Sắc Lệnh Về Các Phương Tiện Truyền Thông
Xã Hội - Inter Mirific (tiếptheo) |
Chương II
Phương
Tiện Truyền Thông Xã Hội Và Việc Tông Ðồ
13. Hoạt
động của chủ chăn và tín hữu.
Mọi con cái Giáo Hội phải đồng tâm hiệp lực, chẳng những không
ngần ngại mà phải hết sức hăng say, xử dụng ngay những phương
tiện truyền thông xã hội cách đắc lực vào các công việc tông đồ
khác nhau tùy theo những đòi hỏi cụ thể của hoàn cảnh và thời
gian; họ cũng phải ngăn ngừa những tổ chức tai hại, nhất là ở
những miền mà luân lý và tôn giáo muốn tiến bộ cần phải được họ
can thiệp khẩn cấp hơn.
Vậy các Chủ Chăn đáng kính phải cấp tốc chu
toàn phận vụ mình trong lãnh vực này, vì nó liên hệ chặt chẽ với
những nhiệm vụ thông thường của các Ngài là giảng dạy; những
giáo dân tham gia vào việc xử dụng những phương tiện này cũng
phải cố gắng làm chứng về Chúa Kitô: trước hết bằng cách hoàn
tất mọi công tác cho thành thạo với tinh thần tông đồ, rồi tùy
khả năng kỹ thuật, kinh tế, văn hóa và nghệ thuật mà trực tiếp
trợ giúp hoạt động phụng vụ của Giáo Hội theo phận vụ của mình.
14. Sáng
kiến của người công giáo.
Trước hết phải cổ võ báo chí lành mạnh, tuy nhiên để độc giả
thấm nhiễm đầy đủ tinh thần Kitô giáo, cũng phải thúc đẩy báo
chí chính thức của công giáo
9*, nghĩa là báo chí - hoặc do chính giáo quyền hoặc
những người công giáo trực tiếp đề xướng và điều hành - được
công khai xuất bản trong tinh thần xây dựng, củng cố và cổ võ
những dư luận phù hợp với luật tự nhiên, với giáo lý và quy luật
công giáo, và để phổ biến cùng giải thích đúng đắn những sự kiện
liên quan đến đời sống Giáo Hội. Cũng phải dạy các tín hữu việc
cần phải đọc và phổ biến các báo chí công giáo, để họ biết phán
đoán mọi biến cố theo quan niệm Kitô giáo.
Phải dùng mọi phương thế hữu hiệu mà phát
động và nâng đỡ việc sản xuất và chiếu những phim ảnh có ích cho
việc giải trí lành mạnh, văn hóa và nghệ thuật của nhân loại,
nhất là những phim ảnh dành riêng cho giới trẻ. Muốn thế phải
nâng đỡ và đồng thời liên kết tài nguyên và những sáng kiến của
các nhà sản xuất cũng như của những nhà phân phối có lương tâm,
tán thưởng, nâng đỡ và liên kết những rạp do người công giáo và
người đứng đắn khai thác.
Cũng thế phải giúp đỡ hữu hiệu những buổi
phát thanh, phát hình lành mạnh, nhất là những chương trình
thích hợp với gia đình. Phải khôn khéo cổ võ những chương trình
công giáo, để nhờ đó dẫn đưa thính giả và khán giả tham dự đời
sống Giáo Hội và làm cho họ thấm nhiễm những chân lý tôn giáo.
Và nếu cần cũng phải lo thành lập các đài công giáo; tuy nhiên
phải cẩn thận lo liệu cho chương trình các đài này được hoàn bị
thích hợp và hữu hiệu.
Hơn nữa nên lo liệu cho nền kịch nghệ cao
quý và cổ truyền - một nghệ thuật được phổ biến sâu rộng nhờ
những phương tiện truyền thông xã hội - biết hướng về việc giáo
dục khán giả và kiến tạo thuần phong mỹ tục.
15. Huấn
luyện các tác giả, soạn giả, nhà sản xuất...
Ðể đáp ứng những nhu cầu vừa trình bày, phải đào tạo đúng lúc
những linh mục, tu sĩ và giáo dân để họ có đầy đủ kinh nghiệm
thích đáng trong việc xử dụng những phương tiện này vào mục đích
tông đồ.
Trước hết phải huấn luyện giáo dân vững
chắc về giáo thuyết và phong hóa, bằng cách tăng thêm số trường
học, phân khoa và học viện, để các nhà báo, nhà soạn phim ảnh,
soạn chương trình phát thanh phát hình, và những người liên hệ,
có thể được huấn luyện đầy đủ, thấm nhuần tinh thần Kitô giáo,
nhất là các học thuyết xã hội của Giáo Hội. Cũng phải huấn luyện
và giúp đỡ các diễn viên để họ dùng tài năng mình mà giúp ích
cho xã hội nhân loại một cách thích hợp. Sau cùng phải tận tâm
chuẩn bị các nhà phê bình văn chương, phim ảnh, phát thanh, phát
hình v.v... để mỗi người hoàn toàn thấu triệt nghề nghiệp của
mình; lại phải chỉ dạy và khuyến khích họ đưa ra những nhận định
luôn nhấn mạnh đúng mức khía cạnh luân lý.
16. Huấn
luyện người sử dụng, thụ hưởng...
Ðể xử dụng đúng đắn các phương tiện truyền thông xã hội này,
những người xử dụng thuộc tuổi tác và văn hóa khác nhau cần phải
được huấn luyện về lý thuyết và phần thực hành một cách thích
hợp và riêng biệt. Vì thế, trong các trường công giáo thuộc mọi
cấp, trong các Chủng Viện và trong cả những nhóm tông đồ giáo
dân, phải cổ võ, tăng gia và theo nguyên tắc luân lý Kitô giáo
hướng dẫn các tổ chức có khả năng theo đuổi mục đích này, nhất
là những tổ chức dành riêng cho giới trẻ. Ðể mau đạt tới kết
quả, lớp giáo lý cũng phải có phần trình bày và giải thích giáo
thuyết và quy luật công giáo về vấn đề này.
17. Phương
tiện và trợ giúp.
Thật đáng hổ thẹn cho con cái Giáo Hội, đã lãnh đạm khiến cho
việc rao giảng ơn cứu rỗi bị ràng buộc, cản trở vì lý do kỹ
thuật hay tài chánh - chắc chắn rất to tát - là đặc tính của
những phương tiện truyền thông xã hội. Vì thế Thánh Công Ðồng
này nhắc lại cho họ bổn phận phải nâng đỡ và trợ giúp các nhật
báo công giáo, các tạp chí, các tổ chức phim ảnh, các đài và các
chương trình phát thanh, phát hình nhằm mục đích chính là để phổ
biến và bảo vệ sự thật, và cung cấp nền giáo dục Kitô giáo cho
xã hội loài người. Ðồng thời Thánh Công Ðồng khẩn khoản mời gọi
các đoàn thể và cá nhân có quyền hành rộng lớn trong lãnh vực
kinh tế và kỹ thuật, hãy tự ý và rộng rãi dùng tài nguyên và
kinh nghiệm của mình mà nâng đỡ những phương tiện này khi chúng
phục vụ nền văn hóa đích thực và việc tông đồ.
18. Ngày
Truyền Thông. Ðể
việc tông đồ muôn hình vạn trạng của Giáo Hội được đắc lực hơn
bằng những phương tiện truyền thông xã hội, mọi giáo phận trên
thế giới, tùy theo quyết định của các Giám Mục, hằng năm phải cử
hành một ngày lễ
10* để dạy dỗ các tín hữu về bổn phận của họ đối với
vấn đề này, mời gọi họ cầu nguyện nhiều theo ý chỉ này, và xin
họ đóng góp cho mục đích này: nghĩa là thành thật hy sinh cho
việc phát động, nâng đỡ và cổ võ những tổ chức và sáng kiến của
Giáo Hội trong vấn đề này theo nhu cầu của thế giới công giáo.
19. Ủy Ban
truyền thông của Tòa Thánh.
Ðể thi hành bổn phận mục vụ tối cao về những phương tiện truyền
thông xã hội, Ðức Giáo Hoàng có một Ủy Ban riêng của Tòa Thánh.
1
20. Thẩm
quyền của Giám Mục.
Các Giám Mục thì có bổn phận chăm sóc các công cuộc và các tổ
chức thuộc loại này trong Giáo Phận mình. Các ngài phải cổ võ
11* và nếu liên quan đến việc tông đồ chung, thì phải
phối hợp chúng, kể cả những tổ chức thuộc quyền điều khiển của
các tu sĩ miễn trừ.
21. Ủy Ban
Giám Mục về Truyền Thông quốc gia.
Tuy nhiên trên bình diện Quốc Gia, muốn cho việc tông đồ đem lại
kết quả, cần phải thống nhất kế hoạch và năng lực; vì thế Thánh
Công Ðồng này quyết định và truyền phải thiết lập khắp nơi các
Cơ Quan quốc gia về báo chí, điện ảnh, truyền thanh và truyền
hình, và phải dùng mọi phương thế giúp đỡ các cơ quan đó. Vậy
các Cơ Quan này có bổn phận trước tiên là tìm cách đào tạo đúng
đắn lương tâm tín hữu trong việc xử dụng những phương tiện đó,
cùng cổ võ và phối hợp mọi công cuộc của người công giáo trong
lãnh vực này.
Trong mỗi quốc gia, việc điều khiển các tổ
chức trên phải được ủy thác cho một Ủy Ban Giám Mục đặc biệt,
hoặc cho một Giám Mục đặc trách; tuy nhiên những giáo dân thông
thạo giáo lý công giáo và các nghệ thuật đó phải được tham dự
vào những Ủy Ban này.
22. Hiệp
hội Truyền Thông Quốc Tế.
Hơn nữa, những phương tiện này có hiệu lực vượt khỏi ranh giới
quốc gia, và biến mỗi người trở thành công dân của toàn thể xã
hội nhân loại; vì thế trong lãnh vực này, phải phối hợp các tổ
chức quốc gia với nhau và cả các hoạt động trên bình diện quốc
tế. Tuy nhiên những Cơ Quan vừa kể ở số 21 phải tích cực cộng
tác với Hiệp Hội Công Giáo Quốc Tế thuộc ngành mình. Những Hiệp
Hội Công Giáo Quốc Tế này chỉ được chính thức chuẩn nhận do một
mình Tòa Thánh và tùy thuộc Tòa Thánh.
Kết Luận
23. Chỉ
dẫn mục vụ. Ðể mọi
nguyên tắc và tiêu chuẩn về những phương tiện truyền thông xã
hội của Thánh Công Ðồng này được thi hành, Thánh Công Ðồng trực
tiếp ủy nhiệm cho Cơ Quan của Tòa Thánh đã nói ở số 19, với sự
giúp đỡ của những nhà chuyên môn thuộc các quốc gia khác nhau,
lo xuất bản một cuốn chỉ dẫn mục vụ.
24. Lời
khuyên kết thúc. Hơn
nữa Thánh Công Ðồng này tin tưởng rằng mọi con cái Giáo Hội sẽ
tự nguyện đón nhận và cẩn thận gìn giữ những giáo huấn và tiêu
chuẩn trong Sắc Lệnh này; như thế khi xử dụng những phương tiện
đó, họ không bị thiệt hại; cũng như muối và ánh sáng, họ ướp
trái đất và soi sáng thế gian. Ngoài ra Thánh Công Ðồng mời gọi
mọi người thiện chí, nhất là những người điều khiển các phương
tiện trên, hãy chăm lo qui hướng chúng về mục tiêu duy nhất là
giúp ích cho xã hội loài người, vì vận mệnh của xã hội nhân loại
ngày càng lệ thuộc vào việc xử dụng đúng đắn những phương tiện
này. Nhờ vậy, cũng như xưa Danh Chúa đã được tôn vinh qua những
công trình nghệ thuật cổ kính thì nay Người cũng được vinh danh
qua những phát minh mới, đúng như lời Thánh Tông Ðồ: "Chúa Giêsu
Kitô hôm qua cũng chính là Chúa Giêsu Kitô hôm nay và cho đến
muôn đời" (Dth 13,8).
Tất cả và từng điều đã được ban bố trong
Sắc Lệnh này đều được các Nghị Phụ Thánh Công Ðồng chấp thuận.
Và, dùng quyền Tông Ðồ Chúa Kitô trao ban, hiệp cùng các Nghị
Phụ khả kính, trong Chúa Thánh Thần, Chúng Tôi phê chuẩn, chế
định và quyết nghị, và những gì đã được Thánh Công Ðồng quyết
nghị, Chúng Tôi truyền công bố cho Danh Chúa cả sáng.
Roma, tại Ðền Thánh Phêrô, ngày 4 tháng 12
năm 1963.
Tôi, Phaolô Giám Mục Giáo Hội Công Giáo.
Tiếp theo là chữ ký của các Nghị Phụ.
Chú Thích:
9*
Chúng ta phải công nhận tại nhiều quốc gia, báo chí rất kém vì
thiếu chuyên viên giỏi, thiếu phương tiện và tổ chức. Có lẽ
người công giáo vẫn còn thành kiến cho rằng làm việc tông đồ thì
không cần chú trọng tới kỹ thuật tổ chức, vì thế nào Chúa cũng
giúp đỡ. Lập luận đó không khác gì việc một tu sĩ nọ nhất định
đổ nước thánh vào bình xăng xe hơi thay cho dầu xăng, vì xe đó
chỉ dùng để làm việc tông đồ mà thôi.
10*
Mục đích "ngày thế giới" này là để người công giáo ý thức sâu xa
hơn về bổn phận của họ trong lãnh vực truyền thông. Chỉ trích và
che bai các phương tiện đó như là dụng cụ ma quỷ để phá đạo
không còn là thái độ đúng đắn; nhưng đứng trước những phát minh
đó, người nhiệt thành thực sự với Ðạo phải có tinh thần tích cực
hơn.
1
Các Nghị Phụ Công Ðồng vui lòng nhận lời thỉnh cầu của "Văn
Phòng Báo Chí và Kịch Ảnh" thành kính xin Ðức Giáo Hoàng nới
rộng nhiệm vụ và thẩm quyền của ủy ban này đến tất cả các phương
tiện truyền thông xã hội, kể cả báo chí, với sự trợ giúp của
những người chuyên môn - trong số đó có cả giáo dân - thuộc các
quốc gia khác nhau.
11*
Từ xưa đến nay, tại nhiều nơi những người Công Giáo hoạt động
trong lãnh vực truyền thông xã hội không những không được nâng
đỡ, lại có khi còn bị coi là những người mạo hiểm và bê bối nữa.
Bây giờ não trạng này phải được thay đổi hoàn toàn.
|
VỀ MỤC LỤC |
|
THẦY Ở ĐÂU? (GA 1,38)
|
Điểm nhắm:
Hỏi “Thầy ở đâu?” là một cách thăm dò tinh tế để điều tra cho
một dấu hỏi căn bản hơn: “Thầy là ai?” Hai môn đệ đầu tiên đến
chỗ của Thầy và ở lại với Thầy hôm ấy, như chính thức bắt đầu
một hành trình khám phá Đức Giêsu sẽ còn tiếp tục mãi, không
cùng. Đức Giêsu là một con người quá kỳ lạ. Không gì ngớ ngẩn
cho bằng giả thiết rằng mình đã ‘nắm’ Ngài. Và, nhiều khi, thái
độ lý tưởng là tháo gỡ hết mọi tiên kiến, mọi quan niệm có sẵn
về Ngài – để tiếp xúc với Ngài như thể mới phút đầu gặp gỡ ...
1. Nhân danh Đức Giêsu Kitô!!!
Bộ phim Jesus của đạo diễn
Roger Young bắt đầu bằng một cảnh cực kỳ gây sốc nhưng cũng là
một cảnh đầy lịch sử tính: Trên màn hình là một con người bị
trói hai tay và bị treo hẫng trên giàn hoả thiêu; lửa được châm
và bùng lên thiêu đốt người ấy, trong khi đó một vị (không rõ là
giáo hoàng hay giám mục) với phẩm phục và mũ gậy đầy đủ, đứng
bên cạnh dõng dạc tuyên bố:
“Nhân danh Chúa Giêsu Kitô.
Vâng, nhân danh Chúa Giêsu Kitô, Chúa chúng ta ở trên trời, ta
xử tử ngươi vì ngươi làm chứng điều sai trái, vì người tin những
điều sai trái, vì ngươi nói những lời sai trái, và vì ngươi làm
ố danh của Chúa Giêsu Kitô!”
Thật khó có gì mỉa mai hơn! Người
xem phim bất chợt tự hỏi: Ai thực sự đang làm ố danh Đức Giêsu
Kitô, kẻ bị thiêu sống hay là kẻ đang thiêu sống người khác?
Không có gì dễ cho bằng nhân danh Đức Giêsu. Nhưng liệu khi nhân
danh Ngài như vậy, ta đã thực sự hiểu về Ngài? Ở đây lộ ra một
vấn đề căn bản nhất: Đức Giêsu bị hiểu lầm, hoặc thậm chí bị cố
tình ép nặn cho vừa với cái khuôn suy nghĩ của người ta. Và ta
đừng quên, đây là bi kịch trong Giáo Hội và do Giáo Hội, đã từng
kéo dài trong một thời.
Mới đây, Linh mục Nguyễn Trọng
Viễn, OP., có ra một quyển sách nhỏ mang tựa đề “Những Căn
Bệnh Trầm Kha trong Đời Sống Đức Tin Công Giáo tại Việt Nam.”
Tác giả liệt kê 5 căn bệnh trầm kha, gọi là 5 thứ ‘đạo’: đạo
sinh hoạt, đạo hiếu kính, đạo thiêng liêng, đạo luân lý và đạo
thực dụng. Các tên gọi này thoạt nghe không đến nỗi ‘vấn đề’ gì
lắm, nhưng thực ra đó là những ‘đạo’ rất là có ‘vấn đề’, rất là
xa lạ với đạo đích thật của Đức Giêsu – và do đó cũng rất xa lạ
với chính Đức Giêsu! Sau đây là những dòng tác giả viết trong
lời ngỏ:
“Tôi nghe kể: có một người kia,
rất giàu có và có những 18 bà vợ. Mỗi bà vợ đều có cơ ngơi
riêng, cuộc sống tương đối an nhàn. Khi gần qua đời, ông ta tin
vào Chúa, theo đạo Công Giáo và được rửa tội...
Khi nghe câu chuyện ấy, một người
Công Giáo đã thốt lên ngay: Ông này hên thật, được cả đời này
lẫn đời sau!
Những nhận định kiểu như thế ta có
thể thấy khá nhiều. Và nếu vậy, thì những người Công Giáo đạo
gốc đã không được ‘hên’ như thế, vì họ phải biết đạo sớm, phải
lo giữ đạo cả một cuộc đời mà không chắc có được lên thiên đàng
hay không.
Điều ấy cho thấy khá rõ hiện trạng
đời sống đức tin của người Kitô hữu Việt Nam: đạo không phải là
một hồng phúc, nhưng là một gánh nặng phải mang vác để đổi lấy
cuộc sống thiên đàng mai sau. Quả thật, nói chung, những cộng
đoàn Kitô giáo vẫn chưa có mấy dấu hiệu khá lên về đời sống bác
ái; tổ chức quản trị trong Giáo Hội ít biểu lộ một thái độ tôn
trọng tín hữu, nhất là những người bé mọn; sinh hoạt trong Giáo
Hội ít triển nở thành thái độ có tâm huyết với cuộc đời.
Trong nhân cách Kitô hữu, nói
chung, chúng ta cũng ít thấy biểu lộ một sự trưởng thành và
triển nở phong phú vì được làm con cái Chúa. Thái độ người Kitô
hữu ít diễn tả được sự tự do của con cái Chúa, nhưng thường là
một thái độ dúm dó, sợ hãi, nệ luật, lách luật, hình thức, và ấu
trĩ...”
Rồi tác giả tự hỏi:
“Làm thế nào để người Kitô hữu có
được sự gặp gỡ cá vị với Đức Giêsu nhiều hơn, chứ không chỉ tham
dự sinh hoạt tôn giáo? Làm thế nào để người Kitô hữu nhận ra một
Đức Giêsu là Bạn và là người Anh, là Đấng có thể chia sẻ cả
những tội lỗi yếu đuối của mình? Làm thế nào để người Kitô hữu
tìm thấy niềm vui chân thật, chứ không phải chỉ còng lưng ‘đóng
thuế’ cho một thế giới thiêng liêng nào đó? Làm thế nào để người
Kitô hữu nhận được tình thương cứu độ của Đức Giêsu chứ không
phải chỉ là nỗ lực luân lý nhằm tu sửa một cách khó nhọc? Làm
thế nào để người Kitô hữu gặp gỡ được chính Chúa và được biến
đổi chứ không phải chỉ xoay sở và thu gom những công phúc cho cá
nhân? Làm thế nào để thái độ trung tín với một Đức Giêsu chịu
chết và phục sinh cũng chính là lời loan báo Tin Mừng như một
giải pháp cho cuộc sống nhân sinh hôm
nay?”
Chúng ta sẽ làm thế nào để trả lời
những câu hỏi “làm thế nào” đó đây, nếu không phải trước hết là
quay lại với Đức Giêsu Kitô, để hỏi “Thầy, Thầy ở đâu?” – để đến
ở với Thầy và khám phá Thầy.
2. Quay lại với
Đức Giêsu Kitô
Cha Joseph Girzone, 79 tuổi, dòng
Cát Minh ở New York, là một tác giả Mỹ ‘best-selling.’ Ngài
thành lập tổ chức Joshua Foundation, nhằm mục đích giúp cho
người ta hiểu Đức Giêsu nhiều hơn. Khoảng hai chục quyển sách
của ngài, bán rất chạy, đều viết về Đức Giêsu, thuộc nhiều thể
loại. Trong quyển Chân Dung Đức Giêsu, ngài viết:
“Phải một thời gian lâu lắm tôi
mới ý thức rằng còn có cái gì thiếu sót trong lối hành đạo của
chúng ta, và điều này làm cho tôi rất ái ngại. Chúng ta ai cũng
nhạy cảm đối với phong tục tập quán của Giáo Hội mình. Các giáo
sĩ lo bảo vệ đức tin của tín đồ và lo sao cho họ trung thành với
nhà thờ hay hội đường của mình. Điều này không có gì sai. Nhưng
một ngày nọ tôi cảm thấy rằng chúng ta chỉ quan tâm đến Giáo Hội
và nhà thờ của mình mà ít quan tâm đến điều Thiên Chúa muốn...
(bản tiếng Việt, tr.3-4). Tôi cảm nghiệm rằng mặc dù chúng ta
hăng say hoạt động cho Giáo Hội, nhưng điều Đức Giêsu muốn thì
lại không phải là động lực của chúng ta. Đối với những người
lãnh đạo trong Kitô giáo thì điều Đức Giêsu muốn phải đứng hàng
đầu, nhưng Giáo Hội, thần học và giáo luật lại là động lực căn
bản! Vì thế nhiều vị trong khi hành sự không quan tâm đến điều
Đức Giêsu muốn (tr. 6). Khi đi giảng về đời sống và về điều Đức
Giêsu dạy, tôi phải ngạc nhiên khi nghe dân chúng nói rằng họ
chưa bao giờ nghe nói về đời sống của Đức Giêsu. Một linh mục
rất thánh thiện mà tôi kính yêu từ lâu nói rằng ông rất đỗi ngạc
nhiên vì làm sao tôi có thể nói về Đức Giêsu suốt một tiếng rưỡi
đồng hồ. Khi tôi hỏi tại sao ông ngạc nhiên thì ông bảo rằng
trong ĐCV không có dạy về Đức Giêsu. Người ta chỉ dạy Kitô học,
Kinh Thánh, giáo luật và một số môn học khác, nhưng không ai dạy
môn học về con người Giêsu, về điều Giêsu nghĩ và tầm nhìn của
Ngài.
Tôi cũng gặp một chuyện tương tự
khác. Một sinh viên muốn mời tôi đến chủng viện của anh để nói
về Đức Giêsu. Tôi bảo anh nên dàn xếp với phân khoa gửi giấy mời
cho tôi. Trong khi chờ đợi, tôi đề nghị anh yêu cầu một giáo sư
thần học trong ban giáo sư để dạy về Đức Giêsu. Anh trả lời rằng
anh và các sinh viên khác đã đề nghị với một giáo sư thần học
nổi tiếng, nhưng ông ta trả lời rằng người ta thuê ông dạy thần
học chứ không phải dạy về Đức Giêsu.” (tr. 7-8).
Với quyển “Giôsua, Dụ Ngôn Cho
Thời Nay,” Cha J. Girzone đã viết một tiểu thuyết hẳn hoi,
trong đó ngài cho Đức Giêsu xuất hiện trở lại trong thế giới
hiện đại, và Giêsu hiện đại này đã gây nhiều bất ngờ, đồng thời
cũng gặp nhiều phiền phức, thậm chí do chính Giáo Hội!
Thế đấy, Đức Giêsu là một nhân vật
kỳ lạ!
3. Đức Giêsu được mô tả thế nào
trong các sách Tin Mừng?
Đức Giêsu là một nhân vật kỳ lạ.
Và nói theo ngôn ngữ của Cha Albert Nolan, dòng Đa Minh, thì Đức
Giêsu là một con người bị đánh giá thấp quá. Bị đánh giá thấp
không chỉ bởi những con người chỉ nhận thấy nơi Ngài một bậc
thầy tôn giáo, mà còn cả bởi những con người quá nhấn mạnh thần
tính của Ngài, khiến Ngài không còn là một con người với đầy đủ
nhân tính nữa. Khi người ta để Đức Giêsu tự nói về thân thế, khi
người ta thử tìm hiểu Ngài với một đầu óc không định kiến, trong
khung cảnh của thời đại Ngài đang sống, thì người ta sẽ nhận
thấy một cái gì lộ rõ lên, đó là hình ảnh của một người có
tư cách độc lập phi thường, có đức tính dũng cảm tuyệt vời, có
thái độ trung thực vô song, một con người mà không ai giải thích
nổi bản lĩnh. Tước đoạt nhân tính ở một con người như
thế, tức là tước đoạt mất sự cao cả của Ngài.
Chúng ta khó hình dung được Đức
Giêsu đã là một con người như thế nào mà khác tất cả những nhân
vật có trước cũng như các người đồng thời cách triệt để đến thế.
Tri thức to lớn của giới ký lục đã không làm cho người nao núng.
Ngài không ngần ngại tách xa khỏi họ, mặc dù họ xem ra rất thông
thạo hơn Ngài về các chi tiết lề luật và về cách giải thích lề
luật theo cổ truyền. Đối với Ngài không có một truyền thống nào
quá thiêng liêng đến không thể làm ngược lại, không có điều gì
chắc chắn căn bản đến không thể biến đổi được.
Nhưng Tin Mừng cho thấy Đức Giêsu
không đối lập với thiên hạ vì đầu óc chống báng hay vì muốn bộc
lộ sự bực bội sâu sắc đối với mọi người. Suốt cả cuộc đời, Ngài
đã để lại cho chúng ta ấn tượng về một con người dám nói dám làm
theo những quan niệm của mình, một con người độc lập đối với mọi
người.
Nơi Đức Giêsu, không hề có một dấu
vết sợ hãi. Không sợ gây gương xấu, không sợ mất tiếng tốt,
không sợ ngay cả mất mạng sống của mình. Tất cả những con người
tôn giáo, ngay cả Gioan Tẩy Giả, đều sửng sốt khi thấy Ngài hoà
mình với những người tội lỗi, khi thấy Ngài vui thích bầu bạn
với họ, khi thấy Ngài tự do đối với lề luật, khi thấy Ngài có vẻ
như chẳng quan tâm mấy đến sự nghiêm trọng của tội lỗi, và khi
thấy Ngài tương giao với Thiên Chúa một cách thật thoải mái. Đức
Giêsu đã sớm tự chuốc lấy điều mà chúng ta có thể gọi là tiếng
xấu: “Một kẻ háu ăn và nghiện rượu.” Chính Ngài đã thuật
lại lời đàm tiếu ấy có pha một chút dí dỏm (Mt 11,16-19). Nói
theo cách suy diễn, sự thân cận với những người tội lỗi khiến
thiên hạ liệt Ngài vào hạng người tội lỗi (Mt 11,19; Ga 9,24).
Và vào một thời mà sự đánh bạn với một phụ nữ không họ hàng gì
với mình chỉ gây nên ngờ vực, dị nghị, thì việc Ngài giao thiệp
với đàn bà, trong đó có những người mãi dâm, đã đủ làm cho Ngài
mất hết danh giá (Lc 7,39; Ga 4,27). Đức Giêsu đã chẳng cần làm
gì cả và chẳng cần thoả hiệp với ai để giữ lấy dù chỉ là một
chút danh giá trước mắt người đời. Ngài đã không tìm kiếm sự tán
thành, dù của “người lớn nhất trong số những kẻ được đàn bà sinh
ra” – tức là Gioan Tẩy Giả.
Theo Máccô (rồi Mt và Lc cũng
thế), thì cho đến cả những kẻ thù của Đức Giêsu cũng phải công
nhận Ngài là một người ngay thật, chẳng sợ ai: “Thưa Thầy,
chúng tôi biết Thầy là một người chân thật và Thầy không sợ bất
cứ ai; Thầy không quan tâm đến địa vị xã hội, nhưng Thầy dạy
đường lối của Thiên Chúa theo sự thật” (Mc 12,14).
Mặc dù họ nói thế để gài một cái
bẫy, nhưng câu nói ấy cũng cho chúng ta ý niệm về ấn tượng mà
Đức Giêsu đã in sâu vào tâm trí dân chúng. Gia đình có lần nghĩ
Ngài là kẻ mất trí (Mt 3,21). Những người Pharisêu thì bảo Ngài
là một kẻ bị quỉ ám (Mc 3,22). Họ tố cáo Ngài là một kẻ say
rượu, một kẻ tham ăn, một kẻ tội lỗi, một kẻ phạm sự thánh,
nhưng không ai có thể cho Ngài là một kẻ gian dối hay giả hình,
không ai có thể trách rằng Ngài sợ những gì thiên hạ có thể nói
về Ngài, hoặc sợ những gì người ta có thể làm để chống lại
Ngài.
4. Đề nghị vài hướng để khám phá
Đức Giêsu
- Theo bạn, đâu là điểm khác biệt
căn bản giữa Đức Giêsu và các vị sáng lập các tôn giáo như Đức
Phật, Mahomet, Khổng Tử, Lão Tử? Các vị ấy có thể dạy yêu
thương, nhưng các vị ấy có khẳng định tình yêu của mình đối với
các tín đồ và đòi các tín đồ yêu mình không? Bạn hãy hình dung
tâm trạng của Đức Giêsu khi Ngài nói “Này là mình Thầy... /
Này là máu Thầy...”, khi Ngài quì xuống rửa chân cho các môn
đệ, hay khi Ngài nói những lời này: “Chúa Cha đã yêu mến Thầy
thế nào, Thầy cũng yêu mến anh em như vậy. Anh em hãy ở lại
trong tình thương của Thầy” (Ga 15,9).
- Bạn có thể thử nhắm mắt lại,
‘nhìn’ Chúa Giêsu, và hỏi Ngài “Thầy ở đâu?” một cách
nóng bỏng, mới tinh, một cách đầy đủ tính thời sự không?
- Bạn cho rằng Kitô hữu là
người có Đức Kitô, người mang Đức Kitô hay là
người không ngừng khám phá Đức Kitô?
- Mahatma Gandhi, một người Ấn
giáo, đã ‘mê’ Đức Giêsu trong các Sách Tin Mừng. Còn chúng ta,
đọc Tin Mừng hoài, nhưng chưa chắc đã say mê Ngài như ông ấy.
Bạn nghĩ trong việc khám phá Đức Giêsu thì đâu là điểm thuận lợi
của Mahatma Gandhi so với nhiều Kitô hữu chúng ta? Nhưng Gandhi
đã không bao giờ trở thành Kitô hữu... Bạn thử giải thích trường
hợp này. [Liên hệ đến câu chuyện Gandhi bị từ chối, không cho
phép bước vào một nhà thờ để tham dự Thánh Lễ - vì đó là ‘chỗ
của người da trắng’, còn Gandhi lại là một người da đen.]
- Bạn hãy tưởng tượng Đức Giêsu
đến làm người lần nữa, lần này Ngài sinh ra và lớn lên tại Việt
Nam... Và bạn đi tìm gặp Ngài, thì nhiều khả năng bạn sẽ gặp
Ngài đang làm gì, ở đâu? Bạn sẽ thấy Ngài yêu gì, ghét gì? Gặp
rắc rối với những ai? Được thông cảm và ủng hộ bởi những ai?
- Hoặc bạn hình dung kiểu khác:
Nếu kê ra danh sách 10 người hay 5 người được biết đến nhiều của
thế giới trong 100 năm hay 50 năm trở lại đây, và đó là những
người giống với Đức Giêsu như được trình bày trong các
Sách Tin Mừng nhất – bạn sẽ đưa những tên tuổi nào vào
danh sách? Tại sao?
Lm. Giuse Lê Công
Đức |
VỀ MỤC LỤC |
|
MỘT
NGƯỜI GIÁO DÂN CẦU NGUYỆN CHO CÁC CHA SỞ
|
Paroisse Saint-Antoine des
Quinze-vingt
FIP n. 36
16-17 Mai 1992
5 ième dimanche de Pâques
Lạy Chúa, trước
hết chúng con cảm tạ Chúa
vì những người
này đã chấp nhận
thành cha sở,
cha phó của chúng con.
Nếu rủi mà các
ngài lựa chọn
một cuộc sống
nhàn hạ,
một bà vợ, một
mái ấm,
chúng con sẽ kẹt
biết chừng nào !
Và cứ giả sử
khắp nơi đều như thế cả ?
Lạy Chúa, con
cảm tạ Chúa
đã ban cho các
ngài biết can đảm, hy sinh.
Nhờ các ngài,
chúng con được
dưỡng nuôi bằng bánh hằng sống,
chúng con có thể
xây dựng những gia đình bền vững,
tìm lại được
linh hồn chúng con đã đánh mất,
và cuối cùng
được chết bình an.
Chúng con cảm tạ
Chúa
vì những khiếm
khuyết của các ngài :
những con người
hoàn toàn
không dễ gì chấp
nhận những ai yếu đuối,
và những người
lúc nào cũng mạnh khoẻ
sẽ khinh dể
những người sức vóc chẳng bao nhiêu.
Chúa quả thấy rõ
hơn chúng con nhiều.
Lạy Chúa, mỗi
cha sở là một hiện tượng :
đối với trẻ em,
các ngài là
những nhà mô phạm ;
với những cặp vợ
chồng mới cưới,
các ngài phải là
những chuyên viên
về cuộc sống gia
đình ;
với thanh niên
thiếu nữ,
các ngài phải là
những người sành sỏi tâm lý ;
trong toà giải
tội,
các ngài phải là
những nhà khoa học xuất sắc
đồng thời phải
là những người thợ khéo tay.
Đi họp với các
ông, các ngài phải có khả năng
bàn cãi các vấn
đề Giáo Hội
như là những bậc
thầy.
Đi họp với các
bà,
các ngài phải
biết mở cuốn Tin Mừng
như những nhà
chú giải Kinh Thánh.
Đi thăm những
gia đình có kiên thức cao,
các ngài phải
biết nói đến cuốn chuyện mới phát hành
để khỏi bị xem
là những kẻ thô lỗ.
Với ông đảng
viên có cảm tình
các ngài phải có
khả năng
đề cập đến những
góc cạnh hiểm hóc nhất
của cuộc tranh
chấp tư bản.
Với những người
ngoài công giáo,
các ngài phải là
những nhà thần học
vừa có tinh thần
cởi mở,
vừa có lập
trường vững chắc.
Rồi với thanh
lao công
cũng như với các
đoàn thể khác ...
Nhưng làm sao kể
hết ra đây được ?
Con đã quên chưa
nói là ngoài đường, ngoài chợ,
các ngài phải
đáp lại mọi lời chào hỏi,
phải luôn luôn
tươi cười,
dầu có mệt muốn
chết.
Con cũng đã quên
là mỗi ngày Chúa nhật,
các ngài phải
vừa là diễn giả,
vừa là ca sĩ,
thậm chí nhạc công.
Còn trong tuần,
có khi phải làm thợ điện,
thợ mộc hay thợ
sơn.
Lạy Chúa, như
thế các ngài quả là những chuyên viên
của hết mọi lãnh
vực :
Xin Chúa giúp
chúng con
biết độ lượng
khi phê phán những con người
phải thực hiện
một chương trình vô nhân đạo
bao gồm những
công việc chẳng ăn khớp với nhau.
Xin Chúa dạy
chúng con biết hiểu rằng
giả như trong
mười bốn ngành chuyên môn
mà các ngài thực
hiện được một nửa
hay một phần tư
thôi,
thì chúng con đã
mãn nguyện lắm rồi.
Lạy Chúa, xin
dạy chúng con tha thứ
khi các ngài
thiếu kiên nhẫn hay sai lầm.
Xin cũng giúp
cho chúng con hiểu
rằng chúng con
chỉ phải chịu đựng
một ông cha sở
thội,
nhưng chính cha
sở thì lại phải gánh vác trên vai
tất cả mọi giáo
dân của mình.
Bản dịch của
Lm. Pascal Nguyễn Ngọc Tỉnh ofm
|
VỀ MỤC LỤC |
|
SÁM HỐI VÀ HOÀ GIẢI
|
Tối
hôm qua, con thấy hàng giáo sĩ của Huế nghiêm túc đi
xưng tội. Điều đó gợi nhớ cho con Ngày Năm Thánh Giám
Mục ở Rôma năm 2000. Có sáu giám mục Việt Nam được đề cử
đi dự. Chừng hai nghìn rưỡi giám mục khắp nơi trên thế
giới đi viếng Vương Cung Thánh Đường Thánh Phêrô. Các
giám mục, với phẩm phục đầy đủ, mũ đỏ, băng đỏ, chen
chúc nhau vào trong các toà giải tội. Điều nầy gây xúc
động bởi vì các vị lãnh đạo Giáo Hội trên thế giới đã
làm một gương tốt. Cũng như tối hôm qua, hàng giáo sĩ
Huế đã xét mình, và không bỏ sót một điều khoản nào
trong bản xét mình nầy, trước khi đi vào toà xưng tội.
Hôm
nay, chúng ta suy niệm về vấn đề “Sám Hối và Hoà Giải
”.
Thật
là một thiếu sót lớn, nếu trong cuộc cấm phòng mà không
quyết tâm đổi đời, không quyết tâm điều chỉnh nếp sống quá
khứ và không muốn kết hợp mật thiết với Chúa ngày càng hơn.
Muốn thực hiện được mục đích hoán cải tâm hồn, đổi mới đời
sống, mến Chúa và yêu anh chị em nồng thắm hơn, chúng ta
phải nghĩ trước tiên đến việc ăn năn đền tội. Hay nói cách
khác, chúng ta phải suy niệm về bí tích hòa giải, ăn năn sám
hối, để cảm nghiệm lòng thương xót vô bờ của Chúa, xưng thú
mọi lỗi lầm, mọi đớn hèn của mình hầu xin Chúa đổ tràn ơn
Ngài xuống cho chúng ta, để trong tương lai, trong những
ngày sắp tới, chúng ta phụng sự Ngài và phục vụ tha nhân hữu
hiệu hơn.
Toàn
thể Kinh Thánh kêu gọi sự trở về, sự hoán cải tâm hồn và
muốn cho con người trung thành với Tình Yêu Thiên Chúa. Hầu
hết các tiên tri đều kêu gọi dân trở về với Thiên Chúa Yavê.
Rồi gần đến giờ cứu rỗi của Chúa G, tiếng kêu gọi này trở
nên cấp bách: Thánh Gioan Tiền Hô rao giảng: “Hãy ăn năn
thống hối, vì Nước Trời đã gần đến”. Chúa Giêsu khi rao
giảng, câu đầu tiên thốt từ miệng Ngài cũng không là gì khác
hơn: “Hãy ăn năn thống hối và tin vào Phúc Âm”. Như
vậy, việc ăn năn thống hối, giao hòa với Thiên Chúa, với tha
nhân, với Giáo hội là điều tối quan trọng, nó không miễn trừ
ai, kể cả các linh mục.
Chúng
ta biết thiên tình sử giữa Thiên Chúa và loài người viết lên
những trang lâm ly bi đát. Thiên Chúa là tình yêu, như thánh
Gioan đã miêu tả, và vì yêu mà Thiên Chúa đã tạo dựng con
người, đã thương ban cho con người tất cả những ân sủng của
Ngài. Thiên Chúa đã muốn kết hôn với loài người. Nhưng con
người đã nhiều lần phụ bạc tình Chúa, đã phạm tội, trong số
các tội nhân đó, có chúng ta.
Tội
là gì ? Ở đây chúng ta chỉ đề cập đến tội trọng, tội nặng.
Tội trọng là những tội cắt đứt liên lạc giữa con người và
Thiên Chúa, là thái độ của một người bạn ngoại tình, của một
đứa con đãng tử đạp cửa ra đi trước sự đau xót và sững sờ
của Cha già. Đó là tội gây chết chóc, đổ vỡ, tan nát. Với ý
thức và tự do, con người đã quay lưng lại Chúa Nguồn sống,
để lao đầu vào vực thẳm tuyệt vọng. Tội nặng làm cho con
người mất liên lạc với nguồn sống mình là Thiên Chúa, như
nhành cây lìa khỏi thân cây, trở nên khô héo, như chiếc đèn
điện bị đứt cầu chì, không có dòng điện qua lại, trở nên vô
dụng vì không chiếu sáng. Đang là con cái Chúa, tội nhân trở
thành nô lệ cho ma quỷ.
Tội
là một thực tại tai hại và xấu xa như thế, nhưng Thiên Chúa
là Đấng luôn luôn khoan dung nhân hậu. Ngài đã bộc lộ tình
Ngài trong Kinh Thánh, nơi Người con của Ngài là Chúa Giêsu
Chúa chúng ta. Ngài xót thương kẻ có tội, Ngài đưa má phải
cho người vả má trái. Ngài sẵn sàng tha 70 lần 7, nghĩa là
tha luôn. Đứa con đãng tử đã được tha ngay từ lúc nó bước
chân ra khỏi cửa, được tha ngay khi nó phung phí tiền của do
mồ hôi nước mắt chà già làm ra, bỡi lẽ nó được Cha yêu
thương và mong đợi. Con chiên lạc đã được yêu mến ngay trong
khi nó đi hoang, vì chủ chăn nhân lành đã bỏ các chiên khác
để lo ngày lo đêm đi tìm nó, và khi đã tìm gặp, vui mừng vác
nó trên vai và đem về ràn. Nói cách khác, Chúa yêu thương
con người vô điều kiện, Ngài yêu dẫu không được yêu lại, đó
là ý nghĩa tròn đầy của tiếng ân sủng, một tình yêu nhưng
không. Ngài còn yêu bỡi vì Ngài không được yêu, đó là cả một
tấm lòng mà người ta gọi là ái tuất. Lý do nào khiến cho
Ngài yêu chúng ta đến như điên như dại ? Không có lý do nào
khác ngoài lòng tốt vô biên của Ngài. Ngài đã cho mưa sa,
chiếu nắng ấm trên cánh đồng những kẻ nói phạm thượng cũng
như trên thửa vườn của các chị dòng kín. Ngài không là người
chồng lựa chọn vợ yêu thương mình, rồi chê bỏ vì vợ bất
trung, rồi đem lòng tha thứ vì thấy vợ ăn năn hối cải.
Không, tình yêu của Ngài không phải là sự đáp trả, không
phải là một tiếng dội đơn thuần của một tình yêu khác, mà là
một sáng kiến, một sự tỏ tình luôn đi nước trước như thánh
Gioan đã viết: “Thiên Chúa yêu thương chúng ta trước”. Ngài
chẳng những yêu thương, mà còn luôn tha thứ, dẫu người yêu
của Ngài thế nào đi nữa.
Chính
con người, chính chúng ta mới là những kẻ thay lòng đổi dạ,
mới là những kẻ thất nghĩa bất trung. Yêu thương rồi ghét
bỏ, cho rồi lấy lại, hứa rồi nuốt lời. Nhận tiếng “xin vâng”
lúc được rửa tội rồi thay đổi thái độ, rồi bỏ cuộc, rồi gây
đổ vỡ, rồi đi hoang do tội phạm mà chúng ta gọi là tội nặng.
Thiên
Chúa luôn luôn bỏ cửa ngõ trống để ta trở về. Ngài không
đóng sầm chốt cửa trước đứa con đi hoang, trước người tình
phụ đi theo tiếng gọi tình yêu bất chính. Hằng ngày, Ngài ra
trước cửa để ngóng chờ, luôn ở trong tư thế thứ tha, đón
nhận. Để tha thứ, chỉ cần có một bên là đủ, nhưng muốn hòa
giải, phải có hai bên. Đồng tiền, con chiên, là những vật
không có lý trí và tự do, người chủ phải đi tìm, nhưng đứa
con, có ý thức, cha già đành phải đợi để đứa con trở lại.
Và
một ngày kia, đứa con đãng tử đã trở về. Luca viết: “Khi đứa
con còn ở xa xa, thấy nó, người cha động lòng thương, ông
chạy đến ôm chầm lấy nó và hôn nó một hồi lâu.” Chính Đức
Kitô đã thay Chúa Cha nói lên dụ ngôn này.
Hòa
giải với Chúa là một điều dĩ nhiên, nhưng tại sao lại phải
hòa giải với anh em ? Làm sao hòa giải với Chúa, làm sao trở
về nhà cha mà không hòa giải với những người con của Ngài ?
Thánh Phaolô khuyên dạy: “Tôi khuyên anh em trong Thiên
Chúa hãy phối hợp đời sống của anh em theo tiếng gọi mà anh
em đã lãnh nhận. Trong hết sức khiêm nhường và hiền dịu, với
sự nhẫn nại, hãy chịu đựng lẫn nhau trong tình mến, hãy cố
giữ sự hiệp nhất tâm trí do dây an bình, chỉ có một thân thể
và một tinh thần, cũng như ơn gọi anh em kêu mời anh em đến
cùng một niềm cậy trông duy nhất” (Eph. 4,1-4).
Thiên
Chúa muốn chúng ta yêu mến Ngài, đồng thời cũng muốn chúng
ta yêu thương nhau, do đó khi nào ta phạm tội nghịch với
Chúa, thì ta cũng làm tổn thương anh em. Cho nên một khi hòa
giải, chúng ta phải hòa giải không những với Chúa, mà còn
với tha nhân và với chính mình nữa.
Nhưng
cành cây gãy lìa thân, khô héo, không thể tự mình ghép vào
thân cây được, cầu chì đứt, không thể tự nó nối lại được,
phải nhờ một người khác, một bác làm vườn hay một thợ điện
chẳng hạn. Cũng thế, ngoài Chúa Cứu Thế ra, không ai có thể
giúp chúng ta giao hòa với Thiên Chúa, nối lại nhịp cầu đã
đổ vỡ được. Chúa Giêsu giúp chúng ta cách nào ? Hãy lần giở
Kinh Thánh.
Gioan
Tẩy Giả, theo tinh thần của đạo cũ, đã ngăm đe những tội
nhân tuôn đến cùng ngài trên bờ sông Hòa giang. Ngài mắng
họ: “Hỡi loài rắn độc, cơn thịnh nộ của Chúa hòng trút
xuống trên các ngươi, cái rìu đã đặt kề gốc cây”...
Nhưng lạ thay, trong nhóm tội nhân hôm đó, Gioan kinh ngạc
thấy có Chúa Giêsu ở giữa. Ngài cũng xuống sông xin Gioan
làm phép rửa. Để tránh sự ngộ nhận. Gioan đã vội giảng giải:
“Đây Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xóa tội trần gian”. Gioan
muốn nói Chúa là Đấng vô tội, nhưng Ngài đành hy sinh hòa
mình trong đám tội nhân để lãnh phép rửa thống hối. Sau này,
khi rao giảng Tin Mừng, Chúa cũng lập lại lời Gioan: “Anh
em hãy ăn năn thống hối vì Nước Trời đã gần đến”, nhưng
Ngài bỏ mất câu chửi mắng của Gioan và cũng không nhắc lại
lời ngăm đe trên kia, chỉ thêm “Hãy tin vào Phúc Âm”. Thái
độ khoan dung, cảm thông với những kẻ có tội đã làm cho
Gioan nghi ngờ lúng túng, không yên lòng, nên trong chốn lao
lung, nằm trong ngục thất, lo cho tương lai của nhân loại
tội lỗi, Gioan đã sai các môn đệ mình đi hỏi Chúa Giêsu:
“Thầy có phải là đấng thiên hạ trông đợi hay chúng tôi còn
phải đợi đấng nào khác ?” Chúa Giêsu trấn an Gioan bằng cách
mượn lời tiên tri Isaia để trả lời: “Ngài đã sai tôi đi
rao giảng tin mừng cho người nghèo khó: đó là những người
đui mù, điếc lác, què quặc, phung cùi, chết chóc... Tất cả
đều được nghe tin mừng, được chữa đã... Đó là những người
tội lỗi đáng thương được biểu trưng bằng những nỗi khốn cùng
trong nhân loại” (Lc 8,18).
Chưa
hết, hãy theo dõi Chúa trên con đường rao giảng tin mừng.
Matthêô tự thuật đời mình như sau: “Chúa Giêsu thấy một
người ngồi ở bàn thu thuế, một Matthêô Lêvi nào đó” (Mt
9,9). Một nhân viên thuế vụ đang làm việc khai thác dân, là
cộng sự viên đắc lực của đế quốc La Mã, đang rình mò dân
chúng qua lại để bóc lột, một người đang bị bắt phạm tội quả
tang mà không biết xấu hổ và không có chút ý muốn bỏ cuộc.
Nhưng
ông đã bỏ cuộc, ý nghĩ bỏ cuộc do chính Chúa Giêsu gợi lên
khi Ngài đi ngang qua đó. Chính Ngài cũng đã gợi lên ý nghĩ
bỏ cuộc đó cho người thiếu phụ xứ Samari, cho người đàn bà
ngoại tình, cho Maria Mađalêna, cho Giakêu, cho Phêrô và cho
người trộm lành.
Tại
sao Chúa lại gợi lên ý nghĩ bỏ cuộc, bỏ nghề bỉ ổi để đổi
đời cho những người tội nhân trên, những người đã hơn một
lần làm mất lòng Chúa ? Bởi vì Chúa là hiện thân của Thiên
Chúa, nguồn tình yêu thương, bởi vì Chúa Giêsu chính là tình
yêu nhập thể.
Trước
bàn giấy ghê tởm, con người bị dân chúng oán ghét, bàn tay
thọc vào bao bạc được thu tích cách bất lương, người qua lại
tránh né và như muốn bịt mũi bước nhanh nữa là khác, thế mà
Thiên Chúa lại gần. Cung cách của Ngài, cái nhìn của Ngài,
bàn tay đon đả giơ ra, tất cả đều là chiếu cố, là vồn vã, là
yêu thương; tất cả là tha thứ nhân danh Chúa và nhân danh
nhân loại. Và đây, Ngài còn cất tiếng ngỏ lời với người tội
lỗi, cung giọng đầy tin tưởng, kính trọng, thân tình và mời
gọi, ngắn gọn nhưng chí tình: “Hãy theo Ta”.
Ai
hiểu được lòng Chúa yêu thương ? Ngài tha thứ là một việc
tốt rồi, thế mà còn kêu gọi người có tội theo Ngài ? Ngay cả
Matthêô cũng không hiểu nổi. Ông kinh ngạc: Tiên tri Giêsu
biết ông, ngỏ lời với ông ngay trong lúc ông hành nghề bỉ
ổi, ngay trong đớn hèn của ông. Chúa đã muốn hiện diện trong
đời ông, mặc dù ông đang dãy dụa trong vũng bùn. Chúa đã
muốn kéo ông ra, muốn lôi ông lên, ủy lạo, an ủi ông vì ông
đang bị mọi người phỉ nhổ, bị cộng đoàn Do Thái khai trừ, bị
coi như là một tên Do Thái gian, cấu kết với ngoại bang đế
quốc để bóc lột dân. Trong lúc đó chỉ có một mình Chúa cảm
thông và đã cho ông biết Thiên Chúa yêu thương ông, một con
người bất xứng.
Lập
tức dẹp nghề, xô bàn ghế, đứng dậy đi theo Chúa dưới mắt căm
phẩn của những người lành, họ bất mãn vì sao Chúa lại như
thế. Trước mắt đầy kinh ngạc của những người tội lỗi, họ đâm
bối rối và như vừa trải qua một giấc mộng, thật hay mơ đây.
Sau
đó, là cả một đám đông những người tội lỗi đổ xô đến với
Chúa. Matthêô đãi tiệc tại nhà ông, bởi vì Tin Mừng Tha Thứ
đã nổ tung trong đời ông và trên thế giới. Chúa Giêsu ở
giữa, các tông đồ ngồi gần Chúa, vây quanh Ngài là cả đám
tội nhân đủ cỡ, những người cảm thấy mình được chiếu cố. “Người
ta xưng thú lỗi lầm với nhau và người ta tỏ lòng thống hối
ăn năn với Chúa, người ta liên hoan vì Thiên Chúa đã giao
hòa chúng ta với Ngài qua Đức Giêsu Kytô” (2Cor 5,18).
Những
người Pharisêu và ký lục, những người tự coi mình là những
người lành, tức tối, nên Chúa phải giải thích: “Không
phải những người khỏe mạnh cần thầy thuốc, nhưng những người
đau yếu. Tôi không đến để kêu gọi những người lành mà những
người tội lỗi” (Mc 2,13-17).
Nếu
Chúa đã nếm lấy những thất bại chua cay trong đời Ngài, đó
chính là nơi những người tự xưng mình là người lành của thời
Ngài.
Cũng
những người tự xưng mình là đạo đức, ngay lành và công chính
này, một ngày kia phẫn nộ đến điên cuồng, đã lôi kéo đẩy xô
một người đàn bà bị bắt phạm tội ngoại tình quả tang, họ lôi
bà ta đến cùng Chúa. Người đàn bà này đau khổ, xấu hổ rũ
rượi vì nhận biết tội lỗi của mình, chắc bà đang dọn mình
chết, vì theo luật Do Thái, người phụ nữ ngoại tình sẽ bị
ném đá. Còn những ký lục và biệt phái cũng như đa số dân
chúng đã không ý thức về tội lỗi của họ. Để nhắc cho họ lắng
nghe những tiếng nói lương tâm, Chúa Giêsu cất tiếng: “Ai
trong các ngươi thấy mình vô tội, hãy ném đá người đàn bà
này trước” (Ga 8,7).
Trong
yên lặng, đột nhiên Lời Chúa khai quang tâm trí mọi người,
giúp cho mỗi người khám phá ra sự cứng lòng của mình, sự xấu
xa, đớn hèn, sự bất toàn bất túc của mình và ngay cả sự đồng
lõa phần nào thực sự và sâu đậm với tội ngoại tình của người
đàn bà này, vì biết đâu họ đã không tạo điều kiện để lành
mạnh hóa xã hội, đã đưa người đàn bà vào chỗ bế tắc, vào
bước đường cùng, đành phải nuôi sống bằng cách bất chính. ..
Và
mỗi người hổ thẹn, nhón gót rút lui êm thấm, và phúc âm gia
lưu ý “những người già đi trước”. Chúa hỏi người đàn
bà “Không ai lên án chị sao ?” Lời này không phải trực tiếp
hỏi chị đàn bà, nhưng để công bố rằng giờ đây, mọi người đều
ý thức thân phận tội lỗi của mình, và thay vì làm quan tòa
đoán xét, lên án, họ đã rút lui. Hành động rút lui là hành
động xưng thú lỗi lầm, tức họ cũng đã đứng về phía người đàn
bà tội lỗi.
Chỉ
có một người vô tội đó là Chúa Giêsu, nhưng Ngài cũng không
lên án. Ngài nói với thiếu phụ “Không ai lên án chị” và như
vậy, không ai bị lên án cả, họ cũng không và chị cũng không,
bỡi vì tâm hồn của tất cả đều thay đổi. .. “Hãy về đi và từ
nay đừng phạm tội nữa”.
Thánh
Gioan, người thuật lại câu chuyện này, đã viết trong thư thứ
nhất của Ngài: “Nếu ta tự cho mình là người không có tội,
chúng ta tự dối mình và sự thật không có trong chúng ta. Nếu
chúng ta xưng thú tội chúng ta, Thiên Chúa, Đấng trung tín
và thánh hóa, sẽ tha thứ tội lỗi chúng ta và sẽ rửa sạch
chúng ta khỏi mọi tội lỗi” (1,8-9). Và Ngài tiếp bằng
những lời rất thân mật: “Hỡi các con yêu quý của Cha, Cha
cầu chúc các con đừng ai phạm tội, nhưng nếu có ai phạm tội,
thì hãy chạy đến cùng Thiên Chúa, qua Đấng binh đỡ, là Chúa
Giêsu Kytô, Đấng công chính” (2,1-2).
Như
vậy giờ đây, chúng ta đứng về phía nào, bên phía các biệt
phái, ký lục hay bên phía tội nhân ? Ngần ấy chứng từ trong
Kinh Thánh đã quá đủ để chúng ta thấy lòng Chúa yêu thương
chúng ta bao la như thế nào, đủ để chúng ta thấy dù chúng ta
đớn hèn đến mức độ nào, Chúa cũng dũ lòng thương, với điều
kiện chúng ta nhận và xưng thú tội lỗi. Ngần ấy quá đủ để
chúng ta phải biết cảm thông với những người có tội, không
làm bộ giả hình lên án gay gắt những người theo quan điểm
của Chúa, là đáng thương hơn đáng trách. Hãy khắc khe với
chính mình, hãy yêu sách chính mình, hãy thành thật với
Chúa, hãy khiêm nhượng chấp nhận mọi yếu hèn và hãy khoan
dung với người khác. Đó là những bài học chúng ta rút tỉa từ
những đoạn Kinh thánh mà chúng ta vừa suy niệm trên.
Hay
có người bảo rằng đọc Kinh Thánh, chúng ta chỉ thấy lòng
khoan nhân vô bờ của Thiên Chúa, còn thái độ của con người
thì đầy mặc cảm lặng yên ? Không, Matthêô đã bỏ nghề cũ để
theo Chúa, Maria Mađalêna đã đổi đời, Giakêu đã phạt tạ, đã
chia xẻ gia sản mình cho kẻ khó để đền tội, Phêrô đã khóc
lóc suốt đời mình và đã dùng cái chết treo lộn ngược đầu
trên thập giá để minh chứng lòng trung kiên của mình, đồng
thời sửa chữa những lỗi lầm xưa.
Và
đây, hãy xem tấm gương thống hối của Đavit: Vua Đavit là một
người chăn chiên, đã được Chúa chọn làm vua Israel để thay
thế Saul. Trong những ngày tháng vinh quang nhất đời ông,
ông vui hưởng cảnh giàu sang phú quý và trong chính khi
hưởng nhiều ơn Chúa như vậy, ông đã sa ngã phạm tội. Ông đã
phạm hai tội. Tội thứ nhất là muốn khoe khoang, muốn kiểm
tra dân số để biết công lao của mình đã chinh phục được bao
nhiêu thần dân. Chúa đã sai tiên tri đến báo tin Chúa sẽ
phạt tội kiêu ngạo của ông bằng cách trong một ngày, cho
thần tru diệt đến giết các con cái Israel. Khi thấy người ta
chết quá nhiều, Đavit đã xin Chúa thà giết ông đi còn hơn là
để cho thần dân của ông, những người vô tội, phải vạ lây
khủng khiếp như vậy. Trong khi chúng ta phạm tội, liên đới
trách nhiệm vẫn có trong cộng đoàn, trong xã hội của chúng
ta, biết bao trẻ sơ sinh, biết bao người lành phải chịu cảnh
khốn cùng để đền tội thay cho chúng ta, nỡ nào chúng ta kéo
dài cảnh sống đau thương cho những người vô tội như vậy.
Chưa hết, Đavit còn phạm một tội khác tầy trời, đó là tội
giết Uria, người Hittit, để sang đoạt Bersabê làm vợ. Ông đã
làm việc này với một mưu mô xảo quyệt, đến độ không ai hay
biết và ông tưởng rằng mọi sự đã qua, lương tâm cũng yên ngủ
trong tội lỗi. Chúa sai tiên tri Nathan đến nhắc cho vua
biết nhà vua đã phạm tội như vậy. Đavit đã không chối cãi,
không biện minh, mà đã khiêm nhường cúi đầu xưng thú: “Quả
thật tôi đã phạm tội mất lòng Chúa” và ông đã ăn năn
thống hối thảm thiết, sẳn sàng nhận mọi hình phạt Chúa giáng
xuống trong suốt cả đời mình. Chúng ta thán phục phản ứng
của Đavit trước lời khiển trách và hình phạt của Thiên Chúa
giáng xuống ông. Đọc lại thánh vịnh thứ 50, chúng ta thấy
Đavit đơn sơ, khiêm tốn trong thống hối sâu xa và vẫn không
ngã lòng, một mực tin tưởng vào lòng lân tuất vô biên của
Chúa. Chính vì vậy mà ông đã xin cho đứa con ngoại tình của
ông khỏi chết. Chúa đã không thể nhượng bộ trước một sự dữ
có tính cách xã hội. Ngài phải cất đi gương xấu do Đavit gây
ra, đứa con đã chết, nhưng Ngài cho Salomon lên kế vị Đavit,
Salomon sinh ra do Bersabê, người vợ cũ của Uria. Một lần
nữa, ta thấy lòng khoan dung của Thiên Chúa là kỳ diệu.
Đã
đến lúc không còn lý thuyết suông, hay tìm kiếm dài dòng
trong văn tự, mà phải đi vào thực tế, vào cụ thể. Hãy dành
trọn thì giờ ngày hôm nay để xét mình lại, để kiểm điểm đời
sống, để ăn năn và xưng thú tội lỗi, để giao hòa với Chúa,
với Giáo hội và với anh em trong giáo phận. Quyết tâm sửa
sai, đổi đời và dùng mọi biện pháp thích ứng để phạt tạ
những lỗi lầm trong quá khứ và cố gắng sống thánh thiện
trong tương lai.
Nhưng
đối với các linh mục, những người đang sống tình nghĩa với
Chúa, sao lại đề cập đến tội lỗi? Trong quyển tự thuật " Một
Tâm Hồn" Thánh Nữ Têrêxa Hài Đồng Giêsu đã ghi chép hai sự
kiện rất hợp để nói về ý nghĩa của tội: có lần cha chị gọi
chị lại, lúc ấy chị đang đánh đu, chị đã trả lời với cha: "Thì
cha lại đây, con đang bận". Cha chị làm thinh bỏ đi. Chị
Pauline nói với em: "Sao em vô phép với ba như thế ?" Lập
tức, Têrêxa nhảy bổ xuống khỏi đu, chạy theo cha, năn nỉ xin
lỗi. Lần khác chị đang nằm trong giường, mẹ chị vào phòng
muốn hôn con, nhưng thấy con đang ngủ, sợ đánh thức con nên
thôi. Chị Pauline thấy vậy, thưa với mẹ: "Em nó làm bộ ngủ
đó, nó đang thức". Mẹ liền đến bên Têrêxa cúi xuống toan hôn
nhưng Têrêxa kéo mền phủ kín và lùng bùng: " Tôi không
muốn cho ai hôn tôi hết". Mẹ chị buồn bỏ ra đi. Chị
Pauline lại một lần nữa dạy em. Chị nói với Têrêsa: " Em
làm như thế là có lỗi với mẹ" Têrêxa lập tức chạy xuống
lầu, tìm mẹ van nài xin lỗi mẹ. Như vậy, tội là khước từ
tình Chúa thương ta, là không để Chúa hôn mình bằng những cử
chỉ yêu thương của Chúa, mà lại che lấp mình bằng một lòng
ích kỷ, tự mãn, kiêu căng.
Sau
Công Đồng Vatican II, Giáo Hội dạy thêm vào kinh Cáo Mình
câu: "và những điều thiếu sót". Tội to lớn nhất trong các
tội là lỗi đức bác ái. Nhưng có nhiều người không để ý đến
tầm quan trọng của hậu quả lỗi phạm. Chúng ta hãy nghe câu
chuyện dân gian Na-uy sau đây có tựa đề là "Chiếc lưới":
Một
bữa nọ, bác đánh cá gọi con gái mình là Hatta và bảo: “Con
hãy đan cho cha một chiếc lưới mới và nhớ mỗi gút phải cẩn
thận gút thật chặt, vì lưới cần phải chắc. Còn cha thì vô
rừng đốn cây để làm một chiếc thuyền đánh cá mới. Thật gay
go khi phải làm một chiếc thuyền chống chọi được với ba đào,
lướt được sóng gió dãi dầu sương nắng. Nhưng cha muốn có một
tấm lưới to và mới để sau Noel, cha sẽ ra khơi với anh con
là Axel. Con hãy lợi dụng những ngày hè để đan cho xong
lưới. Con hãy dùng 10 ngón tay thành thạo và dẻo dai, với
đôi mắt sáng để đan lưới. Cha rất cần chiếc lưới vừa mịn vừa
chắc. Hãy đặt hết tâm hồn con trong việc đan lưới, một chiếc
lưới không sai chạy ”. Hatta đã vâng theo lời cha, bắt
đầu đưa tay đan lưới, nhưng hai mắt cô có lúc mơ màng theo
dõi những cánh chim bay tận đâu đâu. Trái tim cô lại càng đi
xa hơn, xa tít mãi cõi mộng nào đó, đố ai mà biết được. Mặc
dầu lưới vẫn được đan, nhưng đã có một số mắt sai chạy,
những mắt lưới đã không thắt chặt, lại có những lỗi lầm sơ
sót. Nhưng cô thầm nghĩ, đan lưới bắt cá mòi chứ có bắt cá
voi cá mập đâu mà sợ, như thế cũng quá đủ chắc rồi. Làm chi
mà gút chặt, đau tay lắm, làm vừa phải thôi...
Một
chiều đông ảm đạm, chiếc thuyền mới rời bến cùng với một tấm
lưới mới. Trời tối như mực, tối khắp vùng biển cả, tối luôn
cả con tim. Hatta đứng trên bến ghe, theo dõi con thuyền từ
từ như một bóng ma rời bến, lướt ra khỏi cửa. Cô thở dài
nghĩ thương cho cha già từng ấy tuổi phải cực nhọc, cố gắng
đan lưới, dâng chúc công khó của mình tuy chưa đủ nhưng cũng
là một niềm an ủi. Còn ông già đánh cá, trán rộng hiên
ngang, đương đầu với gió với sương mù, vai mang lưới nặng,
lưới căng phồng niềm hy vọng, ông bảo người con trai: “Hãy
thắp trên cột buồm cao nhất, chiếc đèn dầu cá thu, chịu đựng
được gió to bão lớn, sáng tỏ trong sương mù. Hatta thấy từ
bờ xa, một ngôi sao đang múa nhảy, lấp lánh trong đêm. Như
vậy nó sẽ biết, vì bầu trời đen mực, rằng cha già đang lên
tiếng cảm ơn”.
Ba
ngày qua, ba ngày thức suốt trong đêm đen, Axel la: “Cố
lên các bạn, bắt cá mòi, cá nhiều lắm, tôi thấy chúng bơi
lội sáng rực trong đêm”. Vì quá vui mừng, Axel không kể
gì nguy hiểm, nghiêng mình quá thấp, ra khỏi thuyền, nên đã
rơi tòm xuống biển. Người cha già đang kéo lưới, nghĩ thầm,
nó có xuống nước, nằm trong lưới, thì chỉ ướt chút thôi,
không hề gì, ta sẽ kéo nó lên, may quá, lưới của con gái
Hatta của lão, đan chắc, không sai chạy... Nhưng, bỗng tay
ông lão đang cố kéo sức nặng của con ông, vùng lên, rồi ông
cảm thấy nhẹ tưng. Thôi lưới đứt, con ông đã tuột khỏi lưới,
qua những chỗ sơ hở Hatta đã đan.
Hatta
không thấy anh mình trở về, chỉ thấy cha già lưng còm và sầu
muộn.
“Con
ơi, con đã làm gì cho anh con phải ra như vậy ?”
Đúng
là câu Chúa hỏi Cain trong cơn khủng hoảng. Hatta trả lời:
“Con đâu có phải là kẻ giữ anh con ?” Ông lão nói: “Con nghe
đây, nó rơi xuống biển nằm trong lưới con, cha cố vớt lên,
lưới đứt, nó đã chìm sâu trong đáy biển giữa đêm đen”.
Hatta
rú lên một tiếng hãi hùng. Cô ân hận: “Nếu tôi biết
trước, tôi sẽ cố gắng tối đa đan lưới và gút thật chặt. Tôi
sẽ cẩn thận biết bao và đặt ở đó hết tình yêu thương...”
Ta
nghe câu chuyện của người đánh cá xứ Nauy, một non nước cách
xa ta hàng vạn dặm, thế mà có một tiếng dội thiêng liêng
trong tâm hồn chúng ta. Biết bao lỗi lầm, biết bao điều
thiếu sót, hữu ý hay vô tình, mà ta đã làm thiệt hại người
anh em chúng ta. Tiếng người cha già có đập vào tai chúng ta
hay không ? “Hatta, con hãy cố đan lưới cho cẩn thận, gút
thật chặt vào, vì cha cần lưới mới. Nhất là con hãy đặt vào
đó hết lòng con... một tấm lưới không sơ sót, không sai
chạy”. Những ngày qua, lạy Chúa, Chúa cũng nói với chúng con
như vậy. Hãy làm việc với tất cả tâm tình, sơ sót là lỗi bổn
phận và có khi, hay nhiều khi, giết chết người anh em chúng
con. Hãy nhìn lên Chúa đã đốn gỗ, đã đẽo ra một chiếc thuyền
mới, con thuyền thập giá, với hơi thở của Thánh Linh, căng
buồm ra khơi với tấm lưới mới và chắc của chúng con. Liệu
tấm lưới ấy có chắc thật không, có sơ sót không ? Nhưng “Thưa
Chúa, lưới chắc để làm gì ?” Con ơi, hãy tránh những lỗi lầm
và bỏ đi những mơ mộng viễn vông. Cha dùng lưới con để bắt
các linh hồn đang đắm chìm, cứu vớt những người anh em con
đang chơi vơi...”. “Con hiểu rồi, Chúa ơi, con sẽ cẩn thận
hơn, sẽ đan lưới cuộc đời con bằng cả một niềm cẩn trọng và
đặt vào đó hết tâm tình”.
|
VỀ MỤC LỤC |
|
CANH TÂN SƯ PHẠM
GIÁO LÝ, BÀI 1
|
Cha Peter
Rushton, một linh mục người Úc vừa được Chúa gọi về, có điều đặc
biệt là ngài để lại người vợ và ba người con. Lý do là vì trước
kia ngài là linh mục Anh giáo, sau này ngài trở lại Công giáo và
được Toà Thánh cho phép thi hành sứ vụ linh mục. Cha Rushton có
gia đình, nhưng ngài lại không hợp với việc tông đồ gia đình cho
bằng giảng dạy và hướng dẫn tĩnh tâm cho các nữ tu. Do đó ngài
thường hay nói “Thiên Chúa có tính hài hước”. Quả thật, nhờ Chúa
có tính hài hước mà chúng tôi, người giáo dân nhiều khiếm
khuyết, lại được sai đi để giúp đỡ giáo lý nhiều nơi khác nhau.
Từ những tiếp xúc, lắng nghe, chia sẻ, chúng tôi nhận thấy rõ
ràng việc canh tân sư phạm giáo lý là điều rất cấp bách trong
công tác rao giảng Tin Mừng.
Vậy canh tân là gì?
Chúa Thánh Thần là Đấng tác tạo, do đó dưới sự thúc đẩy cùa
Ngài, Giáo Hội không ngừng đổi mới về mọi phương diện, nhất là
sau luồng sinh khí mạnh mẽ của Công Đồng Vatican II. Nhưng khác
với các thể chế trần gian, Giáo Hội canh tân không phải là đi
xa, mà là trở về với nguồn cội, trở về với thuở ban đầu như Chúa
Giêsu đã làm và đã dạy. Sư phạm giáo lý cũng phải quay về với
phương pháp của chính Đức Giêsu. Qua mọi thời, Chúa Giêsu là
người thầy vĩ đại nhất. Tông huấn Catechesi Tradendae đã quả
quyết : « Đấng giảng dạy cách này
đáng được tôn phong bằng một tước hiệu “Thầy” độc đáo. Trong
toàn thể Tân Ước, nhất là trong các sách Tin Mừng, biết bao
nhiêu lần người ta đã gọi Người là Thầy! » Nhưng vì nhiều lý do,
cách truyền giảng giáo lý sau này cứ dần dần đi xa phương pháp
giảng dạy tuyệt hảo của Thầy Chí Thánh, do đó nhu cầu canh tân,
cũng là quay về, là điều không thể chần chừ.
Nhưng tại sao phải canh
tân? Có
hai lý do chính, một là thời đại ngày càng thay đổi, từ cách
sống, cách nghĩ, đến kinh tế, khoa học, tất cả đã có những bước
tiến mạnh mẽ. Các khoa sư phạm đời cũng đã thay đổi nhanh chóng
cho phù hợp. Xin đan cử việc dạy ngoại ngữ. Trong bốn thập niên
vừa qua, phương pháp dạy ngoại ngữ đã thay đổi từ phương pháp
Dịch – Văn phạm, sang phương pháp Trực tiếp, rồi Thính thị, bây
giờ người ta áp dụng phương pháp Giao tiếp. Các khoa sư phạm thì
cứ phải lo tìm ra cái mới mẻ hơn, còn giáo lý thì được canh tân
chỉ khi con người chiêm ngắm và bắt chước Thầy Chí Thánh một
cách chi tiết nhất.
Lý
do thứ hai để canh tân giáo lý quan trọng hơn. Hội Thánh với
huấn quyền được Chúa Giêsu trao ban nhờ Thánh Thần của Người, đã
không ngừng giảng dạy và chỉ thị cho con cái mình cách rao giảng
hữu hiệu và phù hợp nhất. Các thông điệp và tông huấn của Hội
Thánh về việc giảng dạy giáo lý là kho tàng phong phú cho công
việc dạy giáo lý. Nhưng dường như các giáo lý viên ít có cơ hội
tiếp xúc để học hỏi và thực thi. Do đó, canh tân trong giáo lý
còn là lắng nghe tiếng Hội Thánh là Mẹ và là Thầy, người tiếp
nối công việc rao giảng của chính Đức Kytô.
Và cần canh tân những gì?
Giáo Hội tự bản chất có sứ mệnh rao giảng, loan truyền Lời của
Thiên Chúa. Do đó không thể có sự đổi mới trong sứ mệnh và trong
sứ điệp rao truyền, mà chỉ cần canh tân cách thức giảng dạy cũng
như trong quan niệm về giáo dục. Tất cả cách truyền dạy trong
giáo lý phải phản chiếu việc giảng dạy của Đức Kytô, người Thầy
muôn thuở. Do vậy mà canh tân sư phạm giáo lý là bắt chước Đức
Kytô, từ cách giảng dạy cho đến tâm tình và thái độ khi giảng
dạy. Những điều cần phải canh tân đã được trình bày rõ ràng
trong Tông huấn Catechesi Tradendae và trong chương XII của bản
Tóm Lược Học Thuyết Xã Hội Công Giáo. Chúng ta sẽ cùng phân tích
chi tiết trong các bài sau, nhưng có thể tóm lại trong vài điểm
sau đây :
Thứ
nhất, giáo lý phải hướng về trung tâm là Đức Giêsu Kytô, cùng
bước đi với Thánh Thần của Người.
Thứ
hai, giáo lý phải gắn liền với đời sống đạo và các bí tích, phải
hướng các em đến việc kết hợp mật thiết với Đức Kytô.
Thứ
ba, phải luôn mở rộng quan niệm về
dạy Giáo Lý, duyệt xét lại các phương pháp, tìm ngôn ngữ thích
hợp, và dùng những phương tiện mới để truyền thông sứ điệp.
Thứ tư,
hãy bắt chước Mẹ Maria là Thầy dạy mẫu mực của Hội Thánh. Tông
huấn viết : « Mẹ là “một sách Giáo Lý sống” và là “Mẹ
và gương mẫu của các Giáo Lý viên »
Nguyện xin
Chúa Thánh Linh hãy đến canh tân đời sống và cách giảng dạy của
chúng con, và xin Mẹ Maria dẫn chúng con đi đúng đường lối
giáo dục mà Đức Giêsu Kytô Con Mẹ đã thực hiện.
(Bài
2 : Giáo huấn của Hội Thánh về Giáo lý)
N.B. Khi
thực hiện loạt bài về Sư Phạm Giáo Lý này, con xin cám ơn các
Cha Xứ, các Cha đặc trách giáo lý, Sœur Marie Xuân Lan, giám đốc
khấn sinh và các sœurs Dòng Thánh Phaolô Đà nẵng, đã hướng dẫn
và giúp đỡ cũng như tạo điều kiện cho con được có cơ hội cùng
học hỏi và chia sẻ. Xin quí Cha, quí sœurs chỉ giáo thêm và nếu
cần chúng con hợp tác, xin liên lạc qua địa chỉ email :
samuelvpn@gmail.com
Gioan
Lê Quang Vinh |
VỀ MỤC LỤC |
|
THƯ GỬI NHỮNG NGƯỜI-ANH-EM TÂN LINH MỤC TẠI VIỆT NAM CHỊU CHỨC
NĂM 2009
|
Trước hết, ''bần hữu'' xin chân thành gửi về
những người-anh-em Tân Linh
Mục tại Việt Nam chịu chức năm 2009
những lời nguyện chúc chân thành và tốt đẹp nhất.
Qua thư này, ''bần hữu'' xin gửi đến
những người-anh-em Tân Linh
Mục
(mà giáo dân thường gọi là "CHA MỚI") đôi điều ''tâm tình'' sau
đây:
Hơn bốn trăm năm trước Công Nguyên, Socrate(s), Hiền Triết Gia,
xứ Athènes, Hy-Lạp, đã khuyên đệ tử nên
''phản tỉnh'',
tức là ''Hãy tự
biết mình.''
(Connais-toi, toi-même.) Danh ngôn này đã trở thành
''kim chỉ Nam''
đến ngày nay cho tất cả mọi người!
''Biết
mình''
thường là gặp ''cái
tôi''
có khi quá lớn nếu không muốn nói như người Pháp: ''Cái tôi đáng
ghét.''! Cho nên, muốn biết mình mà đừng có
''bị''
chủ quan, tức là phải khách quan thì
''mình'' cần
lắng nghe ý kiến xây dựng của người khác để khắc phục nhược
điểm, mặt tiêu cực và để phát huy những ưu điểm, mặt tích cực
của bản thân.
''Biết mình'' qua người khác vẫn chưa đủ, mà cần phải
''biết người''
để học
hỏi kinh nghiệm từ điều hay, cái dở của họ. Cho nên ''Binh Pháp
Tôn Tử'' trong thiên thứ ba dạy rằng:
"Tri bỉ tri kỷ giả, bách
chiến bất đãi'',(
biết người biết
ta trăm trận trăm thắng.)
là vậy.
Tuy nhiên, ''biết mình'' không phải là điều đơn giản, mà rất khó
khăn, phức tạp như Benjamin Flankin, triết gia Mỹ, thế kỉ thứ
18, đã nói: ''Có ba 'thứ cứng nhất' trên đời, đó là
thép, kim cương
và biết chính
mình.''
Blaise Pascal, nhà bác học Pháp, cũng nói:
''Phá hủy
một nguyên tử dễ hơn dẹp bỏ một định kiến.''
Đôi khi chúng ta có cảm tưởng ''mình'' biết rất rõ về ''mình'',
nhưng quả thực lại không phải như vậy! ''Mình'' ảo tưởng về
''mình''! ''Mình'' nô lệ cho chính ''mình'', nghĩa là không làm
chủ được bản thân!
Dò sông, dò biển...dễ dò!
Lòng người phức tạp, ai đo cho cùng!?
Những Người-anh-em Tân Linh-Mục kính mến,
Chúng ta xác tín rằng chính Chúa đã gọi, đã chọn và đã dẫn dắt
Tân Linh Mục đến ngày hôm nay như Lời Ngài trong Kinh Thánh:
"Trước
khi cho con thành hình trong dạ mẹ, Ta đã biết con; trước khi
con lọt lòng mẹ, Ta đã thánh hoá con, Ta đã đặt con làm ngôn sứ
cho chư dân."
''Ơn
Gọi''
là một quá trình
lắng nghe
và nhận ra
tiếng kêu mời của Chúa, là
sẵn sàng
''phúc đáp'' Ý Ngài và can đảm lên đường, theo cách hướng dẫn và
chở che của Ngài. Trên hành trình Ơn Gọi này, có lúc vui, lúc
buồn, lúc tin tưởng, lúc nghi ngờ, thất vọng, lúc hăng say, lúc
mệt mỏi, chán chường, lúc ngỡ là được bay lên tận trời cao, hạnh
phúc tràn đầy, lúc lại bị dìm xuống tận bùn đen, đau khổ triền
miên!!!
Những
Người-anh-em Tân Linh-Mục chắc
là đang sống những chuỗi ngày
màu hồng,
huy hoàng, tâm hồn đang còn lâng lâng vì nhận được bao nhiêu là
cái bắt tay, lời chúc mừng, vì đang cảm nhận được tình Chúa bao
la, vì ước mơ đã thành sự thật, vì sự miệt mài, nỗ lực đã đến
ngày
đơm hoa
kết trái...
Tuy nhiên, niềm vui nào cũng qua mau để rồi trước mắt là cả một
hành trình dài bước theo Thầy Chí Thánh Giê-su.
Việc lãnh nhận thừa tác vụ
Linh Mục không phải là cùng đích của Ơn Gọi,
mà chỉ là
khởi điểm của một hành trình mới, với bổn phận và trách nhiệm
mới!
''Sống''
đúng
Thiên
Chức Linh Mục quả là không đơn giản, mà như là nàng dâu
trăm họ!
Khi đã về già, có Linh Mục chia sẻ cảm nghiệm của mình thế này:
''Sống đời Linh Mục quả thật là khó. Nếu giảng hơn mười phút thì
bị chê là dài; ngắn hơn một chút thì bị mang tiếng là Linh Mục
mà làm biếng, không chịu soạn bài giảng; nếu trang phục chỉnh
tề, tóc tai chải chuốt thì bị cho là kiểu cách, làm dáng; nhưng
nếu ăn mặc xuề xòa một chút thôi thì bị cho là dân bụi đời; nếu
giữ khoảng cách với người khác một chút thì bị cho là sống khép
kín; nhưng nếu hòa đồng với mọi người thì sẽ bị mang tiếng là
phường la-cà, buông thả,v.v....
''Chiều
đời''
thì Linh Mục sẽ dễ thất bại và đánh mất chính bản thân mình! Bởi
vậy, Linh Mục phải sống bằng cách noi gương Giê-su là
Thầy Cả của các
Linh-Mục.
Ngài cúi xuống rửa chân cho các môn đệ trong Bữa Tiệc Ly là một
tấm gương sống động, tuyệt vời! Đó là tình yêu thương, nghĩa cử
phục vụ tha nhân. Đó là đức khiêm nhường vì
''ai hạ mình xuống, sẽ được
nâng lên!''.
Chúa Giêsu không
nói: ''Hãy học nơi ta, vì ta giảng thuyết giỏi, vì ta làm nhiều
phép lạ.'' Nhưng Ngài đã dạy: ''Hãy
học nơi ta, vì ta hiền lành và khiêm nhường trong lòng.'' Ngài
không đòi hỏi những đền đài nguy nga, tráng lệ, mà cần những Đền
Thờ sống động cho Ngài ngự là tâm hồn thanh sạch của chúng ta mà
thôi!!!
Giáo
dân, thậm chí có rất nhiều Linh-Mục không hiểu chữ
''cha'' chăm sóc phần hồn
để rồi
tự nâng mình lên và khoái giáo dân đưa mình tới đỉnh danh vọng:
''Con kính lạy CHA! Con lạy cám ơn CHA!...'' Có người gọi Linh
Mục là THẦY CẢ,
là NGÀI,
là CỤ
là
CHA CỐ...
Lắm Linh Mục cũng ưa cái ''tước'' này và tự xưng với giáo dân
như sau: '' Bác nói lại với bà con là
Ngài
bảo như vầy...''
Con người là thước đo mọi vấn đề. Linh Mục ''đo lòng'' người
khác mà
không
tự đo lòng mình!
Phục vụ vì yêu thương, sao Linh Mục lại
coi
thường, chửi bới, hành hạ giáo dân?!
Phục vụ trong yêu thương, sao Linh Mục lại ở
nhà lầu, đi xe hơi đắt tiền, trong khi giáo dân của mình không
có cháo mà ăn?!
Phục vụ trong yêu thương, sao Linh Mục
hay làm khó cho người ta, đôi khi còn ngăn cản người ta đến với
Chúa?!
Phục vụ trong yêu thương, sao
linh mục muốn nói
người ta ra sao thì nói, trong khi được người ta góp ý, lại
không chịu lắng nghe, thậm chí còn làm khó dễ?!...
Cách đây mấy tháng, bần hữu đến tham dự một buổi hội thảo ở
tại thành phố
Munich, CHLB. Đức,
với
chủ đề: "Truyền giáo
trong xã hội hôm nay".
Có một đề tài được thảo luận khá sôi nổi, đó là:
"Những xung đột mà các nhà
truyền giáo thường gặp phải".
Rất nhiều ý kiến được đưa ra, như: ''Xung đột giữa văn hóa, xung
đột giữa người truyền giáo và dân địa phương..v.v. Riêng bần
hữu lại thiên về sự xung đột ngay trong bản thân của nhà truyền
giáo, xung đột giữa Ơn Gọi và
đời sống
cá nhân, giữa lời họ rao giảng và những việc họ làm.
Họ dạy người ta yêu thương, nhưng
cuộc sống của họ lại gây chia rẽ trong cộng đoàn; họ dạy người
ta sống khiêm nhường, nhưng họ lại tự cao, tự đại, không biết
tôn trọng và lắng nghe người khác; họ dạy người ta phải biết
sống hy sinh, phục vụ trong khi họ lại bắt người ta phục vụ
chính bản thân họ; họ dạy người ta phải biết sống yêu thương,
chính họ với họ (Linh Mục với Linh Mục) chưa biết yêu thương
nhau. Cho nên bần hữu gặp những Linh Mục quen biết, thường hay
nói, vừa thật, vừa giỡn:
"Chúa Giê-su với Chúa Giê-su không
yêu thương nhau thì làm sao giáo dân thương Chúa được??"
Cuộc đời này đầy những cạm bẫy. Giống như lực thôi miên, nó kéo
các Linh Mục xa dần ý nghĩa Ơn Gọi như đã trình bày. Nếu không
''bám vào'' Giêsu và cuộc sống của Ngài thì Linh Mục trở thành
những
''người nói láo''
trên tòa giảng vì họ chẳng mang lại lợi ích gì cho Giáo Hội và
cho con người.
Những người-anh-em Tân Linh Mục rất thân kính,
Bần hữu chẳng tài giỏi hay đức hạnh gì, chỉ là một giáo dân tầm
thường, xin mượn lời của bà
Madeleine Delbrêl (1904-1964),
một giáo dân Pháp thế kỷ XX,
xin có thêm thiển ý như sau:
Thiếu vắng Linh Mục đích
thực trong đời người là một nỗi khốn cùng không thể tưởng
tượng!. Món quà quý báu nhất, tình bác ái vĩ đại nhất, đó là một
Linh Mục xứng với danh hiệu của mình. Linh Mục là hiện thân của
Chúa Kitô ở trên thế gian này, qua các Bí Tích Tình Thương!!!.
Như
vậy, giáo dân chờ đợi những gì từ Linh Mục là người thay mặt
Chúa?
·
Cầu nguyện: Người ta
thấy có nhiều LM không bao giờ cầu nguyện đích thực;
·
Niềm vui: Có biết bao
Linh Mục lòng dạ xôn xao, căng thẳng, chưa thấy Chúa là niềm
vui;
·
Dũng cảm: Linh mục phải
là người kiên cường, bất khuất;
·
Nhạy cảm: Biết rung
động, nhưng không bao giờ héo úa, tàn tạ về tâm linh;
·
Tự do: Người ta muốn LM
không bị ràng buộc bởi một công thức nào, thành kiến nào;
·
Vô vị lợi: Đôi khi người
ta cảm thấy bị LM sử dụng mà lẽ ra ông phải giúp họ hoàn thành
sứ mạng của mình;
·
Kín đáo: Phải giữ bí
mật những gì người khác tâm sự với mình khi họ muốn mình giữ
kín;
·
Chân thực: LM phải là
người không được bóp méo sự thật;
·
Tinh thần nghèo khó:
Linh Mục phải là người không lụy tiền bạc, đứng về phía những
người ''thấp cổ, bé miệng'', những người nghèo khó nhất;
·
Gắn bó với Giáo Hội: Xin
Linh Mục đừng bao giờ ''quên'' Giáo Hội mà đại đa số là giáo
dân, cho nên LM đừng đóng vai bàng quan, không biết rõ ''chiên''
của mình!
·
Tóm lại, LM phải là tấm
gương sáng cho giáo dân và người chưa biết Chúa noi theo:
''Để mọi người thấy việc
các con làm mà ngợi khen CHA trên trời.''
Một
lần nữa, xin cầu chúc những Người-anh-em Tân Linh Mục ("CHA
MỚI") luôn gắn bó với Chúa Giêsu, sống Phục vụ anh-chi-em mình
hấu làm chứng nhân cho Tin Mừng.
Xin kính chúc
những
người-anh-em Tân Linh Mục
được nhiều THIÊN ÂN.
Thân kính,
Augsburg, CHLB. Đức, năm Linh mục
Phan Đức
Thông |
VỀ MỤC LỤC |
|
NHỮNG ĐỨC TÍNH TỰ NHIÊN CỦA NGƯỜI TẬN HIẾN. (CHỨNG TỪ ƠN GỌI,
BÀI 7)
|
Paris.
Chủ nhật 14.06.2009, tại Giáo Xứ Việt Nam, chị Têrêsa Phương
Mai, Trinh Nữ Tận Hiến , nói chuyện với cộng đoàn về đề tài : «
Những đức tính tự nhiên của người tận hiến ».
Đây
là đề tài học hỏi thứ bảy trong chương trình « chứng từ ơn gọi
», được thực hiện vào mỗi chủ nhật thứ hai mỗi tháng, trong «
Năm cầu cho ơn gọi 2009 » tại GXVN Paris. Chứng từ ơn gọi,
·
bài 1, đã được cha Nguyễn Bình chia sẻ vào
chủ nhật 14.12.08 về vấn đề «Làm sao biết Chúa gọi mình» ?
·
Bài 2, đã được cha Phan Tấn Khánh chia sẻ
vào chủ nhật 11.01.2009 về đề tài « Tự do trong đời sống tận
hiến ».
·
Bài 3, đã được chị Maria Vũ Thị Minh chia
sẻ vào chủ nhật 08.02.2009 về đề tài « Đời sống siêu nhiên của
người tận hiến ».
·
Bài 4, đã được thầy Nguyễn Quốc Tuấn, Dòng
Tên, chia sẻ vào chủ nhật 15.0302009 về đề tài : « Vấn đề tiền
bạc trong đời sống tận hiến ».
·
Bài 5, đã được chị Marie Đào Kim Phượng,
giáo dân tận hiến « Nữ Trợ tá tông đổ », chia sẻ vào chủ nhật
19.04.2009 về đề tài : « Đời sống độc thân trong ơn gọi tận hiến
».
·
Bài 6, đã được cha Hổng Kim Linh, Hội Xuân
Bích, làm mục vụ tại giáo xứ Pháp Notre Dame ở Boulogne, cựu chủ
tịch Hội Tu sĩ Việt Nam tại Pháp trong nhiều nhiệm kỳ 1976-1980,
1999-2003, chia sẻ vào chủ nhật 10.05.2009, về đề tài :
« Đời sống huynh đệ của người tận hiến »
Sau
Phúc Âm, Đức ông Mai Đức Vinh đã giới thiệu sơ qua về chị Phương
Mai, người đã từng giúp dậy giáo lý cho các em thiếu nhi và mời
chị lên nói với cộng đoàn về ơn gọi tận hiến của mình. chị
Têrêsa Phương Mai đã tận hiến dâng mình cho Chúa từ 8 năm nay.
Chia sẻ với cộng đoàn về đề tài « Những Đức Tính Tự Nhiên
của người tận hiến », Chị Phương Mai nói :
Tôi suy nghĩ nhiều về đề tài Cha Vinh đưa cho tôi : đức tính tự
nhiên của người sống tận hiến. Có gì khác với mọi người ? Người
sống tận hiến có nhiều hay ít đức tính hơn ? Trước khi đi vào
chi tiết, tôi xin định nghĩa vài chữ : đức tính là gì ? là tính
tốt. Tự nhiên ? là trời phú cho. Tóm tắt lại đức tính tự nhiên
là những tính tốt trời ban cho từ khi lọt lòng mẹ không cần rèn
luyện. Người sống tận hiến ? người đã chọn hiến dâng cuộc đời
theo Chúa.
Càng suy nghĩ tôi càng cảm thấy khó trả lời câu này của Cha đưa
ra cho tôi. Trước và sau khi bước vào đời sống tận hiến, những
đức tính của tôi có thay đổi hay không ? Trước khi tôi khấn,
không ai đến nhờ tôi cầu nguyện cho họ. Nhưng sau đó, có người
nhờ tôi cầu nguyện cho họ và nói lời cầu nguyện của người tu
hành tốt hơn lời cầu nguyện của họ. Sai. Cũng có người nói với
tôi : người như vậy mà Chúa cũng gọi. Tôi không xứng đáng vì họ
thấy tôi không có nhiều đức tính. Sai.
Tôi không biết Chúa cho những người sống tận hiến những đức tính
nào, cũng không biết người sống tận hiến có nhiều hay ít đức
tính hơn người khác hay không ? Theo thư Thánh Phaolô gởi cho
tín hữu Galát 5, 19-23 : « luật của xác thịt là dâm bôn, ô uế,
phóng đãng, thờ quấy, ma thuật, hằn thù, kình địch, ghen tuông,
nóng giận, tranh chấp, chia rẽ, bè đảng, ganh tị, say sưa, chè
chén. Còn hoa quả của Thần khí là mến yêu, vui mừng, bình an,
rộng rãi, tốt lành, lương thiện, tín trực, hiền từ, tiết độ. »
Thánh Phaolô không chia người tận hiến hay không tận hiến. Tôi
không nghĩ tất cả những người sống tận hiến đều có những đức
tính giống nhau. Tôi nghĩ Chúa cho mỗi người theo ý Chúa.
Sau khi suy gẫm đoạn thư này thì tôi hiểu rằng những đức tính là
do hoa quả của Chúa Thánh Thần. Vì vậy tôi xin được chia sẻ về
đức tính tự nhiên của tôi là người đã nhận bí tích Thánh Tẩy.
-
Lòng mến yêu, tự nhiên tôi không biết.
Người ta biết yêu khi được yêu. Tôi chỉ biết là tôi khao
khát một tình yêu, một tình yêu to lớn lắm. Tôi đặt điều
kiện rất cao. Bạn bè tôi thường nói không ai có thể đạt tới
những mơ ước của tôi. Nhưng tôi vẫn chắc chắn là người đó sẽ
đến và vẫn chờ đợi.
-
Niềm vui : tôi không có. Tôi nhìn cuộc
đời qua một màu đen. Lúc nào cũng chán nãn và tuyệt vọng.
-
Không có niềm vui thì làm sao có bình
an.
-
Rộng rãi : tôi không có. Tôi lúc nào
cũng ích kỷ, khi cho đi hay tính toán.
-
Sự hiền từ : lại càng xa lạ đối với
tôi. Tôi nhớ các bạn huynh trưởng (6 năm sinh hoạt trong
đoàn TNTT) cứ bảo tôi phải học thuộc điều tâm niệm thứ 6
(nói năng hành động nõn nà trắng trong). Hay Cha Sách cũng
đã nói : « Phương Mai khi cất tiếng hát rất ngọt, nhưng nói
chuyện như công an lên án ».
-
Sự nhẫn nhục : cũng không. Tôi luôn
luôn nóng nảy.
-
Lòng bao dung : cũng không. Tôi đòi hỏi
rất cao vì vậy bạn bè thường nói tôi khó tính. Ai muốn làm
bạn với tôi không nên làm việc với tôi.
-
Lòng khiêm nhường : có khi có, có khi
không.
Ngược lại : tôi rất
-
Cương quyết : cuộc sống và con đường đi
tìm Chúa của tôi đã trải qua nhiều chông gai, nhưng tôi đã
không bỏ cuộc. Trước đây tôi đi tìm ơn gọi vào dòng, nhưng
sau 3 tháng trong nhà tập thì tôi xin ra. Tôi đã coi đó như
là một thất bại. Gia đình tôi, nhất là mẹ tôi, theo quan
niệm Á Châu đã nói, ăn cơm Chúa rồi, đi ra sẽ không hạnh
phúc. Có người đã nói « người như vậy mà Chúa cũng gọi, có ý
nghĩa gì ? » Tôi không xứng đáng được Chúa gọi hay sao ?
Nhưng tôi đã đứng thẳng, không để lời dị nghị hay dèm pha
làm xao động. Tôi đã tin chắc Chúa đang gọi tôi, mặc dù u
tối, tôi không thấy rõ con đường nhưng tôi vẫn cứng rắn sống
cuộc sống hàng ngày và tiếp tục đi tìm. Ai tìm sẽ gặp, và 8
năm trước đây, tại Giáo Xứ này, trước bàn thờ này Chúa đã
gọi tôi theo Ngài và Giáo Hội đã thánh hiến tôi phục vụ Giáo
Hội qua anh em.
-
Sự nhường nhịn : phải, tôi không hề
tham của ai, và cũng không dành giật với ai.
-
Sự công bằng : dù tôi có thích một
người hay không, tôi vẫn biết nhìn ra cái tốt và cái xấu của
người đó.
Có những tính tôi không biết phải liệt kê vào tốt hay xấu, đó
là :
-
Sự thẳng thắn : tôi không hề nói láo,
và không thêm bớt. Tôi rất công bằng. Nhưng quá thẳng thắn
thì mất đi bao dung.
-
Lòng trung thành : tôi rất trung thành
trong tình bạn và bền đỗ trong sự suy nghĩ của tôi. Nhưng
tôi cũng rất thích thay đổi ? Sự mới mẻ làm tôi thích thú.
Những đức tính tôi vừa kể trên đều là tương đối. Tôi cần rèn
luyện để nên hoàn hảo hơn. Nhưng tự mình rèn luyện có nên hay
khg ? OBACE cũng như tôi, chắc đã qua kinh nghiệm hứa sẽ không
phạm một lỗi lầm nào đó nữa nhưng vẫn cứ phạm phải. Đức tính
cũng vậy, mình có thể tự cho mình đức tính mình muốn hay
không ? Không. Tôi hiểu ra rằng nếu thật sự muốn trở nên tốt
lành thì nên để Chúa Thánh Thần làm việc. Rất nhẹ nhàng và dễ
dàng. Tôi bảo đãm. Mình làm sao trở nên giống Thiên Chúa nếu
không phải chính Thiên Chúa làm cho mình trở nên giống Ngài.
Qua một thời gian suy gẫm thì tôi hiểu ra rằng : có 3 đức tính
tự nhiên mà Thiên Chúa ban cho mỗi một người trong nhân loại. Đó
là tin, cậy, mến. Tôi nghĩ mỗi một người, bất luận tốt hay xấu,
đều có lòng tin, cậy và mến. Những đức tính tự nhiên này khác
nhau ở đối tượng. Đối với người chưa nhận bí tích Thánh Tẩy, họ
có tin, tin có trời, có thần, tin dị đoan, tin chính mình, tin
bạn bè,… Họ cũng cậy, cậy vào quyền thế, giàu có, … Họ cũng mến,
mến yêu gia đình, bạn bè, … Còn chúng ta, vì Thiên Chúa là đối
tượng nên lòng tin, cậy, mến đặt nơi Thiên Chúa. Và chính Chúa
sẽ giúp chúng ta đạt tất cả những đức tính hoa quả của Chúa
Thánh Thần kể trên.
Tôi xin kết luận đức tính tự nhiên của người sống tận hiến không
hơn không kém những đức tính tự nhiên của người khác. Có thể
khác nhau ở chỗ là tôi tin những đức tính tôi chưa có thì Chúa
Thánh Thần đang và sẽ tiếp tục cho tôi có. Trong thư thứ nhất
Thánh Gioan 3, 2 : « Anh em thân mến, hiện giờ ta là con cái
Thiên Chúa ; ta sẽ là gì, thì chưa được tỏ hiện, ta biết rằng
một khi điều ấy tỏ hiện, thì ta sẽ được giống như Người, vì
Người thế nào, ta sẽ được thấy như vậy. Và phàm ai đặt hy vọng
ấy vào Người, thì làm cho mình nên thanh sạch như Ðấng ấy thanh
sạch. »
Xin Chúa Thánh Thần giúp cho lòng tin, cậy, mến của mỗi người
chúng ta ngày càng lớn mạnh để chúng ta biết để Ngài thánh hóa
chúng ta theo hình ảnh của Thiên Chúa Ba Ngôi. Mt 5, 48 : « anh
em hãy nên hoàn thiện như Cha của anh em trên trời là Đấng hoàn
thiện. » Amen
(1).
Bài
ca « Như hạt miến » của Thành Tâm mà ca đoàn Triều Dâng đã khéo
chọn để cả cộng đoàn hát trong bài ca dâng lễ có lẽ đã diễn tả
thêm phần nào ý nghĩa về những đức tính tự nhiên của người tân
hiến mà chị Têrêsa Phương Mai vừa chia sẻ.
« Như
hạt miến chịu nát tan, làm thành tấm bánh trắng, tiến dâng trên
bàn thánh, đây con xin vui chấp nhận đời gian khổ lầm than, làm
lễ dâng lên Ngài. Như hạt miến hòa biến trong rượu nồng thắm sức
sống, tiến dâng Cha Cực Thánh, đây con xin vui chấp nhận, hòa
biến trong tình yêu, lậy Chúa thương con nhiều.
« Xin lòng Chúa đầy xót thương, ngàn đời vẫn chiếu sáng đức công
minh tuyệt đối, thương con đây trong vũng tội, đời con những đổi
thay, một bkiếp thân lưu đầy. Xin lòng Chúa đầy xót thương ngàn
đời vẫn chiếu sáng đức công minh tuyệt đối, thương con đây trong
vũng tội, đời sống bao đổi thay, lậy Chúa thương con hoài.
« Con xin dâng tấm bánh đời con đây, nỗi ưu tư ngày dài đang
tiến tới, con xin dâng ly rượu bao luyến ái, hy sinh và đắng
cay .»
Paris, ngày 14 tháng 06 năm 2009
Trần Văn Cảnh
Chú thích
(1). Xin cám ơn Sœur Phương Mai đã cho văn bản. |
VỀ MỤC LỤC |
|
ĐỪNG
QUÁ ĐỂ Ý ĐẾN NHỮNG THÓI XẤU CỦA CON TRẺ (2)
|
Những thói xấu khác mà chúng ta
cũng thường gặp thấy nơi con trẻ, đó là:
Cắn móng tay : đứa trẻ cắn móng
tay thường hay biểu lộ sự giận dữ, hận thù, và bất tuân luật. Ở
đây, tật xấu nầy là một triệu chứng chứ không phải là một vấn đề
đáng kể nên không cần phải rầy la, quở trách, hoặc áp dụng những
phương cách ngăn chận. Chúng ta không thể ép buộc đứa trẻ ngưng
ngay. Chúng ta chỉ cần tìm nguyên nhân để rồi chữa trị.
Nói láo hoặc ăn cắp vặt: một đứa
trẻ nói láo hoặc ăn cắp vặt thường là muốn cố gắng để thực hiện
một cái gì. Nếu đứa trẻ cố ý làm một công việc khác thường để
chúng ta khám phá ra sự phá luật của nó, chúng ta có thể bảo đảm
rằng mục đích của nó là muốn sự chú ý của chúng ta. Tuy nhiên,
nếu nó chối từ điều đó, chúng ta có quyền kết luận rằng nó muốn
tỏ uy quyền của nó. Đứa trẻ có thể cảm thấy rằng nó có quyền lấy
bất cứ cái gì nó muốn bất kể phương cách nào. Hoặc nó có thể cảm
thấy một sự thích thú lớn lao trong việc lấy một cái gì mà không
bị bắt. Hành động nói láo hoặc ăn cắp là triệu chứng của sự muốn
nổi loạn sâu xa bên trong. Dĩ nhiên, những món đồ ăn cắp cần
phải được trả lại. Nhưng chúng ta phải coi nhẹ những sự việc đó
và đừng để bị gây ấn tượng. Điều đó có lẽ khó cho bố mẹ là những
người hay nghĩ rằng họ có bổn phận phải dạy dỗ con cái không
được làm như thế. Nhưng tất cả những việc rầy la, mắng chười,
hay hình phạt thường không mang lại kết quả. Trái lạ, chúng còn
làm tăng thêm sự ước muốn làm ngược lại để tìm quyền lực và để
đánh bại bố mẹ. Vì thế, chúng ta không cần phải nói nhiều vì đứa
trẻ biết rất rõ ràng rằng nói láo và ăn cắp là sai, nhưng nó vẫn
thích làm vì điều đó sinh kết quả cho nó.
Cô bé Hương Lan 5 tuổi, chơi với
đứa trẻ bên cạnh nhà đang cỡi xe đạp. Nó nài nĩ bố mẹ mua cho nó
một cái xe như vậy, nhưng bố mẹ cắt nghĩa cho nó rằng họ không
thể cung cấp cho nó ngay bây giờ. Một ngày kia, bà mẹ khám phá
ra chiếc xe của đứa trẻ kia được dấu đằng sau lò sưởi. Bà mẹ rất
là thông minh. Bà nghĩ: tốt, mình chờ xem một hai ngày nữa để
xem cái gì sẽ xảy ra? Bà nhận thấy cô bé có cái gì bất ổn. Chiếc
xe vẫn còn ở đó và bà mẹ không muốn nghĩ ngợi gì. Ngày thứ hai,
buổi chiều bà hỏi cô bé: “Tại sao con không lấy chiếc xe của bạn
con ra và cỡi đi”. Ngạc nhiên, cô bé trả lời: “Vì nó sẽ thấy và
con phải trả lại cho nó. Bấy giờ, ăn cắp thì xem ra không tốt”,
nói thế rồi cô bé bộc phát khóc. “Tại sao con không trả lại cho
nó. Ít ra cả hai đứa có thể cỡi được cả”. Bà mẹ đã nói chuyện đó
với bà mẹ của bạn nó và đã thuyết phục được sự cộng tác của bà
kia để vấn đề được giải quyết một cách tốt đẹp. Từ đó, cô bé đã
học được bài học của nó.
Vấn đề thật nằm trong sự kiện nầy
là cô bé cảm thấy nó có quyền có bất cứ cái gì nó muốn. Nhưng bà
mẹ đã giúp nó biết khám phá ra rằng ăn cắp thì không tốt.
Trẻ con có những thói tật xấu như
thế cần sự giúp đỡ và cần sự cảm thông. Đó là một triệu chứng
hơn là một căn bệnh. Chúng ta không thể làm gì được bằng phương
cách tấn công. Hãy tìm hiểu nguyên nhân chính nằm ở đằng sau đó
là cái gì? Nhiều lúc chúng ta có thể tìm ra được những nguyên
nhân đó qua những cuộc nói chuyện thân tình và không chính thức.
Đó có thể là vào lúc trước khi đi ngủ, bà mẹ và đứa con trong
bầu khí thân tình và hạnh phúc, bà mẹ có thể bày ra một trò chơi
nho nhỏ và hỏi: “Cái gì con không thích?” Ở đây, bà có thể khám
phá ra đứa trẻ đang hậm hực cái gì? Từ đó, bà biết được một số
những tin tức và tâm trạng của đứa bé để rồi bà có thể dùng nó
làm nền cho hành động của bà chứ không phải cho lời nói. Bà
không cần phê bình, cũng không cần cắt nghĩa cái mà nó không
thích. Nhưng bà có thể hỏi nó: “Con cảm thấy cái gì có thể làm
được cho vấn đề đó?” Đây là một cơ hội để lắng nghe. Nếu đứa trẻ
không có gì để nói, bà mẹ có thể tiếp tục trò chơi bằng cách nói
ra cái bà không thích, nhưng chỉ nói những thứ không có liên
quan gì đến đứa trẻ. Nếu không, nó sẽ làm ngưng cuộc chơi và sẽ
trở thành chỉ trích.
Chúng ta phải cẩn thận, không được
tra xét vì nó sẽ làm cho đứa trẻ càng chui vào ốc vỏ, đóng cữa
lại đối với những cố gắng muốn tìm hiểu. Trò chơi có thể được
lập đi lập lại nhiều lần và trở thành phương tiện của sự đối
thoại giao tiếp.
Chúng ta không thể mong đợi con
trẻ hoàn toàn không có một tật xấu nào. Đây cũng là câu trả lời
cho chúng ta nếu chúng ta cảm thấy chán nản vì sau những cố gắng
sửa đổi về phía chúng ta, chúng ta vẫn thấy đứa trẻ vẫn tiếp tục
như thế. Bấy giờ, chúng ta cũng như đứa trẻ có vẻ như tin rằng
nó sẽ không bao giờ chấm dứt được cái thói xấu đó. Nhưng, hãy
thử suy nghĩ lại: thật ra, bây giờ nó có còn mút ngón tay hay
đái dầm ở vào tuổi học sinh trung học không? Dĩ nhiên là không!
Tuy nhiên, sự lạc quan của chúng ta không có gì bảo đảm. Dẫu
thế, chúng ta vẫn biết rằng một ngày kia nó sẽ chấm dứt. Đây là
một chương trình dài hạn cần được khích lệ bỡi những hoạt động
tăng cường cho những khía cạnh tích cực. Chúng ta có thể nói
được rằng cuối cùng đứa trẻ cũng sẽ đáp lại. Một khi chúng ta
giải thoát chúng ta khỏi sự chán nản, chính niềm tin của chúng
ta vào đứa trẻ có thể cung cấp thêm động lực cho con trẻ chúng
ta. Nếu chúng ta không quan tâm quá nhiều, nếu chúng ta bình
tĩnh hơn một chút, và nếu chúng ta để một ít sự việc trôi đi tốt
đẹp, chúng ta sẽ thấy rằng sự căng thẳng không còn và thói xấu
trở thành một cái gì không còn quan trọng mấy cho con trẻ cũng
như cho cả chúng ta.
Lm. Lê
văn Quảng, tiến sĩ tâm lý.
|
VỀ MỤC LỤC |
|
ĐI TRÊN ĐƯỜNG ĐỜI
|
Khi
tôi học lái xe, tôi không ý thức được những điều tôi sắp viết.
Lúc ấy, tâm trí tôi chỉ tập trung tất cả vào những lời hướng dẫn
của người bạn dạy lái ngồi bên cạnh. Rồi sau đó, mười mấy năm
trời, tôi lái xe, đi học, đi làm, đi lo công chuyện, đi chơi...,
mà không suy nghĩ gì hết. Thì lái xe là... lái xe, suy nghĩ cái
gì nữa .
Thế nhưng gần đây,
một người bạn từ Việt Nam mới sang Mĩ; nhờ tôi dạy lái xe. Trong
khi ngồi bên cạnh anh bạn, giảng giải về luật đi đường và cách
lái xé, tôi chợt nhận ra một vài điều vô cùng quan trọng. Quan
trọng không những cho việc lái xe, mà nhất là quan trọng cho tôi
khi tiến bước trên đường đời.
Điều khiến tôi quan
tâm hơn cả là cái thắng. Trước đây tôi vẫn cứ tưởng trong chiếc
xe, cơ phận quán trọng hơn hết là bộ máy. Không có bộ máy, hay
bộ máy hỏng, chiếc xe không còn chạy được, nó sẽ không còn đáng
gọi là ''xe'', vì không còn chức năng giúp người ta di chuyển
nữa. Bộ máy thật quan trọng, điều ấy dĩ nhiên là đúng, nhưng cái
thắng lại quan trọng hơn. Để tôi nói cho bạn nghe nhé: nếu chiếc
xe thiếu bộ máy, hay bộ máy hỏng, chiếc xe không chạy được, và
người định lái nó sẽ phải ngồi ở nhà, không thể tới được nơi
định tới. Nhưng nếu chiếc xe có bộ máy tốt, chạy nhanh, mà xe
không có thắng, hoặc thắng bị hư, thì người đó có nhiều ''cơ hội
'' để không bao giờ lái bất cứ một chiếc xe nào nữa!
Trên xa lộ của các
thành phố hay tiểu bang, xe cộ lao nhanh vun vút. Ai cũng muốn
lái xe thật nhanh để sớm đến mục tiêu. Xe chạy càng nhanh thì
thắng lại càng khó và khi thắng không kịp thì Xảy ra tai nạn. Sự
thương vong không những xảy tới cho người lái xe, mà còn cho
người lái những chiếc xe khác nữa.
Tôi nghĩ đến đường
đời. Trên con đường này người ta cũng đua nhau lái xe nhanh, ai
cũng mong cho mau đến mục tiêu, đến trước người khác càng tốt.
Ít có ai ý thức rằng lái xe trên đường đời cũng y như lái xe
trong thành phố hay trên xa lộ: chuyện tống ga cho xe chạy nhanh
không quan trọng bằng việc đạp thắng cho xe dừng lại. Trên đường
đời, người ta thường bị những mục tiêu danh vọng, tiền tài, địa
vị lôi cuốn. Đó là những hấp lực, những cục nam châm có sức mạnh
khiến người ta lao tới, đôi khi nhắm mắt mà lao tới, không còn
biết đến những ai, những gì đang ở chung quanh mình. Điều đó
khiến xảy ra những va chạm. Va chạm làm nên tai nạn, và tai nạn
làm cho người ta mất luôn khả năng tiến tới. Người ta sẽ không
đạt được mục tiêu. đồng thời lãnh nhận nhiều đau khổ.
Nghĩ đến điều đó,
tôi mới thấy đi trên đường đời,
nghệ thuật quan trọng là nghệ
thuật biết dừng lại chứ không phải là nghệ thuật tìm cách tiến
tới thật nhanh.
Nhưng đã có mấy ai, mà tôi cũng thế, lúc nào cũng biết và dám
can đảm dừng lại đúng nơi, đúng lúc? Đường trong thành phố còn
có đèn xanh, đèn đỏ, còn có bảng ''stop'', còn có cảnh sát.
Đường đời không có đèn xanh đèn đỏ, không có bảng, không có cảnh
sát. Chính tôi phải kiểm soát tốc độ của tội, phải tự quan sát
để tiến tới hay dừng lại. Sự kiểm soát chính mảnh và quan sát
mọi sự chung quanh quả nhiên phải được gọi là một ''nghệ thuật
sống ''.
Khi hướng đẫn anh
bạn học lái xe, tôi còn khám phá ra sự quan trọng trong việc
phân biệt giữa ''đường'' và ''hướng ''. Khi tôi hỏi anh biết
đường ấy chưa, anh trả lời là biết rồi, và quả nhiên anh tìm ra
con đường ấy thật. Nhưng khi tôi bảo anh lái xe đến một địa điểm
nằm trên con đường ấy thì anh chạy... ngược chiều. Nghĩa là càng
ngày anh càng xa dần mục tiêu. Thay vì lái xe lên miền núi ở
hướng Bắc thì anh cho chạy về miền biển ở hướng Nam.
Tôi có một anh bạn
khác, lái xe tìm đến các địa điểm rất chính xác. Nghệ thuật của
anh thật đơn giản: bao giờ trước khi lên xe, anh cũng mở bản đồ
xem trước; tìm đường, định hướng cẩn thận; ghi ra giấy; rồi cứ
nắmmảnh giấy mà lái xe. Trăm lần như một, anh đều đến mục tiêu
một cách dễ dàng, chính xác và đúng giờ.
Thật ra, không phải
bất cứ ai lái xe đều có thói quen tốt như anh bạn thứ hai của
tôi. Chính vì thế mà khi lái xe trên đường, có nhiều người ngơ
ngác, không biết là mình đang đi về hướng nào. Lại có những
người không có ý niệm gì về những hướng Đông, Tây, Nam, Bắc! Lái
xe là lái xe, lái theo thói quen, đến được đâu là do kinh nghiệm
đã lái xe đến đó nhiều lần, không biết địa điểm đó nằm ở hướng
nào kể từ điểm xuất phát.
Biết đường, xét ra
không quan trọng bằng biết hướng. Không biết đường, người ta
không đến được mục tiêu. Nhưng biết đường mà không biết hướng,
người ta không đến được mục tiêu đã đành, mà còn xa dần mục tiêu
hơn nữa.
Trên đường đời, có
lẽ cũng có nhiều người biết ''đường'' mà không biết ''hướng''.
Chính vì thế mới xảy ra chuyện "lạc nẻo đường đời'. Có người
biết rất nhiều ''đường'' nhưng không biết, hay không để ý những
''đường'' đó dẫn mình đến ''hướng'' nào. Tôi hình dung ''đường''
là những kiến thức mình có, mà ''hướng" là lí tưởng của đời
mình. Tài năng, kiến thức của mình cần đem sử dụng để phục vụ
một lí tưởng chân chính, giúp mình càng ngày càng tiến gần đến
lí tưởng hơn. Đặt sai hướng cuộc đời, phục vụ cho một ''lí
tưởng'' sai lầm thì, kiến thức càng cao, hiểu biết càng rộng
càng nguy hiểm và càng kéo người ta đến chỗ sai lạc nhiều hơn,
nhanh hơn. Khi đó, giá mà không có kiến thức, có lẽ tết hơn.
Kết hợp giữa tiến
tới và dừng lại, và kết hợp giữa đường với hướng, tôi nhìn ta
một điều rất quan trọng cho đời mình: tiến tới là chuyện tốt,
nhưng tôi cần luôn tỉnh thức để biết dừng lại. Chính khi dừng
lại, tôi định hướng xem mình đã đi đúng đường đúng hướng chưa.
Nếu đi sai đường, đi ngược hướng, tôi còn kịp thời thay đường,
chuyển hướng. Sự thay đường, chuyển hướng này đòi hỏi nơi tôi
một sự can đảm và chân thành đến độ dám đặt lại cả vấn đề cuộc
sống của mlnh.
Một quan sát khác
cũng đưa tôi đến một suy tư đặc biệt: thường thường khi lái xe,
người ta hay chở theo nhiều người khác. Những người này đa số là
người thân trong gia đình hoặc bạn bè thân thiết. Nếu không may
tôi đi lạc đường hay gây ra tai nạn thì những người này chịu
cùng số phận với tôi. Chịu cùng số phận, chỉ vì họ đã tin tưởng
trao sự an toàn của họ cho tôi. Trong cuộc đời, cũng có nhiều
người chịu ảnh hưởng về những quyết định và hành động của tôi.
Nếu tôi không ''thắng'' kịp, nếu tôi đi sai ''đường'' lạc
''hướng'', tôi đem lại khổ đau không những cho riêng tôi, mà cho
tất cả những người ấy nữa. Chuyện đắng cay là những người ấy lại
là những người gần gũi tôi nhất và tôi yêu thương nhất.
Làm xong công tác
hướng dẫn lái xe cho anh bạn mới tới tôi nhận được nơi anh những
lời cảm ơn nồng nhiệt, Tôi cũng cảm ơn anh, nồng nhiệt không
kém. Anh có vẻ ngỡ ngàng không hiểu. Anh đâu biết được rằng nhờ
có anh và chuyện học lái xe của anh, tôi học được những bài học
vô cùng quan trọng cho cuộc đời mình.
Nhà Văn Quyên Di |
VỀ MỤC LỤC |
|
NGƯỜI NỮ TU SỐNG TU ĐỨC TOÀN DIỆN (tiếp theo) |
tác giả: Lm. Micae-Phaolô Trần Minh Huy pss
LỚP THẦN HỌC LIÊN
TU SĨ - TÒA GIÁM MỤC BÙI CHU (2008
- 2009)
Chương VI : (tiếp)
II.
NĂM ĐỊNH LUẬT TÂM SINH LÝ NAM NỮ
1.
LUẬT ƯU TIÊN
Nơi người nữ:
trái tim ưu tiên. Điều ưu tiên là một quả tim, một tình cảm. Một
trái tim muốn được hòa nhịp với trái tim khác, một tình cảm tha
thiết muốn hiến trọn cho người mình yêu. Nó ẩn chứa một cái gì
thanh nhã trong đó: Người nữ muốn mang đến cho người mình yêu
một trái tim muốn yêu và muốn được yêu đến cực độ.
Nơi người nam,
thể xác ưu tiên. Khi người nam nghĩ đến người nữ thường hình
dung tới thân hình, đường nét, sắc diện thể chất… Do đó, đứng
trước một thiếu nữ đẹp, người thanh niên sẽ thấy thể xác xúc
động trước, rồi sau đó tình cảm và trái tim mới hoà nhịp theo.
Người nam dễ bị lôi cuốn bởi thể xác người nữ, và thường mau
chóng hướng tới việc kết hợp thể xác.
Sự sai biệt
này có thể gây nên những khó khăn, những nguy hiểm...
Người nữ dễ
dàng bị chinh phục bằng tình cảm: nể nang, tội nghiệp, thương
hại…, để rồi dễ dàng mất tự chủ trước tiếng gọi của con tim, đưa
đến nguy cơ nhượng bộ đòi hỏi thể xác của phái nam.
Người nam dễ bị
chinh phục bởi những đường nét duyên dáng nơi thân xác người nữ,
khó lòng tự kiềm chế và thường đòi hỏi kết hợp thể xác, coi đó
như một bằng chứng tình yêu.
Người nữ nên để
ý điểm này để tránh những nhượng bộ gây lỡ làng, với hậu quả
đáng tiếc khiến phải ân hận suốt đời.
Người nam nên
để ý điểm yếu của mình để làm chủ bản thân, kính trọng người nữ,
hiểu rằng người nữ nặng về tình cảm, sự săn sóc tế nhị, lời âu
yếm, cử chỉ thân mật, dịu dàng, kính trọng. Do đó, người nam
đừng quá chú ý tới thể xác hoặc vội vàng đốt giai trong khi gần
gũi với...
Người nữ dễ bị
chi phối bởi tình cảm, tính nhẹ dạ hay thay đổi, óc lý luận
thường hướng về hành động mau chóng... Chị hãy thận trọng trước
những xúc cảm đầu tiên hay trước hành động của mình, đừng nghe
lời dỗ ngọt của các anh, đừng nhượng bộ.
Chị hãy lưu ý
tới óc lý luận của anh để bổ khuyết cho nhau cho có tình có lý,
không nên bắt anh theo tình cảm của mình mà nhiều khi rất vô
lý.
Anh nên tránh
những cuộc cãi lý với chị, chị không nghe anh lý luận đâu, nói
nhiều vô ích. Hãy khơi dậy tình cảm, lòng trắc ẩn của chị sẽ
thành công.
Trong đời sống
hôn nhân, người vợ biết tâm lý đàn ông như vậy thì nên thực tế,
đừng quá khắt khe, đừng buồn khi thấy anh quá chú ý tới thể xác,
việc ăn ở, hoặc quá lý tưởng khi yêu đương.
Chị nhớ chăm
sóc thân hình gọn gàng, sạch sẽ, dễ thương… Đừng có coi thường
chồng, nghĩ rằng mình chỉ là một thân xác để anh thỏa mãn, từ đó
sinh ra lạnh nhạt, bất mãn. Có khi vì thế mà người chồng sinh ra
nghi ngờ tình yêu của vợ đối với mình: có thể vợ không yêu mình
hay đã có người yêu khác nên mới xử sự như vậy!!!
2.
LUẬT PHÂN CÁCH
Trái tim người
nữ chỉ có một ngăn và dành hết cho tình yêu. Trái tim người phụ
nữ có thể nói là một toàn thể dành hết cho người mình yêu, không
có phân cách.
Trong đời sống
yêu thương, mối tình dành cho anh chiếm hết trái tim chị. Chị
chỉ nghĩ đến anh, sống chỉ vì anh, sống để yêu và được yêu. Vì
thế khi không yêu nữa thì lập tức anh bị tống khứ hoàn toàn ra
khỏi trái tim chị, và đứa con hoặc nhân tình sẽ thay thế.
Tình yêu chi
phối mọi hoạt động. Một trái tim, một tình yêu. Hai mối tình
không thể chung sống hòa bình. Đó là đặc điểm trái tim phụ nữ.
Trái tim người
nam có tới bốn ngăn và dành cho bốn lãnh vực độc lập với nhau:
- Tình yêu,
- Lý tưởng,
- Sự nghiệp
- Giải trí.
Các chuyên gia
tâm lý nói trái tim người nam thì lại khác: rắc rối, nhiều
chuyện, có tới 4 ngăn và các ngăn ấy hoàn toàn biệt lập nhau,
khiến cho người nữ không hiểu nổi.
-
Ngăn thứ nhất:
dành cho vợ. Anh yêu chị và khi ở với chị là không nghĩ tới gì
khác.
-
Ngăn thứ hai:
dành cho sự nghiệp. Trong đời người nam sự nghiệp chiếm địa vị
quan trọng: Có nhiều người vì sự nghiệp mà quên cả vợ con, gia
đình.
-
Ngăn thứ ba:
dành cho những việc anh làm vì sở thích, vì lý tưởng, chính trị,
xã hội, giáo dục…
-
Ngăn thứ tư:
dành cho giải trí, nghỉ ngơi.
Chị hãy an tâm
tin rằng anh yêu chị, thương gia đình. Đừng thấy anh say mê
những công việc khác mà nghĩ rằng anh thờ ơ với gia đình, rồi
đâm ra nghi ngờ, khó chịu. Chị hãy tập cảm thông với anh, chia
sẻ với anh và trong mọi lúc hãy tươi cười đón anh, lo âu với
anh, an ủi anh và khuyến khích anh. Đừng ngăn cấm hoặc cản trở
công việc của anh.
Anh không nên
bắt chị phải theo những hoạt động anh thích, và phải chừng mực
trong công việc. Biết dùng tình yêu để dung hòa những dị đồng.
Nếu được, nên để chị tham gia công việc với mình. Biết đền bù
cho chị bằng lời nói, thái độ, cử chỉ yêu thương, hành vi phụ
giúp công việc của chị. Nhớ rằng: chị coi trọng gia đình hơn
nghề nghiệp, quan tâm đến con người hơn công việc.
3.
LUẬT THÍNH GIÁC
Người nữ có lỗ
tai to. Chị không chỉ là một trái tim mà còn là một lỗ tai: Một
lỗ tai to gắn liền với trái tim. Những gì vào lỗ tai rơi thẳng
ngay vào tim. Do đó chị có nhược điểm này: thích nghe và dễ tin
những điều người ta nói.
Chị dễ tin
những lời tán tỉnh, dịu ngọt; dễ chú ý đến điều người ta nói hơn
là việc người ta làm: “Chuông già đồng điếu chuống kiêu, anh
già lời nói em xiêu tấm lòng!” Chị muốn được yêu bằng những
lời âu yếm dịu dàng tâm sự. Anh làm những công việc này nọ giúp
chị mà không nói gì, chị vẫn cho là anh không thương chị hoặc
chưa thương trọn vẹn. Tóm lại: chị thích NGHE.
Người nam lại
ngắn lưỡi. Người nam ở trong gia đình nhiều khi lại là người
thiếu cái lưỡi. Ở quán xá hoặc ở những nơi khác anh nói thao
thao bất tuyệt về những chuyện chính trị, xã hội, nghề nghiệp…
vì những chuyện đó có tính cách chung chung, vô thưởng vô phạt.
Ở nhà thì ngược lại: miệng anh câm như hến, ít nói, trầm ngâm,
vì anh không thích những chuyện vụn vặt, chi tiết. Anh ngại tâm
sự, bộc lộ có đụng chạm tới bản thân mình.
Trong đời sống
gia đình, sự im lặng thường tạo nên bầu không khí nặng nề. Người
chồng vì thế thích ra quán cà phê hay đến một nơi vui nhộn. Còn
bà vợ sẽ thích la cà bên nhà hàng xóm để chuyện trò (ngồi lê đôi
mách, vuốt râu cha nọ đặt cằm bà kia…)
Vì thế muốn
tránh bầu không khí nặng nề, nguyên nhân đưa tới xa cách, các
bạn nên chú ý đến luật tâm lý này. Giữa vợ chồng phải có đối
thoại, trao đổi. Đối thoại sẽ giúp tránh được những nghi ngờ,
hiểu lầm, xích mích. Vậy phải tập đối thoại với nhau.
Yêu là nói, là
nghe. Nghe vợ tâm sự, nói chuyện nhà cửa, gạo cơm, con cái, bạn
bè… Nghe chồng nói chuyện về chính trị, xã hội, thể thao… Yêu là
đối thoại, là mở tâm hồn và lý trí để cùng đón nhận, tham dự,
chia sẻ tâm tình của nhau.
Anh phải tập
nói, phải phá tan bầu không khí nặng nề trong gia đình. Anh phải
nói gì? Những câu nói yêu thương, tỏ tình… Nhắc lại những kỷ
niệm đẹp, êm đềm ngày trước, vì chị thích sống lại những quá khứ
đẹp. Anh phải nói với cung điệu nhẹ nhàng ôn tồn. Những gì anh
nói với giọng dịu dàng, âu yếm, kính trọng, chị sẽ cho là đúng,
chị sẽ chấp nhận.
Những gì anh
nói với giọng gắt gỏng, khó chịu hoặc khinh khỉnh, chị sẽ cho là
sai, khó chấp nhận mặc dầu đó là những điều đúng. Vậy khi phải
chỉ trích, xây dựng những khuyết điểm của chị, anh phải áp dụng
như thế; đừng bao giờ chê trách hoặc chế diễu chị, nhất là trước
mặt người khác.
4.
LUẬT CHI TIẾT
Người nữ để ý
đến các chi tiết, hay chú ý đến những cái cỏn con của sự việc,
thích những mẫu tin vụn vặt.
Người nam quan
tâm đến điều cốt yếu, chỉ nhớ đến những nét đại cương, những
chuyện đáng để ý, lại thích những tin chính trị, xã hội, quốc
sự…
Sự sai biệt
tâm lý này là nguyên do nhiều vui buồn, đau khổ
Chị chú ý, quan
sát và nhớ kỹ những chi tiết trong đời sống của anh, của gia
đình trong khi anh ít để ý và hay quên (sinh nhật, kỷ niệm...)
Chúa sinh ra
chị có giác quan nhạy cảm về chi tiết để chị có khả năng chu
toàn sứ mạng làm vợ, làm mẹ, săn sóc gia đình, nuôi con… đòi hỏi
phải làm bao nhiêu việc nhỏ, bao nhiêu chi tiết.
Một việc nhỏ
cũng làm chị bực mình, đau khổ. Một quên sót của anh đối với chị
làm chị buồn tủi, giận dữ, nghi ngờ. Anh thường dễ bực bội, cáu
kỉnh khi vợ hay than phiền về những chuyện nhỏ nhặt, hoặc khó
chịu khi thấy chị hay dò xét…
Hiểu như vậy,
chị hãy rộng lượng với anh, thông cảm với những dự tính công
việc, những sinh hoạt hoặc giao tế của anh.
Vì thế anh hãy
chịu khó để ý đến chị, nhẫn nại nghe chị nói, dầu là những
chuyện nhỏ mọn. Hãy lợi dụng những cơ hội, những chi tiết làm
chị vui: quà tặng ngày sinh nhật, ngày kỷ niệm, những ngày vui
buồn của chị, một lời khen, một quan tâm, một giúp đỡ…
Cả hai phải
biết rằng Yêu là nghĩ đến người yêu và tìm hạnh phúc cho người
yêu.
5.
LUẬT BẤT ĐỒNG CẢM
Người nữ phản
ứng chậm, nhưng kéo dài. Trong phạm vi tình cảm, người nữ như
một trái bom nổ chậm. Chị không phản ứng cùng lúc, nhưng sau
anh. Tuy nhiên khi đã xúc cảm thì nỗi cảm xúc ấy kéo dài hơn
anh. Người nữ như một đầu máy xe lửa: chuyển bánh chậm, khi có
đà đi rất nhanh, nhưng ngưng lại chậm.
Người nam phản
ứng nhanh, nhưng cũng mau dứt. Nơi người nam, tình cảm chóng bộc
phát mà cũng chóng nguội tàn. Vì vậy mà “cú sét ái tình” thường
xảy ra nơi thanh niên hơn nơi thiếu nữ. Trong mọi việc, anh hãy
kiên nhẫn, chờ đợi, chuẩn bị... Trong tình yêu thân mật cũng
vậy: tránh những cử chỉ vội vàng, hấp tấp, mà nên dịu dàng, tế
nhị.
Hiếu biết định
luật tâm lý này để biết tha thứ cho nhau, tránh những xích mích
nghi kỵ.
6.
KẾT LUẬN
Những định luật
vừa nói trên không áp dụng riêng rẻ nhưng bổ túc, liên hệ với
nhau và là những định luật rất quan trọng chi phối đời sống vợ
chồng, nam nữ. Đó không phải là tất cả những sự khác biệt, bởi
mỗi cá nhân là một “huyền nhiệm” không dò thấu.
Những định luật
này rất hữu ích để giúp bạn hiểu được phần nào người yêu của bạn
và khi nắm vững được những khác biệt tâm lý này, bạn sẽ tránh
được những phán đoán, những thái độ chủ quan thường đưa đến bất
hòa.
E.
TƯƠNG QUAN NAM NỮ
VÀ THÂN MẬT
GIỚI TÍNH
I.
TƯƠNG QUAN NAM NỮ
Tương quan nam
nữ khởi sự từ đầu khi Thiên Chúa sáng tạo con người: người nam
và người nữ là một phần của nhau, bổ túc cho nhau và sự sống vẫn
tiếp tục trải ra và phát triển, cả nhân bản và thiêng liêng.
Thiên Chúa đã
dựng nên con người có nam có nữ.
Biểu tượng
Âm-Dương chứa đựng tất cả triết lý về cuộc sống con người. Vòng
tròn mô tả tính phổ quát của âm dương. Phần màu đen tượng trưng
cho Âm, còn phần màu trắng tượng trưng cho Dương.
Âm Dương tách
biệt nhau, không phải bằng một đường thẳng, song bởi một đường
cong hòa điệu và mềm mại. Do đó, tất cả những gì tiến tới, hoạt
động và sáng là dương, còn những gì lùi lại, tiếp nhận và tối là
âm.
Dương tượng
trưng cho trời, ngày, mặt trời, đàn ông, lửa, hành động, sức
mạnh, niềm vui. Ngược lại, Âm tượng trưng cho đất, đêm, mặt
trăng, đàn bà, nước, nghỉ ngơi, yếu đuối, đau khổ.
II.
THÂN MẬT GIỚI TÍNH
Desmond Morris
(Anh) chia các hành vi của các bộ phận cơ thể đối ứng tương tác
với nhau theo hai giai đoạn yêu thương:
1) Giai đoạn yêu thương chia sẻ:
. Mắt đối với cơ thể
. Mắt đối mắt
. Lời đối lời
2) Giai
đoạn yêu thương có tiếp xúc cơ thể trực tiếp:
. Bàn tay đối bàn tay
. Cánh tay đối vai
. Cánh tay đối eo
. Miệng đối miệng
. Tay đối ngực
. Miệng đối ngực
. Tay đối cơ quan sinh dục
. Cơ quan sinh dục đối cơ quan sinh dục
Khi đôi bạn
chuyển từ giai đoạn yêu thương chia sẻ sang giai đoạn yêu thương
có tiếp xúc cơ thể trực tiếp bằng một thứ ngôn ngữ không lời,
thì tình cảm giữa họ càng sâu đậm hơn.
Các hành vi đầu
giúp thắt chặt thêm tình cảm giữa hai người, còn giai đoạn cuối
cùng là hiệu ứng nảy sinh từ những hành vi thân thiết ấy, có tác
dụng kết tinh tình cảm và tình dục của cả hai.
Đối với loài
người, hành vi tình dục đem lại những cảm nghiệm sâu đậm đến tận
xương tủy, gắn liền với những yếu tố nền tảng của luân lý và đạo
đức.
Hãy dành thời
gian học cách yêu thương, học cách nhận biết và đáp đền. Hai bên
hãy kìm giữ tốc độ chậm lại, ngay cả sức lực định dồn vào chuyện
yêu đương cũng nên chuyển thành dịu dàng và kiên nhẫn, đồng thời
tăng mức độ và thời gian suy nghĩ, cảm nhận, hướng về nhau.
Tình dục không
nằm trong sự bảo trợ của tình yêu nồng thắm thì không những
không thúc đẩy tình yêu thăng hoa, mà ngược lại còn có thể giết
chết tình yêu.
Sự phát triển
tâm lý giới tính thường trải qua 3 giai đoạn:
-
thời kỳ phân
cảm giới tính dẫn đến xa lánh người khác phái,
-
thời kỳ cảm
tình với ngưới khác phái
-
và thời kỳ
luyến ái lãng mạn.
Những xúc động,
xao xuyến của tình cảm đầu đời nếu được sẻ chia, nâng đỡ, định
hướng đúng sẽ là con đường đạt tới sự nếm trải trọn vẹn hạnh
phúc làm người.
Nếu không được
quan tâm và giáo dục đúng, để mặc các em mò mẫm tự tìm cho mình
lờì giải đáp, sẽ dễ bị sa ngã dưới sức ép của bản năng.
Thân thể của ta
chỉ thuộc về ta, ta phải chịu trách nhiệm về nó. Biết trân trọng
thân thể của mình, biết yêu lấy chính mình là ta biết cách ứng
phó với mọi tình huống, có cách nhìn nhận về tình bạn, tình yêu,
quan hệ giới tính một cách nghiêm túc, tránh được sa ngã và
những hậu quả thương tổn đến đời sống thể lý, tâm lý, thiêng
liêng và hành trình ơn gọi.
Do đó, mỗi
người cần được trang bị những kiến thức đúng đắn về giới tính.
Không chỉ là những kiến thức khoa học về sinh lý, sự thai nghén
sinh nở, di truyền, các bệnh tình dục...
Mà điều quan
trọng chính là giáo dục về nhân bản, tình bằng hữu, tình yêu
thương, sự tự do, ý thức trách nhiệm, lòng thuỷ chung với chọn
lựa và cam kết cuộc đời.
F. VẤN ĐỀ
THỦ DÂM
I. ĐỊnh nghĩa VÀ ThỰc trẠng
NhẬn thỨc
MASTURBATION:
Manus (tay) – Turbatio (kích thích). Thủ dâm là dùng tay kích
thích bộ phận sinh dục để tìm đạt được khoái cảm sinh dục.
CẢm nhẬn
Sau hành động
thủ dâm, phần đông cảm thấy ngượng ngập, mặc cảm tội lỗi, lo
lắng, chán nản, hận mình.
ThỰc tẾ
- Thủ dâm được
thực hành khá phổ biến, nhất là nơi người độc thân, có người coi
như không có gì sau hành động ấy, còn người khác lại bị lương
tâm ray rứt vì hành động tính dục đơn độc riêng tư và do căng
thẳng trầm trọng này (x. Giải mã giấc mơ tình dục)
- Thủ dâm có
thể xảy ra cùng với những liên hệ khác tính luyến ái (KTLA) hay
đồng tính luyến ái (ĐTLA): làm cho mình, làm cho n gười
khác và để người khác làm cho mình.
- Có
người coi thủ dâm là sự dữ nhỏ hơn trong hai sự dữ (minus
malum): cái thay thế cho hoạt động ĐTLA hay KTLA; hoặc để điều
hướng cái tôi của mình hơn là dính líu với trẻ hay một người nào
đó.
- Thủ
dâm không kéo dài suốt đời người độc thân, cũng như giao hợp
không kéo dài suốt đời người có gia đình (x. St 18,12 Sara cười
thầm tự bảo ‘Mình đã cằn cỗi rồi còn tìm lạc thú nữa sao? Ông
nhà mình lại là một ông lão!)
- Đó
là một cuộc chiến đấu và phải đi vào cuộc chiến đấu ấy: Bỏ được
là lý tưởng, để việc tận hiến cho Chúa được chu toàn và hoàn
toàn trao hiến cho Chúa.
- Cầu
nguyện cho bỏ được thủ dâm như một phần cần thiết cho tăng
trưởng và phát triển con người.
Ngày sáu khắc êm trôi lặng lẻ, Chúa ngăn ngừa chẳng để phút
giây, Tay chân miệng lưỡi hình hài, Buông theo tội lỗi mà đầy
bợn nhơ.
Thánh
Thi Kinh Sáng Thứ Năm Tuần I TN
II.
Các loẠi thỦ dâm
1)
Thủ dâm trẻ nít
Trẻ,
trước tuổi dậy thì, tìm khám phá cơ thể, trong đó có vùng sinh
dục của mình, như một phần tăng trưởng bình thường (x. TUỔI DẬY
THÌ)
2)
Thủ dâm thiếu niên
Xảy
ra trong tuổi dậy thì và đa số trường hợp thủ dâm thuộc thời kỳ
này.
3)
Thủ dâm trưởng thành
Loại
thủ dâm này phổ thông với người trưởng thành (độc thân, tránh
giao hợp trước hôn nhân) và như một lối thoát căng thẳng.
4)
Thủ dâm xúc phạm
Chọn
bộ phận sinh dục để giao hợp “một mình.” Có tính cách tác hại vì
phân rã hơn hiệp nhất nhân vị.
III. MỘt sỐ quan điỂm
1) Freud và William Fleiss:
Thủ
dâm là biểu hiệu bệnh thần kinh phổ quát, có thể có hậu quả mù,
điên, bất lực.
2) Fenichel:
Thủ
dâm là triệu chứng bệnh hoạn, là khả năng làm thỏa mãn bị xáo
trộn.
3) Những biện pháp vô nhân đạo:
Mang
giây lưng thanh khiết, thiến hoạn (nam) và cắt bỏ âm vật (nữ).
4) Xã hội học và tâm lý học hiện đại:
Thủ
dâm là phát triển bình thường vào một thời kỳ nào đó trong đời
người, dẫn tới sự chín mùi tâm lý tính dục lành mạnh; là tiền
thân của ứng xử tính dục liên nhân vị.
5) Quan điểm của Giáo Hội:
-
Trước Vaticanô: thủ dâm là điều xấu trầm trọng và là trọng tội,
vì vi phạm bản tính tự nhiên và ích kỷ.
- Bộ
Giáo lý Đức Tin, “Tuyên bố về một số vấn nạn liên quan đến đạo
đức tính dục”: Thủ dâm là một hành vi bóp méo và trái ngược của
khả năng tính dục, là sự thiếu trưởng thành, thiếu quân bình tâm
lý, và do thói quen. Thủ dâm không luôn luôn là lỗi nặng, nhưng
vẫn là nguồn mặc cảm tội lỗi và lo lắng.
IV. Nguyên do và mỤc tiêu
1)
Do ngứa ngáy; buồn chán, lo lắng, tâm trạng vở mộng, cô
đơn.
2)
Lối thoát dễ dàng để xả căng thẳng.
3)
Thay thế cho quan hệ tình dục.
4)
Đối phó và trốn thoát sự thân mật tính dục liên nhân vị
5)
Bắt im lặng lời mời gọi vào tình dục yêu đương liên nhân
vị.
V. NhỮng thỎa hiỆp
1)
Sợ đàn ông:
Không muốn bị liên lụy tình dục hay tình cảm với đàn ông (sợ hậu
quả), hay không được liên hệ với đàn ông, nên tìm thỏa hiệp với
những hình thức tính dục khác (đồng tính ái), gây nên một tâm lý
tính dục thiếu trưởng thành.
2)
Sách báo, phim ảnh khiêu dâm:
Nhằm kích thích tính dục do:
-
miêu tả các đối tượng và những tình cảnh gợi tình (tác phẩm,
hình vẽ, điêu khắc, trình diễn…)
-
mô
tả sự lạm dụng phụ nữ (nếu không tàn bạo thì cũng xuống cấp) và
vì vị nễ mà chìu, rồi sau đó cứ bị ám ảnh.
-
đồi trụy: phá hoại phẩm tính tương quan tính dục, đưa tới khai
thác và kinh doanh tính dục, lạm dụng những đàn ông bị lôi kéo
(đĩ đực).
-
Bù
trừ: nhòm lỗ khóa/nhìn chỗ kín/thích xem phim khiêu dâm, nhất là
giới nam (mở đầu/tăng cường hoạt động tính dục, thủ dâm, lạm
dụng trẻ em).
3)
Phô bày bộ phận sinh dục
của mình (cho người khác phái) để được khoái lạc tính dục bởi sự
nhìn xem.
4)
Mặc y phục của người khác phái ,
thay thế vai kề vai với người khác phái mong ước, rồi thủ dâm để
xả căng thẳng.
5)
Hành động thú tính :
ham muốn và thực hiện tính dục với súc vật (chó bẹc-dê)
6)
Bạo động với chính mình
(thường là phái nam) để bảo vệ độc thân: Origène; nhiều vị tử
đạo sẵn lòng chịu chết để bảo vệ trinh tiết/đức tin: hai cha
truyền giáo ở Lào.
VI. TiẾn trình phát
triỂn lành mẠnh
1)
Trẻ khám phá
hết mọi chỗ trong cơ thể nó, trong đó có vùng bộ phận sinh dục:
tiến trình tăng trưởng bình thường (x. Chuyện hai bà mẹ tắm cho
con: Con gái dở quá “có một cái mà cũng làm vỡ” – “Sao con không
có một cái như thằng đó?”)
2)
Trò chơi sinh dục /Táy
máy chân tay (do liên hệ khắng khít mẹ/con, cha/con) thiết lập ý
thức về bản thân. Bé trai có ý thức nhạy bén về khả năng cương
cứng đưa tới làm chủ bản thân, đụng chạm dương vật để tự trấn
an.
3)
Chưa trưởng thành :
Thủ dâm là một hoạt động tính dục thiếu trưởng thành, nhưng trẻ
dùng thủ dâm để học điều khiển bản năng tính dục của nó (chơi
đùa có phẩm tính thăng hoa mà thủ dâm không có).
4)
Can thiệp khôn khéo :
Nếu bắt trẻ chận đứng thủ dâm cách không khôn khéo, nó sẽ có ý
tưởng rằng tính dục là xấu xa và nguy hiểm, khiến trẻ có thể bị
chứng loạn thần kinh chức năng và biến dạng nhân cách.
5)
Can thiệp thiếu thích hợp:
Những cấm kỵ thủ dâm có thể đưa tới những hình thức bệnh hoạn.
Nhưng nếu thủ dâm với lương tâm xấu và lo lắng cũng đưa tới hậu
quả bệnh hoạn.
VII. HưỚng dẪn hỮu
hiỆu và chỮa lành
1)
Quan tâm thích đáng :
Phải khảo sát tỉ mỉ trong một khung cảnh rộng lớn hơn, (tiểu sử
gia đình, cá nhân đương sự để tìm biết những động lực sâu hơn),
chứ không phải chỉ là nhục dục (bệnh cơ quan sinh dục cần chữa
trị bằng y khoa; chớ gì có nữ tu bác sĩ chuyên ngành phụ khoa
cho các nữ tu)
2)
Lắng nghe để hiểu :
Phải lắng nghe chăm chú và nhạy cảm đối với người có những hình
ảnh tưởng tượng kèm theo thủ dâm (trước và sau)
3)
Nhìn lại để thương :
Thủ dâm là cách thức dễ dàng để làm dịu sức ép và căng thẳng. Do
đó phải khảo sát những nguồn sức ép và căng thẳng để tiêu
diệt/giảm thiểu chúng: ăn một thực đơn cân bằng, nghỉ ngơi và
giải trí thích hợp.
4)
Đừng vẽ đường cho hươu chạy :
Những phơi bày thái quá trước những kích thích tính dục thường
thúc đẩy thủ dâm. Do đó, tránh những kích thích đó sẽ giảm thiểu
tính thường xuyên của thủ dâm.
5)
Tự chủ và liên đới :
Tập tự chủ bản thân; mở rộng liên hệ với người khác (không chỉ
qui về mình và yêu mình). Phải phát triển những tình bạn sâu xa
với nhiều người nam lẫn nữ, đừng để bị sự cô lập xã hội và khó
khăn trong các mối tương quan dồn ép.
6)
Tìm kiếm sự bình an :
Không nên để bị tâm trạng lo lắng trầm trọng xâu xé, mà nên tìm
chữa lành và bình an qua việc xưng tội.
7)
Nhìn vào lý tưởng :
Từ bỏ gia đình vì Nước Trời là sự thăng hoa bản năng tính dục:
hãy thành thật nhìn nhận thất bại: [Hai sức mạnh đối nghịch hằng
giao chiến trong tôi khiến những điều tốt tôi muốn làm tôi lại
không làm được và những điều xấu tôi không muốn làm thì tôi lại
làm. Ai cứu tôi khỏi cái xác hay chết này? – Ơn Ta đủ cho con]
(x. 2 Cr 12:7-9)
8)
Trợ lực cảm thông :
Tình bạn chia sẻ đem lại khuây khỏa và nâng đỡ chống lại chiến
đấu bên trong và áp lực bên ngoài. Đã có chiến đấu là có chiến
thắng và chiến bại. Hãy lấy thất bại làm bài học chiến thắng:
thua keo này bày keo khác! [“Ai từng chiến thắng mà không hề
chiến bại? Ai nên khôn mà chẳng dại đôi lần? Nhưng đây chưa phải
trận sau cùng chiến đấu!”]
9)
Chia sẻ chữa trị :
Thái độ mới thích hợp của việc điều trị nhóm: Những tình bạn sâu
sắc khiến người ta cởi mở chia sẻ những cuộc chiến đấu, công
khai nhìn nhận mình thủ dâm, nhóm không bối rối hay bình luận
tiêu cực gì, là một nâng đỡ rất lớn trong việc hội nhập tính dục
với tu đức, thăng tiến đời sống thiêng liêng.
10) Trợ giúp thiêng liêng :
Tính dục là một chiều kích của đời sống con người ảnh hưởng đến
cuộc hành trình thiêng liêng một cách sâu xa. Những can thiệp
thiêng liêng cũng ảnh hưởng trên tính dục một cách sâu xa. Sự
trợ giúp thiên linh là một khí cụ hùng mạnh trong việc biến đổi
sự yếu hèn và chán nản của con người.
Do
đó, phải khuyến khích chạy đến với sức mạnh của cầu nguyện, của
các bí tích, của khổ chế, của việc linh hướng thường xuyên.
Xin thương bảo vệ hương thanh khiết, Sợ lúc đêm về giữa cô
đơn, Lợi dụng tối tăm thần quỷ quyệt, Phóng tên ác độc giết tâm
hồn.
Che chở trí lòng luôn thoát khỏi, Dục tình cường bạo cứ đuổi
theo, Và muôn cảm nghĩ đầy tội lỗi, Cho mảnh hồn thiêng mãi yêu
kiều.
Thánh Thi Kinh Chiều Thứ Ba Tuần IV TN
11) Ý thức cam kết ơn gọi :
Chú tâm sống cam kết độc thân, rèn luyện tĩnh thức, điều độ.
12) Sức mạnh của lời cầu nguyện :
Dĩ nhiên phải luôn khiêm tốn cầu nguyện. Chúa Giêsu dạy: “Các
con hãy tỉnh thức và cầu nguyện luôn để khỏi sa chước cám dỗ,
tinh thần thì nhẹ nhàng chóng vánh, nhưng xác thịt lại nặng nề
yếu đuối”
Thánh Phaolô chia sẻ: “Ai trong anh em yếu đuối mà tôi không cảm
thấy yếu đuối, ai trong anh em sa ngã mà tôi không cảm thấy như
thiêu như đốt” (2Cr 11,29).
13) Đồng hành tin cậy :
Người trợ giúp phải tỏ ra đáng tin cậy, niềm nở đón tiếp vô điều
kiện và sẵn sàng đồng hành với đương sự trong những chiến đấu
của đương sự khiến đương sự cảm thấy thoải mái và tin tưởng. Có
thế mới giúp hội nhập tính dục và ơn gọi độc thân.
G. VẤN ĐỀ
ĐỒNG TÍNH LUYẾN ÁI
Nằm vắt tay lên trán ta nghĩ
đến chuyện cuộc đời, ngồi bấm đốt ngón tay ta nghĩ đến chuyện
ngày qua. Nằm vắt tay lên trán ta nghĩ đến chuyện bây giờ, ngồi
bấm đốt ngón tay ta nghĩ đến chuyện ngày mai.
I. NHẬN ĐỊNH
Theo trình thuật sáng tạo loài
người trong sách Sáng Thế (St 2,18-24) và theo quan niệm
Âm-Dương Á đông, người nam và người nữ hấp dẫn nhau, cần nhau,
gắn bó nhau và bổ túc cho nhau, tạo một thế quân bình tự nhiên,
được biểu lộ đặc biệt trong đời sống hôn nhân.
Cuộc sống tu trì thiếu mất sự quân
bình tự nhiên đó. Nếu không thiết lập được và sống trong một thế
quân bình siêu nhiên trong các môi trường đồng giới nam và đồng
giới nữ (bằng đời sống cầu nguyện, đời sống huynh đệ cộng đoàn,
tận tụy với sứ vụ), thì sự cuốn hút đó có thể được bù trừ bởi
một sự chuyển hóa tâm lý, vì trong mỗi con người đều có cả hai
yếu tố nam và nữ; yếu tố này có thể trội hơn yếu tố kia tùy
người
Sự thiếu quân bình tự nhiên trong
đời sống tu đó, cộng với những khó khăn, thử thách đau khổ, yếu
đuối nhân loại bên trong và cám dỗ lôi cuốn bên ngoài, người ta
có khi đi tìm lại sự quân bình tự nhiên kia mà vấp ngã. Kinh
nghiệm cho thấy những người tu bỏ đời sống cầu nguyện, thiếu
tình huynh đệ cộng đoàn và bỏ bê bổn phận sớm muộn gì cũng sẽ sa
ngã, bỏ cuôc.
Sự chuyển hóa tâm lý này có thể
đưa tới một mối tương quan thiếu quân bình hay lệch lạc trong
ứng xử tình cảm và giới tính ở một số đôi bạn đồng giới, nhưng
không hẳn đã là đồng tính luyến ái thực thụ, dù có thể đưa tới
đồng tính luyến ái.
Ngày nay, nền văn minh lấy cái tôi
làm trọng tâm, tôn thờ vật chất, hưởng thụ khoái lạc nhục dục,
suy thoái đạo đức làm nảy sinh và gia tăng tình trạng đồng tính
luyến ái (như sẽ trình bày dưới đây).
Trong bối cảnh ấy, người ta nghi
ngại và lo sợ đến đỗi nhầm lẫn với cả những tình bạn thân thiết
tốt lành, vốn mang lại nhiều lợi ích lớn lao trong mọi lãnh vực
cuộc sống, nhất là khi có được người bạn tri âm tri kỷ, có thể
nói được với nhau bất cứ điều gì hầu giúp nhau sửa chữa nên tốt:
“Thầy không còn gọi các con là tôi tớ nữa, Thầy gọi các con là
bạn hữu của Thầy, vì tất cả những gì nghe biết nơi Cha Thầy thì
Thầy tỏ cho các con biết”
Tuy nhiên cũng có những tình bạn
làm tha hóa cuộc đời con người. Vì thế mà có sự lo lắng trước
những biểu hiện tình bạn thân thiết trong các môi trường đồng
giới nam hay nữ, khiến những người có trách nhiệm đào tạo, đánh
giá và cất nhắc các ứng sinh thường lo lắng và đề phòng trước
những biểu hiện tình cảm giới tính không phù hợp với đời sống
linh mục và tu sĩ, đặc biệt vấn đề đồng tính luyến ái.
Nỗi lo của các ngài là chính đáng.
Chúng ta kính trọng, cảm thông chia sẻ trách nhiệm của các ngài
và nhận ra động lực yêu thương của các ngài.
Nhưng cách hiểu và đánh giá chính
xác bản chất đồng tính luyến ái là gì? thế nào? cũng như cách
thức và mức độ của các biện pháp phòng ngừa và giải quyết thì
cần được quan tâm làm sáng tỏ, đưa tới hiệu quả tích cực, trong
đào tạo cũng như trong cuộc sống sứ vụ.
II. ĐỒNG TÍNH LUYẾN ÁI LÀ GÌ?
“Họ buông
theo dục tình đồi bại. Đàn bà không quan hệ theo lẽ tự nhiên, mà
lại làm điều trái tự nhiên.27 Đàn ông cũng vậy, không
quan hệ với đàn bà theo lẽ tự nhiên, mà lại đem lòng thèm muốn
lẫn nhau: đàn ông bậy bạ với đàn ông. Như vậy là chuốc vào thân
hình phạt xứng với sự lầm lạc của mình”
(Rm 1, 26-27).
Không nên vội vàng kết luận một
người là đồng tính luyến ái, dù thấy có sự thúc đẩy và vài ứng
xử có liên quan.
Đồng tính luyến ái đích thực là
khi hai người cùng phái có sự thu hút dai dẳng, có đáp ứng xúc
cảm và ứng xử tính dục với nhau, nghĩa là người ước muốn nhục
dục tìm cách thực hiện ước muốn đó bằng những hành động nhục dục
với một người cùng phái.
Nguồn gốc đồng tính luyến ái là do
di truyền hay do lượng hooc-môn dị thường. Phân tâm học cho là
do những xáo trộn sâu xa trong tương quan cha-mẹ-con-cái, nhất
là khi một người quá ràng buộc thân thiết có sức hấp dẫn cám dỗ.
Những yếu tố hoàn cảnh, tâm lý, văn hóa, xã hội, sinh học làm
hiện tượng đtla trở nên phức tạp.
Người đồng tính luyến ái có sự
khiêu dâm trổi vượt đối với người đồng phái khác. Nhưng người đó
cũng phải đau khổ chịu đựng sự thiếu hụt trong nam tính hay nữ
tính của mình.
Đồng tính luyến ái cũng có thể là
một khao khát sự gắn bó đã bị mất (đối với cha hay mẹ).
Đồng tính luyến ái được xã hội
ngày nay chấp nhận nhiều hơn (thậm chí có một ít nước cho những
đôi đồng tính luyến ái qui chế hôn nhân nữa!), nhưng vẫn là
nguồn lo âu đối với nhiều người.
Một người khác tính luyến ái sẽ
phải đau khổ khi có thể chạm trán với người đồng tính luyến ái,
dù không thường xuyên.
Người trợ giúp phải cẩn thận lắng
nghe không kết án và đón nhận vô điều kiện, đồng thời giúp đương
sự phân biệt có phải là đồng tính luyến ái đích thực hay ứng xử
ấy chỉ do hoàn cảnh ép buộc hay một yếu kém đạo đức.
Phải nhân ái với họ, vì họ là nạn
nhân của chính hướng chiều yếu đuối của họ: “Có ai trong anh em
yếu đuối mà tôi không cảm thấy yếu đuối, có ai trong anh em sa
ngã mà tôi không cảm thấy như thiêu như đốt” (Thánh Phaolô)
Ba tầm mức đánh giá một người có
phải thực sự là đồng tính luyến ái không:
-
hấp
dẫn: ai hấp dẫn, nam/nữ?
-
khiêu gợi: ai khiêu dâm và gợi tình?
-
từng
trải: những hành vi tính dục ấy làm thỏa mãn thế nào?
III. LẬP TRƯỜNG CỦA GIÁO HỘI
Huấn Thị của Bộ Giáo Dục Công Giáo
về những tiêu chuẩn để biện phân ơn gọi đối với những người có
khuynh hướng đồng tính luyến ái và việc chấp nhận họ vào Chủng
Viện và lên Chức Thánh do Đức Giáo Hoàng Bênêđictô XVI phê chuẩn
ngày 31-08-2005 và ra lệnh phát hành tại Roma ngày 04-11-2005,
lễ kính nhớ thánh Charles Bôrrômêô, Bổn Mạng các Chủng Viện,
được ấn ký do
Đức Hồng Y ZENON GROCHOLEWSKI, Bộ
Trưởng
Đức Cha J. MICHAEL MILLER, C.S.B.,
Thư Ký
Cần phải có một sự biện phân kỹ
càng những vấn đề liên quan đến lãnh vực tình cảm và giới tính,
trong suốt thời gian đào tạo, và cả về sau nữa.
Huấn thị đưa ra những quy tắc liên
quan đến một vấn đề đặc biệt càng lúc càng cấp bách do tình
huống hiện tại gây ra, đó là: Có được chấp nhận vào Chủng Viện
và lên Chức Thánh những ứng sinh có khuynh hướng sâu nặng về
đtla không?
Ứng sinh phải luôn ý thức rằng
toàn bộ đời sống phải được điều khiển bởi việc hiến dâng toàn
thân, và phải đạt tới một sự trưởng thành tình cảm và tính dục.
Sự trưởng thành này cho phép đương sự có được những tương quan
thích đáng với cả người nam và người nữ.
Giáo lý Công giáo phân biệt những
hành động đồng tính luyến ái và những khuynh hướng đồng tính
luyến ái.
Truyền Thống Giáo Hội vẫn luôn xem
những hành động đồng tính luyến ái là những hành động vô luân tự
bản chất và ngược lại với luật tự nhiên. Vì thế, không có trường
hợp nào trong những hành động này được chấp thuận.
Những khuynh hướng đồng tính luyến
ái đã bám rễ sâu mà người ta thấy nơi một số người nam cũng như
nữ được xem là vô trật tự và thường là một thử thách khó vượt
qua đối với những người này.
Tuy nhiên, những người này phải
được tiếp đón cách kính trọng và tế nhị, tránh mọi phân biệt đối
xử bất công. “Trái lại, phải đối xử tốt với nhau, phải cĩ lịng
thương xĩt và biết tha thứ cho nhau, như Thiên Chúa đã tha thứ
cho anh em trong Đức Kitơ” (Eph 4:32).
Giáo hội, dù vẫn kính trọng sâu xa
những người này, không thể chấp nhận vào chủng viện và vào các
chức thánh những người thực hành đồng tính luyến ái, có những
khuynh hướng đồng tính luyến ái đã bám rễ sâu và ủng hộ cái được
gọi là văn hóa đồng tính nam, vì thiếu những tương quan chính
đáng với những người nam nữ khác.
Trái lại, những khuynh hướng đồng
tính luyến ái dù chỉ là biểu hiện của một vấn đề tạm thời, chẳng
hạn như vấn đề của tuổi thanh niên chưa được hoàn tất, cũng phải
được vượt qua ít là ba năm trước lúc truyền chức phó tế.
Như thế, nếu mới chỉ là khuynh
hướng đồng tính luyến ái và có thể chữa trị với thời gian thì
không bị ngăn trở. Phải phân biệt hiện tượng và bản chất: Hiện
tượng sẽ qua đi, bản chất mới khó thay đổi.
Nếu một ứng sinh thực hành đồng
tính luyến ái hoặc có những biểu hiện của khuynh hướng đồng tính
luyến ái đã ăn rễ sâu xa, thì vị linh hướng cũng như cha giải
tội của ứng sinh, có bổn phận lương tâm ngăn cản anh không tiến
tới việc Truyền chức.
Thật là không ngay thẳng trầm
trọng khi một ứng sinh nào che dấu việc đồng tính luyến ái của
mình để đạt tới các chức thánh cho bằng được. Một thái độ không
trung thực như thế là không phù hợp với tinh thần chân lý, tinh
thần ngay thẳng và sẵn sàng phục vụ Chúa Kitô và Giáo Hội.
IV. THÁI ĐỘ PHẢI CÓ
Căn cứ vào những khảo sát khoa học
và lập trường của Giáo Hội, chúng ta phải có cái nhìn thấu cảm
và thái độ tôn trọng, tin tưởng đối với nhau, không phán đoán
thiếu cơ sở và vội vàng kết luận những ai đó là đồng tính luyến
ái.
Dù có nghi ngờ những ai đó có biểu
hiện đồng tính luyến ái cũng không được phân biệt đối xử, cô lập
hay tẩy chay, không những lỗi bác ái mà lỗi cả đức công bằng.
Nhất là khi điều nghi ngờ thực tế không có thì ai sẽ đền bù sự
oan uổng bất công đó?!
Phải lấy tinh thần bác ái huynh đệ
mà trực tiếp trao đổi chỉ bảo (như Chúa Giêsu đã dạy), lấy tinh
thần siêu nhiên mà cầu nguyện và phó thác cho Chúa định liệu,
nhẫn nại chờ đợi vì cuộc sống thực mỗi ngày sẽ mạc khải đúng
chân tướng con người: “Vì chẳng có gì bí ẩn mà lại không trở nên
hiển hiện, chẳng có gì che giấu mà người ta lại không biết và
không bị đưa ra ánh sáng” (Lk 8:17).
Không tìm cách xen vào cuộc đời
người khác: “Tôi nghe nói trong anh em có một số người sống vô
kỷ luật, chẳng làm việc gì, mà việc gì cũng xen vào” (2 Tx 3:
11).
Không ác ý theo dõi, rình mò dò
xét để báo cáo bằng thư nặc danh; cũng không nhận làm ăng-ten tố
cáo nhau, vì như thế sẽ tạo nên nghi ngờ thù oán nhau, làm mất
bầu khí bình an, tin tưởng và thương yêu, là cái cần thiết để
xây dựng cộng đoàn: “Anh em đừng bao giờ thốt ra những lời
độc địa, nhưng nếu cần, hãy nói những lời tốt đẹp, để xây dựng
và làm ích cho người nghe” (Eph 4:29).
Phải nhớ lời Chúa Giêsu bảo Phêrô:
“Nếu Thầy muốn nó ở lại cho đến khi Thầy đến, việc gì đến con,
con hãy cứ theo Thầy”- “Các con đừng xét đoán để khỏi bị xét
đoán; các con đong bằng đấu nào thì sẽ đong trả lại bằng đấu ấy
cho các con”
Hãy cho người biết lỗi, cho họ cơ
hội sửa lỗi, và cho họ thời gian nữa, vì không ai một sớm một
chiều mà sửa ngay được. Tin tưởng vào sự biến đổi tốt đẹp trong
tương lai (“nhân thùy vô quá, hữu quá tắc cải, thị vị vô quá”):
Mỗi vị thánh đều có một quá khú, và mỗi tội nhân đều có một
tương lai.
Trái lại, người có trách nhiệm sẽ
đích thân kiểm soát bằng sự phục vụ đầy chăm sóc và gần gũi yêu
thương. Nhờ đó sẽ phát hiện kịp thời và có cách thích hợp nhất
để uốn nắn, đào tạo với lòng cảm thông.
Trong trường hợp biết rõ ai đó có
đồng tính luyến ái thật và để tránh thiệt hại lớn cho cộng đoàn
lẫn đương sự, sau khi đã trực tiếp làm mọi cách có thể, và nhất
là cầu nguyện, hãy theo lương tâm, can đảm đích thân kín đáo
trình bày với Bề trên và sẵn sàng chịu trách nhiệm kiểm chứng về
điều mình nói.
Các đôi bạn thân thiết cũng hãy dè
dặt, khôn ngoan và bác ái tránh gây cớ hiểu lầm cho người khác:
không thường xuyên chỉ đi lại vui chơi tâm sự với nhau, song mở
ra với mọi người; nhất là tránh những biểu lộ tình cảm quá thân
mật về mặt thể lý…
Nhưng cũng đừng vì sợ con mắt nhòm
ngó, tỵ nạnh mà xa tránh nhau làm tổn thương tình bạn cao đẹp đã
có. Mười hai tông đồ, mà Chúa Giêsu vẫn thân tín hơn với Phêrô,
Giacôbê và Gioan, nhất là Gioan đó thôi, dù vẫn có vài hiểu lầm
và bất bình!
Hồn con thương để xa
rời,
Những niềm ân oán mưu đời ghét
ganh;
Bao nhieu vị kỷ thấp
hèn,
Tay Ngài giải cứu vững bền con
đi.
Ngàn năm con vẫn kiên
trì,
Yêu người yêu Chúa ngại gì nước
non,
Dầu cho sông cạn núi
mòn,
Tình con sau trước vẫn còn
thiết tha.
Thánh Thi Kinh Sách Thứ Năm Tuần
I TN
Cuộc sống hiên ngang đầy can
đảm,
Mưu thần chước qủy biết phòng
xa,
Khổ đau không để chồn chân
bước,
Nẻo chính hằng theo bỏ lối tà.
Không ngừng bảo vệ luôn gìn
giữ,
Thể xác tâm linh mãi vẹn
toàn,
Đốt lửa cháy bừng tin cậy
mến,
Tiểu trừ tà ý khỏi tâm can…
Đoan trang đức hạnh ngay từ
sớm,
Tựa buổi ban mai dệt nắng
hồng,
Lửa nóng tin yêu thành chính
ngọ,
Tâm thần sẽ thóat khỏi cảnh
hòang hôn.
Thánh Thi Kinh Sáng Thứ Hai Tuần I
TN
Cho con được tràn đầy thanh
thản,
Đổi mới con xán lạn chói
lòa,
Chẳng chi xảo trá điêu
ngoa,
Sạch từ vạn ý sạch ra muôn lời.
Ngày sáu khắc êm trôi lặng
lẽ,
Chúa ngăn ngừa chẳng để phút
giây,
Tay chân miệng lưỡi hình
hài,
Buông theo tội lỗi mà đầy bợn
nhơ.
Chúa theo dõi đường tơ kẻ
tóc,
Nhìn xem ta thấu suốt ngọn
nguồn,
Công to việc nhỏ ngàn
muôn,
Từ bình minh tới hoàng hôn rõ
ràng.
Thánh Thi Kinh Sáng Thứ Năm Tuần I
TN
Có thể lấy chỉ thị của Đức Cha về
việc rao chịu chức linh mục sắp tới làm tiêu chuẩn ứng xử:
Tòa Giám Mục công bố danh sách
16 Thầy Phó Tế trên đây để rao báo 3 lần trong các nhà thờ của
giáo phận. Những ai biết các Thầy này có ngăn trở gì về việc
tiến chức linh mục thì xin kín đáo trình lên TGM trước ngày
15.11.2007, với điều kiện: không viết thư nặc danh, phải ghi rõ
tên, địa chỉ hay số điện thoại của người viết. TGM bảo đảm giữ
bí mật.
Ước mong đời sống có
tình,
Sầu thương vương nhẹ như hình
mây
bay,
Rồi ra phải trái có
ngày,
Ai đời đi trả nợ nần chẳng vay,
Phù sinh một phút trắng
tay,
Hơn nhau một chút dở hay ở
đời,
Xét đoán là việc Chúa Trời,
Ai mà kết án những người anh
em,
Mặt mình cũng có lọ
lem,
Tiên vàn lo rửa pha dèm làm
chi?
Hận thù hãy mau lấp
đi,
Yêu thương xây dựng khắc ghi
trí lòng,
Sống sao đáng được khoan
hồng,
Trong ngày thẩm phán chí công
sau cùng.
H. NHỮNG
YẾU TỐ NỒNG CỐT CỦA TRƯỞNG THÀNH TÌNH CẢM
I. DẤU
HIỆU SỰ THIẾU TrƯỞng thành
Có thể xác
định được cái tạo nên sự trưởng thành tình cảm không? Ta hãy cố
gắng xem xét các thành phần cấu tạo nền tảng của nó để có thể
định nghĩa trưởng thành tình cảm như sự hòa điệu giữa trí óc và
con tim.
Trí óc (Lý
trí): là phía hữu lý của con người; khả năng suy nghĩ hợp lý;
khả năng theo đuổi mục đích; khả năng lấy quyết định; khả năng
điểu chỉnh với thực tại (đối với Freud, đây là “tiến trình đệ
nhị”)
Con tim: là
phía tình cảm của con người; các cảm nhận, các nhu cầu, các ước
vọng, các thúc đẩy, các giấc mơ (đối với Freud, đây là “tiến
trình đệ nhất”)
Sự hòa điệu
hay hội nhập giữa hai chiều kích căn bản của con người mang lại
bình an nội tâm, và đến phiên nó, sự bình an nội tâm tạo nên sự
bình an với tha nhân và khả dĩ hòa điệu với thực tại.
Để hiểu thấu
đáo trưởng thành là gì, chúng ta hãy nhìn hai hình thức không
trưởng thành mà cả con tim và lý trí đều mắc phải.
1. Sự bốc
đồng, hấp tấp
Bộc lộ tình
cảm ra bên ngoài và hành động theo sự thúc đẩy, không tự chủ
thích đáng, như một đứa trẻ con. Đó là cái người ta thường hiểu
là “không trưởng thành” hay “tính trẻ con”
Coi sự thỏa
mãn các nhu cầu là ưu tiên vì của cải là cái làm thỏa mãn các
ham muốn (được gọi là nguyên tắc lạc thú).
Sự thiếu tự
chủ có thể chỉ giới hạn ở một hay hai lãnh vực, chẳng hạn kiềm
chế cơn giận bùng nổ, suy nhược hay những khó khăn giới tính.
Có thể có
nhiều cách bộc lộ khác nhau của hình thức không trưởng thành
này, tùy thuộc vào các nhu cầu và cảm xúc thoát khỏi sự kiểm
soát.
Việc này có
thể dẫn đến xung đột với tha nhân và xã hội, nếu các hành động
do bản năng tác hại cho người khác (như không thể kiểm soát cơn
giận hay trạng thái buồn rầu ủ rũ). Hoặc xung đột trong bản thân
mình, nếu thái độ ứng xử là không thể chấp nhận được đối với
lương tâm mình hay ý thức tự trọng (không có khả năng vượt thắng
một cảm nhận oán giận đối với người khác).
2. Sự khắt
khe cứng cỏi
Sự hoàn toàn
kiểm soát trên cảm xúc và ước muốn của mình sẽ đưa tới hậu quả
là đánh mất tính tự phát và thích thú.
Người tự kiểm
soát được mình thường xem ra “trưởng thành và có trách nhiệm”,
như đối nghịch người bị thúc đẩy, bốc đồng. Nhưng một sự kiểm
soát như thế thường được bắt rễ trong sự ức chế và được đặc
trưng bởi sự khắt khe cứng cỏi.
Trong sự
không trưởng thành có ứng xử nghèo nàn hoặc vì sử dụng không
thích hợp hoặc vì sự sử dụng thái quá cơ chế tự vệ.
Căn nguyên
của tự vệ là sự lo âu. Để kiểm soát nỗi lo âu, người ta cố che
đậy chính mình và kẻ khác cái mà người ta không thích.
Khi mọi sự tự
vệ bị đập tan, người ta gặp phải sự tê liệt hoàn toàn - đuợc gọi
là nỗi lo âu hay sự hoảng loạn tấn công, rất giống với cơn đau
tim.
3. Những chỉ
dẫn sự thiếu trưởng thành
Những chỉ dẫn
sau đây có thể giúp khám phá sự có mặt của vài bệnh lý nhẹ hay
vài nhược điểm căn bản trong nhân cách bên dưới lối ứng xử không
trưởng thành - mặc dù cho đến nay vẫn bình thường.
1) Trong
tương quan với bản thân
-
Tinh thần phòng
vệ thái quá.
-
Luôn luôn cảm
thấy mình bị coi thường.
-
Có những phản
ứng mạnh không thích hợp làm tình hình căng thẳng
-
Tình trạng
trống rỗng và khô khan thường xuyên.
-
Thiếu xác tín cá nhân.
-
Cẩu thả và thiếu xác thực trong cuộc sống hằng ngày và trong các
nhiệm vụ thông thường.
2)
Trong tương quan với tha nhân.
-
Thui thủi một mình, dường như sống trong một thế giới của riêng
mình.
-
Có
khuynh hướng đánh giá thấp kẻ khác và nhìn họ cách tiêu cực,
nhất là khi quá lý tưởng hóa bản thân.
-
Người hay gây
rối
-
Tính cáu kỉnh
trẻ con khi không vừa ý hay co mình lại.
-
Mánh khoé lôi
kéo kẻ khác cho các nhu cầu tập trung của mình.
-
Sự thiếu căn
tính bản thân được nhìn thấy trong khuynh hướng lý tưởng hóa các
khuôn mặt quyền bính và đồng hóa với họ.
3) Trong
tương quan với thực tại
-
Không có khả
năng đối phó cách xây dựng với thực tại
-
Thường xuyên
thiếu óc tập trung
-
Không có khả
năng kiên trì trong nhiệm vụ đơn giản, trừ khi được thường xuyên
hướng dẫn hay giám sát.
Kết quả đáng suy nghĩ một cuộc nghiên cứu
·
Thời gian mới vào có 60-80% ứng sinh có những mâu thuẫn. Họ vào
với lý tưởng bản thân nhưng bị tác động bởi các mâu thuẫn của
mình.
·
Sau một thời gian khá dài, chỉ có một số nhỏ các ứng sinh trên
đã lớn lên trong sự trưởng thành tình cảm. Trong số những người
còn lại, các mâu thuẫn vẫn thắng thế và các xung đột vẫn không
được giải quyết.
·
Thách đố: chương trình đào tạo phải nhìn vào cái tôi sâu xa hơn
của mỗi con người.
II. TIẾN
ĐẾN SỰ TRƯỞNG THÀNH
1. Bốn
đường lối căn bản để bảo vệ chính mình:
1) Đường
lối thứ nhất: PHỦ NHẬN
Chúng ta gạt
bỏ sự hiện hữu của chính mối đe dọa hoặc tính nghiêm trọng của
nó, nhờ đó chúng ta không để nó ảnh hưởng lên cuộc đời chúng ta.
Chẳng hạn “suy tưởng cách tích cực” thường dựa trên sự phủ nhận.
Nó cho phép chúng ta nhìn khía cạnh thú vị của cuộc đời, nhờ đó
chúng ta thấy được bầu trời sáng bạc sau đám mây (trong cái rủi
vẫn có cái may, họa trung hữu phúc).
2) Đường
lối thứ nhì: TRỐN CHẠY
Mối đe dọa
quá nghiêm trọng khiến chúng ta trốn chạy khỏi nó, và trốn đi
càng xa càng tốt nếu chúng ta có thể (tam thập lục kế, vi tẩu
thượng sách). Cảm nhận bên trong về sự không an toàn có thể được
đặt sai chỗ trên thực tại bên ngoài, khiến chúng ta phải sợ và
tránh nó. Đây là những ám ảnh về ma quái, bóng tối, gặp người nọ
kẻ kia…
3) Đường
lối thứ ba: CHIẾN ĐẤU
Thay vì chạy
trốn, chúng ta chuẩn bị mình để chiến đấu. Chúng ta dùng sự hiểu
biết để kiểm soát nỗi lo âu và bất cứ cái gì nó gây nên, chẳng
hạn đọc nhiều về thần học luân lý để tránh tội. Chúng ta hỏi ý
kiến những người khôn ngoan từng trải để tìm sự an toàn, hoặc
chúng ta giữ vật và người dưới sự kiểm soát để tránh sự không
chắc chắn.
4) Đường
lối thứ tư: MĨM CƯỜI
Như cây tre
đong đưa theo gió, chúng ta làm cho mình ra yếu mềm để tránh bị
nghiền nát. Chúng ta có thể làm như trẻ con để tránh xung đột
hay vẫn ở như trẻ con để tránh thách đố. Thay vì đối mặt với một
trách nhiệm, chúng ta có thể cáo bệnh, điều đó cũng có thể cho
phép chúng ta được người khác chăm sóc. Chúng ta mĩm cười trước
những mối đe dọa và tránh những cuộc tấn công bởi tính ngoan
ngoãn, dễ phục tùng.
2. Bốn
phương diện của sự trưởng thành:
-
Tự ý thức
-
Tự hiểu mình
-
Tự chấp nhận mình
-
Tự thay đổi và tự do quyết định
3. Các tiêu chuẩn để đánh giá
sự trưởng thành tình cảm
Danh sách 12 tiêu chuẩn sau đây
như những chỉ dẫn ứng xử có lẽ tương đối dễ thực hiện, được chia
ra ba nhóm chính:
1) Thái độ
đối với bản thân
-
Tinh thần cởi
mở và hiểu biết chính mình (ngược lại tinh thần phòng vệ)
-
Sự kiểm soát
mềm dẻo trên các nhu cầu, cảm xúc, các thúc đẩy (ngược lại tính
bốc đồng hấp tấp)
-
Giá trị cam kết
-
Cách ứng xử có
dự đoán trước, không khắt khe cứng cỏi và căng thẳng quá đáng.
2) Thái độ
đối với tha nhân
-
Khả năng yêu
thương, vừa tình cảm vừa hữu hiệu
-
Các mối tương
quan với dồng nghiệp
-
Các mối tương
quan với người khác phái
-
Thái độ đối với
quyền bính
-
Khả năng lãnh
đạo.
3) Thái độ
đối với thực tại.
-
Xét đoán phân
minh
-
Khả năng làm
việc
-
Ý thức hài hước
I.
THẾ NÀO LÀ TRƯỞNG THÀNH?
1.
Một nhóm các nhà phân tâm học liệt
kê các yếu tố của sức khoẻ tinh thần như sau:
- Sự phấn
khởi, hoan hỉ
- Tinh thần
thanh thản lạc quan
- Khả năng
vui thích làm việc
- Khả năng
vui thích giải trí
- Khả năng
yêu thương
- Khả năng
đạt tới mục đích
- Không bộc
lộ cảm xúc thái quá
- Tự biết
mình cách sâu sắc
- Trách
nhiệm xã hội
- Phản ứng
thích hợp với mọi cảnh huống
2. Các
chuẩn mực của một con người trưởng thành
1)
Mở rộng ý
thức về bản thân: Tham gia vào vài lãnh vực ý nghĩa của nỗ lực
nhân loại định hướng cho cuộc sống. Sự trưởng thành tiến tới cân
xứng với cuộc sống trở nên tử tế từ cái trực tiếp ồn ào của thân
xác và của cái tôi lấy mình làm trung tâm điểm.
2)
Liên kết bản
thân với tha nhân có hai khía cạnh: Khả năng sống thân mật sâu
xa với tha nhân; Khả năng sống thanh thoát làm cho mình trở
thành người không có khuynh hướng chiếm hữu nhưng tôn trọng kẻ
khác cách sâu xa.
3)
An toàn tình
cảm (chấp nhận chính mình): khả năng mang nổi sự thất vọng (thất
bại), chấp nhận lầm lỗi của mình mà không phản ứng quá dữ dội
với tha nhân và các biến cố bên ngoài; một con người như thế đã
học được để sống với các trạng thái tình cảm của mình, nhờ đó
không bị chúng phản bội lại bằng cách đưa mình vào những hành
động bốc đồng quấy rầy cuộc sống hạnh phúc của tha nhân; người
đó bộc lộ các xác tín và cảm nhận của mình với lòng trân trọng
các xác tín và cảm nhận của người khác.
4)
Nhận thức
thực tế, các kỹ năng, phận vụ: khả năng đánh giá thực tại đúng
như nó là, chứ không như mình mong muốn nó trở thành; có những
kỹ năng thích hợp để giải quyết các vấn đề khách quan; có khả
năng quên mình vì một nhiệm vụ quan trọng. Tóm lại, một người
trưởng thành sẽ va chạm gần gũi với một “thế giới thực”, nghĩa
là nhìn xem sự vật, con người và các hoàn cảnh theo cái mà chúng
là.
5)
Thể hiện mình
cách khách quan: Biết rõ mình và hài hước. Biết rõ mình, một sự
hiểu biết đầy đủ về những điểm mạnh và những điểm yếu của mình.
Luôn luôn có tinh thần hài hước đi cùng. Có khả năng coi thường
những cái mình yêu thích (dĩ nhiên bao gồm cả bản thân và tất cả
những gì liên quan đến bản thân), và vẫn yêu thích chúng. Cái
trái ngược là sự giả bộ màu mè, tức là khuynh hướng xuất hiện bề
ngoài mình là cái gì đó mà thực ra không thể.
6)
Triết lý
thống nhất đời sống: một sự hiểu biết rõ ràng về mục đích của
cuộc đời trong những hạn từ của một lý thuyết dễ hiểu. Nói cách
khác, một hệ thống ý nghĩa và trách nhiệm, một định hướng giá
trị, trong đó các hoạt động chủ yếu của cuộc sống được thực
hiện.
3. Một con
người trưởng thành thể hiện tốt chính mình
1)
Nhận thức cao
về thực tại và có những liên hệ thoải mái với nó. Người này phán
đoán về các tình huống và con người cách chính xác. Họ không bị
đe dọa và hoảng sợ, như người không trưởng thành tỏ ra quá cần
thiết đến thê thảm sự chắc chắn, an toàn, sự chính xác và mệnh
lệnh.
2)
Sự chấp nhận
bản thân và thiên nhiên: Họ cảm thấy thoải mái với thiên nhiên
và bản tính con người. Họ chấp nhận toàn bộ các nhu cầu và tiến
trình tự nhiên, không chán ghét, nhưng trân trọng các đức tính
cao hơn làm nên sự trưởng thành nhân bản.
3)
Tính tự phát:
Khả năng thưởng thức nghệ thuật, những thời kỳ tốt lành, cuộc
sống thú vị. Không quá câu nệ tập tục, nhưng có thể nắm lấy
những kinh nghiệm tột đỉnh về cuộc đời.
4)
Vấn đề tập
trung: Làm việc hiệu quả và kiên trì trong những nhiệm vụ khách
quan; có thể hy sinh chính mình trong các vấn đề đích thực mà
không bận tâm đến bản thân.
5)
Sự thanh
thoát: Cần sự riêng tư và tự túc. Tình bạn và sự gắn bó đối với
gia đình không bám dai dẳng, không xâm phạm hay chiếm hữu.
6)
Độc lập với
văn hóa và môi trường: Liên hệ gần gũi là khả năng để lấy hay để
bỏ các thần tượng của thương trường. Dù nịnh hót hay chỉ trích
cũng chẳng làm xáo trộn quá trình phát triển căn bản của mình.
7)
Tính chất mới
mẻ trong việc đánh giá: dễ cảm với kinh nghiệm mới.
8)
Chân trời
không biên giới: quan tâm với bản chất tối hậu của thực tại;
những cảm nhận thần bí hay bao la như đại dương là yếu tố tôn
giáo trong sự trưởng thành.
9)
Cảm thức xã
hội: có một cảm nhận căn bản về thiện cảm và tình thương, bất kể
sự giận dữ hay thiếu nhẫn nại thỉnh thoảng xảy ra. Lòng cảm
thông đối với đồng loại là một dấu hiệu của sự trưởng thành.
10)
Tương quan xã
hội sâu xa và có chọn lựa: có thể có những sự gắn bó cá nhân sâu
xa khác thường. Vòng tròn các gắn bó gần gũi có thể nhỏ hẹp,
nhưng cũng có thể nhẹ nhàng mở ra với những mối liên hệ bên
ngoài quỹ đạo này.
11)
Đặc tính tự
do: cảm nhận và tỏ lòng kính trọng đối với bất cứ người nào chỉ
vì đó là một cá vị con người; tỏ ra độ lượng trong lãnh vực đạo
đức và tôn giáo.
12)
Sự chắc chắn
đạo đức: biết sự khác biệt giữa cái đúng và cái sai trong cuộc
sống thường ngày; không lẫn lộn phương tiện và mục đích, và
cương quyết theo đuổi cho bằng được những mục đích mà mình cảm
thấy là đúng.
13)
Ý thức thân
thiện của tính hài hước: Không chơi chữ, giễu cợt hay mưu kế thù
nghịch, nhưng tự phát hài hước.
14)
Tính sáng
tạo: Cách sống có một sức mạnh chắc chắn và một cá tính gây ấn
tượng trên bất cứ cái gì mình làm (viết lách, sáng tác hay công
việc nhà).
|
VỀ MỤC LỤC |
|
NHỮNG XÉT NGHIỆM CẦN THIẾT
|
Nhiều người
rất quan tâm tới sức khỏe của mình, cho nên mỗi lần đi khám bệnh
là muốn bác sĩ chụp hình thử máu, thử nước tiểu. Để coi xem ngọc
thể có tì vết, bệnh tật gì chăng.
Ngược lại thì
cũng không ít người coi xét nghiệm là vô ích, “bới bèo ra bọ”,
khi mà ăn vẫn ngon, ngủ vẫn yên, vẫn yêu đời, máy móc phục vụ
đều đặn tới nơi tới chốn.
Đó là những
thái độ tưởng như bình thường của đa số quần chúng. Tuy nhiên
điều cần nêu ra là, rất nhiều bệnh xuất hiện đôi khi quá trầm
trọng mà không có dấu hiệu báo trước. Cho nên nhiều xét nghiệm
truy tìm bệnh đã được các nhà nghiên cứu đưa ra, ngõ hầu có thể
sớm chẩn đoán và nhờ đó việc điều trị, đối phó sẽ hiệu quả hơn.
Các xét
nghiệm có tính cách xàng lọc như vậy được áp dụng tùy theo lớp
tuổi trung niên hoặc cao niên. Vì một số bệnh thường thấy ở lớp
tuổi này mà không có hoặc hiếm có ở lớp tuổi kia. Do đó, cần
thảo luận với bác sĩ để thực hiện những xét nghiệm thích hợp.
1- Sau đây là một số xét nghiệm
cần thiết ở lớp người trên 65 tuổi
a- Cholesterol trong máu
Đây là thử
nghiệm đo số tổng số chất béo cholesterol, chất béo “xấu” LDL và
chất béo “tốt” HDL trong máu.
Mức độ lý
tưởng là: Cholesterol dưới 200mg/dL; LDL dưới 100mg/dL; HDL
trên 60mg/dL; Triglycerides dưới 150mg/dL.
HDL càng cao
càng tốt. Ba loại kia nếu thấp hơn mức trung bình thì an toàn,
vì quá cao, chúng là rủi ro đưa tới bệnh tim mạch cũng như một
số rối loạn khác.
Thử nghiệm
cần làm theo định kỳ tùy tình trạng cơ thể.
b- Đo đường huyết
Đo đường
glucose trong máu cho biết có rủi ro mắc bệnh tiểu đường hoặc là
đang bị bệnh này. Đây là loại bệnh đang có chiều hướng gia tăng
tại mọi quốc gia với nhiều biến chứng trầm trọng như mất thị
lực, suy tim, thận, tổn thương thần kinh ngoại vi.
Mức độ đường
huyết trung bình đo buổi sáng khi đói là từ 70mg/dl-99mg/dl
(3.5-5.5 mmol/L).
Từ
100mg/dl-125mg/dl (5.6-6.9mmol/L) là tiền tiểu đường.
Từ 126mg/dl
(7mmol/L) trở lên trong 2 lần thử liên tiếp là bị bệnh rồi.
Xét nghiệm
cần được thực hiện khi đang có bệnh cao huyết áp, đang điều trị
hoặc có thân nhân bị tiểu đường.
Người có
trọng lượng cơ thể 20% cao hơn mức trung bình cũng cần đo đường
huyết, vì mập là rủi ro chính đưa tới bệnh tiểu đường.
c- Đo huyết áp
Huyết áp là
sức ép của máu vào thành động mạch mỗi khi tim co bóp, đẩy máu
vào huyết quản nuôi cơ thể.
Huyết áp
trung bình là 120/80 mmHg
Từ 120-139/
80-90mmHg là tiền cao huyết áp.
Trên 140/90
mmHg là bị bệnh cao huyết áp.
Huyết áp cao
có thể là chỉ dấu của bệnh tim mạch, bệnh tiểu đường hoặc một số
vấn đề sức khỏe khác.
Các nhà y học
đều khuyên là nên đo mỗi 2 năm nếu huyết áp dưới 120/80; mỗi năm
nếu huyết áp tứ 120-139/ 80-90 và đo thường xuyên hơn nếu áp
xuất cao trên con số này.
Một số bác sĩ
cẩn thận muốn đo huyết áp nhiều lần hơn. Do đó, nên thảo luận
với bác sĩ.
d- Độ dày đặc xương (Bone
densitometry)
Cấu trúc của
xương có thể ví như một mảng xi măng-cốt sắt. Xương vững chắc là
nhờ có muối calci carbonate và calci phosphate lấp kín khoảng
trống của hệ thống mô liên kết, cái sườn chính của xương. Calci
do thực phẩm cung cấp.
Chụp hình
X-quang xương có thể đo số lượng calci trong xương. Đây là một
xét nghiệm khá mới mẻ và chính xác để coi có bị rủi ro bệnh
loãng xương hay không. Trước khi có xét nghiệm này thì nhiều
người chỉ biết bị bệnh sau khi xương đã mảnh mai, gẫy.
Xét nghiệm
được thực hiện từ tuổi 65. Tuy nhiên, nếu có các rủi ro đưa tới
loãng xương như nhẹ cân, gia đình có người bị loãng xương thì
nên làm từ tuổi 60.
Đ- Nội soi ruột già
Theo thống
kê, có tới 90% trường hợp ung thư ruột già xảy ra ở lớp người từ
50 tuổi trở lên. Tuổi trẻ cũng bị ung thư phần ruột này, nhưng
tương đối ít hơn.
Nội soi ruột
già được thực hiện với một dụng cụ gồm có một ống nhựa mềm, dễ
uốn, đầu có đèn chiếu sáng, máy chụp hình và nối kết với hệ
thống theo dõi.
Ống đèn được
đưa vào hậu môn, qua trực tràng rồi lên ruột già. Chuyên gia
quan sát toàn bộ mặt trong của ruột và có thể tìm thấy những
bất thường như loét lở, cục thịt polyp. Polyp có thể là tiền
thân của ung thư và cần được cắt bỏ ngay.
Các nhà
chuyên môn khuyên mọi người từ 50 tới 75 tuổi nên làm xét nghiệm
này mỗi 10 năm. Nếu có yếu tố rủi ro như mập phì, tiểu đường,
hút thuốc lá, viêm ruột, đời sống tĩnh tại, gia đình có thân
nhân bị ung thư ruột thì thường xuyên hơn. Từ tuổi 76-85, xét
nghiệm trở nên ít cần thiết và sau 85 tuổi thì không cần làm
nữa.
Một rủi ro
nhẹ của nội soi là lủng lớp màng lót của ruột với tuổi cao,
nhưng dưới bàn tay chuyên môn kinh nghiệm của bác sĩ thì chuyện
này hiếm khi xảy ra.
e- Chụp X-quang nhũ hoa
Ung thư nhũ
hoa có thể xảy ra ở cả nam lẫn nữ, nhưng nhiều hơn ở “phái yếu”.
Ở nữ giới,
ung thư vú đứng hàng thứ nhì, sau ung thư da.May mắn là trong
những năm gần đây, bệnh giảm dần, tử vong cũng ít nhờ công chúng
hiểu biết nhiều hơn về bệnh, nhờ có phương tiện sớm khám phá
cũng như phương thức điều trị hữu hiệu. Tuy nhiên đây vẫn là ung
thư đáng e ngại của quý bà quý cô vì tác hại của chúng.
Chụp X-quang
nhũ hoa ( Mammography) có mục đích phát hiện những thay đổi của
vú khi chưa có dấu hiệu bệnh. Xét nghiệm sử dụng rất ít chất
phóng xạ nhưng có khả năng tỉ mỉ kiểm tra các mô của bộ phận này
mà tay khám ngực không hoàn tất chu đáo được.
Các nhà
chuyên môn đề nghị chụp hình nhũ hoa mỗi 1 hoặc 2 năm kể từ tuổi
40 trở lên.
g- Siêu âm bụng
Tuổi từ 65
tới 75 nhất là đã có thời kỳ phì phèo cả trên 100 điếu thuốc lá
trong đời người đều nên làm siêu âm vùng bụng một lần để coi
động mạch chủ ở nơi dây có phình ra. Phình mạch có khả năng gây
tử vong nếu bất chợt “bể” tung, như cái lốp xe đạp, đưa tới xuất
huyết trầm trọng.
Theo Lực
lượng Phòng tránh bệnh Hoa Kỳ (USPSTF), người dưới 65 tuổi ít có
rủi ro phình mạch này nên siêu âm không có ích lợi.
Ngoài ra, bác
sĩ gia đình có thể khuyên bệnh nhân trên 65 tuổi khám tai, khám
mắt hàng năm để sớm phát hiện cao áp nhãn (glaucoma)
Một vài xét
nghiệm mà lớp tuổi trên 65 có thể bỏ qua gồm có:
Thử nghiệm tế bào cổ tử cung (Pap
smear)
Xét nghiệm tìm ra các thay đổi của tế bào cổ tử cung có nguy cơ
đưa tới ung thư phần này.
Tuy nhiên nguy cơ ung thư cổ tử cung ở phụ nữ trên 65 tuổi có
chiều hướng giảm và pap smear nhiều khi cho kết quả dương tính
giả. Do đó, Lực lượng phòng tránh bệnh Hoa Kỳ nói là ích lợi
của xét nghiệm rất khiêm nhường. Nữ lưu nào đã có ba pap smear
âm tính liên tiếp trước 65 tuổi thì sau tuổi này chẳng cần làm
pap nữa, với điều kiện đã được bác sĩ đồng ý.
Thử men nhiếp tuyến
(PSA)
PSA
viết tắt của Prostate-specific antigen, một chất đạm do nhiếp
tuyến sản xuất có tác dụng làm lỏng tinh dịch. Một lượng rất ít
chất này chuyển vào máu, nhưng quá cao có thể là chỉ dấu của
viêm, nhiễm trùng, phì đại hoặc ung thư tuyến nhiếp.
Tại
Hoa Kỳ, ung thư nhiếp tuyến là một trong những ung thư thường
thấy ở nam giới. Bệnh đe dọa trầm trọng đời sống và điều trị
cũng có nhiều tác dụng phụ, cho nên nhiều người rất e sợ khi bị
bệnh này
Trong quá khứ, đa số bác sĩ coi mức độ 4.0ng/mL PSA trong máu là
bình thường. Nhưng đã có nhiều trường hợp ung thư nhiếp tuyến
xảy ra khi PSA thấp hơn 4.0ng/mL. Do đó, ý kiến chung là không
có mức độ bình thường hoặc bất bình thường PSA.
Hiện nay đang có nhiều tranh cãi về lợi điểm của xét nghiệm
PSA.Lý do là thử nghiệm có thể dương hoặc âm sai (false positive
or negative). PSA cao có thể chỉ do một ung thư nhỏ chưa đủ đe
doa sinh mệnh mà bệnh nhân đã được trị liệu bằng các phương thức
gây ra nhiều hậu quả đáng ngại như nhiễm trùng, bí tiểu tiện,
rối loạn cương dương.
Bằng chứng ủng hộ và chống đối xét nghiệm PSA thường lệ đối với
nam giới từ 40 tới 75 tuổi chưa được thống nhất.Do đó có bác sĩ
nói nên thử hàng năm khi tới tuổi 50, bác sĩ khác đề nghị đàn
ông có nguy cơ ung thư nhiếp tuyến nên làm PSA ở tuổi 40 goặc
50.
Ý
kiến chung là trước khi thử cần giải thích rõ ràng cho bệnh nhân
về lợi hại của xét nghiệm.
Và
USPSTF đã quyết định là nam nhân trên 75 tuổi không cần xét
nghiệm PSA, một phần vì ở lớp tuổi này, ung thư nhiếp tuyến diễn
tiến rất chậm.
2- Với lớp tuổi từ 20
-30 nên lưu ý những điều sau đây:
-
Cân đo sức nặng cơ thể theo định kỳ để tránh quá ký vì mập phì
là rủi ro của bệnh tiểu đường, cao huyết áp.
-
Đo áp xuất động mạch để sớm phát hiện và điều trị ”tên sát nhân
thầm lặng” cao huyết áp, thủ phạm đưa tới tai biến não, bệnh
tim.
-
Xét nghiệm mức độ chất béo cholesterol trong máu để tránh quá
cao có thể gây tắc nghẽn lưu thông huyết quản, bệnh tim mạch.
Đặc biệt giới trẻ hút thuốc lá, cao huyết áp, có bệnh tiểu đường
và thân nhân có người bị bệnh tim là cần thực hiện xét nghiêm
này.
-
Với nữ lưu, tự khám nhũ hoa, chụp X-quang vú hàng năm cũng như
khám tử cung, làm pap smear mỗi 2 hoặc 3 năm để sớm phát hiện
ung thư vú và ung thư cổ tử cung, những bệnh khá phổ biến ở giới
này.
-
Nam giới cũng nên hàng năm tự khám lò sản xuất tinh trùng vì ung
thư ngọc hành đứng đầu trong các bệnh ung thư ở tuổi ”bẻ gẫy
sừng trâu” và bệnh điều trị dễ dàng, nếu tìm ra sớm.
-
Tuổi này cũng hay tắm biển, phơi nắng cho nên cần quan sát da
2,3 năm một lần để coi xem có dấu hiệu của ung thư da.
Và
cũng đừng quên coi lại xem đã chủng ngừa đầy đủ các bệnh truyền
nhiễm.
Kết luận
Trong y học, phòng chống bệnh có 3 mức độ:
-
Áp dụng mọi phương tiện hữu hiệu sẵn có để không cho bệnh có cơ
hội thành hình. Thí dụ chủng ngừa bệnh truyền nhiễm để giúp cơ
thể có khả năng chống lại vi khuẩn, virus;
-
Dùng những xét nghiệm để sớm tìm ra bệnh trước khi có dấu hiệu
ngõ hầu có thể đối phó kịp thời; và
-
Cố gắng điều trị, chăm sóc để giảm thiểu các hậu quả xấu khi
bệnh đã xảy ra.
Các
cụ ta thường chủ quan khi nói ”biết người biết mình, trăm trận
đánh trăm trận thắng”.
Trong cuộc chiến chống lại bệnh tật, chúng ta đã có nhiều hiểu
biết về nguyên nhân gây bệnh, diễn tiến cũng như biến chứng của
bệnh và các phương thức phòng tránh, sớm khám phá ra bệnh.
Nhưng có lẽ ”TRI” mà không”HÀNH” e rằng lại là một thiếu sót.
Cho
nên, khoa học đã cống hiến các phương thức để sớm tìm ra bệnh,
thì cũng nên để ý, thực hiện.
Mong vậy thay.
Bác sĩ
Nguyễn Ý-Đức M.D.
Texas-Hoa Kỳ. |
VỀ MỤC LỤC |
VĂN MÌNH, VỢ NGƯỜI
Chuyện phiếm của Gã
Siêu |
Tục ngữ Việt Nam có câu :
- Vợ người thì đẹp,
Văn mình thì hay.
Hôm nay, gã xin mượn đỡ câu tục
ngữ này làm đề tài để tán hươu tán vượn với bàn dân thiên hạ.
VĂN
MÌNH THÌ HAY
Thuở còn hàn vi, gã đã phải đi
làm thư ký cho một sếp. Sếp này trong những lúc rảnh rỗi cũng
bắt đầu tập tành viết lách, làm thơ làm thẩn. Cái ý đồ cao cả
của sếp là sẽ xuất bản một vài cuốn truyện, một vài tập thơ, để
nghiễm nhiên nhảy tót vào văn đàn và chiếm lấy một chỗ đứng
trong văn học sử, danh tiếng lưu truyền cho đến muôn ngàn đời,
hay ít nữa cũng làm cho bọn đàn em và bè bạn phải tâm phục khẩu
phục.
Hôm đó, sếp tớp một ly cà phê
đen và hút mấy điếu thuốc lá, rồi thả hồn lãng đãng, phiêu du
theo làn khói. Sở dĩ như vậy là vì sếp đã tiêm nhiễm cái chủ
trương :
- Là thi sĩ, nghĩa là ru với
gió,
Mơ theo trăng, mà vơ vẩn cùng
mây.
Cuối cùng, sếp cũng rặn ra được
một bài thơ, đưa cho gã đánh máy để gửi cho một tờ báo. Sếp cứ
nhẩm đi nhẩm lại mãi bài thơ của mình, ra tuồng đắc ý lắm. Riêng
gã thì lại thấy bài thơ ấy dở ơi là dở, chấm phẩy tùm lum, thậm
chí còn viết sai cả chính tả. Vỉ thế, gã bèn tự động sửa lại một
vài chữ cho đúng với luật bằng trắc và cách thức hợp vần.
Cầm lấy bài thơ đã được đánh
máy, bỗng dưng sếp nổi giận đùng đùng, đỏ mặt tía tai, đập bàn
đập ghế và quát tháo với gã :
- Bài thơ này, anh biết tôi đã
phải thai nghén nó bao nhiêu đêm ngày hay không ? Từ nay mà đi,
tôi viết sao, anh phải đánh y như vậy, không được sửa một tí nào
cả, dù chỉ là một dấu chấm, một dấu phẩy.
Nghe vậy, gã bèn chịu thua,
chẳng dám ý kiến ý cò gì nữa và nghiệm ra rằng : “văn mình thì
hay”.
Đây cũng là một sự thật mà nhiều
lúc chính gã cũng cảm thấy. Khi đã cầm bút viết, thì phải dắn đo
chọn lựa từng chữ, từng dấu chấm, dấu phẩy. Có những lúc mình
phải bóp đầu suy nghĩ:
- Phải dùng chữ nào cho ý nghĩa
được trọn vẹn, được tròn đầy ?
Và lúc tìm được chữ ấy thì lấy
làm đắc ý và thích thú.
Nhiều khi bài viết được in trên
báo, nhưng tác giả lại không có can đảm đọc lại, vì mắc phải
những sai lỗi trong khâu đánh máy văn bản và in ấn. Thậm chí có
tác giả đã phùng má trợn mắt mà phát biểu :
- Tên nào dám thò tay vào mà sửa
một chữ trong bài viết của ông, thì ông sẽ đấm cho vỡ mỏ, sẽ đá
cho què giò và sẽ đánh cho bỏ mẹ luôn.
Và cứ thế, cứ thế, điệp khúc
“văn mình thì hay” lại được tái diễn.
VỢ
NGƯỜI THÌ ĐẸP
Tuy nhiên, “văn mình thì hay”
không rắc rối cho bằng “vợ người thì đẹp”. Sở dĩ như vậy vì
chuyện văn chương chữ nghĩa chỉ động chạm tới bản thân mình, còn
chuyện tình cảm lại đụng chạm tới nhiều người khác và để lại
những hậu quả không mấy tốt đẹp.
Thế nhưng, tại sao một số các
ông chồng lại chẳng biết mở mồm mở miệng để khen ngợi vợ mình
một phát, mà lại chuyên môn khen ngợi bà xã của người khác ? Thế
mới rách việc.
Nếu chịu khó phân tích và bới
lông tìm vết, gã thấy được rằng phần lỗi rất có thể đã xuất phát
từ cả hai phía, từ phía ông chồng cũng như từ phía bà vợ.
Trước hết là từ phía ông chồng
Kinh nghiệm đời thường cho hay :
ăn miết một món, cho dù đó là một món cao lương mỹ vị, thì đến
một lúc nào đó cũng sẽ chán, ấy là chưa nói tới tình trạng ngấy
đến tận cần cổ.
Ngày nào cũng thịt thà cá mú,
bỗng dưng một hôm nào đó ta thèm canh cua rau đay hay cà ghém
mắm tôm. Ngày nào cũng phải ăn cơm, bỗng dưng một lúc nào đó ta
thèm một tô phở tái nóng hổi và thơm phức.
Chẳng thế mà có kẻ đã ca tụng :
- Bồ là phở nóng tuyệt vời,
Vợ là cơm nguội đáy nồi hẩm
hiu!
Và cho dù đang ăn cơm, nhưng
lòng thì vẫn cứ tơ tưởng tới phở :
- Sáng :
Chở cơm (vợ) đi ăn phở.
Trưa :
Chở phở (bồ) đi ăn cơm.
Chiều :
Cơm về nhà cơm,
Phở về nhà phở.
Tối :
Nằm với cơm,
Mà vẫn mong về phở.
Nói thì nói vậy mà thôi, nhưng
vẫn phải luôn đề cao cảnh giác, kẻo thiên hạ bị phỗng tay trên :
- Vợ là…”cơm nguội” của ta,
Nhưng là…”phở tái” của cha
láng giềng!!!
Hơn thế nữa, như người xưa
thường bảo : Không ai bằng lòng với số mạng của mình. Thành thử
vẫn cứ thích ngoi lên để tạo dựng một tương lai tươi sáng hơn.
Đây là một chủ trương lành mạnh,
nếu biết dặt nó vào trong một giới hạn phù hợp với khả năng của
mình, bởi vì thái quá vốn thường bất cập.
La Fontaine đã kể lại một câu
chuyện ngụ ngôn như sau :
Nhìn thấy con bò to ơi là to,
nên con ếch cũng thầm mơ được to như vậy. Và thế là con ếch cố
gắng uống thật nhiều nước, uống mãi uống hoài mà bụng mới chỉ to
hơn được một tí. Vì vậy, lại uống thêm và uống nữa. Rồi bỗng
dựng cái bụng nổ đánh đốp một cái và vỡ toang, đi đời con ếch
nhỏ bé.
Cũng chính vì thế mà nhiều người
thường : Đứng núi này, trông núi nọ. Có nghĩa là đứng trên ngọn
núi này, lại thấy ngọn núi kia cao hơn, mặc dù cả hai đều bằng
nhau.
Đây là tâm lý của những người
không biết thế nào là đủ, lúc nào cũng phân bì với người khác và
muốn được hơn thiên hạ.
Hay : Được voi thì lại đòi tiên.
Và như chúng ta đã biết : voi là
con vật to hơn cả trong rừng (số lương). Người tham, khi được
voi rồi lại muốn được một thứ gì khác to hơn nữa. Không có thì
đòi cho được cô tiên, tuy không to bằng voi nhưng chắc chắn là
phải đẹp trên cả tuyệt vời (chất lượng). Được số lượng nhiều
rồi, cũng vẫn chưa thỏa mãn, lại đòi cho được chất lượng cao
nữa.
Có người còn cắt nghĩa câu nói
trên như sau : Voi và tiên ở đây là những hình tượng được nặn từ
bột nếp, rồi đem nhuộm phẩm màu làm đồ chơi và bán cho trẻ em.
Đứa nhỏ đã mua được cho con voi,
lại còn vòi vĩnh, đòi bố mẹ mua thêm cả…cô tiên nữa.
Tất cả những điều ấy đều muốn
nói lên rằng : cái lòng tham của con người thì không đáy : đã có
cái này lại đòi thêm cái kia. Giống như ông chồng được voi đòi
tiên, vợ đẹp con khôn như vậy mà còn chê ỏng chê eo, rồi đi lang
thang, kiếm tìm những tình cảm ngoài luồng.
Cũng chính vì cái tật “đứng núi
này trông núi nọ”, “được voi đòi tiên” mà một số ông chồng đã
tốn tiền và tốn bạc, tốn công và tốn sức để đèo bòng bồ nhí, như
ca dao đã diễn tả :
- Đàn ông năm bảy lá gan,
Lá ở cùng vợ, lá toan cùng
người.
Thậm chí có kẻ còn hung hăng
tuyên bố :
- Vợ là địch,
Bồ bịch mới là ta.
Khi chiến sự xảy ra,
Ta buộc về với địch,
Nằm trong lòng địch,
Ta vẫn nhớ đến ta.
Một khi đã chán cơm và thèm phở,
hơn nữa lại mang trong mình dòng máu “dế mèn phiêu lưu ký”, nên
nhìn sang nhà anh hàng xóm, bỗng thấy bà xã người ta sao mà xinh
ơi là xinh, đẹp ơi là đẹp. Ngó mà phát thèm, có nằm mơ cũng chưa
chắc đã được. Âu cũng chỉ là chuyện thường ngày ở huyện : Vợ
người thì đẹp, văn mình thì hay.
Vì thế, nghe thiên hạ xì xầm bàn
tán rằng : có những cặp vợ chồng “rửng mỡ”, vào dịp nghỉ cuối
tuần đã bày ra cái trò chơi đổi vợ đổi chồng cho nhau để tìm lấy
những cảm giác lạ.
Gã cũng chẳng biết trò chơi này
thực hư như thế nào, không chừng quen mui thấy mùi ăn mãi, để
rồi cuối cùng mất cả chì lẫn chài, mất cả vốn lẫn lãi, gia đình
đổ vỡ, cửa nhà tan hoang.
Tiếp
đến là từ phía bà vợ
Tuy nhiên, trong lời khen ngợi
“vợ người thì đẹp” còn có sự tiếp tay, ít nữa là gián tiếp, từ
phía chị vợ. Gã chỉ ghi lại sơ qua một vài thói hư tật xấu mà
các chị vợ thường mắc phải, khi ở trong nhà. Những thói hư tật
xấu này đã làm cho anh chồng phải ngán ngẩm, để rồi đi tìm kiếm
những trái cấm trong lãnh vực tình cảm riêng tư.
Thứ nhất, đó là lời nói.
Thực vậy, ở nhà có những chị vợ
cậy miệng không nói được nửa lời, khuôn mặt lúc nào cũng lầm
lầm, lì lì như bánh bao chiều, khiến cho bè bạn của anh chồng
cũng phải e dè, ái ngại mỗi khi thăm viếng. Và nếu có mở miệng,
thì chỉ thấy tuôn ra những lời lẽ cộc cằn, la hét, chửi
bới…khiến cho bà con lối xóm phải đinh tai nhức óc. Tiết kiệm
lời nói theo kiểu này thì chỉ gây nên đau khổ cho anh chồng và
đổ vỡ cho gia đình mà thôi.
Gã xin kể lại một mẩu chuyện nho
nhỏ :
Tại một giáo xứ nọ, có hai vợ
chồng nhà kia. Hôm ấy theo sự phân công thì chị vợ đi nhổ cỏ ở
thửa ruộng phía sau nhà, còn anh chồng thì lo giặt đồ, cọ chuồng
heo và…nấu cơm. Đây là một dịp để anh chồng trổ tài nội trợ.
Khi những món ăn đã được nấu
nướng theo ý mình, anh sai đứa con ra ruộng mời mẹ. Đứa con chạy
đi và thưa với mẹ :
- Mẹ ơi, mẹ à, bố bảo về nhà ăn
cơm.
Chị vợ chẳng nói chẳng rằng, cứ
cắm cúi nhổ cỏ. Sốt ruột vì sợ những món an đắc ý nhất bị nguội,
anh lại sai đứa con khác ra mời mẹ. Và cũng như lần trước, bà vợ
vẫn cứ lẳng lặng làm việc.
Chờ một lúc nữa và vẫn chưa thất
vọng, anh chồng bèn sai đứa con thứ ba đi mời mẹ. Lần này chị vợ
đứng lên, quắc mắt nhìn đứa bé rồi phán :
- Bố con chúng mày muốn hốc thì
cứ hốc trước đi, tao còn phải làm cỏ.
Đứa bé ngây thơ, chạy về và lặp
lại nguyên văn, không cắt xén những lời bà mẹ đã nói. Biết rằng
chồng con đang đợi, thế mà bà vẫn thủng thẳng đi về, đủng đỉnh
rửa tay…Và sự gì phải đến, ắt sẽ đến. Chỉ một lúc sau bà con
lối xóm bỗng nghe thấy những tiếng kêu la thất thanh, bu lu bù
loa :
- Ối giời ơi, ối đất ơi, nó đánh
tôi, nó giết tôi. Bà con làng xóm ơi, cứu tôi với.
Rồi sau đó, chị vợ khăn gói quả
mướp về với…bu.
Tìm được một chị vợ vừa niềm nở
và tươi tắn, lại vừa kín miệng và thận trọng trong lời nói là
một điều rất khó, bởi vì phần đông các bà các cô đều mắc phải
cái tật khác, đó là thích nói dài, nói dẻo, nói dai và đôi khi
nói day và nói dứt.
Có những chị vợ thường xuyên cạu
cọ với chồng với con. Chúng ta thử tưởng tượng ra một người
chồng làm công chức. Ở sở thì bị bề trên đè nén, bề ngang ganh
tị và bề dưới bướng bỉnh. Về nhà chỉ thầm mong tìm thấy khuôn
mặt tươi tắn và những lời nói dịu dàng của người vợ, cùng với
những nụ cười vô tư của con cái để quên đi hết nỗi sầu buồn chất
chứa trong cõi lòng mà hăng hái tiếp tục cuộc chiến đấu vì chén
cơm manh áo.
Thế nhưng, bất cứ lúc nào hễ
thấy mặt anh chồng, chị vợ đều cằn nhằn :
- Sao anh thua người ta thế này,
sao anh thua người ta thế nọ…Người ta thì kiếm tiền như nước,
đem về cho vợ cho con, còn anh sao vô tài bất tướng quá vậy.
Ngay cả những lúc thân mật, chị
vợ cũng luôn rót vào tai chồng những lời chua như chanh và cay
như ớt. Như vậy, làm sao người chồng có thể chịu đựng cho nổi.
Nhất là mỗi khi có chuyện xích
mích, bất đồng trong gia đình hay chẳng may anh chồng sai lỗi
điều chi, thi chị vợ lại xả ga nói cho bằng thích : nói dài,
nói dẻo, nói dai, nói day, nói dứt, nói xỏ nói xiên…đến tận tâm
can tì phế của anh chồng. Lải nhải ngày cũng như đêm.
Tới nước này, người chồng thường
có ba cách giải quyết : Một là lẳng lặng bỏ nhà ra đi một vài
tiếng đồng hồ. Hay đôi ba ngày. Hai là tức nước vỡ bờ, thượng
cẳng chân, hạ cẳng tay, nện cho chị ta một trận để câm miệng
lại. Ba là đi tìm sự dịu dàng để bù lỗi nơi một người phụ nữ
khác. Cả ba cách giải quyết trên đều bất ổn cho cá nhân cũng như
cho gia đình.
Nói dài, nói dẻo, nói dai, nói
day, nói dứt mà thôi chưa đủ, có những chị vợ còn mắc phải cái
tật thứ ba, đó là nói gian và nói dối. Riêng trong phạm vi gia
đình, chị vợ cần phải tránh cái thói phát ngôn bừa bãi trước mặt
bè bạn, làm cho anh chồng bị mất mặt. Và hơn thế nữa, đừng bao
giờ nói xấu anh chồng trước mặt con cái. Làm như thế là phản lại
tinh thần giáo dục, nhất là khi con cái còn nhỏ, chưa biết suy
luận, chưa biết phán đoán, chưa biết phân biệt phải trái. Trong
mối liên hệ với người khác, thiết tưởng chúng ta nên áp dụng lời
khuyên :
- Lời nói chẳng mất tiền mua,
Liệu lời mà nói cho vừa lòng
nhau.
Thứ hai, đó là áo quần
Trong lãnh vực ăn mặc, có những
chị vợ quá cầu kỳ, quá chau chuốt, quá đỏm đang. Ta nghèo,
nhưng nay bộ này mai bộ kia. Ta già mà lúc nào cũng môi son má
phấn, đi đâu cũng nước hoa thơm phúc, thành thử vừa hao tốn tiền
bạc của ngân sách gia đình vốn dĩ đã eo hẹp mà nhiều khi lại còn
tỏ ra lố lăng, kệch cỡm, chẳng ra làm sao.
Trái lại, có chị vợ vừa mới lấy
chồng và sinh được một mụn con, là đã bỏ bê việc ăn mặc, áo quần
lúc nào cũng lôi thôi lếch thếch. Thử tưởng tượng xem : người
chồng đi làm về, sau một ngày vất vả mệt mỏi, mà thấy người vợ
đầu tóc rối bời, y phục xốc xếch, còn con cái bẩn thỉu lọ lem,
lại còn đánh nhau khóc lóc chí chóe ầm cả nhà… thì làm sao có
thể chịu đựng cho nổi.
Bởi vậy, làm đẹp bản thân cũng
là một phương pháp, một nghệ thuật để giữ lấy anh chồng. Chúng
ta vốn thường gọi các bà, các cô là phái đẹp, nên làm đẹp dường
như đã trở nên một bổn phận, một quyền lợi của phụ nữ. Con gái
mà không biết làm đẹp, thì e rằng không còn phải là con gái nữa.
Tuy nhiên, làm đẹp là cả một
nghệ thuật. Không phải cứ thấy người ta dùng loại son này, thứ
vải kia là chúng ta sao y bản chánh, nhắm mắt làm theo, vội mua
về và dùng ngay cho đúng “mô đen”, chẳng những không tôn lên mà
còn làm giảm đi sắc đẹp của chúng ta.
Ngoài ra, trong vấn đề làm đẹp
cũng cần một vừa hai phải, tùy theo vóc dáng, tùy theo tuổi tác
và tùy theo ngân sách của gia đình. Nguyên tắc cần phải được áp
dụng đó là :
- Đói cho sạch, rách cho thơm.
Để kết luận, gã xin ghi lại nơi
đây, kết quả cuộc thăm dò ý kiến của Trọng Giáp, trên báo Phụ Nữ
Chủ Nhật, hé mở cho thấy những điều “bí ẩn” vì sao…vợ người thì
đẹp :
- Vợ người không dấm da, dấm
dẳng, lắm điều và nhiều chuyện với…ta suốt cả ngày.
- Vợ người không cau có, quạu
cọ, hoặc bắt phải ngủ ngoài sân, mỗi khi…ta say xỉn.
- Vợ người không lải nhải, than
trời, trách đất, kể khổ với…ta về chuyện vật giá liên tục leo
thang.
- Vợ người không so đo, chì
chiết nặng nhẹ nọ kia khi…ta hổng bằng cha hàng xóm về khoản thu
nhập.
Vợ người không ghen bóng ghen
gió, hoặc mướn thám tử tư theo dõi nhất cử nhất động của ta,
khi…ta quan hệ với các đồng nghiệp nữ vì lý do công việc.
- Vợ người không bắt…ta phải rửa
chén, lau nhà, giặt đồ, nấu cơm, là những công việc “nữ công gia
chánh” tầm thường, mà lẽ ra phải là của phụ nữ.
- Vợ người không “giận cá chém
thớt” hay “đá thúng, đụng nia”, mỗi khi có chuyện gì đó…bực mình
vô cớ với ta.
- Vợ người không mặt nặng, mày
nhẹ hoặc làm bẽ mặt các “chiến hữu” của ta, khi họ nhiệt tình
rủ…ta đi nhậu.
- Vợ người không lưu vào “bộ
nhớ” chuyện lăng nhăng “ong bướm trong quá khứ” của…ta, rồi
thường xuyên lôi ra làm hành, làm hẹ mỗi khi “ cơm chẳng lành,
canh chẳng ngọt”.
Nếu quả thực như vậy, thì vợ
người hẳn sẽ đẹp và luôn xứng đáng nhận được điểm 10 ở mọi nơi
và trong mọi lúc rồi chăng ? Tuy nhiên, đôi lúc cũng phải nghĩ
lại :
- Ta hay khen vợ người,
Ta luôn chê vợ ta.
Nhưng dầu sao đi nữa,
Ta về ta tắm ao ta,
Dù trong dù đục ao nhà vẫn
hơn.
Gã Siêu
gasieu@gmail.com
|
VỀ MỤC LỤC |
|
- Mọi liên lạc: Ghi danh, thay đổi địa chỉ, đóng góp ý kiến,
bài vở..., xin gởi về địa chỉ
giaosivietnam@gmail.com
- Những nội dung sẽ được đề cao và chú ý bao gồm:
Trao đổi, chia sẻ những kinh nghiệm thực tế trong việc mục
vụ của Giáo sĩ; Những tài liệu của Giáo hội hoặc của các
Tác giả nhằm mục đích Thăng tiến đời sống Giáo sĩ; Cổ võ ơn
gọi Linh mục; Người Giáo dân tham gia công việc “Trợ lực
Giáo sĩ” bằng đời sống cầu nguyện và cộng tác trong mọi lãnh
vực; Mỗi Giáo dân phải là những “Linh mục” không có chức
Thánh; Đối thoại trong tinh thần Bác ái giữa Giáo dân và
Giáo sĩ… (Truyền giáo hay xây pháo đài?)
- Quy vị cũng có thể tham khảo những số báo đã phát hành tại
www.conggiaovietnam.net
Rất mong được sự cộng tác, hưởng ứng của tất cả Quí vị
Xin chân thành cám ơn tất cả anh chị em đã
sẵn lòng cộng tác với chúng tôi bằng nhiều cách thế khác
nhau.
TM. Đặc San Giáo Sĩ Việt Nam
Lm. Luca
Phạm Quốc Sử
USA
|
|
*************
|
|