Các Giám Mục Với Giáo Hội Phổ Quát |
Sắc Lệnh
Về Nhiệm Vụ Mục Vụ
Của Các Giám Mục Trong
Giáo Hội (Christus
Dominus)
Prepared for Internet by Vietnamese
Missionaries in Asia
Chương I
Các Giám Mục Với Giáo Hội Phổ Quát
I. Vai trò của Giám Mục với Giáo Hội
phổ quát
4. Quyền của Giám Mục đoàn.
Do bí tích tấn phong và do sự hiệp thông phẩm trật với vị Thủ
Lãnh cũng như với các thành phần trong cộng đoàn, các Giám Mục
trở nên những Thành Phần của Giám Mục Ðoàn
1. "Giám Mục Ðoàn kế vị cộng đoàn Tông Ðồ trong việc
giáo huấn và chăn dắt, chính trong Giám Mục Ðoàn mà cộng đoàn
Tông Ðồ được trường tồn. Hiệp nhất với Thủ Lãnh, tức Giáo Hoàng
Roma, và không bao giờ tách rời khỏi Thủ Lãnh ấy, Giám Mục Ðoàn
có quyền bính trọn vẹn và tối cao trên toàn thể Giáo Hội, nhưng
chỉ có thể thi hành quyền này khi có sự ưng thuận của Giáo Hoàng
Roma"
2. Thực vậy, quyền bính này "được thi hành cách trọng
thể trong Công Ðồng Chung"
3: do đó, Thánh Công Ðồng chế định mọi Giám Mục đều có
quyền tham dự Công Ðồng Chung vì là thành phần của Cộng Ðoàn
Giám Mục.
2*
"Hiệp nhất với Giáo Hoàng, các Giám Mục trên khắp thế giới còn
có thể thực hành quyền cộng đoàn ấy khi vị Thủ Lãnh cộng đoàn
mời gọi các Ngài cùng hành động cách cộng đoàn, hay ít ra khi
Ngài ưng thuận hoặc tự do chấp nhận hành động hiệp nhất của các
Giám Mục rải rác để làm cho nó trở thành một hành động có tính
cách cộng đoàn thực sự"
4.
5. Hội nghị Giám Mục hay Thượng
Hội Ðồng Giám Mục. Các Giám Mục được tuyển chọn
từ các miền khác nhau trên thế giới, theo cách thức và tiêu
chuẩn đã hoặc sẽ được Ðức Giáo Hoàng Roma ấn định, giúp đỡ vị
Chủ Chăn Tối Cao của Giáo Hội cách đắc lực hơn nơi Hội Ðồng có
tên riêng là "Thượng Hội Ðồng Giám Mục"
5; Thượng Hội Ðồng này đóng vai trò của toàn thể hàng
Giám Mục Công Giáo, đồng thời nói lên rằng tất cả các Giám Mục,
trong sự hiệp thông phẩm trật, cùng chia xẻ nỗi lo âu của toàn
thể Giáo Hội
6.
3*
6. Các Giám Mục chia xẻ sự lo
lắng cho tất cả Giáo Hội. Các Giám Mục, là những
người kế vị hợp pháp các Tông Ðồ và là thành phần của Cộng Ðoàn
Giám Mục, phải luôn luôn ý thức mình liên kết với nhau và cùng
nhau lo lắng cho tất cả các Giáo Hội, vì được Thiên Chúa thiết
lập và do mệnh lệnh của nhiệm vụ tông đồ, mỗi vị, cùng với các
Giám Mục khác phải là người bảo đảm cho Giáo Hội
7. Nhất là các ngài phải lo lắng đến những miền trên
thế giới chưa được rao giảng Lời Chúa, hay đặc biệt những miền
mà chính vì quá ít linh mục, các Kitô hữu đang bị nguy cơ xa lìa
chính những huấn giới của đời sống Kitô giáo và cả đến mất đức
tin.
Vì thế các ngài phải cố gắng hết sức thế nào để các công cuộc
rao giảng Phúc Âm và hoạt động tông đồ được các tín hữu nhiệt
liệt nâng đỡ và cổ võ. Ngoài ra các ngài còn phải chú tâm lo
lắng chuẩn bị những thừa tác viên thánh vụ thích hợp và cả các
phụ tá, tu sĩ cũng như giáo dân, để làm việc tại các xứ truyền
giáo và những miền thiếu giáo sĩ. Và tùy sức có thể, các ngài
hãy lo gửi một số linh mục của mình đến thi hành thánh vụ tại
những xứ truyền giáo và các giáo phận
4* nói trên vĩnh viễn hay ít là trong một thời gian
hạn định.
Ngoài ra, trong khi xử dụng tài sản của Giáo Hội, các Giám Mục
phải quan tâm đến không những các nhu cầu của giáo phận mình, mà
còn của các Giáo Hội địa phương khác vì các Giáo Hội này là
thành phần Giáo Hội duy nhất của Chúa Kitô. Sau cùng các ngài
cũng phải tùy sức mà quan tâm đến việc cứu trợ những tai ương mà
các giáo phận hay các miền khác phải gánh chịu.
7. Ðức Ái tích cực đối với các
Giám Mục bị bắt bớ. Nhất là các ngài phải lấy
tình anh em mà bao bọc các vị Giám Chức, vì danh Chúa Kitô, đang
bị vu khống và gặp khó khăn hay bị ngăn cấm không được thi hành
chức vụ; và các ngài hãy lấy tình huynh đệ tích cực mà săn sóc
các vị đó để xoa dịu và làm vơi bớt nỗi khổ đau của họ bằng kinh
nguyện và hành động của các Anh Em đồng nghiệp.
II. Các Giám Mục và Tòa Thánh
8. Quyền hạn các Giám Mục trong
giáo phận đảm nhiệm.
a) Các Giám Mục vì là những người kế vị các Tông Ðồ, nên trong
giáo phận đảm trách, tự mình các ngài có mọi quyền hành thông
thường, riêng biệt và trực tiếp theo như nhiệm vụ mục vụ đòi
hỏi.
5* Tuy nhiên trong mọi trường hợp, Ðức Giáo Hoàng
Roma, vì chức vụ, vẫn luôn có quyền dành lại một số vấn đề cho
mình hay cho một Thẩm Quyền khác.
b) Trong trường hợp riêng, mỗi khi xét thấy có lợi ích thiêng
liêng cho các con chiên dưới quyền theo luật định, mỗi Giám Mục
giáo phận có đặc quyền miễn trừ luật chung của Giáo Hội, trừ
trường hợp dành riêng cho Thẩm Quyền Tối Cao của Giáo Hội.
6*
9. Thánh Bộ thuộc Giáo Triều Rôma.
Trong khi thi hành quyền tối cao, trọn vẹn và trực tiếp trên
toàn thể Giáo Hội, Ðức Giáo Hoàng Roma xử dụng các Thánh Bộ
thuộc Giáo Triều Roma; vì thế các Thánh Bộ nhân danh và lấy
quyền ngài mà chu toàn chức vụ của mình để mưu ích chung cho các
Giáo Hội cũng như giúp đỡ các Chủ Chăn thánh.
Vả lại, các Nghị Phụ tham dự Thánh Công Ðồng mong ước rằng các
Thánh Bộ này tuy đã giúp đỡ Ðức Giáo Hoàng Roma và các Chủ Chăn
của Giáo Hội một cách đắc lực, nhưng cũng cần cải tổ cho hợp hơn
với nhu cầu thời đại, địa phương và các nghi lễ, nhất là những
vấn đề có liên quan đến số các bộ, danh hiệu, thẩm quyền, phương
pháp làm việc riêng biệt và sự phối trí các công việc với nhau
8.
7* Cũng thế, các ngài ước mong rằng vì nhiệm vụ riêng
của các Giám Mục, nên chức vụ các Ðại Sứ của Ðức Giáo Hoàng Roma
cần phải được xác định rõ ràng hơn.
10. Nhân viên Thánh Bộ.
Ngoài ra, vì các Thánh Bộ được thành lập để mưu ích cho toàn thể
Giáo Hội, nên Thánh Công Ðồng ước mong hãy thâu nhận thêm các
Thành Phần, các Nhân Viên và các Cố Vấn cũng như các Ðại Sứ của
Ðức Giáo Hoàng, từ những miền khác nhau trong Giáo Hội, sao cho
các cơ quan hành chánh hay cơ quan trung ương của Giáo Hội Công
Giáo tỏ ra có đặc tính phổ quát thực sự.
Công Ðồng còn mong ước trong Thành Phần các Thánh Bộ cũng nên
thâu nhận một số Giám Mục, nhất là Giám Mục giáo phận, những vị
có thể đem lại cho Ðức Giáo Hoàng một cách đầy đủ hơn những cảm
nghĩ, nguyện vọng và nhu cầu của tất cả Giáo Hội.
8*
Sau cùng các Nghị Phụ nhận thấy rằng thật ích lợi nếu chính các
Thánh Bộ đó biết nghe nhiều hơn nữa những giáo dân trổi vượt về
nhân đức, kiến thức và kinh nghiệm, sao cho chính giáo dân cũng
góp phần vào các công việc của Giáo Hội.
Chú Thích:
1 Xem CÐ Vat. II, Hiến
chế tín lý về Giáo Hội Lumen gentium, ch. 3, số 22: AAS 57
(1965), trg 25-27.
2 CÐ Vat. II, Hiến chế
tín lý về Giáo Hội, n.v.t.
3 CÐ Vat. II, Hiến chế
tín lý về Giáo Hội, n.v.t.
2* Ðây là một khuynh
hướng mới mẻ: từ nay mọi Giám Mục dù không cai quản giáo phận
(Giám Mục hiệu tòa), đều có quyền tham dự Công Ðồng Chung. Lúc
trước các ngài chỉ có quyền tham dự nếu được mời (Giáo Luật kh.
223, 2).
Khuynh hướng này phát xuất từ một ý tưởng thần học mới mẻ. Quan
niệm trước Công Ðồng cho rằng Giám Mục có quyền bính vì hai lý
do: a) việc tấn phong ban cho Giám Mục quyền thánh hóa (cử hành
thánh lễ, giải tội v.v...).
b) Ðức Giáo Hoàng, người ban cho Giám Mục quyền giáo huấn và cai
trị.
Nhưng Công Ðồng (x.GH 21, 28; GM 2, 3; LM 7) quả quyết mọi quyền
bính của Giám Mục đều do cuộc tấn phong trong hiệp thông với Tòa
Thánh. Ðức Giáo Hoàng chỉ là người chỉ định cho Giám Mục một
giáo phận để thực hành quyền bính đó. Chính vì thế điều kiện duy
nhất để tham dự Công Ðồng là được tấn phong Giám Mục trong hiệp
thông với Tòa Thánh.
4 CÐ Vat. II, Hiến chế
tín lý về Giáo Hội, n.v.t.
5 Xem Phaolô VI, Tự sắc
Apostolica Sollicitudo, 15-9-1965: AAS 57 (1965), trg 775-780.
6 Xem CÐ Vat. II, Hiến
chế tín lý về Giáo Hội, ch. 3, số 23: AAS 57 (1965), trg 27-28.
3* Những người có quyền
tối cao trong Giáo Hội là: a) chỉ mình Ðức Giáo Hoàng. b) Ðức
Giáo Hoàng và tất cả Giám Mục trên thế giới chung với nhau (hay
Giám Mục Ðoàn). Ðức Giáo Hoàng cai trị qua Giáo Triều Roma. Còn
Giám Mục Ðoàn cai trị như thế nào? Ðôi khi các Giám Mục trên thế
giới họp Công Ðồng Chung. Nhưng vì qui tụ tất cả Giám Mục không
phải là chuyện dễ, nên có các cuộc họp thu hẹp giữa một số Giám
Mục đại diện cho tất cả, và quyết định nhân danh Giám Mục Ðoàn.
Cuộc họp này mệnh danh là Thượng Hội Ðồng Giám Mục, và được tổ
chức hai năm một lần tại Roma.
7 Xem Piô XII, Tđ. Fidei
donum, 21-4-1957: AAS 49 (1957), trg 237; xem thêm Benedictô XV,
Tông thư Maximum illud, 30-11-1919: AAS 11 (1919), trg 440; Piô
XI, Tđ. Rerum Ecclesiae, 28-2-1926: AAS 18 (1926), trg 68t.
4* Xem TG 20, 38, 39; LM
10; Ecclesiae sanctae, ch. I, số 1-5 và ch. III, số 6.
5* Nguyên tắc này mới mẻ
và tạo thành một trong những nền tảng chính yếu của quyền bính
và quan trọng của Giám Mục. Quan niệm trước Công Ðồng cho rằng
quyền cai trị của Giám Mục là do Ðức Giáo Hoàng ban cho, nên Ðức
Giáo Hoàng phải luôn luôn ban cho các Giám Mục những quyền hành
mà các ngài chưa có. Ngày nay thì trái lại: qua việc tấn phong,
các Giám Mục nhận mọi quyền bính cần thiết, Ðức Giáo Hoàng chỉ
thu hẹp những quyền này khi công ích của Giáo Hội phổ quát đòi
hỏi như ta sẽ thấy sau.
6* Ðây cũng là điều mới
mẻ. Trước Công Ðồng, Giám Mục không có quyền chuẩn luật Giáo Hội
do Ðức Giáo Hoàng thiết lập cho toàn thể Giáo Hội (Giáo Luật kh.
87). Nhờ căn bản này, ngày nay các ngài mới có quyền đó. Nhưng
Ðức Giáo Hoàng dành quyền riêng cho Ngài trong một vài trường
hợp như sau:
- Cho phép một phó tế hay linh mục lấy vợ;
- Cho phép một linh mục đã chính thức lập gia đình được thi hành
nhiệm vụ tông đồ;
- Cho phép linh mục làm thầy thuốc, giải phẫu, làm công chức,
thượng nghị sĩ hay dân biểu;
- Cho phép thanh niên thanh nữ quá trẻ lập gia đình, khi còn
thiếu hơn một năm mới đến tuổi thành hôn pháp định.
Các quyền dành riêng này nhằm công ích Giáo Hội. Thực vậy, người
ta có thể dễ dàng tưởng tượng những bất tiện có thể xảy ra nếu
Giám Mục này ban phép cho các linh mục của ngài cưới vợ, còn vị
khác lại khước từ. Thật là một hỗn loạn nếu trong một giáo phận,
người ta được lập gia đình lúc 13 tuổi, trong lúc giáo phận khác
phải đợi đến 14 tuổi.
8 Xem Phaolô VI, Huấn từ
cho các Hồng Y, các vị Lãnh Ðạo, các Giám Chức và các Nhân Viên
thuộc Giáo Triều Roma, 21-9-1963: AAS 55 (1963), trg 793tt.
7* Giáo Triều Roma là cơ
quan cai trị Giáo Hội của Ðức Giáo Hoàng. Giáo Triều này gồm
những Thánh Bộ, Tòa Án, Văn Phòng v.v... Tất cả những canh tân
mà Công Ðồng mong muốn đã được Ðức Phaolô VI thực hiện qua Tự
Sắc Regimini Ecclesiae Universae, ngày 15-8-1967 (x. AAS (1967),
trg 885-928; DC 1967, 1441-1473).
8* Ðức Phaolô VI đã thực
hiện ý muốn này, Ngài đã chỉ thị cho 7 giám mục được tuyển chọn
khắp thế giới, tham dự vào việc điều khiển mỗi Thánh Bộ (x. Tự
sắc Pro comperto sane, ngày 6-8-1967: AAS (1967), trg 881-884;
DC 1967, 1474-1478).
|
VỀ MỤC LỤC |
|
“MẶT TRỜI CHÂN LÝ
CHÓI QUA TIM…”
|
Quý độc giả Ephata và Giáo Sĩ
Việt Nam thân mến,
Chiều ngày 27.7.2009, tại Đền Đức Mẹ Hằng
Cứu Giúp Sàigòn, DCCT đã tổ chức một buổi cầu nguyện hiệp thông
với Giáo Xứ Tam Tòa, hiệp thông với Giáo Phận Vinh. Cơn mưa
chiều lất phất nhưng Nhà Thờ cũng chật kín và người ta tràn cả
vào các lối đi. Mọi người cầu nguyện sốt sắng, ánh nến lung linh
huyền ảo như vạn lời cầu chân thành rạo rực niềm tin, có một cái
gì đó vui mừng, lại có một cái gì đó u uốt, có một cái gì đợi
mong và hy vọng, bằng đó điều hòa quyện trăn trở, người tín hữu
nói lên bằng ánh nến và lời cầu.
Những ngày tháng gần đây, chúng tôi nhận
thấy một hiện tượng lạ, đó là: các bạn trẻ tìm đến ngôi Nhà Thờ
này khá đông, họ tham dự sốt sắng các nghi lễ và không quên việc
gặp gỡ nhau.
Chiều thứ năm Tuần Thánh năm 2009, sau khi
cử hành các nghi lễ, cả Nhà Thờ tham dự phiên chầu Thánh Thể đầu
tiên. Tôi mệt mỏi vì trời quá nóng, thay vì vào Nhà Thờ, tôi
đứng bên ngoài gần cổng chính. Đông quá, người ta đến quá đông,
khi tan chầu, tôi đứng lại để tiếp tục quan sát những người tìm
đến và ra về, rất nhiều gương mặt trẻ đi qua, rất trẻ và rất
nhiều, nhiều một cách lạ lùng, có lẽ lâu lắm rồi tôi mới được
chứng kiến một lễ nghi Phụng Vụ chung mà lại đông bạn trẻ đến
như thế. Rồi chiều thứ sáu Tuần Thánh cũng thế, tôi theo chân
đoàn người đi đàng Thánh Giá chung quanh Nhà Thờ, một lần nữa
tôi lại phải ngạc nhiên thán phục, bạn trẻ đông quá, đông đến
bất ngờ.
Từ đó, tôi vẫn thường quan sát Nhà Thờ nơi
tôi đang phục vụ và nhận ra rằng các bạn trẻ ngày càng đến với
chúng tôi nhiều hơn. Điều gì đã gây ra sự kiện này ?
Nhiều năm gần đây, người ta thường nói bạn
trẻ vùng thành phố ít đến Nhà Thờ, mà ít đến thật, cứ nhìn thời
khóa biểu của các bạn sẽ tìm được nguyên do chính. Các bạn cả
ngày vật lộn với cơn áo gạo tiền, các bạn cả ngày tất bật với
các chương trình tự học, bồi dưỡng kiến thức và nghiệp vụ, các
bạn mất khá nhiều thời giờ cho chiếc máy vi tính và mạng
Internet, và các bạn cũng tiêu khá nhiều giờ với những cuộc hẹn
hò tình cảm lứa đôi, những tiêu pha hợp lý thôi ! Nhưng chẳng
còn giờ đến Nhà Thờ, biết làm sao được ?!?
Sao bỗng dưng bây giờ lại có được nhiều bạn
tìm đến đây như vậy ? Tôi đem thắc mắc này hỏi một số các bạn
thân sơ, câu trả lời bất ngờ làm tôi suy nghĩ: “Thưa, chúng con
đến đây vì chúng con thấy các cha ở đây nói cho chúng con biết
những điều mà lâu nay chúng con thắc mắc không biết nó là cái
gì, không biết nó ra sao ?” Nhưng sao lại chỉ có các bạn là thắc
mắc mà thôi ? “Thưa cha, vì chúng con vào mạng chúng con đọc
được những điều các cha muốn nói”, đến đây thì dễ hiểu thôi, vì
các bạn trẻ ở thành phố có nhiều điều kiện hơn để tham gia làm
cư dân mạng truyền thông.
Tôi nhớ đến câu chuyện người phụ nữ bên bờ
giếng năm xưa, chị khát nước thật sự trong đời chị, nhưng không
ai nói cho chị biết là chị đang khát, thế giới quanh chị chỉ lên
án chỉ trích chị, thế giới quanh chị chỉ nói những lời sáo rỗng,
họ đào hào dựng vách cô lập chị và họ bảo đó là đạo đức, đó là
truyền thống, đó là luật lệ, đó là sự an ổn của cộng đồng. Cho
đến một ngày, có một con người chẳng giữ truyền thống luật lệ
chi cả, – “ông là người Do Thái mà lại xin nước của tôi à ?” –
con người ấy nói với chị về Sự Thật và về nỗi khổ đau oan khiên
của chị, khi đó chị tìm được niềm vui, chị thật sự hạnh ngộ.
Sinh ra và lớn lên trong một môi trường kín
kẽ, mọi phương tiện thông tin được định sẵn lối đi, mọi vận hành
trong xã hội được định hình định dạng, người trẻ sinh ra trong
vòng hơn ba mươi năm nay đã không có cơ hội và điều kiện tự
nhiên để cảm thấy nỗi khát khao của con người, họ không biết
mình có quyền gì và quyền ấy ra sao. Thật ra thì vẫn có đấy chứ,
nhưng lại không biết là mình thiếu cái gì, và đâu là tên gọi của
cái mình đang thiếu. Đọc báo chí và xem truyền hình, lang thang
vào mạng, các bạn chợt nhận ra sự khác biệt của nhiều chiều
thông tin xuôi ngược, bên phải, bên trái. Cuối cùng, các bạn
nhận ra cái mình không có, cái mình bị lừa dối, cái mình bị tước
đoạt và cái mình đang thiếu, đang đói khát.
Điểm dễ thương đáng vui mừng, đó là khởi đi
từ nỗi chông chênh hoang mang, mất định hướng trong cuộc sống
tâm linh và tinh thần ấy, đa số các bạn trẻ đã không tìm đến
giải thoát của vật chất, của thú vui quyến rũ thường tình, họ
chọn tìm đến với Nhà Thờ. Cũng vẫn còn phảng phất không ít do
dự, thăm dò, nhưng rồi chính những thông tin độc địa hắc ám thế
gian muốn chụp xuống đầu Nhà Thờ lại càng làm cho óc phản biện
của người trẻ được đánh thức, cảnh tỉnh.
Sự thật thường được ví với ánh sáng, ấy là
ở chỗ sự thật càng bị cắt xén, giấu giếm, đậy điệm, o ép, đè
nén, trùm mền, ngụy tạo đủ kiểu, thì sự thật lại càng lộ ra
những tia sáng, thoạt đầu chỉ le lói một tý thôi, nhưng rồi mỗi
lúc một sáng thêm, cho đến khi sự thật chói lòa rực rỡ giữa
thanh thiên bạch nhật. Người chống lại sự thật, tìm cách tiêu
diệt sự thật thì hốt hoảng, sợ hãi. Ngược lại, người khao khát
và yêu mến sự thật thì vui mừng, nong nả hớp lấy từng ngụm không
khí cho đầy buồng phổi tâm linh và tinh thần.
Lâu nay chúng ta quen nghĩ, người lớn và
người già chúng ta quen nhận định rằng: truyền giáo phải từ Nhà
Thờ mà tuôn ra, tràn đến mọi nơi, mang theo hàng đoàn xe
container đầy ắp những chân lý để rộng tay ban bố, phân phát,
trao tặng. Không ngờ Chúa Thánh Thần – vâng, chúng ta xác tín
đây là quyền năng của Gió Thiêng trời cao – lại có cách khác,
siêu hơn nhiều: Ngài khơi lên nơi lòng nhân loại – ở đây chính
là các bạn trẻ, rất trẻ – để họ thất vọng đối với thế gian xảo
trá mà mầy mò tìm đến với Nhà Thờ, yên tâm là ở đấy đang nắm giữ
Chân Lý. Họ sẽ chất vấn Nhà Thờ, đòi Nhà Thờ phải chia sẻ Chân
Lý ấy thật trọn vẹn, y như dọn bàn ăn ra cho những người đang
đói, đang khát. Trách nhiệm của Nhà Thờ bây giờ tự dưng nặng
hơn, quan trọng hơn, sinh tử hơn.
Dạo bảy mươi lăm, thế hệ chúng tôi được
nhồi nhét, bắt phải học thuộc lòng những câu thơ giác ngộ của
người Cộng Sản trẻ tuổi nào đấy để mong chính bọn trẻ chúng tôi
cũng phải giác ngộ chân lý như thế:
“Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ,
Mặt trời chân lý chói qua tim.
Hồn tôi là một vườn hoa lá,
Rất đậm hương và rộn tiếng chim…”
Hóa ra, coi vậy mà không phải vậy. Một nửa
sự thật không phải là sự thật. Văn chương đấy, nhưng “mặt trời”
ấy là kiểu ngoa ngữ, và “chân lý” ấy là một thứ lộng ngôn. Chúng
tôi đã từng là những người trẻ hoang mang ngơ ngác trước bùng
binh của thời cuộc. Chúng tôi đã phải trả giá khá đắt, may mà
không đến nỗi chìm nghỉm tuyệt vọng trong bóng tối bủa vây của
thế gian, làm gì mà hoa với lá, đậm hương và rộn tiếng chim ?!?
Và cũng may mà chúng tôi còn có Nhà Thờ…
Rồi mấy mươi năm đi qua, đối với thế hệ các
bạn trẻ hiện tại, sau hàng loạt những biến cố ở Tòa Khâm Sứ, ở
Thái Hà, ở Vĩnh Long, ở Nguyễn Thị Diệu, ở Thủ Thiêm, nay thì
đang nóng bỏng ở Tam Tòa, các bạn trẻ đã thoát ra được khỏi một
phần bóng tối, đón lấy ánh sáng chan hòa của Chân Lý. Cục diện
bây giờ chỉ có tiến tới chứ không giậm chân hoặc giật lùi được
nữa.
Vì Ánh Sáng ấy, Chân Lý viết hoa ấy, là Tin
Mừng, là chính Chúa Giêsu !
Lm. VĨNH
SANG – Lm. QUANG UY,
thứ bảy 1.8.2009
Lễ kính Thánh An Phong, Đấng sáng lập DCCT |
VỀ MỤC LỤC |
|
NGƯỜI NGÔN SỨ GƯƠNG MẪU
|
Tất cả mọi Kitô hữu sau khi
chịu phép Rửa tội đều lãnh nhận chức vụ Ngôn Sứ hay Tiên Tri do
Chúa Thánh Thần ban. Thế rồi họ tiếp tục được nhận lãnh các Bí
tích khác để thì hành sứ vụ Chúa Kitô trao phó, người được sai
đi đem Tin Mừng đến cho mọi người.
A-
NHỮNG VIỆC HỌ
ĐANG LÀM:
1/ Luôn
giảng dạy Lời Chúa:
Người được Thiên Chúa sai đi thì nói Lời của Chúa, vì họ đã nhận
nhưng không: Quả vậy, Đấng được Thiên Chúa sai đi, thì nói
những lời của Thiên Chúa, vì Thiên Chúa ban cho họ vô ngần vô
hạn. (Ga 3, 34). Thánh Phêrô quả quyết: “Ai có nói, thì
nói Lời Thiên Chúa; ai phục vụ thì phục vụ bằng sức mạnh Thiên
Chúa ban, ta luôn làm để tôn vinh Chúa (I Pr 4, 11)
2/
Làm trước nói sau: Họ muốn được hành động theo khuôn mẫu của
Chúa Giêsu, họ phải sống giống như Ngài: Thưa ngài
Thê-ô-phi-lô, tôi đã tường thuật tất cả những việc Đức Giêsu làm
và những điều Người dạy, kể từ đầu…(Cv 1, 1). Chính vì làm
trước rồi dạy sau, mới xứng đáng là “Tông Đồ” của Chúa. Nên
thánh Mac-cô viết: Các Tông Đồ tụ họp chung quanh Đức Giêsu,
và kể lại cho Người biết mọi việc các ông đã làm, và mọi điều
các ông đã dạy. (Mc 6, 30)
3/
Nâng đỡ người cộng tác: Cần sẵn sàng làm gương mẫu và
nâng đỡ tận tình người dưới quyền mình: Anh em hãy chăn dắt
đàn chiên của Chúa, không phải như thể miễn cưỡng, nhưng là sẵn
lòng…(I Pr 5, 2-3). Nhưng trong thực tế bao nhiêu giám đốc
nâng đỡ phó giám đốc, bao nhiêu cha mẹ tìm hiểu con cái, bao
nhiêu giám mục khuyến khích linh mục, và bao nhiêu hiệu trưởng
giúp đỡ giáo viên v..v...
4/ Giảng
đúng và đủ Lời Chúa: Sách Công vụ Tông Đồ thuật lại: “Một
thiếu niên kia tên là Êu-ty-khô, ngồi ở cửa sổ, đã thiếp đi và
ngủ say trong khi ông Phaolô vẫn cứ giảng,..nên nó ngã từ tầng
thứ ba xuống. Vực lên thì nó đã chết. Ông Phaolô cúi mình trên
nó, ôm lấy và nói: “Đừng xôn xao nữa, vì nó sống mà!”..
Ông còn giảng, mãi đến tảng sáng mới ra đi. Người ta đưa cậu bé
vẫn sống ra về vui vẻ cùng mọi người, với niềm an ủi không it.”
(Cv 20, 7-12)
5/ Giảng
Lời Chúa đến chết: Là những mộn đệ theo Chúa Giêsu, bạn có
dám cương quyết giảng Lời Chúa như Thầy mình để chịu chết không?
Người Do thái nói: “Chúng tôi ném đá ông, không phải vì một
việc tốt đẹp, nhưng vì một lời nói phạm thượng: ông là người
phàm mà tự cho mình là Thiên Chúa. (Ga 10, 33). Phaolô tỏ
cũng tỏ ra chấp nhận đau khổ vì Tin Mừng: Tôi đã không muốn
biết đến chuyện gì khác ngoài Đức Giêsu Kitô chịu đóng đinh. (I
Cor 2, 2)
B-
NHỮNG VIỆC HỌ
KHÔNG LÀM:
1/ Trên
đội dưới đạp: Đó là tật xấu của nhiều người đối xử với nhau.
Có chỗ dựa thì: “Nhất thân nhì thế”, hoặc “Mua danh bán tước”.
Họ không ưa bợ đỡ nịnh hót ai có chức quyền để cầu lợi cho mình.
Họ không hỏi: Ông ta được khôn ngoan như vậy, nghiã là làm
sao? Ông ta làm được
những phép lạ như thế nghiã là gì? (Mc 6, 2)
2/ Tự
kiêu tự mãn: Họ luôn tỏ
ra khiêm tốn, ẩn mình, không muốn nổi hơn ai, khi thấy người
khác tài giỏi, đạo đức, nhiệt thành họ vui mừng. Châm ngôn sống
của họ là: “Chúa phải được lớn lên, còn tôi nhỏ đi.” (Ga 3,
30). Họ không muốn nói đến bản thân hay gia tộc nhà mình:
“Ngôn sứ có bị coi rẻ rúng, thì cũng chính là ở quê hương mình,
hay giữa đám bà con thân thuộc trong gia đình. (Mc 6, 4)
3/ Ghen
tức chê bai: Là con đẻ
của kiêu ngạo, nên họ không hạ bệ, chê bai ai, để người có thiện
chí không làm việc được, chán nản, bỏ cuộc: Ông ta không phải
là bác thợ mộc, con bà Maria, và anh em của các ông Gia-cô-bê,
Gio-xê, Giu-đa và Si-mon sao? (Mc 6, 3)
Đúng là :
“Bụt nhà không thiêng” hay trong gia đình con cái coi thường lời
dạy của cha mẹ, nên “Dao sắc không gọt được chuôi”.
Tóm lại,
người Ngôn Sứ luôn nhớ Lời khi Phaolô chỉ dẫn ông Ti-mô-thê để
tổ chức và điều khiển các cộng đoàn và người mình có trách nhiệm
như: “Hãy rao giảng Lời Chúa, hãy lên tiếng, lúc thuận tiện
cũng như lúc không thuận tiện, hãy biện bác, ngăm đe, khuyên nhủ
với tất cả lòng nhẫn nại và chủ tâm dạy dỗ. “ (2 Tm 4, 2)
Và cuối cùng,
làm Ngôn sứ không ham mê tiền bạc, địa vị, xác thịt,
Phaolô khuyên:
‘Thật thế, cội rễ sinh ra mọi điều ác là lòng ham muốn tiền bạc,
vì buông theo lòng ham muốn đó, nhiều người đã lạc xa đức tin và
chuốc lấy bao nỗi đớn đau xâu xé.! (I Tm 6, 10)”
Thật vậy,
quyền thế và tiền bạc đã xô đẩy bao nhiêu Kitô hữu đam mê xác
thịt, đổ vỡ, rồi đi vào cái chết vô cùng đau thương ! ! !
Phó tế: GB Nguyễn văn Định
* johndvn@yahoo.com |
VỀ MỤC LỤC |
|
AI LÀ NGƯỜI LỚN
NHẤT? (LC 9, 46-48) |
Điểm nhắm:
Thử thách lớn nhất mà người tông đồ có thể
phải chịu, có lẽ đó không phải là đau khổ cho Giáo Hội mà là đau
khổ do Giáo Hội! Làm sao để vẫn trung thành và yêu mến Giáo Hội
ngay khi thấy mình đứng trước loại thử thách này? Câu chuyện
Tổng giám mục Oscar Romero có một khía cạnh có thể giúp soi sáng
cho ta câu trả lời...
Vụ án phong chân phước cho Tổng
giám mục Romero đang được xúc tiến. Nội tạng của ngài, được thu
lại và được chôn ngay sau khi ngài chết và trước khi xác ngài
được xử lý bằng hoá chất, hiện nay vẫn còn nguyên một cách lạ
lùng. Dịp thượng hội đồng giám mục châu Mỹ Latinh ở Rôma, Đức
Cha Gregorio Rosa Chávez, giám mục phụ tá tổng giáo phận San
Salvador, đã có một bài tưởng niệm gây xúc động sâu sắc cho mọi
người. Chúng tôi quyết định hỏi giám mục Rosa Chávez, người đã
trải qua nhiều năm bên cạnh Romero, về một giai đoạn khủng hoảng
cao độ không chỉ của Giáo Hội ở Salvador mà là của toàn thể Giáo
Hội châu Mỹ Latinh. Chúng tôi thảo luận về nhân cách của Romero
và về những sự kiện đã dẫn tới cái chết tuẫn đạo của ngài.
- Vụ án phong chân phước cho
Đức Tổng giám mục Oscar Romero nay đã tới giai đoạn nào rồi,
thưa Đức Cha?
Rosa Chávez :
- Thủ tục ở giáo phận đã chính thức kết thúc hôm 1.11.1996. Các
kết quả và các dữ kiện thu thập được đã được trình cho Rôma. Nói
chung, Rôma có một đánh giá tích cực; tuy nhiên vẫn yêu cầu thêm
những chi tiết về các sử liệu, chẳng hạn bối cảnh trong đó
Romero được gọi để thi hành sứ vụ của mình, và về những hoàn
cảnh xung quanh cái chết của ngài, về lý do tại sao ngài bị
giết.
- Vậy phải chăng tiến trình
phải khựng lại một mức nào đó?
Rosa Chávez :
- Nếu tiến trình phải khựng lại, thì theo quan điểm của tôi,
những người đáng trách chính là chúng ta, những người Salvador.
Các thù địch lớn nhất của vụ án phong chân phước cho Romero nằm
ở chính Salvador. Chính những con người đã cản mũi Romero khi
còn sống, chính những con người đã viết thư nặc danh tố cáo
Romero là một tên cộng sản ... nay vẫn còn tiếp tục chống lại
Romero.
- Quả là Tổng Giám Mục Romero
đã có những đối thủ ngay trong hội đồng giám mục quốc gia. Một
trong các giám mục ấy đã đi xa đến mức tố cáo Romero trước mặt
giáo hoàng (trong chuyến công du thứ hai của giáo hoàng tới
Salvador vào năm 1996) rằng Romero phải chịu trách nhiệm về cái
chết của 70.000 người Salvador!
Rosa Chávez :
- Đó là lý do tại sao cần phải trả lời thoả đáng cho yêu cầu thứ
nhất của toà thánh, tức làm rõ bối cảnh lịch sử trong đó Romero
đã phục vụ.
- Bối cảnh lịch sử, tại sao?
Rosa Chávez :
- Tình hình lúc bấy giờ rất là phân cực, và thật khó mà không
rơi vào một dạng ý thức hệ nào đó. Một số khó khăn mà Romero
kinh nghiệm với vị khâm sứ và với một số giám mục đồng sự phải
được nhìn trong bối cảnh này. Tình hình thậm chí dẫn đến chỗ các
giám mục Salvador đã không hội họp với nhau suốt một thời gian
dài, và điều này làm khổ tâm vị tổng giám mục rất nhiều, như
chúng ta thấy ngài trung thành ghi lại trong nhật ký.
- Cũng phải truy vấn các lý do
dẫn đến cái chết của Romero nữa. Theo quan điểm của Đức Cha thì
tại sao Tổng giám mục Romero bị giết?
Rosa Chávez :
- Thì cũng giống như hỏi tại sao người ta đã giết Đức Giêsu Kitô
vậy. Vụ giết hại Romero cũng giống như vụ giết hại Đức Giêsu.
Người ta cũng nói về Đức Giêsu rằng Ngài bị giết vì các lý do
chính trị. Các thế lực chắc chắn có cách để biện minh cho mình,
nhắm che lấp tội của họ.
- Đức Cha đã sống gần ngài
trong thời gian dài. Đức Cha nhớ điều gì về ngài?
Rosa Chávez :
- Tôi gặp ngài lần đầu tiên khi tôi còn là một cậu bé, lúc đó
ngài đã là linh mục. Chúng tôi sinh ra trong cùng một giáo phận.
Tôi vào chủng viện năm 14 tuổi. Romero lúc ấy là một linh mục
của San Miguel, thành phố lớn thứ ba của Salvador. Đó là một nơi
yên tĩnh, thân thiện, và hầu như mọi người đều biết nhau. Năm
1965, ngài được yêu cầu trông coi một tiểu chủng viện. Romero là
một linh mục rất giản dị, có đời sống tâm linh sâu sắc, chính
thống trong giáo thuyết và đặc biệt yêu thương người nghèo.
Nhưng ban đầu, ngài không ấn tượng lắm, ngay cả dường như phản
đối, đối với các văn kiện của Liên Hiệp Các Hội Đồng Giám Mục
Châu Mỹ Latinh ở Medellin hồi năm 1968. Ngài cho rằng các văn
kiện ấy có quá nhiều tính chính trị. Nhưng ngài đã thay đổi quan
điểm khi ngài chuyển đến San Salvador, trước hết trong tư cách
giám mục phụ tá, rồi sau đó trong tư cách tổng giám mục.
- Ngài vừa mới được bổ nhiệm
tổng giám mục San salvador thì một linh mục bạn của ngài bị thảm
sát, đó là Cha Rutilio Grande, dòng Tên. Một số người nói rằng
chính cái chết ấy đã thay đổi Romero, đến nỗi có người nói về
một cuộc “hoán cải” từ bảo thủ sang đối đầu với chế độ... Điều
đó có đúng không, thưa Đức Cha?
Rosa Chávez :
- Cha Grande là một người bạn tri kỷ của Romero. Cha là chưởng
nghi của lễ tấn phong giám mục cho Romero. Cha bị giết vào ngày
12 tháng 3 năm 1977, chỉ ít tuần sau khi Romero trở thành tổng
giám mục San Salvador. Cuối tháng 5 năm ấy, biệt đội tử thần đã
giết một linh mục khác, đó là Cha Alfonso Navarro. Đó là hoàn
cảnh mà Romero phải đối diện khi ngài thuyên chuyển đến thủ đô.
Và kể từ đó, những lời nói và hành động của ngài nhằm bênh vực
người nghèo và chống lại nhà cầm quyền trở nên ngày càng dứt
khoát. Có lần trong một cuộc phỏng vấn truyền thanh, tôi đã hỏi
ngài: “Thưa Đức Cha, người ta nói rằng Đức Cha đã ‘thay đổi
hẳn’”. Và ngài trả lời: “Tôi không muốn nói là ‘thay đổi’ mà
muốn nói là ‘cách mạng’ – người ta không thể nhắm mắt trước
những gì đang diễn ra.” Tôi cho rằng Romero đúng. Đức tin của
ngài, linh đạo và giáo thuyết chính thống vững vàng của ngài thì
vẫn như thế. Chính hoàn cảnh trong đó ngài làm việc đã thay đổi.
Từ một tỉnh lẻ thân quen, ngài đã chuyển đến thủ đô San
Salvador. Ở đó, trực tiếp đối diện với trung tâm quyền lực kinh
tế chính trị của đất nước, ngài đích thân nhìn thấy tội ác xã
hội, sự bất công có tính cơ cấu, sự hình thành những biệt đội tử
thần. Có những tuần lễ trong đó hàng trăm người bị các biệt đội
tử thần hành quyết. Các xác chết không toàn thây bị treo lủng
lẳng trên các cành cây trong thành phố và tại những nơi nhiều
người qua lại, nhằm mục đích khủng bố tinh thần người ta. Romero
nói: “Dường như ơn gọi của tôi là đi thu lượm các xác chết.”
- Hành động bênh vực người
nghèo của Romero trở nên quyết liệt đến nỗi tám ngày trước khi
chết, ngài đã thẳng thắn lên án chế độ quân phiệt, quân đội, và
nhóm cầm quyền đã toa rập với các quyền lợi của Bắc Mỹ. Ngài
tuyên bố rằng “Carter tiếp tục gửi cho họ mọi sự trợ giúp”...
Rosa Chávez :
- Thậm chí ngài đã viết một thư không niêm gửi tổng thống Hoa Kỳ
trong đó ngài yêu cầu ông ta ngưng chở vũ khí đến Salvador. Ngài
vô cùng khổ tâm vì nhận thấy rằng cơ cấu bất công và những quyền
lợi của các giới lãnh đạo các quốc gia đang dẫn tới chiến tranh,
một cuộc chiến tranh hiển nhiên không thể tránh khỏi. Romero ý
thức rất rõ cái khoảnh khắc lịch sử chính trị mà Salvador đang
trải qua, và không duy chỉ là Salvador. Việc gán cho ngài cái
nhãn “kích động, lôi kéo quần chúng” chỉ là một âm mưu bẩn thỉu.
Trong hy vọng cứu vãn tình hình khỏi bùng nổ bạo lực, Romero đã
ủng hộ mọi cơ hội khả dĩ đem lại đối thoại. Chẳng hạn, vào tháng
10 năm 1979, các tướng lãnh trẻ đã chiếm chính quyền và yêu câu
ngài ủng hộ cuộc đảo chánh. Cùng với nhau, chúng tôi đã soạn
thảo một văn bản phổ biến trên toàn quốc, kêu gọi mọi người đừng
nóng vội đánh giá nhóm quân đội này liên quan đến các cố gắng
tái lập công bằng và trật tự xã hội của họ. Romero nói: “Diễn
biến này may đâu có thể cứu dân chúng khỏi nhiều đau khổ. Chúng
ta phải biết chờ đợi và phán xét theo các kết quả, để xem thử
người ta có giữ các lời hứa hay không.”
- Chủ yếu người ta trách cứ
rằng Romero đã biến mình thành một công cụ của cánh tả...
Rosa Chávez :
- Bình luận về cuộc họp với vị khâm sứ ở Costa Rica được toà
thánh gửi đến giải quyết vấn đề bất đồng giữa các giám mục. Tỏng
giám mục Romero nói rõ trong nhật ký của ngài rằng: “Việc tôi
ủng hộ sự tổ chức quần chúng không hề có nghĩa rằng tôi thiên
tả, cũng chẳng có nghĩa rằng tôi không nhìn thấy mối nguy hiểm
của sự thâm nhập của phe tả, vì đấy là điều tôi hiểu rất rõ –
nhưng tôi cũng thấy rằng chống cộng rất thường là lá bài để các
thế lực chính trị kinh tế sử dụng nhằm duy trì những bất công
chính trị và xã hội của họ.” Tổng giám mục Romero có một cái
nhìn rất rõ về hoàn cảnh thực tế. Người kế nhiệm của ngài, Tổng
giám mục Arturo Rivera Damas, đã chỉ ra ba nguyên nhân chính của
tình trạng bạo lực ở Salvador. Ngoài tình trạng bất công và các
ý thức hệ thiên hữu và thiên tả, thì cái ngòi nổ bạo lực chính
là các tranh chấp quyền lợi giữa các quốc gia đang diễn ra tại
quốc gia Salvador bé nhỏ của chúng ta. Trong một bối cảnh phân
cực, thì những con người quyết bảo vệ dân nghèo như Romero bị
qui chụp là theo ý thức hệ xã hội chủ nghĩa, trong khi hành động
của ngài xuất phát không phải từ sự say mê các ý tưởng xã hội
chủ nghĩa, mà chỉ đơn giản là từ sự trung thành đối với ơn gọi
của mình... Tổng giám mục Romero là một con người rất truyền
thống trong những vấn đề liên quan đến giáo lý và đức tin, nhưng
rất cởi mở trong những vấn đề xã hội. Ngài minh chứng cho giáo
huấn của Truyền Thống rằng: khi người ta sống gắn chặt với đức
tin của các Tông Đồ thì người ta sẽ dũng cảm trong việc bảo vệ
người nghèo và lên án những bất công...
- Romero đã gặp Đức Phaolô VI
vào năm 1978 tại Rôma, và gặp Đức Gioan Phaolô II vào năm
1979...
Rosa Chávez :
- Romero rất ngưỡng mộ Đức Phaolô VI. Bình luận về chuyến viếng
thăm Rôma của mình năm 1978, Romero nói về Đức Phaolô VI với đầy
niềm cảm kích và tri ân sâu sắc. Chắc chắn vị tổng giám mục đã
nhận được sự cảm thông và sự nâng đỡ huynh đệ từ người kế vị
Thánh Phêrô. Còn chuyến thăm Đức Gioan Phaolô II vào năm sau, vị
giáo hoàng đã nhắc ngài nhớ đến tình hình ở Ba Lan, và huấn dụ
ngài rằng “hãy chỉ bám chặt vào các nguyên tắc.” Romero đã kể
lại với đầy cảm hứng về một số cuộc gặp gỡ các chức sắc ở Rôma
trong chuyến viếng thăm này; nhưng người ta có ấn tượng rằng
Romero cảm thấy thoải mái với chuyến đi Rôma hồi năm trước hơn
là lần này. Trong một bối cảnh mà ý thức hệ xâm nhập mọi nơi,
thì mối quan tâm của vị tổng giám mục đối với người nghèo và đối
với dân chúng đã bị hiểu lầm và bị ngáng trở.
- Các mối quan hệ giữa ngài với
Đức Gioan Phaolô II thế nào?
Rosa Chávez :
- Đức Gioan Phaolô II được bầu làm giáo hoàng chỉ được ít lâu
thì Romero chết; vì thế hai người không có mấy dịp gặp gỡ tiếp
xúc. Tôi là người trực tiếp chuẩn bị cho hai chuyến công du của
Đức Gioan Phaô II đến Salvador – và tôi có thể làm chứng rằng cả
hai lần đó đều có sự phản đối việc đức giáo hoàng viếng thăm mộ
của Romero. Và cả hai lần, chính Rôma yêu cầu phải dàn xếp để có
cuộc viếng thăm mộ vị tổng giám mục. Theo tôi thấy thì đức giáo
hoàng xác tín rằng Romero là một vị tuẫn đạo của Giáo Hội, ngài
mô tả Romero là “một vị mục tử hết lòng với đoàn chiên và đã thí
mạng cho đoàn chiên.” Nhưng vị giáo hoàng cũng e ngại rằng các
nhóm chính trị đã sử dụng tên tuổi của Tổng giám mục Romero cho
mục đích tuyên truyền của mình. Vì thế, trong bài diễn văn năm
1993 ở Salvador, đức giáo hoàng đã yêu cầu rằng hồi ức về vị
tổng giám mục phải được tôn trọng, vị mục tử này phải được tôn
trọng.
- Cuối cùng, thưa Đức Cha, Đức
Cha có những hy vọng gì về tiến trình phong chân phước cho
Romero?
Rosa Chávez :
- Tôi hy vọng rằng Romero được nhìn nhận là một vị tuẫn đạo. Và
đó cũng là ước vọng của biết bao người đã yêu mến ngài và vẫn
tiếp tục cảm mến ngài sâu sắc. Khi người ta đọc trang nhật ký về
lời cầu nguyện với Chúa Giêsu mà ngài viết một tháng trước khi
chết, người ta thấy hình ảnh của một sự sống được hiến dâng,
trong ý thức về những hiểm nguy chực chờ gần kề. Ngài viết:
“Thật cụ thể biết bao việc tôi phó dâng chính mình cho Trái Tim
Chúa Giêsu, vốn luôn luôn là nguồn cảm hứng và là niềm vui của
đời tôi. Vì thế, tôi đặt trọn sự sống mình trong vòng tay quan
phòng yêu thương của Chúa; và trong niềm tin vào Ngài, tôi chấp
nhận cái chết – dẫu sự chấp nhận này khó khăn đến mấy.”
Câu chuyện về cái chết của Romero
vẫn còn làm tôi kinh ngạc cho tới hôm nay. Thánh Lễ cuối cùng
của ngài trong nhà nguyện bệnh viện là một Thánh Lễ cầu cho
người quá cố. Romero đã đọc bài Tin Mừng. Đó là bài Tin Mừng
theo Thánh Gioan, trong đó Đức Giêsu nói: “Đã đến giờ Con Người
được tôn vinh”. Tôi tự hỏi phải chăng lúc ấy vị tổng giám mục
biết rằng mình sắp bị giết. Bài giảng của ngài dường như là một
chứng từ, trong đó ngài tự so sánh mình với hạt lúa mì thối đi
trong lòng đất để đem lại sự sống mới. Vì thế một số người nghĩ
rằng trong khi ngài giảng, có thể ngài nhìn thấy kẻ sát nhân.
Kết thúc bài giảng, cơ hồ ngài đang nói với kẻ sắp giết mình:
‘Hãy cho phép tôi chết khi tôi bước lại bàn thờ dâng của lễ, bạn
nhé’ Và quả thật, ngài đã bị bắn chết khi bắt đầu dâng bánh
rượu. Chính ngài đã trở thành lễ hy sinh. Hình ảnh ấy đáng quí
biết bao – cả đời sống và cái chết của ngài có thể được nhìn
trong ánh sáng của hình ảnh ấy. Ngài đã sống và đã chết như một
linh mục, một mục tử với tình yêu nồng nàn hiến trao cho Đức
Giêsu Kitô và cho đoàn chiên.
--------------------------------------------------------
Một số lời của TGM. Romero được
đưa vào phim:
- Tôi đến từ thế giới của sách vở.
Đúng. Sách vở cho ta rất nhiều bài học. Nhưng tôi còn nhiều điều
khác cũng phải học. Có nhiều biến động và chia rẽ đang diễn ra
trên đất nước này. Có vài linh mục chấp nhận biểu lộ những tư
tưởng căn bản một cách thật là hời hợt. Và không ai trong chúng
ta có thể tự hào biết hết những giải pháp cho các vấn đề do thời
cuộc đặt ra. Trong Giáo Hội, chúng ta phải luôn trung thành với
nguồn Tin Mừng. Theo cách thức truyền thống, phải luôn kiếm tìm
công lý.
- Nếu đây là một lễ an táng bình
thường, thì tôi có thể nói về tình bạn của tôi với Cha Grande.
Vào những lúc cao điểm trong cuộc sống của tôi, cha đã luôn có
mặt, gần gũi. Và tôi sẽ không bao giờ quên những giờ phút đó.
Thế nhưng bây giờ là lúc ta rút ra một sứ điệp từ những cái chết
này. Tất cả chúng ta là những kẻ còn đang lữ hành. Sự giải thoát
mà Cha Grande rao giảng là một sự giải thoát bén rễ sâu trong
đức tin. Và bởi vậy, nó rất thường xuyên bị hiểu lầm. Chính vì
nó mà Cha Grande đã chết. Biết đâu những kẻ sát nhân cũng đang
nghe thấy những lời này. Vậy tôi xin nói với anh em: Hỡi người
anh em sát nhân, chúng tôi yêu các anh, nài xin các anh hãy hối
lỗi tận đáy lòng các anh.
- Hôm nay chúng ta đến đây để
giành lại quyền làm chủ và sử dụng thánh đường này – đồng thời
cũng để tăng sức cho tất cả những ai bị địch thù của Giáo Hội
giày đạp. Anh em nên biết anh em không chịu khổ một mình. Anh em
là Giáo Hội; anh em là cộng đoàn dân Chúa, là Đức Kitô. Đúng lúc
này và ở đây, anh em đang chịu đóng đinh, xác thực như chính
Ngài đã chịu đóng đinh 2000 năm về trước, trên ngọn đồi ở bên
ngoài thành Giêrusalem. Anh em nên biết, khi chịu khổ và hy sinh
giống như Ngài, là anh em góp phần lớn lao cho sự giải phóng El
Salvador bằng ơn cứu độ.
Đức TGM. Romero ngồi tại
toà giải tội, người xưng tội là một linh mục:
- Xin Chúa ban phép lành cho
con!
- Xin Cha thương con, vì con
là người tội lỗi. Con đã xưng tội cách nay được một tháng...
Thưa Cha đã từ lâu con là đồ đệ trung thành của khoa thần
học giải phóng và con đã năng nổ giúp quần chúng đấu tranh.
- Đó chưa phải là tội.
- Con cảm thấy rất khó chấp
nhận một người. Chỉ có thế thôi.
- Đó cũng chưa phải là tội.
- Con cảm thấy bất bình với
Đức Tổng Giám Mục. Người quá thận trọng. Người can đảm,
nhưng bảo thủ. Làm sao con vâng phục người được? Con phải
làm gì?
- Hãy cầu nguyện cho ngài. Đó
cũng là việc đền tội của con... Cha tha tội cho con, nhân
danh Cha và Con và Thánh Thần.
- Xin cám ơn Cha.
- Xin Cám Ơn Cha.
- Tôi là một người mục tử, đã cùng
học hỏi với đàn chiên của mình, để biết chọn lựa một cách tốt
đẹp, tuy rất khó khăn. Đức tin của chúng ta đòi buộc ta phải hoà
nhập vào với trần thế. Tôi tin rằng sự bất công về kinh tế là
nguyên nhân chính của mọi vấn đề – từ đó phát sinh mọi bạo lực.
Giáo Hội cần thâm nhập sâu rộng nơi tất cả những ai đấu tranh vì
tự do, để bảo vệ họ và chia sẻ những niềm đau bị bách hại.
Lm. Giuse Lê Công
Đức |
VỀ MỤC LỤC |
|
BẠN ĐÃ LÀM GÌ CHO LINH
MỤC ?
|
Năm Thánh cầu
nguyện “Xin ơn Thánh hóa cho các linh mục” đã được khởi đầu như
đỉnh cao nhất trong đời sống tâm linh của mọi tín hữu. Quả thật,
đây là một đỉnh cao của toàn Giáo hội, khi đã được nâng lên hàng
Năm Thánh cầu nguyện. Rất trang trọng và thật thiêng liêng.
Đó đây, đã có
giáo xứ làm “silde show” và cả treo những hình ảnh rất lớn và
sinh động về Thánh Gioan Vianney, quan tháy các linh mục, ngay
trước tiền đường nhà thờ giáo xứ.
Tuy nhiên,
không ai ngây thơ cho rằng, chỉ cần cầu nguyện trong năm thánh,
còn trước và sau năm thánh thì không cần cầu nguyện gì nữa.
Nhưng cầu
nguyện, không chỉ là đọc kinh suông trơn tuột qua môi miệng,
hoặc chỉ là những mơ ước “chay” dâng lên Chúa. Thánh Giacôbê đã
dạy một điều quen thuộc : “Đức tin không việc làm là đức
tin chết”, cũng thế, cầu nguyện thiếu việc làm thì cầu
nguyện ấy chưa hoàn hảo, tất nhiên, không đẹp lòng Chúa.
Hành động
đúng luôn phải khởi đi từ những suy nghĩ đúng, suy nghĩ đúng
phải bắt đầu bằng những hiểu biết đúng.
Từ Thánh giá đời linh mục….:
Trong ngày
chịu lễ mở tay hay trong nhiều bài suy niệm hoặc giảng thuyết đó
đây, người linh mục thường được nghe những lời có cánh đại khái
như :
Từ
bụi tro, Chúa đã nâng con lên hàng khanh tướng. Chúa đã chọn con
trong muôn người ….
Những lời
tuyệt vời ấy không sai, khi nói về tình yêu Thiên Chúa đối với
tạo vật của mình. Nhưng cách nào đó, các lời ấy, chỉ nói đền
toàn hoa hồng mà chưa nói đến các gai nhọn của hoa hồng là những
thập giá của đời linh mục.
Quả thật, quá
nhiều gian nan thách đố và cả những cô đơn trống vắng trong đời
linh mục.
-
Linh mục là người làm dâu của trăm họ, rất khó làm vừa lòng mọi
người, nếu cố gắng làm vừa lòng mọi người thì rốt cuộc sẽ chẳng
vừa lòng ai. Nói chi, ngay trong gia đình chỉ vỏn vẹn có năm,
bảy người cùng chung máu mủ còn chưa vừa lòng nhau, huống chi
Linh mục phải xử sự với hàng trăm hàng ngàn người khác nhau.
-
Người ta thường nói: ‘’Bạc như dân, bất nhân như lính’’. Câu nói
này có thể cũng không sai với đời Linh mục. Bao lâu người Linh
mục còn khỏe mạnh phục vụ cho giáo xứ thì là cha đáng mến đáng
trọng. Một khi đau yếu già nua , là gánh nặng, là cái gai thì
cần nhổ đi.
Nói
như vậy có quá đáng không? Trên đời chuyện gì cũng có, vì thực
tế đã có quá nhiều chuyện khiến ta phải đau lòng . Giáo dân
thường hay quên mất công ơn người Linh mục đã làm, chỉ nhìn thấy
khuyết điểm để lớn tiếng.
-
Người ta dễ nhớ đến một điều sai, nhưng lại hay
quên trăm điều đúng mà người linh mục đã làm. Nói
về một số linh mục lạm dụng tình dục bên trời Tây đang gây ồn ào
trên thế giới, Qua một bài viết, Đức Giám Mục Nguyễn Soạn đã nói
về điều ấy rằng : Trong cánh rừng, cả trăm ngàn cây vẫn đang
vươn lên sinh động, nhưng khi chỉ có một cây gãy đổ, thì tiếng
vang và ầm ào ấy sẽ rất lớn. Ngài không bênh vực biện hộ,
nhưng đã chỉ ra một tâm lý thông thường
-
Người linh mục phải là một người khác giữa trăm ngàn người khác.
Ngài thiếu và không thể có cái mọi người đã có và đang có thừa.
Chiều muộn, Thánh Lễ đã xong, mọi người đã ra về, giáo đường
mênh mông, trên Thánh giá Chúa vẫn thinh lặng. Đêm xuống, nhà xứ
im lìm vắng vẻ quạnh hiu. Nỗi cô đơn rất “người” .
Những cô đơn ấy càng đậm đặc hơn khi bệnh tật đau yếu. Miếng
cơm, viên thuốc, ngụm nước và những chăm sóc theo dõi, làm sao
có thể được ân cần như ý, như những người gần gũi máu thịt gắn
bó của một gia đình ngoài “thế gian ” thường tình. Lại là một cô
đơn khác, rất “người”.
Khi
về hưu, mắt lòa chân run, muốn về ở với con cháu trông nom, thì
cũng cần phải có một số vốn nào đó, tiền còn thì tình còn, tiền
hết thì tình cảm cũng ra đi. Lúc ấy, ngài sẽ là gánh nặng rất
đau đớn cùng với nỗi cô đơn gậm nhấm buồn phiền như bóng đêm.
Lại thêm một cô đơn khác nữa, cũng rất “người”.
Ngay cả khi đã về một nhà hưu nào đó, nỗi cô đơn kia vẫn là một
ám ảnh thấm thía, làm nặng thêm những cô đơn trông vắng trong
khoảng trời riêng, cũng lại thật “người”.
Cái
khoảng trống giữa khi làm việc và lúc về hưu luôn là không nhỏ.
Khi tại chức làm việc thì “còn duyên”, còn nhiều kẻ cần thiết
đón đưa. Khi về hưu, lúc đã “hết duyên” thì thui thủi “đi sớm về
trưa một mình”.
Toàn là những nỗi cô đơn, luôn luôn rất “người”.
Cuối cùng, sẽ là một thiếu sót lớn nếu không nói ra, sau khi
dâng thánh lễ mở tay, 5 năm, 10 năm hoặc một thời gian nào đó,
người linh mục ngày càng giảm dần cái sốt sắng ban đầu, tính
thánh thiêng trong thánh lễ cũng giảm dần, để biến thành những
thói quen nhàm, không còn là DÂNG LỄ, nhưng chỉ là LÀM\ LỄ với
những cử chỉ máy móc hình thức qua lần chiếu lệ. Điều này sẽ
thật là tệ hại, và cũng là Thánh giá cho chính mình và mọi giáo
hữu con chiên. Ngài rất sợ, không muốn điều này chút nào, nhưng
đã xảy ra, như thực tế vẫn đang xảy ra, đó đây nhiều lắm.
….đến những cái bẫy nơi giáo dân:
Giáo dân Việt nam, là những người người luôn yêu kính các linh
mục rất đặc biệt, nên không ai can đảm dám “giăng bẫy” linh mục.
Tuy nhiên,
những suy nghĩ và cách cư xử của họ đã trở thành những cái bẫy,
tuy vô tâm vô tình nhưng lại thật hiệu quả. Rất nhiều người linh
mục đã sập những chiếc bẫy ngọt ngào, êm dịu và đầy thú vị này.
Kẻ giăng bẫy thì nhiệt tình và rất chân thành. Kẻ lọt bẫy cũng
thường được vui lòng thoải mái.
- Thực vậy,
để tốt nghiệp và có thể hành nghề, một vị Bác sĩ cần 7 năm học
tập và thực nghiệm. Dù thế, vị ấy cũng chỉ tốt nghiệp một khoa
nào đó riêng biệt, nếu muốn thực hiện thêm khoa nào khác, phải
học thêm lên cao, mất rất nhiều năm. Chưa nói đến cái TÂM và Y
đức cần phải được mài dũa, thao luyện và sọi rọi qua từng ca
bệnh mỗi ngày.
Người linh
mục, như trường hợp bình thường, cũng chỉ được học tập và đào
tạo trong 6, 7 năm với các môn chuyên biệt về “đạo”, thêm một
thời gian nữa đi”giúp xứ, để khi ra trường đạt yêu cầu. Đang khi
môi trường “đời” luôn mênh mông muôn mầu và đổi thay hàng ngày
đến chóng mặt.
Thực tế là
như vậy, nhưng không biết từ lúc nào, người giáo dân vẫn coi
linh mục luôn là người thông suốt mọi sự, nhất là khi biết các
ngài đã được học những môn ghê gớm xa xôi như Thần học, Triết
học…
Khởi đi từ suy nghĩ và quan niệm như thế nơi giáo dân, nên người
Linh mục, vị lãnh đạo tinh thần, đã được mời kiêm nhiệm các chức
vụ trong nhiều lãnh vực khác nhau, nhiều khi chẳng hợp với
chuyên môn và thiếu hẳn kinh nghiệm của các vị ấy như : luật
pháp, kinh tế, Tâm lý, Xã hội ....
Từ
một người chuyên rao giảng lời Chúa, cử hành các bí tích, nay
phải đứng ra hòa giải các vụ tranh chấp, kiện tụng. Kỹ sư kiêm
đốc công các công trình xây dựng, quân sư về cung cách làm ăn.
Ấy là chưa nói Linh mục còn phải đảm nhận những chức vụ “ phần
đời” nọ kia khác.
Người giáo dân quen nhìn Linh mục như một kẻ thông suốt mọi sự,
“nhiều ơn Chúa”, độ tin cậy cao hơn hẳn mọi người, nên khi mời
và được ngài nhận lời thì quả là một vinh dự hiếm có.
Nhưng thực tế nhiều trường hợp đã minh chứng rằng, đó chỉ là
những cái bẫy ngọt ngào làm người linh mục sụp hố khi bị thua
lỗ, hỏng chuyện và thất bại đau đớn, điều ấy đơn giản, vì đó
không phải là các chuyên môn của các Ngài.
-
Kính trọng linh mục là điều quý và phải có, nhưng các cử chỉ quá
khúm núm là điều rất nguy hiểm, vì nó dễ làm cho người Linh mục
quên đi thân phận bụi tro, cục đất của mình, mình chỉ là một
dụng cụ tầm thường trong tay Chúa. Từ cục đất Chúa đã nắn thành
tượng Bụt, nhưng qua cách cư xử trọng kính quá khúm núm đến mất
tự nhiên của giáo dân, đôi khi, người linh mục lại có ảo tưởng
rằng mình là ông Bụt thật, là cái rún của vũ trụ, rồi từ đó, trở
thành quan liêu, độc tài, độc đoán, độc diễn ....
Trọng kính theo cái kiểu : “Con xin phép lạy cha ạ”,
người nói thì chân thành nhiệt tình, người nghe cũng thấy được
vuốt ve êm tai dễ chịu, nhưng đó chính là một cái cái bẫy khác
dễ làm mất dần căn tính dẫn đến vong thân đáng tiếc.
***
Như
ngọn nến phải bị đốt tan chảy thì mới cho ánh sáng, cũng thế,
người linh mục cũng đang tan chảy từng giờ cho các giáo dân của
mình. Ngọn nến kia có thể là lung linh đẹp đẽ, nhưng đôi khi
cũng leo lét gây nhiều lo âu. Song, dù lung linh hoặc leo lét
thì xin đừng quên, ngọn nến ấy cũng đã cho ta ít nhiều ánh sáng,
dù nhiều khi ánh sáng ấy chưa được như lòng mong ước. Và ngọn
nến ấy đang tàn dần, như chính chúng ta cũng đang tàn dần theo
từng giờ khắc.
“Bạc là Dân, bất nhân là lính”, câu nói ấy không phải lúc nào
cũng đúng và đúng với tất cả mọi người. Xin đừng BẠC, xin đừng
BẤT NHÂN với ngọn nến đã ít nhiều soi sáng cho mình, cho gia
đình mình trong xứ đạo trong thời gian nào đó.
Thân phận con người là mỏng dòn hạn chế, điều này ai cũng biết.
Đừng bắt ai là Thiên Thần, đang khi chính mình vẫn chỉ là NGƯỜI,
để xét nét phê bình hoặc chê bai cao giọng.
Quan hệ giữa giáo dân và người linh mục không phải lúc nào cũng
êm trôi xuôi chảy, đã có nhiều trục trặc trở ngại thật buồn.
Nhưng tất cả những ai đã từng xúc phạm cách này cách khác với
người linh mục, sau đó, đều thấy hối tiếc không vui và rất lấy
làm xấu hổ.
Một vị thức giả đã nói : “ Đừng hỏi Tổ quốc
đã làm gì cho Bạn, mà hãy hỏi Bạn đã làm gì cho Tổ quốc hôm nay”
. Một câu nói đầy minh triết bao dung của một tâm hồn cao đẹp.
Câu nói ấy cũng có thể đổi thành
:
“ Đừng hỏi linh mục đã làm gì cho Bạn, mà
hãy hỏi rằng, Bạn đã làm gì cho người linh mục hôm nay”.
Cụ
thể rằng, Bạn đã đi thăm chưa và được mấy lần người linh mục hưu
dưỡng? Bạn có băn khoăn và nghĩ gì về một ngọn nến đã hoặc đang
soi sáng trong xứ đạo của mình. Chỉ mới nghĩ vậy thôi, đã có
người phải rơi nước mắt.
Xin
được dùng câu nói in đậm trên kia để thay cho phần kết bài này,
và đây cũng là dịp may để nói với chính mình trước hết.
Xuân Thái. |
VỀ MỤC LỤC |
|
BÀI HỌC “TÉ”
|
Với con
người, chuyện học là chuyện cả một đời chứ chẳng phải là 5 hay
10 năm. 5 hay 10 năm hay 20 chục năm đi chăng nữa ấy cũng chỉ là
thời gian cho một quá trình đào tạo nào đó của con người. Thế
nhưng, con người, vốn dĩ là “nhân vô thập toàn” nên trong cái
hành trình làm người ấy cần có một tiến trình đào tạo bản thân
mình để con người có thể thành “người” hơn. Và rồi, trong mỗi
ngày sống, trong từng biến cố của cuộc đời, quá nhiều và quá
nhiều bài học dạy con người.
Chuyện mà
nhiều người biết, vừa qua, Đức Benedict XVI bị té. Ngài nói rằng
thiên thần hộ thủ của ngài đã không bảo vệ giúp ngài khỏi bị té
và gãy xương cổ tay là theo "Thánh Ý Thiên Chúa", hầu biến tai
nạn đó thành bài học dạy cho ngài về tính khiêm nhường, và cho
ngài thêm thời gian để cầu nguyện trong tĩnh lặng.
Ngài nói
thêm: "Thật không may, thiên thần hộ thủ của tôi đã không giúp
tôi tránh khỏi tai nạn. Điều đó tất nhiên là theo Thánh Ý Thiên
Chúa.Có lẽ Chúa muốn dạy cho tôi thêm về lòng kiên nhẫn và đức
khiêm nhường, cho tôi thêm thời gian để tĩnh lặng cầu nguyện và
suy tư."
Chuyện thật
là nhỏ đó là chuyện bị té nhưng rồi Đức Thánh Cha đã nhận ra bài
học to đó là bài học về khiêm nhường cũng như trong thời gian
dưỡng bệnh đó Ngài có thêm thời gian để tĩnh lặng cầu nguyện và
suy tư.
Bài học té
của Đức Thánh Cha quả thật chẳng phải là bài học riêng cho Ngài
nhưng là bài học chung cho nhiều người nếu như muốn lắng đọng,
nếu như muốn tìm Thánh Ý Thiên Chúa trên cuộc đời của mình.
Không cần phải nói nhiều, những người mang trong mình trách
nhiệm nặng nề như Đức Thánh Cha thì áp lực của công việc, áp lực
của thời gian đã đè nặng trên đôi vai của Ngài. Và với số tuổi
Ngài đang có thì áp lực đó còn nặng nề hơn biết bao. Ấy vậy mà
Ngài rất cần và cần thời gian tĩnh lặng và cầu nguyện. Không
phải chỉ có Đức Benedict XVI nhưng hình như nhiều vị tiền nhiệm
của Ngài như Đức Cố Giáo Hoàng Gioan Phaolô II cũng đã đặc biệt
dành nhiều thời gian cho cầu nguyện, cho suy tư.
Cuộc đời này
quá náo động đến độ người ta chẳng còn chút thời gian để suy tư,
để tĩnh lặng nữa. Chỉ có chột mới thương người mù và chỉ có què
mới thương người cụt mà thôi ! Chính trong giới hạn của con
người khi chột, khi què ta mới thấu hiểu được sự hạnh phúc của
người lành lặn là như thế nào ? Qua thật, nếu suy nghĩ, cái té
của ta sẽ cho ta bài học khiêm nhường như Đức Thánh Cha cảm nhận
đấy thôi ! Cái té ấy cho ta thấy rằng giới hạn của ta, khả năng
của ta, đặc biệt là Thánh Ý của Chúa trên cuộc đời ta. Trong
lành lặn, ta vẫn thường mang cái cảm giác rằng ta thành toàn, ta
hơn người khác nhưng trong những lúc ta yếu đuối, ta tật nguyền,
ta mới hiểu, ta mới cảm được phận người là như thế nào ?
“Một cơn gió
thoảng, dù làn gió biến đi, nơi nó mọc cũng không còn mang vết
tích …” Lời bài đáp ca thường được các ca đoàn sử dụng trong các
Thánh Lễ An Táng thật ý nghĩa. Phận con người là thế đó, phận
con người thật mau qua chóng tàn nhưng con người vẫn luôn mang
trong mình cái “khoái cảm” của sự kiêu căng, của sự tự mãn.
Nhiều lần nhiều lúc trong cuộc đời té lên té xuống, ngã lên ngã
xuống ấy nhưng chẳng hề rút ra một bài học nào cả. Bi đát nhất
là mình té ấy nhưng chẳng bao giờ nhìn thấy cái giới hạn của
mình cũng như chẳng bao giờ đồng cảm cho những người bị té.
Như cái nhìn,
cái nghĩ bình thường của con người, được làm đến Đức Giáo Hoàng
đồng nghĩa với một con người uyên bác, tài giỏi đến độ không cần
học nữa nhưng không. Đức Giáo Hoàng vẫn học và vẫn học. Ngài vẫn
học từ nhiều bài học thường ngày của Ngài nơi các vị lãnh đạo,
nơi các nguyên thủ quốc gia, nơi những người Ngài gặp gỡ và đặc
biệt trong cái biến cố thường ngày Ngài gặp phải.
Mỗi người
chúng ta, không ít thì nhiều, thi thoảng hay bị té nhiều lần
trong cuộc sống ấy chứ ! Thế nhưng mà, sau những lần té, những
lần vấp ngã ấy, chúng ta có tâm tình, có nhận ra những bài học
như Đức Thánh Cha té hay không ? Hay là chúng ta, sau những lần
té ấy cứ vênh vang tự cao tự mãn.
Kiêu ngạo là
một tính xấu, khiêm nhường là một tính tốt ! Điều này ai cũng
biết qua tâm tình của Thánh Phaolô tông đồ : “điều tôi biết là
tốt tôi không làm, điều biết là xấu thì tôi lại cứ làm”.
Vâng ! Cái
tốt, cái xấu; cái kiêu ngạo, cái khiêm nhường nó vẫn tìm ẩn, vẫn
giằng co trong con người chúng ta. Chúng ta cần phải chế ngự,
kìm hãm cái xấu, cái kiêu ngạo để cho cái tốt và cái khiêm
nhường nổi lên trong cuộc đời ta.
Đẹp và đẹp
lắm những tâm hồn cao thượng, những tấm lòng khiêm hạ trước mặt
anh chị em đồng loại và nhất là khiêm hạ trước sự quan phòng
tuyệt vời của Thánh Ý Thiên Chúa.
Hai Tôm Cần
Giờ |
VỀ MỤC LỤC |
|
CANH TÂN SƯ PHẠM
GIÁO LÝ (BÀI 4):
GIÚP CÁC EM SỐNG ĐẠO VÀ ĐÀO TẠO NHÂN CÁCH CÁC EM
|
Ở nhiều giáo xứ,
hoạt động giáo lý được chú trọng và giáo lý viên để tâm đến cách
sống hàng ngày của từng em học sinh của mình. Đó là điều lý
tưởng mà mọi giáo lý viên cần hướng đến. Nhưng vì nhiều lý do,
trong đó có những cản trở về thời gian và hoàn cảnh xã hội, ở
nhiều nơi, giáo lý chỉ đơn giản là đến lớp nghe cắt nghĩa bài có
trong sách và khi hết giờ thì hoạt động giáo lý chấm dứt. Nếu
giáo lý chỉ cần như thế thôi thì Giáo Hội đã không thao thức tìm
những đường hướng thích hợp và ân cần nhắc bảo như Giáo Hội đã
làm. Vậy, dạy giáo lý còn phải được hiều sâu xa hơn và thực hành
thật chu đáo.
I. DẠY GIÁO LÝ:
GIÚP CÁC EM SỐNG ĐẠO
Tông
Huấn Catechesi Tradendae dạy: « Bản chất của việc dạy Giáo Lý
gắn liền với tất cả các hoạt động Phụng Vụ và các Bí Tích, vì
chính các Bí Tích và nhất là Bí Tích Thánh Thể là nơi Đức Ki-tô
hoạt động một cách sung mãn để biến đổi nhân loại. Việc dạy Giáo
Lý sửa soạn cho việc lãnh nhận các Bí Tích ».
(số 23).
1. Giúp
các em cảm được các mầu nhiệm và trung thành sống các mầu nhiệm.
Đức tin,
các bí tích, việc cầu nguyện… phải là chính cuộc sống người Kytô
hữu. Giáo lý giúp các em cảm nghiệm và sống các mầu nhiệm. Việc
dạy giáo lý không chỉ là cung cấp kiến thức tôn giáo mà hơn nữa,
là huấn luyện đời sống thân tình với Đức Giêsu là Đấng đang sống
và hoạt động giữa loài người hôm nay. Nói thế nào cho các em cảm
được và sống được như vậy không phải dễ dàng. Chắc chắn phải có
sự hướng dẫn và nâng đỡ của Chúa Thánh Linh. Và mỗi giáo lý viên
phải làm sao, bằng lời nói và gương sáng của mình, cho các em
thấy các mầu nhiệm thánh gắn bó với đời mình còn hơn không khí
để thở từng ngày, từng giờ.
2. Giúp
các em thực hành Lời Chúa một cách hồn nhiên và trọn vẹn.
Học
giáo lý là học và sống Lời Chúa. Các em phải được thấm nhuần Lời
Chúa, để Lời Chúa gắn bó với các em như hơi các em thở, hoà nhập
vào cuộc đời các em để các em sống và lớn lên hàng ngày với Lời
Chúa. Do đó giáo lý viên phải trình bày Lời Chúa sao cho sống
động, dễ nhớ, dễ cảm ; và biến Lời ấy thành quyết tâm sống,
những quyết tâm cá nhân được gợi lên nhờ lòng mến chứ không phải
vì áp đặt chung chung. Muốn như thế, thái độ của giáo lý viên
đối với Lời Chúa và cách anh chị nói về Lời Chúa quả thật có một
tầm quan trọng lớn lao.
3. Giúp
các em chiếu toả Tin Mừng cho thế giới hàng ngày.
Ý thức
truyền giáo cũng phải được gieo vào lòng các
em thật sớm, vì đó là sứ mạng cao cả gắn liền với bản chất Giáo
Hội Chúa Kytô. Các em yêu mến Chúa và Giáo Hội thì các em cũng
sẽ góp phần làm cho người chung quanh nhận biết Chúa. Phải tập
cho các em biết hãnh diện khi tuyên xưng đức tin dưới bất cứ
hình thức nào, làm dấu Thánh Giá khi ăn cơm trước mặt mọi người
chẳng hạn. Nếu muốn các em hăng say với bổn phận truyền giáo,
các anh chị phải cho các em thấy đức tin của các em là ân huệ
siêu nhiên cao cả, cần thiết cho cuộc đời, và các em phải quảng
đại chia sẻ ân huệ ấy. Phải làm cho các em thấm nhuần điều mà
Học Thuyết Xã Hội Công Giáo dạy : « Sứ mạng của Giáo Hội là công
bố và truyền đạt sự cứu độ đã có được trong Đức Giêsu Kitô, mà
Người gọi là “Nước Chúa” (Mc 1,15)
II. DẠY GIÁO LÝ : ĐÀO
TẠO NHÂN CÁCH CHO CÁC EM
1. Giáo
lý đào tạo con người toàn diện
Hội
Thánh vẫn luôn trình bày mầu nhiệm cứu độ một cách toàn diện cho
con người mọi thời. Giáo lý cũng nằm trong viễn cảnh đó. Có một
thời người ta hiểu giáo lý như là dạy các em thuộc vài câu hỏi
thưa rồi lãnh nhận các bí tích, thế là đủ. Nhưng một Kytô hữu
chỉ được coi là trưởng thành trong đời sống đạo khi người ấy gắn
bó đời mình với Đức Giêsu và đổi mới từ tâm hồn, nhân cách đến
từng cách sống mỗi ngày theo đòi hỏi của Tin Mừng. Vì thế mà
việc dạy giáo lý không thể tách rời con người phần xác, phần xã
hội ra khỏi con người của niềm tin thiêng liêng.
2. Giáo
dục Việt nam ngày nay không giúp đào tạo nhân cách
Mục
tiêu giáo dục là đào tạo con người. Nhưng để phục vụ cho nhiều
mục tiêu khác nhau, giáo dục Việt nam bây giờ không góp phần đào
tạo con người. Những mớ kiến thức được nhồi nhét cùng với những
chiếc cặp oằn vai các em, những bữa ăn vội vã trên yên xe ngoài
đường phố khói bụi cho kịp giờ học thêm… có rèn luyện nhân cách
các em hay không ? Đó là chưa kể đến sự gian dối tràn lan ở học
đường. Ngay cả thầy cô một vài môn học cũng thừa nhận « Chúng
tôi nói dối ăn lương ! ». Ở trong môi trường giáo dục đó, các
em sẽ hình thành nhân cách theo hướng nào ? Rõ ràng chúng ta chỉ
còn trông chờ vào các lớp giáo lý, nơi đó việc đào tạo nhân cách
các em phải được nhấn mạnh cùng với đời sống tâm linh.
3. Giáo
lý viên nên làm gì ?
Giữa một xã hội mà việc giáo dục có nhiều vấn đề như thế, lớp
giáo lý càng có thêm trách nhiệm đào tạo nhân bản, dưới ánh sáng
của Lời Chúa. Dĩ nhiên chúng ta trình bày về Giêsu là trình bày
về các mầu nhiệm thánh, nhưng không chỉ là lý thuyết thần học,
mà là chính mầu nhiệm Giêsu đi vào cuộc đời để cứu độ con người
cả hồn lẫn xác: nâng cao nhân vị (x. Học thuyết Xã hội của Giáo
Hội, chương III).
Khi
dạy lối sống, rèn nhân cách cho các em, chúng ta cần hướng các
em về việc bắt chước trẻ Giêsu ở Nagiarét. Các em cần tập các
đức tính nhân bản như : Trung thực, cao thượng, dũng cảm, trách
nhiệm, nhân hậu v.v…
Để
đào tạo nhân cách các em, giáo lý viên phải kiên trì giảng dạy,
uốn nắn và nhất là cầu nguyện cho các em. Gương Chúa Giêsu va
mẫu gương các thánh rất cần thiết trong tiến trình đào tạo này.
Giáo lý viên cần chìm sâu vào, ngập lặn trong Giêsu khi soạn
bài, khi giảng bài và khi đối xử với các em. Anh chị hãy nói về
Giêsu say sưa như chưa bao giờ được nói. Anh chị nên nói sao cho
các em cảm được cuộc sống có hai con đường rõ rệt: con đường của
Giêsu và con đường thế gian.
Con đường Giêsu là con đường thế
nào? Tác động của bài giáo lý là giúp các em hiểu về Giêsu hơn –
yêu mến Giêsu hơn và quyết định sống như Giêsu.
Nếu chúng ta
gào lên: các em hãy trung thực, đừng nói dối, đừng ăn cắp, các
em sẽ nghe theo không? Vậy chúng ta hãy cùng
a/ Giúp các
em yêu mến và bắt chước Giêsu ấu thơ bằng cách kể chuyện về Chúa
Giêsu và lặp lại lời Người dạy.
b/ Kể cho các
em gương các thánh, những người chọn Giêsu làm mẫu mực cho đời
mình.
c/ Thời đại
hôm nay có rất nhiều bạn trẻ theo gương Giêsu. Ở trường học,
người ta đưa ra nhiều “tấm gương” rất kỳ cục, lạ đời, không nhân
bản. Chúng ta cần đưa những mẫu gương của các bạn cùng trang lứa
với các em, đang sống đời sống tốt đẹp, nhân ái v.v…
d/ Tập cho
các em sống đẹp, cao thượng bằng những hoạt động cụ thể.
Nguyện xin
Đức Trinh Nữ Maria, người Mẹ trẻ đã thành công rực rỡ trong việc
đào tạo Giêsu thơ ấu, chúc lành cho chúng con và giúp chúng con
đào tạo các em có hiệu quả. “Kính mừng Maria đầy ơn phúc, Đức
Chúa Trời ở cùng Mẹ”.
(Bài sau:
Áp dụng phương pháp “Học sinh là trung tâm”)
Gioan
Lê Quang Vinh
samuelvpn@gmail.com
|
VỀ MỤC LỤC |
|
ĐỪNG ĐỂ Ý THÁI QUÁ (2)
|
Bạn của người
mẹ dừng lại để nhấp ly cà phê vào buổi chiều. Khi họ ghé thăm,
cô bé Kim Uyên chạy vào kiện với mẹ vì chuyện bất công do cô bé
bạn của nó. Bà mẹ giải thích:
”Mẹ nghĩ: bạn
con chiều nay không được thoải mái lắm”.
“Tại sao mẹ?”
Bà mẹ cố
gắng trả lời chữ tại sao. Cuối cùng bà mẹ bảo cô bé ra đó chơi
để bà có thể tiếp khách. Cô bé chạy ra nhưng không bao lâu lại
chạy vô với nhiều câu hỏi: tại sao?
Hầu hết thời
gian khách đến đều bị cô bé làm bận rộn. Cuối cùng bà mẹ cắt
nghĩa cho bạn:
Đó là cách
thế cô bé muốn gây sự chú ý khi chúng tôi có bạn.
Người mẹ nói
rất đúng điều mà cô bé muốn. Cô bé còn nhỏ nên muốn tất cả sự
chú ý đều tập trung trên cô bé thôi. Điều quan trọng đối với cô
bé là làm cho bà mẹ luôn bận rộn và ngăn cản bà không được nói
chuyện say mê với bạn hơn là phát triển tình bạn với bạn bè của
nó. Nhưng bà mẹ xem ra không nhận thức ra rằng cô bé đang hành
động không đúng. Bà mẹ thấy điều mà cô bé đang làm nhưng không
để ý ý nghĩa của hành động của nó. Bao lâu bà mẹ nhận ra rằng cô
bé làm bà bận rộn chỉ vì nó cảm thấy bị bỏ rơi ngoại trừ nó là
trung tâm của sự chú ý, bấy giờ bà có thể giúp nó không tìm
những sự chú ý không thích hợp nữa để nó có thể lớn lên và trở
nên tự mãn.
Khó huấn
luyện một đứa trẻ khi khách còn ở đó. Tuy nhiên, lời nói đầu bà
mẹ có thể thỏ thẻ với nó:
“Đang có
khách, con có thể đi chơi với bạn và để mẹ tiếp khách, hoặc con
có muốn đi vào phòng con không?”
Nên cho phép
cô bé có sự chọn lựa và cho nó có sự cộng tác.
Chúng ta có
thể luôn nghi ngờ về đứa trẻ với một lố câu hỏi tại sao? Có được
bao nhiêu lần một đứa trẻ thật sự tìm hiểu để biết tin tức?
Chúng ta định giá thấp con trẻ chúng ta. Không biết bao nhiêu
lần con trẻ hỏi tại sao, cho dù nó biết câu trả lời. Để gây được
sự chú ý của cha mẹ, nó có thể luôn tạo ra các câu hỏi tai sao
kế tiếp. Khuôn mặt của đứa trẻ cho thấy gì? Thích thú? Câu hỏi
có cho thấy sự lý luận không? Hầu hết câu hỏi tại sao là vô
nghĩa. Câu hỏi tại sao là để làm cho bố mẹ luôn bận rộn với nó.
Nó biết bố mẹ đang muốn dạy cho nó nên muốn dùng cách đó để kéo
sự chú ý, không phải để học. Nếu chúng ta nhìn, chúng ta sẽ thấy
rõ điều đó. Nếu chúng ta để ý những câu vô nghĩa, sự lập lại
hình thức và nội dung, và ngay cả nếu có một câu hỏi mới trước
khi câu hỏi trước được trả lời, bấy giờ chúng ta tin chắc rằng
đứa trẻ đang gài bẩy chúng ta. Vì thế, chúng ta có thể trả lời
cùng với một cái mỉm cười đầy hiểu biết và nói:
“Mẹ thích
chơi với trò chơi tại sao của con. Nhưng bây giờ mẹ phải làm
công việc tiếp theo”.
Bé Dũng 5
tuổi, gần áp út trong 4 đứa trẻ, là một đứa trẻ tốt trong gia
đình. Tuy nhiên, nó có tật luôn làm một cái gì khiến bà mẹ phải
chia trí trong lúc bà cần phải chú tâm. Mỗi lần bà nói chuyện
trên điện thoại, nó tìm cách cắt đứt câu chuyện. Nó phải đưa cho
bà thấy một cái gì, hoặc xin đi ra ngoài, hoăc xin cho bạn bè
vào, hay muốn có cái gì để ăn, muốn lấy một cái gì ngoài tầm tay
nó, hoặc muốn biết những đồ chơi nó đang ở đâu. Thỉnh thoảng bà
phải ngưng nói chuyện để trả lời cho nó. Có lúc bà phải quở
trách nó:
“Hãy để yên
cho mẹ nói chuyện”.
Vào lúc đó nó
thường chọc phá em nó và khiến cho em nó khóc.
Bé Dũng ở vào
vị thế giữa trong 4 đứa. Ít nhiều nó cảm thấy bị lép vế. Nhưng
nó đã tìm ra một cách thế để chứng tỏ sự quan trọng của nó. Nó
có thể cảm thấy không có hy vọng chiếm được sự chú ý của mẹ nó
khi bà bận rộn với đứa bé em. Nhưng khi bà nói chuyện trên điện
thoại, nó có thể cắt đứt cuộc nói chuyện của bà với người lớn
khác.
Cậu bé quá
tham vọng. Nó muốn được chú ý tất cả mọi lúc. Mẹ nó cần dẫn nó
ra khỏi việc tìm kiếm sự chú ý không mấy thích hợp đó. Trước
nhất, bà phải nhận ra rằng nó không biết vị thế của nó. Bà mẹ
phải tỏ ra bà quí mến, thích thú nó, nhưng không phải vào lúc nó
có những đòi hỏi không thích hợp. Khi nói chuyện trên điện
thoại, bà cứ tiếp tục nói dường như không có nó ở đó, ngay cả
khi bà không nghe được tiếng nói ở đầu giây bên kia. Muốn được
vậy, bà phải cương quyết và dứt khoát, đặt biệt khi cậu bé bắt
đầu chọc phá cô bé con, em của nó. Đừng lo, cô bé con có thể
kiềm chế được. Phải giáo dục cậu bé biết tự mãn và không lệ
thuộc vào sự chú ý của bố mẹ thái quá.
Khi chúng ta
không đáp trả những đòi hỏi chú ý quá đáng của một đứa trẻ,
chúng ta cần phải chú ý đến nó một khi nó biết cộng tác. Điều đó
sẽ giúp đứa trẻ tái xác định giá trị phương pháp của nó. Khi cô
bé út ngồi chơi một mình bà mẹ có thể khen:
“Thật là tốt
khi con biết cách lo cho chính mình con”.
Khi cô bé
cùng chơi với các bạn nó, bà mẹ có thể nói:
“Mẹ thấy vui
khi con chơi vui vẻ với các bạn.”
Với cu bé
Dũng, bà có thể khích lệ:
“Mẹ sung
sướng thấy con vui vẻ và tử tế với mẹ và khách.”
Trẻ con cần
sự chú ý của chúng ta. Nhưng chúng ta phải ý thức về sự khác
biệt giữa sự chú ý đúng lúc và không đúng lúc. Nếu chúng ta cảm
thấy mình quá bận với đứa trẻ khi tình thế không cho phép, hoặc
khi chúng ta cảm thấy chán nản hay mệt mỏi, chúng ta có thể xác
tín rằng chúng ta đang đối đầu với những đòi hỏi không thích
hợp. Hãy xem tình thế. Hoàn cảnh đòi hỏi gì? Đứa trẻ có thể giải
quyết được vấn đề hay không nếu chúng ta không can thiệp? Sự đáp
trả của chúng ta có ảnh hưởng đến quan niệm của đứa trẻ hay
không? Điều đó có chứng tỏ cho nó rằng nó có thể làm được mà
không cần đến chúng ta, hoặc có làm cho đứa trẻ thành kẻ thụ
động, yếu ớt, lười biếng, và lệ thuộc vào người khác không?
Để giúp con
trẻ nhận ra rằng nó có thể tìm được sự thõa mãn trong cuộc đời
từ sự đóng góp tùy theo nhu cầu của hoàn cảnh, chúng ta cần phải
ngưng làm mọi cái sẵn cho chúng, và hãy giúp chúng gặt hái với
những cố gắng của chúng tùy theo nhu cầu của hoàn cảnh đòi hỏi.
Lm.
Lê văn Quảng. tiến
sĩ tâm lý |
VỀ MỤC LỤC |
|
LÁ
|
Hôm nay, ngồi đọc
sách dưới một vòm cây râm mát trong vườn, tự nhiên tôi muốn viết
về lá.
Hình như lá hiện
diện ở bất cứ nơi nào có sự sống. Ngày xưa ông Noe tránh nạn đại
hổng thủy trên tàu; sau khi tàu đã trôi lênh đênh nhiều đêm
ngày, ông muốn kiểm chứng xem mặt đất đã khô cạn và có sự sống
chưa, liền thả chim bờ câu ra nhiều lần, cho đến khi bồ câu bay
về, mỏ ngậm cành lá ô-liu, ông biết rằng mình đã có thể sinh
sống trên mặt đất.
Lá còn thể hiện sự
sống ngay chính trên thân cây. Cắm một cành cây xuống đất, người
ta chưa thể biết cành cây ấy có sống không. Phải chờ đến khi
những lá non nhỏ xíu nảy ra từ cành cây, người ta mới biết được
cây thực sự sẽ sống. Những ngày mùa Đông rét mướt, lá cây rụng
hết và cây chỉ còn là những cành khẳng khiu xám xịt, cây trong
trạng thái tiềm sinh, người ta nói rằng cảnh vật trông như đã
chết. Mùa Thu chết, mùa Đông chết, trước hết được hiểu theo
nghĩa ấy.
Lữ hành đi trong sa
mạc, khi nào thấy có cây cối và cành lá xanh tươi, họ biết rằng
nơi ấy có nước, có sự sống. Màu xanh của lá chính là niềm ước
mơ, khát vọng của người đi trong sa mạc. Khát vọng ấy quá lớn
lao, đến độ nhiều khi đã trở thành ảo ảnh, khiến họ nhìn đâu đâu
trên dải cát vàng mênh mông cũng thấy cây, thấy lá.
Lá là biểu tượng cho
sự tươi mát và sự sống. Tôi cũng thế. Tôi là thân cây, cành cây;
sự tươi mát được thể hiện qua cách sống của tôi là lá cây. Chính
sự tươi mát đó khiến người khác thấy nơi tôi có sự sống và thấy
họ có thể sống bên cạnh tôi, sống với tôi. Giận dữ, cau có, u
buồn khiến tôi mất đi vẻ tươi mát của sự sống và làm người khác
không dám sống gần tôi nữa.
Nói đến cây và lá
trong sa mạc, tôi nhớ đến những cây xương rồng, những bụi gai
mọc lên vã sống rất lâu năm trên những vùng đất cằn cỗi và nóng
bỏng. Cây cần nước, vậy mà tại những nơi ấy, nước rất hiếm hoi.
Để cây có thể sống, lá cây thu lại nhỏ li ti hoặc biến thái
thành gai, hầu cho diện tích thoát hơi nước hẹp tới mức tối đa,
giúp cho cây giữ được nước trong thân. Nghĩ đến cây và lá, tôi
lại nghĩ đến người. Trước lơi ích chung của cộng đồng, tập thể
có mấy ai trong chúng ta dám thu nhỏ mình lại,
dám
lui đi, dám tự tan biến?
Lá cung hiến cho con
người tất cả khả năng của mình và sẵn sàng để con người sử dụng.
Lá tranh để lợp nhà. Lá chuối, lá dong để gói bánh, gói thức ăn.
Những cái bánh chưng ngày tết ở quê tôi, được gói bằng những tàu
lá dong to bản, tự nó đã có một mùi thơm mộc mạc và quyến rũ.
Khi chiếc bánh được bóc ra, màu của lá dong nhuộm xanh những hạt
nếp bánh, trông ngon mắt làm sao. Không có lá dong thì bánh được
gói bằng lá chuối, cũng tạm đẹp mắt. Còn bánh chưng gói bằng
giấy bạc, hình như bánh không còn phải là bánh chưng nữa. Để
gói, tôi nghĩ lá chuối, dù tươi hay khô, được dùng nhiều nhất. Ở
quê tôi, bánh dày được phết trên những miếng lá chuối cắt tròn
trịa trông cũng hay hay. Tôi còn nhớ đến những cái lá sen vươn
cao khỏi mặt nước làm cho hồ sen thêm đẹp và nên thơ. Người ta
cắt những cái lá sen ấy về, dùng để gói những hạt cốm xanh non,
thơm ngát mùi hương đồng nội. Lá dứa, lá cau dùng để trang trí.
Lá vạn tuế vừa để cầm đi rước, vừa để... đuổi ruồi. Nhưng dù
được dùng để lợp nhà hay gói bánh, gói vật dụng, hay làm bất cứ
công việc gì, dù vinh quang hay hèn kém, lá cũng mang tính chất
che chở, bao bọc, giúp đỡ. Trong cuộc sống, giá mà người ta học
được nơi lá tính chất gìn giữ, che chở, bao bọc, giúp đỡ người
khác như thế, xã hội loài người sẽ dễ thương hơn hiện tại
rấtnhiều.
Thông thường nhất,
khi còn ở trên cây, lá làm nên một khoảng râm mát, che cho con
người khỏi cái nắng cháy da. Chuyện có vẻ bình thường, nhưng nếu
suy nghĩ về hình ảnh ấy, tôi thấy rõ ràng rằng dù tôi có yếu
đuối về thể lực ,có hạn hẹp về kiến thức, có nghèo nàn về tài
chánh, thì chính cuộc sống của tôi cũng đã góp phần giúp ích
nhân loại, nếu tôi có thiện chí và dám hi sinh. Muốn che nắng
cho con người, chính lá phải đưa thân ra chịu nắng thiêu đốt.
Muốn bao bọc ai, hi sinh cho ai, tôi cũng phải giống như lá,
tình nguyện chịu hủy hoại, chịu thiêu đốt. Bằng không, lòng mong
ước hay lời nói của tôi không đem đến một kết quả cụ thể nào.
Ngay cả khi đã rụng
xuống, đã chết, lá vẫn còn giúp ích cho con người. Người ta gom
những lá khô ẩy lại, đốt lên, làm thành ngọn lửa sưởi ấm trong
những ngày mùa Đông giá buốt, Con người, có mấy ai chịu thiêu
đốt để trở thành ánh lửa sưởi ấm cho nhau?
Có những cô thiếu nữ
mơ mộng, không đốt lá vàng, nhưng ép những chiếc lá ấy trong
sách. Ngắm những chiếc lá khô ép mỏng, người ta có thể bùi ngùi
nghĩ lại cả một chuỗi dài kỉ niệm. Lá, khi ấy, trở thành một
người bạn thầm lặng, nhắc nhở cho ta những thăng trầm của cuộc
sống, những biến đổi của thời gian.
Lá đùng để ăn. Các
loại rau tươi, hầu hết là những thứ lá cây. Và rau chính là loại
thực phẩm tốt nhất, hiền nhất, đem lại cho con người sự nuôi
dưỡng trong sạch lành mạnh nhất. Dù tốt và hiền, rau tươi cũng
có sự quyến rũ đặc biệt của nó. Một bát bún riêu không còn đủ
hấp dẫn nếu không được ''trợ lực'' bằng một đĩa rau xà lách thái
nhỏ, hay một rổ rau muống chẻ loăn xoăn, với một màu xanh mát
mắt. Và các món cuốn bánh tráng sẽ vô vị đến thế nào, nếu không
có những thứ rau sống để ăn chung? Các món bún miền Nam
sẽ mất đi hương vị đặc biệt nếu thiếu lá rau dấp. Lại còn lá
lốt, lá nho được dùng để bọc thịt bò mà nướng nữa. Món gỏi cá,
nếu dọn cho đầy đủ, cần đến ba mươi sáu thứ lá khác nhau...
Người ta có trăm ngàn món ăn cần đến những thứ lá cây.
Chẳng phải chỉ loài
người mới dùng lá cây làm thực phẩm, nhiều loại động vật khác
cũng ăn lá cây. Người ta phân loại: động vật ăn thịt như cọp,
như beo là loại thú vật dữ; động vật ăn lá cây, rau cỏ như nai,
như thỏ là loại thú vật hiền. Như thế, bản chất của lá cây nói
chung là bản chất hiền, khiến cho những loại động vật ăn lá ăn
rau cũng trở nên hiền. Điều đó dạy cho tôi rằng: Tôi hãy cứ sống
tốt, sống hiền, sống yêu thương người khác; nơi tôi sẽ có một
hấp lực, một sự quyến rũ tự nhiên, và rồi dần dà tôi sẽ có ảnh
hưởng để giúp người khác cũng sống tốt, sống hiền, sống yêu
thương như thế.
Lá còn được dùng để
chữa bệnh. Đa số các loại lá đều có dược tính và có thể dùng để
trị những bệnh tật của con người, Y lí Đông phương dựa trên sự
cân bằng, điều hòa âm dương trong cơ thể. Những lá cây đều có
tính âm, tính dương, có thể khống chế hay gia tăng cái âm, dương
nơi con người để tạo nên sự cân bằng, và nhờ đó khỏi các bệnh
tật. Các danh y thời thượng cổ thường có thuật nếm lá cây để
biết được dược tính của nó, hầu dùng những thứ lá ấy vào việc
trị bệnh: Như thế, muốn trị được bệnh cho con người, chính lá
cây phải mang dược tính, tức là phải có sẵn khả năng trị bệnh.
Tôi cũng thế, nếu muốn giúp người khác thoát khỏi những bệnh tật
tinh thần và tâm linh, chính tôi phải mang trong mình cái khả
năng trị bệnh đó. Muốn giúp người khác sống bình an, chính lòng
tôi phải có sự bình an. Muốn giúp người khác quên hận thù và
biết tha thứ, chính lòng tôi phải quảng đại và biết tha thứ.
Muốn giúp người khác sống yêu thương, chính lòng tôi phải có sự
yêu thương. Thiếu những ''dược tính'' ấy trong chính tâm hồn
mình, tôi không thể chữa bệnh cho người khác được.
Lá để chữa bệnh,
nhưng cũng có thứ lá làm chết người. Đó là những thứ lá độc.
Những thứ lá này trông bên ngoài cũng hiền lành như bao chiếc lá
khác, nhưng bên trong nó có chất độc, người không may ăn phải có
thể bỏ mạng. người ta cũng thế. Có những người trông bên ngoài
rất bình thường, rất hiền lành, có thể rất đạo đức nữa. Nhưng
bên trong họ có thuốc độc. Họ có thể làm chết người khác vì thủ
đoạn, mưu mô, vì chính chính vẻ hiền lành, lời nói ngon ngọt của
họ. Tôi tự nhủ lòng sẽ sống làm sao để không trở thành những thứ
lá độc, những người giả hình.
Một vườn um tùm hoa
lá là hình ảnh tươi đẹp nhất của cuộc sống chung và bình đẳng.
Từ những chiếc lá to như lá chuối, lá cau, lá dừa, lá đu đủ;
những chiếc lá hạng trung như lá đa, lá đề, lá bàng...cho đến
những chiếc lá nhỏ xíu xịu như lá me, lá trinh nữ... tất cả đều
vui tươi dưới ánh mặt trời và đều vươn lên đầy sức sống. Từ
những thứ lá tuốt trên cau như lá thông, lá tre, cho đến những
thứ lá là đà sát đất như bụi rau, bờ cỏ... tất cả đều tự do phát
triển và nảy nở. Không thứ lá nào phủ nhận thứ lá nào, không thứ
lá nào xem thường thứ lá nào. Người ta dù có cách biệt nhau về
thể chất, tài năng, tiền của... nhưng có lẽ sự cách biệt ấy
không quá đáng như tàu lá dừa và cái lá me. Vậy mà người ta vẫn
cứ lên mặt vơi nhau, khinh thường và phủ nhận nhau. Bao giờ
người ta biết sống chung và sống bình đẳng như lá, người ta sẽ
tạo ra một xã hội xanh mát, vui tươi như một vườn đủ mọi loại lá
hoa.
Nói đến lá cau, tôi
nhớ đến những chum nước mưa trong vắt và ngọt ngào. Ngày xưa,
người dân ở quê tôi thường lấy nước mưa vào chum bằng cách dùng
lá cau. Tàu lá cau bị chặt ngang giữa sống lá cho gãy khụp
xuống, người ta vất bỏ phần sống lá phía trên rồi buộc tàu lá
vào thân cau. Phần lá đón nhận nước mưa chảy theo thân cau, dẫn
vào phần sống lá còn lại, nay mang nhiệm vụ của một thứ
''máng"', chuyển nước mưa vào chum, Tàu lá cau tầm thường đã
biến thành vật dụng hứng và chuyển những hạt ngọc của trời cho
con người hưởng dụng. Tôi nghĩ đến thiện chí của tôi. Nhiều khi
tôi cũng muốn và tự nguyện làm máng chuyển ơn Chúa đến người
khác Nhưng muốn thực hiện được điều ấy, tôi phải biết hi sinh,
phải bằng lòng để cho Chúa đốn, chặt, đưa vào khuôn khổ và tước
bỏ đi những gì thừa thãi, những gì làm ơn của Ngài phân tán,
không chảy vào được cõi lòng người khác; cũng giống như tàu lá
cau phải chịu chặt ngang sống lá, chịu tước bỏ đi những phần
thừa thãi, chịu trói buộc vào thân cau mới có thể dùng được làm
máng dẫn nước mưa vào chum vào vại.
Lá là biểu tượng của
niềm hi vọng và hòa bình. Màu xanh của lá có thể nói là màu vui
tươi nhất, đầy sức sống nhất, màu gợi cho ta về một tương lai
đấy hứa hẹn. Cành lá uốn cong trong dấu hiệu của Liên Hiệp Quốc
nói lên khát vọng hòa bình của con người. Nếu tôi sống làm sao,
mà khi nhìn vào tôi, người khác thấy một sự bình yên, một niềm
an lạc; thấy yêu đời, vui tươi và hi vọng... khi ấy tôi trở nên
giống lá, trở nên biểu tượng của hi vọng và hòa bình.
Lá cũng là hình ảnh
trọn vẹn nhất của kiếp người. Người ta lọt lòng mẹ với thân phận
hài nhi, dần dần lớn lên, phát triển, trưởng thành; trải qua
nhiều biến thiên dời đổi của cuộc đời, rồi già, rồi bệnh và
chết. Chiếc lá cũng thế bắt đầu nhú ra từ cành cây, xanh non,
nhỏ xíu, rồi phát triển, lớn lên dần, đậm màu dần. Trải qua mưa
nắng và tiết mùa, lá đã nhiều lần thay đổi hình dạng và sắc độ.
Kịp đến khi mùa Thu tới, lá úa vàng, lắt lay theo ngọn gió... để
rồi giữa Thu hoặc sang Đông, lá lặng lẽ rời cành. Cũng có khi vì
một lí do bất thường nào đó, lá vàng còn ở trên cây mà lá xanh
đã mau rơi rụng. Chính vì thế mà khi ngả mũ chào một đám tang đi
qua, ''thiên
hạ bên đường nhìn xe tang tự hỏi:
lá mùa Xuân hay
lá úa
mùa Thu
?'' Có lẽ đời lá diễn tả trọn vẹn đời người, nên không biết bao
văn sĩ, thi sĩ, nhạc sĩ đã lấy lá làm đề tài diễn tả tình người.
Riêng tôi, nhìn lá, tôi cảm nhận đượcthân phận mỏng manh của
kiếp người và của chính mình.
''Đời sống
con người
chóng qua như cỏ như hoa mọc giữa
cánh đồng; một
cơn gió thoảng
cũng đủ làm nó biến đi, và nơi nó mọc không còn vết tích.
'' Cảm nhận và ý thức như vậy, tôi quí trọng đời sống của
tôi, và cố gắng sống thế nào để những ngày hiện hữu trên mặt đất
trở nên hữu ích cho tôi và cho người khác.
Không biết đã có
biết bao nhiêu bài văn, bao nhiêu câu thơ bao nhiêu dòng nhạc đã
có hình ảnh của lá. Nhưng trong lúc này, câu khiến tôi suy nghĩ
nhiều nhất là: "Lá
rụng về cội''.
Lá do chính sức sống từ gốc cây chuyển lên thân cây, cành cây mà
tạo nên, lá phát xuất từ gốc cây. Một ngày kia, lá già lá rụng,
cũng lại rơi xuống gốc cây nơi từ đó lá phát sinh. Câu này có ý
nói dù sao đi nữa, thì cuối cùng người ta cũng trở về với nguồn
gốc của mình. Người ta nghĩ đó là một định luật và là một lẽ
đương nhiên.
Nhưng tôi nghĩ, chưa
chắc "lá rụng về cội'' đã là một lẽ đương nhiên. Nhìn vào
hình ảnh thực tế, bao nhiêu chiếc lá rụng nằm dưới gốc cây, bao
nhiêu chiếc lá bay tản lạc đi nơi khác? E rằng số lá rụng
''cuốn theo chiều gió'' nhiều hơn những ''lá rụng về
cội'' rất nhiều. Như thế, "lá rụng về cội'' không hẳn
là một lẽ đương nhiên.
May mắn, tôi ý thức
được tôi do Thiên Chúa tạo dựng, Thiên Chúa là cội nguồn của
tôi, May mắn, vì bao nhiêu ngươi khác sống trong tình trạng
''biết đâu cội nguồn''. Nhưng ý thức được như vậy là một
chuyện, sống làm sao để khi xuôi tay nhắm mắt, tôi về được
''cội nguồn '' Thiên Chúa lại là một chuyện khác. Muốn trở
lại cội nguồn, tôi phải giữ cho thân tâm an định, để không bị
''cuốn theo
chiều gió
''. Mà cuộc đời này,
biết bao nhiêu là những cơn bão loạn. Luôn luôn phải nghĩ về cội
nguồn, luôn luôn phải có mối dây liên lạc thân tình với Thiên
Chúa, tôi mới có thể giống như ''lá rụng về cội'' được.
Để được như "lá rụng về cội'', tôi phải có được sự khao khát của
một Augustinô: "Hồn con khắc khoải trông đợi Chúa, và chỉ
nghỉ an khi gặp được Ngài"
Nhà Văn Quyên Di |
VỀ MỤC LỤC |
|
Những thời khắc quyết
định
|
Tác phẩm NGƯỜI NỮ TU SỐNG TU ĐỨC TOÀN DIỆN
tác giả: Lm. Micae-Phaolô Trần Minh Huy pss
LỚP THẦN HỌC LIÊN
TU SĨ - TÒA GIÁM MỤC BÙI CHU (2008
- 2009)
Chương VIII : Những
thời khắc quyết định
A. VƯỢT LÊN KHỦNG HOẢNG ĐỂ TÁI
ĐỊNH HƯỚNG CUỘC SỐNG VÀ SỨ VỤ
Kính thưa Chị
Em Hồi Tâm để khấn trọn đời, và Vấn Tâm để khấn lần đầu,
Quả thật chị
em đang đứng trước những thời khắc quyết định cho cuộc đời ơn
gọi của mình: quyết liệt bước bước đầu tiên, hay dứt khoát cho
trọn cả cuộc đời.
Trình bày
chung cho cả hai thời khắc là điều khó và tế nhị, vì mỗi giai
đoạn có những điểm nhấn riêng. Tuy nhiên, không phải là không
rút ra được những lợi ích: người đi trước nhìn lại “các khủng
hoảng” để tái định hướng con đường, còn người đi sau nhìn thấy
trước những gì có thể xảy ra để lên kế hoạch ứng phó hữu hiệu và
thành công.
I. NHẬN ĐỊNH
Cuộc đời nào cũng có ánh sáng và
bóng tối. Đời sống và sứ vụ tu sĩ cũng tương tự. Người ta thường
quan niệm “càng tu càng đắc đạo”, càng hoàn hảo, nhưng thực tế,
chúng ta cảm nhận và phải khiêm tốn nhìn nhận rằng có nhiều cái
trong cuộc đời không như chúng ta mong đợi, hoặc không còn được
như thuở ban đầu nữa.
Quả vậy, trong sách Khải Huyền,
Thánh Thần đã nói với giáo đoàn Ephêsô rằng: “Ta biết các việc
ngươi làm, nỗi vất vả và lòng kiên nhẫn của ngươi... Nhưng Ta
trách ngươi điều này, là ngươi đã để mất tình yêu thuở ban đầu.
Vậy hãy nhớ lại xem ngươi đã từ đâu rơi xuống, hãy hối cải và
làm những việc ngươi đã làm thuở ban đầu. Bằng không, Ta sẽ đến
với ngươi, và Ta sẽ đem cây đèn của ngươi ra khỏi chỗ của nó,
nếu ngươi không hối cải” (Kh 2,2-5).
Nhiều khi khủng khoảng bắt đầu
rất sớm ngay sau khi khấn và đi ra sở: nhiều tu sĩ trẻ đã bỏ cầu
nguyện, Kinh Nhật Tụng, Nguyện Gẫm, xét mình hàng ngày, lần
chuỗi Mân Côi, và siêng năng xưng tội, vì có vấn đề trong các
mối tương quan.
Xin lưu ý ngay một thiếu sót tuy
đáng thông cảm nhưng phải khắc phục dần dần, đó là các nhà đào
tạo và Bề Trên Dòng cần tiếp tục đồng hành với các thành viên
non trẻ mới ra đời của mình. Thời gian đào tạo ở Nhà Tập và
những năm dầu của Học viện nhằm chỉ dạy chu đáo cho biết phải
sống làm sao, cư xử thế nào trong các mối tương quan. Thật là lý
tưởng nhưng mới chỉ nằm trên phương diện lý thuyết. Bây giờ phải
va chạm các thực tế thì mới thấy ngỡ ngàng, phức tạp và vấp váp
mà không biết phải giải quyết làm sao. Trong khi đó, nhiều chị
phụ trách cộng đoàn nhỏ cũng chưa được chuẩn bị để nắm giữ vai
trò và trách nhiệm của người bề trên, người chị, người mẹ và
người đào tạo tiếp tục có khả năng, ý thức và tình yêu thương
nâng đỡ, cảm thông. Nhiều người mới cảm thấy như “bị đem con bỏ
chợ” và có thể mất ơn gọi, hoặc sống đời ơn gọi thiếu bình an và
hạnh phúc.
Trong hoàn cảnh ấy, họ lại bỏ
cầu nguyện và những sùng kính đạo đức là những cái đã giúp họ
giữ vững được ơn gọi sống động trong thời gian tu luyện ở trong
Dòng, và cũng chính những thứ đó sẽ còn giúp họ bền đỗ trong ơn
gọi và sứ vụ của mình giữa môi trường tông đồ.
Chúng ta
không thể không biết đến tình cảnh khủng hoảng và suy thoái này
của con người và của Hội Thánh… và cũng không thể khám phá thấy
hết được những hình thức khác nhau của cơn “khủng hoảng” mà các
tu sĩ ngày nay đang phải chịu đựng: nhiều trăn trở trong các
tưõng quan, thiếu vâng lời và khó nghèo, lơ là việc linh hướng
và xưng tội, không ưu tiên cho đời sống cầu nguyện…thiếu tương
quan thân mật với Bề Trên và cộng đoàn, thiếu liên đới và hợp
tác làm việc chung, thiếu tín nhiệm và tin tưởng lẫn nhau, thích
tự do và tiện nghi, thiếu hy sinh và khổ chế, để bị căng thẳng
thể xác vì quá nhiều việc, mệt mỏi tâm lý vì hiểu lầm và định
kiến, thế rồi hướng ngoại và do đó vấp váp tình cảm, có vấn đề
về đức trong sạch, thiếu trách nhiệm bản thân trong việc tự đào
tạo nhằm phát triển đời sống toàn diện, nhân bản và thiêng
liêng.
Thật thế, nhiều trường hợp ngay
trong lần đi sở đầu tiên có thể đã có căng thẳng với môi trường
mới, với những con người xa lạ chưa hề quen biết, với tập quán,
văn hóa và lối sống của họ, do lối sống bất định của đời tu:
được sai đi đến nơi mình không muốn; ở với người mình không ưa,
và làm việc mình không thích.
Áp lực của công việc, kỳ vọng
của dân chúng và cha xứ lắm khi làm cho tu sĩ trẻ bị căng thẳng,
kiệt quệ. Nhiều việc phải làm mà lúc ở tu viện chẳng được học.
Sự cô đơn, sự thiếu khích lệ và nâng đỡ từ chị em và Bề Trên
cũng dễ dàng dẫn đến sự cô độc, chán nản và thất vọng.
Những yếu đuối bản thân, những
giới hạn và vấn đề không được giải quyết thỏa đáng lúc còn ở
trong Dòng, để rồi sau khi khấn đi ra sở lại xuất hiện mạnh hơn
trước kia (trong đó có vấn đề tình cảm với các bạn là con trai
hoặc bạn trai cũ), vì chúng đã không được trực diện và xử lý
cách thích hợp trong những năm đào tạo, vì thiếu linh hướng
thích hợp, hay một lối lãnh đạo “áp đặt”, “vâng lời tối mặt” gây
ức chế và miễn cưỡng chịu đựng “nín thở qua sông” hay “giả
dại qua ải,” “bằng mặt mà không bằng lòng” và “nhắm mắt
đưa chân”, như Hội Nghị về ơn gọi 2007 tại Thái Lan nhận
định rằng Ban đào tạo phải tự xem xét lại cách thức đào tạo của
mình. Vì thế, DHTSTQ II cũng đặt nặng vấn đề “Đào tạo các nhà
đào tạo.”
Tuy nhiên, chúng ta cũng cần biết thông cảm
với Bề Trên và các nhà đào tạo. Họ cũng có những nỗi khổ, lo
toan và áp lực của họ. Ngoài ra, có thể có những động lực không
đích thực tiềm ẩn khi bước vào con đường ơn gọi, và tất cả những
gì bị dồn nén trong quá khứ bây giờ có cơ hội nổ tung ra, mà xem
ra chẳng ai thấu hiểu, trợ lực, giúp đỡ… “lắng nghe để
hiểu, nhìn lại để thương”
Thực ra, vẫn có ai đó thấu hiểu,
cảm thông, giúp đỡ… và thường là một bàn tay mạnh mẽ, một can
thiệp, một tiếng nói có trọng lượng và thẩm quyền đối với Bề
trên, Nhà Dòng… như Cha xứ chẳng hạn, hay một mạnh thường quân,
một ân nhân, một tâm hồn quảng đại ân cần sẻ chia (đưa tới hoàn
cảnh nhận ân và phải trả tình)… Và lắm khi vì thế mà có vấn đề
và rắc rối tình cảm bắt đầu từ chỗ đó.
B. CÁC CƠN KHỦNG HOẢNG
Nhiều khi trong lòng không có
biển, nhưng vẫn có sóng… Và có những lúc không nhận ra những cơn
sóng nguy hiểm, mà cứ coi thường đứng xem… (Đường êm quá ta đi
mà quên ngó, đến khi hay gai nhọn đã vào thấu xương!). Đến khi
nhận ra nguy hiểm thật sự, mới biết sợ thì chạy trốn cũng không
còn kịp nữa. Sóng sẽ vùi dập …Vì thế Chúa Giêsu căn dặn “Hãy
tỉnh thức và cầu nguyện luôn…”
1. Các cơn khủng hoảng có
thể
a.
Khủng hoảng tự nhiên về thể lý và sinh lý: Thông thường cứ 7
năm, tất cả mọi tế bào trong cơ thể đều được thay thế để tăng
trưởng. Vấn đề sinh lý cũng thế qua từng giai đoạn của tuổi đời,
các tuyến nội tiết và các loại hooc-môn cũng phát sinh và bị
kích thích (Ai dạy cho khỉ biết leo cây?) và “trong lòng không
có biển vẫn có sóng”
b. Khủng
hoảng trong đời sống thiêng liêng-Khủng hoảng đức tin. Nhiều
khi có sự chênh lệch đáng buồn giữa lời giảng lý thuyết và đời
sống thực hành tôn giáo, hoặc chịu ảnh hưởng những tư tưởng thần
học cấp tiến. Không nhận ra sự hiện diện và hoạt động của Chúa
trong lịch sử Giáo Hội và thế giới, cũng như trong lịch sử của
Hội Dòng và mỗi cá nhân.
Những thử
thách đau khổ có thể kéo con người đến gần Thiên Chúa, vì chẳng
còn biết tin tưởng bám víu vào ai khác nữa:
Âu là Thánh Ý Chúa
Trời
Giúp con lột bỏ một đời bơ vơ
Còn ai ngoài Chúa mà mơ
Cuối đường Chúa đứng đợi chờ đỡ nâng
Chúa ôi! Thôi thật “Xin Vâng”
Cạn tàu ráo máng xin dâng cho Ngài.
Nhưng
những đau khổ thử thách cũng có thể đẩy con người xa Chúa, vì
không lý giải được những đau khổ bất công trên những người vô
tội, những nghịch lý và mâu thuẫn về ngôn hành bất nhất trong
Giáo Hội và người của Giáo Hội, như dân Dothái lầm bầm trong sa
mạc xưa kia: “Có Chúa hay không, và nếu có thì Ngài có thực sự
cùng đi với chúng ta không?” (Xh 17,7).
c.
Khủng hoảng trong các tương quan
a) Khủng hoảng quyền bính
Khủng hoảng
đức tin kèm theo khủng hoảng quyền bính, từ phía trên cũng như
từ phía dưới, lắm khi gây đau đớn và chia rẽ trong cộng đoàn.
Quyền bính đã
không được nhìn đúng theo ý nghĩa và mục đích của nó. Mục đích
quyền bính được mạc khải và tuôn đổ xuống trên Giáo Hội từ nơi
Thập giá là để thiết lập vương quốc tình thương cứu độ. Tình
thương cứu độ không che đậy tội lỗi, nhưng phơi bày tội lỗi như
nó hủy diệt phẩm giá con người và tình thương. Tình thương cứu
độ đó dùng sức mạnh của Chúa để chiến thắng tội lỗi.
Một số người
coi quyền bính chỉ là một phương tiện để duy trì giáo thuyết và
trật tự. Số khác lại coi quyền bính như một áp đặt bất công ý
muốn của các lãnh đạo lên các thành viên của mình. Họ chỉ ra
những lạm dụng quyền bính - một số lạm dụng có thật, một số được
tưởng tượng ra.
Chính Chúa
Giêsu cũng nói tới một số tiêu cực của những người nắm giữ quyền
bính: “Các con hãy nghe lời họ nói, nhưng đừng bắt chước việc họ
làm, vì họ chất gánh nặng lên vai kẻ khác còn họ không giơ ngón
tay lay thử... Họ giết chết các con mà tưởng là làm vinh danh
Chúa.”
Người Việt
Nam đòi hỏi: “Làm quan hãy xét cho dân, không tin ngài xuống
ngài mần ngài coi” và kết luận: “Thượng bất chính hạ tác loạn.”
Và cũng vì
thiếu đức tin, lại chịu ảnh hưởng của các yếu tố văn hóa và tâm
thức xã hội, nhiều người cấp dưới đã “vâng mà không phục” hoặc
“bằng mặt mà không bằng lòng” để đến một lúc dường như muốn “tức
nước vỡ bờ” mà không có ai giúp “khai mưõng cho nước chảy” và
“đào sâu lòng sông” khiến vấn đề đã phức tạp lại càng phức tạp
hơn, có khi đưa tới bế tắc và đổ vỡ đáng tiếc.
Nhưng với đức
tin mạnh mẽ và đâm rễ sâu trên nền tảng Thánh Kinh vững chắc,
đặt trọng tâm vào Chúa Giêsu, vào Phúc Âm, vào Giáo Hội và các
linh hồn, cầu nguyện và biện phân dưới sự dẫn dắt của Chúa Thánh
Thần, chúng ta sẽ vâng lời cách sẵn lòng và siêu nhiên các vị
lãnh đạo và cơ cấu Giáo Hội, không phải như những con người và
cơ cấu nhân loại, nhưng là Ý Chúa ở trong và qua những con người
và cơ cấu này.
b) Khủng hoảng tình huynh
đệ
Vì ảnh hưởng,
vì quyền lợi, vì tình cảm và những sự việc tiêu cực đưa đến kết
luận chua chát này: “Người đối với người là lang sói, nữ tu đối
với nữ tu là lang sói hơn, linh mục đối với linh mục là lang sói
nhất.”
“Giả như tên
địch thù phỉ báng, thì tôi cũng cam lòng, hay kẻ ghét ghen lên
mày lên mặt, tôi có thể lánh đi. Nhưng đây lại là bạn, người
đồng vai đồng vế, chỗ thân tình tâm phúc với tôi, đã cùng tôi
chia ngọt sẻ bùi, trong đền Thiên Chúa, giữa hội vui cùng sánh
bước” (Tv 55,13-15)
“Tên phản
phúc ra tay hại người thân nghĩa, lại lỗi ước quên thề; miệng
nói năng ngọt xớt, lòng chỉ muốn chiến tranh, lời trơn tru hơn
mỡ, mà bén nhọn như gươm (Tv 55,21-22).
“Kẻ đến
thăm, miệng nói lời giả dối, nhưng chủ ý thâu tin độc địa, vừa
ra khỏi nhà, đã vội rêu rao. Cả người bạn thân con hằng tin cậy,
đã cùng con chia cơm sẻ bánh, mà nay cũng giơ gót đạp con! (Tv
41,7,10).
Chị ơi!
Cay đắng đã nhiều,
Bao phen
em cũng muốn liều mà thôi!
Nhưng rồi
tấc dạ bồi hồi,
Chạnh nhớ
Chúa chết trên đồi Canvê,
Vì thương
Chúa phải ê chề,
Bị người
kết án không hề hở môi.
Đời em
cũng lắm khúc môi,
Bầm gan
tím ruột vì người bất công,
Đôi khi
muốn nói hả lòng,
Sao em
không động mà người động em?
c) Khủng hoảng tình cảm
Những hấp dẫn, khao khát tự
nhiên của con người dễ bộc lộ khi không được yêu thương, bị hiểu
lầm, đau khổ, buồn phiền, oan ức khiến người ta đâm liều đi tìm
bù trừ, an ủi, mà vấp ngã, vì mọi thân xác đều có tính dục và
mọi tương quan đều có tính cách phái tính.
2. Các dấu
hiệu và chỉ dẫn của cơn khủng hoảng trong đời sống tu sĩ:
·
Trốn chạy: chất men, tiêu
khiển thái quá, thích “xuất hiện”
·
Chuyện phiếm, tán gẫu không
dứt, trống dạ...
·
Thiếu khả năng sống trầm
tĩnh, thinh lặng...
·
Ham hoạt động (quá lao lực
sẽ kiệt lực)
·
Nhu cầu khẳng định mình
thái quá (làm tốt, gây chú ý, lôi cuốn, mở rộng giao tiếp…)
·
Viễn ảnh tiêu cực, phàn
nàn, hay chỉ trích phê bình...
·
Khó ngủ (tin nhắn, “nhất dạ
sinh bá kế”)
·
Những bất bình thường về
giới tính (lẳng lơ, lôi cuốn, tấn công/thụ động cam chịu)
·
Khả năng hoạt động bị tê
liệt.
·
Chỉ thường xuyên liên hệ
với một số người nào đó thôi…
3. Vài
phản ứng cần thiết để vượt lên khủng hoảng
Cần có thời
gian cầu nguyện hằng ngày để chia sẻ bản thân với Chúa, hầu sống
căn tính tu sĩ thực sự của mình: “Anh chị em hãy trao trút
nỗi lòng của anh chị em cho Chúa, vì Ngài hằng thương yêu chăm
sóc đến anh chị em” (1 Pr 5,7).
Tìm một đối
tác biện phân: vị linh hướng, có thể là một người bạn tín cẩn,
dẫn tới một căn tính trưởng thành. Các cân nhắc tâm lý về cá
tính cũng rất hữu ích...
Sự sống mật
thiết với Chúa Giêsu là phương dược chữa lành vạn năng.
Không thiếu
những tu sĩ cảm nhận cô đơn thực sự ngay trong chính cộng đoàn
mình sống và lắm khi sự cô đơn đè nặng trên con người của họ. Sự
nghi ngờ, đố kỵ, ghen ghét hay thiếu thông cảm từ phía chị em,
kể cả từ Bề trên, có thể làm gia trọng nỗi thất vọng và cô đơn
(x. Paul VI, Sacerdotalis Caelibatus số 59).
Bí tích Hòa
giải là một quà tặng, một khí cụ quan trọng cho sự tái định
hướng, thánh hoá và tăng trưởng thiêng liêng, đặc biệt nếu việc
xưng tội không chỉ được coi là một nghi thức, mà đúng hơn là một
cơ hội không chỉ để xưng tội, mà còn để trao đổi với một cha
giải tội và linh hướng có kinh nghiệm, nhờ đó đạt tới một kinh
nghiệm chữa lành và một lối sống khả dĩ giúp đứng lên làm mới
lại từ đầu.
Việc linh
hướng đều đặn là một bảo đảm khác cho việc tái định hướng, tăng
trưởng và phát triển đời sống thiêng liêng trưởng thành của tu
sĩ.
Nếu không có
vị linh hướng đúng nghĩa, thì có thể làm việc đó với cha giải
tội đã được trắc nghiệm kỹ.
Ngoài cha
giải tội thường xuyên, Dòng cũng nên liệu có cha giải tội ngoại
thường để chị em dễ dàng xưng tội và trình bày những khúc mắc tế
nhị, hoặc cho phép chị em đi gặp một cha giải tội thích hợp
riêng, vì vấn đề lương tâm thực sự.
Tạo lập lối
sống và làm việc chung, sự ràng buộc của tình chị em đích thực,
cũng như những thời gian giải trí, hồi tâm và thinh lặng giúp
không chỉ chế ngự khủng hoảng, mà còn biến khủng hoảng thành một
cơ hội để đẩy xa hơn sự tăng trưởng và tiến bộ trong sự trưởng
thành cá nhân, cũng như công việc tông đồ và bác ái sống động.
C. TÁI ĐỊNH HƯỚNG ĐỜI SỐNG VÀ SỨ
VỤ
I. Đặt vấn
đề
“Anh chị
em biết chúng ta đang sống trong thời nào. Đã đến lúc phải thức
dậy, vì hiện nay ngày Thiên Chúa cứu độ chúng ta đã gần hơn
trước kia, khi chúng ta mới tin đạo. Đêm sắp tàn, ngày gần đến.
Vậy chúng ta hãy loại bỏ những việc làm đen tối, và cầm lấy vũ
khí của sự sáng để chiến đấu” (Rm 13:11-12).
Khủng hoảng
rất lắm khi là một dấu hiệu tăng trưởng, nhưng cũng tỏ lộ một số
vấn đề và yếu đuối nào đó đang được mở ra theo cách này.
Trong các
tình huống như thế, hãy xử sự như trường hợp hỏa hoạn: hãy bình
tĩnh và hành động cách có trách nhiệm… Không lấy bất cứ quyết
định nào khi đang bị giao động; hãy “gạn đục khơi trong” để thấy
rõ mới có biện phải đúng được.
Một tình
huống như thế cần trước hết sự thinh lặng và suy nghĩ để trở nên
ý thức rõ ràng hơn về các vấn đề thực sự là vấn đề.
Để được vậy,
chúng ta cần thời gian và một nơi chốn (ít là nội tâm) có thể ở
một mình, suy tư và cầu nguyện. Các cuộc tĩnh tâm và hồi tâm là
các cơ hội đó.
Thời gian
khủng hoảng mời gọi chúng ta xem xét các cội rễ căn nguyên và
các tình huống của các việc chúng ta đã trải nghiệm hầu được ý
thức hơn về các hậu quả của chúng.
Mỗi vị thánh
đều có một quá khứ và mỗi tội nhân đều có một tương lai. Phải
tin tưởng vào sự biến đổi tốt đẹp hơn trong tương lai, nhờ ơn
Chúa, với cố gắng bản thân và sự giúp đỡ của kẻ khác.
Việc tái định
hướng được khởi đầu bằng cách trực tiếp đối diện và chấp nhận
chính thực tại của mình, đồng thời nhẫn nại hướng mình vào trong
ý muốn của Chúa.
Một tiến
trình như thế thường không hoàn toàn được thực hiện một mình, mà
cần có người đồng hành. Không ai tự làm hướng đạo cho mình: “Biết
ai khôn ngoan thì tìm đến mà bàn hỏi và chớ coi thường bất cứ
lời chỉ giáo nào hữu ích” (Tb 4,18).
Bên cạnh Chúa
Cứu Thế mà chúng ta gặp gỡ trong cầu nguyện, chúng ta cần một ai
đó để nói với, một ai đó hành động như một khuếch âm cho các
kinh nghiệm và thấu hiểu của chúng ta, một ai đó có khả năng cho
chúng ta những định hướng mới phát ra từ sự biện phân trong
thinh lặng và nguyện cầu của chúng ta và nâng đỡ chúng ta.
Một vị đồng
hành thiêng liêng là một quà tặng tốt nhất mà chúng ta có thể có
được. Nhưng một vị hướng dẫn thiêng liêng không chỉ đồng hành
với chúng ta trong cơn khủng hoảng và ở một tình huống riêng
lẻ.
Nếu không có
vị linh hướng riêng, cha giải tội có thể làm việc ấy một cách
nào đó, sau khi đã trắc nghiệm để chọn người thích hợp, nghĩa là
người mình có thể tin cậy trình bày rõ tất cả và người đó có khả
năng giúp mình đứng dậy và tiếp tục con đường tận hiến.
Sự đồng hành
cần trải ra trong một thời gian dài, cùng bước đi và cùng lớn
lên bên nhau trong một mối quan tâm chung là trở nên gần gũi hơn
với Chúa Kitô và với con người thật của chúng ta, vì đi vào thế
giới nội tâm của một con người quả thật không dễ: “Đi lâu mới
biết đường dài (thức lâu mới biết đêm dài), ở lâu mới biết con
ngài phải chăng.”
II. BÍ TÍCH GIẢI
TỘI, PHƯƠNG THẾ HỮU HIỆU ĐỂ TÁI ĐỊNH HƯỚNG
Bí tích Hòa
Giải là một bước cụ thể tái định hướng và tiến vào một cuộc sống
mới sâu sắc hơn và vững chắc hơn nhờ cơn khủng hoảng, hy vọng
thế!
Nếu vị hướng
dẫn thiêng liêng là một linh mục, thì Bí tích được trao ban
trong tất cả tiến trình biện phân và tái định hướng.
Thường chỉ
xưng tội thôi không đủ, nhưng chúng ta cũng cần được trao đổi
giải quyết và như thế thấy được các gốc rễ sâu xa hơn và các
viễn ảnh tương lai (đường lối cư xử mới)
Lối xưng tội
chia sẻ và đối thoại như thế cũng mang lại một sự cởi mở lớn hơn
trên cả chiều kích nhân bản và thiêng liêng.
Chính vị linh
mục cũng được khích lệ rất nhiều trong một kinh nghiệm như thế,
nhờ đó ngài có khả năng giúp đỡ người khác trong cùng một đường
lối hoặc tương tự.
Bí tích hòa
giải là một trong những quà tặng đặc biệt của linh mục cống hiến
cho kẻ khác trong thừa tác vụ bí tích của ngài, nhưng đồng thời
nó cũng là khí cụ cho linh mục tăng trưởng trong đời sống thiêng
liêng và bác ái mục tử.
Cuộc đối
thoại giữa hối nhân và cha giải tội làm cho việc cử hành bí tích
đáp ứng sít sao hơn với từng tình huống cụ thể của hối nhân, với
các lý do khác nhau của hối nhân:
·
Nhu cầu hòa giải cá nhân và
tái nhập vào tình bằng hữu với Chúa nhờ nhận lại được những ơn
đã mất do tội;
·
Yếu tố căn bản trong việc
tái định hướng đời sống và sứ vụ là bí tích Hòa giải, đặc biệt
nếu nó không chỉ được đánh giá và thực hành theo đường lối nghi
thức, mà đúng hơn như một cuộc đối thoại trong đó việc xưng tội
cùng lúc trở thành một cơ hội để tiến bộ.
·
Nhu cầu tìm kiếm sự tiến bộ
thiêng liêng (x. Kh 2:2-5);
·
Đôi khi cần một sự biện
phân thích đáng hơn về ơn gọi;
·
Trong nhiều trường hợp,
không những cần mà còn khao khát thoát khỏi tình trạng hờ hững
thiêng liêng và khủng hoảng đời tu, hầu có một lối giải quyết,
một lối đi mới trong chính hoàn cảnh cụ thể đang phải sống
(không hay chưa thay đổi nhiệm sở được).
Nhờ những đặc
tính cá nhân đó, hình thức cử hành này liên kết với việc linh
hướng.
Trong cuộc
đối thoại này phải tránh đề cập trực tiếp đến đệ tam nhân. Phải
rất cẩn thận và tế nhị trong các câu hỏi để làm sáng tỏ hầu có
biện pháp và lời khuyên thích ứng, giúp hối nhân thay đổi lật
sang một trang mới của cuộc đời.
Nhớ giúp linh
mục tránh ba tội kèm theo vạ tiền kết dành riêng cho ĐGH: Lỗi
ấn tòa giải tội, khuyến dâm trong tòa và giải tội cho đồng phạm.
Tương quan linh hướng là một tương quan khép kín tay ba (Chúa
Thánh Thần, người thụ hướng và vị linh hướng).
Điều mà vị linh hướng khám phá về người thụ hướng ở toà trong sẽ
không được tiết lộ ra ở toà ngoài. Dữ kiện này có cùng một qui
chế như ấn toà giải tội. Điều này không chỉ để bảo vệ người thụ
hướng, mà còn cống hiến cho họ sự tín nhiệm và tin tưởng rằng
điều gì họ đã bộc lộ ở tòa trong vẫn được giữ bí mật. Chính niềm
tín nhiệm và bảo đảm này mang lại sự chữa lành tận gốc các “căn
bệnh.”
Vì thế, những người có sứ vụ tòa ngoài trong việc đào tạo nên
biết dừng lại ở một giới hạn cần thiết, không nên ra lệnh “Chị
buộc lương tâm em phải nói ra sự thật”... Cái khôn khéo và kỹ
năng sư phạm của nhà đào tạo có thể làm cho ứng sinh tín nhiệm
tự nguyện nói ra hết mọi bí ẩn tâm hồn và cuộc đời họ; nhưng nhà
đào tạo cũng phải khôn ngoan giữ mình ở ranh giới tòa trong và
tòa ngoài. Đó là cái khó và nguy hiểm cho cả hai, nhà đào tạo và
ứng sinh: Tội thì tha, lỗi thì sửa.
III. LÒNG CẢM THÔNG VÀ LẦM LỖI CỦA
NGƯỜI KHÁC
Chúng ta đừng quên tiến trình chỉ bảo huynh đệ để sửa chữa lầm
lỗi của người khác mà Chúa Giêsu dạy trong Phúc âm: “Nếu chị
em ngươi trót phạm tội, thì hãy đi sửa lỗi nó, riêng ngươi với
nó thôi. Nếu nó nghe ngươi, ngươi đã lợi được người chị em. Nếu
nó không nghe ngươi, ngươi hãy kèm theo một/hai người nữa, để
tất cả công việc được đoán định do miệng hai/ba nhân chứng. Nếu
nó không màng nghe họ, hãy thưa với cộng đoàn…” (x. Mt.18,
15-17)
Một ngýời có thể phạm lỗi cố ý hay vô tình, biết rõ hay không
biết gì. Chúng ta có thể có hai thái độ hành xử:
- hoặc là phòng bệnh,
- hoặc là chữa bệnh.
Người cảm thông phòng bệnh đi bước trước, ngăn ngừa những ảnh
hưởng tác hại từ bên ngoài, hay dập tắt ngay từ trứng nước cái
mầm bệnh từ bên trong, để lỗi lầm không thể xảy ra.
Như người làm nông năng thăm vườn cây, khi phát hiện cây bị sâu
bệnh liền phun thuốc diệt sâu bệnh, người cảm thông đón trước và
khuyến cáo ngay lỗi lầm có thể, để ngăn ngừa các ảnh hưởng và
nguyên nhân từ bên ngoài, hay những yếu đuối từ bên trong thân
phận con người.
Người cảm thông tin tưởng vào sự biến đổi tốt đẹp trong tương
lai, cho người phạm lỗi biết lỗi, lắng nghe lời giải thích biện
hộ, kết luận xác định đúng lỗi lầm, cho đương sự cơ hội và thời
gian cần thiết để sửa chữa, và nhẫn nại giúp đương sự tập đức
tính ngược lại, hy vọng vào kết quả sẽ có trong tương lai: “xin
cứ để nó lại năm nay nữa, tôi sẽ vun xới chung quanh, và bón
phân cho nó, may ra sang năm nó có trái” như dụ ngôn của
Chúa Giêsu:
“Người kia có một cây
vả trồng trong vườn nho mình. Bác ta ra cây tìm trái mà không
thấy, nên bảo người làm vườn: ‘Anh coi, đã ba năm nay tôi ra cây
vả này tìm trái, mà không thấy. Vậy anh chặt nó đi, để làm gì
cho hại đất?’ Nhưng người làm vườn đáp: ‘Thưa ông, xin cứ để nó
lại năm nay nữa. Tôi sẽ vun xới chung quanh, và bón phân cho nó.
May ra sang năm nó có trái, nếu không thì ông sẽ chặt nó đi”
(Lk 13, 6-9).
Trái lại, người thiếu cảm thông mới khám phá thấy lỗi lầm đã có
biện pháp ngay, vì óc cầu toàn đòi hỏi và đốt giai đoạn, coi
người khác như đã đạt tới trình độ của mình.
Hoặc khá hơn, người thiếu cảm thông sẽ chờ đợi lỗi lầm trở nên
rõ ràng để có biện pháp, nhất là khi người có lỗi che đậy, giấu
giếm vì một lý do nào đó (như quá sợ bị sa thải, hoặc ảnh hưởng
thiệt hại cho người liên hệ).
Cũng tùy thái độ ngoan cố và thiếu tinh thần phục thiện của
người lầm lỗi, người thiếu cảm thông thường âm thầm theo dõi
(hoặc tệ hại hơn ngược với sư phạm giáo dục đích thực là đặt
người theo dõi và báo cáo), có khi còn “gài bẩy” cho mắc phải để
đương sự không thể cãi lại, chữa mình hay chối cãi được nữa.
Tuy nhiên, con người không phải là tĩnh vật bất di bất dịch,
song là một sinh vật còn biến động, còn thay đổi theo cả hai
chiều tích cực và tiêu cực. Hãy tạo cho người lầm lỗi cơ hội và
môi trường (việc thuyên chuyển nhiệm sở nhằm mang lại những
tương quan mới giữa những người liên hệ và sự đổi mới sẽ dễ thực
hiện được), cũng như thời gian biến đổi và làm lại từ đầu đó.
Hãy bình tĩnh cùng ngồi lại, tìm khám phá và viết ra hai cột
giấy tất cả những cái tốt và cái xấu của con người đó để so
sánh, việc giải quyết sẽ mang tính khách quan khoa học, đồng
thời biểu lộ lòng nhân hậu theo gương Chúa.
Chớ gì tiến trình chỉ bảo huynh đệ của Chúa Giêsu được thực thi.
Cha ông chúng ta cũng từng quan niệm: “Nhân thùy vô quá, hữu quá
tắc cãi, thị vị vô quá” (đã là người thì ai ai cũng đều có lỗi,
có lỗi thì sửa lỗi, và như vậy sẽ không còn lỗi nữa).
Tuy nhiên, để thực hiện lòng nhân ái ấy, chúng ta cần khéo léo
sử dụng kỹ năng chỉ bảo huynh đệ “feed-back”, áp dụng vào Đào
tạo và Tự đào tạo, cả về chiều dọc lẫn chiều ngang: Người và ta,
trên và dưới gặp được nhau, hiểu được nhau trong mọi quan điểm
và tha thứ cho nhau, thì mọi việc đều được giải quyết dễ dàng và
tốt đẹp.
Hãy cho người biết lỗi, cho họ cơ hội sửa lỗi, và cho họ thời
gian nữa, vì không ai một sớm một chiều mà sửa ngay được. Tin
tưởng vào sự biến đổi tốt đẹp trong tương lai, với ơn Chúa và sự
cố gắng của mỗi người.
Trong trường hợp biết rõ ai đó có lỗi thật sự và để tránh thiệt
hại lớn cho cộng đoàn lẫn đương sự, sau khi cầu nguyện và đã
trực tiếp làm mọi cách có thể, hãy theo lương tâm, can đảm đích
thân kín đáo trình bày với Bề trên và sẵn sàng chịu trách nhiệm
kiểm chứng về điều mình nói.
Tay Tạo Hoá đặt bầu lửa đỏ,
Giữa thinh không soi tỏ gian trần,
Con người hối hận thở than,
Dám đâu tiếp tục những lầm lỗi xưa.
Vừa lạc nẻo lại vừa mù quáng,
Chẳng biết đường biết hướng về đâu,
Chúa ôi chính lộ dẫn vào,
Kẻo con sa xuống vực sâu có ngày!
Thánh Thi
Kinh Sáng Thứ Năm Tuần I
“Chúc tụng
Thiên Chúa là Thân Phụ Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta. Người là
Cha giàu lòng từ bi lân ái, và là Thiên Chúa hằng sẵn sàng nâng
đỡ ủi an. Người luôn nâng đỡ ủi an chúng ta trong mọi cơn gian
nan thử thách, để sau khi đã được Thiên Chúa nâng đỡ, chính
chúng ta cũng biết an ủi những ai lâm cảnh gian nan khốn khó” (2
Cor 1, 3)
IV. THÁI
ĐỘ SỐNG CẦN THIẾT
Ai trong
chúng ta cũng có những lần trải nếm kinh nghiệm của thánh Phaolô
về “hai sức mạnh đối nghịch nhau trong bản thân mỗi người,
khiến những điều tốt ta muốn làm thì lại không làm được, và
những điều xấu không muốn làm thì ta lại làm.”
Hãy chấp nhận
những giới hạn bất toàn và bất lực của mình, mỗi ngày chúng ta
càng trở nên khiêm tốn hơn về chính mình, trước mặt Chúa, cũng
như trước mặt người khác.
Và chúng ta
cũng hãy nghĩ như thế cho Bề trên và chị em: bao lâu còn mang
nặng thân phận con người, họ cũng có những yếu đuối, sai sót,
lỗi lầm, bất toàn và bất lực của họ. Càng chấp nhận họ như thế,
ta sẽ càng trở nên cảm thông với họ hơn, độ lượng với họ hơn,
tha thứ và bỏ qua các lầm lỗi thiếu sót cho họ hơn.
Nếu tất cả
mọi người chúng ta biết khiêm tốn với chính mình và cảm thông,
độ lượng, tha thứ, bỏ qua cho lầm lỗi thiếu sót của nhau, các
mối tương quan nhân bản của chúng ta sẽ được cải thiện tốt hơn
và đời sống thiêng liêng sẽ được phát triển đúng mức.
Nhưng cuộc
đời nhân bản và thiêng liêng của chúng ta lắm khi cũng “ba
chìm bảy nổi chín long đong”, khiến tiền nhân phải nhắc nhở:
“lênh đênh qua cửa Thần phù, khéo tu thì nổi vụng tu thì chìm.”
Chớ chi chúng
ta biết chìa tay ra cho nhau “chị ngã em nâng”, như Chúa Giêsu
đã chìa tay ra cứu Phêrô khỏi chìm.
Cuộc đời của
chúng ta không được biểu diễn như một đường thẳng, mà là những
đường cong gợn sóng hoặc là những đường xoắn trôn ốc. Nhưng
Thiên Chúa luôn viết thẳng trên những đường cong của cuộc đời
chúng ta.
Chúng ta sẽ
cố gắng biến mình thành những sinh vật có xương sống,
trưởng thành, luôn luôn tự mình có thể đứng vững được, dù có xây
xát và thương tích, chứ không phải là những sinh vật không có
xương sống hay tầm gửi, không thể tự mình đứng vững
được mà luôn tựa vào người khác.
D. HƯỚNG TỚI CUỘC SỐNG MỚI
I. ĐỔI ĐỜI VÀ TRỞ THÀNH
1. Việc tái định hướng giả thiết
một chuyển động kép:
a. Chia cắt với cái đi trước, nghĩa là phải từ bỏ
một cách sống, một cách hiểu biết Và những mối tương quan đối
Thiên Chúa, với vũ trụ, với chính mình, với tha nhân và môi
trường, tức là con người cũ bấy lâu nay của mình, mà Thánh
Phaolô bảo là “quên hẳn đàng sau, nhắm phía trước mà chạy tới.”
b. Mở ra với những gì đang đến, nghĩa là một hiện hữu
mới, một ý nghĩa mới, một kiện toàn, một đổi mới so với nếp
sống, suy nghĩ và quan hệ bấy lâu.
Do đó, việc tái
định hướng đời sống và sứ vụ tu sĩ là một sự xé rách, một thứ
cái chết, nhưng rách để lành, chết để sống. Đó là một thứ biến
đổi một mất một còn, giống như chim phượng hoàng tới tuổi 40.
Dường như có một sự
dằng co trong con người và cuộc sống. Thật thế, chị em đang bước
vào giai đoạn quyết định cho cuộc đời thánh hiến, “một ngày
là nữ tu sẽ là nữ tu mãi mãi”, nhưng vẫn còn có con người
trần tục bên cạnh con người thiêng liêng. Tính lưỡng diện này
vẫn tồn tại, trải qua những chiến đấu, dòn mỏng và có khi thất
bại nữa.
2. Một kinh
nghiệm đổ vỡ
Ta có thể nhìn
kinh nghiệm đổ vỡ này (sự chia cắt và cái chết) qua hình ảnh
Abraham cắt đứt mọi mối quan hệ cộng đồng và yêu thương với gia
đình, với đồng bào và thiên nhiên, rời bỏ quê hương để đi tìm
một quê hương mới, hầu được triển nở thành thủ lãnh / cha một
dân tộc.
Có thể nói, hành trình ơn
gọi bẻ gãy tính thuần nhất của những gì chúng ta đã nhận lãnh
trong cuộc đời, ghi khắc một đổ vỡ và thay đổi các giá trị vốn
có.
3. Một cuộc đổ
vỡ lịch sử và nền tảng
Cần có tín nhiệm
lẫn nhau thực sự trong linh hướng, để chị em không sợ nói lên
kinh nghiệm bản thân, diễn tả thứ thanh tẩy cần thiết hầu đi vào
hành trình thiêng liêng, chuẩn bị tiến tới tuyên khấn làm người
nữ tu suốt đời “không bao giờ đổi thay.”
Cái quan trọng là
có nơi mỗi người một biến cố lịch sử đánh dấu thời khắc trở
thành tu sĩ, và thời khắc đó được sống thường xuyên trong tất cả
công cuộc tìm kiếm và thực thi thánh ý Chúa: Một khi trở thành,
người tu sĩ sống căn tính tu sĩ suốt cả đời: Một ngày tu sĩ,
tu sĩ mãi mãi.
4. Đổ vỡ là sự khởi đầu
Biện chứng pháp dẫn
ta từ đối chọi tiền đề – phản đề đến một quan điểm mới (hợp đề).
Cũng thế, mỗi một đổ vỡ mở ra một khởi đầu mới. Và khởi đầu mới
đó lại sản sinh ra một khởi đầu mới khác, cứ thế mà tiến bộ:
“bắt đầu, lại bắt đầu”
5. Sống ơn gọi
như sự chia tách
Sự kiện người đi tu
xem ra hiện hữu tách biệt với người đời khiến người ta than
phiền đi tu là cắt khỏi cuộc sống (xuất thế). Nhưng một cách nào
đó đời tu đòi lại sự chia tách nầy (nhập thế) và khoảng cách
giữa tu và không tu là một dữ kiện có một ý nghĩa hữu lý:
sống một cách khác hợp với chọn
lựa của đời mình. Nói khác đi, đổ vỡ nầy đánh dấu
sự khởi đầu của tất cả mọi cuộc đời.
II. CHẾT CHO CÁI CŨ ĐỂ SỐNG CHO
CÁI MỚI
Phải chăng tu và
không tu có mâu thuẫn và loại trừ lẫn nhau, và mối tương quan
được định nghĩa bằng cái chết? Có thể nói đây là một bạo lực
ngọt ngào: giết chết cái chất trần tục trong con người mình, để
cuối cùng được sinh ra trong con người tu: “Anh em hãy mặc lấy
con người mới đã được Đức Kitô Phục Sinh biến đổi” -
“Phàm ai ở trong Đức Kitô đều là
thọ tạo mới. Cái cũ đã qua đi và cái mới đã có đây rồi” (2 Cor
5,17).
Trong sự thay đổi đó, tinh thần
theo Chúa Kitô là chủ đạo: thay đổi con tim, tâm thức, lối sống
và cuộc sống.
Luật của sự sống và sinh trưởng
là thay đổi, và mỗi chặng đường sinh trưởng của con người đều
được ghi dấu bằng những thay đổi quyết định. Và đó là tiến trình
lâu dài của một công cuộc hợp tác đào tạo và tự đào tạo, vừa
thần linh vừa nhân loại.
Việc vấn tâm hay hồi tâm sẽ theo
tiến trình này:
- Chính Chúa cất
tiếng gọi
- Chị em đích thân
đáp lại
- Chị em cam kết
theo chính Chúa Kitô
- Chị em biến đổi
cho phù hợp với đời sống ơn gọi
- Chị em dấn thân phục vụ Chúa trong tha nhân qua việc khấn
Dòng.
Việc vấn tâm hay hồi tâm nghiêm
túc sẽ dẫn tới hai kết quả này:
a.
Hoặc chị không có ơn gọi:
chị nên đổi hướng sống trong bình an, đồng thời bước theo con
đường Chúa mời gọi chị đi với can đảm và hạnh phúc.
b.
Hoặc chị có ơn gọi:
chị tiếp tục đi tới với niềm vui tươi, hy vọng và hạnh phúc, mặc
dù chị sẽ gặp thấy những khó khăn và đen tối trong cuộc sống lữ
hành của chị.
Tuy
nhiên, mặc dù chị tự kiểm một cách nghiêm túc, chị vẫn không thể
tuyệt đối chắc chắn về ơn gọi của mình. Sự chấp thuận của Bề
Trên và Hội Dòng sẽ hoàn tất chọn lựa này và làm cho chị an tâm.
Nói cách khác, sự chọn lựa và
quyết định với tự do nội tâm của chị (tòa trong) phải được xác
lập và công nhận bởi thẩm quyền chiếu theo Hiếp pháp và nội qui
của Dòng (tòa ngoài): Hội đồng lãnh đạo bỏ phiếu quyết định
(biểu lộ sự kêu gọi của Chúa), có thể được trợ giúp bởi phiếu
tham khảo (lượng định) của Cộng đoàn.
Muốn cho việc hướng tới đời sống
mới này thành công, chúng ta phải đặt mình trong tay Chúa.
E. TÌNH
HUYNH ĐỆ CỘNG ĐOÀN
1.
Tình Chị Em
Chị em hẳn luôn ý thức rằng
việc dấn thân
tuyên khấn trong linh đạo và truyền thống Hội Dòng thực sự đưa
chị em vào một gia đình thấm đậm tình người và tình Chúa, vừa
nhân loại vừa thiêng liêng, trong mối tương quan của tình mẩu tử
và tỉ muội.
Nếu chị em ý
thức đầy đủ về tình gia đình thiêng liêng của mình, chị em sẽ
tìm mọi
cách thích hợp để bảo vệ, phát triển và thăng tiến nó (xin xem
lại chương “Sống triển nở đời sống cộng đoàn).
Tình chị em là
·
một sự đoàn kết
bên nhau để cùng tiến bước,
·
một cuộc đối
thoại thường xuyên trong cuộc sống đa nguyên đa diện,
·
một cuộc gặp gỡ
cởi mở hơn cho cuộc hành trình đầy gian khó và nguy hiểm,
·
một sự có mặt
khích lệ hay một nâng đỡ hỗ trợ tinh thần,
·
một lời vui, một
tiếng cười thanh thỏa cùng chia sẻ tình thương dâng lên vời vợi,
·
một cái nhìn cảm
thông khi vướng trở ngại, hay khi bị thất bại chua cay,
·
một cái “tôi
khác” để mỗi người có dịp phản tỉnh nhìn lại bộ mặt của mình có
khi đã hoen ố bụi đời,
·
một bạn đồng hành
để con đường thập giá bớt nỗi đơn côi,
·
một Simong vác đỡ
hay một Vêrônica lau mặt,
·
một cái gì khỏa
lấp chỗ trống vắng tình thương sau tình yêu Thầy Chí Thánh,
·
một hiện diện và
hiện thân của Thiên Chúa cao xa vô hình.
·
Và mỗi người đều
sẽ cố gắng trở thành người chị em như thế cho các chị em khác.
2. Chân dung người bạn
“Một người bạn trung thành là một trợ lực mạnh mẽ, ai tìm được
người bạn trung thành là tìm được kho báu. Một người bạn trung
thành thật vô giá, không ai đo lường được giá trị của nó. Một
người bạn trung thành là dầu thơm cho cuộc sống, chỉ những ai
tôn kính Chúa mới tìm được. Ai tôn kính Chúa là những người bạn
đích thực, vì người ta thế nào thì bạn của họ thế ấy’’
(Si.6:15-17).
Tôi
không thể mang lại giải pháp cho mọi vấn đề của cuộc sống, những
nghi nan hay sợ hãi của bạn, nhưng tôi có thể lắng nghe bạn và
cùng nhau chúng ta sẽ tìm ra câu trả lời.
Tôi
không thể thay đổi quá khứ của bạn với tất cả những nỗi khổ tâm
và đau đớn, tôi cũng chẳng thể thay đổi được tương lai của bạn
với tất cả những chuyện không nói trước được, nhưng tôi có thể
có mặt ở đó, lúc bạn cần tôi chăm sóc.
Tôi
không thể giữ chân bạn cho khỏi trượt ngã, nhưng tôi chỉ có thể
đưa tay ra cho bạn nắm lấy để bạn khỏi ngã.
Những niềm vui, những chiến thắng, những thành công và hạnh phúc
của bạn không phải là của tôi, nhưng tôi có thể chia sẻ trong
tiếng cười của bạn.
Những quyết định cuộc đời của bạn không phải là của tôi để tôi
quyết định hay phê phán, tôi chỉ có thể trợ lực bạn, khích lệ
bạn, và giúp đỡ bạn khi bạn yêu cầu.
Tôi
không thể ngăn cản bạn khỏi vấp ngã, nhưng tôi chỉ có thể cầu
nguyện cho bạn, nói chuyện với bạn, và chờ đợi bạn.
Tôi
không thể đặt cho bạn những giới hạn mà tôi đã xác định, nhưng
tôi có thể cống hiến cho bạn cơ hội để thay đổi, để lớn lên, và
để là chính bạn.
Tôi
không thể giữ tim bạn khỏi dập vỡ và tổn thương, nhưng tôi có
thể khóc với bạn và giúp bạn nhặt lên những mảnh vỡ và đặt chúng
vào lại chỗ cũ.
Tôi
không thể nói với bạn bạn là ai, tôi chỉ có thể yêu thương bạn
và là bạn của bạn.
Đôi
khi trong cuộc đời, bạn tìm gặp được một người bạn đặc biệt: Là
ai đó làm thay đổi cuộc đời của bạn bằng cách là một phần của
nó; là ai đó làm bạn cười không thôi được; là ai đó làm bạn tin
rằng thực sự có điều tốt trong thế gian này; là ai đó thuyết
phục được bạn rằng thực sự có một cánh cửa không khóa, chỉ đợi
bạn mở nó ra.
Trong mảnh đất của tình bạn, mỗi ngày hãy gieo vài hạt giống,
những hạt giống bé nhỏ của tế nhị cho tất cả những ai bạn gặp
trên đường đời. Một ngày kia sẽ có nhiều cành tỏa ra chung
quanh, và bạn sẽ thực sự ngạc nhiên về niềm vui mà bạn đã tìm
thấy, chỉ vì bạn được Ơn Trên giúp đỡ nhẫn nại vun trồng một cây
hạnh phúc, một cây mà rễ của nó là tình yêu.
Tôi
không thể làm dịu nỗi đau lòng của bạn, cũng không thể cất đi
đau khổ, nhưng hãy để tôi ở lại đây bên cạnh bạn, nắm tay bạn và
cùng bạn bước đi ngày hôm nay.
Tôi
sẽ lắng nghe bạn khi bạn cần nói và lau khô nước mắt của bạn,
tôi sẽ chia sẻ những nỗi lo âu của bạn khi chúng đến và giúp bạn
đối mặt với những nỗi sợ hãi của bạn.
Tôi
đang có mặt đây và sẽ ở bên cạnh bạn, trên mỗi cánh đồi mà bạn
phải trèo lên. Vậy bạn hãy nắm lấy tay tôi, chúng ta cùng đối
mặt với thế giới và hãy sống trọn vẹn từng ngày hôm nay.
Bạn
không cô đơn đâu, tôi vẫn ở đây với bạn, tôi sẽ đi cùng bạn trên
mọi nẻo đường, và khi nỗi buồn của bạn vơi đi, tôi sẽ giúp bạn
học mĩm cười.
Bạn
của bạn luôn luôn có đó: thân ái, tế nhị và ân cần, nhạy cảm,
thẳng thắn và thấu hiểu, hài hước, vui tính, an toàn và chân
thật.
Bạn
của bạn luôn luôn có đó: đặc biệt, niềm nở, khích lệ và khôn
ngoan, tín cẩn và hay giúp đỡ, tin tưởng, tha thứ, sẵn lòng và
rạng rỡ.
Bạn
của bạn là một người độc đáo, khác với mọi người: quảng đại,
duyên dáng, cởi mở, lạc quan, thận trọng, hạnh phúc, vui tươi,
tán thưởng, nhiệt tình và quí như vàng.
Tình bạn của chúng ta không phai mờ và chẳng bao giờ cằn cỗi đi.
Bạn luôn luôn có mặt, tôi biết điều đó là thật, và tôi sẽ luôn
luôn có mặt đây cho bạn.
Bạn
tốt khó tìm, nhưng là quà tặng sẽ còn mãi, giống như các tặng
vật từ Trời Cao. Người bạn tốt là một trong muôn ức triệu, họ
luôn luôn có đó để sẻ chia … Họ theo con đường đưa tới hạnh phúc
của bạn, và luôn cùng bước đi với bạn trên mọi nẻo đường đời.
Những người bạn tốt là những cuộc đời ăn khớp nhau, với niềm
vui, tiếng cười và nước mắt; những cảm xúc quá thật để niềm tín
thác được lớn lên qua dòng thời gian tháng năm đắp đổi.
Những người bạn tốt khó tìm nhưng dễ ngưỡng mộ, và bạn là người
bạn đó cho tôi, tôi chẳng còn tìm kiếm chi hơn nữa.
Có
một ánh sáng trong tối tăm, nó dẫn đưa tới chỗ có hy vọng cho
người tuyệt vọng trong ân sủng cứu độ của Ngài.
Lắm
khi nhiệm vụ của bạn thật nhiều và bạn nghĩ có thể làm nhiều
hơn, nhưng lắm khi con đường đầy gai chông sỏi đá và đồi núi
cũng khó vượt qua nổi.
Bạn
hãy luôn nhớ rằng đồi núi phía trước không luôn luôn là từng bậc
đều đặn, nhưng với niềm tin trong tim, bạn hãy vươn cao và trèo
lên cho đến khi đạt được ước mơ.
Không có gì thật sự giá trị trong đời lại không đáng vất vả để
đạt được, nếu bạn có đủ can đảm để thử và có niềm tin để tin
tưởng.
Đức
tin là một sức mạnh lớn hơn sự hiểu biết, quyền lực hay kỹ năng.
Nhiều thất bại sẽ biến thành chiến thắng, nếu bạn tín thác vào
thánh ý khôn ngoan của Chúa.
Đức
tin có thể chuyển núi dời non. Không có gì mà Chúa không làm
được. Vậy bạn hãy khởi đầu ngày mới hôm nay với niềm tin trong
lòng.
Nắm
chặt tay nhau có thể chỉ là một hành động quá ư đơn giản, nhưng
lại là một cách biểu thị sự sẻ chia gắn bó với những người ta
yêu thương.
Thật tuyệt vời là sau những gì đã xảy ra, họ vẫn có thể lại nắm
chặt tay nhau biểu hiệu tình yêu và lòng tận tụy với nhau.
Đừng để những cái nắm tay như thế trở nên quá hiếm hoi, và hãy
chuyển tải cho nhau sứ điệp đầy sức mạnh ấy: “Đôi ta như rắn liu
điu, nước chảy mặc nước ta dìu lấy nhau.”
3. Tình bạn khác phái
Người sống đời độc thân thánh hiến có thể có tình bạn khác giới
không? Nếu Chúa Kitô, trong nhân tính của Ngài, đã làm bạn với
phụ nữ để lôi kéo họ tới Thiên tính của Ngài, thì tình bạn của
người độc thân thánh hiến giữa nam và nữ đã được Thiên Chúa phê
chuẩn. Và Chúa Giêsu trở thành mẫu gương hoàn hảo của tình bạn
khác giới của người sống đời độc thân thánh hiến.
Mẫu gương sống động về
tình bạn của Chúa Giêsu với phụ nữ có căn bản Thánh Kinh cho
loại liên hệ này trong cuộc đời con người. Cha Felix M.
Padimatham nói rằng Chúa Giêsu trở thành mẫu gương hoàn hảo của
tình bạn khác tính luyến ái. Ngài cũng chỉ ra nhiều mẫu gương
các Thánh và Chân Phước đã có loại tình bạn này trong cuộc đời
các ngài, như:
·
thánh Hiêrônimô và bà
quả phụ Paula,
·
thánh Gioan Kim Khẩu
và nữ trợ tế Olympias,
·
thánh Phanxicô Assisi
và thánh nữ Clara,
·
thánh nữ Catarina
Siena và Chân Phước Raymon Capua,
·
thánh nữ Têrêsa Avila
và thánh Gioan Thánh Giá, v.v…
Và mẫu gương của Chúa
Giêsu vẫn còn có giá trị cho những người theo Ngài, trong tất cả
mọi chiều kích nhân bản và thiêng liêng của đời sống ơn gọi và
sứ vụ.
Rõ ràng, sự yếu đuối
và những nguy hiểm đã không đe dọa Chúa Giêsu, nhưng có thể đe
dọa những người nam và người nữ sống đời thánh hiến trong những
liên hệ như vậy. Do đó, chúng ta phải biết cân nhắc các giới hạn
cần thiết (x. Đào Tạo và Tự Đào Tạo Thiêng Liêng... tr.
291-300)
Chị
em đừng bao giờ quên rằng mọi thân xác đều mang giới tính và bất
cứ tương quan nam nữ nào cũng có yếu tố phái tính (“trai khôn
không ở với mạ, má khôn không ở với trưa”). Vì thế, quà tặng
độc thân thánh hiến có thể bị nguy hiểm, nhất là trong quan hệ
độc hữu, khi mà một người nữ đơn độc ở với một người nam đơn độc
lâu giờ trong một nơi kín đáo cửa khóa chặt, mà không có bất cứ
khoảng cách nào, cùng với những biên giới cần thiết về thể lý,
tâm lý và thiêng liêng.
Theo trình thuật sáng tạo, người độc thân thánh hiến không có sự
quân bình tự nhiên của người sống đời đôi bạn, nên phải thiết
lập cho được và sống thế quân bình siêu nhiên bằng đời sống cầu
nguyện, mật thiết với Chúa, đời sống huynh đệ, tận tụy với sứ
vụ, cảnh giác toàn bộ cách ứng xử và cảm xúc của mình, ý thức
rằng mình “gìn giữ kho tàng ấy trong những chiếc bình sành” dễ
vỡ (2 Cor 4,7).
Sự
thiếu quân bình trong đời sống và sứ vụ cộng với những khó khăn,
thử thách đau khổ, yếu đuối nhân loại bên trong và cám dỗ lôi
cuốn từ bên ngoài, người ta có khi đi tìm lại sự quân bình tự
nhiên kia mà vấp ngã. Kinh nghiệm cho thấy những người tu sĩ bỏ
đời sống cầu nguyện, thiếu tình huynh đệ cộng đoàn và bỏ bê bổn
phận sớm muộn gì cũng sẽ sa ngã, bỏ cuộc. Vì thế, tu sĩ được
thúc đẩy thiết lập mối tương quan trưởng thành, lành mạnh, hài
hòa và quân bình giữa cả hai phái.
4. Tương quan giữa nữ tu với linh mục
Chị
em hãy giữ trong trí óc và tâm hồn sự lệ thuộc của chính mình,
cũng như sự lệ thuộc của linh mục đối với Chúa, và luôn ý thức
phải “trả cho Thiên Chúa những gì thuộc về Thiên Chúa” (x. Mc
12:17): Cái đã cho rồi, không lấy lại mà cho người khác!
Nhưng do lý tưởng và môi trường mục vụ chung, người ta có thể có
mối tương quan thân mật, bằng sự cởi mở tâm sự cho nhau, bằng sự
hiểu nhau và chia sẻ sứ vụ, những thành công cũng như những khó
khăn, tin tưởng nhau, cảm thông với nhau, dịu dàng giúp đỡ và ân
cần chăm sóc. Cũng trong tinh thần này, chúng ta cũng phải kể
đến những người nam cùng làm việc tông đồ với chị em trong các
đoàn hội, hay ân nhân, bảo trợ, mạnh thường quân…Không ai cho
không cái gì cả, và nhiều khi nhận ân bị đòi trả bằng tình! “Em
ngồi em kể công ơn, bạc vàng nặng ít nghĩa nhơn nặng nhiều”
Chính từ sự thân mật này, một cảm nhận “yêu thương” có thể dễ
dàng phát sinh và phát triển, rồi tình trạng có thể trở nên nguy
hiểm hơn, với những hình thức tiêu cực, và tai tiếng thị phi
được dần dần bộc lộ ra: muốn chiếm hữu, ghen tuông, và muốn độc
quyền.
Chị em nhớ rằng linh mục
và nữ tu vẫn không thôi là những con người, nên đừng quên lời
khuyên của Chúa Giêsu (x. Mt 26:41; Mc 14:38): là những con
người thánh hiến, nhưng họ vẫn không thôi là những con người với
những yếu đuối nhân loại.
Thánh Phaolô cũng nói:
“Có ai trong anh chị em yếu đuối mà tôi không cảm thấy yếu đuối,
có ai trong anh chị em sa ngã mà tôi không cảm thấy như thiêu
như đốt?”
Chị
em cũng phải ý thức rằng sự thân mật là nhu cầu của con người,
nhưng sự thân mật trong đời sống độc thân thánh hiến không cần
(và không được) biểu lộ có tính cách phái tính, cùng với hoạt
động truyền sinh.
Sự
thân mật độc thân thánh hiến có mức độ thích hợp của nó. Chính
mức độ riêng biệt này cung ứng cho chúng ta đủ tự do để yêu
thương mọi người và không vượt qua các giới hạn.
Chúng ta khuôn đúc mối
tương quan nam nữ của mình theo gương mẫu đời sống của Chúa Ba
Ngôi và kêu xin ơn can đảm để thăng tiến, vượt thắng và thánh
hoá “tiếng gọi nhân loại” này, ngõ hầu giúp nhau sống và chu
toàn những gì đã cam kết trong ơn gọi và sứ vụ của mỗi người:
“Lòng như lòng can đảm dẹp mến thương, vâng tiếng Chúa quyết
giúp nhau sống cho tròn sứ mệnh”
Chúng ta phải biết tôn trọng nơi chốn, thời gian, thời lượng,
khoảng cách và giới hạn cần thiết, về thể lý cũng như tâm lý,
của các cuộc gặp gỡ, vì tình yêu không có tuổi và giờ hẹn.
Chúng ta phải rõ ràng và
thành thật với chính mình, với người khác và với Chúa, bởi vì sự
“hẹn hò yêu thương ấy” thường được che giấu dưới những cớ hợp
pháp và chính đáng của các công tác và hoạt động mục vụ, nhưng
“thực tế đó là những nghiêng chiều nguy hiểm của con tim.” Và
chớ gì đừng vì thế mà “dại dột” can thiệp giữ lại hay cản trở
việc thuyên chuyển chính đáng của Nhà Dòng.
Tâm lý chung của những
người cầu toàn khi phát hiện một lầm lỗi là muốn làm om sòm lên.
Nhưng liệu sự om sòm ấy có làm thay đổi tình hình hay nó lại
càng "vạch áo cho ngýời xem lưng“ về một cộng đoàn thiếu yêu
thương. Trước hết nên bình tĩnh, nhìn lại chính mình, nhìn lại
cuộc sống mà mình đang có để tìm ra nguyên nhân. Sự nín nhịn
“đóng cửa dạy nhau” để xây dựng cộng đoàn yêu thương là điều rất
nên làm.
Ai
cũng có thể bị vi rút tình cảm và tình dục tấn công. Vấn đề là
làm sao có sức đề kháng tốt để tránh được bệnh. Sức đề kháng đó
nằm ở chính tình thương nhau của cộng đoàn.
Việc tạo nên những cung bậc trong tình huynh đệ cộng đoàn cũng
không cần quá cầu kỳ, thậm chí nó chỉ là những việc đơn giản
nhất như những cuộc nói chuyện tâm sự về sức khoẻ, học hành, gia
đình, quan hệ, những nỗi ưu tư…, những lời hỏi han, chia sẻ đúng
lúc.
Những điều xem ra nhỏ nhoi ấy đôi khi lại có sức mạnh rất lớn
trong việc gìn giữ và bảo vệ nhau khỏi những điều sai lỗi. Hãy
coi lầm lỗi như một lúc con tàu bị trật bánh ra khỏi đường ray.
Nếu khéo léo điều chỉnh, bánh xe sẽ lại trở về đúng vị trí để
con tàu tiếp tục vận hành. Người lầm lỗi được thương yêu, tha
thứ và nâng đỡ sẽ đủ nghị lực kiên trì biến đổi nên tốt, nhờ ơn
Chúa.
Trong hoàn cảnh tế nhị này, sự hiện diện yêu thương và đời sống
huynh đệ cộng đoàn sẽ mang lại sự trợ giúp cần thiết. Sự nhạy
bén và trách nhiệm của bề trên cộng đoàn đóng vai trò “thiên
thần giữ mình” rất quan trọng. Khi đã cố gắng mọi cách cùng với
các chị em trong cộng đoàn mà không kết quả thì phải sớm trình
Bề Trên Dòng can thiệp. Nhiều trường hợp em út phải vấp ngã đau
lòng vì sự tắc trách của những người trách nhiệm!
Bởi
tình bạn dâng hiến và nhiệt tình, mỗi người trong cộng đoàn có
thể là sự trợ giúp lớn lao cho người khác, trong việc soi sáng
và khích lệ lẫn nhau, khi phải chịu đựng những hoàn cảnh nguy
hại khác nhau, cũng như sự lây nhiễm một thứ tinh thần thế
tục nào đó.
Chúng ta không được quên nhu cầu cầu nguyện, khổ chế, ăn chay và
chiêm niệm: “Chúng ta không thể đi theo con đường khó nếu không
có một thứ khổ chế đặc biệt.”
Nhưng trên hết, chúng ta phải tin rằng tình yêu của Thiên Chúa
lớn hơn tình yêu nhân loại (một tình yêu lớn hơn vượt thắng tình
yêu nhỏ hơn và những hấp dẫn của nó); rằng chỉ có Thiên Chúa mới
làm thoả mãn được con tim chúng ta và chúng ta thế nào thì Ngài
yêu thương chúng ta thế ấy, và Ngài yêu thương chúng ta cho đến
tận cùng; và rằng chúng ta đã “chọn phần tốt hơn” rồi.
Chúa luôn hiện diện trong cuộc đời chúng ta như là “người canh
giữ”, như là “bóng mát” của cột mây ban ngày và cột lửa ban đêm
để soi đường trong sa mạc, và như là “cánh tay uy quyền” của
người bảo vệ.
Thiên Chúa có thể rút ra điều tốt từ điều xấu, biến đổi điều xấu
thành điuều tốt. Khủng hoảng không nhất thiết là một dấu hiệu
tiêu cực, nhưng đúng hơn, nó phải được coi là một thách đố để
tái định hướng đời sống và sứ vụ tu sĩ.
Nó
mời gọi một đời sống thiêng liêng cá nhân sâu xa hơn, can đảm
đối mặt và chấp nhận các thực tại của bản thân, dù có khi đau
đớn và xấu hổ (vì yếu đuối, vì lầm lỡ). Cần phải làm mới lại các
liên hệ lành mạnh để được nâng đỡ và cảm thông
hơn.
|
VỀ MỤC LỤC |
|
NGƯỜI CAO TUỔI VỚI ĐỜI SỐNG GIA
ĐÌNH
|
Trong chu kỳ
của cuộc sống, người cao niên thường trở lại giai đoạn phải lệ
thuộc vào gia đình như đã lệ thuộc vào cha mẹ trong tuổi ấu thơ.
Đó là vì khi tới tuổi cao, khả năng làm việc của họ giảm bớt,
lại có thể nẩy sinh ra một số bệnh liên hệ tới tuổi già, khiến
họ mất khả năng tự túc, tự tồn, thậm chí mất cả khả năng hiểu
biết.
Đây là một
vấn đề mà các xã hội Đông và Tây có giải pháp khác nhau mặc dầu
có chung một mục tiêu là giúp đỡ người già trong giai đạn khó
khăn nhất cuả đời họ.
Xin lần lượt
xét về tình trạng người già trong hai xã hội này.
Xã hội Tây Phương
Tại các xã
hội Tây phương, điạ vị người già tùy thuộc vào khả năng kiểm
soát tài chánh. Khi có khả năng này, người già không lo bị sống
cô đơn với các chứng bệnh kinh niên. Họ có thể thuê mướn những
chuyên viên y tế để chăm sóc tại gia hoặc lựa chọn lối sống tập
thể trong các cơ sở chuyên chăm sóc người già với đầy đủ tiện
nghi y tế, vật chất.
Nhưng đó cũng
là thiểu số. Còn phần đông người già với hạn hẹp tài chánh phải
nhờ vả hoặc gia đình thân thích hoặc các cơ quan chính phủ, cơ
sở cộng đồng, các tổ chức từ thiện.
Tại các quốc
gia kỹ nghệ cao, như Hoa kỳ chẳng hạn, nhu cầu công ăn việc làm
đã khiến gia đình phân cách, trái ngược với tình trạng các gia
đình sinh sống gần gũi nhau trong các trang trại lớn vào đầu
thế kỷ 20. Do đó, đa số người già thường sống cô đơn trong ngôi
nhà mà họ đã tạo lập từ thuở trung niên. Con cái họ thường là ở
xa, có khi cách cả hàng ngàn cây số.
Thêm vào đó,
đa số người già ở đây đều trải qua nhiều cuộc hôn nhân trong
đời, rất ít người sống cùng với người phối ngẫu ban đầu. Con cái
nhiều dòng, con ông con bà, con chúng ta, khó có sự đoàn kết
trong tình máu mủ ruột thịt.
Nhận thức
được sự khó khăn này, chính phủ Mỹ đã lập ra chương trình An
Sinh Xã Hội, chương trình chăm sóc y tế miễn phí cho người già
từ 65 tuổi sắp lên ( medicare ). Chính phủ còn trợ cấp cho các
chương trình giúp đỡ người già do các cộng đồng địa phương thực
hiện. Các cộng đồng này điều hành nhiều trung tâm cao niên, cung
cấp bữa ăn trưa với giá rẻ cho người già, cung cấp vài dịch vụ y
tế căn bản như khám sức khoẻ, đo huyết áp, khám mắt, thử đường,
cholesterol trong máu. Nhiều trung tâm còn tổ chức các cuộc giải
trí lành mạnh, như thể dục thể thao, đi bộ, bơi lội, đi xe đạp
v.v.
Các trung tâm
cao niên này đã tạo ra một môi trường làm vơi bớt nỗi cô đơn
của họ.Các bữa cơm tập thể cũng cung cấp cho họ những chất dinh
dưỡng căn bản hàng ngày.
Một cuộc khảo
sát về ích lợi của bữa ăn tập thể đối với người cao niên cho
thấy họ có khả năng hấp thụ nhiều chất dinh dưỡng hơn người già
dùng bữa ăn cô độc ở nhà. Có thể đây cũng là một yếu tố tâm lý
chứng minh người già cần một môi trường gia đình hay đoàn thể để
tâm hồn được ổn định, đưa đến sự cải thiện các chức năng cơ thể.
Tóm lại, ở Mỹ
người già có thể vừa trông cậy vào sự giúp đỡ của gia đình vừa
dựa vào sự trợ giúp cuả chính phủ và cộng đồng xã hội.
Người già ở Việt Nam
Ở các xã hội
Đông phương như Việt Nam chẳng hạn, người già căn bản đều nương
tựa vào gia đình trong giai đoạn chót của cuộc đời. Xã hội Việt
Nam chưa có những chương trình giúp đỡ người già hoặc có những
trung tâm cao niên có tổ chức như ở Mỹ.
May mắn thay,
người Việt Nam có truyền thống hiếu thảo đối với ông bà cha mẹ.
Người Việt nào cũng xem mình có bổn phận đền đáp công lao sinh
thành dưỡng dục cuả cha mẹ .
“Công cha như
nuí Thái Sơn,
Nghiã mẹ như
nước trong nguồn chẩy ra”,
là điều tâm
niệm của con người Việt.
Do truyền
thống tốt đẹp đó mà gia đình trở thành đơn vị gốc của xã hội.
Đơn vị đó tồn tại qua nhiều cuộc xáo trộn kinh tế, chính trị của
xã hội. Người già có một chỗ dựa nào đó trong cái đơn vị gốc
này. Những người thiếu may mắn, không con cái, thì vẫn có thể
nhờ vả bà con nội ngoại.
Cũng do
truyền thống tốt đẹp cuả dân tộc mà cuộc sống chung giữa người
già và người trẻ dưới mái ấm của gia đình thường rất hài hòa, ổn
định. Trong xã hội Tây phương sự sống chung này không nhiều vì
mỗi bên đều muốn có sự riêng tư.
Người già Việt viễn cư
Đối với người
Việt định cư tại nước ngoài, quý vị cao niên vẫn còn thừa hưởng
cái truyền thống hiếu thảo của dân tộc. Các cụ vẫn còn được con
cái phụng dưỡng như hồi còn ở bên nhà. Tuy đã có các chương
trình trợ cấp của chính phủ, các cụ vẫn không chọn lối sống cô
độc, lẻ loi.
Ngoại trừ khi
quá yếu đau, sự hiện diện của các cụ còn là một lợi ích cho con,
đặc biệt cho cặp vợ chồng trẻ.
Khi cả hai vợ
chồng đều đi làm thì các cụ trở thành quản gia cho họ. Khi họ có
con nhỏ, các cụ kiêm luôn việc giữ trẻ, đôi khi phụ trách cả
công việc bếp núc. Các cụ vui vẻ làm những công việc đó cho con
cái, không than phiền.
Sự xung khắc
do khoảng cách tuổi tác ít khi xẩy ra, chỉ trừ một số rất nhỏ
trong đó hoặc dâu, rể đã tiêm nhiễm nặng chủ nghiã cá nhân Âu
Mỹ. Trong trường hợp này, các cụ tuy bị khổ tâm không ít, nhưng
vì thương cháu nên không nỡ đoạn tuyệt với dâu rể. Sự khổ tâm,
chịu đựng này có thể đưa đến những hậu quả tâm thần trầm trọng.
Một số các cụ
cảm thấy cô đơn vì không có bạn đồng trang lứa để hàn huyên,
trao đổi. Các cụ không thích đến các trung tâm cao niên để giải
trí như người địa phương, đôi khi vì thiếu phương tiện di
chuyển. Mà các trung tâm này cũng chỉ có ở các thành phố có đông
người mình định cư, và số người tham dự vẫn ít oi.
Nói tóm lại,
môi trường thích hợp nhất đối với các cụ vẫn là gia đình trong
đó các cụ sống thoải mái giữa đông đảo con cháu. Tâm lý chung là
các cụ thường chọn ở với con trai vì theo quan niệm Đông phương,
dâu là con mà rể là khách, các cụ thà nhờ vả nương tựa con trai
và con dâu hơn.
Quan niệm này
khác với quan niệm Tây phương, đặc biệt là người Mỹ. Họ cho rằng
con trai chỉ là con cho tới khi nó lấy vợ, còn con gái thì là
con của họ suốt đời ( A son is a son until he gets a wife, a
daughter is a daughter all her life ). Quả thật khi người con
trai Mỹ lấy vợ thì đương sự đặt trọng tâm sinh hoạt vào nhà vợ,
tách khỏi cha mẹ trong nhiều khía cạnh cuả cuộc sống.
Nhưng dù ở
với con nào, các cu ta vẫn được sống thoải mái hơn các cụ Mỹ
cùng hoàn cảnh. Lý do là dù hội nhập vào xã hội Mỹ, người mình
vẫn còn giữ truyền thống tốt đối cha mẹ.
Sống dưới mái
ấm đại gia đình, các cụ ta hưởng được sự chăm sóc cả vật chất
lẫn tinh thần. Yếu tố tinh thần lại có ảnh hưởng không ít tới
tới sức khoẻ thể xác của các cụ. Cho nên truyền thống phụng
dưỡng cha mẹ không những tốt đẹp về phương diện văn hoá mà còn
tốt về phương diện kinh tế bằng cách giảm thiểu tốn kém về các
dịch vụ y tế dành cho các cụ.
Trong các gia
đình Việt Nam còn giữ được nền nếp cổ truyền, các cụ do tuổi tác
được con cháu trọng nể, đương nhiên trở thành những nhân vật
tiêu biểu cho trật tự và tình đoàn kết của các thành phần trong
gia đình. Các cụ giữ vai trò xúc tác cho mọi hoạt động của các
con cháu nhắm thăng tiến, hướng thượng và xây dựng hạnh phúc cho
mọi người. Vai trò của các cụ trong việc tiếp tay giáo dục trẻ
con không bị hạn chế, chống đối như các cụ già trong xã hội Âu
Mỹ.
Tuy nhiên,
tình trạng này trong tương lai gần sẽ có một vài biến chuyển.
Đám trẻ được trường học dạy cho lối suy tư và hành động tự lập
đối với gia đình thường trở nên ương ngạnh. Chúng xem các cụ
thuộc thế hệ đã qua, không phù hợp với lý tưởng tự do cuả chúng.
Cho nên nếu
các cụ không cởi mở mà quá khắt khe theo lối sống cổ truyền thì
e rằng sớm muộn cũng mất đi mối quan hệ tình cảm với lũ trẻ.
Các cụ cần
thích nghi với hoàn cảnh mới, với sự hội nhập vào xã hội mới,
tìm hiểu tâm tư, ước mơ, lối suy nghĩ của tuổi trẻ, sẵn sàng
chấp nhận những khác biệt, đặt trọng tâm vào tình thương. Có thế
các cụ mới hòa đồng được với sự đổi đời do hoàn cảnh tạo nên.
Mà có hòa
đồng, thích nghi thì các cụ mới bảo vệ được sức khoẻ tâm thân,
nắm được bí quyết của tiến trình an hưởng tuổi vàng.
Nguyễn Ý-ĐỨC
M.D.
Texas-Hoa Kỳ.
www.nguyenyduc.com
|
VỀ MỤC LỤC |
KIÊN NHẪN
Chuyện phiếm của Gã Siêu |
Sống trên đời, chẳng phải lúc nào
sự may mắn cũng mỉm cười với chúng ta. Trái lại, rất nhiều khi
chúng ta cũng đã thất bại ê chề, cũng đã bị đời đá lên đá xuống,
thâm tím mặt mày, toạc đầu xẻ tai, cũng như đã nếm thử tình
trạng ba chìm bảy nổi chín lênh đênh.
Vì thế, những bước chân thăng
trầm và những cảnh lên voi xuống chó, âu cũng chỉ là chuyện bình
thường của số kiếp mà thôi.
Tuy nhiên, cuối cùng sự thành
công bao giờ cũng được dành cho những người bền lòng chịu đựng,
vững tâm theo đuổi, hay nói cách khác những người kiên nhẫn sẽ
gặt hái được những thành quả tốt đẹp nhất.
Chẳng thế mà người xưa đã có
nhiều lời khuyên nhủ :
- Hữu chí cánh thành, nghĩa là có
chí thì nên.
- Người có chí ắt phải nên,
Nhà có nền, ắt phải vững.
- Có công mài sắt, có ngày nên
kim.
- Nước chảy đá mòn.
Nói tới chuyện “nước chảy đá
mòn”, gã xin kể lại một sự việc như sau :
Số là có một dạo gã bị đau lưng.
Lên Saigon, đi khám tại trung tâm Hòa Hảo. Bác sĩ phát hiện ra
mỗi bên thận đều có một viên sỏi nhỏ.
Gã bèn hỏi :
- Vậy phải xử lý những viên sỏi
này như thế nào ? Nên mổ hay nên bắn ?
Ông bác sĩ chẩn đoán liền trả
lời :
- Vì những viên sỏi này còn nhỏ,
nên chẳng cần phải mổ hay bắn chi cả, chỉ cần anh nhớ và thực
hiện mấy điều sau đây :
Thứ nhất là năng vận động tay
chân.
Thứ hai là phải dùng thuốc đúng
liều lượng đã chỉ định.
Thứ ba là hãy sống lạc quan, yêu
đời và mỉm cười luôn.
Thứ tư là nên uống nhiều nước mỗi
ngày, vì nước chảy đá mòn kia mà.
Và đã xảy ra đúng như vậy. Sau
một năm thực hiện bốn lời khuyên trên đây, khi tái khám, thì
những viên sỏi nhỏ không còn nữa, đã “mòn” mất tiêu và gã cũng
hết bị chứng đau lưng hành hạ.
Nhân vì sự ấy, gã xin bàn về sự
kiên nhẫn dưới một vài góc độ trong cuộc sống.
Trước
hết là về phương diện quốc gia và xã hội
Trong cuốn sách lịch sử, hầu như
dân tộc nào cũng có những trang đen tối. Đó là những lúc đất
nước bị xâm lăng và chiếm đóng, còn đồng bào của mình thì bị
sống dưới ách nô lệ và làm thân trâu ngựa cho bọn thực dân và đế
quốc.
Thế nhưng, không phải cứ đứng lên
phất cờ khởi nghĩa là có ngay sự tự do và nền độc lập. Trái lại,
phải kiên trì chiến đấu, phải đổ ra biết bao nhiêu xương máu mới
dành được chủ quyền và mới có được những ngày tươi sáng.
Một mẫu gương cho sự kiên nhẫn
đấu tranh vì quyền lợi của quê hương, đó là mẫu gương của ông
Gandhi bên Ấn Độ.
Ông vừa là một triết gia, vừa là
một nhà hoạt động trong phong trào giải phóng dân tộc Ấn Độ, vừa
là một người sáng lập ra hệ thống tư tưởng và sách lược của chủ
nghĩa Gandhi.
Sau một thời gian sống ở Nam Phi,
năm 1915 ông trở về nước và lãnh đạo đảng Quốc Đại, tham gia
những cuộc đàm phán, đòi thực dân Anh phải trao trả nền độc lập
cho Ấn Độ.
Là người yêu nước và có một nếp
sống khổ hạnh, ông đã đi khắp nước để tuyên truyền và giải thích
về nhiệm vụ đấu tranh dành độc lập bằng chính sách bất bạo động.
Bị chính phủ thực dân Anh đàn áp
nhiều lần, nhưng ông lại được dân chúng hết lòng yêu thương và
kính trọng.
Chủ nghĩa Gandhi là một hệ thống
tư tưởng yêu nước, là cương lãnh cho việc đấu tranh giải phóng
dân tộc. Một mặt ông kêu gọi sự đoàn kết các giai cấp và các tôn
giáo. Một mặt ông kiên trì chống lại sự cai trị của thực dân
bằng phương pháp bất bạo động. Phương pháp này bao gồm :
Thứ nhất là không phục tùng :
chẳng hạn như không tuân thủ những luật lệ do chính phủ ban
hành, không đóng thuế cho nhà nước…
Thứ hai là không hợp tác : chẳng
hạn như không làm việc cho chính phủ, không dùng vải vóc của
nước ngoài, đồng thời cố gắng khôi phục lại nghề dệt thủ công
trong nước, để tự túc về chuyện may mặc…
Chính sách bất bạo động này có
một nguồn gốc sâu xa trong quan niệm về “cấm sát sinh”, cũng như
trong quan niện về “từ bi hỉ xả” của Ấn Độ giáo và Phật giáo.
Cuối cùng sau nhiều năm tháng
miệt mài đấu tranh, ông đã dành lại được sự tự do và nền độc lập
cho đất nước Ấn Độ.
Cách đây hai mươi năm, tại nơi gã
đang ở cũng đã xảy ra một chuyện “kiên trì đấu tranh” cho phần
đất đồng bào đang cắm dùi.
Số là bấy giờ là thời còn bao
cấp. Mấy ông chính quyền xã hống hách như những ông trời con,
phán sao nên vậy. Mấy ông bảo :
- Cây đay, cây bô là cây…chiến
lược, làm cho đất nước này phất lên và trở thành giàu mạnh.
Thế là nhà nhà đều phải răm rắp
vâng theo, ra sức trồng đay trồng bô. Muốn lấy tơ, đay bô phải
được ngâm. Đay bô ngâm đã khiến cho dòng sông nước chảy vừa đen
lại vừa thối, chẳng khác gì nước cống rãnh ở thành phố. Nhưng
dân chúng cũng vẫn phải cắn răng chịu đựng.
Thậm chí mấy “ông kẹ của xã” còn
cướp đất của đồng bào để lập nên công trình đay bô. Thế nhưng,
công trình đay bô này lại bị chính mấy ông “kẹ” ấy rút ruột.
Phân thay vì bón cho cây, thì lại được tuồn ra ngoài chợ đen bán
cho bàn dân thiên hạ, nên chỉ trong vòng một thời gian ngắn,
công trình bị thua lỗ và sụp đổ.
Khi công trình bị sụp đổ, thay vì
trả đất lại cho đồng bào, mấy ông “kẹ” này lại thậm thụt mang
bán đi để chia tiền với nhau. Đồng bào vác đơn đi kiện. Đi từ
địa phương lên tới trung ương tận Hà Nội, rồi trung ương ngoài
Hà Nội lại chuyển về địa phương để….”ngâm kíu”. Con kiến mày
kiện củ khoai, vỏi vòi voi qua bao nhiêu ngày tháng, tưởng chừng
như “dạ tràng xe cát biển Đông, nhọc nhằn mà chẳng nên công cán
gì”.
Sở dĩ như vậy là vì mấy ông kẹ
này đã mua đứt các quan, cũng như các phương tiện truyền thông
như báo chí, đài phát thanh và truyền hình từ huyện cho đến
tỉnh.
Cuối cùng đành phải áp dụng chính
sách bất bạo động, nghĩa là một số ông già bà cả và những gia
đình thương binh liệt sĩ…”có công với cách mạng”, kéo nhau lên
sở nông nghiệp tỉnh, biểu tình ngồi lì…lúc bấy giờ địa phương
mới chịu nhả đất ra mà trả cho đồng bào.
Tiếp đến
là về phương diện bản thân và cá nhân.
Về phương diện này, gã xin bàn
tới hai điểm :
Điểm
thứ nhất, đó là việc sửa đổi bản thân.
Kinh nghiệm cho thấy :
- Nhân vô thập toàn. Chẳng ai là
người hoàn toàn cả. Hay nói cách khác, ai cũng có những sai lỗi
khuyết điểm của mình.
Thế nhưng, việc sửa đổi một sai
lỗi, việc uốn nắn một khuyết điểm lại không phải là chuyện dễ
dàng, một sáng một chiều mà từ thằng quỷ nghiễm nhiên trở nên
ông thánh. Rất nhiều lần gã đã quyết tâm từ bỏ tật xấu này, khử
trừ thói hư kia, nhưng rồi quyết tâm ấy chẳng kéo dài được bao
lâu, quá lắm là ba bảy hai mươi mốt ngày, để rồi cuối cùng mèo
vẫn hoàn mèo, chó đen vẫn giữ mực, và gã vẫn chứng nào tật ấy mà
thôi.
Tamerlan là một vị tướng đánh đâu
thua nấy. Đánh lớn thua lớn, đánh nhỏ thua nhỏ và càng đánh lại
càng thua. Trong một phiên họp với các sĩ quan chỉ huy để rút ưu
khuyết điểm, ông lơ đãng nhìn ra ngoài và thấy một con kiến đang
bò lên đỉnh lều. Bò lên gần tới nơi thì bị tụt xuống, bị tụt
xuống rồi lại cố bò lên. Cứ thế, cứ thế đến lần thứ năm con kiến
mới tới được đỉnh lều. Như “ngộ” ra sự thật, ông tuyên bố với
các sĩ quan chỉ huy :
- Đánh, đánh mãi cho tới lúc nào
thắng mới thôi.
Và rồi cuối cùng đoàn quân của
ông đã chiến thắng vinh quang.
Cũng trong chiều hướng ấy, một
người đã sửa mình bằng cách mỗi khi làm một việc tốt thì bỏ một
hạt đậu trắng vào trong chiếc lọ, còn mỗi khi làm một việc xấu
thì bỏ một hạt đậu đen cũng vào trong chiếc lọ ấy. Ban tối ông
đổ ra và đếm. Lúc đầu toàn đậu đen. Rồi sau đó đậu đen giảm dần
và đậu trắng tăn lên. Cho tới một ngày trong lọ chỉ còn toàn đậu
trắng và ông đã trở nên một con người đạo đức tốt lành.
Người khác đã chừa bỏ được tật
nghiện rượu của mình bằng cách trước khi ngồi nhậu thì nhỏ một
giọt nến vào chiếc ly uống rượu. Cứ thế ngày này qua ngày khác,
sau một thời gian, chiếc ly của ông cũng đầy nến và ông không
còn là một kẻ nghiện ngập nữa.
Điểm
thứ hai, đó là công việc làm ăn của cá nhân.
Các cụ ta ngày xưa đã từng khuyên
nhủ :
-Năng nhặt thì chặt bị.
- Kiến tha lâu cũng đầy tổ.
Gã từng thấy có những bà mẹ chắt
chiu nhặt từng đồng cắc, kiên nhẫn với nghề buôn thúng bán mẹt,
buôn tần bán tảo…thế mà cũng nuôi dạy được những người con tốt
nghiệp đại học, ra đời với mảnh bằng bác sĩ, kỹ sư…trong khi đó
nhiều người lại muốn “bốc hốt” làm giàu một cách mau chóng, làm
giàu bằng bất cứ phương thế nào, kể cả những phương thế bất công
và bất chính, nên đã kết thúc đời mình bằng chuyện vô nhà đá,
nằm bóc lịch.
Ngoài ra các cụ ta còn nhắc nhở :
- Hãy cho bền chí câu cua,
Dầu ai câu trạch, câu rùa mặc
ai.
- Chớ thấy sóng cả mà ngã tay
chèo.
- Chớ thấy sóng cả mà lo,
Sóng thời mặc sóng, chèo cho có
chừng.
Sách “Cổ Học Tinh Hoa” kể lại như
sau :
Nước Trịnh có người học nghề làm
dù che mưa, ba năm mới thành nghề. Trời đại hán, không ai dùng
đến dù, anh ta bèn bỏ nghề làm dù, đi học nghề làm gầu tát nước.
Lại học ba năm mới thành nghề làm
gầu, thì trời mưa luôn mãi, không ai dùng đến gầu. Bấy giờ anh
ta lại quay về nghề làm dù như trước.
Không bao lâu, trong nước có
giặc, dân gian nhiều người phải đi lính, mặc đồ nhung phục,
không cần đến dù, anh ta xoay ra nghề đúc binh khí thì đã già
quách mất rồi.
Úc Tử Ly thấy anh, thương tình
nên nói rằng :
- Than ôi ! Bác chẳng đã già đời
mất rồi ư ! Già hay trẻ không phải là tự người, mà là tự trời,
điều ấy cố nhiên. Nhưng nghề nghiệp thành hay bại, dù lỡ thời
không gặp dịp, cũng không nên đổ cả cho trời, tất có mình ở
trong.
Ngày xưa nước Việt có một người
làm ruộng, cấy lúa chiêm ba năm đều hại vì lụt cả. Có kẻ bảo anh
ta nên tháo nước mà cấy lúa mùa. Anh ta không nghe, cứ cấy lúa
chiêm như trước. Năm ấy nắng to, mà nắng luôn ba năm, vụ chiêm
nào cũng trúng, thành ra anh ta kéo lại hòa cả mấy năm mất mùa
trước. Cho nên có câu rằng :
- Trời đại hạn, nghĩ đến sắm
thuyền,
Trời nồng nực, nghĩ đến sắm áo
bông.
Đó là một câu thiên hạ nói rất
phải. Tác giả còn thêm một lời bàn như sau :
- Người có gan, (người kiên trì),
dù cho lỡ thời cũng cứ vững dạ mà giữ lấy nghề. Vì nghề chắc đã
thành, thì tất cũng có chốn dụng, chẳng chóng thì chầy, chẳng
nhiều thì ít. Chớ cứ nay làm nghề này, mai xoay nghề khác, như
hòn đá lăn mãi không bao giờ mọc rêu, thì chỉ nhọc xác, già
người mà vẫn không ăn thua gì cả.
Sau cùng
là về phương diện gia đình và tình yêu.
Như trên, gã đã xác quyết :
- Nhân vô thập toàn. Chẳng ai là
người hoàn toàn cả. Hay nói cách khác, ai cũng có những sai lỗi
khuyết điểm của mình.
Vì thế đi tìm một người tình, một
người chồng hay một người vợ lý tưởng là một việc làm luống công
vô ích, có năm mơ cũng chẳng thấy được, đơn giản chỉ vì người
tình ấy, người chồng ấy hay người vợ ấy không hề tồn tại trong
cuộc sống này.
Vì vậy, một khi đã chọn lựa thì
cũng phải chấp nhận. Chấp nhận những ưu điểm cũng như những
khuyết điểm. Chấp nhận những sở trường cũng như những sở đoản.
Chấp nhận những tính tốt cũng như những thói hư của người mình
yêu.
Với những tính tốt, mình giúp
nhau phát triển tới một mức độ cao hơn. Với những thói hư, mình
giúp nhau uốn nắn sửa đổi.
Sau đây, gã xin giới thiệu một
vài cách thức kiên trì đấu tranh của các chị vợ chống lại những
tật xấu của các anh chồng và đã thành công mỹ mãn. Những độc
chiêu “giữ chồng” này, gã trích từ một bài viết trên báo Phụ nữ
Chủ nhật, số 9 ra ngay1 tháng 3 năm 2007.
Đối
với những anh chồng thích…nhậu
Thú vui đầu tiên mà nhiều bậc tu
mi nam tử ưa thích, đó là chén thù chén tạc, chén chú chén anh.
Sau giờ làm việc, anh chồng thường hay nhậu lai rai với bè bạn
có khi đến hai ba giờ sáng. Về đến nhà, anh gọi vợ con dậy tâm
sự cho vui. Chị vợ cho biết ;
- Anh yêu vợ thương con, lo cho
gia đình. Khi say, anh không quậy phá, mà chỉ thích kể chuyện
vui. Nhưng vui sao nổi khi bị gọi dậy vào lúc tờ mờ sáng, mẹ con
tôi cười như mếu.
Sau nhiều lần thấy chồng về nhà
trong tình trạng xiêu vẹo, chị quyết định đến quán nhậu…ngồi
chờ. Kỷ lục “ghi nét” mà bạn bè ghi nhận là từ mười hai giờ trưa
đến mười hai giờ đêm. Để cho đỡ buồn, thoạt đầu chị chỉ muốn làm
“dũng sĩ phá mồi”, sau thấy người mình ngày càng tròn trịa, chị
chuyển sang uống bia để…đẹp da. Chồng làm mười ly, thì vợ cũng
làm được một ly. Bên kia hò hét “Dzô, dzô”, thì bên này cũng
nâng ly uống cạn.
Được một thời gian anh bỏ nhậu,
nguyên nhân theo chị có lẽ anh sợ chị cũng biến thành…bợm nhậu
chăng ?
Đối
với những anh chồng mê…bi da.
Anh mê đánh và cá độ bi da. Giá
“bèo” nhất là năm trăm ngàn đồng. Còn cao thì từ hai đến năm
triệu đồng. Anh mê đến mức đánh từ mười hai giờ trưa tới hai ba
giờ sáng, bỏ cả ăn, chỉ uống nước cầm hơi…
Thấy chồng mê bi da đến quên cả
vợ con, chị bèn đến trước cửa tiệm bi da, nhưng không vào. Anh
chơi tới giờ nào, thì chị ngồi chờ tới giờ ấy, chỉ vì nếu chị
về, anh lại tìm nơi khác đánh tiếp…Vùa ngồi chờ, chị vừa quản lý
công việc nhà và cửa hàng qua điện thoại di động.
Sau một thời gian, các chiến hữu
của anh bắt đầu nhìn chị với đôi mắt…thiện cảm và dạy chị chơi
bi da, hoặc đánh tiến lên, khi đông khách phải chờ bàn.
Có lẽ thấy tình hình bất ổn, nên
anh giảm chơi hẳn, trừ thời gian đi công tác, anh ở nhà cũng
nhiều hơn.
Đối
với những anh chồng say…bài bạc.
Anh biết tính vợ, không thích
chồng bài bạc, chứ còn nhậu nhẹt thì lại….OK. Vì thế, mỗi lần đi
“sát phạt” đâu đó, anh lại làm một chai bia cho sừng sừng và đỏ
mặt để về nhà, lừa chị cái một.
Để chuẩn bị cho những cú sát phạt
ấy, anh thường giấu tiền. Khi thì để trong giày, khi thì để
trong cốp xe. Lúc ngồi xuống chiếu bạc, anh cứ việc ung dung rút
tiền ra.
Chuyện quĩ đen chỉ vỡ lở khi xe
chị bị hư, chị lấy xe anh đi, nhưng “thiên bất dung gian”, xe
hết xăng. Khi mở cốp xe để đổ xăng, thì chị…không thể tin vào
mắt mình, bởi vì trong cốp xe của anh đầy những tiền. Từ đó, chị
lên hẳn một chiến lược đưa anh vào quĩ đạo.
Chị gom hết số điện thọai những
người bạn của anh và mở chiến dịch “truy nã” khi anh ra khỏi
nhà. Biết anh đánh bài ở nhà ai, thì chị coi đó như là…nhà của
mình. Chị đi chợ, rồi tới đó nấu nướng. Nấu nướng xong, chị gọi
con cái đến cùng ăn để xum họp với bố. Ăn xong, cả nhà ngồi chờ
để về chung với bố.
Được vài lần, anh bỏ chơi vì quá
căng thẳng và lo ra, nên bị thua xiểng liểng.
Đối
với những anh chồng ưa…karaoke.
Anh không đẹp trai, nhưng có một
giọng ca trầm ấm, nên thường xuyên có mặt tại những tụ điểm hát
với nhau và được nhiều bạn bè ái mộ.
Chị để cho anh được tự do, nhưng
sau một lần cùng anh đến những chỗ anh vui chơi, chị mới tá hỏa
vì có nhiều nguy cơ…mất chồng. Người ta dễ dàng đến với nhau khi
có cùng sở thích, và nhất là lại có sự đồng lõa của ánh đèn màu.
Trong không gian tranh tối tranh sáng ấy, người và cảnh bỗng trở
nên tươi đẹp hơn và cũng lãng mạn hơn.
Thế là chị hát karaoke luyện
giọng để cùng hát với anh. Tuy nhiên, cuộc chiến giữ chồng của
chị cũng không dễ dàng, bởi vì một tuần anh vui đến dăm ba ngày,
còn chị làm nghề giáo viên, nên sáng nào lên lớp cũng phờ phạc,
thiếu ngủ chỉ vì tối qua “can tội” hát với…chồng tới một, hai
giờ sáng.
Tương tự như thế, một chị sợ anh
có bồ nhí khi chơi “tennis”, nên đã nhập cuộc. Lúc đầu làm cổ
động viên. Sau đó cầm vợt ra sân cùng chồng. Và chị đã trở thành
vận động viên thứ thiệc lúc nào không hay : cũng tóc vàng, cũng
môi trầm, cũng da nâu…chỉ vì nắng gió sân “tennis”.
Để kết luận gã xin ghi lại nơi
đây tư tưởng của Samuel Johnson như sau :
- Không phải là sức mạnh, nhưng
chính là sự kiên nhẫn mới làm nên những công trình to lớn.
Gã Siêu
gasieu@gmail.com
|
VỀ MỤC LỤC |
|
- Mọi liên lạc: Ghi danh, thay đổi địa chỉ, đóng góp ý kiến,
bài vở..., xin gởi về địa chỉ
giaosivietnam@gmail.com
- Những nội dung sẽ được đề cao và chú ý bao gồm:
Trao đổi, chia sẻ những kinh nghiệm thực tế trong việc mục
vụ của Giáo sĩ; Những tài liệu của Giáo hội hoặc của các
Tác giả nhằm mục đích Thăng tiến đời sống Giáo sĩ; Cổ võ ơn
gọi Linh mục; Người Giáo dân tham gia công việc “Trợ lực
Giáo sĩ” bằng đời sống cầu nguyện và cộng tác trong mọi lãnh
vực; Mỗi Giáo dân phải là những “Linh mục” không có chức
Thánh; Đối thoại trong tinh thần Bác ái giữa Giáo dân và
Giáo sĩ… (Truyền giáo hay xây pháo đài?)
- Quy vị cũng có thể tham khảo những số báo đã phát hành tại
www.conggiaovietnam.net
Rất mong được sự cộng tác, hưởng ứng của tất cả Quí vị
Xin chân thành cám ơn tất cả anh chị em đã
sẵn lòng cộng tác với chúng tôi bằng nhiều cách thế khác
nhau.
TM. Đặc San Giáo Sĩ Việt Nam
Lm. Luca
Phạm Quốc Sử
USA
|
|
*************
|
|