Sắc Lệnh Về Nhiệm Vụ Mục Vụ Của Các
Giám Mục Trong Giáo Hội (Christus Dominus) |
Prepared for Internet by Vietnamese
Missionaries in Asia
Lời Giới Thiệu
Trong giai đoạn
chuẩn bị Công Ðồng, Ủy Ban đặc trách vấn đề: "Giám Mục và việc
cai quản giáo phận" đã soạn thảo 7 dự án. Tháng 10 năm 1962 sau
khi Công Ðồng khai mạc, một Ủy Ban Công Ðồng được bầu lên với
nhiệm vụ thu góp vấn đề vào hai văn kiện: hai văn kiện này được
kết thúc vào mùa xuân 1963. Văn kiện thứ nhất, có tính cách pháp
luật, nói về các mối tương quan giữa Tòa Thánh và các Giám Mục,
giữa các Giám Mục Phó và các Giám Mục Phụ Tá, giữa các Hội Ðồng
Giám Mục v.v... Văn kiện thứ hai có khuynh hướng mục vụ hơn, đề
cập đến những điểm sau đây: nhiệm vụ của Giám Mục, nhiệm vụ mục
vụ của cha chính xứ, việc dậy giáo lý cho giáo dân v.v...
Trong kỳ họp II
vào mùa thu 1963, chỉ có văn kiện thứ nhất được đưa ra thảo
luận. Các Nghị Phụ đưa ra nhiều nhận xét vừa phong phú vừa đích
xác. Nhưng vì Công Ðồng có khuynh hướng giản lược danh sách các
lược đồ, nên đã quyết định đúc kết hai văn kiện trên thành một,
đồng thời chỉ chú trọng đến các nguyên tắc hướng dẫn nhiệm vụ
mục vụ. Ủy ban khởi công soạn lại một bản văn hoàn toàn mới. Sau
khi đệ trình hội nghị đầu kỳ họp III, lược đồ mới này đã thỏa
mãn được các Nghị Phụ.
Tuy nhiên các
ngài cũng đưa ra nhiều ý kiến hào hứng. Chính vì thế đến cuối kỳ
họp, bản văn vẫn chưa được công bố. Cho đến ngày 28-10-1965,
trong kỳ họp IV, khóa VII bản văn mới được chính thức công bố
với 2 phiếu nghịch trên 2,322 phiếu thuận.
Sắc Lệnh không
có mục đích gợi lên những ý tưởng thần học mới mẻ, nhưng cụ thể
hóa trên phương diện mục vụ giáo lý thần học về chức Giám Mục mà
chương III của Hiến Chế tín lý về Giáo Hội đã đề cập đến. Sắc
Lệnh có đặc điểm này là không ở trên lãnh vực lý thuyết, nhưng
đã phác họa ra một thực hành mục vụ, đề nghị áp dụng cụ thể các
sắc lệnh khác. Thật vậy Sắc Lệnh này thiết lập nhiều định chế
mới: Thượng Hội Ðồng Giám Mục, Hội Ðồng Giám Mục, Hội Ðồng Mục
Vụ, v.v... Do đó, trong thực tế Sắc Lệnh có tầm quan trọng đặc
biệt: vì Giáo Hội được canh tân một phần lớn là do việc thi hành
Sắc Lệnh này. Ðó cũng là lý do tại sao Ðức Giáo Hoàng Phaolô VI
đã cho công bố nhiều tài liệu nhằm thực thi Sắc Lệnh. Ðây là
những tài liệu chính:
- Apostolica
sollicitudo, ngày 15-9-1965, thiết lập Thượng Hội Ðồng Giám Mục
(AAS 1965, trg 775-780; DC 1965, 1663-1668).
De episcoporum
muneribus, ngày 15-6-1966, thêm nhiều quyền hành cho Giám Mục
(AAS 1966, trg 467-472; DC 1966, 1249-1254).
Ecclesiae
sanctae, ngày 6-8-1966, đưa ra nhiều tiêu chuẩn thực tế cho
nhiều vấn đề (AAS 1966 trg 757-787; DC 1966, 1441-1470).
Regimini
Ecclesiae Universae, ngày 15-8-1967, canh tân Giáo Triều Rôma
(AAS 1967, trg 885-928; DC 1967, 1441-1473).
Về Nội Dung
Sắc Lệnh về
Nhiệm Vụ Mục Vụ của các Giám Mục xoay quanh ba chủ đề chính:
I. Dân Chúa
hay đúng hơn, loài người, có tín ngưỡng hay không. Dù bản
văn trực tiếp liên hệ đến Giám Mục, nhưng dân chúng luôn luôn
đứng hàng đầu vì chính họ là điều kiện đời sống và hoạt động của
chủ chăn. Dân chúng được nhìn dưới 3 phương diện.
1) Chung kết
hoạt động mục vụ của Giám Mục và hàng Linh Mục. Giáo phận trước
tiên là một phần dân Thiên Chúa, chứ không phải chỉ là một lãnh
thổ (Số 11 và 22). Con người là đối tượng đối thoại của Giám Mục
về ơn cứu rỗi. Giám Mục được kêu gọi làm việc này (số 13). Con
người có quyền hiểu biết mầu nhiệm Chúa Kitô (số 12), cũng như
những nhu cầu, hoàn cảnh dân sự và xã hội của con người sẽ là
những tiêu chuẩn căn bản vạch định biên giới Giáo Hội (số 23 và
39). Nói tóm lại nếu tìm một tiêu chuẩn thì tiêu chuẩn đó phải
là dân chúng.
2) Ðề tài của
việc giáo huấn. Con người nói chung (MV 3,10-22) hay Kitô hữu
nói riêng (GH 9,32...) tất cả đều mang trong mình một mầu nhiệm
cần được khai sáng. Chính vì thế, các Giám Mục phải dạy cho họ
biết giá trị của con người, của gia đình, của xã hội dân sự (số
12) phải được quí trọng đến mức nào, và phải làm cho giáo dân
hiểu họ có bổn phận cộng tác vào việc tông đồ (số 13, 17, 30).
3) Người tông
đồ bên cạnh Giám Mục và Linh Mục. Sắc Lệnh nhấn mạnh người giáo
dân có quyền và bổn phận cộng tác vào việc tông đồ của Giáo Hội
(số 6, 10, 14, 16, 17, 27, 30).
II. Giám Mục.
Ðây là chủ đề chính trong Sắc Lệnh cùng với chương III của Hiến
Chế Tín Lý về Giáo Hội, Sắc Lệnh này phác họa hình ảnh của vị
Giám Mục ngày nay. Sau đây là vài nét chính:
1) Giám Mục
không còn là ông hoàng đơn độc, tùy thích cai trị vương quốc bé
nhỏ của mình là giáo phận: từ này, danh từ Giám Mục trên phương
diện mục vụ phải hiểu là một đa số. Ngài là thành phần trong
Giám Mục Ðoàn và như thế ngài phải quan tâm đến Giáo Hội phổ
quát (số 3, 4, 6). Ngài là chủ chăn giáo phận nhưng liên kết với
các linh mục của ngài (số 11, 16, 27, 28-30, 34). Ngài là thành
phần của Hội Ðồng Giám Mục Quốc Gia để phát huy di sản thiêng
liêng cho quốc gia (số 38). trong một thời đại được đánh dấu
bằng tinh thần khoa học, kỹ thuật và hiệu năng (MV 5-7), họa
hiếm lắm Giám Mục mới đơn phương hoàn thành sứ mạng một cách
thích hợp (số 37), chính vì thế Sắc Lệnh thiết lập một liên lạc
chặt chẽ giữa mục vụ đối thoại (số 13, 16, 28), mục vụ cộng tác
và mục vụ phối hợp (số 11, 15, 17, 18, 23, 24, 25, 27), mục vụ
hiệp nhất (số 16, 18, 30, 36) và mục vụ công hiệu (số 5, 10, 25,
28, 30, 35, 37, 38, 39, 40, 42).
2) Giám Mục
phải là một nhà truyền giáo. Ðiều này có hai ý nghĩa:
a) Cộng tác vào
việc truyền bá đức tin giữa những dân tộc chưa biết Phúc Âm (số
3-6, 11, 12, 14, 16, 17, 23, 30). Cũng như các Sắc Lệnh khác,
nói chung Sắc Lệnh này quả quyết việc truyền giáo phải được ưu
tiên và cấp bách: hãy chú ý đến tiếng nhất là (số 6),
đặc biệt (số 15), (xem thêm TG 29). Nên chú ý: Sắc Lệnh này
không phân biệt Âu Châu với các Xứ Truyền Giáo. Ngay cả Xứ
Truyền Giáo cũng có bổn phận truyền giáo (x. TG 20).
b) Rao giảng
Phúc Âm cho mọi người, đã tin hay chưa tin, để kêu gọi họ trở về
đức tin hay để phát triển đức tin của họ (số 12, xem thêm số 11,
13, 30). Rao giảng Phúc Âm là bổn phận đầu tiên của Giám Mục (số
6, 12, 13, 17, 30; xem GH 20, 21, 23, 24; MK 132, 139; MV 32,
43; TG 1, 5, 20, 29, 38 v.v...); bổn phận này trổi vượt hơn các
bổn phận khác (số 12; x. GH 25; TG 29).
3) Giám Mục
phải là chứng nhân của Chúa Kitô. Chứng tích phải là tinh thần
làm sống động mọi hoạt động của Giám Mục (số 11, 15, x. GH 21).
III. Công
việc Tông Ðồ. Phương diện mục vụ là nét đặc thù của Sắc
Lệnh. Ðây là vài nét chính:
1) Việc tông đồ
phải đặt trọng tâm nơi Chúa Kitô. Nhiệm vụ của Giáo Hội là mạc
khải Chúa Kitô cho thế giới, chứ không phải mạc khải thế giới
cho thế giới. Vì Chúa Kitô là vị cứu tinh duy nhất, là trung
tâm, là cứu cánh của lịch sử (MV 10, 22, 45; GH 7, 9; TG 8...),
Giáo Hội là "dấu chỉ và bí tích cứu rỗi" GH 1, 9, 48; TG 1,
5...), nên Giám Mục và các linh mục của ngài phải rao giảng toàn
thể mầu nhiệm Chúa Kitô (số 12; TG 13). Các ngài phải là những
chứng nhân của Chúa Kitô (số 11, 15) hướng dẫn giáo dân hiểu
biết đầy đủ mầu nhiệm cứu rỗi (số 30), mầu nhiệm phục sinh (số
15; xem thêm MV 22).
2) Thích nghi
với nhu cầu thời đại. Giáo Hội ngày nay là cho con người ngày
nay. Giáo Hội có nhiệm vụ giải đáp thỏa đáng cho mỗi thế hệ
những câu hỏi căn bản của con người (MV 4). Chính vì thế Giáo
Triều Rôma (số 9), đời sống của Giám Mục (số 16), những công
việc tông đồ (số 17), những ranh giới giáo phận (số 23), giáo
phủ (số 27) v.v... phải thích ứng với những nhu cầu và hoàn cảnh
không những trên lãnh vực thiêng liêng, mà ngay cả ở lãnh vực xã
hội và kinh tế của con người ngày nay. Ðiều này càng đúng cho
việc giảng dạy (số 13, 14).
3) Phải sử dụng
những phương tiện khoa học, kỹ thuật của thế giới ngày nay để
làm việc tông đồ. Những phương tiện phổ thông (số 13), khoa tâm
lý, sư phạm (số 14; xem thêm ÐT 2, 3, 5, 11, 20), phương pháp
kiểm kê xã hội và tôn giáo (số 16, 17; xem thêm MV 62). Giáo dân
hiện diện trong Giáo Triều Rôma và giáo phủ là hai sự kiện minh
chứng khả năng hiểu biết của họ (số 10 và 27).
còn tiếp nhiều kỳ |
VỀ MỤC LỤC |
|
THẦN KHÍ CỦA ĐỨC CHÚA
NGỰ TRÊN TÔI... |
-
Điểm nhắm: Nếu Đức Giêsu là hiện thân của tình yêu Thiên
Chúa, thì đó là tình yêu vừa phổ quát, vừa thiên vị: Ngài ưu
tiên yêu thương những người nghèo, những người bất hạnh, những
người tội lỗi, bị loại trừ, bị áp bức... Nhìn Đức Giêsu trong sứ
vụ công khai của Ngài, ta thấy Ngài là một nhà chữa trị, nhà
giải phóng.
1. Hôm nay, những lời ấy của ngôn
sứ Isaia được ứng nghiệm
Sau 30 năm sống ở Nadarét, Đức
Giêsu lên đường rao giảng một sứ điệp mà Ngài gọi là Tin Mừng. Ở
hội đường Nadarét, Ngài cầm cuộn Kinh Thánh người ta trao cho và
đọc lớn tiếng: “Thần khí của Đức Chúa ngự trên tôi vì Chúa đã
xức dầu tấn phong tôi, để tôi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo
hèn. Ngài đã sai tôi đi công bố kẻ bị giam cầm sẽ được giải
phóng, người mù sẽ được thấy, người bị áp bức sẽ được tự do, và
công bố năm hồng ân của Chúa.” (Lc 4,18-19)
Kẻ bị giam cầm sẽ được giải phóng,
người bị áp bức sẽ được tự do! Đấy không phải là nói đến sự
thống trị của La Mã, nhưng là của tôn giáo. Dân chúng phải giữ
hết luật này đến luật khác, xác định từng chi tiết của đời sống
thường nhật. Ngoài những luật lệ đàn áp do người La Mã, còn có
một bộ luật Do Thái cả về dân sự lẫn tôn giáo. Riêng về luật tôn
giáo, không chỉ có 10 Điều Răn. Còn có 631 giới răn và 365 điều
cấm kỵ và hàng trăm lệnh phải tuân giữ. Dân chúng nếu không giữ
nổi hết các luật ấy thì bị các vị lãnh đạo tôn giáo tuyệt thông,
không cho phép đi lại với những người ngay lành khác trong xã
hội. Thánh Phaolô nói rằng lề luật là “gánh nặng mà con người
không mang nổi.”
Và Đức Giêsu, đã trịnh trọng tuyên
bố rằng “Hôm nay ứng nghiệm đoạn Kinh Thánh mà quý vị vừa
nghe.” Khi Đức Giêsu nói về chính mình, Ngài tự mô tả Ngài
là một người được sai đến. Ngài nói rằng Ngài được Cha
sai đến để làm một việc gì đó. Ngài không cung cấp cho các môn
đệ hay bạn hữu của Ngài nhiều thông tin về đời sống bên trong
của Ngài, về tính cách, hay về những yếu tố mà chúng ta vẫn
thường gắn với nhân cách của một con người. Nhân cách của Đức
Giêsu bộc lộ chính là qua sứ mạng mà Ngài đảm nhận, được đồng
hoá với chính sứ mạng ấy. Đối với Đức Giêsu, sứ mạng không chỉ
là một chức năng, một công tác hay một nghề nghiệp; đúng hơn, sứ
mạng bao trùm và thấm nhập toàn thể hiện hữu và sự sống của
Ngài.
Trong các Tin Mừng nhất lãm, Đức
Giêsu không nói nhiều về chính mình – vì thế, những trường hợp
ít ỏi mà Ngài tự bạch thật đáng để ta chú ý: “Nào chúng ta
hãy đi đến những làng khác nữa, để ta cũng sẽ rao giảng Tin Mừng
ở đó. Vì chính để làm công việc này mà ta được sai đến.” (Mc
1,38). Tin Mừng thứ tư, trái lại, hướng sự chú ý của ta vào con
người Đức Giêsu. Và trong bản văn Tin Mừng này, Đức Giêsu nhắc
đến sứ mạng của Ngài không dưới 40 lần. Những động từ “đến”
và “sai đến” xuất hiện trùng trùng. Đây là hai ví dụ: “Các
ông biết tôi xuất thân từ đâu ư? Tôi đâu có tự mình mà đến. Đấng
đã sai tôi là Đấng chân thật. Các ông không biết Ngài. Phần tôi,
tôi biết Ngài, bởi vì tôi từ Ngài mà đến, và chính Ngài đã sai
tôi.” (Ga 7,28-29); “Như Cha đã sai con đến thế gian, thì
con cũng sai họ đến thế gian.” (Ga 17,18).
Về sau này, khi các Tông Đồ và các
tác giả Tân Ước muốn đúc kết toàn bộ câu chuyện cách ngắn gọn,
họ cũng đã không dùng những từ nào khác: “Khi đã đến thời ấn
định, Thiên Chúa sai Con của Ngài đến...” (Gl 4,4); “Tình
yêu của Thiên Chúa đối với chúng ta được biểu lộ như thế này:
Thiên Chúa đã sai Con Một đến thế gian, để nhờ Con Một của Ngài
mà chúng ta được sống.” (1 Ga 4,9).
Rất thường, khi Tân Ước đề cập
chuyên biệt về sứ mạng thì đó là đề cập đến nguồn gốc và hướng
đích của sứ mạng ấy. Nguồn gốc của sứ mạng là Chúa Cha, Đấng sai
Đức Giêsu đến. Và hướng đích của sứ mạng được kể trước hết là
những kẻ nghèo hèn, những kẻ bị giam cầm, những người mù,
những người bị áp bức ... như chính Đức Giêsu xác nhận: “Hôm
nay ứng nghiệm đoạn Kinh Thánh mà quý vị vừa nghe.” (Lc
4,21).
Thật vậy, trong các sách Tin Mừng,
những người dành được sự đặc biệt quan tâm của Đức Giêsu là
những người nghèo, mù loà, què quặt, phung hủi, những người đói
khát, đau khổ, những người tội lỗi, đĩ điếm, thu thuế, những kẻ
bị quỉ ám, những người bị áp bức, bị chà đạp, bị giam cầm, những
người vất vả khó nhọc và gánh nặng, những người ngu dốt không
biết lề luật, những đám đông vô danh, những người bé mọn, thấp
hèn, những con chiên lạc khốn khổ của nhà It-ra-en. Những con
người ấy, không thể lẫn với những người khác, được Đức Giêsu gọi
chung là những người nghèo hay những người bé mọn – còn những
người Pharisêu thì gọi những người đó là những kẻ tội lỗi. Cha
Noland nói rằng người ta có thể hiểu Napoleon mà không cần hiểu
đám đông khốn khổ trong thời của ông, nhưng chắc chắn sẽ không
thể hiểu Đức Giêsu nếu không đặt Ngài trong bối cảnh những người
khốn khổ vào thời của Ngài.
2. Đức Giêsu có thánh thiện
không?
Một câu hỏi đặc biệt giúp rọi ánh
sáng trên sứ mạng của Đức Giêsu, đó là: Đức Giêsu có thánh thiện
không? Cứ theo sự trình bày của các sách Tin Mừng thì câu trả
lời là Có và Không. Ngài không thánh thiện theo
quan niệm thông thường của người đương thời về sự thánh thiện.
Sự bỡ ngỡ của những người đồng hương của Ngài là bằng chứng cho
điều này: “Anh ấy học những điều đó ở đâu? Anh ấy không phải
là con bác thợ mộc, lớn lên giữa chúng ta đây sao?” Đó là
một câu hỏi rất chính đáng. Thật ngỡ ngàng đối với những người
cùng lớn lên với Giêsu và quen biết Ngài trong nhiều năm nhưng
chưa từng thấy gì thánh thiện nơi Ngài. Bạn hãy tự hỏi mình “làm
sao Đức Giêsu sống nơi làng mạc đó lâu năm mà không lộ bản tính
của mình?” Rồi một câu hỏi nữa được đặt ra: “Làm sao Con Thiên
Chúa, hiện thân của Thượng Đế Giao Ước, sống nơi làng mạc đó bao
năm mà dân chúng không thắc mắc, đừng nói chi đến thiên tính của
Ngài?”
Thời ấy, thánh thiện có nghĩa là
tỉ mỉ tuân giữ lề luật – trung thành với truyền thống và phong
tục được xem là biểu thị đời sống đạo đức của Do Thái. Hình như
Đức Giêsu không nghĩ vậy. Hình như Ngài có một ý niệm khác hẳn
về sự thánh thiện. Hình như, thậm chí, thánh thiện theo quan
niệm của Ngài thì chẳng thánh thiện gì theo quan niệm của
người Do Thái thời ấy và có thể cả của chúng ta hôm nay.
Những người quen biết Đức Giêsu
chỉ thấy Ngài là người thường như mọi người. Ngài không làm ra
vẻ thánh thiện. Hơi lạ là không nơi nào trong các sách Phúc Âm
nói rằng Ngài đạo đức, nhưng lại thường nói Ngài đi đó đây
làm việc thiện. Dường như đối với Đức Giêsu thì thánh thiện
thật là sống hoàn toàn như một con người, một con người được
Thiên Chúa dựng nên theo hình ảnh Thiên Chúa, thế thôi!
Dân chúng thấy gì nơi Đức Giêsu?
Đây là điều quan trọng, bởi vì Đức Giêsu sống cách nào thì đó
cũng là điều chúng ta phải noi theo. Ngài là “đường, sự thật,
và sự sống” của chúng ta mà! Xem ra Đức Giêsu sống cách bình
thường như mọi người trong làng. Ngài yêu mến mọi loài, từ Thiên
Chúa đến loài bé nhỏ nhất, như đọc thấy trong các sách Phúc Âm.
Ngài vừa đơn sơ vừa khôn khéo, điều mà Ngài khuyên các môn đệ
trong một dịp nào đó. Ngài rất thông minh, cẩn mật, thận trọng,
nhìn xa, hiền lành và nhân hậu, can đảm và không sợ tự vệ khi bị
tấn công, như Ngài thường làm khi đương đầu với các kinh sư và
nhóm Pharisêu. Ngài rất dễ mến và lịch thiệp, không hay nổi
giận, không làm ra vẻ ‘ta đây’, nhưng thành thực, khiêm tốn và
cảm thông mọi người. Chắc chắn Đức Giêsu cũng rất tinh tế hài
hước – điều này chỉ thấy được khi chúng ta hiểu những ẩn ý trong
các sách Phúc Âm. Nói tắt, dân chúng thấy nơi Đức Giêsu một con
người rất quân bình, sống thật là người và rất dễ gần. Đó là
thánh thiện theo như Đức Giêsu nghĩ.
Đức Giêsu đã sống hoàn toàn như
một con người. Và đó là một con người không lãnh đạm, không an
phận, không hài lòng với cái ‘status quo’ của thế giới mà mình
đang sống. Con người đó đã đương đầu với các cơ cấu tội lỗi nơi
xã hội Do Thái và nơi nhân loại nói chung. Được sai đến với thế
giới có nghĩa là được sai đến để đương đầu với các cơ cấu tội
lỗi làm nô lệ hoá con người. Sự thánh thiện của Đức Giêsu có
liên hệ mật thiết với cuộc đương đầu của Ngài đối với các cơ cấu
tội lỗi này.
3. Đức Giêsu rất có thể đã nói gì
với Cha?
Cha Girzone đã dệt nên lời tâm sự
sau đây của Đức Giêsu với Chúa Cha. Tâm sự khá dài, có lẽ vào
một đêm nào đó Ngài thức trắng:
Lạy Cha, con rất vui mừng được
ở với Cha đêm nay. Con có rất nhiều chuyện để thưa. Khi con bắt
đầu sứ mạng của con, dân chúng tuốn đến với con. Họ rất cảm phục
thấy con chữa bệnh và an ủi họ. Họ rất cảm xúc nghe lời con nói.
Con nhìn họ và thấy nước mắt trên mắt họ, nhất là khi con nói về
Cha. Họ rất ngạc nhiên khi con bảo họ Cha rất hiền lành và nhân
hậu và thông cảm sự yếu đuối của họ và gánh nặng mà họ phải
gánh. Dân chúng đến mỗi ngày mỗi đông. Nhưng gần đây, hình như
có thay đổi. Khi con nói, con thấy mặt họ ngơ ngác như không
muốn tin. Khi con nói về Nước Trời, họ nghĩ đó là vương quốc của
Đavít và các trận chiến với các đoàn binh La Mã. Con biết họ
muốn con làm vị cứu tinh và một ngày kia con sẽ đứng lên dẫn họ
đi chiến đấu. Giờ đây họ thấy con không thích những ước vọng
trần thế của họ, và những phồn vinh vật chất của họ trong ngàn
năm qua. Khi con nói phải tích trữ kho tàng trên trời, họ nghĩ
đó là vàng bạc tiền của trong các ngân hàng. Họ nhìn con với cặp
mắt buồn bã. Lạy Cha, ngày kia con chuẩn bị họ chia sẻ đời sống
của chúng ta. Con hoá bánh và cá ra nhiều để họ ăn. Họ thán phục
lắm, thưa Cha. Thực ra họ muốn bắt con làm vua. Giuđa đã làm sẵn
mũ vua. Nhưng con trốn chạy lên núi. Con bảo các môn đệ qua bên
kia hồ, đi xa dân chúng. Con biết rằng Cha biết hết rồi, nhưng
con cũng phải nói lên để Cha thông cảm và để nói với Cha những
điều con đang trải qua. Con phải nói lên vì con là con người và
con cần phải chia sẻ với người mà con yêu.
Ngày hôm sau khi gặp đám dân ấy
trên bờ bên kia, con thách thức họ hãy nhìn thẳng vào bản thân
mình. Con hứa sẽ hiến thân cho họ để làm thức ăn cho tâm hồn họ.
Khi con nói sẽ hiến thân con làm thức ăn, họ nhìn con rất ngạc
nhiên, không tin điều con nói. Khi họ hỏi lại, con quả quyết
điều con nói là đúng. “Nếu các anh chị không ăn thịt tôi và uống
máu tôi, các anh chị không có sự sống.” Họ lẩm bẩm với nhau:
“Khó tin quá, ai mà tin được?” Rồi họ bỏ đi. Giuđa cũng không
tin. Con thấy ma quỉ nhập vào nó. Nó vỡ mộng.
Lạy Cha, gần đây con cũng để ý
thấy những người Sađuxê và người Hêrốt nhập bọn với nhóm
Pharisêu. Họ là những kẻ thù không đội trời chung với nhau.Bây
giờ họ lại thân nhau. Con biết họ đang âm mưu giết con. Con thấy
như vậy. Con sợ lắm, thưa Cha. Con biết không nên sợ, nhưng con
đã bỏ đi thiên tính của con và giờ đây con rất yếu đuối. Con
thật sự sợ hãi. Con biết rồi sẽ kết cục ra sao. Dân chúng cũng
đến thưa dần, vì họ thấy bề trên không hài lòng với con hay với
những gì con nói. Dân chúng sợ các giáo sĩ và các người lãnh đạo
của họ. Họ tránh né con, trừ khi họ mang những người bệnh, những
người tàn tật và sắp chết đến để con chữa. Lạy Cha, con chữa cho
họ mặc dầu con biết nhiều người trong họ không dám dấn thân với
con vì sợ các giáo sĩ trừng phạt.
Lạy Cha, khi con khởi sự sứ
mạng, con có rất nhiều ước mơ, có rất nhiều việc con muốn làm
cho Cha. Con nghĩ là con hiểu được bản tính nhân loại và có thể
chinh phục dân chúng trở về với Cha. Nhưng con không làm được.
Không dễ dàng tí nào. Họ không hết lòng nghe con. Đối với họ,
con là người thiếu thực tế quá. Họ muốn có một quốc gia trần
thế; nhưng con chỉ có đem đến cho họ chân lý và thiện mỹ của Cha
và hứa với họ rằng một ngày kia họ sẽ mãi mãi sống với Cha trong
nhà Cha. Con nghĩ rằng con có thể đem họ trở về với Cha, và
giành lại toàn thế giới khỏi tay Satan mà dâng cho Cha. Nhưng
bây giờ con biết con không làm được. Con nghĩ rằng con thất bại.
Con chưa bao giờ thất bại. Giờ đây con hiểu được thế nào là đau
khổ khi con người thất bại, khi họ thất bại trong hôn nhân, thất
bại trong việc lo cho gia đình, và thất bại trong việc bảo vệ
con cái của họ. Con thông cảm những tâm trạng ê chề của họ. Con
biết con không hẳn thất bại về những việc con đã định thi hành
khi đến đây, đó là cứu rỗi thế gian bằng đau khổ và cái chết của
con – nhưng còn nhiều việc con muốn thực hiện cho Cha. Giờ đây
con thấy những việc này quá sức con. Con không thể làm mất tự do
của con người và ép họ phải theo mệnh lệnh của con. Có lẽ với
thời gian họ sẽ hiểu, nhưng phải lâu sau khi con ra đi. Con ước
chi có thể làm nhiều cho Cha. Con không thể dập tắt những cảm
nghĩ không tốt đẹp đó. Con sợ hãi quá. Xin Cha ở với con.
Con biết Cha luôn luôn ở bên
con. Đôi khi con không cảm thấy điều đó. Con thấy rõ ràng những
gì sẽ xảy ra ở Giêrusalem. Con thấy chúng đến lẹ quá. Con biết
Cha luôn ở bên con và nhờ đó con cảm thấy mạnh mẽ. Lạy Cha, Cha
là sức mạnh của con. Xin giúp con và ở bên con vì ngày cuối cùng
sắp đến. Con cần Cha hơn bao giờ hết. Xin Cha cũng giúp mẹ con.
Bà sẽ đau khổ khi thấy con đau khổ. Bà thật là tốt đẹp. Cha
không thể cho con một người mẹ tốt lành hơn. Xin Cha cũng nâng
đỡ các môn đệ của con. Họ yếu đuối lắm. Đôi khi họ làm con lo
lắng. Xin giúp họ qua mọi thử thách này. Lạy Cha, xin tha tội
cho Giuđa. Con biết hắn sẽ làm gì. Con biết hắn không đến nỗi tệ
lắm, nhưng vì hắn say mê tiền bạc và cảm thấy mình quan trọng.
Chào Cha. Con xin vâng ý Cha. Con đây, Cha muốn dùng làm gì tuỳ
ý Cha, nhưng xin ở bên con mà nâng đỡ con.
4. Gợi ý suy tư
- cầu nguyện
-Bạn nhìn lại hoàn cảnh của thế
giới hiện nay, và Giáo Hội ở trong đó; bạn nhìn lại hoàn cảnh
của đất nước hiện nay, và Giáo Hội Việt Nam ở trong đó... Bạn
thấy sứ mạng của Chúa Giêsu đang được đảm nhận như thế nào? Nhận
định riêng của bạn về những sự kiện xảy ra ít lâu nay xung quanh
vụ toà khâm sứ cũ và vụ Thái Hà ở Hà Nội? Hiện nay dư luận đang
xôn xao về việc nhà nước Việt Nam khai thác bô-xít ở Tây Nguyên.
Bạn nghĩ gì?
-“Giáo Hội ưu tiên chọn lựa
người nghèo”, “Giáo Hội của người nghèo” – đó là chọn
lựa của Giáo Hội ngày nay, cách riêng ở Châu Mỹ Latinh, Châu Phi
và Á Châu. Sự chọn lựa này đã được hiện thực hoá như thế nào,
theo bạn đánh giá? Sự chọn lựa này đã được thể hiện như thế nào
tại giáo xứ, cộng đoàn của bạn?
-Lời của Đức Cha Dom Helder
Camara: “Khi tôi cung cấp nhà ở cho người nghèo, người ta nói
tôi là một vị thánh. Khi tôi hỏi tại sao họ phải nghèo như thế,
người ta bảo tôi là một tay phản động!” Bạn đoán xem vị giám
mục này mang tâm trạng ra sao khi ngài thốt lên lời ấy? Việc “cung
cấp nhà ở cho người nghèo” và việc “hỏi tại sao họ nghèo”
khác nhau làm sao?
-Bạn có thể kể tên 10 người nghèo
đáng ghi nhận nhất trong vòng những người quen biết của bạn
không? [dĩ nhiên đây là những người nghèo theo nghĩa bao
hàm trong các Sách Tin Mừng].
Lm. Giuse Lê Công
Đức |
VỀ MỤC LỤC |
|
THẦY MARCEL VĂN
Tu sĩ Dòng Chúa Cứu Thế Việt Nam (15/3/1928 – 10/7/1959)
|
Đôi dòng tiểu sử:
Marcel Văn tên thật là Nguyễn Tân Văn.
Sinh ngày 15 tháng 3 năm 1928, tại Ngăm Giáo, thuộc tỉnh Bắc
Ninh. Ngăm Giáo là một làng nhỏ nằm giữa Hà Nội và Hải Phòng,
thuộc vùng châu thổ sông Hồng.
Rửa tội ngày 16 tháng 3 năm 1928.
Tên thánh: Gioakim.
Ngày 22 tháng 6 năm 1944, Văn nhận thư báo được vào dòng của cha
Letourneau.
Ngày 15 tháng 7 rời gia đình.
Ngày 17 tháng 10 năm 1944 gia nhập lớp Dự tu với tên dòng là
Marcel.
Nhận áo dòng ngày 8 tháng 9 năm 1945.
Khấn dòng ngày 8 tháng 9 năm 1946 (cùng ngày khấn với thánh nữ
Têrêsa Hài Đồng Giêsu 8/9/1890).
Ngày 7 tháng 2 năm 1950 vào Saigon,
Tháng 3 năm 1952 lên phục vụ tại Đà Lạt,
Ngày 14 tháng 9 năm 1954, Văn trở về phục vụ tại Nhà Hà Nội
(Hiệp định chia đôi đất nước 11/7/1954),
Ngày 7 tháng 5 năm 1955 Văn bị bắt ngoài đường phố Hà Nội, bị
tra hỏi, bắt giam, tra tấn,… Rời trại giam Hỏa Lò, Văn bị đưa đi
trại giam Mõ chén cách Hà Nội hơn 50 cây số.
Tháng 8 năm 1957, Văn bị đưa đi giam ở Yên Bình, cách Hà Nội 150
cây số về hướng Tây Bắc. Rất nhiều ngày bị đánh đập, giam trong
xà lim, bỏ đói, tra tấn khủng khiếp.
Tháng 6 năm 1959, Văn kiệt sức, bị lao phổi nặng,
Lúc 10 giờ ngày 10 tháng 7 năm 1959, Văn về với Chúa trong an
bình.
Cuộc đời của một con người
Văn là con thứ ba trong một gia đình đạo hạnh, hai người trước
là một trai và một gái. Văn còn có thêm một người em gái, tên là
Anna Tế, nay là nữ tu dòng Nữ Chúa Cứu Thế tại Montreal, Canada.
Ngay từ bé, Văn đã tỏ rõ hai đặc tính, một là biết vận dụng lý
trí một cách cương quyết, hai là có trí nhớ các chi tiết một
cách lạ lùng.
1935 - 1940: Mang ý tưởng dâng mình cho Chúa và được gia đình
ủng hộ (như chúng ta thường thấy trong các gia đình Công giáo
miền Bắc), khi vừa rời tuổi thơ, Văn được gởi đến sống trong một
nhà xứ (Hữu Bằng) với ý hướng học tập La ngữ và các môn học khác
chuẩn bị để vào chủng viện. Nhưng mọi sự đã không xảy ra như
mong muốn. Tình trạng bê bối trong nhiều lãnh vực, cách riêng
trong mối quan hệ nam nữ, buông tuồng trong cách sống chung và
bè phái trong tập thể gây ra tình trạng bất công trong tập thể
những thanh thiếu niên sống trong nhà xứ, cùng với sự thờ ơ và
nhẫn tâm của cha xứ đã đẩy Văn vào ngõ cụt. Văn đã phải chịu
đựng hoàn cảnh này rất lâu, nhiều toan tính nhưng đều không thể
thực hiện được.
1940: Bản tính cương quyết và thẳng thắn đã đánh bật Văn ra khỏi
tập thể nhà xứ. Đúng vào lúc đó, gia đình Văn suy sụp vì làm ăn
thất bại, cha Văn lâm vào nghiện ngập. Theo lề thói bình thường
của một vùng quê toàn tòng, gia đình Văn đã không chấp nhận sự
trở về của Văn. Từ đó, Văn trở thành cậu bé không nhà không cửa,
lang thang đầu đường xó chợ và nếm đủ mọi vị đắng cay cuộc đời.
Đây là giai đoạn bi thảm nhất của Văn trong thời niên thiếu, sau
này, thập giá sẽ còn cắm ngập vào đời Văn một cách sâu đậm hơn
nữa. Tuy nhiên, chúng ta thấy rõ bàn tay Chúa dẫn đưa những ai
đặt lòng trông cậy nơi Chúa, Chúa chẳng bỏ rơi bao giờ. Văn đã
đi qua những khổ đau nhất của cuộc đời, nhưng bàn tay Chúa vẫn
đỡ nâng Văn. Sau này Văn ý thức điều đó hơn ai hết.
1941 – 1942: Được gia đình đón nhận lại trong ý hướng trở lại
nhà xứ Hữu Bằng, một lần nữa, Văn trở về địa ngục trần gian. Lần
này, Văn khôn khéo hơn để có thể đi hết quãng đường niên thiếu.
Hết sức khôn khéo và kiên trì, Văn lần lượt vượt qua sự đố kỵ và
bè phái. Văn khép mình vào một sự chịu đựng liên lỉ để cố gắng
đi đến đích, tránh va chạm và luôn chịu sự thua thiệt. Mãn thời
kỳ niên thiếu, Văn được gia nhập Chủng viện Lạng Sơn. Nhưng chỉ
được 6 tháng, Chủng viện phải đóng cửa vì chiến tranh và vì
thiếu nguồn lương thực tiếp tế. Có những người bạn của Văn thời
đó hiện nay còn sống như cha già Khấn đang nghỉ hưu ở Cali, Hoa
Kỳ. Bóng thập giá không bao giờ khuất trên đường Văn đi.
Trong khoảng thời gian này, Văn làm quen được với chị thánh
Têrêsa Hài Đồng Giêsu, mối tình thân thiết giữa Văn và Têrêsa
rất sâu đậm. Qua nhật ký Văn để lại cho biết, Văn đã từng trò
chuyện thân mật với Têrêsa. Mọi băn khoăn Văn đều tâm sự với chị
và nghe được những lời khuyên bảo khôn ngoan từ chị thánh. Chị
Têrêsa trở thành người linh hướng vững chắc cho Văn, chị trở
thành người chị mến yêu của Văn. Chính chị thánh Têrêsa đã hướng
dẫn Văn trên con đường dâng mình cho Chúa, đặc biệt trong việc
tìm đến với Dòng Chúa Cứu Thế trong ơn gọi trợ sĩ (tu sĩ không
chức linh mục). Khi Văn bày tỏ ý muốn làm người trợ sĩ trong
Dòng, cha bề trên lấy làm ngạc nhiên về một cuộc chọn lựa dứt
khoát không do dự của Văn. Ngài biết đâu Văn đã có vị linh hướng
khôn ngoan tuyệt vời của Thiên Chúa.
1944 – 1954: Văn tìm đến với Dòng Chúa Cứu Thế và dấn thân trong
Dòng Thánh. Lần lượt phục vụ tại Saigon rồi lên Đalat. Sau ngày
đất nước chia đôi, ngược dòng người chạy trốn cộng sản vào Nam,
Văn được bề trên sai trở lại Hà Nội, cùng với Cha Giuse Vũ Ngọc
Bích, thầy Clemente Đạt giữ đền Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp Thái Hà.
Khi trở về Hà Nội để sống trong chế độ Cộng sản, trong nhật ký
Văn để lại, với ý nghĩ riêng, Văn rất ngán ngẩm phải về lại Hà
Nội khi đoàn người lũ lượt bỏ đi. Văn cũng rất ái ngại chế độ
với chủ trương vô thần, nhưng vì đức vâng lời, Văn đã cầu nguyện
và Văn tự nhủ: “Tôi đến Hà Nội để ít nhất có một người
yêu Chúa ở giữa những người cộng sản”.
Đức vâng lời và lòng thánh thiện đã giúp Văn tiếp tục khám phá
ra ơn gọi của mình, nhận biết thánh ý Chúa trong hoàn cảnh riêng
tư của mình. Văn đã biết và can đảm, quảng đại thi hành. Văn
muốn trở thành muối, Văn muốn trở nên men. Văn đã sống tận cùng
thân phận làm muối và men của mình.
Qua nhật ký của Văn, người ta nhận ra Văn đã đến một giai đoạn
vắng bóng chị thánh Têrêsa Hài Đồng Giêsu. Thì ra, khi Văn đã
đạt tới đỉnh cao của sự kết hiệp với Chúa Giêsu, người linh
hướng khôn ngoan tuyệt vời đã âm thầm rút lui. Không còn đọc
được những cuộc trao đổi với Têrêsa nữa mà chỉ còn là những trao
đổi thân tình với Chúa Giêsu. Từ giai đoạn này, Văn đã nói
chuyện với Chúa Giêsu như nói với một người bạn, một người anh,
một người cha dấu yêu của mình, Văn ngoan ngoãn khép mình trong
lời dạy bảo của Chúa, ngọt ngào, êm đềm, nhưng cũng không ít
đắng cay. Chúa vẫn luôn dành thập giá cho người Chúa yêu mến.
Ở Hà Nội, Văn trung thành với những công việc hàng ngày do cha
Bề trên giao phó. Cảnh hỗn loạn và những lời lộng ngôn làm Văn
rất đau khổ, nhưng bây giờ Văn đã học được cách sống thân mật
với Chúa. Văn đã biết chăm bón cho đời mình chờ ngày nở hoa trên
thập giá. Một hôm, Văn có việc phải đi sửa chiếc xe Mobylette,
Văn bị bắt ngay sau một cuộc đối thoại tại chỗ Văn sửa xe. Người
ta nói một điều sai về chế độ ở Saigon, Văn thấy không đúng nên
lên tiếng bảo vệ sự thật. Thái độ thẳng thắn và
trung thực đã đưa Văn vào lao lý.
Trong các trại tù, cho dù vô cùng khổ cực, Văn vẫn một lòng
trung thành với Chúa, trung thực với chính mình và hết lòng yêu
thương Hội Thánh. Các lá thư của Văn gởi ra bằng nhiều cách đã
cho chúng ta nhiều tin tức quí báu. Người ta chỉ muốn Văn nhận
tội làm gián điệp để kết án Văn, nhưng Văn không nhận vì đó là
sai sự thật. Người ta lại muốn Văn nhận làm báo cáo viên cho họ
để theo dõi cha Bề trên, nhưng vẫn Văn cương quyết không nhận.
Người ta còn chiêu dụ Văn gia nhập nhóm “công giáo yêu nước” để
chống lại Giáo Hội, đời nào Văn nhận làm điều đó. Văn đã phải
trả giá rất đắt cho những lập trường của mình.
Cả cuộc đời Văn đã làm chứng cho tình yêu, một tình yêu duy
nhất, trọn vẹn và dâng hiến. Tình yêu duy nhất này chỉ dành cho
Thiên Chúa và Hội Thánh của Người.
Hai ý tưởng từ cuộc đời Văn đáng làm cho chúng ta suy nghĩ :
- Có một người yêu Chúa ở giữa những
người cộng sản.
- Lên tiếng và bảo vệ sự thật.
Viết ngày 4 tháng 5 năm 2009 (năm kỷ niệm 50 năm ngày Văn qua
đời: 10/7/1959).
Lm. Vĩnh Sang, dcctvn |
VỀ MỤC LỤC |
|
ĐỨC MARIA - MẸ CỦA
HÀNG LINH MỤC |
Một
người không thể thiếu trong đời sống linh mục, đó là Đức Mẹ
Maria, Mẹ của Hàng Giáo Sĩ, Mẹ của Hàng Linh Mục.
Mỗi
người trong chúng ta đều mang trong mình những tiêu chuẩn để
chọn lựa người mình yêu thích. Platon, triết gia Hy Lạp cổ
có nói: "Hiểu biết là nhớ lại những gì trong kiếp trước".
Phát biểu này không đúng trên phương diện tri thức, nhưng có
phần sự thật nếu người ta muốn áp dụng trong lãnh vực con
tim. Bởi lẽ tình yêu, thiện cảm bắt đầu bằng một ước mơ.
Điều này có nghĩa là chúng ta thường có trong đầu óc những
tiêu chuẩn, những mẫu người mình yêu chuộng. Những suy tư,
những kiểu cách, những kinh nghiệm, những ước vọng mà ta có
sẵn, giờ đây gặp một người hội đủ những điều mà ta đã có
trước, bỗng nhiên ta thấy thiện cảm với người đó ngay.
Nói
cách khác, người mà tôi ưa thích thường giống cha, giống mẹ
hay giống những ai được tôi coi là tiêu biểu, là lý tưởng,
cũng như nghe một bản nhạc quen thuộc, bao giờ cũng thấy
thích thú hơn là nghe một bản nhạc hoàn toàn xa lạ. Người có
tâm hồn yên tĩnh, thích những bản nhạc êm dịu, người có tâm
hồn náo hoạt thì ưa thích nhạc kích động v.v... Một kiến
trúc sư nào đó vạch sẵn trong con tim chúng ta những sơ đồ,
những mẫu yêu, mẫu ghét, những lý tưởng cần phải đạt...
Thiên
Chúa cũng vậy, Ngài đã có những kiểu mẫu trước khi tạo thành
vũ trụ: nào là hoa, là chim, là cá, muôn loài, muôn vật, là
mùa xuân, là ánh sáng.. Một đóa hoa hồng trở thành đóa hoa
hồng là vì Chúa muốn thế. Nhưng khi tạo dựng con người, Chúa
lại có hai hình ảnh: một hình ảnh cho con người nguyên sơ và
hình ảnh thứ hai là lý tưởng con người cần phải đạt tới. Bản
nhạc đã được chép sẵn nhưng đòi phải có nhạc công giỏi thực
hiện, thì bài nhạc mới đạt được đỉnh cao của nghệ thuật.
Thiên Chúa đã dành cho con người khả năng hiện thực những
ước mơ Ngài đặt để nơi con người. Đi vào con đường Ngài vạch
sẵn, chúng ta đạt đến chân hạnh phúc, đi trệch con đường ấy,
là ôm mối bất hạnh. Đi ngoài chương trình kế hoạch của Thiên
Chúa, quả là bi đát bởi lẽ làm như thế, có khác nào quả
trứng lăn ra khỏi cánh gà mẹ, thiếu hơi nóng của tình Chúa
ấp ủ, trở nên ung thối, không đạt được sự sống và triển nở
xinh tươi. Do đó mà chúng ta phải luôn điều chỉnh cuộc đời,
bằng cách đồ lại đời chúng ta theo những khuôn mẫu Chúa đã
đặt để. Gương mẫu tuyệt vời nhất, là Chúa Kitô, Đấng mà
chúng ta đã nhiều lần suy gẫm để rút ra căn tính của mình.
Nhưng khuôn mẫu ấy đối với chúng ta quá lý tưởng, quá cao
vời, nhiều khi chúng ta cảm thấy chới với. Do đó mà Chúa
Quan Phòng ban cho chúng ta một gương mẫu khác, gần gũi
chúng ta hơn, đó là Mẹ Maria. Nơi Mẹ, Thiên Chúa rất hài
lòng vì Ngài đã gặp thấy mọi tiêu chuẩn Ngài đề ra. Đức Mẹ
là tình yêu đệ nhất, tình yêu cao đẹp nồng thắm hơn hết mọi
tình yêu ở trần gian này.
Chúng
ta đều biết Mẹ Maria là Mẹ của nhân loại, Mẹ của Giáo Hội và
là Mẹ của mọi người chúng ta. Đặc biệt từ khi Chúa trối
Thánh Gioan cho Đức Mẹ, Mẹ đã trở nên, theo một ý nghĩa đặc
thù, là Mẹ của hàng giáo sĩ, Mẹ của các linh mục, những Kitô
thứ hai.
Đề
cập đến nghĩa vụ và quyền lợi của hàng giáo sĩ, Giáo luật
điều thứ 276 triệt 2, nố 5 có dạy: giáo sĩ phải sùng kính
Đức Trinh Nữ Maria, Mẹ Thiên Chúa.
Những
người con hiếu thảo thường ra sức bắt chước mẹ mình trong
mọi việc, nhất là luôn nghe lời mẹ chỉ dạy. Thánh Luy
Montfort, vị thánh tôn sùng Đức Mẹ cách đặc biệt, đã cho
chúng ta một suy tư thấu đáo và ngộ nghĩnh khi chú giải đoạn
27 sách Khởi Nguyên. Bài suy tư này phỏng theo sách nhan đề:
"Luận về sự sùng kính chân thật Đức Trinh Nữ Maria", chương
VI tựa đề "Rebecca và Giacob, nhân vật điển hình của đời
sống tận hiến trong Kinh Thánh".
Khi
Esau bán quyền trưởng nam cho em là Giacob, bà Rebecca, mẹ
của Giacob, rất yêu quý người con này, nên đã lo liệu cho
Giacob được hưởng quyền lợi của người con cả do một kế hoạch
tuyệt hảo và bí nhiệm. Số là sau đó mấy năm, Ysaac thấy mình
đã già, nên muốn chúc lành cho các con trước khi nhắm mắt.
Ysaac gọi Esau, người con yêu của ông và bảo: "Con đi săn về
dọn cho Cha một bữa ăn, để dịp này cha chúc phúc cho”. Bà
Rebecca vội báo tin cho Giacob hay sự việc, rồi bảo Giacob
bắt hai con dê tơ trong chuồng, cấp tốc, bà nấu dọn cho
chồng món ăn mà ông ưa thích. Bà lấy áo con cả ướp thuốc
thơm và mặc cho Giacob, lấy da dê quấn cổ, quấn tay con để
cho Ysaac mù lòa, nếu có nghi ngờ về giọng nói, ông sẽ yên
lòng khi sờ tay và cổ Giacob đầy lông và cho đó là Esau.
Đúng vậy, khi nghe giọng nói, ông nghi là Giacob, liền kêu
lại gần, ông sờ tay đầy lông, ông nói ngay: "Giọng nói thì
của Giacob, mà tay là tay Esau". Ăn xong, ông cuối xuống hôn
con, ông lại nghe áo con nực mùi hương thơm, ông không ngần
ngại chúc phúc: cho sương trời đổ trên đồng phì nhiêu, đặt
Giacob làm chủ tài sản ông để lại và chúc phúc như sau: "Ai
chúc dữ con, người đó sẽ bị chúc dữ; ai chúc lành cho con,
người đó sẽ được dồi dào ân phúc".
Ysaac
vừa dứt lời, thì Esau bước vào, bưng món thịt rừng đã săn
được, mời cha ăn và xin chúc phúc. Ysaac quá ngỡ ngàng, biết
ngay việc gì đã xảy ra; nhưng lạ thay, ông không rút lời,
trái lại, ông còn xác nhận việc chúc phúc vừa qua, vì thấy
rõ có bàn tay phép tắc của Chúa can thiệp vào. Kinh Thánh
thuật lại Esau tru trếu man dại, tố cáo Giacob là lường gạt
và nài nỉ xin Cha mình một phép lành thừa. Động lòng trắc
ẩn, Ysaac chúc cho Esau được phúc ở đời này, nhưng phải lụy
phục Giacob. Thế là Esau căm thù Giacob và ta biết Giacob
thoát chết là nhờ nghe và thi hành lời khuyên khôn ngoan của
mẹ.
Các
giáo phụ và các nhà chuyên môn Kinh Thánh đã đồng ý cho rằng
Giacob tiêu biểu cho Chúa Giêsu và các linh mục, những người
tận hiến, còn Esau tượng trưng cho kẻ dữ. Esau có thân hình
lực sĩ, có biệt tài bắn cung, săn được nhiều thú rừng, sống
phiêu lưu, ít về nhà, ỷ lại tài sức của mình, không bao giờ
giúp việc nhà, không cần biết đến mẹ là bà Rebecca, không
bao giờ để ý làm vui lòng mẹ già. Tham ăn đến nỗi đổi quyền
trưởng nam lấy dĩa cháo đậu.
Đây
đúng là những hành vi của kẻ dữ: họ tin tưởng nơi sức lực
của mình, cậy tài khôn tài khéo, rất sáng suốt trong chuyện
đời, nhưng lại yếu đuối và mù mờ trong việc đạo đức. Do đó
họ ít ở nhà, không chịu đi vào nội tâm, không ẩn mình nơi
cung thẳm của lòng mình, của linh hồn mình, không chịu noi
gương Chúa Giêsu, Đấng luôn ở trong Thiên Chúa Cha. Kẻ dữ
không thích đời nội tâm, mà lại làm náo động nội tâm người
khác. Họ cho những người sống âm thầm đạo đức là những kẻ có
đầu óc hẹp hòi, kém xã giao, ngớ nghếch. Kẻ dữ không nghĩ
đến việc tôn sùng Mẹ Maria. Họ tự hào là mình giao thiệp
trực tiếp với Thiên Chúa, coi việc sùng kính Đức Mẹ như việc
đàn bà trẻ con.
Trái
lại Giacob, người sinh sau, thân hình mảnh mai, hiền lành,
ôn hòa, luôn ở nhà hầu hạ mẹ. Có ra khỏi nhà cũng là do lệnh
mẹ, không ỷ tài khôn khéo, luôn vâng lời mẹ, hoàn toàn tin
yêu phó thác vào kế hoạch của mẹ.
Người
lành, những ngời con yêu của Mẹ Maria, các linh mục cũng xử
sự như thế đối với Mẹ Maria: thích ở nhà, ưa tĩnh tâm, ưa
sống đời sống nội tâm, chuyên chăm cầu nguyện. Chúng ta biết
hầu hết các linh mục sa ngã đều khởi sự từ việc bơ thờ trong
đời sống nội tâm, dần dần thấy lạt lẽo trong lời cầu và sau
đó là lăn xuống triền dốc.
Hãy
so chiếu đời mình với đời Mẹ. Ở Nazareth hay ở Cana, Mẹ vẫn
luôn gắn bó với Chúa và luôn cầu nguyện, luôn tham khảo ý
kiến Chúa Giêsu. Những linh mục chân chính không ham quyền
chức, địa vị, không tìm kiếm vinh quang bên ngoài, mà chỉ
thích sống đời ẩn dật như chính Mẹ Maria, như chính Chúa
Giêsu lúc còn ở Nazareth, phục tùng Mẹ Maria và thánh cả
Giuse.
Trên
đây là một vài nét chú giải của Thánh Luy Montfort giúp
chúng ta so chiếu đời chúng ta với Giacob. Đa số chúng ta là
những người cao tuổi, không còn được tình mẹ trần gian ấp ủ.
Đáng lẽ chúng ta là những người bất hạnh, nhưng chúng ta có
một người mẹ trên trời là Đức Maria. Để hiểu được sự quý báu
của người Mẹ ấy, chúng ta có thể đi từ những tình mẹ thông
thường để rồi kết thúc nơi tình mẫu tử thiêng liêng và nồng
thắm của Mẹ Maria.
Tục
ngữ Việt Nam chúng ta có câu: "Mồ côi cha ăn cơm với cá, mồ
côi mẹ lót lá mà nằm". Ai trong chúng ta lại không xót xa
khi thấy một em bé mồ côi mẹ? Mất mẹ là mất một kho tàng quý
báu nhất trên đời. Biết bao lời ca tụng mẹ trong văn chương,
trong văn nghệ, trong đời sống thường nhật, trong trái tim
của mỗi người con hiếu thảo. Người ta còn bảo nhiều người
trước khi tắt thở lìa cõi đời này, đã ứa nước mắt kêu lên
tiếng "mẹ ơi".
Tình
mẹ không thể nào thiếu vắng trong đời người, bởi vì nó bao
la như biển Thái Bình, nghĩa mẹ lai láng như nước trong
nguồn chảy ra. Mẹ chẳng những cần cho sự hiện hữu và sinh
tồn của cuộc đời, như sữa, như đường, như cơm, như bánh, mà
còn như những món ăn đặc sản, mang lại hương vị mặn mà thơm
ngon cho cuộc sống, như chuối, như mật, như gia vị...
Nếu
là một điều tối cần thì tình mẹ phải được lý tưởng hóa để
muôn đời con người chiêm ngưỡng, bắt chước và tri ân. Trong
Phật giáo tình mẹ được kết tụ nơi Quan Thế Âm Bồ Tát. Tinh
thần ấy cũng ảnh hưởng rất nhiều nơi các bà mẹ Á Đông.
Lúc
xảy ra chiến tranh Trung - Nhật, một số người Triều Tiên
tham gia kháng chiến, có một trường hợp đáng thương. Người
mẹ Triều Tiên có một đứa con bị thương nặng tại chiến
trường: tai điếc, mắt mù, miệng liên tục kêu gào, xin cho
gặp được mẹ trước khi chết. Đường từ nhà anh thương binh
sang chiến trường phải đi mất tám ngày mới tới. Trong những
ngày đầu, bất cứ người nữ y tá nào đến gần anh cũng tưởng là
mẹ mình, nên chụp lấy, nhưng lúc nào cũng bị tháo gỡ, chối
từ. Nên cuối cùng, anh đã nản lòng. Những ngày sau, anh
không còn tin mẹ mình có thể đến được nữa, nên đã gào thét
thảm thiết và đành sống trong tuyệt vọng, chờ đón tử thần.
Sau cùng, bà mẹ đã đến, bà vội ôm con vào lòng, nhưng người
thương binh cứ tưởng là cô y tá nào đó, nên đã hất tung mẹ
anh ra. Trước cảnh thương tâm đó, mọi người đều nghẹn ngào,
mọi phương tiện đều đi đến bế tắt, vì anh vừa điếc lại vừa
đui, làm sau nghe được lời phân giải, làm sao thấy được
ngươi mẹ bằng xương bằng thịt đứng trước mặt anh. Nhưng tình
mẹ đã phát minh một phương cách diệu kỳ. Không xấu hổ, ngại
ngùng trước một tập đoàn đông đảo bác sĩ, y tá, bà vạch áo,
đặt vú mình vào miệng anh. Người con trai yêu của bà lúc này
đã hiểu, chỉ có bà mẹ mới can đảm làm như vậy, và anh thương
binh đã ôm chồm lấy mẹ, mặt mày rạng rỡ, tràn đầy niềm vui
pha lẫn hy vọng trước thương tích hầu như vô phương cứu
chữa. Bà mẹ Triều Tiên này quả đã phát minh phương thức cứu
sống con trai bà.
Chúng
ta cũng có một người mẹ tuyệt vời, không thể thiếu được và
vẫn luôn đồng hành với chúng ta, đó là Đức Mẹ Maria. Đây
không phải là bà mẹ trong các tiểu thuyết hay trong các kịch
bản, mà là một bà mẹ trong lịch sử, trong cuộc đời, bà mẹ
đầy đau khổ đã ngậm nuốt muôn nghìn đắng cay, đặc biệt trên
đồi Canvê, dưới chân thập giá, chứng kiến cái chết tủi nhục
của người Con duy nhất của mình.
Thánh
Gioan trong Phúc Âm thứ tư, đoạn 19 từ câu 25 đến hết câu
27, có thuật lại: "Thấy thân mẫu và tông đồ mình thương đứng
bên cạnh, Chúa Giêsu nói với Mẹ Người "Thưa bà này là con
bà" và nói với môn đệ "Đây là mẹ con".
Cứ
thường tình thì việc một người sắp đi xa, trối người mình
thương mến cho người khác là phải lẽ. Trường hợp ở đây, ai
cũng hiểu là Đức Maria không còn người con nào ngoài Chúa
Giêsu, nên sau cái chết của Chúa, Mẹ sẽ không có ai phụng
dưỡng và do đó mà Chúa trối Mẹ lại cho người tông đồ Chúa
yêu là Gioan. Nhưng có điều lạ là tại sao Chúa không trối
Đức Mẹ lại cho người họ hàng, mà lại trối cho người dưng;
hơn nữa thứ tự trối trăn lại đảo lộn: trối thánh Gioan trước
cho Đức Mẹ, rồi mới trối Đức Mẹ lại cho thánh Gioan; lại còn
dùng từ ngữ trịnh trọng: "Thưa bà". Ngần ấy yếu tố đã đủ để
cho các nhà Kinh Thánh và thần học chú giải cách khác với
quan niệm thông thường và cổ điển.
Từ
thế kỷ thứ XII, và nhất là thế kỷ thứ XV, các nhà Kinh Thánh
và thần học thấy rằng khi nói: "Thưa Bà, này là con bà",
Chúa Giêsu đã chính thức đặt Đức Maria làm Mẹ thiêng liêng
cho toàn thể nhân loại; đặc biệt qua Gioan, Mẹ làm mẹ của
hàng giáo sĩ. Quả thật, người môn đệ đứng bên cạnh mẹ không
phải chỉ là Gioan, mà là người đại diện cho toàn thể nhân
loại, đại diện cho các linh mục, mà Chúa Giêsu đã muốn phó
thác vào cánh tay hiền mẫu của Mẹ.
Nếu
muốn gởi gắm Mẹ mình cho Gioan, việc gì Chúa phải nói: "Thưa
Bà, này là con Bà?". Chúa chỉ cần nói: "Gioan, đây là Mẹ
con" và nói với Đức Mẹ: "Thôi Mẹ ở lại, có Gioan lo".
Ở
đây, Chúa lại dùng thành ngữ "Thưa Bà" làm ta nhớ lại bữa
tiệc cưới Cana, hôm đó, Chúa cũng nói với Đức Mẹ: "Thưa Bà,
giờ tôi chưa đến". Đức Mẹ xin Chúa làm phép lạ, tức là hối
thúc Chúa sớm tỏ mình ra, sớm sống đời công khai và sớm hoàn
thành công trình cứu chuộc nhân loại, nên Chúa mới trịnh
trọng thưa Bà; giờ đó đã điểm trên Đồi Canvê, và một lần
nữa, Chúa lại nói: "Thưa Bà". Lần này, Chúa giao nhân loại,
giao tất cả chúng ta cho Đức Mẹ, để từ đây, Đức Mẹ chính
thức là mẹ chúng ta, mẹ của nhân loại, trong cuộc chiến
chống lại rắn dữ và ma quỷ, điều Thiên Chúa đã tiên báo
trong Tiền Phúc Âm Sách Khởi Nguyên đoạn 3 câu 15: "Ta sẽ
đặt người đàn bà đối chọi với ngươi. Dòng dõi Người sẽ đạp
đầu ngươi và ngươi sẽ rình cắn gót chân Dòng dõi ấy”. Dòng
dõi này, trước tiên là Chúa Giêsu, sau là nhân loại, mà Mẹ
là người mẹ toàn năng trong lời cầu, là Đấng Đồng Công cứu
chuộc, là trung gian các ơn...
Quả
thật như xưa Adam và Evà dưới cây trái cấm đã lỗi phạm, đưa
nhân loại vào cảnh điêu linh, Evà đã trở thành mẹ kẻ chết,
thì nay Adam mới bị treo trên cây trường sinh là cây thập
giá, và Mẹ Maria là Evà mới, mẹ của những người sống, mẹ của
nhân loại, mẹ của chúng ta.
Nhưng
chúng ta đừng tưởng rằng chỉ đến giây phút quyết liệt trong
đời Chúa, Đức Mẹ mới trở thành Mẹ nhân loại. Không, Mẹ đã
thụ thai nhân loại ngay từ lúc nói tiếng "xin vâng" ở
Nazareth, khi sứ thần truyền tin, bởi lẽ Đức Mẹ bằng lòng
mang nhân tính đến cho Chúa Giêsu và suốt những năm dài tại
thế, Mẹ đã cưu mang nhân loại trong khổ đau, từ biến cố
Bêlem đến Núi Sọ,và giờ đây trên đồi Canvê, Mẹ chính thức
được truy nhận.
Mọi
tình mẫu tử kỳ diệu trên trần gian này đều cô đọng nơi Đức
Maria. Trong biến cố truyền tin, Mẹ đã nói lên tiếng xin
vâng với lòng tin yêu phó thác, mặc dầu Mẹ rất thiết tha với
Đức Trinh Khiết. Trong cuộc sống âm thầm ở Nazareth, Mẹ đã
hy sinh rất nhiều để nuôi dưỡng Chúa Giêsu, nguyên nhân cứu
rỗi đời đời cho nhân loại. Ngày cuối cùng của đời Chúa, Mẹ
đã can đảm dâng con trọn vẹn vì nhân loại. Là Đấng Đồng Công
Cứu Chuộc, Mẹ đã là Mẹ chúng ta khi sinh chúng ta ra trong
đau khổ của Mẹ, để ban cho chúng ta đời sống ân sủng, và
ngày nay, Mẹ vẫn tiếp tục nuôi dưỡng chúng ta bằng những ơn
Mẹ đã lãnh được qua trung gian của Mẹ.
Trong
khi suy gẫm về tình mẹ của Mẹ Maria, chúng ta phải tự hỏi
mình đã làm gì để tỏ ra là những người con hiếu thảo của Mẹ.
Hãy noi gương các nhân đức của Mẹ, hãy bắt chước Mẹ cách
trung thành và hãy làm chứng cho mọi người thấy tình ân mẫu
của Người.
Để
kết thúc bài suy niệm này, tôi xin kể ra đây một câu chuyện
đơn sơ nhưng nhiều ý nghĩa.
Một
chú bé nghèo khổ, quần áo tả tơi, không biết chữ o tròn hay
méo, lê đôi chân gầy đi đến một khu phố nghèo nàn ở Paris,
thủ đô nước Pháp. Chú ấy tên la Gioan, 6 tuổi, đi tìm một
ông lão tên là Bouin, cũng nghèo, sống bằng nghề viết thư
mướn. Chú bé vào nhà, lễ phép cúi chào cụ già, chú làm gọn,
vì cả chiếc mũ đội đầu chú cũng không có. Ông già hỏi chú:
"Cháu muốn gì?" Chú lễ phép thưa: "Cháu muốn viết một lá
thư". Ông già bảo chú trả 10 xu. Chú bé ngập ngừng rồi thưa:
"Xin lỗi cụ, cháu không có tiền". Nói xong chú thất thểu ra
đi. Ông già ngó theo thương hại, kêu ngược lại: "Ê bé, mày
không có 10 xu sao? Mày con ai?" Chú từ tốn đáp: "Dạ cháu là
con của mẹ cháu". Ông già nói: "Vậy là ta hiểu rồi, cháu
không có 10 xu, mẹ cháu cũng không có, vậy thì viết thư để
xin chút cháo phải không?" Chú bé khẽ gật đầu. Ông già nói
tiếp: "Được rồi, vào đây ông viết hộ cho". Ông Bouin thầm
nghĩ, hy sinh chút mực, nửa tờ giấy thì cũng chẳng làm mình
nghèo thêm đâu. Ông lấy giấy ra, cầm bút, chấm mực, viết chữ
thật đẹp: “Paris, ngày tháng năm... Kính thưa ông...”, ông
đọc lại cho chú bé nghe và bảo muốn viết gì thì nói để ông
viết tiếp. Chú bé ấp úng: "Dạ không phải ông". Ông lão gạn
hỏi: "Không phải ông, thì bà?" Chú bé thưa: "Dạ Bà, mà cũng
không phải". Ông Bouin thấy bực mình, ông bắt đầu cáu gắt:
"Đã không biết ai để gởi, mà lại còn đòi viết thư". Chú bé
lấy hết can đãm thưa: "Cháu muốn viết thư cho Đức Mẹ Maria".
Không cười nữa, ông già nghiêm nghị nói: "Ta không cho là
mày muốn chế nhạo lão già này, hãy ra khỏi cửa, xéo đi gấp".
Chú bé ngoan ngoãn bước ra khỏi cửa, đôi chân đầy bụi và
rướm máu. Thấy chú bé quá hiền, ông già động lòng trắc ẩn
gọi chú trở lại và quan sát nét mặt chú bé. Ông lùng bùng:
"Chà! lắm kẻ nghèo đói ở Paris này". Ông hỏi chú bé: -"Tên
cháu là gì?" -"Dạ, tên cháu là Gioan". "Gioan gì nữa ?" -
"Dạ Gioan thôi ạ". "Nhưng cháu muốn thưa gì với Đức Mẹ?" -
"Dạ, cháu muốn thưa với Người là má cháu đã ngủ từ bốn giờ
chiều hôm qua, xin Người đến đánh thức má cháu dậy, cháu
không làm sao gọi má cháu dậy được".
Con
tim cụ già nhói lên trong lồng ngực vì ông sợ phải hiểu sự
gì đã xảy ra. Ông hỏi tiếp: -"Mà tại sao lúc nãy cháu bảo
viết thư xin chút cháo?" Chú bé trả lời: -"Dạ đúng như vậy,
trước khi ngủ, má cháu cho cháu miếng bánh cuối cùng. -"Còn
mẹ cháu ăn gì?" -"Đã hai ngày rồi, má cháu không ăn gì, má
cháu nói má không đói." -"Như vậy trước giờ khi cháu muốn
gọi má cháu dậy thì cháu làm gì?" -"Dạ cháu chỉ ôm má cháu".
-"Nhưng lần này thì cháu thấy sao ?" -"Má cháu lạnh lắm, nhà
cháu cũng lạnh lắm, hai tay má cháu bất động và đang chắp
trên ngực, mặt má cháu trắng bệch."...
Ông
già thầm nghĩ: chà, tôi đang thu tiền, tôi đang ăn no, tôi
đang uống ngon, mà bên cạnh tôi, lại có người đàn bà chết
đói.
Ông
gọi đứa bé lại bên ông, đặt nó ngồi trên gối và nói hết sức
dịu dàng: -"Cháu ơi, thư cháu đã được viết rồi, được gởi đi
rồi và đã được nhận rồi. Hãy dẫn ông đến nhà má cháu".
-"Được, cháu sẽ dẫn ông tới, nhưng tại sao ông lại khóc?
Gioan ngạc nhiên hỏi cụ già như thế. Ông già trả lời: "Ông
đâu có khóc". Nhưng ông ôm ghì đứa bé vào lòng, nước mắt
tràn trụa chảy xuống trên nó. Đàn ông ai lại khóc? Ông đứng
lên và dường như ông đang nói với người vô hình: "Bà mẹ đáng
thương ơi, bà hãy vui lên. Các bạn tôi có nhạo cười, tôi
cũng mặc. Bà ở đâu, tôi muốn đi thăm và dẫn đứa bé này về,
thiên thần bé nhỏ đáng thương này, nó sẽ không bao giờ lìa
xa tôi nữa, bởi vì lá thư không được viết kia có hai kết
quả: là cho cháu bé một người cha và cho tôi một tấm lòng"
Câu
chuyện đến đây là hết, chúng ta không biết người đưa thư nào
đã mang những loại thư chưa viết này đi, nhưng lá thư ấy đã
thấu tới trời, đến tận ngai tòa Đức Trinh Nữ Maria, nên đã
có kết quả thật cảm động như chúng ta vừa nghe. Chớ gì mỗi
người chúng ta để cho Mẹ đánh động con tim và thực thi bác
ái như cụ già Bouin đối với bất cứ Gioan nào chúng ta gặp
trên cuộc đời đầy gian lao đau khổ này. Chớ gì Mẹ Maria luôn
là nguồn bác ái đối với chúng ta, như bà mẹ ruột tuy ở xa,
nhưng lại gần.
Chớ
gì tình cảm và lòng sùng kính của chúng ta đối với Mẹ mãnh
liệt, thiết tha, nồng thắm như tình cảm của Đức Hồng Y
Wyszinski đối với mẹ ruột của Ngài, như có lần Ngài bày tỏ:
"Tôi đây đã tám mươi tuổi, mà mỗi lần kêu đến tên mẹ, là tim
tôi hồi hộp, miệng tôi run lên".
|
VỀ MỤC LỤC |
|
CANH TÂN SƯ PHẠM GIAÓ LÝ (BÀI 2): GIÁO HUẤN CỦA HỘI THÁNH VỀ
GIÁO LÝ |
Thi hành
sứ mạng làm ngôn sứ, Giáo Hội không những giảng dạy dân Chúa
trong các nghi thức phụng vụ, nhưng Giáo Hội còn ý thức trách
nhiệm loan truyền ơn cứu độ qua các lớp giáo lý dưới nhiều hình
thức khác nhau. Qua dòng thời gian, các đấng có thẩm quyền trong
Giáo Hội, với quyền giáo huấn của mình, đã khuyên dạy và hướng
dẫn các giáo lý viên về cách thức dạy giáo lý sao cho phù hợp và
hiệu quả nhất. Ở thời đại này, giáo lý viên cần đọc kỹ cũng như
nghiền ngẫm bản Tóm Lược Học Thuyết Xã Hội Công Giáo và Tông
huấn Catechesi Tradendae để nắm vững những điều mình phải làm
trong khi thi hành công cuộc rao giảng cao cả của mình.
I. HỌC THUYẾT XÃ HỘI
CÔNG GIÁO VÀ GIÁO LÝ
1. Học
Thuyết Xã Hội Công Giáo là gì ?
Tin Mừng rõ
ràng trình bày cho chúng ta công cuộc cứu độ toàn diện của Đức
Kytô, Ngôi Lời nhập thể. Người không chỉ cứu rỗi phần linh hồn
con người, nhưng giáo lý của Người còn nhấn mạnh đến thực tại
trần gian khi Người giải thoát con người khỏi những ưu tư, buồn
khổ và bệnh tật. Giáo Hội theo bước chân Thầy của mình cũng rao
giảng giáo lý ơn cứu độ toàn diện ấy. Nhưng có một thời, vì
nhiều lý do, Giáo Hội có vẻ chăm chú vào sự sống đời sau mà
thôi. Những người chống đối Giáo Hội có cớ để chỉ trích Giáo Hội
cách này cách khác. Ở Việt nam cũng có một “thợ làm thơ” đã viết
những lời châm biếm đại khái chuông nhà thờ ru ngủ con người.
Thật ra, vào thế kỷ 18, 19, khi công nghiệp kỹ thuật phát triển
và xã hội thay đổi nhanh chóng, bao vấn đề về con người nảy
sinh, thì Giáo Hội đã lên tiếng mạnh mẽ hơn về các vấn đề xã
hội, như Đức Hồng y Angelo Sodano, Bộ Trưởng Ngoại giao Toà
Thánh đã viết: “Suốt dòng lịch sử Giáo Hội và đặc biệt trong mấy
thế kỷ gần đây, Giáo Hội – theo lời Đức Lêô XIII – đã không
ngừng nói lên tiếng nói của mình về những câu hỏi liên quan đến
cuộc sống trong xã hội. Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã tiếp
tục công bố và cập nhật di sản về Học thuyết Xã hội Công giáo.
Về phần mình, ngài đã công bố ba thông điệp quan trọng –
Laborem Exercens, Sollicitudo Rei Socialis và Centesimus Annus
– trình bày những bước cơ bản của tư tưởng Công giáo trong lĩnh
vực này.”
Để giới thiệu
Học Thuyết Xã Hội Công Giáo, Đức Hồng y Angelo Sodano viết tiếp:
“Nhiều giám mục trên toàn thế giới trong giai đoạn gần đây đã
đóng góp những hiểu biết sâu xa hơn về Học thuyết Xã hội Công
giáo qua các công trình của họ. Vô số những học giả trên các lục
địa cũng vẫn đang làm như vậy. Vì thế, chúng ta hy vọng rằng một
bản tóm lược thu thập tất cả các chất liệu trên và trình bày một
cách hệ thống, sẽ giới thiệu những điều cơ bản của Học thuyết Xã
hội Công giáo. Thật đáng ca ngợi khi Hội đồng Giáo hoàng về Công
lý và Hoà bình (*) đã đảm nhận nhiệm vụ này và đã cố
gắng hết sức mình cho công trình trong những năm gần đây. Tôi
rất vui mừng khi thấy cuốn “Tóm lược Học thuyết Xã hội của Giáo
hội Công giáo” được xuất bản, và cùng chia sẻ với Đức Hồng y
(*) niềm vui mừng được trao gửi tập sách đến tất cả
tín hữu và những người thiện chí như một thứ lương thực cần
thiết để phát triển nhân cách và tinh thần, cho mọi cá nhân và
mọi cộng đồng. »
Ghi chú
(*)
Đức
Hồng Y Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận, Chủ tịch Hội Đồng Giáo
Hoàng về Công Lý và Hoà Bình, đã có sáng kiến đưa ra bản Tóm
Lược này.
2. Học
Thuyết Xã Hội Công Giáo nói gì về việc dạy giáo lý ?
Học Thuyết Xã
Hội Công Giáo trình bày chiều kích xã hội của giáo lý Đức Kytô.
Trong viễn tượng này, giáo lý phải đào tạo các tín hữu thành
những con người yêu mến Đức Kytô và biết góp phần xây dựng xã
hội trần thế. Khi áp dụng Học Thuyết vào việc giảng dạy, giáo lý
viên sẽ khơi mở cho người học cách sống Lời Chúa cụ thể với tinh
thần trách nhiệm và biết liên đới trong đời sống mình. Một ví dụ
cụ thể: Khi dạy về đức công bằng, giáo lý viên nhắc “không được
trộm cắp” và “nếu ăn cắp vật gì của ai thì phải xưng tội và phải
trả lại mới được tha tội”. Nhưng Học Thuyết Xã Hội dạy rằng công
bằng còn là chia sẻ cái mình đang có cho người thiếu thốn. Như
vậy, chia sẻ là nghĩa vụ công bằng trước khi là hành động bác
ái. Hơn nữa, nếu chúng ta không chia sẻ của cải, để cho người
khác chết đói, là chúng ta phạm tội giết người. (cf. Công Đồng
Vatican II, Hiến chế Giáo Hội trong Thế Giới Hôm Nay, số 65).
Còn nhiều những lời dạy khác của Hội Thánh mà giáo lý viên không
chú ý và như vậy, không hoàn tất lời giảng của mình.
Huấn quyền
Hội Thánh nhấn mạnh các điểm sau đây về việc áp dụng Học Thuyết
Xã Hội Công Giáo vào giáo lý:
- “Cần phải
tham khảo học thuyết xã hội của Giáo Hội để đào tạo Kitô hữu
biết hội nhập trọn vẹn.” (chương XII, khoản 528)
- “Giá trị
đào tạo của học thuyết xã hội của Giáo Hội cần được quan tâm hơn
trong việc dạy giáo lý. Giáo lý là việc giảng dạy có hệ thống về
toàn bộ học thuyết Kitô giáo, nhằm dẫn dắt các tín hữu sống trọn
vẹn Tin Mừng. Mục đích cuối cùng của giáo lý “là đưa con người
không chỉ tiếp cận được mà còn hiệp thông mật thiết được với Đức
Giêsu Kitô”. Theo đường hướng này, người ta có thể nhận ra tác
động của Chúa Thánh Thần, là Đấng ban tặng đời sống mới trong
Đức Kitô.” (chương XII, khoản 529)
- “Trong bối
cảnh của việc dạy giáo lý, điều quan trọng trên hết là phải
giảng dạy học thuyết xã hội của Giáo Hội thế nào để thôi thúc
người học làm cho các thực tại trần thế thấm nhuần Tin Mừng và
mang tính nhân bản.”(chương XII, khoản 530)
II. TÔNG HUẤN CATECHESI
TRADENDAE
1. Tông huấn Catechesi
Tradendae là gì ?
Từ ngày 30/9 đến ngày 29/10/1977,
Thượng Hội Đồng Giám Mục Thế Giới, triều đại Đức Giáo Hoàng
Gioan Phaolô II, đã nhóm họp lần thứ 4 với chủ đề « Việc
Giảng dạy Giáo lý trong Thời đại Chúng ta » và ban hành Tông
huấn Catechesi
Tradendae, kim
chỉ nam cho việc dạy giáo lý thời đại mới. Tông huấn gồm có chín
chương, nêu rõ các nguyên tắc : tầm quan trọng của việc dạy Giáo
Lý trong Hội Thánh, Đức Giêsu Kytô là Thầy, nguồn mạch Thánh
Kinh, phương tiện giảng dạy Giáo Lý v.v…
2. Tông huấn Catechesi
Tradendae dạy gì ?
Chúng tôi xin lược trích vài điểm chính yếu nhất trong Tông huấn
như sau đây. (Xin đọc toàn văn Tông huấn trên các website của
Hội Đồng Giám Mục Việt Nam, Uỷ Ban Giáo Lý Việt Nam tại Hoa Kỳ,
hay của Giáo Phận Nha Trang…)
- “
Hội Thánh luôn luôn coi việc dạy Giáo Lý là một trong những công
tác chính của mình, bởi vì trước khi lên cùng Cha Người sau khi
phục sinh, Đức Kitô đã ban cho các tông đồ một mệnh lệnh cuối
cùng, là hãy làm cho muôn dân trở thành môn đệ, và dạy họ tuân
giữ tất cả những gì Người đã truyền.”
- “ Mục đích
chính và thiết yếu của việc dạy Giáo Lý, theo cách diễn tả mà
Thánh Phaolô, cũng như môn thần học hiện đại thích nhất, là
“Mầu Nhiệm Đức Kitô”. Dạy Giáo Lý là một cách dẫn dắt một
người để họ học tất cả các khía cạnh của mầu nhiệm này:
“để làm cho mọi người thấy
chương trình mầu nhiệm… hiểu biết cùng với các thánh cái gì là
chiều rộng, chiều dài, chiều cao cùng chiều sâu… biết rằng tình
yêu của Đức Kitô vượt trên mọi kiến thức… (và
được đổ đầy) bằng tất cả sự sung mãn của Thiên Chúa.”
- “Chúng ta
phải nói rằng trong việc dạy Giáo Lý, chúng ta giảng dạy về
chính Đức Kitô, Ngôi Lời Nhập Thể và Con Thiên Chúa, - mọi điều
khác đều được dạy qui chiếu vể Người – và cũng chỉ có một mình
Đức Kitô là Đấng giảng dạy - người nào khác giảng dạy cũng chỉ
vì người ấy là phát ngôn viên của Đức Kitô, để Đức Kitô dùng môi
miệng mình mà giảng dạy. Dầu ở mức độ trách nhiệm nào đi nữa
trong Hội Thánh, mọi Giáo Lý viên phải luôn cố gắng truyền thụ
bằng lời giảng dạy và cách sống của mình giáo huấn và đời sống
của Chúa Giêsu”.
- “Chúa
Giêsu đã dạy. Chính những chứng từ mà Người làm cho chính
mình: “Hằng ngày Tôi đã
ngồi giảng dạy trong đền thờ.”
Chính những quan sát đầy ngưỡng mộ của các Thánh Sử, ngạc nhiên
khi thấy Người dạy khắp nơi và mọi lúc, dạy bằng một cách thế và
với một uy quyền mà chưa ai từng biết đến. (…)Đấng giảng dạy
cách này đáng được tôn phong bằng một tước hiệu “Thầy”.độc đáo.
Trong toàn thể Tân Ước, nhất là trong các sách Tin Mừng, biết
bao nhiêu lần người ta đã gọi Người là Thầy!”
- “Đối
với Kitô hữu, Thánh Giá là một trong những hình ảnh siêu phàm và
phổ thông nhất của Đức Kitô là Thầy. Tất cả những suy
nghĩ này, là những suy nghĩ theo các truyền thống vĩ đại của Hội
Thánh, và tất cả củng cố lòng nhiệt thành của chúng ta đối với
Đức Kitô, là Vị Thầy tỏ lộ Thiên Chúa cho loài người và con
người cho chính họ, vị Thầy vừa cứu chữa, vừa thánh hoá và hướng
dẫn, là Đấng vừa sống, vừa nói, vừa khích lệ, di chuyển, sửa
sai, xét xử, tha thứ, và đồng hành với chúng ta mỗi ngày trên
đường lịch sử, là vị Thầy đang đến và sẽ đến trong vinh quang.
Chỉ nhờ kết hợp mật
thiết với Người mà các Giáo Lý viên có thể tìm thấy ánh sáng và
sức mạnh cho một canh tân Giáo Lý chính hiệu và đáng mong ước.”
- “Các hoạt
động Giáo Lý có thể được thực hiện trong các hoàn cảnh thuận
tiện đúng chỗ và đúng lúc, và phải có thể sử dụng phương tiện
truyền thông đại chúng và những dụng cụ thích hợp (…) Tôi mạnh
mẽ cùng các Nghị Phụ trong Thượng Hội Đồng lên tiếng phản đối
tất cả mọi kỳ thị trong lãnh vực dạy Giáo Lý, đồng thời cũng
khẩn thiết kêu gọi các nhà cầm quyền hãy chấm dứt hoàn toàn
những sự kiềm chế tự do con người nói chung, và tự do tôn giáo
nói riêng.”
- “Phải là
một sự giảng dạy có hệ thống, không tùy hứng, nhưng phải có
chương trình để đạt đến một mục đích rõ ràng;”
- “Việc dạy
Giáo Lý chân chính luôn luôn là một sự dẫn nhập có thứ tự và hệ
thống vào mặc khải, là Thiên Chúa đã ban Chính Mình cho nhân
loại trong Đức Chúa Giêsu Kitô, một mặc khải được khắc ghi sâu
đậm trong ký ức Hội Thánh và trong Thánh Kinh, cùng được liên
tục thông truyền từ thế hệ này qua thế hệ khác bằng một truyền
thống sống động và linh hoạt. Tuy thế, mặc khải này không được
tách ra khỏi đời sống, hay chỉ được đặt cách nhân tạo cạnh đời
sống.”
- “Việc dạy
Giáo Lý tự bản chất được nối kết với toàn thể hoạt động phụng vụ
và bí tích, vì chính trong các bí tích, nhất là bí tích Thánh
Thể, mà Đức Chúa Giêsu Kitô hoạt động một cách viên mãn cho việc
biến đổi con người.”
- “Việc
dạy Giáo Lý còn mở ra cho động lực truyền giáo. Nếu việc
dạy Giáo Lý được thực thi tốt đẹp, các Kitô hữu sẽ hăng say làm
chứng cho Đức Tin của họ, truyền thụ Đức Tin ấy cho trẻ em, làm
cho người khác biết đến nó, và phục vụ cộng đồng nhân loại bằng
mọi cách.”
“Trong việc
dạy Giáo Lý, điều quan trọng là dạy về những quyết tâm cá nhân
trong lãnh vực luân lý để sống theo Tin Mừng, và những thái độ
Kitô, dù anh hùng hay rất đơn giản trước cuộc đời hay trước thế
gian - điều mà chúng ta gọi là các nhân đức của Phúc Âm.”
- “Nên nhấn
mạnh đến vần đề cuối cùng về phương pháp đã được Thượng Hội Đồng
Giám Mục bàn luận khá nhiều, đó là học thuộc lòng.
Việc dạy Giáo Lý Kitô trong những thời gian
đầu tiên, trùng hợp với nền văn hoá đặc biệt truyền khẩu, nên
dùng đến trí nhớ rất nhiều. Từ đó việc học Giáo Lý được
biết là có một truyền thống học các chân lý căn bản bằng phương
pháp thuộc lòng. Tất cả chúng ta đều ý thức
rằng phương pháp này có thể có một số bất lợi, ít là nó đưa đến
việc thiếu hiểu biết hay không hiểu biết gì cả; nó biến tất cả
mọi kiến thức thành công thức được lập đi lập lại mà không hiểu
chính xác. Các bất lợi này và những đặc tính khác của nền
văn hoá mà chúng ta có ở vài nơi đưa đến việc hoàn toàn loại bỏ
– theo một số người là dứt khoát phải
loại bỏ - việc học thuộc lòng trong môn Giáo Lý. Nhưng trong Đại
Hội của Thượng Hội Đồng Giám Mục, chúng ta nghe được một số
tiếng nói có thẩm quyền kêu gọi phục hồi một sự cân bằng cách
thận trọng giữa sự suy nghĩ và bộc phát, giữa đối thoại và im
lặng, giữa việc viết và việc học thuộc lòng.
Hơn nữa một số
nền văn hoá còn rất tôn trọng việc học thuộc lòng.”
- “Tôi
muốn gieo thật nhiều can đảm, hy vọng và sự hăng say trong lòng
tất cả những người khác nhau có nhiệm vụ dạy về tôn giáo và huấn
luyện về đời sống qua việc làm theo Tin Mừng.”
-“Khi thi
hành sứ vụ dạy Giáo Lý, Hội Thánh - cũng như mỗi cá nhân Kitô
hữu hiến thân cho sứ vụ ấy trong Hội Thánh và nhân danh Hội
Thánh - phải ý thức rõ ràng rằng mình hành động như một công cụ
sống động và mềm dẻo của Chúa Thánh Thần. Phải cầu khẩn Thánh
Thần này không ngơi, hiệp thông với Ngài, cố gắng hiểu biết
những gì Ngài thật sự linh hứng, đó phải là thái độ của Hội
Thánh và của mỗi Giáo Lý viên.”
“Đức Mẹ Maria,
Mẹ và Mẫu Gương của Môn Đệ.
Khi Chúa Giêsu ngồi trong lòng Mẹ, và sau này khi Người nghe lời
Mẹ trong suốt đời ẩn dật tại Nadareth, người Con này, là “Con
Một từ Chúa Cha”, “đầy ân sủng và chân lý”, được Mẹ đào
luyện kiến thức nhân loại về Thánh Kinh và lịch sử của chương
trình Thiên Chúa dành cho dân Ngài, và trong sự tôn thờ Đức Chúa
Cha.[ii]Còn
Mẹ lại là môn đệ đầu tiên của Chúa. Mẹ là môn đệ đầu tiên trong
thời gian, bởi vì ngay cả khi Mẹ tìm thấy người con còn niên
thiếu của Mẹ trong đền thờ Mẹ đã học được của Người bài học mà
Mẹ giữ kín trong lòng. Mẹ là môn đệ đầu tiên trên những người
khác vì không ai đã “được Thiên Chúa dạy” Ở một chiều sâu
như thế. Mẹ “vừa là Mẹ vừa là môn đệ” như Thánh Augustinô
đã nói về Mẹ, mà còn dám nói thêm rằng đối với Mẹ, việc làm môn
đệ của Mẹ quan trọng hơn làm Mẹ. Cho nên không phải là vô lý khi
trong Thượng Hội Đồng có những tôn vinh Mẹ là “một sách Giáo
Lý sống” và là “Mẹ và gương mẫu của các Giáo Lý viên”.
III. KẾT LUẬN
Dạy giáo lý là
giảng về Đức Kytô, Ngôi Lời nhập thể bằng chính Lời của Người.
Giáo Hội được Chúa giao sứ vụ cai quản các kho tàng mầu nhiệm và
ơn phúc, cho nên Giáo Hội có thẩm quyền và có trách nhiệm hướng
dẫn cụ thể cách thức giảng dạy giáo lý. Khi đọc kỹ các văn kiện
Toà Thánh liên quan đến việc giảng dạy này, giáo lý viên đã có
đầy đủ những nét sư phạm chính yếu cho công việc của mình. Việc
dạy giáo lý không đơn giản như truyền giảng những kiến thức khác
ở đời, mà là chiếu toả ánh sáng Đức Kytô, do đó giáo lý viên
phải gắn bó với Người qua Thánh Thần của Người, qua Giáo Hội do
Người sáng lập và gìn giữ, và qua Mẹ Maria Đấng đã được tôn vinh
là có phúc vì đã vâng giữ Lời Người. Nhà thơ Xuân Diệu khi viếng
đồi Bửu Châu, Trà Kiệu đã viết vào sổ vàng kỷ niệm ngày
20/5/1983:
"Trưa hôm nay
con ngồi như trẻ nhỏ,
Giữa đáy trưa, trong lòng Mẹ vô cùng.
Con là sáo, Mẹ là ngàn vạn gió,
Mẹ là trời, con là hạt sương rung. .."
Giáo lý viên là nhà
thơ ca ngợi kỳ công Thiên Chúa, chỉ thành công khi có Mẹ là
“ngàn vạn gió” làm tiếng sáo vang lên.
(Bài 3: Thánh Kinh và Giáo Lý)
Gioan
Lê Quang Vinh
samuelvpn@gmail.com
|
VỀ MỤC LỤC |
|
VẤN ĐỀ HÔN NHÂN ĐỒNG TÍNH VÀ TỰ DO
TÔN GIÁO
|
Truyền thông
báo chí và dư luận quần chúng, nhất là phía tôn giáo hiện
đang xôn sao tranh cãi rất nhiều về vấn đề hôn nhân đồng
tính. Thời cổ lịch sử con người thì nó không phải là vấn đề
cần phải bàn cãi mà đương nhiên nó là một tội. Chúa đã trừng
trị thẳng tay, giết chết tất cả dân một thành phố vì tội tày
trời này chỉ trừ gia đinh ông Lot (Gen.19: 1-20). Tên thị
trấn Sodom đã trở thành một tội danh. Nhưng ngày nay thì
người ta lại coi nó là tự nhiên. Hôn nhân đồng tính đã được
hợp pháp hóa ở một số nước và tiểu bang Hoa Kỳ. Tuy nhiên
người ta vẫn còn tranh luận bàn cãi nhiều, bởi lẽ nó đã đụng
đến những vấn đề khá tế nhị về văn hóa, phong tục tập quán,
luân lý và đạo giáo.. …
Ngày 26-5-09,
tối cao pháp viện California đã chấp nhận đạo luật số 8 cho
phép thay đổi hiến pháp tiểu bang mà trước kia hôn nhân buộc
vợ chồng phải là hai người nam và nữ.
Với đạo luật
này, tối cao pháp viện tiểu bang đã thả lỏng luật định trước
kia để hợp thức hóa hôn nhân đồng tính. Trước đó ít tuần, ba
tiểu bang khác cũng công nhận hôn nhân đồng tính. Như vậy
Hoa Kỳ đã có 5 tiểu bang chấp nhận hôn nhân đồng tính, không
kể California, là Massachusetts, Connecticut, Maine,
Vermont và Iowa.
Tờ Washington
Post ngày 27 - 5 - 2009 đã nêu rõ 4 tiểu bang thuộc miền
Đông Bắc Hoa Kỳ, trừ Iowa, đã công nhận hôn nhân đồng tính
là do quyết định của tối cao pháp viện tiểu bang chứ không
phải cơ quan lập pháp.
Một trong những
vấn đề khá quan trọng khi đem vấn đề này ra tranh luận là
Tự Do Tôn Giáo. Trên tờ New York Times ngày
23-5-09 ông Peter Steinfels đã cho biết là đề nghị hợp thức
hóa hôn nhân đồng tính ở New Hampshire đã phải ngưng lại vì
thống đốc tiểu bang chỉ ký ban hành luật nếu có bảo đảm chắc
chắn tự do tín ngưỡng nơi các cơ sở tôn giáo. Ủy ban tài
chính hạ viện cũng tán thành ý kiến của thống đốc. Việc này
rồi sẽ có ảnh hưởng lớn ở những tiểu bang khác, chẳng hạn
như New York….
TỰ DO TÔN GIÁO
Vậy thì hôn
nhân đồng tính sẽ gây ảnh hưởng tai hại thế nào về vấn đề tự
do tôn giáo? Vấn đề này đã được nêu ra trong một cuộc hội
luận dứoi sự bảo trợ của Hội Đồng Pew về Tôn Giáo và Đời
Sống Công Cộng.
Trong bản tường
thuật về cuộc hội luận được công bố ngày 21 tháng 5 năm
2009, các giáo sư Robert W.Tuttle và Ira“Chip”Lupu
của trường Đại học luật khoa thuộc viện Đại học George
Washington đã nêu lên những thắc mắc liên quan đến vấn đề
này.
Những người
chống hôn nhân đồng tính e ngại rằng giảng huấn chống lại
đồng tính luyến ái của các tôn giáo có thể bị qui kết vi
phạm tội hình sự.
Những quan ngại
khác liên quan đến các cơ sở tôn giáo như nhà thương và đại
học…Họ cũng sợ rằng họ sẽ bị bắt buộc phải cung cấp những
nhu cầu hoặc đòi hỏi của những cặp đồng tính luyến ái như
hiện nay họ đang làm cho những cặp vợ chồng bình thường.
Đây không phải
chỉ là vấn đề lý thuyết suông mà đã trở thành thực tế. Năm
2006 cơ quan bác ái công giáo ở Massachusetts đã ngừng không
cung cấp dịch vụ con nuôi vì luật chống kỳ thị của tiểu bang
thay đổi, buộc các cơ sở môi giới phải giới thiệu con nuôi
cho những cặp “vợ chồng” đồng tính.
Một mặt khác
nữa liên quan đến các cơ sở thương mại tư và cá nhân, chẳng
hạn những người cung cấp dịch vụ cưới hỏi hoặc cho thuê mướn
địa điểm để tổ chức liên hoan mừng tiệc cưới…., vì lý do tôn
giáo họ không chấp nhận hôn nhân đồng tính….
Trong phần bình
luận, hai vị giáo sư này đã công nhận là về phương diện luật
pháp, những ý kiến chống đối hôn nhân đồng tính vì lý do tôn
giáo rõ ràng là chưa được trắc nghiệm một cách rộng rãi.
Bằng cớ là tại tòa án các cuộc tranh cãi vẫn luôn luôn đặt
vấn đề nhắm vào câu hỏi là các tiểu bang có chấp nhận hôn
nhân đồng tính hay không?
TÔN GIÁO CẦN ĐƯỢC BẢO VỆ
Theo như một
bài báo trên tờ Washington Post ra ngày 10-4-2009 thì cho
đến nay những chống đối có tính cách tôn giáo vẫn không được
tòa án hoan nghênh cho lắm. Chẳng hạn như những vụ kiện sau
đây:
-
Một nữ nhiếp
ảnh viên là Kito hữu đã bị Hội Đồng Dân sự ở New Mexico buộc
phải trả $6,637 tiền phí tổn luật sư vì đã từ chối không
chịu chụp hình cho một cặp hôn nhân đồng tính trong buổi hôn
lễ.
-
Một bác sĩ tâm
lý ở Georgia đã bị mất việc vì từ chối với lý do tôn giáo
không chịu cố vấn chỉ biểu cho một cặp đồng tính luyến ái
cách đối sử sinh sống với nhau như là vợ chồng.
-
Nhóm bác sĩ
Kito giáo chuyên khoa hiếm muộn ở California, vì từ chối
không chịu cấy thai cho một thân chủ đồng tính luyến ái với
lý do tôn giáo đã bị tối cao pháp viện kết án.
-
Một tổ chức
sinh viên Kito giáo đã không được trường Đại học Luật Khoa ở
UCA công nhận chỉ vì họ không chấp nhận là thành viên bất cứ
ai thực hành hôn nhân ngoài nguyên tắc cổ truyền.
-
Một tổ chức
giới thiệu hôn nhân trên mạng lưới điện tử là eHarmony
do nhà truyền giáo Kito Neil Clark Warren đã phải đồng ý
giới thiệu bạn đồng tính luyến ái cho khách hàng vì ông bị
một người đàn ông ở New Jersey kiện về tội kỳ thị.
Vì những khó
khăn phiền toái đó mà báo Los Angeles Times ngày 3-5-2009
trong một bài góp ý đã kêu gọi cần phải có pháp luật bảo vệ
nhiều hơn nữa cho những người vì lý do tôn giáo mà chống đối
hôn nhân đồng tính. Theo Robin Wilson, giáo sư luật đại học
luật khoa Washington và Lee University thì hiện nay không có
tiểu bang nào có đầy đủ luật lệ để bảo đảm cho tự do tôn
giáo khi hợp thức hóa hôn nhân đồng tính. Tuy nhiên giáo sư
Wilson cũng công nhận là ở Connecticut và Vermont lập pháp
đã có những điều khoản cho phép chống đối tùy theo lương
tâm, nhưng các dự luật vẫn không bảo vệ được đầy đủ cho
những người như cố vấn hôn lễ, tổ chức tiệc cưới hỏi và
nhiếp ảnh gia.
Ông nói: “Vì
những luật lệ này vẫn chưa được rõ ràng dứt khoát và đầy đủ,
nên nhiều người vẫn có thể chọn lựa giữa lương tâm và kế
sinh nhai”.
LUẬT BÌNH ĐẲNG VÀ VIỆC THÂU DỤNG NHÂN VIÊN
Về vấn đề nhân
viên trong các cơ sở tôn giáo, tại Anh quốc người ta cũng
đang tranh cãi khá sôi nổi. Báo Telegraph ngày 20-5-09 nêu
trường hợp có nhiều giáo hội, cơ sở tôn giáo đã bày tỏ quan
ngại, e rằng luật mới cấm kỳ thị sẽ buộc họ phải thâu nhận
nhân viên đồng tính luyến ái.
Sang năm thì
luật sẽ thực sự được áp dụng, nhưng các cơ sở tôn giáo vẫn
hy vọng họ sẽ được miễn trừ. Nhưng sự mong đợi đó đã bị tiêu
tan tại một hội nghị mới đây sau khi bà Maria Eagle, mục sư
đặc trách về quyền bình đẳng đã cho biết luật sẽ áp dụng cho
hầu hết các nhân viên, công nhân của tất cả các giáo hội và
cơ sở tôn giáo. Vẫn theo tờ Telegraph, “Trường hợp –bà nói-
các cơ sở tôn giáo không thi hành luật bình đẳng thì hiếm và
cũng không có trường hợp trung dung, lưng chừng ở giữa, cho
nên cũng chẳng đặt thành vấn đề mấy”.
Trong khi Đạo
luật về Bình Đẳng còn phải chờ sự phê chuẩn cuối cùng của
nghị viện thì lại đưa ra những diễn giải rất hạn hẹp và mơ
hồ về vai trò và chức vụ mà có thể những người đồng tính
luyến ái không được đảm nhận vì bị tôn giáo phản đối. Những
chức vụ này thường là dành cho những vị thi hành phụng tự,
lãnh đạo tôn giáo như linh mục, mục sư…..hoặc những người
chuyên giảng dạy giáo lý.
Ngoài ra, ở Anh
Quốc những tín hữu Kito giáo phản đối đồng tính luyến ái
cũng ngày càng bị tấn công chỉ trích. Báo Daily Mail ngày 14
tháng 5 cho biết Hội Bảo Trợ Con Nuôi ở Anh, một tổ chức do
nhà nước tài trợ, đã gọi những người chống đối này là “những
ố nhân đần độn / retarded homophobes.”
Vẫn theo tờ báo
thì họ đã miệt thị những kito hữu này như vậy trong bản điều
lệ hướng dẫn chính thức để cấp con nuôi cho những cặp đồng
tính luyến ái được xuất bản bởi một cơ quan chuyên dàn xếp
luật lệ và tổ chức huấn luyện cho các nhân viên xã hội trên
toàn quốc.
Tờ Daily Mail
đã trích lời bà Patricia Morgan, tác giả cuộc nghiên cứu
những người đồng tính luyến ái nhận con nuôi như sau: “Thật
là đê tiện và nhục nhã khi họ không muốn bàn cãi về việc
những người đồng tính luyến ái muốn nhận con nuôi về cả hai
phương diện nên và không nên. Họ chỉ biết lạm dụng”.
NHỮNG BẤT CÔNG TRONG VIỆC LÀM
Thực tế gần đây
cho thấy những tín hữu Kitô giáo đang phải đối diện với tình
trạng bất công trong công ăn việc làm. Họ có thể mất việc
làm vì chống đối hôn nhân đồng tính theo lương tâm của họ.
David Booker, một nhân viên làm công tác bác ái đã bị ngưng
việc không lương 2 tuần lễ sau khi bàn cãi, tỏ vẻ chống đối
hôn nhân đồng tính, với một nhân viên khác cùng sở. (Theo
tường thuật của tờ Telegraph ngày 11-4-2009)
Booker nhấn
mạnh -tờ Telegraph kể thêm- ông không phải là người cuồng
tín mà đơn thuần chỉ là diễn tả ý kiến cá nhân của ông mà
thôi. Đồng nghiệp của ông cũng xác nhận như vậy với mọi
người và cho biết ý kiến ông đưa ra không có gì là gây xúc
phạm đến bất cứ ai hết.
Ngày 22-3-09 tờ
Telegraph cũng tường thuật trường hợp chủ nhân khách sạn là
Kito hữu tên Peter và Hazelmary Bull đã bị một cặp đồng tính
luyến ái kiện ra tòa vì từ chối không cho họ thuê phòng.
Theo như những
điều lệ mới được thêm vào Luật Bình Đẳng năm 2007 thì từ
chối không cung cấp vật dụng, đồ ăn hay cơ sở, phương tiện
cho một người vì lý do tính dục là vi phạm luật.
Một trường hợp
khác liên quan đến nhân viên phòng hôn phối của Hội Đồng
Islington ở phía Bắc Luân Đôn. Bà Lillian Ladele đã từ chối
không làm nghi thức hôn phối dân sự cho một cặp đồng tính.
Ra tòa bà bị kết tội kỳ thị, mặc dù khi chống án lên trên,
Hội Đồng Islington đã thắng. (Theo BBC tường thuật ngày
19-12-09). Tuy nhiên, phán quyết của tòa lại ghi chú rằng
không phải tất cả những thành viên trong Hội Đồng quản trị
đều đồng ý với niềm tin tôn giáo của bà Ladele….
KẾT LUẬN: TƯƠNG KÍNH CẦN PHẢI CÓ HAI CHIỀU.
Người Kito hữu
luôn luôn bị rắc rối, buồn phiền, đau khổ vì phải chống đối
đồng tính luyến ái vì niềm tin sắt son của mình. Từ nhiều
thập niên qua những người kêu gọi quyền đồng tính luyến ái
đã kháng cáo, cầu cứu lên tòa trên để xin được nhân nhượng
và cảm thông. Ngày nay phẩm cách con người xem ra đang xuống
cấp một cách thảm thương nhưng họ lại càng ngày càng đạt
nhiều thắng lợi hơn về mặt pháp lý.
Xă hội con
người ngày càng trở nên văn minh. Nhưng là văn minh đi lên
hay văn minh đi xuống?
Quyền được Tự
Do, Bình Đẳng và Tôn Trọng Pháp Luật là cần thiết và cao
quí. Nhưng sự tương kính cũng luôn luôn cần phải có cả hai
chiều.
Fleming Island,
Florida 25-6-2009
NTC
Bác
sĩ Nguyễn Tiến Cảnh
|
VỀ MỤC LỤC |
|
MỘT LỜI CẦU XIN KHIÊM TỐN
|
(Một linh mục
đã đọc mỗi ngày trong 30 năm liền.
Trong Lectures pour chaque jour de l’année p. 663)
Lạy Chúa, để
danh Chúa được rạng rỡ vinh quang,
xin rộng ban cho
con ân huệ này
là chỉ đau khổ
vì đã làm cho
người khác đau khổ,
và chỉ vui mừng
vì đã giúp anh
em con bớt cực khổ hơn :
Và để
giúp anh em con bớt cực khổ hơn.
Xin
ban cho con một tinh thần mềm dẻo
để con chấp nhận
tỏ ra mình yếu đuối
hoặc không người
bênh đỡ
hơn là làm phiền
lòng hay chà đạp người khác.
Xin
ban cho con một tinh thần ngay thẳng,
để con không bao
giờ hiểu theo nghĩa xấu
một điều người
khác đã làm con phiền lòng.
Xin
ban cho con một tinh thần đơn sơ,
để con không trở
nên gánh nặng
cho những người
đang sống chung quanh con.
Xin
ban cho con một tấm lòng hăng hái,
để con luôn cởi
mở
đối với những
người có thể ghét bỏ, ganh tị, phân bì con.
Xin
ban cho con một tấm lòng khiêm tốn,
để con không trở
nên cứng cỏi
trước những lời
chỉ trích,
trước những việc
làm không ngay thẳng,
trước những lời
kết án nghiệt ngã hay vội vàng.
Xin
ban cho con một tấm lòng rộng mở,
để con chịu đựng
những ai có óc hẹp hòi,
những người ích
kỷ đến độ không sao chịu nổi.
Xin
ban cho con một ý chí vững vàng,
để con mãi kiên
tâm,
dầu có phải mỏi
mệt, dầu có gặp thái độ vô ơn.
Xin
ban cho con một ý chí dai bền,
để anh em con
được hạnh phúc,
dầu họ có khuyết
điểm, dầu họ có yếu đuối.
Xin
ban cho con một ý chí luôn toả sáng,
để chung quanh
con,
không có ai chán
nản, không có ai ngã lòng.
Xin
ban cho con đừng bao giờ phê phán khi chưa đủ bằng cớ,
và khi phải phê
phán,
thì luôn luôn
khoan hậu, nhân từ.
Xin
ban cho con đừng bao giờ tin vào điều xấu
mà có người đã
nói về những ai vắng mặt,
và nhất là đừng
bao giờ lặp lại điều xấu đó.
Và
trên hết mọi sự,
xin Chúa dạy con
biết để tai nghe,
biết đoán ý
người khác,
biết tha thứ
không ngừng.
Lạy
Chúa, xin ban cho con những ân huệ đó,
để anh em con
bớt cực khổ vì con. A-men.
Bản
dịch của Lm. Nguyễn Ngọc Tỉnh |
VỀ MỤC LỤC |
|
ĐỪNG ĐỂ Ý THÁI QUÁ
|
Gia đình đang đi nghỉ hè xa nhà
trong một túp lều bên bờ hồ. Ông bố ra ngoài câu cá và bà mẹ
trong căn bếp đang sửa soạn bữa ăn. Cô bé Thanh Tuyền 2 tuổi
đứng ở cữa trước gọi:
-
Má mi!
-
Sao con? -
-
Má mi!
-
Sao con?
-
Má mi
-
Sao con?
Bà mẹ đi đến chỗ đứa con và nói:
-
Cái gì vậy? Con muốn đi
bách bộ hả? Chờ một chút.
Bà mẹ trở lại bếp. Cô bé vẫn đứng
yên đó, mặt ịn vào cữa kính.
-
Má mi!
-
Sao con?
-
Má mi!
-
Sao con?
-
Má mi!
-
Sao con?
Cô bé quen gọi một lúc ba lần như
vậy. Bà mẹ lại trở ra với nó.
-
OK,
bây giờ con và mẹ đi bộ một lúc, nhưng mà mẹ còn phải chuẩn bị
bữa ăn tối nữa.
Bà mẹ nắm tay cô bé, giúp nó bước
xuống bậc cấp, và đi bách bộ với nó.
Cô bé không đến với mẹ. Nó gọi mẹ
đến với nó. Bà mẹ đã đáp lời. Bà đã chìu theo những đòi hỏi
không thích hợp của cô bé. Đứa trẻ tìm sự chú ý ngay tức khắc là
một đứa trẻ không có hạnh phúc. Nó cảm thấy ngoại trừ nó được
chú ý, nó sẽ mất giá, không có chỗ đứng. Nó tìm kiếm sự tái
khẳng định tức khắc rằng nó là quan trọng. Vì nó nghi ngờ, nên
không có con số nào có thể làm nó vững tâm. Mẹ nó chú ý nó. Một
lúc sau nó lại hỏi:
-
Mẹ có để ý đến con không?
Con vẫn còn đáng được chú ý phải không?
Đây là một vòng nghi ngờ không
bao giờ chấm dứt. Một tình cảnh thật đáng thương. Bà mẹ có cách
nào giúp được?
Khi cô bé Thanh Tuyền thành công
trong việc làm cho mẹ nó đáp trả mỗi lần nó gọi, sự đáp trả ấy
trở thành bức tường vây kín. Không còn có chỗ cho những giá trị
khác. Cô bé sẽ làm gì nếu bà mẹ từ chối không đáp lại những đòi
hỏi không mấy thích hợp đó. Chắc chắn sau một lúc phản ứng, nó
sẽ khám phá những cách thế khác để có cảm giác mình vẫn thuộc
về. Có thể cô bé cần sự giúp đỡ để tìm được phương cách xây
dựng, nếu không, sự tìm kiếm của nó có thể dẫn đến hành vi phá
hoại hơn. Người mẹ có thể ý thức và biết được hành vi nào là
thích hợp. Bà mẹ chứng tỏ mình thiếu tự trọng khi bà cho phép
con bà bắt bà phục dịch như một người nô lệ. Bà cũng tỏ ra thiếu
trọng kính con mình khi bà tỏ ra nghi ngờ khả năng của đứa con
nếu không có sự phục dịch của bà.
Bà mẹ có thể không đến với cô bé
mỗi khi nó gọi. Bà có thể đáp trả lời mời gọi đầu tiên một cách
vui vẻ và hãy bảo với nó rằng bà đang bận công việc nấu ăn. Khi
cô bé gọi lần nữa, bà có thể không cần trả lời. Cả hai có thể
chơi trò chơi nầy. Cô bé có thể thét lên, nhưng bà mẹ có thể giả
vờ rằng bà đang bận rộn với việc bà phải làm, nên nếu muốn, cô
bé phải đến với bà. Bà mẹ có quyền tiếp tục công việc và cũng có
bổn phận phải giáo dục cô bé biết trọng kính những nhu cầu của
hoàn cảnh lúc bấy giờ. Cô bé không có quyền đòi đi bách bộ bất
cứ khi nào nó muốn. Nó phải khám phá ra những lợi ích của việc
chấp nhận trật tự và những nhu cầu của hoàn cảnh. Sẽ có thời
gian được sắp xếp cho việc đi bách bộ. Nếu nó đến và xin mẹ dắt
đi bách bộ, bà mẹ có thể trả lời:
-
Bây giờ không phải là thời
gian để đi bách bộ, cô bé ơi!
Thế là xong. Không thành vấn đề cô
bé sẽ làm gì, bà mẹ vẫn cứ cứng rắn và tiếp tục làm công việc
của mình.
Lm. Lê
văn Quảng, tiến sĩ tâm lý |
VỀ MỤC LỤC |
|
GIẤC MƠ
XUÂN
|
Ca
dao Việt Nam có câu:
"Đố ai nằm ngủ không mơ? "
Câu ấy
mang ngầm ý nghĩa là ai ngủ thì cũng mơ cả. Vậy mà có nhiều
người nói rằng họ không biết mơ là gì, hay ít nhất dù có mơ,
tỉnh dậy cũng không nhớ gì hết. Tôi không biết những người ấy
nghĩ gì; riêng tôi thấy tiếc cho họ, vì trong mơ có nhiều cái dễ
thương lắm.
Tôi thì... may mắn
có ''khả năng'' mơ và ''khả năng'' nhớ những giấc mơ của mình.
Tôi mơ... giỏi đến độ nhắm mắt lại là mơ, mà ngủ... gật cũng mơ
luôn. Tôi còn có khả năng "mơ lại", tức là là mơ cùng một giấc
mơ nhiều lần; lại có khả năng ''mơ tiếp'' nữa: đêm hôm trước mơ
một đoạn, đêm hôn sau mơ thêm đoạn kế tiếp, y như truyện đăng
từng kì trên nhật báo vậy! Lắm lúc tôi cũng băn khoăn tự hỏi
mình làm gì mà mơ lắm thế.
Khi mong ước một
điều gì mình chưa có, ta gọi là ''mơ''. Nằm ngủ chiêm bao cũng
gọi là ''mơ''. Như thế, người ta tự hiểu rằng giấc mơ trong khi
ngủ phản ảnh phần nào suy tư khát vọng của mình. Khi chuyện
không xảy ra trong đời sống thực được, người ta đem nó vào giấc
mơ. Tôi thương nhớ ai mà không gặp được ngươi đó, tôi đem người
đó vào giấc mơ và tôi gặp gỡ họ trong giấc mơ ấy. Tôi mong làm
được việc này chuyện nọ mà chưa làm được; trong giấc mơ, tôi làm
được tất cả những chuyện đó. Bởi vậy, biết bao người khi mơ thì
muốn mơ luôn không đậy nữa, hoặc đã lỡ dậy rồi thì nuối tiếc
giấc mơ. Tôi nhớ đến câu hát:
"Tôi đang
mơ giấc mộng dài, đừng
lay tôi nhé
cuộc đời chung quanh." Ở
đây, tôi không có ý nới tới những giấc mơ hãi hùng mà người ta
gọi là ''ác mộng''.
Tuy nhiên, giấc mơ
không phải chỉ phản ảnh những ước mơ trong cuộc sống thực tế
hoặc do sự thúc ép của tiềm thức vô thức. Giấc mơ nhiều khi là
một lời nhắn bảo, hay một điềm báo. Thánh Giuse, trong giấc mơ,
đã thấy thiên thần hiện đến và dặn dò Người phải đem Maria và
hài nhi Giêsu sang Ai Cập lánh nạn (Mạt 2: 13). Giuse trong Cựu
ước cũng đã giải mộng cho Pharaon, để biết được những điều sắp
xảy đến cho đất nước Ai Cập (Kn 41: 17-32).
Tôi không tin những
giấc mơ bao giờ cũng là điểm báo một chuyện gì. Bận tâm với
những gì xảy ra trong mơ, người ta sẽ rụt rè e sợ không đâu và
vì thế làm hư chuyện thực sự phải làm trong đời sống thực tế.
Tôi cũng không phải là người giải mộng, không phải là nhà tâm lí
để đi tìm những ẩn ức của chính mình, được thể hiện trong giấc
mơ. Tôi cũng không dựa vào những điều thấy trong mơ để mua vé số
hay đánh số đề! Tuy nhiên,
tôi hay tìm ý Chúa qua những
giấc mơ.
Chúa để cho mọi chuyện xẩy đến cho tôi, thì giấc mơ của tôi cũng
không ngoài ý Chúa.
Có những giấc mơ tôi
thường mơ đi mơ lại nhiều lần. Một trong những giấc mơ đó là
giấc mơ ''lượm bạc cắc''. Trong mơ, tôi thấy trên đường
đi, những ai đó đã làm rớt không biết bao nhiêu là bạc cắc. Đụng
đâu cũng thấy, nhìn đâu cũng có. Và tôi cúi lưng xuống nhặt,
nhặt thỏa thích; nhét đầy túi mà nhìn xuống đất cũng vẫn còn. Có
điều những đồng bạc cắc đó không sạch sẽ cho lắm, đồng thì đầy
bụi đất, đồng thì dính bùn, đồng thì nằm trên đống rác... Tỉnh
dậy, tôi thường băn khoăn tự hỏi: có phải mình đang sống cuộc
sống tầm thường, là đà dưới đất; đang theo đuổi những mục tiêu
thấp kém; đang cúi mình tìm kiếm những lợi lộc thấp hèn, những
vinh danh phù ảo?
Có lẽ tôi chưa đứng
thẳng dậy, hướng về phía trước, nơi có chân trời nạc sáng. Mắt
tôi còn đang mê mải cúi xuống đất đen, kiếm tìm những đồng bạc
cắc lấm láp rơi rớt đâu đó. Những băn khoăn và tra vấn lương tâm
ấy khiến tôi phản tỉnh. Nếu trước bất cứ mọi chuyện, dù khi mơ
hay lúc tỉnh, sau đó tôi đều biết đặt lại vấn đề và đối diện với
lương tâm như thế, chắc tôi đã khá hơn nhiều lắm.
Một giấc mơ khác tôi
cũng mơ đi mơ lại nhiều lần. Tôi gọi đó là ''giấc mơ trần
truồng''. Trong mơ, tôi thấy mình trần truồng đi giữa những đám
đông. Tôi vô cùng xấu hổ, trốnn đâu cũng không được, che đậy thế
nào cũng không hết. Và tôi cứ phải đi như thế trước bao nhiêu
con mắt dòm ngó của mọi người. Giấc mơ đó cũng khiến tôi nhiều
khi tỉnh dậy cảm thấy băn khoăn. Thường tôi hay tư hỏi: lúc này
tôi có đang hãnh diện, tự hào về một vài ''thành công'' tôi đạt
được? Có phải tôi đang tự khoác cho mình đủ thứ hào quang lộng
lẫy hay trang điểm cho mình bằng đủ thứ khả năng hay đức tính mà
chưa chắc tôi đã thực sự có? Nếu quả tôi đang như vậy, thì qua
''giấc mợ trần truồng'', Chúa nhắc cho tôi biết tôi không là gì.
Tôi sinh ra trần truồng và chẳng có gì đáng hãnh diện. Những gì
tôi có là quà tặng Chúa gửi cho để tôi chia sẻ với anh chị em
khác, nó không phải của riêng tôi, hay của chính tôi, nên tôi
không có lí đo gì để hãnh diện.
Tôi còn nhiều giấc
mơ khác nhưng kể ra đây thì dài dòng lắm. Tôi muôn bạn nhìn về
giấc mơ của bạn. Chẳng biết bạn có ''khả năng'' mơ nhiều và nhớ
nhiều như tôi không, nhưng ít nhiều chắc cũng có những giấc mơ
bạn nhớ. Nhớ nó, không phải để vui với mộng mà quên thực tế;
không phải để bị ám ảnh và lo sợ; cũng không phải để dựa vào nó
mà quyết định mua vật nọ, bán vật kia, Nhưng nhớ nó, để tìm hiểu
xem, qua nó, mình có điều gì cần phản tỉnh, có vấn đề gì thuộc
lãnh vực lương tâm cần xét lại.
Tôi rời bỏ những
giấc mơ ngủ để trở về với giấc mơ đời. Có người định nghĩa về
tuổi trẻ như sau: ''Tuổi trẻ là tuổi
biết ước mơ.
'' Như thế, mỗi
khi ta tự hỏi lòng, mà thấy mình còn biết mơ ước, thì ta cứ yên
tâm rằng mình còn đang là tuổi trẻ. Và như thế, mình cứ vui mà
sống. Thực sự tuổi trẻ là tuổi có nhiều mơ ước nhất, thế thôi,
chứ tuổi nào cũng có ước mơ; và trong hoàn cảnh nào, người ta
cũng vẫn ước mơ. Một giáo sư văn chương của tôi nói rằng:
"Con người là sinh vật chân bước trên mặt đất mà
mắt ngắm trăng sao."
Giấc mơ của tuổi trẻ
thường là giấc mơ đẹp, trong giấc mơ có hơn có bướm, có chàng
hoàng tử xinh trai hay cô công chúa diễm lệ, có một chân trời
rực sáng và một cánh cổng tương lai rộng mở. Giấc mơ ấy được gọi
là Giấc Mơ
Xuân, và
tuổi trẻ cũng được gọi là Tuổi Xuân. Mùa Xuân đẹp như thế
nào thì Tuổi Xuân và Giấc Mơ Xuân cũng đẹp như thế. Nếu Tuổi
Xuân kéo dài và Giấc Mơ Xuân thành sự thật thì có lẽ người ta đã
tìm thấy hạnh phúc và bước chân đã đặt lên ngưỡng cửa thiên
đàng.
Có người xem thường
những ước mơ, cho đó là điều thiếu thực tế. Hãy hành động
hơn là ngồi mơ ước. Đó là châm ngôn của họ. Tuy nhiên,
nếu không có những ước mơ thì người ta cũng không có động lực
biến ước mơ thành sự thật. Bởi thế, theo tôi thì, hãy cứ ước mơ
đi, nhưng đừng chìm đắm trong mơ. Hãy thức tỉnh để hoạt động và
biến ước mơ thành sự thật. Một nhà tư tưởng đã có câu nói thật
dễ thương:
"Ưa mộng mơ, đâu để mộng say lòng,
Theo
lí tưởng, nhưng
thoát vòng không
tưởng."
Nói cho cùng, đời
người cũng là một giấc mơ dài. Chúng ta nghe nhiều đến
''giấc mộng kê vàng'', nằm mộng thấy cả cuộc đời mình mà
tỉnh dậy nồi kê chưa chín. Trong
"giấc
mơ dài'' đó, ta đã làm gì, đã sống thế nào, đã thực hiện được
chút gì mục tiêu của ''giấc mộng dài'' đó chưa? Đã gọi là ''giấc
mơ" thì thế nào cũng có lúc thức tỉnh. Đối với những người ý
thức, thì khi thức tỉnh tức là lúc ta đã trọn vẹn giấc mơ, để
trở về với cuộc sống thật, cuộc sống vĩnh hằng bên Thượng Đế.
Hạnh phúc cho ta, nếu trong giấc mơ đời, ta biết mơ về Đấng đã
tạo dựng nên ta và gửi ta và giấc mơ tươi đẹp. Nếu trong giấc mơ
đời ta không mơ về Thượng Đế, thì khi trở về, ta quên mất Ngài
và lòng chỉ lưu luyến với những gì ta đang mơ trong giấc mơ đời.
Khi đó, có lẽ Thượng Đế cũng chỉ nhìn ta như một người xa lạ.
Ngày xưa, có lần
Trang Tử nằm mơ thấy mình hóa bướm, tỉnh dậy bâng khuâng tự hỏi
không biết mình là người hay là bướm. Mình là người rồi nằm mơ
thành bướm, hay mình là bướm và đang nằm mơ là người? Giấc mơ
Trang Tử cho ta thấy cái tương đối và hư không của đời sống.
Trang Tử đã mơ và đã băn khoăn, giấc mơ và nỗi băn khoăn của một
triết gia.
Với tôi, một người
Công giáo, tôi không băn khoăn như Trang Tử. Thực ra tôi cũng
băn khoăn, nhưng nỗi băn khoăn của tôi nó khác. Giả dụ tôi cũng
mơ thành bướm như Trang Tử, nỗi băn khoăn của tôi sẽ thế này:
nếu tôi la người, tôi có biết dùng đôi chân để đi trên nẻo đường
Chúa đã dẫn lối? Và nếu tôi là bướm, tôi có dùng đôi cánh để bay
lượn khắp cả trời Xuân, tìm cho ra Đấng được gọi là Chúa của mùa
Xuân bất diệt?
Tôi yêu những Giấc
Mơ Xuân. Tôi yêu những giấc mơ khi ngủ và yêu cả giấc mơ đời.
Đời người ta, nếu được dệt bằng những giấc mơ đẹp và ước mơ thần
tiên thì đẹp đẽ biết bao nhiêu. Và với tôi, giấc mơ đẹp nhất,
ước mơ thần tiên nhất là giấc mơ và ước mơ được luôn gần gũi với
Chúa của mùa Xuân.
Nhà Văn Quyên Di
|
VỀ MỤC LỤC |
|
SỐNG VIÊN MÃN BA LỜI KHẤN DÒNG
|
Tác phẩm NGƯỜI NỮ TU SỐNG TU ĐỨC TOÀN DIỆN
tác giả: Lm. Micae-Phaolô Trần Minh Huy pss
LỚP THẦN HỌC LIÊN
TU SĨ - TÒA GIÁM MỤC BÙI CHU (2008
- 2009)
CHƯƠNG VII : SỐNG VIÊN MÃN BA LỜI
KHẤN DÒNG
A.
DẪN
NHẬP TỔNG QUÁT
I. NỀN
TẢNG THÁNH KINH CỦA ĐỜI SỐNG THÁNH HIẾN
1. Vai trò
của Thánh Kinh trong việc hiểu đời sống thánh hiến. Trong lời
kêu gọi của vài môn đệ sau Phục ainh, Thánh Kinh đóng hai vai
trò căn bản này:
-
Lời của
Đấng Phục sinh sáng tạo những hình thức mới của con
đường đồ đệ đi theo Thầy (discipleship) trong cộng đoàn
của Ngài. Điều đó quá rõ ràng trong suốt dòng lịch sử
của đời sống thánh hiến.
Thánh Kinh
được sử dụng như nguồn linh hứng và chuẩn mực phê phán
tính chính thống của những hình thức cụ thể của con
đường đồ đệ đi theo Thầy.
2. Các đặc
điểm của lời kêu gọi của Chúa ở trong Thánh Kinh:
-
Chúa kêu
gọi trong cách thức cá nhân
Chúa có
sáng kiến đi bước đầu
Chúa tín
trung với những ai đã được kêu gọi
Chúa cung
cấp cho chúng ta những ơn cần thiết để đáp trả lời kêu
gọi của Ngài (Chúa ban khi Chúa truyền)
Chúng ta
được kêu gọi để phản ánh trung thực đời sống giản dị của
Chúa
Chúa coi
trọng cái không là gì và bất xứng để hạ nhục những kẻ
chỉ tin vào quyền lực và sự giàu có của họ.
Sứ vụ đòi
hỏi phải vất vả, nhưng có sự hiện diện bảo đảm của Chúa.
Lời kêu gọi
của Chúa sinh hoa kết trái trong một đời sống phục vụ.
Những ai đã
đáp trả nhưng có sợ hãi và nghi ngờ, hãy ý thức về sự
cao cả của sứ vụ và những yếu đuối của con người mình.
3. Năm phần
của trình thuật ơn gọi
-
Giới thiệu
(mạc khải) kèm theo cuộc đối thoại giữa Chúa và con
người
Phản bác
của con người: xác nhận rằng lời kêu gọi đến từ Chúa,
con người không tự kêu gọi mình.
Trả lời của
Chúa: Chúa bảo đảm và ký nhận: “Ta sẽ ở với con”
Kết luận
của con người: Con người chấp nhận lời kêu gọi của Chúa.
II. Ý NIỆM
VỀ LỜI KHẤN DÒNG
Từ thế kỷ 13, lời
khấn Dòng gồm hai khía cạnh: Hứa trọng thể hay cam kết; Biệt
riêng ra: hiến dâng chính mình cho Chúa, được Giáo Hội chúc lành
và xác nhận.
Chúng ta tìm thấy
gì về ý niệm này trong Thánh Kinh?
1. TRONG CỰU ƯỚC
a. Khảo sát đầu
tiên: Lời khấn của Giacóp (St 20, 10-22); Lời khấn của Anna
(1 Sm 1,1-28); Lời khấn của Giép-tê (Thủ lãnh 11). Hình thức:
“Nếu Chúa… thì tôi…” trong bối cảnh có tính cách điều kiện
b. Khảo sát thứ
hai
BERIT (“Lời Thề”
trong tiếng Dothái): Một thỏa thuận giữa hai bên. Có hai thứ:
·
Berit (lời thề)
đơn phương: một bên hứa, bên kia không phải làm gì lại, trừ
việc tin và chấp nhận lời hứa ấy.
·
Berit song
phương hay hỗ tương (giao ước): Cả hai bên đều hứa với nhau.
Trường hợp thất bại không thực hiện được các điều kiện thì sự
thỏa thuận bị bãi bỏ. Ví dụ: St 1,1 -2,4. Đâu là sự thỏa thuận
giữa Thiên Chúa và nhân loại?
Đâu là những
ví dụ khác của Giao Ước?
Lv 27; Dnl 12,6-12;
23,22-24: bàn về một lời khấn hứa: Vật để riêng ra; khấn hứa với
chúa súc vật, hoa quả tiến dâng, đồng ruộng, đồ vật: tất cả
những thứ này trở thành thánh thiêng và được sử dụng cho phượng
tự.
Ds 6,1-21: Lời thề
Nazarite áp đặt một số thực hành: kiêng rượu; không cắt tóc;
không đến gần xác chết. Trong tất cả những trường hợp này có: để
riêng ra cho Chúa, thề hứa trọng thể, phải được chăm sóc.
2. TRONG
TÂN ƯỚC
Trừ lời thề hứa của
thánh Phaolô trong Cvtđ 21,23-26 (x. Cvtđ 18,18) thì Thề hứa
không có chỗ trong Tân Ước: Tân Ước không nói tới danh từ Khấn
Hứa.
Điều này mời gọi
chúng ta tương đối hóa các lời thề hứa trong các khía cạnh thánh
thiêng, hiến thánh, như một diễn tả đặc ân của đời sống thánh
hiến.
Lk 1,67-79 bắt đầu
với berit đơn phương và phát triển thành berit song phương.
Thiên Chúa rõ ràng là người khởi xướng.
Lời khấn dòng là
một tiến trình. Chúa nắm lấy tôi và tôi thưa “Con là của Chúa”:
một đáp trả với Chúa, Đấng đã làm một lời thề hứa với tôi.
Lời thề hứa đó bao
gồm Đức Tin: Tất cả những gì Chúa đòi hỏi chúng ta là chấp nhận
và tin, chứ chúng ta không thể kiếm được hay xứng đáng với tình
yêu của Chúa:
Ga 3,16-17: “Vì
Chúa đã quá yêu thương thế gian…”; Thiên Chúa thầm thỉ với thế
giới qua con người của Chúa Giêsu cái chữ “TÌNH YÊU”; Điểm nhấn
hùng hồn nhất của tình yêu đó là cái chết của Chúa Giêsu trên
thập giá: “không có tình yêu nào lớn hơn tình yêu của người chết
cho người mình yêu…”
Chúng ta được kêu
gọi đáp trả trong Tình Yêu và Tự Do: Tình yêu đáp trả Tình yêu.
Khấn hứa với Chúa là con đường tôi yêu Chúa trở lại: yêu thương
lẫn nhau: “cứ dấu này mà các con được nhận biết là môn đệ của
Thầy”; yêu thương kẻ thù của mình (một sự bắt chước Chúa Giêsu);
đáp trả đích thực với Chúa: “con sẽ tự thánh hóa như Cha là
thánh” (Mt 19:21): ý nghĩa của THÁNH HIẾN, nghĩa là làm cho nên
thánh thiện.
III.
Các LỜi Khuyên Phúc
Âm tỪ viỄn Ảnh cỦa Giao ƯỚc
Đời sống thánh hiến
có nền tảng trong Giao Ước. Thiên Chúa đã thiết lập tương quan
và một Giao ước với toàn dân và tạo thành. Phần căn bản của Giao
ước này là Giới răn yêu thương.
Đời sống thánh hiến
nỗ lực sống giao ước và giới răn yêu thương này trong tình yêu
độc thân thanh khiết, nghèo khó và vâng phục. Ba lời khuyên Phúc
Âm diễn tả sự hiến dâng trọn vẹn cho Giao ước.
Đời sống thánh hiến
là đời sống phù hợp với giao ước mới: Thanh khiết biểu lộ tình
yêu với tất cả con tim của chúng ta; Vâng lời diễn tả tình yêu
với tất cả linh hồn chúng ta; và Khó nghèo diễn tả tình yêu với
tất cả sức lực của chúng ta. Nhưng phân tích cho đến cùng thì
mọi sự đều qui về một lời khuyên và giới răn là TÌNH YÊU.
Các lời khuyên Phúc
Âm phải được hiểu trong viễn ảnh ân sủng, chứ không phải từ
chính nỗ lực của chúng ta. Thực hiện một lời khấn trước hết là
một quà tặng của Chúa Thánh Thần. Chúng ta được mời gọi lãnh
nhận quà tặng đó và để Chúa Thánh Thần mang quà tặng ấy đến sinh
hoa kết trái phong phú.
Đời sống thánh hiến
được đồng nhất hóa với việc theo Chúa Kitô, bắt chước cách sống
của Ngài. Nhưng đàng sau cái đó phải có kinh nghiệm về Chúa
Giêsu Kitô là Đấng Cứu Độ. Chỉ những ai được cứu độ (những ai đã
trải nghiệm ơn cứu độ) mới có thể theo gương Chúa Giêsu, nhờ
Chúa Thánh Thần ban quyền cho được làm như vậy.
Ba lời khuyên Phúc
Âm có liên quan đến và nghịch lại ba lời khuyên khác do thế gian
là quyền lực, của cải và giới tính:
·
Vâng Phục mời gọi
chúng ta từ bỏ quyền lực thế gian để trở nên người phục vụ của
Tình Yêu, lắng nghe và hành động không áp bức người khác.
·
Khó Nghèo kêu mời
chúng ta từ bỏ của cải thế gian để trở nên những người anh chị
em nhỏ bé của Tình Yêu, trở nên một với những ai đang đau khổ,
cầu nguyện và hành động cho sự giải phóng của họ.
·
Thanh Khiết mời gọi
chúng ta từ bỏ khoái lạc thế gian để trở nên những người bạn của
Tình Yêu, giúp người khác khám phá ra rằng họ đang được yêu và
mời gọi họ yêu thương.
“TÔI KHẤN VỚI THIÊN
CHÚA”
(khao khát, tìm
kiếm, hiến dâng trọn vẹn cho Chúa)
Hiến dâng cho Chúa
và Nước Chúa là một quà tặng của Chúa Thánh Thần, đồng thời là
một cam kết tự do (chiều kích đặc sủng)
Điều này nhằm tin
tưởng, đi theo và bắt chước Chúa Giêsu, trong tình yêu của Ngài
đối với Thiên Chúa và tha nhân, “với trọn vẹn con tim (độc thân
thanh khiết), với tất cả linh hồn (vâng phục), và với tất cả sức
lực (khó nghèo)”, luôn trung thành với giao ước.
Điều này hàm ý: Tìm
kiếm Nước Thiên Chúa trong sự công chính của Nước ấy (chiều kích
thần bí); Phục vụ Nước Thiên Chúa ở trong Giáo Hội và ở trong
thế giới (chiều kích truyền giáo và chính trị); Thiết lập một
cộng đoàn khác (thay thế) của Nước Thiên Chúa (chiều kích cộng
đoàn); Làm dấu chỉ của Nước Thiên Chúa (chiều kích biểu tượng và
tiên tri) và Làm chứng tá cho giao ước mới với tạo thành mới
(chiều kích sinh học, môi trường)
IV. GIỚI RĂN VÀ
LỜI KHUYÊN PHÚC ÂM
Một người hoàn
hảo/thánh thiện sống trong liên hệ với Chúa, kết nối với Chúa,
trong khi không tách biệt với dân chúng mà vẫn là duy nhất/hoàn
toàn khác với các giá trị của thế gian.
Ý niệm phổ biến của
đời sống thánh hiến được tìm thấy trong Đức Ái Hoàn Hảo
(Perfectae Caritatis) nói về việc theo đuổi sự hoàn thiện kitô,
về “các lời khuyên Phúc Âm”
Giả thiết một phân
biệt giữa các giới răn/qui tắc và các lời khuyên:
·
Giới răn/Qui tắc
(cấp độ thứ nhất): cái bạn phải làm, ràng buộc bất cứ ai; bó
buộc vì lợi ích của tất cả mọi người.
·
Lời khuyên Phúc Âm
(cấp độ thứ nhì): Lợi ích phải giữ, nhưng không bắt buộc (tự ý
chọn). Tự do được ân sủng trợ lực, được hứa một phần thưởng đặc
biệt.
Đời sống thánh hiến
hệ tại một sự tự bó buộc mình phải giữ những lời khuyên không
bắt buộc thêm vào những qui tắc cần thiết. Phải chăng đó là sự
phân biệt thực sự được tìm thấy trong Phúc Âm? Phải chăng thực
sự có thể phân biệt giữa các qui tắc và các lời khuyên trong
giáo huấn của Chúa Giêsu được tìm thấy trong các Phúc Âm và các
thư của các tông đồ?
Giới răn yêu
thương, tâm điểm của luật cũ và luật mới: là đòi hỏi căn bản,
cần thiết cho tất cả mọi người; là một qui tắc, nhưng không thể
diễn dịch ra bằng công thức pháp lý với những giới hạn cố định
của nó được. Nó cũng là một lời khuyên: người ta chọn sống yêu
thương, nhưng vẫn sẽ luôn luôn còn xa với lý tưởng.
Một cách nào đó, có
thể lấy lời kêu gọi của người thanh niên giàu có trong Mt
19,16-22 để phân biệt giữa giới răn và lời khuyên.
Các ý niệm về qui
tắc và lời khuyên dựa trên một tiến trình pháp lý không áp dụng
được cho các đòi hỏi Phúc Âm. Tất cả các lời khuyên đều bó buộc,
nhưng không như một luật mà như hậu quả của việc một người sáp
nhập vào Chúa Kitô: chọn lựa được thực hiện trong tự do.
Đặt nền tảng các
lời khuyên PA trên tự do là cái đặc trưng cho “luật mới”, một
luật cho phép người môn đệ của Chúa Kitô được chọn con đường tốt
hơn dẫn tới ơn cứu độ và đời sống hoàn hảo, chứ không bị bắt
buộc phải làm như vậy.
Mọi kitô hữu đều ở
dưới luật của tự do do ân sủng và phấn đấu tìm kiếm ý Thiên Chúa
và yêu mến Ngài hết sức mình có thể. “Luật Mới” không thêm gì
vào luật luân lý của Cựu Ước (x. Rm 13,10; Gal 5,14). Cái “mới”
trong “luật mới” chính là ân sủng hay quyền năng của Chúa Thánh
Thần để sống phù hợp với giới răn yêu thương, đồng thời chia sẻ
sứ mệnh của Chúa Giêsu là hiến dâng mạng sống vì phần rỗi của
thế giới trong khi chu toàn ý muốn của Thiên Chúa.
Chỗ đứng của các
lời khuyên Phúc Âm là ở trong vương quốc tình yêu của Thiên
Chúa: Tình yêu mà Thiên Chúa đã yêu chúng ta trong Con của Ngài,
và bởi tình yêu đó Ngài ban quyền cho chúng ta, nhờ Chúa Thánh
Thần, để chúng ta lại sống như Chúa Kitô và với Chúa Kitô.
Giới Răn và Lời
Khuyên cùng lúc: Bắt chước Chúa Kitô bằng cách uốn nắn đời mình
như một hành động tình yêu là giới răn chung cho mọi kitô hữu.
Giới răn này xuất hiện cho một kitô hữu trước tiên như một lời
khuyên cá nhân, như một lời mời gọi khuyên nhủ và thúc đẩy của
Chúa Thánh Thần. Giới răn và lời khuyên này có thể được sống chỉ
nhờ vào ân sủng.
Tính duy nhất và
bình đẳng của con đường kitô: Mọi người đã chịu phép Rửa Tội đều
phải vượt quá các qui tắc đạo đức của các giới răn nhờ việc rộng
mở cho lời mời gọi muôn thuở của Thiên Chúa, hầu làm việc cho
phần rỗi của mình.
Con đường của người
kitô hữu là con đường của Tám Mối Phúc Thật, chứ không phải là
con đường của các giới răn.
Cái cốt yếu của đời
sống thánh hiến không còn là lời khấn (chỉ nhìn hạn hẹp về mặt
pháp lý) hay là các lời khuyên Phúc Âm (nếu chỉ hiểu chủ yếu
theo nghĩa khổ hạnh). Nền tảng của Phúc Âm là việc bắt chước
Chúa Kitô, đồng thời chia sẻ con đường và thân phận, công việc
rao giảng và cứu độ của Ngài. Chính từ viễn ảnh này mà ba lời
khuyên PA đã được nhìn thấy.
Luật căn bản của
đời sống thánh hiến là luật của tình anh em và tình chị em. Luật
này chỉ được thực thi ở trong các cộng đoàn với qui mô có thể
điều hành được.
Các tu sĩ phải sống
giữa lòng thế giới. Họ phải sẻ chia thân phận của những ai sống
trong thế giới và cùng giao hảo với họ.
V. Ý NIỆM VỀ SỰ
THÁNH THIỆN TU SĨ
Là
thánh thiện nghĩa là gì? Sống hẳn hoi về mặt luân lý đã đủ chưa?
(x. Lk 18,9-14: người pharisiêu và người thu thuế lên Đền thờ
cầu nguyện).
Phải chăng các tu sĩ là tốt hơn những người tín hữu kitô khác vì
họ sống theo các lời khuyên Phúc Âm? Phải chăng các giới răn thì
nói với tất cả mọi người, còn các lời khuyên Phúc Âm thì chỉ nói
với một số ít linh hồn được tuyển chọn? Phải chăng chỉ có ba lời
khuyên Phúc Âm thôi hay còn nhiều nữa?
Sự
thánh thiện kitô không phải chủ yếu ở sự hoàn hảo luân lý và
những nhân đức nhân bản anh hùng, nhưng chủ yếu và trong ý nghĩa
sâu xa nhất là vinh quang và tình yêu Thiên Chúa ban cho những
người được cứu chuộc, mà không cần đến bất cứ công nghiệp nào về
phía họ (x. Roma và Galat)
Chỉ
một mình Thiên Chúa là thánh: Ngài chính là sự thánh thiện (1 Sm
2,2). Chúa Kitô là thánh trong cả thần tính và nhân tính của
Ngài: Ngài là Đấng Thánh duy nhất của Thiên Chúa (x. Ga 6,69)
Sự
thánh thiện của chúng ta là một sẻ chia của sự thánh thiện của
Chúa Kitô trong Chúa Thánh Thần. Chúa Kitô là « sự thánh hóa »
của chúng ta (1 Cor 1,30). « Từ sự sung mãn của Ngài mà chúng ta
đã lãnh nhận tất cả, hết ơn này đến ơn khác » (Ga 1,16)
Những ai được Thiên Chúa kêu gọi đến sự thánh thiện không trực
tiếp nhận lãnh sự thánh thiện của Chúa Kitô, duy chỉ trong cuộc
gặp gỡ tư riêng giữa hai nhân vị, nhưng là nhận lãnh ở trong
Giáo Hội (là cộng đoàn của Dân Chúa). Cùng với Giáo Hội và ở
trong Giáo Hội, mỗi kitô hữu đứng trước mặt Thiên Chúa, « một
mình Ngài là thánh »
Tất
cả mọi người đều được kêu gọi đến sự thánh thiện, nói cụ thể là
tình yêu trọn hảo, hay chính xác hơn là lòng nhân hậu trọn hảo
đối với các cận nhân của mình (x. Mat 5,48; Lk 6,36). Đó là tình
yêu hoàn toàn vượt quá sức lực của chúng ta, vì thế chúng ta chỉ
có thể đạt được nhờ sự giúp đỡ của ân sủng Chúa. Ân sủng này là
ơn thánh hóa cho nên công chính. Ơn này biến đổi một con người,
kết hợp người đó với Chúa Kitô, làm cho người đó nên một người
con của Thiên Chúa trong Chúa Kitô, được sẻ chia trong bản tính
thần linh (sự sống, sự thánh thiện và vinh quang của Thiên
Chúa : 2 P 1,4). Đức Tin và Phép Rửa Tội là điều kiện tiên quyết
và là nguyên nhân dụng cụ của sự thánh hóa này.
VI. NỀN TU ĐỨC KITÔ CĂN BẢN
Con
đường đưa một tín hữu đến ơn cứu độ tùy thuộc cách sâu xa nhất
vào sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần và sự thúc đẩy của ân sủng
Ngài.
Vì
thế, trong mọi lúc và ở mọi tình huống cuộc sống, người tín hữu
phải lắng nghe tiếng Chúa Thánh Thần tỏ cho biết ý của Thiên
Chúa cho mình và vâng theo. Sự vâng lời này là cái mà Phúc Âm
gọi là tôn thờ Chúa Cha trong tinh thần và trong chân lý (x. Ga
4,23), và có nghĩa là tuyệt đối mở lòng ra cho Chúa và tuyệt đối
ngoan ngoãn với Ngài.
Đi
theo con đường nên thánh này có nghĩa là đi theo Chúa Kitô nghèo
khó và khiêm nhường vác lấy Thập giá. Trên con đường này, nhiệm
vụ chính của người kitô hữu là có một đức tin sống động khơi
nguồn hy vọng và hành động với tình yêu.
Theo LG 42, Tình Yêu = Bác Ái là quà tặng đầu tiên và rất cần
thiết được biểu lộ ra bằng: Tử đạo, Trinh khiết, Khó nghèo và
Vâng lời.
Theo 1 Cor 12,1-14,40, Tình Yêu = Bác Ái là quà tặng đầu tiên và
hết sức cần thiết. Các đặc sủng luôn liên hệ tới tình yêu = bác
ái :
·
đặc sủng thuyết giáo : tông đồ, ngôn
sứ, thầy dạy, thánh sử và khuyên bảo, linh hứng, xuất thần, nói
các thứ tiếng và những đường lối khác để tuyên xưng đức tin.
·
đặc sủng phục vụ bác ái : Phó tế,
người chăm sóc bệnh nhân, bố thí, giúp đỡ cô nhi góa phụ. Chữa
bệnh, trừ quỷ và các kiểu giúp đỡ khác.
·
đặc sủng cai quản : các chủ chăn
(Giám mục, linh mục).
VII. BỐn cỘt trỤ chỐNg ĐỠ Ba LỜi KhẤn DÒng:
ChÚa GiÊsu, PhÚc Âm, CỘng ĐOÀN vÀ chỨng tÁ sỨ vỤ truYỀn giÁo
1. Cột trụ thứ nhất: CHÚA GIÊSU
Đặt
trọng tâm vào Chúa Giêsu và theo sát dấu chân của Ngài: Chúa
Giêsu là trung tâm của Nước Trời và như chính Nước Trời. Chúa
Giêsu là diễn tả tình yêu của Chúa Cha (Mk 10,45; Ga 15,9). Chỉ
Chúa Giêsu là Chủ, là người lãnh đạo (Mt 23,8-10), là “Đường, Sự
Thật và Sự Sống” (Ga 14,6). Chúa Giêsu là Chúa Chiên Lành đã
hiến mạng sống vì đoàn chiên (Ga 10, 1-18). Chúa Giêsu là Thầy
và là Chúa: “Các con gọi Ta là Thầy là Chúa, và quả đúng như
vậy” (Ga 13,13-14)
Để
suy tư và chia sẻ: Chúa Giêsu là ai đối với tôi? Đâu là hình ảnh
tôi có về Ngài? Đâu là hình ảnh Thánh Kinh về Chúa Giêsu có ý
nghĩa nhất cho tôi trong cuộc sống và ơn gọi của tôi bây giờ?
Hình ảnh tôi có về Chúa Giêsu có thay đổi theo năm tháng trải
qua những kinh nghiệm sống đa dạng của tôi không?
Mỗi
người môn đệ đều được gọi từ trong hoàn cảnh đặc biệt và đường
lối riêng của mình để: ở với Chúa Giêsu (Mk 3,13); đi theo Chúa
Giêsu (Mk 1,17); Chúa Giêsu ở đâu thì ở đó với Ngài (Ga 12,26);
Khẳng định Chúa Giêsu là cuộc sống của mình (Gal 2,20); ở lại
trong Chúa Giêsu và trong tình yêu của Ngài (Ga 15,4.9), với đôi
mắt luôn chăm nhìn vào Ngài (Dt 12,2): Tư thế chiêm niệm của
người đồ đệ.
Tư
thế chiêm niệm này và tất cả sự gắn bó với Chúa Giêsu làm cho
người đồ đệ có khả năng sống một đời sống từ bỏ vì Nước Trời (Mk
8,34; 9,1; Mt 10,37-39)
Sự
ưu tiên tuyệt đối cho Chúa Giêsu sẻ đòi hỏi người đồ đệ rời bỏ
gia đình, của cải và địa vị (Mt 10,24), vài quyết định quyết
liệt (Mk 9,43-47), kể cả bách hại và cái chết (Mt 24,9).
Cường lực cánh chung phù hợp với cột trụ này: chưa phải là một
thực tại, mới là cái nhìn thoáng thấy trong điều kiện tốt nhất,
nhưng là một trông đợi, một nỗ lực đi gấp đến ngày của Chúa (2
Pt 3,12); mời gọi chúng ta tỉnh thức (1 Pt 2,11); ra ngoài (Dt
13,12-14), hành trình; thuộc về một cộng đoàn đang được hình
thành để chúng ta hợp tiếng kêu lên “Maranatha, lạy Chúa Giêsu
xin hãy đến!” (Kh 22,17-20).
2. Cột trụ thứ hai: PHÚC ÂM
Phúc Âm như là Sứ điệp được chuẩn bị bởi lịch sử dân Israel,
được rao giảng đầy đủ bởi Chúa Giêsu và được vang vọng trong lời
giảng của các tông đồ, mà Nội dung là sự ngự đến của Nước Trời
của Chúa Giêsu. Nhân loại cần phải nhận ra sứ điệp và nội dung
đó.
a. Tin Mừng đã được chuẩn bị bởi lịch sử dân Israel:
con người không thể kiện toàn chính mình, cứu độ chính mình bởi
sức riêng mình. Chính Chúa Giêsu đã nói rằng con người vốn xấu
Mt 7,11), nguồn gốc sự dữ ở trong lòng con người (Mk 7,21-23),
và cả khi con người đã làm tất cả những gì có thể làm thì đối
với chủ của mình, con người vẫn là một “tôi tớ vô dụng” (Lk
17,7-10).
Thánh Gioan cũng nói đến một điểm tương tự: nói rằng mình không
có tội là bảo Thiên Chúa là một kẻ nói dối (1 Ga 1,8-10). Thánh
Phaolô cũng nói đến trong giáo thuyết về sự công chính hóa nhờ
đức tin của ngài. Quả thật, Thiên Chúa đã biểu lộ sự chấp nhận
vô điều kiện của Ngài đối với những người nghèo hèn, chống đối,
bất lực, tội lỗi, thù nghịch và ban cách nhưng không cho họ ơn
cứu rỗi của Ngài (ở bình diện cá nhân cũng như toàn thể nhân
loại).
b. Tin Mừng được rao giảng đầy đủ bởi Chúa Giêsu: sự
bất lực căn để của con người và Tình thương nhân hậu của Thiên
Chúa. Thiên Chúa cứu độ không vì lý do nào khác ngoài Chính Ngài
(Mt 5,43-48). Chính trên nền móng nghèo hèn này của nhân loại mà
mầu nhiệm của Thiên Chúa “ngự trong ánh sáng siêu phàm” (1 Tm
6,16). Ngài đã không tha chính Con của Ngài (Rm 8,32), nhưng “ã
ban chính người Con đó cho thế gian (Ga 3,16).
Phúc Âm gợi lên hai động thái nội tâm:
·
Tỏ
lòng thán phục trước Phúc Âm, diễn tả trong ca ngợi và tạ ơn vì
niềm vui vừa khám phá được.
·
Chăm chỉ lắng nghe hay Vâng phục Phúc Âm (Rm 10,16) dẫn đến sự
Hoán Cải của con người, một sự thay đổi con tim và đức tin vào
tin mừng (Mk 1,15), trong bối cảnh một cá nhân, cộng đoàn và
hoàn cảnh lịch sử [đó là ý nghĩa Thánh Kinh sâu xa nhất của từ
ngữ Vâng phục]
c. Tin Mừng được vọng lại trong lời giảng của
các tông đồ. Thí dụ về kinh
nghiệm hoán cải: CVTđ 16,11-15.
Vâng phục Phúc Âm trở thành kỳ vọng, trung tín, kiên vững (tầm
quan trọng của tất cả những đề tài này rất được biết đến trong
lời giảng của Chúa Giêsu).
Đời
sống thánh hiến không thể tồn tại nếu không qui chiếu vào Phúc
Âm của Chúa Giêsu Kitô. Chính là qua Phúc Âm mà chúng ta biết
được Chúa Giêsu và sứ vụ của Ngài. Chính nhờ Phúc Âm mà chúng ta
chiêm ngắm mỗi ngày trong cầu nguyện và phụng vụ để tương quan
của chúng ta với Chúa Kitô Phục sinh được đào sâu.
Như
thế, hai cột trụ Chúa Giêsu và Phúc Âm nối kết chặt chẽ với
nhau.
3. Cột trụ thứ ba: CỘNG ĐOÀN
Quan điểm Dothái-Kitô giáo về đức tin và đời sống kitô là căn
bản có tính cách cộng đoàn. Đó là cộng đoàn tu, khởi đầu với
hình thức tu đạo rất gần gũi với việc thực hiện lý tưởng cộng
đồng của Tân Ước, như được tìm thấy trong các đoạn Thánh Kinh
sau đây:
·
Mt 18
·
Cvtđ 2,42-44;
4,32-34
·
1 Cor 12,4-30
a. Bản chất:
Cộng đoàn tự nó được hiểu như Giáo Hội, một kết quả của một cuộc
triệu tập của tiếng gọi thần linh nhằm thiết lập một sự tụ họp.
Cuộc tụ họp này bao gồm: sự đa dạng của các ân ban, ơn gọi, phận
vụ, và nhiều sự bổ túc đa dạng; một thân mình duy nhất mà cấu
trúc là chính Chúa Kitô và tính năng động của đời sống và Thần
Khí của Ngài (1 Cor 12). Nguồn gốc của cộng đoàn và kiểu mẫu của
hiệp nhất là sự hiệp nhất của Chúa Cha và Chúa Con (Ga 17,
21-22) sống trong một không gian cụ thể, toàn thể mầu nhiệm về
Giáo Hội.
b. Các nhiệm vụ
chính yếu: Trở nên một cộng đoàn lắng nghe và vâng phục;
cuộc tụ tập được thực hiện khi ở giữa nó vang lên Lời Chúa và
lời dạy của các tông đồ trong viễn ảnh giao ước mới (CVtđ 2,42);
Trở nên một cộng đoàn tuyên tín khi hồi tưởng và cử hành việc
“tưởng niệm” các kỳ công của Thiên Chúa trong lịch sử Israel và
của Chúa Giêsu. Đó là một tập hợp để tạ ơn (Thánh Thể) và ca
ngợi được hiện tại hóa bằng việc lắng nghe và tuyên xưng cái gì
đó về lý tưởng của cộng đoàn đầu tiên.
c. Luật
nền tảng: “Hãy yêu
thương cận nhân như chính mình” (Mk 12,28-34; Rm 13,8-10): Việc
thực hành hiệu quả luật nền tảng này phân biệt rõ các môn đệ của
Chúa Giêsu (Ga 13,34-35), bao gồm những việc phục vụ cụ thể sẽ
được đền đáp (Mk 9,41; 1Ga 3,17-18), nâng đỡ lẫn nhau (Eph 4,2),
yêu thương kẻ thù (Mt 5,43-48; Rm 12,20), không xét đoán (Mt 7,
1-2; Rm 14,4-10), luôn luôn tha thứ (Mt 6,14-15; Col 3,13; Eph
4,32)
Nhờ đó mà sống thấm
đậm vừa tình người vừa tình kitô, ở đó có sự hiện diện của chính
Chúa (Mt 18,20) và của Thần Khí của Ngài (Rm 5,5). Do đó, đời
sống cầu nguyện cá nhân và cộng đoàn là thiết yếu.
d. Các cơ
cấu: Vì là nhiều nên cần có: những dịch vụ phối hợp, lãnh
đạo để tạo dễ dàng, khích lệ, nâng đỡ Sứ Vụ trong các hình thức
đa dạng của các hoạt động tông đồ (1 Th 5,12; 1 Cor 16,16; Dt
13,17); sự bình đẳng huynh đệ của mọi thành viên (Mt 23,8-12;
18,1-4,10). Vâng phục là ưu tiên đối với chương trình của Chúa,
bao gồm sự chấp nhận kẻ khác trong sự khác biệt và tự do của họ,
ý muốn làm vui lòng họ (Rm 15,2) và giúp đỡ phục vụ lẫn nhau
trong tình thương (Gal 5,13).
Cộng đoàn kitô
(Giáo Hội) dựa trên 1 Cor 12,28:
·
Các Tông đồ:
·
kế vị: các giám mục
·
tình trạng: thẩm quyền Giáo
Hội
·
phận vụ: giáo thuyết vững
chắc dựa trên tông truyền, chủ sự Phụng vụ và ban hành các bí
tích, bảo đảm sự duy nhất trong xác tín liên quan đến đức tin và
luân lý,
·
những mối nguy hiểm: hấp
thụ các sứ vụ đặc sủng vào trong phận vụ giáo sĩ, trở nên đình
trệ trong các hình thức/đường lối truyền thống và kết thúc ở tệ
quan liêu.
·
Các Tiên tri:
·
kế vị: các tiên tri cá
biệt, các nhóm cơ cấu (cộng đoàn tu sĩ)
·
tình trạng: sứ vụ đặc sủng
·
phận vụ: biện phân ý Chúa
cho Giáo Hội hôm nay, đọc ra các thời triệu; giới thiệu kiểu mẫu
mới của những người theo Chúa Kitô trong các tình huống mới của
xã hội, chính trị và kinh tế; đóng vai trò chỉnh sửa về khuynh
hướng quá ham tiện nghi trong Giáo Hội.
·
những mối nguy hiểm: không
muốn để mình chịu thử thách và thử nghiệm bởi thẩm quyền Giáo
Hội; quên đi rằng sứ vụ này nhằm phục vụ hạnh phúc của toàn thể
Giáo Hội chứ không phải để độc tài.
·
Các Thầy dạy:
·
kế vị: các nhà thần học
·
tình trạng: sứ vụ đặc sủng
·
phận vụ: trách nhiệm về sự
đi qua của truyền thống giáo lý và Lời Chúa; chú giải truyền
thống bằng cách cung cấp kiểu mẫu mới cho việc chú giải.
·
những mối nguy hiểm: trở
thành cái loa của hệ thống phẩm trật; tự phụ là phận vụ giảng
dạy chính thức của Giáo Hội.
e. Dụng cụ
chia sẻ (Cvtđ 2,44;
4,32) bao gồm: Từ bỏ của cải vì cộng đoàn và vì lợi ích của sứ
vụ, do đó không ai phải bần cùng (Cvtđ 4,34); Lời của Chúa Giêsu
cho mọi tín hữu được thực hiện (Mk 10,21); Đặt niềm tin không
đúng vào của cải vật chất là nguyên nhân của lo âu/ bận tâm (Mk
6,25-34), lừa dối/quyến dũ (Mk 4,19), một kho tàng giả (Mt
6,19-21); Bổn phận giải phóng người nghèo cũng là nhiệm vụ của
người môn đệ (bao gồm cả việc chia sẻ với người nghèo).
f. Đời sống độc
thân và cộng đoàn: Từ bỏ hôn nhân vì Nước Trời là động lực
tu trì (Mt 19,10-12; 1Cor 7,25-35). Sự thân mật với Chúa Giêsu
tràn xuống trên các mối tương quan của mỗi thành viên trong cộng
đoàn và trong sứ vụ.
4. Cột trụ
thứ tư: CHỨNG TÁ / SỨ VỤ
Sứ vụ tông đồ kết
nối với sự kế nhiệm tông đồ (những người kế vị các tông đồ và
các cộng sự viên của họ: các tu sĩ chỉ nhận lãnh sứ vụ tông đồ
trong một đường lối chung chung). Lời cầu nguyện như mối liên hệ
thường xuyên với Chúa Giêsu là thiết yếu cho cam kết và sứ vụ
của mỗi người.
Sống chết cho sứ vụ
là thái độ Lắng Nghe và Đối Thoại của chúng ta, không phải chỉ
cho các cá nhân, mà là cho các nền văn hóa và tôn giáo, như Chúa
Giêsu đã chỉ trong cuộc gặp gỡ với người bà Samaritana (Ga
4,1-41). Chúa Giêsu nhận ra trong những người xứ Samaria sự hiện
diện của các giá trị văn hóa khả dĩ làm cho họ mở lòng ra với
Tin Mừng. Vì thế, chúng ta được kêu gọi phát huy thái độ căn bản
này trong sứ vụ tông đồ của chúng ta.
Thái độ của chúng
ta phải là thái độ của Chúa Kitô, Đấng đã tự làm cho mình ra
không khỏi thần tính để trở nên giống mỗi người trong chúng ta
(Phil 2,5tt), để liên đới với nhân loại (thái độ căn bản cần
thiết cho cột trụ thứ tư này).
Lắng Nghe, Đối
Thoại, Hiện Diện và Liên Đới là những chiều kích quan trọng của
Sứ Vụ và Chứng Tá.
5.
Nhận định Tổng quát
a. Ba Phương
Hướng giải thích/áp dụng Các Hình Thức Cam Kết và Dâng Hiến:
Sứ Vụ căn
bản của cộng đoàn là: Có mặt cụ thể ở giữa lòng Giáo Hội và thế
giới; Sống như những môn đệ của Chúa Giêsu giống như cộng đoàn
của Công vụ tông đồ hoặc giống chính Chúa Giêsu ở Nazareth; Tìm
kiếm Thiên Chúa, rao giảng và cử hành Phúc Âm và quyền năng của
Phúc Âm qua đời sống và lời nói, yêu thương lẫn nhau, chỉ có một
con tim/một linh hồn, tiếp đón và phục vụ tất cả mọi người, đó
là CHỨNG TÁ mà cộng đoàn đã được kêu gọi thực hiện. Đó là sứ vụ
của cộng đoàn (Ga 13,35), để làm vinh danh Chúa vì ánh sáng đó
đã được đặt ở trên giá đèn (Mt 5,14-16)
Thừa tác vụ:
Việc phục vụ của linh mục là trung tâm. Sứ vụ được thấy rõ trong
việc được sai đi và được ủy thác của các môn đệ hầu rao giảng
Phúc Âm cho thế giới. Sứ vụ của các môn đệ là loan báo việc Nước
Trời sắp đến và sự hoán cải cần thiết; chỉ bảo cho cuộc hành
trình và lời hứa sự trợ giúp của Chúa Thánh Thần trong cơn bắt
bớ (Mt 10; 1 Cor 9,16; 1 Cor 2,2).
Phục vụ
bác ái: Thích hợp hơn
cho giới phụ nữ, đặc biệt các Hội Dòng được sinh ra trong thời
đại mới. Nhiệm vụ là: Phục vụ những người nhỏ bé nhất ở giữa
cộng đoàn của mình (Mt 25,34-46); Qui tụ họ lại, chăm sóc họ,
đào tạo họ, nghĩa là thực thi tình yêu thương hữu hiệu (1 Ga
3,17; Gc 7,14-17), “viếng thăm cô nhi quả phụ” (Gc 1,27). Trong
phương hướng này, chúng ta tìm thấy tất cả các dịch vụ giáo dục,
từ thiện, y tế, đồng thời hiện diện giữa những người nhỏ bé và
nghèo hèn, cả những đấu tranh cho công bằng và thăng tiến nhân
phẩm.
b. Kết luận
Bản thiết kế được
trình bày qua cấu trúc “chỗ cư ngụ” cho chúng ta một cái nhìn
tổng thể về đời sống thánh hiến. Không còn phải là ba lời khấn
Dòng đứng ở trung tâm, nhưng là bốn cột trụ: Việc đi theo Chúa
Giêsu, Phúc Âm, Cộng đoàn và Chứng tá / Truyền giáo. Kết cấu này
đi theo một logic của đời sống dựa trên nhiều bản văn Thánh
Kinh.
Đây là chiều kích
hàng dọc: tương quan của chúng ta với Thiên Chúa siêu việt nhập
thể nơi Chúa Giêsu. Chúng ta không thể nói về đời sống thánh
hiến mà không đặt ưu tiên cho chiều kích hàng dọc này, vốn là
cái định nghĩa cho đời sống thánh hiến.
Cột trụ “Cộng đoàn”
bao gồm chiều kích tương quan liên nhân vị, cũng như chiều kích
kinh tế (của cải vật chất), chính trị (cộng đoàn và quyền bính)
và các khía cạnh giới tính (độc thân thánh hiến) như được sống
trong một nền văn hóa đặc thù.
Sứ vụ truyền giáo
quan tâm đến tương quan tương thuộc của chúng ta với Giáo Hội và
thế giới. Hai cột trụ sau cùng này mô tả chiều kích hàng ngang
của đời sống thánh hiến, là cái đưa chúng ta hội nhập vào trong
một thực tại cụ thể của thế giới.
Các giá trị phù hợp
với ba lời khấn không vắng bóng trong bản thiết kế này. Thực ra
cả ba lời khấn đều hội nhập trong đó, nhưng tùy theo một thế
quân bình khác, hơn kém và được biến đổi cho những giá trị trọng
tâm hơn, đặc biệt liên quan đến đức vâng lời (không còn là ‘tùng
phục’ nữa, mà là ‘vâng phục phúc âm thực sự’)
Bản thiết kế này
điều chỉnh một số quan điểm thu gọn và làm sáng tỏ ý nghĩa và
vai trò việc hiến dâng của chúng ta. Nền tảng Phúc âm của đời
sống thánh hiến không khác nền tảng phúc âm của tất cả mọi cuộc
sống kitô. Chính là sự chọn lựa lối sống làm nên sự khác biệt.
còn tiếp |
VỀ MỤC LỤC |
|
PHÒNG NGỪA RỦI RO NẮNG HẠ
|
Nói đến rủi
ro cái nóng của một số ngày Hè thì không những các nhà y học
quan tâm mà nắng gắt cũng được tao nhân mặc khách diễn tả.
Cụ Nguyễn
Khuyến đã viết về nắng Hè như sau:
“Ai sui con cuốc gọi vào hè
Cái nóng nung người, nóng nóng ghê”.
Nhà
thơ Trần Vấn Lệ thì cảm thấy :
« Nước
mắt hình như đang bốc hơi »
vì
« Hôm
nay nóng quá, nắng bừng sôi »
Nắng nóng đến nỗi nung đốt cả người và làm cho nước mắt cũng
phải bốc hơi như các nhà thơ tả lại thì quả là « quá quắt » lắm.
Nhưng có lẽ cũng không oan. Vì y học đã chứng minh là có nhiều
rủi ro này trên sức khỏe con người.
Nắng là ánh sáng mang thêm sức nóng của mặt trời trực tiếp
chiếu xuống.
Bình thường thì nắng bức tăng dần từ sáng
tới cao độ là trưa rồi giảm dần tới chiều và ban đêm.
Khi ta sống
trong không gian quá nóng thì cơ thể sẽ có một số phản ứng để
làm bớt nóng. Đó là:
Mạch máu giãn
nở, máu dồn nhiều tới da khiến nhiệt phân tán đi. Các hạch mồ
hôi hoạt động mạnh, mồ hôi tiết ra nhiều, bốc hơi làm giảm nhiệt
trong cơ thể.
Khi nhiệt độ
thay đổi mà các cơ chế trên không điều hòa thích nghi được hoặc
khi có những nguy cơ tăng, giảm nhiệt khác thì một số bệnh liên
quan tới sức nóng sẽ xảy ra.
Các bệnh do nắng gắt gây ra
Các tai nạn
này thường xảy ra vào mùa hè khi khí trời vừa nóng vừa ẩm. Lý do
là sự ẩm thấp của không khí trì hoãn bốc hơi trên da.
Người già và
em bé thường hay bị hơn tuổi khác vì sức đề kháng với bệnh kém
hữu hiệu. Riêng nữ giới dường như ít gặp rủi ro này hơn nam giới
vì quý bà quý cô hiểu rõ khả năng chịu đựng cho nên sớm tránh né
trước khi lâm nguy.
Tia nắng có
thể xuyên qua lớp da không quần áo làm tổn thương cho các phân
tử DNA, nhiễm thể của tế bào da. Tia cực tím của nắng gắt vào
mùa Hè dễ làm da tổn thương, đưa tới mau già, ung thư da.
Sau đây là
một số bệnh do nắng gắt gây ra:
1- Ban đỏ da
Phơi lâu
trong nắng, da sẽ mần đỏ, ngứa. Tuyến mồ hôi bị tắc, nở to, bể
vỡ tạo ra những mụn nước nhỏ trên da. Tiếp tục phơi nắng lâu hơn
thì da sẽ bị viêm, đôi khi nhiễm độc.
Để tránh khó
chịu này, cần mặc quần áo rộng che cả thân hình, tránh nắng quá
độ.
Khi đã nổi
ban, thoa và uống thuốc chống dị ứng như Bénadryl hoặc bôi kem
Caladryl.
2- Chuột rút
Trường hợp
này xảy ra ngay sau khi hoạt động mạnh dưới trời nắng, đổ mồ hôi
nhiều mà lại không uống nước có đủ chất muối để thay thế. Các
bắp thịt lớn, như ở bắp chân, ở bụng sẽ co rút gây ra đau nhức
mà ta gọi là chuột rút (Cramp).
Để tránh
chuột rút, cần uống nước có pha muối sodium trong thời gian vận
động.
Không nên
dùng muối viên vì muối làm sót bao tử đồng thời nước vẫn chưa
được thay thế.
3- Ngất xỉu
Hơi nóng có
thể làm ngất xỉu vì mạch máu ngoại vi giãn nở, giảm lượng máu
trở lại tim và lên não bộ đồng thời đổ mồ hôi nhiều đưa đến
thiếu nước.
Để tránh rủi
ro này, không nên phơi nắng quá lâu. Khi cảm thấy có thể bị xỉu
thì di chuyển ngay vào chỗ có bóng mát và nhớ uống nhiều nước.
4- Kiệt sức
Nhiều nhà
chuyên môn tin tưởng rằng kiệt sức sẽ đưa tới trúng cảm nhiệt
(Heat stroke).
Người bị
kiệt sức không có dấu hiệu thần kinh nhưng bị nhức đầu, chóng
mặt, ói mửa, mệt mỏi, đau nhức các bắp thịt. Hơi nóng làm cơ thể
mất nước, thiếu muối vì đổ mồ hôi quá nhiều.
Lực sĩ vận
động cật lực, người lao động chân tay quá sức trong môi trường
nóng bức mà lại không uống đầy đủ nước là hay bị kiệt sức vì
nóng.
Ngoài ra, quý
lão niên đang dùng thuốc lợi tiểu để trị cao huyết áp cũng
thường hay bị rắc rối này.
Để tránh kiệt
sức vì nắng, nên uống nhiều nước có muối và rời khỏi nơi nắng
gắt ngay.
5- Trúng cảm nhiệt
Đây là một
cấp cứu sinh tử, bệnh nhân cần được điều trị tức thì tại bệnh
viện với các phương tiện hữu hiệu. Nếu chậm trễ, nạn nhân có
thể bị thiệt mạng.
Trúng nhiệt
(heat stroke) xảy ra khi cơ thể tiếp cận với sức nóng quá lâu mà
bộ phận điều hòa thân nhiệt bị tràn ngập, không cáng đáng, thích
nghi được với sức nóng.
Sau đây là
một số yếu tố làm gia tăng nguy cơ trúng nhiệt:
a- Người cao
tuổi, người đang bệnh hoạn suy nhược, người mập béo hoặc khi
sống tĩnh tại trong căn phòng hầm hơi, nóng ẩm.
b-Trẻ em
trúng cảm nhiệt khi ngồi trong xe đợi cha mẹ dưới ánh nắng gay
gắt.
c- Khi ở
trong nắng mà uống nhiều rượu, có bệnh tim, bị khử nước
(dehydrated).
đ- Khi đang
dùng một vài dược phẩm như thuốc chống dị ứng, thuốc chữa bệnh
tâm thần, thuốc ngủ.
Dấu hiệu đầu
tiên là bệnh nhân đổ mồ hôi rất nhiều (rồi một lúc sau lại
ngưng), nhiệt độ tăng cao có khi tới 41◦ C, da nóng và khô, khó
thở, tim đập nhanh, huyết áp giảm, tính tình cáu kỉnh, gây gổ,
có ảo giác nghe nhìn các sự việc không có thật. Trường hợp nặng
có thể đưa đến tổn thương não bộ, kinh phong, liệt bán thân, hôn
mê, đôi khi chết.
Trong khi chờ
đợi xe cấp cứu đưa đi bệnh viện, việc quan trọng tức thì là phải
làm hạ nhiệt độ trong người nạn nhân:
a- Di chuyển
họ vào nằm ở chỗ mát râm, cắt bỏ quần áo để máu huyết lưu thông
và cơ thể thoáng thoát.
b- Dội hay
phủ khăn thấm nước lạnh lên cơ thể.
c- Hướng gió
quạt vào người nạn nhân, nhất là nơi máu lưu thông nhiều như
nách, háng, cổ, để phân tán hơi nóng.
đ- Nhiều
chuyên viên khuyên không nên cho nạn nhân uống nước vào lúc này.
e- Không nên
cho uống thuốc hạ nhiệt như Tylenol, Aspirin vì thuốc có thể gây
thêm tổn thương cho lá gan.
Phòng bệnh hơn chữa bệnh
Kinh nghiệm
thường khuyên phòng bệnh hơn chữa bệnh. Các rắc rối vì hơi nóng
thường hay tái phát cho nên phòng ngừa lại càng quan trong hơn.
Sau đây là
một số dự phòng:
1- Nếu biết
là sẽ phải làm việc dưới nắng gắt thì trước đó vài ngày tiếp xúc
dần dần với nắng để cơ thể quen đi.
2- Không nên
cố gắng quá sức mình khi làm việc trong trời nắng. Khi cảm thấy
có triệu chứng rắc rối, ngưng công việc ngay và tránh vào chỗ
bóng mát nghỉ ít phút cho khỏe.
3- Uống nhiều
nước pha muối trong khi ở ngoài nắng;
4- Tránh
nhiều cà phê, rượu vì những thứ này làm đị tiểu tiện nhiều khiến
cơ thể mất nước;
5- Mặc quần
áo rộng rãi thoải mái, vải xốp, màu lạt để tránh giữ nhiệt và để
thấm mồ hôi.
Vải ka ki màu
xanh lợt là tốt vì nó phân tán chứ không hút sức nóng.
Tránh vải làm
bằng hợp chất như nylon, polyester.
Mỗi khi áo
ướt sũng mồ hôi thì thay áo khô ngay.
6- Đầu đội
nón rộng vành, mắt mang kính râm.
8- Bôi kem
chống nắng có độ bảo vệ cao (SPF 20 tới 30). Độ SPF càng cao, sự
bảo vệ da càng lâu.
9- Du di thời
khóa biểu làm việc, nhiều giờ vào buổi sáng và xế chiều; trưa
nghỉ ngơi vài giờ vừa tránh nắng vừa dưỡng sức.
10- Không để
trẻ em đợi trong xe dưới trời nắng dù đã xuống kính xe vì nhiệt
độ trong xe có thể lên tới 65◦C (150◦F)
11- Tránh tập
luyện cơ thể giữa buổi trưa vừa nóng vừa ẩm thấp.
Uống nhiều
nước trước khi, trong khi và sau khi tập, chứ đừng đợi tới khi
khát mới uống.
Khi đang bị
nóng sốt, không tập luyện vì nhiệt độ sinh ra do sự vận động cơ
bắp sẽ tăng nhiệt độ trong cơ thể.
12- Làm việc
dưới nắng bức, lâu lâu nên nghỉ tay, vào bóng râm thư giãn một
lúc, “uống ly chanh đường” uống ly nước lạnh cho “phẻ” mát rồi
hãy tiếp tục.
Kết luận
Khi nói tới
ảnh hưởng của sức nắng gay gắt thì ta có thể ví cơ thể với cái
đầu máy xe hơi. Nếu cả hai đều có nhiệt độ quá cao thì sẽ có khó
khăn, trục trặc.
Biết trước
để tránh sự quá nóng là điều khôn ngoan. Vì khi cơ thể đã bị
trúng nhiệt rồi thì chẳng khác gì ta đang lái chiếc xe mà nước
trong bình giải nhiệt đã sôi cạn, máy sắp bốc cháy, chỉ đủ sức
lết tới nghĩa địa xe phế thải.
Bác sĩ Nguyễn Ý-Đức M.D.
Texas-Hoa Kỳ
(www:nguyenyduc.com) |
VỀ MỤC LỤC |
ĐA NGHI NHƯ…TÀO THÁO -
Chuyện phiếm của Gã Siêu |
Ông bố nọ chẳng biết phải làm thế
nào đối với đứa con trai thuộc vào hàng ngỗ nghịch của mình. Một
cụ già dã đến và góp ý :
- Cứ cưới vợ cho nó là xong tuốt.
Chỉ có vợ mới trị được nó mà thôi.
Trong một bữa nhậu lai rai, anh
bạn gã bèn phán một câu thuộc vào hàng “ranh ngôn”. Anh ta bảo
:
- Đờn bà làm hư đờn ông…
Rồi sau đó, anh ta nói tiếp :
- Tớ nói là phải có sách và tớ
mách là phải có chứng hẳn hoi. Này nhé, sách Sáng Thế Ký đã
chẳng kể lại thuở ban đầu chỉ có mỗi cặp vợ chồng Adong Eva
trong vườn địa đàng. Eva nghe lời con rắn mà ăn trái cấm, rồi
sau đó lại dụ khị Adong cùng ăn, nên bây giờ con cháu loài người
mới phải khốn khổ xất bất xang bang.
Tuy nhiên, một anh bạn khác bèn
sửa lưng :
- Nói làm hư thì hơi bị quá,
nhưng nói làm…thay đổi đờn ông thì có lý hơn.
Nói rồi anh ta rút trong túi một
bài báo và đưa cho mọi người cùng xem. Gã nhìn kỹ, thì mới hay
đó là mục vui…vui của Hữu Thái sưu tầm, được anh ta cắt ra từ tờ
Kiến Thức Ngày Nay. Bài báo ấy mang tựa đề “Chồng là ai ?”, nội
dung đại khái như thế này :
- Chồng là người trước khi cưới
có thể ngồi hàng giờ nghe bạn ba hoa những câu chuyện không đầu
không cuối, nhưng sau khi cưới lại thích người khác phải nghe
mình.
- Chồng là người trước khi cưới
thường đến chỗ hẹn sớm, nhưng sau khi cuới lại về nhà muộn hơn.
- Chồng là người trước khi cưới
thường tặng hoa hồng cho người yêu, nhưng sau khi cưới lại đưa
lương cho vợ.
- Chồng là người trước khi cưới
thường giữ đúng lời hứa, nhưng sau khi cuới lại hay thất hứa.
- Chồng là người trước khi cưới
giống như một thiên thần, nhưng sau khi cuới lại giống như một
ông chủ.
- Chồng là người trước khi cưới
thường để ý đến khuôn mặt người yêu xem có xinh đẹp hay không,
nhưng sau khi cưới lại hay để ý xem vợ có biết nấu nướng hay
không ?
- Chồng là người trước khi cưới
thường chú ý ăn mặc chải chuốt trước mặt người yêu, nhưng sau
khi cưới đã biến thành một kẻ luộm thuộm và cẩu thả.
- Chồng là người trước khi cưới
thường khen cô vợ tương lai của mình là đẹp nhất, nhưng sau khi
cuới lại hay khen…cô vợ anh hàng xóm.
- Chồng là người trước khi cưới
mỗi khi đi chơi thì trong ví có rất nhiều tiền, nhưng sau khi
cưới trong ví chỉ còn vài đồng xu lẻ.
- Chồng là người trước khi cưới
có chuyện gì cũng muốn tâm sự, nhưng sau khi cưới thường thu
mình lại một chỗ để trầm lắng suy tư.
Chờ cho mọi người xem xong, anh
ta phán tiếp :
- Các ông thấy chưa, kinh nghiệm
xương máu ấy đã chứng tỏ rằng vợ đã làm hư chồng.
Gã không muốn cãi lại anh bạn
này, nhưng trong bụng thì lại nghĩ khác : rất nhiều ông chồng
được như ngày nay là do sự dạy bảo của bà vợ :
- Dù không sinh đẻ ra ta,
Nhưng công nuôi dưỡng thật là
lớn lao.
Khi ta đau ốm xanh xao,
Vợ lo chăm sóc hồng hào khỏe
ngay.
Sợ ta đi trật đường rầy,
Vợ liền theo dõi kéo ngay về
nhà.
Khi ta tán tỉnh ba hoa,
Vợ liền “quát nạt” để mà răn
đe.
Lời vợ dạy phải lắng nghe,
Mai sau “khôn lớn” mà khoe mọi
người.
Gã mới nhận được một cái “meo” do
một anh bạn từ bên Mỹ gửi về. Trong cái meo ấy anh bạn đã tâm
sự, đấm ngực mình mà thú nhận như sau :
Tớ cũng có lần đã “khủng bố vợ”.
Nhưng lý do khủng bố của tớ hình như do phong tục tập quán của
đa số người Việt. Nói thẳng ra là chịu ảnh hưởng của Nho giáo và
của gia đình, người chồng bao giờ cũng “oai” hơn vợ một chút :
Phu xướng phụ tùy, tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử
tòng tử mà…
Tuy nhiên, bây giờ tớ không còn
mang quan niệm đó nữa vì nhiều lý do. Đôi khi được vợ nhờ làm
việc này việc kia, hay tự ý làm những việc vợ thường làm, cũng
cảm thấy…sung sướng tự hào!!!
Mưa dầm thấm đất, dạy mãi cũng
phải ăn nhời. Những bà vợ anh hùng và kiên nhẫn như vậy thực
đáng được thưởng huân chương vì “sự nghiệp trăm năm trồng
người”, đã thành công và góp phần rất lớn trong việc “nuôi
chồng khỏe, dạy chồng ngoan”.
Sau đó anh ta còn đưa ra hai mẩu
chuyện để nói cho mọi người được biết : từ một con ngựa chứng,
anh ta đã trở nên thuần thục, thiếu điều “vợ gọi thì dạ, bẩm bà
em đây” như thế nào.
Mẩu chuyện thứ nhất hoàn toàn
có thực :
Hồi còn là bần cố nông, tôi quen
một anh chàng trung úy bộ đội ở sát nhà tôi. Một hôm anh ta rủ :
- Vợ tôi kêu tôi đi chợ, anh có
đi cho vui hay không ?
Tôi trả lời :
- Đi thì đi.
Anh ta chở tôi trên chiếc xe
Honda cũ, quần vẫn xắn lên tới đầu gối, chân vẫn đi đôi dép râu,
đầu vẫn đội chiếc nón cối. Vào chợ, anh ta mua đủ thứ, nào thịt
cá, nào rau quả, và thứ nào anh ta cũng cò kè trả giá, từ thấp
nhất lên cao dần… Tôi đi đàng sau, chăm chú quan sát.
Trên đường về, tôi nói :
- Anh hay ca tụng những người bộ
đội cần cù và siêng năng, cũng như hay ca tụng những người vợ
đảm đang và trung thành, nhưng cái tài đi chợ thay vợ và trả giá
khi mua bán, tôi chưa được nghe lần nào. Bây giờ tôi mới biết
miền Nam thua miền Bắc là vì thế.
Và anh ta đã thêm vào mẩu chuyện
này một lời bàn, tựa như lời bàn của Kim Thánh Thán trong Tam
Quốc Chí Diễn Nghĩa :
Trước năm 1975, người miền Nam
thường phân biệt việc của chồng và việc của vợ. Nhưng bây giờ
thì khác, ngay cả ở bên Mỹ. Như vậy là người chồng ở miền Bắc đã
đi trước một bước.
Mẩu chuyện thứ hai hoàn toàn
tưởng tượng :
Ngày kia, hai ông bà nọ, dù rất
già, nhưng lại được diễm phúc lần lượt qua đời. Ông đi trước,
còn bà thì đi sau. Khi lên tới cổng thiên đàng, câu đầu tiên bà
hỏi thánh Phêrô là :
- Xin ngài cho con biết nhà con
đang ở khu nào ?
Thánh Phêrô bèn hỏi lại :
- Sao bà biết chắc chắn là chồng
bà đã được lên thiên đàng rồi ?
Bà thản nhiên trả lời :
- Sở dĩ như vậy vì trong suốt năm
mươi năm chung sống, nhà con không bao giờ cãi lại con một lời.
Bảo cái gì làm cái nấy. Hơn thế nữa, lại còn làm trong hồ hởi,
phấn khởi. Vậy thì chỉ có nước lên thiên đàng chứ còn đi đâu
được nữa.
Thánh Phêrô bèn đeo cặp kính lão,
tra cứu sổ danh bộ các thánh nam nữ rồi nói :
- Tôi hỏi bà là hỏi vậy. Tôi tra
cứu chẳng qua chỉ là để làm theo đúng thủ tục hành chánh mà
thôi. Bởi vì, chẳng cần phải hỏi cũng như chẳng cần phải tra
cứu, tôi cũng biết hiện giờ ông chồng của bà đang được ở chung
một khu với các thánh…tử đạo.
Xem đó gã thấy làm một anh chồng
ngoan cũng gặp phải nhiều nỗi gian nan rắc rối và cũng không
phải là chuyện dễ dàng chi. Có thể nói được rằng mỗi hy sinh khi
vâng lời vợ sẽ là một giọt máu tử đạo mà anh chồng ngoan đổ ra
rừng giây và từng phút. Và như vậy đời sống của một anh chồng
ngoan chính là một cuộc tử đạo liên tu bất tận.
Tuy nhiên, dù đã ngoan ngoãn đến
đâu chăng nữa, nhiều lúc anh chồng ngoan cũng vẫn phải âm thầm
gậm nhấm một nỗi cô đơn và buồn đau của mình, đó là nỗi cô đơn
và buồn đau khi bị nghi ngờ. Đây cũng là điều gã muốn bàn tới
trong mục chuyện phiếm hôm nay.
Người là một con vật có trí khôn.
Thế nhưng, trí khôn con người lại có giới hạn. Người ta đã biết
được nhiều thứ, đồng thời cũng có nhiều thứ người ta chẳng hề
biết đến. Giữa không biết và biết chắc chắn, có một tình trạng
trung gian, đó là hoài nghi : Có hay không có. Chưa tin và cũng
chưa chắc.
Trong việc tìm kiếm chân lý,
Descartes đã chủ trương phương pháp hoài nghi (doute
méthodique).
Theo ông, chúng ta chỉ có một sự
thật căn bản không được hoài nghi, đó là : “Tôi suy tưởng vậy
tôi hiện hữu” (Cogito ergo sum). Ngoài sự thật này, chúng ta
cần phải tạm thời bỏ ra ngoài vòng xác tín mọi phán quyết khác,
phải tạm thời hoài nghi về mọi sự tồn tại hiện có. Phải triệt để
nghi ngờ trong khi nghiên cứu về bất cứ vấn đề gì. Như vậy,
chúng ta sẽ tránh được những thiên kiến và công việc tìm tòi của
chúng ta sẽ được khách quan hơn.
Cũng trong chiều hướng ấy mà
nhiều người đã đồng thanh phát biểu :
- Nghi ngờ là phương thế dạy cho
chúng ta nhận biết khôn ngoan.
- Nghi ngờ sẽ dẫn chúng ta tới
xem xét. Và xem xét sẽ dẫn chúng ta tới chân lý.
- Để có được một xác tín, thì
chúng ta phải bắt đầu bằng việc nghi ngờ.
Tuy nhiên, đó mới chỉ là phần lý
thuyết mang nặng tính cách triết học. Còn trong phạm vì đời
sống, nhất là đời sống vợ chồng, sự nghi ngờ là như một con sâu
đất, cắn đứt dần những chiếc rễ yêu thương và làm cho cuộc sống
trở nên ngột ngạt.
Thực vậy, trong đời thường đề cao
cảnh giác là việc tốt, nhưng nếu thường xuyên nghi ngờ nhau lại
là chuyện khác. Nó sẽ là đấu mối gây nên những tội lỗi khác.
Vì nghi ngờ, mà không còn dành
cho nhau những tình cảm tốt đẹp. Và khi tình cảm tốt đẹp không
còn nữa, người ta dễ dàng nói hành nói xấu, bỏ vạ cáo gian và
làm mất danh dự của nhau : Một mất mười ngờ là vậy.
Kẻ đa nghi là kẻ có tính hay ngờ
vực người khác. Và một khuôn mặt tiêu biểu cho tính đa nghi,
chính là khuôn mặt của Tào Tháo.
Theo điển tích thì Tào Tháo là
một quyền thần đời Hậu Hán (155-220), tự là Mạnh Đức, nổi tiếng
là kẻ mưu mô xảo quyệt. Đời Hán Đế được phong chức thừa tướng vì
có công diệt trừ Đổng Trác. Nhưng về sau, Tào Tháo lại chuyên
quyền. Trong thì bắt ép vua Hán Hiến Đế, ngoài thì kết bè đảng
và vây cánh.
Tào Tháo cùng với Tôn Quyền và
Lưu Bị chia ba thiên hạ nước Tàu, tức là đời Tam Quốc. Tào Tháo
đánh nhau với Tôn Quyền và Lưu Bị trong mấy năm liền, nhưng
không thống nhất được nước Tàu. Tào Tháo lại phế Hiến Đế, tính
việc lâu dài, nhưng không may thọ bệnh rồi chết.
Sau con trai là Tào Phi chiếm
ngôi nhà Hán, xưng đế hiệu, tôn Tào Tháo làm Ngụy Vũ Đế.
Vì hay làm những điều xảo trá,
nên Tào Tháo có tính hay ngờ vực tất cả mọi người, ngay cả con
ruột của mình mà cũng vẫn phải để ý, dò xét từng ly từng tí.
Ấy vậy cho nên người đời thường
bảo :
- Đa nghi như Tào Tháo.
Kinh nghiệm đời thường cho thấy :
chị vợ vốn là đờn bà con gái. Mà đã là đờn bà con gái thì vốn
dạt dào tình cảm, lấy trái tim của mình làm điểm trung tâm. Moi
lý lẽ đều bắt nguồn từ trái tim và trái tim, như bàn dân thiên
hạ đã biết, có những lý lẽ riêng của nó, đến quỷ thần cũng không
lường nổi.
Hơn thế nữa, Thượng Đế lại trao
ban cho phe đờn bà con gái một trực giác nhạy bén, khéo đánh hơi
để tìm ra sự thật. Vì thế, những anh chồng lỡ dại đi...xơi phở
tái, hay lỡ dại đèo bòng bồ nhí, khó mà thoát khỏi cặp mắt điệp
viên của chị vợ. Bất kỳ một đổi thay nhỏ bé nào cũng lọt vào tầm
ngắm, hay nằm trong vòng phủ sóng của chị vợ, chẳng sai trật
chút nào
Với một trái tìm đầy ắp những yêu
thương, cùng với một trực giác thật nhạy bén, nên gã không hề
ngạc nhiên khi thấy các chị vợ rất dễ dàng mắc phải chứng
bệnh…đa nghi.
Trong một cuộc hội nghị bàn tròn,
bàn vuông hay bàn méo gì đó, các chị vợ đã trao đổi ý kiến với
nhau một cách hăng say, chung chủ đề “Phải cảnh giác cao với ông
xã của mình”.
Những ý kiến này đã được ghi âm
lén, rồi sau đó đã được tác giả Hương Lan “nghiêng kíu cũng như
lụm lặt” và đăng tải trên báo Phụ Nữ Chủ Nhật số 5, ra ngày 04
tháng 02 năm 2007 với tựa đề “Khám bệnh cho chàng”.
Đại khái các chị vợ đã đưa ra
mười trường hợp đáng nghi ngờ, cần phải làm cho ra ngô ra khoai.
Mười trường hợp ông xã của mình bỗng “trở chứng” càn phải làm
cho ra đầu ra đuôi. Mười trường hợp ấy được diễn tả như sau :
1- Ông xã bạn bỗng dưng trở nên
siêng năng một cách đột xuất, khi tự tay giặt và phơi chiếc áo
“sơ mi” vừa mới mặc.
Hãy coi chừng : có lẽ chàng
muốn xóa sạch dấu vết nào đó trên áo chăng ? Chẳng hạn như một
vết son hay một mùi thơm khác lạ ?
2- Ông xã của bạn bỗng vội vàng
nhấn nút “off” và giải thích vòng vo khi chuông điện thoại di
động reo vang. Hay bỗng giật mình đánh thót một cái, khi những
tiếng “tít tít” báo có tin nhắn.
Hãy coi chừng : tất cả
những thái độ kỳ quặc trên đều xuất phát từ một lý do duy nhất,
chàng đang che giấu một bí mật nào đó.
3- Ông xã bạn bỗng có những cử
chỉ lãng mạn bất thường, như tặng hoa, khen nịnh vợ, đưa cả nhà
đi dạo phố, hay mua vé xem ca nhạc…vào một ngày đẹp trời, nhưng
không phải đặc biệt nào đó.
Hãy coi chừng : Phải chăng
chàng đã làm gì có lỗi và đang muốn âm thầm chuộc lỗi?
4- Ông xã bỗng gọi điện thoại về
nhà sau giờ làm việc và bảo rằng đang ngồi “lai rai” với bạn bè,
nhưng không hề nghe thấy những tiếng cười nói ồn ào, tiếng cụng
ly “dzô, dzô”, tiếng la hét “chăm phần chăm”, hay tiếng khua bàn
gõ ghế…như thường lệ. Không gian chung quanh chỉ duy một sự im
lặng đáng sợ.
Hãy coi chừng : Thật ra
chàng đang ở đâu và đang thì thầm với ai ?
5- Ông xã bạn bỗng chủ động đề
nghị đưa bạn đi mua sắm quần áo mới vì quần áo cũ đã quá “đề
mốt”.
Hãy coi chừng : Chàng bắt
đầu so sánh bạn với ai đó rồi đấy.
6- Ông xã của bạn bỗng chăm chút
ngoại hình nhiều hơn trước, dù không còn trẻ trung gì nữa : Quần
áo, đầu tóc đều láng mướt, giày dép bóng lộn, có thể soi được
mặt mình, như trong gương ấy, lại còn bôi thêm chút nước hoa
nữa.
Hãy cho chừng : Thật là
đáng nghi, chàng ăn vận tề chỉnh như vậy là để hẹn hò, gặp gỡ
với ai chăng ?
7- Ông xã của bạn bỗng không còn
mở miệng khen nức nở những món ăn do bạn nấu. Đến bữa, ông ấy
lặng lẽ ngồi vào bàn, nhai trệu nhai trạo, nuốt vội nuốt vàng mà
tâm hồn lang thang tận đẩu tận đâu.
Hãy coi chừng : Hay là
chàng đã chán cơm và đang thèm phở rồi chăng ?
8- Ông xã của bạn bỗng đeo khẩu
trang loại lớn mỗi khi đi ra đường và bảo rằng để che nắng và
chống bụi.
Hãy coi chừng : Chỉ có một
lời giải thích hợp lý nhất, đó là chàng không muốn bị người quen
nhận ra.
9- Ông xã của bạn bỗng thích húyt
sáo hay hát nghêu ngao trong phòng tắm.
Hãy coi chừng : Chuyện gì
đã khiến chàng vui sướng đến thế, không kìm hãm nổi mà phải bộc
lộ ra bên ngoài.
10- Cuối cùng, nếu ông xã bạn
chẳng có dấu hiệu nào đáng để cho bạn nghi ngờ, vẫn chăm chỉ hạt
bột, mọi ngày như mọi ngày, thì lại còn đáng nghi ngờ hơn nữa.
Hãy coi chừng : Biết đâu
chàng là một “cao thủ võ lâm” trong lãnh vực “ăn vụng và chùi
mép”.
Tóm lại, ở mọi nơi và trong mọi
lúc, nhất cử lưỡng động của anh chồng đều được chị vợ đưa giải
phẫu mà tìm hiểu, vác kính lúp mà soi mói, rồi đưa ra giả thuyết
này giả thuyết nọ. Và giả thuyết nào cũng đưa tới một kết luận :
anh chồng chính là tên tội phạm đáng nghi ngờ.
Tuy nhiên, nếu cứ giam hãm mình
trong sự nghi ngờ và cảnh giác như thế, thì chính chị vợ sẽ bị
quay quắt và héo hắt, đồng thời còn xúc phạm nặng nề đến người
mình yêu thương và đem lại những hậu quả đáng tiếc.
Bởi vì :
- Ai nghi ngờ tức là mời người ta
phản bội mình.
- Đối với những người mình yêu
thương, thì sự nghi ngờ chính là một sỉ nhục âm thầm.
Trong tình yêu, thay vì nghi ngờ, hãy tôn trọng và tin tưởng lẫn
nhau. Hãy chứng tỏ rằng mình không sợ bị lừa gạt.
Gã Siêu
gasieu@gmail.com
|
VỀ MỤC LỤC |
|
- Mọi liên lạc: Ghi danh, thay đổi địa chỉ, đóng góp ý kiến,
bài vở..., xin gởi về địa chỉ
giaosivietnam@gmail.com
- Những nội dung sẽ được đề cao và chú ý bao gồm:
Trao đổi, chia sẻ những kinh nghiệm thực tế trong việc mục
vụ của Giáo sĩ; Những tài liệu của Giáo hội hoặc của các
Tác giả nhằm mục đích Thăng tiến đời sống Giáo sĩ; Cổ võ ơn
gọi Linh mục; Người Giáo dân tham gia công việc “Trợ lực
Giáo sĩ” bằng đời sống cầu nguyện và cộng tác trong mọi lãnh
vực; Mỗi Giáo dân phải là những “Linh mục” không có chức
Thánh; Đối thoại trong tinh thần Bác ái giữa Giáo dân và
Giáo sĩ… (Truyền giáo hay xây pháo đài?)
- Quy vị cũng có thể tham khảo những số báo đã phát hành tại
www.conggiaovietnam.net
Rất mong được sự cộng tác, hưởng ứng của tất cả Quí vị
Xin chân thành cám ơn tất cả anh chị em đã
sẵn lòng cộng tác với chúng tôi bằng nhiều cách thế khác
nhau.
TM. Đặc San Giáo Sĩ Việt Nam
Lm. Luca
Phạm Quốc Sử
USA
|
|
*************
|
|