Sắc Lệnh Về Hiệp Nhất (Unitatis
Redintegratio) |
Thánh Công
Ðồng Chung Vaticanô II
Khóa V Ngày 21 tháng 11 Năm 1964
Phaolô Giám Mục
Tôi Tớ Các Tôi Tớ Thiên Chúa
Hiệp Nhất Với Các Nghị Phụ Của Thánh
Công Ðồng
Ðể Muôn Ðời Ghi Nhớ
Sắc Lệnh Về
Hiệp Nhất
Unitatis
Redintegratio
Bản dịch Việt
Ngữ của Giáo Hoàng Học Viện Piô X
Prepared for
Internet by Vietnamese Missionaries in Asia
Lời Giới Thiệu
Sắc Lệnh này ghi dấu một thời điểm quan
trọng trong lịch sử Kitô giáo. Khi Ðức Gioan XXIII loan báo
triệu tập một công đồng chung, ngài đã nhắm đến nguyên nhân của
việc hiệp nhất. Ðể đạt mục tiêu đó, ngài thiếp lập Văn Phòng
Hiệp Nhất các Kitô hữu (ngày 5 tháng 6 năm 1960). Người ta có
thể nhận ra rằng chiều theo ý định của Ðức Giáo Hoàng, nhiều
lược đồ tiền công đồng đã đề cập thẳng đến vấn đề hiệp nhất các
Kitô hữu. Lược đồ về Giáo Hội có chương XI nói về hiệp nhất. Ủy
ban về các Giáo Hội Ðông Phương khởi thảo một lược đồ nhằm việc
nối kết các Giáo Hội Ðông Phương ly khai với Giáo Hội Công Giáo.
Văn Phòng Hiệp Nhất các Kitô hữu cũng đã soạn sẵn một lược đồ
nghiêng về mục vụ. Trong kỳ họp I, Công Ðồng quyết định chỉ soạn
thảo một sắc lệnh về Hiệp Nhất dưới sự giám sát của Văn Phòng
Hiệp Nhất. Chính lúc ấy, chương XI chỉ đề cập đến các Giáo Hội
Công Giáo Ðông Phương.
Lược đồ nhất thống về Hiệp Nhất đã được đệ
trình trong kỳ họp II của Công Ðồng. Lược đồ gồm 5 chương:
I. Các nguyên tắc Công Giáo về Hiệp Nhất.
II. Cách tham dự phong trào Hiệp Nhất.
III. Các Kitô hữu ly khai với Giáo Hội Công
Giáo.
IV. Những tương giao giữa người Công Giáo
với người ngoài Kitô giáo, đặc biệt với người Do Thái.
V. Tự do tôn giáo.
Lúc ấy hai chương cuối cùng do hai tiểu ban
của Văn Phòng Hiệp Nhất đảm trách. Nhưng chẳng bao lâu các Nghị
Phụ đã đi đến kết luận là phải bàn luận hai vấn đề này trong
những văn kiện riêng biệt. Như thế, lược đồ mới chỉ gồm ba
chương đầu cộng thêm lời mở. Sự phân chia này đã được duy trì
trong bản văn cuối cùng.
Lược đồ này được tranh luận từ 5 đến
7-10-1964. Theo thỉnh nguyện của các Nghị Phụ, nhiều đề nghị tu
chỉnh đã được thêm vào lược đồ bản văn hiệu chính. Ðáng lẽ lược
đồ được biểu quyết ngày 20-11-1964. Nhưng trước ngày ấy, vị Tổng
Thư Ký của Công Ðồng, Ðức Cha P. Felici, loan báo rằng có 19
điểm đổi thay đã được hoàn thành vào giờ chót theo yêu cầu của
một thẩm quyền cao cấp. Vì thế vấn đề biểu quyết lược đồ được
hoãn lại. Quả thực, Ðức Giáo Hoàng đã đề nghị một loạt các tu
chính án; trong số đó, hội đồng thu hẹp của Văn Phòng Hiệp Nhất
đã giữ lại 19 điểm. Do đó, các Nghị Phụ đã biểu quyết sắc lệnh
ngày 21-11-1964 với 2,137 phiếu thuận,11 phiếu chống. Cũng chính
hôm ấy, Ðức Phaolô VI đã phê chuẩn và công bố sắc lệnh này.
Sắc Lệnh mang tựa đề "Về Hiệp Nhất". Hiệp
Nhất là gì? Chúa Giêsu Kitô đã chỉ sáng lập một Giáo Hội và
Người đã muốn tất cả các môn đệ kết hiệp với nhau trong Giáo Hội
duy nhất ấy. Trước ngày tử nạn, Người đã khẩn thiết nguyện cầu
cho việc hiệp nhất này: "Xin cho tất cả nên một" (Gio 17,21).
Nhưng qua bao thế kỷ, đã xảy ra nhiều cuộc phân rẽ đau thương.
Một số lớn các Giáo Hội Ðông Phương đã tách lìa khỏi Roma. Vào
thế kỷ XVI, nhiều miền đã biến thành Tin Lành. Ở thế kỷ hiện tại
của chúng ta, người ta mới ý thức hơn về những phân rẽ này.
Nhiều người đã suy tưởng lại lời nguyện của Chúa Giêsu cũng như
nghĩ đến việc cứu vãn mối bất hòa ly tán giữa các Kitô hữu. Vậy
người ta đã gọi "Hiệp Nhất" là tất cả mọi nỗ lực trong những
giáo phái Kitô giáo khác nhau, nhằm mục đích kết hiệp cộng đoàn
Kitô hữu đang bị phân rẽ. Danh từ Hiệp Nhất phát sinh từ tiếng
Hy Lạp "Oikoumene"; thời xưa, chữ này biểu thị một Giáo Hội phổ
quát lan rộng khắp hoàn cầu. Như thế, Hiệp Nhất có nghĩa là ước
muốn và nỗ lực đạt đến việc liên kết mọi Kitô hữu nên một trong
Giáo Hội phổ quát của Chúa Kitô. Công cuộc hiệp nhất này đặt nền
tảng trên khát vọng sâu xa của tất cả Kitô hữu thiện chí nhằm
thể hiện sự hiệp nhất toàn vẹn mà Chúa Giêsu Kitô đã mong muốn.
Phong trào hướng về hiệp nhất đã khởi sinh trước tiên giữa lòng
các giáo phái Tin Lành. Phong trào nầy đã mặc một hình thức rất
cụ thể khi "Hội Ðồng hiệp nhất các Giáo Hội" được thành lập năm
1948 tại Amsterdam. Người Công Giáo đã tham dự vào phong trào
bằng tuần Bát Nhật cầu nguyện cho hiệp nhất các Kitô hữu (từ
ngày 18 đến 25 tháng giêng mỗi năm). Ngoài sự tham gia đó, người
ta đã không thể nói đến một phong trào hiệp nhất trong Giáo Hội
Công Giáo, mặc dù các Ðức Giáo Hoàng đã nhiều lần mời gọi những
cộng đoàn ngoài Kitô giáo hãy đến với Giáo Hội phổ quát. Chắc
hẳn có nhiều người Công Giáo, với tư cách cá nhân, đã hoạt động
cho việc hiệp nhất các Kitô hữu, như cha Paul Couturier (+1953)
và cha Lambert Beaudoin dòng Benedictô (+1960). Dầu vậy, phong
trào hiệp nhất nơi những người Công Giáo trước tiên đã nhờ vào
hoạt động của Văn Phong Hiệp Nhất các Kitô hữu rất nhiều. Hơn
nữa, công cuộc chuẩn bị Sắc Lệnh về Hiệp Nhất và chính sự tán
dương của Công Ðồng Vaticanô II đã góp phần dồi dào vào việc đào
luyện tâm thức hiệp nhất cho toàn thể các Giám Mục Công Giáo.
Sắc Lệnh được Công Ðồng phê chuẩn, sự kiện nầy là một biểu hiện
sáng chói của tâm thức ấy.
Từ đó, chúng ta có thể thẩm định tầm quan
trọng của Sắc Lệnh về Hiệp Nhất. Quả thực, theo ngôn từ của Ðức
Hồng Y Bea, Sắc Lệnh đã biểu lộ lập trường chính thức của quyền
tối cao trong Giáo Hội Công Giáo trước vấn đề hiệp nhất các Kitô
hữu nói chung và trước phong trào hiệp nhất nói riêng. Sắc Lệnh
không chỉ trình bày một giáo thuyết, nó còn là một hành động:
qua Sắc Lệnh đó, Công Ðồng đã ủy thác cho Giáo Hội Công Giáo
nhiệm vụ hiệp nhất. Sắc Lệnh đã tạo nên một bầu khí Kitô giáo
đầy tình huynh đệ giữa những phần tử của Giáo Hội Công Giáo và
các anh em ngoài Công Giáo. Nó còn là khởi điểm cho nỗ lực hiệp
nhất của Giáo Hội Công Giáo sau Công Ðồng.
Sắc Lệnh nhấn mạnh một số điểm quan trọng
đối với phong trào hiệp nhất. Tất cả những ai đã được rửa tội
đều kết hiệp với Chúa Kitô và thật sự là anh em với nhau trong
Người. Qua phép Rửa Tội, họ cũng hiệp thông với Giáo Hội Công
Giáo một cách nào đó, cho dù mối thông hiệp này chưa toàn hảo.
Những Kitô hữu ngoài Công Giáo cũng thừa hưởng các sản nghiệp
phong phú đích thực về chân lý và ân sủng. Chúa Thánh Thần sử
dụng các cộng đồng Kitô giáo khác nhau như những khí cụ ân sủng.
Cho nên, những hành vi thánh mà họ thực hiện có thể làm nẩy sinh
và tăng triển đời sống ân sủng của họ. Vậy nên Sắc Lệnh công
nhận rằng: tín đồ của những cộng đồng ly khai này có khả năng
đạt được ơn cứu rỗi. Tuy nhiên, Sắc Lệnh không che dấu những gì
tách biệt chúng ta khỏi các anh em Kitô hữu không Công Giáo. Họ
không thừa hưởng sự hiệp nhất trọn vẹn mà Chúa Giêsu Kitô đã
muốn ban phát cho tất cả những ai Người đã sinh thành và bồi
dưỡng trong chính một thân thể. Vì thế, họ không hưởng thụ hết
tất cả những kho tàng thiêng liêng Chúa Kitô đã ký thác trong
Giáo Hội Người. Sau hết, Sắc Lệnh vạch ra một chương trình hành
động hiệp nhất bao la. Kế hoạch này mở nhiều viễn ảnh rộng lớn
và cống hiến một sự chọn lựa đề mục thật phong phú để đối thoại
với những anh em ly khai của chúng ta. Một nhận xét về cách dụng
ngữ của Sắc Lệnh có thể thật hữu ích. Thông thường, danh từ
"Hiệp Thông" chỉ định những cộng đồng Kitô ngoài Công Giáo,
không phân biệt Ðông Phương ly khai, Anh Giáo hay Tin Lành và
không thẩm định giá trị tín lý của những cộng đoàn khác nhau
này. Danh từ "Giáo Hội" thỉnh thoảng được áp dụng cho những cộng
đoàn đông phương ly khai, những cộng đoàn quả thực có cơ cấu của
một Giáo Hội. Lúc đề cập đến anh em Tin Lành, Sắc Lệnh nói đến
những Giáo Hội và những "cộng đoàn" giáo hội. Những kiểu danh
xưng ấy lúc đó hiểu theo một nghĩa rộng. Bởi lẽ, theo nghĩa hẹp,
danh từ Giáo Hội dường như dòi buộc một cơ cấu bí tích và phẩm
trật; cơ cấu nầy, nói cho đúng, không thấy có nơi những anh em
Tin Lành. Hơn nữa, có vài nhóm Tin Lành từ khước danh hiệu "Giáo
Hội" ấy. Vì thế "Cộng Ðoàn Giáo Hội" muốn diễn tả những cộng
đoàn tín hữu có vẻ tương tự với một Giáo Hội: đó là một từ ngữ
khá mơ hồ.
còn tiếp |
VỀ MỤC LỤC |
|
TƯỞNG LẦM
|
Chúa Nhật XXIV
Thường niên
(Mc 8,
27-35)
I. TẤM BÁNH LỜI
CHÚA
Chúa Giêsu
và các môn đệ của Người đi tới các làng xã vùng Xêdarê
Philípphê. Dọc đường, Người hỏi các môn đệ: "Người ta nói Thầy
là ai?" Các ông đáp: "Họ bảo Thầy là ông Gioan Tẩy Giả, có kẻ
thì bảo là ông Êlia, kẻ khác lại cho là một ngôn sứ nào đó".
Người lại hỏi các ông: "Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?" Ông
Phêrô trả lời: "Thầy là Ðấng Kitô". Chúa Giêsu liền cấm ngặt các
ông không được nói với ai về Người.
Rồi Người
bắt đầu dạy cho các ông biết Con Người phải chịu đau khổ nhiều,
bị các kỳ mục, thượng tế cùng kinh sư loại bỏ, bị giết chết và
sau ba ngày, sống lại. Người nói rõ điều đó, không úp mở. Ông
Phêrô liền kéo riêng Người ra và bắt đầu trách Người. Nhưng khi
Chúa Giêsu quay lại, nhìn thấy các môn đệ, Người trách ông
Phêrô: "Xatan! lui lại đàng sau Thầy! Vì tư tưởng của anh không
phải là tư tưởng của Thiên Chúa, mà là của loài người". Rồi Chúa
Giêsu gọi đám đông cùng với các môn đệ lại. Người nói với họ
rằng: "Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá
mình mà theo. Quả vậy, ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất;
còn ai liều mất mạng sống mình vì tôi và vì Tin Mừng, thì sẽ cứu
được mạng sống ấy
II. TẤM BÁNH CHIA
SẺ
Trong đời
sống có rất nhiều điều hiểu lầm. Chẳng hạn xưa kia khi thấy mặt
trời cứ sáng mọc tối lặn, người ta tưởng rằng trái đất đứng yên
và mặt trời di chuyển chung quanh trái đất. Nhưng khoa học tiến
bộ đã minh chứng mặt trời đứng yên, chính trái đất mới xoay
chung quanh mình và chung quanh mặt trời.
Trong đời
sống đạo cũng đã có những hiểu lầm như thế. Người ta cứ tưởng
Đấng Cứu thế sẽ uy nghi từ trên mây trời hiện đến. Không ngờ
Người lại do một thôn nữ dưới đất sinh. Người ta cứ tưởng Đấng
Cứu thế phải ngự trong lâu đài sang trọng của vua chúa. Nhưng
không ngờ Người lại sinh ra trong chuồng bò lừa. Người ta cứ
tưởng Đấng Cứu thế phải uy quyền lẫm liệt. Nhưng không ngờ Người
lại quá hiền lành khiêm nhường. Người ta cứ tưởng Đấng Cứu thế
phải đánh đông dẹp bắc, đập tan quân thù, đưa nước Do thái lên
địa vị bá chủ. Nhưng không ngờ Người chịu thua hết mọi người,
chịu hành hạ, chịu sỉ nhục, chịu chết như một kẻ tội lỗi. Người
ta cứ tưởng Đấng Cứu thế là một ông vua có kẻ hầu người hạ.
Nhưng không ngờ chính Người lại quỳ xuống hầu hạ, rửa chân cho
các môn đệ.
Có quan niệm
sai lầm về Thiên chúa, người ta cũng sai lầm về người môn đệ.
Người ta cứ tưởng theo Chúa thì sẽ được chức cao quyền trọng
trong Nước Chúa. Nên bà Giê-bê-đê mới xin Chúa cho 2 người con
là Gio-an và Gia-cô-bê được ngồi bên tả và bên hữu Chúa trong
Nước Chúa. Nhưng không ngờ Chúa không hứa cho chức quyền mà chỉ
hứa cho uống chén Người sẽ uống, nghĩa là phải chết. Người ta cứ
tưởng người làm lớn trong Nước Chúa sẽ được trọng vọng, được
phục dịch. Nhưng không ngờ Chúa lại bảo : “Ai trong anh em
muốn làm lớn thì phải phục vụ anh em”. Người ta cứ tưởng
theo Chúa thì Chúa sẽ cho mọi sự may mắn ở đời, được thành công,
được giàu sang. Nhưng không ngờ Chúa lại bảo : “Ai
muốn theo Ta phải từ bỏ mình đi, vác thập giá mình mà theo”.
Hôm nay, sau
khi nghe các môn đệ báo cáo về dư luận quần chúng, Chúa Giêsu
thấy họ quá sai lầm về Người, về vai trò Cứu thế của Người, về
con đường cứu chuộc. Nên Người đã dậy rõ ràng cho các môn đệ
biết Đấng Cứu thế thực là Con Thiên chúa. Nhưng con đường Người
đi là con đường thập giá. Người phải chịu đau khổ, chịu hành hạ,
chịu sỉ nhụ, và phải chịu chết.
Người cũng
cho các môn đệ biết ai muốn theo Người cũng sẽ phải đi vào con
đường của Người. Phải từ bỏ mình, vác thập giá mình mà theo
Người.
Phải chăng
Thiên chúa muốn hành hạ con người, muốn con người tàn lụi chứ
không muốn con người phát triển, muốn con người phải chịu đau
khổ chứ không muốn con người được hạnh phúc ? Tại sao trên trần
gian, người ta thường hứa hẹn cho những người theo mình hạnh
phúc sung sướng mà Chúa thì làm ngược lại, chỉ hứa cho những
người theo mình thánh giá và đau khổ ?
Thưa, chắc
chắn Chúa muốn cho con người được hạnh phúc. Chính vì muốn con
người được hạnh phúc mà Chúa đã phải xuống trần gian để cứu
chuộc con người. Nhưng thứ hạnh phúc mà Chúa muốn ban tặng cho
con người không phải là thứ hạnh phúc giả tạo dễ dàng và mau
qua. Chúa muốn cho con người được hạnh phúc vĩnh cửu, hạnh phúc
đích thật, hạnh phúc không bao giờ tàn úa. Muốn được hạnh phúc
đó, con người phải kinh qua những vất vả, đau đớn. Đau đớn nhất
là phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình. Những vất vả đau
đớn không phải là vì Chúa độc ác muốn hành hạ con người. Những
đau đớn từ bỏ mình không phải là vì Chúa muốn con người đi vào
tàn lụi diệt vong. Nhưng đó là qui luật, là điều kiện để được sự
sống, được hạnh phúc đích thật.
Chính Chúa
Giêsu cũng phải đi qua con đường thập giá khổ nhục mới đến hạnh
phúc. Chính Người phải kinh qua cái chết đau đớn mới tới ngày
phục sinh vinh quang. Nên Chúa đã nói với các môn đệ : “Ai
muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất ; còn ai liều mất mạng sống
mình vì Tôi và vì Tin mừng, thì sẽ cứu được mạng sống ấy”.
Thành ra, đau
khổ Chúa hứa không phải để hành hạ con người, nhưng là con đường
dẫn con người đến hạnh phúc đích thực. Thập giá và cái chết
không phải để đưa con người vào tàn lụi, nhưng chính là điều
kiện để con người được tái sinh và triển nở trong đời sống mới,
đời sống vĩnh cửu với hạnh phúc không bao giờ tàn.
Những lời
Chúa nói hôm nay, tuy khó nghe và khó chấp nhận. Nhưng đó là sự
thật và là con đường đưa ta đến hạnh phúc và sự sống vĩnh cửu.
Chúa đã không lừa mị ta, không hứa hẹn cho ta những gì dễ dãi,
chóng qua. Chúa chỉ cho ta đường ngay nẻo chính. Chúa mời gọi ta
phải dũng mạnh, can đảm và quyết liệt trong cuộc chạy đua dành
lấy hạnh phúc Nước Trời.
Lạy
Chúa, xin cho con biết từ bỏ mình, vác thập giá mình mà bước
theo Chúa. Amen
III. TẤM BÁNH HÓA
NHIỀU
1.
Đâu là những hiểu sai lầm về Chúa?
2.
Đâu là những hiểu lầm về người môn
đệ của Chúa?
3.
Có phải Chúa muốn ta khổ sở khi
bảo ta phải từ bỏ mình hay không?
4.
Tại sao Chúa chịu đau khổ?
+Giuse Ngô Quang Kiệt
- Tổng Giám mục Hà nội |
VỀ MỤC LỤC |
|
ĐUÔI THẮC MẮC VỚI ĐẦU
|
*
Chuyện ngụ ngôn kể:
Ngày nọ cái đuôi con rắn phàn nàn
với đầu rắn rằng: Tại sao tôi cứ phải theo anh hoài? Ai đặt anh
chỉ huy tôi, việc gì mà tôi phải lẽo đẽo theo anh như tên đầy
tớ.?
Bây giờ
phải đổi lại, từ nay tôi đi trước, anh đi sau, anh phải theo
tôi. Cái đầu không phản đối gì, đồng ý cho đuôi đi trước. Đuôi
thỏa chí uốn éo lắc lư, rất có vẻ là người dẫn đường; nhưng vì
không thấy đường nên đuôi vấp lung tung, đụng vào đá sắc ạnh,
chui vào bụi gai, bò xuống hố nước, va cả vào đống lửa ! May mà
cái đầu nhanh chóng giật lùi, nếu hkông thì đã cháy toàn thân.
Từ đấy, đuôi chấp nhận đi sau, không còn dám đòi quyền dẫn đường
nữa ! !
* Một
phút hồi tâm: Câu chuyện trên không hàm ý khuyên tôi
phải cam(yên) phận, vì cuộc sống là phải vươn lên, có người chịu
sự lãnh đạo rồi dần dần trở thành người lãnh đạo.
Nhưng
câu chuyện cho thấy một trật tự phải có trong mọi tổ chức để
tránh rắc rối. Nguyên nhân của mọi phiền toái, dường như thường
bắt đầu từ một người không thoả mãn với vị trí hiện tại của
mình. Sự bất mãn ngấm ngầm khiến họ không chu toàn nhiệm vụ hiện
tại, mà lại mơ tưởng đến công việc của người khác, thường là
công việc vượt quá khả năng của họ. Tình trạng này dẫn đến việc
xoi mói lẫn nhau: không ai nể ai; chẳng có trên có dưới, ai cũng
cho mình là hay, là đúng; nên chia rẽ và đánh mất sự hoà hợp cần
thiết.
Trong
Cộng đoàn, Xã hội luôn phải đối diện với những “cái đuôi” thích
làm đầu, thì Hội thánh sẽ thường xuyên chịu đựng những người
không chu toàn phần việc của mình, mà chỉ thích tạo nên những
rắc rối, thích dành quyền điều hành. Chúa muốn Hội thánh phải có
trật tự, để duy trì vững mạnh, mỗi thuộc viên phải hiểu chức
phận của mình và mối liên hệ của mình với Chúa Kitô, vì Người là
ĐẦU.
Tuy vậy,
lời Đức Cha Đaminh Nguyễn văn Lãng, GM Xuân Lộc đã nhắc nhở các
chức sắc như sau: “Anh em không phải là cánh tay nối dài, bảo
đâu làm đấy; nhưng phải biết phát huy sáng kiến của mình khi
phục vụ”.
Thánh
Phaolô đã so sánh mọi người với thân thể: “Ví như thân thể
người ta chỉ là một, nhưng lại có nhiều bộ phận, mà các bộ phận
của thân thể tuy nhiều…thì Đức Kitô cũng vậy… (1 Cor12,
12-27)
Phó tế: GB Nguyễn văn Định
* johndvn@yahoo.com |
VỀ MỤC LỤC |
|
Nhân năm Linh Mục:
LINH MỤC VỚI NHỮNG CHỦ QUAN |
Mỗi linh mục có những khác biệt riêng.
Những khác biệt riêng đó làm nên một số chủ quan nơi mỗi linh
mục. Có những chủ quan tốt. Có những chủ quan vô hại. Có những
chủ quan đáng ngại. Ở đây, tôi xin chia sẻ suy nghĩ của tôi về
một số chủ quan đôi khi gây ảnh hưởng bất ngờ đáng ngại cho chức
vụ linh mục. Tôi dựa vào Phúc Âm.
1/ Chủ quan, khi nghĩ
quá tốt về mình
Phúc Âm thánh Matthêu ghi lại chi tiết sau
đây về thánh Phêrô:
"Hát thánh vịnh xong, Đức Kitô và các
môn đệ ra đi lên núi Ôliu.
Bấy giờ Đức Kitô nói với các ông:
Đêm nay tất cả anh em sẽ vấp ngã vì
Thầy... Ông Phêrô liền thưa: Dầu tất cả có vấp ngã vì Thầy đi
nữa, thì con đây cũng chẳng bao giờ vấp ngã. Đức Giêsu bảo ông:
Thầy bảo thật anh: Nội đêm nay, gà chưa kịp gáy, thì anh đã chối
Thầy ba lần. Ông Phêrô lại nói: Dầu có phải chết với Thầy, con
cũng không chối Thầy" (Mt
26,30-35).
Quả quyết của thánh Phêrô là rất chân
thành. Nhưng ngài chỉ thấy một, mà không thấy mười. Ngài không
thấy tình hình bên ngoài đang xấu đi một cách bi đát. Quyền đạo
nhất định loại trừ Chúa Giêsu một cách quyết liệt. Đang khi đó,
các môn đệ Chúa, trong đó có thánh Phêrô, đang tới lúc mệt mỏi,
không còn muốn cầu nguyện và thức nổi với Thầy. Tất cả đều là sự
thực. Nhưng thánh Phêrô không nhận ra. Ngài chủ quan. Ngài nghĩ
quá tốt về mình. Chủ quan đó là tai hại. Bởi vì nó dẫn tới việc
Phêrô chối Chúa. Đó là một bất ngờ đau đớn. Nguyên do là quá chủ
quan về mình, cho mình là vững mạnh, mà thực ra là quá yếu.
Chủ quan trên đây của thánh Phêrô cũng có
thể xảy ra cho bất cứ linh mục nào. Đôi khi sự suy sụp vấp ngã
không do những chủ quan lớn, nhưng do những chủ quan nhỏ.
2/ Chủ quan, khi tưởng ý
muốn của mình là hợp ý Chúa
Phúc Âm thánh Matthêu kể:
"Từ lúc đó, Đức Giêsu Kitô bắt đầu tỏ cho
các môn đệ biết: Người phải đi Giêrusalem, phải chịu nhiều đau
khổ do các kỳ mục, các thượng tế và kinh sư gây ra, rồi bị giết
chết, và ngày thứ ba sẽ sống lại.
Ông Phêrô liền kéo riêng Người ra và bắt
đầu trách Người: Xin Thiên Chúa thương đừng để Thầy gặp phải
chuyện ấy. Nhưng Đức Kitô quay lại bảo ông Phêrô rằng: Satan,
lui lại đàng sau Thầy. Anh cản lối Thầy. Và tư tưởng của anh
không phải là tư tưởng của Thiên Chúa, mà là của loài người"
(Mt 16,21-23).
Chúa Giêsu nặng lời với thánh Phêrô. Chúa
cho ngài biết tư tưởng của ngài coi như tốt, nhưng thực sự không
tốt vì không hợp ý Chúa. Không hợp ý Chúa xem ra không có gì quá
tệ, thế mà Chúa Giêsu mắng Phêrô là Satan. Thiết tưởng đó là một
cách Chúa dùng, để dạy thánh Phêrô nhận ra rằng: Không gì nguy
hiểm cho bằng chủ quan nghĩ rằng: tư tưởng của mình là tư tưởng
của Chúa.
Chủ quan nguy hiểm trên đây cũng có thể xảy
ra cho các linh mục. Chủ quan đó dễ làm an tâm chính bản thân
linh mục, đồng thời cũng dễ trấn an thuyết phục người khác, khi
thực hiện các chương trình do linh mục đề xướng.
3/ Chủ quan, khi dùng
những cách không xứng để bảo vệ Chúa
Phúc Âm thánh Matthêu kể:
"Bấy giờ, họ tiến đến, tra tay bắt Đức
Kitô. Và kia, một trong những kẻ theo Đức Giêsu liền vung tay
tuốt gươm của mình ra, chém phải tên đầy tớ của thượng tế, làm
nó đứt tai. Đức Giêsu bảo người ấy: Hãy xỏ gươm vào vỏ, vì tất
cả những ai cầm gươm sẽ chết vì gươm. Hay anh tưởng là Thầy
không thể kêu cầu với Cha Thầy sao? Người sẽ cấp ngay cho Thầy
hơn 12 đạo binh thiên thần! Nhưng như thế, thì lời Kinh Thánh
ứng nghiệm sao được" (Mt
26,50-54).
Theo các vị cắt nghĩa Kinh Thánh, thì người
tuốt gươm bảo vệ Chúa Giêsu chính là thánh Phêrô. Lại một lần
nữa, ngài chủ quan, tưởng rằng dùng vũ lực để bảo vệ Chúa là
việc phải làm. Nhưng lại một lần nữa, Chúa Giêsu cho ngài biết:
Việc ngài làm như thế là sai. Chúa Giêsu không những không khen,
mà còn trách.
Chủ quan trên đây của thánh Phêrô cũng có
thể xảy ra nơi các linh mục. Các ngài phản ứng trước những xúc
phạm đến Chúa, đến Hội Thánh Chúa, bằng nhiều cách. Đôi khi cũng
bằng bạo lực, bạo ngôn và mưu lược bất xứng. Những chủ quan như
thế đều không được Chúa Giêsu chấp nhận.
4/ Chủ quan, khi giới
thiệu Chúa một cách sai lầm
Thời Chúa Giêsu, các người lãnh đạo tôn
giáo hay giới thiệu Thiên Chúa như một Thiên Chúa nghiêm khắc,
xa cách, hay kết án, luận phạt. Ý thức điều đó, Chúa Giêsu đã
nói với ông Nicôđêmô:
"Quả vậy, Thiên Chúa sai Con của Người
đến thế gian, không phải để lên án thế gian, nhưng để thế gian,
nhờ Con của Người mà được cứu độ"
(Ga 3,17). Với lời trên đây, Chúa Giêsu đã đưa hình ảnh Thiên
Chúa xót thương ra, để đẩy lùi mọi thứ hình ảnh chủ quan, sai
lạc về Thiên Chúa. Thời nay linh mục cũng có thể đôi khi rơi vào
thứ chủ quan nguy hại đó.
5/ Để tránh các chủ quan
nguy hiểm
Thời nay, những thứ chủ quan trong lãnh vực
tu đức, mục vụ, truyền giáo xem ra càng ngày càng nhiều. Rất cần
phân định những chủ quan nào là vô hại và những chủ quan nào là
nguy hiểm. Phân định không dễ. Nhưng chúng ta có hy vọng tránh
được nhiều chủ quan nguy hiểm, nếu chúng ta cầu nguyện hằng
ngày. Cầu nguyện không dừng lại ở đọc kinh, mà còn đi vào chiêm
niệm. Để những hiểu biết về Chúa Giêsu thấm sâu vào tâm tình của
ta, đến mức dung mạo sống động Chúa Giêsu dần dần thay đổi tâm
hồn ta.
Việc tự đào tạo thường xuyên đó nên được
kèm với việc bồi dưỡng trình độ văn hoá trí thức đạo đời. Bởi vì
trình độ văn hoá trí thức cao và sâu, cũng giúp con người bớt
được nhiều thứ chủ quan nguy hại.
GM. GB. Bùi Tuần
|
VỀ MỤC LỤC |
|
PHÁT DIỆM ƠI ! YÊU THƯƠNG MẤY CHO
VỪA !
|
Mừng Giáo Phận Phát Diệm có Vị Chủ
Chăn Mới :
Giám Mục Giuse NGUYỄN NĂNG .
-----------------------
Nhớ làm sao
những tháng năm dịu ngọt,
Thương làm sao
những năm tháng Quê xưa,
Phát Diệm
ơi ! Yêu thương mấy cho vừa ,
Hồn thơ cũ tìm
về bao kỷ niệm !
Đây Kim Sơn đất
tân bồi Phát Diệm,
Đất doanh điền
Nguyễn công Trứ khổ công,
Đây Thánh Đường
mang đậm nét Phương Đông,
Kỳ công do bàn
tay Cha Trần Lục.
Hạt giống Phúc
Âm nhiều đời hun đúc,
Bao Vị Anh hùng
Tử Đạo hiên ngang,
Tô thắm đẹp
trang Giáo sử vẻ vang,
Cùng xây đắp
Niềm tin cho Giáo Hội.
Ngôi Giáo đường
vang hồi chuông mời gọi
Mái Phương Đình
lộng gíó mát chiều hôm,
Cuốn bước chân,
nâng nhẹ bổng tâm hồn,
Đi theo mẹ buổi
kinh chiều êm ả.
Nhưng Tháng Hoa
là vui hơn tất cả,
Hoa muôn màu
tung cánh nhẹ rơi rơi,
Chiêng trống rền
vang giục giã từng hồi,
Rước kiệu Mẹ
vòng quanh ao hồ rộng.
Tượng Chúa Làm
Vua giữa trời gió lộng,
Giang cánh tay
che chở cả đoàn chiên,
Tràn ngập thương
yêu,chan chứa dịu hiền,
Hồng ân Chúa
lung linh soi bóng nước.
Những Giáng Sinh
đẹp trong mơ ngày trước,
Đêm muôn màu vào
Lễ Hội Hoa Đăng,
Rợp trời sao toả
ánh sáng Cung Hằng,
Lòng ngây ngất
mừng Hài Nhi Giáng Thế.
Nhà Hội Quán
Chúa Nhật tham dự Lễ,
Ngàn học sinh
Trần Lục rất nghiêm trang,
Hồn trắng trong
theo khúc nhạc ca vang,
Đại Nhạc Kịch ‘
Mi-Sa ‘ nơi Hí viện.
Tuổi học trò
đáng yêu đầy kỷ niệm,
Bỗng một ngày
bày ma quỉ lộng hành,
Gieo tang thương
phá huỷ cả tuổi xanh,
Tôi ngậm ngùi xa
Quê từ ngày ấy.
Nơi xứ người nhớ
Quê xưa biết mấy,
Nhưng hôm nay
bỗng rạo rực con tim,
Hồi sinh Sức
sống,mãnh liệt Niềm tin,
Với Vị Chủ Chăn
“ Hiệp Thông & Phục Vụ “
Giáo Đường reo
vang hồi chuông qui tụ,
Gọi Đàn Chiên nô
nức từ muôn phương,
Rừng cờ bay,biểu
ngữ ngập tràn đường,
Ngày Đại Hội
Mừng Kỷ Nguyên Hy Vọng.
Lòng nao nức lại
dâng tràn sức sống,
Yêu làm sao
những năm tháng Quê xưa,
Phát Diệm
ơi ! Thương nhớ mấy cho vừa,
Dâng Kinh nguyện
An Bình cho Giáo Phận .
Đinh văn Tiến Hùng
( Người con viễn xứ Phát Diệm )
|
VỀ MỤC LỤC |
|
NỖI LÒNG NGƯỜI GIÁO DÂN HÀ NỘI
|
Một rừng biểu ngữ
Tối ngày
08-09-2009, sau lễ tấn phong cha Giu-se Nguyễn Năng làm giám mục
Phát Diệm, tôi đã nghe bạn bè nói đến các biểu ngữ được trương
lên tại quảng trường nhà thờ Phát Diệm. Chuyện cờ xí hay biểu
ngữ trong các dịp lễ hội không phải là chuyện lạ, thế nhưng khi
vào trang mạng Vietcatholic xem các hình ảnh, tôi không thể tin
vào mắt mình. Nhìn những tấm hình trên mạng, ta có thể đọc được
các nội dung sau đây :
– Chúc
mừng Đức Tân Giám mục. Giáo dân Tổng Giáo phận Hà Nội yêu mến
Đức Tổng Giu-se. Chúng con luôn vâng phục và đồng hành cùng Đức
Tổng.
– Chúng
con biết ơn Đức Tổng Hà Nội.
– Đức Tổng
Hà Nội là chứng nhân của công lý và sự thật.
– Đức Tổng
Giám Mục Hà Nội – chúng con yêu mến Ngài.
– Đức Tổng
Giám Mục Hà Nội – trong trái tim của chúng con.
– Đức Tổng
Giám Mục Hà Nội, vị Mục tử hy sinh mạng sống vì đoàn chiên.
– Đức cha
Cao Đình Thuyên, vị Giám mục cao niên can trường.
Cố ý lạc đề
Hồi tôi còn
đi học, bài luận văn của chúng tôi có khi bị phê là “lạc đề”.
Khi thầy hay cô giáo cho một đề tài để phân tích hay bình luận
mà mình đi ra ngoài, hoặc là nói chuyện nọ xọ chuyện kia nên bị
phê là “lạc đề” thì cũng là chuyện bình thường thôi. Nay khi anh
chị em giáo dân Hà Nội đi dự lễ tấn phong giám mục Phát Diệm, mà
chúc mừng, tung hô Đức Tân Giám mục Phát Diệm, thì chẳng có gì
đáng nói. Đàng này rõ ràng là họ cố ý lạc đề : Ngay sau câu
Chúc mừng Đức Tân Giám Mục là một lời xác quyết : Giáo
dân Tổng Giáo phận Hà Nội yêu mến Đức Tổng Giu-se. Chúng con
luôn vâng phục và đồng hành cùng Đức Tổng. Chưa hết. Bên
cạnh biểu ngữ đó, còn có rất nhiều biểu ngữ khác bày tỏ sự
ngưỡng mộ, lòng gắn bó, tâm tình biết ơn đối với Đức Cha Giu-se
Ngô Quang Kiệt, Tổng Giám Mục Hà Nội.
Vì lý do nào ?
Những người
tò mò có thể đặt câu hỏi : Vì lý do nào mà Đức Tổng Kiệt được
yêu mến như vậy ? Và đây là câu trả lời : Đức Tổng Hà Nội là
chứng nhân của công lý và sự thật. À, ra thế ! Giữa cái xã
hội đảo điên này, khi ngày ngày tai nghe mắt thấy bao nhiêu điều
dối gian xảo trá, khi bao nhiêu chuyện bất công oan trái cứ
chồng chất như núi như non, mà ít ai dám công khai lên tiếng,
thì làm chứng cho công lý và sự thật là điều cao quý biết chừng
nào ! Lời chứng càng có thế giá khi phát xuất từ một người ở vị
thế nổi bật như một Tổng Giám Mục. Nhất là khi người làm chứng
không phải là người chỉ đưa ra những lời nói hoa mỹ, những
nguyên tắc trừu tượng xa xôi, nhưng là người sẵn sàng trả giá
cho niềm tin của mình, như nội dung một biểu ngữ khác : Đức
Tổng Giám Mục Hà Nội, vị Mục tử hy sinh mạng sống vì đoàn chiên.
Thế thì chẳng có gì đáng ngạc nhiên khi người được cộng đồng Dân
Chúa mến yêu kính nể, là người đã thể hiện Lời Chúa Giê-su :
Không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người dám hy
sinh tính mạng vì bạn hữu của mình (Ga 15,13).
Do đâu giáo dân Hà Nội thấy cần
bày tỏ lòng yêu mến của mình ?
Sở dĩ giáo
dân Hà Hội thấy cần bày tỏ nguyện vọng, tâm tư của mình qua việc
công khai gắn bó với vị lãnh đạo của mình, là vì thời gian gần
đây, đã có không ít tin đồn Đức Tổng Giám Mục Hà Nội nộp đơn xin
từ chức. Hơn một lần, chính quyền Hà Nội đã công khai bày tỏ ước
muốn thấy Đức Tổng Kiệt ra đi, ít là khỏi thủ đô Hà Nội. Thế
nhưng quyền cách chức lại ở trong tay Đức Giáo Hoàng, mà muốn
cách chức phải có lý do. Thế thì vào lúc Toà Thánh nóng lòng
muốn tái lập bang giao giữa Vatican với Hà Nội, phần Đức Giáo
Hoàng thì muốn thăm Việt Nam, ta có thể đoán Nhà Nước Việt Nam
sẵn sàng dùng Đức Tổng Kiệt như một lá bài để mặc cả. Và nếu Nhà
Nước muốn nhờ Hội Đồng Giám Mục Việt Nam làm trung gian để thực
hiện kế hoạch nói trên, thì cũng chẳng có gì khó hiểu cho lắm.
Điều mà phía cộng đoàn tín hữu lo sợ, là đang có những sự sắp
đặt trên đầu mình, và tới một lúc nào đó, sẽ phải đứng trước
những sự đã rồi. Khi đó thì chỉ còn biết gạt nước mắt vâng lời
thôi. Nhưng ít ra người tín hữu muốn được một lần công khai bày
tỏ nỗi niềm. Và cơ hội đã đến.
Đàng sau những biểu ngữ
Mấy chữ vàng
lác đác trên một khung nền đỏ, đâu có là bao nhiêu. Thế nhưng
đàng sau các tấm biểu ngữ, ta dễ dàng đọc được những tâm tư,
tình cảm của anh chị em tín hữu Hà Nội trong một cuộc lễ với
20.000 giáo dân, hơn 400 linh mục, cả ngàn tu sĩ nam nữ, và hầu
hết các Giám Mục của 25 giáo phận. Đây là cơ hội ngàn năm một
thuở để trước mặt cộng đồng Dân Chúa, đứng đầu là các vị lãnh
đạo, người giáo dân Hà Nội trải lòng mình ra. Họ quá biết ý đồ
của nhà cầm quyền Hà Nội. Nhưng họ cũng hiểu rằng ở vào giai
đoạn toàn cầu hoá hôm nay, không thể “đẩy” đức cha Kiệt ra khỏi
Hà Nội, như đã đẩy đức cha Thuận gần 20 năm về trước. Nay thì
quyết định chỉ có thể đến từ Đức Giáo Hoàng. Và đối với Đức Giáo
Hoàng, thì ý kiến đáng quan tâm nhất, tiếng nói có trọng lượng
nhất trong vụ việc này, hẳn là của Hội Đồng Giám Mục Việt Nam.
Qua các biểu
ngữ, giáo dân Hà Nội muốn gửi một thông điệp, và cũng là một lời
van xin thống thiết đến các giám mục : Xin hãy tích cực bảo vệ
người anh em mình. Người ta có thể đẩy Đức Tổng Kiệt khỏi thủ đô
Hà Nội hay khỏi nước Việt Nam, nhưng chắc chắn không thể đẩy
ngài khỏi con tim của người tín hữu Hà Nội.
Và ta có thể
quả quyết mà không sợ sai lầm rằng Đức Tổng Kiệt được kính nể
yêu mến, không chỉ ở giáo khu Hà Nội. Ai đã đi dự lễ tấn phong
giám mục của đức cha Nguyễn Văn Khảm, đều đã rõ điều đó : Khi
giới thiệu các giám mục tham dự thánh lễ, cộng đoàn vỗ tay như
thường lệ. Nhưng vừa nghe xướng tên Đức Tổng Giám Mục Hà Nội,
thì những tiếng vỗ tay giòn giã đã vang lên và kéo dài tưởng
chừng không muốn dứt. Thậm chí có người đứng bật lên, có người
vừa vỗ tay vừa lớn tiếng hoan hô.
Đánh giá theo tiêu chuẩn nào ?
Cách làm của
anh chị em giáo dân Hà Nội còn cho thấy tiêu chuẩn để đánh giá
một mục tử : Không phải là những khả năng trổi vượt của một nhà
hùng biện, một kiến trúc sư, hay một tổng giám đốc điều hành,
nhưng trên hết mọi sự, người mục tử phải là chứng nhân của công
lý và sự thật, chứng nhân của Đấng đã hy sinh mạng sống vì đoàn
chiên, của Đấng đã mời gọi các Tông Đồ : Anh em hãy can đảm,
Thầy đã thắng thế gian (Ga 16,33). Chính vì lúc này hơn lúc
nào khác, lòng dũng cảm là đức tính được chờ đợi nơi người lãnh
đạo, mà bên cạnh các biểu ngữ liên quan đến Đức Tổng Kiệt, ta
còn đọc thấy : Đức Cha Cao Đình Thuyên, vị giám mục cao niên
can trường. Trừ khi cố tình nhắm mắt để khỏi chia lòng chia
trí, còn không ai có thể đọc các biểu ngữ mà không giật mình suy
nghĩ.
Kết luận
Ngày lễ tấn
phong giám mục đã trôi vào dĩ vãng, nhưng chắc chắn nhiều kỷ
niệm còn đọng lại nơi những người tham dự, đặc biệt nơi Đức Tân
Giám Mục Phát Diệm với phương châm “Hiệp thông – Phục vụ”. Và
không chỉ riêng ngài, nhưng tất cả các giám mục hiện diện cũng
thế, nếu đưa mắt nhìn những cánh tay giương cao các biểu ngữ,
nhìn những khuôn mặt rạng rỡ vui tươi, mà còn chút quan tâm đến
công luận, chắc không thiếu điều để cân nhắc đắn đo, để suy đi
nghĩ lại. Còn tôi, nếu được phép ngỏ lời với anh chị em giáo dân
Hà Nội, tôi sẽ nói : Anh chị em của tôi thật tuyệt vời ! Tôi cảm
phục óc sáng tạo của anh chị em. Tôi yêu mến anh chị em.
Sài-gòn, ngày
11 tháng 09 năm 2009
|
VỀ MỤC LỤC |
|
GIA ĐÌNH LÀ VƯỜN ƯƠM NUÔI ƠN GỌI
(CHỨNG TỪ ƠN GỌI, BÀI 8)
|
LỜI MỜ
Paris.
Chủ nhật 13.09.2009, tại Giáo Xứ Việt Nam, chị Nguyễn Công
Thương, giáo lý viên các lớp thêm sức từ nhiều năm nay tại Giáo
Xứ Việt Nam Paris nói chuyện với cộng đoàn về đề tài : «
Gia đình là vườn ươm nuôi ơn gọi ».
Đây
là đề tài học hỏi thứ tám trong chương trình « chứng từ ơn gọi
», được thực hiện vào mỗi chủ nhật thứ hai mỗi tháng, trong «
Năm cầu cho ơn gọi 2009 » tại GXVN Paris. Chứng từ ơn gọi,
·
Bài 1, đã được cha
Nguyễn Bình chia sẻ vào chủ nhật 14.12.08 về vấn đề «Làm sao
biết Chúa gọi mình» ?
·
Bài 2, đã được cha Phan
Tấn Khánh chia sẻ vào chủ nhật 11.01.2009 về đề tài « Tự do
trong đời sống tận hiến ».
·
Bài 3, đã được chị Maria
Vũ Thị Minh chia sẻ vào chủ nhật 08.02.2009 về đề tài «Đời sống
siêu nhiên của người tận hiến ».
·
Bài 4, đã được thầy
Nguyễn Quốc Tuấn, Dòng Tên, chia sẻ vào chủ nhật 15.0302009 về
đề tài : « Vấn đề tiền bạc trong đời sống tận hiến ».
·
Bài 5, đã được chị Marie
Đào Kim Phượng, giáo dân tận hiến « Nữ Trợ tá tông đổ », chia sẻ
vào chủ nhật 19.04.2009 về đề tài : « Đời sống độc thân trong ơn
gọi tận hiến ».
·
Bài 6, đã được cha Hổng
Kim Linh, Hội Xuân Bích, làm mục vụ tại giáo xứ Pháp Notre Dame
ở Boulogne, cựu chủ tịch Hội Tu sĩ Việt Nam tại Pháp trong nhiều
nhiệm kỳ 1976-1980, 1999-2003, chia sẻ vào chủ nhật 10.05.2009,
về đề tài : « Đời sống huynh đệ của người tận hiến »
·
Bài 7, đã được chị
Têrêsa Phương Mai, Trinh Nữ Tận Hiến, chia sẻ vào chủ nhật
14.06.2009, với cộng đoàn về đề tài : « Những đức tính tự nhiên
của người tận hiến ».
GIA ĐÌNH LÀ VƯỜN ƯƠM NUÔI ƠN GỌI
Sau
Phúc Âm, Cha Giuse Nguyễn Thanh Điển đã giới thiệu chị Nguyễn
Công Thương, giáo lý viên từ nhiều năm nay tại Giáo Xứ cho các
em thiếu nhi và mời chị lên chia sẻ với cộng đoàn về đề tài « Gia
đình là vườn
ươm nuôi ơn gọi
(1) ».
Chị
Thương nói :
« Kính
thưa quí cha, quí thầy và quí ông bà, anh chị em,
Hôm
nay, theo lời yêu cầu của Đức Ông con xin được chia sẻ với cộng
đoàn với đề tài : « Gia Đình là vườn ươm nuôi on goị ». Trước
hết con xin trình bầy về ơn gọi tông đồ giáo dân, thứ đến là
những khó khăn của gia đình VN sống ở Pháp và những khó khăn cuả
giới trẻ, con em của chúng ta, sau cùng con xin góp ý gia đình
nên chuẩn bị thế naò để gia đình trở thành khu vườn mầu mỡ ươm
nuôi ơn goi.
Những điều con chia sẻ hôm nay là những điều con đã nghe được
qua các dịp gặp gỡ trao đổi với nhiều phụ huynh và các em học
giáo lý với con trong 30 năm qua, nếu có gì sơ xuất xin cộng
đoàn bỏ qua cho con.
I .Ơn gọi căn bản làm Kitô hữu
Khi nói đến ơn gọi, ai cũng nghĩ ngay đến ơn goị làm Linh Mục,
làm thầy dòng, làm nữ tu và ít khi ai nghĩ đến ơn gọi làm tông
đồ giáo dân ; nhưng bất cứ
ơn gọi
nào, gia đình vẫn là môi trường quan trọng nhất trong việc vun
trồng các Ơn gọi ấy.
Thật ra, mỗi người chúng ta đều được ơn kêu gọi làm kitô hữu,
làm chứng cho Chuá Giêsu. Trong sách Công vụ tông đồ, Chúa Giêsu
trước khi lên trời có nóí với các môn đệ rằng : « Anh em sẽ nhận
được sức mạnh cuả Thánh Thần khi người ngự xuống trên anh em.
Bấy giờ anh em sẽ là nhân chứng của Thầy taị Giêrusalem, trong
khắp các miền Giuđê, Samarie và cho đến tận cùng trái đất».
Kitô hữu chúng ta là những người được sai đi để làm chứng cho
Chúa Giêsu về tình yêu và quyền năng của Ngài :
Thiên Chúa yêu thương chúng ta, đã chọn chúng ta trước khi tạo
thành vũ trụ ; vì yêu thương chúng ta Chúa Cha đã ban con Một
cuả Ngài là Đức Giêsu. Con Thiên Chúa đã xuống thế làm người và
đã chết trên thập giá để cứu chuộc chúng ta, Chúa đã sống laị,
Chúa đã ban cho chúng ta Thánh Thần là chính sự sống cuả Ngài,
để chúng ta được nên một với Ngài và với Chuá Cha.
Ngài cũng ban cho chúng ta khả năng nhận biết Chúa yêu thương
mình và khả năng đáp trả tình yêu Chúa bằng cách sống yêu
thương, sống cho người khác như Ngài. Các linh muc và tu sĩ là
những người được Chúa kêu gọi cách riêng và họ đã đáp trả bằng
cách chọn đời sống tận hiến, để sống ơn goi làm kitô hữu.
Dù sống ơn goi nào đi nữa mà quên mình phải sống yêu thương
trong chân lý nghiã là yêu thương chính mình, và yêu
thương người khác thật tình là một thiếu sót lớn lao vì như thế
không làm chứng cho Chúa và dễ nên cớ vấp phạm cho người khác xa
Chúa, không tin vào Chúa. Đạo của chúng ta là đạo của tình yêu
và chúng ta thờ phượng Chúa trong tinh thần và chân lý, thờ
phượng Chúa trong trái tim của mìn và sống yêu
thương trong mọi tương quan.
II. Môi trường sinh sống của gia đình tại Pháp và những khó
khăn phải đương đầu
“Gia đình thật quan trọng. Chính gia đình quyết định tương lai
của trẻ thơ. Gia đình là vườn ươm. Hạt giống tuổi thơ lớn mạnh
được là nhờ vườm ươm có đầy đủ nước, phân bón và sự ân cần chăm
sóc.Gia đình là bầu khí quyển. Bầu khí có trong lành thì trẻ thơ
mới phát triển được mọi mặt. Gia đình là con đường. Đường có
ngay thẳng có định hướng thì tương lai trẻ mới tươi sáng không
đi vào ngõ cụt cuộc đời.
Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II hằng nhắc nhở về sự thánh thiêng
của gia đình khi Ngài gọi gia đình là nền tảng của Giáo Hội. Đức
Thánh Cha Phaolô VI gọi gia đình là Cung Thánh của Giáo Hội, là
trường học đầu tiên của con cái mà cha mẹ là thầy cô.
Một gia đình mà cha mẹ, con cái siêng năng tham dự Thánh Lễ,
chuyên chăm Kinh Nguyện tại gia, biết dùng Lời Chúa làm ánh sáng
soi đường chỉ lối, luôn sống hoà thuận yêu thương nhau thì đó
chính là gia đình gương mẫu theo Thánh Gia. Từ gia đình tốt này
sẽ trao tặng những người con hữu ích cho xã hội và Giáo Hội.
Đức cố Hồng Y Fx. Nguyễn Văn Thuận cũng từng viết: “Chủng Viện
thứ nhất, Đệ Tử Viện thứ nhất, trường Sư Phạm thứ nhất là Gia
Đình Công Giáo. Không vị giám đốc tài ba nào, hay chuyên môn đến
đâu có thể làm thay cha mẹ được. Nếu cơ sở bậc nhất ấy bị hỏng,
tương lai Hội Thánh và xã hội cũng rung rinh sụp đổ”. (Trich bài
GIA ĐÌNH LÀ VƯỜN ƯƠM của LM Giuse Nguyễn Hữu An)
A Khó khăn cuả cha mẹ
1. Khi đến sinh sống ở Pháp nhiều gia đình công giáo VN cũng như
những gia đình khác gặp khó khăn lớn về ngôn ngữ. Và khó khăn
tìm được việc làm để sinh nhai. Các đòi hỏi cuả nghề nghiệp,
giờ giấc làm việc không phù hợp với nếp sống gia đình : vợ
chồng con cái ít gặp nhau để ãn chung với nhau, trao đổi,
trò chuyện với nhau và đọc kinh chung vói nhau buổi tối.
2.
Nhiều cha mẹ không giỏi tiếng Pháp mà con cái lại quên dần tiếng
Việt, hoặc không biết tiếng việt. Đằng khác, con cái được đi học
nên biết nhiều hơn cha mẹ, khiến có sự chênh lệch, nên khi gặp
nhau thì không biết nói chuyện gì.
3. Ưu tư lớn của một số cha mẹ là mong sao cho con học giỏi,
thành công ở đời có nghề nghiệp tốt mà quên mất đời sống đạo đức
của con, quên sống gương mẫu thánh thiện làm gương cho con, quên
lo giáo dục đức tin cho con về lâu về dài. Có cha mẹ quan niệm
lo cho con được xưng tội rước lễ, thêm sức là đủ rồi; vì thế có
em sau khi thêm sức là bỏ không đi lễ nữa.
4. Lối sống hiện nay của
xã hội không tôn trọng môi trường sống chung với nhau của gia
đình: mỗi ngưòi có một thế giới riêng, nên mất tinh thần đoàn
kết, mất sự quan tâm đến nhau, giúp đỡ nhau. Như vậy làm sao
sống được tinh thần bác ái của Chúa Kitô ?
B Khó khăn cuả con cái
1. Ở trường học các em khó có bạn để chơi, các em bị ức hiếp, bị
cô lập, bị trêu chọc là chinois, chintock, bị kỳ thị, bị khinh
dễ. Hơn nữa các em cảm thấy lạc lõng, kỳ dị vì mình có đạo giữa
các bạn bè không có đạo, thường nghe người ta chế nhạo bài bác
tôn giáo. Hơn nữa các trò chơi, nhũng khám phá mới trên máy vi
tính quá hấp dẵn lôi kéo con cái chúng ta ra khỏi thực tế đi vào
mọt thế giới ảo tưởng.
2. Bị cha mẹ sống đạo bắt buộc con theo mình nhưng cha mẹ không
cho biết tại sao mình đi lễ, tại sao xưng tội, ý nghiã các ngày
lễ, các muà chay, mùa vọng, chúng còn cho giữ đạo là một trò hề
vì không đúng theo Lời Chúa dạy như yêu thương, tha thứ, không
lên án, không xét đoán người khác, không làm cho người những
điều mà mình không muốn người khác làm cho mình.
3. Vào tuổi dậy thì, một số em muốn có bạn chơi đã cố gắng hoà
hợp để sống giống bạn nên cách ăn mặc, chải tóc, nói năng ngang
ngược giống như bạn ở trưòng, nhưng đến khi về nhà thì bị cha
mẹ la mắng, quỡ trách ; thêm vào đó là sự khủng hoãng cuả tuôỉ
dậy
thì nữa.
4. Lối sống âu tây tự do thái quá, đầy dẫy gương mù gương xấu,
thác loạn, không luân lý, cùng với phim ảnh xấu tràn lan, làm
mất đi tính đơn sơ và trong sáng của tâm hồn các em.
5. Vì cớ sinh nhai, một số cha mẹ không gần gũi con cái,
khiến con cái cảm thấy bị bỏ rơi, thiếu tình thương mà bệnh
thiếu tình thương tùy theo mức độ, có thể sinh ra chán nãn, buồn
phiền, không thích học nữa, gan lỳ, xấc láo, ích kỷ, chai đá,
không sáng suốt để nhận định điều hay điều trái, hay đua đòi bắt
chước bạn bè một cách thiếu suy nghĩ.
Như vặy làm sao các em còn tin vào Chúa nữa, không đi lễ nữa, và
làm sao có ơn gọi làm kitô hửu, làm sao có ơn gọi tu trì đây? Dĩ
nhiên cũng có những trường hợp Chúa ban ơn gọi một cách rất hi
hữu.
III . Góp ý
Từ xưa đến nay,
có rất nhiều ý kiến về việc xây dựng gia đình rất hay, rất đầy
đủ nhưng ở đây con xin đưa ra vài đề nghị dựa vào những điều mà
con góp nhặt được qua những lần trao đổi với các phụ huynh và
các em học lớp giáo lý trong 30 năm qua. Mục đích của việc góp ý
hôm nay là làm cho con cái chúng ta ý thức được rằng mình thật
quí giá được Thiên Chúa
yêu thương đặc biệt, được cha mẹ yêu thưong, trân trọng. Với
kinh nghiệm tình thương của cha mẹ dành cho các em, các em sẽ
hiểu được tình thương của Thiên Chúa một cách dễ dàng và giúp em
hiểu được giá trị cao quí làm con cái Thiên Chúa. Một khi hiểu
biết được yêu thương, các em sẽ biết thương mình, biết tôn trọng
chính mình, biết đón nhận những cái hay cái tốt cho mình, biết
yêu thương, tôn trọng người khác, các em nhận thức một cách dễ
dàng những giá trị sâu xa quí giá của truyền thống gia đình việt
nam. Những gương sáng của cha mẹ trong việc sống đức tin sống
động, sẽ thúc đẩy các em bắt chước mà năng tham dự thánh lễ, yêu
thích Lời Chúa, gặp Chúa qua cầu nguyện, qua Lời Chúa và qua các
bí tich để trở thành
những giáo dân có đức tin sống động, hy vong một ngày nào đó
nghe được tiêng Chúa gọi để đi theo Ngài.
Tình thương của cha mẹ, bầu khí lành mạnh của gia đình giúp các
em phát triển được mọi mặt. Nhưng yêu thưong các em một cách cụ
thể như thế nào đây?
1. Trước hết, cha mẹ phảỉ là những người bạn tốt của con cái
với tâm tình rất yêu qúi và trân trọng con mình. Dù bận công
ăn việc làm nhưng luôn cố gắng tìm cách dành thì giờ cho con
cái, tìm cách gần gũi con, nghe chúng tâm sự, biết lắng nghe
những khó khăn của chúng ở trường, khó khăn với bạn bè, về bài
vỡ, những điều ấm ức trong lòng v.
v…để cảm thông, để chia sẻ với con cái. Giúp con cái suy nghĩ,
không áp đặt ý riêng của mình nhưng khéo léo giúp con tìm giải
pháp với sự hướng dẫn của mình.
2. Các con vào tuổi dậy thì có những phản ứng mạnh mẽ có vẽ hổn
láo, xấc xược, những lời nói xúc phạm cha mẹ nặng nề, chúng ta
nên ráng dằn cơn giận, tránh to tiếng quát tháo, đánh đập,
nguyền rủa, dọa nạt, cố gắng hạ giọng, nói với con một cách bình
tĩnh, nhưng cương quyết, nhưng cố giữ bình tĩnh để tìm cách giải
quyết vấn đề. Nếu chúng ta nóng nảy quá thì hậu quả sẽ rất tai
hại.
3. “ Là người Công giáo, chúng ta phải tin tưởng rằng Chúa Thánh
Thần đã và đang hoạt động trong tâm hồn con cái mình ngay sau
khi chúng lãnh nhận Bí Tích Rửa Tội. Bổn phận của chúng ta là
một gương mẫu tốt cho chúng noi theo, uốn nắn chúng theo đường
lối ngay thẳng, nhận thức phải trái và gieo vãi Tin mừng của
Chúa Kitô vào cõi ong non dại và thơ ngậy của chúng. Chúng ta
nói với chúng về Giáo hội, về Ơn gọi phục vụ cho nước Chúa vương
quốc của Chúa Kitô theo chiều hướng tích cực. Đừng chỉ trích hay
phê phán một cách tiêu cực những hành vi sai trái của các linh
mục, tu sĩ hay những người đang phục vụ trong Giáo hội theo
chiều hướng suy nghĩ của mình, bởi chính mình, là bậc cha mẹ,
đôi khi cũng chỉ phán đoán một chiều hoặc hướng theo chiều phán
đoán của kẻ khác
Biết đâu kẻ chúng ta nghe
theo, lại cũng một chiều hay sai lầm. Con cái chúng ta phải thấy
và nghe chúng ta cầu nguyện hằng ngày, cầu nguyện cách quảng đại
cho không chỉ riêng mình nhưng cho Giáo Hội, cho Ơn gọi, cho mọi
người với tâm tình tạ ơn. Chúng ta quan tâm tới chúng từ việc
học hành, sức khoẻ, những thành tích ở học đường, đoàn thể,
những dự phóng tương lai, nghề nghiệp, nhưng tất cả những điều
ấy chỉ là thứ yếu so với đời sống đạo đức, hạnh phúc và là một
người Công Giáo gương mẫu và tốt lành.
4. Tạo một nếp sống giản dị, hiếu thuận trong gia đình
tùy theo điều kiện và lứa tuổi của con cái. Cha Thánh Gioan
Vianney, quan thầy của các cha xứ, có lần được các bậc phụ huynh
trong xứ của Ngài hỏi làm thế nào để giáo dục con cái cách tốt
nhất. Ngài đã khiêm tốn trả lời rằng hãy đem các em đến với Bí
tích Hoà Giải và Thánh Thể thường xuyên hơn. Với lời khuyên ngắn
gọn nhưng hữu hiệu ấy, chúng ta cùng hình dung ra cách nào để
hấp dẫn con cái chúng ta đến với Chúa Giêsu Thánh Thể mà vẫn tôn
trọng sự tự do của chúng. Đức Thánh Chao Phaolô VI nhấn mạnh
rằng thế giới hôm nay có quá nhiều thầy dạy và người ta đã chán
nghe những lời dạy bảo. Nếu người ta nghe lời dạy bảo, ấy là vì
người dạy bảo chính là chứng nhân. Vì vậy, điều quan trọng là
tạo cơ hội để con cái chúng ta nhận ra chính chúng ta là những
người mộ đạo, những chứng nhân của Đức Kitô. Chúng phải thấy
chúng ta là người năng cầu nguyện, tham dự thánh lễ, xưng tội,
đọc Kinh Thánh, lần chuỗi, vv… Chúng phải thấy chúng ta dám hi
sinh những thú vui khác để làm những công việc đẹp lòng Thiên
Chúa như một ưu tiên trong cuộc sống chúng ta. Chúng ta đem con
cái cùng đến nhà thờ tham dự Thánh lễ, và tạo cơ hội để cả gia
đình cùng tham gia các công tác giáo xứ. Khuyến khích các em
tham gia các phong trào Thiếu nhi Thánh Thể, , ban giúp lễ, ca
đoàn, hoặc giới trẻ, vv…
5. Dạy cho con cái về
lòng
thương xót người nghèo khó và bị bỏ rơi. Chúng ta dạy dỗ con cái
đừng chiếm đoạt hay sở hữu đồ chơi một cách bất công hay đánh
giá người khác bằng số lượng tài sản họ có, nhưng chúng ta dạy
chúng biết chia sẻ từ đồ chơi đến cái bánh, viên kẹo và dám chấp
nhận sự thiệt thòi để cảm
thông
với người bị thiệt thòi và bị bỏ rơi. Tùy tuổi tác của con cái,
chúng ta đưa con cái đến thăm viếng kẻ đau yếu, tật nguyền như
nhà thương, viện dưỡng lão, vv… Chúng ta sống và làm gương cho
con cái trong cung cách cư xử với người khác như một món quà
Chúa gửi đến chứ đừng như một phương tiện để lợi dụng.
6. Tiêm nhiễm vào tâm hồn con cái cách thưởng thức cái hay và vẻ
đẹp, dù là thiên nhiên, văn chương, âm nhạc hay nghệ thuật. Sách
vở, báo chí, CDs, băng nhạc, dụng cụ âm nhạc, tác phẩm hội hoạ
trong nhà, các chương trình truyền hình chúng ta cùng xem, những
buổi du ngoạn, nghỉ hè, vv… là những cơ hội chúng ta có thể
dùng
để giải thích cho con cái về giá trị và cách thưởng thức cái
hay, cái đẹp mà Thiên Chúa đã tạo dựng và cứu chuộc. Chúng ta
cần quan tâm đến con cái khi chúng ở nhà một mình với máy TV,
computer, đặc biệt là electronic games hay internet. Những
phương tiện này cần được kiểm soát vì rất dễ bị lợi dụng.
7. Quan tâm đặc biệt về cách hình thành lối sống của con cái bên
ngoài gia đình. Chúng ta nên mạnh bạo khuyến khích con cái đời
sống chung với nhiều thành phần bạn bè. Sinh hoạt trong các hội
đoàn nơi giáo xứ là cách tốt nhất để rèn luyện các em trong lãnh
vực này. Chúng ta có thể hình dung ra câu nói: Không phải tất cả
mọi người đến nhà thờ và tham gia sinh hoạt trong giáo xứ đều là
những người hoàn hảo, nhưng nếu họ là người xấu, họ sẽ chẳng bao
giờ có mặt tại những nơi này. Đời sống chung tuy ngắn ngủi trong
các sinh hoạt đoàn thể nhưng sẽ giúp con cái chúng ta tiêm nhiễm
tinh thần đồng đội và trách nhiệm. Ngoài ra, những chương trình
sinh hoạt lành mạnh và hướng thiện, cũng như học hỏi về giáo
huấn của Giáo Hội, Kinh thánh và tinh thần đạo đức do các phong
trào đề ra, sẽ giúp con cái chúng ta có một cơ sở về nếp sống
đạo hạnh trong tương lai. Chúng ta cũng giới thiệu cho các em
các thánh và đời sống gương mẫu của các ngài và khuyến khích các
em theo đòi đời sống đạo đức ấy.
Chúng ta nên nhớ rằng Ơn gọi để phục vụ vương quốc của Chúa
Kitô không nhất thiết phải là đời sống linh mục, tu sĩ hay tận
hiến trong các dòng tu nhưng tha thiết với Giáo Hội trong các
công tác tông đồ giáo dân cũng là một ơn gọi đáng quí và nên
khích lệ.” (Trích bài GIA ĐÌNH : KHU ĐẤT TỐT CHO ƠN GỌI của JB
Đào Ngọc Điệp).
Năm nay là năm gíáo hộị cầu cho các linh mục, cầu cho ơn gọi.
Muốn có nhiều ơn gọi tu trì, thì trước hết cần có nhiều giáo dân
thánh thiện. Cá nhân có thánh thiện thì gia đình mới thánh
thiện. Muốn có nhiều tín hữu thánh thiện, gia đình thánh thiện
thì phải có nhiều linh mục, tu sĩ thánh thiện. Truyền đạo bằng
lời nói thì thật dễ dàng, nhưng không đưa đến kết quả nếu lời
nói không đi đôi với việc làm.
Ơn gọi giáo dân và ơn gọi tu trì quấn quyện với nhau, bổ túc
cho nhau, không tách rời được. Nếu chúng ta cầu nguyện cho có
nhiều ơn gọi, cho có nhiều linh mục, cho các linh mục, tu sĩ
thánh thiện, chúng ta cũng nên nhớ cầu nguyện cho có nhiều
gíáo dân thánh thiện, cho chính mỗi người chúng ta, cho mỗi gia
đình chúng ta luôn tràn đâỳ tình yêu thương và niềm tin vào
Chúa, luôn sống tốt đời đẹp đạo ».
LỜI KẾT
Những chia sẻ của chị Nguyễn Công Thương, rút ra từ
« những
điều con đã nghe được qua các dịp gặp gỡ trao đổi với nhiều phụ
huynh và các em học giáo lý với con trong 30 năm qua ».
Tổng hợp và đúc kết những điều mà cộng đoàn đã nói với mình
trong 30 năm, chị Thương đã là một cái gương, dọi lại hình ảnh
của cộng đoàn cho cộng đoàn thấy lại mình, thấy lại những điều
mình đã nghĩ, đã thao thức, đã nói ra, đã muốn làm.
Nếu đúng như lời Chị Thương, thì quả là một điều vui mừng cho
cộng đoàn. Vui mừng vì có Chúa ở cùng cộng đoàn. Vì nếu không có
Chúa thì làm sao mà cộng đoàn có thể có được những ý tưởng,
những thao thức, những lời nói và những ý chí, những hành động
cao đẹp như vậy ? Được Chúa hiện diện, nâng đỡ, soi sáng, thúc
dục,… công ấy, nhờ các linh mục và tu sĩ trong Ban Giám Đốc đã
vậy, mà cũng nhờ nhiều ở các giáo lý viên, làm việc kiên trì
trong thầm lặng để đưa Chúa đến cho các em, để kể về Chúa cho
các em.
Xin cám ơn chị Nguyễn
Công
Thương và các giáo lý viên.
Xin chúc cộng đoàn thành công trong ước mong của mình là biến
các gia đình thành vườn ươm và nuôi ơn gọi, ơn gọi làm tông đồ
giáo dân cũng như ơn gọi tận hiến dâng mình cho Chúa.
Paris, ngày 15 tháng 09 năm 2009
Trần Văn Cảnh
Ghi chú :
(1). Sao nguyên bản văn chị Nguyễn
Công Thương đã gởi.
Xin đa tạ chị Thương. |
VỀ MỤC LỤC |
|
HỌC CHẠY HAY HỌC BƠI ?
|
Người ta nói rằng đối với học sinh nước
ngoài, bài học thể dục đầu tiên khi đến trường là bài học bơi.
Còn ở Việt Nam lại là bài học chạy. Lúc nhỏ chạy quen rồi nên
lớn lên chạy đủ thứ : nào là chạy trường, chạy điểm, chạy lớp;
lớn lên nữa thì chạy bằng cấp, chạy chức, chạy quyền. Khi phạm
tội bị bắt thì chạy án, chạy tội, v.v... Kính thưa các loại
chạy!!!
Thử hỏi ở Việt Nam chúng ta hiện nay có
được bao nhiêu trường học đưa môn bơi lội vào chương trình thể
dục ? Đành rằng để có môn bơi lội, cần có hồ bơi, mà muốn có hồ
bơi phải có kinh phí. Nhưng chẳng lẽ xây một hồ bơi mini lại nằm
ngoài khả năng của các trường hay sao ? Đáng tiếc là khi qui
hoạch thiết kế xây dựng các trường học, không hề có chỗ cho các
hồ bơi.
Nhớ hồi còn học phổ thông, những môn thể
dục “trường kỳ kháng chiến” là chạy, nhảy cao, nhảy xa, đẩy
tạ... Toàn là những môn “trời ơi”. Gọi là những môn “trời ơi” vì
khi ra trường rồi, chẳng thấy em nào vác tạ đi đẩy để tập thể
dục, hay nhảy cao nhảy xa để rèn thể lực bao giờ cả. Hoạ may thì
còn môn cầu lông, bóng chuyền, bóng đá. Gần đây, nghe đâu hơn
140 em học sinh ở quận Sơn Trà, Quãng Nam còn được học làm quen
với môn chơi golf nữa. Nghe mà ngứa lỗ tai. Đa số học sinh Việt
Nam là con nhà nghèo, thuộc diện hai lúa ba lúa, vậy mà được cho
đi học thú tiêu khiển của các đại gia và con nhà quí tộc, thì
quả nhiên chỉ ở Việt Nam mới có. Thế mới oách cơ chứ ! Trong khi
một trong những môn học thiết thực là môn bơi lội thì không hề
thấy trong chương trình.
Hậu quả là mỗi năm dịp hè về lại cúng cho
Thuỷ thần Hà bá mấy chục sinh mạng non trẻ oan khiên (thực tế
con số có thể cao hơn vì ở các khu du lịch biển, người ta không
dám đưa tin do sợ mất khách !?). Và cũng báo hại mỗi lần những
người có trách nhiệm dẫn các em đi picnic, dã ngoại hay đi tắm
biển đều thấp thỏm lo âu vì sợ tai hoạ đổ trên đầu mình. Con cái
người ta thường là con một, con cầu con khẩn. Có mệnh hệ gì thì
mình lãnh đủ.
Khi đến Việt Nam, du khách nước ngoài cứ
ngỡ Việt Nam là một “cường quốc về bơi lội” vì nhìn đâu họ cũng
thấy nước, nhất là ở đồng bằng sông Cửu Long, sông rạch chằng
chịt; còn ở các thành phố lớn chỉ cần một trận mưa to, đường xá
thành sông. Vả lại một đất nước nhỏ bé nhưng có đến hơn 3000km
bờ biển, vậy mà tỉ lệ học sinh biết bơi thì hỡi ôi! Một đoàn học
sinh 50 em ra biển Mũi Né, được hỏi em nào biết bơi , thì
có đến 49 em lắc đầu. Một tốp huynh trưởng 30 em được hỏi ai
không biết lội , 28 em đồng loạt đưa tay. Làm sao những
người đưa các em đi không ngại không ngán được!
Thiết nghĩ, trước sự thật phủ phàng này,
ngành giáo dục phải chịu một phần trách nhiệm.
Lm. Giuse Nguyễn Thành Long
|
VỀ MỤC LỤC |
|
BỐN
GIÁ TRỊ CĂN BẢN CỦA ĐỜI SỐNG XÃ HỘI |
HỌC THUYẾT
GIÁO HỘI VỀ VIỆC XÂY DỰNG NGÔI NHÀ SỰ SỐNG (bài 2)
Bốn nguyên
tắc của Học Thuyết Xã Hội Công Giáo gắn liền với bốn giá trị xã
hội, những giá trị phổ quát và là nền tảng cho mọi định chế xã
hội qua mọi thời gian. Bốn giá trị xã hội đó là Sự Thật, Tự Do,
Công Lý và Tình Yêu. Các nguyên tắc và các giá trị này đi chung
và bổ túc cho nhau. Giáo Hội còn nhấn mạnh “Các giá trị ấy chính
là điểm tham chiếu không thể thiếu cho chính quyền”(1). Ở đây
chúng tôi xin sắp xếp trình bày bốn giá trị này theo một bố cục
chung để quí độc giả tiện theo dõi: Nghĩa vụ đối với giá
trị đó; giá trị đó đặc biệt ứng dụng trong lĩnh vực nào;
kết quả của việc sống giá trị đó.
BÀI 2: BỐN GIÁ TRỊ CĂN BẢN CỦA ĐỜI
SỐNG XÃ HỘI
1.
Sự Thật
Nghĩa vụ:
Mọi người có ba nghĩa vụ đối với sự thật: hướng tới sự thật, tôn
trọng sự thật và làm chứng về sự thật một cách có trách nhiệm
(2).
Sống trong
một xã hội mà con người không phân biệt cái thật và giả, cái
đúng cái sai thì các nghĩa vụ này càng cần được thúc đẩy để được
thực hiện cấp bách hơn.
Người ta đang
than phiền và cảnh báo về cái giả dối cứ lan truyền, mà cả trong
giáo dục cũng đề cao cái giả từ lâu. Cái nguy hiểm của giáo dục
sai lạc là nó còn ăn sâu đến lối sống con người về sau này. Do
đó mà Học Thuyết Xã Hội Công Giáo còn nêu một nghĩa vụ nữa: nỗ
lực giáo dục.
Lãnh vực:
Sự thật phải được tôn trọng trong mọi lãnh vực xã hội, nhưng
việc tìm kiếm sự thật cần nhấn mạnh trong hai lãnh vực truyền
thông đại chúng và kinh tế (3).
Truyền thông
đại chúng ngày nay không còn đánh lừa con người được nữa vì có
quá nhiều kênh thông tin chung quanh nó. Một khi đã không tôn
trọng sự thật, các phương tiện truyền thông không còn được tin
tưởng, và trở nên hoang phí.
Kết quả:
Khi sự thật được tôn
trọng, có hai kết quả tích cực cho xã hội: Con người tránh được
các lạm dụng; và dễ hành động phù hợp các đòi hỏi khách quan của
luân lý (4)
2.
Tự Do
“Tự
do là dấu chỉ cao đẹp nhất nơi con người, cho thấy con người
được tạo dựng theo hình ảnh Thiên Chúa”. Và như vậy, tự do là
dấu chỉ phẩm giá con người. (5)
Nghĩa vụ:
HTXHCG dạy rằng mọi
người có nghĩa vụ tôn trọng quyền tự do. Quyền thể hiện tự do,
đặc biệt trong lãnh vực luân lý và tôn giáo, là một đòi hỏi
không thể thiếu trong phẩm giá con người. (6)
Như vậy rõ
ràng khi người ta không tôn trọng tự do của con người, thì người
ta không thể đề cao phẩm giá và nhân vị được. Tự do cũng phải
xây dựng trên sự thật và công lý.
Lãnh vực:
Giáo Hội dạy rằng con
người phải được tự do tìm kiếm sự thật, bày tỏ các tư tưởng tôn
giáo, văn hoá và chính trị của mình. Thứ hai, con người phải
được tự do lực chọn bậc sống, chọn hướng nghề nghiệp, theo đuổi
các sáng kiến kinh tế, xã hội hay chính trị của mình (7).
Kết quả:
Khi tự do được tôn trọng, con người nhận ra giá trị thật của
mình là hình ảnh Thiên Chúa, mình luôn hướng về siêu việt và
biết tự chủ, có cơ hội phát triển về mọi mặt.
3.
Công Lý
Sống trên
đời, người ta ai cũng mắc nợ: nợ Thiên Chúa sự sống và mọi thứ
mình có, nợ mọi người khác trong xã hội. công lý chính là “có
ước muốn kiên định và vững chắc trả những gì mình mắc nợ Chúa và
tha nhân” (8). Công lý là những điều phù hợp với bản chất sâu xa
của con người.
Nghĩa vụ:
Phải tôn trọng các hình
thức của của công lý: công lý giao hoán, công lý phân phối, công
lý pháp lý và công lý xã hội (9). Nói đơn giản hơn, phải tôn
trọng công bằng xã hội, phân phối tài sản hợp lý, luật pháp phải
công bằng, chính trực.
Như thế, khi
công bằng chưa được thực hiện, tài sản của chưa được về đúng chủ
nhân thật của nó… thì chưa có công lý.
Lãnh vực:
Công lý phải đươc thực
thi trong mọi lãnh vực của đời sống con người. Đặc biệt, công lý
cần quan tâm trong các khía cạnh xã hội, chính trị, kinh tế và
các khía cạnh cơ cấu của các vấn nạn và các giải pháp cho từng
vấn nạn.
Kết quả:
Khi công lý được thực thi cùng với bác ái và liên đới, thì nó sẽ
thành con đường dẫn đến hoà bình (10), như gợi ý của Thánh Kinh
(x. Isaia 32,17; Gc. 3,18) “Hoà bình là kết quả của tình liên
đới” (11). Và như vậy, thế giới sẽ tốt đẹp hơn nhiều.
4.
Tình Yêu
Giáo Hội
trung thành với giới răn trọng nhất mà Đức Giêsu đã truyền dạy,
nhấn mạnh rằng công lý mà không có tình yêu thì “công lý có thể
phản bội chính mình”, nghĩa là nỗ lực thực thi công lý lại có
nguy cơ làm phương hại đến công lý. Vì vậy, Giáo Hội dạy “Giữa
các đức tính nói chung, và đặc biệt giữa các đức tính, các giá
trị xã hội và tình yêu, có một mối liên kết rất sâu xa mà chúng
ta cần phải nhận thức càng ngày càng đầy đủ hơn” (12).
Nghĩa vụ:
Tình yêu phải được đề
cao trên tất cả các giá trị khác.
Lãnh vực:
“trong bất cứ lĩnh vực
quan hệ liên vị nào, có thể nói, công lý phải được điều chỉnh
thật nhiều bởi tình yêu, vì như thánh Phaolô nói, tình yêu
hay bác ái vốn ‘nhẫn nại và nhân hậu’ hoặc có thể nói, đó là
tình yêu mang những đặc điểm của lòng thương xót, là cốt
tuỷ của Tin Mừng và của Kitô giáo” (13)
Kết quả:
(14)
-
“Chính từ nguồn cội yêu thương
sâu xa ấy mà các giá trị như sự thật, tự do và công lý đã khai
sinh và phát triển”.
- “tình yêu
và chỉ có tình yêu (bao gồm cả tình yêu nhân hậu mà chúng ta
quen gọi là “lòng thương xót”) mới có khả năng khôi phục con
người trở lại với chính mình”
- “Chỉ có
tình yêu, ngay trong đặc tính của nó là “mô thức của mọi đức
tính”, mới có thể làm sinh động và định hình cho các sự
tương tác trong xã hội, đưa chúng tới sự hoà hợp trong bối cảnh
một thế giới ngày càng phức tạp”
Trên đây chỉ
là tóm tắt hết sức ngắn gọn của bản tóm lược Học Thuyết Xã Hội
Công Giáo. Nhìn lướt qua bản tóm tắt này, chúng ta có thể thấy
được giáo huấn của Giáo Hội sâu xa, phù hợp với bản chất của con
người như thế nào. Học thuyết Xã Hội của Giáo Hội sở dĩ có giá
trị trường tồn bởi vì học thuyết ấy đặt nền tảng trên nhân vị,
phẩm giá con người do Chúa sáng tạo, và cắm rễ sâu vào Lời Chúa
và thánh truyền. Đánh giá về giáo huấn của Giáo Hội, Đức Thánh
Cha Gioan Phaolô II trong Thông điệp Centesimus Annus đã
viết: ““… Giáo huấn xã
hội của Giáo Hội tự nó là một công cụ hữu hiệu để loan báo Tin
Mừng. Thật thế, giáo huấn ấy công bố cho mọi người biết Thiên
Chúa và mầu nhiệm cứu độ của Ngài trong Đức Kitô, và cũng nhờ
đó, mạc khải cho con người biết chính mình. Trong ánh sáng ấy,
và chỉ trong ánh sáng ấy, giáo huấn này đề cập đến hết mọi điều:
nhân quyền của mỗi người, đặc biệt của “giai cấp lao động”, gia
đình và giáo dục, các bổn phận của Nhà Nước, trật tự của quốc
gia và quốc tế, đời sống kinh tế, văn hoá, chiến tranh và hoà
bình, cũng như việc tôn trọng sự sống từ khi thụ thai cho đến
lúc lìa đời”.
Nguyện xin
Mẹ là Mẹ Giáo Hội, giúp chúng con ngày càng hiểu rõ và thực thi
giáo huấn của Giáo Hội và xin Mẹ mở lòng cho những người có
trách nhiệm trong xã hội chúng con, để họ đến gần với công lý,
sự thật, tự do và yêu thương.
Gioan Lê Quang
Vinh
Chú
thích:
(1)
(2) (3) (4) HTXHCG, chương 4, 198.
(5)
(6) Ibid. chương 4, 199.
(7) Ibid.
chương 4, 200.
(8) Ibid.
chương 4, 201. cf. Giáo lý Giáo hội Công giáo,
1807; x. Thánh Tôma Aquinô, Summa Theologiae, II-II, q.
58, a.1: Ed. Leon. 9,9-10: justitia est perpetua et constans
voluntas jus suum unicuique tribuendi.
9) Ibid.
chương 4, 203
(10) Ibid.
chương 4, 205.
11) Đức Giáo
Hoàng Gioan Phaolô II, Thông điệp Sollicitudo Rei Socialis,
39: AAS 80 (1988), 568.
(12) HTXHCG,
chương 4, 204
(13) Ibid,
chương 4, 206. Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, Thông điệp
Dives in Misericordia, 14: AAS 72 (1980), 1224; x. Giáo
lý Giáo hội Công giáo, 2212.
(14) HTXHCG,
chương 4, 204-208. |
VỀ MỤC LỤC |
|
MÙA XUÂN CUỘC ĐỜI
|
Tôi yêu mùa Thu
nhưng thích mùa Xuân. Thu có ngọn gió dịu dàng thì Xuân có nắng
vàng ấm áp thu có cỏ cây ngả màu buồn mơ thì Xuân có chồi nõn
xanh mướt, hoa nở thắm tươi. Thu có mây tím giăng ngang bầu
trời thì Xuân có trời xanh lồng lộng, mây trắng nõn nà. Thu cho
tôi không khí gia đình ấm cúng thì Xuân mời gọi tôi cất bước
lãng du. Thu giúp tôi mở cánh cửa nội tâm để tìm vào nương ẩn
thì Xuân mở cánh cửa đời cho tôi tung cánh hân hoan.
Tôi yêu mùa Thu
nhưng thích mùa Xuân. Tình cảm dành cho mỗi mùa tuy có khác,
nhưng cả hai đều trọn vẹn, tràn đầy. Tuy nhiên dù sao đi nữa,
tôi cũng phải nhận rằng mùa Xuân vui tươi hơn mùa Thu.
Vũ trụ có những bí
mật đáng yêu của nó. Tôi quan sát
một
cành đào khô trong những ngày mùa Đông lạnh lẽo. Cành đào khẳng
khiu trơ trụi, nếu nó không còn gắn liền với cội đào thì người
ta không thể nhận diện ra nó là cành đào nữa. Tôi không ngờ rằng
bên trong cái cành cây đen đủi khẳng khiu đó, sức sống vẫn tiềm
ẩn, mà là một sức sống mãnh liệt. Bên dưới lớp đất chỗ cội đào
mọc lên, nguồn mạch sự sống vẫn tràn đầy, sung mãn; mạch nước
ngọt ngào bổ dưỡng luân chuyển qua đây. Rễ cội đào hút chất bổ
duỡng đó, biến thành nhựa luyện dự trữ trong thân và đẩy chúng
tới các cành cây, cho các cành cây sức sống. Trong sức sống ấy,
những chồi non, những lá mướt, những nụ, những hoa tiềm ẩn, chờ
tới một ngày vũ trụ định trước, làm nẻ lớp vỏ cây khô, vươn ra
chào đón nắng vàng gió mát. Ngày ấy là mùa Xuân.
Cành đào kia chỉ là
một hình ảnh. Vũ trụ còn bao nhiêu bí mật kì diệu và đáng yêu
khác. Những bí mật ấy, hầu như được tỏ lộ rất nhiều trong mùa
Xuân.
Sự luân chuyển của
bốn mùa, chính nó cũng là một bí mật kì diệu. Đời tôi trải qua
biết bao nhiêu mùa Xuân, Hạ, Thu, Đông, nhưng rất ít khi tôi suy
nghĩ về nó. Những điều kì diệu, những phép lạ của cuộc đời xảy
ra quá nhiều khiến cho người ta không còn cho đó là kì diệu, lạ
lùng nữa, nó đã trở thành một chuyện tự nhiên. Thật ra không
phải tự nhiên mà có mùa Xuân, cũng như không phải tự nhiên mà có
những mùa khác trong năm. Sự vận hành kì diệu của trái đất, mặt
trời và thái dương hệ theo chu kì của nó, kéo theo sự thay đổi
của thời tiết, khí hậu, nhiệt độ, khung cảnh không gian, điều
kiện dinh dưỡng và phát triển vạn vật... mới tạo nên các mùa
trong năm. Mỗi điều trong những điều ta vừa lược qua một cách
tổng quát đều là những sự kì diệu to lớn, khoa học dù vạn năng
cũng chưa khám phá ra hết được.
Sự luân chuyển bốn
mùa trong năm khiến cho mùa Xuân theo đúng chu kì mới trở lại.
Người lạc quan thì nói rằng:"Trong mùa Đông có ẩn chứa mùa
Xuân,'' còn người bi quan thì than thở: ''Xuân đang đến
nghĩa là Xuân đang
qua.''
Tuy nhiên, người ta than thở vì mùa Xuân của đất trời màu qua,
không nhiều bằng người ta than thở vì mùa Xuân của cuộc đời quá
ngắn.
Đời người ta cũng có
mùa Xuân. Tuổi trẻ với niềm vui tươi thắm, sức sống dạt dào,
khối óc và trái tim mở ra với muôn tình ý say sưa, cao đẹp...
chính là mùa Xuân của cuộc đời. Ở tuổi ấy, bao nhiêu ước mơ đã
chớm, bao nhiêu lí tưởng sáng ngời đã được vạch ra, bao nhiêu
tình cảm cao thượng đã khơi nguồn, bao nhiêu đam mê cuồng nhiệt
đã trào dâng. Ở tuổi ấy, giấc mộng đời đẹp hơn hoa cỏ mùa Xuân,
ý hướng đời cao hơn trời mây lồng lộng. Nhưng người ta không giữ
mãi được mùa Xuân. "Mộng bền năm xưa chỉ là mơ qua." Ước mơ tàn
héo, lí tưởng đen tối, tình cảm cạn nguồn, đam mê chết lịm,
Người ta đi dần đến
mùa Đông lạnh lẽo của cuộc đời: Mùa Xuân của đất trời đi rồi lại
đến. Nhưng với nhiều người, mùa Xuân cuộc đời đi rồi sẽ không
bao giờ trở lại, và người ta thường chết trong sự giá lạnh của
mùa Đông. Vì vậy, người ta thường kết luận: so với mùa Xuân của
đất trời, mùa Xuân cuộc đời quá ngắn, và rằng Thượng Đế đã bất
công khi cho mùa Xuân đất trời đi, đến theo chu kì của vũ trụ,
còn không cho con người tìm lại được mùa Xuân của cuộc đời mình.
Người ta không biết
rằng Xuân của đất trời đã đến thì bắt buộc phải đi, Còn Xuân của
cuộc đời, nếu người ta biết giữ, khi đến rồi sẽ không còn đi
nữa. Và như thế, cả cuộc đời mình sẽ là một mùa Xuân bất diệt.
Đặc điểm chính yếu
của mùa Xuân đất trời là niềm vui, sự thắm tươi của màu sắc, và
sự đâm chồi nảy lộc của cỏ cây. Với đời người cũng thế. Khi ta
vui, ta tươi tắn, ta còn phát sinh những tư tưởng và tình cảm
tốt đẹp... khi ấy ta còn mùa Xuân. Khi ta còn yêu thương chan
chứa, trái tim ta còn rung động với những tình cảm trong lành,
ta còn cảm xúc vì tình người; khi lí tưởng vẫn còn là ngôi sao
hướng dẫn đời ta; khi ta còn biết ước mơ những điều cao đẹp và
quyết tâm hành động cho những ước mơ đó thành hình; khi ta luôn
sóng an hòa với chính mình, với tha nhân... khi ấy mùa Xuân vẫn
còn mãi trong ta, cho dù có thể làn da ta không còn mịn màng,
đôi môi ta không còn tươi mọng, vầng trán ta không còn phẳng
phiu, tay ta không còn nhanh nhẹn, chân ta không còn vững mạnh
và nhảy nhót như chú sơn dương.
Nhưng làm sao có
được những điều ấy khi thời gian cứ đến, đều đặn và lạnh lùng,
gặm nhấm và tàn phá cơ thể ta, làm cho ta mệt mỏi và chán nản?
Có nhiều phương pháp
huấn luyện cơ thể để sức khỏe tăng cường hay ít ra không giảm
sút quá đáng. Nhưng quan trọng hơn cả vẫn là tinh thần. Tinh
thần được giữ vững thì thân xác cũng vượt qua được những thử
thách cam go. Cụ Tú Lãm trong tác phẩm ''Nửa Chừng Xuân" của
Khái Hưng đã trối lại cho hai con ba bảo vật để giữ được mùa
Xuân của cuộc đời, trước khi cụ bước sang thế giới bên kia, đó
là : ''giữ niềm vui, giữ tâm hồn trong sạch
và bem hết nghị lực
ra làm việc.''
Tôi nghĩ đó là một lời khuyên thật quí báu.
Nhưng có một cách
giữ được mùa Xuân cuộc đời mãi mãi, đó là hướng lòng về Thượng
Đế. Ngài là đấng tạc dựng mùa Xuân đất trời cũng như mùa Xuân
cuộc đời. Ngài làm cho tuổi thanh xuân ta vui tươi. Ngài cũng
chính là mùa Xuân miên viễn. Hướng lòng về Ngài trong mọi giai
đoạn, hoàn cảnh của cuộc đời, ta sẽ như bông hướng dương luôn
hướng về mặt trời để nhận lãnh những tia sáng ấm áp, giữ cho
bông hoa - mùa Xuân cuộc đời ta nở tươi mãi mãi.
Bởi thế, với đất
trời, tôi yêu mùa Thu và thích mùa Xuân. Nhưng với cuộc đời, tôi
yêu thích một mùa Xuân bất diệt.
Nhà Văn Quyên Di |
VỀ MỤC LỤC |
|
HÃY LÀ MỘT BỆNH NHÂN SÁNG SUỐT
|
Các cụ ta xưa nay
vẫn có câu nói “Phúc Chủ, Lộc Thầy” khi đề cập tới mối
tương quan giữa thầy thuốc-bệnh nhân.
Chữa được khỏi bệnh
là nhờ âm đức ông bà của người bệnh còn thầy thuốc chỉ góp phần
khiêm tốn. Đó là vào thời xa xưa, khi mà kiến thức chuyên môn
của các vị lương y căn cứ vào kinh nghiệm của thầy, của chính
mình, chứ không có hướng dẫn quy mô và khoa học thực nghiệm hỗ
trợ.
Ngày nay thì y khoa
học đã tiến rất xa trong việc tìm bệnh, trị bệnh cũng như phòng
bệnh. Kết quả các nghiên cúu được hệ thống hóa, ghi thành cả kho
tài liệu trong sách báo cũng như trên internet để mọi người tham
khảo. Người thầy thuốc phải trải qua cả mươi năm để học hỏi kiến
thức, kỹ thuật chuyên môn, cho nên họ được trang bị khá đầy đủ
trước khi “xuống núi, cứu nhân độ thế”. Họ đóng vai trò
quan trọng trong việc cứu chữa bệnh. Trong khi đó, vì rừng kiến
thức y khoa quá nhiều, người bệnh không thu nhận được hết, nên
họ tùy thuộc vào bác sĩ. “Thôi thì trăm điều “nhờ” ở sự mát
tay của quan đốc”.
Nhưng “nhờ” chưa đủ
mà còn cần “hợp tác” với bác sĩ.
Một bác sĩ tận tâm
cộng với “con bệnh sáng suốt” biết phải làm gì, sẽ dễ
dàng thành công hơn trong cuộc chiến chống lại nan y.
Trước hết là làm
sao có được một bác sĩ mà mình tin tưởng để trao thân, gửi phận
về phương diện điều trị chăm sóc sức khỏe. Bác sĩ nào cũng quan
trọng, nhưng vị lương y gần gũi với mình hơn cả là Bác Sĩ Gia
Đình.
Thay vì điều trị
một cơ quan, bộ phận, một loại bệnh như các bác sĩ chuyên ngành
khác, bác sĩ gia đình được huấn luyện để chữa trị “thượng vàng,
hạ cám” toàn thân người bệnh, dù là nam hoặc nữ, già hay trẻ,
bệnh cấp tính hay kinh niên.
Vị đó cũng là người
thực hiện các xét nghiệm sớm tìm ra bệnh cũng như hướng dẫn bệnh
nhân trong nếp sống hàng ngày để phòng tránh bệnh. Nếu gặp ca
phức tạp, bác sĩ gia đình cũng không ngần ngại hỏi ý kiến hoặc
giới thiệu tới bác bác sĩ chuyên môn khác. Vì y học là lãnh vực
quá rộng lớn, rất khó cho một người có được đầy đủ các kiến
thức.
Ngoài khà năng
chuyên môn cao, bác sĩ tận tâm cũng nên dành cho bệnh nhân một
khoảng thời gian vừa đủ để nghe kể lể rồi giải thích bệnh tình,
trị liệu cho người bệnh.
Cái mục kể lề này
xét ra cũng rất quan trọng.
Sáng suốt, thứ tự
kể hết bệnh trạng, dù là chi tiết tưởng như nhỏ nhặt.
Các điều mà bác sĩ
cần biết gồm có:
- Tất cả các bệnh
hiện có hoặc đã xảy ra trong quá khứ
- Danh sách tất cả
các dược phẩm đang dùng, dù là do bác sĩ cho đơn, mua tự do hoặc
dược thảo.
- Đã chích ngừa
loại bệnh nhiễm nào.
- Y sử thân nhân,
gia đình
- Tại sao tới bác
sĩ hôm nay?
Nghĩa là nói hết
mọi chi tiết về bệnh. Dù là phong tình, giang mai, lậu mủ trong
quá khứ hoặc kém ước tình chăn gối hiện giờ. Thầy thuốc trị bệnh
chứ không phán xét hành vi, hạnh kiểm của mình mà phải e dè, mắc
cỡ.
Trước khi gặp bác
sĩ, nên ghi các điều muốn nói trên miếng giấy, rồi thứ tự trình
bầy. Nhiều khi, vì quá xúc động trước mặt lương y mà mình quên
chi tiết này, dấu hiệu kia, một chuyện thường xảy ra cho mọi
người. Nên nhớ bác sĩ cũng như nhà thám tử điều tra, cần có các
dữ kiện do bệnh nhân cung cấp để tìm phương thức giải quyết vấn
đề
Đừng “chần chừ”,
chờ coi xem bệnh tiến triển ra sao rồi mới đi khám. Vì đôi khi
quá trễ. Một cơn đau bụng ngầm ngầm có thể do ruột dư vỡ mủ.
Phân lẫn những vết máu đỏ tươi có thể do ung thư ruột già. Không
sớm mổ, không đi nội soi ruột ngay thì nhiễm trùng vùng bụng
nghiêm trọng và ung thư đại tràng có thể đã thành hình. Để rồi
tự trách mình coi thường, sao lãng, mà bác sĩ cũng tốn nhiều
công sức điều trị.
Kể rồi cũng cần hỏi
thêm các điều liên quan tới bệnh mà mình chưa biết. Đừng ngần
ngại. Nếu không nêu ra thắc mắc, bác sĩ cho là mình đã thấu
hiểu tất cả các điều mà họ đã nói.
Ghi rõ các chi tiết
cần thiết để khỏi quên. Nhiều bệnh nhân cẩn thận, xin phép bác
sĩ cho ghi âm và mang theo người thân để nhớ hộ.
Đừng tự làm thầy
thuốc, tự cho toa hoặc tự ý thay đổi toa thuốc của bác sĩ. Chỉ
định rằng uống 10 ngày thì cứ uống hết trong 10 ngày, vì bệnh
cần số thuốc như vậy để lành. Ngưng thuốc giữa chừng, gia giảm
liều lượng mà không hỏi ý kiến lương y thì chỉ “tiếp tay” cho
bệnh lâu hết và trở lại mau hơn.
Cũng chẳng nên “bác
sĩ cho tôi kháng sinh này, viên con nhộng kia”, vì lần trước
thuốc đó làm bệnh hết ngay. Mỗi bệnh có nguyên nhân khác nhau,
mỗi tác nhân gây bệnh chỉ nhậy cảm với thuốc riêng biệt.Chứ làm
gì có thuốc trị dứt được bá bệnh như thường nghe quảng cáo trên
đài, trên báo, trên bươm bướm tờ rơi.
Nếu có một bệnh
thường hay tái diễn thì nên cho bác sĩ coi toa thuốc hoặc chai
đựng thuốc cũ để bác sĩ dựa vào đó mà điều trị, với thay đổi đôi
chút. Như vậy tiết kiệm được thời gian. Nhưng đừng tự tiện ra
tiệm mua thuốc đã dùng về uống vì bệnh có thể hơi khác trước,
khiến cho thuốc giảm công hiệu. Và không bao giờ dùng dược phẩm
đã quá hạn, thay đổi mầu sắc, cấu tạo.
Như đã nói, ngày
nay có rất nhiều nguồn cung cấp các kiến thức về bệnh tật, thuốc
men, về điều trị, phòng tránh cũng như những quảng cáo, giới
thiệu. Trên internet, qua truyền thông báo chí. Vì quá nhiều đôi
khi lại trái ngược nhau nên cũng khiến mọi người ngẩn ngơ,
chẳng biết thực hư ra sao. Có người dè dặt nói rằng “Đừng tin
mọi điều mình đọc” kể cũng quá đa nghi. Nhưng cẩn tắc vô ưu.
Trước hết coi xem
kiến thức đó từ đâu mà ra. Do một nhà chuyên môn y học phổ biến
hoặc biên tập, góp ý với bài viết của người ngoài lãnh vực. Đó
là một sự kiện có chứng minh hay chỉ mới là một ý kiến mới được
nêu ra để thăm dò phản ứng. Kiến thức có cập nhật hay là đã quá
xưa, vì hiện nay khám phá khoa học ngày càng tiến bộ, càng
nhiều. Đặc biệt là những “thông tin” có tính cách hướng dẫn làm
sao cho khỏe mạnh mà lại kèm theo giới thiệu một số sản phẩm
“đặc chế, gia truyền” đã được giáo sư này, bác sĩ kia khen ngợi,
đang dùng.
Sáng suốt để hiểu
rõ quyền hạn của người bệnh. Hoa Kỳ có Patient’s Bill of Rights
do Hiệp Hội các Bệnh viện soạn thảo năm 1972 và cập nhật năm
1992 trong đó có ghi các quyền hạn này.
Hy vọng là quê
hương mình cũng sớm có “Bill” tương tự. Để bệnh nhân được chăm
sóc chu đáo, tôn trọng nhân vị. Để biết rằng những gì ghi trong
hồ sơ bệnh lý của mình là mình có quyền coi lại và xin bản sao,
khi cần. Mình cũng có quyền bổ túc điều mình đã khai mà hồ sơ
không ghi lại. Cũng có quyền biết kết quả các thử nghiệm và được
giải thích ý nghĩa. Hồ sơ không được tiết lộ cho ai, ngoại trừ
khi có yêu cầu của cơ quan tư pháp, công lực hoặc y tế dự phòng
để bảo vệ sức khỏe chung.
Kể ra còn nhiều
điếu mà người bệnh sáng suốt cần biết cần làm. Nhưng thực hiện
được các điều kể trên cũng tạm đủ để duy trì sức khỏe tốt rồi.
Bác sĩ Nguyễn Ý-Đức M.D.
Texas-Hoa Kỳ
www.nguyenyduc.com
|
VỀ MỤC LỤC |
LỜI NÓI -
Chuyện phiếm của Gã Siêu |
Ngày xửa ngày xưa có một anh đồ
tể, chuyên môn giết heo. Nghe đồn anh có tay nghề cao, nhà vua
bèn cho gọi anh tới và hỏi :
- Trong con heo, cái gì ăn ngon
nhất ?
Anh trở về và không ngần ngại xẻo
ngay cái lưỡi, đem dâng cho nhà vua.
Ít lâu sau, nhà vua lại cho gọi
anh đến và nói :
- Trong con heo, cái gì ăn dở
nhất ?
Anh cũng lại trở về và không ngần
ngại xẻo ngay cái lưỡi, đem dâng cho nhà vua. Thấy vậy, nhà vua
rất đỗi ngạc nhiên ben hỏi :
- Thế này là thế nào ?
Anh đồ tể bèn làm một màn lý luận
vòng vo Tam quốc, đại khái :
- Phàm trên đời này, tốt hay xấu,
ngon hay dở đều bởi cái lưỡi mà ra.
Nghe xong, nhà vua gật gù, rất
lấy làm tâm đắc và phán :
- Thậm chí lý, thậm chí lý.
Bàn về sự lợi hại của cái lưỡi,
Kinh Thánh đã xác quyết :
- Cái lưỡi mềm, có thể làm gãy cả
xương cứng.
Cái lưỡi, hay nói một cách cụ thể
hơn, ngôn ngữ và tiếng nói chính là một phương tiện Thượng Đế đã
trao ban cho con người, để chuyển đạt những tư tưởng và ước muốn
của mình cho người khác, nhờ đó mà hiểu biết và xích lại gần
nhau hơn, cũng như nhờ đó mà bắc được một nhịp cầu cảm thông.
Ngày nay những nhà chuyên môn
đang nghiên cứu về những thứ ngôn ngữ riêng của loài vật, chẳng
hạn như cá heo. Họ thấy nơi cá heo hình như cũng có một thứ
tiếng nói nào đó để diễn tả những tình cảm của chúng.
Tuy nhiên, ngôn ngữ và tiếng nói
được phát triển tới một mức độ tuyệt vời nhất, thì chỉ được tìm
thấy nơi con người. Vì thế, chúng ta có thể xác quyết một cách
mạnh mẽ mà không sợ sai lầm rằng :
- Con người là một con vật có
ngôn ngữ, có tiếng nói.
Nếu có dịp đi thăm một trường
khuyết tật, một trường nuôi dạy những em bé câm và điếc, chúng
ta mới thấy được sụ bất hạnh mà các em bé ấy phải chịu đựng. Thế
giới của các em bé ây dường như bị thu hẹp lại. Các em bé ấy
diễn tả những ý nghĩ, những mong ước của mình thật khó khăn. Và
người khác cũng khó lòng hiểu được những cử chỉ các em dùng để
thay cho lời nói của mình.
Thế nhưng, ngôn ngữ và tiếng nói
lại như một con dao hai lưỡi, đem lại những cái lợi và những cái
hại, những cái tốt và những cái xấu, tùy theo cách thức chúng ta
sử dụng.
Thực vậy, với ngôn ngữ và tiếng
nói, người ta có thể giúp nhau thăng tiến, chẳng hạn như những
lời chỉ bảo của cha mẹ, những lời giảng dạy của thầy cô, những
lời yêu thương của vợ chồng, những lời an ủi của bè bạn…
Chính vì thế, người ta thường bảo
:
- Lời nói là gói vàng.
- Lời nói là hơi thở của tâm hồn.
Tuy nhiên, với ngôn ngữ và tiếng
nói, người ta cũng có thể tạo nên những đổ vỡ và những khổ đau,
chẳng hạn như những lời dèm pha hạ nhục làm mất danh dự và uy
tín của người khác, những lời bỏ vạ cáo gian làm cho người khác
phải thân bại danh liệt, những lời chửi bới cãi cọ làm cho tình
yêu bị rạn nứt và sụp đổ…
Chính vì thế, người Ả Rập đã bảo
:
- Một nhát lưỡi còn ghê gớm hơn
cả một nhát gươm.
Tương tự như vậy, dân Ăng Lê
thường nói :
- Không nọc nào độc cho bằng nọc
của cái lưỡi.
Trong mục chuyện phiếm hôm nay,
gã xin bàn đến những “hệ lụy” của ngôn ngữ và tiếng nói trên
phương diện xã hội, gia đình và cá nhân.
TRƯỚC
HẾT LÀ PHƯƠNG DIỆN XÃ HỘI.
Vào những mùa bàu bán, từ những
chức vụ cao trọng nhất như tổng thống, nghị sĩ và dân biểu tới
những chức vụ xoàng xoàng bậc trung như hội đồng nhân dân và
trưởng ấp…thì hình như ứng cử viên nào cũng cả tiếng lại dài
hơi, ra sức mà nói. Họ quả quyết thật mạnh mẽ, họ nói năng thật
hùng hồn, họ hứa thì rất nhiều nhưng rốt cuộc khi đã ngồi yên
trong chiếc ghế của mình, thì họ lại làm chẳng được bao nhiêu,
thậm chí còn làm ngược lại những gì mình đã nói và đã hứa. Thành
thử lắm lúc họ đã trở thành…dân hứa lèo, hứa cuội một cách
chuyên nghiệp.
Hiện nay tại Việt Nam xuất hiện
một thứ nghề chuyên mon đi bán nước bọt, dùng lời nói của mình
để kiếm chác. Diễn tả một cách văn vẻ, thì đó là nghề môi giới,
nghề trung gian. Nhưng diễn tả một cách nôm na và bình dân thì
đó là nghề…cò.
Nghề cò này xuất hiện trong mọi
lãnh vực : cò bệnh viện, cò phá thai, cò trường học, cò xuất
ngoại…Thậm chí còn có cả cò lợn, cò lúa. Nghĩa là người nông dân
có tí lúa hay có con heo định bán, thì lập tức cò bay đến để móc
nối để được hưởng tí xái.
Tuy nhiên, chắc hẳn có lần chúng
ta đã cảm thấy bực bội và tức tối trước những luồng dư luận
xuyên tạc, trước những miệng lưỡi thâm độc của người đời.
Sở dĩ như vậy là vì dư luận thì
vốn thường luận dư. Những lời đồn thổi bao giờ cũng phóng đại,
tô màu, không biết đâu mà lường :
- Lưỡi không xương nhiều đường
lắt léo.
Hay như ca dao đã diễn tả :
- Ở sao cho vừa lòng người,
Ở rộng người cười, ở hẹp người
chê.
Cao chê ngỏng, thấp chê lùn.
Béo chê béo trục béo tròn,
Gầy chê xương sống xương sườn
phơi ra.
Thế nhưng, chúng ta lại không thể
nào sống cô độc lẻ loi như một hòn đảo giữa biển khơi, hay như
một pháo đài biệt lập. Trái lại, chúng ta sống là sống với người
khác. Và trong cuộc sống chung này, chúng ta không thể nào tránh
đi cho hết những va chạm, những bực bội, những buồn phiền…
Bởi đó, cần phải biết khéo léo sử
dụng những lời nói ôn tồn, lịch sự và tế nhị để tránh đi những
cãi cọ, những chửi bới, kẻo rồi sẽ đi tới chỗ thượng cẳng chân
hạ cẳng tay với nhau.
Những lời nói cộc cằn và thô lỗ
nhiều lúc được sánh ví như những giọt dầu đổ thêm vào lửa, làm
cho bùng lên sự tức giận và thù oán, thiêu rụi hết cả tình nghĩa
giữa anh em ruột thịt, cũng như giữa bà con lối xóm. Một lời nói
vu oan có thể làm cho người khác mất hết tiền bạc, mất hiết địa
vị và đi vào chốn lao tù.
Vì vậy, sách Minh Tâm đã viết :
- Một tàn lửa nhỏ có thể đốt cháy
cả một khu rừng, thì cũng thế, một nửa câu nói càn có thể làm
hại đến hạnh phúc của cả một đời người.
Ngày kia, có một cuộc hội nghị
tay ba giữa chiếc kéo, chiếc cưa và cái lưỡi.
Kéo nói :
- Vải dai đến mấy, ta cắt cũng
đứt. Vải bền đến mấy, ta cắt cũng lìa.
Cưa bảo :
- Gỗ cứng đến mấy, ta cưa cũng
đứt.. Sắt chắc đến mấy, ta cắt cũng lìa.
Thế nhưng, cái luỡi thì mỉm cười
và nói :
- Công việc của các anh đối với
tôi thật vô nghĩa. Các anh chỉ cắt được vải, gỗ và sắt, nhưng
liệu các anh có cắt được danh thơm tiếng tốt của người ta hay
không ? Mà đó lại là công việc thường ngày của tôi. Các anh có
biết chia rẽ những tình bạn thân thiết, những tình yêu mạnh mẽ,
những sự hợp nhất nồng nàn hay không ? Tôi không cắt bằng thép,
nhưng tôi cắt bằng những lời nói hành nói xấu, bỏ vạ cáo gian…
Chính vì thế, người xưa đã dạy :
- Phải ngoáy lưỡi bảy lần trước
khi nói.
TIẾP ĐẾN
LÀ PHƯƠNG DIỆN GIA ĐÌNH.
Giai
đoạn thứ nhất, đó là trước ngưỡng cửa yêu thương.
Trong giai đọan này, người ta
thường dùng lời nói để biểu lộ những tình cảm của mình. Tuy
nhiên, cũng cần phải tỉnh táo để đánh giá đúng mức và chính xác
những lời tỏ tình của đối phương.
Phải đề cao cảnh giác như vậy là
vì nhiều anh chàng họ sở đã dùng những lời đường mật để dụ đỗ :
- Mật ngọt chết ruồi.
- Nói ngọt lọt đến xương.
Trong khi đó, người con gái lại
thích được nghe những lời…”đậm đặc” ấy :
- Chuông già đồng điếu chuông
kêu,
Anh già lời nói, em xiêu tấm
lòng.
Một khi người con gái đã xiêu tấm
lòng, thì dễ dàng bị sập bẫy. Và thế là mở đường cho anh chàng
họ sở tiến lên chiếm lấy mục tiêu, rồi sau đó khi “con ong đã
tỏ đường đi lối về”, anh chàng họ sở này bèn ”quất ngựa truy
phong”, tính bài chuồn, để lại một nỗi buồn muôn thuở, một nỗi
sầu cả đời cho người con gái.
Giai
đoạn thứ hai, đó là sau khi đã tìm hiểu và quyết định tiến tới
hôn nhân.
Trong giai đoạn này, các cụ ta
ngày xưa vốn thường khuyên :
- Lấy vợ thì lấy liền tay,
Kẻo để lâu ngày, lắm kẻ dèm
pha.
Gã từng chứng kiến có những cặp
thương nhau ra phết, nhưng cuối cùng đã…ngãng ra, chỉ vì những
lời gièm pha của ông nọ bà kia, nhất là của những kẻ không được
ăn thì nhẫn tâm đạp đổ.
Vì thế, có người đã bảo :
- Chẳng sợ cọp dữ, mà chỉ sợ
những lời gièm pha.
Sau
cùng giai đoạn thứ ba, đó là khi đã trở nên vợ chồng với nhau.
Trong cuộc sống gia đình, nhiều
khi sóng gió đã nổi lên, để rồi đi đến chổ đổ vỡ chỉ vì một vài
lời nói vô ý thức và thiếu tế nhị.
Có một bà vợ cặm cụi nhổ cỏ ở
thửa ruộng sau nhà. Hôm đó ông chồng đóng vai tề gia nội trợ.
Sau khi đã nấu nướng xong, ông sai đứa nhỏ ra mời mẹ về ăn cơm.
Chẳng nói chẳng rằng, bà vẫn cứ lặng lẽ nhổ cỏ.
Một lúc sau, ông lại sai đứa khác
ra mời. Lần này bà có vẻ tức tối. Đứng dậy, hai tay chống ngang
lưng, mắt long lên, còn miệng thì hét lớn :
- Bố con mày muốn hốc thì cứ hốc
trước đi.
Đứa bé lầm lũi trở về và ngây thơ
thuật lại cho ông bố.
Chuyện gì sẽ xảy ra, hẳn chúng ta
đã đoán biết. Sau khi nhổ hết đám cỏ dại, bà vợ thủng thẳng trở
về. Thế nhưng vừa bước chân vào nhà, thì hàng xóm bỗng nghe thấy
những tiếng kêu la thất thanh :
- Ối giời ơi, cứu tôi với, nó
đánh tôi, nó giết tôi.
Rồi thì chén bát cứ ào ào thi
nhau bay ra ngoài sân.
Nếu như bà vợ biết nhún nhường và
tế nhị một chút, thì đâu đến nỗi xảy ra sự việc đáng tiếc kể
trên.
Bởi đó, tục ngữ đã dạy :
- Chồng giận thì vợ làm lành,
Miệng cười tươi hỏi rằng anh
giận gì ?
- Chồng giận thì vợ bớt lời,
Cơm sôi nhỏ lửa chẳng đời nào
khê.
Còn nếu ông cũng ghê mà bà cũng
gớm, thì chắc chắn kết cuộc sẽ là xô xát và chiến tranh:
- Bên thẳng thì bên phải chùng,
Hai bên đều thẳng, thì cùng đứt
dây.
Trong đời sống gia đình, hãy biết
quên đi và tha thứ cho nhau. Hãy biết chịu đựng và nhường nhịn
lẫn nhau, bởi vì :
- Một sự nhịn là chín sự lành.
Đồng thời, hãy biết dùng những
lời nói ôn tồn và thành thực, lịch sự và tế nhị để an ủi và
khích lệ, cũng như để nhắc bảo hầu giúp nhau uốn nắn sửa đổi
những sai lỗi, nhờ đó thăng tiến bản thân, đổi mới cuộc đời, mỗi
ngày một trở nên tốt lành hơn, mà vẫn giữ được một bầu khí êm
ấm thuận hòa. Bởi vì :
- Lời nói chẳng mất tiền mua,
Liệu lời mà nói cho vừa lòng
nhau.
Sách Cổ Học Tinh Hoa kể lại rằng
:
Vợ của Nhạc Dương Tử là một bậc
hiền minh. Một hôm, Dương Tử đi đường bắt được một lọ vàng người
ta đánh rơi, mừng rỡ đem về đưa cho vợ. Vợ nói :
- Thiếp trộm nghe người chí sĩ
không uống nước suối của tên trộm. Người liêm khiết không nhận
của thiên hạ bố thí một cách khinh bỉ. Chàng nay nhặt của rơi
ngoài đường đem về cầu lợi, để ô uế phẩm hạnh, thử có nên không
?
Dương tử nghe nói thẹn quá, liền
đem lọ vàng bắt được bỏ ra ngoài đồng. Rồi đi xa, tìm thầy để
học.
Đi học mới được một năm, Dương Tử
về chơi nhà. Vợ qùi xuống trước mặt hỏi rằng :
- Chàng có việ gì mà về nhà ?
Dương Tử nói :
- Ta đi lâu nhớ nhà thì về, chẳng
có việc gì cả.
Vợ cầm con dao đến chỗ khung cửi,
nói rằng :
- Lụa đang dệt đây là phải làm từ
lúc nuôi tằm ươm tơ cho đến lúc mắc lên được khung cửi. Nếu đánh
đứt một sợi mà đứt mãi, thì đứt đến hàng tấc. Đứt hàng tấc mà
đứt mãi, thì đứt đến hàng thước, hàng trượng, hàng tấm. Nếu bây
giờ thiếp chặt đoạn đang dệt đây, thì bao nhiêu công phu ngày
giờ từ trước đến nay đều mất hết cả. Chàng đi học là để trở nên
một người giỏi giang. Nếu đang học mà bỏ về, thì khác gì tấm lụa
đang dệt đây mà chặt đi vậy.
Dương Tử thấy nói, cảm động lắm,
đi học luôn bảy năm cho đến khi tốt nghiệp mới về.
Vợ ở nhà chăm chỉ làm ăn trong
bấy nhiêu năm, vừa nuôi nấng mẹ chồng, vừa lo cho chồng ăn học.
Nhạc Dương Tử nhờ có người vợ
hiền như thế, mà sau này được sang trọng vẻ vang.
SAU CÙNG
LÀ PHƯƠNG DIỆN CÁ NHÂN.
Kinh nghiệm cho thấy : Tâm hồn
con người là một thế giới đầy huyền bí, lắm lúc chính bản thân
chúng ta cũng không thấu suốt, thì làm sao người khác có thể
hiểu nổi :
- Hôm nay trời nhẹ lên cao,
Tôi buồn không hiểu vì sao tôi
buồn.
Tuy nhiên, dựa vào lời nói người
khác biết được phần nào cái thế giới nhiệm mầu của tâm hồn, cái
lãnh vực huyền bí của con người chúng ta.
Đây là điều chính Đức Kitô đã xác
quyết :
-Lòng đầy thì mới tràn ra ngoài.
Căn cứ vào lời nói, người ta sẽ
hiểu được tâm địa, đánh giá được bản thân và nhận rõ bộ mặt
thật của chúng ta :
- Nghe lời nói mà biết được con
người.
Thực vậy, nếu chúng ta nói những
điều hữu lý, thiên hạ sẽ bảo chúng ta là người khôn ngoan. Còn
nếu chúng ta nói những điều vô lý, thiên hạ sẽ bảo chúng ta là
kẻ dại khờ :
- Vàng thử lửa, thử than,
Chuông kêu thử tiếng, người
ngoan thử lời.
Sau khi đã đánh giá chúng ta là
người khôn ngoan, hay chỉ là một kẻ dại khờ, thì mức độ tình cảm
họ dành cho chúng ta cũng từ đó mà được ấn định : Họ sẽ yêu mến
và kính trọng chúng ta hay sẽ khinh chê và coi thường chúng ta.
Như vậy, cái lưỡi quả thực đã
đóng một vai trò rất quan trọng trong cuộc sống :
- Lưỡi người khôn ngoan tạo nên
danh giá, mồm kẻ ngu dại gây nên đổ vỡ tan hoang.
KẾT LUẬN
Trước khi chấm dứt, gã xin đưa ra
một vài nhận định như sau :
Trước hết, đó là : Hãy ngoáy
lưỡi bảy lần trước khi nói.
Nghĩa là hãy đắn đo, cân nhắc
trước khi phát ngôn, để những lời chúng ta nói ra có sức an ủi,
nâng đỡ và khích lệ người khác, nhờ đó tạo được một bàu khí yêu
thương và bắc được một nhịp cầu cảm thông. Sở dĩ như vậy là vì :
- Nhất ngôn thuyết quá, tứ mã nan
truy. Một lời đã nói, bốn ngựa khó mà theo kịp.
Tiếp đến, đó là : Hãy tăng nghe,
mà giảm nói.
Thiên Chúa đã trao ban cho chúng
ta hai lỗ tai và một cái miệng, nên chi chúng ta cần phải nghe
nhiều hơn và nói ít thôi, kẻo bị người khác kê tủ đứng :
- Biết rồi, khổ lắm nói mãi.
Bởi vì dù nói có hay ho đến đâu
chăng nữa, người ta cũng vẫn cảm thấy bực bội và chán ngán :
- Rượu lạt uống mãi cũng say,
Lời khôn nói lắm, dẫu hay cũng
nhàm.
Gã Siêu
gasieu@gmail.com
|
VỀ MỤC LỤC |
|
- Mọi liên lạc: Ghi danh, thay đổi địa chỉ, đóng góp ý kiến,
bài vở..., xin gởi về địa chỉ
giaosivietnam@gmail.com
- Những nội dung sẽ được đề cao và chú ý bao gồm:
Trao đổi, chia sẻ những kinh nghiệm thực tế trong việc mục
vụ của Giáo sĩ; Những tài liệu của Giáo hội hoặc của các
Tác giả nhằm mục đích Thăng tiến đời sống Giáo sĩ; Cổ võ ơn
gọi Linh mục; Người Giáo dân tham gia công việc “Trợ lực
Giáo sĩ” bằng đời sống cầu nguyện và cộng tác trong mọi lãnh
vực; Mỗi Giáo dân phải là những “Linh mục” không có chức
Thánh; Đối thoại trong tinh thần Bác ái giữa Giáo dân và
Giáo sĩ… (Truyền giáo hay xây pháo đài?)
- Quy vị cũng có thể tham khảo những số báo đã phát hành tại
www.conggiaovietnam.net
Rất mong được sự cộng tác, hưởng ứng của tất cả Quí vị
Xin chân thành cám ơn tất cả anh chị em đã
sẵn lòng cộng tác với chúng tôi bằng nhiều cách thế khác
nhau.
TM. Đặc San Giáo Sĩ Việt Nam
Lm. Luca
Phạm Quốc Sử
USA
|
|
*************
|
|