Đặc San Giáo Sĩ Việt Nam

 

 

 

ĐỰƠC CHỌN GIỮA LOÀI NGƯỜI
VÀ CHO LOÀI NGƯỜI  (x. Dt, 5.1)

 

GIÁO SĨ:

Xuất phát từ giáo dân, hiện diện vì giáo dân và cậy dựa vào giáo dân

 

ĐỂ CÙNG LÀM VINH DANH THIÊN CHÚA

 

www.conggiaovietnam.net                          giaosivietnam@gmail.com

Đặc San Điện Tử    Giáo Sĩ Việt Nam    Số 98, Chúa Nhật 26.07.2009


MỤC LỤC 

Sắc Lệnh Về Nhiệm Vụ Mục Vụ Của Các Giám Mục Trong Giáo Hội (Christus Dominus)         Vatican 2

10 ĐIỀU RĂN CỦA LINH MỤC                                                    HY PX. Nguyễn Văn Thuận

Năm Linh mục SUY NGHĨ VỀ LINH MỤC TRƯỚC VẤN ĐỀ TỘI LỖI            GM GB Bùi Tuần

AI LÀ NGƯỜI THÂN CẬN CỦA TÔI?                                                Lm. Giuse Lê Công Đức

GIÁO LÝ CẦN GẮN LIỀN VỚI LỜI CHÚA                                            Gioan Lê Quang Vinh

“HÃY TRẢ LẠI CHO CAESAR….” (CHÍNH TRỊ CỦA NGƯỜI CÔNG GIÁO)   Bác sĩ Nguyễn Tiến Cảnh , MD

ĐỐI VỚI THIÊN CHÚA, KHÔNG CÓ GÌ LÀ KHÔNG THỂ LÀM ĐƯỢC !”                    Lm. Lê Quang Uy, DCCT

THAM GIA XÂY DỰNG PHÚC LỢI CỘNG ĐỒNG.                                Lm. Inhaxiô Trần Ngà

GIÓ MƯA LÀ BỆNH CỦA TRỜI...                                                              Nhà Văn Quyên Di

SỐNG VIÊN MÃN BA LỜI KHẤN DÒNG (tiếp theo)          Lm. Micae-Phaolô Trần Minh Huy

Huyết áp thấp                                                                              Bác sĩ Nguyễn Ý-Đức, M.D.

HAI CHỮ CÁM ƠN                                                                       Chuyện phiếm của Gã Siêu


Sắc Lệnh Về Nhiệm Vụ Mục Vụ Của Các Giám Mục Trong Giáo Hội (Christus Dominus)

 

Prepared for Internet by Vietnamese Missionaries in Asia

Lời Mở Ðầu 1*

 

1. Mở đầu. Chúa Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống, đã đến để giải cứu dân mình khỏi tội lỗi 1 và để thánh hóa mọi người: như Chúa Cha đã sai Ngài thế nào, Ngài cũng sai các Tông Ðồ Ngài như vậy 2, và đã thánh hóa họ khi trao ban Chúa Thánh Thần cho họ để chính họ làm vinh danh Chúa Cha nơi trần gian và cứu độ loài người, "nhằm xây dựng Thân Thể Chúa Kitô" (Eph 1,12) là Giáo Hội.

2. Ðức Giáo Hoàng và các Giám Mục duy trì mãi mãi công việc của Ðức Kitô. Trong Giáo Hội này của Chúa Kitô, Ðức Giáo Hoàng Roma, vì là đấng kế vị Phêrô, người được Chúa Kitô trao phó chiên mẹ và chiên con để chăn dắt, do Chúa thiết lập, được hưởng dụng quyền tối cao, toàn diện, trực tiếp và phổ quát trong việc chăm sóc các linh hồn. Bởi vậy, với tư cách chủ chăn toàn thể tín hữu, ngài có sứ mạng mưu ích chung cho toàn thể Giáo Hội và cho từng Giáo Hội địa phương, nên ngài được quyền tối thượng thường xuyên trên mọi Giáo Hội.

Các Giám Mục cũng thế, chính các ngài được Chúa Thánh Thần đặt lên kế vị các Tông Ðồ như chủ chăn các linh hồn 3 và được ủy thác sứ mệnh duy trì mãi mãi công việc của Chúa Kitô, chủ chăn đời đời 4, hiệp nhất với Ðức Giáo Hoàng và dưới quyền ngài. Thật vậy, Chúa Kitô đã trao cho các Tông Ðồ những đấng kế vị mệnh lệnh và quyền dạy dỗ mọi dân nước, thánh hóa mọi người trong chân lý và chăn dắt họ. Do đó, nhờ Thánh Thần mà các ngài đã lãnh nhận, các Giám Mục trở thành thầy dạy đức tin, chánh tế, chủ chăn thực thụ và chính thức 5.

3. Các Giám Mục hiệp thông và dưới quyền Ðức Giáo Hoàng. Các Giám Mục, là những người chia xẻ nỗi lo âu của tất cả các Giáo Hội, thi hành nhiệm vụ giám mục mà các ngài đã nhận lãnh do việc tấn phong giám mục 6, trong sự hiệp thông và dưới quyền Ðức Giáo Hoàng, đối với những gì thuộc quyền giáo huấn cũng như quyền cai quản mục vụ; tất cả các ngài họp thành Cộng Ðoàn Giám Mục hay Giám Mục Ðoàn đối với toàn thể Giáo Hội Chúa.

Mỗi vị thi hành chức vụ ấy trên phần đoàn chiên Chúa đã được chỉ định; mỗi vị được ủy thác coi sóc một Giáo Hội địa phương, hoặc đôi khi vài vị cùng nhau lo cho một số nhu cầu chung của nhiều Giáo Hội khác nhau.

Do đó, trong khi đặc biệt lưu tâm đến những hoàn cảnh của cộng đồng nhân loại đang tiến đến một trật tự mới trong thời đại chúng ta 7, đồng thời cũng muốn xác định nhiệm vụ mục vụ của các Giám Mục cách minh bạch hơn, Thánh Công Ðồng đã quyết định những điều sau đây.

 


Chú Thích:

1* Lời mở đầu tóm lược quan niệm thần học quảng diễn trong chương III Hiến chế tín lý về Giáo Hội.

1 Xem Mt 1,21.

2 Xem Gio 20,21.

3 Xem CÐ Vat. I, Khóa IV, Hiến chế tín lý I về Giáo Hội Chúa Kitô, Pastor Aeternus, ch. 3: Dz 1828 (1061).

4 Xem CÐ Vat. I, Khóa IV, Hiến chế tín lý I về Giáo Hội Chúa Kitô, Pastor Aeternus, lời mở đầu: Dz 1821 (3050).

5 Xem CÐ Vat. II, Hiến chế tín lý về Giáo Hội Lumen gentium, ch. 3, số 21, 24, 25: AAS (1965), trg 24-25, 29-31.

6 Xem CÐ Vat. II, Hiến chế tín lý về Giáo Hội Lumen gentium, ch. 3, số 21: AAS 57 (1965), trg 23-25.

7 Xem Gioan XXIII, Tông hiến Humanae salutis, 25-12-1961: AAS 54 (1962) trg 6.

còn tiếp

VỀ MỤC LỤC
10 ĐIỀU RĂN CỦA LINH MỤC


 1. Những gì tôi sống trong tư cách là một Linh Mục,
 thì quan trọng hơn những gì tôi làm.
 
 2. Những gì Chúa Kitô làm qua trung gian của tôi,
 thì quan trọng hơn những gì do chính tôi làm.
 
 3. Những gì tôi với anh em Linh Mục cùng sống,
 thì quan trọng hơn những gì tôi làm một mình, dù hăng say tới mức suýt bị mất mạng.
 
 4. Những gì tôi sống cho Kinh nguyện và Lời Chúa,
 thì quan trọng hơn những tổ chức sinh hoạt bên ngoài.
 
 5. Những gì tôi sống vì lợi ích thiêng liêng của người cộng tác,
 thì quan trọng hơn những công việc tôi làm cho lợi ích của mình.
 
 6. Hiện diện ít nơi nhưng thiết yếu để đem lại sức sống,
 thì quan trọng hơn có mặt khắp nơi nhưng vội vàng và nửa vời.
 
 7. Hoạt động cùng với người cộng tác,
 thì quan trọng hơn là làm một mình,
 cho dù mình có nhiều khả năng hơn họ.
 Nói cách khác, hợp tác thì quan trọng hơn hành động riêng rẽ.
 
 8. Hy sinh thập giá âm thầm bên trong,
 thì quan trọng hơn những thành quả đạt được bên ngoài.
 
 9. Mở rộng tâm hồn đến những thao thức của cộng đoàn,
 Giáo phận và Giáo hội toàn cầu, thì quan trọng hơn chăm chú vào những bận tâm riêng, cho dù thiết yếu đến đâu đi nữa.
 
 10. Làm chứng về Đức Tin trước mặt mọi người,
 thì quan trọng hơn tìm cách thoả mãn thị hiếu của họ.

HY PX. Nguyễn Văn Thuận

VỀ MỤC LỤC
Năm Linh mục SUY NGHĨ VỀ LINH MỤC TRƯỚC VẤN ĐỀ TỘI LỖI

 

Bài nói chuyện của Đức Cha GB. dịp tĩnh tâm Linh mục, Tu sĩ hạt Long Xuyên, ngày 07/7/2009

Đề tài chia sẻ hôm nay là: Năm Linh mục, suy nghĩ về Linh mục trước vấn đề tội lỗi.

Nội dung chia sẻ gồm 3 phần:

1. Giúp con người bỏ đàng tội, đó là bổn phận quan trọng của Linh mục.

2. Tình hình con người thời nay trước vấn đề tội.

3. Sám hối với việc bỏ đàng tội.

1/ Giúp con người bỏ đàng tội, đó là bổn phận quan trọng của Linh mục
Tội lỗi là một thực tế đau buồn. Mọi tôn giáo đều nhắm mục đích giúp con người bỏ đàng tội.

Riêng Kitô giáo, mục đích đó được thực hiện một cách đặc biệt. Đó là Ngôi Hai Thiên Chúa giáng trần, để cứu nhân loại khỏi tội.

Trong chương trình cứu độ, Đức Kitô đã lập phép Bí tích Truyền Chức Thánh. Người trao cho Linh mục bổn phận cứu con người khỏi tội.

Vì thế, món nợ của Linh mục đối với Chúa là phải làm hết sức mình để cứu đoàn chiên khỏi tội.

Vinh quang của Linh mục là được chia sẻ vinh quang của Đức Mẹ và các thánh là những người đã cộng tác với Đức Kitô trong việc cứu con người khỏi tội.

Chúa phán với tiên tri Edêkiel: "Edêkiel, Ta đã đặt ngươi làm kẻ canh thức Israel. Nếu ngươi không khuyến cáo các người ác bỏ đàng tội, thì nó sẽ phải chết. Nhưng Ta sẽ hỏi tội ngươi về máu nó đã đổ ra" (Ed 3,17-18).

Thiết tưởng Chúa cũng nói tương tự với từng Linh mục như thế.

Trong thánh lễ, Linh mục đọc lời truyền phép: "Đây là chén Máu Thầy... sẽ đổ ra cho các con và nhiều người được tha tội". Để nhiều người được tha tội, Đức Kitô đã đổ máu ra. Để con chiên được tha tội, Linh mục cũng phải tham gia vào máu cứu chuộc của Đức Kitô bằng những hy sinh đời mình. Có nghĩa là Linh mục có bổn phận cứu người ta khỏi tội, không phải chỉ bằng phép giải tội, mà còn bằng cuộc đời hy sinh của mình.

2/ Tình hình con người thời nay trước vấn đề tội

Tình hình con người thời nay trước vấn đề tội phải nhận là rất phức tạp. Chỉ xin nêu lên vắn tắt một số đặc điểm:

a) Hiện nay, phong trào hưởng thụ tạo ra khát vọng tìm khoái lạc. Nó dần dần xúi người ta nghĩ rằng: Cái gì đem lại khoái lạc đều được phép dễ dàng. Không cần xét cái đó là hợp đạo đức hay không.

b) Hiện nay, phong trào tự mãn tạo ra một thái độ lẩn tránh sự biết mình, dù mình đầy tội. Thánh Gioan viết: "Ánh sáng đã đến trong thế gian. Nhưng người ta ưa thích tội lỗi hơn ánh sáng, bởi vì các việc của họ đều xấu. Ai làm sự xấu thì ghét ánh sáng, và không đến từ ánh sáng, vì sợ các việc của mình bị lộ ra" (Ga 3,19-20).

c) Hiện nay, phong trào cá nhân chủ nghĩa dễ tạo nên một thái độ tự bảo vệ với bất cứ giá nào. Do đó, người ta thích đổ lỗi cho người khác hơn là khiêm tốn nhận lỗi về mình.

d) Hiện nay, phong trào tục hoá tạo nên một tâm thức mới về tội, đó là tội chỉ là việc xúc phạm đến người khác, chứ không có quy chiếu nào về Chúa. Do đó, xưa, tội được hiểu là cái gì làm dơ bẩn tâm hồn trước Chúa, cần phải xin Chúa tha. Còn nay, tội được hiểu là cái gì làm hư mối tương quan với người khác, nên cần phải hoà giải.

e) Hiện nay, phong trào trốn tránh trách nhiệm khá mạnh. Nó tạo ra một tâm thức sai: Nghĩa là tội được tha, thế là xong. Còn việc đền tội và sửa lại những hậu quả của tội, thì không lo tới.

f) Hiện nay, phong trào mục đích biện minh cho phương tiện đang dâng cao. Để phục vụ mục đích tốt, người ta tưởng được dùng bất cứ phương tiện nào và với bất cứ cách nào. Dù cách đó, phương tiện đó là không đúng chỗ. Nhất là tiền bạc.

g) Hiện nay, có nhiều yếu tố tinh vi trói buộc con người vào ngục tù tội lỗi. Tự mình, con người không thể cởi gở được.

Đến đây, chúng ta có thể nói: Người ta rất khó hiểu được mọi nguyên nhân dẫn đến tội, cũng như mọi hậu quả do tội gây nên.

Những chuyển biến lịch sử cho thấy có sự giảm bớt một số tội dữ dằn, nhưng lại nảy nở một số tội mới tinh vi.

Vì thế, có một điều có thể nói, mà không sợ lầm, đó là tội lỗi vẫn tràn lan.

Trước tình hình như thế, Linh mục giúp con người bỏ đàng tội bằng cách nào?

3/ Bỏ đàng tội thì phải thế nào?

Xin dựa trên lời Kinh Thánh.

"Hãy trở về với Ta với tất cả tấm lòng, trong sự chay tịnh, khóc lóc kêu than của tang tóc. Hãy xé lòng mình ra, chứ đừng xé áo..." (Ge 2,12-14).

"Ta sẽ ban cho các ngươi một trái tim mới. Ta sẽ đặt vào các ngươi một tinh thần mới..." (Ed 36,26-30).

Xé lòng mình là đau đớn hối hận ăn năn.

Trái tim mới, tinh thần mới là sự đổi mới tâm hồn. Quyết tâm đi vào đường hẹp, dấn thân cho việc phụng sự Chúa và phục vụ tha nhân.

- Không còn vô cảm trước đau khổ của người khác như thái độ thầy tư tế trước nạn nhân bị cướp đánh nằm ở vệ đường. Nhưng nhạy cảm trước nỗi đau của người khác.

- Không còn tự mãn như người Pharisêu cầu nguyện trước bàn thờ. Nhưng khiêm tốn như người thu thuế đứng cuối nhà thờ.

- Không còn xa Chúa như người con phung phá, nhưng quyết tâm trở về bên Chúa, để đón nhận ơn tha thứ.

Để kết, tôi xin phép nói lên hai điều xác tín của tôi. Một là để đối phó với vấn đề tội, chúng ta phải tuyệt đối tin vào ơn Chúa, tin vào lòng thương xót Chúa. Hai là, để được Chúa thương tha thứ, chúng ta phải biết tha thứ cho người khác, phải biết xót thương người khác.

GM GB Bùi Tuần

VỀ MỤC LỤC
AI LÀ NGƯỜI THÂN CẬN CỦA TÔI? (LC 10, 29-37)

 

Điểm nhắm: Câu chuyện người Samari nhân hậu là một trong những dụ ngôn tầm cỡ nhất chuyên chở giáo huấn của Đức Giêsu. Và đó cũng là một câu chuyện rất cách mạng – nếu không muốn nói là rất  ‘phản động’! Điều ít được để ý, đó là khi kể xong câu chuyện, Đức Giêsu không hỏi: “Nạn nhân là người thân cận của ai trong 3 người ấy?” – nhưng Ngài  hỏi: “Trong 3 người ấy, ai là người thân cận của nạn nhân?”Rốt cục, hành động sẽ xác nhận tương quan, chứ không ngược lại.. Giáo Hội thời hiện đại có câu chuyện Đức Tổng Giám Mục Oscar Romero – một con người cũng đứng trước những anh chị em ‘bị đập đến dở sống dở chết’ của mình, đã quyết định dấn thân bảo vệ đến cùng những anh chị em ấy, và đã trả cái giá đắt nhất nhưng cũng là đẹp nhất.  

1. Oscar Romero, một cuộc đời 

6 giờ 30 chiều ngày 24.3.1980, một cái chết đã làm chấn động cả Giáo Hội và thế giới: Đức Tổng Giám Mục Oscar Romero của tổng giáo phận San Salvador bị bắn gục khi đang dâng Thánh Lễ tại nguyện đường trong khuôn viên bệnh viện Chúa Quan Phòng. Cái chết này là điểm tới của một cuộc đấu tranh cho nhân quyền và công lý đầy căng thẳng từ ngót 3 năm trước đó. Và ba năm sau biến cố bi thảm này, Đức Gioan Phaolô II, trong chuyến công du, đã đến úp mặt trên mộ của Oscar Romero và khóc thổn thức. Những giọt nước mắt vừa của niềm yêu mến cảm phục vừa của niềm ân hận... Đã ngót 30 năm, từ đó đến nay, dân chúng El Salvador khi nhắc đến vị tổng giám mục này vẫn luôn gọi ngài là San Romero – Thánh Romero – một cách tự hào và trìu mến. Vậy Oscar Romero là ai vậy?

Chào đời vào năm 1917 trong một gia đình miền núi hẻo lánh phía đông El Salvador, một quốc gia nhỏ bé nằm nép bên phía Thái Bình Dương ngay chỗ eo nối giữa Bắc và Nam Mỹ, Oscar Romero bắt đầu làm việc tại một xưởng mộc năm 12 tuổi, rồi năm sau, cậu vào tiểu chủng viện để theo đuổi ơn gọi linh mục. Hai mươi tuổi, Romero được gửi đi học thần học ở Đại Học Gregoriana, Rôma, và đã được truyền chức linh mục tại đó vào năm 1942. Trở về El Salvador năm 1943, linh mục Romero hăng hái phục vụ trong vai trò cha sở giáo xứ Chính Toà giáo phận San Miguel cho đến năm 1967. Ngài được biết đến nhiều nhờ khả năng giảng thuyết, làm báo và tổ chức các hoạt động khác nhau của giáo phận. Nhưng đồng thời Romero cũng gây bực bội cho một số người, kể cả một số giáo sĩ, bởi tính cách khắt khe và đôi khi bất nhẫn của mình.

Vốn đầy tâm huyết đối với Giáo Hội ngay từ thuở nhỏ, Romero rất quan tâm theo dõi Công Đồng Vatican II, diễn ra từ 1962 đến 1965, một Công Đồng nhằm làm cho Giáo Hội Công Giáo đáp ứng được những nhu cầu của thời đại. Trở về với cội nguồn Giáo Hội, Công Đồng nhấn mạnh rằng tự căn bản Giáo Hội là Dân Thiên Chúa, chứ không chủ yếu là một hình thức cơ chế mà Giáo Hội đã đạt được qua bao thế kỷ. Công Đồng nhắc nhở các giáo sĩ và hàng giáo phẩm rằng họ phải là những đầy tớ của dân chúng, chứ không phải là một giai cấp đặc quyền đặc lợi. Chính bản thân Giáo Hội phải là đầy tớ của thế giới, là khí cụ chuyển trao ơn cứu độ cho mọi con người.

Năm 1967, vào tuổi 50, Cha Romero được bổ nhiệm làm thư ký Hội Đồng Giám Mục – và ngài đã chuyển tới San Salvador, thành phố thủ đô. Năm 1970, ngài trở thành giám mục phụ tá của tổng giáo phận San Salvador. Trong cương vị mới này, có những thời gian ngài kiêm nhiệm giám đốc đại chủng viện và chủ bút tờ tuần báo Công Giáo, bên cạnh các hoạt động giảng thuyết và cử hành phụng vụ.

Romero nhậm chức tổng giám mục San Salvador vào năm 1977. Đó là giai đoạn xáo trộn nhất trong lịch sử đất nước. Chính lễ nhậm chức của ngài cũng đã diễn ra một cách đơn sơ và vội vã, chỉ hai ngày sau cuộc bầu cử 20 tháng 2, trong đó ứng cử viên tổng thống của chính phủ, Carlos Humberto Romero, được tuyên bố là người chiến thắng, bất chấp những chứng cứ về sự gian lận trắng trợn. Những cuộc phản đối càng bùng lên thì sự đàn áp càng khốc liệt, như vụ tàn sát những người biểu tình tại quảng trường Libertad vào ngày 28 tháng 2.  

Đó cũng là thời gian mà sự đàn áp được chĩa thẳng vào Giáo Hội. Một số linh mục vừa mới bị quản thúc, bị đe doạ, hay bị trục xuất. Hai linh mục người Mỹ bị tống ra khỏi biên giới cách thô bạo chỉ hai ngày trước khi Romero nhậm chức. Cũng chính ngày hôm ấy, một số linh mục khác bị từ chối chiếu khán tái nhập cư vào El Salvador. Và chưa đầy một tháng sau khi Romero trở thành tổng giám mục, thì người bạn rất thân tín của ngài là Cha Rutilio Grande, dòng Tên, bị sát hại một cách dã man, cùng với một nông dân và một cậu bé quá giang trên xe của ngài.

Vụ tàn sát này làm chấn động cả nước. Đã từ lâu rồi, chính quyền, quân đội và công an ưu tiên phục vụ giới địa chủ giàu có, bằng những cuộc trấn áp thẳng tay đối với mọi dấu hiệu phản kháng của nông dân. Mọi người đều biết rõ chính giới địa chủ và giới cầm quyền đứng phía sau vụ tàn sát này. Đã đến lúc cộng đoàn dân Chúa tại tổng giáo phận muốn một phản ứng kiên quyết từ tổng giáo phận và từ vị tổng giám mục mới của mình.

Sau khi suy nghĩ kỹ, Romero quyết định áp dụng biện pháp đã được đề nghị trong cuộc họp kéo dài một ngày của hội đồng linh mục San Salvador. Ngài cho đóng cửa tất cả các trường học Công Giáo trong 3 ngày để để tang cho các nạn nhân bị sát hại, và để mọi người đào sâu suy nghĩ về tình hình đất nước. Lễ an táng Cha Grande được cử hành tại quảng trường trước nhà thờ Chính Toà, với đông đảo dân chúng tham dự, và bài giảng của Romero, như thường lệ, được truyền đi khắp nơi trong nước qua làn sóng phát thanh. Vị tổng giám mục ra lệnh rằng vào ngày Chủ Nhật tiếp sau lễ an táng Cha Grande, trong toàn tổng giáo phận sẽ chỉ có một Thánh Lễ duy nhất tại nhà thờ Chính Toà. Biến cố này đã trở thành một hành động lên tiếng của Giáo Hội cách ấn tượng chưa từng có trong lịch sử El Salvador. Và đối với nhiều người, đó là một kinh nghiệm đức tin rất sâu sắc. Nhưng, đồng thời, đó cũng là nguyên nhân của một sự xung khắc nghiêm trọng giữa Tổng Giám Mục Romero và vị khâm sứ toà thánh – vì vị khâm sứ không tán thành biện pháp “một Thánh Lễ,” cho rằng như vậy là quá khiêu khích chính quyền!

Trong suốt 3 năm sau đó, Romero là trung tâm của các xung đột. Thất vọng với thái độ của vị tổng giám mục này, chính quyền quân sự và giới tài phiệt ra mặt chống lại ngài – thậm chí họ áp dụng cả biện pháp cho quân đội chiếm đóng nhà thờ Chính Toà của tổng giáo phận. Về phần mình, Romero không nao núng; ngài giữ vững con đường ngài đã chọn. Ngài nhận được sự ủng hộ của dân chúng, và ngài tin rằng mình đang thi hành sứ vụ được giao cho mình, như được thấy rõ trong Tin Mừng và trong giáo huấn của Giáo Hội. Thêm 5 linh mục bị giết sau Cha Grande nội trong 3 năm ấy; Romero sẽ là người thứ sáu. Và vô số giáo dân, thành viên của các Cộng Đoàn Giáo Hội Cơ Bản, tiếp tục bị giết hại bởi bàn tay của quân đội hoặc công an. 

Một số giám mục trong Hội Đồng Giám Mục El Salvador, vì những lý do nào đó, đã phủ nhận các thực tế đang diễn ra và đã chống lại cuộc đấu tranh của Romero. Chính Đức Thánh Cha, dựa vào các báo cáo của vị khâm sứ và của một số giám mục, cũng tỏ ra lãnh đạm và ngay cả trấn áp Romero.  Câu chuyện càng phức tạp hơn khi một số linh mục, vì quá bức xúc trước những nỗi đau của dân chúng, đã chọn con đường trực tiếp ủng hộ các nhóm du kích, phiến quân. Sự  việc này đặt Tổng Giám Mục Romero vào một tình thế đầy căng thẳng. Nhưng ngài không ấm ớ; tiếng nói của ngài luôn xoáy thẳng vào những bi kịch đang diễn ra từng ngày ở El Salvador.   

Romero vốn là một nhà giảng thuyết tên tuổi. Ngài vốn từng có nhiều dịp phát biểu trên đài phát thanh. Tuy nhiên, khi trở thành tổng giám mục, phong cách giảng thuyết độc đáo của ngài mang thêm một nét mới. Vì hệ thống truyền thông của chính phủ ít khi tường thuật, và thường bóp méo những tin tức liên quan đến các tổ chức quần chúng của Giáo Hội, và hầu như không bao giờ trình bày sự thật về những vụ chà đạp nhân quyền đang diễn ra tràn lan trên khắp đất nước, vị tổng giám mục đã tự đảm nhận công việc thông tin những gì đang diễn ra cho một công chúng luôn mong mỏi nắm biết.

Theo các cuộc thăm dò cho biết, 73% dân chúng các vùng nông thôn và 47% cư dân thành phố đã thường xuyên theo dõi Thánh Lễ trực tiếp truyền thanh từ Nhà Thờ Chính Toà, để nghe bài giảng, mỗi lần như vậy không dưới một tiếng rưỡi. Phần “điểm lại các biến cố trong tuần” của Romero bao gồm cả những tin vui lẫn những tin tồi tệ. Ngài lược thuật cả những nỗ lực loan báo Tin Mừng giải phóng lẫn những sự bóp nghẹt Tin Mừng này. Và cùng với các ngôn sứ trong lịch sử, ngài tố cáo những sự dữ đang diễn ra.

Các bài giảng lễ Chủ Nhật của ngài được truyền thanh toàn quốc trên làn sóng của đài phát thanh YSAX của Giáo Hội – chỉ gián đoạn khoảng 5 tuần lễ, khi đài này bị ném bom đổ sụp. Song đài được tái lập và trở lại hoạt động vào ngày 23.3.1980; đó cũng là lần cuối cùng YSAX truyền đi tiếng nói của Romero trước khi ngài bị bắn chết vào hôm sau, 24.3. Vị tổng giám mục đã bị bắn chết ngay tại bàn thờ, khi đang dâng Thánh Lễ với một cộng đoàn nữ tu. Trước đó, ngài đã từng bị đe doạ; và ngài cho biết ngài cũng sợ chết như bất cứ ai. Song có một cái gì đó còn lớn hơn nỗi sợ chết nơi con người mục tử này. Ngài tiếp tục đương đầu với những thế lực áp bức một cách không nao núng. Như lời ngài nói trước đó ít lâu: “Người ta đe doạ giết tôi. Nhưng nếu tôi chết, tôi sẽ sống lại trong lòng người dân El Salvador.”   

2. Gợi ý suy nghĩ và cầu nguyện  

- Nếu được, bạn nên xem bộ phim ROMERO (của đạo diễn John Duigan).  

- Ghi nhận bối cảnh xã hội El Salvador thập niên 1970 (dân nghèo bị áp bức...) – liên tưởng hoàn cảnh tại các nước Trung, Nam Mỹ nói chung, và liên tưởng đến sự chọn lựa của các giám mục Mỹ Latinh (Medellin, 1968): Giáo Hội ưu tiên chọn lựa người nghèo! Giáo Hội của người nghèo! 

- Bạn cảm nhận gì về:

- lối sống và nhân cách của Romero?

- tinh thần ngôn sứ của Romero?

- sự dũng cảm dấn thân triệt để của Romero?

- sự khôn ngoan sáng suốt, đúng mực của Romero trước các chủ trương giải phóng quá khích?

- thái độ kiên trung với Tin Mừng giải phóng của Romero (bao dung, hoà giải, phi bạo lực)?

- Romero, con người mục tử: sống chết cho đoàn chiên?

Lm. Giuse Lê Công Đức

VỀ MỤC LỤC
CANH TÂN SƯ PHẠM GIAÓ LÝ (BÀI 3): GIÁO LÝ CẦN GẮN LIỀN VỚI LỜI CHÚA
 

Hiến chế Mục Vụ Lời Thiên Chúa Verbum Deum dạy: “Việc dạy Giáo Lý, một hình thức của thừa tác vụ Lời Chúa, phải được nuôi dưỡng và thăng tiến trong sự thánh thiện nhờ Lời Chúa trong Thánh Kinh” (số 12). Dạy giáo lý chính là dạy Lời Chúa. Nhưng dường như lâu nay ở nhiều nơi, Thánh Kinh chỉ có một chỗ đứng trong giáo lý. Đó là việc đọc một đoạn Tin Mừng vào đầu giờ giáo lý, và lắm khi sau giờ giáo lý là các em quên mất. Điều quan trọng trong giáo lý là phải làm sao cho Lời Chúa thấm sâu vào cuộc đời các em và cuộc đời giáo lý viên, như hạt giống đi vào lòng đất và sinh sôi nẩy nở. 

A. TẠI SAO CẦN ĐƯA THÁNH KINH VÀO LỚP GIÁO LÝ NHIỀU HƠN? 

1.    Lời Chúa nuôi dưỡng Đức Tin các em và giáo lý viên.

Lịch sử dân Thiên Chúa cho thấy cứ mỗi lần dân thánh bất trung, phản bội hay dao động trong lòng tin thì các ngôn sứ lại đứng lên nói cho dân Lời của Thiên Chúa. Trong Tin Mừng, Đức Giêsu cũng nhiều lần củng cố đức tin và đời sống luân lý của các Tông đồ và của dân chúng bằng Lời Người.

Như vậy Lời Chúa là lương thực và là thần dược cho đời sống đức tin và luân lý. Trong việc dạy giáo lý, giáo lý viên là người thừa hành của Chúa Giêsu và của Giáo Hội, giúp loan báo Lời Chúa đến với các em. Nhưng chắc chắn tự mình, giáo lý viên không đủ sức để củng cố đức tin cho các em và cho chính mình. Chỉ có Lời Chúa mới làm cho anh chị và các em vững tin và hăng say sống đức tin. 

2.   Giúp các em hiểu thêm về Chúa Giêsu.

Chúa Giêsu là Lời Thiên Chúa. Do đó càng đọc và nói Lời Tin Mừng thì các em càng hiểu về Chúa Giêsu hơn. Trong Tin Mừng, các em gặp Chúa Giêsu hằng sống, nghe Lời Người rao giảng và cùng bước đi với Người trên mọi nẻo đường xứ Palestine.

Do đó, cần giúp các em tiếp xúc với Tin Mừng. Chỉ bằng cách này giáo lý viên mới làm cho các em hiểu và cảm về Đức Giêsu một cách đầy đủ trọn vẹn. 

3.    Làm cho lớp giáo lý sống động

Một trong những ưu tư của giáo lý viên là làm sao cho lớp giáo lý sống động để các em không thấy chán ngán giờ giáo lý. Những trò chơi, lời nói hài hước được sử dụng tối đa. Nhưng cần phải nhớ chính Chúa Giêsu mới là sự thu hút đầy sức mạnh bền bĩ.

Lời Chúa dạy có sức sống mãnh liệt, phù hợp với con người ở mọi thời đại và mọi hoàn cảnh khác nhau. Lối giảng dạy đầy hình tượng của Chúa Giêsu thật thi vị, dễ nhớ và rất ấn tượng. Do đó, khi nói như Chúa Giêsu nói, chắc chắn giáo lý viên sẽ đem đến cho lớp giáo lý bầu khí vui tươi và đầy hy vọng. 

B. ĐEM THÁNH KINH VÀO GIÁO LÝ NHƯ THẾ NÀO? 

Có bốn điều các giáo lý viên nên thực hiện:

1. Đọc Thánh Kinh sốt sắng trong giờ học:

Điều này hầu như lớp giáo lý nào cũng đã từng áp dụng. Có khi giáo lý viên đọc Lời Chúa, có khi một em đọc. Nhưng vấn đề là tại sao các em không nhớ Lời Chúa nhiều? Phải chăng chúng ta chỉ đọc lướt, đọc sơ sài và không gửi hết tâm hồn vào Lời Chúa? Nhiều giáo lý viên có thói quen nói: “Mở sách Tân Ước trang 71” chẳng hạn, thay vì sách Tin Mừng nào, chương và câu thứ mấy. Cần giúp các em quen với việc mở sách Kinh Thánh đúng cách, nhanh chóng, dễ nhớ. 

2.  Kể chuyện Thánh Kinh, nhất là Tin Mừng:

Khi dạy giáo lý, rất cần giải thích, nhưng tối kỵ dài dòng, rườm rà. Cách dạy giáo lý hay nhất là kể chuyện Tin Mừng. Ví dụ khi dạy về Mầu Nhiệm Một Chúa Ba Ngôi, nếu chúng ta cố gắng giải thích theo ý riêng thì chẳng đi đến đâu. Cách hay nhất là kể cho các em nghe câu chuyện thiên thần truyền tin cho Đức Maria, Chúa Giêsu chịu phép rửa ở sông Jordan v.v… rồi có vài giải thích ngắn gọn để đi đến kết luận cho bài giảng. Như thế các em sẽ nhớ và sẽ sống gắn bó với Thiên Chúa Ba Ngôi. 

3.  Cho các em học thuộc lòng Lời Chúa:

Một giáo lý viên đã từng hỏi chúng tôi trong buổi hội thảo về sư phạm giáo lý: “Tông huấn Catechesi nhấn mạnh đến việc dạy Lời Chúa, nhưng cũng nhấn mạnh đến việc học thuộc lòng, vậy cần chú ý điều nào hơn?”. Chúng tôi thấy không có gì mâu thuẫn cả. Cần giúp các em thuộc lòng Lời Chúa trước tiên.

Con cái càng nhớ lời cha mẹ thì càng sống tốt, đó là điều hiển nhiên. Chúng tôi sẽ lại nói đến việc “học thuộc lòng trong giáo lý” trong một bài sau, nhưng chắc chắn Lời Chúa là điều mà các em phải nhớ nhất để làm hành trang cần thiết đi vào đời. 

d. Thực hành cụ thể.

Tông huấn Catechesi Tradendae dạy: “Trong việc dạy Giáo Lý, điều quan trọng là dạy về những quyết tâm cá nhân trong lãnh vực luân lý để sống theo Tin Mừng”. Cần phải hướng dẫn các em có những quyết tâm thực hành mang tính cá nhân và cụ thể để các em ngày càng nên giống Chúa Giêsu.

Nên tránh những quyết tâm chung chung cho cả lớp, chẳng hạn tuần này em quyết tâm sẽ vâng lời mẹ em ba lần. Vâng lời trong việc gì, các em có thể nói cụ thể cho chính mình. Nói chung như vậy thì sẽ thế nào nếu các em đã vâng lời mẹ nhiều lần (chứ không chỉ ba lần), và đối với những em không sống với mẹ thì sao? Do đó hãy hướng dẫn rõ ràng để các em tự quyết tâm với Chúa.

Để kết luận, xin mời các bạn, đặc biệt các huynh trưởng và giáo lý viên, chúng ta hãy cùng đọc Tin Mừng Gio-an (2:1-5) và lắng nghe tiếng Chúa Giêsu nói với chúng ta: “1 Ngày thứ ba, có tiệc cưới tại Ca-na miền Ga-li-lê. Trong tiệc cưới có thân mẫu Đức Giê-su.2 Đức Giê-su và các môn đệ cũng được mời tham dự.3 Khi thấy thiếu rượu, thân mẫu Đức Giê-su nói với Người: "Họ hết rượu rồi."4 Đức Giê-su đáp: "Thưa bà, chuyện đó can gì đến bà và tôi? Giờ của tôi chưa đến."5 Thân mẫu Người nói với gia nhân: "Người bảo gì, các anh cứ việc làm theo.

Gioan Lê Quang Vinh

samuelvpn@gmail.com

VỀ MỤC LỤC
“HÃY TRẢ LẠI CHO CAESAR….” (CHÍNH TRỊ CỦA NGƯỜI CÔNG GIÁO)

 

 

Bác sĩ Nguyễn Tiến Cảnh, MD

 

 Đọc huấn từ của Đức thánh Cha Biển Đức XVI ban cho các Giám Mục Việt Nam nhân dịp Ad Limina vừa qua, tôi lại nhớ đến quyển sách “Hãy trả lại cho Caesar / Render unto Caesar” của Tổng Giám Mục Denver, Colorado Charles Chaput mà tôi mới đọc cách nay một tuần lễ. Đang viết về cuốn sách thú vị này thì lại có dịp đọc bài nói chuyện của chính tác giả nói về cuốn sách đó trong một cuộc hội luận hồi đầu năm tại Đại học Toronto, dưới sự bảo trợ của Tổng giáo phận Toronto trong chương trình Truyền hình Công giáo ‘Muối và Ánh Sáng’.

 

Đối chiếu những lời khuyên của Đức Thánh Cha với các giám mục Việt Nam và những tư tưởng gói ghém trong cuốn sách của Tổng Giám Mục Charles Chaput để tìm một bài học cho chúng ta, những người Công Giáo Việt Nam ở trong nước và ở hải ngoại cũng là điều thú vị và thích đáng.

 

Cuốn sách nói về đời sống và bổn phận chính trị của người Công Giáo. Đức Thánh Cha khuyên các Giám mục Việt Nam hãy cộng tác với cộng đồng chính trị một cách lành mạnh,….. mọi phần tử hãy chân thành dấn thân xây dựng một xã hội công chính, liên đới và công bằng để phục vụ toàn dân, nêu cao tinh thần bác ái của đạo Công Giáo, biểu hiệu Thiên Chúa là Tình yêu.

 

Chính trị là gì, tại sao lại có nhiều người, ngay cả trí thức, linh mục và cả giám mục vẫn hay dị ứng với hai chữ chính trị, cứ nói “chúng tôi không làm chính trị”. Tôi không bàn ở đây cái quan niệm sai lầm lệch lạc này, bởi lẽ đã có nhiều người nói tới rồi, nhất là Đức cố Giáo Hoàng Gioan Phaolo II. Đọc lời khuyên của ĐTC Biển Đức XVI và ý nghĩa cuốn sách của TGM Denver rồi suy nghĩ cẩn thận thì chắc chắn chẳng còn ai lại cố tình bám lấy cái ý tưởng sai lầm và lạc điệu “Tôi không làm chính trị” để lẩn trốn bổn phận của mình. Đức Thánh Cha nói rất vắn gọn, chúng ta phải hiểu nhiều……Tổng Giám Mục Chaput nói rất rõ ràng…Ngài nói với người Mỹ. Nhưng là người Công Giáo thì ở đâu cũng vậy thôi. Nhất là ở Việt Nam, với tình trạng đất nước hiện nay, áp dụng lời khuyên của Đức Thánh Cha và Đức Tổng quả là hợp lý, đúng nghĩa và cần thiết.

 

*****

  

Trước khi bắt đầu câu chuyện, Đức Tổng Chaput xác định vài điều:

 

1-     Canada và Hoa Kỳ là hai nước bạn láng giềng thân thiết từ lâu, đến độ người Hoa Kỳ cứ tưởng hai nước là một, nhưng thực sự lịch sử của hai nước, cấu trúc chính trị của hai nước và ngay cả cách nhìn ra thế giới của hai nước –về một vài phương diện- lại khác nhau. Nhưng thiết nghĩ, trọng tâm ý nghĩa của ơn gọi chính trị của người Công Giáo thì ở đâu cũng vậy, cho dù sẽ có ít nhiều thay đổi chi tiết tùy theo quốc gia. Tuy nhiên cốt lõi của sứ mệnh người môn đệ Chúa Kitô trong đời sống công cộng thì luôn luôn giống nhau, bởi vì tất cả chúng ta cùng chia sẻ chung một bí tích rửa tội.

 

2-     Điều xác định thứ hai là NIỀM TIN và CHÍNH TRỊ . Nó chẳng phải là cái gì mới mẻ. Nó rất cũ và xưa như trái núi; đã từng được Đức Tổng nói đi nói lại, nói mỗi năm từ 12 năm qua. Nếu ai đã nghe biết rồi thì cứ việc tự nhiên bỏ ngoài tai, ngủ khò. Tuy nhiên Henry Ford  đã từng nói là: “2% dân chúng có suy tư, 3% nghĩ rằng mình có suy tư, còn 95% thì cho rằng thà chết còn hơn là cứ phải trầm ngâm suy nghĩ”. Đức Tổng không bàn về cái nhìn quá bi quan của Ford về con người. Nhưng ngài xác nhận rằng đa số những người ngài đã gặp như mục sư, linh mục chẳng hạn, họ có đầu óc và biết suy nghĩ để sống một đời sống đầy đủ và hoàn hảo. Tuy nhiên mặc dù không chủ ý như vậy nhưng Ford đã nói rất đúng: Nền văn hóa tiêu thụ của Hoa Kỳ nó như một loại ma túy cực mạnh. Nói về luân lý thì xem ra người ta có vẻ rất khó khăn, ngại ngùng nhưng coi truyền hình thì lại là một thú tiêu khiển không thể bỏ qua, một phương thuốc chấn thống tuyệt diệu. Điều này ảnh hưởng khá nhiều về chính trị. Tự do thực sự đòi hỏi phải có khả năng suy nghĩ và phần lớn đời sống tân tiến ngày nay –không chỉ riêng ở Hoa Kỳ mà ở tất cả những nước phát triển trên thế giới- xem ra đựợc cố tình thiết kế để khỏi phải suy nghĩ. Vậy nói về Chúa và Caesar, nếu thức tỉnh được tâm tư của một Kitô hữu trong số khán thính giả hiện diện thì cũng đáng công lắm rồi.

 

Điều quan trọng là mỗi người chúng ta cần phải tu luyện để có một lương tâm Công Giáo chính đáng, tinh tuyền và mạnh mẽ để dựa theo đó mà thi hành bổn phận công dân, và phải biết lãnh trách nhiệm, chấp nhận hậu quả của việc mình làm. Không ai có thể làm thay cho chúng ta được. Vì vậy nhận thức chính xác, sống và dấn thân thực sự theo niềm tin Công Giáo của mình quả là rất quan trọng. Nó là chỉ dẫn duy nhất và đáng tin cậy để một môn đệ Chúa Kitô hành sử trong đời sống công cộng.

 

 

 “HÃY TRẢ LẠI CHO CAESAR…” [1]

 

Bây giờ nói về cuốn sách: “ Hãy trả lại cho Caesar…”. Tại sao Đức Tổng viết quyển sách này? Sách nói gì? Sách có ý nghĩa gì đối với người Công Giáo?

 

LÝ DO VIẾT CUỐN SÁCH NÀY

Vào năm 2004, một luật sư trẻ thuộc đảng Dân Chủ nhưng chủ trương bảo vệ sự sống / Pro life ra tranh một chức vụ dân cử ở Colorado. Ông suýt nữa thắng ngay trong chính một quận thuộc đảng Cộng Hòa. Nhưng ông cho tôi biết quả là khó khăn khi phải trong cùng một lúc vừa vận động gây quĩ tranh cử vừa phải trung thành với niềm tin Công giáo. Do đó sau bầu cử, ông yêu cầu tôi viết lại tất cả những suy tư về NIỀM TIN và CHÍNH TRỊ thành sách để giúp cho giới trẻ Công Giáo học hỏi, suy tư và sử dụng, hành sử như là một “Ơn Gọi Chính Trị” thực sự.

 

Ngoài ra tôi cũng có một lý do khác nữa để viết cuốn sách đó. Thực sự mà nói, tôi chán ngấy cái điệu cứ phải nghe người ta nói cả ở trong giới công giáo lẫn ngoài công giáo là người Công Giáo nên yên lặng, đừng nói về tôn giáo của mình và những quan điểm luân lý của đạo mình trong những cuộc tranh luận công khai giữa công chúng. Đó quả là một tư tưởng áp chế. Người Công Giáo chúng ta nhất định không thể chấp nhận  nó được.

 

Một lý do nữa khiến tôi viết là khi tôi tìm kiếm một tài liệu rất đơn giản nói về ơn gọi chính trị của người Công Giáo thì không có.  Đó là một sự kỳ lạ! Mỗi công dân cũng như mỗi người công giáo đều có bổn phận góp công sức của mình vào đời sống công cộng. Đó không phải là một phù phép hay một khoa học cao siêu gì. Là công dân một nước, chúng ta không bao giờ được ỷ lại mà phải tích cực góp phần xây dựng đất nước cùng với những chuyên viên kinh tế và chính trị. Đời sống chính trị của một quốc gia, cũng giống như đạo Kitô giáo của chúng ta, nó là chung của hết mọi người và mỗi người đều có trách nhiệm phải góp phần vun trồng và phát triển. Nền dân chủ của một nước phụ thuộc vào sự dấn thân tích cực của tất cả mọi công dân, không phải chỉ của những nhà vận động, các chuyên viên, bô phận đầu não quốc gia và khối truyền thông báo chí. Đối với người Công Giáo, chính trị -tức đòi hỏi Công Lý, Công Bằng và Công Ích- là một phần của lịch sử ơn cứu độ. Không ai là phụ, không ai đóng vai nhỏ bé trong kịch bản đó cả. Mỗi cá nhân đều quan trọng.

 

NỘI DUNG CUỐN SÁCH ‘RENDER UNTO CAESAR’

 

Vậy thì cuốn sách nói gì? Đầu đề cuốn sách đã nói lên cái nội dung của nó. Hãy trả lại cho Caesar cái gì thuộc về Caesar hay là Phục vụ Quốc Gia bằng Niềm Tin Công Giáo của mình trong Đời Sống Chính Trị. Sách được tóm gọn trong những điểm sau:

 

*Nhận biết lịch sử của mình.

Từ nhiều năm nay, nghiên cứu cho thấy dân Hoa Kỳ đã chẳng biết gì về lịch sử. Đó là điều rất nguy hiểm, bởi vì cả Thucydides, Machiavelli lẫn Thomas Jefferson đều đã nói “Lịch sử rất quan trọng”. Quan trọng bởi vì quá khứ làm nên hiện tại và hiện tai sẽ tạo ra tương lai. Nếu người Công Giáo không biết lịch sử, nhất là lịch sử của chính mình là người Công Giáo thì sẽ có người khác –thường  thường lại không thân thiết với mình- sẽ làm lịch sử thay cho mình. Nói một cách khác, một người mất trí nhớ thì không có hiện tại và tương lai bởi vì họ không thể nhớ lại được quá khứ. Kinh nghiệm và thực tế cho thấy quá khứ là cái neo của con người. Không có nó, con người như bay lơ lửng vô định ở trên không. Tương tự như vậy, nếu người Công Giáo chúng ta không nhớ và không bảo vệ lịch sử tôn giáo mình thì chẳng có ai làm thay cho ta đâu. Lúc bấy giờ chúng ta sẽ chẳng có tương lai bởi lẽ chúng ta không có quá khứ. Nếu chúng ta không biết Giáo Hội đã hành động, làm việc và tranh đấu thế nào để có những qui luật chính trị ở trong quá khứ thì ngày nay chúng ta chẳng có thể hiểu biết và suy nghĩ một cách trong sáng về những tương quan, liên hệ giữa Giáo Hội và quốc gia.

 

*Hoa Kỳ là một quốc gia tôn giáo

Hoa Kỳ không phải là một quốc gia thế tục, vô đạo. Sử gia Paul Johnson có lần đã nói “Hoa Kỳ là một quốc gia được sinh ra là Tin Lành” Đó là tôn giáo gốc duy nhất. Dĩ nhiên Hoa Kỳ không có Quốc Giáo nhưng có những cơ sở công không thuộc về giáo phái nào cả. Cũng có nhiều địa điểm để cho những người có đạo và không có đạo sinh hoạt. Nhưng Hiệp Chủng Quốc không bao giờ được thiết lập với chủ trương vô tôn giáo. Hầu như tất cả các nhà lập quốc đều hoặc là Kito hữu hay ít nhất cũng chấp nhận tôn giáo.  Tất cả những cơ sở công và những tư tưởng của chúng ta về con người đều dựa trên căn bản tôn giáo. Nếu chúng ta loại bỏ Thiên Chúa ra khỏi đời sống công cộng tức là chúng ta cũng loại bỏ nguồn gốc chúng ta ra khỏi lý tưởng quốc gia của chúng ta.[2]

 

*Hãy làm sáng tỏ các ngôn từ về chính trị

Chúng ta cũng nên xác định những danh từ thuộc về Chính Trị cho rõ ràng, bởi vì ngôn từ rất quan trọng; nó biểu hiện suy tư của chúng ta, và suy tư của chúng ta sẽ dẫn đưa chúng ta đến hành động. Khi chúng ta diễn tả sai lạc ý nghĩa của ngôn từ như danh từ “Công Ích”  “Lương Tâm” hoặc “Cộng Đồng” hay “Gia đình” thì chúng ta đã làm mất ý nghĩa của ngôn ngữ là thứ ta dùng để diễn tả suy tư của chúng ta về pháp luật. Ngôn ngữ “bất lương” hay cố tình làm sai lạc ý nghĩa của ngôn từ sẽ đưa tới tranh luận bất lương và luật lệ bất hảo. Đan cử một thí dụ: Chúng ta biết rằngNhân nhượng không phải là một nhân đức Kito giáo”. Bác Ái, Công Lý, Từ Bi, Khôn Ngoan, Lương Thiện….mới là những nhân đức Kitô giáo. Vậy mà trong nhiều cộng đồng, nhân nhượng, chịu đựng lại là một nguyên tắc quan trọng để sống trong khi đó nhân nhượng tự nó  không bao giờ là một cứu cánh cùng đích. Thực vậy, nhân nhượng, chịu đựng tội ác trong xã hội, đất nước và cuộc sống thì tự nó đã là một hình thức của tội ác rồi. Người ta thường nói: “Yên lặng tức là đồng lõa”. Cũng giống như vậy, dân chủ đa nguyên không có nghĩa là người Công Giáo phải yên lặng trước công chúng, không được phát biểu / lên tiếng về những vấn đề luân lý quan trọng và cần thiết, lấy cớ hoàn cảnh khó khăn và tế nhị…. do những quan niệm lệch lạc trong cung cách hành sử.  Một nền dân chủ lành mạnh, để được tồn tại lâu bền, đòi hỏi phải có những tranh luận gắt gao về luân lý. Đa nguyên thực sự cũng đòi hỏi người dân phải có một niềm tin sắt đá, luôn luôn sẵn sàng đưa ra những phán quyết của mình trước công luận, một cách ôn hòa và tương kính trong khuôn khổ luật pháp, không chơi bẩn hạ nhục ai, nhưng phải quyết liệt. Không làm được như vậy thì chứng tỏ chỉ là một công dân tồi, một loại đạo trích, gian dối hoặc lừa đảo trong đối thoại mà thôi [3]

 

*Ranh giới giữa Thần Quyền và Thế Quyền

Khi Chúa Giêsu nói với những người Pharisiêu và nghững người thuộc phe Hêrođê như trong Tin Mừng thánh Mathew (Math. 22: 21) là “Hãy trả cho Caesar cái gì thuộc về Caesar và trả cho Thiên Chúa những gì thuộc về Thiên Chúa” là Người đã vẽ ra quá rõ ràng cái cấu trúc của tôn giáo và quốc gia. Ngài đã dạy chúng ta phải nghĩ thế nào về tôn giáo và quốc gia thời bấy giờ và ngay cả hiện nay. Caesar là vua có cái quyền của một ông vua. Chúng ta là dân có bổn phận dân sự là vâng lời và kính trọng vua. Nhưng sự vâng lời đó có điều kiện là bị giới hạn bởi những cái gì thuộc về Thiên Chúa[4]. Caesar không phải là Thiên Chúa. Chỉ có Thiên Chúa mới là Chúa mà thôi. Mà quốc gia thì phụ thuộc vào Thiên Chúa và phải trả lời Thiên Chúa về những công việc mà họ đã làm đối với dân là những người mà Thiên Chúa đã tạo dựng nên. Bổn phận của chúng ta là những tín hữu  phải biết hình dung ra xem cái gì thuộc về Caesar, cái gì thuộc về Thiên Chúa để mà đặt nó vào đúng vị trí tương xứng của nó trong cuộc sống của chúng ta, trong những tương quan giữa chúng ta với tha nhân và nhà nước.

 

*Tham gia sinh hoạt chính trị là Bổn Phận và Ơn Gọi của người Công Giáo

Sau khi đã nói tất cả những điều như ở trên thì cuốn sách “Hãy trả lại cho Caesar”, trong thực tế, có ý nghĩa gì đối với mỗi người Công Giáo chúng ta?  Dĩ nhiên mỗi người chúng ta có bổn phận phải trau dồi học hỏi để cho Niềm Tin của chúng ta triển nở dưới sự hướng dẫn của giáo huấn của Giáo Hội. Nó cũng còn có nghĩa là chúng ta có bổn phận phải tham gia vào những sinh hoạt chính trị. Tại sao vậy? Bởi vì chính trị là thực thi quyền lực, và việc sử dụng cái quyền đó phải luôn luôn có một nội dung luân lý, đạo đức và nhân bản hầu đem lại kết quả tốt cho người dân.

 

Là Kito hữu, chúng ta không thể nói chúng ta yêu Chúa mà lại không nghĩ gì đến những nhu cầu của người hàng xóm và của tha nhân. Yêu Chúa cũng giống như yêu người phối ngẫu. Một ông chồng nói với vợ là ‘anh yêu em’ thì quả là tuyệt đẹp rồi. Nhưng bà vợ vẫn còn phải chờ xem ông chồng chứng tỏ cái tình yêu đó thế nào. Tương tự như vậy, nếu chúng ta nói chúng ta là người “Công Giáo”, chúng ta cũng phải chứng tỏ bằng tư cách và cuộc sống hàng ngày của chúng ta. Phục vụ tha nhân bằng cách làm việc, tranh đấu cho công lý, công bằng, cho bác ái và sự thật trong đời sống chính trị của quốc gia là một trong những phương cách rất quan trọng mà chúng ta phải làm.

 

Tách biệt Tôn Giáo ra khỏi Chính Trị hay Đạo ra khỏi Đời không có nghĩa –hay chẳng bao giờ có nghĩa- là tách biệt Niềm Tin Công Giáo ra khỏi (hay dửng dưng trước) những bất công xẩy ra trong xã hội, ra khỏi những chọn lựa chính trị và những hành động / hành vi chính trị. Tách biệt ra như vậy tức là tự từ chối mình là người Công Giáo; khước từ lời Chúa dạy chúng ta “…Hãy là Men cho đời” (Math.13:33) và “ …Hãy đi làm cho muôn dân trở thành môn đệ…” (Math.28:19). Tách biệt như vậy là ta đã đánh cắp mất cái nền tảng / nội dung đạo lý của xã hội, tương tự như biểu một anh chàng đã có vợ hãy hành sử như là độc thân nơi công cộng. Dĩ nhiên anh chàng đó có thể làm như vậy, nhưng cuộc hôn nhân của hắn chắc cũng chẳng bền vững được bao lâu.

 

ĐẢNG PHÁI VÀ BẦU CỬ

 

Đức Tổng Chaput nói là ngài chẳng thuộc về đảng phái chính trị nào cả, bởi vì một phần ngài là giám mục, một phần vì bây giờ ngài đã lớn tuổi nên khôn hơn hồi xưa. Nhưng khi  còn là một linh mục trẻ, ngài ở trong ban vận động tranh cử của Bobby Kennedy. Sau này năm 1976 và 1980 Đức Tổng tình nguyện vận động cho Jimmy Carter.  Nếu hỏi đảng gốc của Đức Tổng là đảng nào thì phải nói là đảng Dân Chủ. Nhưng trong sách Đức Tổng nói là một trong những bài học mà chúng ta học được 50 năm trước là kiếm một đảng chính trị Công Giáo vừa ý thì lại không có.  Nhưng kinh nghiệm cho thấy người Công Giáo càng cảm thấy thoải mái với bất cứ một đảng chính tri nào sớm hơn thì cái đảng ấy lại càng lợi dụng họ lẹ hơn bấy nhiêu và chẳng còn đếm xỉa gì đến những ưu tư của người Công Giáo nữa.. Trung thành với đảng phái theo thói quen hay theo truyền thống gia đình hoặc quyền lợi giai cấp, sắc tộc màu da thì chỉ là nhắm mắt theo đuôi mà thôi. Đó là loại ỷ lại, lười biếng, nguy hiểm chết người…. Vấn đề nào cũng quan trọng cả.  Đặc tính nào cũng hay hết. Hành sử theo nguyên tắc cũng cần thiết. Nhưng trung thành với đảng chỉ vì đảng thì là con đường cùng không lối thoát.

 

Viết cuốn sách “Hãy Trả lại cho Caesar” –Đức Tổng nói- không phải để ủng hộ hay công kích bất cứ một ứng cử viên hoặc đảng phái chính trị nào.  Mục đích viết sách đơn giản chỉ là trình bày những điều thực cần thiết mà người Công Giáo cần phải có và áp dụng trong những sinh hoạt chính trị và cuộc sống hàng ngày nơi cộng đồng xã hội, quốc gia và với mọi người, đặc biệt thi hành trong những cuộc bầu cử ở địa phương hay toàn quốc hay trước những bất công xẩy ra trong xã hội đối với cá nhân hay tập thể hoặc chung cho cả cộng đồng dân tộc.

 

Ba tuần trước ngày bầu cử tổng thống Hoa Kỳ hồi tháng 11 năm 2008, Đức Tổng đã viết:

   -Tôi tin rằng nghị sĩ Obama, không cần biết ông tài năng thế nào, nhưng chắc chắn ông là một ứng cử viên tổng thống thuộc đảng Dân Chủ ủng hộ phá thai từ khi vụ Roe vs Wade năm 1973 được quyết định. Trong cuộc tranh cử, Obama không chỉ là một ứng viên TT chủ trương phá thai một cách điên cuồng, ông còn  phản đối, đòi hủy bỏ tư tưởng giết trẻ con còn trong bụng me là một hành động đáng trách. Nên nhớ là mục sư Dietrich Bonhoeffer thuộc Giáo Hội Lutheran đã công khai gọi hành động giết hài nhi là SÁT NHÂN. Ây vậy mà tại Đại Hội đảng Dân Chủ ở Denver tháng 8 năm 2008, chống sự sống / anti life / Pro choice, phá thai đã là chủ trương chính thức của đảng dân chủ.

 

Giống như một số người Công Giáo hay nói, tôi tưởng tượng là “ Obama trở thành ứng cử viên tổng thống “phò sự sống / ProLife” thì ông ta cần phải có một khả năng đặc biệt và phi thường là ông có thể tự thôi miên ông hoặc ông có một lầm lẫn luân lý nào đó hay cái gì tệ hại hơn nữa…để trở thành nhân vật phò sự sống (chống phá thai). Như vậy thì đại hội đảng dân chủ chọn ứng viên tổng thống cho đảng mình là “Phò Sự Sống”. Lúc đó ý nghĩa của từ “Phò Sự Sống” sẽ phải đảo ngược lại.

 

Như vậy thì tôi lại có lý do để làm sáng tỏ vấn đề này nữa. Trong cuộc sống văn minh hiện đại ngày nay –kể cả trong Giáo Hội Công Giáo- người ta thường bị lương tâm giày vò, áy náy vì những điều giả mạo gian dối ngoài ý muốn để chứng tỏ mình là kẻ khôn ngoan và có tư cách, nhưng thường lại biến mình thành một thằng hèn. Con người thì phải biết kính trọng và đối xử lịch sự với nhau, nhưng đồng thời cũng phải biết nói với nhau lời chân thật một cách thẳng thắn.

 

TT Obama là một người thông minh và có vài khả năng đặc biệt. Ông có tài lôi cuốn người nghe. Nhưng dù ông có tài giỏi đến đâu đi nữa, ông cũng không thể che dấu được ông là người chủ trương “Phá Thai” và vẽ ra một viễn tượng, chương trình huy hoàng về Đoàn Kết, Hy Vọng và Thay Đổi. Dĩ nhiên ông có thể thay đổi. Tất nhiên một vài điều sẽ phải thay đổi khi một người bước vào Tòa Nhà Trắng. Quyền lực làm cho người ta trở thành quí phái, nhưng đồng thời lại làm giảm giá trị của những người khác. Những tư tưởng dở có thể được cải tiến. Những luật lệ tốt có cơ hội triển nở thêm. Nhưng là người Công Giáo, ít nhất chúng ta cần phải lương thiện với chính mình và với tha nhân, những người chung quanh ta về những sự thật lịch sử chính trị mà chúng ta có từ những bước khởi đầu.[5]

 

Nhưng buồn thay, với chính quyền hiện tại, người Công Giáo tại Hoa Kỳ lại gặp khá nhiều khó khăn. Tại sao vậy? Tinh thần a dua nịnh bợ đã thấy thấp thoáng nơi một số những người Công Giáo có cảm tình với đảng Dân Chủ như văn sĩ, học giả, chủ bút và những nhà hoạt động xã hội đã dè bỉu những người “Phò Sự Sống” là quá thân thiết với đảng Cộng Hòa. Nhưng họ đâu có biết rằng, cuối cùng khi lộ ra thì ‘đảng nào cũng vậy thôi’ (Caesar is an equal opportunity employer).

 

Thiết nghĩ, người Công Giáo nên nhớ 4 điều sau đây:

 

1-     Quyền hành của tất cả mọi thủ lãnh chính trị, những nhà lãnh đạo quốc gia là do Thiên Chúa mà có, cho nên chúng ta không bắt buộc phải thần phục hay cộng tác với họ khi họ làm điều ác. Trái lại, chúng ta có bổn phận phải thay đổi những luật lệ bất công bất chính và chống lại tội ác trong đời sống công cộng bằng cả lời nói lẫn hành động một cách ôn hòa. Sự nể trọng thực nhất của chúng ta đối với chính quyền là chứng tá niềm tin Công Giáo và phán quyết luân lý của chúng ta không cần phân trần, biện giải, xin lỗi.

2-     Trong một chế độ dân chủ, qua bầu cử chúng ta chọn người để phục vụ dân tức“đầy tớ của dân” chứ không phải là chọn người để chỉ dạy dân. Trong hoàn cảnh kinh tế suy thoái hiện nay, người dân, kể cả chúng ta là người Công Giáo, chọn người tài để chỉnh đốn tình trạng kinh tế. Họ không  ủy nhiệm cho bất cứ ai để sơn phết làm lại văn hóa của đất nước về những vấn đề hôn nhân và gia đình, tính dục, phá thai, đạo đức sinh học và tôn giáo trong đời sống công cộng. Chuyện đó có thể xẩy ra một cách dễ dàng, và rõ ràng là nó sẽ xẩy ra, nhưng chỉ có người Công Giáo và tín hữu của những đạo giáo khác cho phép làm mà thôi.

3-     Điều thứ ba cần nhớ. Nếu chúng ta chỉ tuyên bố điều chúng ta tin mà không muốn sống và hành động với NIỀM TIN đó thì chẳng có ý nghĩa gì cả. Tuyên bố mình là người Công Giáo thì dễ, nhưng Sống và Hành Động để chứng tỏ là người Công Giáo mới là quan trọng. Nhiều người Công Giáo đã bỏ phiếu bầu cho Obama và cho cả Mc Cain nữa, bởi vì cả hai đảng đều có những người đàng hoàng tử tế. Nhưng khi biết rằng 54% người công giáo bầu cho Obama tháng 11 vừa qua thì rõ ràng là suy tư của con người quả như sóng biển nương dâu. Chúng ta có thể đặt vấn đề là có bao nhiêu người thực sự thi hành Niềm Tin của mình? Nếu bầu cho Obama là thực hành niềm tin thì phải chăng bầu cho McCain là không thi hành niềm tin hoặc ngược lại? Dĩ nhiên khi bầu cho người mình muốn thì ai cũng có lý của mình cả. Chẳng có ai có thể làm thống kê cái bí mật thầm kín trong tâm can con người. Nhưng con số người bầu cho thấy nó có một giá trị nào đó, mặc dù chúng ta không thể bị xét đoán bằng cuộc bầu phiếu. Chúng ta sẽ bị phán xét xem chúng ta có chứng tỏ bằng hành động của chúng ta hay không khi chúng ta nói “Tôi là người Công Giáo và Chúa Kitô là Thiên Chúa và là Vua của tôi”.

4-     Điều thứ tư là điều cuối cùng cần phải nhớ, nó chẳng vui vẻ gì khi phải nói ra. Giáo Hội Công Giáo Hoa Kỳ từ hơn 40 năm nay đã không chu toàn tốt trách nhiệm của mình trong việc kiến tạo ĐỨC TIN và LƯƠNG TÂM CÔNG GIÁO, thành thử bây giờ chúng ta đang gặt hái hậu quả của việc chúng ta làm ngoài xã hội, trong gia đình và trong đời sống cá nhân đang bị đảo lộn và phá sản. Chúng ta có thể thấy nhiều người tốt chứng minh ngược lại điều tôi nói. Nhưng chúng ta có thể kể ra tên những người chứng minh cho điều tôi nói không sai mà một số hiện đang làm việc và sinh sống ở Washington D.C.[6]

 

Vấn đề là biết bao nhiêu lầm lỗi của chúng ta đã chồng chất quá nhiều ở trong quá khứ mà hậu quả của nó chính là tương lai trừ khi chúng ta biết nhận ra nó và sửa chữa. Sự thật là cử tri đoàn Hoa Kỳ đang thay đổi cả về phương diện luân lý đạo đức lẫn tuổi tác. Đừng kể trường hợp những người công giáo biết cải đổi tâm hồn và tự nhận biết mình bê bối. Chúng ta không phải chỉ tự đồng hóa mình với cái văn hóa gọi là “Hoa Kỳ” hay văn minh thời đại, toàn cầu hóa mà chúng ta còn bị nó thu hút, cải biến và tiêu hóa luôn. Lúc đó chúng ta không làm tròn bổn phận của chúng ta đối với những thế hệ tương lai và cử tri đoàn. Sự hiện diện thực sự của người Công Giáo trong đời sống người dân Hoa Kỳ sẽ tiếp tục yếu dần và rồi biến mất.

 

Cứ mỗi lần có bầu cử là tôi lại nghe những người Công Giáo than phiền là có quá nhiều vụ phá thai. Nhưng đó có phải là tình trạng bắt buộc nó phải như vậy không? Một trong những xác định rõ ràng nhất là người Kitô hữu thời sơ khai khác biệt với những người ngoại và văn hóa của họ là “tôn trọng sự sống con người”, và đặc biệt “ từ chối phá thai”. Chúng ta không thể nhận mình là Công Giáo mà lại lảng tránh và nhân nhượng để cho người ta giết hài nhi vẫn còn trong bụng mẹ. Chúng ta không thể nhận mình là “Công Giáo” mà lại đồng ý tán thành “Phá thai, Phò lựa chọn / Abortion, Pro-choice” cùng một lúc mà không nhận lãnh trách nhiệm về việc mình làm cùng hậu quả việc giết hài nhi. Chúng ta không thể nói xuông về những chương trình giảm phá thai mà không hành động một cách tận lực để có thể thay đổi luật lệ giết hài nhi.  Là người Công Giáo, chúng ta phải tin rằng mạng sống con người đã được thánh hóa. Nếu chúng ta thực sự không tin là đứa nhỏ trong bụng mẹ là con người khi mà sự sống bắt đầu thì chúng ta không thể tự dối mình, dối người và dối cả Chúa và hãy nói rằng “Tôi không phải là Con Người”.

 

Giáo huấn xã hội của Công Giáo vượt qua cả vấn đề phá thai. Ở Hoa Kỳ chúng ta còn nhiều vấn đề khẩn cấp cần phải để ý, từ việc cải tổ vấn đề di dân đến y tế, vấn đề nghèo đói và vô gia cư.[7]  Giáo Hội tại Denver và toàn thể Hoa Kỳ đã hứa làm những chuyện đó. Nhưng chúng ta cần phải làm tốt hơn nữa để giúp những phụ nữ có vấn đề khi mang thai. Các giám mục Hoa Kỳ đã áp lực trên những người lãnh đạo quốc gia về vấn đề này từ hơn 30 năm nay. Thà rằng chúng ta bỏ tiền ra giúp đỡ những phụ nữ mang thai bất đắc dĩ đó được mẹ tròn con vuông, có nghề nghiệp công ăn việc làm, đứa con được nuôi dưỡng đàng hoàng còn hơn là bỏ tiền ra để cho phép và tài trợ những hành động giết người một cách thầm kín hoặc công khai. Chúng ta không thể kiến tạo một xã hội bằng máu của những đứa trẻ chưa được mở mắt chào đời. Quyền được Sống là một quyền căn bản của con người tức nhân quyền. Nếu chúng ta làm ngơ như không biết tới nó thì sớm muộn các quyền lợi khác của chúng ta cũng sẽ bị chính trị hóa và chiếm đoạt.

 

HY VỌNG / ĐỨC CẬY

 

Một trong những từ mà chúng ta nghe đến nhàm tai trong cuộc vận động tranh cử tổng thống Hoa Kỳ vừa qua là “HY VỌNG”. Tôi thấy từ “Hy Vọng” là danh từ duy nhất trong Anh ngữ mà người ta thường dùng một cách sai lạc tệ hại hơn cả từ “TìnhYêu”. Đôi khi người ta dùng nó một cách rỗng tuếch để phân bua giã lả, thí dụ như câu nói: “Tôi ‘hy vọng’ hôm nay tôi không nói điều gì quá ngu xuẩn”. Nhưng đối với người Công Giáo, hy vọng là một nhân đức tức Đức Cậy, nó không phải là một sự chống chế có cảm tính hay làm bộ giả hình nhân đức hoặc tuyên truyền chính trị tranh cử nhất thời. Từ nhân đức / Virtue do từ tiếng La tinh là VIRTUS mà ra, có nghĩa là sức mạnhcan đảm. Hy Vọng Thực thì không có cảm tính. Nó chẳng có nghĩa gì để mà lạc quan tếu như trong những cuộc vận động tranh cử. Hy Vọng bao gồm / đòi hỏi và là cốt lõi / cột trụ của những ai tin tưởng. Vì vậy, ít nhất là đối với người Kito hữu, Hy Vọng đòi hỏi chúng ta phải tìm cho ra câu trả lời đích đáng cho vấn đề hay một chọn lựa khó khăn trong cuộc sống khi phải nói “Không, chúng ta không thể làm điều thất đức này được” thay vì “Có, chúng ta có thể làm được…”

 

Bảy mươi năm về trước văn hào nổi tiếng người Pháp là Georges  Bernanos đã viết tiểu luận “Bài giảng của một tên bất khả tri[8] vào ngày lễ kính thánh Teresa thành Lisieux”  Bernanos đa nghi kinh khủng đối với chính trị nhưng lại yêu mến Giáo Hội Công Giáo vô cùng. Ông rất mực công minh. Ông chẳng thích phe tả mà cũng chẳng ưa phe hữu. Ông lại có óc khôi hài châm biếm rất sắc bén đối với những người tỏ vẻ thoải mái, những kẻ tự mãn và những người dửng dưng hững hờ làm bộ ta đây là người Công Giáo, cả giáo dân lẫn giáo sĩ.

 

Trong câu chuyện của ông, ông tưởng tượng “Điều mà bất cứ một người bất khả tri xứng đáng nào có trí thông minh trung bình cũng có thể nói được, nếu chẳng may một dịp bất khả kháng nào đó mà cha xứ cho phép anh ta đứng trên tòa giảng mà giảng vào ngày lễ kính thánh nữ Teresa thành Lisieux”:

 

Anh chàng bất khả tri nói trên tòa giảng như sau:

Anh em thân mến, rất nhiều người chẳng tin gì cả mà lòng họ lại không trai đá như các anh em tưởng tượng….Nhưng khi chúng ta tìm kiếm Chúa Kito ở trên thế gian này thì chính anh em phải tìm và chỉ có anh em mà thôi…..Chính anh em là những Kito hữu được tham dự vào bản tính Thiên Chúa như trong phụng vụ nói. Chính anh em, những “người có bản tính Thiên Chúa”, đã là đại diện của Chúa ở trên dương thế này từ khi Chúa Kitô về trời ….Anh em là muối của trần gian, nếu thế gian mất vị muối thì tôi phải quở trách ai đây?....Tân Ước thì luôn luôn hiện đại trẻ trung, còn anh em thì lại quá già…..bởi vì anh em không sống với niềm tin của anh em; niềm tin của anh em đã ngừng hoạt động, đã chết rồi”.

 

Bernanos không ưa những học giả, những tay kênh kiệu và những tên đạo đức giả. Ngược lại, ông tin tưởng ở những bông hồng tươi thắm nhỏ bé như nữ thánh Teresa thành Lisieux, người đã chống đỡ Giáo hội và biến cải thế giới bằng sự thánh thiện, đơn sơ, hồn nhiên với một đức tin nhiệt thành nồng cháy. Đó là một hồng ân mà mỗi người chúng ta phải cầu xin thì sẽ được, nếu chúng ta có lòng can đảm chọn lựa nó và hành động theo nó. Chỉ có những ai thực sự biến cải, thay đổi thế giới mới là thánh nhân mà thôi. Mỗi người chúng ta có thể là thánh nhân, nhưng chúng ta cần phải ước muốn và bước theo những bước đường dẫn đưa tới đó.

 

Bernanos đã có lần viết là chủ nghĩa lạc quan tếu về một thế giới hiện đại, gồm cả những  loại “chính trị dựa vào hy vọng” nó giống như một người đi qua nghĩa địa vừa đi vừa huýt sáo một cách thản nhiên. Đó chẳng qua chỉ là một hình thức thay thế hoặc che đạy một hy vọng thực bằng “một loại ‘hy vọng’ ích kỷ, tự cô lập, tách biệt mình ra khỏi những nỗi bất hạnh, đau khổ khốn cùng của người khác một cách xảo quyệt” bằng cách tỉnh bơ làm bộ suy nghĩ về những tiến triển gì đâu đó. Hy vọng thực “cần phải tranh đấu mới có được. Chúng ta chỉ đạt được hy vọng bằng sự thật với một cố gắng và nhẫn nại phi thường…..Hy Vọng là một nhân đức / virtus có nghĩa là sức mạnh, một quyết chí và can đảm anh hùng. Và một hình thức cao nhất của Hy Vọng là chiến thắng, vượt qua nỗi tuyệt vọng”.

 

Bất cứ ai không nhận ra được nỗi tuyệt vọng ở cái thế giới ngày nay thì có lẽ nên đi ngủ. Từ HY VỌNG  dùng trên những tờ quảng cáo vận động tranh cử làm cho chúng ta hứng khởi một chút xíu vì tưởng rằng công lý gần kề, nhưng thế giới thực thì vẫn rách nát khi mà liều thuốc mê hoặc đó tan đi[9]. Chúng ta chỉ có thể đạt được hy vọng qua sự thật. Điều đó có nghĩa  -kể từ lúc Chúa Giêsu nói: “Ta là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống”-.thì bất cứ ai cũng có thể nói được “Chúa Giêsu Kito là Vua”. Đó là một tuyên cáo chính trị rất quan trọng.

 

Chúng ta phục vụ Caesar / chính quyền một cách đầy đủ khi mà chúng ta đã phục vụ Thiên Chúa trước.  Chúng ta vinh danh ca tụng tổ quốc đất nước chúng ta bằng cách sống Niềm Tin Công Giáo của chúng ta một cách lương thiện và quyết liệt, tuyên xưng biểu lộ nó ra trước công luận và công chúng không cần bàn cãi, phân trần hay xin lỗi. Chúng ta là những công dân của Nước Trời trước tiên, bởi vì Chúa đã thương yêu trần gian quá mức đến độ sai con một người xuống cứu chuộc chúng ta….Vì vậy cuộc sống của người tín hữu Kito giáo có thể tóm gọn như sau: Chúng ta càng yêu Chúa một cách chân thật đúng với Niềm Tin của chúng ta bao nhiêu thì chúng ta phục vụ đất nước chúng ta thực sự bấy nhiêu.

 

ĐÔI LỜI KẾT

 

Để kết thúc bài viết, xin được trích lời Đức TGM Charles Chaput trong lời mở đầu cuốn sách “Hãy trả lại cho Caesar…”:

 

   - Ai coi việc Tin Chúa là quan trọng –Đức Tổng Chaput nói- thì sẽ không giữ Đức Tin cho riêng mình. Nếu họ có bất đồng ý kiến về một vấn đề gì thì họ sẽ không ngồi yên cấm khẩu. Họ sẽ hành động để thực hiện điều họ tin cho dù có phải trả giá đắt cho thanh danh hay sự nghiệp của họ. Dĩ nhiên theo lẽ bình thường, họ phải tôn trọng ý kiến khác biệt của những người có niềm tin khác với họ. Nhưng đối với người Công Giáo, lẽ bình thường đó không có nghĩa là họ phải ngậm miệng trong những cuộc tranh luận trước công chúng về những vấn đề nhân bản nền tảng. Đức Tin Kito giáo luôn luôn có tính cách cá nhân nhưng không bao giờ nó là của riêng của bất cứ ai. Vì vậy ý niệm ‘nhân nhượng’ hay ‘chịu đựng’ làm cho Niềm Tin thu hẹp về riêng cho mình thành một thói quen hay một quan niệm đến độ cảm thấy thoải mái dễ chịu khi yên lặng không lên tiếng trước công luận về những vấn đề luân lý đạo đức, nhân phẩm, nhân quyền thì không bao giờ có thể chấp nhận được.

 

Đó phải chăng Đức Tổng cũng chỉ nhắc lại ý của Chúa và các Thánh Nhân mà thôi: “Đức Tin mà không có thực hành là Đức Tin chết” (Gc.2:17) “Nếu nói yêu Chúa mà không yêu tha nhân, không đếm xỉa đến những đau khổ, bất công mà những người chung quanh, những người ngoại đang phải gánh chịu là nói láo, nói dối” (1Ga 2: 4)

 

Cũng về những vấn đề thuộc con người, đức đương kim Giáo Hoàng Biển Đức XVI đã phải cảnh cáo những người có trách nhiệm mà “Không lên tiếng cảnh tỉnh, phản đối, lên án những bất công, những vi phạm nhân vị, nhân quyền, nhân phẩm trong xã hội thì chẳng khác gì những con chó câm”.

 

Sau bài này, chúng tôi sẽ có dịp bàn về thông điệp thứ ba của ĐTC Biển Đức XVI  “Bác Ái trong Sự Thật / Caritas in Veritate” mới được tuyên đọc cho toàn thể CĐCG thế giới ngày 7-7-2009. Đây là một thông điệp sống mà James Stoner, giáo sư Chính trị học thuộc Đại học quốc gia Louisiana đã phải nói: “Thông điệp này có sức mạnh buộc người Công Giáo phải xuất đầu lộ diện, bước ra khỏi hầm trú ẩn”.[10]

 

Fleming Island, Florida

12-7-2009

NTC
 


[1] RENDER UNTO CAESAR: Serving The Nation by Living our Catholic Beliefs in Politic life. Tác gỉả: Charles Chaput, TGM Denver, Colorado. Xuất bản 2008.

[2] Việt Nam chúng ta từ nguyên thủy cũng là một nước có tôn giáo. Dĩ nhiên không phải là Công Giáo hay Tin Lành, nhưng tổ tiên chúng ta tin ở Trời. Chúng ta thờ đạo Ông Bà, đạo Phật, đạo Lão, đạo Khổng, Nho giáo…Sau này đạo Công giáo, Tin Lành …mới du nhập vào, nhưng tất cả mọi tôn giáo đều dạy người ta ăn ngay ở lành, thờ cha kính mẹ, làm lành lánh dữ. Quan niệm Thiện Ác của dân ta dù là Phật giáo hay Lão giáo, Khổng giáo, Công giáo.…đều giống nhau, nằm trong khuôn khỏ 10 điều răn Đức Chúa Trời. Tất cả  mọi người đều tin tưởng là trên đầu chúng ta, tức trên trời có ông Trời mà bây giờ ta gọi là Thiên Chúa.

[3] Như đã biết Chính trị là thực thi quyền lực, sử dụng quyền của mình để thi hành luân lý đạo đức, tức là “Công Lý, Công Bằng, Công Ích”. Đừng hiểu lầm 2 tiếng Chính Trị. ĐTC Gioan Phaolo II đã nói rõ ý nghĩa hai tiếng chính trị khi trả lời nhà báo Ý hỏi Ngài có làm chính trị không?

  -Đừng hiểu chính trị theo nghĩa hẹp. Giáo hoàng có bổn phận rao giảng phúc âm, mà trong phúc âm có con người, tức có nhân quyền, nhân vị, tự do, nhân phẩm và lương tâm cùng tất cả những gì thuộc về con người. Nếu tất cả những cái đó có một giá trị chính trị thì tôi làm chính trị, vì tôi bênh vực con người (Ezio Mauro e Paolo Mieli, G.P.II,La Stampa 04.03.91,p.2)

[4] Theo quan niệm Đông phương, Nho giáo, Vua là đại diện Trời (Thiên Tử) để cai trị dân bằng điều nhân nghĩa. Khổng giáo quan niệm Trời và Người cùng đồng một thể, cho nên dân muốn thế nào là Trời muốn như vậy (Ý dân là ý trời). Ông vua chỉ là một phần trong toàn thể, chỉ đại diện Trời coi sóc dân để dân nước được an bình thịnh vượng yêu thương nhau. Nhưng nếu vua làm điều gì trái lòng dân, tức là trái mệnh Trời thì sẽ bị Trời trừ khử bởi tay người dân. Vua, tuy đại diện Trời, nhưng đối với dân lại phải chịu hết trách nhiệm. Dân tuy chịu quyền của vua, nhưng vẫn có quyền bắt vua phải theo điều nhân đức mà làm. “Thiên căng vu dân, dân chi sở dục, thiên tất tòng chi”. Quan niệm xưa của ta cũng đâu có khác quan niệm của Công Giáo bây giờ là: Đòi hỏi nhà cầm quyền phải lấy nhân nghĩa mà trị dân, tạo điều công ích. Đó phải chăng là giới hạn của Thiên Chúa cho phép ta không phải vâng lệnh chính quyền khi họ làm điều thất đức, bất công, bất chính….

[5] Giáo Hội có biết bao nhiêu là Thánh anh hùng tử đạo, VN chúng ta có hơn 160 vị chính thức được GH phong hiển thánh vì các ngài đã chấp nhận cái chết vì Niềm Tin vào Chúa. Ở thời hiện đại, dưới chế độ CSVN cũng có biết bao vị cả giáo sĩ lẫn giáo dân như HY Trịnh như Khuê, GM Nguyễn kim Điền, cha chính Nguyễn văn Vinh, thày giảng Đỗ bá Lung, giáo dân Lâm đình Túy….đã chết rục tù vì niềm Tin. Nhưng cũng có không ít những người, lấy cớ này nọ để giữ yên lặng cho được yên thân, không dám mở miệng phản đối tội ác và bất công xẩy ra trong xã hội.

[6] Nhìn về Giáo Hội VN hiện giờ, người ta tuyên bố GH thăng tiến và phát triển, nhiều người chịu phép rửa tội, lễ nhà thờ đông nghẹt người xem, nhiều nhà thờ, cơ sở công giáo được xây dựng huy hoàng tráng lệ…Nhưng xã hội VN, CĐCGVN thực chất thế nào? Tình trạng bất công, xã hội sa đọa, tha hóa có khá hơn 30 năm trước kia không hay còn tệ hại hơn nhiều. Hậu quả do đâu? Một chế độ xấu hay tốt là do chính người dân đã giúp cho chính quyền có cơ hội trở nên xấu hay tốt.

[7] Ở VN không phải không có những vấn đề như vầy. Nó còn tệ hại hơn nhiều. và còn nhiều vấn đề khác nữa như tình trạng bất công xã hội, giàu nghèo quá chênh lệch, trẻ con thất học, sống trên vỉa hè, ăn xin, xì ke ma túy, nạn gái mãi dâm, tệ nạn buôn người….đã gây chấn động thế giới và làm nhục quốc thể

[8] Người đa nghi, cho rằng trí khôn con người không thẻ hiểu được những điều cao siêu về Thiên Chúa ngoài những việc cụ thể trước mắt.

[9] Chủ nghĩa CS / Marxit đưa ra một viễn tượng nghe thật tuyệt vời. Nó vẽ ra một hình ảnh thế giới đại đồng trong đó mọi người đều bình đẵng, không ai giàu hơn ai, mọi người đều là anh em đồng chí sung sướng thoải mái, mọi sự đều là của chung. Mọi người đều làm việc theo khả năng mà hưởng thụ thì theo nhu cầu. Sướng chưa? Làm ít mà lại được hưởng nhiều nếu mình cần.. Sự  thực ra sao? Hãy nhìn vào thế giới CSVN hiện nay xem nó thế nào?  Nó đã bị lột trần sự thật, nhưng người ta vẫn cố gắng biện minh, vẫn cố vẽ tranh, tô sơn để che đặy những bất công thối nát tội lỗi của nó ….

[10] James Stoner: Encyclical forces Catholics out of the Bunker

 

VỀ MỤC LỤC
ĐỐI VỚI THIÊN CHÚA, KHÔNG CÓ GÌ LÀ KHÔNG THỂ LÀM ĐƯỢC !”
 

Quý độc giả Ephata và Giáo Sĩ Việt Nam thân mến,

Trong bài viết hồi đầu tháng 6, chúng tôi có kể câu chuyện về cháu bé Giuse Ngô Quang Kiệt ở Sàigòn, một cháu bé được cứu sống và đặt tên theo tên của Đức Tổng Giám Mục Hà Nội. Lần này, tôi lại xin kể chi tiết câu chuyện về một cháu bé khác được sinh ra phía bên kia quả địa cầu, xứ sở Canada xa tít tắp. Thật ngạc nhiên và vui vì cháu được đặt tên theo tên của cha Giuse Hồ Đắc Tâm của DCCT chúng tôi, hiện đang du học tại Pháp.

Tôi phỏng đoán, ngoài lòng yêu mến cách riêng đối với Đức Cha Ngô Quang Kiệt và cha Hồ Đắc Tâm, cha mẹ các cháu bé này cũng có ý muốn dâng con mình cho Thiên Chúa trong Ơn Gọi Tu Sĩ Linh Mục như một sự bày tỏ lòng tri ân đầm đìa nước mắt hạnh phúc ?!? Nếu thật vậy thì quý hóa quá, không khéo các bài viết về Bảo Vệ Sự Sống như thế này của tôi lại gợi ý cho nhiều gia đình Công Giáo Việt Nam khác, từ nay sẽ chọn đặt tên con trai con gái của mình theo tên của những vị họ hằng biết ơn và yêu mến, đặc biệt kỳ vọng các cháu rồi đây lớn lên sẽ đi tu, hoặc sẽ trở thành những người tử tế và hữu ích cho xã hội.

Chuyện bé Hồ Đắc Tâm được mẹ cháu gọi điện từ Canada về kể đầu đuôi thế này:

Ba của cháu tên là anh Giuse Hồ Minh Khiêm, một thợ hàn sinh năm 1967, còn mẹ cháu, chị Maria Nguyễn Thị Trâm sinh năm 1970, làm nghề thợ may. Trước đây gia đình thuộc Giáo Xứ Vườn Xoài, thứ bảy bao giờ cũng về hành hương Đền Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp Kỳ Đồng, năm 1998 đi định cư tại Canada. Cách nay sáu năm, anh chị đã có cháu bé trai thứ nhất tên là Giuse Hồ Đắc Nhân, lúc sinh được 3Kg700 dài 47cm. Hai năm sau, mang bầu cháu thứ nhì thì… có chuyện !

Lúc cháu bé được 14 tuần thai, anh chị Khiêm Trâm vui vẻ háo hức đi khám thai tại bệnh viện Vancouver. Không ngờ sau khi các bác sĩ chọc nước ối, xét nghiệm gen và thử máu, kết quả thật choáng váng: thai nhi dư một Nhiễm Sắc Thể ! Nếu dư ở cặp thứ 21, bé sinh ra bị hội chứng Down ( Down Syndrome, lấy theo tên bác sĩ Landon Down người phát kiến và nghiên cứu về hội chứng này từ thế kỷ 19 ), bé sẽ chậm phát triển tâm thần, khờ khạo ngu ngơ suốt đời, khuôn mặt cứ như người Mông Cổ với đôi mắt xếch nên trước đây người ta quen gọi là hội chứng Mongolism. Ở đây không phải vậy, dư một Nhiễm Sắc Thể ở cặp thứ 20, nghĩa là bé có đến 47 Nhiễm Sắc Thể, mà cứ theo luận điểm và tài liệu y khoa thì như thế bé sẽ bị bệnh… tim bẩm sinh trầm trọng hoặc không có cột xương sống, vô phương cứu chữa, coi như chết chắc !

Bệnh viện mời cha mẹ cháu đến thảo luận, phía họ có đến hai bác sĩ chuyên về Huyết Học, các sinh viên thực tập về Sản Khoa và Nhi Khoa, hai chuyên gia về Tâm Lý, một thông dịch viên Mỹ – Việt. Bầu khí thật căng thẳng, kéo dài trong 3 giờ đồng hồ. Họ cho anh chị hai tuần về nhà suy nghĩ trước thời điểm thai được 16 tuần, buộc phải chấm dứt sự sống, không thì sẽ không còn kịp phá thai ( có lẽ luật Canada không cho phép phá quá 4 tháng tuổi thai chăng ? ). Họ còn chú thích thêm là sự thường một em bé được sinh ra chỉ đạt tỷ lệ hoàn hảo ( perfect ) cao nhất là 93%, vậy mà cháu bé này chỉ được xê xích từ 88 đến 90%, dân Canada phá bỏ đi là cái chắc ! Không biết dân Á Đông quyết định thế nào ?

Trời ơi, nói thế không khác gì kết án tử ? Ép mà không buộc ! Không chịu phá thai đi thì rõ là dại dột ngu dốt ! Hai tuần lễ để suy nghĩ, phải nói đó là hai tuần lễ của dằn vặt ray rứt kinh hoàng, hai tuần lễ ướt đẫm nước mắt bất an đối với anh chị Khiêm Trâm. Bệnh viện cứ gọi điện thoại liên tục để thuyết phục phá thai. Cuối cùng, Tình Yêu và Lòng Tin đã chiến thắng, cha mẹ cháu dứt khoát không chọn theo đa số thường tình, họ lội ngược dòng đời theo mách bảo của lương tâm Công Giáo.

Sau hai tuần lễ, trở lại bệnh viện Vancouver, anh chị Kiêm Trâm trả lời: Dứt khoát không giết em bé cho dẫu sinh ra cháu có thế nào đi nữa. Các bác sĩ Canada tròn xoe mắt ngạc nhiên, nhưng một điểm còn đáng khen, đó là họ tôn trọng quyết định cuối cùng và hoàn toàn tự do của đôi vợ chồng người Việt, họ tuyệt đối không mắng nhiếc quát tháo theo kiểu một số bác sĩ phụ khoa, sản khoa Việt Nam như chúng ta thường gặp tại các bệnh viện Nhà Nước.

Anh chị từ chối sẽ không về thành phố Vancouver để sinh tại bệnh viện lớn và hiện đại hết mức, nhưng sẽ ở lại sinh ngay tại bệnh viện nhỏ của tỉnh lỵ Surey nơi gia đình đang sinh sống, cách Vancouver một giờ lái xe. Các bác sĩ lại ngỏ ý xin anh chị ký giấy đồng ý sau khi sinh, cho họ xin cái nhau thai để mang về xét nghiệm, anh chị nhận lời, dẫu sao đó cũng là một việc giúp nghiên cứu y khoa có ích cho các trường hợp khác.

Trở về Surey, 5 tháng chờ đợi cho đến ngày sinh cháu bé là cả một hành trình dài đằng đẵng cho đôi vợ chồng quả cảm. Tháng đầu tiên là căng thẳng và đau khổ đến tuyệt vọng. Thế nhưng, nhờ cầu nguyện, gia đình dần dần tìm được nơi nương tựa vững chắc là Lòng Thương Xót của Chúa Giêsu. Chị Trâm kể cho tôi nghe qua điện thoại, bây giờ đã qua được gần 4 năm rồi, mà giọng nói vẫn pha lẫn nghẹn ngào nước mắt với niềm vui phó thác. Chị bảo: “Cha biết không ? Con tự lấy làm kinh ngạc về chính mình, chồng con anh Khiêm cũng thế, chúng con bình an đến lạ lùng ! Những người biết chuyện cứ ngỡ chúng con lúc này sẽ buồn sầu kinh khủng, chắc chắn sẽ đưa tới tình trạng suy sụp kiệt quệ cả tâm hồn lẫn thể xác, không ngờ, vâng quả thật không ngờ, chúng con đã thanh thản an nhiên làm việc, sống bầu khí gia đình với nhau, với bé Nhân con trai đầu lòng. Vợ chồng chúng con biết rõ tất cả là nhờ mình đã cầu nguyện ký thác trọn vẹn cho Thiên Chúa và Mẹ Maria !”

Gần đến kỳ hạn, ngày 29.9.2005, chị Trâm vào nhà thương tỉnh lỵ Surey nằm chờ, lần chuỗi Mai Khôi với Mẹ suốt từ 9giờ sáng đến 12 giờ trưa thì lên bàn mổ. Đúng 12 giờ 5 phút, cháu bé chào đời, nặng 4Kg, dài 55cm, trội hơn bé anh mọi mặt dù sinh non hơn 1 tuần ! Anh Khiêm túc trực ngay bên cạnh giường, được đỡ lấy con trai trên hai tay rồi trao sang cho chị Trâm, chị ôm lấy con, mắt nhòa lệ niềm vui khôn tả, miệng bật lên bài Thánh Ca: “Xin dâng lời cảm tạ, hồng ân Thiên Chúa bao la…” Bé anh đã có tên là Hồ Đắc Nhân, Nhân thì đi đôi với Tâm, vậy bé em được chọn tên là Hồ Đắc Tâm. Anh Khiêm còn tò mò gõ vào Internet, nhờ Google tìm xem tên cháu trùng tên những ai, thì biết có một cha DCCT cũng tên Hồ Đắc Tâm, chỉ khác cha tên Thánh là Giuse, còn cháu tên Thánh là Tôma ! Chị Trâm tâm sự với tôi rất chân thành: “Cha ơi, vợ chồng chúng con ao ước cháu lớn lên sẽ theo cha Hồ Đắc Tâm đi tu DCCT !”

Cũng cần nói thêm là khi cháu lên ba, các bác sĩ ở Vancouver vẫn thường xuyên theo dõi hồ sơ của cháu Tâm, họ mời gia đình đưa cháu lên khám, chụp hình, cân đo kỹ lưỡng, lại lấy một tý da ở lưng bé để xét nghiệm cái này cái kia. Gần như cả êkíp bác sĩ xúm lại, trầm trồ kinh ngạc, họ không thể hiểu nổi tại sao như thế như thế mà bây giờ sinh ra lại thế này thế này. Chính vị bác sĩ đã từng mạnh miệng yêu cầu phá thai thì nay phải công nhận mình đã… sai ! May mà đứa bé đã được giữ lại, được cứu sống ! Mà sống khỏe hẳn hoi: 11 tháng biết đi, 16 tháng biết gọi ba gọi má !

Bản thân tôi tò mò hỏi tại sao chị Trâm lại tìm ra tôi bên Việt Nam để gửi Mail và gọi điện kể lể đầu đuôi, chị khoe gia đình có họ gần với cha Philípphê Lê Văn Vui, cũng DCCT. Cha Vui không đi xuất cảnh theo gia đình, chọn ở lại phục vụ một Xứ Đạo nghèo ở tỉnh Quảng Nam, Giáo Phận Đà Nẵng. Tháng 5 vừa qua, cha Vui được đi thăm gia đình bà con một vòng, ghé chơi nhà anh chị Khiêm Trâm, bé Tâm thích cha Vui lắm, cứ đeo theo nghịch ngợm cho đến khi cha mệt phờ. Cha Vui biết chuyện về bé thì bảo phải gửi Mail cho cha Uy đi, cha Uy sẽ có thêm chứng cứ sống động về BVSS để thông tin cho mọi người gần xa mà cứu được thêm bao nhiêu trường hợp tương tự.

Thì ra vậy, câu chuyện liên quan đến mấy ông cha DCCT, đến tôi là ông cha thứ ba rồi đó. Tôi hãnh diện được anh chị Khiêm Trâm tin tưởng, tôi vui mừng ghi lại tất cả để kể qua các bài viết trên Internet, qua các bài giảng ở Nhà Thờ. Cụ thể thứ hai tới đây, 20.7.2009, buổi chiều lúc 14g, khi giảng trong Thánh Lễ cầu nguyện cho các chị em đang mang thai tại Đền Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp Sàigòn, tôi sẽ cùng mọi người chắc tin và vững tâm ở hai luận điểm chính yếu của tinh thần BVSS:

1. Dứt khoát không bao giờ phá thai. Không nên quá tin vào người đời, vào các máy móc, dù hiện đại đến đâu vẫn luôn có những sai sót vô tình và cả những nhẫn tâm cố ý. Biết đâu còn có cả một chủ trương “giảm sinh tối đa” để kế hoạch hóa dân số, nặng nhất là thúc ép xô đẩy người ta đến chuyện đành lòng phá thai, từ khước chính đứa con vô tội của mình, nhẹ nhất cũng gây cho gia đình người ta nỗi lo sợ, buồn sầu, khủng hoảng oan uổng suốt từ khi nghe kết quả siêu âm cho đến khi sinh con khỏe mạnh.

2. Dứt khoát bảo vệ lấy Sự Sống là quà tặng vô giá của Thiên Chúa. Hãy vững tin vào Thiên Chúa. Hãy nắm chắc lời cam kết đoan hứa của Thiên Thần được cử đến với Mẹ Maria: “Đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được” ( Lc 1, 37 ). Dẫu thực tế bào thai đang cưu mang có bị dị tật hoặc trục trặc bệnh hoạn nào đi nữa, quyền năng yêu thương của Thiên Chúa vẫn vượt lên trên mà chữa lành, hồi sinh tất cả nhờ lời cầu bầu của Mẹ Hằng Cứu Giúp.

Xin tạ ơn Chúa, biết ơn Mẹ. Xin cám ơn anh chị Khiêm Trâm và cám ơn cả cháu bé Tôma Hồ Đắc Tâm, nhờ chứng tá của cháu mà chắc chắn sẽ có thêm nhiều cháu bé khác được cứu sống !

Lm. QUANG UY, DCCT

 
VỀ MỤC LỤC
THAM GIA XÂY DỰNG PHÚC LỢI CỘNG ĐỒNG.

 

(Suy niệm Tin Mừng theo Thánh Gioan (6, 1-15), Chúa nhật 17 thường niên năm B)

 

“Năm 1997, nhân dân Hàn Quốc, Malaixia đã cùng nhà nước kiềm chế lạm phát bằng việc chủ động tiêu dùng hàng nội, hạn chế tối đa dùng hàng xa xỉ từ nước ngoài. Hơn thế nữa, rất nhiều phụ nữ của hai quốc gia nầy còn ủng hộ nhà nước những đồ trang sức quý giá như vàng bạc, kim cương… để cứu vãn nền kinh tế.

Những việc làm thể hiện lòng yêu nước sâu sắc với ý chí tự cường mạnh mẽ nầy đã góp phần tích cực giúp Hàn Quốc và Malaixia sớm vượt qua cuộc khủng hoảng tài chính trầm trọng”

Sau khi nghe bản tin nầy, người bạn của tôi bình luận: “Ở xứ người, khi gặp lạm phát, người dân ủng hộ vàng bạc, kim cương và những đồ trang sức quý giá để cứu vãn quốc gia; còn tại xứ mình, khi đất nước gặp lạm phát, việc đầu tiên của nhiều người là đổ xô mua vàng, mua đô để thủ thân làm cho tình hình kinh tế thêm tồi tệ. Chủ trương của một số đồng bào ta là “sống chết mặc bây, tao no trước đã”. Nếu não trạng nầy không được thay đổi, thì không bao giờ đất nước chúng ta theo kịp các lân bang.”

 

Chúa Giê-su hiến thân xây dựng phúc lợi cộng đồng

Mang lại phúc lợi cho cộng đồng nhân loại là ưu tiên hàng đầu của Chúa Giê-su. Do đó, Người đã hạ mình xuống thế, hóa thân làm người để phục vụ nhân loại và hiến ban cả mạng sống mình cho muôn người được sống.

Trong ba năm bôn ba rao giảng Nước Trời, Chúa Giê-su luôn sống vì mọi người và cho mọi người: “cho người mù được thấy, kẻ què được đi, người cùi được sạch, kể điếc được nghe, người chết sống lại, kẻ nghèo được nghe Tin Mừng” (Lc 7, 22)

Qua Tin Mừng hôm nay, thánh Gioan giới thiệu Chúa Giê-su là Đấng đặc biệt lưu tâm đến phúc lợi cộng đồng. Người không dừng lại ở việc trao ban những lời đem lại hạnh phúc và sự sống đời đời cho đoàn dân đông đảo đang theo Người mà còn chăm lo cho cả cái bao tử trống không của họ nữa.

 

Chúa Giê-su mời gọi chúng ta tham gia xây dựng phúc lợi cộng đồng.

Xây dựng phúc lợi cộng đồng là sự nghiệp chung của mọi người, thế nên Chúa Giê-su không thực hiện một mình mà còn kêu mời các môn đệ cùng tham gia vào việc nuôi ăn đoàn dân đông đảo đang theo Người ngày hôm ấy.

Trước hết Chúa hỏi Phi-líp-phê, để mời gọi ông cùng chung lo với Người: "Ta mua đâu ra bánh cho họ ăn đây?”

Ông Phi-líp-phê đáp: "Thưa, có mua đến hai trăm quan tiền bánh cũng chẳng đủ cho mỗi người một chút."

Bấy giờ môn đệ thứ hai là An-rê vào cuộc: “Thưa Thầy, ở đây có một em bé có năm chiếc bánh lúa mạch và hai con cá, nhưng với ngần ấy người thì thấm vào đâu! "

Thế là đứa bé sở hữu số thực phẩm nầy được đưa đến với Chúa Giê-su. Người đã thuyết phục em chịu hy sinh phần ăn quý hóa của mình cho tập thể. Thế là ngay cả trẻ con cũng được Chúa Giê-su mời gọi góp phần cho phúc lợi của cộng đồng.

Có lẽ đây là điều không dễ vì khi đói, miếng bánh còn quý hơn vàng và thói đời vẫn cho rằng: “sống chết mặc bây, tao no trước đã.” Vậy mà em bé nầy đã quảng đại trao năm chiếc bánh lúa mạch và hai con cá nhỏ vào tay Chúa Giê-su.

Sau khi có sự tham gia của các môn đệ và đứa bé, “Đức Giê-su cầm lấy bánh, dâng lời tạ ơn, rồi phân phát cho những người ngồi đó. Cá nhỏ, Người cũng phân phát như vậy”

Thế là phép lạ xảy ra: bánh và cá liên tiếp được trao tay từ người nầy qua người khác, mọi người được ăn no nê, “ai muốn ăn bao nhiêu tuỳ ý.”

 

Số phận cá nhân tùy thuộc vào số phận cộng đồng

Số phận của mỗi tế bào trong cơ thể tùy thuộc vào số phận của toàn thân. Khi thân thể lâm trọng bệnh thì các tế bào cũng bị ảnh hưởng nặng nề và khi thân thể chết đi thì các tế bào không thể nào tồn tại.

Cá nhân là những tế bào tạo thành xã hội nên số phận của từng cá nhân hoàn toàn tùy thuộc vào số phận chung của xã hội, của cộng đồng.

Khi các cá nhân góp công góp sức xây dựng cộng đồng hưng thịnh hơn thì sẽ được hưởng nhiều phúc lợi do cộng đồng mang lại.

Chính vì thế, “hiện nay các chiến lược gia của các công ty lớn đều nhìn nhận rằng nghĩa vụ đóng góp cho phúc lợi xã hội phải là một mục tiêu cốt lõi của công ty mình” (theo lời Tiến sĩ Nguyễn Công Phú, Tổng Giám Đốc Cty Apave Việt Nam & Đông Nam Á)

Ngồi chờ xã hội mang đến nhiều phúc lợi cho mình mà không tham gia cống hiến cho cộng đồng xã hội sẽ bị chê trách là ký sinh.

Ai biết hy sinh quyền lợi riêng để lo cho lợi ích của tập thể là người có tầm và có tâm. Người biết vượt ra ngoài vòng lợi ích cá nhân và gia đình để chăm lo cho phúc lợi cộng đồng là người có nhân cách cao đẹp.

Và đó cũng là mẫu người mà Chúa Giê-su muốn đào tạo qua nội dung Tin Mừng hôm nay.

 

Lạy Chúa Giê-su,

Xin dạy chúng con biết noi gương Chúa, học với Chúa để trở nên người biết chăm lo cho phúc lợi của anh chị em chung quanh mình. Amen.

 

Linh Mục Inhaxiô Trần Ngà

VỀ MỤC LỤC
GIÓ MƯA LÀ BỆNH CỦA TRỜI...

 

Đêm qua, ngoài vườn, trước khi vào giường ngủ, tôi thấy trên bầu trời xanh thẫm còn lấp lánh ngàn vạn ánh sao. Vậy mà buổi sáng thức dậy, mưa đã ướt đất. Trong đêm, mưa âm thầm đổ xuống và vạn vật cũng âm thầm tắm mưa. Suốt buổi sáng, bầu trời u ám, trong không khí nằng nặng có cái lạnh se sắt của những ngày cuối Đông, khiến người ta thèm một lò sưởi nồng ấm củi than và một vài người bạn cố tri. Tưởng rằng khí hậu sẽ kéo dài như vậy, nào ngờ buổi trưa, bỗng nhiên mặt trời chói lọi, tung xuống vạn vật những ánh nắng nóng cháy.

Nếu còn ở tuổi thanh xuân, chắc nhìn cảnh nắng mưa bất chợt, tôi đã đọc thơ Nguyễn Bính:

Gió mưa là bệnh của trời,

Tương tư là bệnh của tôi yêu nàng.

Thế nhưng bây giờ tuổi xanh đã qua, tôi không còn thích chạy theo nắng gió, cũng không thích mộng mơ với những tình cảm phiêu bồng. Thấy nắng thấy mưa đổi thay trong chớp mắt, tôi nghĩ nhiều về cuộc đời, về chính mình.

Mấy chục năm qua, tôi đã sống cuộc đời tôi, và cũng mấy chục năm qua, tôi để tôi hòa vào dòng đời trôi chảy. Tôi thấy cuộc đời cũng như nắng như mưa. Có những đoạn đời sầu thảm như mưa gió sụt sùi, đi đâu ta cũng bị ướt át rét mướt. Lại có khi mưa lớn đổ xuống, những ngọn roi mưa quất vào mặt mũi, tay chân làm đau rát; đường thì xa mà nhìn quanh không thấy đâu một người quen. Ngược lại cũng có khi cuộc đời giống những ngày nắng ráo, vạn vật vui tươi, hình như ai cũng ra phố đi dạo mua sắm, gặp nhau vui cười hớn hở.

Đó là cung cách cuộc đời đối đãi với tôi, chiều chuộng hay bạc đãi đổi thay bất chợt. Có khi tôi được đời đón tiếp niềm nở, trao ban nhiều tặng vật; mà cũng có khi đời bỏ quên tôi, hất hủi tôi, nghiêm khắc, tàn bạo và độc ác với tôi. Nếu sống cuộc sống có định hướng và nếu là người có lí tưởng; tôi sẽ bất chấp nắng mưa, tiếp tục đi trên con đường phải đi; tôi sẽ không lên kí hay sụt cân về những lời khen tiếng chê , được hậu đãi hay bị bạc đãi mà chỉ cố gắng để mỗi ngày một thêm hoàn thiện.

Tuy nhiên, tôi cũng cần biết dựa vào hoàn cảnh để dễ thăng tiến hơn trong hành trình tiến về đích điểm. Nếu trời nắng ráo, hoàn cảnh thuận lợi, tôi cố gắng để đi nhanh hơn. Nếu trời gió mưa, điều kiện bất lợi, tôi vẫn cố gắng, dù lòng có nặng hơn và bước đi có chậm hớn. Cũng có khi trời dông bão hay lụt lội, đường đời hoàn toàn bế tắc không thể tiến thêm được, tôi chấp nhận nghỉ ngơi. Chấp nhận những giới hạn của mình trước hoàn cảnh là một thái độ khiêm tốn và khôn ngoan. Khi không biết chấp nhận, người ta dễ trở thành bất mãn, thất chí, hận đời. Khi chấp nhận nghỉ ngơi, tôi trở về với chính mình, nhìn lại những bước đường đã đi qua, tìm ra những lỗi lầm trong quá khứ để tránh khỏi trong tương lai. Tìm gặp chính mình là một điều thích thú không kém gặp gỡ người nọ kẻ kia, nếu không muốn nói đó là một niềm vui sung mãn và đằm thắm hơn.

Những ngày mưa gió của cuộc đời cũng là những ngày tôi cần bạn bè nhất. Một danh nhân có nói: "Bạn bè giống như chim sẻ - Ngày nắng ráo, chúng bay đầy phố, nhưng ngày mưa gió, chúng trốn đâu hết"! Tôi may mắn hơn thế vì tôi có những người bạn, họ ân cần nâng đỡ tôi trong những ngày trời nắng cũng như những buổi chiều mưa trong cuộc đời tôi. Như thế, phải có những buổi chiều mưa gió trong cuộc đời, tôi mới khám phá ra những người bạn tốt và mới cảm nghiệm tình bạn đáng quí đến chừng nào.

Trong những chuỗi ngày mưa gió của cuộc đời, tôi mong có được thái độ trông cậy, tín thác vào Thiên Chúa, người Cha bao dung, độ lượng và rất mực thương tôi; Ngài sẵn lòng bảo bọc, dẫn dắt tôi trong những lúc đời tôi chịu cảnh mưa gió nặng nề mà tôi thì hoàn toàn yếu đuối và thiếu thốn:

Trời mưa thì mặc trời mưa,

Tôi không nón Trời đưa tôi về.

Trông cậy, tín thác, nhưng tôi vẫn không ỷ lại. Tôi cố gắng với sức tôi, và Thiên Chúa tôn trọng những cố gắng ấy:

Trời đưa đến gốc cậy đề

Trời để tôi đấy tôi về nhà tôi.

Nếu biết dựa vào hoàn cảnh để thăng tiến, biết chấp nhận hoàn cảnh và sống trong mọi hoàn cảnh một cách hữu ích, tôi sẽ không bị chi phối quá nhiều vì hoàn cảnh. Trời nắng cũng như trời mưa, hoàn cảnh thuận lợi hay bất lợi, tôi đều tìm được sự hữu ích và thích thú trong hoàn cảnh ấy. Và điều đáng quí nhất là tôi tìm đước sự bình an, món quà cao quí mà Thiên Chúa dành tặng cho những tâm hồn biết tìm về miền tĩnh lặng.

Đó là những ngày nắng, những chiều mưa của cuộc đời . Chuyện ấy cũng phần nào ảnh hưởng đến cuộc đời tôi, nhưng không ảnh hưởng nặng nề cho bằng chính những sáng nắng chiều mưa của chính con người tôi.

Bản thân tôi có những ngày trời nắng. Đó là những khi tôi hân hoan phấn khởi; những khi tôi thấy tâm hồn hướng thượng; những lúc tôi vươn mình lên theo mặt trời chân lí; những khi tôi thấy mình dễ dàng cư xử tốt đẹp với những người chung quanh: quảng đại, cảm thông, thứ tha, ủi an, nâng đỡ. Ngược lại, cũng có khi trái gió trở trời mưa dầm sùi sụt hay gió bão loạn cuồng. Đó là những khi tôi cảm thấy buồn chán, thất vọng; những lúc tôi khó chịu với người khác; những khi tôi bắt bẻ, cãi lí, xét nét; những lúc tôi tỏ ra rất khó thương: ích kỉ, hẹp hòi, nghiêm khắc, tàn nhẫn, thô bạo; những khi tói để cho cơn giận dữ bùng nổ và không còn kiểm soát đuợc con người mình nữa.

Những cơn ''sáng nắng chiều mưa'' của chính tôi đã ảnh hường nặng nề đến con người tôi. Biết được sự yếu đuối, mỏng giòn, hay thay đổi và bất toàn của mình, tôi cần tập kiểm soát chính mình, tập để tôi có "khí hậu'' êm mát của mùa Thu, tươi vui của mùa Xuân, chứ không gay gắt như mùa Hạ và lạnh lẽo như mùa Đông. Nếu tôi ý thức được rằng chính tôi đem lại bầu khí cho những người chung quanh, tôi phải luôn nhìn lại chính tôi để biết xem bầu khí tôi đang mang có phải là bầu khí ôn hòa hay không. Môi truờng tôi sống, nói riêng, và thế giới, nói chung, sẽ thật tốt đẹp và dễ thương, nếu mỗi người đều mang đến cho nhau một bầu khí êm đềm, ấm áp.

Ngày xưa, người ta không có trình độ văn minh kĩ thuật như ngày nay, thời tiết rất là khó đoán. Cho dù người ta cũng biết dựa vào những hiện tượng thiên nhiên: ''Chớp Đông nhay nháy, gà gáy thì mưa'', ''Thâm Đông hồng Tây, chẳng mưa dậy cũng gió giật'' v.v... Nhưng không phải khi nào người ta cũng tiên đoán đúng. Ngày nay, với phương tiện kĩ thuật tối tân, người ta tiên đoán thật chính xác tình trạng thời tiết trong những ngày sắp tới. Sự tiên đoán này thật quan trọng để người ta tiến hành hay đình chỉ những công việc, những chuyến đi, cũng như để hoạch định chương trình làm việc trong nhiều lãnh vực.

Nếu tôi cũng biết tiên đoán ''thời tiết'' của chính tôi, tôi sẽ tránh được rất nhiều những chuyện đáng tiếc trong cách cư xử hay trong sự tiến hành các chương trình, kế hoạch. Muốn làm được chuyện đó, tôi luôn luôn phải sáng suốt nhìn lại chính mình, đó chính là cái ''trình độ kĩ thuật cao'' giúp tôi biết được chính tôi. Chỉ có một điều khác giữa việc tiên đoán thời tiết trong vũ trụ vạn vật với việc ''tiên đoán thời tiết'' của con người tôi. Đó là khi tiên đoán thời tiết trong thiên nhiên, người ta biết để tránh né, đề phòng, chứ người ta không thể thay đổi tình trạng thời tiết đó được, hay nếu có thì rất ít. Còn khi biết tiên đoán "thời tiết'' của chính tôi, tôi có nhiều cơ hội để không những tránh né , đề phòng, mà còn thay đổi được chính tình trạng ''thời tiết'' đó nữa. Bởi thế, tiên đoán "thời tiết" của con người xét ra còn quan trọng và đem lại ích lợi nhiều hơn khi tiên đoán thời tiết của thiên nhiên.

Sau buổi trưa nắng ráo, chiều nay trời lại mưa sụt sùi. Chuyên viên khí tượng cho biết cơn mưa sẽ còn kéo dài cho đến hết đêm mai, bầu trời sẽ có nhiều mây xám. Không khí này sẽ khiến cho người ta cảm thấy lười làm việc. Người ta nghĩ tới cái giường và chăn êm nệm ấm. Trời mưa lạnh, cuộn mình trong chăn, ngủ một giấc mơ màng thì khống còn gì thú vị hơn. Nhưng như thế thì công việc sẽ đình trệ. Riêng cá nhân tôi, bao nhiêu bài phải viết, bao nhiêu tờ báo phải hoàn thành, làm sao cuộn mình trong chăn trong buổi chiều và buổi tối mưa lạnh sụt sùi này? Tôi tìm ra một thú vui khác: để một cái máy sưởi điện nhỏ dưới gầm bàn và ngồi vào bàn máy, suy nghĩ và viết. Cũng thú lắm. Tôi đã gọi điện thoại cho một người bạn thân, tối nay anh ta sẽ sang nhà tôi. Và bên bếp lửa nồng, anh với tôi sẽ uống với nhau một vài li rượu nho chính tay mẹ tôi cất, nhắm với món cá nướng tuyệt vời. Chúng tôi sẽ ôn lại những kí niệm và đọc thơ cho nhau nghe. Khi anh bán ra về, tôi có thêm chất liệu và cảm hứng để tiếp tục viết. Đó chẳng phải là một điều lí thú, mà là lí thú một cách hữu ích sao?

Tuy nhiên, cũng có những người không có được hoàn cảnh may mắn như tôi. Trong những ngày mưa gió lạnh lùng, họ không có hơi ấm của lò sưởi, không có li rượu nho ngát thơm, không có người bạn cố tri để ngồi gần lò sưởi mà tâm sự. Sự thiếu thốn đó có thể khiến cho họ bỏ dở những công việc đang làm. Nếu tôi trong hoàn cảnh như họ, chắc tôi cũng sẽ bỏ dở dang công việc như thế. Điều này khiến tôi không được quyền tự hãnh về những việc làm có vẻ thành công hơn người, lại càng không dám kinh thường những người xem ra thất bại trong cuộc sống.

Tôi mong trong cuộc đời, tôi luôn nhận ra rằng những ngày nắng cũng như những chiềụ mưa đều là những đoạn đời tôi được sống trong sự quan phòng nhân hậu của Thiên Chúa. Trách nhiệm của tối là tìm ra thánh ý của Ngài khi Ngài gửi cho tôi những ngày giờ đó, để rồi sống cho đẹp nhất là hữu ích nhất trong tất cả mọi đoạn đời. Khúc hát tôi muốn cất lên trong trái tim tôi lúc này là:"Hát khen Gia Vê, ngày mưa gió hay trời đẹp tươi. Hát mừng Gia Vê, khúc ca vui hay cung nhạc sấu..." (Thành Tâm)

Nhà Văn Quyên Di

VỀ MỤC LỤC
SỐNG VIÊN MÃN BA LỜI KHẤN DÒNG (tiếp theo)

Tác phẩm  NGƯỜI NỮ TU SỐNG TU ĐỨC TOÀN DIỆN  

tác giả: Lm. Micae-Phaolô Trần Minh Huy pss 

LỚP THẦN HỌC LIÊN TU SĨ - TÒA GIÁM MỤC BÙI CHU  (2008 - 2009)

CHƯƠNG VII : SỐNG VIÊN MÃN BA LỜI KHẤN DÒNG (tiếp theo)

B. BA LỜI KHẤN DÒNG

    Ơn gọi vào đời sống thánh hiến là triệt để đi theo Chúa Giêsu. Đó là lời kêu gọi tới một sự biến đổi con tim nhân loại qua các Lời Khuyên Phúc Âm. Ba Lời Khấn đụng chạm đến ba lãnh vực của con người:

·        Tình cảm - Đức Thanh Khiết

·        Sở hữu của cải - Đức Khó Nghèo

·        Quyền lực - Đức Vâng Lời 

Mỗi người sống ơn gọi tu sĩ đều trải qua kinh nghiệm sống cái tôi của mình, hoặc đặt trọng tâm nơi mình hoặc đặt trọng tâm nơi Chúa, mà ta có định hướng đúng hay định hướng sai lầm. Định hướng sai lầm đi theo hình ảnh cái Tôi: khoái lạc, sở hữu của cải, địa vị/quyền lực. Định hướng đích thực họa theo hình ảnh Thiên Chúa: Thanh Khiết, Khó Nghèo, Vâng Lời.

Trong cả hai định hướng này, chúng ta kinh nghiệm sự có mặt của những thúc đẩy của con người tự nhiên: vui thích, tăng trưởng, cho đi và lãnh nhận. Sự kiện này luôn mời gọi chúng ta hoán cải/thay đổi định hướng cuộc sống: Mỗi quyết định trong cuộc sống nhằm mang đến một thay đổi tốt đẹp hơn. Hoán cải là làm nổi lên một căn tính mới; là làm cho chúng ta nhìn thấy thế giới trong một đường lối mới mẻ và khác biệt; đồng thời mang lại một biến đổi triệt để cuộc sống bản thân, tương tác với mọi mối tương quan.

I. LỜI KHẤN VÂNG LỜI

1. Ý NIỆM DẪN NHẬP

Trong luật của thánh Biển Đức, vâng lời xem ra là một thành phần căn bản của đời sống đan viện. Cùng với lòng kiên vững và sự hoán cải đời sống, vâng lời là đối tượng của lời hứa hay lời khấn. Nội dung của nó rất phức tạp. Vâng lời bao gồm: Giới răn của Chúa; Các Phúc Âm; Đời sống chung.

Tuân phục tất cả những cái đó là tốt về mặt luân lý cho ý muốn của vị bề trên hợp pháp được coi như vị trung gian của Ý Chúa (đặc tính đầu tiên của vâng lời tu sĩ). 

Tuy nhiên quan niệm này không có nền tảng Thánh Kinh. Thật đúng rằng Chúa Giêsu được trình bày trong Tân Ước như kiểu mẫu của đức vâng lời:

·        Ga 4,34: “lương thực của Ta là thi hành ý muốn của Cha”

·        Phil 2,8: Chúa Kitô vâng lời cho đến chết”

·        Dt 5,8: “Ngài học vâng lời…”

·        Lk 2,49tt: “con phải ở trong nhà của Cha con”

Nhưng đó là sự vâng lời Thiên Chúa, chương trình cứu độ của Ngài, ý muốn của Ngài cho Chúa Giêsu. Ý muốn mà Chúa Giêsu khám phá ra trong: Thánh Kinh; Các biến cố; Lời cầu nguyện. 

Như Chúa Giêsu, người tín hữu vâng lời Thiên Chúa xuyên qua cuộc sống của mình, lắng nghe Phúc Âm như chính lời của Chúa Giêsu. Đó là ý nghĩa của câu nói “ai nghe các con là nghe Thầy” (Lk 10,16), vì mỗi người phải vậng phục Phúa Âm (Rm 10,16) và lời giảng đức tin (Rm1,5). 

2. PHÂN BIỆT RÕ VÂNG LỜI VÀ TÙNG PHỤC 

Từ ngữ vâng lời được Tân Ước sử dụng trong cụm từ mối tương quan của một người với Thiên Chúa, ví dụ sự vâng lời của Chúa Giêsu đối với Chúa Cha. 

Khi đó là những mối tương quan giữa các con người với nhau thì ngữ vựng vâng lời hầu như không bao giờ được sử dụng: người ta nói đến sự tuân phục (nhất là thánh Phaolô) 

Các điểm qui chiếu về sự tuân phục trong thánh Phaolô:

·        Phải tuân phục trật tự được thiết định, tuân phục xã hội dân sự (Rm 13,1tt)

·        Phải tôn trọng các cơ cấu gia đình (vợ chồng, cha mẹ, con cái): Col 3,18-21; và các cơ cấu xã hội (chủ tớ): Col 3,22-24.

·        Trong cộng đoàn kitô, tuân phục lẫn nhau: Eph 5,21.

·        Đối với những người lãnh đạo cộng đoàn, thay vì đòi hỏi sự tuân phục, thánh Phaolô khuyến dục “họ hãy đặt mình phục vụ các thành viên của mình”: 1 Cor 16,15-16.

·        Còn đối với các thành viên, ngài ra lệnh rằng họ phải kính trọng các vị lãnh đạo và nâng đỡ họ trong nhiệm vụ phục vụ của họ: 1 Th 5, 12-13; phải tùng phục những ai thực thi sứ vụ thánh và những ai cộng tác với họ trong Giáo Hội: 1 Cor 16,16.

·        Như thế không có chỗ nào trong Tân Ước xuất hiện ý tưởng rằng một người có thể đòi hỏi sự vâng lời dưới bất cứ yêu sách xã hội nào. 

Trái lại, Chúa Giêsu nói cách rất thận trọng với tất cả những ai có một chỗ đứng đặc biệt trong cộng đoàn kitô:

·        Họ không nên hành động như những vị chúa tể, không thống trị, cũng không độc tài (Mk 10,41-44).

·        Không tự cho mình các tước vị (là Cha, là Thầy v.v..): Mt 23,8-12.

·        Nhưng tốt hơn, phục vụ và rửa chân cho người khác: Ga 13,14-15.

·        Những điều này không vọng lại nhiều trong các cộng đoàn tu!

            Vâng lời Thiên Chúa, thánh ý và kế hoạch của Ngài như được diễn tả ra trong các Phúc Âm và trong giáo huấn kitô là bó buộc cho tất cả những kẻ tin (mệnh lệnh kitô)

             Các mối tương quan với con người và ở bên trong các cộng đoàn được đặt trên sự chấp nhận lẫn nhau, tuân phục và trợ lực (đó là bối cảnh sự tuân phục của một người đối với người lãnh đạo của nhóm). Điều này áp dụng cho tất cả mọi người, chứ không chỉ riêng cho tu sĩ.

            Đàng khác, việc trình bày nhà lãnh đạo như vị trung gian đặc ân cho ý muốn của Chúa trong cuộc sống cụ thể của người tín hữu xem ra thiếu nền tảng Thánh Kinh.

            Nếu đời sống thánh hiến thích nghi kiểu mẫu này thì đó là từ văn hóa, lịch sử, chứ không phải từ Thánh Kinh (xem cấu trúc phẩm trật gia trưởng Hy lạp tự do… Cấu trúc này tồn tại qua dòng lịch sử và tìm được nhà trong các nền văn hóa vốn được cấu trúc theo phẩm trật).

3. THỰC HÀNH VÂNG LỜI TRONG VIỄN ẢNH LỊCH SỬ

            Bắt đầu với Sa mạc: việc thực hành đức vâng lời phát triển hai thành phần được kể như các phương tiện để lớn lên:

·        Vâng lời như TỊCH LIÊU (Solitude): đòi buộc rằng người nào muốn trở thành thầy dòng hay chị dòng phải sống ít năm dưới sự hướng dẫn thiêng liêng của một tổ phụ hay tổ mẫu dày kinh nghiệm trước khi đi vào tịch liêu.

·        Vâng lời như TỪ BỎ: hình thức khổ hạnh thiêng liêng.

Xem ra khuynh hướng đan viện khởi thủy không tương ứng với tất cả đường lối tu đức của Chúa Giêsu trong Tân Ước (đặc biệt dựa trên một khía cạnh của đời sống Chúa Giêsu: cơn cám dỗ của Chúa Giêsu ở trong sa mạc) 

Trong Tân Ước, vâng lời trước tiên được xem như một phương tiện tăng trưởng. Tân Ước không nói tới việc hãm dẹp ý muốn của một con người, nhưng nói đến sự kết hiệp với ý muốn cứu độ của Chúa Cha. Tân Ước không nói tới sự Tuân Phục, nhưng nói đến đức Vâng Lời (lắng nghe)

             Các môn đệ sẽ phải sẵn sàng cho những từ bỏ khó khăn nhất, kể cả mạng sống nếu cần, nhưng chỉ khi họ được đòi hỏi như vậy vì sứ mệnh của họ.

4. THẦN HỌC THÁNH KINH VỀ VÂNG LỜI

a. Chúa Kitô vâng lời Chúa Cha: việc Chúa Giêsu chu toàn ý muốn của Chúa Cha, Đấng đã sai Ngài, là thái độ thường xuyên của Ngài: Ga 8,29.55, một thái độ luôn luôn lắng nghe là một nét đặc trưng của thần trí Chúa Giêsu. 

            Việc giải thích rằng Chúa Giêsu coi Torah như được tóm tắt lại trong hai giới răn yêu thương chỉ rõ cùng một hướng: Mt 22, 37-40. Trọn vẹn ý muốn của Chúa tập trung lại nơi Tình Yêu.

            Các qui tắc Cựu Ước về Mười Điều Răn (đạo đức học của Torah) đơn giản là một lời mời gọi phát triển nhân tính của một người được đầy đủ trong công bình, sự thật… Nó được sử dụng như nguyên tắc chỉ đạo của lời mời gọi đầu tiên: mời gọi trở nên một con người nhân bản. Những người Dothái theo văn hóa Hy lạp cổ coi các qui tắc lễ nghi như những qui tắc nhân bản.

            b. Đức Vâng Lời của người môn đệ: cũng cùng thái độ căn bản đó phải được tìm thấy căn rễ nơi đời sống của các môn đệ Chúa Giêsu. Các môn đệ được qui cho là “những kẻ vâng lời Ngài” (Dt 5,9)

            Hiển nhiên rằng qua sự đổi chỗ từ Chúa Giêsu qua các môn đệ, ý nghĩa của vâng lời thay đổi một phần. Nơi Chúa Giêsu, vâng lời là việc chấp nhận ý Chúa Cha và sứ mệnh của Ngài. Còn đối với các kitô hữu, Tân Ước nói về tuân phục:

  • đức tin (Cvtđ 6,7)

  • Lời Chúa (2 Th 3,14)

  • Phúc Âm (Rm 6,17; 10,10; 1 Th 1,8; 1 Pt 1,22)

Ý muốn cứu độ của Thiên Chúa được mạc khải nơi Chúa Giêsu đạt tới các môn đệ nhờ giáo huấn của Phúc Âm được chấp nhận trong đức tin.

Đây không phải là việc ứng xử luân lý, nhưng là của một thái độ tôn giáo: Vâng lời của Đức tin, ví dụ sự trở lại của thánh Phaolô được định nghĩa như “nhận biết ý của Chúa trong hành động lắng nghe Lời của Chúa Kitô” (Cvtđ 22,14a). 

Nơi thánh Phaolô, luật mà các tín hữu phải vâng lời là luật của Thánh Thần, Đấng ban cho chúng ta sự sống và làm cho chúng ta được tự do (Rm 8). Thánh Phaolô lặp lại rằng Ngài là một tông đồ do Ý muốn của Thiên Chúa (đoạn đầu của 1 và 2 Cor; Eph; Col và 2 Th 1)

c. Vâng lời trong ơn gọi của mỗi người. Đời sống thánh hiến được khai sinh từ hành động vâng lời Thiên Chúa, Đấng đã chỉ định một sứ mệnh ở trong Giáo Hội. Hình ảnh Thánh Kinh của người môn đệ từ bỏ mọi sự để vâng lời tiếng nói của Chúa Kitô và đi theo Ngài đã là nguồn gợi hứng lớn lao cho đời sống thánh hiến, khởi đầu với lối sống đan viện: thầy dòng là người biết lắng nghe Chúa ở trong mình làm sao.

            Như vậy, đời sống tín hữu xuất hiện như là hậu quả của đức vâng lời ý muốn của Thiên Chúa được biểu lộ ra trong Chúa Kitô: Ý muốn của ơn cứu độ phổ quát. Trái lại, vâng lời đối với con người dứt khoát được đặt ở mức độ thấp hơn, và từ ngữ “tuân phục” đã được sử dụng.

            Ý muốn thần linh và vâng lời không ở trong cái ít áp bức nhất, nhưng trái lại có tính cách giải phóng sâu xa nhất. Điều mà Thiên Chúa muốn là sự sống và sự sung mãn của con người.

Không có nơi nào trong Tân Ước có ý niệm khổ hạnh về đức vâng lời, nghĩa là từ bỏ tự do của mình như là một giá trị tự nó. Sự từ bỏ một lợi ích lớn có thể được đòi hỏi chỉ bởi sự trung thành với một lợi ích lớn hơn: ý muốn cứu độ của Thiên Chúa, sứ mệnh, những đòi hỏi của Phúc Âm, sự bình an của cộng đoàn. Trung thành với Chúa là sự nhấn mạnh của vâng lời. Lời kêu gọi của Chúa là một lời mời gọi phong phú với ba chiều kích: là con người, là kitô hữu và là tu sĩ.

5. ĐỨc Vâng LỜi Ở trong Thánh Kinh                         

a. Vâng Lời như Lắng Nghe 

Trong ý nghĩa Thánh Kinh sâu xa nhất của nó, Vâng lời liên hệ với lắng nghe: “Hỡi Israel, hãy lắng nghe” (đó là giới răn đầu tiên của Israel).

Chúng ta được kêu gọi để lắng nghe Chúa khi Ngài nói, truyền thông, mạc khải chính Ngài trong Thánh Kinh, trong giáo huấn của Giáo Hội, trong tha nhân, trong các thời triệu, trong lương tâm và những kích động của con tim chúng ta.

Như vậy, lắng nghe có thể mặc nhiều hình thức, từ việc chấp nhận chính mình, qua sự háo hức đi theo một tiếng gọi đặc biệt bên trong cộng đoàn kitô, và sau cùng chấp nhận thời gian và cách thế của cái chết của mình.

Lời nói của Samuel “Lạy Chúa, xin hãy phán, tôi tớ Chúa đang lắng tai nghe” (1 Sm 3,10) là thái độ và lời cầu nguyện căn bản, kéo dài suốt đời của bất cứ người sống đời tận hiến nào.

Nhưng vấn đề của Israel luôn luôn là sự không vâng lời. Sự không vâng lời đã mang lại tai họa cho dân tộc họ. Sự không vâng lời được kể ngang hàng với tội thờ ngẫu tượng (x. 1 Sm 15,22-23).

Mô hình của vâng lời trong Israel là các ngôn sứ. Họ vâng nghe lời Chúa cả với giá sự sống của mình. Chúa Kitô đi vào cùng phạm trù đó. Ngài đã không vâng lời quyền bính tôn giáo và chính trị, nhưng đã vâng lời Cha Ngài. 

Vì thế, chúng ta cần phải rất thận trọng khi nói về đức vâng lời. Truyền thống Thánh Kinh không biết đến vâng lời quyền bính trần gian. Chỉ có Gia-vê là Vua và Chúa của Israel. Dân chỉ vâng lời quyền bính khi quyền bính vâng nghe lời Chúa. Đối tượng chính của đức vâng lời là Lời Chúa, như đã được mạc khải trong Luật Môsê và các tiên tri. 

Tính cách bao gồm rộng khắp của đức vâng lời cũng được thánh Phaolô nhấn mạnh trong câu “vâng lời đức tin”: “Qua Ngài, chúng tôi đã lãnh nhận ân sủng và sứ vụ tông đồ để rao giảng sự vâng lời đức tin cho tất cả dân ngoại hầu tôn vinh danh Ngài” (Rm 1,5; 16,25-26)

Ở đây vâng lời rõ ràng không phải là một nhân đức luân lý đặc biệt, nhưng là một lời đáp trả trọn vẹn của con người với Tin Mừng đã được rao giảng trong giáo huấn của các tông đồ. Sứ mệnh của thánh Phaolô là đem dân chúng đến với Thiên Chúa trong sự qui phục đức tin.

Sự qui phục này không có tính cách cưỡng ép, vì nó có thể bị từ chối. Nó là một sự chấp nhận và đáp trả lại Lời cách tự do. Nó là kinh nghiệm triệt để của sự hoán cải mà việc trở lại của chính thánh Phaolô trên đường Damas có thể được coi là một mô hình. Rốt cục đối với thánh Phaolô tin là vâng lời và vâng lời là tin, trong khi không tin là không vâng lời và không vâng lời là không tin.

Trong Cựu Ước, Abraham nêu gương cho cặp đôi đức tin-vâng lời này, cả trong việc ông đáp lại lời mời gọi của Chúa (St 12,1-5) và trong việc ông sẵn lòng hiến tế con trai mình là Isaac (St 22,1-18).

Nhưng kiểu mẫu nguyên thủy của đức vâng lời kitô là sự vâng lời của con người trưởng thành Giêsu đối với Chúa Cha:

  • “Lương thực của Thầy là thi hành ý muốn của Đấng đã sai Thầy và chu toàn công việc của Người” (Ga 4,34)

  • “Tôi không thể tự mình làm gì; … điều tôi nhắm đến không phải là làm theo ý của tôi, nhưng là ý muốn của Đấng sai tôi” (Ga 5,30)

  • Trong khi chu toàn ý muốn của Chúa Cha, Chúa Kitô trở nên “vâng lời cho đến chết” (Phil 2,8; Dt 5,8), để lại cho chúng ta gương mẫu hoàn hảo của sự vâng lời đầy yêu thương.

b. Kinh nghiệm của Chúa Giêsu về Chúa Cha

Có một điều mà tất cả các học giả Thánh Kinh đều đồng ý với nhau:

  • Chúng ta không thể hiểu Chúa Giêsu, sứ điệp của Ngài, sứ vụ của Ngài và cả cái chết của Ngài, nếu không kể đến mối liên hệ duy nhất của Ngài với Thiên Chúa.

  • Linh đạo của Chúa Giêsu nằm trong cốt lõi của truyền thống Dothái cùng với sự say mê tìm kiếm ý Chúa trong mọi sự của nó.

  • Chúa Giêsu trải nghiệm lại Thiên Chúa của Xuất Hành, vị Thiên Chúa giải phóng, đem lại tự do, tái tạo, mang lại đời sống mới và chỉ con đường đi tới một tương lai tốt đẹp hơn còn chưa biết.

  • Kinh nghiệm này đặt Chúa Giêsu vào trong truyền thống ngôn sứ: vị ngôn sứ có khả năng thách đố bất cứ quyền bính nào, dù là quyền bính của các vua chúa hay của các tư tế, vì ngôn sứ vâng lời Thiên Chúa.

  • Chúa Giêsu đã có thể thách đố quyền bính của các luật sĩ, thượng tế và các biệt phái, vì Ngài cắm rễ sâu vào Cha Ngài.

  • Chúa Giêsu kinh nghiệm Thiên Chúa như một người cha thấu cảm và Ngài đã chia sẻ sứ điệp này với tất cả những ai đang cần đến nó.

  • Bí quyết của các xác tín, sự thấu hiểu, giáo huấn và đường lối hành động của Chúa Giêsu lần theo kinh nghiệm liên đới bền bỉ với Thiên Chúa. Kinh nghiệm này đưa Ngài tới liên đới sâu xa với mọi người nam cũng như nữ và với thiên nhiên.

  • Kinh nghiệm về Chúa Cha làm cho Chúa Giêsu thành một con người duy nhất được giải phóng, can đảm, không sợ hãi, độc lập, đầy hy vọng, chân thật.

c. Ai vâng lời Chúa Giêsu?

Chúa Giêsu có một uy quyền, và lệnh Ngài truyền phải được vâng lời. Những kẻ vâng lời Ngài là: ma quỉ, các bệnh tật, tội lỗi, gió và biển. Như thế, Chúa Giêsu đòi được uy quyền trên sự ác, nhưng chúng ta không thể nói rằng Ngài đòi được uy quyền trên các con người. 

Chúa Giêsu không đến để cai trị dân. Ngài đến để giải thoát họ khỏi sự lôi cuốn của tội lỗi, lề luật và sự chết. Ngài làm cho dân hy vọng rằng mọi sự có thể sẽ khác đi (tốt hơn), vì Thiên Chúa của Xuất Hành, Người Cha thấu cảm ở bên cạnh họ, vì đối với Ngài mọi sự đều có thể.

6. ĐỨc Vâng LỜi trong hoẠt đỘng và lỜi dẠy cỦa Chúa Giêsu

Vua chúa của dân ngoại cai trị trên dân chúng và những ai thi hành quyền trên họ thì tự gọi mình là ân nhân. Nhưng các con thì không được giống như thế. Người lớn nhất trong các con hãy làm người nhỏ nhất và người cai trị hãy làm như người phục vụ” (Mk 10,42-44).

Phêrô được trao cho “chìa khóa Nước Trời” (Mt 16,13-19). Chúa Giêsu thổi hơi trên các tông đồ và nói “Hãy nhận lấy Thánh Thần, các con tha tội cho ai thì tội người ấy được tha, các con cầm buộc tội ai thì tội người ấy bị cầm buộc” (Ga 20,22-23). 

Như thế, Quyền bính Chúa Giêsu ban ở trong sứ điệp và sự trung kiên rao giảng hay là ở trong chính các tông đồ? Ai thừa kế các tông đồ? Tất cả tập thể những người tin hay chỉ những người lãnh đạo kế vị trực tiếp xuống từ các tông đồ? Sứ điệp chứng thực nhiệm vụ hay ngược lại?

a. Các cộng đoàn Giáo Hội vào thời kỳ đầu  

Không có mô hình quyền bính rõ ràng trong các cộng đoàn Giáo Hội sơ khai. Các cộng đoàn Giáo hội ấy tùy thuộc vào sự nuôi dưỡng của các tông đồ lưu động, các ngôn sứ và các lãnh đạo địa phương do các tông đồ lưu động cắt cử. Với thời gian, cán cân quyền bính được chuyển giao cho các giám mục (episcopoi) và linh mục (presbyteroi) địa phương. 

Mỗi cộng đoàn Giáo Hội hay nhóm giáo hội phát triển các đặc tính riêng của mình. Tiến trình ấy có thể được thấy rõ trong các bản văn Tân Ước: Không chuyên quyền mà cũng không dân chủ. Các cộng đoàn Giáo Hội sơ khai phối hợp được cả hai yếu tố cùng phát triển cân bằng: sức mạnh, quyền bính, quyền hạn của giới lãnh đạo và các yêu sách của các tín hữu bình thường. 

Chúa Giêsu Kitô có thể lại đến sớm, không cần dựng lên hệ thống phẩm trật hay làm phức tạp sứ vụ. Tính chất riêng biệt rõ rệt của Giáo Hội sơ khai là chính những giải thích khác nhau và tương phản về đức tin ở giữa những kẻ được đón nhận là thành viên của cộng đoàn kitô. Tình trạng này vẫn xuôi chảy cho đến thế kỷ thứ hai và chẳng ai quan tâm đặt vấn đề. 

Tuy nhiên, về sau quyền bính hướng tới Thần quyền: các thực tại quyền bính tự khẳng định mình. Đức tin và trật tự được thống trị bởi chức giám mục (Roma, Carthage, Ephêsô, Alexandria, và Antiochia). Mãi cho đến thế kỷ thứ tư, xem ra đó là hệ thống được chỉ định để điều hành toàn thể Giáo Hội.

b. Thánh Phaolô bảo vệ quyền bính mình thế nào?

Cái mà thánh Phaolô đòi hỏi công nhận ngài là một tông đồ chính là sứ điệp và phẩm chất đời sống của ngài: “Tôi không khoe khoang, vì tôi không muốn bất cứ ai có ý nghĩ cao hơn về tôi do kết quả mà y có vì đã nhìn thấy việc tôi làm và nghe tôi nói” (2 Cor 12,7). 

Ngài không do dự kết án sự tôn sùng cá nhân, thầy dạy giả và chủ nghĩa độc đoán: “Anh em đành chịu người ta áp chế, cấu xé, tước đoạt, đối xử ngạo ngược và tát vào mặt” (2 Cor 11,20).

Có một mồi liên hệ chặt chẽ giữa lời kêu gọi, sứ điệp và hạnh kiểm. Ơn kêu gọi, dù là chủ quan, cần phải được thử nghiệm: đương sự có sống trong Thánh Thần không? Giáo huấn chính thống phải được cân nhắc bằng truyền khẩu và cả chữ viết. Về hạnh kiểm -trong nhiều trường hợp phải có tiêu chuẩn rõ ràng- phải bao hàm không chỉ một tiêu chuẩn cao về luân lý cá nhân, mà còn về tình huynh đệ chân thật nữa.

7. ĐỨc Vâng LỜi trong đỜi sỐng tU SĨ

Sự vắng mặt của đức vâng lời trong đời sống đan viện khởi thủy: Nhìn vào lịch sử, sự kiện trước tiên nổi lên là đời sống thánh hiến bắt đầu không có sự người tín hữu này vâng lời một tín hữu khác. Tịch liêu (solitude) là cấu trúc căn bản của đời sống ẩn tu. Người được thánh hiến đầu tiên được gọi là “thầy dòng”, “người sống đơn độc”, vì trải qua đời mình một mình hay cũng được gọi là “ẩn sĩ”, “người sống cách biệt, xa khỏi mọi người”. Để tìm ý Chúa, vị ẩn sĩ chỉ có cuốn Thánh Kinh. 

Đức vâng lời xem ra không được đề cao như là một nét căn bản của đời sống đan viện, cả với những thầy dòng mà đời sống tịch liêu có chế giảm cách nào đó và định kỳ có gặp gỡ với thầy dòng khác (một nửa ẩn sĩ).

Nếu có trải qua một thời gian với một thầy dòng khác (một kiểu Nhà Tập) thì chỉ là để học trở thành một thầy dòng, nghĩa là một người sống đơn độc một mình. Tương quan thầy trò này thường là tạm thời: sự vâng lời chấm dứt khi nhà tập chấm dứt. Người tự cai trị lấy mình, theo đúng chính lương tâm của mình, là một thầy dòng. Như vậy vị thầy dòng thực sự là một ẩn sĩ: đơn độc.  

a. Vâng Lời Như Sự Từ Bỏ

Các ẩn sĩ đã khám phá thấy rằng đôi khi những đau khổ và hãm xác khủng khiếp của mình đầy phù phiếm và kiêu ngạo. Nhờ thế họ trở nên ý thức rằng sự khổ hạnh lớn nhất là cái gì nội tâm hơn, đó là ý muốn của họ. Cần làm cái trái ngược mà họ mong muốn hay bắt chính mình tùng phục ý muốn của người khác. Như thế, đức vâng lời như sự từ bỏ tự do cá nhân.

Chúng ta đối mặt với một quan niệm về vâng lời được gọi là “tùng phục”, chứ không phải vâng lời được gọi cách thích hợp như “lắng nghe, nghe lời” (“Cá không ăn muối cá ươn, con cưỡng [không nghe lời] cha mẹ trăm đường con hư”). Quan niệm này xem vâng lời như sự từ bỏ ý riêng và hậu quả là một hình thức tu đức khổ hạnh. Các thầy dòng đầu tiên rất coi trọng sự khổ chế thân xác (ăn chay, chế dục, canh thức, làm việc tay chân nặng nề v.v…). Bây giờ họ chuyển sang một khổ hạnh thiêng liêng mà tột đỉnh là từ bỏ ý riêng.

Từ bỏ là cốt lõi của nền tu đức kitô. Hậu quả của Tinh thần nhị nguyên: Chúa một bên và dân một bên, Chúa đối nghịch thế gian, vĩnh cửu đối nghịch thời gian, tinh thần đối nghịch vật chất, linh hồn đối nghịch thân xác… là người ta càng vươn tới Chúa khi càng lìa bỏ thế giới đàng sau; Thể xác càng yếu đi thì linh hồn càng mạnh hơn; Sự không dính bén bản thân đạt tới trình độ cao nhất của nó trong sự từ bỏ ý riêng.

Giáo thuyềt về vâng lời – tùng phục như sự từ bỏ ý riêng đạt tới đỉnh cao của nó trong Luật của Vị Thầy với những ý nghĩa đặc biệt. Vị thầy xem ra rất bi quan đối với sự tín nhiệm mà một người có thể đặt vào sự phán đoán riêng của mình. Ý riêng, tự do cá nhân phải được hãm dẹp. Nhiều khi lý do vị thầy đưa ra cho vài qui tắc hay cấm đoán đơn giản chỉ để ngăn ngừa thầy dòng khẳng định chính mình. Thầy dòng phải vâng lời để từ bỏ ý riêng của mình.

Tân Ước không nói đến việc hãm dẹp ý riêng, nhưng nói đến việc kết hiệp với ý muốn cứu độ của Chúa Cha; hay nói cách khác, không nói đến tùng phục mà nói đến lắng nghe. Các môn đệ phải sẵn sàng cho những từ bỏ khó khăn nhất, ngay cả mạng sống nếu cần, nhưng chỉ khi nào sự việc đòi hỏi họ phải như thế. Cái làm nên người môn đệ không phải là lìa bỏ, nhưng là đi theo.

b. Vâng Lời Như Bác Ái

Thánh Pachomius (292-346) và cộng đoàn của ngài

Các đồ đệ thánh Pachomius trải qua từ đời sống bán ẩn sĩ đến đời sống cộng đoàn nhờ họ dần dần khám phá ra giá trị của sự hiệp thông kitô, nhưng vẫn giữ kiểu mẫu cộng đoàn Giêrusalem. Nhóm đồ đệ thánh Pachomius vượt qua vài khủng hoảng làm cho họ hiểu được giá trị của trật tự trong cộng đoàn để bảo vệ mối hiệp nhất của cộng đoàn trong đức ái.  

Khi vài “làng” đồ đệ thánh Pachomius đông hơn cả ngàn thành viên thì sự cần thiết của kỷ luật và tổ chức rất được nhấn mạnh. Tuy nhiên các đồ đệ thánh Pachomius đã không nhấn mạnh về phương diện giáo thuyết đến đức vâng lời và cũng không cho nó một giá trị tu trì lớn lao.

Thánh Basil (331-379) và cộng đoàn của ngài

Các tu sĩ sống thành từng nhóm nhỏ, với Phúc Âm là luật duy nhất. Nhóm những người nam luôn được gọi là “huynh đoàn” và các thành viên được gọi là “huynh đệ.”  Đức vâng lời nhắm tới đời sống huynh đệ và các kiểu mẫu là nhóm môn đệ quanh Chúa Giêsu, cộng đoàn Giêrusalem và các cộng đoàn của thánh Phaolô.

Trong cộng đoàn thánh Basiliô, Bề trên không phải là đầu của thân mình (chỉ có Chúa Kitô là đầu), nhưng chỉ là mắt (mắt không cai trị, nhưng hướng dẫn), dù bề trên là người thứ nhất trách nhiệm về cộng đoàn.

Thánh Augustine (354-430) và cộng đoàn của ngài

Ngài thiết lập cộng đoàn linh mục sau khi thụ phong Giám mục. Trung tâm đời sống theo Phúc Âm của họ là đức ái, con tim của cộng đoàn kitô đầu tiên.  

Vai trò của quyền bính lúc ấy là gì? Bác ái huynh đệ có lẽ đủ để duy trì sự bình an trong cộng đoàn, nhưng khi có khó khăn nổi lên thì một quyền bính sẽ can thiệp cách khôn khéo. Không có luật của uy quyền nhưng là một dịch vụ bác ái. Các anh em/ chị em sẽ vâng lời không như tôi tớ, mà như những con người tự do.

Thánh Phanxicô

Cộng đoàn thánh Phanxicô cùng đường hướng với thánh Basiliô: Phúc Âm mang họ lại với nhau và Phúc Âm sáng tạo nên huynh đoàn. “Bề trên” phải là và được gọi là thừa tác viên: ngài phục vụ. Mọi anh em sẽ vâng lời và phục vụ lẫn nhau, vì “như đó là sự vâng lời đích thực và thánh thiện đối với Chúa Giêsu Kitô”

c. Vâng Lời Như Lắng Nghe

Ý niệm này bắt nguồn từ đời sống đan tu ở trong sa mạc, trong đó các ứng sinh chọn cho mình một người lớn tuổi đã được khai sáng để dạy dỗ mình trên con đường của Chúa Thánh Thần (linh hướng). Từ sự kiện này mà có ý tưởng nguyên thủy về cộng đoàn như chỉ là tình trạng chuyển tiếp, như sự chuẩn bị cho đời sống ẩn sĩ hoàn hảo.  

Ý niệm vâng lời này tìm được diễn tả cao nhất của nó trong Luật của Thầy (RM, Regula Magistri) và Luật của các đan sĩ Biển Đức (RB, Regula Monasteriorum of St. Benedict) của thánh Biển Đức (470-547). Các luật này định nghĩa đời sống tu viện như phục vụ lẫn nhau dưới Luật và viện phụ. Kết quả là vai trò của viện phụ được giải thích như là then chốt trong tất cả đời sống đan viện. Đặc quyền của viện phụ là giảng dạy, quyết định và ra lệnh. Trước hết, viện phụ là thầy/chủ, nhưng ngài phải dạy dỗ và lãnh đạo bằng hành động của mình hơn là bằng lời nói.  

Cha linh hướng/mẹ linh hướng được thể chế hóa. Không còn là lúc sự thánh thiện cá nhân của họ khêu gợi lòng tín nhiệm và thuyết phục kẻ khác tin rằng họ nói lên giáo lý trung thực của Chúa Kitô (như các giáo phụ sa mạc), nhưng bây giờ họ là hiện thân của Chúa Kitô và có thẩm quyền nói nhân danh Chúa Kitô cách cụ thể, vì họ là đầu của đan viện.  

Luật của Vị Thầy cũng cố gắng bảo vệ sự hiện hữu trong Giáo Hội của hai phẩm trật: phẩm trật của các Giám mục và phẩm trật của các viện phụ. Cá nhân mỗi thầy dòng tìm biết và thực thi ý Chúa hiện diện trong Thánh Kinh. Luật là cách đọc và tổng hợp đúng đắn Thánh Kinh cho thầy, và viện phụ là người giải thích đúng về Luật theo tiến trình từ trên xuống: Thiên Chúa-Thánh Kinh-Luật-Viện phụ-Thầy dòng.

Luật của Vị Thầy nói rằng Chúa Kitô nói qua viện phụ, hay tốt hơn nữa, viện phụ/viện mẫu là người giải thích và là người trung gian của truyền thống linh đạo đối với từng cá nhân. Từng cá nhân thành viên của đan viện lắng nghe Lời Chúa chứa đựng trong Thánh Kinh, thấm nhuần Luật, luôn mở lòng cho giáo huấn của truyền thống do người đứng đầu tu viện trình bày. Đầu thực thụ của các đan sĩ là Chúa Kitô, nhưng viện phụ “hành động thế Ngài” và đại diện Ngài ở giữa cộng đoàn.

d. Vâng Lời Vì Sứ Vụ Tông Đồ

Các hậu quả phát sinh từ việc đặt vâng lời làm trọng tâm cho sứ vụ tông đồ là yếu tố trung tâm của các Dòng Tu hiến dâng cho việc ấy:

·        Trước hết đặt đức vâng lời nối kết với sứ mệnh Phúc Âm hóa của Giáo Hội,

·        Do đó có nhu cầu hiệp thông với phẩm trật: Không chỉ có quyền bính của Bề trên, mà quyền bính của Giám mục, của Giáo Hoàng cũng phải quan tâm.

·        Đức vâng lời không được xem như một giá trị khổ hạnh, nhưng đúng hơn là một phương tiện đặc ân của sứ mệnh phải chu toàn trong Giáo Hội.

Các tu sĩ Phanxicô

Thánh Phanxicô là một trong những người đầu tiên liên kết đức vâng lời với sứ vụ tông đồ. Ngài đã từ bỏ giàu sang để tận hiến cho “Đức Mẹ Nghèo” (Madonna Poverta) và để săn sóc người bệnh, không thu mình trong một đan viện. Sau đó, dù không là linh mục, Ngài đã bắt đầu giảng thuyết. Quanh Ngài, huynh đoàn đã được khai sinh: “Các anh em hèn mọn” 

Trong một xã hội mà người ta muốn làm “bề trên” và trong Giáo Hội mà tất cả mọi người theo Phúc Âm đều là “anh em”, tu sĩ Phanxicô muốn không chỉ là “anh em” mà còn “hèn mọn”: là những anh em kém hơn để phục vụ mọi người.

Ý tưởng nguyên thủy của vâng lời là khiêm hạ và phục vụ. Tuy nhiên, đúng trình tự, Phanxicô đã chuyển tới vâng lời có tính cách giáo luật hơn. Ngài sẽ thay đổi ý tưởng về đức vâng lời.

Cuối cùng, hai kiểu vâng lời giữ lấy chỗ cùng thời gian: vâng lời có tính cách Phúc Âm của huynh đoàn và vâng lời để hành xử đúng theo Luật.

Các tu sĩ Đa Minh

Nhiệm vụ và mối bận tâm của các nhà giảng thuyết (Đaminh) là Lời Chúa, được sống trong hiệp thông huynh đệ chặt chẽ, suy niệm và cử hành trong học hỏi và phụng vụ, loan báo cho đến tận cùng thế giới.

Bề trên là trung tâm ý chí năng động của huynh đoàn. Bề trên được cộng đoàn bầu lên và kiểm soát, nhưng mọi người hứa vâng lời ngài. Thật ý nghĩa khi công thức tuyên khấn của Đaminh  là hứa vâng lời người đứng đầu Nhà Dòng. Sự vâng lời này nằm trong viễn ảnh sứ vụ của tất cả cộng đoàn.

Thánh Ignatius Loyola (1491-1556)

Theo thánh Ignatiô, các tu sĩ Dòng Tên phục vụ Đức Giáo Hoàng ở bất cứ đâu trong Giáo Hội, ăn mặc như các linh mục khác, với sự tự do cá nhân lớn lao bên trong một Nhà Dòng được cấu trúc mạnh mẽ.

Đức vâng lời căn bản hướng tới coi sự hữu hiệu của Nhà Dòng như một phương tiện cho việc Phúc Âm hóa trong Giáo Hội. Ý niệm đức vâng lời nhằm đến sứ vụ này làm cho tất cả đời sống cộng đoàn được đức vâng lời tác động và cấu trúc, và đức vâng lời này đóng vai trò hết sức quan trọng.

Đối với Ignatiô, đức vâng lời phải trọn vẹn và vô điều kiện. Phải vâng lời Bề Trên không phải vì Bề Trên khôn ngoan, tốt lành hay có nhiều tài, nhưng vì bề trên thay mặt Chúa và quyền bính của Chúa (Thư về đức vâng lời 3). Đức vâng lời này có ba cấp độ:

§         Chỉ chu toàn bề ngoài: không đáng được gọi là nhân đức.

§         Sự tùng phục của ý muốn: phù hợp với ý muốn của Bề Trên.

§         Sự tùng phục của phán đoán: cái gì Bề Trên truyền lệnh là tốt nhất cho những kẻ vâng lời (Thư về đức vâng lời 14).

Theo Ignatiô, các tu sĩ Dòng Tên phải nhìn thấy Chúa trong con người của Bề Trên. Họ phải sẵn sàng biện minh cho ý muốn của Bề trên, giả thiết và tin rằng mọi mệnh lệnh đều đến từ Ý muốn của Chúa, và vì thế phải vâng lời một cách “tối mặt.” [“Thầy vâng lời tôi, không phải vì tôi có một đặc sủng hay vì tôi làm gương sáng cho thầy. Thầy vâng lời tôi vì tôi là bề trên của thầy. Bây giờ tôi đang tại nhiệm. Thầy hiểu chưa? – Vâng ạ!]  

Và kiểu vâng lời này phải được đưa vào thực hành bởi các cấp dưới trong tương quan với các Bề Trên địa phương, bởi các bề trên địa phương vói các bề trên Giám tỉnh, bởi các bề trên Giám tỉnh với Bề Trên Cả, và bởi Bề trên Cả với Đức Giáo Hoàng (Thư về vâng lời 20).

Tu sĩ Dòng Tên trước hết liên hệ với Bề trên, chứ không phải với cộng đoàn, và qua Bề trên với toàn thể Hội Dòng: Đức vâng lời hoàn toàn có tính cách hàng dọc. Mối tương quan với các Bề trên và Hội Dòng như là một toàn thể là rất mạnh mẽ, nhưng tương quan với cộng đoàn thì yếu. Do đó một tu sĩ Dòng Tên có thể đi làm sứ vụ một mình, nếu được Bề Trên sai đi (điều này hoàn toàn không thể hiểu nổi trong các hình thức đời sống thánh hiến khác: các tu sĩ phải sống cộng đoàn, được sai đi từng hai người, nhất là các nữ tu).

Sự vâng lời Đức Giáo Hoàng là mục đích của lời khấn thứ tư của một số tu sĩ Dòng Tên, không phải tất cả; chỉ các linh mục và những ai được Bề trên chỉ định; nhưng các bề trên và những ai có một trách nhiệm quan trọng được bầu chọn và chấp nhận phải tuyên lời khấn thứ tư này. Mục đích của lời khấn thứ tư này là để tu sĩ Dòng Tên luôn có thể đi bất cứ đâu mà Đức Giáo Hoàng sai họ (Const VII,1). 

Quyền bính tối thượng thuộc về Tổng Công Nghị bầu chọn Bề Trên Cả và bàn cãi những công việc khác. Nhưng loại hội họp này rất hiếm hoi, thường chỉ khi nào Bề Trên Cả qua đời. Quyền cai trị thông thường của Hội Dòng thuộc về Bề Trên Cả, với sự giúp đỡ của Ban Cố Vấn để ngài tham khảo mà không buộc phải theo ý kiến của họ. Bề Trên Cả bổ nhiệm tất cả các Bề trên, kể cả các bề trên địa phương, và ngài có thể quyết định trực tiếp trên mỗi tu sĩ Dòng Tên mà không cần các trung gian. Có một sự tương tự sâu sắc giữa Bề Trên Cả của Dòng Tên với Đức Giáo Hoàng.  

Tuy nhiên, kiểu vâng lời này tự nó là một phương tiện chứ không phải mục đích. Nó được tác động bởi sự hữu ích tông đồ, chứ không đơn giản bởi một bó buộc hay một sự hoàn thiện, nhưng trong đức tin nó có một ý nghĩa tu trì, khổ hạnh và cả thần bí. Vì thế đường lối sống bên trong Dòng Tên không giống như chế độ độc tài: việc đối thoại là luôn luôn có thể.

8. ĐỨC VÂNG LỜI TRONG CÁC TU HỘI ĐỜI

Đức Vâng Lời trong các Tu Hội Đời thuộc về đặc sủng của huynh đoàn đời mà các thành viên phải sống riêng biệt chứ không phải trong một cộng đoàn.

Không có một cộng đoàn cơ cấu hữu hình, nhưng có mối hiệp thông thiêng liêng rõ ràng giữa các thành viên của Tu Hội Đời. Có một sự tùy thuộc thiêng liêng từ một linh hứng chung, mỗi người được hoàn toàn độc lập để cùng nhau quyết định trong các vấn đề của tu hội.

Chúng ta có thể nói rằng đức vâng lời của tu hội đời trước hết là vâng lời tinh thần đã định nghĩa và khai sinh huynh đoàn. Nó là một sự vâng lời của linh hứng, chứ không có tính cách pháp lý.

Trong bối cảnh này, một người điều hành đóng vai dấu chỉ của đặc sủng và của toàn thể huynh đoàn. Sứ vụ của người điều hành là trở nên chứng tá cho huynh đoàn đặc sủng, và nếu cần, làm cho mọi người trung thành với đặc sủng; người điều hành bảo đảm căn tính thiêng liêng của tu hội.

Đặc sủng của một người thánh thiện sáng tạo nên một cộng đoàn: Những người đi theo tập hợp lại quanh người. Phúc Âm sáng tạo nên cộng đoàn huynh đệ. 

9. CÁC CHIỀU KÍCH CỦA VÂNG LỜI

Vâng Lời là một đặc sủng của Chúa Thánh Thần tác động lên tự do của chúng ta, từ từ đồng nhất chúng ta với Chúa Kitô, vâng phục ý Cha và phục vụ mọi người, đồng thời thúc đẩy chúng ta yêu thương “với tất cả linh hồn và đời sống chúng ta.”

Tất cả mọi sinh hoạt con người đều cần một bối cảnh và hướng tới một mục đích. Chúng ta hãy xem đức Vâng Lời được mở ra và thực hiện trong những chiều kích nào. 

a. Chiều kích truyền giáo và chính trị của đức vâng lời: Đời sống và hoạt động của tu sĩ trực tiếp hướng tới những người bị áp bức và bị gạt ra ở bên lề, gánh lấy hoàn cảnh của họ và phục vụ họ, chiến đấu cùng họ vì các quyền lợi và sự giải phóng của họ, và khi cần, hiến dâng mạng sống mình cho công lý. Tu sĩ sẻ chia đức vâng lời truyền giáo của Chúa Giêsu sẽ tìm được sức mạnh phục vụ yêu thương, đẩy mạnh công cuộc truyền giáo, dù đôi khi phải đương đầu với những cản trở của quyền lực thế gian.  

b. Chiều kích cộng đoàn của đức vâng lời: Cùng với anh chị em của chúng ta trong cộng đoàn thiết lập trật tự, một đời sống chung cộng đoàn đích thực của sự cộng tác, đồng trách nhiệm, cam kết thực hiện một dự án chung của sứ mệnh để cùng với anh chị em của chúng ta trong đức tin thiết lập một cộng đoàn đích thực của những người môn đệ của Chúa Giêsu. Vì “chỉ có một linh hồn” nên cần thiết lập những cộng đoàn ở đó có sẻ chia đời sống chung, phân định, quyết định và phục vụ, hầu làm cho sứ điệp của Chúa Giêsu trở nên khả tín. Tác vụ quyền bính đến từ cộng đoàn và cho cộng đoàn.

c. Chiều kích thần bí của đức vâng lời: Thiên Chúa là gốc rễ của mọi sự. Tu sĩ say mê vâng theo ý Chúa, thông hiệp với đức vâng phục của Chúa Giêsu, vâng lời như là đức tin vào Chúa (Abraham, Maria), để Chúa kiện toàn ý muốn của Ngài nơi chúng ta. Khi vâng lời là chúng ta biểu lộ tình yêu của chúng ta đối với Chúa, biết rằng lệ thuộc vào ý Chúa và phục vụ Nước Chúa là con đường để đạt được sự sung mãn cá nhân cũng như cộng đồng xã hội. 

d. Chiều kích sinh học của đức vâng lời: Hơn ai hết, tu sĩ sống giao ước với cả tạo thành, đi vào tương quan với tạo thành, trở nên người quản lý của tạo thành, chăm sóc thiên nhiên khi nó bị đe dọa. Từ khước một sự thống trị độc đoán lên thiên nhiên, cũng như bất cứ hình thức phá hoại và nô lệ hóa nào đối với môi trường sinh thái. 

e. Chiều kích biểu tượng, tiên tri và chứng tá cánh chung của đức vâng lời: Sống đức vâng lời theo gương Chúa Giêsu là ký ức sống động về Chúa Giêsu, đối kháng trước quyền lực thế gian, báo trước thực tại cánh chung khi ý Chúa đang được kiện toàn trong mọi sự. Theo đường lối này, chúng ta trở thành “hình tượng sống động” của Chúa Giêsu, Đấng không đến để được phục vụ nhưng để phục vụ; người tu sĩ cũng trở nên hình tượng sống động của hình ảnh Giáo Hội, tôi tớ của tình yêu, và tiên tri của cuộc giải phóng vượt quá mơ tưởng giới hạn của con người (utopia) của Nước Trời.  

f. Vâng lời như là “lắng nghe và mở rộng tai” cho tiếng nói của Chúa: Trong ý thức tôn giáo, vâng lời là thái độ thực hành của việc lắng nghe Lời Chúa. Trong viễn ảnh thần học, vâng lời qui về mối liên hệ mà một con người duy trì với Chúa: lắng nghe Lời Chúa và sống theo thánh ý Ngài. Những mẫu gương tuyệt hảo của kiểu vâng lời đó là các ngôn sứ.

g. Đức vâng lời của tu sĩ như đặc sủng: Ai có thể vâng lời thánh ý Thiên Chúa? Làm sao có thể được? Điều đó có thể được nếu người ta được Chúa Thánh Thần tác động. Đức vâng lời của người kitô là một đặc sủng, một quà tặng đến từ Chúa Thánh Thần. Không ai trong chúng ta với nỗ lực riêng của mình có thể vâng lời, tùng phục ý muốn của Chúa Cha như Chúa Giêsu, nếu người đó không được Chúa Thánh Thần tác động.

h. Đức vâng lời của tu sĩ như trách nhiệm: Vâng lời của tu sĩ là sự tham dự vào đức vâng lời của Chúa Giêsu Kitô, nhờ quyền năng của Chúa Thánh Thần. Vì thế họ được mời gọi lấy Chúa Giêsu làm luật của đời sống mới trong tự do của họ. Họ được mời gọi cho đi các kế hoạch cá nhân, mơ ước và khát vọng của họ, và ôm ẳm lấy sứ điệp Nước Trời, là thứ mà Chúa Giêsu đã sống và chết vì nó. Quả thế, Chúa Giêsu đã vâng lời ý Chúa Cha và trả giá bằng cái chết của Ngài. Vâng lời của Chúa Giêsu mang lại hoa quả cứu độ. Vâng lời của Chúa Giêsu không để cho luật, các thể chế, các ý thức hệ, cũng chẳng để cho vương quốc trần gian. Vâng lời của Chúa Giêsu là để cho Nước Thiên Chúa.

II. LỜI KHẤN KHÓ NGHÈO 

1. TÌM MỘT ĐỊNH NGHĨA ĐÚNG 

Ngày nay, chúng ta hiểu phải Sống Khó Nghèo là sống một cuộc đời giản dị, bằng lòng với những gì mình có, và lưu tâm đến điều kiện sống của đa số dân chúng ở chung quanh mình. 

Khó nghèo là một đời sống thanh thoát, không dính bén, sống không chỉ cho dân Chúa là những người được kể như “những người nghèo của Gia-vê”, nhưng là sống với họ, chia sẻ thân phận và cuộc sống của họ. 

Ta có thể hiểu được ý nghĩa của đức khó nghèo từ cuộc sống tận hiến của chính Chúa Giêsu và qua cuộc sống của nhiều vị thánh, chẳng hạn như thánh Phanxicô At-xi-di, Mẹ Têrêsa Calcutta, v.v.. Chúa Kitô đã mặc lấy hình hài một con người, sống trong một gia đình nghèo của con người ở Nazareth như bất cứ ai khác. Ngài chẳng cần cuộc sống nghèo khó đó cho Ngài, nhưng Ngài đã tự hạ và đã soi sáng cho hàng triệu triệu người bởi đời sống giản dị của Ngài. 

Những người đã trải qua nhiều năm ý thức chiến đấu, bây giờ sống đức khó nghèo trở thành một phần của đời sống họ. Họ chỉ mua những gì thực sự cần thiết cho cuộc sống. Họ đã học chỉ mua những gì họ cần chứ không phải mua những gì họ muốn. Họ cũng ngưng chồng chất thêm các vật dụng trong phòng. Thật phong phú khi sống một cuộc đời thanh thoát.  

2. NhỮng bẢn văn Thánh Kinh cẦn đỌc:

·        Mk 6, 7-13

·        Mt 10,1-16

·        Lk 9,1-6

·        Lk 10,1-12

·        1Cor 9,12

·        Cvtđ 2, 44-45

Theo các nghiên cứu chú giải hiện nay, giáo huấn Phúc Âm về đức khó nghèo có thể được gom lại trong ba trục chính: 

  • Người nghèo là những khách hàng đặc ân của Chúa: họ được công bố là “được chúc phúc” vì Thiên Chúa can thiệp để chấm dứt tình trạng nhục nhã và khốn cùng của họ (x. Magnificat và Tám Mối Phúc Thật).

  • Đặt tin tưởng không đúng chỗ vào Tiền bạc/Giàu có (x. Mt 6,24; Lk 16,13-14; Cvtđ 5,2-4)

-          xuất hiện như một vị chúa tể giả,

-          đối thủ cạnh tranh với Chúa

-          cám dỗ và lừa dối.

  • Của cải vật chất phải được dùng để chia sẻ:

-          phải được đặt làm của chung (Cvtđ),

-          chia sẻ với người nghèo

-          Việc từ bỏ vật chất căn bản được nhìn trong viễn ảnh hiệp thông/chia sẻ, một yêu sách của việc đi theo Chúa Giêsu.

-          Việc từ bỏ vật chất không bao giờ được nhìn theo quan điểm khổ chế.

3. ĐỨc khó nghèo Ở trong CỰu ƯỚc

a. Khó nghèo trong bối cảnh xã hội của nó  

Kinh nghiệm sa mạc là một lý tưởng (Tv 68,8-11; Dnl 15,4). Đó là thời của đức nghèo khó tập thể và tình liên đới sâu xa. Rồi cuộc định cư ở Canaan đã mang lại sự phân chia đất đai giữa các bộ tộc, chi phái và gia đình. Các vấn đề xã hội bắt đầu xuất hiện.

Thế kỷ thứ tám trước Công nguyên đã mở ra một giai đọan khủng hoảng xã hội đặc biệt nghiêm trọng. Cuộc khủng hoảng xem ra bắt nguồn từ tiến trình đô thị hóa với việc phát triển các mối liên hệ với các quyền lực ngoại bang và việc bành trướng nền cai trị của vua, cùng với việc gia tăng nhiều viên chức cao cấp… Các tiên tri thời ấy đã mạnh mẽ chống lại sự xa hoa của những người quyền thế, cả ở Israel (Am 3,12.15; 4,1; 5,11; Hos 7,5; 8,14), cả ở Giuđa (Is 2,7.13-16), và chống lại cái ách nặng đè xuống trên người nghèo.

Vào cuối thế kỷ thứ 8, sự can thiệp của Assyria đã triệt hạ vương quốc Israel (năm 721) và làm tan nát vương quốc Giuđa (Is 22,8-11; 2 V 16,8; 18,14-16). Tình trạng ấy đã đem lại bần cùng hóa cho dân, nhất là người nghèo. Rồi đến thời kỳ Giêrusalem bị phá hủy (587-586) và lưu đày sang Babylon. Chỉ có người nghèo được để lại.

Cuộc lưu đày trở về năm 537 bắt đầu một thời kỳ khắc khổ. Dân từ Babylon trở về phải vất vả xây dựng lại một đền thờ khiêm tốn (Hg 2,3; Ez 3,12), trong khi người Samaria lân cận lại chống đối việc tái thiết của họ (Ez 4; Neh 3,23-4,2). Người Dothái nghèo gặp phải nạn đói phải bán con làm nô lệ để có lương thực sống và trả thuế cho nhà vua (Neh 5,1-5). 

Sự cách biệt giữa giàu nghèo ngày càng lớn. Herođê Cả đã đánh thuế quá cao vì lối sống phung phí và xây cất dinh thự của ông. Sách Khôn Ngoan mô tả sự nghèo khó đó: lười biếng (Pr 6,6-11), chuyện vô tích sự (Pr 14,23), chạy theo những chuyện phù phiếm (Pr 28,19), tìm kiếm lạc thú (Pr 21,17; 23,20-21). Chúng ta không thể không nghĩ rằng lịch sử lặp lại cho thời chúng ta đang sống hôm nay.       

b. Nghèo khó như một hình phạt

Phản ứng đầu tiên của người tôn giáo cổ thời đối diện với nghèo khó là giải thích nó trong sơ đồ phần thưởng tạm thời: Nghèo khó là một sự dữ, vì thế nó là một hình phạt, do đó giàu có được coi như phúc lành của Chúa: Abraham (St 13,2) Isaac (St 26,13-14), Giacob (St 30,43).

c. Gương xấu của Nghèo khó

Israel cũng nhận thấy rằng người nghèo không luôn luôn là người có tội, cũng như người giàu không phải luôn luôn là kẻ công chính (x. Mi 6,12; Jb 21,7-12; Tv 73,1-14). Vì thế, người tín hữu phải cố gắng làm một cái gì về việc đó:

  • Bổn phận giúp đỡ người nghèo, người góa bụa, kẻ mồ côi

  • Tìm kiếm sự trợ giúp của Chúa bằng cầu nguyện

  • Nghèo khó là xấu: chúng ta phải chiến đấu chống lại nó bởi sự trợ giúp cộng đồng; không ngừng kêu xin Chúa giải thoát chúng ta khỏi nghèo khó: ít nhất chúng ta có thể coi nó như một trắc nghiệm để giáo dục chúng ta; chúng ta luôn hy vọng được cứu thoát khỏi nghèo khó, và sự cứu thoát này chỉ được quan niệm nơi đời này, với những giá trị tạm thời.

  • Tuy nhiên, Kinh nghiệm đau đớn về nghèo khó lắm khi đưa người nghèo đi đến chỗ chấp nhận điều kiện hiện tại của mình trong sự tín thác vào Chúa, Đấng yêu thương những người bị tước quyền thừa kế và sẽ giải thoát họ. 

d. Phê phán sự giàu có

Dân Israel nhận thấy rằng sự giàu có lắm khi liên kết với bất công. Những kẻ áp bức người nghèo rất lắm khi là người giàu (Is 53,9; 1 V 21). Người khôn ngoan phân tích sự giàu có dẫn đến tội như thế nào: giàu có là nguồn gốc của kiêu ngạo (Pr 28,11), của việc không tin vào Chúa (Pr 30,9), của việc đặt lòng tin vào các của cải trần gian mà xây lưng lại với lòng tin tưởng vào Thiên Chúa (Tv 52,9; Pr 11,28; Giop 31,24; Sir 5,1-8).

e. Cách hiểu có tính cách tôn giáo về khiêm nhường 

Đức tin truyền thống vào Gia-vê coi Ngài là Đấng bảo vệ người nghèo dần dần mang tới một đánh giá mới về sự nghèo khó. Dù luôn là sự dữ, nghèo khó cũng cho người ta một tư cách đặc biệt đối với Chúa. Người nghèo có thể chấp nhận điều kiện của mình và cho nó ý nghĩa nào đó. Chúng ta có thể nói tới một sự nghèo khó thiêng liêng như là một sự tùng phục trong đức tin, một sự nhỏ bé được chấp nhận, một sự khiêm nhường đạo đức.

f. Thiên Chúa hay Tiền bạc?

Ngay từ đầu, Thiên Chúa là giá trị tối thượng đối với Israel. Chỉ trong ánh sáng của sự vô vị lợi này mà các ngôn sứ đã liều mạng sống mình vì sứ vụ, không hy vọng gì ở đời sau (Giêrêmia là một thí dụ). Dù chưa có sự chọn lựa được thực hiện giữa Thiên Chúa và Mammon, tuy nhiên chúng ta có thể kết luận rằng người tín hữu trong Cựu Ước đã gắn bó với Thiên Chúa hơn là gắn bó với các quà tặng của Ngài.

4. SỰ hoàn thiỆn VÀ đỨC khó nghèo

a. Mời gọi và Thách đố của mỗi người môn đệ

·        Mt 19,21tt: “Nếu ngươi muốn nên hoàn thiện, hãy đi và bán những gì ngươi có rồi cho người nghèo.”

·        Lk 14,33: “Không ai trong các ngươi có thể làm môn đệ Ta, trừ khi nó cho đi tất cả của cải của mình”

b. Lời khấn khó nghèo như sự tước đoạt

Nhiều vị thánh công giáo lớn qua dòng lịch sử xem ra đã trải kinh nghiệm lời mời gọi phải chịu đựng hay muốn bị tước đoạt. 

Chú giải Mt 8,20: “Con Người không có nơi tựa đầu” diễn tả là sự thiếu bất cứ nơi nào có thể được gọi là “nhà.” Đó là một hy sinh lớn, nhưng không nhất thiết là ý nghĩa của đức Khó nghèo. 

Lý lẽ bào chữa duy nhất cho việc chọn lựa tự ý bị tước đoạt là Nhu Cầu của Việc Tông đồ. Điều này hàm ý cho cách hiểu đương thời của chúng ta về đức khó nghèo của tu sĩ: Chúng ta phải trải qua sự bị tước đoạt của cải vật chất/tiện nghi là chỉ vì lợi ích của việc tông đồ. 

Việc bị tước đoạt tự nó không phải là cái gì thánh thiện hay có tính chất kitô cả. Nhưng nếu nó được đảm nhận vì lý do đúng thì nó sẽ rất thánh thiện và rất có tính chất kitô. Các lý do phải rõ ràng:

-          như một phương tiện cần thiết cho việc rao giảng Tin Mừng

-          như một hậu quả cần thiết của việc rao giảng này, ví dụ như sự khốn cùng của Chúa Giêsu trên thánh giá, là hậu quả không thể tránh được trong sứ vụ của Ngài.

Tóm lại, chúng ta chia sẻ sự cơ cực của Chúa Kitô vì chúng ta chia sẻ sứ vụ của Ngài. Tự nguyện bị tước đoạt của cải chỉ có ý nghĩa trong bối cảnh sứ vụ.

5. NGHÈO KHÓ TỰ NGUYỆN TRONG BỐI CẢNH SỨ VỤ

a. Các tham chiếu Tân Ước:

·        Các chỉ thị Chúa Giêsu cho 12 tông đồ khi Ngài sai họ đi làm sứ vụ: Mk 6,7-13; Mt 10, 1-16; Lk 9,1-6.

·        Sai 72 môn đệ: Lk 10,1-12

Đâu là bối cảnh? Nhiệm vụ khẩn cấp? Động lực của tước đoạt? 1 Cor 9,12: Thái độ của thánh Phaolô đối với hỗ trợ tài chánh của ngài: hầu như đối nghịch với hai bản văn Thánh Kinh trên. Ngài đã làm việc để sống và kiếm tiền để trợ giúp chính mình, dù rõ ràng ngài cũng nhìn nhận quyền “sống nhờ Phúc Âm” của ngài. 

1 Thes. 2:9; 2 Thes. 3:7-8: Thánh Phaolô đã tự tước đoạt sự hỗ trợ tài chánh mà ngài có quyền hưởng và tự kiếm sống vì những lý do tông đồ. Đó không chỉ đơn giản là phương tiện cho một mục đích mà là một biểu lộ tình yêu cách hùng hồn và có sức mạnh: cho đi của cải vật chất ngõ hầu kết hợp mật thiết hơn nữa với Chúa Kitô trong công cuộc cứu rỗi, chữa lành và thăng tiến nhân loại của Ngài. Như thế, đức khó nghèo được quí chuộng và chọn lựa vì Chúa Kitô và sứ mệnh của Ngài. Một kitô hữu có thể cảm thấy được kêu gọi thực hành triệt để đức khó nghèo để mang lại cho Giáo Hội và thế giới một chứng tá tiên tri, ví dụ như Thánh Phanxicô Khó Khăn. 

Cvtđ 2,44-45 và 4,32: Chia sẻ của cải, đặc trưng đức khó nghèo của các cộng đoàn tu:

·        không nhất thiết phải sống trong ham muốn

·        của cải vật chất không được phép gây nên chia rẽ giữa dân chúng: mọi người sống từ ngân qủy chung.

·        đôi khi cá nhân và cộng đoàn tu sĩ có thể bị đòi hỏi sống trong sự tước bỏ lớn lao, nhưng điều này phát xuất do tính chất tông đồ của tu sĩ, chứ không do đời sống cộng đoàn.

·        Trong Công vụ tông đồ, mục đích của Luca không phải để mô tả đời sống cộng đoàn tu sĩ lý tưởng, nhưng để mô tả lý tưởng của Giáo Hội (cộng đoàn tu sĩ giống như Giáo Hội thu nhỏ).

6. THÁI ĐỘ THÁNH KINH ĐỐI VỚI CỦA CẢI    

Thái độ Thánh Kinh đối với của cải dựa trên hai bản văn Công vụ tông đồ (Cvtđ 2, 44-45; 4,32-37 x.5,1-11), mà tiền đề căn bản là “Một đời sống đức tin kitô có nghĩa là một đời sống của sự duy nhất.” Hai điểm nổi bật:

  • Các kitô hữu tiên khởi không giũ bỏ tất cả giàu sang của cải của họ, nhưng họ chia sẻ chúng.

  • Mỗi người lệ thuộc vào cộng đoàn về cuộc sống thể chất.

Như thế, đức khó nghèo kitô có hai mặt:

·        Giao cho cộng đoàn tất cả những gì mỗi người có

·        Chia sẻ trách nhiệm về đời sống vật chất của cộng đoàn.

Thật rõ ràng: cá nhân hoàn toàn bị tước đoạt hay thiếu những phương tiện để tồn tại là không tốt. Chúng ta không tìm thấy trong Phúc Âm ca tụng sự đói kém, chết đói, thiếu dinh dưỡng, bệnh tật v.v… Trái lại, Thánh Kinh nói về tự do cho kẻ tù đày, sức khoẻ cho người đau yếu, những hình ảnh về tiệc cưới, dư dật rượu, lương thực và tất cả những của ngon (Mk 2,22; Mt 8,11; Lk 22,16-18)  

Chúng ta giải quyết thế nào lập trường có lỗi gây bối rối cho nhiều tu sĩ chân thành rằng “chúng ta không phải là người nghèo theo Phúc Âm?

            Có sự chú giải sai lầm về Tân Ước, đặc biệt về Tám Mối Phúc Thật và câu chuyện chàng thanh niên giàu có.

             Đoạn văn Lk 6,20-21 về Bát Phúc này lắm khi được đọc như là sự ban phúc lành cho tình trạng nghèo khó và bị bách hại, và Nước Trời sẽ chỉ thuộc về những người ấy.

            Người thanh niên giàu có (Mt 19,16-22; Mk 10,17-22; Lk 18,18-23) nhấn mạnh về sự chia sẻ và cất đi bất cứ chướng ngại nào cho đức tin, chứ không nhấn mạnh về sự bần cùng.

            Chúa Giêsu không kêu gọi người thanh niên giàu có vào đời sống tu trì, nhưng cho đời sống kitô hữu mà thánh Matthêu gọi là một đời sống hoàn thiện.

            Sau cùng, câu chuyện nói về bản chất nền tảng của đức tin đích thực. Mọi sự đứng ở giữa người tin và người đầu hàng vô điều kiện bản thân mình cho Chúa Giêsu. 

7. Chúa Giêsu VỚI sỰ giàu có và tài sẢn

            a. Chúa Giêsu mời gọi và khuyến cáo

Chúa Giêsu thấy sự giàu có là một mối nguy hiểm cho sự cam kết trọn vẹn cho Thiên Chúa và chấp nhận lời rao giảng về Nước Trời của Ngài.

Trong truyền thống Marcô, chúng ta có câu chuyện chàng thanh niên giàu có muốn “thừa kế sự sống đời đời” (Mk 10,17-22). Chúa Giêsu đã nói với anh ta là anh ta chỉ thiếu “một điều” (một điều này là tất cả những gì anh ta có). Anh ta được mời gọi từ bỏ đi theo nghĩa mặt chữ và trở nên môn đệ. Anh ta không thể chấp nhận yêu sách triệt để đó. 

Sau việc đó, Chúa Giêsu bình luận rằng thật khó cho một người giàu được cứu độ (ẩn dụ con lạc đà chui qua lỗ khu kim: Mk 10,23-27). Chỉ có Thiên Chúa có thể cứu độ người giàu.  

Như thế, ở đây chúng ta thấy rằng giàu có như là một trở ngại, không những cho việc theo Chúa, mà còn cho ơn cứu độ nữa. Quan điểm này được củng cố bởi những câu chuyện và hình thức khác của Phúc Âm, chẳng hạn Phúc Âm chứa đựng những lời hết sức khắt khe với người giàu và sự giàu có: “khốn cho ngươi là kẻ giàu có” (Lk 6,24; x. 16,25: dụ ngôn nhà phú hộ và Lazarô). Không ai có thể làm tôi hai chủ (Mt 6,24). Chúa Giêsu khuyến cáo chống lại kẻ tìm bảo đảm ở nơi tài sản (Lk 12,15). Ngài đòi hỏi các môn đệ Ngài tin tưởng vào Thiên Chúa (Mt 6,25-34).

b. Tại sao có quan điểm đó? 

Tư tưởng khải huyền của Dothái nói chung có một cái nhìn rất tiêu cực về của cải giàu có.

Lối sống triệt để của Chúa Giêsu và các môn đệ đầu tiên của Ngài đòi hỏi phải từ bỏ công việc và nhà cửa. Chúa Giêsu và các môn đệ Ngài phải lệ thuộc vào những dâng cúng tự nguyện về tiền bạc, của cải, và lòng hiếu khách của những người ủng hộ tương đối khá giả. 

c. Tại sao người giàu có bị đòi hỏi cho đi hết mọi thứ?

Phêrô, Anrê, Giacôbê, Gioan hay Lêvi không bị đòi phải bán hết mọi thứ và cho kẻ nghèo khó. Phêrô có thể chiêu đãi Chúa Giêsu tại nhà ông ở Capharnaum sau khi ông được gọi (Mk 1,29-30).  

Chúng ta biết những người phụ nữ hỗ trợ sứ vụ của Chúa Giêsu, và Gia-kêu, Maria, Matta và Lazarô đã tiếp đón Chúa Giêsu. 

Điều đó chứng tỏ rằng ơn cứu độ không tùy thuộc vào việc chu toàn Mười Điều răn. Chúa Giêsu đòi hỏi đừng lo lắng về lương thực, quần áo và những của cải khác. Ngài đòi phải tín thác vào sự chăm sóc quan phòng của Đấng Tạo Hóa và là Cha. Phải lo tìm kiếm Nước Trời trước hết, Chúa sẽ chăm lo mọi thứ còn lại (Mt 6,25-33; Lk 12,22-31)

Chúa Giêsu cũng đòi hỏi phải chọn lựa một giữa hai sức mạnh điều khiển con người: Thiên Chúa hoặc Mammon (Mt 6,24; Lk 16,13). Chữ Mammon thay cho sự giàu có, tiền bạc, tài sản. Chúa Giêsu nhân cách hóa Mammon như một vị chúa tể giả dối. Cha của Chúa Giêsu là một Thiên Chúa hay ghen, nhưng Mammon cũng là một chúa tể hay ghen. Do đó, ta phải chọn lựa. Không thể có thỏa hiệp được.

Lời phê bình mạnh mẽ về sự giàu có này được cân bằng bởi mối bận tâm của Chúa Giêsu cho người nghèo: Phúc cho ngươi là kẻ nghèo khó (Lk 6,20). Dụ ngôn bữa tiệc trọng đại với người nghèo và ốm đau (Lk 14,16-24).

Luca đặc biệt quan tâm tới sự giàu có và nghèo khó. Chẳng hạn chúng ta có dụ ngôn về Lazarô (Lk 16,19-31), dụ ngôn người giàu có khờ (Lk 12,16-21) và cuộc tranh luận để chia gia tài (Lk 12,13-14). Chúa Giêsu không muốn can thiệp vào cuộc tranh luận. Xem ra khi Nước Trời đến thì có lẽ người ta sẽ bận tâm đến nhiều việc quan trọng hơn là tài sản.

d. Chúa Giêsu đối với việc sở hữu của cải và tài sản 

Chúa Giêsu đòi hỏi tất cả các môn đệ Ngài và những ai tài trợ cho Ngài một sự tín thác trọn vẹn vào tình thương quan phòng của Thiên Chúa, một sự tín thác làm cho người ta được thanh thoát khỏi mọi âu lo hay nô lệ cho “những vị chúa tể giả dối” của tiền bạc và của cải; không quá tin tưởng vào tiền bạc và của cải! Từ bỏ mối bận tâm và sống dựa vào các tặng vật tự nguyện và những cống hiến do lòng hiếu khách!  

Chúa Giêsu không đòi bất cứ ai muốn làm môn đệ Ngài phải bỏ nghề nghiệp sinh nhai và nhà cửa, hay bán đi tất cả những gì mình có và cho người nghèo! Không! Giữa những người đi theo Chúa, có những người giàu và có tài sản của mình. Hãy nhớ Matta, Maria và một người phụ nữ khác đã tài trợ cho Chúa. Cả ông Gia-kêu giàu có nữa. 

Hãy nhớ mỗi người có một ơn gọi khác nhau: Với người này, Chúa đòi bán đi mọi sự và cho người nghèo!; với người khác: hãy bỏ lại đàng sau mọi thứ (nhà cửa, công việc làm ăn, tài sản); với người khác: hãy tài trợ và cho đỗ nhà. Chúa là để cho người nghèo, nhưng không bao giờ Chúa gọi mình là người nghèo.

e. Hệ luận 

Chúa Giêsu Nazareth chống lại mối bận tâm quá đáng hay lòng tin cậy vào tiền bạc và tài sản. Ngài đã bỏ lại đằng sau công ăn việc làm, nhà cửa, và bên ngoài như lệ thuộc vào những quà tặng tự nguyện và những cống hiến do lòng hiếu khách.  

Ngài đòi hỏi các môn đệ bỏ lại đàng sau nhiều sự cho một tương lai vô định. Ngay cả Ngài đòi người thanh niên giàu có bán đi mọi sự anh ta có và cho người nghèo khó rồi đến theo Ngài. Những người giàu có gặp nguy hiểm nghiêm trọng về mặt thiêng liêng, ơn cứu độ của họ chỉ Chúa lo được.

Tuy nhiên, Chúa Giêsu đã không đòi hỏi tất cả các môn đệ của Ngài (những người tin vào Ngài và sứ điệp của Ngài) phải cho đi của cải giàu sang, tài sản, nhà cửa hay đời sống gia đình. Có nhiều người vẫn giữ phương kế sinh nhai và nhà cửa, và từ những thứ đó họ đã cung cấp những gì cần thiết cho Chúa Giêsu và sứ vụ của Ngài.

Cuối cùng, sứ điệp của Chúa Giêsu là trực tiếp cho người nghèo (Lk 7,22; 4,18), nhưng không bao giờ Ngài tự gọi mình là người nghèo. Chắc chắn về mặt kinh tế, Chúa Giêsu nghèo (tất cả các học giả Thánh Kinh đều quả quyết như thế), nhưng Phúc Âm dành danh nghĩa “người nghèo” cho những ai Chúa Giêsu quan tâm và sứ điệp của Ngài trực tiếp nhắm tới: “Người nghèo các người có luôn với các ngươi, nhưng Ta các ngươi không có luôn đâu” (Mk 14,7; Ga 12,8).

8. Nghèo khó và cỦa cẢi sau PhỤc sinh

1. Tình hình cộng đoàn tín hữu  

Đối với những người được gọi đi theo Chúa Giêsu, những đòi hỏi này sau Phục Sinh có còn quan trọng không? Người ta theo Chúa Giêsu thế nào sau các biến cố Ngài bị loại trừ, chịu đóng đinh và sống lại?

a. Một cộng đoàn khủng hoảng 

Trong thời kỳ khó khăn, các tín hữu phải trải qua một cuộc khủng hoảng. Họ là ai? Là thế hệ kitô hữu thứ hai (có lẽ là những người kitô hữu Hy lạp-Dothái, căn bản ở Rôma).

Các dấu hiệu khủng hoảng: Kinh nghiệm của họ là gì? (Dt 10,32-39): một số người bị tù đày; Một số khác bị trịch thu tài sản; Họ trải nghiệm sự bị bách hại, thù ghét, tra tấn; Họ bị công khai lạm dụng và chế nhạo; không tham dự các buổi hội chung; Muốn trở lui về với Dothái giáo; Đức tin yếu kém; Mệt mỏi vì kinh nghiệm hằng ngày về sự sỉ nhục và xấu hổ.

Nguyên nhân sâu xa của khủng hoảng: Sự trì hoãn việc Chúa Kitô trở lại có thể có hậu quả làm nản lòng ở trong cộng đoàn; Nền kitô học từ trên: lâu về thần tính nhưng ngắn về nhân tính của Chúa Giêsu không giúp được các kitô hữu đang phải đau khổ vì đức tin; Đời sống phụng vụ và nghi thức nghèo nàn, thiếu sự an toàn giữa các tín hữu, so sánh với truyền thống lâu đời của Dothái giáo đang được Nhà nuớc bảo vệ khỏi bách hại; Những người tin không thể mong đợi được bước theo dấu chân của Đấng không cùng đi với họ.

Trả lời cho cơn khủng hoảng: Khoa Kitô học từ dưới đã được thêm vào: Chúa Giêsu đã trở thành một người trong chúng ta (Dt 2,11), bị cám dỗ như chúng ta (Dt 4,15), vâng lời Chúa Cha trong nước mắt và nguyện cầu (Dt 5,7-8), và phải chết (Dt 2,14); chịu sĩ nhục thập giá (Dt 12,2). Chúa Giêsu, đã được mô tả chân dung như nhà vô địch và hoàn hảo của cuộc lữ hành đức tin, chỉ cho những người đi theo Ngài làm thế nào để chịu đựng khổ đau, thù ghét và coi thường sự sĩ nhục (Dt 12,1-3).  

Vượt lên khủng hoảng và tiến về phía trước: Bây giờ chúng ta hãy đi theo Chúa Giêsu ra ngoài trại và cam lòng gánh vác nỗi khổ nhục Ngài đã chịu (Dt 13,13); Hãy nối kết cùng những kẻ giống như Abraham đã lìa bỏ quê hương để đi tìm một quê hương tốt đẹp hơn, coi mình là ngoại kiều và lữ khách trên mặt đất (Dt 11,8-16); Hãy sẵn sàng để sống vô danh tiểu tốt, địa vị và nơi chốn trên trần gian (cuộc sống của một lữ khách); Sẵn sàng để cho đi mọi thứ bảo đảm và chắc chắn do định chế cống hiến bằng cái giá của rủi ro bao hàm trong cuộc sống theo Chúa.

2. Tinh thần nghèo khó đối với thánh Phaolô 

Thánh Phaolô nói rằng ngài “làm cho mình thành nô lệ của tất cả mọi người” (1 Cor 9,19), ngài lặp lại lời những kẻ lăng mạ ngài: họ coi ngài như kẻ ti tiện, đê hèn (2 Cor 10,1). Nhưng ngài nhận lấy sự mô tả tiêu cực này và cho nó một ý nghĩa mới. Ngài đổi nó thành một lời tuyên bố tích cực: ngài hạ mình xuống để nâng những người khác lên, nghĩa là làm cho kẻ khác nên phong phú bởi việc rao giảng Phúc Âm. Như vậy theo thánh Phaolô nghèo khó làm cho kẻ khác nên giàu có: “Chúng tôi nghèo hèn, nhưng chúng tôi làm cho nhiều người nên giàu có” (2 Cor 6,10); Chúa Giêsu “làm cho mình nên nghèo khó, nhờ đó anh em trở nên giàu có” (2 Cor 8,9).

Vì thế, thánh Phaolô cảm thấy được thỏa mãn trong bất cứ điều kiện sống nào mà ngài phải đối mặt. Ngài biết thế nào là dư dật, nhưng ngài cũng biết chịu đựng những thiếu thốn hay phải đói khát. Thánh Phaolô đem Phúc Âm biếu không (2 Cor 11,7) và ngài đã học tự lấy làm đủ (Ph 4,11). Ngài có thể sống kiếp sống ấy vì Chúa nâng đỡ ngài trong mọi tình huống (Ph 4,13). Ngài là mẫu gương sáng chói trong lịch sử Giáo Hội sơ khai.

Thánh Phaolô dạy hãy làm việc để thỏa mãn các nhu cầu của mình. Vì của cải của thế gian này không có giá trị bền vững, tín hữu không được gắn bó với chúng (1 Cor 7,28-31). Thánh Phaolô đòi hỏi mỗi tín hữu phải tự cung ứng cho nhu cầu của mình bằng cách nghiêm túc làm việc thích hợp (1 Th 4,12; 2 Th 3,10; Cvtđ 20,34tt). Cả đến những mối bận tâm tôn giáo, như trông đợi ngày Chúa quang lâm, cũng không được chước miễn điều bó buộc này. Ngài đã làm việc để tài trợ cho mình và sứ vụ của mình. Xem ra thánh Phaolô không biết đến một sự nghèo khó tự nguyện. Chúng ta không bao giờ được quên rằng theo trật tự xã hội cổ thời, những ai phải làm việc đều thuộc về giai cấp “không giàu” nghĩa là nghèo khó.

3. Cộng đồng của cải (Cvtđ 2,42-47; 4, 32-35) 

Việc đặt tất cả những gì mình có làm của chung không phải là bắt buộc. Không phải mọi tín hữu noi theo gương của Barnabas (Cvtđ 4,36-37). Nhưng khi gán cho mọi tín hữu của Giáo Hội sơ khai sự quảng đại mà thực ra chỉ tìm thấy ở vài người, thánh Luca muốn giữ trước mắt các đọc giả của ngài một kiểu mẫu và một lý tưởng luôn có thể gợi hứng cho cộng đoàn kitô.

Kiểu mẫu lý tưởng cho cộng đoàn tu sĩ: Việc chia sẻ của cải là một dấu hiệu Nước Thiên Chúa đã khởi đầu. Kế hoạch của Chúa cho Dân Người: việc không có ai nghèo túng giữa các ngươi (Cvtđ 4,34; Dnl 15,4) đã trở thành một thực tại ở giữa cộng đoàn kitô đầu tiên. 

Việc đặt của cải thành của chung cũng là hậu quả của ý thức rằng các tín hữu phải cùng nhau hình thành một cộng đoàn duy nhất, một thân mình trong đó mỗi người biết rằng mình sống trong liên đới với tất cả mọi người: không phải nghèo khó, cũng chẳng phải không dính bén, nhưng là tình yêu huynh đệ; Không phải yêu đức khó nghèo mà là yêu người nghèo khó; Điều đó không thúc đẩy chúng ta làm cho mình ra nghèo khó, nhưng là chu đáo nhìn xem để không ai phải túng nghèo.

Bổn phận bố thí: Thánh Gioan nghiêm nghị nói “Tôi hỏi anh làm sao tình yêu Thiên Chúa có thể tồn tại trong một con người có đủ mọi của cải thế gian này mà đóng lòng lại với một người anh em khi thấy họ đang lâm cảnh túng bấn” (1 Ga 3,17).  

Người kitô được kêu gọi làm việc bác ái. Việc thực thi bác ái này không chỉ được xác định là bố thí, nhưng còn những hành động của lòng thuong xót nữa (x. Mt 25,35-46). Có gương của những người được cứu rỗi vì việc bác ái của họ (Cvtđ 9,36-43:Tabitha; 10, 2.4.31:Cornelius). Thánh Phaolô lên Giêrusalem mang theo của bố thí cho dân mình (Cvtđ 24,17).

Lạc quyên cho Giêrusalem (2 Cor 8-9): Cuộc lạc quyên là dấu hiệu của lòng quảng đại và hiệp nhất. Một đàng dân ngoại tuyên xưng đức tin vào Tin Mừng, như người ta nghe nói ở Giêrusalem, và đàng khác lòng quảng đại của cộng đoàn dân ngoại đối với các tín hữu ở Giêrusalem là dấu hiệu và chứng tá lòng chân thành của mình. Cuộc lạc quyên là dấu hiệu hiệp nhất giữa người kitô Dothái và người kitô Dân ngoại. Cuộc lạc quyên cũng là bằng chứng của tình yêu quảng đại.

Kết luận: Tu sĩ phải cảnh giác chống lại sang giàu; Phải phải rõ ràng chọn Thiên Chúa, chống lại sự chọn tiền bạc và giàu sang; Được gọi rao giảng Nước Thiên Chúa, tu sĩ phải chuẩn bị cho sự từ bỏ (bao gồm đời sống gia đình, tài sản và sở hữu); sẵn sàng để đối mặt với mọi thứ khổ đau và thiếu thốn vì Chúa Giêsu Kitô và hãy quảng đại với người nghèo.

Để suy tư: “Mang lấy thập giá” luôn là điều kiện để đi theo Chúa Giêsu. Đi theo Ngài sau Phục sinh có nghĩa là tham dự vào mầu nhiệm hủy mình ra không của Chúa Kitô (Ph 2,6-8). Bình luận về lời tuyên bố này: Bạn phản ứng thế nào? 

9. Nghèo khó trong đỜi sỐng thánh hiẾn

a. Khi mọi kitô hữu đều nghèo 

Chúng ta có thể nói rằng suốt trong các thế kỷ đầu, các kitô hữu nói chung đều nghèo theo hai quan điểm xã hội học và Tin Mừng. Quả thế, hầu hết họ đều thuộc về giai cấp thấp nhất của xã hội: trở thành kitô hữu có nghĩa là bị kết án gạt ra bên lề (1Cor 1,26-31). 

Trong thời gian ấy, người kitô không có được các quyền đúng mức như các công dân khác có, bằng chứng là họ liên tục phải chịu bách hại. Nhưng chính hoàn cảnh xã hội-chính trị đã tạo nên tình liên đới lớn lao giữa họ khiến các dân ngoại ngưỡng phục, theo như lời Tertulianô: “Xem kìa, họ thương yêu nhau là dường nào!” (Apol. 39,7). Hãy nỗ lực xây dựng cộng đoàn chúng ta nên nhưn thế.

b. Nghèo Khó như một phản kháng của đời sống đan viện khởi thuỷ 

Kitô giáo được tuyên bố là tôn giáo chính thức vào năm 380. Những cuộc trở lại tập thể bắt đầu. Một số người gia nhập Giáo Hội và đã được rửa tội, họ chưa được trưởng thành xét về phương diện thiêng liêng và giáo lý. Việc đó mang lại tình trạng lỏng lẻo trong đời sống kitô. Nhiều người được rửa tội, nhưng không thực sự trở lại. Bây giờ trở thành kitô hữu có nghĩa là đi vào trong một xã hội có nhiều ảnh hưởng.  

Nhiều kitô hữu ý thức không còn cảm thấy thoải mái trong một xã hội như thế nữa. Trái lại, họ cảm thấy đó như là một sự thù nghịch và là một cạm bẫy. Và họ đã trốn vào sa mạc, họ đi tìm sự nhiệt tình không thể tìm thấy hoặc không thể duy trì ở trong thành thị.  

c. Đặc tính của nghèo khó giữa các đan sĩ đầu tiên 

Ở giữa các tu sĩ ẩn tu: Làm việc chân tay để tự tài trợ lấy, đi kèm theo cầu nguyện và lectio Divia; Một cuộc sống khắc khổ ; Quản trị những gì đã kiếm được và để được thực sự là nghèo khó, họ phân phát cho người bần cùng tất cả những gì còn lại sau khi họ tự cung ứng cho mình các nhu cầu trực tiếp. Không dành dụm gì cho tương lai. Chúa sẽ cung cấp.

Ở giữa các tu sĩ sống đời hiển tu: Tài sản chung, nhưng không có gì cho bản thân họ; Mọi tu sĩ đều phải làm việc. Thành quả của công việc dùng để bảo trì tu viện và làm việc bố thí; sử dụng của cải người ta giúp.

Như thế tương quan của các đan sĩ với của cải vật chất ăn rễ sâu vào trọng tâm của nguyên tắc kitô về tình yêu tương hỗ. Một việc quan trọng đối với họ là việc cá nhân từ bỏ của cải trước khi chấp nhận vào cộng đoàn, về sau được triệt để vâng giữ.  

Một đặc tính điển hình của của sự nghèo khó ẩn tu thực tế bị mất: sự thiếu an toàn cho ngày mai và sự nương tựa trọn vẹn của họ vào tình yêu từ phụ của Thiên Chúa. Đối với đời sống hiển tu, sự an toàn tương lai được Dòng tu bảo đảm. 

Vì công việc của các tu sĩ hiển tu sinh lợi về mặt tài chánh, các tu sĩ hiển tu sớm bắt đầu thu tích của cải. Vài cộng đoàn đã trở nên những trung tâm sản xuất nông nghiệp và tiếp thị. Họ bắt đầu cần những người giúp việc; vài cộng đoàn sở hữu tàu thuyền chuyên chở sản phẩm ra thành thị. Nhưng vì khó tính toán các nhu cầu trực tiếp của các cộng đoàn lớn, và vì các thành viên sản xuất được nhiều hơn cái họ cho người nghèo, nên mối liên kết giữa công việc tay chân và sự hiệp thông với người bần cùng bị đánh mất.

d. Từ phản kháng đến đối thoại 

Từ phản kháng, một cuộc trốn chạy khỏi thế gian (đời sống đan viện Tây phương vẫn duy trì thái độ này trên thực tế cho đến ngày nay), các tu sĩ dần dần chuyển sang đối thoại với thế giới và xã hội.  

Nhân vật chìa khóa là thánh Biển Đức. Ngài đã nỗ lực xây dựng lại đời sống đan tu và xã hội đã bị đảo lộn do các cuộc xâm lăng man di. Nhờ sự ổn định của đan viện, thánh Biển Đức đã giải thoát đời sống đan tu khỏi tai họa: sự quá lười biếng của nhiều tu sĩ thời ấy, và đời sống đan viện muốn trở thành kiểu mẫu cho xã hội chung quanh, bây giờ được hình thành bởi các người nhập cư xem ra không muốn chấm dứt cuộc sống lang thang của họ.

e. Khó nghèo như sự sẻ chia 

Đối với các tu sĩ Biển Đức, đức nghèo khó như hậu quả của một sẻ chia huynh đệ theo đúng cộng đoàn Giêrusalem. Đối với thánh Biển Đức, lao động là thuốc giải độc tốt nhất chống lại tất cả những nguy hại cho hòa bình và tình huynh đệ (RB 48); theo đường lối này, đời sống đan sĩ phải quay quanh hai trụ này là lao động và cầu nguyện. Sau khi ca tụng Chúa trong huynh đoàn phượng tự thánh (Opus Dei), các tu sĩ Biển Đức ra đi làm việc tay chân và trí óc, cùng với lời cầu nguyện của mình và luôn luôn ở trong huynh đoàn.  

Kết quả của công việc này được sử dụng để duy trì đan viện và chia sẻ với những người thiếu thốn, trên hết bằng tiếp đón khách và chăm sóc người ốm đau (RB 53). Họ phải nhìn thấy Chúa Kitô trong khách trọ, người hành hương hay bệnh nhân (RB 36,53). Nhưng vì công việc lao động tiếp diễn của các thế hệ đan sĩ mang lại kết quả, đan viện cũng có thể có sở hữu về mặt kinh tế.   

Tuy nhiên, sự trở nên giàu có của các đan viện về mặt kinh tế đã hùn vào sự xuống cấp của đời sống đan tu thời trung cổ: các đan sĩ bắt đầu bỏ việc lao động chân tay và sống nhờ vào thu nhập của thế hệ trước, rơi vào chế độ phong kiến. Thánh Biển Đức đã nói rằng những gì là dư thừa phải cho đi (RB 55), nhưng hiếm khi được đưa vào thực hành. 

f. Phản ứng của Tu sĩ khất thực  

Bối cảnh: Phẩm trật của Giáo Hội (Giáo Hoàng và các Giám mục) có liên hệ sâu xa với giới quý tộc, đại lãnh chúa và những đan viện giàu có nhất. Những thay đổi xã hội sâu xa đã đưa lên giới trung lưu, thương gia và ngân hàng. Tiền bạc trở nên nguồn quyền lực trong một chiều hướng mới, một tiêu chuẩn phân biệt đối xử xã hội (Ai chi tiền người đó điều khiển), trước sự nghèo khó của quần chúng. 

Phản ứng: Trở về với Phúc Âm: sự nghèo khó lữ hành của Chúa Giêsu; Phản ứng được bộc lộ bởi nhiều phong trào coi nghèo khó như tiêu chuẩn kitô giáo đích thực. Diễn từ truyền giáo của Chúa Kitô (Mt 10; Lk 10) trở thành nguồn cảm hứng chung. Trong bầu khí xã hội-tôn giáo này, lý tưởng của một sự khó nghèo tuyệt đối được khai sinh. Các Dòng Khất Thực đúng là ít cành của cái cây khổng lồ làm nên bởi các phong trào bần cùng thời trung cổ.

Thánh Phanxicô Atxidi (1182-1226)

Ý nghĩa của khó nghèo Phanxicô: Sự trở lại và bắt chước Chúa Kitô khó nghèo trong một Giáo Hội mà mọi người đều là anh em, và các tu sĩ Phanxicô tự coi mình là thấp hèn bé nhỏ ở giữa họ và để phục vụ họ (Các Anh Em Hèn Mọn). Cái mới là không những chỉ các thầy dòng không có gì, mà ngay cả huynh đoàn Phanxicô cũng không được cho phép có bất cứ cái gì (sự nghèo khó tập thể). 

g. Những thách đố mới  

Nhân bản thuyết đã tạo nên một đảo lộn trong cổ thời (văn hóa Hy lạp đã trở nên một thời trang, con người nằm ở trung tâm, chứ không còn là Thiên Chúa nữa). Các khám phá khoa học và địa lý đã gây hứng thú và sự tiếp cận mới với thực tại vật chất, tích cực hơn. Kỹ nghệ gia tăng. Martin Luther và phản ứng của ông chống lại quyền bính Giáo Hội và đời sống đan tu. 

Sự mới mẻ lớn lao trong hình thức mới của đời sống thánh hiến là Hàng Giáo Sĩ Triều. Thêm vào ý niệm truyền thống “Anh Em” sống trong một cộng đoàn, nghèo khó, tận hiến cho việc lao động để phụng sự Chúa là “Hàng Giáo Sĩ” nghĩa là những người được Chúa Kitô chọn cách đặc biệt để đảm trách một “sứ mệnh thánh thiêng” trong Giáo Hội và trong thế giới.

Việc thực hành nghèo khó trong hình thức mới của đời sống thánh hiến có hai khía cạnh: sự nghèo khó cá nhân và sự nghèo khó của Dòng tu (khía cạnh thứ hai này luôn bị bỏ quên). Sự nghèo khó cá nhân khắc khổ nhất được nhấn mạnh như sự vâng lời vô điều kiện (hoàn toàn lệ thuộc vào Bề Trên). Một loại nghèo khó của khổ hạnh từ bỏ mọi sự và sẵn sàng cho việc tông đồ.

Trong khi sự nghèo khó cá nhân được đặc trưng trong các Dòng tu tân thời cách rất rõ nét, thì sự nghèo khó tập thể đã được hiểu một cách rất khác biệt. Việc tông đồ của tập thể được thực hiện với một sự triển khai qui mô các phương tiện kinh tế. Các cá nhân thực sự là nghèo, nhưng Dòng tu trở nên giàu có và rất mạnh về mặt kinh tế. Chúng ta có thể nói rằng một cách nào đó kiểu nghèo khó này dường như theo mẫu gương của thánh Phaolô: sống nhờ công việc cá nhân, tự hiến hoàn toàn cho việc rao giảng Phúc Âm, cố gắng để được tự do khỏi mọi bận tâm về kinh tế để không nên gánh nặng cho bất cứ ai (2 Th 3,8). 

Tóm lại, một số Dòng tu đã được lập nên để phục vụ người nghèo, rõ ràng vì người nghèo quá nhiều, đã đổi sang phục vụ người giàu với ý hướng rất tốt là để phục vụ người nghèo tốt hơn, nhưng ý hướng đó đã bị bỏ quên trọn vẹn hay một phần. Tinh thần mạnh dạn đó đã chiếm được nhiều tu sĩ và dần dần họ đã trở nên trưởng giả.  

Lúc ban đầu của mỗi Dòng Tu cái rất được nhấn mạnh là thừa tác vụ được ban nhưng không và từ chối thu nhập, nhưng về sau hầu hết đều xin Tòa Thánh chuẩn cho.

h. Tóm lại, có bốn kiểu nghèo khó:

·        Khổ chế: công việc chân tay, chia sẻ với người nghèo và tín thác vào Chúa

·        Các tu sĩ hiển tu: Mọi sự là của chung (Cộng đoàn Giêrusalem)

·        Tu sĩ khất thực: cố gắng thực sự nghèo, đi theo lối sống lữ hành của Chúa Giêsu.

·        Giáo sĩ triều: sẵn sàng cho sứ vụ ở trong Giáo Hội và trong thế giới.

10. ĐỨc nghèo khó trong các Tu HỘi ĐỜi

Có hai loại tu hội đời: Những tu hội đời trong một chừng mực nào đó có một thứ đời sống cộng đoàn: họ sống cùng dưới một mái nhà, ăn cùng một bàn, cùng làm một việc…nhiều khi có cùng một ngân quỹ; 

Những tu hội đời có các thành viên sống biệt lập, mỗi người ở nhà riêng mình, tự do chọn lấy công việc, tự trách nhiệm lấy sự tồn tại của mình, giữ lấy tiền lương của mình, quản lý ngân quỹ riêng của mình, có bảo hiểm tương lai riêng, giống như bất cứ công dân nào khác làm.  

Ở đây chúng ta để ý đến loại tu hội đời thứ hai này, còn loại thứ nhất có cùng những vấn đề như các Dòng tu có đời sống chung đã được bàn cãi rồi.

Các thành viên của tu hội đời vẫn là giáo dân nên lối sống nghèo của họ sẽ giống như các tín hữu khác. Ở cấp độ cá nhân, họ bị bó buộc không được dính bén của cải vật chất, sống giản dị, không để mình bị lôi kéo vào hưởng thụ và tiện nghi, họ sống giống như lữ hành hướng về Chúa Cha. Họ cam kết triệt để làm những gì mà mỗi tín hữu phải làm.

Tín hữu này không phải lệ thuộc vào Bề Trên của Dòng tu liên quan đến kinh tế của mình, nhưng cách chung, người tận hiến nhìn nhận Bề Trên có quyền biết tình trạng vật chất của mỗi thành viên. Điều đó được thực hiện bên trong những giới hạn của một sự dè dặt khôn ngoan, một thông tin đầy đủ, dù không phải đi vào chi tiết tình trạng kinh tế của mình, như thế là đủ, không phải vì họ cần đến phép tắc, nhưng họ cần đối thoại và được sự giúp đỡ từ quan điểm tu đức của tu hội.

11. CÁC CHIỀU KÍCH CỦA KHÓ NGHÈO

Lời Khấn Khó Nghèo là một đặc sủng của Chúa Thánh Thần, tác động lên tự do của chúng ta, từ từ đồng nhất hoá chúng ta với Chúa Giêsu, khó nghèo vì Nước Thiên Chúa, yêu thương người nghèo, và thúc đẩy chúng ta yêu thương “với tất cả sức lực và của cải của chúng ta.” Chúng ta cũng cần xem xét tầm ảnh hưởng của việc sống lời khuyên Phúc Âm này. 

a. Chiều kích truyền giáo và chính trị của đức khó nghèo: Đời sống và hoạt động của tu sĩ phải trực tiếp hướng tới người nghèo khó nhất, cố gắng hết sức sống như họ sống, bảo vệ công lý, và chia sẻ với họ những của cải cộng đoàn của chúng ta, vì cùng với Giáo Hội, tu sĩ phải chọn đứng về phía người nghèo. Chúng ta biết về mạng lưới bất công toàn cầu và bao nhiêu triệu triệu anh chị em của chúng ta sống ở ngưỡng cửa của nghèo khó. Chúng ta không thể chấp nhận được điều đó. Chúng ta được mời gọi đến một giao ước mới của tình liên đới, đặt căn bản trên trách nhiệm chung đối với tất cả anh chị em của chúng ta. 

b. Chiều kích cộng đoàn của đức khó nghèo: Noi gương cộng đoàn tín hữu đầu tiên, các tu sĩ phải có mọi sự làm của chung. Thiết lập một cộng đoàn trong đó không ai cảm thấy cần hay lấy cái gì thuộc của chung làm của riêng mình. Nhưng có mối nguy hiểm là làm giàu cho cộng đoàn và chúng ta trở nên xa rời với lớp người nghèo. Lối sống nghèo là một việc, nhưng nó phải được cung cấp bởi những cấu trúc giản dị của các cộng đoàn của chúng ta. Có mọi sự làm của chung, nhưng không phải để dự trữ, mà để chia sẻ. 

c. Chiều kích thấn bí của đức khó nghèo: Chúng ta phải yêu mến Chúa với tất cả sức lực của chúng ta. Tin tưởng vào Ngài rằng chúng ta ở trong tay Ngài. Chia sẻ thân phận nhập thể và nhập thế của Chúa Giêsu (Kenosis). Sống lời khấn khó nghèo là chúng ta biểu lộ tình yêu của chúng ta cho Chúa, Ngài là kho tàng duy nhất của chúng ta, biết rằng mọi sự tìm được nơi Chúa nguồn gốc và sự viên mãn, và nếu không có Chúa thì chúng chẳng là gì cả và không gì có thể làm chúng ta thỏa mãn được.

d. Chiều kích biểu tượng, tiên tri và chứng tá cánh chung: Có mọi sự làm của chung, chúng ta cố gắng không để ai cơ cực trong cộng đoàn như dấu hiệu khởi đầu của một cái gì mới mẻ = cánh chung. Chúng ta trở nên “hình tượng sống động” của Chúa Giêsu nghèo khó và của Giáo Hội, cam kết sống cho người nghèo, trong niềm hy vọng được vào hiệp thông với các thánh. 

e. Chiều kích sinh học của đức khó nghèo: Một tình yêu đích thực không có thái độ sở hữu, thuần túy khai thác và hưởng thụ đối với thiên nhiên, nhưng canh tác, chăm sóc và bảo vệ thiên nhiên khỏi mọi thứ lạm dụng, coi mọi thứ thuộc về tất cả các con cái Chúa. Không sở hữu, nhưng chiêm ngưỡng. Điểm này là một phát triển hiện nay bên trong nền tu đức kitô. Thiên nhiên cũng là một phần của giao ước. Lối sống nghèo phải tỏ ra yêu thương và trân trọng thiên nhiên. 

f. Sự nghèo khó Phúc Âm như một quà tặng và điều kiện đặc sủng: Một trong những hậu quả của lời mời gọi của Chúa Giêsu đối với các môn đệ nam/nữ của Ngài là dẫn đưa họ vào lối sống nghèo khó, tuyệt đối tin tưởng và phó thác cho sự quan phòng của Thiên Chúa, chia sẻ của cải của mình với tha nhân, quảng đại phục vụ những người nghèo khó nhất.

Đức khó nghèo chỉ có thể được như một quà tặng. Đức bác ái là một nhân đức chỉ rõ tính chất của đức khó nghèo: “Nếu tôi trao tặng tất cả những gì tôi có cho người nghèo, ngay cả hiến dâng cả thân xác tôi, nhưng không vì đức ái thì có lẽ chẳng có giá trị gì cho tôi (1 Cor 13,3).

12. CAM KẾT ĐỨNG VỀ PHÍA NGƯỜI NGHÈO

a. Ba Hình Thức cam kết đứng về phía người nghèo

·        Đi thăm người nghèo

·        Làm mục vụ cho người nghèo

·        Ở với người nghèo

b. Các lý do thần học của việc chọn đứng về phía người nghèo :

Động lực thần học: Thiên Chúa đã chọn đứng về phía người nghèo: “Ta đã thấy sự khốn cực của dân Ta ở Ai cập, Ta đã nghe tiếng chúng kêu than vì bọn cai hành hạ. Phải, Ta đã biết nỗi khổ đau của chúng, Ta xuống giải thoát chúng khỏi tay người Ai cập, và đưa chúng từ đất ấy lên một miền đất tốt tươi rộng lớn, miền đất tràn trề sữa và mật” (Xh 3,7-8; x. Is 1,10-17; 58,6-7).

Động lực Kitô học: Chúa Giêsu đã thực hiện một chọn lựa cá nhân đứng về phía người nghèo và lấy họ làm những người nhận lãnh chính Nước Trời. “Khi Ngài đến Na-da-rét, là nơi Người sinh trưởng, Ngài vào hội đường như Ngài vẫn quen làm trong ngày sa-bát, và đứng lên đọc Sách Thánh. Họ trao cho Ngài cuốn sách ngôn sứ I-sai-a. Ngài mở ra, gặp đoạn chép rằng: Thần Khí Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, để tôi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn. Người đã sai tôi đi công bố cho kẻ bị giam cầm biết họ được tha, cho người mù biết họ được sáng mắt, trả lại tự do cho người bị áp bức, công bố một năm hồng ân của Chúa. Ngài cuộn sách lại, trả cho người giúp việc hội đường, rồi ngồi xuống. Ai nấy trong hội đường đều chăm chú nhìn Ngài. Ngài bắt đầu nói với họ: ‘Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh quý vị vừa nghe’" (Lk. 4, 16-21; x.Lk. 6,20; 7,21-22; 10,25-37).

Động lực Thánh Mẫu học: Mẹ Maria là người phụ nữ ngôn sứ và giải phóng của người nghèo. Mẹ là ngôn sứ của Kinh Magnificat, báo trước lời loan báo ơn giải thoát của Con Mẹ. Mẹ tỏ ra chăm chú và cảm thông với thân phận của người thấp hèn và bị đè bẹp. Trong khung ảnh ca ngợi Chúa, Mẹ đã cất tiếng tố cáo và kêu xin giải pháp thần linh cho mối liên hệ giữa những kẻ áp bức và những người bị áp bức.

Động lực cánh chung: Những gì sẽ được tính đếm trong ngày chung thẩm đều do thái độ chấp nhận hay khước từ người nghèo của chúng ta: 

"Khi Con Người đến trong vinh quang của Người, có tất cả các thiên sứ theo hầu, bấy giờ Người sẽ ngự lên ngai vinh hiển của Người. Các dân thiên hạ sẽ được tập hợp trước mặt Người, và Người sẽ tách biệt họ với nhau, như mục tử tách biệt chiên với dê. Người sẽ cho chiên đứng bên phải Người, còn dê ở bên trái.

Bấy giờ Đức Vua sẽ phán cùng những người ở bên phải rằng: "Nào những kẻ Cha Ta chúc phúc, hãy đến thừa hưởng Vương Quốc dọn sẵn cho các ngươi ngay từ thuở tạo thiên lập địa. Vì xưa Ta đói, các ngươi đã cho ăn; Ta khát, các ngươi đã cho uống; Ta là khách lạ, các ngươi đã tiếp rước; Ta trần truồng, các ngươi đã cho mặc; Ta đau yếu, các ngươi đã thăm viếng; Ta ngồi tù, các ngươi đến hỏi han." Bấy giờ những người công chính sẽ thưa rằng: "Lạy Chúa, có bao giờ chúng con đã thấy Chúa đói mà cho ăn, khát mà cho uống; có bao giờ đã thấy Chúa là khách lạ mà tiếp rước; hoặc trần truồng mà cho mặc? Có bao giờ chúng con đã thấy Chúa đau yếu hoặc ngồi tù, mà đến hỏi han đâu? " Đức Vua sẽ đáp lại rằng: "Ta bảo thật các ngươi: mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy."  

Rồi Đức Vua sẽ phán cùng những người ở bên trái rằng: "Quân bị nguyền rủa kia, đi đi cho khuất mắt Ta mà vào lửa đời đời, nơi dành sẵn cho tên Ác Quỷ và các sứ thần của nó. Vì xưa Ta đói, các ngươi đã không cho ăn; Ta khát, các ngươi đã không cho uống; Ta là khách lạ, các ngươi đã không tiếp rước; Ta trần truồng, các ngươi đã không cho mặc; Ta đau yếu và ngồi tù, các ngươi đã chẳng thăm viếng." Bấy giờ những người ấy cũng sẽ thưa rằng: "Lạy Chúa, có bao giờ chúng con đã thấy Chúa đói, khát, hoặc là khách lạ, hoặc trần truồng, đau yếu hay ngồi tù, mà không phục vụ Chúa đâu? " Bấy giờ Người sẽ đáp lại họ rằng: "Ta bảo thật các ngươi: mỗi lần các ngươi không làm như thế cho một trong những người bé nhỏ nhất đây, là các ngươi đã không làm cho chính Ta vậy." Thế là họ ra đi để chịu cực hình muôn kiếp, còn những người công chính ra đi để hưởng sự sống muôn đời" (Mt. 25,31-46).

Động lực Tông đồ: Các Tông đồ và những người theo các ngài đã chia sẻ mọi sự làm của chung khiến chẳng có ai phải nghèo túng ở giữa họ: “Các tín hữu chuyên cần nghe các Tông Đồ giảng dạy, luôn luôn hiệp thông với nhau, siêng năng tham dự lễ bẻ bánh, và cầu nguyện không ngừng. Mọi người đều kinh sợ, vì các Tông Đồ làm nhiều điềm thiêng dấu lạ. Tất cả các tín hữu hợp nhất với nhau, và để mọi sự làm của chung. Họ đem bán đất đai của cải, lấy tiền chia cho mỗi người tuỳ theo nhu cầu (Cvtđ 2,42-45). “Các tín hữu thời bấy giờ đông đảo, mà chỉ có một lòng một ý. Không một ai coi bất cứ cái gì mình có là của riêng, nhưng đối với họ, mọi sự đều là của chung” (Cvtđ 4,32).

Động lực Giáo Hội học: Hội Nghi Medellin (1968) chọn lựa người nghèo; Hội Nghi Puebla (1979) cũng chọn lựa người nghèo; Hội Nghi Sto. Domingo (1992) ưu tiên chọn lựa người nghèo; Công Nghi của Giáo Hội Philippines PCP II (1992) tình yêu ưu tiên đối với người nghèo “để trở nên chứng nhạn khả tín cho Tình yêu của Thiên Chúa trong Chúa Kitô… giáo dân, tu sĩ và giáo sĩ của Giáo Hội Công giáo tại Philippines phải trở nên Giáo Hội của người nghèo”

Giáo Hội trong Thế giới Hôm nay: Vui Mừng và Hy Vọng:Vì thế, mỗi người có quyền có được đầy đủ của cải trần thế cho họ và gia đình họ. Đây là ý kiến các Nghị phụ dạy dân chúng có bổn phận trợ giúp những người nghèo, và làm thế không chỉ bằng của cải dư thừa của họ. Những người gặp phải hoàn cảnh quá cần thiết được quyền lấy những gì họ cần từ sự giàu có của kẻ khác. 

Đối mặt với thế giới hôm nay trong đó có quá nhiều người đau khổ vì thiếu thốn, Công đồng xin các cá nhân và các Chính phủ nhớ lời nói của các nghị phụ: “Hãy cho người đang chết đói ăn, vì nếu ngươi không cho họ ăn là ngươi giết chết họ.” “Và Công đồng cũng thúc đẩy họ tùy theo khả năng của mình mà sẻ chia và sử dụng của cải của mình mà giúp đỡ người khác, nhất là cống hiến cho họ sự trợ giúp khả dĩ làm cho họ tự giúp và phát triển chính mình” (GS 69).

Công Lý trên Thế giới: Lắng nghe tiếng khóc của những ai đang phải đau khổ vì bạo lực và bị bách hại bởi những hệ thống và cơ cấu bất công, và khi nghe lời kêu gọi cứu giúp của một thế giới đang nghịch lại kế hoạch của Thiên Chúa vì sự sai trái của nó, chúng tôi chia sẻ ý thức ơn gọi của Giáo Hội là hiện diện trong lòng thế giới bằng cách loan báo Tin Mừng cho người nghèo khó, tự do cho người bị áp bức và niềm vui cho kẻ buồn phiền” (GS 5).

Tình huống hiện tại của thế giới, nhìn trong ánh sáng đức tin, kêu gọi chúng ta trở về với cái rất cơ bản của sứ điệp kitô, tạo nên trong chúng ta ý thức sâu xa về ý nghĩa đích thực và những đòi hỏi cấp bách của nó. Sứ mệnh rao giảng Tin Mừng truyền khiến chúng ta trong thời gian hiện tại phải hiến dâng chính mình cho việc giải phóng dân chúng ngay trong chính lúc họ đang hiện diện trong thế gian này. Chỉ khi sứ điệp kitô về tình thương và công lý chỉ rõ hiệu quả của mình qua hành động vì công lý trên thế giới thì nó mới chiếm được lòng tin của dân chúng thời đại chúng ta.

Nhằm phát triển các Dân Tộc: “Nếu kẻ nào có của cải trần gian này thấy người anh em đang túng quẫn mà đóng lòng mình lại thì làm sao Tình yêu Thiên Chúa ngự ở trong người ấy được?” (1Ga 3,17). Ai cũng biết những lời rất mạnh mà các Nghị phụ dùng để mô tả thái độ thích hợp của những người có mọi thứ đối với những người quẫn bách. Xin trích dẫn lời thánh Ambrose: “Ngươi không cho người nghèo cái gì từ những gì ngươi đang có, là ngươi đã lấy mất cái là của họ. Như thế, ngươi đã đòi bậy cho ngươi những gì đã được ban chung cho mọi người sử dụng. Thế giới này được ban tặng cho tất cả mọi người, chứ không chỉ riêng cho người giàu” (GS 23).

Về mối quan tâm xã hội: Một đề tài nhất quán của Giáo huấn xã hội của Giáo Hội là ưu tiên yêu thương hay chọn lựa đứng về phía người nghèo. Ngày nay, mối ưu tiên này phải được chuyển tải rộng rãi tới mọi chiều kích của thế giới, ôm ẳm con số bao la của những người đói, cùng khốn, vô gia cư, những ai không được chăm sóc y tế, những ai sống không hy vọng vào ngày mai (x. GS 42).

III. LỜI KHẤN KHIẾT TỊNH

1. ĐẦu mỐi tỪ Thánh Kinh 

  • Cái nhìn của Thánh Kinh về giới tính: Theo trình thuật sáng tạo, giới tính là một cái gì tốt đẹp, một phúc lành của Chúa ban cho con người để tiếp tục công trình sáng tạo của Ngài (suy tư: Giới tính đối với tôi là gì? Trong nền văn hóa của tôi? Trong Dòng tu của tôi?

  • Giới tính là Phúc lành hay Nguyền rủa (không sinh hoa kết quả): Is 54,1-6

  • Chỉ một mình Chúa có thể thay đổi một lời nguyền rủa thành một phúc lành (ví dụ Sara, Anna, Elizabeth)

2. BỐI CẢNH TÂN ƯỚC

Các kitô hữu tiên khởi phải đối đầu với hai vấn đề nghiêm trọng:

  • Hôn nhân loạn luân nơi dân ngoại: Lv 18,6-18; 1 Cor 5,1-5.

  • Người dân ngoại trở lại kết hôn trong cộng đoàn kitô, bị vỡ mộng, trở lại nền văn hóa/tôn giáo cũ và kết hôn trở lại bên ngoài cộng đoàn kitô.

 Qui chiếu cổ điển của đức Khiết tịnh là Mt 19,10-12 mà bối cảnh là hôn nhân. Mt 19,12 kiên quyết đòi hỏi họ vẫn giữ mình không kết hôn hầu trở nên “yêm hoạn vì Nước Trời”

Điều quan trọng nhất mà Mt 19,12 nói đến là lý do tại sao Chúa Giêsu sống độc thân: “VÌ NƯỚC TRỜI”... sức mạnh không thể cưỡng lại được của sự hiện diện của Nước Trời trong đời sống của Ngài khiến Chúa Giêsu sống độc thân. 

Như vậy, Nước Trời hay Tình yêu của Chúa thay đổi tôi nên yêm hoạn (Chúa sẽ làm cho tình trạng yêm hoạn của tôi thành một phúc lành, chứ không phải là một nguyền rủa)

Các đối thủ của Chúa Giêsu đã biết hai loại yêm hoạn: Một loại sinh ra như vậy và một loại do con người làm nên không thể chấp nhận tình trạng kết hôn bình thường. Chúa Giêsu đưa vào loại thứ ba: Vì Nước Trời, tôi đã trở nên yêm hoạn.

1 Cor 7,35: Chúa Giêsu sống độc thân vì sự chú tâm không phân chia cho Chúa của Ngài mà Ngài gọi là “Cha”

Lời khấn độc thân khiết tịnh vừa là quà tặng vừa là chọn lựa được thực hiện trong tự do để yêu mến Thiên Chúa trở lại (vì Ngài đã yêu thương con người trước). Lòng đam mê chi phối của một con người đối với Thiên Chúa là trọng tâm của mọi cuộc đời.

Đam mê nung nấu/Lòng nhiệt thành: Sự tận hiến không phân chia và không nghỉ ngơi đối với Chúa Cha không phải là một cuộc sống tự buông thả, nhưng là một cuộc sống được siêu việt hóa.

Khiết Tịnh là một cam kết trở nên say mê Chúa như Chúa Giêsu đã say mê Cha Ngài. Độc thân là một từ chuyên môn có nghĩa là không kết hôn (là một người yêm hoạn). Độc thân khiết tịnh bao gồm toàn thể thực tại của con người (căn tính và giới tính, thể lý, tinh thần, trí não, ý hướng, khát vọng, chọn lựa, v.v…)

3. YÊM HOẠN VÌ NƯỚC TRỜI (1 Cor 7,32-40) 

Những lý do ở đàng sau gợi ý của thánh Phaolô để đào sâu chú ý với những việc thông thường: để ý nỗi lo lắng đang đe dọa; thời gian hạn định rất ngắn ngủi; hình thức thế giới này sẽ qua đi 

Việc giải quyết ba vấn đề trong Mt 19, 3-12 luôn đòi hỏi các nhà chú giải:

  • giải thích tại sao Matthêu đưa vào khoản ngoại lệ 19,9 và đoạn văn 10-12

  • cả hai khoản lồng vào được giải thích bằng việc liên kết chúng với cùng một vấn đề mục vụ: tình trạng hôn nhân ngoại lệ

  • giải thích câu 12 trong bối cảnh của các câu 3-12.

Lý do chính thúc đẩy chúng ta kết luận rằng Mt 19,12 là cái mà ngày nay Chúa Giêsu nói đến: “Yêm họan vì Nước Trời”

4. ĐỘc thÂn thÁnh hiẾn trong ThÁnh Kinh vÀ TruyỀn thỐng DothÁi 

a. Đời sống độc thân trong Cựu Ước 

Đời sống độc thân theo truyền thống Dothái: “Bất cứ người đàn ông nào không có vợ không phải là đàn ông, vì ‘Thiên Chúa dựng nên con người có nam có nữ và gọi tên là Adam’” (St 5,2). Các nhà khôn ngoan Dothái đặt giá trị cao nhất trên hôn nhân và gia đình. Họ nhìn phụ nữ như nền tảng của đời sống nhân đức. Họ quả quyết rằng một người đàn ông không cưới vợ không thể đạt được nhân đức.  

Trường hợp duy nhất của đời sống độc thân trong Cựu Ước là Giêrêmia (Jer 16,1-4). Như bất cứ ngôn sứ nào, đời sống của Giêrêmia là biểu tượng sứ điệp của ông. Đời sống và sứ điệp của ông chống lại cái mà Israel lấy làm thiết thân: một đại gia đình. Sự vô sinh bị coi như một lời nguyền rủa và một đời trinh nữ lâu dài là một lý do để than khóc (thân phận gái già). 

Khi một quốc gia bị phá hủy và những gia đình bị tan vỡ hay bị phá hủy, Israel có thể nhìn vào Giêrêmia cô độc và bị bỏ rơi, và nhờ đồng hóa với ông mà thấu hiểu được sự tận hiến anh hùng của ông và đạt được sự thanh tẩy vào đời sống mới. Đời sống độc thân của Giêrêmia liên kết ông với dân chúng và làm cho sứ vụ của ông thêm hữu hiệu. 

b. Đời sống độc thân trong Tân Ước 

1) Tại sao người Corintô đặt câu hỏi: Đàn ông không gần gũi đàn bà là điều tốt (1Cor 7,1)?

Đó là vì Viễn ảnh thực hiện cánh chung; do lời giải thích một câu nói được gán cho Chúa Giêsu về cuộc sống sau khi sống lại (Mt 22,30), và Gương của thánh Phaolô (1Cor 7,7) 

2) Câu trả lời của thánh Phaolô:

Hôn nhân bao gồm trọn vẹn đời sống tính dục là đáng ao ước, trừ khi hai người thỏa thuận với nhau để cầu nguyện, hoặc khi một bên có ơn ban sống độc thân.  

Hôn nhân không bị tháo gỡ, trừ khi bên không tin muốn chia lìa bên theo công giáo (đặc ân Phaolô)  

Luật chung phải theo về giới tính và hôn nhân là luật kép phải theo trong mọi Giáo Hội của thánh Phaolô (1 Cor 7,17): sống theo các ân ban Chúa đã ban cho anh (1 Cor 7,17a); và sống đúng theo ơn gọi kitô của chị (1 Cor 7,17b) hay là giới răn của Chúa (1Cor 7,19b) 

Để cho rõ ràng, thánh Phalô nói: Nếu anh có ơn ban độc thân, hãy sống như vậy; nếu anh không có ơn ban độc thân, đừng cố sống như thế; còn nếu anh đã kết hôn thì hãy cứ ở như vậy (như Chúa đã truyền) 

Vì sự sai lầm về thời cánh chung của mình (cánh chung đã được thực hiện rồi!), người Côrintô tin rằng bây giờ họ phải sống như các thiên thần bằng cách siêu việt hóa đời sống tính dục của họ. 

Thánh Phaolô nói rằng không có vấn đề thần học về hôn nhân, cả hai (hôn nhân và độc thân) đều là những chọn lựa chính đáng của người kitô. Tuy nhiên, xem ra ngài nghiêng về độc thân. Tại sao? Các kitô hữu không phải là thiên thần!

5. ViỄn tưỢng cÁnh chung cỦa PhaolÔ

a. Viễn tượng cánh chung của Phaolô có hai cực:

1)      Cánh chung chưa đến: ưu tiên hôn nhân

Các kitô hữu sống ở chỗ các thế hệ gối lên nhau, ngày sống lại chung của các kẻ tin vẫn còn là tương lai (1 Cor 15): Chưa đến! Kết luận: công cuộc sáng tạo, như hôn nhân, vẫn tiếp tục. từ viễn ảnh này mà có một sự đánh giá tích cực về hôn nhân của thần học. 

2)      Cánh chung đã đến rồi: ưu tiên độc thân

Thánh Phaolô tin rằng, ít nhất vào thời gian viết lá thư này, ngài có thể còn sống khi Chúa trở lại (1 Cor 15,51; 1 Th 4,15). Với sự sống lại của Chúa Giêsu, sự sống lại chung đã bắt đầu (1 Cor 15,20): Đã đến rồi! Thánh Phaolô cũng tin rằng các kitô hữu đang sống trong những đau khổ cứu thế của Thời Đại Mới. Sống trong một hoàn cảnh như thế, người tín hữu cần chiến đấu tinh thần, cụ thể là một sự tận hiến ý thức cho Chúa. Kết luận: Đời sống độc thân được ưu tiên 

b. Hệ luận: Con đường phải sống

Hãy thực hiện một viễn ảnh cách chung đúng đắn trong đời sống tính dục của chính anh. 

Cuộc chiến đấu để duy trì một viễn ảnh cách chung đúng đắn là ở đàng sau tất cả cuộc tranh luận trong 1 Cor 7,1-40. 

Yêm hoạn vì Nước Thiên Chúa (Mt 19,12) 

Chúa Giêsu không nói rằng đây là ơn kêu gọi cao hơn những ơn kêu gọi khác hay là tất cả những ai theo Ngài đều tìm phục vụ trong đường lối này: điều đó trái nghịch sự thúc giục của Chúa trong St 1-2.

Chúa Giêsu nói rằng đòi hỏi của Nước Trời vượt cao hơn tất cả những đòi hỏi khác và chỉ một số người được kêu gọi phục vụ trong con đường độc thân, cũngnhư những người khác được kêu gọi phục vụ trong hôn nhân. Bất cứ lời kêu gọi của một người là gì thì ân sủng cũng được ban cho để ơn kêu gọi sẽ được hoàn tất.    

c. Vấn đề sự sống lại (Mt 22,23-33)

Hai điều phải nói liên quan đến đoạn văn này:

·        Có sự sống lại của kẻ chết.

·        Đời sống sau khi sống lại chung sẽ khác nhau.

6. ĐỘc thÂn thÁnh hiẾn trong lỊch sỬ kitÔ giÁo 

1.      Ý niệm về đời sống độc thân từ ban đầu 

Hình thức đời sống thánh hiến lâu đời nhất: thánh hiến lòng trinh tiết (hầu hết là phụ nữ) trong các cộng đoàn kitô ở đô thị trong thế kỷ thứ nhất. 

Các phụ nữ hiểu đời sống họ trong ẩn dụ “kết hôn với Chúa Kitô.” Tiết dục là diễn tả bề ngoài của lòng trung thành hôn nhân. 

Người nam thấy cuộc đời mìnhg trong hình thức khổ chế. Độc thân thanh khiết là hình thức tự chủ. 

Trinh tiết của người phụ nữ chiếm ưu thế. Các trinh nữ cùng với các góa phụ có một vị trí công cộng ở trong Giáo Hội, và thực thi một số thừa tác vụ nào đó.

Đề tài thánh hiến hôn nhân với Chúa Kitô đã được phát triển: các trinh nữ để dành cả tinh thần lẫn thân xác cho Chúa. 

Dù được đặt trong bối cảnh đức tin và tình yêu, sự toàn vẹn thân xác được đề cao theo truyền thống Hy lạp và Rôma. Chúng ta phải đương đầu với ý niệm Hy lạp-Rôma về vị thành niên hay trinh nữ có mối liên hệ đặc biệt với thần thánh. 

Vào cuối thế kỷ thứ ba, đời sống độc thân đã được coi như một tình trạng tốt hơn hôn nhân. Nó được ca ngợi qua các ẩn dụ: đời sống thiên thần, ‘hôn thê của Chúa Kitô”, đám cưới thần bí, hiến dâng trọn hảo.

2. Đời sống thiên thần 

Đời sống đan viện đôi khi được gọi là sống như thiên thần, bởi vì nhờ lời cầu nguyện liên lĩ, các đan sĩ bắt chước các thiên thần luôn luôn sống trong sự hiện diện của Chúa. Họ cũng bắt chước các thiên thần bằng cách hãm dẹp thân xác, nhất là bằng cách kiềm chế nhục dục (tiết dục). 

Có những bản văn coi đời sống độc thân như sự báo trước của điều kiện cánh chung, nhưng đa số nhấn mạnh đến khổ chế: chế ngự dục vọng của mình. 

3. Trở lại Địa Đàng 

Có vài luận thuyết nói rằng Adam và Evà là đồng trinh khi ở trong Địa đàng và hôn nhân là hậu quả của việc tổ tông sa ngã. Theo St 4, Cain và Abel đã được sinh ra sau câu chuyện về tội. 

Đức đồng trinh được xem như sự trở lại địa đàng. Nhân tính thực sự như Chúa nhắm đến chỉ ở trong sự đồng trinh, và liên hệ tính dục là một diễn tả của sự suy thoái lịch sử của loài người (Gregory of Nyssa, John Chrysostom và Jerome). 

Lối hiểu méo mó này về tính dục vẫn kéo dài cho đến ngày nay ảnh hưởng đến cách hiểu về Luân lý công giáo và đời sống thánh hiến. 

Quả thế, chúng ta đã được kêu gọi đi theo Chúa Giêsu, chứ không phải các thiên thần. Và chúng ta không tìm kiếm địa đàng đã mất, nhưng chúng ta hướng về sự viên mãn của Nước Thiên Chúa trong trời mới đất mới. 

4. Đời sống độc thân linh mục 

Luật hiện tại: Các linh mục không được phép cưới vợ. Họ phải sống một mình và hứa độc thân. Đây là qui tắc chung trong Giáo Hội. Việc truyền chức cho những người có vợ bị cấm trong Giáo Hội Latinh; mặc dầu trong mấy thập kỷ gần đây một số Mục sư Tin Lành trở lại Công giáo đã xin được phép thụ phong linh mục và thi hành thừa tác vụ mà vẫn tiếp tục đời sống gia đình của họ. Trong Giáo Hội Đông phương, chỉ các Giám mục phải sống độc thân; nhữg ai muốn làm linh mục phải cưới vợ trước khi nhận lãnh chức Phó tế. Luật này có từ thế kỷ XII. 

Không có qui tắc nào trong Tân Ước ngăn cản một người có vợ thi hành thừa tác vụ linh mục. Các Thư Mục Vụ đòi hỏi rằng thừa tác viên phượng tự (Giám mục, Linh mục, Phó tế) phải là một “người chồng của một người vợ” và chu toàn tốt các bổn phận của mình đối với vợ và con cái (x. 1Tm 3,2-5,12; Tit 1,6). 

Trong ba thế kỷ đầu không có luật lệ nào đối với vấn đề này, ngoại trừ các linh mục không được phép cưới vợ lần thứ hai. Giáo Hội phong chức cho các người lớn đã có gia đình cũng như các tu sĩ khổ hạnh. 

Sự thay đổi đã đến từ thế kỷ thứ tư và thứ năm khi càng ngày càng có nhiều tu sĩ khổ hạnh cưới vợ. 

5. Những lý do đàng sau việc đó: 

Với sự chế ngự thân xác, vị linh mục khôi phục lại cho thân xác phẩm giá ban đầu của nó: Sự hoàn thiện nguyên thủy được phục hồi (xem thần học ảnh hưởng lên thực hành thế nào). 

Sự chế ngự thân xác giúp linh mục sẵn sàng hơn cho thừa tác vụ thiêng liêng của mình. 

Do ảnh hưởng của Tân thuyết Platon, có một cái gì không trong sạch trong mọi liên hệ tính dục, do đó không thích hợp với những thực tại thánh thiêng và phượng tự mà một linh mục phải đảm trách. Tính không thích hợp này ngày càng được tái khẳng định. 

Từ chối xác thịt có nghĩa là để cho sự hiện diện của Thánh Thần tăng trưởng. 

Chế ngự thân xác cho phép một linh mục sẵn sàng hơn cho sứ vụ của mình. 

Đời sống độc thân của linh mục là nguồn sinh hoa kết quả thiêng liêng. 

6. Cuộc canh tân của Grêgôriô (tk XI và XII) 

Những ai đang sống đời độc thân phải giữ như vậy: còn những người khác phải cho vợ hay kẻ chung sống ra về (x. Latêranô I năm 1123 và Latêranô II năm 1139). 

Không có gì mới sau thời kỳ ấy liên quan đến đời sống độc thân. Ngày nay lại có vấn đề nóng bỏng về gương xấu tính dục của các linh mục. 

Nhưng có một điều phải nói là xét về mặt thần học, đời sống độc thân không phải là điều kiện tất yếu (sine qua non) cho chức linh mục. Chức linh mục và đời sống độc thân là hai cái khác nhau.  

Tóm lại:

Đời sống độc thân là một lời mời gọi đặc biệt hiện diện ở trong mọi tôn giáo. 

Đời sống độc thân có mặt trong truyền thống Thánh Kinh và Dothái, dù được nhìn thấy như một ơn gọi đáng sợ và khủng khiếp (Giêrêmia). 

Chúa Giêsu đi theo lối sống gây sốc này, vì sự tận hiến trọn vẹn của Ngài cho việc rao giảng Nước Thiên Chúa (sẽ đến và đã có mặt).

Các nam nữ tu sĩ luôn nhìn thấy sự đồng trinh khiết tịnh là đặc điểm chính yếu ơn gọi của họ. 

Mặc dù luôn chỉ được nhìn dưới viển ảnh khổ hạnh, lối sống độc thân bắt rễ từ gương Chúa Giêsu, trong sự tiếp nối sứ vụ của Ngài (chiều kích ngôn sứ và cánh chung), trong sự liên hệ sâu xa với Thiên Chúa /Chúa Giêsu (chiều kích thần bí) và được sống trong cộng đoàn những kẻ tin (chiều kích Giáo Hội). 

Lối sống này được nhìn thấy như một đặc sủng, một quà tặng của Chúa Thánh Thần ban cho một số người để xây dựng Giáo Hội. 

7. ChÚa GiÊsu vÀ ĐỜI SỐNG ĐỘc thÂn 

a. Đôi khi bạn nghe rằng Chúa Giêsu có kết hôn. Có thật không?

Giả dụ nền đạo đức Dothái tích cực đối với phái tính và hôn nhân vào thời Chúa Giêsu thì sự thinh lặng của Tân Ước liên quan đến một người vợ của Chúa Giêsu có lẽ được giải thích như một phương tiện rằng Chúa Giêsu trong thực tế đã có một người vợ, ít nhất về một phương diện nào đó của cuộc đời Ngài. Đó là quan điểm của William E. Phipps. Tại sao có ý kiến như vậy?

Một số người nói “Có”

Người Dothái cho rằng tính dục và hôn nhân là những phúc lành Tạo Hóa tốt lành đã ban cho nhân loại. Đời sống độc thân là lối sống đối với người tu sĩ Dothái bình thường, và cách đặc biệt cho một thầy dạy (rabbi), có lẽ không được nghĩ đến vào thời Chúa Giêsu. 

Hình ảnh Chúa Giêsu như một người luôn luôn độc thân là sản phẩm về sau của thần học kitô phải chịu đựng một quan điểm méo mó truyền thống về tính dục và hôn nhân.  

Bạn có chắc về “ý kiến có” này không?

Trước hết, người Dothái nhìn thấy tính dục và hôn nhân như những phúc lành(đúng). Tuy nhiên có một truyền thống Dothái mạnh mẽ ưu tiên cho đời sống độc thân. Trong số này có ba nhóm khổ chế Esseniens, Qumran và Therapeutae (thế kỷ I trước và sau Công nguyên). 

Có một truyền thống các rabbi coi Moses như là một người độc thân sau khi gặp gỡ Thiên Chúa; Gioan Tẩy Giả rất có thể là người độc thân. 

Nhìn thấy Giêrêmia, Gioan Tẩy Giả và Moses sau khi gặp Chúa, chúng ta có thể nói rằng: Vị ngôn sứ trực tiếp nhận được mạc khải thần linh tìm thấy cả cuộc sống mình bị thay đổi triệt để vì ơn gọi ngôn sứ của mình. Sự đổi khác và biệt riêng này bởi Lời Chúa và cho Lời Chúa được thể hiện rõ nét đối với nhiều người Dothái trong ơn gọi độc thân hiếm hoi, đáng sợ và khủng khiếp. 

Tiếp đến, có sự thinh lặng trong Tân Ước về vợ con của Chúa Giêsu (đúng). Nhưng Tân Ước không thinh lặng về Chúa Giêsu và gia đình của Ngài (mẹ và cha Ngài, anh em và chị em của Ngài cũng được nhắc tới). Nhà văn Dothái Kitô Hegesippus thế kỷ thứ hai nói cho chúng ta về Clopas, cậu của Chúa Giêsu và Symeon, một người anh em họ. 

Kết luận: Như thế sự thinh lặng về vợ con của Chúa Giêsu trong bối cảnh này chỉ có thể được giải thích theo một đường lối duy nhất là không có. Vì trước khi mời gọi ai theo Ngài và đòi hỏi họ phải lìa bỏ vợ con thì Chúa Giêsu phải là người trước tiên và triệt để hy sinh: triệt để độc thân. 

b. Tại sao Chúa Giêsu chọn đời sống độc thân? 

Đời sống độc thân của Chúa Giêsu là một dụ ngôn trong hành động, là một hiện thân của một sứ điệp cao cả kích thích người ta suy nghĩ về Chúa Giêsu và về chính họ. Chúa Giêsu có ý qui tụ lại một Israel mà tội lỗi đã phân mảnh. Ngài có ý chuẩn bị họ sám hối chờ cuộc trở lại cuối cùng của Nước Thiên Chúa. 

Ý thức của Chúa Giêsu về một lời mời gọi ngôn sứ duy nhất thúc đẩy Ngài hiến dâng trọn vẹn cho sứ vụ này cho Israel vào cuối thời, thời khắc sinh tử của lịch sử có thể giải thích đời sống độc thân của Ngài, ít ra một phần. 

Mt 19,12 là một lời tuyên bố rất đụng chạm và rất kích thích. Danh từ “yêm hoạn” và động từ “thiến” chỉ xảy ra trong Phúc Âm của Thánh Matthêu. Danh từ này chỉ xảy ra một lần nữa ở trong Cvtđ 8,27-39 (câu chuyện về viên thái giám Ethiopian. Động từ xảy ra ở đây trong Tân Ước. 

Không có chỉ dẫn nào là Chúa Giêsu đã đòi hỏi những ai muốn gia nhập nhóm môn đệ của Ngài phải giữ đời sống độc thân.

["Chính vì thế, sau nhiều lần xem xét kỹ lưỡng tất cả các tình huống, Đức Thánh Cha Benedict XVI quyết định miễn chuẩn Giám mục Fernando Lugo khỏi tình trạng giáo sĩ, và kết quả tất yếu là các quyền vốn có của một giáo sĩ tự nó không còn, bên cạnh đó cũng miễn trừ Giám mục Fernando Lugo khỏi những lời khấn đã khấn hứa khi trở thành giáo sĩ của Dòng Ngôi Lời (Society of the Divine Word, SVD) và, miễn trừ Giám mục Fernando Lugo khỏi tình trạng độc thân giáo sĩ (cf. CIC can. 291) cũng như các thừa tác vụ mà tình trạng giáo sĩ đòi buộc (cf CIC can. 292)."] 

8. CÁC CHIỀU KÍCH CỦA THANH KHIẾT 

a. Đời sống độc thân thánh hiến như đặc sủng

Đời sống độc thân thánh hiến là một đặc sủng của Chúa Thánh Thần, tác động lên tự do của chúng ta và thúc đẩy chúng ta yêu thương “với tất cả con tim của chúng ta,” được trao ban cho một số ít người, được lãnh nhận trong tự do và được sống trong niềm vui. Đời sống độc thân thánh hiến được đặt để phục vụ Nước Trời. Nó là dấu hiệu của sự tận hiến và yêu thương vô điều kiện đối với Chúa. Nó được sống trong viễn ảnh Chúa đến lần thứ hai (Parousia) 

b. Chiều kích truyền giáo của đức khiết tịnh

Phục vụ sự sống. Đời sống độc thân thánh hiến tuyên xưng rằng Thiên Chúa ở bên cạnh những người cô đơn và bị bỏ quên. Nó kêu gọi đánh mất mạng sống mình cho tha nhân mà không kể cái giá phải trả (Giêrêmia và Chúa Giêsu, Oscar Romero, Martin Luther King, các nhà truyền giáo). Nó được mật thiết kết nối với tử đạo.  

c. Chiều kích cộng đoàn của đức khiết tịnh

Các người sống đời độc thân khiết tịnh làm nên cộng đoàn của “chỉ một con tim”. Đời sống độc thân thánh hiến kêu gọi một mối liên hệ sâu xa giữa anh chị em: mối liên hệ bằng hữu. Nó giúp chúng ta nhận ra rằng chúng ta đều là con cái của cùng một Cha, rằng chúng ta đều là anh chị em trong Chúa Kitô, và được ban quyền đó cũng bởi một Chúa Thánh Thần. Do đó, chúng ta được mời gọi thiết lập một cộng đoàn bằng hữu, vượt thắng các ràng buộc xác thịt, máu huyết và lướt thắng tình ái nhục dục. 

d. Chiều kích thần bí của đức khiết tịnh

Đức khiết tịnh biểu lộ tình yêu của chúng ta cho Chúa, vẻ đẹp vĩnh cửu, trong mọi sự và trên mọi sự, biết rằng mọi thứ tình yêu tìm được trong Ngài nguồn gốc và sự viên mãn, và nếu không có Ngài thì chẳng có bền vững được. Đời sống độc thân thánh hiến của tu sĩ tìm kiếm những sự của Thiên Chúa, diễn tả sự say mê tìm kiếm vẻ đẹp của Thiên Chúa và liên hệ thân tình với Chúa Giêsu. Cái thực sự đã ngăn cản Chúa Giêsu kết hôn là Nước Thiên Chúa, lý do duy nhất của sự hiện hữu, sự sống và cái chết của Ngài. Chúng ta cũng có thể nói như thế về mỗi nam nữ tu sĩ. 

e. Chiều kích chứng tá tiên tri của đức khiết tịnh

Chúng ta trở nên những “hình tượng sống động” của Chúa Giêsu, vươn tới với mọi người, đặc biệt là những ai không được yêu thương, và của Giáo Hội, hiền thê của Ngài, mà tình yêu và lòng trung thành sẽ lên đến cực điểm trong thời sau hết. 

f. Chiều kích sinh học của đức khiết tịnh

Một tình yêu vươn tới mọi tạo vật thế giới, đi vào hiệp thông với chúng, bảo vệ sự sống của thiên nhiên, khước từ mọi thái độ bạo lực và lôi cuốn. Thiên nhiên giống như thân xác chúng ta. Thiên nhiên không phải là một cái gì ở bên ngoài chúng ta; chúng ta cũng là một phần của thiên nhiên. Đời sống độc thân thánh hiến/khiết tịnh mang lại một mối liên hệ với thiên nhiên: cảm thông, trân trọng, tôn kính.

còn tiếp

VỀ MỤC LỤC
HUYẾT ÁP THẤP

 

Thường  thì chúng ta e ngại bị cao huyết áp, nhiều  hơn là thấp huyết áp. Vì sợ bị rơi vào cảnh liệt hạ chi đi xe lăn vì tai biến mạch máu não hoặc  bị suy thận suy tim,  những biến chứng trầm trọng của “tên sát nhân thầm lặng” này .

Tuy nhiên, nếu huyết áp quá thấp thì lại có nhiều rủi ro cho sức khỏe, đôi khi đe dọa tới tính mệnh. 

Huyết áp là sức ép của máu lên lòng động mạch khi trái tim thu bóp để đấy máu vào động mạch  và khi tim trương giãn ra để tiếp nhận máu.

Huyết áp được đo theo đơn vị mili mét thủy ngân (mmHg), với hai con số: số  trên là huyết áp tâm thu (systolic) và số dưới là huyết áp tâm trương (diastolic).

Huyết áp thay đổi tùy theo thời gian trong ngày: thấp nhất vào ban đêm khi ngủ, cao hơn khi thức dậy; buổi chiều cao hơn buổi sáng, nhất là khi đi lại, lao động chân tay, tinh thần căng thẳng.

Huyết áp cũng thay đổi tùy theo tư thế cơ thể.  

Khi ngồi huyết áp tâm trương cao hơn nằm khoảng 5mmHg. Ngồi không dựa lưng, tâm trương cao hơn 6mmHg. Ngồi chéo cẳng chân,  tâm thu tăng từ 2-8mmHg. Ngồi mà tay buông thõng, HA cao hơn là khi tay dơ cao.

Cơ thể rất nhạy cảm với sự thay đổi huyết áp, đặc biệt là một số tế bào ở thành động mạch. Khi huyết áp đột nhiên tăng hoặc giảm, các tế bào này sẽ can thiệp khiến cho  huyết áp trở lại mức trung bình để có đủ máu chuyển tới các cơ quan sinh tử như tim, não, thận.

 HA ở tay trái hoặc tay phải không khác biệt mấy, tuy nhiên nếu đo lần đầu, nên đo cả hai bên để so sánh.

Hiện nay các nhà chuyên môn coi huyết áp bình thường là bằng hoặc dưới 120/80, lý tưởng là 115/75.  

Thế nào là huyết áp thấp

Các nhà y học cũng đồng ý với nhau là huyết áp thấp khi một trong hai kết quả bằng hoặc dưới 90  cho tâm thu, 60 tâm trương. Như vậy nếu có kết quả 115/50 thì là huyết áp thấp.

Đây là con số chung chung, với người này là thấp nhưng lại bình thường với người khác vì họ không có các khó khăn dấu hiệu bệnh như chóng mặt, sỉu hoặc bất tỉnh. 

 Người tập luyên cơ thể, các lực sĩ thường hay có huyết áp và nhịp tim hơi thấp hơn bình thường mà họ vẫn khỏe mạnh.

 

Có nhiều loại thấp huyết áp khác nhau:

a- Thấp với tư thế đứng  (Orthostatic hypotension).

Chẳng hạn khi đang nằm hoặc ngồi mà đứng lên, nhất là với động tác quá nhanh, đứng xếp hàng lãnh “tem phiếu” cả nửa ngày, đứng lâu khi tắm hoa sen, đôi khi do ngồi làm việc liên tục nhiều giờ.

Bình thường, khi đổi tư thế như vậy, sẽ có khoảng từ 300-800 cc máu dồn xuống phần dưới cơ thể theo sức hút của trái đất, khiến cho não thiếu dinh dưỡng. Con người cảm thấy xây xẩm, lảo đảo, chóng mặt.

 May mắn là cơ thể đã có sẵn một số đáp ứng tim mạch, thần kinh, sinh hóa để đối phó với rủi ro này. Chẳng hạn các cơ bắp ở hạ chi co hẹp, thành bụng ép vào tĩnh mạch đẩy máu từ dưới ngược lên phía trên. Do đó hậu quả của huyết áp thấp chỉ thoảng qua khoảng dăm ba giây-phút. Nếu các cơ chế này hoạt động kém hữu hiệu, hậu quả sẽ lâu dài.

Hiện tượng này thường thấy ở người cao tuổi hoặc người suy nhược, nhưng đôi khi cũng có ở người trung niên khỏe mạnh khi họ ngồi lâu với cẳng chân bắt chéo rồi bất chợt đứng dậy.

Nguyên nhân có thể do tác dụng của một số dược phẩm, khiếm khuyết hồi huyết tĩnh mạch, giảm khối lượng máu, suy tim, rối loạn thần kinh.

Trong trường hợp này, các nhà chuyên môn coi thấp huyết áp là khi  tâm thu giảm ít nhất 20mmHg, tâm trương giảm ít nhất 10mmHg sau khi đứng dậy khoảng 3 phút.

b- Thấp do rối loạn liên lạc giữa thần kinh tim-não

Khi đứng quá lâu, huyết áp thường thấp, nhưng cơ thể có thể điều chỉnh để bình thường  hóa.

Tuy nhiên, ở một số người, nhất là giới trẻ thì cơ chế điều chỉnh này không làm việc đúng đắn. Thay vì báo động huyết áp thấp, thần kinh tại tim lại phát ra tín hiệu ngược lại (huyết áp cao), não bộ bèn giảm nhịp tim và hạ huyết áp. Máu đưa xuống phần bụng và hạ chi nhiều, lên não ít. Tình trạng trở nên xấu và bệnh nhân cảm thấy xây xẩm, quay cuồng.

c- Thấp sau bữa ăn (Postprandial hypotension)

Trong vòng 2 giờ sau khi ăn, huyết áp có thể giảm tới 20mmHg, đặc biệt là ở người tuổi cao, người đang bị cao huyết áp, có bệnh tim mạch, người già có tiền sử té ngã, người đang dùng thuốc trị cao huyết áp. Sự kiện này có thể gây ra ngất sỉu, cơn đau thắt ngực, chóng mặt, mệt, buồn nôn, mờ mắt thậm chí cả stroke nữa. 

Có nhiều cách giải thích:

Như là sau khi ăn, máu tụ nhiều ở cơ quan nội tạng (ruột, bao tử) để giúp sự tiêu hóa thực phẩm, giảm khối lượng máu cho các bộ phận khác (não).

Hoặc là sau bữa ăn có sự giảm lượng máu từ tim đưa ra;

Hoặc thấp huyết áp là do tác dụng của insulin làm giảm đường huyết kéo theo giảm huyết áp;

Hoặc sự quá giãn tĩnh mạch ngoại vi.

 Bình thường thì cơ thể điều chỉnh được bằng cách tăng lượng máu bơm ra từ tim và co mạch máu ngoại vi. Nhưng ở nhiều người, cơ chế này “trục trặc”, thiểu tuần hoàn não, khiến con người lảo đảo, quay cuồng.

Nguyên nhân gây ra thấp huyết áp

a- Giảm khối máu do mất nước tại các mô cơ thể vì ói mửa, tiêu chảy, nóng sốt, dùng nhiều thuốc lợi tiểu, phỏng nặng, vận động quá mức với đổ mồ hôi. Máu lưu thông giảm, huyết áp thấp, không đủ dưỡng khí nuôi tế bào, cơ thể mệt mỏi, yếu, chóng mặt.

Nếu mất nước quá nhiều và không được điều trị bệnh nhân có thể rơi vào tình trạng shock, nguy hiểm tới tính mạng.

b- Nội ngoại xuất huyết  đều giảm khối lượng máu và đưa tới thấp huyết áp.

c- Trong thời gian có thai, mạch máu giãn mở, giàm sức ép của máu lên động mạch do đó áp huyết áp xuống thấp khiến cho bà bầu hay chóng mặt. May mắn là huyết áp sẽ trở lại bình thường sau khi sanh.

d- Một số bệnh tim như suy tim, rối loạn van tim, nhịp tim chậm, cơn suy tim đều làm huyết áp xuống thấp vì máu lưu hành ít đi.

đ- Mấy bệnh nội tiết như tiểu đường, nhược hoặc cường tuyến giáp, đường huyết thấp.

e- Nhiễm trùng huyết, cơn dị ứng trầm trọng, dinh dưỡng thiếu sinh tố B12, folic acid.

g- Dược phẩm như thuốc lợi tiểu, thuốc giãn mạch, thuốc viagra, vài loại thuốc chống trầm cảm, thuốc chống đau, rượu.

h- Bệnh  Parkinson, chấn thượng sọ não, ngộ độc hóa chất, phản ứng với thuốc, suy gan, nằm bất động quá lâu. 

Dấu hiệu, triệu chứng

Các dấu hiệu thường thấy gồm có chóng mặt, ngất sỉu, buồn ngủ, kém tập trung, buồn nôn, mờ mắt, hơi thở nhanh, da lạnh, khát nước.

Khi huyết áp thấp trầm trọng, bệnh nhân có thể bị trụy tuần hoàn (shock).

Điều trị

Thấp huyết áp ở người khỏe mạnh mà chỉ có chóng mặt thoảng qua khi đứng lên ngồi xuống thường thường không cần đến trị liệu. 

Với các trường hợp nặng, điều trị nguyên nhân gây ra huyết áp thấp có thể giái quyết được vấn đề.

Trường hợp huyết áp xuống rất thấp gây ra shock thì cần được cấp cứu tại bệnh viện.

Bác sĩ có thể cho dùng dược phẩm tăng khối máu (fludocortione, clonidine, viên ngừa thai); thuốc co mạch (midrodine, ritalin, vài loại chống trầm cảm) hoặc thuốc điều khiển sản xuất epinephrine/norepinephrine (ức chế beta atenolol, propanolol) để nâng huyết áp.

Phòng tránh

Các phương thức sau đây được áp dụng để giảm thiều dấu hiệu triệu chứng của huyết áp thấp:

1- Uống nhiều nước để ngăn ngừa cơ thể khô nước và nâng cao huyết áp.

2- Dùng thêm muối có thể nâng cao huyết áp, nhưng cần được bác sĩ hướng dẫn để tránh rủi ro suy tim.

3- Mang tất đàn hồi để tránh máu tụ ở hạ chi, nhờ đó máu nhiều hơn ở phần trên cơ thể.

4- Tránh uống rượu vì rượu làm mất nước và làm giãn mạch.

5- Đừng đứng quá lâu; từ từ đứng lên khi nằm hoặc ngồi.

6- Có huyết áp thấp sau khi ăn: không nên uống thuốc chống huyết áp trước khi ăn; tránh đứng bất thình lình và nên nằm nghỉ sau khi ăn; giảm tinh bột trong phần ăn, chia phần ăn làm nhiều bữa nhỏ.

7- Với một số người, nước uống có caffeine làm co mạch nhưng nên uống vào buổi sáng để tránh khó ngủ ban đêm.

8- Nằm ngủ với gối hơi cao hơn chân có thể giảm triệu chứng bằng cách giữ lại natri, bớt tiểu đêm.

9- Khi đứng lâu: một chân co hoặc để trên ghế; lâu lâu ngồi xuống hoặc cúi mình về phía trước, để tay lên đầu gối.

Khi nào cần đi khám bệnh

Thấp huyết áp mà lại thêm đau ngực, nhiệt độ cơ thể trên 101◦ F (38.3 ◦C), rối loạn hô hấp, tim đập không đều, tiêu chầy và nôn ói kéo dài, ho ra đàm, không ăn uống được, đều cần đi bác sĩ ngay để được khám bệnh và điều trị.

Kết luận

Một trong những triết lý sống khá hay của người Á Đông là không thái quá mà cũng chẳng nên bất cập.

Cao quá cũng có hại mà thấp quá cũng mang lại rủi ro. Cho nên cứ “Trung Dung”, cố gắng giữ huyết áp suýt soát 120/80 là tốt hơn cả.

Đó là điều mong ước của mọi người.

Nguyễn Ý-Đức, M.D. Texas-Hoa Kỳ

www.nguyenyduc.com

 
VỀ MỤC LỤC
HAI CHỮ CÁM ƠN   Chuyện phiếm của Gã Siêu

 

Hôm nay, gã xin bắt đầu bằng một câu chuyện được ghi lại trong Phúc Âm :

Hôm đó Chúa Giêsu vào một làng kia, thì có mười người phong cùi đón gặp Ngài. Theo tập tục của dân Do Thái, những kẻ mắc chứng bệnh nan y này phải sống cô lập, không được tiếp xúc với những người bình thường.

Vì thế, họ dừng lại ở đằng xa và kêu lớn tiếng :

- Lạy Thầy Giêsu, xin dủ lòng thương xót chúng tôi!

Thấy vậy, Chúa Giêsu bảo họ :

- Hãy đi trình diện với các tư tế.

Sở dĩ như vậy là để được chứng thực rằng mình đã khỏi bệnh và được trở về với cộng đồng xã hội. Đang khi đi, họ thấy mình được lành sạch. Thế nhưng liền sau đó, chỉ có người trong bọn đã quay trở lại  tôn vinh Thiên Chúa. Anh ta sấp mình dưới chân Chúa Giêsu mà tạ ơn. Và anh ta lại là người Samaria

Chúa Giêsu hỏi :

- Không phải mười người đều được lành sạch cả sao ? Thế chín người kia đâu ? Sao không thấy họ trở lại tôn vinh Thiên Chúa, mà chỉ có người ngoại bang này?

Rồi Người nói với anh ta:

- Anh hãy đứng dậy mà về đi! Lòng tin của anh đã cứu chữa anh. (Lc 17,11-19).

Qua câu chuyện trên, gã đã phải ngán ngẩm mà nhận ra rằng : Mười người được ơn, thì chỉ có một người biết ơn. Tỷ lệ một phần mười.  Một tỷ lệ quá ít ỏi. Như vậy, kẻ vô ơn thì thật nhiều, còn người biết ơn có lẽ chỉ đếm được trên đầu ngón tay. Hơn thế nữa, người biết ơn ấy lại là một kẻ ngoại đạo. Thế mới đau! Đúng như người xưa đã diễn tả :

- Bạc như dân, bất nhân như lính.

Chuyện kể rằng : Trên con đường quanh co vùng núi, vì trời mưa nên mặt đường bị sụp lở, một tài xế xe buýt không nhìn rõ mốc cắm báo nguy hiểm. Khi xe băng băng lao tới, muốn phanh gấp cũng không kịp. Cả bánh trước bên phải xe bắt đầu lún, mà bên dưới lại là vực sâu mấy trăm mét.

Một công nhân bảo vệ đang sửa đường ở bên cạnh đã vội vã chạy tới, cầm xà beng trong tay, ghì chặt bánh xe. Hơn hai mươi hành khách trên xe mới may mắn thoát nạn. Nhưng người công nhân bảo vệ thì ngất xỉu, bị dập nát một chân, phải cắt bỏ. Chỉ tiếc rằng hơn hai chục hành khách được cứu sống hôm đó, không một ai đã tìm đến anh để nói lời cám ơn.

Một cậu bé học trò được thầy giáo tặng cho một cuốn sách. Thế nhưng cậu bé lặng lẽ vội vã ra về, mà chẳng nói một lời. Thấy vậy, thầy giáo định dạy cho cậu bé một bài học, liền hỏi :

- Em vừa nói gì thế ?

- Em có nói gì đâu ?

- Thế mà thầy cứ ngỡ rằng em cám ơn thầy chứ.

Cậu bé xấu hổ, đỏ mặt xin lỗi.

Trong cuộc sống, nhiều khi bản thân gã cũng đã từng ngậm đắng nuốt cay khi phải đối đầu với những kẻ “vắt chanh bỏ vỏ”, “ăn cháo đái bát”, chẳng biết cư xử với nhau theo tình theo nghĩa. Thấy cái lợi trước mắt là vội vã vào vơ vét về. Sau đó là chấm hết,  không hay trời chăng mây nước chi nữa.

Có một em nhỏ đã viết cho mẹ như sau :

 

“Mỗi ngày con quét nhà cho mẹ, mẹ thiếu con năm ngàn. Con

đi chợ mua hàng cho mẹ, mẹ thiếu con năm ngàn…”

Ký tên

Người con luôn vâng lời mẹ.

 

Đọc xong mẩu giấy ấy, người mẹ đã trả lời như sau :

 

Mẹ đã cưu mang con trong cực khổ suốt chín tháng mười ngày,

không tính tiền. Mẹ đã chăm sóc con mỗi khi con đau yếu,

không tính tiền. Mẹ đã nuôi dưỡng con cho đến ngày hôm nay,

không tính tiền. Tổng cộng : Không một đồng nào.

Ký tên

Người mẹ luôn yêu thương con.

 

Người Việt Nam chúng ta vốn có truyền thống biết ơn :

- Uống nước nhớ nguồn.

- Ăn quả nhớ kẻ trồng cây,

  Ăn gạo nhớ kẻ đâm, xay, giần, sàng.

Lòng biết ơn cũng thường được biểu lộ bằng những hành động cụ thể. Chẳng hạn như trong dịp đầu năm :

- Mồng một tết cha,

  Mồng hai tết chú,

  Mồng ba tết thầy.

Gã còn nhớ : Ngôi trường, gã đã mài mòn đũng quần trên ghế suốt những năm dài của tuổi ấu thơ, là ngôi trường làng do cha sở thiết lập và làm hiệu trưởng. Vì thế, cứ mỗi độ xuân về, tất cả các em tiểu học như gã, mỗi đứa phải góp một quả trứng gà để tết cha hiệu trưởng.

Ban sáng, người mẹ cẩn thận gói quả trứng vào chiếc khăn tay để em bé xách đi. Em bé tung tăng cất bước như một chú chim nhỏ. Nét mặt rạng rỡ. Nếu chẳng may vì mải chơi hay vô ý làm vỡ trái trứng, thì  em bé chỉ còn nước đứng mà khóc. Gã thấy hình ảnh này sao mà đẹp tuyệt vời đến thế.

Cha ông chúng ta ngày xưa vốn đã từng dạy :

- Làm ơn đừng nhớ làm chi,

  Chịu ơn nên chớ quên đi mới là.

Hay như người ta cũng bảo :

- Người làm ơn thì phải quên ngay, còn kẻ mang ơn thì phải nhớ mãi.

Một khi đã nhận ơn của ai, chúng ta có bổn phận phải biết ơn và cám ơn người ấy. Nếu không biết ơn và cám ơn, thì có lẽ còn thua xa con vật, như một câu danh ngôn Thổ Nhĩ Kỳ đã bảo :

- Con vật còn biết ơn, huống nữa là con người.

Đúng thế, nhiều người vốn thích chó, vì chó là một con vật biết ơn. Mỗi khi ném cho một mẩu xương, nó liền tỏ vẻ biết ơn bằng cách vẫy đuôi. Mỗi khi đi đâu về, nó liền mừng rỡ và quấn quít bên chân chúng ta.

Có một viên quan toàn quyền nọ đang đi dạo trên đường phố, bỗng gặp  một người dân bản xứ cúi đầu chào một cách kính cẩn. Thấy vậy, viên quan toàn quyền liền chào lại một cách rất lịch sự. Thế nhưng, tên cận vệ không đồng ý và nói :

- Ngài mà cũng phải chào thằng mọi đen ấy hay sao ?

Viên quan toàn quyền bình tĩnh trả lời :

- Chẳng lẽ tôi lại thiếu văn hóa, không bằng thằng mọi đen ấy hay sao ?

Chính vì thế, người ta thường bảo :

- Hoa trái tốt đẹp nhất trên trái đất này, chính là lòng biết ơn.

Kinh nghiệm cho thấy :

- Thái quá thì bất cập.

Thế nhưng, La Bruyère lại cho rằng :

- Ở trên đời này, không có sự thái quá nào tốt đẹp cho bằng sự thái quá của lòng biết ơn.

Thế nhưng, tâm tình biết ơn không phải chỉ được ấp ủ trong lòng, mà còn phải được nói ra ngoài miệng và phải được chứng thực bằng những việc làm cụ thể, như người Tây Ban Nha vốn thường bảo :

- Làm ơn thì nín, thọ ơn thì nói.

Gã xin đưa ra một thí dụ, chẳng hạn người con nào mà chẳng xác tín về ơn sinh thành dưỡng dục của cha mẹ :

- Công cha như núi Thái Sơn,

  Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra.

Tuy nhiên, niềm xác tín này cần phải được biểu lộ ra bên ngoài bằng những lời nói trọng kính “trình thưa vâng dạ”, cũng như bằng việc  vâng lời và giúp đỡ :

- Một lòng thờ mẹ kính cha,

  Cho tròn chữ hiếu mới là đạo con.

Trong khuôn khổ bài viết hôm nay, gã chỉ xin đề cập tới hai chữ “cám ơn”.

Mặc dù mang nặng truyền thống biết ơn, nhưng người Việt Nam xem ra hay quên, hoặc ngại nói lên hai tiếng “cám ơn” trong sinh hoạt thường ngày. Một tác giả nào đó đã viết   :

Một sự kiện làm chúng ta phải ngạc nhiên không ít, đó là một số người Việt Nam từ nước ngoài trở về thăm quê hương đã đưa ra nhận xét như sau :

Dầu có cố gắng che dấu đến đâu cái tông tích việt kiều của mình, họ vẫn cứ bị lộ ra. Và oái oăm thay, cái tông tích ấy được thể hiện không phải qua cách mua sắm tiêu xài, hay là phục sức, mà gắn liền với một chi tiết rất tầm thường. Người ta nhận ra họ bởi vì họ là những người luôn miệng nói lên hai tiếng “cám ơn”.

Nếu quả thực hai tiếng cám ơn đã trở thành quí hiếm trên môi miệng người Việt Nam hiện nay, thì phải chăng đó là một lời báo động đáng lo ngại. Đó có thể là dấu chỉ của sự khô cạn tình người trong xã hội Việt Nam chúng ta. Khi ơn nghĩa đã bị chối bỏ, thì dĩ nhiên sự ràng buộc về tình người cũng trở thành mong manh. Và khi tình người bị chối bỏ, thì nhiều lãnh vực khác cũng sẽ bị lung lay và sụp đổ.

Sở dĩ như vậy là vì những người Việt Nam sống ở nước ngoài tiếp xúc thường xuyên với người phương tây, nên cũng lây nhiễm phần nào nét đẹp văn hóa của họ.

Đúng thế, những tiếng vốn được người phương tây xử dụng nhiều nhất là “xin lỗi” và “cám ơn”. Dân Pháp thì luôn miệng nói “pardon” và “merci”. Còn dân Ăng lê thì động một tí là “sorry” và “thanhk you”.

Thói quen tốt đẹp này có được là do sự giáo dục từ trong gia đình. Có người đã tổng kết được mười mấy chữ quan trọng trong việc giáo dục trẻ em ở phương tây, đó là cám ơn, chào ông bà, xin lỗi, phiền ông bà, tạm biệt, xin mời…Trong đó đứng đầu là hai tiếng “cám ơn”, Như vậy, họ đã dạy cho con em biết cảm động, không được thờ ơ nhìn sự giúp đỡ và làm ơn của người khác.

Từ đó, gã suy ra rằng lòng biết ơn và tình yêu mến luôn đi song song và tỷ lệ thuận với nhau . Lòng biết ơn sẽ sinh ra tình yêu mến và tình yêu mến lại sinh ra lòng biết ơn.

Một vị tổng thống hỏi bà cụ sống 104 tuổi về bí quyết sống lâu. Bà cụ trả lời :

- Một là dí dỏm, hai là học biết cám ơn.

Lấy chồng từ năm 25 tuổi, ngày nào bà cũng nói nhiều hai chữ  “cám ơn”. Bà cám ơn chồng, cám ơn bố mẹ, cám ơn con cái, cám ơn hàng xóm láng giềng, cảm ơn mọi sự quan tâm săn sóc của thiên nhiên đã dành cho bà. Cám ơn từng ngày sống yên lành, ấm cúng và vui vẻ. Mỗi lời nói thân thiết  của người khác đối với bà, mỗi việc làm nhỏ nhoi bình thường dành cho bà, mỗi nét mặt tươi cười hỏi thăm, bà đều không quên nói hai tiếng “cám ơn”.

Mọi người không những không ngán ngẩm đối với vô số lần cám ơn hàng ngày của bà, trái lại càng gần gũi yêu thương bà và nếu không yêu thương bà thì  cảm thấy có lỗi với từng lời “cám ơn” của bà…Hai tiếng “cám ơn” khiến bà vui vẻ, hạnh phúc và sống lâu.

Cám ơn có bao nhiêu thì tình yêu có bấy nhiêu. Tình yêu có ngần nào, thì cám ơn có ngần ấy.

Dựa vào một bài báo của tác giả Lã Du bên Trung Quốc, đã được dịch và đăng tải trên “Kiến thức ngày nay”, gã xin đưa ra những trường hợp hai chữ “cám ơn” được nói lên một cách rất đặc biệt.

Trước hết là hãy biết cám ơn trời, cám ơn người, cám ơn đời, cám ơn ở mọi nơi và trong mọi lúc, ngay cả những hoàn cảnh đen tối và bi đát nhất :

Một ông giáo mắc bệnh ung thư và biết chắc chắn rằng mình chẳng còn sống được bao lâu. Trước khi tắt thở, câu cuối cùng ông để lại cho đời là hai tiếng “cám ơn” : Cám ơn những người ruột thịt đã ngày đêm chăm sóc cho ông, cám ơn các y bác sĩ đã tận tình điều trị cho ông và cám ơn các em học sinh đã đến viếng thăm ông.

Tiếp đến là lời cám ơn thật cảm động của một em bé câm :

Một cô bé bảy tuổi, lưng đeo cặp sách, hình như vừa mới tan học. Khi leo lên xe, cô bé bước không vững và suýt nữa thì bị té ngã. Người hành khách vội vàng đỡ cô bé  một tay. Vừa đứng vững, cô bé giơ tay ra hiệu, không biết định nói gì với người hành khách. Thấy ông ta không hiểu, cô bé rất bối rối. Thì ra cô bé bị câm điếc.

Gần tới một trạm và ông ta sắp sửa xuống. Cô bé vội vàng chạy đến nhét vào tay ông ta một mẩu giấy. Ông ta cứ tưởng có chuyện gì, ai ngờ lúc xuống xe, nhìn mẩu giấy, ông ta chỉ thấy một dòng chữ xiêu vẹo :

- Cám ơn chú.

Và trái tim người hành khách bỗng trào dâng một tình cảm nóng bỏng không sao hiểu nổi.

Ngoài ra có những trường hợp ân hận vì đã không kịp thời nói lên được lời cám ơn của mình :

Ở phía bắc tỉnh Hà Nam, có một cậu bé mười bốn mười lăm tuổi, đã lấy cắp một quyển sách và bị anh bảo vệ bắt quả tang. Anh bảo vệ quát mắng khiến cậu vô cùng xấu hổ. Những người khác nhìn cậu với ánh mắt khinh bỉ.

Anh bảo vệ đòi cậu gọi phải bố mẹ, hoặc thầy giáo đến nhận thì mới cho về. Cậu bé lo sợ co dúm người, nét mặt xám ngoét. Thế nhưng,  một người phụ nữ đứng tuổi đã rẽ đám đông vây xem, xông vào bênh vực cậu bé :

- Đừng đối xử với trẻ em như thế. Tôi là mẹ của cháu !

Nói xong, người phụ nữ nộp tiền phạt và dắt cậu ra khỏi tiệm sách, rồi khẽ giục :

- Mau về nhà đi con, từ nay trở đi đừng bao giờ lấy trộm sách nữa !

Mấy năm đã trôi qua. Cậu bé luôn nhớ ơn người phụ nữ đứng tuổi không quen biết, đồng thời luôn hối hận vì đã không nói trước mặt bà hai tiếng cám ơn. Nếu không có bà, đường đời cậu bé có thể đã rẽ sang một lối khác.

Sau khi thi đậu đại học, cậu sinh viên đã thề nhất định phải tìm ra bà. Nhưng biển người mênh mông biết tìm bà ở đâu ? Thế là hàng năm, lợi dụng những kỳ nghỉ, ngày nào cậu cũng đến gần hiệu sách chờ nửa tiếng đồng hồ với hy vọng tìm được người phụ nữ đứng tuổi. Việc làm này hết sức mong manh, nhưng mưa gió cũng không cản trở được cậu, hay làm cho cậu nao núng, bởi vì cậu không bao giờ quên khuôn mặt hiền từ của bà. Cứ thế, cậu sinh viên đứng chờ trong hai năm, cuối cùng đã tìm được bà và nói lên hai tiếng “cám ơn”, mà cậu đã từng ôm ấp trong lòng bấy lâu nay…

Như vậy, đủ thấy hai tiếng “cám ơn” có sức nặng biết chừng nào. Nếu đặt “cám ơn” lên bàn cân, thì  cả trái núi cũng không nặng bằng. Nếu cho “cám ơn” một tiểm tựa, thì cả trái đất này sẽ được bẩy lên!

Một cậu học sinh khác ở miền núi thi đậu, nhưng vì nhà nghèo không có tiền để bước chân vào đại học. Lúc đó, một người không quen biết đã giúp đỡ cậu một cách vô tư. Cậu muốn cám ơn người đó trước mặt. Nhưng vì nguyên nhân này lý do khác, cậu vẫn chưa thực hiện được nguyện vọng.

Ba năm sau, theo địa chỉ của người gửi tiền, cậu đã dành riêng một chuyến đi. Khi đến nhà, thì không ngờ vị ân nhân đó vừa mới qua đời được mấy hôm. Trước khi chết, ông ta còn gửi cho cậu một khoản tiền cuối cùng…

Cậu hối hận vô cùng. Hối hận vì cứ dây dưa kéo dài mãi để hai tiếng  “cám ơn” chưa nói ra khỏi miệng, đã trở thành một gánh nặng day dứt. Ngậm nước mắt, cậu viết một vạn chữ “cảm ơn” lên giấy trắng, rồi châm lửa đốt trước phần mộ của vị ân nhân…

Nếu muốn nói “cám ơn”, thì hãy nói ngay đi. Nếu mang nặng lòng cám ơn, thì hãy mau mau bày tỏ ! Tình cảm biết ơn phải  trở nên như cánh chim bồ câu trắng tung bay suốt dọc cuộc đời, chứ đừng để nó biến thành hòn đá đè nặng trái tim một cách lâu dài.

 Gã xin kết thúc tâm tình cám ơn bằng mẩu chuyện sau đây :

Có một truyền thuyết kể lại rằng : Hai người cùng đi gặp Thượng đế, hỏi lối lên thiên đàng. Thấy hai người đói lả, Thượng đế cho mỗi người một suất cơm. Một người nhận suất cơm, cảm động lắm, cứ cám ơn rối rít. Còn người kia nhận phần ăn mà không hề động lòng, cứ làm như Thượng đế có bổn phận phải cho anh ta.

Sau đó, Thượng đế chỉ cho người nói “cám ơn” lên thiên đàng. Còn người kia bị từ chối. Kẻ bị từ chối đứng ngoài cổng tỏ vẻ bực tức :

- Chẳng lẽ chỉ vì tôi quên nói một câu “cám ơn” ?

Thượng đế trả lời :

- Không phải ngươi quên đâu, mà chỉ vì ngươi không có lòng biết ơn, nên chẳng nói ra được hai chữ cám ơn. Người không biết cám ơn, thì sẽ không biết yêu thương người khác, và cũng chẳng được người khác yêu thương.

Anh ta  vẫn một mực cãi lại :

- Vậy chỉ vì hai chữ “cám ơn”, mà số phận chênh lệch  đến thế  hay sao ?

Thượng đế lại đáp :

- Biết làm sao được. Bởi vì đường lên thiên đàng được  trải bằng lòng biết ơn và cửa vào thiên đàng chỉ chìa khóa cám ơn mới mở được mà thôi. Còn xuống địa ngục thì khỏi cần.

Nhân gian cần cám ơn. Thiên đàng cũng cần cám ơn. Khi nghèo túng cần cám ơn. Giàu có rồi cũng cần cám ơn. Trong cảnh khó khăn cần “cám ơn”.  Và ngay cả Thượng đế cũng cần cám ơn…

Mất nước, đất đai sẽ biến thành sa mạc. Trần gian nếu không có tâm tình và hai tiếng “cám ơn”, sẽ trở nên khô cằn sỏi đá, còn đáng sợ hơn cả sa mạc cát nóng nữa. (Báo Kiến Thức Ngày Nay).

Gã Siêu   gasieu@gmail.com

VỀ MỤC LỤC

- Mọi liên lạc: Ghi danh, thay đổi địa chỉ, đóng góp ý kiến, bài vở..., xin gởi về địa chỉ

giaosivietnam@gmail.com

- Những nội dung sẽ được đề cao và chú ý bao gồm:

Trao đổi, chia sẻ những kinh nghiệm thực tế trong việc mục vụ của Giáo sĩ;  Những tài liệu của Giáo hội hoặc của các Tác giả nhằm mục đích Thăng tiến đời sống Giáo sĩ; Cổ võ ơn gọi Linh mục; Người Giáo dân tham gia công việc “Trợ lực Giáo sĩ” bằng đời sống cầu nguyện và cộng tác trong mọi lãnh vực; Mỗi  Giáo dân phải là những “Linh mục” không có chức Thánh; Đối thoại trong tinh thần Bác ái giữa Giáo dân và Giáo sĩ… (Truyền giáo hay xây pháo đài?)

- Quy vị cũng có thể tham khảo những số báo đã phát hành tại

www.conggiaovietnam.net

Rất mong được sự cộng tác, hưởng ứng của tất cả Quí vị

Xin chân thành cám ơn tất cả anh chị em đã sẵn lòng cộng tác với chúng tôi bằng nhiều cách thế khác nhau.

TM. Đặc San Giáo Sĩ Việt Nam

Lm. Luca Phạm Quốc Sử  USA

 

 

Duoc chon giua loai nguoi va cho loai nguoi; GIAO SI: Xuat phat tu giao dan, hien dien vi giao dan va cay dua vao giao dan, de cung lam VINH DANH THIEN CHUA

*************