Đặc San Giáo Sĩ Việt Nam

 

 

 

ĐỰƠC CHỌN GIỮA LOÀI NGƯỜI
VÀ CHO LOÀI NGƯỜI  (x. Dt, 5.1)

 

GIÁO SĨ:

Xuất phát từ giáo dân, hiện diện vì giáo dân và cậy dựa vào giáo dân

 

ĐỂ CÙNG LÀM VINH DANH THIÊN CHÚA

 

www.conggiaovietnam.net                          giaosivietnam@gmail.com

Đặc San Điện Tử    Giáo Sĩ Việt Nam    Số 99, Chúa Nhật 09.08.2009


MỤC LỤC 

Các Giám Mục Với Giáo Hội Phổ Quát                                                                     Vatican 2

“MẶT TRỜI CHÂN LÝ CHÓI QUA TIM…”             Lm. VĨNH SANG – Lm. QUANG UY, DCCT

NGƯỜI NGÔN SỨ GƯƠNG MẪU                                               Phó tế: GB Nguyễn văn Định 

AI LÀ NGƯỜI LỚN NHẤT?                                                                Lm. Giuse Lê Công Đức

BẠN ĐÃ LÀM GÌ CHO LINH MỤC ?                                                                         Xuân Thái

BÀI HỌC “TÉ”                                                                                              Hai Tôm Cần Giờ

CANH TÂN SƯ PHẠM GIÁO LÝ (BÀI 4)                                                Gioan Lê Quang Vinh

ĐỪNG ĐỂ Ý THÁI QUÁ (2)                                                                       Lm. Lê Văn Quảng

                                                                                                              Nhà Văn Quyên Di

Những thời khắc quyết định                                       Lm. Micae-Phaolô Trần Minh Huy pss 

NGƯỜI CAO TUỔI VỚI ĐỜI SỐNG GIA ĐÌNH                                Bs. Nguyễn Ý-ĐỨC M.D.

KIÊN NHẪN                                                                                 Chuyện phiếm của Gã Siêu


Các Giám Mục Với Giáo Hội Phổ Quát

 

Sắc Lệnh Về Nhiệm Vụ Mục Vụ Của Các Giám Mục Trong Giáo Hội (Christus Dominus)

Prepared for Internet by Vietnamese Missionaries in Asia

 

Chương I

Các Giám Mục Với Giáo Hội Phổ Quát

 

I. Vai trò của Giám Mục với Giáo Hội phổ quát 

4. Quyền của Giám Mục đoàn. Do bí tích tấn phong và do sự hiệp thông phẩm trật với vị Thủ Lãnh cũng như với các thành phần trong cộng đoàn, các Giám Mục trở nên những Thành Phần của Giám Mục Ðoàn 1. "Giám Mục Ðoàn kế vị cộng đoàn Tông Ðồ trong việc giáo huấn và chăn dắt, chính trong Giám Mục Ðoàn mà cộng đoàn Tông Ðồ được trường tồn. Hiệp nhất với Thủ Lãnh, tức Giáo Hoàng Roma, và không bao giờ tách rời khỏi Thủ Lãnh ấy, Giám Mục Ðoàn có quyền bính trọn vẹn và tối cao trên toàn thể Giáo Hội, nhưng chỉ có thể thi hành quyền này khi có sự ưng thuận của Giáo Hoàng Roma" 2. Thực vậy, quyền bính này "được thi hành cách trọng thể trong Công Ðồng Chung" 3: do đó, Thánh Công Ðồng chế định mọi Giám Mục đều có quyền tham dự Công Ðồng Chung vì là thành phần của Cộng Ðoàn Giám Mục. 2*

"Hiệp nhất với Giáo Hoàng, các Giám Mục trên khắp thế giới còn có thể thực hành quyền cộng đoàn ấy khi vị Thủ Lãnh cộng đoàn mời gọi các Ngài cùng hành động cách cộng đoàn, hay ít ra khi Ngài ưng thuận hoặc tự do chấp nhận hành động hiệp nhất của các Giám Mục rải rác để làm cho nó trở thành một hành động có tính cách cộng đoàn thực sự" 4.

5. Hội nghị Giám Mục hay Thượng Hội Ðồng Giám Mục. Các Giám Mục được tuyển chọn từ các miền khác nhau trên thế giới, theo cách thức và tiêu chuẩn đã hoặc sẽ được Ðức Giáo Hoàng Roma ấn định, giúp đỡ vị Chủ Chăn Tối Cao của Giáo Hội cách đắc lực hơn nơi Hội Ðồng có tên riêng là "Thượng Hội Ðồng Giám Mục" 5; Thượng Hội Ðồng này đóng vai trò của toàn thể hàng Giám Mục Công Giáo, đồng thời nói lên rằng tất cả các Giám Mục, trong sự hiệp thông phẩm trật, cùng chia xẻ nỗi lo âu của toàn thể Giáo Hội 6. 3*

6. Các Giám Mục chia xẻ sự lo lắng cho tất cả Giáo Hội. Các Giám Mục, là những người kế vị hợp pháp các Tông Ðồ và là thành phần của Cộng Ðoàn Giám Mục, phải luôn luôn ý thức mình liên kết với nhau và cùng nhau lo lắng cho tất cả các Giáo Hội, vì được Thiên Chúa thiết lập và do mệnh lệnh của nhiệm vụ tông đồ, mỗi vị, cùng với các Giám Mục khác phải là người bảo đảm cho Giáo Hội 7. Nhất là các ngài phải lo lắng đến những miền trên thế giới chưa được rao giảng Lời Chúa, hay đặc biệt những miền mà chính vì quá ít linh mục, các Kitô hữu đang bị nguy cơ xa lìa chính những huấn giới của đời sống Kitô giáo và cả đến mất đức tin.

Vì thế các ngài phải cố gắng hết sức thế nào để các công cuộc rao giảng Phúc Âm và hoạt động tông đồ được các tín hữu nhiệt liệt nâng đỡ và cổ võ. Ngoài ra các ngài còn phải chú tâm lo lắng chuẩn bị những thừa tác viên thánh vụ thích hợp và cả các phụ tá, tu sĩ cũng như giáo dân, để làm việc tại các xứ truyền giáo và những miền thiếu giáo sĩ. Và tùy sức có thể, các ngài hãy lo gửi một số linh mục của mình đến thi hành thánh vụ tại những xứ truyền giáo và các giáo phận 4* nói trên vĩnh viễn hay ít là trong một thời gian hạn định.

Ngoài ra, trong khi xử dụng tài sản của Giáo Hội, các Giám Mục phải quan tâm đến không những các nhu cầu của giáo phận mình, mà còn của các Giáo Hội địa phương khác vì các Giáo Hội này là thành phần Giáo Hội duy nhất của Chúa Kitô. Sau cùng các ngài cũng phải tùy sức mà quan tâm đến việc cứu trợ những tai ương mà các giáo phận hay các miền khác phải gánh chịu.

7. Ðức Ái tích cực đối với các Giám Mục bị bắt bớ. Nhất là các ngài phải lấy tình anh em mà bao bọc các vị Giám Chức, vì danh Chúa Kitô, đang bị vu khống và gặp khó khăn hay bị ngăn cấm không được thi hành chức vụ; và các ngài hãy lấy tình huynh đệ tích cực mà săn sóc các vị đó để xoa dịu và làm vơi bớt nỗi khổ đau của họ bằng kinh nguyện và hành động của các Anh Em đồng nghiệp.

 

II. Các Giám Mục và Tòa Thánh 

8. Quyền hạn các Giám Mục trong giáo phận đảm nhiệm.

a) Các Giám Mục vì là những người kế vị các Tông Ðồ, nên trong giáo phận đảm trách, tự mình các ngài có mọi quyền hành thông thường, riêng biệt và trực tiếp theo như nhiệm vụ mục vụ đòi hỏi. 5* Tuy nhiên trong mọi trường hợp, Ðức Giáo Hoàng Roma, vì chức vụ, vẫn luôn có quyền dành lại một số vấn đề cho mình hay cho một Thẩm Quyền khác.

b) Trong trường hợp riêng, mỗi khi xét thấy có lợi ích thiêng liêng cho các con chiên dưới quyền theo luật định, mỗi Giám Mục giáo phận có đặc quyền miễn trừ luật chung của Giáo Hội, trừ trường hợp dành riêng cho Thẩm Quyền Tối Cao của Giáo Hội. 6*

9. Thánh Bộ thuộc Giáo Triều Rôma. Trong khi thi hành quyền tối cao, trọn vẹn và trực tiếp trên toàn thể Giáo Hội, Ðức Giáo Hoàng Roma xử dụng các Thánh Bộ thuộc Giáo Triều Roma; vì thế các Thánh Bộ nhân danh và lấy quyền ngài mà chu toàn chức vụ của mình để mưu ích chung cho các Giáo Hội cũng như giúp đỡ các Chủ Chăn thánh.

Vả lại, các Nghị Phụ tham dự Thánh Công Ðồng mong ước rằng các Thánh Bộ này tuy đã giúp đỡ Ðức Giáo Hoàng Roma và các Chủ Chăn của Giáo Hội một cách đắc lực, nhưng cũng cần cải tổ cho hợp hơn với nhu cầu thời đại, địa phương và các nghi lễ, nhất là những vấn đề có liên quan đến số các bộ, danh hiệu, thẩm quyền, phương pháp làm việc riêng biệt và sự phối trí các công việc với nhau 8. 7* Cũng thế, các ngài ước mong rằng vì nhiệm vụ riêng của các Giám Mục, nên chức vụ các Ðại Sứ của Ðức Giáo Hoàng Roma cần phải được xác định rõ ràng hơn.

10. Nhân viên Thánh Bộ. Ngoài ra, vì các Thánh Bộ được thành lập để mưu ích cho toàn thể Giáo Hội, nên Thánh Công Ðồng ước mong hãy thâu nhận thêm các Thành Phần, các Nhân Viên và các Cố Vấn cũng như các Ðại Sứ của Ðức Giáo Hoàng, từ những miền khác nhau trong Giáo Hội, sao cho các cơ quan hành chánh hay cơ quan trung ương của Giáo Hội Công Giáo tỏ ra có đặc tính phổ quát thực sự.

Công Ðồng còn mong ước trong Thành Phần các Thánh Bộ cũng nên thâu nhận một số Giám Mục, nhất là Giám Mục giáo phận, những vị có thể đem lại cho Ðức Giáo Hoàng một cách đầy đủ hơn những cảm nghĩ, nguyện vọng và nhu cầu của tất cả Giáo Hội. 8*

Sau cùng các Nghị Phụ nhận thấy rằng thật ích lợi nếu chính các Thánh Bộ đó biết nghe nhiều hơn nữa những giáo dân trổi vượt về nhân đức, kiến thức và kinh nghiệm, sao cho chính giáo dân cũng góp phần vào các công việc của Giáo Hội.

 


Chú Thích:

1 Xem CÐ Vat. II, Hiến chế tín lý về Giáo Hội Lumen gentium, ch. 3, số 22: AAS 57 (1965), trg 25-27.

2 CÐ Vat. II, Hiến chế tín lý về Giáo Hội, n.v.t.

3 CÐ Vat. II, Hiến chế tín lý về Giáo Hội, n.v.t.

2* Ðây là một khuynh hướng mới mẻ: từ nay mọi Giám Mục dù không cai quản giáo phận (Giám Mục hiệu tòa), đều có quyền tham dự Công Ðồng Chung. Lúc trước các ngài chỉ có quyền tham dự nếu được mời (Giáo Luật kh. 223, 2).

Khuynh hướng này phát xuất từ một ý tưởng thần học mới mẻ. Quan niệm trước Công Ðồng cho rằng Giám Mục có quyền bính vì hai lý do: a) việc tấn phong ban cho Giám Mục quyền thánh hóa (cử hành thánh lễ, giải tội v.v...).

b) Ðức Giáo Hoàng, người ban cho Giám Mục quyền giáo huấn và cai trị.

Nhưng Công Ðồng (x.GH 21, 28; GM 2, 3; LM 7) quả quyết mọi quyền bính của Giám Mục đều do cuộc tấn phong trong hiệp thông với Tòa Thánh. Ðức Giáo Hoàng chỉ là người chỉ định cho Giám Mục một giáo phận để thực hành quyền bính đó. Chính vì thế điều kiện duy nhất để tham dự Công Ðồng là được tấn phong Giám Mục trong hiệp thông với Tòa Thánh.

4 CÐ Vat. II, Hiến chế tín lý về Giáo Hội, n.v.t.

5 Xem Phaolô VI, Tự sắc Apostolica Sollicitudo, 15-9-1965: AAS 57 (1965), trg 775-780.

6 Xem CÐ Vat. II, Hiến chế tín lý về Giáo Hội, ch. 3, số 23: AAS 57 (1965), trg 27-28.

3* Những người có quyền tối cao trong Giáo Hội là: a) chỉ mình Ðức Giáo Hoàng. b) Ðức Giáo Hoàng và tất cả Giám Mục trên thế giới chung với nhau (hay Giám Mục Ðoàn). Ðức Giáo Hoàng cai trị qua Giáo Triều Roma. Còn Giám Mục Ðoàn cai trị như thế nào? Ðôi khi các Giám Mục trên thế giới họp Công Ðồng Chung. Nhưng vì qui tụ tất cả Giám Mục không phải là chuyện dễ, nên có các cuộc họp thu hẹp giữa một số Giám Mục đại diện cho tất cả, và quyết định nhân danh Giám Mục Ðoàn. Cuộc họp này mệnh danh là Thượng Hội Ðồng Giám Mục, và được tổ chức hai năm một lần tại Roma.

7 Xem Piô XII, Tđ. Fidei donum, 21-4-1957: AAS 49 (1957), trg 237; xem thêm Benedictô XV, Tông thư Maximum illud, 30-11-1919: AAS 11 (1919), trg 440; Piô XI, Tđ. Rerum Ecclesiae, 28-2-1926: AAS 18 (1926), trg 68t.

4* Xem TG 20, 38, 39; LM 10; Ecclesiae sanctae, ch. I, số 1-5 và ch. III, số 6.

5* Nguyên tắc này mới mẻ và tạo thành một trong những nền tảng chính yếu của quyền bính và quan trọng của Giám Mục. Quan niệm trước Công Ðồng cho rằng quyền cai trị của Giám Mục là do Ðức Giáo Hoàng ban cho, nên Ðức Giáo Hoàng phải luôn luôn ban cho các Giám Mục những quyền hành mà các ngài chưa có. Ngày nay thì trái lại: qua việc tấn phong, các Giám Mục nhận mọi quyền bính cần thiết, Ðức Giáo Hoàng chỉ thu hẹp những quyền này khi công ích của Giáo Hội phổ quát đòi hỏi như ta sẽ thấy sau.

6* Ðây cũng là điều mới mẻ. Trước Công Ðồng, Giám Mục không có quyền chuẩn luật Giáo Hội do Ðức Giáo Hoàng thiết lập cho toàn thể Giáo Hội (Giáo Luật kh. 87). Nhờ căn bản này, ngày nay các ngài mới có quyền đó. Nhưng Ðức Giáo Hoàng dành quyền riêng cho Ngài trong một vài trường hợp như sau:

- Cho phép một phó tế hay linh mục lấy vợ;

- Cho phép một linh mục đã chính thức lập gia đình được thi hành nhiệm vụ tông đồ;

- Cho phép linh mục làm thầy thuốc, giải phẫu, làm công chức, thượng nghị sĩ hay dân biểu;

- Cho phép thanh niên thanh nữ quá trẻ lập gia đình, khi còn thiếu hơn một năm mới đến tuổi thành hôn pháp định.

Các quyền dành riêng này nhằm công ích Giáo Hội. Thực vậy, người ta có thể dễ dàng tưởng tượng những bất tiện có thể xảy ra nếu Giám Mục này ban phép cho các linh mục của ngài cưới vợ, còn vị khác lại khước từ. Thật là một hỗn loạn nếu trong một giáo phận, người ta được lập gia đình lúc 13 tuổi, trong lúc giáo phận khác phải đợi đến 14 tuổi.

8 Xem Phaolô VI, Huấn từ cho các Hồng Y, các vị Lãnh Ðạo, các Giám Chức và các Nhân Viên thuộc Giáo Triều Roma, 21-9-1963: AAS 55 (1963), trg 793tt.

7* Giáo Triều Roma là cơ quan cai trị Giáo Hội của Ðức Giáo Hoàng. Giáo Triều này gồm những Thánh Bộ, Tòa Án, Văn Phòng v.v... Tất cả những canh tân mà Công Ðồng mong muốn đã được Ðức Phaolô VI thực hiện qua Tự Sắc Regimini Ecclesiae Universae, ngày 15-8-1967 (x. AAS (1967), trg 885-928; DC 1967, 1441-1473).

8* Ðức Phaolô VI đã thực hiện ý muốn này, Ngài đã chỉ thị cho 7 giám mục được tuyển chọn khắp thế giới, tham dự vào việc điều khiển mỗi Thánh Bộ (x. Tự sắc Pro comperto sane, ngày 6-8-1967: AAS (1967), trg 881-884; DC 1967, 1474-1478).

 
VỀ MỤC LỤC
“MẶT TRỜI CHÂN LÝ CHÓI QUA TIM…”
 

Quý độc giả Ephata và Giáo Sĩ Việt Nam thân mến,

 

Chiều ngày 27.7.2009, tại Đền Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp Sàigòn, DCCT đã tổ chức một buổi cầu nguyện hiệp thông với Giáo Xứ Tam Tòa, hiệp thông với Giáo Phận Vinh. Cơn mưa chiều lất phất nhưng Nhà Thờ cũng chật kín và người ta tràn cả vào các lối đi. Mọi người cầu nguyện sốt sắng, ánh nến lung linh huyền ảo như vạn lời cầu chân thành rạo rực niềm tin, có một cái gì đó vui mừng, lại có một cái gì đó u uốt, có một cái gì đợi mong và hy vọng, bằng đó điều hòa quyện trăn trở, người tín hữu nói lên bằng ánh nến và lời cầu.

Những ngày tháng gần đây, chúng tôi nhận thấy một hiện tượng lạ, đó là: các bạn trẻ tìm đến ngôi Nhà Thờ này khá đông, họ tham dự sốt sắng các nghi lễ và không quên việc gặp gỡ nhau.

Chiều thứ năm Tuần Thánh năm 2009, sau khi cử hành các nghi lễ, cả Nhà Thờ tham dự phiên chầu Thánh Thể đầu tiên. Tôi mệt mỏi vì trời quá nóng, thay vì vào Nhà Thờ, tôi đứng bên ngoài gần cổng chính. Đông quá, người ta đến quá đông, khi tan chầu, tôi đứng lại để tiếp tục quan sát những người tìm đến và ra về, rất nhiều gương mặt trẻ đi qua, rất trẻ và rất nhiều, nhiều một cách lạ lùng, có lẽ lâu lắm rồi tôi mới được chứng kiến một lễ nghi Phụng Vụ chung mà lại đông bạn trẻ đến như thế. Rồi chiều thứ sáu Tuần Thánh cũng thế, tôi theo chân đoàn người đi đàng Thánh Giá chung quanh Nhà Thờ, một lần nữa tôi lại phải ngạc nhiên thán phục, bạn trẻ đông quá, đông đến bất ngờ.

Từ đó, tôi vẫn thường quan sát Nhà Thờ nơi tôi đang phục vụ và nhận ra rằng các bạn trẻ ngày càng đến với chúng tôi nhiều hơn. Điều gì đã gây ra sự kiện này ?

Nhiều năm gần đây, người ta thường nói bạn trẻ vùng thành phố ít đến Nhà Thờ, mà ít đến thật, cứ nhìn thời khóa biểu của các bạn sẽ tìm được nguyên do chính. Các bạn cả ngày vật lộn với cơn áo gạo tiền, các bạn cả ngày tất bật với các chương trình tự học, bồi dưỡng kiến thức và nghiệp vụ, các bạn mất khá nhiều thời giờ cho chiếc máy vi tính và mạng Internet, và các bạn cũng tiêu khá nhiều giờ với những cuộc hẹn hò tình cảm lứa đôi, những tiêu pha hợp lý thôi ! Nhưng chẳng còn giờ đến Nhà Thờ, biết làm sao được ?!?

Sao bỗng dưng bây giờ lại có được nhiều bạn tìm đến đây như vậy ? Tôi đem thắc mắc này hỏi một số các bạn thân sơ, câu trả lời bất ngờ làm tôi suy nghĩ: “Thưa, chúng con đến đây vì chúng con thấy các cha ở đây nói cho chúng con biết những điều mà lâu nay chúng con thắc mắc không biết nó là cái gì, không biết nó ra sao ?” Nhưng sao lại chỉ có các bạn là thắc mắc mà thôi ? “Thưa cha, vì chúng con vào mạng chúng con đọc được những điều các cha muốn nói”, đến đây thì dễ hiểu thôi, vì các bạn trẻ ở thành phố có nhiều điều kiện hơn để tham gia làm cư dân mạng truyền thông.

Tôi nhớ đến câu chuyện người phụ nữ bên bờ giếng năm xưa, chị khát nước thật sự trong đời chị, nhưng không ai nói cho chị biết là chị đang khát, thế giới quanh chị chỉ lên án chỉ trích chị, thế giới quanh chị chỉ nói những lời sáo rỗng, họ đào hào dựng vách cô lập chị và họ bảo đó là đạo đức, đó là truyền thống, đó là luật lệ, đó là sự an ổn của cộng đồng. Cho đến một ngày, có một con người chẳng giữ truyền thống luật lệ chi cả, – “ông là người Do Thái mà lại xin nước của tôi à ?” – con người ấy nói với chị về Sự Thật và về nỗi khổ đau oan khiên của chị, khi đó chị tìm được niềm vui, chị thật sự hạnh ngộ.

Sinh ra và lớn lên trong một môi trường kín kẽ, mọi phương tiện thông tin được định sẵn lối đi, mọi vận hành trong xã hội được định hình định dạng, người trẻ sinh ra trong vòng hơn ba mươi năm nay đã không có cơ hội và điều kiện tự nhiên để cảm thấy nỗi khát khao của con người, họ không biết mình có quyền gì và quyền ấy ra sao. Thật ra thì vẫn có đấy chứ, nhưng lại không biết là mình thiếu cái gì, và đâu là tên gọi của cái mình đang thiếu. Đọc báo chí và xem truyền hình, lang thang vào mạng, các bạn chợt nhận ra sự khác biệt của nhiều chiều thông tin xuôi ngược, bên phải, bên trái. Cuối cùng, các bạn nhận ra cái mình không có, cái mình bị lừa dối, cái mình bị tước đoạt và cái mình đang thiếu, đang đói khát.

Điểm dễ thương đáng vui mừng, đó là khởi đi từ nỗi chông chênh hoang mang, mất định hướng trong cuộc sống tâm linh và tinh thần ấy, đa số các bạn trẻ đã không tìm đến giải thoát của vật chất, của thú vui quyến rũ thường tình, họ chọn tìm đến với Nhà Thờ. Cũng vẫn còn phảng phất không ít do dự, thăm dò, nhưng rồi chính những thông tin độc địa hắc ám thế gian muốn chụp xuống đầu Nhà Thờ lại càng làm cho óc phản biện của người trẻ được đánh thức, cảnh tỉnh.

Sự thật thường được ví với ánh sáng, ấy là ở chỗ sự thật càng bị cắt xén, giấu giếm, đậy điệm, o ép, đè nén, trùm mền, ngụy tạo đủ kiểu, thì sự thật lại càng lộ ra những tia sáng, thoạt đầu chỉ le lói một tý thôi, nhưng rồi mỗi lúc một sáng thêm, cho đến khi sự thật chói lòa rực rỡ giữa thanh thiên bạch nhật. Người chống lại sự thật, tìm cách tiêu diệt sự thật thì hốt hoảng, sợ hãi. Ngược lại, người khao khát và yêu mến sự thật thì vui mừng, nong nả hớp lấy từng ngụm không khí cho đầy buồng phổi tâm linh và tinh thần.

Lâu nay chúng ta quen nghĩ, người lớn và người già chúng ta quen nhận định rằng: truyền giáo phải từ Nhà Thờ mà tuôn ra, tràn đến mọi nơi, mang theo hàng đoàn xe container đầy ắp những chân lý để rộng tay ban bố, phân phát, trao tặng. Không ngờ Chúa Thánh Thần – vâng, chúng ta xác tín đây là quyền năng của Gió Thiêng trời cao – lại có cách khác, siêu hơn nhiều: Ngài khơi lên nơi lòng nhân loại – ở đây chính là các bạn trẻ, rất trẻ – để họ thất vọng đối với thế gian xảo trá mà mầy mò tìm đến với Nhà Thờ, yên tâm là ở đấy đang nắm giữ Chân Lý. Họ sẽ chất vấn Nhà Thờ, đòi Nhà Thờ phải chia sẻ Chân Lý ấy thật trọn vẹn, y như dọn bàn ăn ra cho những người đang đói, đang khát. Trách nhiệm của Nhà Thờ bây giờ tự dưng nặng hơn, quan trọng hơn, sinh tử hơn.

Dạo bảy mươi lăm, thế hệ chúng tôi được nhồi nhét, bắt phải học thuộc lòng những câu thơ giác ngộ của người Cộng Sản trẻ tuổi nào đấy để mong chính bọn trẻ chúng tôi cũng phải giác ngộ chân lý như thế:

“Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ,

Mặt trời chân lý chói qua tim.

Hồn tôi là một vườn hoa lá,

Rất đậm hương và rộn tiếng chim…”

Hóa ra, coi vậy mà không phải vậy. Một nửa sự thật không phải là sự thật. Văn chương đấy, nhưng “mặt trời” ấy là kiểu ngoa ngữ, và “chân lý” ấy là một thứ lộng ngôn. Chúng tôi đã từng là những người trẻ hoang mang ngơ ngác trước bùng binh của thời cuộc. Chúng tôi đã phải trả giá khá đắt, may mà không đến nỗi chìm nghỉm tuyệt vọng trong bóng tối bủa vây của thế gian, làm gì mà hoa với lá, đậm hương và rộn tiếng chim ?!? Và cũng may mà chúng tôi còn có Nhà Thờ…

Rồi mấy mươi năm đi qua, đối với thế hệ các bạn trẻ hiện tại, sau hàng loạt những biến cố ở Tòa Khâm Sứ, ở Thái Hà, ở Vĩnh Long, ở Nguyễn Thị Diệu, ở Thủ Thiêm, nay thì đang nóng bỏng ở Tam Tòa, các bạn trẻ đã thoát ra được khỏi một phần bóng tối, đón lấy ánh sáng chan hòa của Chân Lý. Cục diện bây giờ chỉ có tiến tới chứ không giậm chân hoặc giật lùi được nữa.

Vì Ánh Sáng ấy, Chân Lý viết hoa ấy, là Tin Mừng, là chính Chúa Giêsu !

Lm. VĨNH SANG – Lm. QUANG UY, thứ bảy 1.8.2009

Lễ kính Thánh An Phong, Đấng sáng lập DCCT

VỀ MỤC LỤC
NGƯỜI NGÔN SỨ GƯƠNG MẪU

 

  Tất cả mọi Kitô hữu sau khi chịu phép Rửa tội đều lãnh nhận chức vụ Ngôn Sứ hay Tiên Tri do Chúa Thánh Thần ban. Thế rồi họ tiếp tục được nhận lãnh các Bí tích khác để thì hành sứ vụ Chúa Kitô trao phó, người được sai đi đem Tin Mừng đến cho mọi người.

A-    NHỮNG VIỆC HỌ ĐANG LÀM:

  1/ Luôn giảng dạy Lời Chúa: Người được Thiên Chúa sai đi thì nói Lời của Chúa, vì họ đã nhận nhưng không: Quả vậy, Đấng được Thiên Chúa sai đi, thì nói những lời của Thiên Chúa, vì Thiên Chúa ban cho họ vô ngần vô hạn. (Ga 3, 34). Thánh Phêrô quả quyết: “Ai có nói, thì nói Lời Thiên Chúa; ai phục vụ thì phục vụ bằng sức mạnh Thiên Chúa ban, ta luôn làm để tôn vinh Chúa (I Pr 4, 11)

 2/ Làm trước nói sau: Họ muốn được hành động theo khuôn mẫu của Chúa Giêsu, họ phải sống giống như Ngài: Thưa ngài Thê-ô-phi-lô, tôi đã tường thuật tất cả những việc Đức Giêsu làm và những điều Người dạy, kể từ đầu…(Cv 1, 1). Chính vì làm trước rồi dạy sau, mới xứng đáng là “Tông Đồ” của Chúa. Nên thánh Mac-cô viết: Các Tông Đồ tụ họp chung quanh Đức Giêsu, và kể lại cho Người biết mọi việc các ông đã làm, và mọi điều các ông đã dạy. (Mc 6, 30)

  3/ Nâng đỡ người cộng tác: Cần sẵn sàng làm gương mẫu và nâng đỡ tận tình người dưới quyền mình: Anh em hãy chăn dắt đàn chiên của Chúa, không phải như thể miễn cưỡng, nhưng là sẵn lòng…(I Pr 5, 2-3). Nhưng trong thực tế bao nhiêu giám đốc nâng đỡ phó giám đốc, bao nhiêu cha mẹ tìm hiểu con cái, bao nhiêu giám mục khuyến khích linh mục, và bao nhiêu hiệu trưởng giúp đỡ giáo viên v..v...

  4/ Giảng đúng và đủ Lời Chúa: Sách Công vụ Tông Đồ thuật lại: “Một thiếu niên kia tên là Êu-ty-khô, ngồi ở cửa sổ, đã thiếp đi và ngủ say trong khi ông Phaolô vẫn cứ giảng,..nên nó ngã từ tầng thứ ba xuống. Vực lên thì nó đã chết. Ông Phaolô cúi mình trên nó, ôm lấy và nói: “Đừng xôn xao nữa, vì nó sống mà!”.. Ông còn giảng, mãi đến tảng sáng mới ra đi. Người ta đưa cậu bé vẫn sống ra về vui vẻ cùng mọi người, với niềm an ủi không it.” (Cv 20, 7-12) 

  5/ Giảng Lời Chúa đến chết:  Là những mộn đệ theo Chúa Giêsu, bạn có dám cương quyết giảng Lời Chúa như Thầy mình để chịu chết không? Người Do thái nói: “Chúng tôi ném đá ông, không phải vì một việc tốt đẹp, nhưng vì một lời nói phạm thượng: ông là người phàm mà tự cho mình là Thiên Chúa.  (Ga 10, 33). Phaolô tỏ cũng tỏ ra chấp nhận đau khổ vì Tin Mừng: Tôi đã không muốn biết đến chuyện gì khác ngoài Đức Giêsu Kitô chịu đóng đinh.  (I Cor 2, 2) 

B-    NHỮNG VIỆC HỌ KHÔNG LÀM:

  1/ Trên đội dưới đạp: Đó là tật xấu của nhiều người đối xử với nhau. Có chỗ dựa thì: “Nhất thân nhì thế”, hoặc “Mua danh bán tước”. Họ không ưa bợ đỡ nịnh hót ai có chức quyền để cầu lợi cho mình. Họ không hỏi: Ông ta được khôn ngoan như vậy, nghiã là làm sao? Ông ta làm được những phép lạ như thế nghiã là gì?  (Mc 6, 2) 

  2/ Tự kiêu tự mãn: Họ luôn tỏ ra khiêm tốn, ẩn mình, không muốn nổi hơn ai, khi thấy người khác tài giỏi, đạo đức, nhiệt thành họ vui mừng. Châm ngôn sống của họ là: “Chúa phải được lớn lên, còn tôi nhỏ đi.”  (Ga 3, 30). Họ không muốn nói đến bản thân hay gia tộc nhà mình: “Ngôn sứ có bị coi rẻ rúng, thì cũng chính là ở quê hương mình, hay giữa đám bà con thân thuộc trong gia đình. (Mc 6, 4) 

  3/ Ghen tức chê bai: Là con đẻ của kiêu ngạo, nên họ không hạ bệ, chê bai ai, để người có thiện chí không làm việc được, chán nản, bỏ cuộc: Ông ta không phải là bác thợ mộc, con bà Maria, và anh em của các ông Gia-cô-bê, Gio-xê, Giu-đa và Si-mon sao?  (Mc 6, 3)

Đúng là : “Bụt nhà không thiêng” hay trong gia đình con cái coi thường lời dạy của cha mẹ, nên “Dao sắc không gọt được chuôi”.

Tóm lại, người Ngôn Sứ luôn nhớ Lời khi Phaolô chỉ dẫn ông Ti-mô-thê để tổ chức và điều khiển các cộng đoàn và người mình có trách nhiệm như: “Hãy rao giảng Lời Chúa, hãy lên tiếng, lúc thuận tiện cũng như lúc không thuận tiện, hãy biện bác, ngăm đe, khuyên nhủ với tất cả lòng nhẫn nại và chủ tâm dạy dỗ. “  (2 Tm 4, 2)

Và cuối cùng, làm Ngôn sứ không ham mê tiền bạc, địa vị, xác thịt,

Phaolô khuyên: ‘Thật thế, cội rễ sinh ra mọi điều ác là lòng ham muốn tiền bạc, vì buông theo lòng ham muốn đó, nhiều người đã lạc xa đức tin và chuốc lấy bao nỗi đớn đau xâu xé.!  (I Tm 6, 10)”

Thật vậy, quyền thế và tiền bạc đã xô đẩy bao nhiêu Kitô hữu đam mê xác thịt, đổ vỡ, rồi đi vào cái chết vô cùng đau thương ! ! ! 

Phó tế: GB Nguyễn văn Định  *  johndvn@yahoo.com

VỀ MỤC LỤC
AI LÀ NGƯỜI LỚN NHẤT? (LC 9, 46-48)

 

Điểm nhắm: Thử thách lớn nhất mà người tông đồ có thể phải chịu, có lẽ đó không phải là đau khổ cho Giáo Hội mà là đau khổ do Giáo Hội! Làm sao để vẫn trung thành và yêu mến Giáo Hội ngay khi thấy mình đứng trước loại thử thách này? Câu chuyện Tổng giám mục Oscar Romero có một khía cạnh có thể giúp soi sáng cho ta câu trả lời...     

Vụ án phong chân phước cho Tổng giám mục Romero đang được xúc tiến. Nội tạng của ngài, được thu lại và được chôn ngay sau khi ngài chết và trước khi xác ngài được xử lý bằng hoá chất, hiện nay vẫn còn nguyên một cách lạ lùng. Dịp thượng hội đồng giám mục châu Mỹ Latinh ở Rôma, Đức Cha Gregorio Rosa Chávez, giám mục phụ tá tổng giáo phận San Salvador, đã có một bài tưởng niệm gây xúc động sâu sắc cho mọi người. Chúng tôi quyết định hỏi giám mục Rosa Chávez, người đã trải qua nhiều năm bên cạnh Romero, về một giai đoạn khủng hoảng cao độ không chỉ của Giáo Hội ở Salvador mà là của toàn thể Giáo Hội châu Mỹ Latinh. Chúng tôi thảo luận về nhân cách của Romero và về những sự kiện đã dẫn tới cái chết tuẫn đạo của ngài. 

- Vụ án phong chân phước cho Đức Tổng giám mục Oscar Romero nay đã tới giai đoạn nào rồi, thưa Đức Cha?

Rosa Chávez: - Thủ tục ở giáo phận đã chính thức kết thúc hôm 1.11.1996. Các kết quả và các dữ kiện thu thập được đã được trình cho Rôma. Nói chung, Rôma có một đánh giá tích cực; tuy nhiên vẫn yêu cầu thêm những chi tiết về các sử liệu, chẳng hạn bối cảnh trong đó Romero được gọi để thi hành sứ vụ của mình, và về những hoàn cảnh xung quanh cái chết của ngài, về lý do tại sao ngài bị giết. 

- Vậy phải chăng tiến trình phải khựng lại một mức nào đó?

Rosa Chávez: - Nếu tiến trình phải khựng lại, thì theo quan điểm của tôi, những người đáng trách chính là chúng ta, những người Salvador. Các thù địch lớn nhất của vụ án phong chân phước cho Romero nằm ở chính Salvador. Chính những con người đã cản mũi Romero khi còn sống, chính những con người đã viết thư nặc danh tố cáo Romero là một tên cộng sản ... nay vẫn còn tiếp tục chống lại Romero. 

- Quả là Tổng Giám Mục Romero đã có những đối thủ ngay trong hội đồng giám mục quốc gia. Một trong các giám mục ấy đã đi xa đến mức tố cáo Romero trước mặt giáo hoàng (trong chuyến công du thứ hai của giáo hoàng tới Salvador vào năm 1996) rằng Romero phải chịu trách nhiệm về cái chết của 70.000 người Salvador!

Rosa Chávez: - Đó là lý do tại sao cần phải trả lời thoả đáng cho yêu cầu thứ nhất của toà thánh, tức làm rõ bối cảnh lịch sử trong đó Romero đã phục vụ. 

- Bối cảnh lịch sử, tại sao?

Rosa Chávez: - Tình hình lúc bấy giờ rất là phân cực, và thật khó mà không rơi vào một dạng ý thức hệ nào đó. Một số khó khăn mà Romero kinh nghiệm với vị khâm sứ và với một số giám mục đồng sự phải được nhìn trong bối cảnh này. Tình hình thậm chí dẫn đến chỗ các giám mục Salvador đã không hội họp với nhau suốt một thời gian dài, và điều này làm khổ tâm vị tổng giám mục rất nhiều, như chúng ta thấy ngài trung thành ghi lại trong nhật ký. 

- Cũng phải truy vấn các lý do dẫn đến cái chết của Romero nữa. Theo quan điểm của Đức Cha thì tại sao Tổng giám mục Romero bị giết? 

Rosa Chávez: - Thì cũng giống như hỏi tại sao người ta đã giết Đức Giêsu Kitô vậy. Vụ giết hại Romero cũng giống như vụ giết hại Đức Giêsu. Người ta cũng nói về Đức Giêsu rằng Ngài bị giết vì các lý do chính trị. Các thế lực chắc chắn có cách để biện minh cho mình, nhắm che lấp tội của họ.  

- Đức Cha đã sống gần ngài trong thời gian dài. Đức Cha nhớ điều gì về ngài?

Rosa Chávez: - Tôi gặp ngài lần đầu tiên khi tôi còn là một cậu bé, lúc đó ngài đã là linh mục. Chúng tôi sinh ra trong cùng một giáo phận. Tôi vào chủng viện năm 14 tuổi. Romero lúc ấy là một linh mục của San Miguel, thành phố lớn thứ ba của Salvador. Đó là một nơi yên tĩnh, thân thiện, và hầu như mọi người đều biết nhau. Năm 1965, ngài được yêu cầu trông coi một tiểu chủng viện. Romero là một linh mục rất giản dị, có đời sống tâm linh sâu sắc, chính thống trong giáo thuyết và đặc biệt yêu thương người nghèo. Nhưng ban đầu, ngài không ấn tượng lắm, ngay cả dường như phản đối, đối với các văn kiện của Liên Hiệp Các Hội Đồng Giám Mục Châu Mỹ Latinh ở Medellin hồi năm 1968. Ngài cho rằng các văn kiện ấy có quá nhiều tính chính trị. Nhưng ngài đã thay đổi quan điểm khi ngài chuyển đến San Salvador, trước hết trong tư cách giám mục phụ tá, rồi sau đó trong tư cách tổng giám mục. 

- Ngài vừa mới được bổ nhiệm tổng giám mục San salvador thì một linh mục bạn của ngài bị thảm sát, đó là Cha Rutilio Grande, dòng Tên. Một số người nói rằng chính cái chết ấy đã thay đổi Romero, đến nỗi có người nói về một cuộc “hoán cải” từ bảo thủ sang đối đầu với chế độ... Điều đó có đúng không, thưa Đức Cha?

Rosa Chávez: - Cha Grande là một người bạn tri kỷ của Romero. Cha là chưởng nghi của lễ tấn phong giám mục cho Romero. Cha bị giết vào ngày 12 tháng 3 năm 1977, chỉ ít tuần sau khi Romero trở thành tổng giám mục San Salvador. Cuối tháng 5 năm ấy, biệt đội tử thần đã giết một linh mục khác, đó là Cha Alfonso Navarro. Đó là hoàn cảnh mà Romero phải đối diện khi ngài thuyên chuyển đến thủ đô. Và kể từ đó, những lời nói và hành động của ngài nhằm bênh vực người nghèo và chống lại nhà cầm quyền trở nên ngày càng dứt khoát. Có lần trong một cuộc phỏng vấn truyền thanh, tôi đã hỏi ngài: “Thưa Đức Cha, người ta nói rằng Đức Cha đã ‘thay đổi hẳn’”. Và ngài trả lời: “Tôi không muốn nói là ‘thay đổi’ mà muốn nói là ‘cách mạng’ – người ta không thể nhắm mắt trước những gì đang diễn ra.” Tôi cho rằng Romero đúng. Đức tin của ngài, linh đạo và giáo thuyết chính thống vững vàng của ngài thì vẫn như thế. Chính hoàn cảnh trong đó ngài làm việc đã thay đổi. Từ một tỉnh lẻ thân quen, ngài đã chuyển đến thủ đô San Salvador. Ở đó, trực tiếp đối diện với trung tâm quyền lực kinh tế chính trị của đất nước, ngài đích thân nhìn thấy tội ác xã hội, sự bất công có tính cơ cấu, sự hình thành những biệt đội tử thần. Có những tuần lễ trong đó hàng trăm người bị các biệt đội tử thần hành quyết. Các xác chết không toàn thây bị treo lủng lẳng trên các cành cây trong thành phố và tại những nơi nhiều người qua lại, nhằm mục đích khủng bố tinh thần người ta. Romero nói: “Dường như ơn gọi của tôi là đi thu lượm các xác chết.” 

- Hành động bênh vực người nghèo của Romero trở nên quyết liệt đến nỗi tám ngày trước khi chết, ngài đã thẳng thắn lên án chế độ quân phiệt, quân đội, và nhóm cầm quyền đã toa rập với các quyền lợi của Bắc Mỹ. Ngài tuyên bố rằng “Carter tiếp tục gửi cho họ mọi sự trợ giúp”...

Rosa Chávez: - Thậm chí ngài đã viết một thư không niêm gửi tổng thống Hoa Kỳ trong đó ngài yêu cầu ông ta ngưng chở vũ khí đến Salvador. Ngài vô cùng khổ tâm vì nhận thấy rằng cơ cấu bất công và những quyền lợi của các giới lãnh đạo các quốc gia đang dẫn tới chiến tranh, một cuộc chiến tranh hiển nhiên không thể tránh khỏi. Romero ý thức rất rõ cái khoảnh khắc lịch sử chính trị mà Salvador đang trải qua, và không duy chỉ là Salvador. Việc gán cho ngài cái nhãn “kích động, lôi kéo quần chúng” chỉ là một âm mưu bẩn thỉu. Trong hy vọng cứu vãn tình hình khỏi bùng nổ bạo lực, Romero đã ủng hộ mọi cơ hội khả dĩ đem lại đối thoại. Chẳng hạn, vào tháng 10 năm 1979, các tướng lãnh trẻ đã chiếm chính quyền và yêu câu ngài ủng hộ cuộc đảo chánh. Cùng với nhau, chúng tôi đã soạn thảo một văn bản phổ biến trên toàn quốc, kêu gọi mọi người đừng nóng vội đánh giá nhóm quân đội này liên quan đến các cố gắng tái lập công bằng và trật tự xã hội của họ. Romero nói: “Diễn biến này may đâu có thể cứu dân chúng khỏi nhiều đau khổ. Chúng ta phải biết chờ đợi và phán xét theo các kết quả, để xem thử người ta có giữ các lời hứa hay không.” 

- Chủ yếu người ta trách cứ rằng Romero đã biến mình thành một công cụ của cánh tả...

Rosa Chávez: - Bình luận về cuộc họp với vị khâm sứ ở Costa Rica được toà thánh gửi đến giải quyết vấn đề bất đồng giữa các giám mục. Tỏng giám mục Romero nói rõ trong nhật ký của ngài rằng: “Việc tôi ủng hộ sự tổ chức quần chúng không hề có nghĩa rằng tôi thiên tả, cũng chẳng có nghĩa rằng tôi không nhìn thấy mối nguy hiểm của sự thâm nhập của phe tả, vì đấy là điều tôi hiểu rất rõ – nhưng tôi cũng thấy rằng chống cộng rất thường là lá bài để các thế lực chính trị kinh tế sử dụng nhằm duy trì những bất công chính trị và xã hội của họ.” Tổng giám mục Romero có một cái nhìn rất rõ về hoàn cảnh thực tế. Người kế nhiệm của ngài, Tổng giám mục Arturo Rivera Damas, đã chỉ ra ba nguyên nhân chính của tình trạng bạo lực ở Salvador. Ngoài tình trạng bất công và các ý thức hệ thiên hữu và thiên tả, thì cái ngòi nổ bạo lực chính là các tranh chấp quyền lợi giữa các quốc gia đang diễn ra tại quốc gia Salvador bé nhỏ của chúng ta. Trong một bối cảnh phân cực, thì những con người quyết bảo vệ dân nghèo như Romero bị qui chụp là theo ý thức hệ xã hội chủ nghĩa, trong khi hành động của ngài xuất phát không phải từ sự say mê các ý tưởng xã hội chủ nghĩa, mà chỉ đơn giản là từ sự trung thành đối với ơn gọi của mình... Tổng giám mục Romero là một con người rất truyền thống trong những vấn đề liên quan đến giáo lý và đức tin, nhưng rất cởi mở trong những vấn đề xã hội. Ngài minh chứng cho giáo huấn của Truyền Thống rằng: khi người ta sống gắn chặt với đức tin của các Tông Đồ thì người ta sẽ dũng cảm trong việc bảo vệ người nghèo và lên án những bất công...   

- Romero đã gặp Đức Phaolô VI vào năm 1978 tại Rôma, và gặp Đức Gioan Phaolô II vào năm 1979...

Rosa Chávez: - Romero rất ngưỡng mộ Đức Phaolô VI. Bình luận về chuyến viếng thăm Rôma của mình năm 1978, Romero nói về Đức Phaolô VI với đầy niềm cảm kích và tri ân sâu sắc. Chắc chắn vị tổng giám mục đã nhận được sự cảm thông và sự nâng đỡ huynh đệ từ người kế vị Thánh Phêrô. Còn chuyến thăm Đức Gioan Phaolô II vào năm sau, vị giáo hoàng đã nhắc ngài nhớ đến tình hình ở Ba Lan, và huấn dụ ngài rằng “hãy chỉ bám chặt vào các nguyên tắc.” Romero đã kể lại với đầy cảm hứng về một số cuộc gặp gỡ các chức sắc ở Rôma trong chuyến viếng thăm này; nhưng người ta có ấn tượng rằng Romero cảm thấy thoải mái với chuyến đi Rôma hồi năm trước hơn là lần này. Trong một bối cảnh mà ý thức hệ xâm nhập mọi nơi, thì mối quan tâm của vị tổng giám mục đối với người nghèo và đối với dân chúng đã bị hiểu lầm và bị ngáng trở.  

- Các mối quan hệ giữa ngài với Đức Gioan Phaolô II thế nào?

Rosa Chávez: - Đức Gioan Phaolô II được bầu làm giáo hoàng chỉ được ít lâu thì Romero chết; vì thế hai người không có mấy dịp gặp gỡ tiếp xúc. Tôi là người trực tiếp chuẩn bị cho hai chuyến công du của Đức Gioan Phaô II đến Salvador – và tôi có thể làm chứng rằng cả hai lần đó đều có sự phản đối việc đức giáo hoàng viếng thăm mộ của Romero. Và cả hai lần, chính Rôma yêu cầu phải dàn xếp để có cuộc viếng thăm mộ vị tổng giám mục. Theo tôi thấy thì đức giáo hoàng xác tín rằng Romero là một vị tuẫn đạo của Giáo Hội, ngài mô tả Romero là “một vị mục tử hết lòng với đoàn chiên và đã thí mạng cho đoàn chiên.” Nhưng vị giáo hoàng cũng e ngại rằng các nhóm chính trị đã sử dụng tên tuổi của Tổng giám mục Romero cho mục đích tuyên truyền của mình. Vì thế, trong bài diễn văn năm 1993 ở Salvador, đức giáo hoàng đã yêu cầu rằng hồi ức về vị tổng giám mục phải được tôn trọng, vị mục tử này phải được tôn trọng. 

- Cuối cùng, thưa Đức Cha, Đức Cha có những hy vọng gì về tiến trình phong chân phước cho Romero?

Rosa Chávez: - Tôi hy vọng rằng Romero được nhìn nhận là một vị tuẫn đạo. Và đó cũng là ước vọng của biết bao người đã yêu mến ngài và vẫn tiếp tục cảm mến ngài sâu sắc. Khi người ta đọc trang nhật ký về lời cầu nguyện với Chúa Giêsu mà ngài viết một tháng trước khi chết, người ta thấy hình ảnh của một sự sống được hiến dâng, trong ý thức về những hiểm nguy chực chờ gần kề. Ngài viết: “Thật cụ thể biết bao việc tôi phó dâng chính mình cho Trái Tim Chúa Giêsu, vốn luôn luôn là nguồn cảm hứng và là niềm vui của đời tôi. Vì thế, tôi đặt trọn sự sống mình trong vòng tay quan phòng yêu thương của Chúa; và trong niềm tin vào Ngài, tôi chấp nhận cái chết – dẫu sự chấp nhận này khó khăn đến mấy.”

Câu chuyện về cái chết của Romero vẫn còn làm tôi kinh ngạc cho tới hôm nay. Thánh Lễ cuối cùng của ngài trong nhà nguyện bệnh viện là một Thánh Lễ cầu cho người quá cố. Romero đã đọc bài Tin Mừng. Đó là bài Tin Mừng theo Thánh Gioan, trong đó Đức Giêsu nói: “Đã đến giờ Con Người được tôn vinh”. Tôi tự hỏi phải chăng lúc ấy vị tổng giám mục biết rằng mình sắp bị giết. Bài giảng của ngài dường như là một chứng từ, trong đó ngài tự so sánh mình với hạt lúa mì thối đi trong lòng đất để đem lại sự sống mới. Vì thế một số người nghĩ rằng trong khi ngài giảng, có thể ngài nhìn thấy kẻ sát nhân. Kết thúc bài giảng, cơ hồ ngài đang nói với kẻ sắp giết mình: ‘Hãy cho phép tôi chết khi tôi bước lại bàn thờ dâng của lễ, bạn nhé’ Và quả thật, ngài đã bị bắn chết khi bắt đầu dâng bánh rượu. Chính ngài đã trở thành lễ hy sinh. Hình ảnh ấy đáng quí biết bao – cả đời sống và cái chết của ngài có thể được nhìn trong ánh sáng của hình ảnh ấy. Ngài đã sống và đã chết như một linh mục, một mục tử với tình yêu nồng nàn hiến trao cho Đức Giêsu Kitô và cho đoàn chiên.

--------------------------------------------------------

Một số lời của TGM. Romero được đưa vào phim:

- Tôi đến từ thế giới của sách vở. Đúng. Sách vở cho ta rất nhiều bài học. Nhưng tôi còn nhiều điều khác cũng phải học. Có nhiều biến động và chia rẽ đang diễn ra trên đất nước này. Có vài linh mục chấp nhận biểu lộ những tư tưởng căn bản một cách thật là hời hợt. Và không ai trong chúng ta có thể tự hào biết hết những giải pháp cho các vấn đề do thời cuộc đặt ra. Trong Giáo Hội, chúng ta phải luôn trung thành với nguồn Tin Mừng. Theo cách thức truyền thống, phải luôn kiếm tìm công lý. 

- Nếu đây là một lễ an táng bình thường, thì tôi có thể nói về tình bạn của tôi với Cha Grande. Vào những lúc cao điểm trong cuộc sống của tôi, cha đã luôn có mặt, gần gũi. Và tôi sẽ không bao giờ quên những giờ phút đó. Thế nhưng bây giờ là lúc ta rút ra một sứ điệp từ những cái chết này. Tất cả chúng ta là những kẻ còn đang lữ hành. Sự giải thoát mà Cha Grande rao giảng là một sự giải thoát bén rễ sâu trong đức tin. Và bởi vậy, nó rất thường xuyên bị hiểu lầm. Chính vì nó mà Cha Grande đã chết. Biết đâu những kẻ sát nhân cũng đang nghe thấy những lời này. Vậy tôi xin nói với anh em: Hỡi người anh em sát nhân, chúng tôi yêu các anh, nài xin các anh hãy hối lỗi tận đáy lòng các anh.  

- Hôm nay chúng ta đến đây để giành lại quyền làm chủ và sử dụng thánh đường này – đồng thời cũng để tăng sức cho tất cả những ai bị địch thù của Giáo Hội giày đạp. Anh em nên biết anh em không chịu khổ một mình. Anh em là Giáo Hội; anh em là cộng đoàn dân Chúa, là Đức Kitô. Đúng lúc này và ở đây, anh em đang chịu đóng đinh, xác thực như chính Ngài đã chịu đóng đinh 2000 năm về trước, trên ngọn đồi ở bên ngoài thành Giêrusalem. Anh em nên biết, khi chịu khổ và hy sinh giống như Ngài, là anh em góp phần lớn lao cho sự giải phóng El Salvador bằng ơn cứu độ. 

Đức TGM. Romero ngồi tại toà giải tội, người xưng tội là một linh mục:

- Xin Chúa ban phép lành cho con!

- Xin Cha thương con, vì con là người tội lỗi. Con đã xưng tội cách nay được một tháng... Thưa Cha đã từ lâu con là đồ đệ trung thành của khoa thần học giải phóng và con đã năng nổ giúp quần chúng đấu tranh.

- Đó chưa phải là tội.

- Con cảm thấy rất khó chấp nhận một người. Chỉ có thế thôi.

- Đó cũng chưa phải là tội.

- Con cảm thấy bất bình với Đức Tổng Giám Mục. Người quá thận trọng. Người can đảm, nhưng bảo thủ. Làm sao con vâng phục người được? Con phải làm gì?

- Hãy cầu nguyện cho ngài. Đó cũng là việc đền tội của con... Cha tha tội cho con, nhân danh Cha và Con và Thánh Thần. 

- Xin cám ơn Cha.

- Xin Cám Ơn Cha.

 

- Tôi là một người mục tử, đã cùng học hỏi với đàn chiên của mình, để biết chọn lựa một cách tốt đẹp, tuy rất khó khăn. Đức tin của chúng ta đòi buộc ta phải hoà nhập vào với trần thế. Tôi tin rằng sự bất công về kinh tế là nguyên nhân chính của mọi vấn đề – từ đó phát sinh mọi bạo lực. Giáo Hội cần thâm nhập sâu rộng nơi tất cả những ai đấu tranh vì tự do, để bảo vệ họ và chia sẻ những niềm đau bị bách hại.

Lm. Giuse Lê Công Đức

VỀ MỤC LỤC
BẠN ĐÃ LÀM GÌ CHO LINH MỤC ?

 

Năm Thánh cầu nguyện “Xin ơn Thánh hóa cho các linh mục” đã được khởi đầu như đỉnh cao nhất trong đời sống tâm linh của mọi tín hữu. Quả thật, đây là một đỉnh cao của toàn Giáo hội, khi đã được nâng lên hàng Năm Thánh cầu nguyện. Rất trang trọng và thật thiêng liêng.

Đó đây, đã có giáo xứ làm “silde show” và cả treo những hình ảnh rất lớn và sinh động về Thánh Gioan Vianney, quan tháy các linh mục, ngay trước tiền đường nhà thờ giáo xứ.

Tuy nhiên, không ai ngây thơ cho rằng, chỉ cần cầu nguyện trong năm thánh, còn trước và sau năm thánh thì không cần cầu nguyện gì nữa.

Nhưng cầu nguyện, không chỉ là đọc kinh suông trơn tuột qua môi miệng, hoặc chỉ là những mơ ước “chay” dâng lên Chúa. Thánh Giacôbê đã dạy một điều quen thuộc : “Đức tin không việc làm là đức tin chết”, cũng thế, cầu nguyện thiếu việc làm thì cầu nguyện ấy chưa hoàn hảo, tất nhiên, không đẹp lòng Chúa.

Hành động đúng luôn phải khởi đi từ những suy nghĩ đúng, suy nghĩ đúng phải bắt đầu bằng những hiểu biết đúng.

Từ Thánh giá đời linh mục….:

Trong ngày chịu lễ mở tay hay trong nhiều bài suy niệm hoặc giảng thuyết đó đây, người linh mục thường được nghe những lời có cánh đại khái như :

 Từ bụi tro, Chúa đã nâng con lên hàng khanh tướng. Chúa đã chọn con trong muôn người ….

Những lời tuyệt vời ấy không sai, khi nói về tình yêu Thiên Chúa đối với tạo vật của mình. Nhưng cách nào đó, các lời ấy, chỉ nói đền toàn hoa hồng mà chưa nói đến các gai nhọn của hoa hồng là những thập giá của đời linh mục.

Quả thật, quá nhiều gian nan thách đố và cả những cô đơn trống vắng trong đời linh mục.

- Linh mục là người làm dâu của trăm họ, rất khó làm vừa lòng mọi người, nếu cố gắng làm vừa lòng mọi người thì rốt cuộc sẽ chẳng vừa lòng ai. Nói chi, ngay trong gia đình chỉ vỏn vẹn có năm, bảy người cùng chung máu mủ còn chưa vừa lòng nhau, huống chi Linh mục phải xử sự với hàng trăm hàng ngàn người khác nhau.

- Người ta thường nói: ‘’Bạc như dân, bất nhân như lính’’. Câu nói này có thể cũng không sai với đời Linh mục. Bao lâu người Linh mục còn khỏe mạnh phục vụ cho giáo xứ thì là cha đáng mến đáng trọng. Một khi đau yếu già nua , là gánh nặng, là cái gai thì cần nhổ đi.

Nói như vậy có quá đáng không? Trên đời chuyện gì cũng có, vì thực tế đã có quá nhiều chuyện khiến ta phải đau lòng . Giáo dân thường hay quên mất công ơn người Linh mục đã làm, chỉ nhìn thấy khuyết điểm để lớn tiếng

- Người ta dễ nhớ đến một điều sai, nhưng lại hay quên trăm điều đúng mà người linh mục đã làm. Nói về một số linh mục lạm dụng tình dục bên trời Tây đang gây ồn ào trên thế giới, Qua một bài viết, Đức Giám Mục Nguyễn Soạn đã nói về điều ấy rằng : Trong cánh rừng, cả  trăm ngàn cây vẫn đang vươn lên sinh động, nhưng khi chỉ có một cây gãy đổ, thì tiếng vang và ầm ào ấy sẽ rất lớn. Ngài không bênh vực biện hộ, nhưng đã chỉ ra một tâm lý thông thường 

- Người linh mục phải là một người khác giữa trăm ngàn người khác. Ngài thiếu và không thể có cái mọi người đã có và đang có thừa. Chiều muộn, Thánh Lễ đã xong, mọi người đã ra về, giáo đường mênh mông, trên Thánh giá Chúa vẫn thinh lặng. Đêm xuống, nhà xứ im lìm vắng vẻ quạnh hiu. Nỗi cô đơn rất “người” .

Những cô đơn ấy càng đậm đặc hơn khi bệnh tật đau yếu. Miếng cơm, viên thuốc, ngụm nước và những chăm sóc theo dõi, làm sao có thể được ân cần như ý, như những người gần gũi máu thịt gắn bó của một gia đình ngoài “thế gian ” thường tình. Lại là một cô đơn khác, rất “người”.

Khi về hưu, mắt lòa chân run, muốn về ở với con cháu trông nom, thì cũng cần phải có một số vốn nào đó, tiền còn thì tình còn, tiền hết thì tình cảm cũng ra đi. Lúc ấy, ngài sẽ là gánh nặng rất đau đớn cùng với nỗi cô đơn gậm nhấm buồn phiền như bóng đêm. Lại thêm một cô đơn khác nữa, cũng rất “người”.

Ngay cả khi đã về một nhà hưu nào đó, nỗi cô đơn kia vẫn là một ám ảnh thấm thía, làm nặng thêm những cô đơn trông vắng trong khoảng trời riêng, cũng lại thật “người”.

Cái khoảng trống giữa khi làm việc và lúc về hưu luôn là không nhỏ. Khi tại chức làm việc thì “còn duyên”, còn nhiều kẻ cần thiết đón đưa. Khi về hưu, lúc đã “hết duyên” thì thui thủi “đi sớm về trưa một mình”.

Toàn là những nỗi cô đơn, luôn luôn rất “người”.

Cuối cùng, sẽ là một thiếu sót lớn nếu không nói ra, sau khi dâng thánh lễ mở tay, 5 năm, 10 năm hoặc một thời gian nào đó, người linh mục ngày càng giảm dần cái sốt sắng ban đầu, tính thánh thiêng trong thánh lễ cũng giảm dần, để biến thành những thói quen nhàm, không còn là DÂNG LỄ, nhưng chỉ là LÀM\ LỄ với những cử chỉ máy móc hình thức qua lần chiếu lệ. Điều này sẽ thật là tệ hại, và cũng là Thánh giá cho chính mình và mọi giáo hữu con chiên. Ngài rất sợ, không muốn điều này chút nào, nhưng đã xảy ra, như thực tế vẫn đang xảy ra, đó đây nhiều lắm.

….đến những cái bẫy nơi giáo dân:

            Giáo dân Việt nam, là những người người luôn yêu kính các linh mục rất đặc biệt, nên không ai can đảm dám “giăng bẫy” linh mục.

Tuy nhiên, những suy nghĩ và cách cư xử của họ đã trở thành những cái bẫy, tuy vô tâm vô tình nhưng lại thật hiệu quả. Rất nhiều người linh mục đã sập những chiếc bẫy ngọt ngào, êm dịu và đầy thú vị này. Kẻ giăng bẫy thì nhiệt tình và rất chân thành. Kẻ lọt bẫy cũng thường được vui lòng thoải mái. 

- Thực vậy, để tốt nghiệp và có thể hành nghề, một vị Bác sĩ cần 7 năm học tập và thực nghiệm. Dù thế, vị ấy cũng chỉ tốt nghiệp một khoa nào đó riêng biệt, nếu muốn thực hiện thêm khoa nào khác, phải học thêm lên cao, mất rất nhiều năm. Chưa nói đến cái TÂM và Y đức cần phải được mài dũa, thao luyện và sọi rọi qua từng ca bệnh mỗi ngày.

Người linh mục, như trường hợp bình thường, cũng chỉ được học tập và đào tạo trong 6, 7 năm với các môn chuyên biệt về “đạo”, thêm một thời gian nữa đi”giúp xứ, để khi ra trường đạt yêu cầu. Đang khi môi trường “đời” luôn mênh mông muôn mầu và đổi thay hàng ngày đến chóng mặt.

Thực tế là như vậy, nhưng không biết từ lúc nào, người giáo dân vẫn coi linh mục luôn là người thông suốt mọi sự, nhất là khi biết các ngài đã được học những môn ghê gớm xa xôi như Thần học, Triết học…      

Khởi đi từ suy nghĩ và quan niệm như thế nơi giáo dân, nên người Linh mục, vị lãnh đạo tinh thần, đã được mời kiêm nhiệm các chức vụ trong nhiều lãnh vực khác nhau, nhiều khi chẳng hợp với chuyên môn và thiếu hẳn kinh nghiệm của các vị ấy như : luật pháp, kinh tế, Tâm lý, Xã hội ....

Từ một người chuyên rao giảng lời Chúa, cử hành các bí tích, nay phải đứng ra hòa giải các vụ tranh chấp, kiện tụng. Kỹ sư kiêm đốc công các công trình xây dựng, quân sư về cung cách làm ăn. Ấy là chưa nói Linh mục còn phải đảm nhận những chức vụ “ phần đời” nọ kia khác.

Người giáo dân quen nhìn Linh mục như một kẻ thông suốt mọi sự, “nhiều ơn Chúa”, độ tin cậy cao hơn hẳn mọi người, nên khi mời và được ngài nhận lời thì quả là một vinh dự hiếm có.

Nhưng thực tế nhiều trường hợp đã minh chứng rằng, đó chỉ là những cái bẫy ngọt ngào làm người linh mục sụp hố khi bị thua lỗ, hỏng chuyện và thất bại đau đớn, điều ấy đơn giản, vì đó không phải là các chuyên môn của các Ngài.

- Kính trọng linh mục là điều quý và phải có, nhưng các cử chỉ quá khúm núm là điều rất nguy hiểm, vì nó dễ làm cho người Linh mục quên đi thân phận bụi tro, cục đất của mình, mình chỉ là một dụng cụ tầm thường trong tay Chúa. Từ cục đất Chúa đã nắn thành tượng Bụt, nhưng qua cách cư xử trọng kính quá khúm núm đến mất tự nhiên của giáo dân, đôi khi, người linh mục lại có ảo tưởng rằng mình là ông Bụt thật, là cái rún của vũ trụ, rồi từ đó, trở thành quan liêu, độc tài, độc đoán, độc diễn ....

Trọng kính theo cái kiểu : “Con xin phép lạy cha ạ”, người nói thì chân thành nhiệt tình, người nghe cũng thấy được vuốt ve êm tai dễ chịu, nhưng đó chính là một cái cái bẫy khác dễ làm mất dần căn tính dẫn đến vong thân đáng tiếc.

                                                      ***

Như ngọn nến phải bị đốt tan chảy thì mới cho ánh sáng, cũng thế, người linh mục cũng đang tan chảy từng giờ cho các giáo dân của mình. Ngọn nến kia có thể là lung linh đẹp đẽ, nhưng đôi khi cũng leo lét gây nhiều lo âu. Song, dù lung linh hoặc leo lét thì xin đừng quên, ngọn nến ấy cũng đã cho ta ít nhiều ánh sáng, dù nhiều khi ánh sáng ấy chưa được như lòng mong ước.  Và ngọn nến ấy đang tàn dần, như chính chúng ta cũng đang tàn dần theo từng giờ khắc.

“Bạc là Dân, bất nhân là lính”, câu nói ấy không phải lúc nào cũng đúng và đúng với tất cả mọi người. Xin đừng BẠC, xin đừng BẤT NHÂN với ngọn nến đã ít nhiều soi sáng cho mình, cho gia đình mình trong xứ đạo trong thời gian nào đó.

Thân phận con người là mỏng dòn hạn chế, điều này ai cũng biết.

Đừng bắt ai là Thiên Thần, đang khi chính mình vẫn chỉ là NGƯỜI, để xét nét phê bình hoặc chê bai cao giọng.

Quan hệ giữa giáo dân và người linh mục không phải lúc nào cũng êm trôi xuôi chảy, đã có nhiều trục trặc trở ngại thật buồn.

Nhưng tất cả những ai đã từng xúc phạm cách này cách khác với người linh mục, sau đó, đều thấy hối tiếc không vui và rất lấy làm xấu hổ.

Một vị thức giả đã nói : “ Đừng hỏi Tổ quốc đã làm gì cho Bạn, mà hãy hỏi Bạn đã làm gì cho Tổ quốc hôm nay” . Một câu nói đầy minh triết bao dung của một tâm hồn cao đẹp. Câu nói ấy cũng có thể đổi thành :

“ Đừng hỏi linh mục đã làm gì cho Bạn, mà hãy hỏi rằng, Bạn đã làm gì cho người linh mục hôm nay”.

Cụ thể rằng, Bạn đã đi thăm chưa và được mấy lần người linh mục hưu dưỡng? Bạn có băn khoăn và nghĩ gì về một ngọn nến đã hoặc đang soi sáng trong xứ đạo của mình. Chỉ mới nghĩ vậy thôi, đã có người phải rơi nước mắt.

Xin được dùng câu nói in đậm trên kia để thay cho phần kết bài này, và đây cũng là dịp may để nói với chính mình trước hết.

Xuân Thái.

VỀ MỤC LỤC
BÀI HỌC “TÉ”

 

Với con người, chuyện học là chuyện cả một đời chứ chẳng phải là 5 hay 10 năm. 5 hay 10 năm hay 20 chục năm đi chăng nữa ấy cũng chỉ là thời gian cho một quá trình đào tạo nào đó của con người. Thế nhưng, con người, vốn dĩ là “nhân vô thập toàn” nên trong cái hành trình làm người ấy cần có một tiến trình đào tạo bản thân mình để con người có thể thành “người” hơn. Và rồi, trong mỗi ngày sống, trong từng biến cố của cuộc đời, quá nhiều và quá nhiều bài học dạy con người.

Chuyện mà nhiều người biết, vừa qua, Đức Benedict XVI bị té. Ngài nói rằng thiên thần hộ thủ của ngài đã không bảo vệ giúp ngài khỏi bị té và gãy xương cổ tay là theo "Thánh Ý Thiên Chúa", hầu biến tai nạn đó thành bài học dạy cho ngài về tính khiêm nhường, và cho ngài thêm thời gian để cầu nguyện trong tĩnh lặng.

Ngài nói thêm: "Thật không may, thiên thần hộ thủ của tôi đã không giúp tôi tránh khỏi tai nạn. Điều đó tất nhiên là theo Thánh Ý Thiên Chúa.Có lẽ Chúa muốn dạy cho tôi thêm về lòng kiên nhẫn và đức khiêm nhường, cho tôi thêm thời gian để tĩnh lặng cầu nguyện và suy tư."

Chuyện thật là nhỏ đó là chuyện bị té nhưng rồi Đức Thánh Cha đã nhận ra bài học to đó là bài học về khiêm nhường cũng như trong thời gian dưỡng bệnh đó Ngài có thêm thời gian để tĩnh lặng cầu nguyện và suy tư.

Bài học té của Đức Thánh Cha quả thật chẳng phải là bài học riêng cho Ngài nhưng là bài học chung cho nhiều người nếu như muốn lắng đọng, nếu như muốn tìm Thánh Ý Thiên Chúa trên cuộc đời của mình. Không cần phải nói nhiều, những người mang trong mình trách nhiệm nặng nề như Đức Thánh Cha thì áp lực của công việc, áp lực của thời gian đã đè nặng trên đôi vai của Ngài. Và với số tuổi Ngài đang có thì áp lực đó còn nặng nề hơn biết bao. Ấy vậy mà Ngài rất cần và cần thời gian tĩnh lặng và cầu nguyện. Không phải chỉ có Đức Benedict XVI nhưng hình như nhiều vị tiền nhiệm của Ngài như Đức Cố Giáo Hoàng Gioan Phaolô II cũng đã đặc biệt dành nhiều thời gian cho cầu nguyện, cho suy tư.

Cuộc đời này quá náo động đến độ người ta chẳng còn chút thời gian để suy tư, để tĩnh lặng nữa. Chỉ có chột mới thương người mù và chỉ có què mới thương người cụt mà thôi ! Chính trong giới hạn của con người khi chột, khi què ta mới thấu hiểu được sự hạnh phúc của người lành lặn là như thế nào ? Qua thật, nếu suy nghĩ, cái té của ta sẽ cho ta bài học khiêm nhường như Đức Thánh Cha cảm nhận đấy thôi ! Cái té ấy cho ta thấy rằng giới hạn của ta, khả năng của ta, đặc biệt là Thánh Ý của Chúa trên cuộc đời ta. Trong lành lặn, ta vẫn thường mang cái cảm giác rằng ta thành toàn, ta hơn người khác nhưng trong những lúc ta yếu đuối, ta tật nguyền, ta mới hiểu, ta mới cảm được phận người là như thế nào ?

“Một cơn gió thoảng, dù làn gió biến đi, nơi nó mọc cũng không còn mang vết tích …” Lời bài đáp ca thường được các ca đoàn sử dụng trong các Thánh Lễ An Táng thật ý nghĩa. Phận con người là thế đó, phận con người thật mau qua chóng tàn nhưng con người vẫn luôn mang trong mình cái “khoái cảm” của sự kiêu căng, của sự tự mãn. Nhiều lần nhiều lúc trong cuộc đời té lên té xuống, ngã lên ngã xuống ấy nhưng chẳng hề rút ra một bài học nào cả. Bi đát nhất là mình té ấy nhưng chẳng bao giờ nhìn thấy cái giới hạn của mình cũng như chẳng bao giờ đồng cảm cho những người bị té.

Như cái nhìn, cái nghĩ bình thường của con người, được làm đến Đức Giáo Hoàng đồng nghĩa với một con người uyên bác, tài giỏi đến độ không cần học nữa nhưng không. Đức Giáo Hoàng vẫn học và vẫn học. Ngài vẫn học từ nhiều bài học thường ngày của Ngài nơi các vị lãnh đạo, nơi các nguyên thủ quốc gia, nơi những người Ngài gặp gỡ và đặc biệt trong cái biến cố thường ngày Ngài gặp phải.

Mỗi người chúng ta, không ít thì nhiều, thi thoảng hay bị té nhiều lần trong cuộc sống ấy chứ ! Thế nhưng mà, sau những lần té, những lần vấp ngã ấy, chúng ta có tâm tình, có nhận ra những bài học như Đức Thánh Cha té hay không ? Hay là chúng ta, sau những lần té ấy cứ vênh vang tự cao tự mãn.

Kiêu ngạo là một tính xấu, khiêm nhường là một tính tốt ! Điều này ai cũng biết qua tâm tình của Thánh Phaolô tông đồ : “điều tôi biết là tốt tôi không làm, điều biết là xấu thì tôi lại cứ làm”.

Vâng ! Cái tốt, cái xấu; cái kiêu ngạo, cái khiêm nhường nó vẫn tìm ẩn, vẫn giằng co trong con người chúng ta. Chúng ta cần phải chế ngự, kìm hãm cái xấu, cái kiêu ngạo để cho cái tốt và cái khiêm nhường nổi lên trong cuộc đời ta.

Đẹp và đẹp lắm những tâm hồn cao thượng, những tấm lòng khiêm hạ trước mặt anh chị em đồng loại và nhất là khiêm hạ trước sự quan phòng tuyệt vời của Thánh Ý Thiên Chúa.   

 

Hai Tôm Cần Giờ     

VỀ MỤC LỤC
CANH TÂN SƯ PHẠM GIÁO LÝ (BÀI 4):
GIÚP CÁC EM SỐNG ĐẠO VÀ ĐÀO TẠO NHÂN CÁCH CÁC EM

  

Ở nhiều giáo xứ, hoạt động giáo lý được chú trọng và giáo lý viên để tâm đến cách sống hàng ngày của từng em học sinh của mình. Đó là điều lý tưởng mà mọi giáo lý viên cần hướng đến. Nhưng vì nhiều lý do, trong đó có những cản trở về thời gian và hoàn cảnh xã hội, ở nhiều nơi, giáo lý chỉ đơn giản là đến lớp nghe cắt nghĩa bài có trong sách và khi hết giờ thì hoạt động giáo lý chấm dứt. Nếu giáo lý chỉ cần như thế thôi thì Giáo Hội đã không thao thức tìm những đường hướng thích hợp và ân cần nhắc bảo như Giáo Hội đã làm. Vậy, dạy giáo lý còn phải được hiều sâu xa hơn và thực hành thật chu đáo. 

I. DẠY GIÁO LÝ: GIÚP CÁC EM SỐNG ĐẠO

Tông Huấn Catechesi Tradendae dạy: « Bản chất của việc dạy Giáo Lý gắn liền với tất cả các hoạt động Phụng Vụ và các Bí Tích, vì chính các Bí Tích và nhất là Bí Tích Thánh Thể là nơi Đức Ki-tô hoạt động một cách sung mãn để biến đổi nhân loại. Việc dạy Giáo Lý sửa soạn cho việc lãnh nhận các Bí Tích ». (số 23). 

1. Giúp các em cảm được các mầu nhiệm và trung thành sống các mầu nhiệm.

Đức tin, các bí tích, việc cầu nguyện… phải là chính cuộc sống người Kytô hữu. Giáo lý giúp các em cảm nghiệm và sống các mầu nhiệm. Việc dạy giáo lý không chỉ là cung cấp kiến thức tôn giáo mà hơn nữa, là huấn luyện đời sống thân tình với Đức Giêsu là Đấng đang sống và hoạt động giữa loài người hôm nay. Nói thế nào cho các em cảm được và sống được như vậy không phải dễ dàng. Chắc chắn phải có sự hướng dẫn và nâng đỡ của Chúa Thánh Linh. Và mỗi giáo lý viên phải làm sao, bằng lời nói và gương sáng của mình, cho các em thấy các mầu nhiệm thánh gắn bó với đời mình còn hơn không khí để thở từng ngày, từng giờ. 

2. Giúp các em thực hành Lời Chúa một cách hồn nhiên và trọn vẹn.

Học giáo lý là học và sống Lời Chúa. Các em phải được thấm nhuần Lời Chúa, để Lời Chúa gắn bó với các em như hơi các em thở, hoà nhập vào cuộc đời các em để các em sống và lớn lên hàng ngày với Lời Chúa. Do đó giáo lý viên phải trình bày Lời Chúa sao cho sống động, dễ nhớ, dễ cảm ; và biến Lời ấy thành quyết tâm sống, những quyết tâm cá nhân được gợi lên nhờ lòng mến chứ không phải vì áp đặt chung chung. Muốn như thế, thái độ của giáo lý viên đối với Lời Chúa và cách anh chị nói về Lời Chúa quả thật có một tầm quan trọng lớn lao. 

3. Giúp các em chiếu toả Tin Mừng cho thế giới hàng ngày.

Ý thức truyền giáo cũng phải được gieo vào lòng các em thật sớm, vì đó là sứ mạng cao cả gắn liền với bản chất Giáo Hội Chúa Kytô. Các em yêu mến Chúa và Giáo Hội thì các em cũng sẽ góp phần làm cho người chung quanh nhận biết Chúa. Phải tập cho các em biết hãnh diện khi tuyên xưng đức tin dưới bất cứ hình thức nào, làm dấu Thánh Giá khi ăn cơm trước mặt mọi người chẳng hạn. Nếu muốn các em hăng say với bổn phận truyền giáo, các anh chị phải cho các em thấy đức tin của các em là ân huệ siêu nhiên cao cả, cần thiết cho cuộc đời, và các em phải quảng đại chia sẻ ân huệ ấy. Phải làm cho các em thấm nhuần điều mà Học Thuyết Xã Hội Công Giáo dạy : « Sứ mạng của Giáo Hội là công bố và truyền đạt sự cứu độ đã có được trong Đức Giêsu Kitô, mà Người gọi là “Nước Chúa” (Mc 1,15) 

II. DẠY GIÁO LÝ : ĐÀO TẠO NHÂN CÁCH CHO CÁC EM 

1. Giáo lý đào tạo con người toàn diện

Hội Thánh vẫn luôn trình bày mầu nhiệm cứu độ một cách toàn diện cho con người mọi thời. Giáo lý cũng nằm trong viễn cảnh đó. Có một thời người ta hiểu giáo lý như là dạy các em thuộc vài câu hỏi thưa rồi lãnh nhận các bí tích, thế là đủ. Nhưng một Kytô hữu chỉ được coi là trưởng thành trong đời sống đạo khi người ấy gắn bó đời mình với Đức Giêsu và đổi mới từ tâm hồn, nhân cách đến từng cách sống mỗi ngày theo đòi hỏi của Tin Mừng. Vì thế mà việc dạy giáo lý không thể tách rời con người phần xác, phần xã hội ra khỏi con người của niềm tin thiêng liêng. 

2. Giáo dục Việt nam ngày nay không giúp đào tạo nhân cách

Mục tiêu giáo dục là đào tạo con người. Nhưng để phục vụ cho nhiều mục tiêu khác nhau, giáo dục Việt nam bây giờ không góp phần đào tạo con người. Những mớ kiến thức được nhồi nhét cùng với những chiếc cặp oằn vai các em, những bữa ăn vội vã trên yên xe ngoài đường phố khói bụi cho kịp giờ học thêm… có rèn luyện nhân cách các em hay không ? Đó là chưa kể đến sự gian dối tràn lan ở học đường. Ngay cả thầy cô một vài môn học cũng thừa nhận « Chúng tôi nói dối ăn lương ! ».  Ở trong môi trường giáo dục đó, các em sẽ hình thành nhân cách theo hướng nào ? Rõ ràng chúng ta chỉ còn trông chờ vào các lớp giáo lý, nơi đó việc đào tạo nhân cách các em phải được nhấn mạnh cùng với đời sống tâm linh. 

3. Giáo lý viên nên làm gì ?

Giữa một xã hội mà việc giáo dục có nhiều vấn đề như thế, lớp giáo lý càng có thêm trách nhiệm đào tạo nhân bản, dưới ánh sáng của Lời Chúa. Dĩ nhiên chúng ta trình bày về Giêsu là trình bày về các mầu nhiệm thánh, nhưng không chỉ là lý thuyết thần học, mà là chính mầu nhiệm Giêsu đi vào cuộc đời để cứu độ con người cả hồn lẫn xác: nâng cao nhân vị (x. Học thuyết Xã hội của Giáo Hội, chương III).

Khi dạy lối sống, rèn nhân cách cho các em, chúng ta cần hướng các em về việc bắt chước trẻ Giêsu ở Nagiarét. Các em cần tập các đức tính nhân bản như : Trung thực, cao thượng, dũng cảm, trách nhiệm, nhân hậu v.v…

Để đào tạo nhân cách các em, giáo lý viên phải kiên trì giảng dạy, uốn nắn và nhất là cầu nguyện cho các em. Gương Chúa Giêsu va mẫu gương các thánh rất cần thiết trong tiến trình đào tạo này.

Giáo lý viên cần chìm sâu vào, ngập lặn trong Giêsu khi soạn bài, khi giảng bài và khi đối xử với các em. Anh chị hãy nói về Giêsu say sưa như chưa bao giờ được nói. Anh chị nên nói sao cho các em cảm được cuộc sống có hai con đường rõ rệt: con đường của Giêsu và con đường thế gian. Con đường Giêsu là con đường thế nào? Tác động của bài giáo lý là giúp các em hiểu về Giêsu hơn – yêu mến Giêsu hơn và quyết định sống như Giêsu.

Nếu chúng ta  gào lên: các em hãy trung thực, đừng nói dối, đừng ăn cắp, các em sẽ nghe theo không? Vậy chúng ta hãy cùng

a/ Giúp các em yêu mến và bắt chước Giêsu ấu thơ bằng cách kể chuyện về Chúa Giêsu và lặp lại lời Người dạy.

b/ Kể cho các em gương các thánh, những người chọn Giêsu làm mẫu mực cho đời mình.

c/ Thời đại hôm nay có rất nhiều bạn trẻ theo gương Giêsu. Ở trường học, người ta đưa ra nhiều “tấm gương” rất kỳ cục, lạ đời, không nhân bản. Chúng ta cần đưa những mẫu gương của các bạn cùng trang lứa với các em, đang sống đời sống tốt đẹp, nhân ái v.v…

d/ Tập cho các em sống đẹp, cao thượng bằng những hoạt động cụ thể. 

Nguyện xin Đức Trinh Nữ Maria, người Mẹ trẻ đã thành công rực rỡ trong việc đào tạo Giêsu thơ ấu, chúc lành cho chúng con và giúp chúng con đào tạo các em có hiệu quả. “Kính mừng Maria đầy ơn phúc, Đức Chúa Trời ở cùng Mẹ”. 

(Bài sau: Áp dụng phương pháp “Học sinh là trung tâm”) 

Gioan Lê Quang Vinh   samuelvpn@gmail.com

VỀ MỤC LỤC
ĐỪNG ĐỂ Ý THÁI QUÁ (2)

 

Bạn của người mẹ dừng lại để nhấp ly cà phê vào buổi chiều. Khi họ ghé thăm, cô bé Kim Uyên chạy vào kiện với mẹ vì chuyện bất công do cô bé bạn của nó. Bà mẹ giải thích:  

”Mẹ nghĩ: bạn con chiều nay không được thoải mái lắm”.  

“Tại sao mẹ?” 

 Bà mẹ cố gắng trả lời chữ tại sao. Cuối cùng bà mẹ bảo cô bé ra đó chơi để bà có thể tiếp khách. Cô bé chạy ra nhưng không bao lâu lại chạy vô với nhiều câu hỏi: tại sao?  

Hầu hết thời gian khách đến đều bị cô bé làm bận rộn. Cuối cùng bà mẹ cắt nghĩa cho bạn:  

Đó là cách thế cô bé muốn gây sự chú ý khi chúng tôi có bạn. 

Người mẹ nói rất đúng điều mà cô bé muốn. Cô bé còn nhỏ nên muốn tất cả sự chú ý đều tập trung trên cô bé thôi. Điều quan trọng đối với cô bé là làm cho bà mẹ luôn bận rộn và ngăn cản bà không được nói chuyện say mê với bạn hơn là phát triển tình bạn với bạn bè của nó. Nhưng bà mẹ xem ra không nhận thức ra rằng cô bé đang hành động không đúng. Bà mẹ thấy điều mà cô bé đang làm nhưng không để ý ý nghĩa của hành động của nó. Bao lâu bà mẹ nhận ra rằng cô bé làm bà bận rộn chỉ vì nó cảm thấy bị bỏ rơi ngoại trừ nó là trung tâm của sự chú ý, bấy giờ bà có thể giúp nó không tìm những sự chú ý không thích hợp nữa để nó có thể lớn lên và trở nên tự mãn. 

Khó huấn luyện một đứa trẻ khi khách còn ở đó. Tuy nhiên, lời nói đầu bà mẹ có thể thỏ thẻ với nó:  

“Đang có khách, con có thể đi chơi với bạn và để mẹ tiếp khách, hoặc con có muốn đi vào phòng con không?”  

Nên cho phép cô bé có sự chọn lựa và cho nó có sự cộng tác.  

Chúng ta có thể luôn nghi ngờ về đứa trẻ với một lố câu hỏi tại sao? Có được bao nhiêu lần một đứa trẻ thật sự tìm hiểu để biết tin tức? Chúng ta định giá thấp con trẻ chúng ta. Không biết bao nhiêu lần con trẻ hỏi tại sao, cho dù nó biết câu trả lời. Để gây được sự chú ý của cha mẹ, nó có thể luôn tạo ra các câu hỏi tai sao kế tiếp. Khuôn mặt của đứa trẻ cho thấy gì? Thích thú? Câu hỏi có cho thấy sự lý luận không? Hầu hết câu hỏi tại sao là vô nghĩa. Câu hỏi tại sao là để làm cho bố mẹ luôn bận rộn với nó. Nó biết bố mẹ đang muốn dạy cho nó nên muốn dùng cách đó để kéo sự chú ý, không phải để học. Nếu chúng ta nhìn, chúng ta sẽ thấy rõ điều đó. Nếu chúng ta để ý những câu vô nghĩa, sự lập lại hình thức và nội dung, và ngay cả nếu có một câu hỏi mới trước khi câu hỏi trước được trả lời, bấy giờ chúng ta tin chắc rằng đứa trẻ đang gài bẩy chúng ta. Vì thế, chúng ta có thể trả lời cùng với một cái mỉm cười đầy hiểu biết và nói:  

“Mẹ thích chơi với trò chơi tại sao của con. Nhưng bây giờ mẹ phải làm công việc tiếp theo”. 

Bé Dũng 5 tuổi, gần áp út trong 4 đứa trẻ, là một đứa trẻ tốt trong gia đình. Tuy nhiên, nó có tật luôn làm một cái gì khiến bà mẹ phải chia trí trong lúc bà cần phải chú tâm. Mỗi lần bà nói chuyện trên điện thoại, nó tìm cách cắt đứt câu chuyện. Nó phải đưa cho bà thấy một cái gì, hoặc xin đi ra ngoài, hoăc xin cho bạn bè vào, hay muốn có cái gì để ăn, muốn lấy một cái gì ngoài tầm tay nó, hoặc muốn biết những đồ chơi nó đang ở đâu. Thỉnh thoảng bà phải ngưng nói chuyện để trả lời cho nó. Có lúc bà phải quở trách nó:  

“Hãy để yên cho mẹ nói chuyện”.  

Vào lúc đó nó thường chọc phá em nó và khiến cho em nó khóc. 

Bé Dũng ở vào vị thế giữa trong 4 đứa. Ít nhiều nó cảm thấy bị lép vế. Nhưng nó đã tìm ra một cách thế để chứng tỏ sự quan trọng của nó. Nó có thể cảm thấy không có hy vọng chiếm được sự chú ý của mẹ nó khi bà bận rộn với đứa bé em. Nhưng khi bà nói chuyện trên điện thoại, nó có thể cắt đứt cuộc nói chuyện của bà với người lớn khác. 

Cậu bé quá tham vọng. Nó muốn được chú ý tất cả mọi lúc. Mẹ nó cần dẫn nó ra khỏi việc tìm kiếm sự chú ý không mấy thích hợp đó. Trước nhất, bà phải nhận ra rằng nó không biết vị thế của nó. Bà mẹ phải tỏ ra bà quí mến, thích thú nó, nhưng không phải vào lúc nó có những đòi hỏi không thích hợp. Khi nói chuyện trên điện thoại, bà cứ tiếp tục nói dường như không có nó ở đó, ngay cả khi bà không nghe được tiếng nói ở đầu giây bên kia. Muốn được vậy, bà phải cương quyết và dứt khoát, đặt biệt khi cậu bé bắt đầu chọc phá cô bé con, em của nó. Đừng lo, cô bé con có thể kiềm chế được. Phải giáo dục cậu bé biết tự mãn và không lệ thuộc vào sự chú ý của bố mẹ thái quá. 

Khi chúng ta không đáp trả những đòi hỏi chú ý quá đáng của một đứa trẻ, chúng ta cần phải chú ý đến nó một khi nó biết cộng tác. Điều đó sẽ giúp đứa trẻ tái xác định giá trị phương pháp của nó. Khi cô bé út ngồi chơi một mình bà mẹ có thể khen:  

“Thật là tốt khi con biết cách lo cho chính mình con”.  

Khi cô bé cùng chơi với các bạn nó, bà mẹ có thể nói:  

“Mẹ thấy vui khi con chơi vui vẻ với các bạn.”  

Với cu bé Dũng, bà có thể khích lệ:  

“Mẹ sung sướng thấy con vui vẻ và tử tế với mẹ và khách.” 

Trẻ con cần sự chú ý của chúng ta. Nhưng chúng ta phải ý thức về sự khác biệt giữa sự chú ý đúng lúc và không đúng lúc. Nếu chúng ta cảm thấy mình quá bận với đứa trẻ khi tình thế không cho phép, hoặc khi chúng ta cảm thấy chán nản hay mệt mỏi, chúng ta có thể xác tín rằng chúng ta đang đối đầu với những đòi hỏi không thích hợp. Hãy xem tình thế. Hoàn cảnh đòi hỏi gì? Đứa trẻ có thể giải quyết được vấn đề hay không nếu chúng ta không can thiệp? Sự đáp trả của chúng ta có ảnh hưởng đến quan niệm của đứa trẻ hay không? Điều đó có chứng tỏ cho nó rằng nó có thể làm được mà không cần đến chúng ta, hoặc có làm cho đứa trẻ thành kẻ thụ động, yếu ớt, lười biếng, và lệ thuộc vào người khác không? 

Để giúp con trẻ nhận ra rằng nó có thể tìm được sự thõa mãn trong cuộc đời từ sự đóng góp tùy theo nhu cầu của hoàn cảnh, chúng ta cần phải ngưng làm mọi cái sẵn cho chúng, và hãy giúp chúng gặt hái với những cố gắng của chúng tùy theo nhu cầu của hoàn cảnh đòi hỏi. 

 Lm. Lê văn Quảng. tiến sĩ tâm lý

VỀ MỤC LỤC

  

Hôm nay, ngồi đọc sách dưới một vòm cây râm mát trong vườn, tự nhiên tôi muốn viết về lá.

Hình như lá hiện diện ở bất cứ nơi nào có sự sống. Ngày xưa ông Noe tránh nạn đại hổng thủy trên tàu; sau khi tàu đã trôi lênh đênh nhiều đêm ngày, ông muốn kiểm chứng xem mặt đất đã khô cạn và có sự sống chưa, liền thả chim bờ câu ra nhiều lần, cho đến khi bồ câu bay về, mỏ ngậm cành lá ô-liu, ông biết rằng mình đã có thể sinh sống trên mặt đất.

Lá còn thể hiện sự sống ngay chính trên thân cây. Cắm một cành cây xuống đất, người ta chưa thể biết cành cây ấy có sống không. Phải chờ đến khi những lá non nhỏ xíu nảy ra từ cành cây, người ta mới biết được cây thực sự sẽ sống. Những ngày mùa Đông rét mướt, lá cây rụng hết và cây chỉ còn là những cành khẳng khiu xám xịt, cây trong trạng thái tiềm sinh, người ta nói rằng cảnh vật trông như đã chết. Mùa Thu chết, mùa Đông chết, trước hết được hiểu theo nghĩa ấy.

Lữ hành đi trong sa mạc, khi nào thấy có cây cối và cành lá xanh tươi, họ biết rằng nơi ấy có nước, có sự sống. Màu xanh của lá chính là niềm ước mơ, khát vọng của người đi trong sa mạc. Khát vọng ấy quá lớn lao, đến độ nhiều khi đã trở thành ảo ảnh, khiến họ nhìn đâu đâu trên dải cát vàng mênh mông cũng thấy cây, thấy lá.

Lá là biểu tượng cho sự tươi mát và sự sống. Tôi cũng thế. Tôi là thân cây, cành cây; sự tươi mát được thể hiện qua cách sống của tôi là lá cây. Chính sự tươi mát đó khiến người khác thấy nơi tôi có sự sống và thấy họ có thể sống bên cạnh tôi, sống với tôi. Giận dữ, cau có, u buồn khiến tôi mất đi vẻ tươi mát của sự sống và làm người khác không dám sống gần tôi nữa.

Nói đến cây và lá trong sa mạc, tôi nhớ đến những cây xương rồng, những bụi gai mọc lên vã sống rất lâu năm trên những vùng đất cằn cỗi và nóng bỏng. Cây cần nước, vậy mà tại những nơi ấy, nước rất hiếm hoi. Để cây có thể sống, lá cây thu lại nhỏ li ti hoặc biến thái thành gai, hầu cho diện tích thoát hơi nước hẹp tới mức tối đa, giúp cho cây giữ được nước trong thân. Nghĩ đến cây và lá, tôi lại nghĩ đến người. Trước lơi ích chung của cộng đồng, tập thể có mấy ai trong chúng ta dám thu nhỏ mình lại, dám lui đi, dám tự tan biến?

Lá cung hiến cho con người tất cả khả năng của mình và sẵn sàng để con người sử dụng. Lá tranh để lợp nhà. Lá chuối, lá dong để gói bánh, gói thức ăn. Những cái bánh chưng ngày tết ở quê tôi, được gói bằng những tàu lá dong to bản, tự nó đã có một mùi thơm mộc mạc và quyến rũ. Khi chiếc bánh được bóc ra, màu của lá dong nhuộm xanh những hạt nếp bánh, trông ngon mắt làm sao. Không có lá dong thì bánh được gói bằng lá chuối, cũng tạm đẹp mắt. Còn bánh chưng gói bằng giấy bạc, hình như bánh không còn phải là bánh chưng nữa. Để gói, tôi nghĩ lá chuối, dù tươi hay khô, được dùng nhiều nhất. Ở quê tôi, bánh dày được phết trên những miếng lá chuối cắt tròn trịa trông cũng hay hay. Tôi còn nhớ đến những cái lá sen vươn cao khỏi mặt nước làm cho hồ sen thêm đẹp và nên thơ. Người ta cắt những cái lá sen ấy về, dùng để gói những hạt cốm xanh non, thơm ngát mùi hương đồng nội. Lá dứa, lá cau dùng để trang trí. Lá vạn tuế vừa để cầm đi rước, vừa để... đuổi ruồi. Nhưng dù được dùng để lợp nhà hay gói bánh, gói vật dụng, hay làm bất cứ công việc gì, dù vinh quang hay hèn kém, lá cũng mang tính chất che chở, bao bọc, giúp đỡ. Trong cuộc sống, giá mà người ta học được nơi lá tính chất gìn giữ, che chở, bao bọc, giúp đỡ người khác như thế, xã hội loài người sẽ dễ thương hơn hiện tại rấtnhiều.

Thông thường nhất, khi còn ở trên cây, lá làm nên một khoảng râm mát, che cho con người khỏi cái nắng cháy da. Chuyện có vẻ bình thường, nhưng nếu suy nghĩ về hình ảnh ấy, tôi thấy rõ ràng rằng dù tôi có yếu đuối về thể lực ,có hạn hẹp về kiến thức, có nghèo nàn về tài chánh, thì chính cuộc sống của tôi cũng đã góp phần giúp ích nhân loại, nếu tôi có thiện chí và dám hi sinh. Muốn che nắng cho con người, chính lá phải đưa thân ra chịu nắng thiêu đốt. Muốn bao bọc ai, hi sinh cho ai, tôi cũng phải giống như lá, tình nguyện chịu hủy hoại, chịu thiêu đốt. Bằng không, lòng mong ước hay lời nói của tôi không đem đến một kết quả cụ thể nào.

Ngay cả khi đã rụng xuống, đã chết, lá vẫn còn giúp ích cho con người. Người ta gom những lá khô ẩy lại, đốt lên, làm thành ngọn lửa sưởi ấm trong những ngày mùa Đông giá buốt, Con người, có mấy ai chịu thiêu đốt để trở thành ánh lửa sưởi ấm cho nhau?

Có những cô thiếu nữ mơ mộng, không đốt lá vàng, nhưng ép những chiếc lá ấy trong sách. Ngắm những chiếc lá khô ép mỏng, người ta có thể bùi ngùi nghĩ lại cả một chuỗi dài kỉ niệm. Lá, khi ấy, trở thành một người bạn thầm lặng, nhắc nhở cho ta những thăng trầm của cuộc sống, những biến đổi của thời gian.

Lá đùng để ăn. Các loại rau tươi, hầu hết là những thứ lá cây. Và rau chính là loại thực phẩm tốt nhất, hiền nhất, đem lại cho con người sự nuôi dưỡng trong sạch lành mạnh nhất. Dù tốt và hiền, rau tươi cũng có sự quyến rũ đặc biệt của nó. Một bát bún riêu không còn đủ hấp dẫn nếu không được ''trợ lực'' bằng một đĩa rau xà lách thái nhỏ, hay một rổ rau muống chẻ loăn xoăn, với một màu xanh mát mắt. Và các món cuốn bánh tráng sẽ vô vị đến thế nào, nếu không có những thứ rau sống để ăn chung? Các món bún miền Nam sẽ mất đi hương vị đặc biệt nếu thiếu lá rau dấp. Lại còn lá lốt, lá nho được dùng để bọc thịt bò mà nướng nữa. Món gỏi cá, nếu dọn cho đầy đủ, cần đến ba mươi sáu thứ lá khác nhau... Người ta có trăm ngàn món ăn cần đến những thứ lá cây.

Chẳng phải chỉ loài người mới dùng lá cây làm thực phẩm, nhiều loại động vật khác cũng ăn lá cây. Người ta phân loại: động vật ăn thịt như cọp, như beo là loại thú vật dữ; động vật ăn lá cây, rau cỏ như nai, như thỏ là loại thú vật hiền. Như thế, bản chất của lá cây nói chung là bản chất hiền, khiến cho những loại động vật ăn lá ăn rau cũng trở nên hiền. Điều đó dạy cho tôi rằng: Tôi hãy cứ sống tốt, sống hiền, sống yêu thương người khác; nơi tôi sẽ có một hấp lực, một sự quyến rũ tự nhiên, và rồi dần dà tôi sẽ có ảnh hưởng để giúp người khác cũng sống tốt, sống hiền, sống yêu thương như thế.

Lá còn được dùng để chữa bệnh. Đa số các loại lá đều có dược tính và có thể dùng để trị những bệnh tật của con người, Y lí Đông phương dựa trên sự cân bằng, điều hòa âm dương trong cơ thể. Những lá cây đều có tính âm, tính dương, có thể khống chế hay gia tăng cái âm, dương nơi con người để tạo nên sự cân bằng, và nhờ đó khỏi các bệnh tật. Các danh y thời thượng cổ thường có thuật nếm lá cây để biết được dược tính của nó, hầu dùng những thứ lá ấy vào việc trị bệnh: Như thế, muốn trị được bệnh cho con người, chính lá cây phải mang dược tính, tức là phải có sẵn khả năng trị bệnh. Tôi cũng thế, nếu muốn giúp người khác thoát khỏi những bệnh tật tinh thần và tâm linh, chính tôi phải mang trong mình cái khả năng trị bệnh đó. Muốn giúp người khác sống bình an, chính lòng tôi phải có sự bình an. Muốn giúp người khác quên hận thù và biết tha thứ, chính lòng tôi phải quảng đại và biết tha thứ. Muốn giúp người khác sống yêu thương, chính lòng tôi phải có sự yêu thương. Thiếu những ''dược tính'' ấy trong chính tâm hồn mình, tôi không thể chữa bệnh cho người khác được.

Lá để chữa bệnh, nhưng cũng có thứ lá làm chết người. Đó là những thứ lá độc. Những thứ lá này trông bên ngoài cũng hiền lành như bao chiếc lá khác, nhưng bên trong nó có chất độc, người không may ăn phải có thể bỏ mạng. người ta cũng thế. Có những người trông bên ngoài rất bình thường, rất hiền lành, có thể rất đạo đức nữa. Nhưng bên trong họ có thuốc độc. Họ có thể làm chết người khác vì thủ đoạn, mưu mô, vì chính chính vẻ hiền lành, lời nói ngon ngọt của họ. Tôi tự nhủ lòng sẽ sống làm sao để không trở thành những thứ lá độc, những người giả hình.

Một vườn um tùm hoa lá là hình ảnh tươi đẹp nhất của cuộc sống chung và bình đẳng. Từ những chiếc lá to như lá chuối, lá cau, lá dừa, lá đu đủ; những chiếc lá hạng trung như lá đa, lá đề, lá bàng...cho đến những chiếc lá nhỏ xíu xịu như lá me, lá trinh nữ... tất cả đều vui tươi dưới ánh mặt trời và đều vươn lên đầy sức sống. Từ những thứ lá tuốt trên cau như lá thông, lá tre, cho đến những thứ lá là đà sát đất như bụi rau, bờ cỏ... tất cả đều tự do phát triển và nảy nở. Không thứ lá nào phủ nhận thứ lá nào, không thứ lá nào xem thường thứ lá nào. Người ta dù có cách biệt nhau về thể chất, tài năng, tiền của... nhưng có lẽ sự cách biệt ấy không quá đáng như tàu lá dừa và cái lá me. Vậy mà người ta vẫn cứ lên mặt vơi nhau, khinh thường và phủ nhận nhau. Bao giờ người ta biết sống chung và sống bình đẳng như lá, người ta sẽ tạo ra một xã hội xanh mát, vui tươi như một vườn đủ mọi loại lá hoa.

Nói đến lá cau, tôi nhớ đến những chum nước mưa trong vắt và ngọt ngào. Ngày xưa, người dân ở quê tôi thường lấy nước mưa vào chum bằng cách dùng lá cau. Tàu lá cau bị chặt ngang giữa sống lá cho gãy khụp xuống, người ta vất bỏ phần sống lá phía trên rồi buộc tàu lá vào thân cau. Phần lá đón nhận nước mưa chảy theo thân cau, dẫn vào phần sống lá còn lại, nay mang nhiệm vụ của một thứ ''máng"', chuyển nước mưa vào chum, Tàu lá cau tầm thường đã biến thành vật dụng hứng và chuyển những hạt ngọc của trời cho con người hưởng dụng. Tôi nghĩ đến thiện chí của tôi. Nhiều khi tôi cũng muốn và tự nguyện làm máng chuyển ơn Chúa đến người khác Nhưng muốn thực hiện được điều ấy, tôi phải biết hi sinh, phải bằng lòng để cho Chúa đốn, chặt, đưa vào khuôn khổ và tước bỏ đi những gì thừa thãi, những gì làm ơn của Ngài phân tán, không chảy vào được cõi lòng người khác; cũng giống như tàu lá cau phải chịu chặt ngang sống lá, chịu tước bỏ đi những phần thừa thãi, chịu trói buộc vào thân cau mới có thể dùng được làm máng dẫn nước mưa vào chum vào vại.

Lá là biểu tượng của niềm hi vọng và hòa bình. Màu xanh của lá có thể nói là màu vui tươi nhất, đầy sức sống nhất, màu gợi cho ta về một tương lai đấy hứa hẹn. Cành lá uốn cong trong dấu hiệu của Liên Hiệp Quốc nói lên khát vọng hòa bình của con người. Nếu tôi sống làm sao, mà khi nhìn vào tôi, người khác thấy một sự bình yên, một niềm an lạc; thấy yêu đời, vui tươi và hi vọng... khi ấy tôi trở nên giống lá, trở nên biểu tượng của hi vọng và hòa bình.

Lá cũng là hình ảnh trọn vẹn nhất của kiếp người. Người ta lọt lòng mẹ với thân phận hài nhi, dần dần lớn lên, phát triển, trưởng thành; trải qua nhiều biến thiên dời đổi của cuộc đời, rồi già, rồi bệnh và chết. Chiếc lá cũng thế bắt đầu nhú ra từ cành cây, xanh non, nhỏ xíu, rồi phát triển, lớn lên dần, đậm màu dần. Trải qua mưa nắng và tiết mùa, lá đã nhiều lần thay đổi hình dạng và sắc độ. Kịp đến khi mùa Thu tới, lá úa vàng, lắt lay theo ngọn gió... để rồi giữa Thu hoặc sang Đông, lá lặng lẽ rời cành. Cũng có khi vì một lí do bất thường nào đó, lá vàng còn ở trên cây mà lá xanh đã mau rơi rụng. Chính vì thế mà khi ngả mũ chào một đám tang đi qua, ''thiên hạ bên đường nhìn xe tang tự hỏi: mùa Xuân hay lá úa mùa Thu ?'' Có lẽ đời lá diễn tả trọn vẹn đời người, nên không biết bao văn sĩ, thi sĩ, nhạc sĩ đã lấy lá làm đề tài diễn tả tình người. Riêng tôi, nhìn lá, tôi cảm nhận đượcthân phận mỏng manh của kiếp người và của chính mình. ''Đời sống con người chóng qua như cỏ như hoa mọc giữa cánh đồng; một cơn gió thoảng cũng đủ làm nó biến đi, và nơi nó mọc không còn vết tích. '' Cảm nhận và ý thức như vậy, tôi quí trọng đời sống của tôi, và cố gắng sống thế nào để những ngày hiện hữu trên mặt đất trở nên hữu ích cho tôi và cho người khác.

Không biết đã có biết bao nhiêu bài văn, bao nhiêu câu thơ bao nhiêu dòng nhạc đã có hình ảnh của lá. Nhưng trong lúc này, câu khiến tôi suy nghĩ nhiều nhất là: "Lá rụng về cội''. Lá do chính sức sống từ gốc cây chuyển lên thân cây, cành cây mà tạo nên, lá phát xuất từ gốc cây. Một ngày kia, lá già lá rụng, cũng lại rơi xuống gốc cây nơi từ đó lá phát sinh. Câu này có ý nói dù sao đi nữa, thì cuối cùng người ta cũng trở về với nguồn gốc của mình. Người ta nghĩ đó là một định luật và là một lẽ đương nhiên.

Nhưng tôi nghĩ, chưa chắc "lá rụng về cội'' đã là một lẽ đương nhiên. Nhìn vào hình ảnh thực tế, bao nhiêu chiếc lá rụng nằm dưới gốc cây, bao nhiêu chiếc lá bay tản lạc đi nơi khác? E rằng số lá rụng ''cuốn theo chiều gió'' nhiều hơn những ''lá rụng về cội'' rất nhiều. Như thế, "lá rụng về cội'' không hẳn là một lẽ đương nhiên.

May mắn, tôi ý thức được tôi do Thiên Chúa tạo dựng, Thiên Chúa là cội nguồn của tôi, May mắn, vì bao nhiêu ngươi khác sống trong tình trạng ''biết đâu cội nguồn''. Nhưng ý thức được như vậy là một chuyện, sống làm sao để khi xuôi tay nhắm mắt, tôi về được ''cội nguồn '' Thiên Chúa lại là một chuyện khác. Muốn trở lại cội nguồn, tôi phải giữ cho thân tâm an định, để không bị ''cuốn theo chiều gió ''. Mà cuộc đời này, biết bao nhiêu là những cơn bão loạn. Luôn luôn phải nghĩ về cội nguồn, luôn luôn phải có mối dây liên lạc thân tình với Thiên Chúa, tôi mới có thể giống như ''lá rụng về cội'' được. Để được như "lá rụng về cội'', tôi phải có được sự khao khát của một Augustinô: "Hồn con khắc khoải trông đợi Chúa, và chỉ nghỉ an khi gặp được Ngài"

Nhà Văn Quyên Di

VỀ MỤC LỤC
Những thời khắc quyết định

 

Tác phẩm  NGƯỜI NỮ TU SỐNG TU ĐỨC TOÀN DIỆN  

tác giả: Lm. Micae-Phaolô Trần Minh Huy pss 

LỚP THẦN HỌC LIÊN TU SĨ - TÒA GIÁM MỤC BÙI CHU  (2008 - 2009)

Chương VIII : Những thời khắc quyết định

 

A. VƯỢT LÊN  KHỦNG HOẢNG ĐỂ TÁI ĐỊNH HƯỚNG CUỘC SỐNG VÀ SỨ VỤ  

Kính thưa Chị Em Hồi Tâm để khấn trọn đời, và Vấn Tâm để khấn lần đầu,

Quả thật chị em đang đứng trước những thời khắc quyết định cho cuộc đời ơn gọi của mình: quyết liệt bước bước đầu tiên, hay dứt khoát cho trọn cả cuộc đời.    

Trình bày chung cho cả hai thời khắc là điều khó và tế nhị, vì mỗi giai đoạn có những điểm nhấn riêng. Tuy nhiên, không phải là không rút ra được những lợi ích: người đi trước nhìn lại “các khủng hoảng” để tái định hướng con đường, còn người đi sau nhìn thấy trước những gì có thể xảy ra để lên kế hoạch ứng phó hữu hiệu và thành công.  

I. NHẬN ĐỊNH

Cuộc đời nào cũng có ánh sáng và bóng tối. Đời sống và sứ vụ tu sĩ cũng tương tự. Người ta thường quan niệm “càng tu càng đắc đạo”, càng hoàn hảo, nhưng thực tế, chúng ta cảm nhận và phải khiêm tốn nhìn nhận rằng có nhiều cái trong cuộc đời không như chúng ta mong đợi, hoặc không còn được như thuở ban đầu nữa. 

Quả vậy, trong sách Khải Huyền, Thánh Thần đã nói với giáo đoàn Ephêsô rằng: “Ta biết các việc ngươi làm, nỗi vất vả và lòng kiên nhẫn của ngươi... Nhưng Ta trách ngươi điều này, là ngươi đã để mất tình yêu thuở ban đầu. Vậy hãy nhớ lại xem ngươi đã từ đâu rơi xuống, hãy hối cải và làm những việc ngươi đã làm thuở ban đầu. Bằng không, Ta sẽ đến với ngươi, và Ta sẽ đem cây đèn của ngươi ra khỏi chỗ của nó, nếu ngươi không hối cải” (Kh 2,2-5). 

Nhiều khi khủng khoảng bắt đầu rất sớm ngay sau khi khấn và đi ra sở: nhiều tu sĩ trẻ đã bỏ cầu nguyện, Kinh Nhật Tụng, Nguyện Gẫm, xét mình hàng ngày, lần chuỗi Mân Côi, và siêng năng xưng tội, vì có vấn đề trong các mối tương quan.  

Xin lưu ý ngay một thiếu sót tuy đáng thông cảm nhưng phải khắc phục dần dần, đó là các nhà đào tạo và Bề Trên Dòng cần tiếp tục đồng hành với các thành viên non trẻ mới ra đời của mình. Thời gian đào tạo ở Nhà Tập và những năm dầu của Học viện nhằm chỉ dạy chu đáo cho biết phải sống làm sao, cư xử thế nào trong các mối tương quan. Thật là lý tưởng nhưng mới chỉ nằm trên phương diện lý thuyết. Bây giờ phải va chạm các thực tế thì mới thấy ngỡ ngàng, phức tạp và vấp váp mà không biết phải giải quyết làm sao. Trong khi đó, nhiều chị phụ trách cộng đoàn nhỏ cũng chưa được chuẩn bị để nắm giữ vai trò và trách nhiệm của người bề trên, người chị, người mẹ và người đào tạo tiếp tục có khả năng, ý thức và tình yêu thương nâng đỡ, cảm thông. Nhiều người mới cảm thấy như “bị đem con bỏ chợ” và có thể mất ơn gọi, hoặc sống đời ơn gọi thiếu bình an và hạnh phúc. 

Trong hoàn cảnh ấy, họ lại bỏ cầu nguyện và những sùng kính đạo đức là những cái đã giúp họ giữ vững được ơn gọi sống động trong thời gian tu luyện ở trong Dòng, và cũng chính những thứ đó sẽ còn giúp họ bền đỗ trong ơn gọi và sứ vụ của mình giữa môi trường tông đồ.

Chúng ta không thể không biết đến tình cảnh khủng hoảng và suy thoái này của con người và của Hội Thánh… và cũng không thể khám phá thấy hết được những hình thức khác nhau của cơn “khủng hoảng” mà các tu sĩ ngày nay đang phải chịu đựng: nhiều trăn trở trong các tưõng quan, thiếu vâng lời và khó nghèo, lơ là việc linh hướng và xưng tội, không ưu tiên cho đời sống cầu nguyện…thiếu tương quan thân mật với Bề Trên và cộng đoàn, thiếu liên đới và hợp tác làm việc chung, thiếu tín nhiệm và tin tưởng lẫn nhau, thích tự do và tiện nghi, thiếu hy sinh và khổ chế, để bị căng thẳng thể xác vì quá nhiều việc, mệt mỏi tâm lý vì hiểu lầm và định kiến, thế rồi hướng ngoại và do đó vấp váp tình cảm, có vấn đề về đức trong sạch, thiếu trách nhiệm bản thân trong việc tự đào tạo nhằm phát triển đời sống toàn diện, nhân bản và thiêng liêng.

Thật thế, nhiều trường hợp ngay trong lần đi sở đầu tiên có thể đã có căng thẳng với  môi trường mới, với những con người xa lạ chưa hề quen biết, với tập quán, văn hóa và lối sống của họ, do lối sống bất định của đời tu: được sai đi đến nơi mình không muốn; ở với người mình không ưa, và làm việc mình không thích. 

Áp lực của công việc, kỳ vọng của dân chúng và cha xứ lắm khi làm cho tu sĩ trẻ bị căng thẳng, kiệt quệ. Nhiều việc phải làm mà lúc ở tu viện chẳng được học. Sự cô đơn, sự thiếu khích lệ và nâng đỡ từ chị em và Bề Trên cũng dễ dàng dẫn đến sự cô độc, chán nản và thất vọng. 

Những yếu đuối bản thân, những giới hạn và vấn đề không được giải quyết thỏa đáng lúc còn ở trong Dòng, để rồi sau khi khấn đi ra sở lại xuất hiện mạnh hơn trước kia (trong đó có vấn đề tình cảm với các bạn là con trai hoặc bạn trai cũ), vì chúng đã không được trực diện và xử lý cách thích hợp trong những năm đào tạo, vì thiếu linh hướng thích hợp, hay một lối lãnh đạo “áp đặt”, “vâng lời tối mặt” gây ức chế và miễn cưỡng chịu đựng “nín thở qua sông” hay “giả dại qua ải,” “bằng mặt mà không bằng lòng” và “nhắm mắt đưa chân”, như Hội Nghị về ơn gọi 2007 tại Thái Lan nhận định rằng Ban đào tạo phải tự xem xét lại cách thức đào tạo của mình. Vì thế, DHTSTQ II cũng đặt nặng vấn đề  “Đào tạo các nhà đào tạo.” 

Tuy nhiên, chúng ta cũng cần biết thông cảm với Bề Trên và các nhà đào tạo. Họ cũng có những nỗi khổ, lo toan và áp lực của họ. Ngoài ra, có thể có những động lực không đích thực tiềm ẩn khi bước vào con đường ơn gọi, và tất cả những gì bị dồn nén trong quá khứ bây giờ có cơ hội nổ tung ra, mà xem ra chẳng ai thấu hiểu, trợ lực, giúp đỡlắng nghe để hiểu, nhìn lại để thương” 

Thực ra, vẫn có ai đó thấu hiểu, cảm thông, giúp đỡ… và thường là một bàn tay mạnh mẽ, một can thiệp, một tiếng nói có trọng lượng và thẩm quyền đối với Bề trên, Nhà Dòng… như Cha xứ chẳng hạn, hay một mạnh thường quân, một ân nhân, một tâm hồn quảng đại ân cần sẻ chia (đưa tới hoàn cảnh nhận ân và phải trả tình)… Và lắm khi vì thế mà có vấn đề và rắc rối tình cảm bắt đầu từ chỗ đó.

 

B. CÁC CƠN KHỦNG HOẢNG 

Nhiều khi trong lòng không có biển, nhưng vẫn có sóng… Và có những lúc không nhận ra những cơn sóng nguy hiểm, mà cứ coi thường đứng xem… (Đường êm quá ta đi mà quên ngó, đến khi hay gai nhọn đã vào thấu xương!). Đến khi nhận ra nguy hiểm thật sự, mới biết sợ thì chạy trốn cũng không còn kịp nữa. Sóng sẽ vùi dập …Vì thế Chúa Giêsu căn dặn “Hãy tỉnh thức và cầu nguyện luôn…” 

1. Các cơn khủng hoảng có thể

 a. Khủng hoảng tự nhiên về thể lý và sinh lý: Thông thường cứ 7 năm, tất cả mọi tế bào trong cơ thể đều được thay thế để tăng trưởng. Vấn đề sinh lý cũng thế qua từng giai đoạn của tuổi đời, các tuyến nội tiết và các loại hooc-môn cũng phát sinh và bị kích thích (Ai dạy cho khỉ biết leo cây?) và “trong lòng không có biển vẫn có sóng” 

b. Khủng hoảng trong đời sống thiêng liêng-Khủng hoảng đức tin. Nhiều khi có sự chênh lệch đáng buồn giữa lời giảng lý thuyết và đời sống thực hành tôn giáo, hoặc chịu ảnh hưởng những tư tưởng thần học cấp tiến. Không nhận ra sự hiện diện và hoạt động của Chúa trong lịch sử Giáo Hội và thế giới, cũng như trong lịch sử của Hội Dòng và mỗi cá nhân.    

Những thử thách đau khổ có thể kéo con người đến gần Thiên Chúa, vì chẳng còn biết tin tưởng bám víu vào ai khác nữa:        

Âu là Thánh Ý Chúa Trời
Giúp con lột bỏ một đời bơ vơ
Còn ai ngoài Chúa mà mơ
Cuối đường Chúa đứng đợi chờ đỡ nâng
Chúa ôi! Thôi thật “Xin Vâng”
Cạn tàu ráo máng xin dâng cho Ngài.

 
Nhưng những đau khổ thử thách cũng có thể đẩy con người xa Chúa, vì không lý giải được những đau khổ bất công trên những người vô tội, những nghịch lý và mâu thuẫn về ngôn hành bất nhất trong Giáo Hội và người của Giáo Hội, như dân Dothái lầm bầm trong sa mạc xưa kia: “Có Chúa hay không, và nếu có thì Ngài có thực sự cùng đi với chúng ta không?” (Xh 17,7).

 c. Khủng hoảng trong các tương quan

            a) Khủng hoảng quyền bính

Khủng hoảng đức tin kèm theo khủng hoảng quyền bính, từ phía trên cũng như từ phía dưới, lắm khi gây đau đớn và chia rẽ trong cộng đoàn.

Quyền bính đã không được nhìn đúng theo ý nghĩa và mục đích của nó. Mục đích quyền bính được mạc khải và tuôn đổ xuống trên Giáo Hội từ nơi Thập giá là để thiết lập vương quốc tình thương cứu độ. Tình thương cứu độ không che đậy tội lỗi, nhưng phơi bày tội lỗi như nó hủy diệt phẩm giá con người và tình thương. Tình thương cứu độ đó dùng sức mạnh của Chúa để chiến thắng tội lỗi.  

Một số người coi quyền bính chỉ là một phương tiện để duy trì giáo thuyết và trật tự. Số khác lại coi quyền bính như một áp đặt bất công ý muốn của các lãnh đạo lên các thành viên của mình. Họ chỉ ra những lạm dụng quyền bính - một số lạm dụng có thật, một số được tưởng tượng ra. 

Chính Chúa Giêsu cũng nói tới một số tiêu cực của những người nắm giữ quyền bính: “Các con hãy nghe lời họ nói, nhưng đừng bắt chước việc họ làm, vì họ chất gánh nặng lên vai kẻ khác còn họ không giơ ngón tay lay thử... Họ giết chết các con mà tưởng là làm vinh danh Chúa.”     

Người Việt Nam đòi hỏi: “Làm quan hãy xét cho dân, không tin ngài xuống ngài mần ngài coi” và kết luận: “Thượng bất chính hạ tác loạn.”  

Và cũng vì thiếu đức tin, lại chịu ảnh hưởng của các yếu tố văn hóa và tâm thức xã hội, nhiều người cấp dưới đã “vâng mà không phục” hoặc “bằng mặt mà không bằng lòng” để đến một lúc dường như muốn “tức nước vỡ bờ” mà không có ai giúp “khai mưõng cho nước chảy” và “đào sâu lòng sông” khiến vấn đề đã phức tạp lại càng phức tạp hơn, có khi đưa tới bế tắc và đổ vỡ đáng tiếc. 

Nhưng với đức tin mạnh mẽ và đâm rễ sâu trên nền tảng Thánh Kinh vững chắc, đặt trọng tâm vào Chúa Giêsu, vào Phúc Âm, vào Giáo Hội và các linh hồn, cầu nguyện và biện phân dưới sự dẫn dắt của Chúa Thánh Thần, chúng ta sẽ vâng lời cách sẵn lòng và siêu nhiên các vị lãnh đạo và cơ cấu Giáo Hội, không phải như những con người và cơ cấu nhân loại, nhưng là Ý Chúa ở trong và qua những con người và cơ cấu này.

b) Khủng hoảng tình huynh đệ

Vì ảnh hưởng, vì quyền lợi, vì tình cảm và những sự việc tiêu cực đưa đến kết luận chua chát này: “Người đối với người là lang sói, nữ tu đối với nữ tu là lang sói hơn, linh mục đối với linh mục là lang sói nhất.”

“Giả như tên địch thù phỉ báng, thì tôi cũng cam lòng, hay kẻ ghét ghen lên mày lên mặt, tôi có thể lánh đi. Nhưng đây lại là bạn, người đồng vai đồng vế, chỗ thân tình tâm phúc với tôi, đã cùng tôi chia ngọt sẻ bùi, trong đền Thiên Chúa, giữa hội vui cùng sánh bước” (Tv 55,13-15)

Tên phản phúc ra tay hại người thân nghĩa, lại lỗi ước quên thề; miệng nói năng ngọt xớt, lòng chỉ muốn chiến tranh, lời trơn tru hơn mỡ, mà bén nhọn như gươm (Tv 55,21-22).

Kẻ đến thăm, miệng nói lời giả dối, nhưng chủ ý thâu tin độc địa, vừa ra khỏi nhà, đã vội rêu rao. Cả người bạn thân con hằng tin cậy, đã cùng con chia cơm sẻ bánh, mà nay cũng giơ gót đạp con! (Tv 41,7,10).

 

Chị ơi! Cay đắng đã nhiều, 

Bao phen em cũng muốn liều mà thôi!   

Nhưng rồi tấc dạ bồi hồi,   

Chạnh nhớ Chúa chết trên đồi Canvê,  

Vì thương Chúa phải ê chề,    

Bị người kết án không hề hở môi. 

Đời em cũng lắm khúc môi,   

Bầm gan tím ruột vì người bất công, 

Đôi khi muốn nói hả lòng,  

Sao em không động mà người động em?

 

c) Khủng hoảng tình cảm

Những hấp dẫn, khao khát tự nhiên của con người dễ bộc lộ khi không được yêu thương, bị hiểu lầm, đau khổ, buồn phiền, oan ức khiến người ta đâm liều đi tìm bù trừ, an ủi, mà vấp ngã, vì mọi thân xác đều có tính dục và mọi tương quan đều có tính cách phái tính. 

2. Các dấu hiệu và chỉ dẫn của cơn khủng hoảng trong đời sống tu sĩ:

·        Trốn chạy: chất men, tiêu khiển thái quá, thích “xuất hiện”

·        Chuyện phiếm, tán gẫu không dứt, trống dạ...

·        Thiếu khả năng sống trầm tĩnh, thinh lặng...

·        Ham hoạt động (quá lao lực sẽ kiệt lực)

·        Nhu cầu khẳng định mình thái quá (làm tốt, gây chú ý, lôi cuốn, mở rộng giao tiếp…)

·        Viễn ảnh tiêu cực, phàn nàn, hay chỉ trích phê bình...

·        Khó ngủ (tin nhắn, “nhất dạ sinh bá kế”)

·        Những bất bình thường về giới tính (lẳng lơ, lôi cuốn, tấn công/thụ động cam chịu)

·        Khả năng hoạt động bị tê liệt.

·        Chỉ thường xuyên liên hệ với một số người nào đó thôi…

 

3. Vài phản ứng cần thiết để vượt lên khủng hoảng 

Cần có thời gian cầu nguyện hằng ngày để chia sẻ bản thân với Chúa, hầu sống căn tính tu sĩ thực sự của mình: “Anh chị em hãy trao trút nỗi lòng của anh chị em cho Chúa, vì Ngài hằng thương yêu chăm sóc đến anh chị em” (1 Pr 5,7). 

Tìm một đối tác biện phân: vị linh hướng, có thể là một người bạn tín cẩn, dẫn tới một căn tính trưởng thành. Các cân nhắc tâm lý về cá tính cũng rất hữu ích... 

Sự sống mật thiết với Chúa Giêsu là phương dược chữa lành vạn năng. 

Không thiếu những tu sĩ cảm nhận cô đơn thực sự ngay trong chính cộng đoàn mình sống và lắm khi sự cô đơn đè nặng trên con người của họ. Sự nghi ngờ, đố kỵ, ghen ghét hay thiếu thông cảm từ phía chị em, kể cả từ Bề trên, có thể làm gia trọng nỗi thất vọng và cô đơn (x. Paul VI, Sacerdotalis Caelibatus số 59).  

Bí tích Hòa giải là một quà tặng, một khí cụ quan trọng cho sự tái định hướng, thánh hoá và tăng trưởng thiêng liêng, đặc biệt nếu việc xưng tội không chỉ được coi là một nghi thức, mà đúng hơn là một cơ hội không chỉ để xưng tội, mà còn để trao đổi với một cha giải tội và linh hướng có kinh nghiệm, nhờ đó đạt tới một kinh nghiệm chữa lành và một lối sống khả dĩ giúp đứng lên làm mới lại từ đầu.  

Việc linh hướng đều đặn là một bảo đảm khác cho việc tái định hướng, tăng trưởng và phát triển đời sống thiêng liêng trưởng thành của tu sĩ. 

Nếu không có vị linh hướng đúng nghĩa, thì có thể làm việc đó với cha giải tội đã được trắc nghiệm kỹ. 

Ngoài cha giải tội thường xuyên, Dòng cũng nên liệu có cha giải tội ngoại thường để chị em dễ dàng xưng tội và trình bày những khúc mắc tế nhị, hoặc cho phép chị em đi gặp một cha giải tội thích hợp riêng, vì vấn đề lương tâm thực sự. 

Tạo lập lối sống và làm việc chung, sự ràng buộc của tình chị em đích thực, cũng như những thời gian giải trí, hồi tâm và thinh lặng giúp không chỉ chế ngự khủng hoảng, mà còn biến khủng hoảng thành một cơ hội để đẩy xa hơn sự tăng trưởng và tiến bộ trong sự trưởng thành cá nhân, cũng như công việc tông đồ và bác ái sống động.

 

C. TÁI ĐỊNH HƯỚNG ĐỜI SỐNG VÀ SỨ VỤ

I. Đặt vấn đề

Anh chị em biết chúng ta đang sống trong thời nào. Đã đến lúc phải thức dậy, vì hiện nay ngày Thiên Chúa cứu độ chúng ta đã gần hơn trước kia, khi chúng ta mới tin đạo. Đêm sắp tàn, ngày gần đến. Vậy chúng ta hãy loại bỏ những việc làm đen tối, và cầm lấy vũ khí của sự sáng để chiến đấu” (Rm 13:11-12).  

Khủng hoảng rất lắm khi là một dấu hiệu tăng trưởng, nhưng cũng tỏ lộ một số vấn đề và yếu đuối nào đó đang được mở ra theo cách này.  

Trong các tình huống như thế, hãy xử sự như trường hợp hỏa hoạn: hãy bình tĩnh và hành động cách có trách nhiệm… Không lấy bất cứ quyết định nào khi đang bị giao động; hãy “gạn đục khơi trong” để thấy rõ mới có biện phải đúng được.

 Một tình huống như thế cần trước hết sự thinh lặng và suy nghĩ để trở nên ý thức rõ ràng hơn về các vấn đề thực sự là vấn đề.  

Để được vậy, chúng ta cần thời gian và một nơi chốn (ít là nội tâm) có thể ở một mình, suy tư và cầu nguyện. Các cuộc tĩnh tâm và hồi tâm là các cơ hội đó. 

Thời gian khủng hoảng mời gọi chúng ta xem xét các cội rễ căn nguyên và các tình huống của các việc chúng ta đã trải nghiệm hầu được ý thức hơn về các hậu quả của chúng. 

Mỗi vị thánh đều có một quá khứ và mỗi tội nhân đều có một tương lai. Phải tin tưởng vào sự biến đổi tốt đẹp hơn trong tương lai, nhờ ơn Chúa, với cố gắng bản thân và sự giúp đỡ của kẻ khác. 

Việc tái định hướng được khởi đầu bằng cách trực tiếp đối diện và chấp nhận chính thực tại của mình, đồng thời nhẫn nại hướng mình vào trong ý muốn của Chúa.  

Một tiến trình như thế thường không hoàn toàn được thực hiện một mình, mà cần có người đồng hành. Không ai tự làm hướng đạo cho mình: “Biết ai khôn ngoan thì tìm đến mà bàn hỏi và chớ coi thường bất cứ lời chỉ giáo nào hữu ích” (Tb 4,18).  

Bên cạnh Chúa Cứu Thế mà chúng ta gặp gỡ trong cầu nguyện, chúng ta cần một ai đó để nói với, một ai đó hành động như một khuếch âm cho các kinh nghiệm và thấu hiểu của chúng ta, một ai đó có khả năng cho chúng ta những định hướng mới phát ra từ sự biện phân trong thinh lặng và nguyện cầu của chúng ta và nâng đỡ chúng ta.  

Một vị đồng hành thiêng liêng là một quà tặng tốt nhất mà chúng ta có thể có được. Nhưng một vị hướng dẫn thiêng liêng không chỉ đồng hành với chúng ta trong cơn khủng hoảng và ở một tình huống riêng lẻ.  

Nếu không có vị linh hướng riêng, cha giải tội có thể làm việc ấy một cách nào đó, sau khi đã trắc nghiệm để chọn người thích hợp, nghĩa là người mình có thể tin cậy trình bày rõ tất cả và người đó có khả năng giúp mình đứng dậy và tiếp tục con đường tận hiến. 

Sự đồng hành cần trải ra trong một thời gian dài, cùng bước đi và cùng lớn lên bên nhau trong một mối quan tâm chung là trở nên gần gũi hơn với Chúa Kitô và với con người thật của chúng ta, vì đi vào thế giới nội tâm của một con người quả thật không dễ: “Đi lâu mới biết đường dài (thức lâu mới biết đêm dài), ở lâu mới biết con ngài phải chăng.” 

II. BÍ TÍCH GIẢI TỘI,  PHƯƠNG THẾ HỮU HIỆU ĐỂ TÁI ĐỊNH HƯỚNG 

Bí tích Hòa Giải là một bước cụ thể tái định hướng và tiến vào một cuộc sống mới sâu sắc hơn và vững chắc hơn nhờ cơn khủng hoảng, hy vọng thế! 

Nếu vị hướng dẫn thiêng liêng là một linh mục, thì Bí tích được trao ban trong tất cả tiến trình biện phân và tái định hướng.  

Thường chỉ xưng tội thôi không đủ, nhưng chúng ta cũng cần được trao đổi giải quyết và như thế thấy được các gốc rễ sâu xa hơn và các viễn ảnh tương lai (đường lối cư xử mới) 

Lối xưng tội chia sẻ và đối thoại như thế cũng mang lại một sự cởi mở lớn hơn trên cả chiều kích nhân bản và thiêng liêng.  

Chính vị linh mục cũng được khích lệ rất nhiều trong một kinh nghiệm như thế, nhờ đó ngài có khả năng giúp đỡ người khác trong cùng một đường lối hoặc tương tự.  

Bí tích hòa giải là một trong những quà tặng đặc biệt của linh mục cống hiến cho kẻ khác trong thừa tác vụ bí tích của ngài, nhưng đồng thời nó cũng là khí cụ cho linh mục tăng trưởng trong đời sống thiêng liêng và bác ái mục tử. 

Cuộc đối thoại giữa hối nhân và cha giải tội làm cho việc cử hành bí tích đáp ứng sít sao hơn với từng tình huống cụ thể của hối nhân, với các lý do khác nhau của hối nhân:

·        Nhu cầu hòa giải cá nhân và tái nhập vào tình bằng hữu với Chúa nhờ nhận lại được những ơn đã mất do tội;

·        Yếu tố căn bản trong việc tái định hướng đời sống và sứ vụ là bí tích Hòa giải, đặc biệt nếu nó không chỉ được đánh giá và thực hành theo đường lối nghi thức, mà đúng hơn như một cuộc đối thoại trong đó việc xưng tội cùng lúc trở thành một cơ hội để tiến bộ.

·        Nhu cầu tìm kiếm sự tiến bộ thiêng liêng (x. Kh 2:2-5);

·        Đôi khi cần một sự biện phân thích đáng hơn về ơn gọi;

·        Trong nhiều trường hợp, không những cần mà còn khao khát thoát khỏi tình trạng hờ hững thiêng liêng và khủng hoảng đời tu, hầu có một lối giải quyết, một lối đi mới trong chính hoàn cảnh cụ thể đang phải sống (không hay chưa thay đổi nhiệm sở được). 

Nhờ những đặc tính cá nhân đó, hình thức cử hành này liên kết với việc linh hướng.  

Trong cuộc đối thoại này phải tránh đề cập trực tiếp đến đệ tam nhân. Phải rất cẩn thận và tế nhị trong các câu hỏi để làm sáng tỏ hầu có biện pháp và lời khuyên thích ứng, giúp hối nhân thay đổi lật sang một trang mới của cuộc đời. 

Nhớ giúp linh mục tránh ba tội kèm theo vạ tiền kết dành riêng cho ĐGH: Lỗi ấn tòa giải tội, khuyến dâm trong tòa và giải tội cho đồng phạm.  

Tương quan linh hướng là một tương quan khép kín tay ba (Chúa Thánh Thần, người thụ hướng và vị linh hướng).  

Điều mà vị linh hướng khám phá về người thụ hướng ở toà trong sẽ không được tiết lộ ra ở toà ngoài. Dữ kiện này có cùng một qui chế như ấn toà giải tội. Điều này không chỉ để bảo vệ người thụ hướng, mà còn cống hiến cho họ sự tín nhiệm và tin tưởng rằng điều gì họ đã bộc lộ ở tòa trong vẫn được giữ bí mật. Chính niềm tín nhiệm và bảo đảm này mang lại sự chữa lành tận gốc các “căn bệnh.”    

Vì thế, những người có sứ vụ tòa ngoài trong việc đào tạo nên biết dừng lại ở một giới hạn cần thiết, không nên ra lệnh “Chị buộc lương tâm em phải nói ra sự thật”... Cái khôn khéo và kỹ năng sư phạm của nhà đào tạo có thể làm cho ứng sinh tín nhiệm tự nguyện nói ra hết mọi bí ẩn tâm hồn và cuộc đời họ; nhưng nhà đào tạo cũng phải khôn ngoan giữ mình ở ranh giới tòa trong và tòa ngoài. Đó là cái khó và nguy hiểm cho cả hai, nhà đào tạo và ứng sinh: Tội thì tha, lỗi thì sửa. 

III. LÒNG CẢM THÔNG  VÀ LẦM LỖI CỦA NGƯỜI KHÁC

Chúng ta đừng quên tiến trình chỉ bảo huynh đệ để sửa chữa lầm lỗi của người khác mà Chúa Giêsu dạy trong Phúc âm: “Nếu chị em ngươi trót phạm tội, thì hãy đi sửa lỗi nó, riêng ngươi với nó thôi. Nếu nó nghe ngươi, ngươi đã lợi được người chị em. Nếu nó không nghe ngươi, ngươi hãy kèm theo một/hai người nữa, để tất cả công việc được đoán định do miệng hai/ba nhân chứng. Nếu nó không màng nghe họ, hãy thưa với cộng đoàn…” (x. Mt.18, 15-17)

Một ngýời có thể phạm lỗi cố ý hay vô tình, biết rõ hay không biết gì. Chúng ta có thể có hai thái độ hành xử:

            - hoặc là phòng bệnh,

            - hoặc là chữa bệnh. 

Người cảm thông phòng bệnh đi bước trước, ngăn ngừa những ảnh hưởng tác hại từ bên ngoài, hay dập tắt ngay từ trứng nước cái mầm bệnh từ bên trong, để lỗi lầm không thể xảy ra. 

Như người làm nông năng thăm vườn cây, khi phát hiện cây bị sâu bệnh liền phun thuốc diệt sâu bệnh, người cảm thông đón trước và khuyến cáo ngay lỗi lầm có thể, để ngăn ngừa các ảnh hưởng và nguyên nhân từ bên ngoài, hay những yếu đuối từ bên trong thân phận con người.  

Người cảm thông tin tưởng vào sự biến đổi tốt đẹp trong tương lai, cho người phạm lỗi biết lỗi, lắng nghe lời giải thích biện hộ, kết luận xác định đúng lỗi lầm, cho đương sự cơ hội và thời gian cần thiết để sửa chữa, và nhẫn nại giúp đương sự tập đức tính ngược lại, hy vọng vào kết quả sẽ có trong tương lai: “xin cứ để nó lại năm nay nữa, tôi sẽ vun xới chung quanh, và bón phân cho nó, may ra sang năm nó có trái” như dụ ngôn của Chúa Giêsu:  

“Người kia có một cây vả trồng trong vườn nho mình. Bác ta ra cây tìm trái mà không thấy, nên bảo người làm vườn: ‘Anh coi, đã ba năm nay tôi ra cây vả này tìm trái, mà không thấy. Vậy anh chặt nó đi, để làm gì cho hại đất?’ Nhưng người làm vườn đáp: ‘Thưa ông, xin cứ để nó lại năm nay nữa. Tôi sẽ vun xới chung quanh, và bón phân cho nó. May ra sang năm nó có trái, nếu không thì ông sẽ chặt nó đi” (Lk 13, 6-9). 

Trái lại, người thiếu cảm thông mới khám phá thấy lỗi lầm đã có biện pháp ngay, vì óc cầu toàn đòi hỏi và đốt giai đoạn, coi người khác như đã đạt tới trình độ của mình.  

Hoặc khá hơn, người thiếu cảm thông sẽ chờ đợi lỗi lầm trở nên rõ ràng để có biện pháp, nhất là khi người có lỗi che đậy, giấu giếm vì một lý do nào đó (như quá sợ bị sa thải, hoặc ảnh hưởng thiệt hại cho người liên hệ). 

Cũng tùy thái độ ngoan cố và thiếu tinh thần phục thiện của người lầm lỗi, người thiếu cảm thông thường âm thầm theo dõi (hoặc tệ hại hơn ngược với sư phạm giáo dục đích thực là đặt người theo dõi và báo cáo), có khi còn “gài bẩy” cho mắc phải để đương sự không thể cãi lại, chữa mình hay chối cãi được nữa. 

Tuy nhiên, con người không phải là tĩnh vật bất di bất dịch, song là một sinh vật còn biến động, còn thay đổi theo cả hai chiều tích cực và tiêu cực. Hãy tạo cho người lầm lỗi cơ hội và môi trường (việc thuyên chuyển nhiệm sở nhằm mang lại những tương quan mới giữa những người liên hệ và sự đổi mới sẽ dễ thực hiện được), cũng như thời gian biến đổi và làm lại từ đầu đó. 

Hãy bình tĩnh cùng ngồi lại, tìm khám phá và viết ra hai cột giấy tất cả những cái tốt và cái xấu của con người đó để so sánh, việc giải quyết sẽ mang tính khách quan khoa học, đồng thời biểu lộ lòng nhân hậu theo gương Chúa. 

Chớ gì tiến trình chỉ bảo huynh đệ của Chúa Giêsu được thực thi. Cha ông chúng ta cũng từng quan niệm: “Nhân thùy vô quá, hữu quá tắc cãi, thị vị vô quá” (đã là người thì ai ai cũng đều có lỗi, có lỗi thì sửa lỗi, và như vậy sẽ không còn lỗi nữa).  

Tuy nhiên, để thực hiện lòng nhân ái ấy, chúng ta cần khéo léo sử dụng kỹ năng chỉ bảo huynh đệ “feed-back”, áp dụng vào Đào tạo và Tự đào tạo, cả về chiều dọc lẫn chiều ngang: Người và ta, trên và dưới gặp được nhau, hiểu được nhau trong mọi quan điểm và tha thứ cho nhau, thì mọi việc đều được giải quyết dễ dàng và tốt đẹp. 

Hãy cho người biết lỗi, cho họ cơ hội sửa lỗi, và cho họ thời gian nữa, vì không ai một sớm một chiều mà sửa ngay được. Tin tưởng vào sự biến đổi tốt đẹp trong tương lai, với ơn Chúa và sự cố gắng của mỗi người. 

Trong trường hợp biết rõ ai đó có lỗi thật sự và để tránh thiệt hại lớn cho cộng đoàn lẫn đương sự, sau khi cầu nguyện và đã trực tiếp làm mọi cách có thể, hãy theo lương tâm, can đảm đích thân kín đáo trình bày với Bề trên và sẵn sàng chịu trách nhiệm kiểm chứng về điều mình nói.

Tay Tạo Hoá đặt bầu lửa đỏ,     

Giữa thinh không soi tỏ gian trần, 

Con người hối hận thở than,    

Dám đâu tiếp tục những lầm lỗi xưa.

Vừa lạc nẻo lại vừa mù quáng,   

Chẳng biết đường biết hướng về đâu,  

Chúa ôi chính lộ dẫn vào,   

Kẻo con sa xuống vực sâu có ngày!

Thánh Thi Kinh Sáng Thứ Năm Tuần I  

“Chúc tụng Thiên Chúa là Thân Phụ Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta. Người là Cha giàu lòng từ bi lân ái, và là Thiên Chúa hằng sẵn sàng nâng đỡ ủi an. Người luôn nâng đỡ ủi an chúng ta trong mọi cơn gian nan thử thách, để sau khi đã được Thiên Chúa nâng đỡ, chính chúng ta cũng biết an ủi những ai lâm cảnh gian nan khốn khó” (2 Cor 1, 3)

 

IV. THÁI ĐỘ SỐNG CẦN THIẾT

Ai trong chúng ta cũng có những lần trải nếm kinh nghiệm của thánh Phaolô về “hai sức mạnh đối nghịch nhau trong bản thân mỗi người, khiến những điều tốt ta muốn làm thì lại không làm được, và những điều xấu không muốn làm thì ta lại làm.

Hãy chấp nhận những giới hạn bất toàn và bất lực của mình, mỗi ngày chúng ta càng trở nên khiêm tốn hơn về chính mình, trước mặt Chúa, cũng như trước mặt người khác. 

Và chúng ta cũng hãy nghĩ như thế cho Bề trên và chị em: bao lâu còn mang nặng thân phận con người, họ cũng có những yếu đuối, sai sót, lỗi lầm, bất toàn và bất lực của họ. Càng chấp nhận họ như thế, ta sẽ càng trở nên cảm thông với họ hơn, độ lượng với họ hơn, tha thứ và bỏ qua các lầm lỗi thiếu sót cho họ hơn. 

Nếu tất cả mọi người chúng ta biết khiêm tốn với chính mình và cảm thông, độ lượng, tha thứ, bỏ qua cho lầm lỗi thiếu sót của nhau, các mối tương quan nhân bản của chúng ta sẽ được cải thiện tốt hơn và đời sống thiêng liêng sẽ được phát triển đúng mức. 

Nhưng cuộc đời nhân bản và thiêng liêng của chúng ta lắm khi cũng “ba chìm bảy nổi chín long đong”, khiến tiền nhân phải nhắc nhở: “lênh đênh qua cửa Thần phù, khéo tu thì nổi vụng tu thì chìm.”  

Chớ chi chúng ta biết chìa tay ra cho nhau “chị ngã em nâng”, như Chúa Giêsu đã chìa tay ra cứu Phêrô khỏi chìm.  

Cuộc đời của chúng ta không được biểu diễn như một đường thẳng, mà là những đường cong gợn sóng hoặc là những đường xoắn trôn ốc. Nhưng Thiên Chúa luôn viết thẳng trên những đường cong của cuộc đời chúng ta.  

Chúng ta sẽ cố gắng biến mình thành những sinh vật có xương sống, trưởng thành, luôn luôn tự mình có thể đứng vững được, dù có xây xát và thương tích, chứ không phải là những sinh vật không có xương sống hay tầm gửi, không thể tự mình đứng vững được mà luôn tựa vào người khác.

 

D. HƯỚNG TỚI CUỘC SỐNG MỚI  

I. ĐỔI ĐỜI VÀ TRỞ THÀNH 

1. Việc tái định hướng giả thiết một chuyển động kép:

            a. Chia cắt với cái đi trước, nghĩa là phải từ bỏ một cách sống, một cách hiểu biết Và những mối tương quan đối Thiên Chúa, với vũ trụ, với chính mình, với tha nhân và môi trường, tức là con người cũ bấy lâu nay của mình, mà Thánh Phaolô bảo là “quên hẳn đàng sau, nhắm phía trước mà chạy tới.”  

            b. Mở ra với những gì đang đến, nghĩa là một hiện hữu mới, một ý nghĩa mới, một kiện toàn, một đổi mới so với nếp sống, suy nghĩ và quan hệ bấy lâu.     

Do đó, việc tái định hướng đời sống và sứ vụ tu sĩ là một sự xé rách, một thứ cái chết, nhưng rách để lành, chết để sống. Đó là một thứ biến đổi một mất một còn, giống như chim phượng hoàng tới tuổi 40.

Dường như có một sự dằng co trong con người và cuộc sống. Thật thế, chị em đang bước vào giai đoạn quyết định cho cuộc đời thánh hiến, “một ngày là nữ tu sẽ là nữ tu mãi mãi”, nhưng vẫn còn có con người trần tục bên cạnh con người thiêng liêng. Tính lưỡng diện này vẫn tồn tại, trải qua những chiến đấu, dòn mỏng và có khi thất bại nữa. 

2. Một kinh nghiệm đổ vỡ

Ta có thể nhìn kinh nghiệm đổ vỡ này (sự chia cắt và cái chết) qua hình ảnh Abraham cắt đứt mọi mối quan hệ cộng đồng và yêu thương với gia đình, với đồng bào và thiên nhiên, rời bỏ quê hương để đi tìm một quê hương mới, hầu được triển nở thành thủ lãnh / cha một dân tộc. 

Có thể nói, hành trình ơn gọi bẻ gãy tính thuần nhất của những gì chúng ta đã nhận lãnh trong cuộc đời, ghi khắc một đổ vỡ và thay đổi các giá trị vốn có. 

3. Một cuộc đổ vỡ lịch sử và nền tảng

Cần có tín nhiệm lẫn nhau thực sự trong linh hướng, để chị em không sợ nói lên kinh nghiệm bản thân, diễn tả thứ thanh tẩy cần thiết hầu đi vào hành trình thiêng liêng, chuẩn bị tiến tới tuyên khấn làm người nữ tu suốt đời “không bao giờ đổi thay.

Cái quan trọng là có nơi mỗi người một biến cố lịch sử đánh dấu thời khắc trở thành tu sĩ, và thời khắc đó được sống thường xuyên trong tất cả công cuộc tìm kiếm và thực thi thánh ý Chúa: Một khi trở thành, người tu sĩ sống căn tính tu sĩ suốt cả đời: Một ngày tu sĩ, tu sĩ mãi mãi.  

4. Đổ vỡ là sự khởi đầu

Biện chứng pháp dẫn ta từ đối chọi tiền đề – phản đề đến một quan điểm mới (hợp đề). Cũng thế, mỗi một đổ vỡ mở ra một khởi đầu mới. Và khởi đầu mới đó lại sản sinh ra một khởi đầu mới khác, cứ thế mà tiến bộ: “bắt đầu, lại bắt đầu” 

5. Sống ơn gọi như sự chia tách

Sự kiện người đi tu xem ra hiện hữu tách biệt với người đời khiến người ta than phiền đi tu là cắt khỏi cuộc sống (xuất thế). Nhưng một cách nào đó đời tu đòi lại sự chia tách nầy (nhập thế) và khoảng cách giữa tu và không tu là một dữ kiện có một ý nghĩa hữu lý: sống một cách khác hợp với chọn lựa của đời mình. Nói khác đi, đổ vỡ nầy đánh dấu sự khởi đầu của tất cả mọi cuộc đời. 

II. CHẾT CHO CÁI CŨ ĐỂ SỐNG CHO CÁI MỚI

Phải chăng tu và không tu có mâu thuẫn và loại trừ lẫn nhau, và mối tương quan được định nghĩa bằng cái chết? Có thể nói đây là một bạo lực ngọt ngào: giết chết cái chất trần tục trong con người mình, để cuối cùng được sinh ra trong con người tu: “Anh em hãy mặc lấy con người mới đã được Đức Kitô Phục Sinh biến đổi” - “Phàm ai ở trong Đức Kitô đều là thọ tạo mới. Cái cũ đã qua đi và cái mới đã có đây rồi” (2 Cor 5,17).    

Trong sự thay đổi đó, tinh thần theo Chúa Kitô là chủ đạo: thay đổi con tim, tâm thức, lối sống và cuộc sống. 

Luật của sự sống và sinh trưởng là thay đổi, và mỗi chặng đường sinh trưởng của con người đều được ghi dấu bằng những thay đổi quyết định. Và đó là tiến trình lâu dài của một công cuộc hợp tác đào tạo và tự đào tạo, vừa thần linh vừa nhân loại. 

Việc vấn tâm hay hồi tâm sẽ theo tiến trình này:

            - Chính Chúa cất tiếng gọi

            - Chị em đích thân đáp lại

            - Chị em cam kết theo chính Chúa Kitô

            - Chị em biến đổi cho phù hợp với đời sống ơn gọi

            - Chị em dấn thân phục vụ Chúa trong tha nhân qua việc khấn Dòng.           

Việc vấn tâm hay hồi tâm nghiêm túc sẽ dẫn tới hai kết quả này:

a.       Hoặc chị không có ơn gọi: chị nên đổi hướng sống trong bình an, đồng thời bước theo con đường Chúa mời gọi chị đi với can đảm và hạnh phúc.

b.      Hoặc chị có ơn gọi: chị tiếp tục đi tới với niềm vui tươi, hy vọng và hạnh phúc, mặc dù chị sẽ gặp thấy những khó khăn và đen tối trong cuộc sống lữ hành của chị.  

            Tuy nhiên, mặc dù chị tự kiểm một cách nghiêm túc, chị vẫn không thể tuyệt đối chắc chắn về ơn gọi của mình. Sự chấp thuận của Bề Trên và Hội Dòng sẽ hoàn tất chọn lựa này và làm cho chị an tâm. 

Nói cách khác, sự chọn lựa và quyết định với tự do nội tâm của chị (tòa trong) phải được xác lập và công nhận bởi thẩm quyền chiếu theo Hiếp pháp và nội qui của Dòng (tòa ngoài): Hội đồng lãnh đạo bỏ phiếu quyết định (biểu lộ sự kêu gọi của Chúa), có thể được trợ giúp bởi phiếu tham khảo (lượng định) của Cộng đoàn. 

Muốn cho việc hướng tới đời sống mới này thành công, chúng ta phải đặt mình trong tay Chúa. 

E. TÌNH HUYNH ĐỆ CỘNG ĐOÀN

            1. Tình Chị Em

            Chị em hẳn luôn ý thức rằng việc dấn thân tuyên khấn trong linh đạo và truyền thống Hội Dòng thực sự đưa chị em vào một gia đình thấm đậm tình người và tình Chúa, vừa nhân loại vừa thiêng liêng, trong mối tương quan của tình mẩu tử và tỉ muội.  

Nếu chị em ý thức đầy đủ về tình gia đình thiêng liêng của mình, chị em sẽ tìm mọi cách thích hợp để bảo vệ, phát triển và thăng tiến nó (xin xem lại chương “Sống triển nở đời sống cộng đoàn).    

            Tình chị em là

·        một sự đoàn kết bên nhau để cùng tiến bước,

·        một cuộc đối thoại thường xuyên trong cuộc sống đa nguyên đa diện,

·        một cuộc gặp gỡ cởi mở hơn cho cuộc hành trình đầy gian khó và nguy hiểm,

·        một sự có mặt khích lệ hay một nâng đỡ hỗ trợ tinh thần,

·        một lời vui, một tiếng cười thanh thỏa cùng chia sẻ tình thương dâng lên vời vợi,

·        một cái nhìn cảm thông khi vướng trở ngại, hay khi bị thất bại chua cay,

·        một cái “tôi khác” để mỗi người có dịp phản tỉnh nhìn lại bộ mặt của mình có khi đã hoen ố bụi đời,

·        một bạn đồng hành để con đường thập giá bớt nỗi đơn côi,

·        một Simong vác đỡ hay một Vêrônica lau mặt,

·        một cái gì khỏa lấp chỗ trống vắng tình thương sau tình yêu Thầy Chí Thánh,

·        một hiện diện và hiện thân của Thiên Chúa cao xa vô hình.

·        Và mỗi người đều sẽ cố gắng trở thành người chị em như thế cho các chị em khác. 

2. Chân dung người bạn 

“Một người bạn trung thành là một trợ lực mạnh mẽ, ai tìm được người bạn trung thành là tìm được kho báu. Một người bạn trung thành thật vô giá, không ai đo lường được giá trị của nó. Một người bạn trung thành là dầu thơm cho cuộc sống, chỉ những ai tôn kính Chúa mới tìm được. Ai tôn kính Chúa là những người bạn đích thực, vì người ta thế nào thì bạn của họ thế ấy’’ (Si.6:15-17).  

Tôi không thể mang lại giải pháp cho mọi vấn đề của cuộc sống, những nghi nan hay sợ hãi của bạn, nhưng tôi có thể lắng nghe bạn và cùng nhau chúng ta sẽ tìm ra câu trả lời. 

Tôi không thể thay đổi quá khứ của bạn với tất cả những nỗi khổ tâm và đau đớn, tôi cũng chẳng thể thay đổi được tương lai của bạn với tất cả những chuyện không nói trước được, nhưng tôi có thể có mặt ở đó, lúc bạn cần tôi chăm sóc. 

Tôi không thể giữ chân bạn cho khỏi trượt ngã, nhưng tôi chỉ có thể đưa tay ra cho bạn nắm lấy để bạn khỏi ngã. 

Những niềm vui, những chiến thắng, những thành công và hạnh phúc của bạn không phải là của tôi, nhưng tôi có thể chia sẻ trong tiếng cười của bạn. 

Những quyết định cuộc đời của bạn không phải là của tôi để tôi quyết định hay phê phán, tôi chỉ có thể trợ lực bạn, khích lệ bạn, và giúp đỡ bạn khi bạn yêu cầu. 

Tôi không thể ngăn cản bạn khỏi vấp ngã, nhưng tôi chỉ có thể cầu nguyện cho bạn, nói chuyện với bạn, và chờ đợi bạn. 

Tôi không thể đặt cho bạn những giới hạn mà tôi đã xác định, nhưng tôi có thể cống hiến cho bạn cơ hội để thay đổi, để lớn lên, và để là chính bạn. 

Tôi không thể giữ tim bạn khỏi dập vỡ và tổn thương, nhưng tôi có thể khóc với bạn và giúp bạn nhặt lên những mảnh vỡ và đặt chúng vào lại chỗ cũ. 

Tôi không thể nói với bạn bạn là ai, tôi chỉ có thể yêu thương bạn và là bạn của bạn. 

Đôi khi trong cuộc đời, bạn tìm gặp được một người bạn đặc biệt: Là ai đó làm thay đổi cuộc đời của bạn bằng cách là một phần của nó; là ai đó làm bạn cười không thôi được; là ai đó làm bạn tin rằng thực sự có điều tốt trong thế gian này; là ai đó thuyết phục được bạn rằng thực sự có một cánh cửa không khóa, chỉ đợi bạn mở nó ra.  

Trong mảnh đất của tình bạn, mỗi ngày hãy gieo vài hạt giống, những hạt giống bé nhỏ của tế nhị cho tất cả những ai bạn gặp trên đường đời. Một ngày kia sẽ có nhiều cành tỏa ra chung quanh, và bạn sẽ thực sự ngạc nhiên về niềm vui mà bạn đã tìm thấy, chỉ vì bạn được Ơn Trên giúp đỡ nhẫn nại vun trồng một cây hạnh phúc, một cây mà rễ của nó là tình yêu. 

Tôi không thể làm dịu nỗi đau lòng của bạn, cũng không thể cất đi đau khổ, nhưng hãy để tôi ở lại đây bên cạnh bạn, nắm tay bạn và cùng bạn bước đi ngày hôm nay. 

Tôi sẽ lắng nghe bạn khi bạn cần nói và lau khô nước mắt của bạn, tôi sẽ chia sẻ những nỗi lo âu của bạn khi chúng đến và giúp bạn đối mặt với những nỗi sợ hãi của bạn. 

Tôi đang có mặt đây và sẽ ở bên cạnh bạn, trên mỗi cánh đồi mà bạn phải trèo lên. Vậy bạn hãy nắm lấy tay tôi, chúng ta cùng đối mặt với thế giới và hãy sống trọn vẹn từng ngày hôm nay. 

Bạn không cô đơn đâu, tôi vẫn ở đây với bạn, tôi sẽ đi cùng bạn trên mọi nẻo đường, và khi nỗi buồn của bạn vơi đi, tôi sẽ giúp bạn học mĩm cười.  

Bạn của bạn luôn luôn có đó: thân ái, tế nhị và ân cần, nhạy cảm, thẳng thắn và thấu hiểu, hài hước, vui tính, an toàn và chân thật. 

Bạn của bạn luôn luôn có đó: đặc biệt, niềm nở, khích lệ và khôn ngoan, tín cẩn và hay giúp đỡ, tin tưởng, tha thứ, sẵn lòng và rạng rỡ. 

Bạn của bạn là một người độc đáo, khác với mọi người: quảng đại, duyên dáng, cởi mở, lạc quan, thận trọng, hạnh phúc, vui tươi, tán thưởng, nhiệt tình và quí như vàng. 

Tình bạn của chúng ta không phai mờ và chẳng bao giờ cằn cỗi đi. Bạn luôn luôn có mặt, tôi biết điều đó là thật, và tôi sẽ luôn luôn có mặt đây cho bạn. 

Bạn tốt khó tìm, nhưng là quà tặng sẽ còn mãi, giống như các tặng vật từ Trời Cao. Người bạn tốt là một trong muôn ức triệu, họ luôn luôn có đó để sẻ chia … Họ theo con đường đưa tới hạnh phúc của bạn, và luôn cùng bước đi với bạn trên mọi nẻo đường đời. 

Những người bạn tốt là những cuộc đời ăn khớp nhau, với niềm vui, tiếng cười và nước mắt; những cảm xúc quá thật để niềm tín thác được lớn lên qua dòng thời gian tháng năm đắp đổi. 

Những người bạn tốt khó tìm nhưng dễ ngưỡng mộ, và bạn là người bạn đó cho tôi, tôi chẳng còn tìm kiếm chi hơn nữa. 

Có một ánh sáng trong tối tăm, nó dẫn đưa tới chỗ có hy vọng cho người tuyệt vọng trong ân sủng cứu độ của Ngài. 

Lắm khi nhiệm vụ của bạn thật nhiều và bạn nghĩ có thể làm nhiều hơn, nhưng lắm khi con đường đầy gai chông sỏi đá và đồi núi cũng khó vượt qua nổi. 

Bạn hãy luôn nhớ rằng đồi núi phía trước không luôn luôn là từng bậc đều đặn, nhưng với niềm tin trong tim, bạn hãy vươn cao và trèo lên cho đến khi đạt được ước mơ. 

Không có gì thật sự giá trị trong đời lại không đáng vất vả để đạt được, nếu bạn có đủ can đảm để thử và có niềm tin để tin tưởng. 

Đức tin là một sức mạnh lớn hơn sự hiểu biết, quyền lực hay kỹ năng. Nhiều thất bại sẽ biến thành chiến thắng, nếu bạn tín thác vào thánh ý khôn ngoan của Chúa. 

Đức tin có thể chuyển núi dời non. Không có gì mà Chúa không làm được. Vậy bạn hãy khởi đầu ngày mới hôm nay với niềm tin trong lòng. 

Nắm chặt tay nhau có thể chỉ là một hành động quá ư đơn giản, nhưng lại là một cách biểu thị sự sẻ chia gắn bó với những người ta yêu thương. 

Thật tuyệt vời là sau những gì đã xảy ra, họ vẫn có thể lại nắm chặt tay nhau biểu hiệu tình yêu và lòng tận tụy với nhau. 

Đừng để những cái nắm tay như thế trở nên quá hiếm hoi, và hãy chuyển tải cho nhau sứ điệp đầy sức mạnh ấy: “Đôi ta như rắn liu điu, nước chảy mặc nước ta dìu lấy nhau.”

3. Tình bạn khác phái

Người sống đời độc thân thánh hiến có thể có tình bạn khác giới  không? Nếu Chúa Kitô, trong nhân tính của Ngài, đã làm bạn với phụ nữ để lôi kéo họ tới Thiên tính của Ngài, thì tình bạn của người độc thân thánh hiến giữa nam và nữ đã được Thiên Chúa phê chuẩn. Và Chúa Giêsu trở thành mẫu gương hoàn hảo của tình bạn khác giới của người sống đời độc thân thánh hiến.  

Mẫu gương sống động về tình bạn của Chúa Giêsu với phụ nữ có căn bản Thánh Kinh cho loại liên hệ này trong cuộc đời con người. Cha Felix M. Padimatham nói rằng Chúa Giêsu trở thành mẫu gương hoàn hảo của tình bạn khác tính luyến ái. Ngài cũng chỉ ra nhiều mẫu gương các Thánh và Chân Phước đã có loại tình bạn này trong cuộc đời các ngài, như:

·        thánh Hiêrônimô và bà quả phụ Paula,

·        thánh Gioan Kim Khẩu và nữ trợ tế Olympias,

·        thánh Phanxicô Assisi và thánh nữ Clara,

·        thánh nữ Catarina Siena và Chân Phước Raymon Capua,

·        thánh nữ Têrêsa Avila và thánh Gioan Thánh Giá, v.v…        

Và mẫu gương của Chúa Giêsu vẫn còn có giá trị cho những người theo Ngài, trong tất cả mọi chiều kích nhân bản và thiêng liêng của đời sống ơn gọi và sứ vụ.  

Rõ ràng, sự yếu đuối và những nguy hiểm đã không đe dọa Chúa Giêsu, nhưng có thể đe dọa những người nam và người nữ sống đời thánh hiến trong những liên hệ như vậy. Do đó, chúng ta phải biết cân nhắc các giới hạn cần thiết (x. Đào Tạo và Tự Đào Tạo Thiêng Liêng... tr. 291-300)  

Chị em đừng bao giờ quên rằng mọi thân xác đều mang giới tính và bất cứ tương quan nam nữ nào cũng có yếu tố phái tính (“trai khôn không ở với mạ, má khôn không ở với trưa”). Vì thế, quà tặng độc thân thánh hiến có thể bị nguy hiểm, nhất là trong quan hệ độc hữu, khi mà một người nữ đơn độc ở với một người nam đơn độc lâu giờ trong một nơi kín đáo cửa khóa chặt, mà không có bất cứ khoảng cách nào, cùng với những biên giới cần thiết về thể lý, tâm lý và thiêng liêng. 

Theo trình thuật sáng tạo, người độc thân thánh hiến không có sự quân bình tự nhiên của người sống đời đôi bạn, nên phải thiết lập cho được và sống thế quân bình siêu nhiên bằng đời sống cầu nguyện, mật thiết với Chúa, đời sống huynh đệ, tận tụy với sứ vụ, cảnh giác toàn bộ cách ứng xử và cảm xúc của mình, ý thức rằng mình “gìn giữ kho tàng ấy trong những chiếc bình sành” dễ vỡ (2 Cor 4,7).  

Sự thiếu quân bình trong đời sống và sứ vụ cộng với những khó khăn, thử thách đau khổ, yếu đuối nhân loại bên trong và cám dỗ lôi cuốn từ bên ngoài, người ta có khi đi tìm lại sự quân bình tự nhiên kia mà vấp ngã. Kinh nghiệm cho thấy những người tu sĩ bỏ đời sống cầu nguyện, thiếu tình huynh đệ cộng đoàn và bỏ bê bổn phận sớm muộn gì cũng sẽ sa ngã, bỏ cuộc. Vì thế, tu sĩ được thúc đẩy thiết lập mối tương quan trưởng thành, lành mạnh, hài hòa và quân bình giữa cả hai phái. 

4. Tương quan giữa nữ tu với linh mục    

Chị em hãy giữ trong trí óc và tâm hồn sự lệ thuộc của chính mình, cũng như sự lệ thuộc của linh mục đối với Chúa, và luôn ý thức phải “trả cho Thiên Chúa những gì thuộc về Thiên Chúa” (x. Mc 12:17):        Cái đã cho rồi, không lấy lại mà cho người khác! 

Nhưng do lý tưởng và môi trường mục vụ chung, người ta có thể có mối tương quan thân mật, bằng sự cởi mở tâm sự cho nhau, bằng sự hiểu nhau và chia sẻ sứ vụ, những thành công cũng như những khó khăn, tin tưởng nhau, cảm thông với nhau, dịu dàng giúp đỡ và ân cần chăm sóc. Cũng trong tinh thần này, chúng ta cũng phải kể đến những người nam cùng làm việc tông đồ với chị em trong các đoàn hội, hay ân nhân, bảo trợ, mạnh thường quân…Không ai cho không cái gì cả, và nhiều khi nhận ân bị đòi trả bằng tình! “Em ngồi em kể công ơn, bạc vàng nặng ít nghĩa nhơn nặng nhiều”    

Chính từ sự thân mật này, một cảm nhận “yêu thương” có thể dễ dàng phát sinh và phát triển, rồi tình trạng có thể trở nên nguy hiểm hơn, với những hình thức tiêu cực, và tai tiếng thị phi được dần dần bộc lộ ra: muốn chiếm hữu, ghen tuông, và muốn độc quyền. 

Chị em nhớ rằng linh mục và nữ tu vẫn không thôi là những con người, nên đừng quên lời khuyên của Chúa Giêsu (x. Mt 26:41; Mc 14:38): là những con người thánh hiến, nhưng họ vẫn không thôi là những con người với những yếu đuối nhân loại. 

Thánh Phaolô cũng nói: “Có ai trong anh chị em yếu đuối mà tôi không cảm thấy yếu đuối, có ai trong anh chị em sa ngã mà tôi không cảm thấy như thiêu như đốt?” 

Chị em cũng phải ý thức rằng sự thân mật là nhu cầu của con người, nhưng sự thân mật trong đời sống độc thân thánh hiến không cần (và không được) biểu lộ có tính cách phái tính, cùng với hoạt động truyền sinh.    

Sự thân mật độc thân thánh hiến có mức độ thích hợp của nó. Chính mức độ riêng biệt này cung ứng cho chúng ta đủ tự do để yêu thương mọi người và không vượt qua các giới hạn.

Chúng ta khuôn đúc mối tương quan nam nữ của mình theo gương mẫu đời sống của Chúa Ba Ngôi và kêu xin ơn can đảm để thăng tiến, vượt thắng và thánh hoá “tiếng gọi nhân loại” này, ngõ hầu giúp nhau sống và chu toàn những gì đã cam kết trong ơn gọi và sứ vụ của mỗi người: “Lòng như lòng can đảm dẹp mến thương, vâng tiếng Chúa quyết giúp nhau sống cho tròn sứ mệnh” 

Chúng ta phải biết tôn trọng nơi chốn, thời gian, thời lượng, khoảng cách và giới hạn cần thiết, về thể lý cũng như tâm lý, của các cuộc gặp gỡ, vì tình yêu không có tuổi và giờ hẹn. 

Chúng ta phải rõ ràng và thành thật với chính mình, với người khác và với Chúa, bởi vì sự “hẹn hò yêu thương ấy” thường được che giấu dưới những cớ hợp pháp và chính đáng của các công tác và hoạt động mục vụ, nhưng “thực tế đó là những nghiêng chiều nguy hiểm của con tim.” Và chớ gì đừng vì thế mà “dại dột” can thiệp giữ lại hay cản trở việc thuyên chuyển chính đáng của Nhà Dòng. 

Tâm lý chung của những người cầu toàn khi phát hiện một lầm lỗi là muốn làm om sòm lên. Nhưng liệu sự om sòm ấy có làm thay đổi tình hình hay nó lại càng "vạch áo cho ngýời xem lưng“ về một cộng đoàn thiếu yêu thương. Trước hết nên bình tĩnh, nhìn lại chính mình, nhìn lại cuộc sống mà mình đang có để tìm ra nguyên nhân. Sự nín nhịn “đóng cửa dạy nhau” để xây dựng cộng đoàn yêu thương là điều rất nên làm.  

Ai cũng có thể bị vi rút tình cảm và tình dục tấn công. Vấn đề là làm sao có sức đề kháng tốt để tránh được bệnh. Sức đề kháng đó nằm ở chính tình thương nhau của cộng đoàn.     

Việc tạo nên những cung bậc trong tình huynh đệ cộng đoàn cũng không cần quá cầu kỳ, thậm chí nó chỉ là những việc đơn giản nhất như những cuộc nói chuyện tâm sự về sức khoẻ, học hành, gia đình, quan hệ, những nỗi ưu tư…, những lời hỏi han, chia sẻ đúng lúc. 

Những điều xem ra nhỏ nhoi ấy đôi khi lại có sức mạnh rất lớn trong việc gìn giữ và bảo vệ nhau khỏi những điều sai lỗi. Hãy coi lầm lỗi như một lúc con tàu bị trật bánh ra khỏi đường ray. Nếu khéo léo điều chỉnh, bánh xe sẽ lại trở về đúng vị trí để con tàu tiếp tục vận hành. Người lầm lỗi được thương yêu, tha thứ và nâng đỡ sẽ đủ nghị lực kiên trì biến đổi nên tốt, nhờ ơn Chúa. 

Trong hoàn cảnh tế nhị này, sự hiện diện yêu thương và đời sống huynh đệ cộng đoàn sẽ mang lại sự trợ giúp cần thiết. Sự nhạy bén và trách nhiệm của bề trên cộng đoàn đóng vai trò “thiên thần giữ mình” rất quan trọng. Khi đã cố gắng mọi cách cùng với các chị em trong cộng đoàn mà không kết quả thì phải sớm trình Bề Trên Dòng can thiệp. Nhiều trường hợp em út phải vấp ngã đau lòng vì sự tắc trách của những người trách nhiệm! 

Bởi tình bạn dâng hiến và nhiệt tình, mỗi người trong cộng đoàn có thể là sự trợ giúp lớn lao cho người khác, trong việc soi sáng và khích lệ lẫn nhau, khi phải chịu đựng những hoàn cảnh nguy hại khác nhau, cũng như sự lây nhiễm một thứ tinh thần thế tục nào đó. 

Chúng ta không được quên nhu cầu cầu nguyện, khổ chế, ăn chay và chiêm niệm: “Chúng ta không thể đi theo con đường khó nếu không có một thứ khổ chế đặc biệt.” 

Nhưng trên hết, chúng ta phải tin rằng tình yêu của Thiên Chúa lớn hơn tình yêu nhân loại (một tình yêu lớn hơn vượt thắng tình yêu nhỏ hơn và những hấp dẫn của nó); rằng chỉ có Thiên Chúa mới làm thoả mãn được con tim chúng ta và chúng ta thế nào thì Ngài yêu thương chúng ta thế ấy, và Ngài yêu thương chúng ta cho đến tận cùng; và rằng chúng ta đã “chọn phần tốt hơn” rồi. 

Chúa luôn hiện diện trong cuộc đời chúng ta như là “người canh giữ”, như là “bóng mát” của cột mây ban ngày và cột lửa ban đêm để soi đường trong sa mạc, và như là “cánh tay uy quyền” của người bảo vệ. 

Thiên Chúa có thể rút ra điều tốt từ điều xấu, biến đổi điều xấu thành điuều tốt. Khủng hoảng không nhất thiết là một dấu hiệu tiêu cực, nhưng đúng hơn, nó phải được coi là một thách đố để tái định hướng đời sống và sứ vụ tu sĩ.  

Nó mời gọi một đời sống thiêng liêng cá nhân sâu xa hơn, can đảm đối mặt và chấp nhận các thực tại của bản thân, dù có khi đau đớn và xấu hổ (vì yếu đuối, vì lầm lỡ). Cần phải làm mới lại các liên hệ lành mạnh để được nâng đỡ và cảm thông hơn.                                  

 

VỀ MỤC LỤC
NGƯỜI CAO TUỔI VỚI ĐỜI SỐNG GIA ĐÌNH

 

Trong chu kỳ của cuộc sống, người cao niên thường trở lại giai đoạn phải lệ thuộc vào gia đình như đã lệ thuộc vào cha mẹ trong tuổi ấu thơ. Đó là vì khi tới tuổi cao, khả năng làm việc của họ giảm bớt, lại có thể nẩy sinh ra một số bệnh liên hệ tới tuổi già, khiến họ mất khả năng tự túc, tự tồn, thậm chí mất cả khả năng hiểu biết.

Đây là một vấn đề mà các xã hội Đông và Tây có giải pháp khác nhau mặc dầu có chung một mục tiêu là giúp đỡ người già trong giai đạn khó khăn nhất cuả đời họ.

Xin lần lượt xét về tình trạng người già trong hai xã hội này. 

Xã hội Tây Phương

Tại các xã hội Tây phương, điạ vị người già tùy thuộc vào khả năng kiểm soát tài chánh. Khi có khả năng này, người già không lo bị sống cô đơn với các chứng bệnh kinh niên. Họ có thể thuê mướn những chuyên viên y tế để chăm sóc tại gia hoặc lựa chọn lối sống tập thể trong các cơ sở chuyên chăm sóc người già với đầy đủ tiện nghi y tế, vật chất.

Nhưng đó cũng là thiểu số. Còn phần đông người già với hạn hẹp tài chánh phải nhờ vả hoặc gia đình thân thích hoặc các cơ quan chính phủ, cơ sở cộng đồng, các tổ chức từ thiện.  

Tại các quốc gia kỹ nghệ cao, như Hoa kỳ chẳng hạn, nhu cầu công ăn việc làm đã khiến gia đình phân cách, trái ngược với tình trạng các gia đình sinh sống gần gũi  nhau trong các trang trại lớn vào đầu thế kỷ 20. Do đó, đa số người già thường sống cô đơn trong ngôi  nhà mà họ đã tạo lập từ thuở trung niên. Con cái họ thường là ở xa, có khi cách cả hàng ngàn cây số.

Thêm vào đó, đa số người già ở đây đều trải qua nhiều cuộc hôn nhân trong đời, rất ít người sống cùng với người phối ngẫu ban đầu. Con cái nhiều dòng, con ông con bà, con chúng ta, khó có sự đoàn kết trong tình máu mủ ruột thịt.

Nhận thức được sự khó khăn này, chính phủ  Mỹ đã lập ra chương trình An Sinh Xã Hội, chương trình chăm sóc y tế miễn phí cho người già từ 65 tuổi sắp lên ( medicare ). Chính phủ còn trợ cấp cho các chương trình giúp đỡ người già do các cộng đồng địa phương thực hiện. Các cộng đồng này điều hành nhiều trung tâm cao niên, cung cấp bữa ăn trưa với giá rẻ cho người già, cung cấp vài dịch vụ y tế căn bản như khám sức khoẻ, đo huyết áp, khám mắt, thử đường, cholesterol trong máu. Nhiều trung tâm còn tổ chức các cuộc giải trí lành mạnh, như thể dục thể thao, đi bộ, bơi lội, đi xe đạp v.v.

Các trung tâm cao niên  này đã tạo ra một môi trường làm vơi bớt nỗi cô đơn của họ.Các bữa cơm tập thể cũng cung cấp cho họ những chất dinh dưỡng căn bản hàng ngày.

Một cuộc khảo sát về ích lợi của bữa ăn tập thể đối với người cao niên cho thấy họ có khả năng hấp thụ nhiều chất dinh dưỡng hơn người già dùng bữa ăn cô độc ở nhà. Có thể đây cũng là một yếu tố tâm lý chứng minh người già cần một môi trường gia đình hay đoàn thể để tâm hồn được ổn định, đưa đến sự cải thiện các chức năng cơ thể.

Tóm lại, ở Mỹ người già có thể vừa trông cậy vào sự giúp đỡ của gia đình vừa dựa vào sự trợ giúp cuả chính phủ và cộng đồng xã hội.

Người già ở Việt Nam

Ở các xã hội Đông phương như Việt Nam chẳng hạn, người già căn bản đều nương tựa vào gia đình trong giai đoạn chót của cuộc đời. Xã hội Việt Nam chưa có những chương trình giúp đỡ người già hoặc có những trung tâm cao niên có tổ chức như ở Mỹ.

May mắn thay, người Việt Nam có truyền thống hiếu thảo  đối với ông bà cha mẹ. Người Việt nào cũng xem mình có bổn phận đền đáp công lao sinh thành dưỡng dục cuả cha mẹ .

“Công cha như nuí Thái Sơn,

Nghiã mẹ như nước trong nguồn chẩy ra”,

 là điều tâm niệm của con người Việt.

Do truyền thống tốt đẹp đó mà gia đình trở thành đơn vị gốc của xã hội. Đơn vị đó tồn tại qua nhiều cuộc xáo trộn kinh tế, chính trị của xã hội. Người già có một chỗ dựa nào đó trong cái đơn vị gốc này. Những người thiếu may mắn, không con cái, thì vẫn có thể nhờ vả bà con nội ngoại.

Cũng do truyền thống tốt đẹp cuả dân tộc mà cuộc sống chung giữa người già và người trẻ dưới mái ấm của gia đình thường rất hài hòa, ổn định. Trong xã hội Tây phương sự sống chung này không nhiều vì mỗi bên đều muốn có sự riêng tư.

Người già Việt viễn cư

Đối với người Việt định cư tại nước ngoài, quý vị cao niên vẫn còn thừa hưởng cái truyền thống hiếu thảo của dân tộc. Các cụ vẫn còn được con cái phụng dưỡng như hồi còn ở bên nhà. Tuy đã có các chương trình trợ cấp của chính phủ, các cụ vẫn không chọn lối sống cô độc, lẻ loi.

Ngoại trừ khi quá yếu đau, sự hiện diện của các cụ còn là một lợi ích cho con, đặc biệt cho cặp vợ chồng trẻ.

Khi cả hai vợ chồng đều đi làm thì các cụ trở thành quản gia cho họ. Khi họ có con nhỏ, các cụ kiêm luôn việc giữ trẻ, đôi khi phụ trách cả công việc bếp núc. Các cụ vui vẻ làm những công việc đó cho con cái, không than phiền.

Sự xung khắc do khoảng cách tuổi tác ít khi xẩy ra, chỉ trừ một số rất nhỏ trong đó hoặc dâu, rể đã tiêm nhiễm nặng chủ nghiã cá nhân Âu Mỹ. Trong trường hợp này, các cụ tuy bị khổ tâm không ít, nhưng vì thương cháu nên không nỡ đoạn tuyệt với dâu rể. Sự  khổ tâm, chịu đựng này có thể đưa đến những hậu quả tâm thần trầm trọng.  

Một số các cụ cảm thấy cô đơn vì không có bạn đồng trang lứa để hàn huyên, trao đổi. Các cụ không thích đến các trung tâm cao niên để giải trí như người địa phương, đôi khi vì thiếu phương tiện di chuyển. Mà các trung tâm này cũng chỉ có ở các thành phố có đông người mình định cư, và số người tham dự vẫn ít oi. 

Nói tóm lại, môi trường thích hợp nhất đối với các cụ vẫn là gia đình trong đó các cụ sống thoải mái giữa đông đảo con cháu. Tâm lý chung là các cụ thường chọn ở với con trai vì theo quan niệm Đông phương, dâu là con mà rể là khách, các cụ thà nhờ vả nương tựa con trai và con dâu hơn.

Quan niệm này khác với quan niệm Tây phương, đặc biệt là người Mỹ. Họ cho rằng con trai chỉ là con cho tới khi nó lấy vợ, còn con gái thì là con của họ suốt đời ( A son is a son until he gets a wife, a daughter is a daughter all her life ). Quả thật khi người con trai Mỹ lấy vợ thì đương sự đặt trọng tâm sinh hoạt vào nhà vợ, tách khỏi cha mẹ trong nhiều khía cạnh cuả cuộc sống.

Nhưng dù ở với con nào, các cu ta vẫn được sống thoải mái hơn các cụ Mỹ cùng hoàn cảnh. Lý do là dù hội nhập vào xã hội Mỹ, người mình vẫn còn giữ truyền thống tốt đối cha mẹ.

Sống dưới mái ấm đại gia đình, các cụ ta hưởng được sự chăm sóc cả vật chất lẫn tinh thần. Yếu tố tinh thần lại có ảnh hưởng không ít tới tới sức khoẻ thể xác của  các cụ. Cho nên truyền thống phụng dưỡng cha mẹ không những tốt đẹp về phương diện văn hoá mà còn tốt về phương diện kinh tế bằng cách giảm thiểu tốn kém về các dịch vụ y tế dành cho các cụ.

Trong các gia đình Việt Nam còn giữ được nền nếp cổ truyền, các cụ do tuổi tác được con cháu trọng nể, đương nhiên trở thành những nhân vật tiêu biểu cho trật tự và tình đoàn kết của các thành phần trong gia đình. Các cụ giữ vai trò xúc tác cho mọi hoạt động của các con cháu nhắm thăng tiến, hướng thượng và xây dựng hạnh phúc cho mọi người. Vai trò của các cụ trong việc tiếp tay giáo dục trẻ con không bị hạn chế, chống đối như các cụ già trong xã hội Âu Mỹ.

Tuy nhiên, tình trạng này trong tương lai gần sẽ có một vài biến chuyển. Đám trẻ được trường học dạy cho lối suy tư và hành động tự lập đối với gia đình thường trở nên ương ngạnh. Chúng xem các cụ thuộc thế hệ đã qua, không phù hợp với lý tưởng tự do cuả chúng.

Cho nên nếu các cụ không cởi mở mà quá khắt khe theo lối sống cổ truyền thì e rằng sớm muộn cũng mất đi mối quan hệ tình cảm với lũ trẻ.

Các cụ cần thích nghi với hoàn cảnh mới, với sự hội nhập vào xã hội mới, tìm hiểu tâm tư, ước mơ,  lối suy nghĩ của tuổi trẻ,  sẵn sàng chấp nhận những khác biệt, đặt trọng tâm vào tình thương. Có thế các cụ mới hòa đồng được với sự đổi đời do hoàn cảnh tạo nên.

Mà có hòa đồng, thích nghi  thì các cụ mới bảo vệ được sức khoẻ tâm thân,  nắm được bí quyết của tiến trình an hưởng tuổi vàng.

Nguyễn Ý-ĐỨC M.D.

Texas-Hoa Kỳ. www.nguyenyduc.com

VỀ MỤC LỤC
KIÊN NHẪN   Chuyện phiếm của Gã Siêu

 

Sống trên đời, chẳng phải lúc nào sự may mắn cũng mỉm cười với chúng ta. Trái lại, rất nhiều khi chúng ta cũng đã thất bại ê chề, cũng đã bị đời đá lên đá xuống, thâm tím mặt mày, toạc đầu xẻ tai, cũng  như đã nếm thử tình trạng ba chìm bảy nổi chín lênh đênh.

Vì thế, những bước chân thăng trầm và những cảnh lên voi xuống chó, âu cũng chỉ là chuyện bình thường của số kiếp mà thôi.

Tuy nhiên, cuối cùng sự thành công bao giờ cũng được dành cho những người bền lòng chịu đựng, vững tâm theo đuổi, hay nói cách khác những người kiên nhẫn sẽ gặt hái được những thành quả tốt đẹp nhất.

Chẳng thế mà người xưa đã có nhiều lời khuyên nhủ :

- Hữu chí cánh thành, nghĩa là có chí thì nên.

- Người có chí ắt phải nên,

  Nhà có nền, ắt phải vững.

- Có công mài sắt, có ngày nên kim.

- Nước chảy đá mòn.

Nói tới chuyện “nước chảy đá mòn”, gã xin kể lại một sự việc như sau :

Số là có một dạo gã bị đau lưng. Lên Saigon, đi khám tại trung tâm Hòa Hảo. Bác sĩ phát hiện ra mỗi bên thận đều có một viên sỏi nhỏ.

Gã bèn hỏi :

- Vậy phải xử lý những viên sỏi này như thế nào ? Nên mổ hay nên bắn ?

Ông bác sĩ  chẩn đoán liền trả lời :

- Vì những viên sỏi này còn nhỏ, nên chẳng cần phải mổ hay bắn chi cả, chỉ cần anh nhớ và thực hiện mấy điều sau đây :

Thứ nhất là năng vận động tay chân.

Thứ hai là phải dùng thuốc đúng liều lượng đã chỉ định.

Thứ ba là hãy sống lạc quan, yêu đời và mỉm cười luôn.

Thứ tư là nên uống nhiều nước mỗi ngày, vì nước chảy đá mòn kia mà.

Và đã xảy ra đúng như vậy. Sau một năm thực hiện bốn lời khuyên trên đây, khi tái khám, thì những viên sỏi nhỏ không còn nữa, đã “mòn” mất tiêu và gã cũng hết bị chứng đau lưng hành hạ.

Nhân vì sự ấy, gã xin bàn về sự kiên nhẫn dưới một vài góc độ trong cuộc sống.

 

Trước hết là về phương diện quốc gia và xã hội

Trong cuốn sách lịch sử, hầu như dân tộc nào cũng có những trang đen tối. Đó là những lúc đất nước bị xâm lăng và chiếm đóng, còn đồng bào của mình thì bị sống dưới ách nô lệ và làm thân trâu ngựa cho bọn thực dân và đế quốc.

Thế nhưng, không phải cứ đứng lên phất cờ khởi nghĩa là có ngay sự tự do và nền độc lập. Trái lại, phải kiên trì chiến đấu, phải đổ ra biết bao nhiêu xương máu mới dành được chủ quyền và mới có được những ngày tươi sáng. 

Một mẫu gương cho sự kiên nhẫn đấu tranh vì quyền lợi của quê hương, đó là mẫu gương của ông Gandhi bên Ấn Độ.

Ông vừa là một triết gia, vừa là một nhà hoạt động trong phong trào giải phóng dân tộc Ấn Độ, vừa là một người sáng lập ra hệ thống tư tưởng và sách lược của chủ nghĩa Gandhi.

Sau một thời gian sống ở Nam Phi, năm 1915 ông trở về nước và lãnh đạo  đảng Quốc Đại, tham gia những cuộc đàm phán, đòi thực dân Anh phải trao trả nền độc lập cho Ấn Độ.

Là người yêu nước và có một nếp sống khổ hạnh, ông đã đi khắp nước để tuyên truyền và giải thích về nhiệm vụ đấu tranh dành độc lập bằng chính sách bất bạo động.

Bị chính phủ thực dân Anh đàn áp nhiều lần, nhưng ông lại được dân chúng hết lòng yêu thương và kính trọng.

Chủ nghĩa Gandhi là một hệ thống tư tưởng yêu nước, là cương lãnh cho việc đấu tranh giải phóng dân tộc. Một mặt ông kêu gọi sự đoàn kết các giai cấp và các tôn giáo. Một mặt ông kiên trì chống lại sự cai trị của thực dân bằng phương pháp bất bạo động. Phương pháp này bao gồm :

Thứ nhất là không phục tùng : chẳng hạn như không tuân thủ những luật lệ do chính phủ  ban hành, không đóng thuế cho nhà nước…

Thứ hai là không hợp tác : chẳng hạn như không làm việc cho chính phủ, không dùng vải vóc của nước ngoài, đồng thời cố gắng khôi phục lại nghề dệt thủ công trong nước, để tự túc về chuyện may mặc…

Chính sách bất bạo động này có một nguồn gốc sâu xa trong quan niệm về “cấm sát sinh”, cũng như trong quan niện về “từ bi hỉ xả” của Ấn Độ giáo và Phật giáo.

Cuối cùng sau nhiều năm tháng miệt mài đấu tranh, ông đã dành lại được sự tự do và nền độc lập cho đất nước Ấn Độ.

Cách đây hai mươi năm, tại nơi gã đang ở cũng đã xảy ra một chuyện “kiên trì đấu tranh” cho phần đất đồng bào đang cắm dùi.

Số là bấy giờ là thời còn bao cấp. Mấy ông chính quyền xã hống hách như những ông trời con, phán sao nên vậy. Mấy ông bảo :

- Cây đay, cây bô là cây…chiến lược, làm cho đất nước này phất lên và trở thành giàu mạnh.

Thế là nhà nhà đều phải răm rắp vâng theo, ra sức trồng đay trồng bô. Muốn lấy tơ, đay bô phải được ngâm. Đay bô ngâm đã khiến cho dòng sông nước chảy vừa đen lại vừa thối, chẳng khác gì nước cống rãnh ở thành phố. Nhưng dân chúng cũng vẫn phải cắn răng chịu đựng.

Thậm chí mấy “ông kẹ của xã” còn cướp đất của đồng bào để lập nên công trình đay bô. Thế nhưng, công trình đay bô này lại bị chính mấy ông “kẹ” ấy rút ruột. Phân thay vì bón cho cây, thì lại được tuồn ra ngoài chợ đen bán cho bàn dân thiên hạ, nên chỉ trong vòng một thời gian ngắn, công trình bị thua lỗ và sụp đổ.

Khi công trình bị sụp đổ, thay vì trả đất lại cho đồng bào, mấy ông “kẹ” này lại thậm thụt mang bán đi để chia tiền với nhau. Đồng bào vác đơn đi kiện. Đi từ địa phương lên tới trung ương tận Hà Nội, rồi trung ương ngoài Hà Nội lại chuyển về địa phương để….”ngâm kíu”.  Con kiến mày kiện củ khoai, vỏi vòi voi qua bao nhiêu ngày tháng, tưởng chừng như “dạ tràng xe cát biển Đông, nhọc nhằn mà chẳng nên công cán gì”.

Sở dĩ như vậy là vì mấy ông kẹ này đã mua đứt các quan, cũng như các phương tiện truyền thông như báo chí, đài phát thanh và truyền hình từ huyện cho đến tỉnh.

Cuối cùng đành phải áp dụng chính sách bất bạo động, nghĩa là một số ông già bà cả và những gia đình thương binh liệt sĩ…”có công với cách mạng”, kéo nhau lên sở nông nghiệp tỉnh, biểu tình ngồi lì…lúc bấy giờ địa phương mới chịu nhả đất ra mà trả cho đồng bào.

 

Tiếp đến là về phương diện bản thân và cá nhân. 

Về phương diện này, gã xin bàn tới hai điểm :

 

Điểm thứ nhất, đó là việc sửa đổi bản thân. 

Kinh nghiệm cho thấy :

- Nhân vô thập toàn. Chẳng ai là người hoàn toàn cả. Hay nói cách khác, ai cũng có những sai lỗi khuyết điểm của mình.

Thế nhưng, việc sửa đổi một sai lỗi, việc uốn nắn một khuyết điểm lại không phải là chuyện dễ dàng, một sáng một chiều mà từ thằng quỷ nghiễm nhiên trở nên ông thánh. Rất nhiều lần gã đã quyết tâm từ bỏ tật xấu này, khử trừ thói hư kia, nhưng rồi quyết tâm ấy chẳng kéo dài được bao lâu, quá lắm là ba bảy hai mươi mốt ngày, để rồi cuối cùng mèo vẫn hoàn mèo, chó đen vẫn giữ mực, và gã vẫn chứng nào tật ấy mà thôi.

Tamerlan là một vị tướng đánh đâu thua nấy. Đánh lớn thua lớn, đánh nhỏ thua nhỏ và càng đánh lại càng thua. Trong một phiên họp với các sĩ quan chỉ huy để rút ưu khuyết điểm, ông lơ đãng nhìn ra ngoài và thấy một con kiến đang bò lên đỉnh lều. Bò lên gần tới nơi thì bị tụt xuống, bị tụt xuống rồi lại cố bò lên. Cứ thế, cứ thế đến lần thứ năm con kiến mới tới được đỉnh lều. Như “ngộ” ra sự thật, ông tuyên bố với các sĩ quan chỉ huy :

- Đánh, đánh mãi cho tới lúc nào thắng mới thôi.

Và rồi cuối cùng đoàn quân của ông đã chiến thắng vinh quang.

Cũng trong chiều hướng ấy, một người đã sửa mình bằng cách mỗi khi làm một việc tốt thì bỏ một hạt đậu trắng vào trong chiếc lọ, còn mỗi khi làm một việc xấu thì bỏ một hạt đậu đen cũng vào trong chiếc lọ ấy. Ban tối ông đổ ra và đếm. Lúc đầu toàn đậu đen. Rồi sau đó đậu đen giảm dần và đậu trắng tăn lên. Cho tới một ngày trong lọ chỉ còn toàn đậu trắng và ông đã trở nên một con người đạo đức tốt lành.

Người khác đã chừa bỏ được tật nghiện rượu của mình bằng cách trước khi ngồi nhậu thì nhỏ một giọt nến vào chiếc ly uống rượu. Cứ thế ngày này qua ngày khác, sau một thời gian, chiếc ly của ông cũng đầy nến và ông không còn là một kẻ nghiện ngập nữa.

 

Điểm thứ hai, đó là công việc làm ăn của cá nhân.

Các cụ ta ngày xưa đã từng khuyên nhủ :

-Năng nhặt thì chặt bị.

- Kiến tha lâu cũng đầy tổ.

Gã từng thấy có những bà mẹ chắt chiu nhặt từng đồng cắc, kiên nhẫn với nghề buôn thúng bán mẹt, buôn tần bán tảo…thế mà cũng nuôi dạy được những người con tốt nghiệp đại học, ra đời với mảnh bằng bác sĩ, kỹ sư…trong khi đó nhiều người lại muốn “bốc hốt” làm giàu một cách mau chóng, làm giàu bằng bất cứ phương thế nào, kể cả những phương thế bất công và bất chính, nên đã kết thúc đời mình bằng chuyện vô nhà đá, nằm bóc lịch.

Ngoài ra các cụ ta còn nhắc nhở :

- Hãy cho bền chí câu cua,

  Dầu ai câu trạch, câu rùa mặc ai.

- Chớ thấy sóng cả mà ngã tay chèo.

- Chớ thấy sóng cả mà lo,

  Sóng thời mặc sóng, chèo cho có chừng.

Sách “Cổ Học Tinh Hoa” kể lại như sau :

Nước Trịnh có người học nghề làm dù che mưa, ba năm mới thành nghề. Trời đại hán, không ai dùng đến dù, anh ta bèn bỏ nghề làm dù, đi học nghề làm gầu tát nước.

Lại học ba năm mới thành nghề làm gầu, thì trời mưa luôn mãi, không ai dùng đến gầu. Bấy giờ anh ta lại quay về nghề làm dù như trước.

Không bao lâu, trong nước có giặc, dân gian nhiều người phải đi lính, mặc đồ nhung phục, không cần đến dù, anh ta xoay ra nghề đúc binh khí thì đã già quách mất rồi.

Úc Tử Ly thấy anh, thương tình nên nói rằng :

- Than ôi ! Bác chẳng đã già đời mất rồi ư ! Già hay trẻ không phải là tự người, mà là tự trời, điều ấy cố nhiên. Nhưng nghề nghiệp thành hay bại, dù lỡ thời không gặp dịp, cũng không nên đổ cả cho trời, tất có mình ở trong.

Ngày xưa nước Việt có một người làm ruộng, cấy lúa chiêm ba năm đều hại vì lụt cả. Có kẻ bảo anh ta nên tháo nước mà cấy lúa mùa. Anh ta không nghe, cứ cấy lúa chiêm như trước. Năm ấy nắng to, mà nắng luôn ba năm, vụ chiêm nào cũng trúng, thành ra anh ta kéo lại hòa cả mấy năm mất mùa trước. Cho nên có câu rằng :

- Trời đại hạn, nghĩ  đến sắm thuyền,

  Trời nồng nực, nghĩ  đến sắm áo bông.

Đó là một câu thiên hạ nói rất phải. Tác  giả còn thêm một lời bàn như sau :

- Người có gan, (người kiên trì), dù cho lỡ thời cũng cứ vững dạ mà giữ lấy nghề. Vì nghề chắc đã thành, thì tất cũng có chốn dụng, chẳng chóng thì chầy, chẳng nhiều thì ít. Chớ cứ nay làm nghề này, mai xoay nghề khác, như hòn đá lăn mãi không bao giờ mọc rêu, thì chỉ nhọc xác, già người mà vẫn không ăn thua gì cả.

 

Sau cùng là về phương diện gia đình và tình yêu. 

Như trên, gã đã xác quyết :

- Nhân vô thập toàn. Chẳng ai là người hoàn toàn cả. Hay nói cách khác, ai cũng có những sai lỗi khuyết điểm của mình.

Vì thế đi tìm một người tình, một người chồng hay một người vợ lý tưởng là một việc làm luống công vô ích, có năm mơ cũng chẳng thấy được, đơn giản chỉ vì người tình ấy, người chồng ấy hay người vợ ấy không hề tồn tại trong cuộc sống này.

Vì vậy, một khi đã chọn lựa thì cũng phải chấp nhận. Chấp nhận những ưu điểm cũng như những khuyết điểm. Chấp nhận những sở trường cũng như những sở đoản. Chấp nhận những tính tốt cũng như những thói hư của người mình yêu.

Với những tính tốt, mình giúp nhau phát triển tới một mức độ cao hơn. Với những thói hư, mình giúp nhau uốn nắn sửa đổi.

Sau đây, gã xin giới thiệu một vài cách thức kiên trì đấu tranh của các chị vợ chống lại những tật xấu của các anh chồng và đã  thành công mỹ mãn. Những độc chiêu “giữ chồng” này, gã trích từ một bài viết trên báo Phụ nữ Chủ nhật, số 9 ra ngay1 tháng 3 năm 2007.

 

Đối với những anh chồng thích…nhậu

Thú vui đầu tiên mà nhiều bậc tu mi nam tử ưa thích, đó là chén thù chén tạc, chén chú chén anh. Sau giờ làm việc, anh chồng thường hay nhậu lai rai với bè bạn có khi đến hai ba giờ sáng. Về đến nhà, anh gọi vợ con dậy tâm sự cho vui. Chị vợ cho biết ;

- Anh yêu vợ thương con, lo cho gia đình. Khi say, anh không quậy phá, mà chỉ thích kể chuyện vui. Nhưng vui sao nổi khi bị gọi dậy vào lúc tờ mờ sáng, mẹ con tôi cười như mếu.

Sau nhiều lần thấy chồng về nhà trong tình trạng xiêu vẹo, chị quyết định đến quán nhậu…ngồi chờ. Kỷ lục “ghi nét” mà bạn bè ghi nhận là từ mười hai giờ trưa đến mười hai giờ đêm. Để cho đỡ buồn, thoạt đầu chị chỉ muốn làm “dũng sĩ phá mồi”, sau thấy người mình ngày càng tròn trịa, chị chuyển sang uống bia để…đẹp da. Chồng làm mười ly, thì vợ cũng làm được một ly. Bên kia hò hét “Dzô, dzô”, thì bên này cũng nâng ly uống cạn.

Được một thời gian anh bỏ nhậu, nguyên nhân theo chị có lẽ anh sợ chị cũng biến thành…bợm nhậu chăng ?

 

Đối với những anh chồng mê…bi da. 

Anh mê đánh và cá độ bi da. Giá “bèo” nhất là năm trăm ngàn đồng. Còn cao thì từ hai đến năm triệu đồng. Anh mê đến mức đánh từ mười hai giờ trưa tới hai ba giờ sáng, bỏ cả ăn, chỉ uống nước cầm hơi…

Thấy chồng mê bi da đến quên cả vợ con, chị bèn đến trước cửa tiệm bi da, nhưng không vào. Anh chơi tới giờ nào, thì chị ngồi chờ tới giờ ấy, chỉ vì nếu chị về, anh lại tìm nơi khác đánh tiếp…Vùa ngồi chờ, chị vừa quản lý công việc nhà và cửa hàng qua điện thoại di động.

Sau một thời gian, các chiến hữu của anh bắt đầu nhìn chị với đôi mắt…thiện cảm và dạy chị chơi bi da, hoặc đánh tiến lên, khi đông khách phải chờ bàn.

Có lẽ thấy tình hình bất ổn, nên anh giảm chơi hẳn, trừ thời gian đi công tác, anh ở nhà cũng nhiều hơn.

 

Đối với những anh chồng say…bài bạc. 

Anh biết tính vợ, không thích chồng bài bạc, chứ còn nhậu nhẹt thì lại….OK. Vì thế, mỗi lần đi “sát phạt” đâu đó, anh lại làm một chai bia cho sừng sừng và đỏ mặt để về nhà, lừa chị cái một.

Để chuẩn bị cho những cú sát phạt ấy, anh thường giấu tiền. Khi thì để trong giày, khi thì để trong cốp xe. Lúc ngồi xuống chiếu bạc, anh cứ việc ung dung rút tiền ra.

Chuyện quĩ đen chỉ vỡ lở khi xe chị bị hư, chị lấy xe anh đi, nhưng “thiên bất dung gian”, xe hết xăng. Khi mở cốp xe để đổ xăng, thì chị…không thể tin vào mắt mình, bởi vì trong cốp xe của anh đầy những tiền. Từ đó, chị lên hẳn một chiến lược đưa anh vào quĩ đạo.

Chị gom hết số điện thọai những người bạn của anh và mở chiến dịch “truy nã” khi anh ra khỏi nhà. Biết anh đánh bài ở nhà ai, thì chị coi đó như là…nhà của mình. Chị đi chợ, rồi tới đó nấu nướng. Nấu nướng xong, chị gọi con cái đến cùng ăn để xum họp với bố. Ăn xong, cả nhà ngồi chờ để về chung với bố.

Được vài lần, anh bỏ chơi vì quá căng thẳng và lo ra, nên bị thua xiểng liểng.

 

Đối với những anh chồng ưa…karaoke.

Anh không đẹp trai, nhưng có một giọng ca trầm ấm, nên thường xuyên có mặt tại những tụ điểm hát với nhau và được nhiều bạn bè ái mộ.

Chị để cho anh được tự do, nhưng sau một lần cùng anh đến  những chỗ anh vui chơi, chị mới tá hỏa vì có nhiều nguy cơ…mất chồng. Người ta dễ dàng đến với nhau khi có cùng sở thích, và nhất là lại có sự đồng lõa của ánh đèn màu. Trong không gian tranh tối tranh sáng ấy, người và cảnh bỗng trở nên tươi đẹp hơn và cũng lãng mạn hơn.

Thế là chị hát karaoke luyện giọng để cùng hát với anh. Tuy nhiên, cuộc chiến giữ chồng của chị cũng không dễ dàng, bởi vì một tuần anh vui đến dăm ba ngày, còn chị làm nghề giáo viên, nên sáng nào lên lớp cũng phờ phạc, thiếu ngủ chỉ vì tối qua “can tội” hát với…chồng tới một, hai giờ sáng.

Tương tự như thế, một chị sợ anh có bồ nhí khi chơi “tennis”, nên đã nhập cuộc. Lúc đầu làm cổ động viên. Sau đó cầm vợt ra sân cùng chồng. Và chị đã trở thành vận động viên thứ thiệc lúc nào không hay : cũng tóc vàng, cũng môi trầm, cũng da nâu…chỉ vì nắng gió sân “tennis”.

Để kết luận gã xin ghi lại nơi đây tư tưởng của Samuel Johnson như sau :

- Không phải là sức mạnh, nhưng chính là sự kiên nhẫn mới làm nên những công trình to lớn.

Gã Siêu     gasieu@gmail.com  

VỀ MỤC LỤC

- Mọi liên lạc: Ghi danh, thay đổi địa chỉ, đóng góp ý kiến, bài vở..., xin gởi về địa chỉ

giaosivietnam@gmail.com

- Những nội dung sẽ được đề cao và chú ý bao gồm:

Trao đổi, chia sẻ những kinh nghiệm thực tế trong việc mục vụ của Giáo sĩ;  Những tài liệu của Giáo hội hoặc của các Tác giả nhằm mục đích Thăng tiến đời sống Giáo sĩ; Cổ võ ơn gọi Linh mục; Người Giáo dân tham gia công việc “Trợ lực Giáo sĩ” bằng đời sống cầu nguyện và cộng tác trong mọi lãnh vực; Mỗi  Giáo dân phải là những “Linh mục” không có chức Thánh; Đối thoại trong tinh thần Bác ái giữa Giáo dân và Giáo sĩ… (Truyền giáo hay xây pháo đài?)

- Quy vị cũng có thể tham khảo những số báo đã phát hành tại

www.conggiaovietnam.net

Rất mong được sự cộng tác, hưởng ứng của tất cả Quí vị

Xin chân thành cám ơn tất cả anh chị em đã sẵn lòng cộng tác với chúng tôi bằng nhiều cách thế khác nhau.

TM. Đặc San Giáo Sĩ Việt Nam

Lm. Luca Phạm Quốc Sử  USA

 

 

Duoc chon giua loai nguoi va cho loai nguoi; GIAO SI: Xuat phat tu giao dan, hien dien vi giao dan va cay dua vao giao dan, de cung lam VINH DANH THIEN CHUA

*************