Các Giám Mục Với Các
Giáo Hội Ðịa Phương Hay Giáo Phận |
Sắc Lệnh
Về Nhiệm Vụ Mục Vụ
Của Các Giám Mục Trong
Giáo Hội
(Christus
Dominus)
Prepared for Internet by Vietnamese
Missionaries in Asia
Chương II
Các Giám Mục
Với Các Giáo Hội Ðịa Phương Hay Giáo Phận
I. Các Giám Mục
Giáo Phận
11. Ý niệm
về Giáo huấn và phận sự Giám Mục trong giáo phận.
Giáo phận là một phần Dân Thiên Chúa được giao phó cho một Giám
Mục chăm sóc, với sự cộng tác của linh mục đoàn, để nhờ liên kết
với vị chủ chăn của mình và qua ngài, giáo phận được tập trung
trong Chúa Thánh Thần nhờ Phúc Âm và Thánh Thể, làm thành một
Giáo Hội riêng biệt, trong đó Giáo Hội Duy Nhất, Thánh Thiện,
Công Giáo và Tông Truyền của Chúa Kitô hiện diện và hành động
thực sự.
9*
Ðược ủy thác chăm sóc một Giáo Hội riêng
biệt, mỗi Giám Mục dẫn dắt các con chiên của mình nhân danh
Chúa, dưới quyền Ðức Giáo Hoàng, với danh nghĩa là chủ chăn
riêng, thường xuyên và trực tiếp khi thi hành nhiệm vụ giáo
huấn, thánh hóa và cai quản các con chiên. Tuy nhiên các ngài
phải nhìn nhận những quyền lợi chính đáng của các Thượng Phụ hay
những Ðấng Thẩm Quyền phẩm trật khác
1.
Các Giám Mục phải chăm lo nhiệm vụ tông đồ
của mình như những chứng nhân của Chúa Kitô trước mặt mọi người,
chẳng những săn sóc những kẻ đã theo vị Thủ Lãnh các chủ chăn,
mà lại hết lòng hy sinh cho những người bất cứ cách nào đã đi
lạc đường chân lý hay không biết Phúc Âm và lòng nhân từ cứu
chuộc của Chúa Kitô, cho đến khi tất cả, sau cùng sẽ "đi trong
sự chí thiện, chí công và chân thật" (Eph 5,9).
12. Nhiệm vụ
giáo huấn. Trong khi thi hành chức vụ giáo huấn
của mình, các Giám Mục phải loan báo cho mọi người biết Phúc Âm
Chúa Kitô, một nhiệm vụ trổi vượt trên các chức vụ chính yếu của
các ngài
2, bằng cách nhờ sức mạnh của Chúa Thánh Thần mời gọi
họ chấp nhận đức tin hoặc làm cho họ vững mạnh trong đức tin
sống động. Các ngài hãy trình bày cho họ toàn vẹn mầu nhiệm Chúa
Kitô, tức những chân lý mà nếu không biết tới là không biết Chúa
Kitô, và cũng phải trình bày con đường đã được Thiên Chúa mạc
khải để làm vinh danh Người và nhờ đó, họ được hạnh phúc trường
cửu
3.
Hơn nữa, các ngài phải minh chứng rằng theo
ý định của Thiên Chúa Tạo Hóa, chính các thực tại trần thế và
các tổ chức nhân loại đã được an bài để cứu rỗi con người, và do
đó chúng có thể góp phần không ít trong việc kiến tạo Thân Thể
Chúa Kitô.
Vì thế, dựa theo giáo thuyết của Giáo Hội,
các ngài phải dạy cho họ biết phải kính trọng nhân vị, kính
trọng tự do và cả đời sống thể xác như thế nào; phải kính trọng
gia đình, còn sự hợp nhất và bền vững của nó, cũng như việc sinh
sản và giáo dục con cái như thế nào; phải tôn trọng cộng đồng
dân sự với các luật lệ và những nghề nghiệp của nó như thế nào;
phải quí trọng lao công, giải trí, nghệ thuật và những khám phá
kỹ thuật như thế nào; phải mến chuộng sự nghèo khó cũng như sự
sung túc ra sao. Sau cùng các ngài phải trình bày những lý lẽ
giải quyết các vấn đề rất hệ trọng liên quan đến việc chiếm hữu,
phát triển và việc phân phối hợp lý của cải vật chất, những vấn
đề liên quan tới hòa bình và chiến tranh, tới mối bang giao
huynh đệ giữa mọi dân tộc
4.
13. Cách
trình bày giáo thuyết Kitô giáo ngày nay. Các
ngài phải trình bày giáo thuyết Kitô giáo một cách thích hợp với
những nhu cầu của thời đại, nghĩa là đáp ứng những khó khăn và
những vấn đề đang làm cho moị người xao động và khắc khoải nhất.
10* Các Ngài cũng phải coi sóc giáo thuyết đó bằng
cách dạy cho chính các tín hữu biết bênh vực và phổ biến nó.
Trong việc giảng truyền giáo thuyết này, các ngài phải tỏ lòng
ân cần từ mẫu của Giáo Hội đối với hết mọi người, tín hữu cũng
như lương dân, và phải chăm sóc đặc biệt đến những người nghèo
khổ, những kẻ hèn kém, mà Chúa đã sai các ngài rao giảng Phúc Âm
cho họ.
Vì Giáo Hội có nhiệm vụ tìm đến đối thoại
với xã hội loài người, trong đó Giáo Hội đang sống
5, nên trước tiên bổn phận của các Giám Mục là đến với
mọi người, kêu gọi và cổ võ các cuộc đối thoại với họ. Trong
những cuộc đối thoại thuộc viễn tượng cứu rỗi đó, để chân lý
luôn luôn liên kết với bác ái, kiến thức đi liền với tình yêu,
cần phải làm nổi bật tính chất minh bạch của ngôn ngữ, cùng sự
khiêm tốn và lòng nhân hậu, cũng như sự khôn ngoan đúng mức,
nhưng đầy tin tưởng, vì khi sự tin tưởng hỗ trợ tình bạn hữu thì
cũng liên kết các tâm hồn
6.
Các ngài phải cố gắng dùng những phương
tiện khác nhau sẵn có trong thời đại chúng ta để loan báo giáo
thuyết Kitô giáo, trước hết là việc giảng thuyết và việc tổ chức
dạy giáo lý: cả hai luôn luôn giữ một địa vị chính yếu; sau đó
trình bày giáo thuyết trong các học đường, các học hội, các buổi
thuyết trình và những cuộc hội họp dưới mọi hình thức; và đừng
quên phổ biến giáo lý đó bằng những bản tuyên ngôn nhân một vài
biến cố, cũng như bằng báo chí và những phương tiện truyền thông
xã hội khác nhau; cần phải hoàn toàn tận dụng các phương tiện
này để rao truyền Phúc Âm Chúa Kitô
7.
14. Tổ chức
dạy giáo lý. Các ngài phải lo lắng để việc tổ
chức dạy giáo lý được thực hiện chu đáo cho các thiếu nhi, cho
thanh thiếu niên và cho cả những người đã trưởng thành với mục
đích là làm cho đức tin nơi mọi người, sau khi được giáo thuyết
soi dẫn, trở nên sống động, minh bạch và hữu hiệu. Các ngài phải
lo lắng để việc truyền đạt giáo lý có thể theo một thứ tự thích
ứng và một phương pháp không những xứng hợp với môn đang học hỏi
mà còn hợp với tính tình, khả năng, tuổi tác và cả hoàn cảnh
sinh sống của các thính giả; việc dạy giáo lý đó cũng phải dựa
trên Thánh Kinh, Thánh Truyền, Phụng Vụ, Giáo Huấn và đời sống
Giáo Hội.
Ngoài ra, các ngài hãy lo chuẩn bị đúng mức
các người dạy giáo lý thi hành phận sự của mình để họ hiểu rõ
giáo thuyết của Giáo Hội và thông thạo những định luật tâm lý và
các khoa sư phạm về lý thuyết cũng như thực hành.
Các ngài cũng phải cố gắng thế nào để việc
tổ chức dạy giáo lý cho những tân tòng đã lớn tuổi được cải tổ
hoặc thích nghi hơn.
15. Nhiệm vụ
thánh hóa. Khi thi hành chức vụ thánh hóa, các
Giám Mục phải nhớ rằng mình đã được chọn từ muôn người và được
đặt lên cho họ trong những việc liên quan đến Thiên Chúa, để
dâng của lễ và lễ vật hy sinh đền tội. Thực thế, các Giám Mục
hưởng nhận sự sung mãn của Bí Tích Truyền Chức và các linh mục
lệ thuộc vào các ngài khi thi hành quyền bính của mình, vì chính
các linh mục đã được thánh hiến thành những linh mục đích thực
của Tân Ước để trở nên những cộng sự viên sáng suốt của Hàng
Giám Mục. Các phó tế cũng lệ thuộc như vậy, vì họ đã được thụ
phong để phụng sự, nên họ phục vụ dân Thiên Chúa trong sự thông
hiệp với Giám Mục và linh mục đoàn của Ngài. Vì vậy chính các
Giám Mục là những người phân phát chủ yếu các mầu nhiệm của
Thiên Chúa và là những vị điều hành, cổ võ, bảo vệ toàn thể đời
sống phụng vụ trong Giáo Hội đã được trao phó
8.
Vậy các ngài phải luôn luôn lo lắng cho các
Kitô hữu thấu hiểu và sống sâu xa hơn mầu nhiệm phục sinh thế
nào để nhờ Bí Tích Thánh Thể, họ tạo thành một Thân Thể liên kết
rất chặt chẽ trong tình bác ái duy nhất của Chúa Kitô
9. Trong khi "chuyên cần cầu nguyện và giảng huấn lời
Chúa" (CvTđ 6,4), các ngài hãy gắng sức để mọi người dưới sự săn
sóc của mình được đồng một lòng trong kinh nguyện
10, được lớn lên trong ơn nghĩa thánh nhờ lãnh nhận
các Bí Tích và trở nên nhân chứng trung thành của Chúa.
Như những kẻ có nhiệm vụ giúp người khác
nên trọn lành, các Giám Mục hãy nhiệt thành thúc đẩy các giáo
sĩ, tu sĩ và giáo dân của mình sống thánh thiện tùy theo ơn gọi
đặc biệt của mỗi người
11. Tuy nhiên, các ngài hãy nhớ rằng mình cũng phải
nêu gương thánh thiện bằng bác ái, khiêm nhường và bằng đời sống
đơn giản. Các ngài phải thánh hóa các Giáo Hội đã được trao phó,
sao cho ý nghĩa Giáo Hội phổ quát của Chúa Kitô được sáng chói
hoàn toàn nơi các Giáo Hội đó. Cho nên các ngài hãy hết sức cổ
võ ơn gọi làm linh mục hay tu dòng, nhất là hãy đặc biệt lưu tâm
đến ơn gọi truyền giáo.
16. Nhiệm vụ
cai quản và chăn dắt các linh hồn. Trong khi thi
hành nhiệm vụ người cha và chủ chăn, các Giám Mục hãy sống giữa
dân mình như những người phục vụ
12, nghĩa là như những chủ chăn hiền từ biết các con
chiên mình và con chiên cũng biết chủ chăn; như những người cha
đích thực tỏ lòng yêu thương và lo lắng cho hết mọi người và mọi
người tỏ lòng tri ân tuân phục quyền hành Thiên Chúa đã ban cho
các ngài. Các ngài hãy quy tụ đoàn chiên của mình thành một gia
đình đông đủ để mọi người đều ý thức nhiệm vụ riêng mà sống và
hoạt động trong tình hiệp thông bác ái.
Ðể có thể thực thi những điều đó một cách
hiệu nghiệm, các Giám Mục "là những người sẵn sàng làm mọi việc
thiện" (2Tm 2,21) và "chịu đựng mọi sự vì những kẻ được chọn"
(2Tm 2,10) phải tổ chức đời sống mình phù hợp với những nhu cầu
thời đại.
Vì các linh mục chia xẻ một phần nghĩa vụ
cũng như nỗi lo âu của chính các ngài và vì hằng ngày họ hăng
say thi hành nghĩa vụ đó, nên các ngài hãy luôn đặc biệt yêu mến
họ, coi họ như những người con, người bạn
13; như thế, nhờ sẵn sàng nghe họ và liên lạc thân tín
với họ, các ngài nhiệt thành cổ võ toàn thể công tác mục vụ
trong cả giáo phận.
11*
Các ngài phải lo lắng tới tình trạng thiêng
liêng, trí thức và vật chất của các linh mục mình, để họ có thể
sống thánh thiện và đạo đức cũng như có thể trung thành chu toàn
nhiệm vụ riêng một cách hữu hiệu. Do đó, các ngài nên khuyến
khích mở những trung tâm huấn luyện và tổ chức các cuộc gặp gỡ
đặc biệt giúp cho các linh mục thỉnh thoảng quy tụ lại với nhau,
vừa để chu toàn các việc linh thao lâu dài hơn nhằm cải tạo cuộc
sống, vừa để học hỏi sâu xa hơn những môn học của Giáo Hội, nhất
là Thánh Kinh và thần học hay những vấn đề xã hội khá quan
trọng, và cả những phương pháp mới của hoạt động mục vụ nữa. Các
ngài nên đối xử nhân từ cách tích cực với những linh mục đang
lâm nguy bằng cách này hay bằng cách khác, hoặc đã sa ngã một
cách nào đó.
Ðể có thể mưu ích cho các tín hữu hợp với
tình trạng của từng người, các ngài phải cố gắng tìm hiểu đúng
mức những nhu cầu của họ trong hoàn cảnh xã hội họ đang sống,
nhờ áp dụng những phương thế thích hợp, nhất là phương pháp điều
tra xã hội. Các ngài phải tỏ ra lo lắng cho hết mọi người, bất
luận tuổi tác, hoàn cảnh hay quốc tịch, người bản xứ, ngoại kiều
cũng như lữ khách. Trong việc thể hiện nỗi lo lắng mục vụ này,
các ngài phải dành cho tín hữu của mình những vai trò thích hợp
với họ trong các công việc của Giáo Hội, và đồng thời phải nhìn
nhận họ cũng có bổn phận và quyền lợi tích cực góp sức vào việc
xây dựng Nhiệm Thể Chúa Kitô.
Các ngài phải tỏ lòng thương mến những anh
em ly khai bằng cách nhắn nhủ các tín hữu đối đãi với họ hết sức
nhân đạo và bác ái; đồng thời cũng cổ võ phong trào hiệp nhất
đúng theo quan điểm của Giáo Hội
14. Các ngài hãy yêu mến những người không được rửa
tội để bác ái của Chúa Kitô chiếu sáng cho họ, vì Giám Mục là
nhân chứng của Chúa Giêsu trước mặt mọi người.
17. Các hình
thức đặc biệt của việc tông đồ. Phải hỗ trợ các
phương pháp làm việc tông đồ khác nhau cũng như việc phối trí và
liên lạc mọi công việc tông đồ dưới sự chỉ huy của Giám Mục
trong toàn cõi hay tại những vùng đặc biệt của giáo phận; nhờ sự
liên kết này, mọi sáng kiến và tổ chức như dạy giáo lý, truyền
giáo, bác ái, xã hội, gia đình, học đường và bất cứ công việc gì
theo đuổi mục đích mục vụ, đều được thống nhất theo một đường
lối hoạt động; và như thế sự hợp nhất của giáo phận được sáng
chói hơn.
Cần phải chăm lo nhấn mạnh đến bổn phận đòi
buộc từng tín hữu phải làm việc tông đồ tùy theo hoàn cảnh và
khả năng của mình và cũng phải nhắc nhở họ tham dự hoặc giúp đỡ
các công việc tông đồ giáo dân khác nhau, nhất là công giáo tiến
hành. Cũng phải cổ võ hay nâng đỡ những hiệp hội nào trực tiếp
hoặc gián tiếp theo đuổi mục đích siêu nhiên, nghĩa là để đạt
đến đời sống toàn thiện hơn, hoặc để loan báo Phúc Âm Chúa Kitô
cho mọi người, hoặc phát động giáo thuyết Kitô giáo hay phát
triển những phụng tự công cộng hoặc theo đuổi những mục đích xã
hội hoặc thực hiện những công việc đạo đức hay bác ái.
Các hình thức hoạt động tông đồ cần phải
thích nghi đúng mức với những nhu cầu hiện đại, quan tâm tới các
hoàn cảnh của con người, không những về điều kiện thiêng liêng
và luân lý, mà cả hoàn cảnh xã hội, dân số và kinh tế nữa. Nhờ
những ban mục vụ xã hội, là những ban được khuyến khích đặc
biệt, các cuộc điều tra xã hội và tôn giáo giúp ích rất nhiều để
đạt tới mục đích đó cách hữu hiệu và phong phú.
18. Chú tâm
đặc biệt đến một ít nhóm tín hữu. Cần lo lắng đặc
biệt đến những tín hữu vì hoàn cảnh sinh sống không được hưởng
đầy đủ sự chăm sóc mục vụ chung và thường xuyên của cha xứ hoặc
thiếu hẳn sự chăm sóc đó, chẳng hạn đa số những người di cư, dân
lưu đày, tị nạn, những người đi biển, cũng như các nhân viên phi
hành, dân du mục và những hạng người như thế. Cần phải cổ võ
những phương pháp mục vụ thích hợp để nâng đỡ đời sống thiêng
liêng của những người vì lý do nghỉ ngơi, tìm đến những xứ khác
trong một thời gian.
Các Hội Ðồng Giám Mục, nhất là Hội Ðồng
Giám Mục Quốc Gia, cần phải nghiên cứu những vấn đề khá cấp bách
liên hệ đến những người kể trên. Nhờ các phương tiện cũng như
các tổ chức thích hợp, các ngài hãy đồng tâm hiệp lực lo lắng và
hỗ trợ việc thiêng liêng của họ, bằng cách vừa lưu tâm đến những
tiêu chuẩn đã được Tòa Thánh qui định
15, hay sẽ ban hành, vừa thích nghi thỏa đáng với các
hoàn cảnh về thời gian, nơi chốn và nhân sự.
19. Quyền tự
do của Giám Mục và mối tương quan với chính quyền.
Trong việc chu toàn nhiệm vụ tông đồ nhằm cứu rỗi các linh hồn,
các Giám Mục tự mình được hưởng quyền tự do đầy đủ và hoàn toàn,
cũng như quyền độc lập đối với bất cứ quyền hành dân sự nào
12*. Vì thế, không được phép trực tiếp hay gián tiếp
ngăn trở việc thi hành nhiệm vụ thuộc phạm vi Giáo Hội của các
ngài, hoặc không cho các ngài tự do liên lạc với Tòa Thánh, với
những Thẩm Quyền khác trong Giáo Hội và với những kẻ thuộc
quyền.
Thực ra, các Chủ Chăn Thánh, trong khi
chuyên tâm săn sóc việc thiêng liêng cho đoàn chiên, thực sự
cũng lo đến công việc thăng tiến và nền thịnh vượng của xã hội
trần thế, bằng cách cộng tác hữu hiệu với các chính quyền dân sự
để thực hiện mục đích trên trong phạm vi chức vụ và hợp với
cương vị Giám Mục; và bằng cách nhắn nhủ đoàn chiên vâng phục
các luật lệ chính đáng và tôn trọng các quyền bính hợp pháp.
20. Tự do
trong việc chỉ định và bổ nhiệm Giám Mục. Vì
nhiệm vụ tông đồ của các Giám Mục đã được Chúa Kitô thiết lập và
theo đuổi mục đích thiêng liêng, siêu nhiên, nên Thánh Công Ðồng
tuyên bố rằng quyền chỉ định và bổ nhiệm các Giám Mục là quyền
riêng, đặc biệt, và tự nó độc hữu thuộc Thẩm Quyền Giáo Hội.
Vì thế, để bảo vệ đúng mức sự tự do của
Giáo Hội, để thăng tiến lợi ích của Kitô hữu cách thích hợp và
dễ dàng hơn, Thánh Công Ðồng ước mong sau này các chính quyền
dân sự không còn hưởng các quyền lợi hoặc đặc ân nào về việc
tuyển chọn, bổ nhiệm, đề cử hay chỉ định chức vụ Giám Mục; còn
phần các Chính Quyền dân sự, Thánh Công Ðồng tri ân và quý trọng
thịnh tình của họ đối với Giáo Hội và hết sức nhã nhặn xin họ
hãy đồng lòng với Tòa Thánh tự ý từ bỏ những quyền lợi hay đặc
ân kể trên mà hiện tại họ vẫn hưởng do hiệp ước hoặc tập tục.
21. Sự từ
nhiệm của Giám Mục. Do đó, vì nhiệm vụ mục vụ của
Giám Mục quá quan trọng và nặng nề, nên các Giám Mục giáo phận
và những vị có quyền tương đương, nếu vì cao niên hay vì lý do
quan trọng nào khác mà trở nên ít thích hợp trong việc chu toàn
chức vụ
13*, đều được tha thiết kêu gọi từ chức hoặc tự ý,
hoặc do Thẩm Quyền khuyến cáo. Ðàng khác, nếu đã chấp nhận sự từ
chức đó, Thẩm Quyền vừa lo nâng đỡ cách xứng đáng các vị từ chức
vừa thừa nhận các ngài được hưởng những quyền lợi đặc biệt.
II. Ranh giới
các giáo phận
22. Duyệt
xét lại ranh giới giáo phận. Ðể thực hiện được
mục đích trung thực của giáo phận, bản tính của Giáo Hội cần
phải được thể hiện rõ ràng ngay trong Dân Chúa thuộc giáo phận
đó; các Giám Mục phải có thể chu toàn những nhiệm vụ mục vụ của
mình trong giáo phận cách hữu hiệu; sau cùng, sự cứu rỗi của Dân
Chúa phải được phục vụ hết sức hoàn hảo như có thể.
Ðiều đó đòi hỏi hoặc phải phân chia thích
hợp ranh giới đất đai các giáo phận, hoặc phải phân phối các
giáo sĩ, các tài sản cách hợp lý và thích hợp với những đòi hỏi
của hoạt động tông đồ. Tất cả những điều đó chẳng những giúp ích
cho hàng giáo sĩ và các Kitô hữu trực tiếp liên hệ, mà thực sự
còn có ích lợi cho toàn thể Giáo Hội Công Giáo nữa.
Vì thế, Thánh Công Ðồng quyết định là tùy
theo lợi ích các linh hồn đòi hỏi, phải lập tức và khôn ngoan
xét lại cách thỏa đáng những điều liên quan đến ranh giới các
giáo phận, bằng cách phân chia, cắt xén hay sát nhập các giáo
phận, hoặc bằng cách sửa đổi ranh giới hay ấn định địa điểm
thích hợp hơn cho tòa Giám Mục, hoặc sau cùng bằng cách canh tân
tổ chức nội bộ, nhất là đối với những giáo phận có nhiều thành
phố lớn.
23. Quy tắc
phải theo trong việc duyệt xét lại ranh giới giáo phận.
Khi xét lại các ranh giới giáo phận, trước hết cần phải bảo đảm
tính cách duy nhất về nhân sự, chức vụ, tổ chức của mỗi giáo
phận giống như một thân thể thật sống động. Còn trong từng
trường hợp, sau khi cân nhắc mọi hoàn cảnh liên hệ, cần phải lưu
ý đến những tiêu chuẩn khá tổng quát sau đây:
1) Trong việc ấn định ranh giới giáo phận,
phải lưu tâm chừng nào có thể đến những thành phần khác biệt của
dân Chúa, vì điều đó có thể giúp ích nhiều cho việc thi hành sự
chăm sóc mục vụ thích hợp hơn. Ðồng thời phải lo sao để những
vùng đông dân chúng thành một đơn vị đồng nhất bao nhiêu có thể,
với những công sở dân sự và các tổ chức xã hội là những yếu tố
tạo thành cơ cấu sống động của chính dân đó. Vì thế, lãnh thổ
của mỗi giáo phận rõ ràng chỉ là một khối đồng nhất.
Nếu cần, cũng phải để ý đến những ranh giới
dân sự và những hoàn cảnh đặc biệt về nhân sự hoặc địa phương,
như tâm lý, kinh tế, địa lý, lịch sử.
2) Diện tích hay dân số của giáo phận cách
chung phải làm sao để một mặt chính Giám Mục, dù có nhiều phụ
tá, vẫn có thể cử hành những nghi lễ đại triều và đi kinh lý
cách thuận lợi, có thể điều khiển và phối trí đúng mức mọi hoạt
động tông đồ trong giáo phận, nhất là có thể hiểu biết các linh
mục của mình, cũng như các tu sĩ và giáo dân đang tham dự một
cách nào đó vào các công việc của giáo phận; mặt khác khu vực
phải rộng đủ và thích hợp để cả Giám Mục lẫn các giáo sĩ có thể
hy sinh cách hữu ích mọi sức lực mình cho nhiệm vụ mà vẫn luôn
luôn lưu tâm tới những nhu cầu của toàn thể Giáo Hội.
3) Sau cùng để nhiệm vụ cứu rỗi có thể được
thi hành trong giáo phận cách thích hợp hơn, phải được kể như
luật là trong mỗi giáo phận, số lượng và khả năng của hàng giáo
sĩ ít nhất phải đủ để chăn dắt dân Chúa cho đúng mức; đừng để
thiếu những chức vụ, tổ chức và các công việc riêng biệt của
Giáo Hội địa phương mà thực tế là cần thiết cho việc điều khiển
và hoạt động tông đồ thích hợp của Giáo Hội đó. Sau hết các tài
nguyên để nâng đỡ nhân sự và các tổ chức, hoặc phải có sẵn hoặc
đàng khác, ít ra phải khôn ngoan tiên liệu sẽ không thiếu.
Cũng nhằm mục đích đó, nơi nào có những tín
hữu thuộc Nghi Lễ khác, Giám Mục giáo phận phải lo liệu cho
những nhu cầu thiêng liêng của họ hoặc bằng các linh mục hay
những giáo xứ cùng nghi lễ, hoặc bằng vị Ðại Diện Giám Mục có đủ
đặc quyền thích hợp, và nếu cần có cả chức Giám Mục nữa, hoặc
chính ngài đảm trách nhiệm vụ của đấng bản quyền cho các nghi lễ
khác biệt ấy. Nếu theo sự xét đoán của Tòa Thánh, tất cả những
điều trên không thể thực hiện được, vì những lý do đặc biệt, thì
cần phải thiết lập một Phẩm Trật riêng cho các nghi lễ khác biệt
này
16.
Cũng thế, trong những hoàn cảnh tương tự,
cần lo cho các tín hữu thuộc ngôn ngữ khác nhau hoặc bằng các
linh mục hay những giáo xứ có cùng ngôn ngữ, hoặc bằng Vị Ðại
Diện Giám Mục thông thạo ngôn ngữ ấy, và nếu cần có cả chức Giám
Mục nữa, hoặc sau cùng, nhờ một phương thế nào khác thích hợp
hơn.
24. Hỏi ý
kiến Hội Ðồng Giám Mục. Ðể sửa đổi hoặc cải cách
các giáo phận theo tiêu chuẩn liên quan đến các số 22-23, mà vẫn
giữ trọn kỷ luật của các Giáo Hội Ðông Phương, các Hội Ðồng Giám
Mục có thẩm quyền phải cứu xét những công việc trên cho mỗi lãnh
thổ riêng của mình bằng cách nhờ đến Tiểu Ban Giám Mục đặc biệt,
nếu thấy điều đó thích hợp, nhưng nhất là luôn luôn biết nghe
các Giám Mục trong giáo tỉnh hay giáo miền liên hệ và sau đó
phải đệ trình những ý kiến và nguyện vọng của mình lên Tòa
Thánh.
III. Các cộng
sự viên của Giám Mục giáo phận trong phận sự mục vụ
1. Giám Mục
Phó và Giám Mục Phụ Tá
14*
25. Luật
phải theo khi thiết lập Giám Mục Phó và Giám Mục Phụ Tá.
Trong việc điều khiển giáo phận, cần phải lo liệu cho phận sự
mục vụ của các Giám Mục thế nào để ích lợi cho đoàn chiên Chúa
luôn luôn là qui tắc tối cao. Ðể ích lợi đó được thể hiện đúng
mức, nhiều khi cần phải thiết lập các Giám Mục Phụ Tá, vì Giám
Mục giáo phận một mình không thể chu toàn mọi chức vụ giám mục
như ích lợi các linh hồn đòi hỏi; hoặc do giáo phận quá rộng
lớn, nhân số quá đông, hoặc do những hoàn cảnh đặc biệt của hoạt
động tông đồ hay vì nhiều lý do khác. Hơn nữa, đôi khi nhu cầu
đặc biệt đòi hỏi phải thiết lập Giám Mục Phó để giúp đỡ Giám Mục
giáo phận. Các Giám Mục Phó và Giám Mục Phụ Tá đó phải được
những đặc quyền thích hợp sao cho trong khi vẫn giữ được sự duy
nhất của việc điều khiển giáo phận và duy trì quyền Giám Mục
giáo phận, các ngài hành động thêm hữu hiệu hơn và chức phẩm
riêng của các Giám Mục được bảo toàn hơn.
Ngoài ra, vì được mời gọi chia xẻ mối lo
lắng của Giám Mục giáo phận, các Giám Mục Phó và Giám Mục Phụ Tá
phải thi hành nhiệm vụ của mình để hành động được hiệp nhất với
Giám Mục giáo phận trong mọi công việc. Hơn nữa, các ngài phải
tỏ lòng tuân phục và kính trọng Giám Mục giáo phận. Còn phần
Giám Mục giáo phận cũng hãy lấy tình huynh đệ mà yêu mến và kính
nể các Giám Mục Phó và Giám Mục Phụ Tá.
26. Quyền
hành của Giám Mục Phó và Giám Mục Phụ Tá. Khi ích
lợi các linh hồn đòi hỏi, Giám Mục giáo phận đừng ngần ngại
thỉnh nguyện Thẩm Quyền thiết lập một hay nhiều Giám Mục Phụ Tá,
là những người được đặt lên để giúp giáo phận nhưng không có
quyền kế vị.
Nếu văn thư bổ nhiệm không tiên liệu gì,
Giám Mục giáo phận hãy đặt một hay nhiều Giám Mục Phụ Tá của
mình làm Tổng Ðại Diện, hoặc ít ra làm Ðại Diện Giám Mục và chỉ
tùy thuộc quyền ngài. Ngài hãy vui lòng tham khảo ý kiến các vị
đó khi cần cân nhắc những vấn đề khá quan trọng, nhất là những
vấn đề có tính cách mục vụ.
Trừ khi Thẩm Quyền quyết định cách khác,
những quyền hành và đặc quyền do luật định cho các Giám Mục Phụ
Tá sẽ không chấm dứt với chức vụ của Giám Mục giáo phận. Cũng
mong ước rằng lúc trống tòa, nhiệm vụ điều khiển giáo phận được
trao cho Giám Mục Phụ Tá, hay nếu có nhiều thì trao cho một vị
trong các ngài, trừ khi có những lý do quan trọng khuyên nên làm
cách khác.
Giám Mục Phó, là đấng được bổ nhiệm với
quyền kế vị, luôn luôn phải được Giám Mục giáo phận đặt làm Tổng
Ðại Diện. Trong những trường hợp đặc biệt, ngài còn có thể được
Thẩm Quyền ban cho những đặc quyền rộng hơn.
Ðể ích lợi hiện tại và tương lai của giáo
phận được bảo đảm cách hết sức hoàn hảo, Giám Mục có Giám Mục
Phó và Giám Mục Phó đừng quên tham khảo ý kiến lẫn nhau trong
những vấn đề khá quan trọng.
15*
2. Giáo Phủ và
các Ủy Ban Giáo Phận
27. Tổ chức
Giáo Phủ và thiết lập Ủy Ban Giáo Phận. Trong
Giáo Phủ của giáo phận, chức vụ của vị Tổng Ðại Diện
16* nổi bật nhất. Mỗi khi việc điều hành chu đáo giáo
phận đòi hỏi, Giám Mục có thể thiết lập một hay nhiều vị Ðại
Diện Giám Mục. Các vị này, theo đúng luật, được hưởng quyền mà
luật chung ban cho vị Tổng Ðại Diện trong một miền được xác định
của giáo phận hay trong một số công việc đích xác, hoặc đối với
các tín hữu thuộc một nghi lễ nhất định.
Trong số các cộng sự viên giúp Giám Mục
điều hành giáo phận, phải kể tới các linh mục thuộc thành phần
của hội đồng hay ủy ban của ngài như kinh sỹ hội chánh tòa, hội
đồng cố vấn hay những ủy ban khác tùy theo hoàn cảnh và đặc tính
của các địa phương khác nhau. Những tổ chức này, nhất là kinh sỹ
hội chánh tòa, khi cần thiết còn phải tùy thuộc một thể thức mới
thích hợp với nhu cầu hiện đại.
17*
Linh Mục và giáo dân thuộc về Giáo Phủ giáo
phận hãy biết rằng mình cộng tác với Giám Mục vào thừa tác vụ
mục vụ.
Giáo Phủ giáo phận phải được tổ chức thế
nào để trở thành dụng cụ thích hợp cho Giám Mục, không những để
cai quản giáo phận, nhưng còn để thi hành các việc tông đồ nữa.
Tha thiết mong ước rằng mỗi giáo phận nên
thành lập một Ủy Ban mục vụ, do chính Giám Mục giáo phận làm chủ
tịch, và thành phần là giáo sĩ, tu sĩ và giáo dân được tuyển
chọn đặc biệt. Nhiệm vụ của Ủy Ban là thăm dò những gì liên hệ
tới công việc mục vụ, cân nhắc và đưa ra những kết luận thực tế
về những việc đó.
3. Giáo Sĩ
Giáo Phận
28. Những
liên hện giữa Giám Mục và các linh mục giáo phận.
Tất cả các linh mục giáo phận cũng như linh mục dòng đều cùng
Giám Mục tham dự và thi hành một chức linh mục của Chúa Kitô và
do đó các ngài thành những người cộng tác khôn ngoan của Hàng
Giám Mục. Tuy nhiên trong việc coi sóc các linh hồn, các linh
mục giáo phận giữ vai trò số một, vì khi gia nhập hay là liên
kết với Giáo Hội địa phương, các ngài hiến toàn thân phục vụ
Giáo Hội ấy để chăn dắt một phần đoàn chiên Chúa; vì thế các
ngài làm thành một linh mục đoàn và một gia đình mà Giám Mục là
người cha.
18* Ðể sắp đặt các thừa tác vụ thánh nơi các linh mục
của mình một cách thích hợp và công bình hơn, Giám Mục phải được
hưởng quyền tự do cần thiết trong việc trao phó các nhiệm vụ
hoặc ân bổng, nên phải hủy bỏ những quyền lợi hoặc đặc ân hạn
chế quyền tự do đó bằng bất cứ cách nào.
Những liên hện giữa Giám Mục và các linh
mục giáo phận phải dựa trên những mối dây bác ái hoàn toàn siêu
nhiên, để sự đồng tâm nhất trí giữa hàng linh mục và Giám Mục
làm cho hành động mục vụ của mình được phong phú hơn. Vì thế, để
cổ võ việc phục vụ các linh hồn mỗi ngày một hơn, Giám Mục nên
mời gọi các linh mục đối thoại riêng và chung nữa, nhất là về
vấn đề mục vụ, không những khi thuận tiện, mà còn nên ấn định
thời gian nếu có thể.
Ngoài ra, tất cả các linh mục giáo phận hãy
hợp nhất với nhau và nhờ thế được thúc đẩy lo lắng cho lợi ích
thiêng liêng của toàn giáo phận. Hơn nữa, các ngài hãy nhớ rằng,
những của cải mình có được khi nhận chức vụ trong Giáo Hội đều
liên hệ với nhiệm vụ thánh, nên các ngài hãy tùy sức mà quảng
đại giúp đỡ những nhu cầu vật chất của địa phận, theo như sự quy
định của Giám Mục.
29. Linh mục
đặc trách công việc liên xứ. Những cộng sự viên
thân cận hơn của Giám Mục là chính những linh mục mà ngài đã ủy
thác nhiệm vụ mục vụ hay hoạt động tông đồ có tính cách liên xứ,
hoặc đối với một cộng đoàn giáo dân riêng biệt hay một loại hoạt
động đặc biệt.
Các linh mục được Giám Mục trao phó những
nhiệm vụ tông đồ khác nhau, làm việc ở trường học, trong các tổ
chức khác hay các hiệp hội, cũng góp phần cộng tác rất quý báu.
Cả những linh mục phụ trách các công việc liên giáo phận, vì thi
hành các công cuộc tông đồ quan trọng, nên đáng được săn sóc đặc
biệt, nhất là bởi Giám Mục mà họ ở trong giáo phận của ngài.
30. Linh mục
chính xứ. Vì lý do đặc biệt các linh mục chính xứ
là những cộng sự viên của Giám Mục: các ngài được ủy thác việc
săn sóc các linh hồn như những chủ chăn riêng trong một khu vực
nhất định thuộc giáo phận dưới quyền Giám Mục.
1) Trong khi săn sóc các linh hồn như thế,
các linh mục chính xứ cùng với các phụ tá của mình phải chu toàn
nhiệm vụ giáo huấn, thánh hóa và cai quản sao cho các tín hữu và
cộng đoàn giáo xứ cảm thấy mình thực sự là những phần tử của
giáo phận cũng như của toàn thể Giáo Hội. Vì thế các ngài cũng
phải cộng tác với những linh mục chính xứ khác
19*, cả với những linh mục thi hành phận sự mục vụ
trong địa hạt (thí dụ như các Linh Mục Quản Hạt, các Linh Mục
Niên Trưởng), hoặc phụ trách những công việc có tính cách liên
xứ, để việc mục vụ trong địa phận không mất vẻ duy nhất và trở
nên hữu hiệu hơn.
Ngoài ra, việc săn sóc các linh hồn luôn
luôn phải được thấm nhuần tinh thần truyền giáo làm sao để làn
rộng cách thích đáng tới mọi người sống trong giáo xứ. Nếu các
linh mục chính xứ không thể đi tới một số nhóm người, các ngài
phải kêu gọi những người khác kể cả giáo dân, phụ giúp đặc biệt
để họ có thể trợ lực các ngài trong những việc tông đồ.
Ðể việc săn sóc các linh hồn đó được hữu
hiệu hơn, đời sống chung của các linh mục, đặc biệt là các linh
mục trong cùng một giáo xứ, được thiết tha khuyến khích, vì một
đời sống như thế vừa hỗ trợ hoạt động tông đồ, vừa nêu gương bác
ái và đoàn kết cho giáo hữu.
2) Trong khi hoàn tất nhiệm vụ giáo huấn
20*, các linh mục chính xứ có bổn phận rao giảng lời
Chúa cho mọi Kitô hữu, để khi đã được đâm rễ sâu trong đức tin,
đức cậy và đức ái, họ lớn lên trong Chúa Kitô, và cộng đoàn Kitô
giáo làm chứng về đức ái mà Chúa đã truyền dạy
17; các ngài cũng phải dạy giáo lý để giúp giáo hữu
tùy từng lứa tuổi được thấu triệt mầu nhiệm cứu rỗi. Trong việc
dạy giáo lý trên, không những các ngài phải xin các tu sĩ giúp
đỡ, mà còn yêu cầu cả giáo dân cộng tác nữa bằng cách thiết lập
Hiệp Hội Giáo Thuyết Kitô Giáo.
Trong khi hoàn thành công việc thánh hóa,
các linh mục chính xứ hãy lo lắng để việc cử hành Hy Tế Thánh
Thể phải là trọng tâm và tuyệt đỉnh của toàn thể đời sống cộng
đoàn Kitô giáo; các ngài hãy nỗ lực để tín hữu được lương thực
thiêng liêng nuôi dưỡng nhờ sốt sắng siêng năng lãnh nhận các Bí
Tích, cũng như tham dự Phụng Vụ cách ý thức và sống động. Các
ngài cũng hãy nhớ rằng Bí Tích Giải Tội hỗ trợ rất nhiều cho đời
sống Kitô giáo; vì thế các ngài phải tỏ ra sẵn sàng ngồi tòa
giải tội cho tín hữu, trong trường hợp cần thiết còn phải mời
các linh mục thông thạo những ngôn ngữ khác tới giúp đỡ nữa.
Trong khi chu toàn nhiệm vụ chủ chăn,
21* trước tiên các linh mục chính xứ hãy quan tâm tìm
hiểu đoàn chiên riêng của mình. Vì là kẻ phục vụ hết mọi con
chiên, các ngài hãy giúp cho đời sống Kitô giáo được thăng tiến
nơi từng giáo hữu, trong gia đình, trong các hiệp hội đặc biệt
liên hệ tới việc tông đồ và cả trong toàn thể cộng đoàn giáo xứ.
Vì thế các ngài hãy thăm viếng các gia đình và trường học như
phận sự mục vụ đòi hỏi; các ngài hãy nhiệt thành lo cho các
thanh thiếu niên; các ngài hãy lấy tình phụ tử bao bọc những
người nghèo khổ, bệnh tật; sau cùng các ngài hãy đặc biệt lo
lắng cho thợ thuyền và nỗ lực làm cho các tín hữu trợ giúp vào
công cuộc tông đồ.
3) Các linh mục phó xứ là những cộng sự
viên của linh mục chính xứ, hằng ngày các ngài góp phần cộng tác
quý giá và sống động vào việc thi hành phận sự mục vụ dưới quyền
linh mục chính xứ. Vì thế, linh mục chính xứ và các linh mục phó
xứ của ngài, phải có những liên lạc huynh đệ luôn bác ái và kính
trọng nhau, tương trợ lẫn nhau, bằng những lời khuyên nhủ, giúp
đỡ và gương mẫu, đồng tâm hiệp ý và hăng say lo lắng cho giáo
xứ.
31. Bổ
nhiệm, thuyên chuyển và từ chức linh mục chính xứ.
Ðể phán đoán năng khiếu một linh mục trong việc điều khiển giáo
xứ, Giám Mục hãy chú ý tới không những học thức, nhưng còn cả
lòng đạo đức, tinh thần tông đồ nhiệt thành, các tài năng cũng
như những đức tính khác cần để thi hành đúng mức việc săn sóc
các linh hồn.
Ngoài ra, vì ích lợi các linh hồn phải là
lý do toàn diện của nhiệm vụ giáo xứ, nên để Giám Mục có thể
tiến hành việc xếp đặt các giáo xứ dễ dàng và thích hợp hơn,
ngoại trừ quyền lợi của các giáo sĩ Dòng Tu, phải bãi bỏ mọi
quyền giới thiệu, bổ nhiệm hay ưu tiên, kể cả luật thi tuyển
chung hoặc riêng nếu nơi nào có luật ấy.
Trong giáo xứ của mình, mỗi linh mục chính
xứ còn được quyền tại chức lâu bền như ích lợi của các linh hồn
đòi hỏi
22*. Vì vậy, sau khi bãi bỏ việc phân biệt các linh
mục chính xứ cố định và linh mục chính xứ khả dịch, nên xét lại
và đơn giản hóa thể thức thuyên chuyển và thay đổi các linh mục
chính xứ, để nhờ đó Giám Mục vừa duy trì sự công bằng theo tự
nhiên và theo giáo luật, vừa có thể đáp ứng thích hợp hơn với
nhu cầu mà ích lợi các linh hồn đòi hỏi.
Các linh mục chính xứ, vì tuổi già hoặc vì
lý do quan trọng khác, không thể chu toàn chức vụ đúng mức và
kết quả, nên thiết tha yêu cầu các linh mục đó tự ý hoặc do Giám
Mục khuyến cáo, xin từ chức. Giám Mục hãy trợ cấp xứng đáng cho
những vị đã từ chức
23*.
32. Thiết
lập và hủy bỏ giáo xứ. Cuối cùng, cũng chính sự
cứu rỗi các linh hồn phải là lý do để xác định hoặc thừa nhận
việc thiết lập hay việc hủy bỏ các giáo xứ hoặc những thay đổi
tương tự khác mà chỉ Giám Mục mới có thể tự quyền thực hiện.
4. Các Tu Sĩ
Dòng Tu
33. Tu sĩ
dòng và việc tông đồ. Tất cả những Tu Sĩ Dòng Tu
mà những điều sau đây bàn đến, là những người đã tuyên hứa theo
những lời khuyên Phúc Âm trong các Tu Hội, tùy theo ơn gọi riêng
của mỗi Tu Hội, có nhiệm vụ tận lực và chuyên cần gắng sức xây
dựng phát triển toàn diện Nhiệm Thể Chúa Kitô và mưu cầu ích lợi
cho các Giáo Hội địa phương.
Họ buộc phải theo đuổi những mục đích đó
trước hết bằng lời cầu nguyện, các việc thống hối và bằng gương
mẫu đời sống cá nhân, Thánh Công Ðồng cũng thiết tha khuyến
khích họ luôn luôn quý mến và siêng năng thực hiện các việc ấy.
Nhưng, tùy theo đặc tính của mỗi Dòng Tu, các tu sĩ còn phải tận
lực tham gia các công việc tông đồ bên ngoài.
34. Tu sĩ
dòng cộng tác với Giám Mục trong việc tông đồ.
Những linh mục dòng tu được thánh hiến thi hành chức vụ linh
mục, để chính họ trở thành những cộng sự viên khôn ngoan của
Hàng Giám Mục, ngày nay có thể giúp đỡ các Giám Mục nhiều hơn,
trước nhu cầu gia tăng của các linh hồn. Như thế, xét theo
phương diện nào đó, phải nói rằng các ngài thực sự liên hệ với
hàng giáo sĩ giáo phận, vì cùng chia xẻ công việc săn sóc các
linh hồn và các công cuộc tông đồ dưới quyền của các vị Lãnh Ðạo
thánh.
Cà những thành phần khác như các nam hay nữ
tu, vì lý do đặc biệt, đều thuộc về gia đình giáo phận, cũng
giúp đỡ nhiều cho Hàng Giáo Phẩm; và vì nhu cầu tông đồ mỗi ngày
một gia tăng, nên họ có thể và phải giúp đỡ mỗi ngày một hơn.
35. Nguyên
tắc dành cho việc tông đồ của tu sĩ dòng trong giáo phận.
Ðể hoạt động tông đồ trong mỗi giáo phận luôn luôn được thực
hiện một cách hòa hợp và để sự duy nhất của kỷ luật giáo phận
được bảo toàn, Thánh Công Ðồng quy định nguyên tắc căn bản sau
đây:
24*
1) Tất cả các Tu Sĩ Dòng Tu phải sốt sắng
tuân phục và kính trọng các Giám Mục là những đấng kế vị các
Tông Ðồ. Ngoài ra, mỗi khi được mời cách hợp pháp tham dự các
hoạt động tông đồ, họ buộc phải thi hành nhiệm vụ của mình sao
cho thành những cộng sự viên thường trực và tùng phục Giám Mục
18. Nhất là các Tu Sĩ Dòng Tu hãy mau mắn và trung
thành hưởng ứng lời thỉnh cầu và nguyện vọng của các Giám Mục để
lãnh nhận những vai trò rộng lớn hơn trong việc cứu rỗi con
người, nhưng vẫn duy trì đặc tính của Tu Hội và theo đúng Hiến
Pháp, và nếu cần Hiến Pháp đó sẽ được thích nghi với mục đích
ấy, theo các nguyên tắc trong Sắc Lệnh này của Công Ðồng.
Nhất là vì quan tâm đến nhu cầu khẩn cấp
của các linh hồn và vì thiếu các giáo sĩ giáo phận, nên các Giám
Mục có thể kêu gọi những Tu Hội không hoàn toàn sống đời chiêm
niệm giúp đỡ những việc mục vụ khác nhau, nhưng vẫn tùy theo đặc
tính riêng của mỗi Tu Hội; để giúp đỡ công việc trên, các Bề
Trên phải hết sức hưởng ứng việc lãnh nhận giáo xứ dù là tạm
thời.
2) Còn các tu sĩ dòng tu được sai đi phụ
trách hoạt động tông đồ ở ngoài vẫn phải thấm nhuần tinh thần
của Tu Hội, luôn luôn trung thành giữ luật và vâng phục Bề Trên
tu hội. Các Giám Mục đừng quên nhấn mạnh đến nghĩa vụ này.
3) Tính chất miễn trừ - bởi đó các Tu Sĩ
Dòng Tu thuộc quyền Ðức Giáo Hoàng hay một Thẩm Quyền khác trong
Giáo Hội và không tùy thuộc quyền của các Giám Mục - đặc biệt
liên hệ tới tổ chức nội bộ của các Tu Hội để mọi việc trong các
Tu Hội trở nên thích hợp và liên lạc chặt chẽ với nhau hơn và sự
tiến bộ cũng như sự trọn lành của đời sống dòng tu được lo lắng
tới nhiều hơn
19; cũng để Ðức Giáo Hoàng có thể sắp đặt các tu sĩ
dòng tu theo ích lợi của toàn thể Giáo Hội
20; và để Thẩm Quyền khác phân phối hợp với ích lợi
của Giáo Hội thuộc quyền.
Nhưng đặc tính miễn trừ ấy không ngăn cản
việc các Tu Sĩ Dòng Tu trong mỗi giáo phận tùng phục quyền các
Giám Mục theo giáo luật, như việc chu toàn phận sự mục vụ của
các ngài và việc coi sóc các linh hồn một cách đúng mức đòi hỏi
21.
4) Mọi tu sĩ, miễn trừ và không miễn trừ,
đều phải phục tùng các Ðấng Bản Quyền địa phương trong những
điều liên quan tới việc công khai thờ Kính Thiên Chúa, nhưng vẫn
kính trọng vẻ khác biệt của các Nghi Lễ, trong những điều liên
quan tới việc coi sóc các linh hồn, việc giảng huấn thánh cho
dân chúng, việc giáo dục tôn giáo và luân lý cho các Kitô hữu,
đặc biệt là cho các thiếu nhi, việc tổ chức dạy giáo lý và huấn
luyện phụng vụ, tư cách của hàng giáo sĩ và cả những công việc
khác liên hệ tới việc thi hành hoạt động tông đồ thánh. Những
học đường công giáo của các tu sĩ cũng phải thuộc quyền các Ðấng
Bản Quyền địa phương về những gì liên hệ đến tổ chức và sự chăm
sóc chung, tuy nhiên các tu sĩ vẫn nắm quyền điều hành các
trường đó. Cũng thế, các Tu Sĩ Dòng Tu buộc phải tuân giữ tất cả
những gì mà các Công Ðồng hay Hội Ðồng Giám Mục ban bố cách hợp
pháp buộc mọi người phải giữ.
5) Giữa các Tu Hội với nhau, cũng như giữa
các Tu Hội với hàng giáo sĩ giáo phận, phải khuyến khích việc
hợp tác có tổ chức. Nhất là phải có sự phối hợp chặt chẽ giữa
mọi công việc và hoạt động tông đồ, nó tùy thuộc ở ý hướng siêu
nhiên của tinh thần và tâm hồn, đâm rễ sâu và xây dựng trên đức
ái. Tòa Thánh có nhiệm vụ lo lắng việc phối hợp cho toàn thể
Giáo Hội; còn mỗi Chủ Chăn thánh lo cho giáo phận mình; sau hết,
các Thượng Hội Ðồng Giáo Chủ và các Hội Ðồng Giám Mục lo cho
lãnh thổ mình.
Các Giám Mục hay các Hội Ðồng Giám Mục và
các Bề Trên Dòng Tu, hoặc Hội Ðồng các Bề Trên Cả hãy vui lòng
tiến hành việc thảo luận chung với nhau về những dự án các công
việc tông đồ do các tu sĩ thực hiện.
6) Ðể đồng một lòng tán trợ những mối tương
quan giữa các Giám Mục và các Tu Sĩ cách hữu hiệu, các Giám Mục
và các Bề Trên Dòng Tu hãy vui lòng họp lại với nhau vào những
kỳ hạn nhất định, và mỗi khi thấy thích hợp, để thảo luận về
những công việc có liên hệ tổng quát tới hoạt động tông đồ tại
lãnh thổ mình.
Chú Thích:
9*
Ðoạn này diễn tả giáo phận như là mẫu của Giáo Hội riêng biệt
hay địa phương. Giáo phận gồm hai yếu tố:
a) yếu tố xã hội: một phần của dân Thiên
Chúa, của Giáo Hội phổ quát trên một lãnh thổ nhất định, có Giám
Mục lãnh đạo. Trên phương diện này, giáo phận là một đơn vị mục
vụ và hành chánh.
b) yếu tố siêu nhiên: Chúa Kitô, Chúa Thánh
Thần, ơn cứu rỗi, toàn thể mầu nhiệm Giáo Hội đều hiện diện trọn
vẹn trong mỗi giáo phận (x. số 15 phần cuối; GH 26). Những thực
tại này vì thiêng liêng nên bất khả phân. Trên phương diện này,
giáo phận là toàn thể Giáo Hội hiện diện tại một nơi nhất định.
1
Xem CÐ Vat. II, Sắc lệnh về các Giáo Hội Công Giáo Ðông Phương
Orientalium Ecclesiarum, 21-11-1964, số 7-11: AAS 57 (1965), trg
79-80.
2
Xem CÐ Trentô, Khóa 5, Sắc lệnh De reform., ch. 2 : Mansi 33,
30; Khóa 24, Sắc lệnh De reform., ch 4 : Mansi 33, 159. - Xem CÐ
Vat. II, Hiến chế tín lý về Giáo Hội Lumen gentium, ch. III. số
25: AAS 57 (1965), trg 29tt.
3
Xem CÐ Vat. II, Hiến chế tín lý về Giáo Hội Lumen gentium, ch.
III, số 25: AAS 57 (1965), trg 29-31.
4
Xem Gioan XXIII, Tđ. Pacem in terris, 11-4-1963, và nhiều nơi
khác: AAS 55 (1963), trg 257-304.
10*
Về những đề tài và tính cách của giáo huấn Giáo Hội torng thời
đại chúng ta, xem MK 25; GM 12, 13, 30; LM 4; MV 4, 10, 12, 22,
37, 38, 43, 62 v.v...
5
Xem Phaolô VI, Tđ. Ecclesiam suam, 6-8-1964: AAS 56 (1964), trg
639.
6
N.t., trg 644-645.
7
Xem CÐ Vat. II, Sắc lệnh về các phương tiện Truyền Thông xã hội
Inter Mirifica: AAS 56 (1964), trg 145-153.
8
Xem CÐ Vat. II, Hiến chế về Phụng Vụ Thánh Sacrosanctum
Concilium: AAS 56 (1964), trg 97tt. - Phaolô VI, Tự sắc Sacram
Liturgiam, 25-1-1964 : AAS 56 (1964), trg 139tt.
9
Xem Piô XII, Tđ. Mediator Dei, 20-11-1947: AAS 39 (1947), trg
521tt. - Phaolô VI, Tđ. Mysterium Fidei, 3-9-1965: AAS 57
(1965), trg 753-774.
10
Xem CvTđ 1,14 và 2,46.
11
Xem CÐ Vat. II, Hiến chế tín lý về Giáo Hội Lumen gentium, ch.
VI, số 44-45: AAS 57 (1965), trg 50-52.
12
Xem Lc 22,26-27.
13
Gio 15,15.
11*
Về mối tương quan giữa các Giám Mục và linh mục: xem số 15, 28;
GH 28; LM 2, 7, 15; TG 20.
14
Xem CÐ Vat. II, Sắc lệnh về Hiệp Nhất Unitatis Redintegratio:
AAS 57 (1965), trg 90-107.
15
Xem T. Piô X, Tự sắc Iampridem, 19-3-1914 : AAS 6 (1914), trg
173 tt. - Piô XII, Tông hiến Exsul Familia, 1-8-1952: AAS 44
(1952), trg 649 tt; Leges Operis Apostolatus Maris, được thu
thập lại theo lệnh của Ðức Piô XII, 21-11-1957: AAS 50 (1958),
trg 375-383.
12*
Công Ðồng đặt các tương quan giữa Giáo Hội với các quốc gia trên
nguyên tắc độc lập hỗ tương; nhưng trong khi cộng tác, Giáo Hội
và quốc gia có những sứ mệnh khác nhau. Và đây cũng là nền tảng
cho sự độc lập. Có một điểm tương đồng là cả Giáo Hội lẫn quốc
gia đều phục vụ con người: đây là nền tảng của việc cộng tác
giữa hai bên (MV 76). Từ nguyên tắc trên Công Ðồng suy diễn ra
một kết luận hợp lý (số 20): chỉ Ðức Giáo Hoàng mới có quyền bổ
nhiệm Giám Mục, vì việc bổ nhiệm chỉ liên quan đến sứ mệnh của
Giáo Hội. Ðây là một canh tân, vì giáo luật khoản 332, 1 chấp
nhận cho quốc gia có quyền quy định, tuyển chọn, giới thiệu hay
chỉ định các Giám Mục mới trong lãnh thổ thuộc quyền mình.
13*
Ðức Phaolô VI xin các Giám Mục từ chức khi được 75 tuổi trọn.
Giám Mục từ chức, nếu muốn, có thể ở lại trong giáo phận của
ngài và giáo phận có bổn phận phải nuôi dưỡng ngài (x. Ecclesiae
Sanctae, số 11).
16
Xem CÐ Vat. II, Sắc lệnh về các Giáo Hội Công Giáo Ðông Phương
Orientatium Ecclesiarum, 21-11-1964, số 4: AAS 57 (1965), trg
77.
14*
Giám Mục Phó là một Giám Mục Hiệu Tòa, được chỉ định để giúp một
Giám Mục có giáo phận trong vấn đề mục vụ và cai quản giáo phận,
với quyền kế vị. Giám Mục Phụ Tá cũng là một Giám Mục Hiệu Tòa
giúp đỡ một Giám Mục cai quản giáo phận, nhưng không có quyền kế
vị. Có quyền kế vị hay không là một dị biệt chính yếu. Ngoài ra
còn hai dị biệt phụ thuộc là: Giám Mục Phó quan trọng và có
quyền hành nhiều hơn; trong một giáo phận chỉ có thể có một Giám
Mục Phó, còn Giám Mục Phụ Tá thì có thể có nhiều vị cùng một
lúc.
15*
Ðoạn này có 4 điểm mới so với bộ giáo luật:
1) Nếu trong giáo phận có Giám Mục Phó,
phải đặt ngài làm Giám Mục Tổng Ðại Diện (x. chú thích tiếp
sau).
2) Nếu có Giám Mục Phụ Tá, phải đặt ngài
làm Giám Mục Tổng Ðại Diện hay phó Ðại Diện Giám Mục (x. chú
thích tiếp sau).
3) Khi Giám Mục giáo phận qua đời hay đổi
giáo phận, Giám Mục Phụ Tá không mất quyền. Ðó là điều khác với
giáo luật khoản 355, 2. Khoản giáo luật này bị hủy bỏ.
4) Khi giáo phận trống tòa, Công Ðồng mong
ước việc cai trị giáo phận phải được trao cho Giám Mục Phụ Tá.
Nhưng không buộc ngặt. Trường hợp Giám Mục Phụ Tá không được
chọn làm Ðại Diện Thừa Ủy, ngài sẽ giữ nhiệm vụ đại diện tổng
quát hay phó giám mục như trước (Ecclesiae Sanctae, số 13).
16*
Giáo phủ giáo phận là cơ quan cai quản giáo phận của Giám Mục.
Sắc Lệnh thường nói đến "các cộng tác viên". Ðể dễ hiểu, xin đan
cử một vài thí dụ tiêu biểu:
1) Tổng Ðại Diện: đây là nhân vật quan
trọng nhất trong giáo phận sau Ðức Giám Mục, Ngài có hầu hết mọi
quyền của Giám Mục trên khắp giáo phận. Nhưng Giám Mục có thể
hạn chế quyền hành của ngài.
2) Ðại Diện Giám Mục: đây là một chức vụ
mới được Công Ðồng thiết lập. Ðại Diện Giám Mục có mọi quyền của
Giám Mục, nhưng chỉ trên một phần giáo phận, hay đối với một
loại công việc đặc biệt, hay đối với một hạng giáo dân, ví dụ ở
Việt Nam có thể có một Ðại Diện Giám Mục đặc trách đồng bào
Thượng.
3) Ðại Diện Thừa Ủy: sau khi Giám Mục qua
đời hay đổi giáo phận, trong vòng một tuần lễ, các cố vấn của
Giám Mục phải đề cử một linh mục để cai quản giáo phận cho đến
khi có Giám Mục mới. Linh mục đắc cử gọi là Ðại Diện Thừa Ủy.
4) Các Phó Xứ (số 30,3) là những linh mục
giúp cha xứ trong một giáo xứ.
17*
Chiếu theo giáo luật, mỗi giáo phận phải có một hội đồng linh
mục với nhiệm vụ: a) làm cố vấn cho Giám Mục, b) đề cử đại diện
thừa ủy khi giáo phận trống tòa. Ở Âu châu, hội đồng này mệnh
danh là kinh sĩ hội chính tòa. Ở Việt Nam gọi là ủy ban cố vấn
(Giáo Luật kh. 423 tt).
Công Ðồng duy trì định chế này, đồng thời
cũng ao ước có sự canh tân, nhưng Công Ðồng cũng thêm hai định
chế khác:
1) Ủy ban hay hội đồng linh mục (LM 7). Ðây
là nhóm linh mục đại diện cho tất cả các linh mục giáo phận, kể
cả các linh mục dòng. Hội đồng này chỉ có quyền tư vấn, và khi
trống tòa hội đồng ngưng hoạt động. Tân Giám Mục sẽ lập một hội
đồng khác (Ecclesiae Sanctae, số 15; x. TG 20).
2) Hội đồng mục vụ (số 27 phần cuối): Gồm
các giáo sĩ, tu sĩ và giáo dân. Hội đồng này cũng có quyền tư
vấn và nhiệm vụ đệ trình lên Giám Mục những đề nghị cụ thể trong
phạm vi mục vụ (Ecclesiae Sanctae, số 16; x. TG 30).
18*
Linh mục đoàn là toàn thể linh mục trong giáo phận (GH 28; GM
11, 15, 28; LM 7, 8 v.v...). Cả đến các tu sĩ (số 34) và các vị
thừa sai ngoại quốc (TG 20) cũng là hội viên.
19*
Xem LM 8; TG 20.
20*
Xem LM 4.
17
Xem Gio 13, 35.
21*
Xem LM 6.
22*
Ở đây Công Ðồng thay đổi hai định chế giáo luật:
1) Việc bổ nhiệm các cha chính xứ: theo
giáo luật cho chính xứ có thể được bổ nhiệm:
a) Bằng một cuộc thi (Giáo Luật kh. 459,
3,30), đây là cuộc khảo hạch về thần học và mục vụ. Ai đậu cao
nhất sẽ được bổ nhiệm chính xứ.
b) Bằng cuộc tuyển lựa (Giáo Luật kh. 455,
1), do giáo dân trong xứ hay những người khác tuyển chọn với sự
phê chuẩn của Giám Mục.
c) Do sự chỉ định trực tiếp của Giám Mục,
Công Ðồng chỉ giữ lại cách thứ ba này và hủy bỏ hai cách kia.
2) Sự cố định của linh mục chính xứ: trước
Công Ðồng, có những linh mục chính xứ, Giám Mục có thể tùy ý
thuyên chuyển đến một giáo xứ khác; trái lại, có những vị, Giám
Mục không thể thuyên chuyển nếu không có một vụ kiện theo giáo
luật. Sự phân biệt này được hủy bỏ (Ecclesiae Sanctae, số 18).
23*
Cũng như các Giám Mục, các linh mục chính xứ cũng được yêu cầu
từ chức khi được 75 tuổi trọn (Ecclesiae Sanctae, số 20).
24*
Về những tương quan giữa Giám Mục giáo phận và các dòng tu hoạt
động trong giáo phận, Công Ðồng thiết lập hai nguyên tắc căn
bản:
1) Các dòng tu được miễn trừ khỏi quyền
bính Giám Mục trong những gì có liên quan đến đời sống của dòng,
nhưng lệ thuộc vào Giám Mục trong phạm vi hoạt động tông đồ
(Ecclesiae Sanctae, số 22-40; TG 30).
2) Trong trường hợp cấp bách vì nhiệm vụ
tông đồ, các dòng tu phải chấp nhận đề nghị của Giám Mục khi
ngài xin họ giúp đỡ.
18
Xem Piô XII, Huấn từ, 8-12-1950: AAS 43 (1951), trg 28. - Xem
thêm Phaolô VI, Huấn từ 23-5-1964: AAS 56 (1964), trg 571.
19
Xem Leô XIII, Tông hiến Romanos Pontifices, 8-5-1881: Acta
Leonis XIII, q.II (1882), trg 234 tt.
20
Xem Phaolô VI, Huấn từ, 23-5-1964: AAS (1964), trg 570-571.
21
Xem Piô XII, Huấn từ 8-12-1950 : n.v.t.
|
VỀ MỤC LỤC |
|
TAM TOÀ: NỐI TIẾP GƯƠNG CÁC THÁNH
TỬ ĐẠO
|
Tam Toà là
nơi các giáo dân thuộc các giáo xứ ở phía nam Quảng Bình bị bắt
đạo dưới thời Tự Đức và Văn Thân, đã chạy tán loạn, được Linh
mục Claude Bonin (thường gọi là Cố Ninh) tập trung lại và lập
thành một giáo xứ mới ở phía bắc thành Đồng Hới, trên bờ sông
Nhật Lệ, lấy tên là giáo xứ Tam Tòa. Số người bị bách hại và
chết vì đạo rất nhiều, trong đó có hai vị đã được phong thánh là
Linh Mục Gioan Đoạn Trinh Hoan và ông Mathêô Nguyễn Văn Phượng.
Trước năm 1954, đi vào nhà thờ Tam Toà, chúng ta thấy tượng của
hai vị này đứng hai bên trước cung thánh. Ngoài ra, trong làng
còn có một ngôi đền kính Chân Phưóc Mathêô Phượng (lúc đó chưa
được phong thánh). Theo truyền thống của cha ông, tinh thần sống
và chết vì đạo của các tính hữu Tam Toà nói riêng và Quảng Bình
nói chung là rất cao.
QUẢNG BÌNH DƯỚI THỜI CẤM
ĐẠO
Dưới thời vua
Tự Đức (1847 – 1883), lệnh cấm đạo rất ác liệt. Sắc dụ 1855 ra
hạn “các quan ở tỉnh 3 tháng để xuất giáo, dân chúng và binh sĩ
được 6 tháng để bỏ đạo. Phải đốt tất cả các nhà thờ, nhà xứ; cấm
giáo hữu không được tập trung”. Sắc dụ 1857 truyền “khắc vào má
hai chữ Tả Đạo và tên làng” cho giáo hữu; những ông quan chễnh
mảng phải mất chức”. Sắc dụ 1859 ra lệnh “bắt các chức việc họ,
Thầy Giảng”. Sắc dụ 1860 truyền cấm không cho đàn bà, con nít ra
khỏi làng “vì chúng dùng những đàn bà xấu nết mà chúng gọi là
trinh nữ, là bà phước để giấu diếm các đồ thờ, để đưa thư từ và
tin tức”. Cuối cùng Vua Tự Đức hạ Sắc dụ 1861 về “Phân Sáp”, tức
phân tán người Công Giáo đi khắp nơi trong nước cho sống giữa
các lương dân để họ không còn có thể sống đạo được.
Dưới thời vua
Tự Đức cấm đạo, Đức Giáo Mục Francois Marie Pellerin (1850 –
1862) đang cai quản Giáo Phận Bắc Đàng Trong và Giám Mục Joseph
Hyacinthe Sohier (1862-1876) làm Giám Mục Phụ Tá. Trước những
biện pháp cấm đạo gắt gao nói trên, Đức Cha Sohier phải dời
chủng viện ở Di Loan, Cửa Tùng, Quảng Trị, ra Kẻ Sen, phía tây
thành phố Đồng Hới ngày nay và ngài đến cư trú ở đó để lo cho
chủng sinh. Kẻ Sen là một giáo xứ ở sát rừng núi nên dễ lẩn
tránh mỗi khi quan quân mở cuộc lùng bắt. Trong 10 năm, quan
quân đã lùng bắt Đức Cha nhiều lần nhưng không bắt được, nên báo
cáo với Vua Tự Đức rằng Đức Cha Sohier đã chết. Ngày 13.9.1862,
Đức Cha Pellerin qua đời, Đức Cha Sohier lại được Tòa Thánh cử
cai quản Giáo phận Bắc Đàng Trong.
Tháng 6 năm
1876, Đức Cha Sohier đi kinh lược tỉnh Quảng Bình, khi tới Kẻ
Sen, ngài bị kiết lị và qua đời ngày 3.9.1876, an táng tại Kẻ
Sen, hưởng thọ 58 tuổi, với 34 năm làm Linh Mục và 23 năm làm
Giám Mục. Vì thế, ngày nay Pháp đã giúp Kẻ Sen phục hồi lại giáo
xứ.
Đức Giám Mục
Sohier qua đời để lại cho Giáo Phận Huế 113 giáo xứ (Quảng Bình
25, Quảng Trị 63 và Thừa Thiên 25), 2 chủng viện, 7 tu viện Mến
Thánh Giá, 3 viện dục anh và 22.000 giáo dân
Vùng Sen
Bàng trước 1954 gồm 4 giáo xứ sau đây: Kẻ Sen, Kẻ Bàng,
Xóm Kéc và Đá Mài. Hầu hết giáo dân thuộc các giáo xứ này đã
di cư vào Đà Nẵng năm 1954. Ngày ngay, các giáo xứ này kết hợp
lại thành giáo xứ Sen Bàng, hiện do Linh mục Lê Thanh Hồng làm
chánh xứ kiêm chánh xứ Tam Toà.
HAI ANH HÙNG TỬ ĐẠO
Trong thời
gian cấm đạo dưới thời Tự Đức, tại Quảng Bình có 41 giáo dân bị
giết, nhiều người bị tù tội. Riêng giáo xứ Sáo Bùn có một linh
mục và một thầy giảng bị án trảm quyết, đó là Linh mục Gioan
Đoạn Trinh Hoan và Thầy giảng Mathêô Nguyễn Văn Phượng.
1.- Linh
mục Gioan Đoạn Trinh Hoan:
Sinh năm 1798 tại họ Kim Long, huyện Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên,
được phong linh mục năm 1836. Trước tiên, cha Hoan được cử coi
sóc họ Kẻ Sen ở Quảng Bình, rồi họ Bãi Trời ở Quảng Trị. Khi
tình hình ở Huế gặp nhiều khó khăn, Đức Cha đã gọi ngài về coi
giáo dân ở Thừa Thiên. Đầu tháng Giêng năm 1861, Cha Hoan đến
Sáo Bùn để giúp giáo dân chuẩn bị dự lễ Ba Vua thì có người
ngoại đạo biết được và đi tố giác với quan. Ngài đã bị bắt và bị
đưa ra xét xử ngày 4.1.1861 cùng với 9 giáo dân.
Cuối tháng
ba, cha bị kết án tử hình và tịch thu tài sản. Các giáo dân khác
bị xử lưu đày gồm có: ông Biện, Thầy Huệ, ông Quế và bà Ban. Bốn
người khác can vào vụ này còn trốn thoát sẽ bị kết án khi bắt
được.
Ngày
25.6.1861, cai đội đã đến nhà tù gọi ngài ra và đọc án như sau:
"Tự Đức năm thứ 14, ngày 17 tháng 4, tên Hoan là linh mục,
day đạo và lừa dối nhiều người, luận phải xử chém lập tức".
Sau đó ông ra lệnh đặt gông lên cổ cha và cho bốn tên lính cầm
giáo áp tải cha đi ra cửa thành và đưa ra pháp trường là một
cánh đồng trống ở ngoài thành Động Hải, gần làng Phú Ninh. Tại
đây, giáo dân đã trải chiếu sẵn để cha quì lên trên.
Sau khi hướng
mắt lên trời cầu nguyện một hổi lâu, ngài nói với lý hình: “Tôi
đã sẵn sàng”. Lý hình nhảy múa chờ trống lệnh để chém xuống.
Nhát đao thứ nhất chém trúng vai khiến Cha Hoan té ngửa, tên
lính túm tóc cha ngồi lên và chém nhát thứ hai vào má và chém
tiếp theo hai nhát nữa. Lát sau cùng đã trúng cổ khiến đầu cha
văng ra xa khoảng năm bước.
Giáo dân được
phép vào thấm máu và tẩm liệm, đem xác cha an táng trọng thể tại
nghĩa địa của các nữ tu ở Mỹ Hương. Khi lập hồ sơ phong Á Thánh,
xác ngài được đưa về chủng viện Phú Xuân
2.- Thầy
giảng Nguyễn Văn Phượng:
sinh năm 1801 tại Kẻ Lậy, cũng gọi là Lý Nhơn, thuộc tỉnh Quảng
Bình. Ngài có ba tên: tên Kế là tên chính thức, tên Đắc là tên
cha mẹ đặt cho và tên Phượng là tên người con gái đầu lòng.
Mồ côi cha mẹ
lúc 12 tuổi, cậu Đắc đi học thuốc với một người ngoại đạo tên là
Nhu, nhưng ba năm sau cậu gặp Cha Điểm, được ngài nhận nuôi và
dạy dỗ cho thành Thầy Giảng. Sau đó ngài giúp ông lập gia đình
với bà Agnes, con của ông đội Khiêm ở Sáo Bùn. Lập gia đình rồi
ông về ở Sáo Bùn luôn và được cử làm Thầy Giảng ở đó. Hai ông bà
sinh được 8 người con. Ban đầu làm nghề thuốc nhưng không được
khá giả nên đổi sang nghề buôn bán và được dư giả.
Đầu năm 1861
Cha Hoan đến tổ chức tuần đại phúc cho họ Sáo Bùn, ông Phượng lo
chỗ ăn ở cho ngài. Khi cha Hoan bị truy lùng vì có người tố cáo,
ông đã bị bắt vì tội chứa chấp Cha Hoan. Năm đó ông đã 60 tuổi.
Ông bị giải
về Đồng Hới và bị ép chối đạo bốn lần, nhưng ông từ chối. Khi
quan bắt ông nhận là đã chứa chấp Cha Hoan, ông cũng không nhận
vì không biết Cha Hoan đã khai như thế nào. Quan dọa sẽ bắt các
con của ông đánh đòn. Vì thế khi có sự hiện diện của Cha Hoan và
các giáo dân khác, với sự đồng ý của Cha Hoan, ông đã khai có
tiếp đón và nuôi Cha Hoan.
Ông cũng bị
tuyên án như Cha Hoan và cũng bị đưa đi hành quyết một lần với
Cha Hoan. Bản án của ông được viết trên gỗ, ghi như sau:
"Năm Tự Đức thứ 14, ngày 17-4. Tên
Nguyễn Văn Đắc, tự Phượng, là người theo đạo Kitô và chứa chấp
đạo trưởng Hoan, tội đáng chém".
Tại pháp
trường, lý hình chỉ chém một phát là đầu rơi xuống ngay. Xác
ngài được bọc lại và chôn ở Mỹ Hương như Cha Hoan. Khi lập hồ sơ
phong Á Thánh, xác ngài cũng được đưa về chủng viện Phú Xuân như
xác Cha Hoan.
Cả hai vị đã
được phong Á Thánh năm 1909 và được phong Thánh ngày 19.6.1988.
Những gì các
nhà truyền giáo và cha ông chúng ta đã dùng xương máu để làm ở
nên Tam Tòa, các thế hệ đi sau nhất định sẽ nối tiếp.
Lữ Giang
|
VỀ MỤC LỤC |
|
LÀM
THẾ NÀO ĐỂ TRỞ THÀNH LINH MỤC TUYỆT VỜI CHO GIÁO HỘI CÔNG GIÁO
VIỆT NAM NGÀY NAY? |
http://www.dunglac.org/index.php?m=home&v=detail&ia=8212
Vài cảm nghĩ…
Nhiều người
cho rằng ở Việt Nam ta ngày nay, việc giáo dân góp ý với Giáo
hội – gồm các vị hồng y, giám mục, linh mục, tu sĩ và giáo dân –
về việc đào tạo linh mục, về cách sống chứng nhân, cách rao
giảng Tin Mừng và cách thi hành chức vụ thừa tác viên của Giáo
hội là “bằng thừa”, vì ai cũng cho rằng các linh mục đã được đào
tạo rất kỹ, rất lâu, được chọn lọc rất gắt gao rồi mới được “đỗ
cụ”, vì thế, chúng ta chỉ cần đọc kinh “cầu cho các linh mục”
trong các thánh lễ chủ nhật là đủ rồi.
Điều nhận xét
đó rất đúng.
Qủa thật, như
chúng ta đã chứng kiến, suốt hơn 34 năm qua, Giáo hội Công giáo
VN đã hoàn thành một cách quá xuất sắc nhiệm vụ đào tạo các linh
mục trong hoàn cảnh khó khăn chung của cả đất nước, trong thế
giới ngày nay đầy biến động gay gắt, đầy những cơn bão “tôn sùng
vật chất” làm điên đảo cuộc sống đạo trên toàn cầu…
Chúng ta phải
công nhận đó là một hồng ân to lớn của Chúa đã ban cho Giáo hội
Công giáo VN ta, vì:
- Số các linh
mục Dòng cũng như Triều, ngày càng thêm đông hơn bao giờ hết,
- Ở nhiều địa
phận, các linh mục đã được đào tạo cả về đạo lẫn về đời rất kỹ
lưỡng trong một thời gian dài: 4 năm học đại học quốc gia hay
dân lập – vì không có đại học Công giáo – để lấy bằng cử nhân.
Sau đó là 2 năm ứng sinh, 2 năm học triết học tây phương, rồi 1
năm đi giúp xứ. Tiếp theo là 4 năm thần học, cuối cùng là 1 năm
đi giúp xứ trước khi được thụ phong linh mục. Tổng cộng là 14
năm, tính từ đại học trở lên.
Nói cách
khác, các linh mục ngày nay đã nhận được một nền giáo dục đầy đủ
cả đời lẫn đạo, đã được thử thách một thời gian dài đủ để có sự
lựa chọn chín chắn, tự do trước khi chọn đời sống tận hiến linh
mục tại VN.
Như thế, việc
góp ý … có còn cần thiết nữa hay không?
Theo tôi thì
vẫn còn cần thiết, vì những lý do sau đây: muốn phát triển Đạo
ngày càng tốt hơn thì phải không ngừng canh tân đường lối giáo
dục và tìm ra được những yếu tố nhân văn và siêu nhiên làm điểm
tựa mới cho linh mục. Và đặc biệt, vì tôi không bao giờ quên
được những lời chỉ dạy trực tiếp của Đức cố Hồng Y Trịnh văn Căn
và của một vài vị Giám Mục nữa, là: phải đóng góp ý kiến xây
dựng cho Giáo hội Công giáo VN khi có thể được, để Giáo hội ngày
càng phát triển tốt hơn, đúng với ý Chúa hơn. Như vậy, đóng góp
ý kiến xây dựng luôn luôn là cần thiết… Riêng tôi, tôi xin đóng
góp ý kiến về 4 vấn đề liên quan đến câu hỏi “Làm thế nào để trở
thành linh mục tuyệt vời cho Giáo hội Công giáo VN ngày nay?”
như sau:
- Làm thế nào
để các bài giảng của các linh mục VN ngày chủ nhật có chất lượng
cao hơn.
- Làm thế nào
để các bài viết của các linh mục VN trên các website đây đó được
sâu sắc hơn.
- Làm thế nào
để các lời phát biểu về những vấn đề đạo-đời của các linh mục VN
ở những nơi công cộng, ở các bàn hội nghị thể hiện được đầy đủ
bản chất công bằng và bác ái, công lý và hòa bình của Đạo Công
giáo toàn cầu nhưng bằng cách diễn đạt mang đậm nét văn hóa VN.
đầy hiền hòa, nhẹ nhàng và tế nhị nhưng lại rất hữu hiệu…trong
mọi hoàn cảnh.
- Làm thế nào
để các linh mục VN ngày nay sống vững vàng và sâu sắc hơn đời
sống linh mục của mình giữa lòng dân tộc.
Hơn nữa, tôi
muốn đóng góp vì tôi thấy những lời đề nghị của tôi, đã đến lúc,
có thể từng bước thực hiện được dễ dàng hơn những năm trước đây,
vì ngày nay chính sách của Nhà Nước Việt Nam đã cởi mở rộng rãi
hơn, thuận lợi hơn trước rất nhiều; vì các điều kiện vật chất
của Giáo Hội Công Giáo VN cũng đã được cải thiện đáng kể hơn
trước cho việc đào tạo: điều kiện học tập, ăn ở, sinh hoạt tốt
hơn, bớt lo lắng về vật chất hơn, nhờ vậy chủng sinh có giờ học
tập, tu luyện nhiều hơn…; và vì một lý do quan trọng khác nữa,
đó là giáo dân VN ngày nay có trình độ nhận thức đạo-đời cao hơn
trước nhiều, do họ tự chủ động học tập về Tin Mừng, về giáo lý
thần học, theo dõi những biến chuyển của Giáo hội trên toàn thế
giới nhờ những phương tiện truyền thông ngày càng thuận lợi
hơn…như sách báo, các trang web, các kênh truyền hình quốc
tế…vân vân…
Tóm lại, hoàn
cảnh mới của Giáo hội công giáo VN, của Đất Nước VN và của toàn
thế giới ngày nay rất thuận lợi cho việc nâng cao chất lượng đào
tạo của các linh mục và xây dựng thành công những điểm tựa mới
cho các linh mục VN. Như thế, hy vọng sẽ giải quyết được phần
nào những vấn đề nêu trên.
Bài này gồm hai phần:
Phần I : Xây
dựng một chương trình đào tạo linh mục theo mô hình mới.
Phần II : Xây
dựng một điểm tựa mới cho các linh mục.
PHẦN I
XÂY DỰNG MỘT CHƯƠNG TRÌNH ĐÀO TẠO LINH MỤC THEO MÔ HÌNH MỚI.
Để giải quyết
tận gốc 4 vấn đề cấp bách nêu trên đây: nâng cao chất lượng bài
giảng, nâng cao sự sâu sắc của bài viết, nâng cao chất đạo của
các lời phát biểu và nâng cao sự vững vàng và hiệu quả của đời
sống linh mục, tôi xin đưa ra 3 đề nghị sau đây:
Đề nghị 1: Đề cao ý nghĩa
thần học mục vụ dấn thân (théologie pastorale engagée) trong
việc giải thích Kinh Thánh .
Xin các linh
mục chú trọng hơn nữa việc đề cao ý nghĩa thần học hơn ý nghĩa
đạo đức học (morale) trong bài giảng, bài viết, bài phát biểu,
để làm nổi bật bản chất tình yêu hy sinh, cứu chuộc của Thiên
Chúa được mặc khải trong đoạn Tin Mừng, trong các bài đọc Kinh
thánh khác của ngày lễ. Sở dĩ phải đề cao ý nghĩa thần học như
thế là vì nhiều giáo dân ngày nay nhận xét: bài giảng của nhiều
linh mục hiện nay chưa có chất lượng cao và nhiều khi thiếu
“lửa” của Chúa Thánh Thần.
Trong bài này
chúng tôi chỉ đề cập cách riêng đến bài giảng vì giáo dân VN
thích nghe giảng hơn…Các bài viết, bài phát biểu chúng tôi sẽ đề
cập tới vào dịp khác…
Bài giảng có
chất lượng cao là gì?
Là bài giảng
đáp ứng được, một cách sâu sắc, những yêu cầu căn bản, tiến bộ
của đoạn Tin Mừng đó, nghĩa là bài giảng nhất thiết phải được
xây dựng trên thần học chứ không phải chỉ trên đạo đức học. Có
lẽ nhiều linh mục không ý thức được sự cần thiết tuyệt đối của
việc đưa ra ý nghĩa của sự mặc khải của Chúa trong đoạn Tin
Mừng, và cứ tưởng rằng giáo dân ngày nay vẫn còn “bình dân” như
giáo dân nông thôn ngày xưa, nên thích rút ra từ đoạn Tin Mừng
của ngày lễ, một bài học về đạo đức vì nó không cao siêu, nó dễ
hiểu, dễ cảm nhận đối với người tín hữu, vì nó sát với thực tế,
ít phải suy nghĩ sâu xa. Nhưng giảng như thế sẽ làm cho giáo dân
cứ tưởng rằng chỉ cần sống đạo như cha giảng ở nhà thở là đủ
rồi, và giáo dân không cảm thấy cần nỗ lực xây dựng đức tin vào
Lời Chúa ngày càng sâu xa hơn. Cuộc sống của giáo dân ngày nay
đã được toàn cầu hóa, vì thế lòng tin vào Lời Chúa càng phải
vững vàng hơn, tiến bộ hơn. Do đó, bài giảng của linh mục phải
chú trọng nhiều hơn vào mặc khải của Chúa trong đoạn Tin Mừng đó
hơn là vào bài học đạo đức. Mặc khải thì tuyệt đối cần thiết còn
đạo đức học thì tương đối, vì mặc khải cho ta hiểu, yêu mến,
tuyên xưng, rao giảng Tình Yêu của Chúa một cách sâu sắc, đúng
với ý Chúa hơn. Còn đạo đức học chỉ nêu ra nguyên nhân tự nhiên
để rút ra bài học thực tế theo khuôn mẫu của sự khôn ngoan tự
nhiên.
Ví dụ: rất
nhiều lần được nghe đoạn Tin Mừng theo Thánh Yoan đoạn 8, câu 1
– 11, nhưng chưa lần nào được nghe giải thích ý nghĩa thần học
của nó là gì, mà chỉ nghe ý nghĩa đạo đức của nó; chưa được hiểu
ý nghĩa thần học của cái “bẫy” nêu trong đó.
Mời các bạn
đọc lại đoạn Tin Mừng nêu trên và xin các bạn nhớ lại những bài
giảng mà các bạn đã nghe. Riêng tôi, nếu tôi nhớ không nhầm thì
thường thường các linh mục chỉ giải thích đoạn Tin Mừng đó chủ
yếu xoáy vào bài học đạo đức sau đây: ta không nên kết án (ném
đá) ai, vì ai cũng có tội đáng phải kết án (ném đá). Càng là
người cao niên thì càng nhiều tội, và càng đáng bị ném đá trước,
vì thế họ rút lui trước tiên. Tất cả họ rút lui vì sợ tội lỗi
của mình cũng bị phanh phui và sợ bị ném đá. Như vậy, ý nghĩa
đạo đức học của câu chuyện này là: chớ kết tội người khác vì sợ
mình cũng bị kết tội. Xin nói rõ thêm rằng: không cấm dùng những
câu cách ngôn để rút ra bài học đạo đức, về đạo làm người vì
Chúa Giê-su đôi khi cũng dùng để nói cho người nghe dễ hiểu :
“Chớ xét đoán người khác để khỏi bị xét đoán” (Mt 7: 1 – 5; Lc
6:37-38), nhưng nếu chỉ nêu bài học đạo đức thì rõ ràng là chưa
đủ để giáo dân hiểu được bài giảng, hiểu được mặc khải của Chúa
và rút ra được cách sống và rao giảng Tin Mừng, vì ý nghĩa đạo
dức học thì bình thường, dễ hiểu, vì đạo nào cũng dạy gần như
nhau. Khổng Tử cũng đưa ra những bài học về đạo đức tự nhiên của
con người, khi nói:”Kỷ sở bất dục vật thi ư nhân”. Sống theo lời
dạy của đạo đức học có thể tóm tắt gọn lại như sau: Tôi không
làm hại ai, đừng ai làm hại tôi. Nếu ai làm hại tôi thì tôi cũng
không tha cho kẻ ấy. Tôi không “ném đá”ai thì đừng ai “ném đá”
tôi. Muốn không bị “ném đá” thì đừng “ném đá” người khác.…
Trong khi đó
ý nghĩa thần học của đoạn Tin Mừng này cao cả hơn gấp bội. Chúa
Giê-su tha tội cho người đàn bà tội lỗi này là để mặc khải cho
mọi người biết rằng Thiên Chúa là Tình Yêu. Tình yêu của Thiên
Chúa tự bản chất là hy sinh, tha thứ, cứu rỗi, chứ không phải
là kết án, nên đã sai Con một xuống thế gian chịu chết ô nhục
trên thập giá để cứu chuộc thế gian tội lỗi. Mời xem Mt 9: 13;
Lc 5: 31-32.Như thế, bài học thần học của bài giảng này cho
chúng ta là: Hãy tha thứ cho kẻ có tội làm mất lòng ta vì Chúa
dạy ta như thế, và vì trong cõi lòng thâm sâu của kẻ đó cũng
luôn luôn có sự hiện diện tiềm ẩn của Chúa. Ta tha tội cho họ và
bảo họ đừng phạm tội nữa, nếu họ nghe theo, thì họ sẽ cảm nhận
được dễ dàng sự hiện diện và tình thương của Chúa đang tác động
trong nội tâm của họ và tự họ, họ sẽ trở lại với Chúa.…
Còn khi giải
thích về cái “bẫy” thì cũng phải nêu ra ý nghĩa thần học của nó
trong đoạn Tin Mừng. Cái bẫy mà họ giăng ra cho Chúa Giêsu là:
nếu Chúa nói không được ném đá người đàn bà này thì họ sẽ bắt
ngài, đem Ngài đi giết vì đã chống lại luật Mai sen ; còn nếu
Chúa nói phải ném đá người đàn bà này thì Chúa không còn là Đấng
nhân hậu nữa (Mt 11: 25-30). Kết luận thần học: cái “bẫy” đó lại
trở thành “đòn bẩy” cho Chúa Giêsu mặc khải: Thiên Chúa là Tình
Yêu cứu độ. Vậy, bài học thần học từ cái “bẫy” này cho chúng ta
là: Trong mọi hoàn cảnh, hãy tha thứ cho tha nhân, đem tha nhân
trở về với Chúa, sống trong ơn nghĩa của Chúa, vì trong tâm hồn
của tha nhân cũng có Chúa tiềm ẩn.
Chúng ta lấy
một ví dụ khác: Tin Mừng Gioan 6:1-15; Mat.14:13-21; Mc.6:32-44;
Lc.9:10-17 nói về Chúa Giê-su làm phép lạ bánh hóa ra nhiều.
Vậy, ý nghĩa thần học của đoạn Tin Mừng này là gì ? Thưa, Thiên
Chúa là Tình thương. Chúa thương dân chúng đang đói bánh, đói
Lời Chúa, cho họ ăn no nê vì Chúa coi họ là đàn chiên của Chúa.
Còn đối với chúng ta, đoạn Tin Mừng đó dạy ta gì? Chúa dạy
chúng ta phải thương yêu tha nhân vì tha nhân là hiện thân của
Chúa Giê-su. Mời xem Tin Mừng thánh Mát-Thê-ô đoạn 25 câu 31-46.
Thần học của đạo Công giáo dạy giáo dân làm phước, tha thứ cho
tha nhân vì tha nhân cũng là con cái Chúa như mình, trong tiềm
năng (en puissance) hay trong thực tại (en acte) như mình, thì
cũng là con cái Chúa.Còn đạo đức học thì dạy cho hết mọi
người:”thương người như thể thương thân” mà thôi, nghĩa là làm
phước trên bình diện nhân loại thôi. Mà nếu thế thì người vô
thần cũng làm được.
Như thế, giải
thích Tin Mừng là giải thích ý nghĩa thần học của đoạn Tin Mừng
đó, là bày tỏ màu nhiệm mặc khải của Chúa Giêsu. Đó mới là điểm
đặc thù của đạo Công giáo. Đạo đức học thì tự nhiên, hay thay
đổi theo từng thời đại, từng xã hội, chỉ đòi hỏi thực thi cái
tối thiểu, không đòi hỏi cái tích cực tối đa : “đừng làm cái
này…đừng làm cái kia…”. Không thể để cho người Công giáo có quan
niệm như những người ngoại đạo là: đạo nào cũng thế, cũng dạy
người ta ăn ngay ở lành, tu nhân tích đức... Vì đạo Công giáo
ngoài việc dạy ăn ngay ở lành, nhất thiết còn phải sống luật yêu
thương, hy sinh quên mình cho tha nhân. Không có ông tổ đạo nào
dạy tín đồ phải yêu thương cả kẻ thù của mình và chết vì yêu
thương để giải thoát cho kẻ đó như Chúa Giêsu. Tình yêu của đạo
Công giáo – tự bản chất - là phải hy sinh đến chết cho tha nhân
như Chúa Giêsu đã làm. Đó là điểm siêu việt của đạo Công giáo.
Linh mục, hơn ai hết, phải sống và chỉ ra cho giáo dân thấy sự
vượt trội , và thực thi tình yêu-hy Sinh trong đoạn Tin Mừng đó.
Nếu không tìm ra lối sống theo thần học đó, chỉ sống theo đạo
đức học không thôi, thì chưa phải là sống đạo Công giáo. Nếu
đứng trước sự nghèo khổ đói khát của đồng loại mà không nhận ra
là chính Chuá Giê-su đang nghèo khổ đói khát và không cảm thấy
đau xót tủi thẹn vì mình chưa giúp gì cho họ và cứ sống phè phỡn
thì chưa phải là người Công giáo đích thực. Nếu giáo dân còn
đang phải cứu đói lúc giáp hạt mà linh mục vẫn vui vẻ đi “tua”du
lịch cao cấp dài ngày ở nước ngoài; nếu giáo dân còn phải đi
chân không trên nền đất thô lạnh của nhà thờ chưa có tiền láng
xi măng mà linh mục không cảm thấy “chạnh lòng thương”(Mc 6: 34)
thì linh mục đó còn phải suy gẫm Lời Chúa rất nhiều mới hy vọng
dạy dỗ được giáo dân. Nếu giáo dân không được linh mục chỉ dạy,
tập luyện và nêu gương sống đạo theo bản chất mặc khải của Chúa
là hy sinh quên mình cho tha nhân, thì giáo dân sẽ sống đạo hời
hợt và dễ bỏ đạo. Khi đó, lỗi của giáo dân cũng một phần lớn là
do các linh mục vì không làm gương sáng và dạy họ am hiểu tường
tận về đạo Chúa.
Bài giảng có
nhiều “lửa” là gì?
Chúng ta đều
biết, “lửa” ở đây là “lửa” của Chúa Thánh Thần. Bài giảng có
nhiều “lửa” của Chúa Thánh Thần là bài giảng mà trong đó linh
mục phải “truyền lửa yêu mến” cho người nghe. Như vậy, linh mục
phải có nhiều “lửa” trước để xác tín rồi mới làm cho người nghe
xác tín được, nghĩa là linh mục phải làm sao cho giáo dân cảm
thấy, trong nội tâm sâu xa của mình, có sức mạnh thiêng liêng
thôi thúc mình, một cách mạnh mẽ, để mình tự tích cực tìm ra con
đường sống Lời Chúa, tuyên xưng lòng tin của mình vào Lời Chúa
và rao giảng Lời Chúa cho tha nhân, để có thể nói với những
người còn sống trong tội lỗi như Chúa Giêsu trong đoạn Tin Mừng
này (Gioan 8: 11) là: ”đi đi…..và từ nay đừng phạm tội nữa”,
nghĩa là từ nay phải sống thánh thiện và đi loan truyền về Tình
Yêu cứu độ của Thiên Chúa. Chúa Giêsu đã truyền lửa tình yêu cho
người đàn bà tội lỗi sau khi tha thứ cho bà.
Như thế, bài
giảng có nhiều “lửa” không phải là bài giảng trong đó linh mục
dùng tài hùng biện rỗng tuếch (rhétorique)để cường điệu bài học
luân lý, đạo đức tự nhiên. Lửa đây càng không phải là sự khoe mẽ
văn chương hoa mỹ hay ướt át sáo rỗng để thu hút, mê hoặc người
nghe trong chốc lát. Trái lại, bài giảng có nhiều lửa là bài
giảng có nhiều sức mạnh của Chúa Thánh Thần thúc dục giáo dân
suy gẫm Lời Chúa nhiều hơn và hăng say rao giảng Tin Mừng theo
hoàn cảnh sống của mình ; còn dùng thủ thuật hùng biện nói thao
thao bất tuyệt nhưng rỗng tuếch, tức là không xoáy vào ý nghĩa
thần học, thì chỉ làm sướng tai người nghe thôi. Người ta ùn ùn
kéo tới nghe, khen lấy khen để linh mục nói hay qúa, nhưng tài
hùng biện hoa mỹ đó chẳng làm cho ai tin vào Lời Chúa, suy gẫm
Lời Chúa, chẳng thúc dục ai tuyên xưng và rao giảng Lời Chúa.
Linh mục phải truyền lửa “tình yêu của Chúa” cho giáo dân nghe
giảng, như Chúa Giê-su đã làm cho người đàn bà trong đoạn Tin
Mừng thánh Gioan 8:1-11.
Đề nghị 2: Xây dựng một nền
thần học mục vụ dấn thân mang tính văn hóa Việt.
Tôi thấy rất
cần đưa ra đề nghị sau đây: đừng dạy một thứ thần học lỗi thời,
chung chung hay quá xa lạ với văn hóa Việt. Chúng ta chỉ lấy
những nét chính của thần học Kitô giáo làm nền tảng để từ đó
thiết kế một chương trình học cho môn thần học mục vụ dấn thân
có tương quan mật thiết với nền văn hóa Việt. Vì như thế, Tin
Mừng mới ngày càng phát triển, càng có chỗ đứng vững chắc và sâu
sắc trong tâm hồn người Công giáo VN, và tâm hồn những người
thiện chí và có cảm tình với đạo. Chỉ có bằng con đường văn hóa
Việt chúng ta mới có thể phát huy đức tin vào Lời Chúa ngày càng
sâu sắc hơn. Vì thế, đề nghị những linh mục đi du học ở các nước
châu Âu, châu Mỹ về không được “bứng” nguyên si nét văn minh,
cách sống, cách ăn nói, cách giảng trong lễ, nền thần học, triết
học của họ áp dụng vào nền văn minh của ta mà không có chọn lọc
uyển chuyển, khôn ngoan vì hai nền văn minh đó rất khác với
chúng ta. Chẳng hạn không dùng những câu cách ngôn, tục ngữ
Âu-Mỹ dịch ra tiếng Việt để phát biểu vì chúng ta có cả một kho
tàng ca dao tục ngữ. Hơn nữa, cách ăn nói của Âu-Mỹ là cách ăn
to nói lớn, nói thẳng, không kiêng nể ai, cứ như cãi nhau. Đó là
chưa kể còn có thể dịch sai nữa. Làm như thế là mất gốc, mất cảm
tình, mọi người sẽ dần dần xa lánh mình.Cách nói của VN là cách
diễn đạt dịu dàng, từ tốn, ngọt ngào…
Thần học mục
vụ dấn thân (théologie pastorale engagée) có nhiệm vụ không
ngừng tìm mọi cách in dấu ấn của Lời Chúa vào những cơ cấu kinh
tế, chính trị, xã hội Việt Nam và vào những nét đặc thù của đời
sống trí thức, nghệ thuật, tôn giáo của người Việt Nam ngày nay.
Những tác phẩm của Hoàng Sĩ Quý, Kim Định, và nhiều tác giả nổi
tiếng khác, có thể bước đầu làm tài liệu cho chúng ta tham khảo
để từ đó thiết lập một chương trình giảng dạy thần học ở Đại
chủng viện.
Phương pháp
giảng dạy môn thần học này cũng phải thay đổi cho phù hợp với xu
hướng của thời đại hiện nay. Phương pháp truyền thống là đọc –
chép. Thầy đọc – trò chép, thầy giảng – trò nghe. Thầy là chính,
trò là phụ. Phương pháp giáo dục mới không đặt trọng tâm nơi
thầy mà nơi trò. Chủng sinh mới là người có vai trò chủ động.
Thầy chỉ đưa ra một tổng hợp nội dung(synthèse de base
théologique) của môn học, cung cấp thư mục (bibliographie), ví
dụ môn Kitô học (Christologie).Từ đó chủng sinh của đại chủng
viện phải chủ động học tập, nghiên cứu theo nhóm, có sử dụng
Internet và trình bày bài nghiên cứu trước lớp bằng LCD. Vì như
vậy mới cụ thể, sống động, sâu sắc hơn, dễ hiểu, dễ nhớ và có
tính toàn cầu hơn.
Nói tóm lại,
chúng ta phải đổi mới, thiết kế lại chương trình và phương pháp
dạy và học vì chúng quá xưa rồi. Đổi mới như thế là một công
trình lớn đòi hỏi nhiều công sức, thời gian và tiền của, nhưng
nếu ta không từng bước thực hiện thì sẽ không bao giờ có một nền
thần học mục vụ dấn thân đậm nét văn hóa dân tộc là lý tưởng của
thời đại chúng ta.
Đề nghị 3: Xây dựng môn học
mới: Giáo dân học, và soạn thảo lại môn Lịch sử giáo hội công
giáo Việt Nam.
Trong chương
trình đào tạo linh mục, tôi thiết nghĩ đã đến lúc chúng ta phải
cắt bớt, rút ngắn hay cô đọng hóa môn Triết học cổ điển của
Platon, Aristote, và môn thần học của Saint Thomas d’Aquin (thế
kỷ 13) để xây dựng môn học mới có ích lợi hơn nhiều, đó là môn
Giáo dân học và soạn thảo lại môn Lịch sử giáo hội công giáo
Việt Nam.
Lý do thì rất
dễ hiểu: Linh mục là những người “quản lý” giáo dân, mà đã là
người “quản lý” thì phải biết rành rẽ và có hệ thống những gì
thuộc về giáo dân mới có thể giúp giáo dân sống Đạo, loan báo
Tin Mừng ngày càng tốt hơn. Giáo dân mỗi nước thì có những đặc
điểm văn hóa riêng, vì thế phải soạn thảo một chương trình mang
tính ưu việt riêng của dân tộc VN. Chúng ta hãy bắt đầu bằng đúc
kết những kiến thức về giáo dân từ xưa đến nay, ở các nước trên
thế giới, từ Cựu Ước đến Tân Ước cho tới ngày nay, đặc biệt là
giáo dân VN. Sau đó, chúng ta hãy biến chương trình học cũ kỹ ở
Đại chủng viện thành chương trình có dấu ấn thần học-triết học
tiên tiến của thời đại toàn cầu hóa đầy văn minh và tiến bộ của
nhân loại. Trong chương trình học đó phải thêm môn học mới: môn
giáo dân học. Chúng ta chọn ra những điểm ưu việt của môn lịch
sử giáo dân (giáo dân học) trong cựu ước và tân ước, đồng thời
phải can đảm loại trừ những trí thức, những phán quyết lạc hậu,
lỗi thời, chậm tiến, phản tiến bộ của chương trình đào tạo cũ để
thiết lập một chương trình mới vừa phù hợp với Tin Mừng, với
Giáo Hội Công giáo La Mã, và được Hội Đồng Giám Mục VN. chấp
thuận, vừa mang tính tiến bộ để phục vụ tối đa lợi ích của hàng
giáo dân VN., cải tạo thiên nhiên để nâng cao đời sống vật chất
và tinh thần, tạo hạnh phúc cho cá nhân người giáo dân, cho gia
đình, cho xã hội và giáo hội VN. ngày nay. Môn giáo dân học phải
được xây dựng trên nền tảng thần học - kinh thánh theo chiều
hướng mục vụ, dấn thân, tiến bộ, đậm nét văn hóa dân tộc Việt
hiện đại. Như vậy mới giả quyết được những vướng mắc do lịch sử
giáo hội để lại về luân lý hôn nhân, về đạo đức gia đình, kế
hoạch hóa gia đình, về vấn đề được dùng hay không được dùng
thuốc ngừa thai…vân vân….Những vấn đề đó sẽ giải quyết được dễ
dàng, thỏa đáng nếu chúng ta theo quan điểm thần học kinh thánh
mới coi giáo dân là chính. Vấn đề này sẽ được bàn sâu rộng ở
phần sau: Giáo dân là điểm tựa cho linh mục.…
Mọi vấn đề
ngày nay đều khác xa với ngày xưa, nếu chúng ta không chịu cải
tiến tư duy, thay đổi lập trường, nếu cứ sợ cái tiến bộ, nếu cứ
khư khư giữ lấy cái lạc hậu, lỗi thời…thì sẽ dễ dẫn đến sai lầm,
tội ác…
Ngoài ra,
chúng ta cũng nên sớm mau chóng thay thế vị trí của một số thánh
ngoại xa xôi bằng những vị thánh người Việt đáng yêu và gần gũi
hơn. Đó là điều rất hợp với tôn chỉ của Công Đồng Vatican II.
Mời coi:
“Optatam totius Ecclesiae renovationem” (La formation des
prêtres) đoạn 1 –std, trang 448.
Còn về môn
Lịch sử giáo hội công giáo VN., chúng ta cũng phải rà soát lại
xem có những gì phải sửa đổi cho phù hợp với thực tế, với sự
thật, với lịch sử VN thời xưa cũng thời nay, như những tương
quan giữa giáo hội với các chế độ chính trị, các tôn giáo bạn,
vv…để đạo của chúng ta có thể sống chung hòa bình và phát triển
bền vững giữa lòng dân tộc VN…
Có lẽ sẽ có
người nói rằng chúng ta làm gì có đủ “cha giáo” chuyên viên về
Triết học - thần học để tiến hành việc canh tân cải cách chương
trình đó cho đại chủng viện!
Xin thưa, nếu
được Hội Đồng Giám Mục Việt Nam, hoặc đấng có bản quyền kêu gọi
thì giáo dân Việt Nam ở trong và ngoài nước sẽ rất sẵn sàng đóng
góp tài năng, tiền bạc, thời giờ của mình để cùng với các linh
mục xây dựng và trình lên HĐGMVN một chương trình Triết-Thần học
hoàn hảo hơn, hợp với thời đại toàn cầu hóa hơn cho việc giáo
dục ở đại chủng viện tại Việt Nam ngày nay.
PHẦN 2
XÂY DỰNG ĐIỂM TỰA MỚI CHO ĐỜI SỐNG LINH MỤC.
Như mọi người
chúng ta đều biết: từ trước tới nay, đời sống linh mục có 2 điểm
tựa chính:
Điểm tựa 1: Lời
Chúa.
Lời Chúa vừa
là mục đích, vừa là điểm tựa tuyệt đối cho linh mục. Linh mục
liên tục học hỏi Lời Chúa, sống Lời Chúa, tuyên xưng Lời Chúa,
rao giảng Lời Chúa một cách có hiệu quả.
Đối với giáo
dân thì Lời Chúa cũng là mục đích và là điểm tựa tuyệt đối,
nhưng để rao giảng Lời Chúa thì giáo dân không được đào tạo
chuyên sâu như linh mục.
Nhờ có Lời
Chúa mà linh mục dễ trở nên thánh thiện hơn, rao giảng và chứng
tá cho Chúa một cách hữu hiệu hơn, dễ vượt lên trên những thử
thách, những lo toan về đời sống cơm áo gạo tiền, thắng được
những áp lực, đam mê xấu, những cám dỗ tội lỗi đến từ một thế
giới đầy tính thế tục như hiện nay.
Mời xem:
FP (décret
sur la formation des prêtres – Concile oecuménique Vatican II –
Editions du Centurion – Paris 1967, trang 445 – 468)
MVP (décret
sur le ministère et la vie des prêtres – std. trang 393-444,
nhất là số 18, tr.436)
Điểm tựa 2 : Hội
Đồng Giám Mục Việt Nam, Đức Giám Mục và Linh mục đoàn của từng
địa phận…
Hội Đồng Giám
Mục VN và Đức Giám Mục, các linh mục địa phận là những điểm tựa
quan trọng, không thể thiếu được cho các linh mục. Các linh mục
dòng cũng như triều phải tuyệt đối vâng phục đường lối chung của
Hội Đồng Giám Mục VN và đường lối riêng của địa phận mình, dòng
tu mình vì đó luôn là điểm tựa vững chắc nhất, khôn ngoan nhất
trong tổ chức của Giáo Hội.
Điểm tựa mới:
giáo dân của Chúa.
Trong lịch sử
giáo hội, chưa có văn bản chính thức nào của Hội Thánh dạy các
linh mục phải coi giáo dân là điểm tựa, hay phải lấy giáo dân
làm gốc, ngay cả trong lá thư của Đức Giáo Hoàng Bênêdictô 16
gởi các linh mục ngày 16/6/2009 cũng vậy.
Nhưng theo
tôi đây là một mục tiêu quan trọng mà chúng ta phải dũng cảm
tiến tới.
Tại sao?
Thưa, vì điểm
tựa mới này có thể đáp ứng đầy đủ những yêu cầu của Kinh Thánh,
của Công Đồng Vatican II và giải quyết được những vấn đề quan
trọng của linh mục ngày nay ở Việt Nam.
Muốn hiểu
được tại sao điểm tựa mới, tức là giáo dân, lại có thể giải
quyết được những vấn đề nêu trên, chúng ta phải tìm hiểu:
Giáo dân là
ai? Giáo dân có vai trò gì?
Giáo dân giúp
linh mục giải quyết được gì?
Giáo dân là
ai? Giáo dân có vai trò gì trong Giáo Hội?
Giáo dân là
dân của Thiên Chúa
Dân Chúa
trong Cựu Ước là dân Israel.
Dân Chúa
trong Tân Ước là Giáo hội Công giáo, là Hội Thánh, là thân thể
mầu nhiệm của Đức Kitô, là cộng đồng các tín hữu tin vào Chúa
Kitô và vâng phục Đức Giáo Hoàng ở Rôma.
Có đôi khi
trong quá khứ, như thời Trung đại ở Pháp (Moyen-Age), trong thực
tế, người ta coi giáo dân là hạng thứ cấp còn giáo phẩm là hạng
cao cấp .
Ở Việt Nam ta
trước đây, nhất là ở cuối tiền bán thế kỷ 20, ở một số nơi, có
người coi chức linh mục như một chức quan và giáo dân phải vâng
phục các quan đó như vâng phục quan chức của triều đình. Vì thế,
mỗi lần có 1 người được thụ phong linh mục thì cả làng xóm họ
hàng rước sách linh đình để vinh qui bái tổ, mổ trâu mổ bò để ăn
khao. Những người đó không đón nhận tân linh mục như là “đầy tớ”
của giáo dân như Chúa Giêsu vẫn coi mình là “đầy tớ” của muôn
dân, mà coi việc thụ phong linh mục như là đỗ cụ, đỗ ông nghè,
ông cử…
Dần dần, nhờ
ảnh hưởng của các nhà thần học tiến bộ trên thế giới, quan niệm
phong kiến sai lệch đó ở VN đã được khắc phục; nhưng nhìn chung
thì người ta vẫn coi giáo dân “không bằng” linh mục vì linh mục
thì độc thân và thuộc hàng giáo phẩm có quyền trên giáo dân, ví
dụ: đề nghị lên Giám mục rút phép thông công, không làm lễ cưới
cho, không cho rước lễ vv…
Trước đây,
trong thế kỷ 20, ở Việt Nam có một nghịch lý: nhiều khi giáo dân
nói đúng cũng không ai nghe, còn linh mục dù nói sai nhưng mọi
người vẫn nghe. Ngày nay, giáo dân đã giải quyết được nghịch lý
đó, vì giáo dân bây giờ tiến bộ hơn ngày xưa nhiều. Dần dần vai
trò của giáo dân được mọi người nhận thức đúng đắn hơn.
Muốn hiểu
đúng về giáo dân một cách có căn cơ, ta phải tìm hiểu chỗ đứng
của giáo dân trong Cựu Ước và Tân Ước.
Giáo dân trong
Cựu Ước:
Chúng ta đều
biết, dân Israel trong Cựu Ước được Thiên Chúa tuyển chọn giữa
nhiều dân khác (Dt7: 7; Is 41: 8), được Thiên Chúa kêu gọi (Is
48: 12) không phải vì là dân đông đúc, dân hùng mạnh, dân có tài
cán gì (Dt 7: 7; 8: 17; 9: 4) mà chỉ vì Chúa yêu thương và chọn
làm dân riêng của Chúa. Chúa dẫn dắt họ để mặc khải một cách
tiệm tiến về Thiên Chúa cho họ, từ thời tạo thiên lập địa cho
đến thời Chúa Giêsu. Như thế, giáo dân trong Cựu ước có vai trò
, có sứ mạng tiếp nhận, gìn giữ một phần mặc khải của Thiên Chúa
và chuẩn bị cho giao ước mới. Còn các vua chúa của Israel là
những người tổ chức dân, dìu dắt dân, cai trị dân, đưa dân về
đất hứa.
Giáo dân trong
Tân Ước:
Từ thời Chúa
Giêsu đến nay, dân Chúa là Hội Thánh, gồm hàng giáo phẩm và giáo
dân. Giáo phẩm và giáo dân đều có vai trò vĩ đại, cao cả hơn
thời Cựu Ước, đó là tuyên xưng đức tin và rao giảng Tin Mừng cho
toàn thế giới. Hàng giáo phẩm có chức vụ khác với giáo dân, có
quyền hành, trách nhiệm cao hơn giáo dân, nhưng quyền hành,
trách nhiệm đó không mang tính cách cai trị như thời Đa-vít hay
Mai-sen trong Cựu ước; mà trái lại, quyền hành bây giờ trong Tân
Ước là quyền của “người đầy tớ”, như Chúa Giêsu là đầy tớ cho
mọi người. Mời xem:: Mt 11: 29; Lc 22: 27; Mc 8: 31. Người đầy
tớ này được Chúa Giê-su ủy quyền “tha tội” hay “buộc tội” nhưng
phải làm như Chúa, nghĩa là để cứu rỗi toàn thể nhân loại (Ac 3:
13; 18; 4: 27 vv…) chứ không đề linh mục có dịp “ra oai” hoặc
lớn tiếng la mắng giáo dân khi người này còn đang quì gối trong
tòa giải tội…
Mời xem:
Lumen
gentium, đoạn 10 – 11, std. trang 28-29
Mt 16: 24, Mt
20: 22; 26: 27; 10: 17
Lc 9: 60; 10:
1-16
Ph 2: 17; 4:
18
Rm 12: 1
Héb. 5:
15
Apoc. 1: 6;
5: 9-10
Act. 2: 42-47
Rom.12: 1
1 Pierre 3:
15
Jacques 5:
14-16
Rom. 8: 17
Col. 1:24 2
Tim. 2: 11-12
1Pierre 4: 13
Eph. 5: 32
Vân vân…
Như vậy,
trong Cựu Ước và nhất là trong Tân Ước, hàng giáo phẩm và giáo
dân đều cộng tác, dựa vào nhau để sống đạo, rao giảng Tin Mừng
và ban bí tích. Mời coi Lumen gentium, đoạn 10, câu 4 std. trang
29, đoạn 11- câu 1; đoạn 12 câu 1-3. Nói cách khác, đạo của giáo
phẩm và đạo của giáo dân đều duy nhất như nhau vì cùng có nguồn
gốc từ Thiên Chúa, từ Chúa Giêsu, nhưng về mặt hành chánh, về tổ
chức thì trách nhiệm và quyền hành có khác nhau, vì Hội Thánh
cũng là một tổ chức trần gian. Lý thuyết đó được dựa trên những
văn kiện, công đồng, Kinh Thánh, vì thế ta thấy dễ chấp nhận sự
ủy quyền đó.
Nhưng, nếu
dựa trên thực tế, dựa trên lịch sử Giáo Hội ở nhiều nước Âu-Mỹ…
thì nhiều khi hàng giáo phẩm phạm sai lầm khi lạm dụng quyền
“buộc tội” trong việc “cai trị” Dân Chúa vì không biết dựa vào
giáo dân, nghe giáo dân… Ví dụ: vụ Ga-li-lê, vụ Copernic bị Giáo
Hội lên án năm 1663. Mãi đến năm 1992 Giáo Hội mới thấy mình sai
và phục hồi danh dự cho các nhà khoa học đó.
Ngày nay, ở
VN, đôi khi vẫn còn trường hợp linh mục thiếu lương tâm, lạm
dụng quá đáng “quyền buộc tội” mà Giáo hội đã trao cho mình để
la mắng giáo dân, bắt chẹt giáo dân, và đôi khi còn để che giấu
bớt tội lỗi của mình nữa…
Như thế làm
sao giáo dân còn tin tưởng thương yêu, che chở, nâng đỡ cho linh
mục ?
Vậy giáo dân
giúp linh mục được gì?
Trước hết,
giáo dân giúp linh mục về tiền xin lễ, tiền đóng góp. Điều đó
quá hiển nhiên, ai cũng biết, và linh mục xứng đáng nhận tiền
đó, Nhưng giáo dân còn giúp linh mục được một điều rất đáng kể
nữa, đó là : tư vấn cho linh mục.
Thật vậy,
ngoài nhiệm vụ là lá chắn che chở cho các linh mục khỏi “tà ma”
“quỉ dữ” luôn tìm mọi cách hãm hại linh mục, giáo dân còn có vai
trò chiến lược là TƯ VẤN CHO LINH MỤC. Điều đó hợp với sự khôn
ngoan tự nhiên và siêu nhiên vì, nếu hơn ai hết, linh mục cần tự
vấn lương tâm mình hàng ngày trước Lời Chúa, thì linh mục cũng
cần được tư vấn cả trong lãnh vực “cai trị” Dân Chúa nữa. Tự vấn
cách nghiêm túc và được tư vấn cách khôn ngoan là yêu cầu không
thể thiếu của linh mục, “Người tôi tớ Yahvê” . Trong xứ đạo, cần
lập ra Ban tư vấn cho cha sở, cha phó, nên để giáo dân trong
giáo xứ đề nghị hay bầu ra và được cha sở, cha phó chấp thuận.
Như thế mới đem lại nhiều lợi ích khách quan cho cha sở, cha
phó.
Điều này rất
hợp với Công Đồng Vatican II. Mời xem: décret sur la formation
des prêtres, mục số 10, std. trang 458.
Và hợp với
tình hình thực tế của Giáo hội VN. vì ngày nay có nhiều giáo dân
rất tiến bộ. Vì thế việc giáo dân làm điểm tựa tư vấn cho linh
mục chính-phó xứ là rất có lợi. Nếu linh mục lấy giáo dân làm
điểm tựa hợp lý thì có lợi cho cả giáo xứ và Giáo hội.
Ở xứ đạo B.
Sàigòn 3, cha sở đã cầu nguyện, suy nghĩ, tham khảo nhiều ý kiến
và đã thành lập được Ban tư vấn mục vụ của giáo xứ. Từ đó Cha sở
và Ban tư vấn đã chung sức nâng cao đời sống đạo của giáo xứ một
cách rõ rệt, như kêu gọi mọi người trong xứ đóng góp để xây dựng
nhà giáo lý. Cha đã xung phong đóng góp 100 triệu đồng là số
tiền gia đình vừa cho cha, và cha còn đóng góp thêm nhiều đợt
cùng với giáo dân nữa. Sổ thu chi rất minh bạch nên giáo dân rất
phấn khởi chung tay đóng góp. Vì thế, xứ đạo đó đã xây dựng được
không phải một nhà giáo lý mà là một dãy nhà đẹp đẽ khang trang
để tổ chức nhiều sinh hoạt cho giáo xứ. Lòng quảng đại hy sinh
của cha sở như men làm dậy bột để xứ đạo đó thành công ngoài sự
mong đợi. Như thế, cha đã tin vào giáo dân và lấy giáo dân làm
gốc, làm điểm tựa, làm mục đích phát triển đời sống đạo cho toàn
giáo xứ.
Một hình thức
khác của việc lấy giáo dân làm gốc, làm điểm tựa, đó là cha sở
đi đến nhà thăm giáo dân, tham khảo ý kiến giáo dân. Phương pháp
này cũng rất hữu hiệu. Tôi từng chứng kiến một cha sở ở vùng
cao, thường khi ăn bữa tối xong là cha khoác áo, chống gậy đi
thăm nhà giáo dân. Từ đó, cha nắm được hết những khó khăn vật
chất, tinh thần cũng như tiềm năng của giáo dân. Cha đã kêu gọi
được những giáo dân có kinh nghiệm, có lòng quảng đại hy sinh
cùng cha tổ chức những lớp học giáo lý thần học, và phát triển
kinh tế cho giáo xứ, sửa sang nhà thờ đẹp đẽ khang trang, nhà
giáo lý, mở công ty, mở nhà nội trú cho học sinh nghèo. Vì thế,
xứ đạo ngày càng tin tưởng cha, sống đạo trong tin yêu, đoàn
kết, và xứ đạo không ngừng phát triển cả về đạo lẫn về đời.
Nói tóm lại,
để trở thành linh mục hữu ích cho giáo hội công giáo VN ngày
nay, linh mục phải thấm nhuần một nền thần học mục vụ dấn thân
(Théologie pastorale engagée…), tiến bộ và mang đậm nét văn hóa
Việt. Như thế, trong bài giảng, linh mục mới chỉ ra được cho
giáo dân thấy cái cốt yếu của Mặc khải: Thiên Chúa là Tình Yêu
thay vì chỉ nêu ra nguyên lý đạo đức học như vẫn thường làm;
ngoài ra linh mục còn phải được đào tạo kỹ về hai môn học : môn
Giáo dân học và môn lịch sử công giáo VN, để ý thức được vai
trò, trách nhiệm, khả năng của giáo dân trong việc đóng góp công
sức, tài năng, điểm tựa cho linh mục, cho giáo xứ và giáo hội.
Nói cách
khác, giáo dân xứng đáng là điểm tựa cho linh mục, vì giáo dân,
trên thực tế, có “trăm mắt, trăm tai, trăm tay”, dám nói, dám
làm, rất tiến bộ, và nhất là không ngừng biết tự tu luyện, học
hỏi về giáo lý thần học, thường xuyên tiếp xúc, tham khảo kinh
nghiệm sống đạo trên toàn cầu…trong khi đó một số linh mục ngày
nay thiếu căn bản về nhiều mặt, nhất là về giá trị nhân văn, về
thần học mới, về kinh nghiệm lấy giáo dân làm điểm tựa, nên đã
gây ra nhiều điều đáng tiếc, vv…Mời xem thư của Đức Giáo Hoàng
Bê-nê-đic-tô 16 gửi các linh mục trong ngày khai trương năm linh
mục, Vatican ngày 16/6/2009, trong đó có câu: “Bất hạnh thay,
cũng tồn tại những hoàn cảnh, không bao giờ lấy làm tiếc đủ, mà
chính Giáo hội phải chịu vì sự bất trung của một số thừa tác
viên của mình. Và đối với thế giới, đó là một cái cớ gương mù và
khước từ, …vân vân…”(Võ xuân Tiến chuyển ngữ).
Đó là chưa kể
những linh mục “làm công” (Gioan 10:1-16), những linh mục “tiên
tri giả” (Mat.7:15-20; Giê-rê-mi 23:11-15), những linh mục “chăn
chiên giả” (Giê-rê-mi 23:1-6) vẫn đôi khi còn xuất hiện đây đó
trên đời thường, trên Internet….
“Trăm mắt,
trăm tay, trăm tai” của giáo dân sẽ giúp linh mục tự làm chủ
được đời mình một cách hữu hiệu hơn trước những thách thức,
khủng hoàng về đức tin, đức ái, đức cậy…
Đôi lời kết luận
Để kết luận
bài này, tôi thấy rằng nếu hàng giáo phẩm VN. không đi sâu đi
sát với giáo dân, không lấy giáo dân làm gốc, làm điểm tựa thì e
rằng sau này giáo dân cũng sẽ xa rời hàng giáo phẩm và chỉ còn
sống đạo “vật vờ” như đa số giáo dân ở châu Âu, châu Mỹ hiện
nay. Họ sẽ bỏ Nhà thờ, bỏ các linh mục. Họ vẫn còn tin vào Sứ
điệp Tình Yêu của Chúa Giê-su, nhưng không còn tin vào những
giáo huấn của giáo hội nữa. Họ cho rằng nhiều giáo huấn đã lỗi
thời, lạc hậu, phản tiến bộ mà giáo hội không chịu sửa đổi lại.
Vì thế, họ cũng không tin vào hàng giáo phẩm nữa và lúc đó thì
hàng giáo phẩm cũng sẽ lao đao.
Một nguyên
nhân khác khiến giáo dân sẽ bỏ nhà thờ là: Như chúng ta đều
biết, từ xưa đến nay, từ thời Cựu ước đến thời Tân ước và cho
đến cuối thế kỷ 20, nguyên nhân đầu tiên làm cho giáo dân, không
kể những trẻ em, theo đạo là vì muốn tìm được cơ hội để thỏa mãn
một nhu cầu vật chất, tinh thần hay tâm linh nào đó, ví dụ nhu
cầu được hạnh phúc. Họ theo đạo, giữ những điều răn của đạo là
để được hạnh phúc. Họ được linh mục cho biết rằng hạnh phúc đó
là hạnh phúc ở đời sau, tức là thiên đàng. Và họ tin như vậy. Họ
ráng chịu mọi sự đau khổ đời này để được lên thiên đàng ở đời
sau. Nhưng từ nhũng thập niên cuối thế kỷ 20, ở những nước phát
triển như Pháp, Mỹ, đa số người dân không còn tin ở hạnh phúc
đời sau nữa, vì họ lý luận như thế này: nguyên nhân của sự đau
khổ là vì có ý niệm về sự hạnh phúc đời sau. Theo họ, hạnh phúc
là ngay bây giờ, chứ không có ở đời sau. Hạnh phúc là niềm vui
sống chan hòa trong vũ trụ, là sự hưởng thụ một đời sống an
bình, phát triển, là ước gì được nấy ngay bây giờ.
Điều đó muốn
nói lên rằng mọi sự ngày nay đã thay đổi hoàn toàn khác xưa.
Thực tế đó đòi hỏi linh mục, giáo hội phải thay đổi cách dạy
giáo lý, cách cắt nghĩa, giảng giải Tin Mừng, Thần học kinh
thánh, luân lý, vv…vì chúng quá xưa rồi. Nếu giáo hội VN.không
thay đổi cái nhìn thần học lỗi thời đó thì trong vài ba thập
niên nữa, giáo dân cũng sẽ bỏ đạo như bên các nước Mỹ, Pháp…
Mời xem: Le
Figaro, Magazine , 27 mars 2004, trang 50.
Hơn nữa, nếu
hàng giáo phẩm VN không xây dựng được một nền thần học mục vụ
dấn thân mang đậm nét văn hóa Việt thì những lời giảng của linh
mục sẽ mất tính sâu sắc và mau chóng bị bị lãng quên.Và lúc đó
giáo dân chỉ còn sống đạo theo tôn chỉ của đạo đức học để đời
sống được thoải mái, dễ dàng hơn, chứ không còn sống theo Lời
Chúa đòi hỏi hy sinh tối đa cho tha nhân.
Ngoài ra, nếu
Giáo hội đưa ra những phán quyết độc đoán, thiếu tính đối thoại
và bác ái, thì sẽ dễ đi đến đổ vỡ, giáo dân sẽ bỏ đạo, Giáo hội
sẽ bị cô lập, sẽ bị suy thoái trầm trọng. Bài học quá khứ của
nước Pháp thời vua Clovis vẫn còn đó, tuy ít ai biết tới, nhưng
theo tôi, lại thật đáng để chúng ta suy gẫm và điều chỉnh phương
pháp tuyên xưng và rao giảng Lời Chúa tại VN ngày nay.
Xin nhắc lại
để mọi người hiểu rõ hơn : Năm 482, vua Clovis của nước Pháp
(thời đó gọi là La Gaule) lên ngôi, thấy nước Pháp vừa yếu, vừa
nghèo, dân cư thưa thớt, lãnh thổ nhỏ hẹp, đã biết khôn khéo lợi
dụng đúng lúc đạo công giáo La Mã. Ông đã xin theo đạo, cưới
Clotilde là công chúa dòng họ Burgondes là người có đạo công
giáo, vì thế được người đại diện của Đức giáo hoàng là Thánh
Grégoire, Tổng Giám mục thành Tours chúc phúc, được Thánh Rémi
rửa tội ở Reims năm 498 và được viện trợ về thực phẩm, quân sự
rất nhiều. Nhờ đó, Ông đã biến nước Pháp thành một vương quốc
giàu có, mạnh về quân sự, lãnh thổ thênh thang. Mời xem
Histoire de France. Tác giả Jean Mathiex- Hachette Paris, 2001-
trang 19-20, vv…Nhưng sau nhiều thế kỷ phát triển vượt trội hơn
các nước khác, nước Pháp dần dần xa lánh giáo hội công giáo, để
rồi ngày nay, như chúng ta thấy, nhà thờ của họ thì trở thành
điểm tham quan du lịch, giáo dân chỉ còn mấy ông bà già đi lễ…Họ
đã bỏ đạo gần hết rồi. Vì sao ? Nguyên nhân thì có nhiều, nhưng
nguyên nhân chính là giáo dân Pháp, từ thế kỷ 18 (thế kỷ Ánh
Sáng) đến nay, không còn chịu nổi sự độc đoán của hàng giáo
phẩm. Ngoài ra, vì Giáo hội Pháp không chịu canh tân thần học
quá cổ xưa của Saint Thomas d’Aquin cho kịp với thời đại, ù lì
không chịu xây dựng một nền thần học mới lấy mục vụ dấn thân đậm
nét dân tộc là chủ yếu, không chịu canh tân và chấp nhận quan
điểm tiến bộ lấy giáo dân làm điểm tựa, làm gốc cho đời sống của
linh mục, của Giáo hội. Mời xem: Histoire de France, std.,trang
56-64.
Ước mong sao
Giáo Hội Công giáo VN sẽ mãi mãi phát triển bền vững đúng với
thánh ý Chúa….
Trịnh Nhất Định |
VỀ MỤC LỤC |
|
GIÁO DÂN LÀM GỐC |
Tác giả Trịnh
Nhất Định, đã có những đóng góp ý kiến xây dựng với những nhận
định và đề nghị quý báu trong bài viết “Làm thế nào để trở thành
linh mục tuyệt vời cho Giáo hội Công Giáo Việt Nam ngày nay?”
(dunglac.org).
Tác giả đóng
góp ý kiến về 4 vấn đề:
- Làm thế nào
để các bài giảng của các linh mục Việt Nam ngày chủ nhật có chất
lượng cao hơn.
- Làm thế nào
để các bài viết của các linh mục Việt Nam trên các website đây
đó được sâu sắc hơn.
- Làm thế nào
để các lời phát biểu về những vấn đề đạo-đời của các linh mục
Việt Nam ở những nơi công cộng, ở các bàn hội nghị thể hiện được
đầy đủ bản chất công bằng và bác ái, công lý và hòa bình của Đạo
Công giáo toàn cầu nhưng bằng cách diễn đạt mang đậm nét văn hóa
Việt Nam. đầy hiền hòa, nhẹ nhàng và tế nhị nhưng lại rất hữu
hiệu…trong mọi hoàn cảnh.
- Làm thế nào
để các linh mục Việt Nam ngày nay sống vững vàng và sâu sắc hơn
đời sống linh mục của mình giữa lòng dân tộc.
Để giải quyết
4 vấn đề: nâng cao chất lượng bài giảng, nâng cao sự sâu sắc của
bài viết, nâng cao chất đạo của các lời phát biểu và nâng cao sự
vững vàng và hiệu quả của đời sống linh mục, tác giả nêu lên 3
đề nghị:
- Đề nghị 1:
Đề cao ý nghĩa thần học mục vụ dấn thân trong việc giải thích
Kinh Thánh .
- Đề nghị 2:
Xây dựng một nền thần học mục vụ dấn thân mang tính văn hóa
Việt.
- Đề nghị 3:
Xây dựng môn học mới: Giáo dân học,và soạn thảo lại môn Lịch Sử
Giáo Hội Công Giáo Việt Nam.
Tôi đọc nhiều
lần bài viết này. Chân thành cám ơn những góp ý và đề nghị thật
tâm huyết của Tác giả Nhất Định. Dựa theo tài liệu Thời sự thần
học số 14 tháng 12/98 và Hợp tuyển thần học số 34, chủ đề: Giáo
dân trong Hội Thánh (htth.org), tôi trình bày thêm “vai trò Giáo
dân” theo Giáo huấn của Giáo hội.
Giáo hội là
một tổ chức phẩm trật nhưng Giáo hội cũng còn là một tổ chức bao
gồm mọi thành viên có những vai trò năng động. Những thành viên
này, tuy không thuộc về phẩm trật, nhưng dưới sự hướng dẫn của
các mục tư, họ tham gia vào cùng một chương trình cứu độ. Đó là
Giáo dân, thành phần năng động của Giáo hội. Do Bí Tích Rửa Tội,
Giáo dân được tháp nhập vào Thân Thể Chúa Kitô, được tham dự vào
sứ mệnh của Người là Tư Tế, Tiên Tri, Vương Giả (1Pr 2,6). Do đó
họ là những chi thể sống động của Nhiệm Thể Chúa Kitô tức là
Giáo hội. Do ấn tích Rửa tội và Thêm sức, Giáo dân có quyền và
có bổn phận tham gia vào hoạt động”bí tích” của toàn thân mình
Chúa Kitô với những hình thức khác nhau.
Hiến chế tín
lý về Giáo hội số 33 đã nói về vai trò giáo dân :
Nhiệm vụ của mọi Giáo dân là làm cho ý định
cứu độ của Thiên Chúa ngày càng lan tới tất cả mọi người ở mọi
nơi và mọi thời đại. Vì thế, khắp nơi phải mở đường cho họ tích
cựu tham gia vào công cuộc cứu độ của Giáo hội, tuỳ sức lực họ
và tuỳ nhu cầu của thời đại.
Giáo hội có
những giáo huấn về vai trò người giáo dân.
1. Giáo dân theo Công Đồng
Vatican II
Sự phát triển
của các phong trào tông đồ giáo dân cùng với sự xuất bản những
tác phẩm suy tư thần học về vai trò của giáo dân trong Giáo hội
là những bước dọn đường cho Công đồng Vatican II. Công đồng đã
đánh dấu một bước tiến về thần học giáo dân, khi trình bày các
giáo dân có một ơn gọi và sứ mạng. 16 văn kiện của công đồng
đều đề cập xa gần đến các giáo dân. Cách riêng một sắc lệnh được
dành để bàn về hoạt động tông đồ của giáo dân “Apostolicam
Actuositatem”.
Hiến chế “Ánh
Sáng Muôn Dân” mở đầu với chương I trình bày mầu nhiệm Giáo hội
trong chương trình cứu rỗi. Chương II với tựa đề Dân Thiên Chúa,
bàn đến phẩm giá và ơn gọi của tất cả các phần tử của Giáo hội.
Chương III bàn về phẩm trật được đặt làm mục tử Dân Chúa. Chương
IV mang tựa đề là “Các Giáo dân”.
- Số 30 nói
về vai trò của giáo dân là góp phần cùng với các mục tử vào sứ
mạng cứu rỗi nhân loại của Giáo hội. Vai trò của các mục tử là
phối hợp các tác vụ và đặc sủng khác biệt sao cho tất cả đều
cộng tác vào việc chung. Giáo hội là một thân thể gồm bởi nhiều
bộ phận liên kết chặt chẽ với nhau, mỗi phần tử đã nhận lãnh
năng lực từ Đức Kitô, và mỗi phần tử đều có vai trò tích cực
trong việc xây dựng thân thể. (Ep 4,15-16).
- Số 31 trình
bày phẩm giá và ơn gọi của giáo dân trong Giáo hội. Có hai điểm
đáng lưu ý như sau :
a.Về mặt
từ ngữ, Công đồng muốn phân biệt hai danh từ “tín hữu, Kitô
hữu” ( fidelis, christifidelis) và “giáo dân” ( laicus). Từ “tín
hữu” có ý nghĩa rất rộng, bao hàm hết mọi phần tử của Giáo hội,
những người được sát nhập vào thân thể của Đức Kitô nhờ bí tích
rửa tội. Các giám mục, linh mục, tu sĩ cũng là tín hữu.
b. Các
“giáo dân” là một hàng ngũ tín hữu, khác với hàng ngũ giáo
sĩ, tu sĩ. Ơn gọi của các giáo dân là đi tìm Nước Chúa qua việc
quản lý các thực tại trần thế và quy hướng chúng theo chương
trình của Thiên Chúa. Môi trường sống đạo của các giáo dân là
trần thế. Cả ba hàng ngũ cùng hợp tác với nhau để thi hành một
sứ mạng chung của Giáo hội, tuỳ theo ơn gọi riêng của từng hàng
ngũ. Hàng giáo sĩ chuyên về các hoạt động thuộc chức thánh. Hàng
tu sĩ làm dấu chỉ của thế giới mai sau. Các giáo dân được mời
gọi mang Phúc âm vào các thực tại trần thế “như men từ bên
trong, họ thánh hoá thế giới bằng thi hành những nhiệm vụ của
mình”.
- Số 34-36
nói về đường lối nên thánh của giáo dân trong những hoạt động
theo cách thức thông dự vào ba chức vụ tư tế ngôn sứ và vương
giả của Đức Kitô.
a. Người cho
họ dự phần vào chức tư tế để họ thực hành việc phụng thờ thiêng
liêng hầu tôn vinh thiên Chúa và cứu rỗi loài người…Mọi hoạt
động, kinh nguyện và công cuộc tông đồ, đời sống hôn nhân và gia
đình, công việc làm ăn thường ngày, việc nghĩ ngơi thể xác và
tinh thần, nếu họ chu toàn trong Thánh Thần, và cả đến những thử
thách của cuộc sống, nếu họ kiên trì đón nhận, thì tất cả đều
trở nên của lễ thiêng liêng đẹp lòng Thiên Chúa, nhờ Đức Giêsu
Kitô ( 1Pr2,5)…Giáo dân thánh hiến thế giới này cho Thiên Chúa
nhờ biết phụng thờ Ngài bằng hành động thánh thiện khắp nơi. (số
34)
b. Chúa
Kitô, vị Tiên Tri cao cả…đã chu toàn chức vụ tiên tri không
những nhờ hàng giáo phẩm mà còn nhờ các giáo dân…Như những bí
tích của luật mới, là của ăn nuôi dưỡng đời sống và hoạt động
tông đồ của tín hữu, tiên báo trời mới và đất mới thế nào (x. Kh
21,1), thì giáo dân cũng mạnh mẽ loan báo lòng tin vào điều mình
trông đợi như thế (x Dt 11,1). Công cuộc rao giảng phúc âm đó,
nghĩa là sự loan báo Chúa Kitô bằng đời sống, chứng tá và lời
nói, mang một sắc thái và hiệu quả đặc biệt vì được thể hiện
trong những hoàn cảnh của trần gian…Giáo dân phải khéo léo tìm
hiểu sâu xa hơn chân lý Chúa mạc khải và tha thiết nài xin
Thiên Chúa ban ơn khôn ngoan cho mình. (số 35)
c. Chúa Kitô
đã vâng lời cho đến chết, và vì thế Người được Chúa Cha tôn vinh
(x.Ph 2,8-9), và đã vào trong vinh quang nước Người. Mọi vật đều
suy phục Người, cho đến khi Người cùng với mọi tạo vật suy phục
Chúa Cha, để Thiên Chúa nên tất cả mọi sự (x.1Cor 15,27-28).
Người cũng thông ban cho các môn đệ quyền bính đó để họ được
hưởng sự tự do vương giả, và chiến thắng ách thống trị của tội
lỗi nơi họ, bằng một đời sống từ bỏ và thánh thiện (x.Rm
6,12)…Nhờ khả năng chuyên môn trong nhũng việc trần thế, nhờ các
hoạt động của họ, những hoạt động được ân sủng Chúa Kitô nâng
lên bậc siêu nhiên, giáo dân hãy đem toàn lực hợp tác để nhờ lao
công con người, kỹ thuật và văn hoá nhân loại khai thác những
của cải được tạo dựng hầu mưu ích cho mọi người và phân chia cân
xứng hơn giữa họ theo ý định của đấng Tạo Hoá và sự soi sáng của
Ngôi Lời Ngài. (Số 36).
2. Từ Công đồng Vatican II đến Thượng Hội
Đồng Giám Mục 1987
Giáo dân có
ơn kêu gọi phục vụ Nước Chúa trong thế gian, bằng việc sử dụng
các thực tại trần thế theo chương trình tạo dựng và cứu chuộc
của Thiên Chúa. Tuy nhiên, có những vấn nạn đã được nêu lên.
Phải chăng có sự phân chia lãnh thổ: các giáo sĩ lo công chuyện
của Giáo hội (việc đạo), còn các giáo dân lo chuyện thế gian
(việc đời)? Lấy gì làm ranh giới phân chia các lãnh vực đó? Các
tu sĩ tham gia vào các việc đời (giáo dục, y tế, và những công
tác xã hội nói chung) chứ đâu phải chỉ tối ngày đọc kinh trong
Nhà thờ? Các giáo dân cũng được mời tham gia vào các công tác
tông đồ mục vụ (huấn giáo, phụng vụ) nữa, chứ đâu phải chỉ lo
chuyện làm ăn buôn bán? Như vậy thì có nên dùng “đặc tính trần
thế” như tiêu chuẩn để định nghĩa ơn gọi và sứ mạng của giáo dân
hay không?
Cha Yves
Congar là một nhà tiên phong về thần học giáo dân qua tác phẩm
“Jalons pour une théologie du laicat” (1953), với những luận cứ
: Các giáo dân lãnh nhận một sứ mạng làm tông đồ do Bí tích Rửa
Tội và Thêm Sức, chứ không phải là do hàng giáo phẩm uỷ thác.
Các giáo dân mang sứ mạng sống ơn gọi Kitô hữu giữa môi trường
trần thế. Tất cả Giáo hội đều được sai vào trần thế; do đó tất
cả mọi tín hữu (Giáo sĩ, tu sĩ, giáo dân) đều vừa thuộc về Giáo
hội vừa được sai vào trần thế. Sự khác biệt giữa các hàng ngũ
không dựa trên môi trường hoạt động cho bằng dựa trên những tác
vụ khác nhau. Do đó, vấn đề quan trọng không phải là tìm cách
xác định vai trò của giáo dân cho bằng xác định tác vụ của các
giáo sĩ khác với các tín hữu khác ở chỗ nào (Ministères et
communion ecclésiale, Paris 1971).
Đề tài của
Thượng Hội Đồng Các Giám Mục họp năm 1987 (từ 1-30/10) là “ơn
gọi và sứ mạng của các giáo dân trong Giáo hội và thế giới”. Có
60 giáo dân cũng được mời tham dự vào các phiên họp, và trong
thời kỳ khoá họp, một số giáo dân đã được đặt lên Bàn thờ. Ngày
4/10, Đức Gioan Phaolô II đã phong chân phước cho ba thanh niên
nam nữa giáo dân tử đạo: Marcel Callo (1921-1945), Pierina
Morosini (1931-1956), Antonia Mesina (1919-1935). Ngày 18/10 lễ
phong thánh cho 16 vị tử đạo tại Nhật (thế kỷ 17) trong đó có
vài thầy giảng giáo dân. Ngày 25/10 lễ phong thánh cho bác sĩ
Giuse Moscati (1880-1927).
Trong những
khoá họp, các Nghị phụ tìm ra những phương thế hữu hiệu nhằm
thúc đẩy các giáo dân thực thi sứ mạng của họ.
Đề tài của
Thượng Hội Đồng nói đến hoạt động của các giáo dân vào lãnh vực
trần thế và còn muốn cho họ tham gia vào các hoạt động của Giáo
hội nữa.
3 . Tông huấn “Christifideles laici”
Dựa trên 54
đề nghị của Thượng Hội Đồng, Đức Thánh Cha đã soạn Tông Huấn
“Christifideles laici” ban hành ngày 30/12/1988.
Nhìn cách
tổng quát ta thấy có hai điểm nổi bật sau đây:
- Ơn gọi và
sứ mạng của người tín hữu giáo dân được trình bày dựa trên mô
hình Giáo hội “Mầu nhiệm – hiệp thông – sứ vụ”.
- Mô hình
Giáo hội đó được gắn liền với hình ảnh Tân ước về “cây nho và
vườn nho”.
a. Mô hình
Giáo hội nhìn dưới ba khía cạnh “Mầu nhiệm – thông hiệp – sứ vụ”
được sử dụng làm cái sườn cho ba chương đầu. Đây là lần đầu tiên
mà mô hình này xuất hiện trong văn kiện của Toà Thánh. Ý nghĩa
của mô hình này được giải thích ở số 8 như sau: “Giáo hội là mầu
nhiệm bởi vì tình yêu và sự sống của Cha, Con và Thánh Thần là
thuần tuý hồng ân được cống hiến cho những kẻ được tái sinh nhờ
nước và Thánh Thần; họ được kêu gọi làm sống lại chính sự thông
hiệp của Thiên Chúa và biểu lộ cùng thông truyền nó trong lịch
sử (sứ vụ). Ba chiều kích gắn chặt với nhau, như văn kiện còn
lặp lại ở các số 18 (sự hiệp thông là một mầu nhiệm), số 32 (sự
hiệp thông dẫn tới sứ mạng).
Dựa theo
sườn đó, chương I (mầu nhiệm) trình bày phẩm giá của tín hữu
giáo dân. Bắt nguồn từ Ba Ngôi, Giáo hội là Dân Thiên Chúa, Thân
Thể Của Đức Kitô, Đền Thờ Của Thánh Thần. Do Bí tích Thánh tẩy,
người tín hữu được thông dự vào mầu nhiệm của Giáo hội. Vì thế
người tín hữu trở thành con của Chúa (số 11), chi thể của Đức
Kitô (số 12), được thánh hiến làm Đền thờ của Thánh Thần (số
13). Đây là nền tảng của ơn gọi và sứ mạng của người tín hữu. Vì
là chi thể của Đức Kitô, họ được thông dự vào ba chức phận tư
tế, ngôn sứ và vương giả (số 14). Vì là Đền thờ của Thánh Thần,
người tín hữu được thúc đẩy nên thánh qua việc phát triển các
hoa trái của Thánh Thần (số 16).
Chương II bàn
về sự tham gia cuả các tín hữu vào sinh hoạt của Giáo hội, được
kết thành do một chuỗi những mối dây thông hiệp hữu cơ: sự hiệp
thông hàng ngang giữa những tác vụ và đặc sủng đa dạng (số
21-24); sự thông hiệp hàng dọc từ những cộng đoàn địa phương lên
tới cộng đoàn hoàn vũ (số 25-27).
Chương III
nói tới sứ vụ. Các tín hữu được sai đi để mang Tin mừng vào các
môi trường xã hội: từ những nơi chưa hề được nghe giảng Tin mừng
cho đến những nơi thờ ơ lãnh đạm với đạo nghĩa. Việc rao giảng
Tin mừng bao gồm sự phục vụ phẩm giá con người, cách riêng, là
bảo vệ nhân quyền (số 37). Vài môi trường đặc biệt đang cần sự
dấn thân của các giáo dân là: gia đình (số 40), các công tác bác
ái từ thiện (số 41), hoạt động chính trị (số 42), đời sống kinh
tế xã hội (số 43), văn hoá (số 44).
b. Mô hình về
Giáo hội được gắn với hình ảnh về cây nho và vườn nho. Hình ảnh
này được sử dụng làm tựa cho 5 đề mục của văn kiện:
- Thầy là cây
nho, các con là ngành (phẩm giá);
- Tất cả là
cành của một cây nho (thông hiệp);
- Thầy đã để
các con ra đi và mang về hoa trái (sứ mạng);
- Các người
được gọi vào làm việc trong vườn nho (những ơn gọi khác nhau);
- Ngõ hầu các
con mang lại hoa trái hơn nữa (việc đào tạo huấn luyện).
Ý nghĩa Kinh
thánh về vườn nho và cây nho được Tông Huấn giải thích ở số 8
(Cựu ước: Giêrêmia 2,21; Êdêkiel 2,21; Isaia 5, 1-2; Marcô
12,1). Cách riêng, hình ảnh vườn nho lấy dụ ngôn ở (Mt 20, 1-16)
nói tới sự mời gọi vào làm việc trong vườn nho như muốn nêu bật
tính cách hồng ân của mọi tác vụ và linh ân: Chúa kêu gọi mỗi
người vào một giờ khác nhau và trao cho họ một công tác khác
nhau; bởi vậy không nên phân bì ghen tương nhau làm chi ( số
45). Hình ảnh cây nho dựa theo chương 15 của Phúc âm theo thánh
Gioan. Hình ảnh cây nho và vườn nho bổ túc thêm cho những ý niệm
về Giáo hội là “Dân Thiên Chúa, Nhiệm thể Đức Kitô, Đền thờ
Thánh Thần”. Số 16 viết rằng : “Giáo hội là vườn nho ưu tuyển,
nhờ đó mà các cành nho được sống và tăng trưởng do chính nhựa
sống thánh thiện và thánh hoá của Đức Kitô. Giáo hội là thân thể
huyền nhiệm, trong đó chi thể thông dự vào đời sống thánh thiện
của Đầu tức là Đức Kitô. Giáo hội là hiền thê yêu dấu của Đức
Giêsu, Đấng đã hiến mình để thánh hoá nó. Chúa Thánh Thần xưa
kia đã thánh hoá Đức Giêsu trong cung lòng trinh khiết của Đức
Maria cũng là Thánh Thần đang ngự và tác động trong Giáo hội,
ngõ hầu thông chuyển sự thánh thiện của Con Thiên Chúa làm
người”.
Người tín hữu
giáo dân được mời hãy kết hợp chặt chẽ với Đức Kitô như cành với
cây nho; nhờ việc kết hiệp đó mà họ sẽ mang lại nhiều hoa trái.
Việc sinh hoa trái bao hàm sứ mạng ra công làm việc, ngõ hầu
cánh đồng thế giới trở thành vườn nho của Thiên Chúa, nghĩa là
sao cho các môi trường nhân sinh được thấm nhiễm tinh thần Phúc
âm.
Như thế, Tông
Huấn “Christifideles laici” đã trình bày thần học về ơn gọi và
sứ mạng củ Giáo dân trong bối cảnh Giáo hội sinh động vừa hướng
đến sự nên thánh bằng việc kết hiệp thâm sâu với Chúa, vừa hướng
tới sứ mạng giữa nhân loại.
Linh mục
F.Gomez Ngô Minh, phụ trách “Hợp tuyển thần học”, đã đánh giá
cao vai trò giáo dân trong thời đại hôm nay : Bởi có kiến thức
đầy đủ và được đào tạo chu đáo, giáo dân ngày nay không những
còn ngại ngùng, mà hơn nữa, còn mạnh mẽ dấn thân vào trong càc
công tác tông đồ và hành chánh của Giáo hội. Không thiều gì giáo
dân đích thân đứng ra thành lập các phong trào hoặc hội đoàn
tông đồ hay đạo đức. Và hiện nay, cũng không thiếu gì giáo dân
đang đứng đầu dẫn dắt các cộng đoàn giáo xứ. Và trong khắp thế
giới, đại đa số các giáo lý viên đều là giáo dân: họ là những
thầy giáo khai tâm, có sứ mạng gieo hạt giống Lời Chúa vào lòng
các thế hệ trẻ. Hơn bao giờ hết, hiện giờ giáo dân đang ý thức
rõ về quyền lợi và nhiệm vụ của mình trong cộng đoàn Giáo hội;
đó là một ân huệ của Thần khí. Nếu thế, thì đã có đủ cơ sở vững
vàng để hy vọng là tương lai của giáo hội sẽ rực rỡ hơn.
Giáo dân
thường được mệnh danh là tác nhân đặc thù khai lối cho con người
đến với siêu nhiên, và là những công nhân đầu tiên xây dựng cuộc
gặp gỡ Thiên Chúa và con người. Như thế, Giáo dân là người “ làm
cho thế giới sống như linh hồn làm cho thân xác sống” (LG số
38).
Linh mục là
những người “quản lý” giáo dân, mà đã là người “quản lý” thì
phải biết rành rẽ và có hệ thống những gì thuộc về giáo dân mới
có thể giúp giáo dân sống Đạo, loan báo Tin Mừng ngày càng tốt
hơn. Giáo dân mỗi nước thì có những đặc điểm văn hóa riêng. Vì
thế cần phải soạn thảo một chương trình mang tính ưu việt riêng
của dân tộc Việt Nam. Môn giáo dân học được xây dựng trên nền
tảng Thần Học - Kinh Thánh theo chiều hướng mục vụ, dấn thân,
tiến bộ, đậm nét văn hóa dân tộc Việt hiện đại (Nhất Định).
Cám ơn tác
giả Trịnh Nhất Định và ước mong đựơc đọc thêm những thao thức,
những ý kiến đóng góp xây dựng của tác giả.
Lm Giuse Nguyễn Hữu An
|
VỀ MỤC LỤC |
|
AI MUỐN THEO TÔI, PHẢI TỪ BỎ MÌNH,
VÁC THẬP GIÁ MÌNH HẰNG NGÀY MÀ THEO (LC 9,23)
|
Điểm nhắm:
... Không thể nhìn ngắm và khám phá Đức Giêsu mà
không thấy thập giá. Thập giá gắn liền với sứ mạng cứu độ của
Đức Giêsu – và do đó cũng gắn liền với sứ mạng và số phận của
người môn đệ. Nhưng nếu thập giá đã là hòn đá vấp phạm cho người
Do Thái, thì nó vẫn có thể còn là hòn đá vấp phạm cho con người
hôm nay, kể cả cho các Kitô hữu. Vì thế, không bao giờ là thừa
những cố gắng thâm nhập sâu hơn vào ý nghĩa của thập giá – để
gạn đục khơi trong...
1. Thái độ của Đức Giêsu trước sự
đau khổ và sự chết
Đau khổ là cái mà không ai có thể
thực sự yêu được. Thập giá, nếu hiểu như là biểu tượng của đau
khổ nói chung, thì sao? Jurgen Moltmann đã bắt đầu khảo luận nổi
tiếng của mình về thần học thập giá, quyển The Crucified God,
bằng những dòng này:
“Người ta không yêu và không thể
yêu thập giá. Song chỉ có Đấng chịu đóng đinh mới có thể đem lại
thứ tự do có sức thay đổi thế giới – vì nó không còn sợ hãi cái
chết nữa. Vào thời của Ngài, Đức Kitô chịu đóng đinh được coi
như một xì-căng-đan và một sự điên rồ. Ngày nay cũng vậy, người
ta cho rằng thật lỗi thời việc đặt Ngài vào vị trí trung tâm của
đức tin Kitô giáo và của thần học.”
Đức Giêsu nghĩ gì về ‘số phận’ của
Ngài? Như mọi người công chính, Đức Giêsu cùng các môn đệ đều
chắc rằng nỗi đau khổ sẽ đến với mình. Cũng như tất cả các ngôn
sứ trước kia, ngài phải tính đến trường hợp bị giết chết. Và chỉ
mới đây, trong thời của Ngài, hàng ngàn người Zêlốt đã bị đóng
đinh vào thập giá – nên thập giá là một cái gì khá rõ trong viễn
tượng của Đức Giêsu về chính mình.
Nhưng ở nơi Đức Giêsu, còn có một
cái gì khác hẳn: Ngài đưa vào lời huấn dụ của Ngài một nguyên tố
mới, theo đó sự đau khổ và sự chết đều gắn chặt với việc Nước
Chúa đến: “Phúc cho những kẻ bị ngược đãi vì sự công chính.
Nước Trời là của họ. Phúc cho các ngươi khi bị nhục mạ, khi bị
ngược đãi và bị người ta vu cáo mọi sự dữ vì ta... Trước các
ngươi, các tiên tri cũng đã bị ngược đãi như thế.”
Những lời chúc phúc trên đây được
tuyên bố trước tiên cho những người nghèo và những người bị áp
bức, lại tuần tự ứng dụng cho bản thân Đức Giêsu và các môn đệ –
do bởi Ngài và các vị ấy có lòng thương xót những người bị đè
nén và liên đới với họ. Các ngài đã trở nên những kẻ bị ngược
đãi và bị ruồng rẫy, là điều không thể tránh được. Muốn vào nước
của những người nghèo khổ, các ngài phải từ bỏ của cải, nhà cửa,
gia đình, phải từ bỏ mọi kỳ vọng về danh dự, vị thế, về sự tôn
kính trong xã hội. Nói cách khác, đó là chối bỏ chính mình và
chuẩn bị sẵn sàng để chịu đau khổ.
Đây là điều nghịch lý của lòng
thương xót. Sự đau khổ là điều duy nhất mà Đức Giêsu quết tâm
muốn trừ diệt: sự đau khổ của người nghèo và người bị áp bức, sự
đau khổ của những người bệnh tật, sự đau khổ do các tai ương...
Phương thức duy nhất để có thể trừ diệt mọi đau khổ này là từ bỏ
mọi giá trị của thế gian và chấp nhận các hậu quả của việc từ bỏ
ấy. Chỉ có chấp nhận sự đau khổ mới thắng được sự đau khổ
trên trần gian này.
Lòng thương xót tiêu diệt sự đau
khổ bằng cách chia sẻ nỗi đau khổ của những người đang đau khổ,
và nhân danh họ mà chia sẻ. Có thiện cảm với người nghèo mà
không chịu chia sẻ nỗi đau khổ của họ, thì đó chỉ là một sự cảm
động suông. Chúng ta không thể nào chia sẻ ân phúc Chúa ban cho
người nghèo nếu không sẵn sàng chia sẻ nỗi đau khổ của họ.
Đức Giêsu còn đi xa hơn nữa. Tính
nghịch lý liên quan tới đau khổ nói trên còn được Ngài nới rộng
cho đến cả sự chết. Một câu cách ngôn xuất phát từ lời rao giảng
của Đức Giêsu và đã trở thành nổi tiếng trong nhiều truyền
thuyết: “Ai giữ lấy mạng sống mình thì sẽ mất. Còn ai liều
mất mạng sống mình thì sẽ cứu được nó.”
Câu ấy có thể mang ý nghĩa gì? Cứu
lấy mạng sống mình tức là bám vào mạng sống mình, yêu mạng sống
mình, giữ lấy mạng sống mình và do đó sợ chết. Liều mất mạng
sống mình là để cho nó ra đi, để cho nó rời khỏi ta để ta sẵn
sàng chết. Điều nghịch lý là con người sợ chết tức là đã chết.
Còn ai không sợ chết thì, ngay lúc đó, bắt đầu sống. Một cuộc
sống chỉ có thể đích thực và có giá trị khi người ta chấp nhận
chết.
2. Nhưng chết để làm gì?
Những vị tuẫn đạo như Macabê đã
chết để bảo vệ lề luật, những người Zêlốt đã chết để bảo vệ
quyền tối thượng của Thiên Chúa Ít-ra-en, và bao nhiêu người
khác xưa nay đã chết vì mọi thứ lý do. Còn Đức Giêsu, Ngài đã
không chết cho một chủ nghĩa nào. Đối với Ngài, lý do duy nhất
có thể đưa chúng ta đến chỗ hiến mạng sống mình, chính là lý do
đã đưa chúng ta đến chỗ khinh thường của cải, uy danh, gia đình,
quyền hành – nghĩa là: chết cho kẻ khác. Lòng trắc ẩn và tình
yêu thương thúc đẩy con người dám làm mọi sự vì kẻ khác. Ai tự
xưng là sống cho kẻ khác mà không nghĩ đến đau khổ, chịu chết vì
họ, thì kẻ ấy là kẻ nói dối, một kẻ đã chết rồi. Đức Giêsu là
một con người sống viên mãn vì Ngài sẵn sàng chịu đau khổ và
chịu chết – không phải cho một chủ nghĩa nào nhưng là cho con
người, cho mọi người.
Vì thế, ý chí tự do của Đức Giêsu
chấp nhận chết cho mọi người là một sự phục vụ – cũng như bất cứ
gì khác trong đời Ngài đều là để phục vụ: “Vì Con Người
đến không phải để được phục vụ, nhưng để phục vụ và hiến dâng
mạng sống làm giá chuộc cho nhiều người.” (Mc 10,45).
Ở đây, ta có thể thấy rằng có
những thái độ, tâm tình đạo đức nào đó duy chỉ quanh quẩn giữa
mình với Chúa thôi, kiểu như “Lạy Chúa, Chúa yêu thương con biết
bao, con biết Chúa yêu con nhiều lắm, con cũng muốn yêu
Chúa nhiều, xin Chúa cho con yêu Chúa thật nhiều. Amen.” Nghe
khá mùi mẫn, nhưng trớt quớt! Nếu chỉ loanh quanh có vậy thì sẽ
thiếu một cái gì đó rất là căn bản. Những người nghèo, những
người bất hạnh ở đâu rồi?
3. Thập Giá trong linh đạo linh
mục
Một ý nghĩa được gán cho cái chết
thập giá của Đức Giêsu, mà chúng ta vẫn còn nói hôm nay, đó là “để
làm nguôi lòng Chúa Cha”! Cha Bernard Haring, trong quyển “Giáo
Hội Cần Loại Linh Mục Nào?” (Priesthood Imperiled), đã khẳng
định rằng Ba Ngôi Vị – Đấng Sáng Tạo, Đấng Cứu Độ và Đấng Hiệp
Nhất – cấm giết người và nhất là cấm giết người nhân danh Thiên
Chúa. Giết người là tội ác ghê tởm nhất. Nghĩa là Thiên Chúa
không bao giờ có ý muốn người Con nhập thể của Ngài bị giết như
một nạn nhân để làm cho Ngài nguôi ngoai. Điều Thiên Chúa thật
sự nhắm đến chính là sự hoà giải cho một nhân loại hoà bình và
phi bạo lực – là thái độ sẵn sàng chấp nhận nguy hiểm, thậm chí
chấp nhận chết trên thập giá, nếu cần, để mạc khải tình yêu vô
hạn của Thiên Chúa và để cho con người thấy con đường hoà bình,
chân lý và sự sống.
Chính trong viễn tượng ấy mà Đức
Giêsu lên tiếng mời gọi: “Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ mình,
vác thập giá mình hằng ngày mà theo!” (Lc 9,23). Đời sống
của mọi Kitô hữu, vì thế, được thử bằng thập giá. Bởi vì
mọi Kitô hữu đều được giả thiết là muốn theo Đức Giêsu.
Người linh mục và các ứng viên linh mục lại càng phải được thử
bằng thập giá. Cha Alex Rebello, một chuyên viên về đào tạo linh
mục, đã xếp thập giá vào vị trí số một trong 6 yếu tố của linh
đạo người linh mục. Bởi vì, ngài nói, thập giá gắn không rời với
Đức Giêsu – ngay cả sau khi ngài sống lại vinh quang thì các dấu
vết thương tích từ cuộc khổ nạn của Ngài vẫn không bị xoá nhoà.
Vị linh mục này nói tiếp: “Cám dỗ thường xuyên nơi người linh
mục là kiếm tìm một Đức Giêsu không có thập giá, là hình dung
một thứ Kitô giáo dễ dãi nào đó, là khao khát một thứ Tin Mừng
không khổ luỵ... Song nếu cố kiếm tìm một Đức Giêsu không có
thập giá, người ta sẽ chỉ gặp thập giá mà không có Đức Giêsu!
Nói cho cùng, sự khôn ngoan và sức mạnh của thập giá chỉ được
hiểu một khi người ta đảm nhận nó và trực tiếp kinh nghiệm nó.”
4. Gợi ý suy tư – cầu nguyện:
- Đức Giêsu trước đau khổ của con
người.
- Đâu là giá trị của hy sinh, khổ
chế, tiết độ đối với con người ngày nay, nhất là người trẻ. Còn
đối với chính tôi thì sao?
- Tôi có thể vừa vác thập giá theo
Chúa (x. Lc 9,23), vừa sống dồi dào (x. Ga 10,10) được không?
Lm.
Giuse Lê Công Đức
|
VỀ MỤC LỤC |
|
CANH TÂN SƯ PHẠM GIÁO LÝ (BÀI 5): ÁP DỤNG PHƯƠNG PHÁP “HỌC SINH
LÀ TRUNG TÂM” |
Trong mấy
thập niên gần đây, các khoa sư phạm không ngừng thay đổi để tìm
ra phương thế dạy học hữu hiệu hơn. Nhưng ít người biết là
phương pháp hoàn hảo và tối ưu đã được vị Thầy vĩ đại của mọi
thời đại là Đức Giêsu đã áp dụng từ đầu Công nguyên. Đó là
phương pháp lấy người học là trung tâm, giảng dạy cách sinh động
bằng hình ảnh, chú ý đến nhu cầu và trình độ của họ…
I. NGƯỜI HỌC LÀ TRUNG TÂM CỦA TIẾN
TRÌNH DẠY – HỌC
Người ta kể
câu chuyện vui, trong giờ học chính trị, thầy giáo bực bội nói
với sinh viên: “Này các anh chị đang đánh bài ở cuối lớp, hãy
giữ im lặng như các anh chị đang ăn ở giữa lớp để các anh chị
bàn đầu có thể ngủ”. Những giờ học mà nội dung vô bổ, được dạy
kiểu áp đặt thì không thể có hiệu quả được.
Nội dung giáo
lý tự bản chất thì phong phú, hữu ích và hấp dẫn. Nhưng giáo lý
ấy được con người dạy cho con người trong môi trường xã hội và
thời đại, nên dĩ nhiên cần đến những phương thế thích hợp.
Các nghiên
cứu mới về sư phạm cho thấy tiến trình dạy và học sẽ có hiệu quả
hơn khi người học là trung tâm, còn người thầy chỉ đóng vai trò
khích lệ và hướng dẫn. Chúa Giêsu là vị Thầy tuyệt đối, với cả
uy quyền và chân lý nơi Người, Người phán Lời quyền năng để biến
đổi tất cả, nhưng Người vẫn lắng nghe, chia sẻ và đồng hành khi
Người giảng dạy.
Trong giờ
giáo lý, Chúa Giêsu là trung tâm và là người Thầy tuyệt đối.
Nhưng xét về mặt lớp học hữu hình, khi xem học sinh là trung
tâm, giáo lý viên sẽ:
-
lắng nghe và hiểu từng học sinh
của mình,
-
cho các em cộng tác vào tiến trình
dạy và học bằng cách đưa ý kiến, đặt câu hỏi…
-
thường xuyên thảo luận với nhau và
với giáo lý viên.
Lấy ví dụ khi
giáo lý viên dạy bài về Thánh Lễ. Anh chị đọc bài Tin Mừng về
việc Chúa lập bí tích Thánh Thể, cho các em chia sẻ Lời Chúa vừa
nghe, rồi hỏi các em về phép lạ Chúa hoá bánh ra nhiều hoặc lời
Chúa tiên báo về cuộc tử nạn, có thể hỏi các em về biến cố manna
trong sa mạc ngày xưa… Chắc chắn lớp học sẽ sinh động hơn là
mình anh chị độc thoại suốt buổi.
II. DẠY GIÁO LÝ THEO PHƯƠNG PHÁP
HOẠT ĐỘNG
Cách đây khá
lâu, một giáo sư Hàn quốc dạy cho một nhóm thanh niên Á Châu ở
Singapore về các vấn đề của giới trẻ. Mỗi buổi học ông đưa ra
một vài hoạt động. Có lần ông viết lên bảng một từ tiếng Hàn,
chẳng ai biết nghĩa. Rồi ông viết câu tiếng Anh sau đó: “Open
it”, mọi người đoán đó là cửa sổ, cửa ra vào, mắt… Rồi ông thêm
vào “Open it. It’s very hot in here”. Vậy là ai cũng biết từ ấy
nghĩa là cửa sổ. Ông bảo: “Một từ chỉ có nghĩa khi đứng trong
ngữ cảnh. Vậy con người chỉ hình thành nhân cách khi sống trong
cộng đồng”. Hơn mười năm qua, nhiều người vẫn nhớ bài học ấy vì
nó khởi đầu bằng một hoạt động.
Chúa Giêsu
rao giảng bao giờ cũng với những hoạt động để làm người nghe chú
ý. Người chỉ chim trời hay bông hoa để nói về Chúa Quan Phòng,
Người đưa các môn đệ đến đồng lúa chín để giảng về công cuộc
truyền giáo… Chúng ta không thể không bắt chước Người.
Các cô giáo
dạy Anh văn cho trẻ em bây giờ hay dùng phương pháp hoạt động,
đi đâu cũng lỉnh kỉnh học cụ, bản đồ… Giáo lý viên cũng phải
mang lỉnh kỉnh trên người, trong tâm trí và có sẵn trong lớp mọi
dụng cụ cần thiết cho các hoạt động trong lớp. Giáo lý
viên đến lớp giáo lý tay không thì các em ra về đầu óc rỗng
không.
Chúng ta thử
đưa ra một ví dụ. Các em sắp học bài “Chúa Giêsu tha tội cho
em”. Giáo lý viên đưa hình ảnh cành cây bị gãy và đứa con đi xa.
Cho các em thảo luận và trả lời “Cành cây héo vì không với thân
cây. Đứa con buồn chán vì bỏ nhà cha mẹ…” Rồi giáo lý viên đọc
Tin Mừng về Người Cha nhân hậu hay về việc Chúa gọi ông Giakêu.
Sau đó giáo lý viên giảng vắn tắt, rồi kể những câu chuyện Phúc
Âm có liên quan. Cuối giờ cho các nhóm thi kể lại các câu
chuyện… Có lẽ các em sẽ hiểu và nhớ bài học hơn.
III. CÁC TRÒ CHƠI TRONG LỚP GIÁO
LÝ
Chúng ta
thường có thói quen hễ thấy học sinh uể oải là cho cả lớp hát
hay chơi trò chơi. Nhưng kiểu “chữa cháy” như thế không có lợi
bao nhiêu, một là chơi xong lại căng thẳng nghe giảng dài dòng
thì các em lại chán, hai là nếu trò chơi không có ý nghĩa gì
liên quan đến bài học thì sẽ vô bổ. Đang dạy vể đức yêu thương
mà cho các em chơi trò “bắn trúng ai thì chết” chẳng hạn, là
phản tác dụng vô cùng.
Do đó, trò
chơi trong lớp giáo lý là cần thiết và ích lợi nếu nó bảo đảm ba
điều:
- Trò chơi
ấy là một phần của các hoạt động giáo lý, có chủ định và soạn kỹ
trước.
- Trò
chơi ấy có ý nghĩa rõ ràng, ví dụ đang dạy bài “Em là chứng nhân
Tin Mừng”, giáo lý viên cho các em chơi trò “Dắt người mù vượt
chướng ngại vật” để các em ý thức vai trò “ánh sáng” của người
mang lấy Đức Kytô khi sống trong xã hội.
- Trò
chơi không mất giờ, mất sức các em nhiều, cũng không lạm dụng,
theo kiểu giờ nào cũng chơi trò chơi.
Vì thế, giáo
lý viên phải năng động, sáng tạo để nghĩ ra hay “chế biến” trò
chơi sao cho phù hợp với bài mình dạy.
Lạy Chúa
Giêsu là Thầy của chúng con, Chúa đã bảo hãy để trẻ nhỏ đến với
Chúa, vì Chúa yêu thương các em với cả tâm hồn. Xin cho giáo lý
viên chúng con khám phá ra gương mặt của Chúa nơi các em, để
chúng con hết lòng với các em và tận tâm với sứ mạng của mình vì
lòng yêu mến Chúa. Amen.
Gioan Lê Quang Vinh |
VỀ MỤC LỤC |
|
“HỠI ÔI, BÀ LÀ CHÚA BÀU CHÚNG CON…”
|
Quý độc giả Ephata Và Giáo Sĩ
Việt Nam thân mến,
Những ngày tháng ngay sau biến cố 30 tháng
4, tôi lúc ấy là một thanh niên mới lớn, bỗng dưng thấy cuộc
sống bị mất phương hướng, hoang mang dao động ghê gớm. Ắt hẳn bố
tôi cũng thấy được điều đó nơi các con trong gia đình, nhất là
nơi thằng bé út, bố tôi muốn làm một điều gì đấy để dạy dỗ, để
dặn dò con lúc tuổi bố đã già, lúc con lại đang phải đối mặt với
một thực tế cuộc sống vô thần quá khắc nghiệt. Thế là một hôm
ông đã gọi tôi đến, bảo ngồi xuống để hai bố con trò chuyện như
hai người lớn với nhau.
Bố tôi bảo là cha mẹ nào cũng đặt nhiều kỳ vọng vào đứa con, kín
đáo âm thầm trong thâm tâm, nhưng ít nhiều sẽ lộ ra ở cách đặt
tên con. Muốn con trai khỏe và can đảm, người ta chọn tên Hùng,
Dũng, Cường, Khang, nôm na bình dân thì gọi thằng cu Mạnh, cu
Khỏe. Muốn con gái nết na thùy mỵ, người ta lấy tên Hạnh, Hiền,
nhà quê thì gọi cái Ngoan, cái Dịu. Còn đối với tôi, bố đã chọn
tên Uy là có ý có tứ cả đấy…
Nói rồi bố tôi lấy bút chì vẽ lên một tờ
giấy mấy nét chữ Hán thật sắc xảo, bố tôi bảo đây là chữ Uy, bên
trong nó có ôm lấy một chữ Nữ. Phân tích ra, Uy có nghĩa là có
khả năng bảo vệ được một người con gái, một người phụ nữ.
Bố tôi chỉ nói có thế, chẳng bảo ban gì
thêm, nhưng tôi hiểu: bố tôi cũng biết sức mình đã gần tàn, sẽ
đến ngày Chúa gọi về; còn ông anh tôi đang ở tù không biết bao
giờ mới xong án, chỉ còn biết kỳ vọng nơi chú út ít trong nhà
phải lo liệu cho mẹ và cho các chị, toàn là phụ nữ cả. Uy là
vậy, mà Uy là phải như thế !
(Mời xem hình viết chữ "Uy" tại đây:
http://www.conggiaovietnam.net/index.php?m=home&v=detail&ia=6621
)
Thế rồi tôi đi tu. Trách nhiệm lo toan cho
gia đình tôi chỉ mới cầy được một phần nhỏ. Đến khi 32 tuổi được
gọi vào Nhà Tập DCCT, tôi cứ áy náy ân hận vì mình giống như kẻ
trốn đời, trút hết gánh lo cho người chị giáo viên. Không ngờ
Chúa Quan Phòng, tôi đi tu mà gia đình tôi vẫn ổn định, đủ ăn,
đủ sống, lại hơn hẳn lúc tôi còn ở nhà loay hoay xoay trở đủ
cách.
Một lần buổi tối mừng Lễ Giáng Sinh hằng
tháng theo truyền thống DCCT, ngồi vòng tròn chia sẻ với anh em
cùng lớp Nhà Tập, tôi đã kể sự tích cái tên Uy của mình. Anh em
lăn ra cười, trêu tôi là đi tu rồi mà còn toan tính chuyện bảo
bọc che chở phụ nữ !
Cha giáo tập Phạm Gia Thụy mới tủm tỉm cười
bảo: “Các anh đừng vội cười anh Uy mà oan uổng. Thời Thánh Tổ An
Phong, đầu thế kỷ 18, Hội Thánh chưa đưa ra tín điều Đức Mẹ Vô
Nhiễm Nguyên Tội, có quá nhiều tranh cãi thần học về Mẹ Maria.
Thánh An Phong yêu mến Mẹ cách đặc biệt, đã buộc các anh em DCCT
khi tuyên khấn, sau Khó Nghèo – Khiết Tịnh – Vâng Phục, còn phải
thêm lời khấn thứ tư, quyết bảo vệ và tuyên xưng đến cùng rằng:
Đức Mẹ được ơn Vô Nhiễm Nguyên Tội. Hơn một thế kỷ sau, ngày
8.12.1854, Hội Thánh ra Tông Sắc Ineffabilis Deus tuyên tín Đức
Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội. Vì thế, bây giờ đi tu, thì không chỉ anh
Uy mà tất cả các anh, cả Nhà Dòng chúng ta đều bảo vệ cho một
người phụ nữ, đó là… Mẹ Maria…”
Trời ơi, đã chưa ? Được lời như cởi tấm
lòng ! Mà ngẫm nghĩ, chúng ta giống như một đàn con, cứ nghĩ
mình đang bảo vệ Mẹ mình, thật ra, chính Mẹ lại đang che chở gìn
giữ, cứu giúp và bênh đỡ chúng ta khỏi bao nhiêu là tai họa
trong cuộc đời cả vật chất lẫn tinh thần, nhất là phần tâm linh.
Từ đấy, riêng bản thân tôi, cứ tự nhủ mình
tên Uy nghĩa là mình được Chúa ban cho một đặc ân trong truyền
thống của Nhà Dòng, khơi nguồn từ Thánh Tổ An Phong, để mà ra
công gắng sức viết, giảng, nói, làm và sống cho một người phụ nữ
trên hết mọi người phụ nữ, ấy là Mẹ Maria. Rồi cứ thế, từng năm
tháng trôi qua trong chiếc áo đen cổ trắng, tôi nghiệm được câu
Mẹ dặn các gia nhân trong tiệc cưới Cana: “Thầy Giêsu có bảo gì,
các anh cứ làm y như vậy nhé !”
Đến một lúc Chúa Giêsu đã bảo anh em chúng
tôi phải nhảy ùm vào giữa cái vũng lầy kinh khủng của tội ác nạo
phá thai, chúng tôi đã vâng lời, toàn tâm toàn ý và với hết sức
bình sinh để Bảo Vệ Sự Sống, coi như đi ngược với chính sách kế
hoạch hóa gia đình của Nhà Nước vô thần.
Người ta rêu rao với những Trung Tâm Bảo Vệ
Bà Mẹ và Trẻ Em nhưng lại đang công khai hại bà mẹ và giết trẻ
em. Còn anh em chúng tôi, không lấy vợ đẻ con, nhưng lại trở
thành những người bảo vệ che chở cho người phụ nữ và các cháu bé
đáng thương. Tôi đã xin đặt tên “Đức Maria, Mẹ các thai nhi” cho
một bức tượng Mẹ dựng ở Góc Xót Thương, nơi mỗi buổi chiều tối,
hàng mấy trăm thai nhi được đưa về chờ hỏa táng và chôn cất. Đời
tôi như thế là gắn chặt vào một người phụ nữ, vào nhiều người
phụ nữ…
Cái tên Uy nhắc tôi điều ấy và cũng là niềm
vinh dự tự hào cho tôi mỗi khi tôi được giao trình bày giảng dạy
về Mẹ Maria trong các ngày Hành Hương.
Và hôm nay, mừng đại lễ Đức Mẹ Hồn Xác lên
Trời, tròn đúng một năm ngày xảy ra sự kiện Bức Tường Thái Hà ở
Hà Nội, ngồi ôn lại kỷ niệm, tôi nhận ra Mẹ đã cho tôi một ơn
lớn lắm, quý lắm, đó là tôi đã được có mặt ngay trong buổi sáng
lịch sử ngày 15.8.2008 tại Linh Địa, và sau đó thêm một lần nữa,
tôi được lữ hành bình an vui tươi như ngày hội cùng với anh chị
em Giáo Dân giữa một rừng gậy gộc và bình xịt hơi cay trong
phiên xử ngày 8.12.2008. Trời ơi, toàn là những ngày tháng gây
chấn động, gắn liền với các danh xưng, với các tín điều tuyệt
vời của Mẹ.
Tôi thấm thía lạ lùng rằng Mẹ đã bảo vệ gìn
giữ Đức Cha Ngô Quang Kiệt, cha Vũ Khởi Phụng và các cha các
thầy DCCT Hà Nội qua bao nhiêu thời khắc nguy kịch đen tối, lại
giang rộng vòng tay để ôm ấp chở che cho những người đàn ông đàn
bà, cho người già và trẻ con, đã quây quần xúm xít bên Mẹ mà đọc
kinh, mà lần chuỗi, mà hát vang: “Mẹ
ơi, Xứ Đạo con đây, nguyện xin dâng hiến Mẹ từ đây. Xin Mẹ luôn
đỡ nâng phù trì và thương dẫn dắt trên đường đi…”
Bây giờ thì lò lửa nóng bỏng của độc ác,
xảo trá và bất công đang chuyển vào Miền Trung với sự kiện Tam
Tòa. Lúc trước Thái Hà xa La Vang tít tắp mà Mẹ còn cầu bàu bênh
đỡ, huống chi bây giờ Tam Tòa gần hơn nhiều.
Không phải chuyện xa gần về kilômét khoảng
cách địa lý, nhưng là chuyện mức độ trầm trọng của những vết
thương bên ngoài lẫn bên trong, trên da thịt lẫn trong tâm hồn.
Tôi tin Mẹ La Vang đã cứu và đang giúp, còn cứu và giúp cụ thể
như thế nào thì chúng ta chưa biết và chưa thấy. Nhưng rồi sẽ
biết và sẽ thấy…
Hơn ba mươi năm từ ngày bố tôi viết tên tôi
lên giấy và giảng giải cho tôi hiểu ý nghĩa chữ Uy ôm lấy chữ Nữ
trong lòng. Tờ giấy kỷ niệm ấy lạc đâu mất tìm không thấy, tôi
phải mở Hán Việt Tự Điển của Đào Duy Anh, soi kính lúp rồi hí
hoáy vẽ lại, không biết có sai lệch, có thiếu có thừa một nét
nào không ?
Viết xong đem scan, rồi insert vào bài viết
này, tôi ngừng gõ bàn phím trong một phút, nhìn nét chữ đen trên
nền trắng, tôi thấy chợt nao nao lòng.
Tôi thầm cám ơn bố tôi, trước khi tôi chào
đời, đã tặng cho tôi một ý nghĩa chiết tự sâu xa vận sâu vào số
phận của tôi. Tôi biết ơn Thánh An Phong và Nhà Dòng đã buộc tôi
vào đời bằng một cam kết thiêng liêng đối với Mẹ. Tôi biết ơn
Thái Hà và Tam Tòa đã đẩy tôi đến với lời cầu nguyện phó thác
hoàn toàn trong vòng tay Mẹ.
Và cuối cùng, con xin biết ơn Mẹ. Mẹ đã để
cho con, cho tất cả lũ chúng con ôm lấy Mẹ vào lòng như một lũ
con xúm xít bênh vực Mẹ, nhưng thật ra chính Mẹ lại là một Nữ
Trạng Sư bàu chữa biện hộ cho chúng con trước mặt thế gian hung
dữ điên cuồng, mẹ đang giang một vòng tay lớn hơn, ấm hơn, êm
hơn, dịu hơn và yêu nhiều hơn, choàng ôm lấy chúng con, cả quê
hương đất nước và Hội Thánh Việt Nam khốn khổ của chúng con mà
chở che hộ phù…
“Hỡi ôi, Bà là chúa bàu chúng con, xin ghé
mắt thương xem chúng con…”
Lm. QUANG UY, Lễ Đức Mẹ Hồn Xác Lên Trời,
thứ bảy 15.8.2009 |
VỀ MỤC LỤC |
|
HỘI
ĐỒNG GIA ĐÌNH |
Hội Đồng Gia Đình là một trong
những phương cách quan trọng nhất trong việc đối phó với một số
những vấn đề trong một cách thế dân chủ. Nó chính là cái mà danh
xưng nó muốn nói – là một cuộc tập hợp của tất cả mọi phần tử
trong gia đình trong đó những vấn đề rắc rối được bàn thảo để
tìm những phương cách giải quyết. Mỗi tuần, ngày, và giờ được
xác định cho mục đích nầy. Nó nên là một phần của thói quen
trong gia đình. Giờ họp không nên được thay đổi mà không có sự
đồng ý của toàn thể gia đình. Mỗi phần tử đều nên hiện diện. Mọi
người phải tuân giữ sự quyết định của nhóm. Vì thế, mọi người
nên hiện diện để nói lên ý kiến của mình.
Mỗi gia đình nên làm ra những chi
tiết cho Hội Đồng Gia Đình phù hợp với những nhu cầu của gia
đình, nhưng những nguyên tắc căn bản cần phải giữ nguyên. Mỗi
phần tử có quyền mang vấn đề ra. Mỗi người có quyền được lắng
nghe. Cùng nhau tìm một cách giải quyết cho vấn đề và ý kiến của
đa số phải được tôn trọng. Trong Hội Đồng Gia Đình, tiếng nói
của bố mẹ không cao hơn cũng không mạnh hơn tiếng nói của con
trẻ. Sau mỗi cuộc họp, điều đã được quyết định cần thực hiện và
không có một sự bàn thảo nào sâu xa hơn nữa được phép cho tới
lần họp mặt tới. Nếu ở lần tới đó được khám phá ra rằng giải
pháp lần trước không có hiệu quả tốt đẹp, cần tìm một giải pháp
mới, chúng ta hãy làm với câu hỏi: “Chúng ta sắp làm gì về điều
đó?” Và một lần nữa, điều đó tùy thuộc vào cả nhóm quyết định.
Trong buổi họp Hội Đồng Gia Đình,
bà mẹ của 8 đứa con từ 16 đến 4 tuổi, mang ra vấn đề về tình
trạng buồn chán của giờ ăn tối. Con cái đến bàn ăn trễ. Ông bố
xem ra giận dữ về việc chúng đến trễ và cung cách chung chung
không đẹp của chúng. Sự thù hận và sự cãi vả tạo nên một bầu
không khí không vui chút nào. Một trong các trẻ đề nghị rằng mỗi
đứa ăn trong phòng riêng và bàn ăn không ai dùng đến. Những đứa
trẻ khác chấp nhận tư tưởng đó, nghĩ rằng đây là một cuộc hoàn
toàn mạo hiểm để xem sao. Bà mẹ chấp nhận đề nghị đó, còn ông bố
thì không. Bà mẹ hỏi vấn đề phục vụ bữa ăn phải được hoàn thành
cách nào? “Mỗi người phục vụ cho riêng mình”. “Còn chén đĩa thì
sao? Chúng ta sẽ mang nó trở lại. Mẹ sẵn sàng rửa những bát đĩa
được mang để vào bếp” bà mẹ nói thế. Ông bố đành phải đồng ý vì
số phiếu được chọn là 9/1. Chiều hôm đó, khi bữa ăn tối sẵn
sàng, bố và mẹ lấy bữa ăn tối, đi vào phòng ngủ, và không còn
biết những người khác thế nào. Một giờ sau, bà mẹ rửa những chén
bát được đặt trong bể rửa chén.
Bốn ngày sau, con cái bắt đầu phàn
nàn. Chén đĩa mang lại không đủ để chúng có những chén đĩa sạch.
Một đứa phàn nàn về đồ ăn hôi thối được bỏ lại trong phòng bỡi
người cùng chung phòng. Bà mẹ đáp trả cho mỗi phàn nàn: “Mang
vấn đề ra trong buổi họp lần tới.” Vào buổi họp sau đó, tư tưởng
“ăn trong phòng riêng” đã bị loại bỏ một cách lẹ làng. Chúng
muốn trở lại bàn ăn. Chúng cảm thấy cần có một qui luật phải
được tuân giữ ở bàn ăn cho tuần tới.
Con người không thể sống chung mà
không có luật lệ. Vì thế, ngay cả những đứa rất trẻ cũng cần
phải tham dự Hội Đồng Gia Đình để biết những luật lệ của gia
đình. Quyền chủ tọa nên được luân phiên để không riêng một ai
làm chủ các buổi họp mặt. Người chủ tọa phải chắc chắn rằng mỗi
phần tử trong gia đình đều có cơ hội để được lắng nghe. Nếu bố
mẹ thấy rằng một lô những hành động không được thoải mái, họ
cũng phải tuân giữ quyết định, chịu đựng cái không thoải mái và
cho phép kết quả tự nhiên xảy ra. Con trẻ học nhiều từ những
kinh nghiệm nầy hơn là từ những lời nói hay sự áp đặt của bố mẹ.
Bà mẹ trình bày vấn đề được gây
nên bỡi 2 người khách của Loan (10 tuổi) và Quang (7 tuổi). Khi
cả hai đều có khách đến cùng ngày, sự rắc rối xảy ra. Con trẻ
chạy ra chạy vào, chạy lên chạy xuống cầu thang, làm bắp rang,
dùng côca côla, vặn tivi đến mức tối đa. Sau khi bà mẹ trình bày
nỗi khổ của bà, bà nói: “Mẹ nghĩ tụi con nên thay phiên mang
khách về nhà. Các con nghĩ thế nào? Bé Loan đồng ý và chọn thứ 2
và thứ 6. Cậu bé Quang ngồi nặng nề trong chiếc ghế, lấy ngón
tay vẽ trên ghế. Nó không đề nghị gì. Bà mẹ hỏi nó thứ 3 và thứ
4 có được không? Cậu bé gật đầu một cách lãnh đạm. Ông bố nói:
“Các con nghĩ gì về việc chạy khắp cả căn nhà?” “Những người bạn
của chúng con cần phải được dạy một vài phong cách. Mẹ nghĩ các
con nên nói cho bạn các con về qui luật của chúng ta, có phải
vậy không?” bà mẹ xen vào. Bé Loan đồng ý, còn cu Quang thì vẫn
yên lặng xem ra không vui.
Thứ 2 sau đó, Loan đưa bạn về và
chúng chơi yên lặng. Quang cũng mang bạn về nhà. “Quang, xin
lỗi! Hôm nay không phải là ngày em đưa khách về nhà.” “Tụi em
chơi ở ngoài sân nhé?” “Được rồi.” Cậu bé Quang đến cữa 4 lần
trong vòng nửa tiếng đồng hồ để xem chúng có thể vào trong xem
tivi, ăn chút bánh ngọt, và uống chút sữa không? Mỗi lần yêu cầu
chỉ được đáp trả bằng tiếng “không”. Bà mẹ tình cờ nhìn ra cữa
sổ một ít phút sau đó, bà thấy cậu bé đang đứng đái bên hàng
rào. Bà mẹ gọi: “Quang ơi, mẹ xin lỗi nhé! Bảo bạn con đi về nhà
ngay bây giờ và con phải về đây.” Cu Quang hét lại: “Lỗi tại mẹ
không cho con vào nhà để đi vệ sinh.”
Bé Quang cảm thấy bị chèn ép bỡi
sự đồng minh của mẹ và chị nó. Nó không có một đề nghị nào ở
buổi họp mặt gia đình vì nó nghĩ nó không có cơ hội nào cả. Tuy
nhiên, nó đã đồng ý dù im lặng và rồi chọn cung cách sai lầm đó
để tỏ sự thù hận của mình.
Tốt hơn, nếu bà mẹ trình bày vấn
đề khó khăn của bà và sau đó nên hỏi con cái nghĩ xem có thể làm
được gì. Lần đầu được hỏi thử, con cái có lẽ không trả lời vì
chưa nghĩ ra một giải pháp nào. Sau khi đợi một lúc, bà mẹ có
thể trình bày gợi ý của bà. Thật là tốt đẹp nếu bà đưa ra một ý
tưởng dưới hình thức câu hỏi: “Các con có nghĩ rằng sẽ có ích
hơn nếu chọn lấy những ngày khác không? Hoặc “Cái gì sẽ xảy ra
nếu…”
Bây giờ, bé Quang có thể tỏ cho
thấy điều nó cảm thấy và điều nầy sẽ được bàn thảo trong buổi
họp tới. Bà mẹ có thể làm cho bé Quang đến tham dự nếu bà tỏ ra
sự cảm thông của bà. “Mẹ lấy làm lạ bé Quang cảm thấy nó không
có cơ hội. Nó xem ra không thích sự xếp đặt nhiều. Con nghĩ thế
nào, Quang?”
Cần thảo luận sâu xa hơn về điều
nên được làm, và bé Quang nên là người đầu tiên được hỏi để đề
nghị một giải pháp. Thoạt đầu, có thể nó không muốn nói, nhưng
nếu bà mẹ tiếp tục thích thú thật sự với điều nó nghĩ, nó có thể
khuất phục được niềm tin sai lầm của nó và bắt đầu tham gia vào.
Có thể nói được rằng đây không phải là buổi họp Hội Đồng Gia
Đình nếu chỉ có bố mẹ trình bày những vấn đề và cho giải pháp.
Thật ra, con cái phải được khuyến khích để đóng góp những chia
xẻ cũng như những đề nghị của chúng.
Một gia đình gồm cha mẹ xuất thân
từ đại học và ba đứa con gái có buổi họp gia đình. Ba đứa con
gái quyết định nên mua nhà mới. Đứa con lớn nhất cho 15 đô la,
đứa thứ hai biếu 10 đô la, và đứa út biếu 5 đô la. Điều nầy làm
bố mẹ hoàn toàn lúng túng. Họ có thể làm gì? Thật khó xử và rối
lên, họ đi tìm sự góp ý.
Bố mẹ cho rằng những đứa trẻ gái
nầy không có một chút tư tưởng gì về giá cả nhà cữa. Khi con trẻ
được hỏi, chúng phỏng định chỉ khoảng 30 ngàn đô la. Bố mẹ rất
ngạc nhiên vì đây là một sự phỏng đoán của chúng. Bây giờ phải
làm gì? Ông bố được khuyên ký cho chúng 50 đô la và bảo chúng đi
mua nhà. Ông bố đã làm theo và điều nầy đã làm chấm dứt vấn đề.
Tuy nhiên, nếu những đứa trẻ gái
nầy nhấn mạnh: ông bố cần chi trọn số tiền, ông có thể kêu gọi
đến cảm giác công bằng. Nếu chúng hỏi: “Tại sao?” Người bố có
thể nói: “Vì bố chỉ là một trong số 5 người. Tại sao bố phải
chịu hết cả số tiền trong lúc mình không có đủ tiền. Bố đồng ý
với ý tưởng muốn mua nhà mới, nhưng xin các con nghĩ cách làm
sao để gây quĩ?”
Chúng ta có thể làm giảm bớt cảm
giác bị làm rối loạn bỡi những vấn đề như thế nếu chúng ta xử
dụng sự tưởng tượng của chúng ta và xem thử chúng ta sẽ phải làm
gì nếu con cái chúng ta là những người trưởng thành đề nghị
những ý tưởng như thế. Bố mẹ có thể tường thuật một chương trình
dự định và đem vấn đề ra đặt trên bàn để những người khác thảo
luận.
Bí quyết của sự thành công của Hội
Đồng Gia Đình nằm ở ý chí cương quyết của tất cả mọi phần tử
trong gia đình muốn giải quyết một vấn đề như là vấn đề của gia
đình. Đây là vấn đề chung của gia đình, vì sống chung với nhau
có nghĩa là có nhiều hành động tương quan với nhau. Sự giải
quyết phải là một tiến trình của gia đình khi gia đình gặp sự
khó khăn. Phương pháp nầy xem ra tốt đẹp nhất vì nó phát triển
sự trọng kính lẫn nhau, trách nhiệm hỗ tương, và nâng cao sự
bình đẳng.
Lm. Lê văn Quảng, tiến sĩ tâm lý |
VỀ MỤC LỤC |
|
MỆT MỎI CHÁN CHƯỜNG
|
Hình
như khuôn mặt tôi trông có vẻ khờ khờ, thành thật, không đến nỗi
gian ác cho lắm, tôi lại có ''đức tính" chịu khó nghe người khác
nói, nên hay được bạn bè, người quen chọn để tâm sự, để nói cho
với đi những dằn vặt, bực tức, khó chịu trong lòng. Thường sau
những giờ im lặng ngồi nghe như thế,tôi chỉ nói với bạn: ''Anh
(Chị) có thể ân hận, bất mãn, bực tức, buồn bã, ngay cả giận dữ
nữa. Nhưng Anh (Chị) cố đừng để mình rơi vào tình trạng mệt mỏi,
chán chường. Khi đã mệt mỏi, chán chường rồi, người ta hết còn
muốn thay đổi, muốn vươn lên nữa".
Vậy mà lúc này chính
tôi đang cảm thấy hết sức mệt mỏi, chán chường. Trạng thái này
khiến tôi rã rời, muốn buông xuôi tất cả, mặc cho cuộc đời cuốn
trôi mình đến đâu cũng được.
Mọi khi, mỗi lần cảm
thấy trong người không vui, lười lĩnh không muốn làm việc, hay
là bực dọc, bất mãn điều gì tôi thường bỏ chỗ làm, tìm đến một
công viên vắng người, trong đó có cây cối, chim chóc, có hồ nước
và những thảm cỏ mênh mông. Tôi vào đó, có thể cả ngày, nằm nghe
tiếng chuyện trò của cây cối, tiếng chim ca hót, tiếng gió rì
rào, tiếng hồ nước thầm thì với chính lòng nước. Tôi cũng chơi
với nắng. Nắng có khi núp trong bụi cây, kẽ lá, cũng có khi chan
hòa khắp cánh đồng cỏ. Nắng choàng lên tôi như một tấm chăn nhẹ
mà ấm; có khi qua những tàn cây, nắng thêu hoa trên thân thể
tôi. Vài giờ hay một ngày êm đềm như thế trôi đi, cơn bực dọc,
điều bất mãn của tôi tan biến, tôi trở về với mái ấm gia đình,
với chỗ làm việc, vui tươi, yêu đời như một con người hoàn toàn
mới. Lần này, tôi mệt mỏi chán chường đến độ không muốn cả
chuyện tìm niềm vui trong sáng ngoài công viên như đã thường
làm.
Có lẽ những cái tang
gần đây trong gia đình, những công việc và trách nhiệm một lúc
ùa đến bao vây, những hiểu lầm to lớn từ người khác về tôi bất
ngờ xảy ra, những lo lắng về cuộc sống tương lai của gia đình...
khiến tôi rơi vào trạng thái này. Khi người anh cả mà tôi rất
quí mến qua đời, tôi đã đứng thinh lặng trước quan tài còn mở
nắp, nhìn anh nằm bình yên thanh thản bên trong. Tâm trạng thực
của tôi lúc đó là mong muốn cũng được nằm xuống, bình yên thanh
thản như anh, mãi mãi, không còn phải ngồi dậy, không còn phải
sống nữa. Chính giây phút đó tôi khám phá ra rằng mình đã rơi
vào tình trạng mệt mỏi, chán chường.
Trong trạng thái
này, tôi đâm ra buồn bực với người khác và với chính tôi. Tôi
buồn bực người khác vì có cảm tưởng mọi người xem tôi như cái...
thùng rác. Khi trong lòng họ có cái gì không vui, cái gì muốn
tống khứ đi cho rộng chỗ, cái gì không đẹp muốn loại bỏ, họ kiếm
tôi và vất cho tôi tất cả. Và họ ra về, vui vẻ, thoải mái vì đã
trút bỏ được gánh nặng. Tôi không còn nghĩ được rằng khi bạn đến
với mình, tâm sự với mình là bạn đã tin tưởng mình, đã tín cẩn
trao tặng mình một phần đời của bạn, cái phần sâu kín bạn vốn
cất giữ như một kho tàng riêng tư. Bạn chia cho tôi kho tàng ấy,
là vì bạn nghĩ rằng, và tin rằng tôi xứng đáng để được trao tặng
và cất giữ.
Tôi buồn bực với
chính tôi, vì nghĩ rằng mình đã dại dột để tự nguyện làm...
thùng rác. Nào có ai buộc được tôi, bắt được tôi làm cái chuyện
tự nguyện này, ngoài chính tôi thôi. Sao tôi khờ thế, và... ngu
thế. Làm thùng rác thì được lợi ích gì cho mình, có chặng chỉ là
sự nặng lòng và càng cảm thấy chua chát vì những cái xấu của
cuộc đời! Tôi không còn nghĩ được rằng khi tự nguyện nghe người
khác tâm sự là tôi tập sống quảng đại, đồng thời cũng đang học
một tấm gương tin tường và phó thác; khi nghe người khác cởi mở
cõi lòng của họ là tôi đang tập đón nhận trong yêu thương và
kính trọng; khi nghe người khác giãi bày là tôi và người ấy đang
thiết lập một mối liên hệ đầy tình người cao quí. Tôi không còn
nghĩ được như thế, tôi quên hết, chỉ vì tôi đang trong trạng
thái mệt mỏi, chán chường.
Ngoài kia buổi chiều
đang xuống. Một chút nắng vàng lóng lánh còn sót lại trên ngọn
thông cao vút. Đã có một thời, tôi rất thích cách lí luận của
Xuân Diệu khi ông viết:
''chiều lên chứ
chiều không xuống.''
Xuân Diệu lí luận rằng chiều mang theo bóng tối; chiều dâng bóng
tối lên bao phủ mặt đất trước, rồi cữ dâng lên dần dần, cho tới
khi dâng lên tới những ngọn cây cao nhất, đó là lúc ngọn cây chỉ
còn một chút nắng. Thế rồi chiều dâng lên hoàn toàn, chút nắng
cũng chẳng còn trên ngọn cây, bóng tối bao trùm toàn thể cảnh
vật.
Trong lúc này tôi
cũng chẳng thiết đến cái chuyện ''chiều xuống'' hay ''chiều
lên'' và cái lí luận của Xuân Diệu trở thành vớ vẩn. Chiều nó
lên hay nó xuống thì có khác gì đối với con người! Tôi đang chán
mà ? Chút ánh nắng trên ngọn cây thông kia, mọi khi tôi thấy nó
như chất vàng lá dát mỏng trang điểm ngọn thông, hôm nay tôi
thấy nó vàng vọt, xấu xí, làm cho ngọn thông như bị cháy xém.
Tôi nằm rã rời trên giường nhìn ra cửa sổ. Cái ánh sáng nhá nhem
vào buổi hoàng hôn sao mà bệnh tật và buồn thảm quá đỗi. Có lẽ
thà tối hẳn, cảnh vật sẽ đẹp hơn. Cõi lòng tôi cũng đang có cái
thứ ánh sáng nhá nhem, lem luốc của buổi hoàng hôn ấy. Thế mà có
anh chàng thi sĩ dám viết:
''Tôi đổi hai mai lấy một
chiều",
làm như buổi chiều đẹp lắm, quí lắm vậy !
Thả người trên
giường trong trạng thái mệt mỏi chán chường như thế, tôi chợt
nghĩ đến một bài văn ngắn của Vũ Trọng Phụng, có tựa đề ''Tâm
sự cái giường hư''. Nhà văn họ Vũ đã cho cái giường kể
chuyện đời nó. Khi nó còn mới, còn đẹp, người ta chăm sóc nó,
lau chùi đánh bóng nó, đặt nó một cách cẩn thận và trang trọng
trong phòng ngủ, mặc cho nó những thứ khăn thứ áo thơm tho. Cái
giường đã đón nhận, nâng đỡ những tấm lưng mệt mỏi. Khi đặt lưng
trên cái giường sau một ngày vất vả, người ta được nghỉ ngơi và
thoải mái. Nhưng rồi năm này qua năm khác, cái giường cũ đi, xấu
đi, mặt giường không còn êm, chân giường không còn vững, người
ta không còn thích nằm lên nó nữa nên khiêng nó vất vào kho chứa
đồ dùng phế thải. Ở trong ngục tối "khóc lóc nghiến răng'' ấy,
cái giường than thở: "Khi mệt mỏi,
người ta có cái giường để nằm nghỉ còn khi cái giường mệt mỏi,
nó biết nằm lên đâu?"
Tôi đang mang tâm
trạng cái giường hư của Vũ Trọng Phụng. Tôi đã tự nguyện, và đã
được chọn làm cái giường cho nhiều người. Các bạn tôi, và cả
những người trước đó tôi chưa quen biết, đã ngả lưng trên
''chiếc-giường-tôi'' và tìm ở đấy sự nghỉ ngơi, bình an, thoải
mái. Sau đó họ đã đứng dậy, ra đi, tiếp tục lăn mình vào cuộc
sống, gặt hái những thành công và thất bại, những hạnh phúc và
đớn đau, những vinh quang và tủi nhục. Khi thành công, hạnh
phúc, vinh quang, họ tiếp tục vui chân tiến tới. Khi thất bại,
khổ đau, tủi nhục, họ tìm về ''chiếc-giường-tôi' ' hay một
"chiếc giường'' nào khác để nghỉ ngơi, tự nhiên, thoải mái. Có
lẽ họ không nghĩ rằng những ''chiếc giường'' kiểu
''chiếc-giường-tôi'' cũng có lúc rất mệt, rất chán, rất nản và
cũng cần nằm nghỉ như họ cần nằm nghỉ. Như tôi lúc này đây, tôi
đang cần, rất cần nằm nghỉ. Nhưng, giống như cái giường hư của
Vũ Trang Phụng, tôi than thầm: ''Khi tôi mệt mỏi, tôi biết nằm
lên đâu!
Trên mặt tường đối
diện với tôi là Thánh giá với tượng Chúa chịu nạn. Vô tình ánh
mắt tôi đậu trên Thánh giá ấy. Thân thể Chúa Ki tô, đấng cứu
chuộc nhân loại nằm trên Thánh giá, tay chân Ngài duỗi thẳng.
Tôi mường tượng ra cơn đau đớn kinh khủng của Chúa khi người ta
căng tay; chân Ngài ra và dùng đinh nhọn đóng tay, chân ấy vào
Thánh giá. Ngài đã vặn mình đi, đã kêu lớn tiếng... Nhưng sau
đó, Ngài đã bình yên, thanh thản. Cái bình yên thanh thản của
người sau khi đã thi hành trọn vẹn một sứ mệnh vô cùng cao cả,
Sứ mệnh của Ngài là mang lấy tất cả sự đau thương, thống khổ của
nhân loại, để nhân loại được cứu thoát và sống hạnh phúc. Ngắm
nhìn Chúa Ki tô nằm trên Thánh giá, tôi cảm nhận được sự bình
yên thánh thiện trong trạng thái nghỉ ngợi của Ngài.
Thế rồi tôi bỗng
nghĩ đến những nữ tu Mến Thánh Giá, những người đã tự nguyện đem
cả đời mình để yêu thương Thánh giá, những tâm hồn đã chủ trương
''qua
Thánh giá đến vinh
quang ''.
Chưa nữ tu nào nói với tôi về ý tường ''nghỉ ngơi trên Thánh
giá'', nhưng giờ đây tôi biết những nữ tu ấy đã chọn cách
nghỉ ngơi đó . Họ đã chọn đúng, Thánh giá của người ta chính là
nỗi đau khổ của chính mình và của những người khác. Bao lâu
người ta chạy trốn đau khổ, bấy lâu người ta không được nghỉ
ngơi, vì đau khổ có mặt ở khắp nơi, trong tất cả mọi người, đau
khổ trở nên một thứ ''định mệnh' ' của nhân loại. Chỉ khi nào
người ta biết chấp nhận đau khổ, mang lấy đau khổ của mình và
của người, biết nằm lên đau khổ, chọn chính đau khổ làm tấm
giường để đặt lưng lên nghỉ ngơi, như Chúa Ki tô đã làm, người
ta mới có thể bình yên, thoải mái thực sự. Còn mọi thứ giường,
giường thật hay giường theo nghĩa bóng kiểu ''chiếc-giường-tôi"
cũng đều là những thứ giường tạm bợ, có nằm lên thì rồi cũng có
lúc phải rời bỏ, và cuối cùng ta vẫn rơi vào trạng thái mệt mỏi,
chán chường. Nhưng tôi biết, để có thể chọn nỗi đau khổ, chọn
Thánh giá làm chiếc giường an nghỉ, tôi phải biết yêu, yêu
nhiều. Có yêu như Chúa Ki tô yêu mới có thể sống như Chúa Ki tô
sống.
Tôi thoát khỏi trạng
thái mệt mỏi chán chường từ ý nghĩ ấy. Tôi ngồi lên, thấy hình
như mình có hơi vui hơn một tí, hăng hái hơn một tí. Thế rồi tôi
nghĩ, dù sao ngày mai tôi cũng phải tìm đến công viên, nơi có
cây, có cỏ, có nước, có chim, có gió và nắng. Giường Thánh giá
tuy êm đềm thật đấy, nhưng bên cạnh đó, tôi cũng muốn ngả
lưng
trên thảm cỏ nhung. Trong nắng tôi sẽ nghe chim hót, gió reo, lá
cây xào xạc, hồ nước thì thầm. Đời tôi cũng có những người bạn
hồn nhiên, trong sáng, êm đềm và dịu dàng như cây cỏ, gió nắng,
chim bướm, nước hồ... Tìm đến với họ, tôi cũng có được niềm vui,
sự bình yên thanh thản, gạt bỏ được trong chốc lát những mệt mỏi
chán chường do cuộc sống đem đến, hay do chính tôi chuốc
lấy.
Nhà Văn Quyên Di |
VỀ MỤC LỤC |
|
LINH MỤC VÀ BÍ TÍCH THÁNH THỂ
|
Họp
Mặt Năm Linh Mục
Các
linh mục cựu sinh viên Xuân Bích
Đàlạt 21-23/7/2009
Kính thưa Quí Cha,
Thật là một hồng ân,
thời gian cuộc họp mặt của chúng ta diễn ra trong Năm thánh hóa
Linh Mục, năm cầu nguyện của linh mục, cầu nguyện với linh mục
và cầu nguyện cho linh mục, để làm trỗi dậy trong chúng ta và
giáo dân chúng ta lòng nhiệt thành hăng say hầu mang lại những
hoa quả tông đồ tốt nhất do lòng trung thành và canh tân cam kết
cho sứ vụ linh mục của chúng ta.
Cha Hương bảo con chia
sẻ đề tài LINH MỤC VÀ THÁNH THỂ,
để chúng ta cùng nhau ôn lại và sống tốt sứ vụ căn bản của chúng
ta mà Chúa Giêsu đã thiết lập trong bữa Tiệc Ly. Đứng trước mặt
quí Cha đàn anh vị vọng như thế này, thật sự con đang cảm thấy
rất lo như cậu học trò phải trả bài trước Ban Giám khảo. Con xin
Quí Cha giúp con và thông cảm sửa chữa, bổ túc cho những thiếu
sót của con. Con xin hết lòng cám ơn Quí Cha trước.
Ngoài nhập đề và kết
luận, con xin trình bày hai điểm chính:
I. Một số giáo huấn của
Giáo Hội về Thánh Thể
II. Áp dụng Thánh Lễ vào
đời sống và sứ vụ thực tiễn của chúng ta.
I. MỘt sỐ giáo hUẤn cỦa Giáo HỘi
1.
Vài định nghĩa
của Bí tích Thánh Thể
Công Đồng Vatican II
khẳng định “Bởi vì là hành động của Đức Kitô tư tế và của Thân
Thể Người là Hội Thánh, toàn thể cuộc cử hành Thánh Thể là hành
động thánh thiện nhất, không có hành động nào của Hội Thánh có
thể có hiệu quả bằng, cả về danh hiệu lẫn cấp độ,”
vì “Thánh Thể là nguyên lý và cứu cánh của thừa tác vụ Linh Mục,
tất cả mọi thừa tác vụ của Giáo Hội và mọi công việc Tông Đồ đều
liên kết chặt chẽ với Thánh Thể và được trao ban vì Thánh Thể.”
“Bí Tích Thánh Thể là
món quà Thiên Chúa ban để cho thế gian được sống;”
là bí tích tuyệt diệu nhất, chứa đựng toàn thể mầu nhiệm cứu độ,
là nguồn mạch và tột đỉnh của hành động và đời sống của Hội
Thánh, để đưa chúng ta vào sự sống đời đời.
Quả thế, đã có một cuộc
chuẩn bị lâu dài và chu đáo cho Bí tích Thánh Thể, từ Hy tế Cựu
Ước và Manna trong sa mạc, đến phép lạ hóa bánh ra nhiều, rồi
lời tuyên bố của Chúa Giêsu rằng Ngài là Bánh bởi trời đích thực
Chúa Cha ban cho thế gian được sống, qua việc chọn lựa, huấn
luyện và thánh hóa các môn đệ, để rồi cuối cùng Chúa Giêsu thiết
lập đồng thời Bí tích Thánh Thể và chức linh mục trong bữa Tiệc
Ly, trước khi hoàn tất chương trình Khổ nạn và Phục sinh cứu độ
nhân loại.
Giáo Luật 1983 khẳng
định rằng Bí tích Thánh Thể là “tuyệt đỉnh và nguồn suối của tất
cả phụng tự và đời sống Giáo Hội”, là nơi các bí tích và hoạt
động của Giáo Hội đều qui về và phát xuất, vì bí tích Thánh Thể
chứa đựng tất cả kho tàng
thiêng liêng của Giáo Hội, là nơi Chúa Giêsu hiện diện,
tự hiến và trở nên lương thực cho Giáo Hội được sống, tăng
trưởng và hiệp nhất.
2. Thông điệp “Giáo Hội
sống nhờ Bí Tích Thánh Thể”
(Ecclesia de
Eucharistia, do ĐTC JP II ngày 17/4/2003)
Trong Thông điệp này,
ĐTC Gioan-Phaolô II đề nghị đào sâu suy tư về mầu nhiệm Thánh
Thể trong tương quan với Giáo Hội. Đây là một văn kiện cô đọng
các khía cạnh thần học, kỷ luật và mục vụ liên quan đến Bí tích
Thánh Thể. Hy tế Thánh Thể, “nguồn suối và chóp đỉnh của tất cả
đời sống kitô” chứa đựng tất cả kho tàng thiêng liêng của Giáo
Hội, tức là chính Chúa Kitô, Đấng đã dâng mình cho Chúa Cha vì
phần rỗi nhân loại.
Mầu nhiệm Đức Tin
diễn tả giá trị hy tế của Bí tích Thánh Thể, nhờ thừa tác vụ của
linh mục, làm hiện tại hóa trong mỗi thánh lễ thân mình bị phó
nộp và máu đổ ra của Chúa Kitô vì phần rỗi nhân loại. Thánh Lễ
là hy tế thập giá duy nhất được tái hiện cho đến tận thế như
phương dược vĩnh cửu, nó kích thích tinh thần trách nhiệm liên
đới của tín hữu đối với thế giới hiện tại.
Thánh Thể xây dựng
Giáo Hội ,
vì mỗi khi đến dự tiệc Thánh Thể, tín hữu không chỉ đón nhận
Chúa Giêsu mà còn được chính Chúa Giêsu đón nhận. Bánh và rượu
này là sức mạnh làm phát sinh sự hiệp nhất của Giáo Hội. Giáo
Hội liên kết sâu xa với Chúa Giêsu đang ở trong Giáo Hội và kiến
thiết Giáo Hội. Giáo Hội tôn thờ Chúa Giêsu Thánh Thể không chỉ
lúc cử hành thánh lễ, mà là trong mọi lúc và gìn giữ Thánh Thể
như kho tàng quí giá nhất.
Tính Tông Truyền
của Bí tích Thánh Thể và của Giáo Hội :
không có Giáo Hội hoàn toàn đứng riêng ra mà không có sự kế vị
tông đồ, cũng như không có Thánh lễ mà không có chức linh mục.
Vì hành động nhân danh Chúa Kitô là Đầu, nên linh mục không thể
sở hữu Thánh Thể và không thể tùy ý sử dụng Thánh Thể, nhưng là
người phục vụ Thánh Thể vì lợi ích của cộng đồng tín hữu. Do đó,
cộng đoàn kitô không sở hữu Thánh Thể, nhưng đón nhận Thánh Thể
như một ân huệ Chúa ban.
Bí tích Thánh Thể
và mối Hiệp thông Giáo Hội.
Trung thành với giáo lý của các tông đồ, nối kết trong kỷ luật
bí tích, Giáo Hội cũng phải biểu lộ cách hữu hình sự hiệp nhất
vô hình vốn là cái đặc trưng của Giáo Hội. Thánh Thể không thể
được sử dụng như phương tiện của hiệp thông, nhưng đúng hơn
Thánh Thể giả thiết và củng cố hiệp thông. Phải nhìn con đường
đại kết mà mọi môn đệ Chúa Kitô đang trông chờ trong viễn ảnh
này: Thánh Thể sáng tạo hiệp thông và dẫn đến hiệp thông. Thánh
Thể không thể bị lệ thuộc vào sự tùy tiện của các cá nhân hay
các cộng đoàn cá biệt.
Phẩm cách của việc
cử hành Thánh Thể .
Việc cử hành Thánh Lễ có những đặc điểm bên ngoài làm nổi bật
giá trị của niềm vui qui tụ mọi tín hữu chung quanh ân huệ vô
lường của Bí tích Thánh Thể. Công trình nghệ thuật, điêu khắc,
hội họa, âm nhạc, văn chương đủ loại nói lên cách thức mà Giáo
Hội qua dòng thời gian đã không sợ chi tiêu hào phóng hầu chứng
tỏ tình yêu của mình đối với Lang Quân chí thánh. Do đó việc cử
hành hôm nay cũng phải làm sao cho người ta thưởng thức được nét
đẹp của nó.*
Vào trường Mẹ
Maria, Người Nữ Thánh Thể:
Có một sự tương tự độc
đáo tuyệt vời giữa một bên là Mẹ Thiên Chúa, Đấng đã kết dệt nên
thân thể của Chúa Giêsu trong lòng Mẹ như Nhà Tạm đầu tiên và
trao ban Chúa Giêsu cho nhân loại, và bên kia là Giáo Hội, Người
gìn giữ Mình và Máu của Chúa Giêsu để trao ban Ngài cho tín hữu.
Thánh Thể được trao ban cho tín hữu để cuộc sống của họ là lời
kinh Magnificat liên lỉ dâng lên Thiên Chúa Ba Ngôi Chí Thánh.
Phần cuối thông điệp
thúc đẩy sự dấn thân: Những ai muốn tiến bước trên đường nên
thánh chẳng cần các kế hoạch mới mẻ nào khác. Kế hoạch đã có sẵn
rồi: Đó là chính Chúa Kitô mà ta phải nhận biết, yêu mến, bắt
chước và loan báo. Việc thực hiện hành trình nên thánh này đi
qua Bí tích Thánh Thể. Các thánh đã minh chứng điều đó, những ai
đến giải khát nơi nguồn suối không bao giờ cạn của mầu nhiệm
Thánh Thể tìm được sức mạnh thiêng liêng cần thiết để thực hiện
trọn vẹn ơn gọi của mình.
3. Huấn thị Bí tích Cứu
Độ
(Redemptionis
Sacrosantum do Bộ Phượng Tự và Kỷ Luật Bí tích ngày 25/3/2004)
ĐTC Gioan-Phaolô II tuyên bố t rong
thông điệp “Giáo Hội
sống nhờ Thánh Thể” rằng Thánh Thể “nằm ở trung tâm đời sống
Giáo Hội,” “là một mối dây nối kết trời và đất, bao bọc và thấm
nhập toàn thể thụ tạo,”, “là những gì quí giá nhất mà Giáo Hội
có thể có được trong cuộc lữ hành qua dòng thời gian.”
Nhưng bên cạnh đó cũng có những lạm dụng đã là nguồn gốc làm đau
khổ nhiều người,*
“làm lu mờ đức tin đúng đắn và giáo lý công giáo về Bí Tích kỳ
diệu này,” nên Ngài “đã yêu cầu các cơ quan chuyên trách trung
ương Tòa Thánh soạn thảo một văn kiện chuyên môn hơn với những
nhắc nhở về kỷ luật trong vấn đề có tầm quan trọng lớn lao này.
Không ai được phép đánh giá thấp Mầu Nhiệm được trao trong tay
chúng ta: nó cao cả đến nỗi không ai có thể đối xử với nó theo ý
mình, không tôn trọng tính cách linh thánh và chiều kích phổ
quát của nó.”
Trái lại, phải tham dự cách ý thức, tích cực và hiệu quả hơn
bằng cả trí tuệ, tấm lòng và cuộc sống, và như thế, nhận lãnh
dồi dào hồng ân của Thiên Chúa.
“Trong việc cử hành Bí
tích Thánh Thể, các linh mục có trách nhiệm lớn, vì các ngài chủ
tọa in persona Christi, đưa ra chứng từ và phục vụ sự hiệp thông
không những đối với cộng đoàn tham dự trực tiếp vào buổi cử
hành, mà còn đối với Hội Thánh toàn cầu, luôn luôn có liên hệ
với Bí tích Thánh Thể. Nhưng phải lấy làm buồn, nhất là từ những
năm cải tổ hậu công đồng, vì hiểu sai việc sáng tạo và thích
nghi, mà xảy ra nhiều lạm dụng, gây nên đau khổ cho nhiều người”
“Cha xứ phải chăm lo sao
cho Bí tích Thánh Thể trở thành trung tâm của cộng đoàn tín hữu
giáo xứ; ngài phải cố gắng làm cho tín hữu được dẫn dắt và nuôi
dưỡng bởi việc cử hành sốt sắng các bí tích và đặc biệt làm cho
tín hữu thường xuyên đến với Bí tích Thánh Thể và Bí tích Thống
Hối; ngài cũng cố gắng dạy họ cầu nguyện, kể cả trong gia đình,
và làm cho họ tham dự cách ý thức và tích cực vào phụng vụ
thánh.”
“Mọi linh mục phải lo
trau giồi kiến thức và nghệ thuật phụng vụ, để thừa tác vụ phụng
vụ của họ giúp các cộng đoàn Kitô hữu được giao phó cho các ngài
ca tụng Thiên Chúa Cha, Con và Thánh Thần cách hoàn hảo hơn.
Nhất là, các ngài phải thấm nhuần tâm tình thán phục và kinh
ngạc, mà mầu nhiệm phục sinh được cử hành trong Bí tích Thánh
Thể làm phát sinh trong tâm hồn các tín hữu.”
Trong Nghi thức truyền
chức, Giám mục nhắc nhở các tân linh mục: “Khi cử hành các Bí
Tích, đặc biệt là Bí Tích Thánh Thể, các con phải ý thức việc
các con làm, phải noi theo điều các con thực hiện, nghĩa là khi
cử hành mầu nhiệm Chúa chịu chết và sống lại, các con cố gắng
chế ngự thân xác khỏi nết xấu và tiến bước trong đời sống mới.”
4. Vài thực hành quan
trọng theo Giáo luật
a. Lưu ý những bổn
phận công bằng và bác ái về Bổng lễ
(GL 945-958, đặc biệt GL 948-949 về nghĩa vụ dâng lễ đã nhận, GL
953 không giữ lại số lễ hơn một năm, GL 955 v/v chuyển lễ và ghi
sổ).
Ngoài các thánh lễ dâng
theo ý người xin và những thánh lễ chỉ ý theo bổn phận, chúng ta
cũng nên để dành một số thánh lễ bù đắp cho những thánh lễ có
thể còn thiếu sót của chúng ta và cầu cho chính bản thân chúng
ta. Một số anh em linh mục còn có thói quen tốt dâng một số lễ
cầu nguyện cho các linh hồn mồ côi nữa. Linh hồn mồ côi không có
nghĩa là không cha không mẹ (nếu hiểu theo nghĩa này thì chẳng
hề có linh hồn nào mồ côi hết), nhưng là những linh hồn mà chẳng
ai nhớ đến để cầu hồn xin lễ cho họ, kể cả người thân của chính
họ.
b. Chuẩn bị cho
việc cử hành Thánh lễ
Giáo Luật dạy rằng “Linh
mục không nên bỏ qua việc dọn mình xứng đáng trước khi dâng lễ
và cám ơn sau Thánh lễ.”
Còn Sắc lệnh Chức vụ và đời sống linh mục nói đến mối
tương tác đòi hỏi thừa tác viên phải thánh thiện để cử hành mầu
nhiệm thánh, nhưng đồng thời mầu nhiệm thánh được cử hành cũng
thánh hóa thừa tác viên. Sắc lệnh viết: “Chính linh mục được kêu
gọi đạt tới một đời sống hoàn thiện nhờ chính những công việc
thánh thiện hằng ngày... Chính sự thánh thiện của linh mục giúp
ngài rất nhiều trong việc chu toàn thừa tác vụ của mình một cách
hữu hiệu.”
Trong thư gửi tín hữu
Corinthô, thánh Phaolô nói lên tính nghiêm trọng phải dọn mình
khi viết: “Bất cứ ai ăn Bánh hay uống Chén của Chúa cách bất
xứng, thì phạm đến Mình và Máu Chúa. Ai nấy phải tự xét mình,
rồi hãy ăn Bánh và uống Chén của Chúa. Thật vậy, ai ăn và uống
mà không xứng đáng là ăn và uống án phạt mình.”
Việc xét mình chuẩn bị
tâm hồn cho xứng đáng sẽ giúp chúng ta ý thức thân phận con
người bất xứng của mình và phải cậy dựa vào sự trợ giúp của Chúa
cùng sự bổ khuyết của Giáo Hội (“Ecclesia supplet”). Điều này
giúp chúng ta sống đầy đủ chiều kích Hội Thánh, trong cộng tác
và hiệp thông với mọi thành phần của Hội Thánh là Thân Thể Chúa
Kitô. Quả thế, “dù ơn Chúa có thể hoàn tất công trình cứu rỗi
qua những thừa tác viên bất xứng, nhưng thường Thiên Chúa muốn
tỏ ra những việc lạ lùng của Ngài qua những vị sẵn sàng nghe
theo sự thúc giục và hướng dẫn của Chúa Thánh Thần hơn, bằng một
đời sống thánh thiện và kết hiệp mật thiết với Chúa Kitô.”
ĐHY Tổng trưởng Bộ Giáo
sĩ, Dario Castrillon Hoyos, cũng viết: “Đối với linh mục, Bí
tích Thánh Thể phải chiếm giữ vị trí trung tâm, cả trong thừa
tác vụ lẫn trong đời sống thiêng liêng, bởi vì tất cả lợi ích
thiêng liêng của Hội Thánh phát sinh từ Bí tích Thánh Thể, cội
nguồn và chóp đỉnh của mọi công cuộc Phúc âm hoá. Vì thế quả là
quan trọng việc chuẩn bị cách thích đáng trước khi dâng hy tế
Thánh lễ, cử hành thánh lễ mỗi ngày, cám ơn và viếng Thánh thể
trong ngày.”
c. Cộng hưởng giữa
Bí tích Giải Tội và Thánh Thể
Bí tích hòa giải là một
trong những quà tặng đặc biệt của linh mục cho kẻ khác trong
thừa tác vụ bí tích của ngài, nhưng đồng thời nó cũng là khí cụ
cho linh mục tăng trưởng trong đời sống thiêng liêng và bác ái
mục tử.*
Việc linh hướng đều đặn là một bảo đảm khác cho việc tái định
hướng, tăng trưởng và phát triển đời sống thiêng liêng trưởng
thành.
Linh mục không chỉ đều
đặn thực hành bí tích này, mà còn cố gắng hiểu biết tốt hơn và
cử hành nghiêm túc, vì bí tích này cũng là một tập luyện tuyệt
vời về nhân đức, đền tội…, là trường tu đức không thể thay thế,
là một sự trợ giúp thực sự trên con đường đổi mới và thánh hóa.
Bí tích Giải tội là một
quà tặng, một khí cụ quan trọng cho việc tái định hướng, thánh
hoá và tăng trưởng thiêng liêng, nhất là khi được trao đổi với
một cha giải tội và linh hướng có kinh nghiệm, để thấy được các
gốc rễ sâu xa hơn, cùng mở ra các viễn ảnh tương lai,
nhờ đó đạt tới một kinh nghiệm chữa lành và vui sống.
GL 916 dạy: “Ai ý thức
mình phạm tội nặng và chưa xưng tội trước thì không được làm lễ
và rước lễ, trừ khi có lý do quan trọng và không có dịp tiện đi
xưng tội. Trong trường hợp này, họ phải tâm niệm về bổn phận
thống hối trọn vẹn, bao gồm lòng dốc quyết đi xưng tội sớm ngần
nào có thể.”
Có ba thứ tội tối kỵ đối
với linh mục kèm theo vạ tiền kết dành riêng cho Tòa Thánh: Lỗi
ấn tòa giải tội, khuyến dâm trong tòa và giải tội cho đồng phạm.
Khi nhỡ yếu đuối phạm phải, xin lưu ý việc có thể vận dụng giải
pháp khoan dung của khoản Giáo luật 1048: “Trong những trường
hợp còn kín và rất khẩn cấp, nếu không thể đến với Bản Quyền
hoặc Tòa Ân Giải Tòa Thánh được, và có nguy cơ thiệt hại nặng
hay nguy cơ mất tiếng tốt, thì ai mắc phải bất hợp luật để hành
xử chức thánh vẫn có thể hành xử, nhưng họ có bổn phận phải đến
sớm hết sức với Bản Quyền hay Tòa Ân Giải Tòa Thánh để xin miễn
chuẩn, qua trung gian cha giải tội và không cần xưng danh
tánh.”
d. Cử hành Thánh
lễ
Phải theo đúng luật
Phụng vụ. ĐTC Gioan Phaolô II nói: “Những quy luật đó diễn tả cụ
thể tính Giáo hội đích thực của bí tích Thánh Thể… Phụng vụ
không bao giờ là một sở hữu riêng tư của ai, kể cả chủ tế và
cộng đoàn cử hành các Mầu Nhiệm đó… linh mục nào trung thành cử
hành Thánh Lễ theo những quy luật phụng vụ chứng tỏ tình yêu của
họ đối với Giáo Hội một cách rõ rệt”
Vì thế, ĐTC Biển Đức nói
nhân dịp Đại Hội Thánh Thể Quốc Tế lần 49 rằng: “Tôi van nài các
linh mục đặc biệt tôn trọng các nghi thức Thánh Lễ, và kêu gọi
các tín hữu tôn trọng vai trò của mỗi cá nhân, cả linh mục lẫn
giáo dân, trong các cử chỉ trong Thánh Lễ. Phụng vụ không thuộc
về chúng ta mà là một kho tàng của Hội Thánh.”
II.
Áp dỤng vào đỜi sỐng và
sỨ vỤ thỰc tiỄn CỦA LINH MỤC
1. Linh mục và Thánh Thể
Thánh Lễ là hình thức
cầu nguyện cao nhất của đời sống phượng tự Kitô giáo, và là cái
đặc trưng của chức linh mục. Thánh Thể là “suối nguồn và tột
đỉnh của đời sống và sứ vụ của Hội Thánh,” nên cũng phải là
trung tâm đời sống và sứ vụ linh mục của chúng ta, bởi vì có một
mối tương quan rất chặt chẽ giữa cử hành Thánh Lễ và rao giảng
Chúa Kitô.
Theo những gì Chúa Giêsu
đã nói và đã làm trong bữa Tiệc Ly (x. Lc 22,14-20), khi Ngài
thiết lập Bí tích Thánh Thể và chức linh mục, để chúng ta tái
hiện và cử hành nhân danh chính Ngài (in persona Christi), đời
sống thiêng liêng của chúng ta có thể lớn lên dần dần và dẫn đưa
chúng ta tới độ “trở nên và sống như một Chúa Kitô Khác trong
mọi hoàn cảnh sống.”
Và “các sinh hoạt của đời sống hàng ngày của chúng ta sẽ
thực sự mang ý nghĩa và chiều kích Thánh Thể.”
Thiên Chúa tỏ lộ mầu
nhiệm ý định của Ngài trong phụng vụ Lời Chúa, mà chúng ta phải
biết liên kết với các thực tại của cuộc sống, ngõ hầu được sống
và biến đổi bởi chính Lời ấy.
Chúng ta phải công bố Lời Chúa và Thánh Ý Chúa mà chúng ta đã
tin và đang sống. Nhờ đó, tín hữu cũng được thúc đẩy suy gẫm và
hành động cách thích đáng, đồng thời được biến đổi và hoán
cải.
Chúng ta đã tự nguyện
nhận lấy quà tặng quí giá chức linh mục, trong niềm hăng say,
hạnh phúc và biết ơn. Nên cho dù không tránh khỏi khó khăn và
thập giá trong đời sống và sứ vụ, nếu cho chọn lại, chúng ta
chắc chắn vẫn sẵn sàng thưa “xin vâng”, đôi khi chậm rãi, nhưng
với ý thức và bình an.
Khi làm phép lạ hóa bánh
ra nhiều, Chúa Giêsu cần đến năm chiếc bánh và hai con cá của
các môn đệ. Ngày nay Ngài cũng cần đến phần cộng tác ít ỏi và
nhỏ bé của bản thân chúng ta, như giọt nước pha trong rượu nho.
Chúng ta sẽ cố gắng luôn sẵn sàng cho Ngài.
Như đã làm trong bữa
tiệc ly với bánh, Chúa Giêsu cũng cầm lấy chúng ta và chúc phúc
cho chúng ta, khi Chúa kêu gọi và tuyển chọn chúng ta giữa nhiều
người khác có thể tốt hơn chúng ta. Chúng ta tạ ơn Chúa và có lẽ
phải hét lên vui mừng và hạnh phúc, vì tình yêu vô điều kiện
Chúa dành cho chúng ta, và vì may mắn của chúng ta nữa, là chúng
ta được chọn làm linh mục, dù chưa chắc đã tốt hơn những người
khác.
Ước gì chúng ta không
bao giờ sợ bị cầm lấy và chúc phúc như thế, bởi Chúa và bởi đoàn
chiên được trao phó cho chúng ta chăm sóc mục vụ, kể cả qua
những gánh nặng, những khó khăn trong đời sống và sứ vụ linh mục
của chúng ta. Như tấm bánh bị bẻ ra, chúng ta phải được trao ban
và bị ăn bởi Dân Chúa, đoàn chiên của chúng ta, như cha Chevrier
nói “linh mục là người bị ăn.” Để luôn trung thành giữ lời cam
kết với Chúa và với Hội Thánh, đôi khi chúng ta cảm thấy đời
sống và con tim bị bẻ ra vì hiểu lầm và đau khổ, vì sự cô đơn và
những chiến đấu nội tâm chống lại những ước muốn nhân loại và
các cơn cám dỗ từ bên ngoài.
Chúng ta biết rằng thân
xác nhân loại yếu hèn của chúng ta được quyền năng Chúa làm cho
trở nên một thân xác thánh thể như thân xác Chúa Giêsu (bị bẻ ra
và trao cho người ta ăn). Chớ gì chúng ta luôn hiểu ý nghĩa của
đời sống bị bẻ ra vì Thiên Chúa và vì tha nhân.
Ý thức rằng chúng ta
không dám tự nộp mình cho đến chết như Chúa Giêsu, nhưng chúng
ta sẵn sàng hiến tặng thời giờ, của cải, sức khỏe, ước muốn,
hạnh phúc, niềm vui, cả những đau khổ và buồn phiền. Tất cả
những thứ đó cũng là cuộc sống và chính con người của chúng ta
vậy, như Chỉ Nam 1994 nói: “Linh mục phải học biết kết hợp mật
thiết với lễ vật, đặt trên bàn thờ hy lễ cả cuộc đời mình như
dấu chỉ của tình yêu nhưng không và ân cần của Thiên Chúa.”
Máu các thánh tử đạo đổ
ra vì Chúa và vì Nước Trời chỉ có một lần thôi. Máu của chúng ta
đổ ra cách này hay cách khác, mỗi ngày, từng giọt một, qua trách
nhiệm và bổn phận của chúng ta: “Một lúc đổ cả máu đào, hay từng
giọt một đằng nào công hơn?” Và như Thánh Phaolô, mỗi ngày,
chúng ta bổ khuyết nơi thân xác chúng ta phần còn thiếu sót
trong cuộc khổ nạn cứu thế của Chúa Giêsu, mà “hy lễ Thánh Thể
tái diễn mãi hy lễ thánh giá,”
kể cả “bước theo Ngài giữa những cuộc bách hại không hề thiếu
vắng trong Giáo Hội,” như
thánh Phaolô đã xác quyết: “Ai có thể tách chúng ta ra khỏi tình
yêu của Đức Ki-tô? Phải chăng là gian truân, khốn khổ, đói rách,
hiểm nguy, bắt bớ, gươm giáo? Như có lời chép: Chính vì Ngài mà
mỗi ngày chúng con bị giết, bị coi như bầy cừu để sát sinh.
Nhưng trong mọi thử thách ấy, chúng ta toàn thắng nhờ Đấng đã
yêu mến chúng ta.”
Bánh và rượu dâng lên sẽ
được quyền năng Chúa biến đổi thành Mình và Máu Chúa Kitô. Nếu
chúng ta dâng chính mình, những cảm nghĩ và tình yêu, những vấn
đề, những băn khoăn lo lắng, đau khổ và hạnh phúc của chúng ta
thì quyền năng ấy cũng sẽ biến đổi chúng thành những gì tốt đẹp
hơn, hữu ích hơn cho chúng ta và đoàn chiên của chúng ta.
Đặc biệt, nếu chúng ta
dâng những yếu đuối và tội lỗi của chúng ta, Chúa sẽ tha thứ,
biến đổi và thánh hoá chúng ta, như Chúa Giêsu đã hiện ra nói
với thánh Hiêrônimô “con hãy cho Cha cả tội lỗi của con nữa để
Cha tha thứ cho con”, bởi vì với Chúa chẳng có tội gì quá nặng
đến đỗi Chúa không thể tha thứ được!
Trong việc cử hành Thánh
Thể, sự hiệp nhất của Dân Chúa được biểu lộ và thể hiện, cũng
như việc xây dựng nhiệm thể Chúa Kitô được hoàn tất.
Chén chúc tụng mà chúng ta chia sẻ là Máu Chúa Kitô, lưu chuyển
trong Giáo Hội, mang lại sự sống thần linh. Bánh mà chúng ta bẻ
ra là Mình Chúa Kitô, được hiến dâng vì phần rỗi của mỗi chi
thể.
Huấn thị Mầu Nhiệm Cứu
Độ nhấn mạnh: “Trong việc cử hành Bí tích Thánh Thể, các linh
mục có trách nhiệm lớn, vì các ngài chủ toạ in persona Christi,
đưa ra chứng từ và phục vụ sự hiệp thông không những đối với
cộng đoàn tham dự trực tiếp vào buổi cử hành, mà còn đối với Hội
Thánh toàn cầu, luôn luôn có liên hệ với Bí tích Thánh Thể.”
ĐTC Biển Đức cũng nhắc: “Bí Tích Thánh Thể là bí tích của sự
hiệp nhất của Hội Thánh, bởi vì tất cả chúng ta hiệp thành một
thân thể duy nhất của Hội Thánh mà Chúa là đầu.”
Chúng ta thật hạnh phúc
được dâng Thánh Lễ, nhờ đó chúng ta không ngừng nhận được sự
sống và hiệp nhất. Cử hành và lãnh nhận Thánh Thể là hiệp nhất
với Giáo Hội trên khắp thế giới. Nhờ Thánh Thể mà mọi người được
qui tụ lại trong một ngôi nhà đức tin. Sự hiệp nhất này là nguồn
mạch và bằng chứng hữu hiệu cho sứ vụ loan báo Tin Mừng của Hội
Thánh.
Nhờ việc cử hành thánh
lễ mỗi ngày,
chúng ta sẽ hiểu hơn sức mạnh biến đổi của Bí tích Thánh Thể và
tìm thấy nơi mầu nhiệm này sự can đảm và nguồn sức mạnh đi theo
Chúa Giêsu và phục vụ Ngài nơi tha nhân:
“Các tư tế nên luôn tâm
niệm rằng công cuộc cứu chuộc hằng được tiếp tục thi hành trong
mầu nhiệm Hy Tế Thánh Thể; do đó, họ nên siêng năng dâng lễ, hơn
nữa, rất đáng mong ước các tư tế dâng lễ mỗi ngày, cả khi các
tín hữu không thể hiện diện, bởi lẽ Thánh Lễ là tác động của Đức
Kitô và của Giáo Hội, chính khi cử hành Thánh Lễ mà các tư tế
chu toàn nhiệm vụ chính chính yếu của mình”
Chúng ta sẽ kín múc dồi
dào nguồn sức mạnh này từ Bí tích Thánh Thể, được cử hành trong
thánh lễ mỗi ngày và được tôn thờ nơi Nhà Chầu mỗi khi đến viếng
Mình Thánh Chúa,
như chính Chúa Giêsu mời gọi “hãy đến với Ta, hỡi những ai đang
vất vả và gánh nặng, Ta sẽ nâng đỡ và bổ sức cho các ngươi” (Mt
11,28). “Chính ở bên cạnh Chúa mà Linh Mục tìm được sức mạnh và
phương thế đem ta đến gần Thiên Chúa, khơi dậy đức tin và thúc
đẩy hành động và chia sẻ.”*
Chúa Giêsu Thánh Thể sẽ
nạp lại năng lượng và tăng thêm nhiệt huyết tông đồ cho chúng
ta, bằng việc tiếp tục kích hoạt ngày sống và đổ đầy chúng ta
với niềm hy vọng vững chắc.*
“Cha xứ phải chăm lo sao cho Bí tích Thánh Thể trở thành trung
tâm của cộng đoàn giáo xứ; ngài phải cố gắng làm cho tín hữu
được dẫn dắt và nuôi dưỡng bởi việc cử hành sốt sắng các bí tích
và đặc biệt làm cho tín hữu thường xuyên đến với Bí tích Thánh
Thể và Bí tích Thống Hối”
Bí tích Thánh Thể là dấu
chỉ thường hằng của tình yêu Thiên Chúa, một tình yêu đỡ nâng
hành trình của chúng ta tiến về hiệp thông trọn vẹn với Chúa
Cha, qua Chúa Con, trong Chúa Thánh Thần. Đây là thứ tình yêu
vượt thắng tình yêu nhân loại của trái tim con người, dù nó tự
nhiên và hấp dẫn đến đâu.
Chính việc tôn thờ Thánh
Thể nơi Nhà Tạm mà ta phục hồi và nạp thêm năng lượng cho đời
sống thiêng liêng và sứ vụ linh mục, như Chúa Giêsu mời gọi và
Giáo Hội hằng nhắc nhở.
Ai trong chúng ta đã không có hơn một lần trải nghiệm những gánh
nặng mục vụ và những thách đố trăn trở và yếu đuối cá nhân?
Thánh Phêrô khuyên: “Trong khi cầu nguyện, anh em hãy trao trút
nỗi lòng anh em cho Chúa, vì Ngài hằng thương yêu chăm sóc đến
anh em” (1 Pr 5,7).
Đó cũng là lý do tại sao
Đức Gioan Phaolô II đã mở ra “Năm Thánh Thể” với ước mong rằng
Hội Thánh được “khởi đầu lại từ Chúa Kitô.” Ngài chia sẻ với cảm
xúc sâu xa chứng tá đức tin của chính ngài nơi Bí Tích Thánh Thể
như là phương tiện đồng hành và tăng sức mạnh: “Từ hơn nữa thế
kỷ nay, từ ngày 2.11.1946, lúc tôi dâng thánh lễ đầu tiên dưới
tầng hầm thánh Leonard của nhà thờ chính tòa Cracovie, hằng
ngày đôi mắt tôi chăm nhìn vào Mình Thánh và Chén Thánh, thời
gian và không gian như cô đọng lại và thảm kịch đồi Golgota được
tái hiện với sức mạnh, như đương xảy ra cách nhiệm mầu. Mỗi
ngày, đức tin cho phép tôi nhận ra trong bánh và rượu đã được
truyền phép Vị Lữ Hành Thần Linh ngày nọ đã đi đường với hai môn
đệ Emau để mở mắt họ ra với ánh sáng và mở lòng họ ra với niềm
hy vọng.”
2. Thánh Lễ tái hiện Hy
tế Thập Giá
Mẹ của thánh Gioan Bosco
đã nói với ngài khi ngài mới chịu chức linh mục: “Khi con bắt
đầu bước lên bàn thánh tế lễ là con bắt đầu con đường thập giá.”
Chúa Giêsu đã mời gọi chúng ta vác thập giá mà theo Ngài: “Ai
muốn theo Thầy, hãy từ bỏ chính mình, vác lấy thập giá của mình
mà theo Thầy…” (Mt 16,24). Linh mục, Thánh Thể và Thánh giá luôn
liên kết chặt chẻ với nhau. Linh mục đứng giữa bàn thờ và thánh
giá: Thánh lễ tái hiện hy tế thập giá.
Cùng với Chúa Giêsu,
linh mục (in persona Christi) vừa là tư tế vừa là của lễ. Cuộc
sống và sứ vụ linh mục tìm được sức mạnh tình yêu từ Thánh Thể
và thập giá Chúa Giêsu, vì chính từ thập giá mà tình yêu lớn
nhất đã được bộc lộ: “Không ai có tình yêu lớn hơn tình yêu của
người đã chết cho người mình thương.”
Là linh mục, chúng ta được mời gọi cách đặc biệt rảo qua con
đường thập giá này. Mỗi ngày chúng ta dấn sâu vào mầu nhiệm thập
giá, mầu nhiệm của hy tế, dù lắm khi thập giá dường như quá nặng
và chúng ta muốn qụy ngã. Nhưng mầu nhiệm thập giá không được
hoàn tất bởi cái chết, song bởi đời sống mới của sự sống lại.
Suốt dòng lịch sử, Giáo
Hội hầu như luôn luôn bước đi trên con đường hy tế thập giá này.
Nhiều nhà truyền giáo đã tiến bước suốt nhiều năm hướng về
Golgotha, vác lấy thập giá hy sinh và bách hại. Nhiều người
trong chúng ta cũng đã trèo lên con đường dốc đứng đó, dưới
nhiều hình thức và mức độ khác nhau, và hiện nay vẫn tiếp tục
vác thập giá mà đi. Con đường thập giá của chúng ta vẫn kéo dài
mãi. Những người bách hại còn đó hay đã qua đi, hoặc đã thay
đổi, nhưng thập giá vẫn không thay đổi và vẫn đè nặng trên vai
chúng ta.
Lắm lần chúng ta dường
như bị oằn xuống dưới sức nặng của thập giá. Ngày xưa ông Simon
đã giúp Chúa Giêsu vác thập giá, thì ngày nay chính Chúa chịu
đóng đinh và sống lại đang đồng hành giúp chúng ta vác thập giá
của chúng ta. Đau khổ của chúng ta là đau khổ của Ngài, hy tế
của chúng ta là hy tế của Ngài. Chúa Giêsu thấu hiểu những yếu
đuối của chúng ta, những thất bại của chúng ta, những cảm giác
ngã lòng, những mệt mỏi, lo sợ và cô đơn của chúng ta, vì chính
Ngài cũng đã trải nghiệm những khó khăn này.
Đường thập giá của Chúa
Giêsu đã là con đường đầu tiên, nhưng không phải là con đường
cuối cùng, vì còn chúng ta và bao nhiêu tâm hồn tận hiến đang
theo Ngài đến tận cùng trong con đường thập giá của Ngài. Giáo
Hội đã không quên con đường thập giá. Giáo Hội không bao giờ che
giấu thập giá. Thập giá vẫn luôn có mặt trong Phụng vụ: Giáo Hội
tán dương và suy tôn thập giá. Thập giá không chỉ là gánh nặng,
nhưng phải được xem là cây gậy nâng đỡ. Cuộc sống linh mục càng
cắm rễ sâu vào thập giá càng sinh nhiều hoa quả. Vào mọi thời và
ở mọi nơi, bao nhiêu người vẫn không ngừng hăm hở đến với thập
giá, chiêm ngắm thập giá, yêu mến thập giá.
Đường thập giá là trường
dạy chúng ta sống. Chúa Giêsu ngã xuống rồi lại chỗi dậy và tiếp
tục đi. Ngài chịu đựng nỗi cô đơn. Ngài chịu hành hạ và lăng
nhục, nhưng Ngài luôn tha thứ. Đường thập giá là trường dạy sống
thánh. Trên con đường thập giá, Mẹ Maria đã đi theo Con Mẹ. Mẹ
bước đi trong thinh lặng. Cái nhìn của hai Mẹ Con bắt gặp nhau;
hai Mẹ Con nhìn nhau tận trong sâu thẳm tâm hồn. Mẹ và Con kết
hiệp với nhau bởi tình yêu bao la, sâu thẳm và trong trắng. Tình
yêu này sẽ làm thế giới thay đổi. Xin cho chúng ta được thấm
nhuần tình yêu của Chúa và tình yêu của Mẹ Chúa, cũng là mẹ của
chúng ta.
Mẹ đã đứng kề thập giá
Chúa Giêsu. Mẹ cũng luôn đứng kề thập giá cuộc đời và sứ vụ linh
mục của chúng ta. Chúng ta hình dung dường như đang đứng ở trên
đỉnh đồi Golgotha, dưới chân thập giá, nơi đã và đang mãi mãi
tập trung sức mạnh lớn nhất của thế giới: tình yêu của Thiên
Chúa trong con người của Con Ngài, Chúa Giêsu Kitô (x. Ga 3,16).
Tình yêu này của Thiên Chúa không bao giờ cạn kiệt, không bao
giờ thôi là sức mạnh cứu độ của thế giới.
Bằng những lời “Lạy Cha,
con xin phó linh hồn con trong tay Cha”, Chúa Giêsu dâng lên
Chúa Cha đời sống mình làm hy tế. Và hy tế của Ngài đã được chấp
nhận. Là linh mục, chúng ta cũng trao phó cuộc đời chúng ta
trong tay Chúa Cha cùng với Chúa Giêsu. Hy tế của Ngài trên thập
giá là một sức mạnh bao la cho thế giới. Sức mạnh đó được gìn
giữ trong Giáo Hội bởi Bí tích Thánh Thể, trung tâm tình yêu ở
dưới thế gian này. Chúng ta cử hành Thánh Lễ như một sức mạnh
không thể cạn kiệt của tình yêu.
Chúng ta trèo lên con
đường thập giá đến tận đỉnh đồi Golgotha, đến tận Chúa Kitô, một
Chúa Kitô toàn thể vừa với thập giá và mão gai trên đồi
Golgotha, vừa với vinh quang trên núi Tabôrê và chiến thắng phục
sinh vinh hiển. Sứ mạng linh mục của chúng ta là hướng dẫn những
con người phải đau khổ vì đối nghịch và hận thù để họ không quay
lưng lại với nhau, nhưng nhìn vào mắt nhau trong sự cảm thông
tương hổ.
Với rất nhiều người
trong chúng ta, bao nhiêu thời gian đã qua đi từ ngày chúng ta
chịu chức linh mục và bao nhiêu sự đã thay đổi: tuổi tác, tình
trạng sức khỏe, và kinh nghiệm thập giá, thử thách, đau khổ...
Nhưng trong thâm sâu, chẳng có gì thay đổi: Chúng ta vẫn là linh
mục của Chúa và của Giáo Hội. Là linh mục, chúng ta phải luôn
được hướng dẫn bởi đức tin và tình yêu, và phải luôn sống sứ vụ
ấy với cùng một niềm tín thác.
Mẹ Maria đã theo Chúa
Giêsu trên đường núi Sọ, xin Mẹ luôn đồng hành với chúng ta. Một
người mẹ đã nói với con mình rằng: “Dù con lớn bao nhiêu tuổi,
con vẫn là con của Mẹ; dù con có đi tới cùng trời cuối đất, thì
lòng Mẹ vẫn hằng theo con.” Chớ gì chúng ta luôn cảm nhận sâu
sắc Mẹ Maria luôn đồng hành với chúng ta, luôn đứng bên thập giá
của chúng ta và che chở chúng ta.
Kết luận:
Thánh lỄ cuỘc đỜi vẪn
kéo dài
Việc cử hành Thánh lễ
kết thúc, nhưng việc sống Thánh Thể vẫn tiếp tục trong cuộc đời:
“Lễ xong, chúc anh chị em ra đi bình an.” Ra đi để sống mầu
nhiệm vừa cử hành, để đem yêu thương cho mọi người.
ĐTC Biển Đức XVI dạy:
“Thánh Thể không tách xa chúng ta khỏi những người đương thời
với chúng ta; ngược lại, bởi vì Thánh Thể là cách diễn tả hay
nhất của tình yêu Thiên Chúa, nó mời gọi chúng ta cộng tác với
tất cả anh chị em mình để đương đầu với những thách đố hiện tại
và làm cho hành tinh này thành một nơi tốt đẹp để sống.”
Và ĐHY Francis Arinze,
Bộ Trưởng Bộ Phụng Tự và Bí Tích, đã nói trong lễ bế mạc Năm
Thánh Thể 49 (năm 2008) tại Canada rằng “Bí Tích Thánh Thể sai
chúng ta đi để bày tỏ tình yêu và tình đoàn kết với anh chị em
đang thiếu thốn của chúng ta. […] Chúng ta cũng được sai đi để
an ủi những người đang sầu khổ, để giúp giải phóng những người
đang làm nô lệ, kể cả các nạn nhân của những hình thức đàn áp về
phái tính, chủng tộc hoặc những hình thức đàn áp khác, để đem hy
vọng đến cho những trẻ bụi đường, và giúp nâng cao các dân chưa
được phát triển lên một mức độ xứng hợp với sự hiện hữu của con
người, nhất là những người đang đói khát và thiếu thốn về tinh
thần: Họ đang đói khát Lời Thiên Chúa, đói khát Tin Mừng giải
phóng của Chúa Giêsu Kitô, cho nên việc truyền giáo, dạy Giáo Lý
dưới nhiều hình thức cùng việc dẫn đưa người ta đến với Hội
Thánh và các bí tích là những cách bày tỏ cần thiết của tình yêu
thương tha nhân.”
Để được vậy, xin Chúa
ban cho chúng ta, nhờ lời cầu bàu của Mẹ Maria và thánh quan
thầy Gioan Maria Vianey, được ơn dâng lễ mỗi ngày thật sốt sắng
như thánh lễ đầu tiên và cũng là thánh lễ cuối cùng của cuộc đời
chúng ta. Amen
Lm.
Micae-Phaolô Trần Minh Huy pss |
VỀ MỤC LỤC |
|
BỆNH THƯỜNG THẤY Ở MẮT
|
Các phần chính của
nhãn cầu là thủy tinh thể, giác mạc, võng mạc. Các bộ phận này
và nhãn cầu có thể bị tổn thương, thay đổi, đưa tới suy giảm
hoặc mất thị lực.
Xin cùng tìm hiểu.
Thủy Tinh Thể
1. Cấu tạo
Thủy tinh thể
(lens) là bộ phận quan trọng tiếp nhận và hội tụ ánh sáng hình
ảnh lên võng mạc (retina).
Ðây là một cấu trúc
hai mặt lồi (convex), trong suốt, gồm có nước và chất đạm, nằm
ngay phía sau giác mạc và đồng tử.
Về cấu tạo, thủy
tinh thể có một màng bọc, dưới đó là phần cùi, ở giữa là nhân.
Cấu trúc này tương tự như một quả mận với vỏ, cùi và hột mận.
Vì có tính cách đàn
hồi nên thủy tinh thể có thể thay đổi độ cong để mắt nhìn rõ
được sự vật ở xa hoặc ở gần.
Tinh thể dẹp xuống
khi tập trung vào vật ở xa và hình ảnh vật đó thấy nhỏ. Tinh thể
dầy lên để tập trung vào vật ở gần, vật nhìn thấy to. Ðó là sự
điều tiết của mắt. Khả năng này hoàn toàn tự động, con người
không điều khiển được.
Ở người dưới 40
tuổi, tinh thể mềm, dễ thay đổi hình dạng, nhờ đó ta có thể tập
trung nhìn sự vật xa gần khác nhau.
Với người từ 40
tuổi trở lên, tinh thể mất dần tính đàn hồi, kém khả năng tăng
độ cong, khiến cho việc nhìn vật ở gần khó khăn. Đó là sự lão
thị (presbyopia), các vị này phải đưa vật ra xa tầm mắt hơn một
chút hoặc phải đeo kính lão để điều chỉnh.
Bệnh thường xảy ra
ở thủy tinh thể là đục mờ.
2. Nguyên nhân gây ra đục thủy
tinh thể
Thực ra, đục thủy
tinh thể hoặc Cườm mắt(cataract) không phải là một bệnh mà là
hậu quả một thay đổi bình thường của sự hóa già. Ở tuổi trẻ,
thủy tinh thể cũng có thể bị đục vì chấn thương hoặc do bẩm
sinh.
Mới đầu, thủy tinh
thể hơi mờ đục và chuyển dần từ mầu trắng sang mầu vàng hoặc
nâu. Ánh sáng vào mắt sẽ giảm đi, hình ảnh trên võng mạc không
rõ và biến dạng, lâu ngày đưa tới giảm thị lực.
Mổi thành phần của
TTT có thể đục mờ riêng rẽ.
Với tuổi già, phần
nhân bị mờ nhiều hơn. Tiểu đường mờ phần cùi hoặc vỏ. Cận thị
nặng hoặc dùng thuốc cortisone lâu ngày thường hay bị đục ở vỏ.
Ngoài hậu quả của
sự lão hóa, đục thủy tinh thể còn thấy trong các trường hợp như
khi mắt bị chấn thương, hút nhiều thuốc lá, uống nhiều rượu, do
tác dụng của một số dược phẩm như thuốc lợi tiểu, cortisone,
thuốc an thần, ô nhiễm môi trường, hóa chất độc hại, tia tử
ngoại của ánh sáng mặt trời quá mạnh, sống trên cao với ít oxy,
hậu quả của một vài bệnh như tiểu đường, cao huyết áp, cao
cholesterol, mập phì.
Một số trẻ em sanh
ra đã bị đục thủy tinh thể.
Đục thủy tinh thể
đưa tới khó khăn nhìn giống như nhìn qua cặp mắt kính phủ sương
mù. Bệnh nhân không nhìn rõ khi có quá ít hoặc quá nhiều ánh
sáng, không coi được TV, khó khăn lái xe, dễ gặp tai nạn. Muốn
đọc sách báo, họ phải mang kính phóng đại (magnifying glasses).
Hậu quả là người đó ngại ngùng không muốn đi đâu và mất sự tự
chủ, độc lập.
3. Điều trị
May mắn là hiện nay
nhờ có vi phẫu thuật mà thị giác của người đục thủy tinh thể đã
được phục hồi.
Trước đây, kỹ thuật
mổ đòi hỏi cườm phải “già” cứng (ripen hoặc mature) để được dễ
dàng “múc” ra, khiến cho người bệnh phải đợi một thời gian với
kém thị giác.
Thực ra, sự “chín”
của TTH không quan trọng bằng chính khó khăn mà người bệnh cảm
thấy.
Trước khi mổ, họ có
thể thay cặp kính mới hoặc dùng kính lúp. Khi nào thị giác kém
hẳn, gây ra trở ngại cho các sinh hoạt hàng ngày thì mổ cũng
chưa muộn.
Phẫu thuật được làm
ngay tại phòng mạch bác sĩ chuyên về nhãn khoa và bệnh nhân có
thể về nhà sau khi giải phẫu hoàn tất mỹ mãn.
Thường thì không
cần đánh thuốc mê mà cần chích chút thuốc tê nơi mắt hoặc nhỏ
mắt với mấy giọt thuốc tê và uống vài viên thuốc an thần.
Thủy tinh thể có
thể “múc” ra trọn bộ với vỏ, cùi và nhân hoặc để vỏ lại, chỉ lấy
cùi và nhân. Rồi thay thế bằng TTH nhân tạo làm bằng chất
silicone hoặc acrylic.
TTH nhân tạo rất
mềm, bẻ cong được, nên chỉ cần rạch vài ba mili mét là đủ để
thay TTH mới. Vết mổ nhỏ, tự lành, đôi khi không cần khâu
Theo thống kê, tỷ
lệ thành công của vi phẫu thuật thay thủy tinh thể nhân tạo rất
cao, lên tới 97%.
Sau khi mổ, nhiều
bệnh nhân rất thỏa mãn, nói mắt sáng như đèn pha ô tô, nhìn rõ
ràng mọi sự vật với mầu sắc đấy đủ. Họ trở nên tự tin, yêu đời
hơn.
Sau khi mổ, một số
bệnh nhân vẫn phải mang kính lão để đọc chữ hoặc kính hai tròng
để nhìn vật ở xa.
Tuy nhiên đôi khi
một số rủi ro hậu giải phẫu có thể xẩy ra như nhiễm trùng, chẩy
máu, sưng phù giác mạc, cao áp xuất trong mắt và bong võng mạc
đặc biệt là ở người cận thị. Phẫu thuật gia đều có sẵn các
phương thức để chấn chỉnh các rủi ro này.
Sau giải phẫu về,
nên giữ gìn mắt theo hướng dẫn của bác sĩ, tránh làm việc nặng
trong vài ngày.
Giác mạc
Giác mạc (cornea)
là phần hình tròn phía trước của nhãn cầu, do các tế bào trong
suốt tạo thành.
Giác mạc có khả
năng tái tạo rất mau mặc dù không có mạch máu và rất nhậy cảm
với sự đau đớn. Đây là bộ phận chính để bảo vệ mắt và để tiếp
thu ánh sáng, đưa qua đồng tử.
Phủ lên giác mạc là
kết mạc (conjunctiva) trong suốt, có rất ít mạch máu.
Sau đây là một số
bệnh của giác mạc:
1. Viêm kết mạc (Conjunctivitis)
Mắt bị kích thích
và đỏ (Pink eye).
Tác nhân gây bệnh
thường thấy là những virus tương tự virus trong bệnh cảm lạnh
vì thế nhiều người có dấu hiệu của bệnh này. Đôi khi vi khuẩn
cũng gây ra viêm giác mạc.
Viêm giác mạc rất
hay lây qua sự dùng chung các dụng cụ liên hệ tới mắt như khăn
mặt, đồ trang điểm hoặc khi dụi tay lên mắt đang đau. Vì thế,
rửa tay thường xuyên và không dụi mắt là phương pháp hữu hiệu để
phòng tránh lây lan viêm mắt.
Viêm kết mạc do
virus tự lành sau mấy ngày. Thuốc nhỏ mắt được dùng khi mắt cảm
thấy cộm, ngứa.
Viêm do vi khuẩn
được điều trị bằng thuốc nhỏ mắt có kháng sinh và cần được bác
sĩ xác định trước khi dùng.
2. Trầy giác mạc
Đa số nguyên nhân
của trầy giác mạc là do móng tay, tờ giấy vô tình đụng vào hoặc
do vật lạ bắn vào mắt.
Vết thương trên
giác mạc dù nhỏ cũng rất đau vì giác mạc có nhiều dây thần kinh
cảm giác.
Nều chẳng may bị
thương tích này, nên đi khám chữa ngay.
Bác sĩ có thể nhỏ
một giọt thuốc gây tê vào mắt để lấy vật lạ ra, nhỏ thuốc kháng
sinh để tránh nhiễm trùng rồi băng lại để vết thương mau lành.
3. Đục mờ giác mạc
Bình thường giác
mạc trong suốt nhưng có thể trở nên mờ đuc vì:
- Bị thương tích
chấn thương để lại vết sẹo
- Bị nhiễm virus,
vi khuẩn hoặc nấm khiến cho giác mạc bị trầy.
- Thay đổi hình
dạng của giác mạc khiến cho sự vật trở thành méo mó
- Tật bẩm sinh của
giác mạc.
Khi giác mạc mờ,
ánh sáng sẽ không vào mắt được và thị lực giảm hoặc mất hẳn.
Phẫu thuật hoặc tia
laser có thể tẩy vết sẹo trên giác mạc, nhưng khi tổn thương quá
rộng và sâu, giác mạc có thể được thay ghép.
Kỹ thuật ghép giác
mạc hiện nay đang rất phổ biến.
Tế bào giác mạc
dùng trong phẫu thuật ghép là do các nhà hảo tâm hứa tặng và
được lấy trong vòng 6 giờ sau khi họ lâm chung. Tế bào được cất
giữ trong ngân hàng giác mạc, được khám nghiệm coi có bị nhiễm
các bệnh như HIV, viêm gan hoặc bất thường nào khác.
Ghép giác mạc được
thực hiện đầu tiên vào năm 1905 khi bác sĩ Edward Zirum lấy giác
mạc của một em bé 11 tuổi bị thương tích một mắt và ghép cho một
nạn nhân hư giác mạc vì phỏng hóa chất.
Phẫu thuật có vẻ
rất giản dị nhưng cần được các bác sĩ có kinh nghiệm thực hiện.
Bệnh nhân được gây
tê tại mắt hoặc gây mê tổng quát tùy từng trường hợp. Phần giác
mạc đục được lấy ra và thay thế bằng giác mạc người cho.
Mắt được băng kín
cho tới ngày hôm sau tái khám. Thuốc nhỏ mắt được dùng mỗi
ngàyđể phòng tránh nhiễm trùng và phản ứng bác bỏ “reject” tế
bào lạ trong mấy tuần lễ.
Thường thường, cần
thời gian từ 4 tới 6 tháng để giác mạc mới ổn định và thị giác
phục hồi lần lần.
Ghép giác mạc cũng
có một vài biến chứng như chẩy máu, nhiễm trùng, phù sưng võng
mạc đôi khi không phục hồi được thị giác.
Cần thảo luận kỹ
càng lợi hại với bác sĩ trước khi ghép giác mạc vì chi phí cũng
khá cao.
Võng
mạc
Võng mạc (retina)
là lớp tế bào nhậy cảm với ánh sáng, lót phía trong mắt.
Ðây là cấu trúc
căn bản của cặp mắt, có công dụng như tấm phim của máy ảnh để
thu nhận và ghi lại cả muôn vàn hình ảnh, tĩnh cũng như động,
suốt ngày này qua tháng khác mà không cần thay phim như trong
máy ảnh…
Trên võng mạc có
những tế bào hình nón, hình que chuyển ánh sáng từ bên ngoài vào
thành những tín hiệu điện năng, được dây thần kinh thị giác đưa
lên não bộ. Tế bào não phân tích, tổng hợp các tín hiệu và tạo
ra hình ảnh của sự vật.
Bệnh của võng mạc
có thể là:
1- Bong võng mạc
Đây là một bệnh rất
hiểm nghèo nhưng may mắn là rất hiếm khi xảy ra.
Nguyên do thông
thường là võng mạc bị rách, thủng lỗ. Dịch pha lê ở phòng trước
võng mạc chảy vào mặt sau của võng mạc, làm cho mô bào này bong
ra.
Bệnh thấy ở mọi lứa
tuổi, đặc biết là người cận thị từ 25-50 tuổi và người già sau
khi giải phẫu đục thủy tinh thể.
Bong võng mạc cũng
thấy khi mắt bị chấn thương, bị viêm mắt, trong bệnh tiểu đường
hoặc do di truyền.
Bệnh nhân thấy có
nhiều vật nhỏ bay lượn trong mắt (ruồi bay trong mắt), lâu ngày
đưa tới giảm thị lực.
Bong võng mạc được
điều trị bằng phẫu thuật để dán võng mạc trở lại.
Phẫu thuật rất tinh
vi, không cần mổ con mắt mà dùng tia laser, liệu pháp lạnh
(cryotherapy) hoặc phép thấu nhiệt (diathermy). Tinh vi hơn nữa
là thay thế dịch pha lê bằng một loại chất hơi (gas) để đưa võng
mạc về vị trí nguyên thủy.
Các phương pháp này
có tỷ lệ thành công khá cao là 80%.
2. Mù mầu sắc
Trên võng mạc có
những tế bào hình que nẳm ở chung quanh võng mạc để nhìn sự vật
vào ban đêm và các tế bào hình chóp nằm ở giữa để nhìn mâu sắc
vào ban ngày.
Nhiều người cho
rằng khi bị mù mấu sắc là chỉ nhìn được mầu đen và trắng. Thực
ra không phải vậy. Người mù màu sắc thường có khó khăn nhận ra
từng màu căn bản là đỏ, xanh lá cây (green) và xanh da trời
(blue).
Mù màu sắc là bệnh
không chữa trị được và không biết rõ nguyên nhân.
Bệnh có tính cách
di truyền, xảy ra từ khi mới sanh và thấy ở nam giới nhiều hơn
nữ giới. Một người nam bị mù màu sắc thừa hưởng khiếm khuyết từ
người mẹ. Bà mẹ nhìn màu sắc bình thường và mang gen khiếm
khuyết màu.
Vì không chữa được
và vì chỉ là một khiếm khuyết với vài màu sắc, nên bệnh nhân
thường thích nghi với khiếm khuyết của mình và có đời sống bình
thường.
Bệnh cao áp nhãn
Cao áp nhãn
(Glaucoma) là bệnh trong đó áp xuất trong nhãn cầu tăng rất cao.
ĐỂ hiểu rõ bệnh này, có thể ví dụ như sau.
Trong một bồn tắm,
nếu ta mở vòi nước vào bồn đồng thời mở ống thoát nước dơ, nước
sẽ chảy ra ngoài. Nếu ta khóa ống nước dơ, nước sẽ dâng cao
trong bồn tắm. Bây giờ nếu ta bịt kín mặt bồn tắm với miếng vải
nhựa và tiếp tục mở nước vào thì tấm vải nhựa sẽ căng phồng, vì
sức ép của nước không lối thoát.
Cao áp nhãn cững
tương tự. Mắt luôn luôn sản xuất dung dịch chất lỏng vào nhãn
cầu và được đưa ra ngoài theo ông nhỏ nằm giữa iris và giác mạc
cornea. Nếu ống tắc, chất lỏng sẽ tích lũy trong mắt và đưa tới
bệnh cao áp xuất của mắt. Hậu quả là mạch máu bị đè dẹp, giảm
máu nuôi võng mạc và dây thần kinh mắt, thị giác suy giảm, có
thể trở thành mù.
Cao áp nhãn có thể
cấp tính hoặc mãn tính.
a- Cấp tính hoặc cao- áp- nhãn- đóng khi áp
xuất tăng đột ngột và nhanh vì ống thoát chất lỏng bị tắc nghẽn
bất thình lình.
Bệnh tuy hiếm,
thường thấy ở người tuổi cao với viễn thị nhưng là một cấp cứu.
Nếu không điều trị trong vòng 48 giờ, dây thần kinh mắt sẽ bị
hủy hoại và mất thị giác ở mắt đó.
Điều trị khá giản
dị: bác sĩ dùng tia laser để thông ống nghẹt là thị giác trở lại
bình thường.
b- Cao áp nhãn mãn
tính xảy ra từ từ hơn, có khi cả vài năm, đôi khi không có triệu
chứng, nhưng không kém phần nguy hiểm. Do đó, từ tuổi 40 trở
lên, nên đi khám mắt mỗi 1 hoặc 2 năm để bác sĩ đo áp xuất mắt.
Bệnh được chữa trị
bằng thuốc nhỏ mắt hoặc thuốc uống để giảm áp xuất. Nếu không có
kết quả, có thể giải phẫu hoặc dùng tia laser để điều trị.
Ruồi bay trước mắt
Nhiều người thấy
như có mấy con ruồi bay qua lại ở trước mắt, nhất là khi nhìn
vào một nền sáng trắng, như vào một bức trường hoặc bầu trời
trong xanh. Nguyên do gây bệnh là sự hóa lỏng của dịch pha
lê(vitreous ) ở phía sau thủy tinh thể. Các sợi nhỏ của dịch
dính với nhau, tách rời võng mạc và bay nhảy trong mắt. Hiện
tượng này thường thấy ở người trên 40 tuổi, người cận thị, bị
chấn thương hoặc viêm mắt thoái hóa võng mạc ở tiểu đường hoặc
sau khi giải phẫu đục thủy tinh thể.
Thường thường, các
vật đó biến mất sau một thời gian dù không điều trị. Tuy nhiên,
nếu vật đó có quá nhiều và gây trở ngại cho thị lực thì nên đi
bác sĩ nhãn khoa để được điều trị, bằng dược phẩm hoặc phẫu
thuật.
Kết luận
Con mắt là cửa sổ
qua đó tâm hồn được quan sát, tìm hiểu. Đồng thời mắt cũng để
nhận diện sự vật chung quanh. Khi mắt đau, mắt mờ thì các khả
năng này mất đi. Con người rất dễ dàng rơi vào tình trạng lẻ
loi, cô đơn, mất tự chủ độc lập.
Cho nên, xin nâng
niu, giữ gìn, không quá lạm dụng cặp mắt.
Và đi khám bác sĩ
chuyên khoa ngay khi thấy có các thay đổi bất thường ở mắt.
Bác sĩ Nguyễn Ý-Đức M.D.
Texas-Hoa Kỳ
www.nguyenyduc.com
|
VỀ MỤC LỤC |
HƯ -
Chuyện phiếm của Gã Siêu |
Theo những nhận định về nam châm,
gã được biết :
- Khác cực thi hút nhau, đồng cực
thì đẩy nhau. Âm với dương thì hút nhau và ngược lại cũng vậy.
Còn dương với dương thì đẩy nhau và ngược lại cũng thế.
Trong lãnh vực con người, gã thấy
chẳng khác bao nhiêu :
- Nam với nam thì nhiều khi đánh
nhau phun cả máu đầu. Còn nam với nữ thì lôi cuốn lẫn nhau,
quyện lẫn vào nhau, như tục ngữ đã diễn tả :
- Trai thấy gái lạ, như quạ thấy
gà con.
Tuy nhiên, khi phe đờn bà con gái
ngồi lại với nhau, thì thường hay nói xấu và dí mũi vào cánh đờn
ông con trai. Và cánh đờn ông con trai, khi trà dư tửu hậu, cũng
thường hay bới móc và…chõ mõm vào chuyện đờn bà con gái.
Trong một tiệc nhậu lai rai, khi
các…”chiến hữu” bắt đầu tửu nhập ngôn xuất, một đấng mày râu đã
lớn tiếng so sánh :
- Nếu so sánh con gái với con
nai, ta thấy có những điểm khác nhau như sau :
Một là nai luôn ngơ ngác suốt cả
đời, còn con gái thì chỉ ngơ ngác mỗi khi cần ngơ ngác.
Hai là nai không bao giờ giả nai
cả, còn con gái thì nhiều lúc lại thích giả nai.
Ba là nai có sừng trên đầu, còn
con gái thì có sừng trong ánh mắt.
Bốn là nai luôn ăn cỏ, còn con
gái thì đôi lúc lại ăn cả thịt nai.
Năm là khi gặp tai nạn, nai biến
thành khô nai, còn con gái thì biến thành…mít ướt.
Sáu là nai nhảy tưng tưng trong
rừng, còn con gái thì nhảy tưng tưng trong…shop.
Một đấng tu mi khác đã so sanh sự
giống nhau giữa đờn bà và con cọp như sau :
- Một là cọp thì gầm, đờn bà
nhiều lúc cũng gầm.
Hai là cọp thì uyển chuyền, đờn
bà đôi khi cũng uyển chuyển.
Ba là cọp thì được gọi bằng ông
ba mươi, còn đờn bà lắm khi được gọi là…sư tử Hà Đông.
Bốn là cọp rất oai phong, còn đờn
bà cũng rất lẫm liệt, chẳng thế mà người xưa đã bảo : nhất vợ
nhì giời, lệnh ông không bằng cồng bà.
Năm là cọp rất quan tâm tới móng
vuốt, còn đờn bà cũng rất quan tâm tới móng chân móng tay.
Sáu là cọp nổi tiếng về da, đờn
bà cũng chăm chút về làn da cùng với áo quần của mình.
Bảy là cọp đôi khi chỉ vồ chứ
không ăn, đờn bà đôi khi chỉ yêu mà không lấy.
(Báo Phụ Nữ Chủ Nhật, số 8 ra
ngày 4.3.2007)
Giữa lúc bầu khí đang hồ hởi, thì
bỗng anh chàng chiến hữu, sắp sửa đi vào tình trạng ngắc ngư con
tàu đi, đã phát biểu một câu …xanh lè, khiến cho bàn dân thiên
hạ ngẩn tò te :
- Còn tớ ấy hả, tớ vừa mới khám
phá ra một chân lý, mới nghiệm một qui luật của muôn đời, đó là
: Đờn ông, muốn hư thì phải có tiền, còn đờn bà, muốn có tiền
thì phải…hư.
Câu nói trên đây đã làm cho gã đi
từ chỗ ngẩn tò te, đến chỗ cúi đầu và suy gẫm.
Dĩ nhiên, câu nói này không hoàn
toàn đúng “một chăm phần chăm đâu em ơi”, bởi vì nhiều ông có
tiền, được liệt vào hàng đại gia, giàu nứt đố đổ vách mà đâu có
hư, đồng thời cũng có nhiều bà đã kiếm được tiền bằng chính công
sức, mô hôi, nước mắt của mình và họ cũng chẳng bao giờ hư đốn
cả.
Tuy nhiên, câu nói trên cũng phản
ảnh phần nào sự thật, nhất là sự thật về một hạng người nào đó
trong xã hội Việt Nam ngày hôm nay. Gã xin…bình loạn thêm về câu
nói này.
TRƯỚC
HẾT, ĐỜN ÔNG MUỐN HƯ, THÌ PHẢI CÓ TIỀN.
Kinh nghiệm cho gã thấy : khi gặp
phải hoàn cảnh khó khăn, người ta dễ dàng đạo đức ăn ra, trái
lại khi khó khăn đã qua đi và hoàn cảnh trở nên tươi sáng hơn,
người ta trở về nếp sống cũ và lại khô khan nguội lạnh, nếu
không muốn nói là còn xấu xa hơn trước nữa.
Sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, đờn
ông con giai thì sợ phải đi tù và học tập cải tạo, còn đờn bà
con gái thì sợ phải đi lấy thương phế binh…”Viêt Cộng”, thành
thử người ta vội vã tới nhà thờ xưng tội rước lễ, như để dọn
mình chết lành vậy, nhà thờ lúc nào cũng đầy ắp những người.
Sau đó, những sinh hoạt tôn giáo
trong nước bị hạn chế tới múc tối đa : không còn các hội đoàn,
không còn các chủng viện, việc đi lại của các linh mục tu sĩ từ
nơi này tới nơi khác cũng khó khăn…Tuy nhiên, càng bị hạn chế,
càng gặp nhiều khó khăn, thì dường như người ta lại càng sốt
sắng hơn.
Còn bây giờ, chính sách của nhà
nước phần nào thông thoáng và hoàn cảnh cũng sáng sủa hơn, người
ta lao mình vào công ăn việc làm, người ta ra sức tìm tiền kiếm
bạc và dầu tư mọi công sức cho vấn đề cơm áo gạo tiền và làm
giàu đã trở thành nỗi ưu tư số một, hay cái lý tưởng sáng chói
cần phải thực hiện. Tôn giáo và đạo đức bị tụt hạng, nếu không
nói là đã bị một sô người…xếp xó.
Nước Mỹ, ngay sau biến cố 11.9
với tòa tháp đôi của Trung Tâm Thương Mại Quốc Tế bị sụp đổ tan
tành, thì dường như chỗ nào cũng dấy lên một phong trào đạo đức
: người ta thắp nến để cầu nguyện, người ta xác nhận lại niềm
tin vào Thượng Đế, người ta tôn vinh những hành động can đảm của
những người đã dám hy sinh mạng sống…Nhưng rồi những cảm tình
đạo đức này dần dần bị chìm vào quên lãng, khi người ta thấy
mình vẫn được sống trong bình an, đất nước mình vẫn liên tục
phát triển và bọn khủng bố chưa dám tái xuất giang hồ, sờ đến
gáy hay đá động tới quê hương mình.
Biến cố đau thương này, không
phải chỉ là như viên sỏi nhỏ, nhưng là như một tảng đá lớn ném
xuống mặt hồ, tạo được những chao đảo, những làn sóng trên làn
nước vốn đã từ lâu êm ả. Tuy nhiên, dù sóng có to, thì cũng sẽ
tới một lúc nào đó, tảng đá chìm xuống đáy nước và mặt hồ trở
lại với tình trạng phẳng lặng và yên tĩnh của mình.
Cùng với nhận định này, gã xin đi
xuống lãnh vực cá nhân và gia đình. Sách Cổ Học Tinh Hoa kể lại
rằng :
Vua Cảnh Công có cô con gái yêu,
muốn gả cho Án Tử. Một hôm nhà vua đến ăn tiệc tại nhà Án Tử,
thấy vợ Án Tử bèn hỏi :
- Phu nhân đấy phải không ?
Án Tử thưa :
- Vâng, phải ạ.
Nhà vua nói :
- Ôi, phu nhân trông sao vừa già
lại vừa xấu. Quả nhân có đứa con gái trẻ đẹp muốn cho về hầu,
khanh nghĩ sao ?
Án Tử đứng dậy thưa rằng :
- Nội tử tôi nay thật già và xấu,
nhưng lấy tôi và cùng tôi ăn ở đã lâu, kể từ lúc còn trẻ và đẹp.
Xưa nay đàn bà lấy chồng lúc trẻ cốt để nhờ cậy lúc già, lúc đẹp
lấy cốt để nhờ cậy lúc xấu. Nội tử tôi thường nhờ cậy tôi mà tôi
cũng đã nhận sự nhờ cậy ấy. Nay nhà vua tuy muốn ban ơn chắc
cũng không nỡ để cho tôi ăn ở bội bạc với những điều nội tử tôi
đã nhờ cậy bấy lâu nay.
Nói đoạn Án Tử lạy hai lạy, xin
từ không lấy.
Đọc xong mẩu chuyện này, hẳn có
nhiều người cho rằng : Án Tử sao mà khờ quá vậy, chẳng bù cho
những con người thời nay.
Thực vậy, có anh chàng “Hai Lúa”
được cha mẹ cho lên Saigon…du học. Trước khi khăn gói quả mướp
lên đường, anh ta đã thề độc thề địa với người yêu bé bỏng của
mình rằng :
- Nếu không lấy được em thì anh
sẽ chết. Em ráng chờ đợi anh nhé.
Và trong đầu óc đơn sơ của anh
chàng Hai Lúa này đã vẽ nên một cảnh tương huy hoàng như người
xưa đã diễn tả :
- Võng anh đi trước, võng nàng
theo sau.
Nhưng rồi sau khi đã khều được
mảnh bằng, anh chàng Hai Lúa năm nào đã trở thành dân Saigon
chính hiệu con nai vàng. Vì cần phải có hộ khẩu ở thành phố, vì
cần phải có ô dù che chắn trước sau, vì cần phải mở ra con đường
tiến thân, vì cần phải bảo đảm cho công danh sự nghiệp…nên anh
ta đã lấy một cô vợ mà nhà thì giàu, bố thì thế lực và quên
béng mất cô gái miền quê năm xửa năm xưa. Thật đúng với lời bàn
của tác giả Cổ Học Tinh Hoa :
“Ngán thay thói đời giàu hay quên
bạn, sang hay phụ vợ. Lắm kẻ lúc còn hàn vi, vợ nuôi cho ăn đi
học, một mai được chút tiền của, chức tước, đã phụ ngay vợ cũ mà
kiếm vợ mới, hoặc kiếm vào chỗ giàu, chỗ sang hay người trẻ tuổi
xinh đẹp hơn. Nhưng kẻ như thế dù viện lẽ gì, cũng chỉ là kẻ phụ
bạc cả mà thôi”.
Nhiều ông chồng, khi còn là “bần
cố nông”, khi còn nghèo túng, khố rách áo ôm, thì lại sống rất
chung thủy và hạnh phúc với vợ với con, thiếu điều như ca dao đã
từng diễn tả :
- Trên đồng cạn dưới đồng sâu,
Chồng cày, vợ cấy, con trâu đi
bừa.
- Râu tôm nấu với ruột bầu,
Chồng chan, vợ húp, gật đầu
khen ngon.
Thế nhưng, khi đã có một địa vị
với cái ghế ngồi khá vững chắc và nhất là khi đã có sẵn tiền
trong tay, thì bỗng quay phắt 180 độ và bị…hư đi. Dĩ nhiên ở đây
gã xin miễn bàn đến chuyện kiếm cho ra nhiều tiền, chẳng hạn như
: làm ăn chân chỉ hạt bột, điêu ngoa xảo trá hay tham nhũng hối
lộ…mà chỉ bàn tới việc tiêu tiền thế nào khiến cho mình chóng bị
hư đi.
Nếu kiếm được tiền mang về nuôi
vợ nuôi con, trang bị cho gia đình những tiện nghi thì chả cần
phải nói. Nhưng đàng này thì khác, kiếm được tiền và chi cho
những cuộc du hí riêng tư của mình, để rồi nhiều khi thân bại
danh liệt và gia đình đổ vỡ tan hoang.
Kinh nghiệm cũng cho thấy : có
tiền, người ta sẽ dễ dàng “rửng mỡ”, mà lao mình vào những cuộc
chơi bời trác táng. Hay nói cách khác, muốn chơi bời thỏa thích
thì phải có sẵn tiền trong túi.
Bình thường, sau một ngày lao
động mệt mỏi hay căng thẳng, khi chiều xuông, bè bạn thường rủ
nhau tới quán nhậu, làm một chầu để mở mang trí hóa, cũng như
giải bớt cơn sầu. Chẳng thế mà các tụ điểm ăn nhậu, các nhà hàng
cao cấp, các làng nướng cũng như các phố…chó, mọc lên như nấm ở
Saigon và ở khắp nơi trên đất nước này,. Còn thức uống thì đủ
loại từ rượu ta đến rượu tây, từ nước ngọt đến bia bọt, với các
thứ nhãn hiệu trình tòa, từ đẳng cấp địa phương cho tới đảng
cấp quốc tế, thôi thì…đủ cả.
Tuy nhiên, nếu chỉ nhậu tăng một,
thì dù có say một tí, cũng vẫn là chuyện thường ngày ở huyện.
Thế nhưng, người ta lại tiếp tục tăng hai và ở tăng hai này,
người ta nhậu ở đâu và nhậu như thế nào thì chỉ có ông trời mới
biết được mà thôi. Cũng vì tăng hai ấy mà người ta phải chi ra
không biết bao nhiêu tiền và cũng dễ bị hư đi.
Ngoài những người đã hư đi vì
chuyện ăn uống, thì trong thực tế, còn có người hư đi vì chuyện
hút sách. Khẩu hiệu được họ đưa ra, đó là :
- Có tiền làm tiên cũng được.
Nếu chỉ bắn thuốc lào, hay hút
thuốc lá, thì vẫn là những chuyện thường ngày ở huyện, nhưng
đàng này họ lại thích chơi những thứ hàng độc, như bạch phiến,
xì ke ma túy… Họ muốn làm bạn với nàng tiên nâu và bản thân muốn
được trở thành một…ông tiên, đi mây về gió. Giấc mơ phù du này
đòi phải chi những số tiền lớn và cũng chóng kết thúc bằng sự hư
đi.
Sau cùng, có tiền mua tiên cũng
được. Một số người lại thích cầm tiền đi mua những…cô tiên qua
những cuộc tình thầm lén và vụng trộm, những cuộc tình chớp
nhoáng và…ngoài luồng, bằng cách chơi bời trác táng hay đèo bòng
bồ nhí.
Có những ông gìa đang bước vào
cảnh hoàng hôn của cuộc đời, thế mà vẫn cứ anh dũng bỏ vợ trốn
con, bỏ tiền ra xây tổ ấm và trang bị những tiện nghi hiện đại
cho cô bồ nhí trẻ măng của mình, để rồi nhiều lúc đã phải chịu
nỗi đắng cay như ngậm bồ hòn trong miệng :
- Bắc thang lên hỏi ông trời,
Mang tiền cho gái, có đòi được
không ?
Có những ông ở nước ngoài về, đã
lợi dụng cái “mác” việt kiều, cũng như cái ưu thế của đồng đô
la, để rồi chơi bời vung vít và mua đứt không những một, mà có
khi cả hai ba cô gái trong nước làm vợ…hờ. Vừa đỡ tốn kém, vừa
được cưng chiều, lại vừa bảo đảm an toàn giữa thời buổi căn bệnh
HIV bùng nổ như một cơn ác mộng.
Từ những sự việc kể trên, gã có
thể kết luận : Đờn ông muốn hư thì phải có tiền. Chứ nghèo rớt
mồng tơi thì làm sao dám bước chân vào những nhà hàng cao cấp,
những chốn chơi bời du hí và dù có nằm mơ thì cũng chẳng thấy
được những người đẹp…chân dài.
TIẾP
ĐẾN, ĐỜN BÀ MUỐN CÓ TIỀN, THÌ PHẢI HƯ.
Sống trên đời, ai mà chẳng muốn
có được nhiều tiền. Nhưng để thực hiện ước muốn…hoành tráng này,
nhiều người đã cố gắng phấn đấu để vươn lên. Và họ trở thành
những người tốt lành, cũng như đã giúp ích cho gia đình và xã
hội.
Tuy nhiên, cũng có những kẻ đã
rơi tõm xuống vực thẳm tội lỗi và đã hư đi. Ở đây, gã chỉ xin
bàn đến phe đờn bà con gái đã hư đi vì muốn có nhiều tiền một
cách dễ dàng mà thôi. Gã xin tạm chia thành hai loại.
Loại thứ
nhất là vì hoàn cảnh.
Họ có thể là những cô gái nông
thôn, muốn thoát khỏi cảnh nghèo túng của miền quê bằng cách lên
thành phố tìm việc làm, vừa để đổi đời, vừa để kiếm tiền giúp đỡ
gia đình, nhưng rồi bị lừa gạt. Lúc đầu chỉ là phụ giúp bán cà
phê, rồi bị ép bán cà phê ôm và sau cùng là bán tất cả cái vốn
mình tự có.
Họ có thể là những sinh viên
nghèo, nhưng lại muốn theo đuổi việc học, vì thế ngoài những giờ
đến trường hay lên lớp, họ phải tìm việc làm để kiếm thêm chút
tiền còm, bù lỗ cho những chi phí của mình.
Những việc làm thêm này, chẳng
hạn như dạy kèm cho trẻ, bán hàng tại cửa tiệm, rửa chén bát cho
các nhà hàng…lắm lúc thật vất vả mà lương bổng, thù lao lại
chẳng bao nhiêu.
Vì thế, có những cô đã vào làm
trong quán cà phê đèn mờ, những vũ trường hay cam phận với kiếp
sống tầm gửi, làm vợ hờ, làm bồ nhi…Sở dĩ như vậy, vì những dịch
vụ này thu nhập vừa cao, lại vừa nhàn hạ. Và rồi từ đó bị trượt
chân, như viên bi lăn mãi lăn hoài cho tới tận cùng con dốc mới
thôi. Gã xin đưa ra một vài chứng từ sống động cho vấn đề này.
Để có tiền trang trải cho chuyện
ăn, chuyện ở và chuyện học, Hằng quyết định làm thêm công việc
tiếp thị bia vào ban đêm tại một quán nhậu. Vơi thân hình khá
bắt mắt của một cô gái đương thì, cộng với tính tình nhanh nhẹn
vui vẻ, Hằng nhanh chóng được lòng rất nhiều anh lẫn…”ông” nhậu
lui tới quán.
Trong số những khách hàng thường
xuyên uống bia ủng hộ cô, có Khánh, một dược sĩ 32 tuổi, chủ
nhân tiệm thuốc tây tọa lạc gần nơi Hằng tiếp thị bán bia mỗi
đêm. Sau vài lần gặp gỡ, trò chuyện, Hằng bằng lòng cho chàng
dược sĩ này đưa đón, đi ăn uống và về nhà trọ khi hết giờ làm
việc ở quán nhậu.
Chỉ sau một tháng đưa đón, Hằng
đã sẵn sàng ngã vào vòng tay của chàng dược sĩ, mà cô nghĩ có
thể bao bọc được cho mình trong những tháng ngày ăn học khó
khăn. Đúng như Hằng nghĩ, để tiện bề lui tới, Khánh thuê hẳn cho
Hằng một căn nhà nhỏ trong hẻm…
Tuy nhiên, sự cung phụng của
Khánh dành cho Hằng chỉ được một năm thì người thứ ba xuất hiện.
Đó là một ông nhà thầu xây dựng, cũng là bạn nhậu của Khánh. Ông
nhà thầu 42 tuổi này đã có vợ con đề huề. Sau vài lần gặp Hằng,
ông đâm ra “kết” cô.
Sau đó không lâu, đã diễn ra một
thỏa thuận rành mạch giữa ba người : Ông nhà thầu bỏ tiền ra cho
Hằng mướn nhà trọ và ăn học. Anh chàng dược sĩ cung phụng cho cô
mua sắm. Phần cô sinh viên Hằng tự chia lịch : 2-4-6 dành “tiếp
ông thầu”, còn 3-7-5 thì” đi chơi” cùng anh dược sĩ. Chủ nhật là
ngày cô được tự do…(Báo Phụ nữ Chủ nhật, số 7 ra ngày
19.2.2006).
Loại thứ
hai là vì đua đòi
Có những cô gái, đua đòi cách ăn
chơi của bè bạn, chạy theo những mốt áo quần hàng hiệu, theo
kiểu bóc ngắn cắn dài, vung tay quá trán, con nhà lính tính nhà
quan…vì thiếu tiền chi ra, nên sẵn sàng chấp nhận thân phận làm
bồ nhí, làm gái bao…
Thanh xuất thân trong một gia
đình khá giả. Thi đậu đại học. Bất chấp lời khuyên của những
người thân, Thanh dọn ra ở riêng trong một căn phòng cho thuê
khá tiện nghi. Không có sự kiểm soát của người thân, Thanh tự do
bay nhảy, đàn đúm.
Để có tiền ăn chơi, thanh không
ngần ngại cặp bồ với nhiều người đàn ông lớn tuổi nhưng có tiền.
Trong số các “đại gia” ấy, Thanh chọn ông Phát đã có vợ con,
nhưng lại là ông chủ cửa hàng kinh doanh xe gắn máy làm “bến đậu
lâu dài” vì mọi chi phí thuê nhà, sắm sửa đều được ông Phát chu
cấp hậu hĩ. (Báo Phụ nữ Chủ nhật, số 7, ra ngày 19.2.2006).
Có những cô gái khác vì cám dỗ
của đồng tiền, hay vì một cuộc sống buông thả, sẵn sàng đánh
đổi cả thân xác và không ngần ngại kinh doanh bằng cái vốn tự
có, bằng cái vẻ tươi mát trời cho.
Lúc ban đầu, có thể chỉ lâu mới
nhảy dù, tiếp khách một lần để có phương tiện tiếp tục nếp sống
chơi bời quậy phá của mình. Nhưng rồi thấy việc kiếm tiền bằng
phương cách này quá dễ dàng, nên bỗng trở thành chuyên nghiệp
lúc nào không hay.
Và khi hàng đã quá đát, thì chỉ
còn nước đứng ra ngoài vỉa hè và trở thành một loại bướm đêm, mà
thiên hạ vốn thường thấy bay lượn dọc theo những quãng đường
vắng hay tại những công viên, khi thành phố đã lên đèn.
Và cuối cùng, đờn ông cũng như
đờn bà, tất cả đều phải cúi đầu lãnh nhận một kết thúc đáng
buồn !!!
Gã Siêu
gasieu@gmail.com
|
VỀ MỤC LỤC |
|
- Mọi liên lạc: Ghi danh, thay đổi địa chỉ, đóng góp ý kiến,
bài vở..., xin gởi về địa chỉ
giaosivietnam@gmail.com
- Những nội dung sẽ được đề cao và chú ý bao gồm:
Trao đổi, chia sẻ những kinh nghiệm thực tế trong việc mục
vụ của Giáo sĩ; Những tài liệu của Giáo hội hoặc của các
Tác giả nhằm mục đích Thăng tiến đời sống Giáo sĩ; Cổ võ ơn
gọi Linh mục; Người Giáo dân tham gia công việc “Trợ lực
Giáo sĩ” bằng đời sống cầu nguyện và cộng tác trong mọi lãnh
vực; Mỗi Giáo dân phải là những “Linh mục” không có chức
Thánh; Đối thoại trong tinh thần Bác ái giữa Giáo dân và
Giáo sĩ… (Truyền giáo hay xây pháo đài?)
- Quy vị cũng có thể tham khảo những số báo đã phát hành tại
www.conggiaovietnam.net
Rất mong được sự cộng tác, hưởng ứng của tất cả Quí vị
Xin chân thành cám ơn tất cả anh chị em đã
sẵn lòng cộng tác với chúng tôi bằng nhiều cách thế khác
nhau.
TM. Đặc San Giáo Sĩ Việt Nam
Lm. Luca
Phạm Quốc Sử
USA
|
|
*************
|
|