốc

Giáo hội Công giáo Trung Quốc từng trải qua chặng đường dài dằng dặc với những đoạn quanh co khúc khủy, đã từng lâm vào cảnh bách hại đẫm máu lẫn không đổ máu. Ngày 27.5.2007, Lễ Chúa Thánh Thần Hiện xuống, nhờ vào sự ưu ái đặc biệt của Đức Giáo hoàng Biển Đức XVI, Giáo hội này đã được đón nhận lá thư mục tử khích lệ, cổ vũ tấm lòng của bao con người.

Lá thư mục tử của Đức Giáo hoàng vừa được công bố, chỉ lưu giữ trên mạng internet được đúng 5 tiếng đồng hồ, liền bị chính phủ Trung Quốc ngăn chặn. Mặc dù chỉ tồn tại trên mạng có 5 tiếng đồng hồ ngắn ngủi, nhưng thế cũng đủ rồi, bởi vì giáo dân Trung Quốc đã thức thâu đêm trước chiếc máy tính để chờ đợi, vừa khi lá thư ấy được công bố, chỉ cần vài phút sau là họ có thể tải về máy và in ra. Trong vòng vài ngày, lá thư ấy đã được truyền đi khắp nơi trên toàn đất nước. Mặc dù chính phủ Trung Quốc rất nhạy cảm với điều này, nhưng mọi chuyện ra như mưu cùng kế cạn, đành bó tay chịu trận.

Giáo hội Công giáo Trung Quốc, dù là Giáo hội công khai hay Giáo hội hầm trú, đều bộc lộ sự vui mừng đón nhận lá thư này, đây chính là một sự bắt đầu tốt đẹp. Sau một thoáng phấn khởi, vẫn lại trở về với lối cũ, mạnh ai nấy bước. Giáo hội hầm trú vẫn kiên trinh, không khuất phục để bảo vệ nguyên tắc đức tin của mình; Giáo hội công khai tiếp tục giơ cao ngọn cờ của chủ nghĩa ái quốc, vẫn tiếp tục kỷ niệm “50 năm thành lập Giáo hội Ái Quốc Trung Quốc” và “50 năm tự chọn tư phong Giám mục cho Giáo hội Công giáo Trung Quốc”, trong số tham gia các kỷ niệm ấy không thiếu một vài vị giám mục được Đức Giáo hoàng công nhận là Giám mục hợp pháp (của Giáo hội Công Giáo).

Bất luận Vatican lên tiếng thế nào, tinh thần “tôi đi, tôi mày mò tìm kiếm” của người Trung Quốc, chẳng thể làm cho người Âu châu có thể hiểu được. Có lẽ Tòa Thánh cảm thấy ngạc nhiên, tại sao lá thư mục tử của Đức Giáo hoàng được mọi người vui mừng đón nhận như vậy nhưng lại chẳng thấy một ai chịu tuân thủ làm theo ? Đức Hồng Y Trần Nhật Quân (hiện đã nghỉ hưu) đã cổ võ các vị lãnh đạo Giáo hội Trung Quốc nên học theo tinh thần của thánh Stephano, nhưng làm gì  có một Giám mục Trung Quốc nào nghe theo? Hẳn sẽ có vị Giám mục Trung Quốc nói : “Ngài ở đặc khu Hong Kong, còn chúng tôi thì ở trong một Trung Quốc theo Đảng Cộng Sản!”

Thái độ của các vị lãnh đạo của Giáo hội hầm trú khi nhận được lá thư mục tử này là vừa cảm kích nhưng lại vừa cảm thấy đáng tiếc. Cảm kích là vì Đức Giáo hoàng đã tán dương tinh thần “bất khuất” của Giáo hội hầm trú; cảm thấy đáng tiếc là vì Đức Giáo hoàng Biển Đức XVI đã lấy lại những đặc quyền mà Đức Gioan Phaolo II đã ban cho họ, cho đến việc Đức Giáo hoàng Biển Đức đã tỏ ý hiệp thông đối với một Giáo hội công khai mà trước giờ vẫn luôn tỏ ý phản đối Tòa Thánh.

Dù thế nào đi nữa, việc hiệp thông với Giáo hội công khai là một chọn lựa khá là khó khăn. Giáo hội hầm trú vẫn có những vị lãnh đạo thánh thiện, vẫn tiếp tục tiến về phía trước với những bước phát triển khá lớn, ví như Đức Giám mục Giả Trị Quốc, Giám mục Giáo phận Chánh Định (Hà Bắc), đã tiếp nhận nhiều linh mục công khai, thúc đẩy sự hiệp nhất trong Giáo hội. Đức Giám mục Lý Tư Đức của Giáo phận Thiên Tân cũng tiếp nhận nhiều vị linh mục công khai, nhân đó mà đẩy lùi những oán hiềm trong giáo phận đã tích tụ từ nhiều năm qua. Đức Giám mục Ngụy Cảnh Nghĩa của giáo phận Tề Tề Hợp Nhĩ (tỉnh Hắc Long Giang) cũng thế, đã mở rộng tấm lòng với tinh thần của “lá thư mục tử” tiếp nhận nhiều vị linh mục của Giáo hội công khai.

Lá thư mục tử của Đức Giáo hoàng đối với Giáo hội Trung Quốc đã có những ảnh hưởng nào ? Các vị lãnh đạo của Giáo hội công khai vẫn tự đi theo con đường cũ của mình. Hội nghị đại biểu lần thứ 8 của Giáo hội Công giáo Trung Quốc vẫn là một nơi các con rồng tụ đầu; quyết nghị của hội nghị vẫn là kiên quyết giữ sự độc lập tự chủ, phương châm của một giáo hội tự hành (tự hành xử mà không theo các chỉ dẫn và sự lãnh đạo của Tòa Thánh – Người dịch) vẫn không gì lay chuyển. Đại đa số giám mục tham dự hội nghị vẫn có triết lý riêng của mình về cách hành xử. Dạng thức tư duy của người Âu châu mãi mãi không hiểu được phương châm xử thế của người Trung Quốc. Đây chính là nguyên nhân quan trọng nhất giải thích lý do vì sao Vatican và Trung Quốc không thể nào đạt được chuyện thiết lập bang giao.

Người Âu châu được đào tạo theo đường lối tư tưởng của Ki-tô giáo, chú trọng đến các khế ước và tinh thần bác ái. Khế ước theo người Trung Quốc cần có một tấm lòng chân thành làm cơ sở nền tảng, không có sự chân thành ấy thì không có khế ước. Lại nữa, Người Trung Quốc chịu sự ảnh hưởng sâu đậm của tư tưởng Nho gia, tuy nói nhiều đến “nhân ái”, nhưng giữa “nhân ái” và “bác ái” vẫn có một sự khác biệt rất lớn. Bởi vì trong “nhân ái” còn bao hàm một tình yêu nhiều cấp độ khác nhau : “tam cương ngũ thường”, đạo “quân thần” (vua tôi), đạo “phu tử” (cha con).

Người Trung Quốc chịu ảnh hưởng của Đức Khổng Tử, chú trọng lễ nghi, Trung Quốc vốn được mệnh danh là “lễ nghi chi bang” (đất nước lễ nghi). “Lễ nghi” thì trọng thị “tình nghĩa”. Các vị lãnh đạo Giáo hội Trung Quốc chính vì “tình nghĩa” mà tham gia Giáo hội Ái quốc, rồi đến dự hội nghị mừng việc Giáo hội Ái quốc Trung Quốc tự chọn, tự phong các Giám mục; việc tham gia các hoạt động ấy không phải do họ bị “ép buộc” hay họ  hoàn toàn “không tự do”. Ngày nay không còn như thời cách mạng đại văn hóa, chính phủ Trung Quốc đã trao cho công dân Trung Quốc một sự tự do tương đối. Nhưng cần phải đặt câu hỏi : Điều quan trọng là các Giám mục Trung Quốc đang giảng về “tình nghĩa” ? hay là giảng “đức tin” của Giáo hội Công giáo ?

Lá thư mục tử của Đức Giáo hoàng gửi cho Giáo hội Trung Quốc đã trở thành chuyện của ngày hôm qua. Nếu như hôm nay Giáo hội công khai đã không còn tiếp tục học tập (theo những gì lá thư ấy viết), thì mai này cũng chẳng còn người tiếp tục nói về lá thư ấy nữa! Bởi vì lá thư ấy đối với Giáo hội công khai chẳng có chút mảy may tác động. Một số người thuộc Giáo hội hầm trú ngược lại vẫn tiếp tục học tập, thì cũng chỉ là  học tập những gì hợp với tinh thần “bất khuất” của chính mình mà thôi. Điều khiến cho người ta cảm thấy đau thương là : “Lá thư mục tử của Đức Giáo hoàng đã trở thành một ngôi sao băng thoắt sáng trong chốc lát trên bầu trời đêm”, đối với Giáo hội Trung Quốc thực sự chỉ có thể mang ý nghĩa tượng trưng mà thôi.

Thành An, ngày 20.6.2009

LM Bành Giám Đạo

Lm. Phạm Vinh Sơn dịch từ http://www.ucanews.com/trad/2009/07/24/75800/

VỀ MỤC LỤC

CHÀO MỪNG NĂM THÁNH 2010

 Vinh danh Thiên Chúa trên trời

Bình an dưới thế, ai người thiện tâm

Quê hương rộn rã chào mừng

Việt Nam Giáo Hội tưng bừng khai hoa

Hội Đồng Giám Mục nước nhà

Năm chục năm đã trải qua chặng đường

Đắp xây Sứ Vụ Tình Thương,

Rao truyền Nước Chúa, mở đường Tin Yêu.

Chúa Trời mầu nhiệm cao siêu,

Ba Ngôi lượng cả ban nhiều Thánh Ân,

Chứng Nhân Tử Đạo Anh Hùng,

Đã gieo hạt giống Phúc Âm vào đời.

Lời Thiêng Thần Khí cao vời,

Bội thu mùa gặt sáng soi dẫn đường,

Tương lai rực rỡ đang vươn,

Mặc cho nguy biến, coi thường gian truân,

Con tầu Giáo Hội canh tân,

Được đầy ơn Chúa Thánh Thần thông ban,

Ra khơi vững lái hiên ngang

Lênh đênh vượt sóng tiếp trang sử hùng.

Những điều Giáo Hội ước mong,

Mặc dù chưa đạt như lòng khát khao.

Cậy vì Giá Thánh , Máu Đào,

Ngôi Hai Cứu Độ Chúa trao thế trần,

Cậy trông công đức Hiền nhân,

Giuse Thánh Cả đỡ đần gian nan,

Khấn xin Đức Mẹ La Vang,

Là ngôi sao sáng đưa đàng bình yên.

Thành tâm tạ lỗi Tổ Tiên,

Hướng về quá khứ không quên báo đền,

Niềm tin son sắt vươn lên,

Đá vàng trung tín ước nguyền dâng cao,

Thực thi sứ vụ Chúa trao,

Giáo dân, giáo sĩ khác nào đệ huynh

Phân công, phân nhiệm chuyên cần

Trong vườn nho Chúa, hết tâm phận mình,

Hiệp thông ơn Chúa Thánh Thần

Riêng tư nhỏ lại, cộng đồng lớn ra.

Tin ,yêu, cậy, mến ,khoan, hòa,

Nước Cha trị đến : Ý Cha thi hành.

Chúng con dâng tấm lòng thành,

Đón mừng Năm Thánh, sáng danh Chúa Trời

Vinh danh Thiên Chúa Ba Ngôi

 Việt Nam Hạnh Phúc Muôn Đời Thánh Ân ./.

Hương Quê (Giáo dân Gx. Nam Hòa, Sg)

 
VỀ MỤC LỤC
ỦNG HỘ VÀ CHỐNG ĐỐI

 

  Thiên Chúa ‘dựng nên con người theo hình ảnh Chúa (Sách Sáng Thế 1: 26-27) và ban cho con người sự tự do, và Thiên Chúa luôn tôn trong ‘tự do’ của con người. Vì có ‘tự do’ mà con người có trách nhiệm về cuộc sống của mình; và tự đó mới có ‘tội’ và ‘phúc’.

Vì tự do tư tưởng mà có nhiều thái độ sống khác nhau trong xã hội và luôn luôn có những ‘ủng hộ’ và ‘chống đối’. Như ở Hoa Kỳ, có hai đảng lớn là “Đảng Cộng Hòa” và “Đảng Dân Chủ”. Nhưng những đối lập giữa các đảng phái chính trị không phải để đưa đến sự phá hoại sự đoàn kết quốc gia, mà để dung hòa tư tưởng, tránh được sự ‘độc tài’ do độc đảng gây nên.  

Trong Bài Phúc Âm Chúa Nhật hôm nay (Mátcô 9: 38-43, 45, 47-48), khi ông Gioan thấy “có người nhân danh Chúa mà trừ qủy, nhưng lại không theo ‘nhóm chúng ta’ đã cùng các Tông đồ khác ngăn cản anh ta”. Khi nghe biết như vậy, Chúa Giêsu bảo các ông: “Đừng ngăn cản anh ta…”  

Trong Bài Đọc I (Sách Dân Số 11: 25-29) khi ông Giosuê là người tùy tùng của ông Moisê và là một trong nhóm Bẩy Mươi Bô Lão được chọn để được thánh hóa và nói tiên tri, thưa với ông Moisê về trường hợp hai ông Eldad và Medad, và xin ông Moisê cấm hai ông này không được nói tiên tri. Ông Moisê đã bảo ông Giosuê đừng ngăn cản người khác nói tiên tri!  

Qua hai bài đọc trên, chúng ta học được thái độ ‘cởi mở’ và ‘bao dung’ đối với mọi người. Đọc Phúc Âm, chúng ta thấy Chúa Giêsu luôn có thái độ cởi mở, đón nhận mọi người, và đến với mọi người, và kêu gọi mọi người đi theo Ngài “là Đường, là Sự Thật và Sự Sống.” Chúa không ép buộc ai, nhưng Ngài mời gọi, và sẵn sàng đón nhận những ai đến với Ngài. Chính Ngài đã chào đón ông Da-kêu ‘thủ lãnh những người thu thuế’ và đến ở nhà ông, dù vì thế mà Ngài bị kết án là đến ở nhà người tội lỗi (Luca 19: 1-10). Ngài gọi Mátthêu ‘người thu thuế’ vào số 12 Tông đồ và đến nhà ông ‘dùng bữa’ cùng với nhiều người thu thuế khác, dù vì thế mà bị kết án là ‘ăn uống với bọn thu thuế và phường tội lỗi’ (Mátcô 2: 14-17). Tuy hay bị những người Biệt Phái phê bình, chỉ trích, nhưng Ngài cũng đến gia đình người Pharisiêu để ‘dùng bữa’ (Luca 7: 36), và tại đó, Ngài đã tha thứ cho người đàn bà tội lỗi và để bà “lấy nước mắt rửa chân, lấy tóc mà lau rồi đổ dầu thơm mà xức và hôn chân Ngài…” (Luca 7: 37-38). Ngài đến với ‘dân ngoại’ Samaria và nói chuyện với người phụ nữ đã có năm đời chồng ở giếng nước Giacóp, làm các Tông đồ cũng phải ngạc nhiên (Gioan 4: 5-30). Chúa Giêsu yêu thương, mời gọi người tội lỗi trở về ‘đường ngay nẻo chính’. Chúa Giêsu đã nói nhiều dụ ngôn rất cảm động để mời gọi người tội lỗi tin tưởng trở về, như dụ ngôn “Con chiên đi lạc” (Mátthêu 18: 12-14), “Đồng tiền bị đánh mất” (Luca 15: 8-10), “Người Cha nhân hậu”  (Luca 15: 11-31). Ngài cũng nói thẳng: “Ta đến không phải để tìm người công chính, nhưng để tìm người tội lỗi, lầm lạc ăn năn trở về.”( Matthêu  9:13).  

Noi gương Chúa Giêsu, Giáo hội cũng luôn cởi mở, đến với mọi người thuộc mọi mầu da, sắc tộc, tôn giáo khác nhau. Giáo hội cũng mời gọi và sẵn sàng giúp đỡ mọi người, nhất là những người bần hàn cơ cực. Qua các thời đại, đã có biết bao linh mục, tu sĩ, giáo dân đã hy sinh cả cuộc đời  đến giúp đỡ những người nghèo khổ, bệnh tật, mở mang văn hóa ở các vùng xa xôi như Phi Châu, Á Châu, Nam Mỹ. Trong các giáo xứ, cũng có các Hội đoàn như Hội Đạo Binh Đức Mẹ, Hội Bác Ái Thánh Vinh Sơn, nhóm “Hoạt Động Xã Hội” (Social Outreach) v.v…đi đến với mọi người cần giúp đỡ, không phân biệt mầu da, chủng tộc, tôn giáo…  

Một điều chúng ta cũng cần lưu ý là trong Bài Phúc Âm hôm nay, Chúa Giêsu đặc biệt nhấn mạnh đến vấn đề ‘tránh làm gương xấu cho người khác phạm tội…’ và  ‘phải can đảm xa tránh các dịp tội’ dù phải hy sinh như “chặt tay, chặt chân, móc mắt!”. Ngoài ra, Thánh Giacôbê trong Bài Đọc II (Giacôbê 5: 1-6) cũng nhắc nhở chúng ta (nhất là những người giầu có) , về đời sống Bác ái và tôn trọng công bằng xã hội: “Đừng làm giầu một cách bất công bằng việc gian lận, bóc lột người khác; đừng chè chén, say sưa; đừng sống thác loạn theo khoái lạc xác thịt; đừng chạy theo những thói hư, tật xấu của thế gian…”  

Xin cùng hiệp lời cầu nguyện chung: Xin Chúa thương tha thứ mọi lỗi lầm của chúng ta, giúp chúng ta biết sám hối ăn năn và chừa bỏ tội lỗi, tránh xa dịp tội; mỗi ngày cố gắng sống tốt lành hơn để làm gương sáng cho mọi người. Trong “Năm Linh Mục”, chúng ta cũng tiếp tục cầu nguyện cho các Chủ Chăn, các Linh Mục, nhất là những vị đang gặp nhiều khó khăn thử thách. Xin cầu nguyện cách riêng cho quê hương và Giáo Hội Việt Nam, đặc biệt cho Giáo Xứ Tam Tòa, Thái Hà và những nơi đang bị bách hại.

Lm. Trần Đức Phương

VỀ MỤC LỤC
THÀ CHÚA ĐỂ CHÚNG CON CÂM ĐI

 

Lời Thánh Vịnh 39 vang lên quen thuộc với dân Thiên Chúa: “Tôi đã loan truyền đức công minh Chúa trong Ðại Hội, thực tôi đã chẳng ngậm môi, lạy Chúa, Chúa biết rồi”. Thế nhưng trong cuộc đời con người, có những lúc miệng họ phải ngậm lại vì nhiều thế lực gian tà chung quanh lên tiếng quá lớn, chát chúa và hung hăng. Sứ mạng của Đấng Cứu Thế là trả lại tiếng nói cho người câm, âm thanh cho người điếc và ánh sáng cho người mù. Và hôm nay, Chúa Giêsu một lần nữa dùng quyền năng của mình và lên tiếng: “Ephata”, hãy mở ra.

Dân chúng thấy Chúa Giêsu làm phép lạ, họ kinh ngạc kêu lên: “Ông ấy làm việc gì cũng tốt đẹp cả: ông làm cho kẻ điếc nghe được, và kẻ câm nói được”. Người ta kinh ngạc vì họ thấy con người mộc mạc và nghèo khổ như họ, lại có uy quyền khiến âm thanh phải vâng phục. Họ không biết rằng chính Người là Lời làm cho đất trời này thành hình, và nếu Người không lên tiếng thì tất cả đến bây giờ vẫn là hư vô.

Phép lạ chữa người câm điếc được thánh sử Máccô xếp ngay sau phép lạ Chúa trừ quỉ cho con gái của người phụ nữ ngoại giáo. Phải chăng có mối liên hệ nào đó giữa sự kiện quỉ ám và sự kiện người ta câm điếc trước các thực tại trần gian? Có những lúc người ta cũng phải tự hỏi: “Liệu câm điếc có phải luôn luôn là điều xấu không?” Và câu trả lời không đơn giản chỉ là có hay không. Có lúc người ta im lặng vì lời nói là dư thừa, vì rõ ràng người nghe “có tai mà chẳng nghe”, như lúc Chúa Giêsu im lặng trước Philatô. Chỉ có cái câm do quỉ xúi giục mới là cái câm nguy hiểm. Vậy làm sao nhận ra được cái câm lặng nào đáng trách?

Trước hết, câm lặng trước bất công là cái câm đáng trách. Đã thành thói quen, người dân chúng ta ngày hôm nay không còn phản ứng tích cực trước những nghịch lý nhan nhản chung quanh mình. Nhìn những ngổn ngang và bừa bộn trên đường đi mỗi ngày hay những xô xát, ẩu đả giữa nơi công cộng, ta lạnh lùng lảng tránh và coi như chuyện bình thường. Dường như có một sức ép nào đó khiến ta đi qua mà không tự hỏi tại sao những cảnh tượng ấy diễn ra ngang nhiên đến thế. Nhìn đoàn lũ những con người chạy vạy để giành lại từng tấc đất hay giật lại chút công lý còn rơi vãi đó đây, ta lầm lũi đi, đi… mà không ngoái  nhìn lại dù chỉ để nói một lời “cố lên”. Ta câm mất rồi, có thể vì ta chẳng còn hơi mà lên tiếng mà cũng có thể vì thiên hạ chẳng còn nhạy cảm để lắng nghe. Trời ơi, sao cái lặng im lạnh lùng cô quánh lại, đến nỗi tất cả cứ đi qua đi qua như dòng kênh đen. Chẳng lẽ cứ mãi mãi là câm?

Câm lặng trước nỗi khổ người nghèo là cái câm đáng trách. Nhìn một em bé đen đúa gầy gò bế một trẻ sơ sinh cũng đen đúa, mệt mỏi không còn cất lên nổi tiếng khóc trẻ thơ, ta cũng lạnh lùng như nhìn một con mèo ngồi ngơ ngác bên hè phố. Nhìn cụ già lang thang như đứa trẻ lúc khóc lúc cười, ta lạnh lùng y như chuyện lề đường chẳng chút liên quan. Thỉnh thoảng lạc vào con hẻm lầy lội, tối tăm dơ bẩn, ta đi như chạy trốn mà không hề tỏ ra đồng cảm với kiếp người. Có những người bạn của Giêsu đang lặng lẽ chờ ta dừng lại với một nụ cười khích lệ họ, mà ta cũng cố gắng giấu đi. Ta câm mất rồi.

Câm lặng để mưu cần danh lợi là cái câm đáng trách. Thời nay thiên hạ dễ im tiếng cho xong chuyện hoặc để đổi lấy sự an thân. Đứng im cười cười bắt tay chụp hình thì quá dễ. Nhận những quà như một bố thí để quay phim thì luôn hấp dẫn. Nhưng phía sau tấm hình đó, đoạn cuối thước phim đó là gì thì ta không quan tâm và ta không dám nói đến. Theo Chúa rồi, tận hiến rồi mà cũng còn mê chút hư danh. Hớn hở cười, hả hê nói, lên TV phát biểu hay được trích lời đó đây, người ta mừng như được gói bánh ngon. Chẳng biết lúc đó người ta nói hay người ta câm, nhưng chắc chắn một điều là những lời ca tụng thế gian không thể “vang lên trong Đại Hội”, và lúc họ nói chính là lúc “ngậm môi”, và “Chúa cũng biết rồi” (xem TV 39).

Có những lúc chúng ta phải thưa với Chúa, thà Ngài để con câm và điếc còn hơn để con có tai mà chẳng nghe, có miệng mà chẳng nói; thà Ngài để con sống giữa rừng sâu cùng hoang thú còn hơn để con giữa đời mà lạnh lùng nhìn anh em đau khổ mà chẳng biết làm gì giúp đỡ họ.

Theo Chúa không chỉ là hướng về vinh quang của ngày Phục Sinh và ngày Chúa Quang Lâm, nhưng còn là đi bằng đôi chân người nghèo khổ bất hạnh, là lăn vào dòng đời với trái tim biết rung cảm, vì nơi người nghèo, Chúa thực hiện chương trình cứu độ. Theo Chúa không chỉ là hát vang lời ca tụng Chúa, mà còn là hoà điệu với tiếng than của người cùng khổ, vì chính tiếng than ấy kéo xuống ơn cứu độ. “Ta đã nghe tiếng dân Ta bên Ai cập”.

Im lặng trước bất công, trước người nghèo là tự mình hoá câm, và khi ta đã tự do câm lặng, Chúa tôn trọng tự do ấy, nhưng người câm lặng thì được gì ? Người can trường lên tiếng luôn chịu thiệt thòi, nhưng chính lúc ấy họ hoà mình vào mầu nhiệm ngôn sứ chịu đóng đinh của Đức Kytô. Đức Tổng Giám Mục Giuse của Hà nội, Đức Giám Mục Phaolô của Vinh và ngày càng nhiều mục tử anh dũng khác đã và đang lên tiếng ca ngợi sự công minh của Thiên Chúa và nhờ đó, các ngài nâng đỡ đức tin cho dân Chúa.

Lạy Cha Thánh Giuse, Cha giữ thinh lặng trong cuộc đời tại thế, và Cha làm gương cho chúng con về sự thinh lặng nội tâm. Nhưng việc vâng phục ý Chúa, đưa Thánh Gia ra đi tránh những bất công và việc Cha lặng lẽ làm thợ để đưa Thánh Gia thoát khỏi cảnh nghèo, dạy cho chúng con biết lên tiếng ca ngợi kỳ công của Chúa và quyết liệt lên tiếng để công lý được thực thi. Và do đó mà Cha được muôn đời ca ngợi là Đấng Công Chính, Đấng sống cho công lý. Xin Cha giúp chúng con biết noi gương Cha mà làm cho trần gian vang tiếng yêu thương. 

Gioan Lê Quang Vinh
 

VỀ MỤC LỤC
TÂN PHÓ TẾ VĨNH VIỄN GIOAN NGUYỄN SƠN CHO CHỨNG TỪ VỀ ƠN GỌI CỦA MÌNH

1. Tân phó tế vĩnh viễn Gioan Nguyễn Sơn

Paris_Chủ nhật 11/10/2009, Giáo xứ Việt Nam tổ chức đón tiếp thầy sáu vĩnh viễn mới. Thầy Gioan Nguyễn Sơn, đã được Đức Hồng Y André Vingt-Trois truyển chức phó tế ngày thứ bảy 10/10/2009 tại nhà thờ Đức Bà Paris. Như vậy thầy Sơn là phó tế vĩnh viễn thứ 5 của Giáo Xứ Việt Nam Paris, sau thầy Xavier Gérard (1987), thầy Phạm Bá Nha, Nguyễn Văn Thạch (1998) và thầy Tạ Đình Chung (2003). Thầy Sơn cũng là một trong 96 phó tế vĩnh viễn của Tổng Giáo Phận Paris.

Khác với bốn phó tề đàn anh trong giáo xứ, thầy Sơn là phó tế vĩnh viễn đầu tiên còn trẻ và độc thân. Sinh năm 1959, từ nhỏ, khi còn ở bên Cao Miên, thầy vốn đã có ý định dâng mình cho Chúa, nhưng chưa có dịp. Về Việt Nam, thầy cũng không có dịp được thỏa mãn ý nguyện. Sang Pháp vào những năm 1980, thầy theo gia đình đến ở Sarcelles, rồi Pontoise. Từ đây, trong khuân khổ của cộng đoàn công giáo, thầy tham gia vào các sinh hoạt mục vụ. Khởi đầu, thầy nhập Nhóm Xã Hội, đi thăm đồng bào việt nam đang còn ở trong các trại tỵ nạn. Rồi thầy tham dự tích cực trong Nhóm sống đạo. Từ 1992, thầy chia sẻ trách nhiệm điều khiển nhóm và theo học những khóa thần học. Từ 1994, thầy tham gia việc dậy giáo lý cho trẻ em. Từ 1997, thầy tham gia dậy tiếng việt cho trẻ em và cộng tác lập Đoàn Thiếu Nhi Thánh Thể tại Cergy. Từ ngày ấy đến nay, thầy vốn là một giáo lý viện, lo dậy lớp giáo lý chuẩn bị rước lễ lần đầu. Từ ba năm nay, thầy được Đức Ông giới thiệu và gởỉ đi học, chuẩn bị lãnh nhận chức phó tế vĩnh viễn. Sau khi đã chịu chức hôm qua, hôm nay thầy đến giáo xứ tham dự thánh lễ, để tạ ơn Chúa, cám ơn Đức Ông cùng Ban Giám Đốc, và cám ơn cộng đoàn.

Mở đầu thánh lễ, Đức Ông Mai Đức Vinh đã giới thiệu thầy GIOAN NGUYỄN SƠN với cộng đoàn và công bố trước cộng đoàn công tác mục vụ của thầy Sơn : « Với tính cách là cha sở, trong hoàn cảnh cá biệt là còn đi làm 5 ngày trong tuần và chỉ rảnh rỗi vào 2 ngày cuối tuần, tôi trao cho thầy Gioan Nguyễn Sơn công tác mục vụ đi thăm viếng các tù nhận gốc Việt Nam, Lào, Cao Miên, Trung Hoa, hiện bị giam giữ trong các trại tù ở Paris và vùng phụ cận. Công tác này đã được sơ Françoise Ngãi thi hành từ nhiều năm nay. Nhưng sơ dã lớn tuổi, năm nay 79, nên xin về hưu. Đây là công tác mục vụ chuyên biệt của thầy Sơn. Thầy sẽ liên lạc với văn phòng mục vụ của Tổng Địa Phận Paris, để được chỉ dẫn, đào tạo và giúp đỡ ». 

2. Chứng từ ơn gọi

Sau khi đã đọc Phúc Âm, chắc hẳn đây là lần đầu tiên thầy dọc Phúc Âm trong thánh lễ, Thầy Sơn đã chia sẻ Lời Chúa với Cộng đoàn, qua bài Phúc Âm Thánh Marcô (Mc 10, 17-30). Bài phúc âm thuật lại việc một người thanh niên đến quì xuống trước mặt Chúa Giêsu và hỏi Ngài xem phải làm gì để được sự sống đời đời làm gia nghiệp. Thanh niên này là một người đã tuân giữ luật từ thủa nhỏ : « không giết người, không ngoại tình, không trộm cắp, không làm chứng gian, không làm hại ai, nhưng thờ kính cha mẹ ». Khi nghe Chúa bảo : « Anh chỉ còn thiếu một điều, là hãy đi bán những gì anh có, mà cho người nghèo », Anh ta sa sầm nét mặt vì lời đó và buồn rầu bỏ đi, vì anh ta có nhiều của cải. Tựa vào bài phúc âm, thầy Sơn đã làm một chứng từ về ơn gọi phó tế vĩnh viễn của mình và chia sẻ ba điều :

Trước nhất, thầy đã chia sẻ về sứ mệnh của phó tế vĩnh viễn, mà Công đồng Vatican II đã mô tả rõ rệt qua đoạn 29, chương III : Ở bậc thấp hơn của hàng giáo phẩm, có các phó tế, những người đã được đặt tay "không phải để lãnh nhận chức vụ linh mục, nhưng là để phục vụ". Thực vậy, được ân sủng bí tích bồi bổ, các phó tế, hiệp thông với Giám Mục và Linh Mục Ðoàn, phục vụ Dân Thiên Chúa bằng việc phụng vụ, giảng dạy, và bác ái. Khi được những vị có thẩm quyền chỉ định, các phó tế được cử hành trọng thể phép Thánh Tẩy, giữ và trao Mình Thánh Chúa, nhân danh Giáo Hội chứng kiến và chúc lành hôn phối, mang của ăn đàng cho kẻ hấp hối, đọc Thánh Kinh cho tín hữu, giáo huấn và khuyên nhủ dân chúng, chủ tọa việc phụng tự và kinh nguyện của tín hữu, cử hành các á bí tích, chủ tọa lễ nghi tang chế và an táng. Ðược phong chức để lo việc bác ái và việc quản trị, phó tế phải nhớ lời nhắn nhủ của Thánh Polycarpô: "Hãy tỏ lòng nhân hậu, nhiệt thành, và hãy bước theo chân lý của Chúa, Ðấng đã làm tôi tớ mọi người".

Thứ đến, trích một số câu Phúc Âm, thầy chia sẻ về đời sống thiêng liêng và phục vụ của phó tế vĩnh viễn. « Thần Khí Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, để tôi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn. Người đã sai tôi đi công bố cho kẻ bị giam cầm biết họ được tha, cho người mù biết họ được sáng mắt, trả lại tự do cho người bị áp bức, công bố một năm hồng ân của Chúa (Lc, 4, 18-19). « Ai muốn làm lớn giữa anh em, thì phải làm người phục vụ anh em. Và ai muốn làm đầu anh em thì phải làm đầy tớ anh em. Cũng như Con Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ và hiến dâng mạng sống làm giá chuộc muôn người" (Mth, 20, 26-28). « Thầy ban cho anh em một điều răn mới là anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em. Ở điểm này, mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy, là anh em có lòng yêu thương nhau" (Jn 13, 34-35). « Khi chủ về mà thấy những đầy tớ ấy đang tỉnh thức, thì thật là phúc cho họ. Thầy bảo thật anh em: chủ sẽ thắt lưng, đưa họ vào bàn ăn, và đến bên từng người mà phục vụ » (Lc 12, 37).

Và sang điểm thứ ba, thầy Sơn chia sẻ về ơn gọi phó tế của mình. Thầy nhắc lại thói quen cầu nguyện trước Thánh Thể, nhắc đến sụ thầy thán phục thánh Phaolô về việc rao giảng tin mừng cho người ngoại và lòng nhiệt thành của Ngài và nhớ lại lời thầy hằng cầu xin trong thinh lặng để xin Chúa, là đấng thấu hiểu tâm tư, ý tưởng, tình cảm của thầy hơn ai hết, soi sáng cho thầy biết mình phải làm gì. Thầy thuật lại việc thầy tiếp tục cầu nguyện xin Chúa cho thầy tìm ra ơn gọi để phụng sự Chúa, phục vụ Giáo Hội và phục vụ tha nhân. Trong suốt 3 năm sinh hoạt đều đặn với nhóm tìm hiểu ơn gọi, do Đức Ông Vinh và Sơ Thoa hướng dẫn, thầy vẫn tiếp tục cầu nguyện không ngừng. Thế rồi một hôm kia, Đức ông hỏi thầy : « Cậu có muốn theo ơn gọi phó tế vĩnh viễn không ? Suy nghĩ kỹ đi, tôi có thể giới thiệu cậu đi học làm phó tế vĩnh viễn ». Ngỡ ngàng trước câu hỏi của Đức Ông, thầy tiếp tục cầu nguyện. Thầy không dám quyết định gấp. Nhưng, sau cùng, thầy phó thác mọi sự và hoàn toàn cho Chúa. Thầy được Đức Ông giới thiệu và gởi đi học. Sau 3 năm được đào tạo, tâm hồn thầy đã bị đánh động và đã lấy lời Chúa sau đây như hành trang nuôi dưỡng suốt cuộc đời mình. Lời đó là : « Còn anh em, anh em bảo thầy là ai » (Mth 16, 15) ? Này anh Simon, em ông Gioan, anh có mến thầy hơn các anh em này không » ( Jn 21, 15).

Sau khi đã chia sẻ về sứ mệnh phó tế, về đời sống thiêng liêng, phục vụ của phó tế, và về ơn gọi phó tế của mình, để kết thúc, thầy Gioan Nguyễn Sơn đã gởi đến cộng đoàn lời tâm tình này : « Thưa cộng đoàn, ngày hôm nay là bước khởi đầu đời phục vụ của con, nhận biết mình yếu hèn và hay sa ngã, con xin Đức Ông, Quí Cha, Quí Thầy, Quí Sơ và toàn thể cộng đoàn giúp lời cầu nguyện và luôn nâng đỡ con, để con đi được trọn vẹn con đường theo Chúa ».

Cuối lễ, đại diện cho cộng đoàn , Ông Chủ Tịch Hội Đồng Mục Vụ đã giới thiệu thêm với cộng đoàn về những công việc mục vụ mà thầy Sơn đã thực hiện từ khi mới sang Pháp, ở cộng đoàn Sarcelles, Pontoise, và Paris. Ông chúc thầy sáu vĩnh viễn mới của giáo xứ đầy tràn hồng ân Chúa để hoàn thành sứ mệnh mục vụ Chúa trao phó. Rồi mời ông Ủy Viên Xây Dựng mang quà, đại diện cho cộng đoàn, tặng tân phó tế vĩnh viễn.

Theo điều khiển của ca trưởng, cả cộng đoàn hát bài « Trong An Bình » : Ra về trong hy vọng và mừng vui ; Ra về trong an bình của Thiên Chúa. Xin tri ân Ngài, xin tri ân Ngài, đến muôn đời tình thương Chúa như dất trời,…. »

Tân Phó Tế Vĩnh Viễn chụp hình chung với Ban Giám Đốc, với 4 thầy sáu khác, với thân nhân và với cộng đoàn. Mọi người được mời ra dùng tiệc chung vui cùng tân phó tế vĩnh viễn GIOAN NGUYỄN SƠN.

  

Paris, ngày 11 tháng 10 năm 2009

Trần Văn Cảnh

VỀ MỤC LỤC
NĂM LINH MỤC – NHẬT KÝ - NHỜ HAI NGƯỜI NÊN MỚI CÓ TÔI!
 

Như đã hứa với mọi người là tôi sẽ cố gắng viết thường xuyên hơn cho mục “nhật ký Linh Mục” trong năm LM này.  Hôm nay ngày 19 tháng 6 - lễ Thánh Tâm Chúa Giêsu – Khai mạc năm Linh Mục – cũng là ngày kỉ niệm 38 năm bố mẹ tôi thành hôn, nên tôi xin dùng bài đầu tiên để viết về … bố mẹ!  Nhờ hai người nên mới có tôi! 

Tôi sinh ngày 13 tháng 1 năm 1976 – có nghĩa là 5 năm sau ngày cưới tôi mới chào đời!  Bạn có thắc mắc tại sao không?  Ðó là do mẹ tôi ‘khó có mang” (theo lời bác sĩ) và mỗi khi có mang lại “hay bị sảy” – Cho nên nếu “mọi sự tốt lành” thì tôi đã có ít nhất 2 hay 3 anh hoặc chị!

Bố mẹ tôi buồn lắm vì cứ phải cô đơn!  Khi cưới nhau bố mẹ tôi đã lớn tuổi - bố tôi 39 còn mẹ thì 27 – cái tuổi được gọi là… ế - theo như tập quán lúc đó!  Thế nên hai người dốc hế tiền bạc để nhờ bác sĩ mong có một… mụn con!  Thế nhưng vẫn vô vọng! 

Một ngày nọ bố mẹ tôi gặp lại vị Linh Mục chứng hôn cho Hôn Phối cũng là người đã rửa tội cho bố tôi, vị linh mục thật thà hỏi ‘con cái gì chưa?”  Và thế là bố mẹ tôi có cơ hội… giải bầy.  Sau khi lắng nghe những phàn nàn của bố mẹ tôi vị linh mục đó trách “sao các con cứng lòng tin thế!”  nhưng lại ân cần bảo “hãy đem tiền đó mà giúp người nghèo, rồi đi khấn với thánh Martino De Pouress đi! 

Ai ngờ, trong tuyệt vọng bố mẹ tôi tin và đã làm như thế!   

4 tháng sau đó, tháng 4 năm 1975 - Bố tôi bị bắt đi tù (có người bảo là học tập cải tạo - Bố tôi bảo – đi tù chứ cải tạo cái gì!)  Nhưng trước khi đi tù bố tôi có ‘linh tính’ là có điều gì đang sảy ra với mẹ và bắt mẹ tôi đi khám bệnh – bác sĩ cho biết “mẹ tôi có mang!”  Bố tôi bảo “vui hết sức” nhưng “Lo lắng ngập tràn!”  Trước khi đi, bố tôi đặt tên cho con Nguyễn Bá Thông nếu là con trai – còn nếu là con gái thì Nguyễn Bá Thanh Thảo. 

Vài tuần sau khi “bặt tin tức” của bố - Mẹ tôi cũng bị bắt đi tù (Mẹ tôi là Trung Úy Nữ Quân Nhân) thế là tôi cũng đi tù với mẹ!  Có thể tôi bị cái nghiệp “tù ở Việt Nam” bám theo!  Cho đến hôm nay tôi đã đi lang thang sống và giúp trẻ bụi đời gần 30 quốc gia, thế mà chỉ độc bị “đi tù” ở Việt Nam!  Kể ra cũng 12 lần rồi, nếu tôi nhớ không lầm! 

Thế rồi những tháng ngày trong tù đã lấy đi chút sinh lực còn sót lại trong người mẹ tôi – Mẹ đói, mẹ ho, và ngất nhiều lần.  Cho đến một lúc mẹ không còn thể đi lại được nữa mà nằm lì một chỗ.  Họ nghĩ mẹ tôi sắp chết và cho mẹ về - có người phải “bế” mẹ con tôi ra khỏi trại giam - Lúc đó tôi được 8 tháng trong lòng mẹ!  Ðúng là tôi “cứng đầu” thiệt – bao nhiêu nguy hiểm thế mà vẫn ở mãi trong lòng mẹ, không chịu “ra sớm” như các anh chị tôi!  Có thể vì thế mà sau này tôi “cứng đầu”, ngay cả bây giờ làm linh mục tôi vẫn thế! 

Về đến nhà – à, mà làm gì còn nhà mà về - nhà của bố mẹ tôi đã bị tịch thu - thế là phải đi ở nhờ - Nhưng có thể là cái “khổ” nhất là không được đi khám thai vì tôi là “tàn dư của chế độ ngụy!”  cuối cùng cũng được một vị bác sĩ tốt lành khám lén – và thông báo “nếu tiếp tục để bào thai bình thường, khi sinh có thể mẹ sẽ chết hay con sẽ chết!”  Mẹ tôi nghe mà rụng rời!   

Bố tôi vẫn “bặt vô âm tín.”  Mẹ thì quyết định giữ con!  Tiếp tục “trả giá” với thánh Martin “nếu thánh nhân đã xin Chúa cho được mụn con, mong ngài tiếp tục xin Chúa giữ gìn mẹ tròn con vuông!  Sau này nếu Chúa muốn nó đi tu, con cũng dâng hiến! 

Tuy vậy mẹ vẫn sợ.  Mẹ viết hai bức thư gởi bố - nội dung y chang nhau - chỉ khác có mồi cái tên tôi.  Ðể nếu mẹ có mệnh hệ gì – tùy theo con trai hay con gái – gia đình, sau khi liên lạc được với bố, sẽ gởi cho bố bức thư báo rằng “mẹ đã tròn, con đã vuông!” 

Ngày 13 tháng 1 tôi chào đời và trở thành người con duy nhất!  Với 9 tháng trong bụng mẹ thiếu toàn bộ chất dinh dưỡng đó có thể là nguyen nhân tại sao tôi mang trong người bao nhiêu… căn bệnh!  Nhưng, tạ ơn chúa, tôi vần nguyên vẹn, nhìn bên ngoài tuy không “đẹp trai” nhưng nói chung là đầy đủ tứ chi – không bị thiếu phần nào!  Chuyện còn dài, nhưng xin cho phép tôi không kể tiếp! 

Ngày 3 tháng 2 năm 1993 tôi và bố mẹ rời VN qua Mỹ theo diện HO – và ngày 5 tháng 6 năm 2004 tôi trở thành Linh Mục đời đời theo phẩm hàng Menkisêđê! 

Trong ngày “trọng đại” của đời tôi, tôi đã cả gan sửa lại lời bài hát “tôi vần nhớ” của nhạc sĩ  để tặng cho bố mẹ tôi – gói trọn những gì tôi muốn nói!  Và lời bài hát như sau! 

Bao năm qua, dù đi tu nhưng con vẫn nhớ.  Nhớ rằng mình kiếp con người, mẹ cho con tình yêu sức sống, còn cha lo những chuyện tương lai! 

Con vần nhớ, những đêm dài mẹ lo cho con, ngồi đan áo cho con mùa đông! 

Con vần nhớ câu chuyện tình đầu, mẹ đã gieo trong trái tim con, là Giêsu đã nhuộm khổ giá chết cho trần gian!   

Con vần nhớ khi vô nhà dòng, mẹ cùng cha ra tiễn con đi, lòng hân hoan nhưng thật buốt giá khi xa người con! 

Bao đêm qua, gọi mẹ cha sao nghe giá buốt, mới hay mình vẫn con người.  Mẹ cha ơi nguyện cho con nhé, nguyện cho con mến một Giêsu! 

Con vần nhớ mắt mẹ buồn nhìn nơi con đi, cầu xin Chúa ban ơn thật nhiều! 

Con vần nhớ cha hay bảo rằng, làm người cha phải biết lo toan, dạy răn con sao thật khôn lớn không thua người ta! 

Con vẫn biết cha mẹ thật buồn, vì đời nay phải sống cô đơn, nguyện hy sinh cuộc đời đổi lấy quê hương đời sau! 

Câu thơ kia mẹ ru con bao năm vần nhớ, nhớ rằng mình phải yêu người.  Tình cho đi tình yêu vĩnh cửu, tình Giêsu ấy tình không phai! 

Con vần nhớ, cha vần thường gọi phone cho con, và gởi chút cho con tiền tiêu! 

Con vần nhớ năm xưa một chiều, lần về thăm mẹ đã cho con, quyển Thánh Kinh, thêm một sâu chuồi mân côi màu đen! 

Nhưng hôm nay gọi mẹ cha sao nghe thắm thiết – nối trong tình Chúa yêu người!  Tình Giêsu, tình yêu mãi mãi, người con yêu mãi là Giêsu! 

Con sẽ tiến tiến lên bàn thờ - niềm hân hoan con sẽ reo vui – NHỜ MẸ CHA CON CÒN GIỮ MÃI TRÊN MÔI NỤ CƯỜI! 

Bố mẹ thương mến, 38 năm nhìn lại - quả là một quãng thời gian dài!  Hôm nay lại là một sự trùng hợp “hữu duyên” khi Ðức Giáo Hoàng Benedicto XVI lại chọn đúng ngày bố mẹ thành hôn để chính thức khai mạc năm thánh Linh Mục, con linh mục nhỏ bé trong gia đình - muốn gởi lời cám ơn đến bố bẹ! Tạ ơn Chúa!  Và sáng hôm nay, khi dâng Thánh Lễ con đã “đặt” bố mẹ trên dĩa thánh cùng với bánh rượu tiến dâng!   

Con của bố mẹ,  

Lm Martino Nguyễn Bá Thông

(trich trong nhật ký Linh Mục)

19 tháng 6 năm 2009

Ngày kỉ niệm bố mẹ Thành Hôn – Khai mạc Năm Thánh linh mục

VỀ MỤC LỤC
GIẢI QUYẾT BẤT ĐỒNG GIA ĐÌNH TRONG TINH THẦN PHÚC ÂM HÓA
 

Xung khắc trong các quan hệ gia đình không phải là điều mới mẻ.  Phúc Âm thánh Luca thuật chuyện Mát-ta than phiền với Chúa Giêsu về việc cô em Maria không giúp mình trong việc phục vụ mà chỉ biết ngồi bên chân Chúa để nghe lời Người dạy.  Nhưng Chúa không chê trách Maria mà còn bênh vực cho cô nữa (cf. Luca 10:39-42). 

Nhưng đó chỉ là lời than phiền chưa đến nỗi gây bất hoà gia đình.  Trong một chương khác, thánh Luca kể cho chúng ta câu chuyện xung đột gia đình trầm trọng giữa người cha với hai đứa con trai.  Đứa em đòi người cha chia gia tài và sau khi lãnh phần chia, anh đã trẩy đi xa phung phá tất cả tài sản của mình.  (cf. Luca 15:11-32). 

Sách Cựu Ước cũng tường thuật nhiều mối bất đồng trong các quan hệ gia đình.  Không kể câu chuyện Cain giết em Aben là cơn khủng hoảng gia đình đầu tiên của lịch sử nhân loại, các gia đình tổ phụ nổi tiếng như Ápraham, I-xa-ác và Jacob đều có các xung khắc gia đình trầm trọng. 

Bà Sarah, vợ chánh của Ápraham, đã hành hạ thiếp của chồng mình là bà A-ga, rồi đuổi A-ga ra khỏi nhà khi cô ấy đang mang thai.  Về sau, khi bà không thích thái độ của Ích-ma-ên, con của A-ga đã lên 14 tuổi, đùa nghịch với I-xa-ác, thì bà đã đòi Ápraham đuổi cả hai mẹ con họ về Ai-cập.  Ápraham, tuy đau đớn trong lòng, nhưng cũng nghe lời Sarah đuổi mẹ con A-ga ra đi nơi đồng hoang với cái nóng thiêu người (cf. Sáng Thế Ký 15, 21). 

Tổ phụ Jacob xung khắc trầm trọng với cha vợ, cũng là cậu ruột của mình, và sau 20 năm chung sống với nhau, ông đã kéo bầu đoàn thê tử và đoàn súc vật đông đảo, lén lút bỏ trốn vào ban đêm để về lại quê hương xứ sở của mình.  Và như chúng ta biết, trong cuộc sống gia đình, Jacob thương đứa con áp út là Giuse hơn tất cả, làm cho các anh ganh tị.  Và sau đó các anh trả thù bằng cách ném Giuse vào giếng và rồi bán Giuse qua Ai-Cập (cf. Sáng Thế Ký 37). 

Vì sao có các xung khắc gia đình? 

Chỉ một vài ví dụ ở trên, chúng ta đã thấy xung khắc gần như không thể tránh được trong các quan hệ gia đình.  Một cuộc nghiên cứu với 52 gia đình ghi nhận, trung bình cứ mỗi bữa cơm, người ta có 3.3 ý kiến khác biệt nhau.  Vì thế, chúng ta có thể nói, khi giữa hai người có điều trái ý nhau là có xung khắc.  Nghĩa là, bất cứ lý do gì người ta cũng có thể bất đồng với nhau.  Nhưng các hệ qủa của nó thì rất tai hại, vì người trong cuộc thường có cảm giác tức tối, đau đớn, buồn phiền, thất vọng, hoặc đối kháng nhau.   

Khi nghiên cứu về gia đình, các nhà chuyên môn nhận ra rằng vấn đề đàm thoại là nguyên do hàng đầu gây đổ vỡ gia đình, thứ đến là các vấn đề như tiền bạc, tình dục, thân thuộc nội ngoại hai bên, quan hệ qúa khứ và con cái. 

Các nghiên cứu nầy cho biết, có 4 thái độ thường gây xích mích gia đình và hay xảy ra trong các ca ly dị, đó là: 

  • Phê bình / chỉ trích (criticism)

  • Coi thường / bất cần (contempt),

  • Tự vệ / thủ thế (defensiveness), và

  • Cản trở / né tránh (stonewalling).   

Đọc các mục cố vấn tâm lý, người ta nhận ra có sự thay đổi về các lời cố vấn cho vợ chồng trong những thập niên gần đây.  Vào thập niên 1950, vợ chồng được khuyên bảo nên tránh các cuộc cãi vã và họ nên tuân theo các vai trò truyền thống dành cho mỗi phái.  Tuy nhiên, bắt đầu từ giữa thập niên 1960 trở đi có một sự thay đổi rõ rệt là vợ chồng, khi có chuyện bất bình, hãy nói cho nhau biết; nghiã là họ vừa biểu lộ tình thương yêu vừa bộc lộ cả những tức giận cho người phối ngẫu để họ hiểu mình. 

Vậy, theo các qui luật mới về tình cảm trong hôn nhân, sự khác biệt giữa những người bạn đường là bình thường.  Hơn thế nữa, việc nói về những khác biệt trong mối quan hệ được coi là điểm mạnh, chứ không phải là điểm yếu của vợ chồng.  Họ cho rằng thật là điều không tưởng nếu một mối quan hệ kéo dài mà không có xung đột.   

Chỉ có điều, phương cách họ đối phó với xung khắc hoặc biểu lộ sự tức giận ra sao mới là vấn đề. 

Các phương thức giải quyết bất đồng 

Dưới con mắt đức tin, chúng ta thấy Thiên Chúa đã để những bất đồng xảy ra trong gia đình.  Ngài can thiệp cách nào là điều kỳ diệu mà chúng ta không hiểu nổi.  Nhưng là con người, chúng ta cần nhận rằng, bất công có thể xảy ra, và ai ai cũng có thể nổi giận vì đó là cảm xúc thông thường.  Tuy nhiên, ngay cả khi không thể thay đổi con người hoặc tình huống làm cho mình nổi giận, chúng ta có thể kiểm soát cách mình đối phó với cơn giận. 

Cái gốc và là điểm chung trong việc giải quyết chuyện gia đình là tình yêu thương.  Gương sống đạo của thánh nữ Mônica được nhiều người nhắc đến vì cách Phúc Âm hóa gia đình của ngài là mẫu mực đáng cho chúng ta noi theo.  Chính nhờ gương sáng, sự kiên nhẫn và lời cầu nguyện liên lỉ của bà mà người con trai Augustinô đã được hoán cải và trở thành một vị thánh thông thái lỗi lạc bậc nhất của Giáo Hội.  Không những thế, thánh nữ còn hoán cải cả chồng mình và bà mẹ chồng là những người chống báng đạo, để cả hai được ơn trở lại. 

Trong các lớp học 52 tuần lễ cho những can phạm bị tội Bạo Hành Gia Đình, họ thường trao đổi với nhau về nguồn gốc sâu xa cũng như lý do gần dẫn đến bạo hành.  Họ cho biết phần lớn sự việc xảy ra là vì trong một chốc lát nào đó họ đã không kềm chế được cơn nóng giận của mình.   Khi kết thúc khóa học, hầu hết những người tham dự đều nói rằng, nếu họ biết và áp dụng các phương pháp thì đã không vướng vào những chuyện đáng tiếc.  Đó là phương pháp Tạm Nghỉ (Time-outs) và cải tiến lối đàm thoại. 

Chúng ta biết rằng, trong sinh hoạt hằng ngày, người ta có lúc vui, lúc bực mình.  Có những điều tạo nên căng thẳng, và nếu không biết giải quyết thì chúng ta dễ có phản ứng bùng nổ với những người chung quanh, mà thông thường họ là vợ chồng, con cái, anh chị em, hay những người đồng sự gần gũi của mình.  Sự bùng nổ có thể là chưởi bới, chỉ trích nặng lời hoặc xô xát.  Đây là điều đáng tiếc cần ngăn ngừa.

Lấy giờ tạm nghỉ (Time out)

Khi nóng giận, điều chúng ta cần làm là để ý phản ứng của cơ thể như tái mặt, tay run, tim đập nhanh... lúc đó, chúng ta cần cho người đối diện biết mìnhï lấy giờ “tạm nghỉ”.  Trong nhiều trường hợp, việc rút lui khỏi hiện trường là hiệu qủa nhất vì nó giúp chúng ta dễ lấy lại bình tĩnh và tránh bầu khí căng thẳng.  Trong khi lấy giờ tạm nghỉ, chúng ta thực hành các điều sau: 

§         Làm nguôi ngoai sự căng thẳng—bằng cách đi uống nước, đi bộ, hít thở, tắm, đếm số,...

§         Tự tranh luận—Đây là phương pháp tự nói với chính mình, tự giải thích vấn đề theo quan điểm của người đối diện, nhờ vậy chúng ta nhận ra lý lẽ của người khác nên dễ có lòng thông cảm hơn.

§         Đặt kế hoạch đàm thoại với người đối diện nhằm đưa ra giải pháp. 

Thiếu khả năng truyền đạt là căn nguyên của nhiều vấn đề gây ra các cảm giác tức tối, hiểu lầm và xung đột.  Chúng ta cần cải tiến kỹ năng am hiểu người khác bằng cách tiếp nhận chính xác điều họ truyền đạt và thăng tiến kỹ năng diễn đạt là nói điều mình muốn cho người khác hiểu.   

Để giải quyết vấn đề một cách hữu hiệu, chúng ta cần áp dụng các phương thức trong đàm thoại theo các bước tuần tự như: lắng nghe điều người khác phát biểu; lập lại điều đã nghe để bày tỏ lòng tôn trọng cũng như hiểu cho chính xác; rồi trình bày trong ôn hoà quan điểm của mình.  Trong cách lắng nghe và trình bày, để tránh đẩy người khác vào vị thế bị tấn công, chúng ta cần dùng lối nói lấy tôi làm chủ từ (I message).  Ví dụ, thay vì nói “Anh về trễ làm em tức giận” thì nói, “Em cảm thấy tức giận vì chờ anh hơn hai tiếng đồng hồ ”.  Đây là lối nói bộc lộ cảm xúc, trình bày sự kiên một cách không phán đoán nên dễ được đón nhận hơn.          

Nhưng chúng ta cần biết rằng, không phải các bất đồng đều được giải quyết theo ý mình.  Có những khó khăn trong cuộc sống mà chúng ta đành phải chấp nhận.  Đây là điều mà những người trong các nhóm hỗ trợ thường gặp và họ dùng lời nguyện sau để tìm sự an tâm cho mình:  “Trời ban cho tôi sự bình thản để chấp nhận những điều tôi không thể thay đổi, sự can đảm để thay đổi những điều tôi có thể thay đổi, và sự khôn ngoan để biết phân biệt giữa hai điều đó”.-

Trần Hiếu

VỀ MỤC LỤC
NGƯỜI YÊU MÀU TRẮNG

  

Bạn tôi yêu màu trắng, nên những vật dụng bạn dùng, áo quần bạn mặc thường là màu trắng. Những ngày mùa Xuân, bạn tôi mặc bộ quần áo bằng lụa trắng, ngồi ngoài vườn, dưới gốc cây mơ cổ thụ nở đầy hoa trắng, trông bạn tôi và cảnh vật đẹp như một bức tranh.

Có nhiều người khác cũng yêu thích màu trắng như bạn tôi. Có người yêu màu trắng, vì đó là màu áo của y khoa, của những con người nhân ái cúi xuống trên vết thương đau đớn của đồng loại, cố gắng với thiện tâm của mình, làm giảm đi cơn đau và làm khô đi những dòng nước mắt. Có người yêu màu trắng qua hình ảnh những nữ tu dòng Saint Paul ngày xưa, dịu dàng, thánh thiện, những nữ tu bước giữa dòng đời mà chân như không chấm đất. Rất nhiều người khác yêu màu trắng vì yêu kỉ niệm, vì ôm ấp mãi trong trái tim mình hình ảnh của tuổi thơ áo trắng tung bay, ngày ngày cắp sách đến trường. Và người ta có hằng trăm lí do khác nhau để yêu thích màu trắng.

Màu trắng mang nhiều ý nghĩa đẹp và dễ thương.

Trước hết, màu trắng là màu của trinh bạch. Tấm giấy trắng chưa một vết mực là hình ảnh của một tâm hồn tuổi thơ còn trong trắng. Ngày em bé được bế đến nhà thờ chịu phép Rửa Tội, em thường được cha mẹ mặc cho bộ quần áo trắng, và vị linh mục, người ban phép Rửa Tội cũng khoác lên người em một tấm khăn trắng, tượng trưng chiếc áo trắng tâm hồn của em. Tặng một cành hoa trắng, người ta muốn nói với người nhận hoa rằng ''tôi dành cho người một tình cảm trong sạch." Thực là đẹp, nếu suốt cuộc đời, người ta giữ được vẻ trinh trắng của chiếc áo tâm hồn ngày chịu phép Rửa Tội; và cũng thật dễ thương nếu tình cảm người ta dành cho nhau mãi mãi trong sạch như cành hoa trắng mộng.

Màu trắng còn là màu của bác ái, màu của một tình yêu mênh mông, không biên giới nào ngăn cản. Người sống với tình bác ái, trái tim không chất chứa bất cứ một điều gì đen tối. Trái tim đó ''không ghen tị, không khoe khoang, không kiêu kì, không tìm tư lợi, không giậ dữ, không mưu mô gian ác, không vui khi thấy sự bất công...'' (I Conrintô 13:4-6.) Trái tim ấy thơm ngát tình người và tình trời.

Màu trắng là màu của bình an, hòa chứ không chiến. Lá cờ trắng kéo lên trong trận chiến mang ý nghĩa một sự cầu hòa, không muốn chiến tranh gây hấn nữa. Từ đó, người ta cũng có thể suy ra rằng màu trắng còn là màu của khiêm nhượng. Khiêm nhượng để nhìn nhận giới hạn của mình, vì thế mà không muốn tranh hơn tranh thắng.

Màu trắng, hơn nữa, là màu của sự hòa hợp và chấp nhận. Trong nghệ thuật hội họa, màu trắng hòa hợp được với tất cả các màu khác. Noi khác đi, nó chấp nhận bất cứ màu nào đứng cạnh nó, không từ chối một màu nào. Bạn tôi nói rằng: mặc một bộ quần áo trắng, ta có thể cài bất cứ chiếc nơ màu nào, đi bất cứ đôi giày màu nào. Tôi tự nghĩ: nếu bất cứ người nào yêu thích màu trắng đều học được tính hòa hợp và chấp nhận người khác, như màu trắng hòa hợp và chấp nhận được mọi màu sắc, thì người ấy đẹp đẽ và dễ thương biết ngần nào.

Thật ra, không phải tự nhiên mà màu trắng có thể hòa hợp và chấp nhận được mọi màu. Tự bản chất, màu trắng là tổng hợp của những màu khác. Quay tròn một chiếc đĩa giấy, trên đó vẽ bảy múi màu chính: đỏ, cam, vàng, lục, lam, chàm, tím, người ta sẽ thấy những màu đó biến mất, chúng hòa lại với nhau trở thành màu trắng. Như thế, tận trong bản chất, màu trắng đã chứa đựng các màu khác. Tôi nghĩ, người sẵn sàng hòa hợp và chấp nhận người khác cũng như thế: không phải họ chỉ cố gắng cho có vẻ bên ngoài, nhưng trong tận cùng tâm hồn, họ phải chứa đựng hình ảnh của tất cả mọi người, lòng họ đủ quảng đại để bao dung tất cả mọi người.

Tuy nhiên, màu trắng cũng có khuyết điểm: nó dễ bị ảnh hưởng của những màu khác. Giặt một mớ quần áo lẫn lộn, khi lấy ra, những chiếc áo trắng có thể đã bị loang lổ vì màu sắc của những chiếc áo khác phai qua. Người có ''tâm hồn màu trắng '' có lẽ cũng phải cẩn thận khi sinh hoạt, chung đụng với những người khác, kẻo sẽ chịu ảnh hưởng không tốt của tha nhân.

Tôi dừng sự suy tư về màu trắng của mình ở ảnh: Chúa Ki tô Phục Sinh. Ngài mặc một chiếc áo choàng trắng tinh khiết và khuôn mặt Ngài vinh quang, rạng rỡ. Màu trắng, một màu tưởng như không là gì, lại là màu của chiến thắng, vinh quang và khải hoàn. Điều ấy nhắc nhở tôi rằng: sống hiền lành, khiêm nhường, chân thật, bác ái, hòa hợp, chấp nhận người khác... không phải là lối sống ủy mị, khiếp nhược, nhưng thực ra là cách sống hào hùng, cách sống đưa tới vinh quang, chiến thắng khải hoàn.

Bởi thế, mỗi mùa Phục Sinh trở về, khi nhìn ngắm những bông huệ trắng xinh đẹp xuất hiện khắp nơi, tôi lại nhớ đến bạn tôi, người yêu màu trắng. Bạn tôi, thể xác trông mảnh mai yếu đuối nhưng lại có một tấm lòng rộng mở, một ý chí kiên cường và một lòng bác ái vô biên. Tôi cầu mong bạn tôi cũng như tất cả những ai yêu màu trắng học được những bài học quí giá của màu trắng, màu của Chúa Kitô Phục Sinh.

 

Nhà Văn Quyên Di

VỀ MỤC LỤC
KHOẢNG CÁCH THẾ HỆ
 

 

Chuyên viên kinh tế Văn Khánh tâm sự với bạn bè: “Năm nay mình hơn bốn chục tuổi rồi mà ông bố vẫn coi mình như còn con nít. Có chuyện vui chia sẻ với cụ thì cụ sẵn sàng dồn cho mấy lời khuyên bảo, mà chẳng cho hề để ý tới cách thức mình đã giải quyết vấn đề”…

 

Bà mẹ của cô con gái 29 tuổi tới thăm cháu ngoại. Bà tự động dọn dẹp phòng của cháu, thay đổi hướng giường, nói là nằm thế này để tránh gió độc. Trước khi ra về, bà còn dặn con gái lá phải ăn uống thế này thế kia cho có nhiều sữa. Và chớ có cho cháu ngoại của bà ăn nhiều rau cải kẻo nó đi tướt...

 

Thực là lòng cha mẹ thương con cháu như trời như biển. Chăm lo cho con từ lúc nằm ngửa, phơi chim, cho tới khi trưởng thành, nên ông nên bà.

 

Vậy mà cũng có con than phiền, bảo rằng chẳng để chúng yên, xía vào đời tư của chúng, coi chúng như còn thơ dại.

 

Các cụ coi có tức hay không cơ chứ!!!

 

Vâng, đó là những cảnh ngộ thường thấy trong mọi xã hội. Người ta nói tới khoảng cách giữa người già và người trẻ ngoài xã hội, giữa cha mẹ và con cái trong gia đình.

 

 Sử gia kiêm chính khách Pháp Alexis de Tocqueville (1805-1859) có nói: “Trong các quốc gia dân chủ, mỗi thế hệ là một bộ lạc mới (people)”.

 

Tại các quốc gia Âu Mỹ, có 4 lớp thế hệ được nêu ra:

 

- Thế hệ cựu chiến binh sinh ra từ 1922-1943,  tôn trọng truyền thống và thích nghi với hậu quả của Thế chiến I. 

- Thế hệ trẻ em bùng phát, (babyboomers), nhiều lý tưởng sanh từ 1946-1964

- Thế hệ X, tự lập, thành thạo kỹ thuật mới, rất linh động  sinh từ 1965-1979,

- Thế hệ Y, millennis ra đời trong thời gian 1980-1994 có thái độ lạc quan, tự tin, thực tế, đa dạng và nghĩ tới cá nhân nhiều hơn.

 

Danh từ Generation Gap, Khoảng Cách Thế Hệ được dùng tại các xã hội Âu Mỹ vào thập niên 1960. Mỗi thế hệ cách nhau từ 20-30 năm là thời gian trung bình để trẻ em lớn lên và thành người lớn thực thụ.

 

Tự điển Oxford định nghĩa generation gap là sự khác biệt về “thái độ” (Attitude) giữa những người ở thế hệ khác nhau. Thái độ bao gồm sự suy nghĩ và thấy thế nào về một sự việc hoặc một người nào đó. Như là:

 

- Sự khác nhau trong quan điểm về nếp sống hoặc thiếu sự hiểu biết lẫn nhau giữa lớp thanh niên và lớp người già.

- Khác biệt tuổi tác, giữa những người ở giai đoạn khác nhau của cuộc đời.

- Khác biệt thế hệ, giữa những người sinh trưởng trong  thời gian khác nhau, hình thành trong điều kiện xã hội khác nhau.

Khoảng cách tạo ra những khác biệt về tâm lý, hành động, và đối xử.Vì họ không hiểu nhau, có những không giống nhau về chính kiến, kinh nghiệm và bản chất.

 

Thực ra, chuyện này cũng chẳng có gì mới lạ. Nó đã hiện diện trong nếp sống con người từ lâu, nhưng rõ ràng hơn kể từ khi có những tiến bộ về khoa học, kỹ thuât.

Thái độ người già

 

Thuở xưa, khi nhu cầu đời sống được đáp ứng bằng sức lực và sự khôn ngoan của con người, thì người già, nói chung, được trọng nể vì kinh nghiệm của họ.

 

Với tuổi đời, họ tích lũy được những hiểu biết về canh tác săn bắn, về cách sống, về sự đối phó với khắc nghiệt của thiên nhiên, về quan hệ xã hội cũng như về văn hóa, nghệ thuật. Các kinh nghiệm này rất cần thiết cho con cháu, mới vào đời, cho nên vai trò của họ được coi như kim chỉ nam cho giới trẻ trong việc mưu sinh, lập nghiệp.

 

Ngoài ra, họ cũng là người nắm giữ tài sản gia đình giòng họ, có quyền sắp đặt, phân phát cho nên sự nhờ vả, tôn trọng của giới trẻ đối với họ là điều dễ hiểu.

 

Trong xã hội, có những tôn-ti-trật-tự, kính-trên-nhường-dưới, nuôi già, dạy trẻ, kính già, già để tuổi cho. Cha mẹ nào cũng muốn con cái theo gương cha mẹ, để “chẳng giống lông cũng giống cánh” và để giữ sự kế tục, danh dự dòng họ. Mà nói đến kế tục thì nhiều cụ thấm nhuần Nho học đều muốn ‘hãy nối tiếp, làm theo và không được thay đổi” những gì tiền nhân để lại.

 

Do đó, cha mẹ nào cũng thích khuyên nhủ, dậy dỗ con cái. Có nhiều lý do được nại ra. Muốn trao cho con những kinh nghiệm từ bản thân của họ. Vì đã biết rõ con từ tấm bé khi con chưa biết gì, nên cứ giữ định kiến là con bây giờ cũng còn non dại. Vì lo lắng cho con, sợ con phạm lầm lỗi. Vì muốn cho là mình còn cần thiết cho con cái. Vì nghĩ rằng khuyên con vẫn còn là trách nhiệm và quyền hạn của cha mẹ. Và cũng vì vẫn muốn kiểm soát con cái.

 

Tuy nhiên, phải vô tư mà thấy rằng, kinh nghiệm của người già có thể có tính cách chủ quan, cá nhân về một lãnh vực nào đó. Vậy mà nhiều cụ cứ cho là có thể áp dụng trong mọi trường hợp, vào mọi thời điểm với hoàn cảnh khác nhau.Do đó họ khư khư bảo vệ ý kiến mình, không chịu chấp nhận ý kiến của  trẻ, có thể hợp thời đại hơn.

 

Ngày nay, khoa học kỹ thuật quá tiến bộ, bất cứ kiến thức mới nào cũng dễ dàng tìm kiếm qua báo chí, internet, do đó giới trẻ cũng bớt lệ thuộc vào giới già ở học hỏi kinh nghiệm. Khi đưa ra ý kiến, nhiều khi các cụ có thái độ gia trưởng, truyền lệnh. Thay vì “nên thế này thế kia” thì họ lại “bố mẹ muốn như vậy”.

 

Họ cũng đa nghi, cho là ý tưởng của giới trẻ không có căn bản nên không chịu bàn giao công việc, trách nghiệm…

 

Họ cũng không muốn thay đổi, đảo lộn những sinh hoạt mà họ đã quen thuộc từ nhiều năm. Thực ra có thể là họ không thích ứng được với hoàn cảnh mới, kỹ thuật mới và không theo kịp với cường độ nhậm lẹ của sự việc. Từ đó, hành động của các cụ quá đắn đo, dè dặt.

 

Không ít cụ rất dễ xúc động, có mặc cảm tự ty, cho rằng mình bây giờ đã về hưu, bớt lợi tức, đâu còn quyền uy đối với con cái. Ngày xưa thì cha mẹ đặt đâu, con ngồi đó. Giờ đây đổi đòi, con cái đặt đâu, cha mẹ ngồi đó. Chúng tự do lựa chọn phối ngẫu tương lai rồi thông báo mẹ cha. Đám cưới chúng giới hạn số bạn bè mình được mời. Muốn tới thăm cháu, phải hẹn trước. Rồi các cụ hờn dỗi, tủi thân vì nhiều  chuyện vẩn vơ, không đâu.

Thái độ giới trẻ

Bản chất giới trẻ cũng có một số điều cần lưu ý, như là:

 

- Có thể nông cạn về lẽ sống

- Nhẹ tình cảm gia đình, quê hương, cội nguồn dân tộc.

- Nhiều hoài bão, không thỏa mãn với cái đã có

 

Trước hết, phải thừa nhận là con cái bây giờ có nhiều điểm thuận lợi hơn cha mẹ già. Các con có kiến thức cao, suy luận thực tế, khoa học hơn, tính tình cởi mở, dám nghĩ dám làm việc khó, việc lớn

 

Các con khỏe mạnh hơn, nhiều nhiệt huyết hơn, có thể làm  nhiều việc trong một thời gian định sẵn. Tầm nhìn của con cái thoáng rộng và thực tế hơn. Họ có nhiều dự tính cho tương lai và luôn luôn nghĩ tới sự tranh đua, phấn đấu.

 

Đối với cha mẹ, các con cũng có một cái nhìn hơi e ngại dè dặt, ít thổ lộ, ít tiếp xúc. Lý do là văn hóa giáo dục khác biệt. Một bên nghiêm khắc, kín đáo, một bên ồn ào cởi mở. Một bên dùng những ngôn từ thời đại mà phía kia, mù tịt, chẳng hiểu ất giáp gì. Nào là “phần mềm, ổ cứng”…

 

Tuy nhiên, con người dù tài ba đến mấy chăng nữa cũng phải có nguồn gốc, có cha mẹ:

 

Con người có bố, có ông

Như cây có cội, như sông có nguồn”

 

Vì thế cũng nên luôn luôn nhớ câu “uống nước, nhớ nguồn”, dù cha mẹ có không hoàn hảo, vẹn toàn.

 

Vả lại:

“Tuổi già hiu hắt ngọn đèn

Trước cơn gió lớn, sức bền còn không”.

Và:

 

“Sống thì con chẳng cho ăn

Chết thì sôi thịt, làm văn tế ruồi”.

 

Nhiều cháu có thể có cả một kho tàng kiến thức nhưng nếu được kết hợp với sự thấu đáo, kinh nghiệm, với sự khôn ngoan của mẹ cha thì kiến thức của mình sẽ đạt được nhiều thành công hơn.

 

Các cháu nhiều sức lực, trí óc tươi trẻ nên hành động nhậm lẹ hơn. Nhưng “đi đâu mà vội mà vàng, mà vấp phải đá, mà quàng phải dây”. Cha mẹ chậm chạp, nhưng đôi khi chậm mà chắc.

 

Một số cháu cứ nghĩ rằng cha mẹ già yếu, trở thành vô dụng.

 

Thực ra già vẫn còn sức mạnh của sự già: sức mạnh của kiên nhẫn, tôi luyện từ nhiều chục năm lăn lội trường đời. Họ vẫn còn khả năng làm việc, nhưng để hoàn tất, họ cần thời gian lâu hơn. “Có còn hơn không”, phải không các cháu?.

Nhìn chung

 

Nói ra thì nhiều, nhưng đi vào thực tế, phải công nhận là có một khoảng cách dài ngắn, những khác biệt nào đó giữa các thế hệ khác nhau trong cộng đồng, giữa cha mẹ, con cái. Khác biệt về suy nghĩ, hành động, về quan niệm sống, về cách diễn tả tình cảm, tâm trạng.

 

Sông có khúc, người có lúc thì mỗi lứa tuổi cũng có đặc điểm, cá tính của mỗi thế hệ, mỗi lớp tuổi.

 

Không nên coi khác biệt đó là mâu thuẫn gây trở ngại cho hài hòa gia đình, xã hội mà là một lẽ đương nhiến trong đời sống, có già có trẻ. Tre già sát cánh măng non. Cũng như có âm thì có dương, có sáng thì có tối, có tốt và có xấu.

 

Chẳng nên tìm cách xóa bỏ cách biệt mà nên “biết người biết mình”, để hòa hợp chung sống.

 

Thích nghi, chấp thuận với khác biệt của nhau, miễn là những khác biệt này không mang tính cách hủy hoại lẫn nhau.

 

Giúp nhau gọt rũa khác biệt cho dần dần ăn khớp với nhau.

 

Sẵn sàng lắng nghe nhau, phân tích dị biệt, bàn cãi thẳng thắn rồi chấp nhận nhau.

 

Tổng kết các điểm đã thông cảm, thỏa thuận thành đường lối chung cho đại gia đình.

 

Mọi người nên nghĩ đời sống  là một cái vòng luẩn quẩn, như diễn tả của bác sĩ  Milton Greenblatt (1914-1994), nhà tiền phong Hoa Kỳ vể chăm sóc sức khỏe tâm bệnh:

 

“Trước hết, chúng ta là con của cha mẹ

Rồi là cha mẹ của bầy con

Sau đó sẽ  trở lại làm cha mẹ của cha mẹ

Cuối cùng là con của bầy con »

 

Để mà thông cảm, chung sống với nhau.

 

Nguyễn Ý-Đức M.D.  Texas-Hoa Kỳ    www.nguyenyduc.com

 
VỀ MỤC LỤC
NỊNH…ĐẦM   Chuyện phiếm của Gã Siêu

 

Sách Cổ Học Tinh Hoa có kể lại một câu chuyện đại khái như thế này :

Vũ Hầu, vua nước Ngụy, cùng với quần thần ngồi tính toán chuyện đại sự. Bàn tới việc gì, thì ý kiến của vua cũng đều đúng, đều phải, trên cả tuyệt vời và quần thần không ai giỏi bằng.

Lúc lui chầu, Ngụy Hầu ra dáng hớn hở lắm. Thấy vậy, Ngô Khởi bèn tiến lên và nói :

- Cận thần ai đã đem câu chuyện Sở Trang Vương ra nói cho nhà vua nghe chưa ?

Vũ Hầu hỏi :

- Câu chuyện Sở Trang Vương là như thế nào ?

Ngô Khởi liền thưa :

- Khi Sở Trang Vương mà bàn việc nước, hễ ý kiến trổi vượt hơn quần thần, thi lấy làm lo lắng và cho bãi trào.

Có người thấy vậy bèn hỏi :

- Sao nhà vua lại lo ?

Sở Trang Vương nói :

- Ta bàn việc mà quần thần không ai bằng được ta, nên ta lo. Cổ nhân có câu : Các vua chư hầu, ai có thầy giỏi thì làm được vương, ai có bạn giỏi thì làm được bá, ai có người quyết đoán cho mọi việc ngờ vực thì còn nước, ai bàn việc mà chẳng ai bằng mình thì mất nước. Ta nghĩ ngu như ta mà quần thần cũng không ai bằng, thì nước ta có lẽ mất đến nơi rồi. Bởi thế ta lo.

Ấy cũng một việc giống nhau. Sở Trang Vương thì lo mà nhà vua thì mừng.

Vũ Hầu nghe vậy thì áy náy vái tạ và nói :

- Trời sai nhà thầy đến bảo cái lỗi cho ta.

Đứng đầu một nước phải là kẻ tài giỏi và sáng suốt. Tuy nhiên, khi dùng quần thần là muốn mong cậy họ, để nhờ họ giúp đỡ cho mình, như người ngoài giúp nước cờ vậy. Những bậc vua chúa cần phải có thầy giỏi, tôi hay là vì cái lẽ ấy. Nếu quần thần không có ai hơn mình cả, thì đó chỉ là một bọn a dua, nịnh hót mà thôi.

Từ câu chuyện trên, gã xin bàn đến một thái độ cư xử vốn thường thấy trong cuộc sống hằng ngày, đó là thái độ ton hót, nịnh bợ.

Đây là thái độ của kẻ bề dưới, dùng những lời lẽ dịu ngọt để tâng bốc người bề trên, hầu kiếm chút cháo, nghĩa là tìm chút lợi lộc hay nhờ cậy cho bản thân mình.

Đôi khi họ còn hay nói ra nói vào, dèm pha người khác như một câu chuyện làm quà, để rồi gây nên những hậu quả tai hại cho người được họ chiếu cố đến.

Vì hay ton hót nên họ còn được gọi là hạng người chuyên môn…bốc thơm và bốc thối. Vì hay nịnh bợ nên họ còn được gọi là hạng người chuyên môn…nâng bi.

Ngày xưa trong chốn triều đình, họ được gọi là bọn nịnh thần, chuyên môn bốc thơm và nâng bi cho nhà vua. Còn trong xã hội hôm nay, họ vẫn có mặt trên từng cây số! Sở dĩ như vậy vì như La Fontaine đã viết :

- Bọn người nịnh bợ sống đời,

  Là nhờ nương tựa vào người chịu nghe.

Bàn dân thiên hạ vốn thường coi khinh họ :

- Vải bô có thể sánh với gấm. Mũ cao áo dài mà chỉ giỏi nịnh bợ thì cũng là một loại ga, một loại chó đội mũ mà thôi (Trần Đông Phong).

Đồng thời bàn dân thiên hạ còn phải luôn đề cao cảnh giác đối với họ, bởi vì :

- Bất cứ lời ton hót nào, thì bên trong cũng chứa một thứ chất độc nào đó (Publilius Syrus).

- Kẻ nào biết nịnh bợ thì cũng biết nói xấu (Napoléon).

- Kẻ nào có mặt người ta mà hay nịnh bợ, thì khi vắng mặt người ta cũng hay chê bai (Trang Tử).

Tuy bị khinh bỉ và bị nhìn bằng cặp mắt đề cao cảnh giác, như của công an hình sự, thế nhưng bọn họ vẫn cứ sống phây phây, bởi vì  đã là người, thì ai cũng thích được ca tụng và ngợi khen. Đây chính là quy luật của muôn đời. Đây chính là mẫu số chung của mọi người, ở mọi nơi và trong mọi lúc, đúng  như lời một cố tây ngày xưa đã từng phát biểu :

- Tầy (Thầy) biết nó “pĩnh” (phỉnh) tầy mà tầy vẫn cứ tích (thích).

(Chữ “phỉnh ở đây có nghĩa là nói khéo để lừa gạt người khác hay để người khác nghe theo mình).

Trên đây là thái độ nịnh bợ trong cuộc sống ngoài xã hội. Còn trong mối liên hệ giữa đờn ông và đờn bà thì sao ?

Ngày xưa, xã hội Việt Nam vốn mang nặng ảnh hưởng của Nho giáo, của Khổng Mạnh. Nền luân lý thời bấy giờ thường “trọng nam khinh nữ”, như các cụ ta  đã phán :

- Nhất nam viết hữu, thập nữ viết vô. Một cậu con giai thì đã kể là có, còn mười cô con gái vẫn kể là không.

Đặc biệt là trong quan hệ vợ chồng. Theo Nho giáo, thì đờn bà con gái phải triệt để tuân giữ và thực thi chữ “tam tòng “ :

- Tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử.

Có nghĩa là  ở nhà thì phục tùng cha, đi lấy chồng thì phục tùng chồng và khi chồng chết thì phục tùng con.

Chính vì quan niệm “xuất giá tòng phu”, đi lấy chồng thì phục tùng chồng, mà phe đờn ông con giai luôn ngước mắt nhìn đời một cách kiêu hãnh, để rồi liên tục phát triển lập trường “phu xướng phụ tùy”, chồng phán thì vợ phải nghe.

Cũng chính vì lập trường “phu xướng phụ tùy”, chồng phán thì vợ phải nghe này, mà các ông chồng luôn vênh vang tự đắc, coi mình là cái rốn của vũ trụ, là ông chủ còn bà vợ, còn các bà vợ thì chỉ là một loại đầy tớ không công, một cái máy để sản xuất ra các “tí nhau”  hầu có kẻ nối dõi tông đường.  Và ông ta đã cư xử theo đúng với phong cách “chồng chúa vợ tôi”.

Phong cách này  trước hết được biểu lộ qua lời nói. Ông ta đã gọi bà vợ bằng những ngôn từ không mấy êm tai. Chẳng hạn :

- Cái con mẹ mày… cái con mụ kia…

Nhất là được biểu lộ bằng hành động. Ông chồng tối ngày ăn nhậu, rồi chơi bời xóc đĩa tổ tôm… Trong khi đó, bà vợ phải nai lưng ra, quần quật làm những công việc nặng nhọc, cốt để cung phụng cho ông chồng của mình những nhu cầu cần thiết.

Gã đã từng thấy có những gia đình thật nghèo, cơm không đủ để mà ăn. Bà vợ phải thức khuya dạy sớm, để cắt rau, bó rau rồi  gánh rau đi bán để kiếm chút tiền còm. Thế nhưng,  bữa nào cũng phải có một đĩa  thịt cho ông chồng… nhắm rượu. Thậm chí còn phải dọn riêng cho ông chồng một mâm. Ông ăn xong, mới tới lượt vợ và con cái. Thật  là quan liêu không ai bằng.

Hình ảnh người vợ và người mẹ trong xã hội Việt Nam ngày xưa đã được ca dao diễn tả bằng hình ảnh “cái cò” vừa ảm đạm lại vừa thân thương :

- Cái cò lặn lội bờ sông,

  Gánh gạo đưa chồng tiếng khóc nỉ non.

  Nàng về nuôi cái cùng con,

  Để anh đi trẩy nước non Cao Bằng…

- Cái cò mày đi ăn đêm,

  Đậu phải cành mềm lộn cổ xuống ao…

Được cưng như cưng trứng, hứng như hứng hoa, thế mà mỗi khi bực bội tức tối, hay gặp điều chi không vừa ý, ông ta lại rất sẵn tung hê, cho chén bát bay ra ngoài sân, thậm chí còn thượng cẳng chân hạ cẳng tay, cho bà vợ ăn đòn…

Vì vậy, hiếm khi thấy các ông chồng khen vợ. Còn nịnh vợ một cách công khai giữa thanh thiên bạch nhật trước mặt bàn dân thiên hạ, thì tuyệt nhiên không bao giờ, bởi vì các ông còn đang cố giữ lấy cái thế “thượng phong”, cái địa vị trổi vượt của mình. Nêu có, thì cũng chỉ là khen thầm, nịnh trộm mà thôi.

Tuy nhiên, thời oanh liệt ấy nay còn đâu, bởi vì khi thực dân Pháp đến xâm chiếm đất nước này, họ cũng đã mang theo cả nền văn hóa của họ nữa. Nền văn hóa ấy đã ảnh hưởng mạnh mẽ và tạo nên những biến đổi sâu đậm trong  xã hội Việt Nam.

Thực vậy, trong lãnh vực ăn, từ xưa dân mình vốn thường ăn cơm, còn bây giờ lại có thêm bánh…tây. Hồi còn nhỏ, mỗi lần bố đi thành phố, thế nào gã cũng căn dặn : Khi về, bố nhớ mua cho con một chiếc bánh tây dài bằng cái đòn gánh ấy. Cùng với bánh tây, các món ăn khác của tây cũng lần lượt chiếm “khẩu vị” của người Việt Nam, chẳng hạn gà rô ti, bò bí tết, heo ra gu…

Trong lãnh vực uống, từ xưa dân mình vốn thường uống rượu đế, còn bây giờ lại có thêm các thứ rượu tây, đủ mùi đủ vị. Trong lãnh vực ở, từ xưa dân mình vốn ở nhà tranh vách đất, sang hơn một chút là nhà ngói…bây giờ lại có thêm những loại nhà tây với nhiều tầng lầu và được xây dựng bằng gạch và vôi hay ci măng cốt sắt. Trong lãnh vực mặc, từ xưa dân mình vốn mặc quần ống luồng, riêng đờn bà con gái thì nhiều lúc cũng mặc váy mà thiên hạ vốn thường gọi là cái thúng mà thủng hai đầu, bên ta thì có, bên tàu thì không ? Bây giờ lại có thêm loại quần tây, cùng với các thứ “díp” đủ mọi kích cỡ dài ngắn khác nhau.

Ấy là gã chưa nói đến tiếng tây đã được dạy tại các trường học và sự ra đời của chữ quốc ngữ, một phương tiện đã được “tây hóa” để ghi lại tiếng nói của người Việt Nam.

Trong lãnh vực mỹ thuật cũng thế, quan niệm về cái đẹp đã đổi thay. Ngày xưa các cụ ta vốn thường cho “cái răng, cái tóc, một góc con người”. Tóc thì phải để cho dài rồi đánh vấn hay búi tó củ hành. Răng thì phải là răng đen mới đẹp, như ca dao đã diễn tả :

- Một thương tóc bỏ đuôi gà,

  Hai thương ăn nói mặn mà có duyên,

  Ba thương má núm đồng tiền,

  Bốn thương răng nhánh hạt huyền kém thua…

Còn bây giờ, muốn đẹp thì răng phải trắng, còn tóc thì phải cắt và uốn theo những kiểu cọ khác nhau.

Tất cả những điều đó muốn nói lên rằng văn hóa phương tây đang dần dần chiếm lãnh thị trường Việt Nam và tạo nên những chuyển biến tận gốc rễ, ngay cả trong những lãnh vực tầm thường và quen thuộc nhất.

Đứng trước những chuyển biến này, xã hội Việt Nam lúc bấy giờ đã chia thành hai phe : phe cựu trào và phe đổi mới, phe bảo thủ và phe cấp tiến, phe theo Nho học và phe theo Tây học.

Phe cấp tiến, theo Tây học thì hô hào triệt để áp dụng những canh tân, những đổi mới để theo kịp đà tiến của thế giới, mà tiêu biểu là nhóm Tự Lực Văn Đoàn. Còn phe bảo thủ, theo Nho học thì muốn giữ lấy cái nề nếp cũ, nên phê bình chỉ trích và nhìn những đổi thay bằng cặp mắt không mấy cảm tình.

Gã còn nhớ, hồi đó con gái mà đi uốn tóc, thế nào cũng bị bọn con nít trong xóm chế diễu theo sự chỉ đạo của người lớn :

- Cô “phi dê” là con chó xồm,

  Cô đứng bên tôi làm tôi hết hồn.

Một trong những nét nổi bật của nền văn hóa này là thái độ lịch sự và tế nhị đối với đờn bà con gái. Thái độ này làm cho các cụ thuộc phe bảo thủ, mang nặng ảnh hưởng của Nho giáo, tức đến hộc cả máu mồm, bởi vì đang ở cái thế thượng phong mà nay bỗng dưng phải tỏ ra mềm mỏng, cung phụng cho các bà các cô.

Vì thế, các cụ đã gọi thái độ này là nịnh…đầm. Chữ “đầm” ở đây xuất phát từ chữ “dame” trong tiếng Pháp, có nghĩa là…bà. Riêng hai chữ “bà đầm” thì lại có nghĩa là “người đờn bà…tây phương” :

- Trên ghế, bà đầm ngoi đít vịt,

  Dưới sân, ông cử ngẩng đầu rồng.

Ngày nay, với những phương tiện truyền thông vừa hiện đại lại vừa mau chóng, văn hóa phương tây đã len lỏi vào mọi hang cùng, ngõ ngách của cuộc sống và đẩy lui ảnh hưởng của Nho giáo chìm vào quên lãng.

Trong cách cư xử đối với đờn bà con gái, gã xin bàn đến hai hành vi được coi là tiêu biểu cho một con người…văn minh, đó là nịnh đầm và ga lăng. 

Trước hết là nịnh đầm.  

Đây là thái độ nghiêng về lời nói hơn là về việc làm, dùng ngôn từ của mình để khen ngợi và tâng bốc phe đờn bà con gái, đặc biệt là bà xã của mình, một cách thái quá, trên cả mức độ cần thiết :

- Vuốt râu nịnh vợ con bu nó,

  Quắc mắt khinh đời cái bộ anh.

Và như chúng ta cũng đã biết, phàm những gì thái quá thì đều bất cập. Khen vợ là điều tốt, nhưng khen quá đến chỗ tâng bốc lại là chuyện khác. Nhiều khi chính những lời khen “thái quá” ấy lại trở thành bôi bác, làm cho người được khen phải đỏ mặt tía tai và cảm thấy ngượng ngùng. Hơn thế nữa, từ nịnh vợ đến sợ vợ, hai con đường này hình như chỉ cách nhau trong gang tấc mà thôi.

Tuy nhiên, ngày nay người ta  không thích xài khái niệm sợ vợ, mà thích xài khái niệm nể vợ, hay tôn trọng vợ, nghe rất lịch sự và rất văn hóa. Nhưng nào có ai ngờ, từ tôn trọng đến tôn kính và từ tôn kính đến  tôn thờ, hai con đường này cũng lại chẳng cách xa nhau bao nhiêu. Thành thử hàng râu của mấy ông chồng cứ dần dần quặp xuống tất tật, như rặng liễu đìu hiu trước gió. 

Tiếp đến là ga lăng.  

Đây là thái độ nghiêng về việc làm hơn là về lời nói và đã được phổ biến rộng rãi. Chẳng hạn: Một đứa bé phụng phịu như muốn khóc, chỉ vì ông bố không chịu mua cho nó món đồ chơi nó thích và nó đã nói với ông bố :

- Ba chẳng ga lăng tí nào cả. Ba chẳng biết bố bạn Lâm, bác ấy đã mua cho bạn Lâm toàn đồ chơi xịn nhé…

Trong tiếng Pháp,  “galant” trước hết có nghĩa là lịch sự đối với đờn bà con gái.

Chẳng hạn : Một phụ nữ bụng mang dạ chửa, mệt mỏi bước lên xe buýt. Trên xe đã hết chỗ. Bỗng nhiên có một chàng thanh niên rời khỏi ghế của mình, nhường chỗ cho chị ấy ngồi, lại còn cất túi hành lý cồng kềnh của chị ấy vào nơi an toàn nhất với những lời lẽ nhẹ nhàng.

Ga lăng như vậy là một hành vi thực sự có giá trị. Nó làm cho cuộc sống trở nên tươi đẹp và thú vị. Đồng thời nó còn làm nên cái phong cách đáng yêu của con người nữa.

Tiếp đến, “ga lăng” còn có nghĩa là hào hoa, cư xử đẹp với đờn bà con gái.

Chẳng hạn : Một cô gái đi xe máy, chẳng may bị té ngã, đồ đạc rơi vãi tứ tung. Một chàng trai thấy vậy vội dừng xe lại, cẩn thận nhặt hết đồ đạc lại cho cô, rút khăn lau vết bẩn trên cánh tay cô và ân cần hỏi han xem cô  có cần giúp đỡ gì  nữa không. Chỉ khi cô trở lại trạng thái bình thường, chàng trai mới chịu lên xe và đi tiếp.

Thái độ của chàng trai thật ga lăng và đáng khâm phục, vì đã tỏ ra chu đáo, biết hy sinh vì người khác.

Thái độ này làm gã nhớ Lục Vân Tiên. Khi thấy Kiều Nguyệt Nga bị bọn cướp chặn đường, chàng đã tả đột hữu xung và cuối cùng “bị Tiên một gậy, chúng rầy mạng vong”, chàng giải cứu cho Kiều Nguyệt  Nga, đề rồi từ đó tình yêu bắt đầu nảy mầm.

- Anh hùng tiếng đã gọi rằng :

  Giữa đường thấy sự bất bằng chẳng tha.

Kết thúc có hậu nay cũng thường xảy ra lắm. Chiếc  xe gắn máy bỗng dưng giở quẻ, không chịu đi. Cô nàng đạp mãi mà vẫn không nổ. Đứng giữa đường dưới ánh nắng chói chang, cô nàng như muốn khóc. Anh chàng từ trong nhà chạy ra và thấy rằng xe đã hết xăng. Và thế là anh chàng vội vã đi mua một lít xăng đổ vào và chiếc xe lại chạy phom phom. Nhưng cũng từ đó họ thường xuyên liên lạc với nhau đề rồi cuối cùng đã nên duyên vợ chồng.

Sau cùng “ga lăng” còn có nghĩa là hào phóng, chi tiêu một cách rộng rãi đối với đờn bà con gái.

Chàng sẵn sàng bỏ tiền ra để mời nàng đi ăn, đi siêu thị. Chàng sẵn sàng bỏ tiền ra để mua tặng nàng những món quà đắt giá vào ngày tình yêu, ngày sinh nhật…

Những món quà này phần nào biểu lộ sự quan tâm chăm sóc, cũng như tình yêu của chàng đối với nàng. Tuy nhiên, đôi lúc anh chàng lại nổi máu “yêng hùng”, thích chơi ngông và chơi trội, theo kiểu công tử Bạc Liêu, để lấy lòng người đẹp.

Chuyện rằng : đang ngồi ăn cùng bàn, cô bạn gái chẳng may đánh rơi chiếc khăn xuống chân trong một bữa tiệc vào ban đêm. Và thế là chàng công tử nọ bèn lập tức rút một xáp giấy bạc trong túi, châm lửa đốt hết tờ này đến tờ khác, cốt để có ánh sáng mà tìm chiếc khăn.

Đờn bà con gái rất xứng đáng được đối xử một cách lịch sự và ga lăng. Tuy nhiên, họ cũng cần phải ý thức cái mức độ, cái giới hạn của nó, để tránh đi thái độ được voi đòi tiên, được đàng chân lân đàng đầu.

Hơn thế nữa, đừng cậy dựa vào cái ngoại hình xinh đẹp của mình, để rồi coi sự chiều chuộng, cung phụng là một ơn huệ mình ban phát, hay là một bổn phận đương nhiên mà cánh đờn ông con giai phải chu toàn. Nhất là đừng đánh giá tấm lòng chân thành qua thái độ ga lăng bên ngoài, đừng lấy  những quà tặng đắt giá làm thước đo cho tình yêu.

Nói thì nói vậy, bởi vì trong thiên hạ vẫn không thiếu gì những người “ga lăng” va nịnh đầm trên cả mức bình thường, thậm chí đa số phe đờn ông con giai còn mắc phải chứng sợ vợ kinh niên mà có chết chóc ai đâu. Thôi thì hãy dùng những lời này mà an ủi nhau :

- Kính vợ đắc thọ.

  Sợ vợ sống lâu.

  Đội vợ lên đầu,

  Trường sinh bất tử.

Gã Siêu  gasieu@gmail.com

 

VỀ MỤC LỤC

- Mọi liên lạc: Ghi danh, thay đổi địa chỉ, đóng góp ý kiến, bài vở..., xin gởi về địa chỉ

giaosivietnam@gmail.com

- Những nội dung sẽ được đề cao và chú ý bao gồm:

Trao đổi, chia sẻ những kinh nghiệm thực tế trong việc mục vụ của Giáo sĩ;  Những tài liệu của Giáo hội hoặc của các Tác giả nhằm mục đích Thăng tiến đời sống Giáo sĩ; Cổ võ ơn gọi Linh mục; Người Giáo dân tham gia công việc “Trợ lực Giáo sĩ” bằng đời sống cầu nguyện và cộng tác trong mọi lãnh vực; Mỗi  Giáo dân phải là những “Linh mục” không có chức Thánh; Đối thoại trong tinh thần Bác ái giữa Giáo dân và Giáo sĩ… (Truyền giáo hay xây pháo đài?)

- Quy vị cũng có thể tham khảo những số báo đã phát hành tại

www.conggiaovietnam.net

Rất mong được sự cộng tác, hưởng ứng của tất cả Quí vị

Xin chân thành cám ơn tất cả anh chị em đã sẵn lòng cộng tác với chúng tôi bằng nhiều cách thế khác nhau.

TM. Đặc San Giáo Sĩ Việt Nam

Lm. Luca Phạm Quốc Sử  USA

 

 

Duoc chon giua loai nguoi va cho loai nguoi; GIAO SI: Xuat phat tu giao dan, hien dien vi giao dan va cay dua vao giao dan, de cung lam VINH DANH THIEN CHUA

*************